Trang chủ NLU| KhoaNôngHọc| Mụclục Hoàng KimLong| Tình yêu cuộc sống | CNM365| Khát khao xanh | Dạy và học | Cây Lương thực | FoodCrops| HK1| HK2| HK3| HK4| HKWiki| Violet| FAOSTAT| ThốngkêVN | ThờitiếtVN|
Thống kê
Số lần xem
Đang xem 970
Toàn hệ thống 2175
Trong vòng 1 giờ qua
Trang liên kết

 

Tỉnh thức
giữa đêm thiêng Yên Tử
Để thấm hiểu đức Nhân Tông
Ta thành tâm đi bộ
Lên tận đỉnh chùa Đồng
Tâm sáng Ức Trai
trong tựa ngọc


TÌNH YÊU CUỘC SỐNG

THUNG DUNG
Nguyễn Bỉnh Khiêm, ...


DẠY VÀ HỌC
Để chấn hưng giáo dục Việt Nam cấp thiết phải có đội ngũ những người thầy giáo ưu tú có tâm đức thiết tha với nghề, có trình độ chuyên môn cao và có kỹ năng giảng dạy tốt. Đây là trang thông tin chuyên đề dạy và học để trao đổi và bàn luận


Khoa Nông Học  
Những nhà khoa học xanh,
http://foodcrops.vn


Norman Borlaug
Lời Thầy dặn

Việc chính đời người chỉ ít thôi
Chuyên tâm đừng bận chuyện trời ơi
Phúc hậu suốt đời làm việc thiện
Di sản muôn năm mãi sáng ngời.


Thông tin Cây Lương thực
 Lúa, Ngô, Sắn, Khoai lang
Nông trại và Hệ thống Canh tác
http://foodcrops.vn
FOOD CROPS
CÂY LƯƠNG THỰC
  



Tình yêu cuộc sống
Thông tin chuyên đề chọn lọc

Science Daily

KHÁT KHAO XANH
HOÀNG KIM
CNM365

Luôn làm mới kiến thức của bạn !



Bút tích NB gửi HK và
Những tư liệu quý về 
GS.TS. Norman Borlaug

Lối vào Phong Nha

 


HOÀNG KIM
NGỌC PHƯƠNG NAM
CHÀO NGÀY MỚI

DẠY VÀ HỌC
CÂY LƯƠNG THỰC
FOOD CROPS



THƯ VIỆN NGHỀ LÚA
Thư viện Khoa học Xã hội





Cassava in Vietnam



A New Future for Cassava in Asia

On-line: Cassava in Asia
(Tải tài liệu PDF tại đây)


 

KimFaceBook
KimYouTube

KimLinkedIn

Songkhongtubien

KIMYOUTUBE. Video nhạc tuyển Sóng không từ biển (xem tiếp).



GỬI THƯ ĐIẾN TỬ VÀ
LIÊN KẾT TRỰC TUYẾN

hoangkimvietnam@gmail.com 
hoangkim@hcmuaf.edu.vn  
TS. Hoàng Kim

http://foodcrops.vn
http://vi.gravatar.com/hoangkimvn
http://en.gravatar.com/hoangkimvn

Thành viên

Email:
Password

Nội dung

.:: Việt Nam học ::.

Dạy và học 29 tháng 11

DẠY VÀ HỌC 29 THÁNG 11
Hoàng Kim
CNM365 Tình yêu cuộc sốngĐường về đất nở hoa; Thương nhớ Biển Hồ trà; Nhà tôi chim làm tổ; Cuối dòng sông là biển; Nam tiến của người Việt; Dạo chơi non nước Việt; Đại Lãnh nhạn quay về; Một gia đình yêu thương; Ta về trời đất Hồng Lam; Thơ Tứ tuyệt Hoàng Kim; Nhớ cây thông mùa đông; Bản Giốc và Ka Long; Công viên Tao Đàn HCM; Dạy học nghề làm vườn; Chợt gặp mai đầu suối; Thế giới trong mắt ai; Qua sông Thương bến nhớ; Cao Biền trong sử Việt; Chín điều lành hạnh phúc; Vui bước tới thảnh thơi; Thăm nhà cũ của Darwin; Châu Văn Tiếp Phú Yên; Lên Việt Bắc điểm hẹn; Suối Cheonggye chảy qua trung tâm thành phố Seoul, photo by Svdmolen (hình). Ngày 29 tháng 11 năm 1394, Hán Thành chính thức đổi tên thành Seoul do bởi quốc vương Triều Tiên Lý Thành Quế thiên đô từ Khai Kinh đến Hán Dương. Suối Cheonggye (Thanh Khê Xuyên) là một dòng suối đẹp dài 5,8 km chảy qua trung tâm thành phố Seoul, đổ vào sông Jungnangcheon, cuối cùng hợp lưu với sông Hán, đề án phục hồi dòng suối này do  Lee Myung-bak thị trưởng Seoul khởi xướng vào tháng 7 năm 2003 sau này ông là tổng thống Hàn Quốc. Ngày 29 tháng 11 năm 1945, nước Cộng hòa Liên bang Xã hội chủ nghĩa Nam Tư được thành lập dưới sự lãnh đạo của Josip Broz Tito gồm sáu nước liên bang  Bosna và Hercegovina, Croatia, Macedonia, Montenegro, Slovenia và Serbia. Trong Serbia có hai tỉnh tự trị là Vojvodina, Kosovo và Metohija. Cộng hòa Nam Tư ban đầu đứng về khối phía đông lúc khởi đầu Chiến tranh Lạnh, nhưng sau đó theo đuổi chính sách trung lập, và là thành viên sáng lập Phong trào không liên kết, sau chia rẽ Tito-Stalin năm 1948. Tổng thống Tito chết năm 1980, dẫn đến sự chia rẽ khiến cho nhà nước Nam Tư sụp đổ giải thể vào năm 1992 khởi đầu Chiến tranh Nam Tư; Bài chọn lọc ngày 29 tháng 11: Đường về đất nở hoa; Thương nhớ Biển Hồ trà; Nhà tôi chim làm tổ; Cuối dòng sông là biển; Nam tiến của người Việt; Dạo chơi non nước Việt; Đại Lãnh nhạn quay về; Một gia đình yêu thương; Ta về trời đất Hồng Lam; Thơ Tứ tuyệt Hoàng Kim; Nhớ cây thông mùa đông; Bản Giốc và Ka Long; Công viên Tao Đàn HCM; Dạy học nghề làm vườn; Chợt gặp mai đầu suối; Thế giới trong mắt ai; Qua sông Thương bến nhớ; Cao Biền trong sử Việt; Chín điều lành hạnh phúc; Vui bước tới thảnh thơi; Thăm nhà cũ của Darwin; Châu Văn Tiếp Phú Yên; Lên Việt Bắc điểm hẹn;Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-29-thang-11/ ;

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là loi-cu-ta-ve-dat-no-hoa.jpg

ĐƯỜNG VÊ ĐẤT NỞ HOA
Hoàng Kim

Viện đón ngày vui của chúng ta,
Thêm sáu hiền tài cất tiếng oa,
Cụ Phan xưa tài thơ ơn mẹ,
Thầy Đào nay giỏi nối công cha.
Đất lành lối đến người phúc hậu
Trời khiến đường về đất nở hoa
Thầy Quyền Phú Mỹ Hưng nhà mới
Đức độ người thân thích đến nhà.

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là cau-chuyen-anh-thang-11-3.jpg

Ngày 20 tháng 11 năm 2019, PGS TS. Đào Thế Anh Phó Giám đốc Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam đã cùng tiến sĩ Lê Quý Kha tổ chức Ngày Nhà Giáo Việt Nam và trao bằng cho sáu tân tiến sĩ của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam (4 khoa học cây trồng, 2 khoa học chăn nuôi. Sau khi dự lễ PGS TS. Đào Thế Anh đã cùng TS Hoàng Kim tới thăm vợ chồng giáo sư Mai Văn Quyền là người thân của cố GS Đào Thế Tuấn. “An nhiên phúc hậu thời thanh thản Lối cũ ta về đất nở hoa”

ThayHieu Que Choa nay thanh Noi

THẦY HIẾU NAY THÀNH NỘI
Hoàng Kim


Hơn chín mươi lăm triệu dân ta,
Nay lại vừa thêm một tiếng oa ,
Chúc cháu an lành vui lòng mẹ,
Mừng nhà thịnh vượng thỏa chí cha.
Đất Huế thanh trà thơm ngot trái
Trời Nam giống tốt lộc đầy hoa.
Thầy Hiếu quê choa nay thành nội
Phúc hậu đời thương phước đến nhà.

Ngày 29 tháng 11 năm 2017 thầy Nguyễn Minh Hiếu (
Hieu Nguyenminh​) là ‘Thượng thư bộ Học’ (Hiệu trưởng Đại học Nông Lâm Huế), nhà ở thành Nội, nay làm ông nội, một nhà làm Thầy Hiếu quê choa nay thành nội lúc 9g53 ngày 29 tháng 11 năm 2017 đúng thời điểm 9g53 lúc thầy Hiếu đăng FB ‘khoe’ được làm ông nội thì Dân số Việt Nam là 95929429 người, theo thống kê https://danso.org/viet-nam/

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là phan-boi-chau-tho-mung.jpg

THU VỀ QUẾ NỞ HOA
Phan Bội Châu

Hai mươi lăm triệu giống dòng ta,
Hôm trước nghe thêm một tiếng oa,
Mừng chị em mình vừa đáng mẹ,
Mong thằng bé nọ khéo in cha.
Gió đưa nam tới sen đầy hột,
Trời khiến thu về quế nở hoa.
Sinh tụ mười năm mong thế mãi,
Ấy nhà là nước, nước là nhà.

(*) Bài thơ cụ Phan Bội Châu chúc mừng cụ Đào Duy Anh, chúc phúc GS Đào Thế Tuấn là thân sinh của PGS TS. Đào Thế Anh (
The Anh Dao). Cụ Phan tiên đoán tương lai của ông không chỉ sẽ theo được mà còn làm rạng rỡ thêm truyền thống gia đình, nguyên vận Cụ Phan tài thơ viết lời chúc mừng và ơn người mẹ của giáo sư Đào Thế Tuấn. Bài thơ của Cụ Phan và những sự kiến mới gợi cảm hứng cho Hoàng Kim viết hai bài thơ trên.

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là toi-thuong-bien-ho-tra.jpg

QUÊ TÔI BIỂN HỒ TRÀ
Thích Giác Tâm


Tôi yêu sương sớm nơi này
Với làn gió nhẹ khẽ lay giấc nồng
Nhớ tịch lặng chốn cửa Không
Nhớ tình mẹ giữa mênh mông đồi trà
Nhớ núi lửa Chư Đăng Ya
Hàng thông trăm tuổi mù sa sáng chiều
Dã Quỳ thân phận liêu xiêu
Khi lên tuyệt đỉnh, khi nhiều lãng quên
Núi cao sông rộng êm đềm
Một lần đến lòng bỗng mềm nhớ nhung.

Ngày 27.11.2019
(Chùa Bửu Minh, Nghĩa Hưng, Chư Păh, Gia Lai)
Ảnh: Công Ngô.

THƯƠNG NHỚ BIỂN HỒ TRÀ
Hoàng Kim

Tôi thương chốn ấy vô cùng
Có người thân quý giữa vùng núi sông
Thương ai thánh thiện trong lòng
Thương điều phúc hậu thiền tông trau mình
Thương cha thương mẹ hiếu sinh
Bình an trăm tuổi nghĩa tình sắt son
Sương mai nắng sớm trăng non
Gió rừng mây núi phật môn ân tình
Trà Biển Hồ
Chua Buu Minh
Cao tăng bạn cũ chốn thiêng ta về

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là tra-bien-ho.jpg

TRÀ BIỂN HỒ
Hoàng Kim


Thương trà Biển Hồ
Chua Buu Minh
Sương che mờ sáng
Biển ẩn thâm xanh
Chẳng giấu được Tháp Hiền

Nhớ Trà Tân Cương
Cụ Phùng Cung
“Quất mãi nước sôi
Trà đau nát bã
Không đổi giọng Tân Cương”

Người hiền dân tin
Đất lành chim đậu
Trần Huyền Trang
Tháp Đại Nhạn
Thăm thẳm một góc nhìn.

Một đời người
Một ngôi chùa
Một Biển Hồ
Một bóng nắng
Một dát vàng
Gần trần nhưng thoát tục

Hai đôi mắt
Hai bầu sữa
Hai Nam Bắc
Hai sớm hôm
Hai tung hoàng
Xa lòng mà một ý

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là chim-phc6b0e1bba3ng-ve1bb81-lc3a0m-te1bb95.jpg

NHÀ TÔI CHIM LÀM TỔ
Hoàng Kim

Thích quá đi.
Nhà tôi có chim về làm tổ
Cây bồ đề cuối vườn
Cò đêm về trắng xóa.

Gốc me cho con
Xanh non màu lá
Ong đi rồi về
Sóc từng đàn nhởn nhơ.

Cây sơ ri ba mẹ trồng
Lúc con tuổi còn thơ
Nay như hai mâm xôi
Tròn đầy trước ngõ.

Cây mai Bác trồng
Bốn mùa hoa thương nhớ
Trúc xanh từ non thiêng Yên Tử
Trúc vàng ân nghĩa Đào Công.

Em ơi!
Hôm nay trên cây lộc vừng
Chim phượng về làm tồ
Mẹ dạy con tập bay
Sao mà đẹp thế !

Đá vàng trao hậu thế
Người hiền noi tiếng thơm …

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là hoa-mai.jpg

KHU VƯỜN THIÊNG CỔ TÍCH
Hoàng Kim

Anh đưa lối em vào
Khu vườn thiêng cổ tích
Nơi trời đất giao hòa
Ong làm mật yêu hoa
Lá non đùa nắng mới

Nhạc đồng xuân thung dung
Đắm say hòa quyện
Ban mai mù sương sớm
Trời xanh trong như ngọc
Nơi cá nước chim trời
Vui với thú an nhiên…

Nơi khoảng lặng đất trời
Khu cổ tích vườn thiêng
Gốc mai vàng trước ngõ
Giấc mơ lành yêu thương

Bồ đề ra lộc non

Cây bồ đề nhà tôi ra lá non

songdongnai

CUỐI DÒNG SÔNG LÀ BIỂN
Hoàng Kim

Hôm nay tôi nhận được thư của một bạn sinh viên đã ra Trường. Bạn ấy đọc Facebook và thích các bài viết CNM365Tình yêu cuộc sống của tôi. Bạn ấy hiểu Dạy và học ngày nay không chỉ trao truyền tri thúc mà còn thắp lên ngọn lửa. Bạn ấy thấu hiểu lời bài giảng mà chúng tôi luôn nhắc đi nhắc lại: “Mục đích sau cùng của dạy và học là thấu hiểu bản chất sự vật, có lời giải đúng và làm được việc” “Cái gốc của sự học là học làm người”. Bạn ấy hỏi như sau: “Thưa thầy! Con là Vương, lớp Nông học 14 Ninh Thuận. Con may mắn được biết thầy qua những bài giảng hay của Bộ môn Cây Lương thực Rau Hoa Quả. Con xin lỗi vì những kiến thức thầy truyền dạy con đã quên đi ít nhiều. Nhưng cái con vẫn còn nhớ và vẫn còn cảm nhận được mỗi khi con suy nghĩ và bắt gặp hình ảnh của thầy trên Facebook đó là thầy cho con cảm giác an lành, gần gũi và ấm áp nữa. Con đã đi làm nhưng vẫn băn khoăn về định hướng tương lai của mình. Con không rõ sứ mệnh cuộc đời con là gì? Con không biết là mình phải tự suy nghĩ về cái sứ mệnh đó hay phải trải qua các sự kiện trong đời rồi mình mới nhận ra sứ mệnh đó. Con cũng muốn được biết Con người sinh ra trên đời này để làm gì? Có phải họ sinh ra để rồi chết đi hay còn ý nghĩa nào khác nữa. Con biết thầy rất bận nhưng rất mong được thầy giải đáp. Nếu thầy chưa có thời gian thì con sẽ chờ để được thầy giải đáp ạ! Con mong thầy có nhiều sức khoẻ!” . Tôi đã trả lời “Tuyệt vời Dép Chính Chủ (là nick name của bạn ấy) Thầy sẽ sớm trả lời. Ý nghĩa cuộc sống, mời bạn đọc Minh triết sống phúc hậu, CNM365Tình yêu cuộc sống

Cuối dòng sông là biển đó là câu chuyện ẩn ngữ riêng chung, là câu chuyện dài cho những ai thích nhìn lại ý nghĩa cuộc đời, những giá trị di sản lắng đọng, nhìn lại sự được mất thành bại trong đời mình, tìm về giá trị đích thực của năm tháng đi qua chỉ tình yêu còn lại, tìm về cội nguồn lịch sử văn hóa dân tộc. Chúng ta đã đến lúc công tâm nhìn lại những giá trị lịch sử văn hóa di sản: 1. Phục sinh giữa tối sáng; 2. Dạo chơi non nước Việt; 3. Đi như một dòng sông; 4. Nam tiến của Người Việt. 5. Đoàn tụ đất phường Nam. Minh triết đời người là yêu thương; Cuối một dòng sông là cửa biển Niềm tin thắp lên nghị lực Yêu thương mở cửa thiên đường’. (thơ Hoàng Kim). Tôi đã đọc ‘Phục sinh’ và ‘Đường sống’ của Lev Tonstoy giữa hai vùng tối sáng, khi cuộc đời được trãi nghiệm qua các thời khắc sinh tử hiểm nghèo, đi trong vùng tối và lần tìm ra lối sáng minh triết. Ta chợt chứng ngộ thấu hiểu giá trị của các lời khuyên khôn ngoan tại nhiều cuộc đời danh nhân và và nhiều tác phẩm lớn. ‘Phục sinh’ ,‘Đường sống’ của Lev Tonstoy là sách đúc kết kiểu đó, khó đọc nhưng thật tuyệt vời. Cuối dòng sông là biển.

Văn Miếu Trấn Biên là nôi hội tụ gần sông Đồng Nai nơi cù lao Phố Biên Hòa. Đó là một điểm hẹn phục sinh của người Việt trên hành trình Nam tiến. Lớp sinh viên khóa 2 Trồng trọt, Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh chúng tôi đã về nơi đây dâng hương ghi ơn những người mở đường sống cho dân tộc Việt, tạo dựng nên nơi này.

Đời tôi xuôi phương Nam, thuận theo tự nhiên, lắng đọng ân tình đặc biệt của 5 lớp bạn hữu lớp trồng trọt khóa 4, lớp trồng trọt khóa 10 của Trường Đại học Nông nghiệp 2 Hà Bắc (đó cũng là Trường Đại học Nông Lâm Huế và Đại học Nông Lâm Bắc Giang ngày nay), với ba lớp 2a, 2b, 2c khóa 2 Trồng trọt của Trường Đại học Nông nghiệp 4 là Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh hiện tại. Tôi đã đi như một dòng sông; cuốn theo chiều gió; theo con đường dân tộc đang đi; Nam tiến của Người Việt. Sự trãi nghiệm hạnh phúc cá nhân thực ra nằm trong số phận đường sống của dân tộc. Cuối dòng sông là biển. Đó là giá trị lắng đọng

PHỤC SINH GIỮA TỐI SÁNG

Phục sinh là tiểu thuyết sau cùng của Lev Tonstoy, xuất bản năm 1899, thể hiện cô đọng đầy đủ, hệ thống nhất ước vọng, lòng nhiệt tâm, triết lý đạo đức của Tonstoy. Sách kể câu chuyện của Tolstoy một vị quý tộc tìm cách chuộc lại lỗi lầm phạm phải của mình từ nhiều năm trước và gửi gắm những ước muốn, quan điểm sống mới tình yêu cuộc sống. Maksim Gorky từng kể rằng Tolstoy đã bật khóc ngay trước mặt Gorky và Chekhov khi đọc phần kết của tác phẩm này. Tonstoy sau tác phẩm lớn Phục sinh đã chuyển hẳn nguồn năng lượng dồi dào cuối đời mình cho mảng truyện cổ tích và truyện ngụ ngôn kể cho trẻ em. Một số truyện ngụ ngôn của ông phỏng theo ngụ ngôn Ê dốp và từ truyện Hindu. Một tiểu thuyết ngắn khác, Hadji Murat, được xuất bản đồng thời vào năm 1912. Khoảng 20 năm cuối ông dành sức cho 365 suy niệm mỗi ngày.

Bá tước Lev Tolstoy.có tầm ảnh hưởng sâu rộng toàn cầu về văn chương và chính luận là điều không ai có thể nghi ngờ. “Chiến tranh và hòa bình” tác phẩm đỉnh cao của ông là đỉnh cao của trí tuệ con người, tiểu thuyết sử thi vĩ đại đưa Lev Tolstoy vào trái tim của nhân loại và  được yêu mến ở khắp mọi nơi trên thế giới. Tác phẩm “Chiến tranh và hòa bình được bình chọn là kiệt tác trong sách “Một trăm kiệt tác“ của hai nhà văn Nga nổi tiếng I.A.A-Bra- mốp và V.N. Đê-min do Nhà xuất bản Vê tre Liên bang Nga phát hành năm 1999, Nhà xuất bản Thế Giới Việt Nam phát hành sách này năm 2001 với tựa đề “Những kiệt tác của nhân loại“, dịch giả là Tôn Quang Tính, Tống Thị Việt Bắc và Trần Minh Tâm. “Chiến tranh và hòa bình” cũng được xây dựng thành bộ phim cùng tên do đạo diễn là Sergey Fedorovich Bondarchuk, công chiếu lần đầu năm 1965 và được phát hành ngày 28 tháng 4 năm 1968 tại Hoa Kỳ. Phim đoại giải thưởng Oscar phim nói tiếng nước ngoài xuất sắc nhất năm 1968 và danh tiếng mọi thời đại.

Lev Tolstoy sinh ngày 9 tháng 9 năm 1828, mất ngày  20 tháng 11 năm 1910, với kiệt tác “Chiến tranh và hoà bình” và “Anna Karenina” là đỉnh cao của sử thi và tiểu thuyết hiện thực cuộc sống Nga, được mệnh danh là tiểu thuyết gia vĩ đại nhất trong tất cả các nhà viết tiểu thuyết, con sư tử chúa tể sơn lâm trên đại ngàn văn chương Nga. Lev Tonstoy không chỉ là nhà văn kiệt xuất mà còn là một minh sư, một nhà tư tưởng vĩ đại và một bậc hiền minh, nhà đạo đức có tiếng với tư tưởng chống lại cái ác thể hiện xuyên suốt trong tác phẩm “Vương quốc Chúa Trời trong bạn” (tiếng Anh: The Kingdom of God Is Within You), đã ảnh hưởng tới những hình tượng của thế kỷ 20 như Mahatma Gandhi và Martin Luther King. Lev Tonstoy là người theo chủ nghĩa hoà bình, nhà cải cách giáo dục, người ăn chay, người theo chủ nghĩa vô chính phủ tín đồ Cơ Đốc, nhà tư tưởng đạo đức, và là một thành viên có ảnh hưởng của gia đình Tolstoy.

Lev Tonstoy khởi đầu những cột mốc lớn trong chặng đường tư tưởng của mình bằng bộ ba cuốn tiểu thuyết tự truyện xuất bản đầu tiên năm 1852 -1856 gồm “Thời thơ ấu”, “Thời niên thiếu”, và “Thời tuổi trẻ”  sau đó đến các kiệt tác “Chiến tranh và Hòa bình, Anna Karenina, Phục sinh, Đường sống, sách cổ tích ngụ ngôn cho trẻ em, người lớn và cuối cùng là suy niệm mỗi ngày. Đó là một kho tàng trí tuệ minh triết vĩ đại của một bậc Thầy. Tôi lắng nghe một lời nói thăm thẳm từ nhận thức của đạo Bụt:  “Ngươi theo tay ta chỉ. Kia là mặt trăng. Nên nhớ: Ngón tay ta không là mặt trăng”.

Lev Tonstoy ngay trang đầu Phục sinh chép lời Luca, VI, 40. “Học trò không hơn được Thầy; nhưng học trò nào tu hành trọn đạo thì tất sẽ được như Thầy”. Kia là mặt trăng. Đức Nhân Tông viết “Hãy quay về với tự thân chứ không tìm ở đâu khác“. Phục sinh. Lên Yên tử

Tôi bừng tỉnh ngộ.

xem tiếp
Cuối dòng sông là biển

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là tai-sao-nam-tu.jpg

CHUYỆN NAM TƯ TẠI SAO?
Hoàng Kim

Nam Tư bị xé nát gần đây. Chuyện Nam Tư tại sao? Lịch sử chiến tranh thế giới thứ hai theo quốc gia như thế nào?. Nam Tư trong tương quan chính tri của một thế giới biến động. Đó là một uẩn khúc lịch sử, một câu chuyện dài đau đớn và bài học lớn về chủ quyền quốc gia, độc lập và thống nhất Tổ quốc.

Tại sao Nam Tư hợp rồi tan?

Nam Tư dưới sự lãnh đạo của Josip Broz Tito đã chuyển từ Vương quốc Nam Tư thành chính thể cộng hòa liên bang Cộng hòa Liên bang Xã hội chủ nghĩa Nam Tư đứng đầu khối phía đông vào lúc bắt đầu Chiến tranh Lạnh. Tuy nhiên sau chia rẽ Tito-Stalin năm 1948 thì liên bang này đã theo đuổi một chính sách trung lập, và trở thành một trong những thành viên sáng lập của Phong trào không liên kết. Sau cái chết của Tito năm 1980, sự chia rẽ giữa các dân tộc trong các nước cộng hòa thành viên, tiếp theo là các cuộc đàm phán bất thành giữa các nước cộng hòa kèm theo sự công nhận độc lập của một số quốc gia châu Âu năm 1991 đã  khiến cho nhà nước Nam Tư bắt đầu sụp đổ và khởi đầu Chiến tranh Nam Tư.

Đọc lại các cuộc đối thoại của Stalin và Josip Broz Tito. Họ đều là những nhân vật lịch sử lưu lại những dấu ấn khó phai mờ, và sự thiếu vắng họ đều dẫn đến kết cục thay đổi. Tại sao Nam Tư hợp rồi tan? Tại sao Serbia lại như hiện nay? Nghiên cứu lịch sử sẽ tìm ra câu trả lời này.

So sánh Nam Tư Mông Cổ

Chép lại một phần chuyện vỉa hè tư liệu “đối thoại của Stalin và Tưởng Kinh Quốc về Mông Cổ” đọc ở “Điếu Ngư Đài Quốc Sự Phong Vân”, lược bớt lời bình. Ghi chú thêm về
Nam Tư để thấu hiểu tình hình hiện tại. “Hoạ phúc hữu môi phi nhất nhật, Anh hùng di hận kỉ thiên niên”. Họa phúc có nguồn, đâu bỗng chốc? Anh hùng để hận dễ gì nguôi ? (Quan hải- Nguyễn Trãi). Đọc lại và suy ngẫm.

Chuyện rằng: “… Tưởng Kinh Quốc bí mật gặp Stalin, cố gắng đấu lý. Hôm sau Tống Tử Văn gửi điện cho Tưởng Giới Thạch, báo cáo tình hình hội đàm và đề nghị Tưởng xem xét mấy phương án như sau:

Thứ nhất, Trung Quốc ký hiệp định liên minh với Liên Xô, cho phép Liên Xô đóng quân tại Mông Cổ; thứ hai, để Ngoại Mông Cổ thực hiện “tự trị cao độ”; thứ ba, Ngoại Mông Cổ có quyền tự chủ về quân sự, nội chính và ngoại giao, nhưng không có tính chất là một nước cộng hòa liên bang Xô Viết.

Người Mỹ rất quan tâm tới cuộc đàm phán Trung Quốc-Liên Xô. Tổng thống Truman bảo Bộ trưởng Ngoại giao Byrnes chuyển tới Chính phủ Trung Quốc ý kiến như sau: “Chưa thảo luận cách giải thích về địa vị của Ngoại Mông Cổ trong hiệp định Yalta; Chính phủ Mỹ cho rằng tuy về pháp lý thì chủ quyền Ngoại Mông Cổ vẫn thuộc Trung Quốc, nhưng trên thực tế chủ quyền ấy chưa được hành xử.”

Tống Tử Văn nắm lấy lời văn “phải duy trì hiện trạng của Ngoại Mông Cổ” trong hiệp định Yalta để đấu lý. Ông kiên trì nói hiện trạng đó tức là chủ quyền của Ngoại Mông Cổ vẫn thuộc về Trung Quốc. Còn Stalin thì nói rõ Liên Xô yêu cầu Trung Quốc thừa nhận Ngoại Mông Cổ độc lập. Hai cách nói này tuy diễn tả cùng một sự thật nhưng ảnh hưởng thì lại khác nhau xa.

Dĩ nhiên Tưởng Giới Thạch hiểu rõ sự hơn thiệt trong đó. Thấy trên bàn đàm phán đã tạm thời bất đồng, Tưởng Giới Thạch bèn điện cho Tưởng Kinh Quốc, bảo Quốc lấy danh nghĩa cá nhân gặp riêng Stalin.

Tưởng Kinh Quốc nhớ lại:

Khi gặp nhau tại nhà riêng của Stalin, lúc đó tôi có nói: “Người Trung Quốc chúng tôi kiên trì kháng chiến chống Nhật là để thu hồi lãnh thổ đã bị mất. Hiện giờ Nhật còn chưa thua mà [chúng tôi] đã cắt nhượng một vùng đất rộng như Ngoại Mông Cổ thì cuộc kháng chiến của chúng tôi còn có ý nghĩa gì? Quốc dân Trung Quốc nhất định sẽ chửi chúng tôi là đồ bán nước.”

Vì đã là chỗ gặp riêng nên Stalin cũng bớt dùng các lời lẽ ngoại giao mà nói thẳng thừng với Tưởng Kinh Quốc: “Ông nói rất có lý, nhưng có điều ông cần biết rằng hôm nay không phải là tôi cầu xin ông mà là ông đến xin tôi giúp. Nếu các ông có đủ sức đánh bại người Nhật thì dĩ nhiên tôi sẽ không nói gì. Nhưng các ông không đủ sức thì những lời vừa rồi ông nói là vô ích.”

Tưởng Kinh Quốc nói: “Ngài chẳng cần lo ngại Ngoại Mông Cổ đe dọa sự an toàn của Liên Xô. Sau khi Nhật thua trận, nước Nhật sẽ không còn ngoi dậy được nữa. Chỉ Trung Quốc mới có thể tấn công Liên Xô từ Ngoại Mông Cổ, nhưng bây giờ hai nước chúng ta có thể liên minh với nhau, Trung Quốc bảo đảm ít nhất hữu hảo với Liên Xô trong ba chục năm. Ngài cũng biết đấy, cứ cho là Trung Quốc muốn đánh Liên Xô thì cũng chẳng có sức mà đánh.”

Stalin lắc đầu: “Ông nhầm rồi. Thứ nhất, cứ cho là Nhật thua thì dân tộc ấy cũng không bị tiêu diệt. Nếu người Mỹ tiếp quản nước Nhật thì không quá 5 năm sau Nhật sẽ bò dậy.”

Tưởng Kinh Quốc nói xen vào: “Nếu Liên Xô tiếp quản nước Nhật thì sao?”

“Tôi tiếp quản ấy à, cũng chẳng qua lui lại thêm 5 năm thôi.” Stalin nói tiếp: “Thứ hai, hiện nay Trung Quốc không đủ sức đánh chúng tôi, nhưng chỉ cần Trung Quốc thống nhất thì các ông sẽ tiến nhanh hơn bất cứ nước nào. ÔNG NÓI LIÊN MINH VỚI NHAU, BÂY GIỜ VÌ TÔI KHÔNG COI ÔNG LÀ NHÀ NGOẠI GIAO NÊN TÔI NÓI THẬT VỚI ÔNG NHÉ: HIỆP ƯỚC LÀ THỨ KHÔNG ĐÁNG TIN ĐÂU”.

Tưởng Kinh Quốc không biết nói gì nữa.

Stalin nói tiếp: “Còn có nguyên nhân thứ ba, cứ cho là Nhật và Trung Quốc không đủ sức qua Ngoại Mông Cổ đánh Liên Xô, điều đó không có nghĩa là không có những lực lượng khác tấn công Liên Xô.”

“Mỹ chăng?” Tưởng Kinh Quốc hỏi.

Dạy và học 28 tháng 11


DẠY VÀ HỌC 28 THÁNG 11
Hoàng Kim
CNM365 Tình yêu cuộc sốngNam tiến của người Việt; Dạo chơi non nước Việt; Đại Lãnh nhạn quay về; Cuối dòng sông là biển; Một gia đình yêu thương; Ta về trời đất Hồng Lam; Thơ Tứ tuyệt Hoàng Kim; Nhớ cây thông mùa đông; Bản Giốc và Ka Long; Công viên Tao Đàn HCM; Dạy học nghề làm vườn; Chợt gặp mai đầu suối; Thế giới trong mắt ai; Qua sông Thương bến nhớ; Cao Biền trong sử Việt; Chín điều lành hạnh phúc; Vui bước tới thảnh thơi; Thăm nhà cũ của Darwin; Châu Văn Tiếp Phú Yên; Lên Việt Bắc điểm hẹn; Núi Đá Bia ở Đèo Cả, Phú Yên là ngọn núi cao nhất trong khối núi Đại Lãnh (hình).  Ngày 28 tháng 11 năm 1470 nhằm ngày 6 tháng 11 âm lịch năm Canh Dần, vua Lê Thánh Tông  hạ chiếu lệnh xuất quân đánh Chiêm Thành tuyên đọc trước 26 vạn quân.Kết quả kinh đô Chà Bàn (Vijaya) của người Chăm thất thủ. Lãnh thổ Đại Việt sau lần Nam tiến năm ấy đã mở rộng từ đèo Hải Vân tới bắc Phú Yên. Tháng 6 năm 1471, vua Lê Thánh Tông, đã sáp nhập lãnh thổ Chiêm Thành Chăm Pa vào Đại Việt, lập thành thừa tuyên Quảng Nam và vệ Thăng Hoa, bình định Việt hóa dân chúng người Chăm.  Ngày 28 tháng 11 năm 1912 là ngày Albania  tuyên bố độc lập thoát khỏi Đế quốc Ottoman. Nước Albania có bờ biển Adriatic phía tây và bờ biển Ionian ở tây nam, biên giới với Montenegro ở phía bắc, Serbia ở phía đông bắc, Cộng hoà Macedonia ở phía đông, Hy Lạp ở phía nam. Albania là quốc gia duy nhất ở Châu Âu bảo vệ và che chở cho toàn bộ dân cư Do Thái người nước mình và nước ngoài trong cuộc diệt chủng người Do Thái của Thế chiến II. Albania hiện nay ưu tiên hội nhập châu Âu và phát triển quan hệ với Mỹ, Thổ Nhĩ Kỳ, Italia và Hy Lạp, chú trọng quan hệ với các nước láng giềng và các nước châu Á như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Malaysia; Ngày 28 tháng 11 là ngày kỷ niệm thành lập ngành Lâm nghiệp Việt Nam; Bài chọn lọc ngày 28 tháng 11: Nam tiến của người Việt; Dạo chơi non nước Việt; Đại Lãnh nhạn quay về; Cuối dòng sông là biển; Một gia đình yêu thương; Ta về trời đất Hồng Lam; Thơ Tứ tuyệt Hoàng Kim; Nhớ cây thông mùa đông; Bản Giốc và Ka Long; Công viên Tao Đàn HCM; Dạy học nghề làm vườn; Chợt gặp mai đầu suối; Thế giới trong mắt ai; Qua sông Thương bến nhớ; Cao Biền trong sử Việt; Chín điều lành hạnh phúc; Vui bước tới thảnh thơi; Thăm nhà cũ của Darwin; Châu Văn Tiếp Phú Yên; Lên Việt Bắc điểm hẹn; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcm.uaf.edu.vn/hoangkimlong:https://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-28-thang-11/

NAM TIẾN CỦA NGƯỜI VIỆT
Hoàng Kim, Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long

Nam tiến là xu thế tự nhiên, tất yếu của lịch sử người Việt. Bản đồ đất nước Việt Nam qua các đời và bài viết dưới đây là một tóm tắt dẫn liệu toàn cảnh lịch sử Nam tiến của người Việt từ thời Lý cho đến nay. Hành trình Nam tiến kéo dài trên 700 năm từ thế kỷ 11 đến giữa thế kỷ 18, nâng diện tích lãnh thổ từ ban đầu độc lập (năm 938; xem thêm (Đá Đứng chốn sông thiêng, Cao Biền trong sử Việt) cho đến nay lãnh thổ Việt Nam hình thành và tồn tại với tổng diện tích gấp 3 lần (sông Sài Gòn, ảnh HK).

Tác phẩm”Nỗi niềm Biển Đông”của nhà văn Nguyên Ngọc dẫn lời của giáo sư Đào Duy Anh là một khái quát gọn nhất và rõ nhất về hai phân kỳ Lịch sử Việt Nam; nguồn gốc và động lực Nam Tiến:

Mở đầu cuốn Việt Nam văn hóa sử cương, cụ Đào Duy Anh viết: “Khắp một vùng trung châu Bắc Việt, không mẩu đất nào là không có dấu vết thảm đảm kinh dinh của tổ tiên ta để giành quyền sống với vạn vật; suốt một dải Trung Việt vào đến trung châu Nam Việt, không một khúc đường nào là không nhắc lại sự nghiệp gian nan tiến thủ của tổ tiên ta để mở rộng hy vọng cho tương lai.” Thật ngắn gọn, thật súc tich, vị học giả cao kiến đã đúc kết chặt chẽ và cực kỳ chính xác hai chặng đường lớn mấy thiên niên kỷ của dân tộc; và chỉ bằng mấy chữ cô đọng, chỉ ra không thể rõ hơn nữa đặc điểm cơ bản của mỗi chặng, có ý nghĩa không chỉ để nhìn nhận quá khứ, mà còn để suy nghĩ về hôm nay và ngày mai – những suy nghĩ, lạ thay, dường như đang càng ngày càng trở nên nóng bỏng, cấp thiết hơn.

Chặng thứ nhất, tổ tiên ta, từ những rừng núi chật hẹp phía bắc và tây bắc, quyết chí lao xuống chiếm lĩnh hai vùng châu thổ lớn sông Hồng và sông Mã, mênh mông và vô cùng hoang vu, toàn bùn lầy chưa kịp sánh đặc, “thảm đảm kinh dinh để giành quyền sống với vạn vật” – mấy chữ mới thống thiết làm sao – hơn một nghìn năm vật lộn dai dẳng giành giật với sóng nước, với bùn lầy, với bão tố, với thuồng luồng, cá sấu … để từng ngày, từng đêm, từng giờ, vắt khô từng tấc đất, cắm xuống đấy một cây vẹt, một cây mắm, rồi một cây đước, ngày này qua ngày khác, tháng này qua tháng khác, năm  này qua năm khác, trăm năm này qua trăm năm khác, khi đất đã được vắt khô, được rửa mặn và ứng đặc, cắm xuống đấy một cây tạo bóng mát, rồi một cây ăn quả, một cây lúa, một mảnh lúa, rồi một đồng lúa …, tạo nên chỗ đứng chân cho từng con người, từng đôi lứa, từng gia đình, rồi từng cộng đồng, từng xóm mạc, từng làng, từng tổng, từng huyện, …cho đến toàn dân tộc, toàn xã hội, lập nên nửa phần là gốc cội của giang sơn ta ngày nay. Và hẳn còn phải nói thêm điều này nữa, cuộc thảm đạm kinh dinh vật lộn với thiên nhiên ấy lại còn phải cọng thêm cuộc vật lộn cũng dai dẳng, quyết liệt, không hề kém can trường và thông minh, để sáng tạo, định hình và gìn giữ một bản sắc Việt riêng giữa trăm Việt, là một Việt độc đáo và đặc sắc, không bị hòa tan bởi một thế lực hung hản, khổng lồ, luôn muốn xóa bỏ và hòa tan tất cả …   Hơn một thiên niên kỷ thiết lập và trụ vững, tạo nên nền tảng vững bền, để bước sang chặng thứ hai.

Chặng thứ hai, như cụ Đào Duy Anh đã đúc kết cũng thật ngắn gọn và chính xác, “gian nan tiến thủ để mở rộng hy vọng cho tương lai”.  Trên gốc cội ấy rồi, đi về đâu? Chỉ còn một con đường duy nhất: Về Nam. Có lẽ cũng phải nói rõ điều này: trước hết, khi đã đứng chân được trên châu thổ sông Hồng sông Mã rồi, kháng cự vô cùng dũng cảm và thông minh suốt một nghìn năm để vẫn là một Việt đặc sắc không gì đồng hóa được rồi, thì mối uy hiếp bị thôn tính đến từ phương bắc vẫn thường xuyên và mãi mãi thường trực. Không nối dài được giang sơn cho đến tận Cà Mau và Hà Tiên thì không thể nào bắc cự. Ở bước đường chiến lược này của dân tộc có cả hai khía cạnh đều hết sức trọng yếu. Khía cạnh thứ nhất: phải tạo được một hậu phương thật sâu thì mới đủ sức và đủ thế linh hoạt để kháng cự với mưu đồ thôn tính thường trực kia. Lịch sử suốt từ Đinh Lê Lý Trần Lê, và cả cuộc chiến tuyệt vời của Nguyễn Huệ đã chứng minh càng về sau càng rõ điều đó. Chỉ xin nhắc lại một sự kiện nghe có thể lạ: chỉ vừa chấm dứt được 1000 năm bắc thuộc bằng trận đại thắng của Ngô Quyền, thì Lê Hoàn đã có trận đánh sâu về phương nam đến tận Indrapura tức Đồng Dương, nam sông Thu Bồn của Quảng Nam. Đủ biết cha ông ta đã tính toán sớm và sâu về vai trò của phương Nam trong thế trận tất yếu phải đứng vững lâu dài của dân tộc trước phương bắc như thế nào.

 Khía cạnh thứ hai, vừa gắn chặt với khía cạnh thứ nhất, vừa là một “bước tiến thủ” mới “mở rộng hy vọng cho tương lai”, như cách nói sâu sắc của cụ Đào Duy Anh. Bởi có một triết lý thấu suốt: chỉ có thể giữ bằng cách mở, giữ để mà mở, mở để mà giữ. Phải mở rộng hy vọng cho tương lai thì mới có thể tồn tại. Tồn tại bao giờ cũng có nghĩa là phát triển. Đi về Nam là phát triển. Là mở. Không chỉ mở đất đai. Càng quan trọng hơn nhiều là mở tầm nhìn. Có thể nói, suốt một thiên niên kỷ trước, do cuộc thảm đảm kinh dinh để giành dật sự sống với vạn vật  còn quá vật vã gian nan, mà người Việt chủ yếu mới cắm cúi nhìn xuống đất, giành thêm được một một mẩu đất là thêm được một mẩu sống còn. Bây giờ đã khác. Đã có 1000 năm lịch sử để chuẩn bị, đã có thời gian và vô số thử thách để tạo được một bản lĩnh, đã có trước mặt một không gian thoáng đảng để không chỉ nhìn xa mãi về nam, mà là nhìn ra bốn hướng. Nhìn ra biển. Phát hiện ra biển, biển một bên và ta một bên, mà lâu nay ta chưa có thể toàn tâm chú ý đến. Hay thay và cũng tuyệt thay, đi về Nam, người Việt lại cũng đồng thời nhìn ra biển, nhận ra biển, nhận ra không gian sống mới, không gian sinh tồn và phát triển mới mệnh mông của mình. Hôm nay tôi được ban tổ chức tọa đàm giao cho đề tài có tên là “nổi niềm Biển Đông”. Tôi xin nói rằng chính bằng việc đi về nam, trên con đường đi ngày càng xa về nam mà trong tâm tình Việt đã có được nổi niềm biển, nổi niềm Biển Đông. Cũng không phải ngẫu nhiên mà từ đó, nghĩa là từ đầu thiên niên kỷ thứ hai, với nổi niềm biển ngày càng thấm sâu trong máu Việt, cha ông ta, người dân Việt, và các Nhà nước Việt liên tục, đã rất sớm khẳng định chủ quyền Việt Nam trên các hải đảo và thểm lục địa “.

Nam Tien cua nguoi Viet 2


Nam Tiến của người Việt từ thời tự chủ đến nay được chia làm ba giai đoạn chính:

Giai đoạn 1 từ năm 1009 khởi đầu nhà Lý  cho đến năm 1525 khởi đầu nhà Mạc, trãi Đinh, Tiền Lê, Nhà Lý, Nhà Trần (1226-1400), Nhà Hồ (1400- 1407),  Nhà Lê sơ (1428-1527). Cương vực nước Đại Việt là bản đồ màu xanh đến ranh giới đèo Ngang hoặc sông Gianh ranh giới Hà Tĩnh và Quảng Bình ngày nay. Giải đất các đồng bằng nhỏ ven biển Nam Trung Bộ suốt thời kỳ này là sự giành đi chiếm lại của Đại Việt và Chiêm Thành.Đây là giai đoạn đầu mới giành được độc lập tự chủ, lãnh thổ Đại Việt bao gồm khu vực đồng bằng châu thổ sông Hồng, các đồng bằng nhỏ ven biển Bắc Trung Bộ. Sông Gianh là cực nam của đất nước.

Giai đoạn 2 từ năm 1526 khởi đầu nhà Mạc của nước Đại Việt đến năm 1693 kết thúc việc sáp nhập Chiêm Thành vào Đại Việt và đến năm 1816 sáp nhập hoàn toàn Chân Lạp, Tây Nguyên với các hải đảo vào lãnh thổ của nước Đại Nam thời Minh Mệnh nhà Nguyễn để có ranh giới cương vực như hiện nay. Thời kỳ này trãi từ Nhà Mạc (1527- 1592), Nhà Lê trung hưng (1533-1789), Trịnh-Nguyễn phân tranh,  nhà Tây Sơn (1778- 1802) Chiến tranh Tây Sơn–Chúa Nguyễn (1789-1802) Việt Nam thời Nhà Nguyễn (1804-1839). Bản đồ cương vực màu  xanh gồm khu vực đồng bằng châu thổ sông Hồng, các đồng bằng nhỏ ven biển Bắc Trung Bộ thuộc Đằng Ngoài, cương vực màu vàng từ địa đầu Quảng Bình đến đèo Cù Mông tỉnh Phú Yên, bao gồm các đồng bằng nhỏ ven biển Nam Trung Bộ, Tây Nguyên  thuộc Đàng Trong, Từ năm 1693 cho đến năm 1839 lãnh thổ Việt Nam lần lượt bao gồm  Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long với các hải đảo .

Giai đoạn 3 từ năm 1839 cho đến nay, bao gồm:  Đại Nam thời Nhà Nguyễn (1839- 1945); Thời Pháp thuộc Liên bang Đông Dương (nhập chung với Lào, Campuchia, Quảng Châu Loan 1887 -1945); Giai đoạn từ năm 1945 đến nay (Đế quốc Việt Nam: tháng 4 năm 1945 – tháng 8 năm 1945 dưới thời chính phủ Trần Trọng Kim; Việt Nam Dân chủ Cộng hòa: từ 2 tháng 9 năm 1945 đến 2 tháng 7 năm 1976; Quốc gia Việt Nam: dựng lên từ 1949 đến 1955 với quốc trưởng Bảo Đại bởi chính quyền Pháp; Việt Nam Cộng hòa: tồn tại với danh nghĩa kế tục Quốc gia Việt Nam từ 1955 đến 30 tháng 4 năm 1975 tại miền Nam; Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam sau là Cộng hoà Miền Nam Việt Nam: từ 8 tháng 6 năm 1960 đến 2 tháng 7 năm 1976; Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam: từ ngày 2 tháng 7 năm 1976 đến nay).

Đặc trưng cương vực giai đoạn 1 là Sông Giang làm cực Nam của Đằng Ngoài khi chân chúa Nguyễn Hoàng sáng nghiệp đất Đằng Trong. Năm 1558, chúa Nguyễn Hoàng đã cùng với con em vùng đất Thanh Nghệ vào trấn nhậm ở đất Thuận Hóa Quảng Nam, lấy Hoành Sơn, Linh Giang và Luỹ Thầy sau này làm trường thành chắn Bắc. Nguyễn Hoàng đã có những chính sách hiệu quả để phát triển vùng đất Đằng Trong mở rộng lãnh thổ về phương Nam. Các hậu duệ của Nguyễn Hoàng tiếp tục chính sách  bắc cự nhà Trịnh, nam mở mang đất, đến năm 1693 thì sáp nhập toàn bộ đất đai Chiêm Thành vào Đại Việt.

Đặc trưng cương vực giai đoạn 2 là Núi  Đại Lãnh và núi đá Bia tỉnh Phú Yên là chỉ dấu quan trọng Nam tiến của người Việt từ thế kỷ 11 đến cuối thế kỷ 17. Lê Hoàn năm 982 đem quân đánh Chiêm Thành mở đất phương Nam là lần xuất chinh sớm nhất của Đại Việt, và năm 1693 là năm cuối cùng toàn bộ phần đất Chiêm Thành ở Phú Yên sáp nhập hoàn toàn vào Đại Việt.

Vua Lê Thánh Tông năm 1471 khi vua thân chinh cầm quân tấn công Chiêm Thành  tương truyền đã dừng tại chân núi đá Bia và cho quân lính trèo lên khắc ghi rõ cương vực Đại Việt. Thời Nhà Nguyễn, đến năm 1816 thì sáp nhập toàn bộ đất đai Chân Lạp, Tây Nguyên và các hải đảo vào lãnh thổ Đại Nam. Kể từ lần xuất chinh đầu tiên của Lê Hoàn từ năm 982 đến năm 1693 trãi 711 năm qua nhiều triều đại, hai vùng đất Đại Việt Chiêm Thành mới quy về một mối. Người Việt đã đi như một dòng sông lớn xuôi về biển, có khi hiền hòa có khi hung dữ, với ba lần hôn phối một lần thời Trần (Huyền Trân Công Chúa) và hai lần thời Nguyễn (Ngọc Khoa Công Chúa và Ngọc Vạn Công Chúa), với chín lần chiến tranh lớn  nhỏ đã hòa máu huyết người Việt với người Chiêm để bước qua lời nguyền núi đá Bia ở núi Phú Yên thực hiện công cuộc “gian nan tiến thủ để mở rộng hy vọng cho tương lai”, cho đến năm 1834 thành nước Đại Nam và sau trở thành nước Việt Nam như ngày nay.

Đặc trưng cương vực giai đoạn 3 là vị thế nước Việt Nam độc lập toàn vẹn ngày nay. Chủ tịch Hồ Chí Minh người đặt nền móng cho một nước Việt Nam mới đã kiên quyết khôn khéo nhanh tay giành được chính quyền và lập nên nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, bởi Pháp bại Nhật hàng vua Bảo Đại thoái vị. Bác nói và làm những điều rất hợp lòng dân: “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một; sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý ấy không bao giờ thay đổi”. “Nay, tôi chỉ có một tin tưởng vào Dân tộc độc lập. Nếu (tôi) cần có đảng phái thì sẽ là Đảng dân tộc Việt Nam. Đảng đó sẽ chỉ có một mục đích làm cho dân tộc ta hoàn toàn độc lập. Đảng viên của đảng đó sẽ là tất cả quốc dân Việt Nam, trừ những kẻ phản quốc và những kẻ tham ô ra ngoài.

CHỐN TỔ CỦA NGƯỜI VIỆT

Việt Nam nôi người Việt là vùng đất Rồng Tiên Văn Lang và Việt Thường xưa. Đất Rồng là Tam giác châu Bắc Bộ, chốn tổ nghề lúa Việt Nam và Thế giới; non Tiên là đất Việt Thường.

Vùng tam giác châu Bắc Bộ với ba đỉnh Việt Trì, Ninh Bình, Quảng Ninh, có trọng tâm là Hoàng Thành Thăng Long, thủ đô Hà Nội ngày nay. Hoàng Thành Thăng Long Hà Nội với Hưng Yên, Cổ Loa là địa danh nghiên cứu lịch sử văn hóa dân tộc Việt đặc biệt quan trọng . Giáo sư Trần Quốc Vượng tại lời tựa sách “Địa chí văn hóa dân gian Ninh Bình” do Trương Đình Tuyển chủ biên (Nhà Xuất bản Thế Giới, Hà Nội, xuất bản năm 2004, 678 trang) đã trích dẫn Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi nói về địa thế hiểm yếu của non sông Việt:

Từng nghe:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác

Đỉnh thứ nhất của tam giác châu Bắc Bộ ở đỉnh Tản Viên của dãy núi Ba Vì ở Việt Trì thuộc tỉnh Phú Thọ, nằm ở tả ngạn sông Hồng, bên kia là huyện Ba Vì, Hà Nội. Việt Trì là thành phố địa chính trị văn hóa lịch sử Việt Nam, nơi có kinh đô Văn Lang, kinh đô đầu tiên của người Việt, quê hương đất tổ vua Hùng, cửa ngõ vùng Tây Bắc, đầu mối giao thông nối giữa các tỉnh trung du và miền núi phía bắc với thủ đô Hà Nội và các tỉnh đồng bằng Bắc bộ, nằm trên hành lang kinh tế Hải Phòng – Hà Nội – Côn Minh (Trung Quốc). Việt Trì cũng là thành phố ngã ba sông nơi hợp lưu của sông Thao, sông Lô, sông Đà thành sông Hồng.

Đỉnh thứ hai của tam giác châu Bắc Bộ ở núi Yên Tử thuộc tỉnh Quảng Ninh nơi có Quần thể di tích danh thắng Yên Tử ở Bắc Giang và Quảng Ninh. Đây là quần thể danh thắng đặc biệt nổi tiếng liên tỉnh đầu tiên ở Việt Nam được đệ trình Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hiệp quốc UNESCO xem xét, công nhận là Di sản thế giới. Việt Trì nối với Quảng Ninh là dải Tam Đảo nối 99 ngọn Nham Biền với dãy núi vòng cung Đông Triều tạo nên thế hiểm “trường thành chắn Bắc”, bề dày núi non hiểm trở khoảng 400 km núi đá che chắn mặt Bắc của thủ đô Hà Nội non sông Việt.

Đỉnh thứ ba của tam giác châu huyền thoại Bắc Bộ ở núi Mây Bạc của Dãy núi Tam Điệp thuộc khu vực Tam Điệp–Tràng An của ba tỉnh  Hòa Bình, Ninh Bình và Thanh Hóa. Dãy núi Tam Điệp là dải núi cuối cùng của dãy núi Ba Vì từ đỉnh tam giác châu Tản Viên, Việt Trì rồi 99 ngọn chạy dọc sông Đáy, sông Hoàng Long mà tới vùng Thần Phù Nga Sơn đâm ra gần sát biển theo hướng Tây Bắc Đông Nam. Đây cũng là vùng quần thể di sản thế giới Tràng An nơi có chùa Bái Đính là quần thể chùa có nhiều kỷ lục châu Á và Việt Nam được xác lập như chùa có tượng Phật bằng đồng dát vàng lớn nhất châu Á, chùa có hành lang La Hán dài nhất châu Á, chùa có tượng Di lặc bằng đồng lớn nhất Đông Nam Á

Sông Hoàng Long
Hoàng Kim

Sông Hoàng Long sông Hoàng Long
Nguồn nước yêu thương chảy giữa lòng
Bái Đính, Tràng An nôi người Việt
Cao Sơn thăm thẳm đức Minh Không.

Dãy núi Tam Điệp, sông Hoàng Long và khu vực Tam Điệp Tràng An là nôi loài người Việt cổ thuộc nền văn hóa Tràng An thời kỳ đồ đá cũ và một số hang động ở Tam Điệp có di chỉ cư trú của con người thời văn hóa Hòa Bình. Vùng đất này là chốn tổ của nghề lúa châu Á và Thế Giới. Dãy núi Tam Điệp , sông Hoàng Long cắt ngang vùng đồng bằng duyên hải thành hai phần châu thổ sông Hồng và sông Mã nên nó được xem là ranh giới giữa miền Bắc và miền Trung. Dãy núi Tam Điệp là bức tường thành thiên nhiên lợi hại ngăn cách hai vùng Ninh Bình Thanh Hoá và án ngữ các đường thuỷ bộ từ Bắc vào Nam, đường bộ qua đèo Tam Điệp, đường thuỷ qua cửa Thần Phù. Dãy núi Tam Điệp chứa đựng nhiều giá trị địa chính trị, lịch sử, văn hóa với vai trò là nôi người Việt tiền sử, với những danh thắng và phòng tuyến quân sự rất nổi tiếng như cửa Thần Phù, phòng tuyến Tam Điệp, rừng Cúc Phương, hồ Yên Quang, hồ Đồng Chương, hồ Yên Thắng, núi Cao Sơn, động Người Xưa, hang Con Moong,…

Dãy núi Tam Điệp nối liền với Dãy núi Trường Sơn (trong tiếng Lào là Phu Luông) là dãy núi dài nhất Việt Nam và Lào, dài khoảng 1.100 km. Dãy núi Trường Sơn tiếp nối với dãy núi Ba Vì và Dãy núi Tam Điệp , bắt đầu từ thượng nguồn sông Cả trên đất Lào giáp Nghệ An tới tận cực nam Trung Bộ. Nó bao gồm toàn bộ các dãy núi nhỏ hơn ở Bắc Trung Bộ và các khối núi, cao nguyên Nam Trung Bộ, xếp thành hình cánh cung lớn mà mặt lồi quay ra Biển Đông. Trường Sơn được chia thành Trường Sơn Bắc và Trường Sơn Nam, ngăn cách bởi đèo Hải Vân và núi Bạch Mã. Dãy núi Trường Sơn là xương sống để nối liến hình thế Bắc Nam liền một giải.

DẠO CHƠI NON NƯỚC VIỆT
Hoàng Kim

Anh và em,
chúng mình cùng nhau
dạo chơi non nước Việt.

Anh đưa em vào miền cổ tích
nơi Lạc Long Quân và Âu Cơ
sinh ra đồng bào mình trong bọc trứng,
thăm đền Hùng Phú Thọ
ở Nghĩa Lĩnh, Việt Trì,
về Thăng Long – Đông Đô – Hà Nội,
thủ đô Việt Nam,
hồn thiêng sông núi tụ về.

“Khắp vùng đồng bằng sông Hồng,
vùng núi và trung du phía Bắc,
không mẫu đất nào không lưu dấu tổ tiên
để giành quyền sống với vạn vật.

Suốt dọc các vùng
từ duyên hải Bắc Trung Bộ,
đến duyên hải Nam Trung Bộ,
Tây Nguyên,
Đông Nam Bộ,
Đồng Bằng Sông Cửu Long,
là sự nghiệp gian nan tiến thủ của tổ tiên
để mở rộng hy vọng tương lai dân tộc” (1)

Tổ Quốc bốn nghìn năm
giang sơn gấm vóc
biết bao nơi lòng ta thầm ước
một lần đến thăm.

Anh đưa em lên Phù Vân
giữa bạt ngàn Yên Tử
nơi “vũ trụ mắt soi ngoài biển cả” (2)
đến Hạ Long,
Hương Sơn,
Phong Nha,
Huế,
Hải Vân,
Non nước,
Hội An,
Thiên Ấn,
Hoài Nhơn,
Nha Trang,
Đà Lạt.

Về tổ ấm chúng mình
Ngọc phương Nam.
Tình yêu muôn đời:
Non nước Việt Nam.

1) Đào Duy Anh
2) Nguyễn Trãi  

ĐẠI LÃNH NHẠN QUAY VỀ
Hoàng Kim

Núi Đá Bia thiên nhãn phương nam
Biển Vũng Rô mắt thần tịnh hải
Tháp Nhạn người Nam lưu đất Phú
Mằng Lăng chữ Việt dấu trời Yên
Xuân Đài thành cổ ghềnh Đá Đĩa
Sông Ba sông Cái núi Cù Mông
Vạn kiếp tình yêu người gửi lại
Ngàn năm Đại Lãnh nhạn quay về


Tháp Nhạn

Vũng Rô Đại Lãnh

Alexande de Rhores (1593-1660) “người khai sinh chữ quốc ngữ” lưu dấu chữ tiếng Việt đầu tiên tại nhà thờ Mằng Lăng, Phú Yên.

Biển Tuy Hòa

Bài viết mới trên CNM365 Tình yêu cuộc sống
DẠY VÀ HỌC
https://hoangkimvn.wordpress.com
CNM365bấm vào đây cập nhật mỗi ngày

Video yêu thích
Nong Lam University
A New Day
https://youtu.be/SN5c-m45fxs
Mùa xuân đầu tiên (Văn Cao) -Thanh Thúy
Ban Mai; Chỉ tình yêu ở lại
KimYouTube

Trở về trang chính
Hoàng Kim Long, Ngọc Phương Nam, Thung dung, Dạy và Học, Việt Nam Học, Cây Lương thực Việt Nam, CNM365Tình yêu Cuộc sống, Kim on LinkedIn, Kim on Facebook, Kim on Twitter

Dạy và học 27 tháng 11


DẠY VÀ HỌC 27 THÁNG 11
Hoàng Kim

CNM365 Tình yêu cuộc sốngNhớ cây thông mùa đông; Bản Giốc và Ka Long; Công viên Tao Đàn HCM; Dạy học nghề làm vườn; Chợt gặp mai đầu suối; Thế giới trong mắt ai; Qua sông Thương bến nhớ; Cao Biền trong sử Việt; Chín điều lành hạnh phúc; Vui bước tới thảnh thơi; Thăm nhà cũ của Darwin; Châu Văn Tiếp Phú Yên; Lên Việt Bắc điểm hẹn; Ngày 27 tháng 11 năm 25,  Hán Quang Vũ Đế Lưu Tú định đô triều đại Đông Hán tại thành Lạc Dương. Lưu Tú là người được sử gia Trung Quốc ca ngợi đã góp phần thúc đẩy lịch sử Trung Quốc phát triển. Thế nhưng Lưu Tú lại là người bị sử Việt phê phán vì đã để cho thái thú Tô Định quận Giao Chỉ giết hại Thi Sách là thủ lĩnh người Việt. Trưng Trắc vợ Thi Sách đã cùng em là Trưng Nhị kêu gọi nhân dân nổi dậy khởi nghĩa, đánh đuổi Tô Định, và tự lập làm Trưng Vương ở Giao Chỉ. Năm 42, Lưu Tú sai Mã Viện Phục Ba tướng quân mang 2 vạn quân đi đánh Trưng Vương. Sang năm 43, Mã Viện dẹp được phong trào khởi nghĩa. Hai chị em Trưng Vương nhảy xuống sông tự tử vì không chịu khuất phục. Hai Bà Trưng là nữ vương anh hùng dân tộc đầu tiên trong lịch sử Việt Nam. Ngày 27 tháng 11 năm 1940 là ngày sinh Lý Tiểu Long, người  Hoa có quốc tịch Mỹ (mất năm 1973) diễn viên võ thuật nổi tiếng sáng lập võ phái Triệt quyền đạo; Bài chọn lọc ngày 27 tháng 11: Nhớ cây thông mùa đông; Bản Giốc và Ka Long; Công viên Tao Đàn HCM; Dạy học nghề làm vườn; Chợt gặp mai đầu suối; Thế giới trong mắt ai; Qua sông Thương bến nhớ; Cao Biền trong sử Việt; Chín điều lành hạnh phúc; Vui bước tới thảnh thơi; Thăm nhà cũ của Darwin; Châu Văn Tiếp Phú Yên; Lên Việt Bắc điểm hẹn;Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/ http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-27-thang-11/;

HoangKim2017

NHỚ CÂY THÔNG MÙA ĐÔNG
Hoàng Kim

Xuân Hạ Thu Đông vốn phẳng sòng
Bốn mùa chẳng thể thiếu mùa đông
Tam Đảo non xanh hai cánh rộng
Cửu Long nước biếc một chữ đồng
Trẻ ham tâm đức nên cố gắng
Già mong phúc hậu phải biết chùng
Thung dung nếm trãi mùa đông lạnh
Sông núi trúc mai với lão tùng

NÔNG LỊCH TIẾT TIỂU TUYẾT
Hoàng Kim


Tuyết rơi trên Vạn Lý
Trường Thành bao đổi thay
Ngưa già thương đồng cỏ
Đại bàng nhớ trời mây.

Ngược gió đi không nản
Rừng thông tuyết phủ dày
Ngọa Long cương đâu nhỉ
Đầy trời hoa tuyết bay.

ĐÊM LẠNH NHỚ ĐÀO CÔNG
Hoàng Kim

Sớm mai trời lạnh giá
Đêm lạnh nhớ Đào Công
Chuyển mùa trời chưa ấm
Tuyết sương thương người hiền

Đêm trắng và Bình Minh.
Thung dung chào ngày mới.
Phúc hậu sống an nhiên.
Đông qua rồi xuân tới.

Ngược gió đi không nản.
Rừng thông tuyết phủ dày.
Ngọa Long cương đâu nhỉ.
Đầy trời hoa tuyết bay …

24 TIẾT KHÍ NÔNG LỊCH
Hoàng Kim


Mong em đừng quên “
nhất thì nhì thục
Kinh nghiệm ông cha dạy mãi không cùng
Em học để làm 24
tiết khí
Mộc mạc hát vần
bài học đầu tiên.

Đất cảm trời thương lòng người gắn bó
Dẫu khó vạn lần khéo liệu cũng xong
Mùa xuân tới tự tiết xuân sẽ đến
Bởi biết rằng năm tháng đó là em.

6 tháng Một bắt đầu rét nhẹ
20 tháng Một
trời lạnh cắt da
4 tháng Hai là ngày
xuân mới
20 tháng Hai
Thiên Địa Nhân hòa...

Đồng dao cho em khuyên em đừng tưởng
Câu chuyện mùa xuân
thêm cho mồng Ba
Trải
Cốc Vũ qua ngày Hạ Chí
Đại Thử rồi Sương Giáng thành hoa..

6 tháng Năm là ngày Hè đến (lập hạ)
22 tháng Năm mưa nhỏ, vào mùa (
tiểu mãn)
5 tháng Sáu ngày Tua Rua mọc (
mang chủng)
21 tháng Sáu là chính giữa Hè. (
hạ chí)

7 tháng Bảy là ngày nắng nhẹ (tiểu thử)
23 tháng Bảy là tiết nóng oi (
đại thử).
7 tháng Tám chớm thu rồi đó (
lập thu)
23 tháng 8 trời đất mây mưa. (
mưa ngâu)

Qua Xử Thử đến tiết trời Bạch Lộ
Sau
Mưa Ngâu đến Nắng nhạt đấy em.
Tiết
Thu Phân khoảng 23 tháng 9
Đối lịch nhà nông em nhớ đừng quên..

Tiết Hàn Lộ nghĩa là trời mát mẻ
Kế tiếp theo là
Sương Giáng (sương mù)
23 tháng 10 mù sa dày đặc
Thuyền cỏ mượn tên” nhớ chuyện Khổng Minh.

Ngày 7 tháng 11 là tiết Lập đông
23 tháng 11 là ngày
Tiểu tuyết
8 tháng 12 là ngày
đại tuyết
22 tháng 12 là
chính giữa đông.

Khuyên em đừng quên nhất thì nhì thục
Di sản Việt Nam học mãi không cùng
Mình học để làm 24 tiết khí
Mộc mạc hát vần bài học đầu tiên.

Mùa vụ trồng cây, kinh nghiệm nghề nông
Xin em đừng quên điều ông bà dạy
Xuân Hạ Thu Đông hai bốn tiết khí
Khoa học thiên văn ẩn ngữ đời người.

Đất cảm trời thương, lòng người gắn bó
Dẫu khó vạn lần khéo liệu cũng xong
Mùa xuân tới tự tiết xuân sẽ đến
Bởi biết rằng
năm tháng đó là em.

6 tháng Một bắt đầu rét nhẹ
20 tháng Một
trời lạnh cắt da
4 tháng Hai là ngày
xuân mới20 tháng Hai Thiên Địa Nhân hòa...

Đất cảm trời thương, lòng người gắn bó
Dẫu khó vạn lần khéo liệu cũng xong
Em đừng ngại mùa Xuân rồi lâu đến
Bởi biết rằng
năm tháng đó là em.

Hoàng Kim học để làm ở Ấn Độ

SỚM ĐÔNG
Hoàng Kim

Sớm Đông
Trời tạnh mây quang
Vươn vai
Đón nắng
Mặc cơn gió lùa

‘Vấn vương’ * câu hẹn ngày qua
Đông tàn
Ủ mộng
Xuân sang nõn cành …

SỚM ĐÔNG
Hoàng Kim
Đêm lạnh đông tàn chậm nắng lên
Nghe hơi sương giá buốt bên thềm
Em đi làm sớm trời đang ngủ
Giữ ấm xin đừng vội để quên.

Chùm sáu bài thơ ‘Nhớ cây thông mùa đông’ ‘Nông lịch tiết tiểu tuyết’ ‘Đêm lạnh nhớ Đào Công’ ’24 tiết khí nông lịch’, ‘ Sớm đông’ tôi đã bảo tồn trên CNM365 và yêu thích đọc lại. Bài thơ ‘Nhớ cây thông mùa đông’ được tiếp nối họa vần bài thơ “Vịnh mùa Đông” của cụ Nguyễn Công Trứ, với các bạn Quế Hằng, Nguyễn Vạn An, Phan Lan Hoa trước đây. Nay xin trân trọng chép tặng cụ Đỗ Hoàng Phong, cậu Hoàng Gia Cương, cụ Hồ Văn Thiện, anh Đào Ngọc Hòa, anh Hoàng Đình Quang, anh Nguyễn Quốc Toàn, anh Lê Quang Vinh, anh Hoàng Đại Nhân, em Nguyễn Hoài Nhơn, Nguyễn Trọng Tùng, Nguyễn Bạch Mai, Hoàng Long , Trúc Mai, …. để cùng vui đối họa
https://hoangkimlong.wordpress.com/category/som-dong/.

‘Vịnh mùa Đông’ và ‘Cây thông’ là hai bài ngôn chí đặc sắc nhất của cụ Hy Văn Uy Viễn Tướng Công Nguyễn Công Trứ “ra tướng võ, vào tướng văn” tỏ ý với vua Minh Mệnh và các vị quan cao cấp cùng thời như Trương Đăng Quế, Hà Tôn Quyền, Nguyễn Văn Siêu, Nguyễn Quý Tân,… đó là lời giải thích vì sao ông Nguyễn Công Trứ được vua Minh Mệnh tin dùng.

“Nghĩ lại thì trời vốn cũng sòng
Chẳng vì giá rét bỏ mùa đông”

Triều Nguyễn thời đó đang như mùa đông lạnh giá, vua Gia Long mới lập quốc, lòng người chưa quy về một mối, triều chính chưa ổn định, lòng người ly tán, số quan lại mới trổi dậy ham vơ vét, còn người công chính như Nguyễn Du thì không muốn hợp tác vì không được triều Nguyễn thực lòng tin dùng.

Vua Gia Long mất, vua Minh Mệnh nối ngôi, việc thiết lập nhà nước kỷ cương rất cần những mẫu người kiêu dũng, dấn thân như Nguyễn Công Trứ.   VỊNH MÙA ĐÔNG Nguyễn Công Trứ   Nghĩ lại thì trời vốn cũng sòng, Chẳng vì rét mướt bỏ mùa đông. Mây về ngàn Hống đen như mực, Gió lọt rèm thưa lạnh tựa đồng. Cảo mực hơi may ngòi bút rít, Phím loan cưỡi nhuộm sợi tơ chùng. Bốn mùa ví những xuân đi cả, Góc núi ai hay sức lão tùng.   CÂY THÔNG Nguyễn Công Trứ   “Ngồi buồn mà trách ông xanh. Khi vui muốn khóc buồn tênh lại cười. Kiếp sau xin chớ làm người. Làm cây thông đứng giữa trời mà reo. Giữa trời vách đá cheo leo. Ai mà chịu rét thì trèo với thông“   Chính sử triều Nguyễn chép: Nguyễn Công Trứ (1778-1858) tên tục là Củng, tự là Tồn Chất, hiệu là Ngộ Trai, biệt hiệu là Hy Văn là một nhà quân sự, nhà kinh tế và nhà thơ lỗi lạc trong lịch sử Việt Nam cận đại. Năm 1841, Minh Mạng lâm bệnh nặng. Lúc lâm chung, ông gọi quan đại thần Trương Đăng Quế đến bên giường dụ rằng:” Hoàng tử Trường Khánh công lấy về ngôi thứ là hàng trưởng, lấy về đức, về tuổi nên nối ngôi lớn. Ngươi nên hết lòng giúp sức rập, hễ việc gì chưa hợp lẽ, ngươi nên lấy lời nói của ta mà can gián. Ngươi trông mặt ta, nên ghi nhớ lấy.“- Minh Mạng. Sau đó, ông cầm tay con trưởng là Trường Khánh Công Nguyễn Phúc Miên Tông trối trăng: “Trương Đăng Quế thờ ta đến 21 năm, trọn đạo làm tôi, một lòng công trung, bày mưu dưới trướng, ra sức giúp việc ngoài biên, thực là một người công thần kỳ cựu của triều đình. Ngươi nên đãi ngộ một cách ưu hậu, hễ nói thì phải nghe, bày mưu kế gì thì phải theo, ngày sau có thể được thờ vào nhà thế thất.” “Hà Tôn Quyền giỏi mưu kế, Hoàng Tế Mỹ giỏi văn chương, Nguyễn Công Trứ giỏi chiến trận, trong triều không nên để vắng ba người ấy”.   Toàn cảnh đất nước trong buổi đầu gian nan được Nguyễn Công Trứ tóm tắt trong bốn câu: “Mây về ngàn Hống đen như mực,/ Gió lọt rèm thưa lạnh tựa đồng./Cảo mực hơi may ngòi bút rít,/ Phím loan cửi nhuộm sợi tơ chùng.” Trong điều kiện ấy, Nguyễn Công Trứ đã đánh giá vua Minh Mệnh “Nghĩ lại thì trời vốn cũng sòng,… Bốn mùa ví những xuân đi cả,/Góc núi ai hay sức lão tùng.” không như là trường hợp “Thánh nhân bất đắc dĩ dụng QUYỀN”. “Vịnh mùa đông” “Cây thông” là những bài thơ ngôn chí đặc sắc nhất của ông.

BẢN GIỐC VÀ KA LONG
Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim

Bản Giốc và Ka Long là ngọn thác và dòng sông biên giới Trung Việt. Thác Bản Giốc là thác nước hùng vĩ đẹp nhất Việt Nam tại xã Ðàm Thủy, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng.Sông Ka Long (tên gọi Việt) hoặc Sông Bắc Luân (tên gọi Trung) là sông chảy ở vùng biên giới giữa thành phố Móng Cái tỉnh Quảng Ninh, Việt Nam và thành phố Đông Hưng thuộc địa cấp thị Phòng Thành Cảng, Khu tự trị dân tộc Choang tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc. Tuy nhiên theo các bản đồ của Việt Nam thì quan niệm về dòng chảy của sông Ka Long và sông Bắc Luân không hoàn toàn trùng khớp với quan niệm về sông Bắc Luân của Trung Quốc. Thác Bản Giốc và sông Ka Long là nơi lưu dấu gợi nhớ những câu chuyên sâu sắc đời người không thể quên: Người vịn trời xanh chấp sói rừng; Chợt gặp mai đầu suối; Qua sông Thương gửi về bến nhớ; Cao Biền trong sử Việt; Câu cá bên dòng Sêrêpôk; Tư liệu này là điểm nhấn để đọc và suy ngẫm.

“Một thác nước tự nhiên, đẹp hùng vĩ bậc nhất thế giới nằm ở giữa ranh giới hai quốc gia, chứa đựng trong đó nhiều tiềm năng tài nguyên về thủy điện, du lịch. Một khu vực cửa sông tàu thuyền hai bên đi lại dễ dàng, giao thương thuận lợi. Tất cả những tiềm năng này đang chờ đợi sự đầu tư, hợp tác cùng khai thác”, theo VOV 27.11. 2015.

Sông Ka Long và sông Bắc Luân

Sông Ka Long theo bản đồ của Việt Nam xuất bản, bắt nguồn từ rìa bắc xã Quảng Đức, Hải Hà 21°36′36″B 107°41′2″Đ, phía tây cửa khẩu Bắc Phong Sinh cỡ 5 km, chảy uốn lượn về hướng đông đông bắc. Đoạn sông này dài cỡ 16 km. Sông KaLong đến “bãi Chắn Coóng Pha” ở bản Thán Phún xã Hải Sơn, Móng Cái 21°39′34″B 107°48′24″Đ, thì hợp lưu với Sông Bắc Luân bên Trung Quốc và đổi hướng chảy về đông, sau đó đông nam đến nội thị của thành phố Móng Cái. Toàn bộ đoạn sông nói trên là ranh giới tự nhiên cho đường biên giới Việt – Trung. Sông Kalong đến ranh giới phường Ka Long và Trần Phú ở thành phố Móng Cái thì sông chia thành hai nhánh 21°32′13″B 107°57′58″Đ: 1) Dòng Ka Long chảy trong đất Việt theo hướng Nam xuyên qua thành phố Móng Cái ra biển ở nơi giáp ranh giữa xã Hải Xuân và xã Vạn Ninh. 2) Chi lưu là dòng sông Bắc Luân chảy theo hướng đông, tiếp tục là đường biên giới Việt – Trung, đi qua rìa phía đông bắc phường Hải Hòa, dọc theo rạch Tục Lãm và đổ ra biển Đông ở cửa Bắc Luân. Sông Bắc Luân (Bei Lun He, Bắc Luân hà) phía Trung Quốc thì bắt nguồn từ núi Thập Vạn Đại Sơn 21°45′3″B 107°45′31″Đ ở Phòng Thành, Trung Quốc, chảy theo hướng đông nam tới vùng “bãi Chắn Coóng Pha”. Từ đây sông là ranh giới tự nhiên cho đường biên giới Việt – Trung đến cửa Bắc Luân. Sông có tổng chiều dài 109 km, trong đó đoạn tạo thành biên giới Việt Nam-Trung Quốc là 60 km.

Sông Ka Long là sông Bắc Luân Việt Nam phần chảy trong lãnh thổ Việt Nam và  biên giới Việt Trung. Dòng sông này cũng có chốn hợp lưu và có một phần chảy ở nước ngoài là sông Bắc Luân. Câu chuyện này cũng giống như dòng sông Sesan với dòng sông Mekong, đều có chốn hợp lưu, có một phần ở nước ngoài, và có nơi tự do chảy toàn trong lãnh thổ Việt Nam. Từ Mekong nhớ Neva, năm trước khi thăm lại Srepok, điểm hợp lưu quan trọng nhất của sông Mekong ở ngã ba Đông Dương, trong lần chuyển giao tiến bộ kỹ thuật canh tác sắn Tây Nguyên,  tôi liên tưởng và suy ngẫm về các dòng sông đất nước. Nay sông Kalong và sông Bắc Luân cũng là một câu chuyên tương tự.

Wikipedia tiếng Việt trích dẫn tư liệu Đại Nam nhất thống chí chépː “Sông Ninh Dương ở cách châu Vạn Ninh 1 dặm về phía tây. Nguồn (của sông này) từ các xã Thượng Lai và Mông Sơn tổng Bát Trang chảy về đông 37 dặm ven theo địa giới nước Thanh (đến ngã ba). Rồi chuyển (dòng) chảy sang phía đông 7 dặm, đổ ra cửa Lạch. Một nhánh chảy về phía nam 5 dặm đến xã Ninh Dương, lại chia làm 2 chiː một chi chảy về phía đông làm sông Trà Cổ, một chi chảy về tây nam 1 dặm đến đông nam núi Hữu Hàn chảy 10 dặm đổ ra cửa Đại… Ải Thác Mang ở xã Vạn Xuân, cách châu Vạn Ninh 2 dặm về phía bắc, giáp đồn phủ Đông Hưng của nước Thanh. Phàm hai nước có công văn đều do ải này giao đệ. (Đường bộ) đi đến tỉnh thành mất 8 ngày“.


Khu vực cửa sông Bắc Luân năm 1888. Công ước năm 1887 giữa Pháp và nhà Thanh lấy cửa sông này làm đường biên giới. Sông Palong nay bắc qua nhánh Ka Long chảy trong thành phố Móng Cái có 2 cầu là cầu Ka Long và cầu Hòa Bình, bắc qua nhánh Bắc Luân chảy dọc biên giới hiện có cầu Bắc Luân nối hai cửa khẩu quốc tế Móng Cái của Việt Nam và cửa khẩu Bắc Luân của Trung Quốc.

Ngày 13/09/2017 hai nước đã cùng khánh thành cầu Bắc Luân 2 Việt – Trung, là cây cầu thứ 2 nối giữa 2 thành phố cũng như 2 quốc gia, cũng là cây cầu dạng vòm lớn nhất Việt Nam. Đi qua cầu Bắc Luân 2 về đêm nhớ về Hoành Mô, Tiên Yên, Móng Cái kỷ niệm một thời của thuở xưa ‘Qua sông Thương gửi về bến nhớ‘ với bao kỷ niệm.

Thác Bản Giốc

Thác Bản Giốc là thác nước đẹp hiếm thấy tại xã Ðàm Thủy, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng, trên các trang mạng Trung Quốc gọi là cặp thác Đức Thiên – Bản Ước là một nhóm thác nước nằm trên sông Quây Sơn tại biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc. Nếu nhìn từ phía dưới chân thác, phần thác bên trái và nửa phía tây của thác bên phải thuộc chủ quyền của Việt Nam tại xã Đàm Thủy, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng; nửa phía đông của thác bên phải thuộc chủ quyền của Trung Quốc tại thôn Đức Thiên, trấn Thạc Long, huyện Đại Tân, thành phố Sùng Tả của khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây. Thác nước này cách huyện lỵ Trùng Khánh khoảng 20 km về phía đông bắc, cách thủ phủ Nam Ninh của Quảng Tây khoảng 208 km.

Sông Quy Xuân theo cách gọi của phần dòng sông tại Việt Nam, còn tên chung của cả dòng sông theo tiếng Trung gọi là Quây Sơn,  Quy Xuân hà,  归春河, Guīchūn Hé, là một dòng sông quốc tế. Sông Quây Sơn có chiều dài 89 km với diện tích lưu vực là 1.160 km², độ cao trung bình của sông là 556 m. Sông chảy phần lớn trên địa bàn tỉnh Quảng Tây của Trung Quốc và có chiều dài khoảng trên 20 km tại tỉnh Cao Bằng của Việt Nam. Theo Bách khoa toàn thư Việt Nam sông Quy Xuân tại Việt Nam có một chi lưu là suối Cạn và sông có tổng chiều dài 38 km với diện tích lưu vực là 370 km2  hoặc theo Bộ Tài nguyên và Môi trường Việt Nam thì sông Quy Xuân phần chảy trong nội địa Việt Nam có tổng chiều dài 49 km với diện tích lưu vực 475 km² .

Sông Quy Xuân  bắt nguồn từ các khe suối tại huyện Tĩnh Tây, thành phố Bách Sắc của Quảng Tây, Trung Quốc sau đó chảy xuôi về phía nam hoàn toàn trong lãnh thổ Việt Nam tại xã Ngọc Côn của huyện Trùng Khánh thuộc tỉnh Cao Bằng, tiếp tục chảy theo hướng đông nam cho đến cực nam của xã Đình Phong rồi  chuyển hướng đông-đông bắc đến xã Đàm Thủy sông chuyển hướng đông nam và chảy đến khu vực thác Bản Giốc  tại xã Đàm Thủy (Việt Nam) với đối ngạn là  thôn Đức Thiên, trấn Thạc Long, huyện Đại Tân của thành phố Sùng Tả (Trung Quốc). Đường biên giới Việt Nam-Trung Quốc đi từ mốc 53 (cũ) lên cồn Pò Thoong giữa sông rồi đến điểm giữa của mặt thác chính của thác Bản Giốc. Sau đó sông Quy Xuân trở thành đường biên giới tự nhiên giữa Việt Nam (huyện Hạ Lang) và Trung Quốc (huyện Đại Tân). Đến xã Minh Long, Hạ Lang thì sông Quây Sơn chuyển sang hướng tây và chảy đến xã Lý Quốc, Hạ Lang  và đến trấn Thạc Long, thì sông chảy hoàn toàn trong lãnh thổ Trung Quốc. Sông Quy Xuân sau khi chảy vào lãnh thổ Trung Quốc, vẫn có hướng chính là hướng tây rồi nhập vào sông Hắc Thủy ở Thạc Long và sau đó lại nhập vào Tả Giang rồi đổ ra biển Đông tại vùng Châu Giang. Vì tính chất dòng chảy như vậy nên ở Trung Quốc sông được ca ngợi là “sông yêu nước” vì sự quấn quýt trở về. Sông Quy Xuân có thác Bản Giốc Việt Nam và cặp thác Đức Thiên – Bản Ước Trung Quốc được bình chọn và đánh giá là một trong các thác đẹp nhất Trung Quốc và Việt Nam.

Quảng Ninh và Cao Bằng là một phần đời tôi ở đó. Về Việt Bắc đêm lạnh nhớ Bác tôi đã kể ký ức về Thác Bản Giốc và sông Ka Long.“Việt Nam Trung Hoa núi liền núi sông liền sông”, đây là một thí dụ điển hình.

HoitruongThongNhat

CÔNG VIÊN TAO ĐÀN HCM
Hoàng Kim


Dinh Thống Nhất và Vườn Tao Đàn thành phố Hồ Chí Minh là quần thể danh thắng đặc biệt tiêu biểu về di sản lịch sử, địa lý, chính trị, văn hóa, kiến trúc của Sài Gòn Gia Định xưa và thành phố Hồ Chí Minh ngày nay.

Dinh Thống Nhất

Dinh Thống Nhất nguyên là Dinh Độc Lập trước năm 1975, là di tích quốc gia đặc biệt được Chính phủ Việt Nam đặc cách xếp hạng. Tiền thân Dinh Độc lập là Dinh Thống đốc Nam Kỳ, do kiến trúc sư người Pháp Hermite thiết kế năm 1868. Sau khi dinh cũ nhiều lần bị ném bom, hư hại, san bằng và Dinh Độc Lập được xây mới năm 1962, thực hiện theo thiết kế của kiến trúc sư khôi nguyên La Mã Ngô Viết Thụ và đã khánh thành năm 1966 . Dinh Độc Lập cao 26 m, rộng 4.500 m2, với 100 phòng gồm 3 tầng chính và một sân thượng cho máy bay trực thăng đáp, hệ thống hầm ngầm kiên cố. Địa danh này chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử thăng trầm của thành phố từng được ví là Hòn ngọc phương Đông. Trưa 30/4/1975, xe tăng của quân giải phóng miền Nam đã húc đổ cánh cửa sắt Dinh Độc lập, đánh dấu thời khắc lịch sử của Sài Gòn. Quá trình chuyển giao và tiếp nhận chính thể mới cũng diễn ra tại đây. Sau 1975, Dinh Độc Lập đổi tên thành Dinh Thống Nhất, ngày nay trở thành địa điểm tham quan lịch sử của du khách khi đến với Sài Gòn. Quần thể Dinh Độc lập, vườn Tào Đàn và Hồ Con Rùa là vùng đất địa linh nổi bật nhất của dấu ấn hòn ngọc phương Đông.

Dinh Độc Lập với kiến trúc chữ T là chữ cái đầu của chữ THỤ (trong chữ THIÊN THỤ”. Đó là bốn kế lớn chấn hưng đất nước “vua sáng, kinh tế, nông nghiệp, nội chính” qua bốn công trình chính liên hoàn: chữ T dinh Độc Lập, chữ H chợ Đà Lạt, chữ U Trường Đại học Nông nghiệp Sài Gòn và dấu nặng (.) là Hồ Con Rùa.Biểu tượng Dinh Độc lập (hình chữ T) với ý nghĩa đất nước muốn giàu mạnh, thì trước hết người lãnh đạo đất nước phải là “bậc minh quân hiền tài”, trọng “quân đức, dân tâm, học pháp”, biết “chăm lo sức dân để lập đại kế sâu rễ bền gốc” bảo tồn và phát triển bền vững năng lực Quốc gia.

Biểu tượng Chợ Đà Lạt (hình chữ H) với ý nghĩa trọng tâm của nổ lực quốc gia là phải phát triển kinh tế (phi thương bất phú), mở mang giao thương, chấn hưng nghiệp cũ, phát triển nghề mới, khuyến học dạy dân, “Nên thợ, nên thầy nhờ có học/ No ăn, no mặc bởi hay làm” (Nguyễn Trãi), “chú trọng mậu dịch buôn bán, lấy việc thông thương an toàn làm chữ Nghĩa (Nguyễn Hoàng), chú trọng lao động để dân giàu nước mạnh.

Biểu tượng Trường Đại Học Nông Nghiệp Sài Gòn (hình chữ U) với ý nghĩa là phải chấn hưng giáo dục đại học, phát triển khoa học công nghệ, đặc biệt là giáo dục phát triển nông nghiệp để nâng cao thu nhập, sinh kế, việc làm và an sinh xã hội, nâng cao chất lượng và giá trị nông sản (dĩ nông vi bản) vì quá nữa người Việt làm nghề nông.

Và sau cùng là biểu tượng Hồ Con Rùa (hình dấu (.) nặng) với ý nghĩa là nội chính an dân, thượng tôn pháp luật,  kỷ cương phép nước, giữ vững bờ cõi, bảo tồn nguyên khí, thương yêu dân chúng an vui lạc nghiệp, “biết thương yêu dân, luyện tập binh sĩ để xây dựng cơ nghiệp muôn đời” (Lời chúa Nguyễn Hoàng dặn chúa Nguyễn Phúc Nguyên),

Vườn Tao Đàn

Đền Hùng tại chính mặt sau Dinh Thống Nhất của Vườn Tao Đàn “lá phổi xanh thành phố”. Trong Vườn Tao Đàn có Đền Hùng, Giếng Ngọc đền Hùng, đền Mẫu Phương Nam, vườn đá tiếng Việt, hồ sen đền Hùng, vườn hoa và cây xanh Tao Đàn. Quần thể danh thắng Dinh Thống Nhất, Vườn Tao Đàn, Hồ Con Rùa “mắt ngọc của đầu rồng” trở thành vùng sử thi huyền thoại. Đền Hùng tại vườn Tao Đàn thành phố Hồ Chí Minh là biểu tượng khát vọng đất nước Việt Nam thống nhất, hòa hợp dân tộc, không chấp nhận chia rẽ “chia để trị” đã thấm vào máu thịt của con dân Việt. “Nam Bộ là thịt của thịt Việt Nam là máu của máu Việt Nam. Sông có thể cạn, núi có thể mòn nhưng chân lý đó không bao giờ thay đổi” (Hồ Chí Minh). Dinh Thống Nhất vì thế đã thay cho tên gọi Dinh Độc Lập và  Dinh Thống đốc Nam Kỳ trước đó.

Mẫu Phương Nam ở Vườn Tao Đàn trong quần thể Đền Hùng cùng với m

Dạy và học 26 tháng 11


DẠY VÀ HỌC 26 THÁNG 11
Hoàng Kim
CNM365 Tình yêu cuộc sốngGiếng Ngọc vườn Tao Đàn; Vui bước tới thảnh thơi; Tiệp Khắc kỷ niệm một thời; Praha Goethe và lâu đài cổ; Châu Văn Tiếp Phú Yên; Chuyện thầy Tôn Thất Trình; Sao Kim kỳ thú; Thăm nhà cũ của Darwin; Về Trường để nhớ thương; Câu chuyện ảnh tháng 11; Lên Tây Bắc điểm hẹn; Sự chậm rãi minh triết; Mông Cổ Quảng trường  Sukhbaatar nổi tiếng ở thủ đô Ulan Bator (Ulaanbaatar) (hình). Ngày 26 tháng 11 năm 1924 Nước Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ  thành lập, do Đảng Nhân dân Cách mạng Mông Cổ cầm quyền và luôn duy trì mối quan hệ mật thiết với Liên Xô suốt từ đó đền năm 1992. Sau khi Liên Xô sụp đổ thì Cách mạng Dân chủ Mông Cổ 1990 và bản hiến pháp mới năm 1992 đưa nước này chuyển sang cộng hòa nghị viện và kinh tế thị trường  với chính sách ngoại giao và quốc phòng được xác định: “Duy trì quan hệ thân thiện cân bằng với Nga và Trung Quốc phải là ưu tiên hàng đầu trong hoạt động đối ngoại của Mông Cổ, và thúc đẩy tất cả các hoạt động hợp tác láng giềng thân thiết”. Ngày 26 tháng 11 năm 1942 Bộ phim Casablanca tình cảm tâm lý xã hội đặc sắc của Mỹ đã đoạt giải Phim hay nhất và ba giải Oscar. Phim này do đạo diễn Michael Curtiz với sự tham gia của hai ngôi sao hàng đầu Hollywood là Humphrey Bogart và Ingrid Bergman cùng các diễn viên nổi tiếng khác, phim  thường xuyên được xếp hạng phim hay nhất trong lịch sử sau hơn 60 năm từ ngày công chiếu lần đầu.  Ngày 26 tháng 11 năm 1942  ngày sinh Đặng Thùy Trâm, bác sĩ, liệt sĩ trong Chiến tranh Việt Nam, hy sinh ngày 22 tháng 6 năm 1970 tại Quảng Ngãi  được Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam trao tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân năm 2006; Bài viết chọn lọc ngày 26 tháng 11: Giếng Ngọc vườn Tao Đàn; Vui bước tới thảnh thơi; Tiệp Khắc kỷ niệm một thời; Praha Goethe và lâu đài cổ; Châu Văn Tiếp Phú Yên; Chuyện thầy Tôn Thất Trình; Sao Kim kỳ thú; Thăm nhà cũ của Darwin; Về Trường để nhớ thương; Câu chuyện ảnh tháng 11; Lên Tây Bắc điểm hẹn; Sự chậm rãi minh triết; Thầy Luật lúa OMCS OM; Nôi ví dặm ân tình; Sự chậm rãi minh triết; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-26-thang-11/

GIẾNG NGỌC VƯỜN TAO ĐÀN
Hoàng Kim
Dạo chơi giếng Ngọc vườn Tao Đàn nhớ lời thơ Nguyễn Trãi: ‘Nên thợ nên thầy nhờ có học dư ăn dư mặc bởi hay làm’. Văn là đẹp, chương là sáng. Ngôn ngữ sáng đẹp, thấm thía, xúc động, ám ảnh.  Lưu ít ảnh ghi chú mùa Covid19, đọc lại và suy ngẫm

Bài đọc thêm
TƯỚNG TẠI TÂM SINH, TƯỚNG TÙY TÂM TÍNH

Cổ nhân giảng: “Tướng do tâm sinh”. Kỳ thực, tướng ở đây không chỉ là “tướng mạo” mà còn là hoàn cảnh xung quanh của một người. Nếu một người mà trong lòng luôn vui vẻ và tràn đầy ý nghĩ tích cực thì hoàn cảnh liền lập tức chuyển biến thành tốt. Trái lại, nếu một người mà trong lòng luôn chứa đựng ý nghĩ tiêu cực thì hoàn cảnh xung quanh của người ấy cũng trở nên không tốt, rất nhiều mâu thuẫn sẽ nối gót nhau mà đến. (xem tiếp…)

Emve

VUI BƯỚC TỚI THẢNH THƠI
Hoàng Kim

Thăm người ngọc nơi xa, vùng tỉnh lặng,
Chốn ấy đồng xanh, người đã chào đời.
Nơi
sỏi đá, giữa miền thiêng hoa cỏ,
Thiên nhiên an lành,
bước tới thảnh thơi.

Sống giữa đời vui, giấc mơ hạnh phúc,
Cổ tích đời thường đằm thắm yêu thương.
Con cái quây quần thung dung tự tại,
Minh triết cuộc đời phúc hậu an nhiên.

Xuân Hạ Thu Đông, bốn mùa luân chuyển
Say chân quê
ngày xuân đọc Trạng Trình
Ngày ra ruộng, đêm thì đọc sách.
Ngọc cho đời, giữ trọn niềm tin.

*

Chân trần bước tới thảnh thơi
Trăng rằm cổ tích nhớ lời của Anh:

“Cảnh mãi theo người được đâu em
Hết khổ hết cay hết vận hèn
Nghiệp sáng đèn giời đang chỉ rõ
Rồi đây cay đắng chẳng buồn chen”.
(Khát vọng, Hoàng Ngọc Dộ)

Về với ruộng đồng
Đến chốn thung dung
Sống giữa thiên nhiên
Giấc mơ hạnh phúc

Minh triết cuộc rong chơi
Đường trần đi không mỏi
Lắng nghe cuộc sống gọi
Việt Nam con đường xanh

Ngắm vầng trăng cổ tích
Vui bước tới thảnh thơi
Mình về thăm nhau thôi
Giấc mơ lành yêu thương

SỰ CAO QUÝ THẦM LẶNG

Sự cao quý thầm lặng
Niềm vui đón trăng rằm
Phước Huệ trang nghiêm quá
Ai làm Ngốc Phương Nam

Dạy suốt đời không mỏi
Học và làm luôn vui
Tâm sáng lòng bồ tát
Việc tốt ngọc cho đời

Công đức chào ngày mới
Vui bước tới thảnh thơi

TIỆP KHẮC KỶ NIỆM MỘT THỜI
Hoàng Kim

Tôi có năm tháng ở Trường Đại Học Nông nghiệp Praha, Tiệp Khắc năm 1986 và may mắn được đến thăm nhiều địa danh lịch sử, văn hóa, khoa học cây trồng, du lịch sinh thái của nước bạn. Trong lòng tôi lắng đọng Tiệp Khắc kỷ niệm một thời nghiên cứu phát triển đậu rồng hợp tác Việt Tiệp, với những tên người, tên đất yêu thương. Tiệp Khắc là bài học lịch sử quý giá cho những ai biết trân trọng chân lý và sự thật, yêu tự do và máu xương của nền độc lập, thống nhất Tổ Quốc. Praha thủ đô Tiệp Khắc là “Thành phố vàng” mà trung tâm của thành phố đã được UNESCO công nhận là Di sản thế giới năm 1992. Lâu đài Praha là lâu đài cổ lớn nhất trên thế giới theo sách Kỷ lục Guinness. Praha nằm bên sông Vltava ở miền trung Bohemia. Ngày 28 tháng 9 năm 1992 là ngày lập quốc tại Cộng hòa Séc nhưng phải đến ngày 1 tháng 1 năm 1993, nước Tiệp Khắc mới chính thức giải tán trong hòa bình theo các quá trình trong nghị viện và lãnh thổ Tiệp Khắc trở thành Cộng hòa Séc và Slovakia.

TIỆP KHẮC ĐẤT NƯỚC CON NGƯỜI

Đại học Karlova ở Praha (Univerzita Karlova) được Karel IV thành lập năm 1348 là trung tâm học vấn châu Âu. Đại học Karlova cùng với lâu đài Praha và cầu Karl là những di sản văn hóa nổi tiếng thế giới của Cộng hòa Séc.

Cộng hòa Séc xếp hạng 30/177 quốc gia về Chỉ số Phát triển Con người (xem Danh sách các quốc gia theo thứ tự về Chỉ số phát triển con người); xếp hạng 5/168 quốc gia về chỉ số tự do báo chí (Nhà báo không biên giới); xếp hạng 37/157 quốc gia về chỉ số tự do kinh tế; xếp thứ 35/180 quốc gia về thu nhập bình quân đầu người (xem Danh sách quốc gia theo GDP (PPP) bình quân đầu người năm 2008
); xếp thứ 40/180 quốc gia về GDP (xem Danh sách quốc gia theo GDP danh nghĩa năm 2008). Tiệp Khắc đất và người có nhiều chuyện đáng suy ngẫm. Đại học Nông nghiệp Praha, Viện Di truyền Menden với tôi là những năm tháng không quên. Những thành phố xanh tuyệt vời Brno,Bratislava, Plzen, … là những điểm du lịch đáng nhớ. Tôi nợ Tiệp Khắc kỷ niệm một thời suốt trên ba mươi năm, chuyện bây giờ mới kể…

Tiệp Khắc trái tim văn hóa châu Âu

Theo sự chọn lọc và tổng hợp thông tin của Bách khoa Toàn thư Mở Wikipedia, Tiệp Khắc Czechoslovakia là trái tim văn hóa châu Âu nhưng lịch sử Tiệp Khắc từ thời tiền sử đến cộng hòa Séc là cả một chuỗi biến động. Tiệp Khắc trong khẩu ngữ thường gọi tắt là Tiệp, tiếng Séc gọi là Československo, tiếng Slovak gọi là Česko-Slovensko, trước 1990 gọi là Československo, tiếng Đức là Tschechoslowakei. Tên gọi luôn thay đổi qua nhiều thời kỳ đã cho thấy lịch sử Tiệp Khắc nằm ở nơi trung tâm của các cuộc tranh chấp và giành giật dữ dội bậc nhất trong lịch sử nhân loại.

Tiệp Khắc và Bỉ được ví như hai buồng tim của châu Âu. Bạn hãy nhìn vị trí của Cộng hòa Séc (xanh lá đậm) trong Liên minh châu Âu (xanh lá nhạt) và trong khu vực châu Âu (xanh lá nhạt và xám đậm). Người Tiệp vượt lên thăng trầm lịch sử và sự tranh đoạt, tan rồi hợp, hợp rồi tan. Họ có hai câu ngạn ngữ nổi tiếng và đó cũng là tuyên ngôn lập quốc “Sự thực trên hết” (tiếng Séc: Pravda vítězí  1918–1990; tiếng Latinh: Veritas Vincit  1990– 1992), “Chân lý luôn chiến thắng” (tiếng Séc“Pravda vítězí”). Bài Quốc ca của Cộng hòa Séc hiện tại “Quê hương tôi nơi đâu?” (Kde domov můj?– tiếng Séc). Chân lý và sự thật lịch sử là suối nguồn của sự nhận thức.

Cộng hòa Séc hiện nay là một nước Trung Âu  không giáp biển. Cộng hòa Séc giáp Ba Lan về phía bắc, giáp Đức về phía tây, giáp Áo về phía nam và giáp Slovakia về phía đông. Thủ đô Praha là thành phố lớn nhất nước với 1,3 triệu dân. Cộng hòa Séc có dân số hiện khoảng 10,3 -11,0 triệu người (Cộng hòa Slovakia hiện khoảng 6,0 triệu người).   Cộng hòa Séc là một quốc gia đa đảng theo chế độ cộng hòa đại nghị. Tổng thống là người đứng đầu nhà nước, còn thủ tướng là người đứng đầu chính phủ. Quốc hội có hai viện gồm thượng viện và hạ viện. Cộng hòa Séc đã gia nhập NATO vào năm 1999 và trở thành một thành viên của Liên minh Châu Âu từ năm 2004. Ngày 21 tháng 12 năm 2007, Cộng hòa Séc đã thông qua Hiệp ước Schengen, tạo điều kiện thuận lợi cho việc đi lại và du lịch vào nước này. Ngoài ra, Cộng hòa Séc hiện nay cũng là thành viên của các tổ chức OECD, OSCE, Ủy hội châu Âu và Khối Visegrád.

Lãnh thổ Cộng hòa Séc, ngày nay bao gồm các vùng đất đã từng tồn tại trong lịch sử là Bohemia, Moravia và một phần Silesia. Séc trở thành một bộ phận của Đế quốc Áo và Đế quốc Áo-Hung trong nhiều thế kỉ cho đến năm 1918, khi Séc cùng với Slovakia tuyên bố thành lập nước Tiệp Khắc. Trong Thế chiến thứ hai, Tiệp Khắc bị phát xít Đức chiếm đóng. Sau đó, nước này trở thành một quốc gia xã hội chủ nghĩa cho đến năm 1989 khi cuộc Cách mạng Nhung yên bình diễn ra, đưa đất nước trở về tiến trình dân chủ. Ngày 1 tháng 1 năm 1993, một cuộc li khai ôn hòa đã diễn ra, Tiệp Khắc lại tách thành hai quốc gia độc lập là Séc và Slovakia.

 

Lịch sử cộng hòa Séc

Cộng hòa Séc có tên gọi cũ trong tiếng Anh là “Bohemia”, được biến đổi từ tiếng Latinh “Boiohaemum”, có nghĩa là “quê hương của người Boii”. Tên gọi Séc hiện tại được lấy từ tên Čechy, chuyển hóa từ cách phát âm cũ Cžechy của Ba Lan. Các nhà khảo cổ đã tìm thấy bằng chứng của người tiền sử sống tại vùng đất này khoảng thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên.  Các bộ tộc Celt, Boii đã đến Séc định cư, sau đó, đến thế kỷ 1, các bộ tộc Marcomanni và Quani tại vùng đất thuộc Đức cũng đến đấy sinh sống. Những bộ lạc người Đức trong giai đoạn di cư khoảng cuối thế kỷ thứ 2 đến thứ 5, đã rời Séc di cư rộng ra các vùng đất phía Đông và phía Tây.

Người Slav từ vùng Biển Đen–Karpat định cư tại Séc do các cuộc tấn công dữ dội từ vùng Siberia và các bộ lạc Đông Âu tại Hung, Avar, Bulgar và Magyar. Đến thế kỷ 6 họ  di cư tới các vùng đất ở phía Nam như Bohemia, Moravia và một số vùng đất mà ngày nay thuộc về lãnh thổ nước Áo.

Đầu thế kỷ 7, thương gia Samo đến từ vùng Francia đã lãnh đạo người Slav để chống lại tộc người Avar;  năm 623, ông trở thành thủ lĩnh đầu tiên của vương quốc Slav là liên minh của các bộ lạc lớn mạnh. Sau triều đại Samo, người Moravia và Nitra đã thành lập vương quốc mới.

Năm 833, Mojmir I của Moravia đã tấn công và sát nhập vương quốc Nitra, lập ra Đại Moravia (Velká Morava). Vua Rastislav (846-870) là người cháu của Mojmir I được ông nhường ngôi cho năm 846. Vua Rastislav đã mời hai nhà truyền giáo Cyril và Methodius đến Đại Moravia để truyền bá đạo Thiên chúa và họ đã giúp xây dựng bảng ký tự Cyril chữ cái của người Slav.

Đại Moravia mở rộng nhất dưới thời vua Svatopluk I  với lãnh thổ trải dài bao gồm Hungary, Ba Lan, Áo, Đức, Serbia, Slovenia, Croatia và Ukraina. Về sau, những cuộc chiến tranh liên miên với Đế chế Frank đã làm cho Đại Moravia suy yếu và những người Hungary xâm lược đã khiến đất nước này tan rã vào đầu thế kỉ thứ 10.

Thời Trung cổ, năm 995, Vua Premyslid, thành viên của bộ tộc Séc đã thống nhất các vương triều Séc khác và thành lập vương quốc Bohemia hùng mạnh. Đầu thế kỉ 11, vương quốc Bohemia đã chinh phục Đại Moravia và giao cho một trong những người con trai của vua Bohemia cai trị. Vào năm 1306, dòng họ Premyslid không có người kế vị. Sau nhiều cuộc chiến tranh giành quyền lực đẫm máu, dòng họ Luxemburg đã đoạt được ngôi vua Bohemia.

Karel IV (1342-1378), còn gọi là Charles trong tiếng Anh và tiếng Pháp, Karl trong tiếng Đức, là vị vua thứ hai của triều đại Luxemburg đã đưa đất nước Bohemia trở nên hùng mạnh. Karel IV là quốc trưởng của toàn Đế quốc La Mã Thần thánh và các vương quốc phụ cận. Bản đồ đế quốc La Mã Thần Thánh dưới triều Hoàng đế Karl IV thật rộng lớn. Năm 1344, Karel IV nâng chức Giám mục của thành phố Praha lên thành Tổng Giám mục đồng thời kiềm chế quyền lực của các quý tộc Séc. Ông cũng đã chuyển Bohemia và Moravia trở thành các quận hành chính, sáp nhập Brandenburg (năm 1415), Lusatia (năm 1635), Silesia (năm 1742) vào quyền kiểm soát của Séc. Karel IV đã xây dựng thủ đô Praha với những công trình tiêu biểu như lâu đài Praha, cầu Karl và Đại học Karlova (Univerzita Karlova) thành lập năm 1348, đưa Praha thành trung tâm học vấn và trái tim văn hóa châu Âu. Thủ đô Praha  là “Thành phố vàng” nằm bên sông Vltava ở miền trung Bohemia, trung tâm kinh tế, văn hoá và chính trị của Cộng hòa Séc. Lâu đài Praha là lâu đài cổ lớn nhất thế giới theo sách kỷ lục Guinness, được UNESCO công nhận Di sản thế giới năm 1992. Thắng cảnh cầu Karl ở thủ đô Praha của Cộng hòa Séc. Cầu Karl, lâu đài Praha và Đại học Karlova trở thành những biểu tượng bền vững của thủ đô Praha.

Thời kỳ thuộc triều đại Habsburg. Vào thế kỉ 15, một cuộc chiến tranh tôn giáo đẫm máu đã diễn ra tại Séc, lịch sử gọi là cuộc Chiến tranh Hussite. Đất nước Séc suy yếu và đến năm 1526, Séc đã bị sát nhập vào đế chế Habsburg, người Séc bắt đầu bị đồng hóa. Tiếng Séc bị cấm sử dụng và tiếng Đức trở thành ngôn ngữ chính thức ở Séc. Năm 1618, người Bohemia đã nổi dậy chống lại triều đình Habsburg. Họ đã chọn Frederick Palatinate lên ngôi, nhưng đến ngày 6 tháng 11 năm 1620, quân đội Séc bị đánh bại tại Trận Núi Trắng. Cuộc Chiến tranh Ba Mươi Năm (1618-1648) đã phá hủy phần lớn những làng mạc, thành phố của Bohemia. Đến thời nữ hoàng Maria Theresa và con trai bà, vua Joseph II, những người chịu ảnh hưởng của Thời đại Khai sáng, tình hình Bohemia bắt đầu có những chuyển biến. Tuy chính sách đồng hóa vẫn không thay đổi, nhưng tình hình xã hội, giáo dục đã được cải thiện cho người Séc. Vào thế kỉ 19, chủ nghĩa bành trướng của Pháp dưới thời vua Napoleon I đã kích thích tinh thần phục hưng dân tộc của người Séc. Tầng lớp trí thức mới đã đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc phục hưng và phát triển ngôn ngữ dân tộc. Tháng 2 năm 1848, cuộc Cách mạng tháng 2 ở Pháp đã làm bùng nổ một cao trào cách mạng tư sản lan khắp châu Âu. Vào ngày 12 tháng 6 năm 1848, khởi nghĩa của những người dân chủ cấp tiến và được sự hưởng ứng nhiệt liệt của nhân dân đã bùng nổ tại Praha, nhưng đến ngày 17 tháng 6, cuộc khởi nghĩa bị dập tắt. Năm 1867, nhà nước quân chủ lưỡng hợp Áo-Hung được thành lập, trong đó Séc nằm trong tầm ảnh hưởng của nước Áo. Vào những năm cuối cùng của đế chế Áo-Hung, tình hình giữa người Séc và người Đức ở Bohemia ngày càng trở nên căng thẳng. Mối quan hệ xấu đi giữa các dân tộc trong đế chế đã đẩy nhanh sự sụp đổ của quốc gia này. Năm 1900, Tomáš Masaryk, người sau này trở thành tổng thống Tiệp Khắc đã thành lập Đảng Tiến bộ Séc. Ý tưởng về một quốc gia kết hợp giữa hai dân tộc Séc và Slovakia bắt đầu được hình thành.

Sau khi Thế chiến thứ nhất kết thúc cùng với sự sụp đổ của Đế chế Áo-Hung, ngày 28 tháng 10 năm 1918, Cộng hòa Tiệp Khắc (bao gồm Séc và Slovakia ngày nay) tuyên bố độc lập. Hiệp ước St. Germain được ký kết vào tháng 9 năm 1919 đã chính thức công nhận nền cộng hòa mới của Tiệp Khắc. Sau đó, Ruthenia cũng được sát nhập vào Tiệp Khắc vào tháng 6 năm 1920. Quốc gia Tiệp Khắc mới thành lập có dân số khoảng 13,5 triệu người, thừa hưởng tới 70-80% các cơ sở công nghiệp của Áo-Hung. Lúc đó Tiệp Khắc là một trong mười nước công nghiệp hóa nhất thế giới.

Trước chiến tranh thế giới thứ hai, chính quyền phát xít ở Đức bắt đầu đe dọa tiến hành xâm lược Trung Âu. Sau khi sáp nhập nước Áo vào lãnh thổ Đức, Tiệp Khắc trở thành mục tiêu tiếp theo của phát xít Đức. Tháng 4 năm 1938, Đức nêu yêu sách đòi vùng đất Sudentenland của Tiệp Khắc. Ngày 29 tháng 9 năm 1938, Hiệp ước München được ký kết. Anh, Pháp vì không muốn chiến tranh với Đức đã quyết định vứt bỏ liên minh quân sự với Tiệp Khắc. Và hậu quả là đến ngày 16 tháng 3 năm 1939, toàn bộ lãnh thổ Tiệp Khắc đã bị Đức chiếm đóng. Trong những năm Thế chiến thứ hai, khoảng 390.000 người dân thành thị, trong đó có 83.000 người Do Thái đã bị giết hại hoặc bị hành quyết. Hàng trăm ngàn người đã bị đưa vào các nhà tù và các trại tập trung để làm công việc khổ sai. Chiến tranh kết thúc vào ngày 9 tháng 5 năm 1945 với việc cuộc khởi nghĩa Praha lật đổ ách thống trị của phát xít Đức thành công và quân đội Liên Xô và Mỹ tiến vào Tiệp Khắc.

Từ năm 1945-1946, hầu như toàn bộ người Đức thiểu số (khoảng 2,7 triệu người) đã bị trục xuất khỏi Tiệp Khắc sang Đức và Áo. Sau Thế chiến thứ hai, Đảng Cộng sản Tiệp Khắc nhanh chóng phát triển do sự thất vọng của người Tiệp Khắc đối với phương Tây vì đã vứt bỏ họ trong Hiệp ước München và do ảnh hưởng ngày càng mạnh của Liên Xô. Trong cuộc bẩu cử năm 1946, Đảng Cộng sản đã giành được tỉ lệ phiếu 38%, trở thành chính đảng lớn nhất và chính thức cầm quyền từ tháng 2 năm 1948. Sau đó, Đảng Cộng sản Tiệp Khắc đã xây dựng một chính quyền toàn cộng sản. Sau khi nắm quyền, Đảng Cộng sản Tiệp Khắc đã quốc hữu hóa các ngành kinh tế, xây dựng một nền kinh tế kế hoạch. Kinh tế tăng trưởng nhanh trong thập niên 1950 và thập niên 1960, sau đó bắt đầu giảm sút từ thập niên 1970 và rơi vào khủng hoảng trầm trọng. Chính quyền cộng sản trở nên thiếu dân chủ. Năm 1968, phong trào Mùa Xuân Praha bùng nổ đòi mở rộng tự do dân chủ và thực hiện đa nguyên chính trị, song sau đó bị quân đội Liên Xô đàn áp và dập tắt. Tháng 11 năm 1989, cuộc Cách mạng Nhung lụa diễn ra trong hòa bình, đưa đất nước Tiệp Khắc trở lại quá trình dân chủ.

Ngày 1 tháng 1 năm 1993, Tiệp Khắc diễn ra cuộc “chia li trong hòa bình”. Hai dân tộc Séc và Slovakia tách ra, thành lập hai quốc gia mới là Cộng hòa Séc và Cộng hòa Slovakia.  Cộng hòa Séc từ sau khi lại trở thành một quốc gia độc lập năm 1993, Quốc hội Cộng hòa Séc đã quyết định giữ nguyên lá cờ của Liên bang Tiệp Khắc cũ làm là cờ của Cộng hòa Séc. Cùng năm đó, nước này gia nhập Liên Hiệp Quốc. Đến năm 1995, Cộng hòa Séc trở thành một thành viên của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) và Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Ngày 12 tháng 3 năm 1999, Cộng hòa Séc gia nhập NATO. Vào năm 2004, cùng với 9 quốc gia Đông Âu và Nam Âu khác, Cộng hòa Séc đã trở thành một thành viên của Liên minh Châu Âu. Kinh tế Cộng hòa Séc đi theo nền kinh tế thị trường và đang trên đà phát triển mạnh, song cũng vẫn phải đối mặt với nhiều mạo hiểm và thách thức to lớn.

Chính trị kinh tế cộng hòa Séc

Chính trị Cộng hòa Séc. Theo hiến pháp, Séc là một quốc gia đa đảng theo chế độ dân chủ nghị viện, tổng thống là người đứng đầu nhà nước còn thủ tướng là người điều hành chính phủ. Tổng thống Cộng hòa Séc được bầu bởi Quốc hội với nhiệm kỳ 5 năm. Theo Hiến pháp, một tổng thống không được phép nắm quá hai nhiệm kỳ liên tiếp. Tổng thống có vai trò chủ yếu về mặt nghi thức song ông cũng có thể dừng thông qua một đạo luật hoặc giải tán quốc hội trong những trường hợp đặc biệt.

Tổng thống hiện nay của Cộng hòa Séc là ông Václav Klaus. Mới đây Cộng hòa Séc đã thông qua bộ luật mới về việc bầu cử tổng thống trực tiếp, tức là tổng thống sẽ được người dân bầu ra chứ không do Quốc hội bầu như trước nữa.

Thủ tướng Cộng hòa Séc là người đứng đầu chính phủ. Thủ tướng nắm trong tay nhiều quyền lực lớn như quyết định các vấn đề đối nội và đối ngoại, triệu tập quốc hội và chọn ra các bộ trưởng của chính phủ. Thủ tướng hiện nay của Cộng hòa Séc là ông Petr Nečas.

Quốc hội của Cộng hòa Séc được tổ chức theo mô hình lưỡng viện, bao gồm hạ viện và thượng viện. Hạ viện gồm 200 ghế còn thượng viện gồm 81 ghế. Tại Cộng hòa Séc có 14 khu vực bầu cử tương ứng với 14 khu vực hành chính của cả nước.

14 khu vực hành chính gồm thành phố thủ đô Praha và 13 vùng địa phương (bảng kèm). Ở Praha, quyền lực được thi hành bởi Thị trưởng Praha và Hội đồng Thành phố. Ở 13 vùng còn lại có hội đồng địa phương được bầu chọn qua bầu cử và người lãnh đạo riêng. Mỗi khu vực nói trên của Cộng hòa Séc được coi là một vùng cấp ba của Liên minh châu Âu. Trong khi đó, toàn bộ lãnh thổ Cộng hòa Séc được coi là một vùng cấp hai của Liên minh châu Âu. (Xem Các vùng của Liên minh châu Âu)

Tòa án Hiến pháp (hay Tòa án Lập pháp) của Cộng hòa Séc gồm có 15 thành viên và có nhiệm kỳ 10 năm. Các thành viên của Tòa án Hiến pháp được chỉ định bởi tổng thống và được thông qua bởi thượng viện.

Cộng hòa Séc là nước đa đảng với sự tham gia của nhiều đảng phái. Hai đảng có ảnh hưởng lớn nhất ở Cộng hòa Séc là Đảng Dân chủ Công dân và Đảng Xã hội Dân chủ Séc.

Quân đội Séc gồm có lục quân, không quân và lực lượng hậu cần đặc biệt. Quân đội Séc ngày nay là một phần của Quân đội Tiệp Khắc trước kia, vốn là một trụ cột quan trọng của Hiệp ước Warsaw cho đến tận năm 1989. Kể từ khi gia nhập NATO vào ngày 12 tháng 3 năm 1999, lực lượng quân đội Séc đã có những sự thay đổi đáng kể về nhiều mặt. Tuy số lượng binh lính giảm xuống còn khoảng 67.000 người nhưng về mặt chất lượng lại được nâng cao và trình độ tổ chức chuyên nghiệp hơn. Năm 2004, chế độ nghĩa vụ quân sự bắt buộc bị giải thể. Lực lượng quân đội Séc ngoài nhiệm vụ phòng thủ, bảo vệ đất nước còn tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên Hiệp Quốc tại Iraq, Afghanistan, Bosna và Hercegovina, Kosovo.

Kinh tế Cộng hòa Séc là nền kinh tế dịch vụ – công nghiệp phát triển được đánh giá là một trong những nền kinh tế mới trỗi dậy ở Đông Âu đạt sự ổn định và thịnh vượng nhất trong số các nước thời kỳ hậu cộng sản ở châu Âu.

Đồng tiền chính thức hiện nay của Cộng hòa Séc là đồng koruna. Trong tiếng Séc, từ koruna có nghĩa là “vương miện”. Đồng tiền này chính thức được sử dụng từ ngày 18 tháng 2 năm 1993 sau khi Cộng hòa Séc và Slovakia tách khỏi Tiệp Khắc. Ký hiệu trong giao dịch quốc tế của đồng koruna Séc theo ISO 4217 là CZK. Đồng tiền koruna của Cộng hòa Séc bắt đầu tham gia các tỷ giá hối đoái từ năm 1995 và được thả nổi kể từ năm 1999. Trong năm 2007, chỉ số lạm phát của đồng tiền này là 2,4% và đã được duy trì ổn định trong suốt nhiều năm qua. Cộng hòa Séc có kế hoạch gia nhập khu vực sử dụng đồng tiền chung châu Âu (euro) vào năm 2012 nhưng sau đó đã tuyên bố hoãn lại. Đầu năm 2008, Ngân hàng Quốc gia Séc tuyên bố sẽ lùi thời hạn gia nhập khu vực đồng tiền chung đến năm 2019.

Dịch vụ là lĩnh vực đóng góp nhiều nhất trong nền kinh tế, chiếm 57,3% GDP. Các ngành ngân hàng, công nghệ thông tin, viễn thông là những động lực năng động của nền kinh tế Séc và thu hút nhiều vốn đầu tư nước ngoài. Thương mại là một hoạt động kinh tế quan trọng với các đối tác thương mại chủ yếu là Cộng hòa Liên bang Đức, Slovakia, Áo, Ba Lan… Du lịch cũng là một thế mạnh của Cộng hòa Séc đóng góp tới 5,5% GNP của nước này. Thủ đô Praha thường là lựa chọn hàng đầu của du khách với rất nhiều các công trình văn hóa, lịch sử nổi tiếng. Những khu du lịch spa nổi tiếng như Karlovy Vary thường là điểm đến được yêu thích vào các kỳ nghỉ. Những lễ hội âm nhạc hay bia của Cộng hòa Séc cũng góp phần làm đất nước này trở thành một địa điểm du lịch hấp dẫn.

Công nghiệp chiếm tỉ trọng 39,3% trong nền kinh tế. Cộng hòa Séc vốn là một nước có sẵn những cơ sở công nghiệp từ thế kỉ 19, có nhiều điều kiện thuận lợi phát triển. Các ngành công nghiệp chính của nước này là luyện kim, công nghiệp nặng và máy xây dựng, sắt và thép, gia công kim loại, hóa chất, điện tử,  sợi dệt, kính, rượu bia, sứ, gốm, dược phẩm, sản xuất máy móc, thiết bị điện tử, phương tiện giao thông, thiết bị vận tải, dệt may, chất hóa học, dược phẩm, chế biến lương thực thực phẩm… Bên cạnh đó, Cộng hòa Séc rất nổi tiếng với ngành công nghiệp sản xuất đồ gốm sứ và pha lê.

Nông nghiệp chỉ chiếm 3,4% GDP trong cơ cấu kinh tế của Cộng hòa Séc. Nông nghiệp Cộng hòa Séc không có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển. Các loại cây trồng chủ yếu của nước này là lúa mì, khoai tây, củ cải đường, cây hublông…

Năng lượng: Cộng hòa Séc nhìn chung là một nước nghèo tài nguyên về năng lượng, ngoại trừ một ít dầu mỏ và khí gas ở miền nam Moravia. Hiện nay nước này đang hạn chế dần việc sử dụng than làm chất đốt vì vì sản sinh ra nhiều khí nhà kính gây ô nhiễm môi trường. Năng lượng nguyên tử chiếm 30% tổng nhu cầu năng lượng hiện nay ở Cộng hòa Séc, và dự kiến có thể tăng lên 40% trong những năm tới. Khí gas tự nhiên được nhập khẩu từ nước ngoài và là một khoản chi tiêu lớn của Cộng hòa Séc. Gas được nhập từ tập đoàn Gazprom của Nga qua các đường ống trung chuyển ở Ukraina và nhập từ các công ty của Na Uy, được vận chuyển qua Đức. Sản lượng điện năm 2005 đạt 77,38 tỷ Kwh và ngoài đáp ứng tiêu thụ trong nước, Cộng hòa Séc xuất khẩu gần 25 tỷ Kwh điện năng.

Giao thông: Cộng hòa Séc là trái tim của châu Âu nên có mạng lưới giao thông dày đặc và khá phát triển. Đường sắt có tổng chiều dài 16.053 km (năm 2005) và mật độ đường sắt cao nhất trong Liên minh châu Âu: 120 km trên 1.000 km vuông. Hàng năm đường sắt nước này chuyên chở khoảng 178 triệu hành khách và 100 triệu mét khối hàng hóa. Công ty “Đường sắt Séc” chiếm 99% tổng hành khách vận chuyển bằng đường sắt. Đường bộ của Cộng hòa Séc có trên 6.174 km đường quốc lộ cao tốc hạng nhất (giới hạn tốc độ 130 km/h) nối thủ đô và các thành phố chính như Brno, Plzen, Pripram… và hòa vào hệ thống đường cao tốc châu Âu tạo thành xương sống của hệ thống đường bộ nước này. Đường bộ cấp thấp hơn có tổng chiều dài 48.778 km. Về đường hàng không, Cộng hòa Séc có khoảng 60 sân bay công cộng trong đó lớn nhất là Sân bay quốc tế Pragua hàng năm đón khoảng 11 triệu lượt khách. Hãng hàng không quốc gia là Czech Airlines có đường bay đến những thành phố lớn ở châu Âu, Bắc Mỹ, Châu Á, Trung Đông và Bắc Phi. Đường sông chủ yếu tập trung ở ba con sông chính là Labe, Vltava và Berounka với tổng chiều dài khoảng 300 km. Vận tải thủy chiếm từ 2 đến 5% lượng hàng hóa xuất nhập khẩu và có vai trò quan trọng trong thương mại với Đức, Bỉ và Hà Lan, ngoài ra nó cũng phục vụ cho du lịch. Giao thông công cộng ở các thành phố lớn cũng khá thuận tiện với các phương tiện chủ yếu là xe bus, tàu điện, ngoài ra thủ đô Prague bắt đầu có tàu điện ngầm từ ngày 9 tháng 5 năm 1974, chiều dài đường tàu điện ngầm khoảng 54 km.

Thông tin và truyền thông: Cộng hòa Séc có trên 3,2 triệu thuê bao cố định (2005) và trên 12 triệu thuê bao di động (2006). Số người sử dụng điện thoại di động tăng mạnh từ giữa thập niên 1990 và đến nay đạt 120 thuê bao trên 100 người. Hệ thống thông tin nội địa đã được nâng cấp thiết bị ADSL để tạo điều kiện thuận lợi cho sử dụng Internet và 93% dung lượng trao đổi dưới dạng kỹ thuật số. Để phục vụ viễn thông quốc tế, Cộng hòa Séc có 6 vệ tinh: 2 Intersputnik, 1 Intelsat, 1 Eutelsat, 1 Inmarsat và 1 Globalstar. Cộng hòa Séc có 4 đài truyền hình ở phạm vi toàn quốc và trên 20 đài khu vực trong đó Czech Television, TV Nova và Prima TV là những hãng lớn nhất. Cộng hòa Séc là nước Đông Âu đầu tiên cho phép tư nhân phát sóng truyền hình năm 1994. Nước này cũng có 7 đài phát thanh toàn quốc, 76 đài phát thanh địa phương. Internet khá phát triển với những nhà cung cấp dịch vụ chính là Seznam, Centrum, Atlas, iDnes, Volny và Tiscali.

Văn hóa giáo dục cộng hòa Séc

Ngôn ngữ văn hóa: Văn học Séc bắt nguồn từ thế kỉ 8 sau công nguyên dưới thời Đại Moravia. Hai anh em Cyril và Methodius đã được vương triều Byzantine cử tới Đại Moravia để truyền b&aa

Dạy và học 25 tháng 11

DẠY VÀ HỌC 25 THÁNG 11
Hoàng Kim
CNM365 Tình yêu cuộc sốngThầy Luật lúa OMCS OM; Nôi ví dặm ân tình; Câu chuyện ảnh tháng 11; Lên Việt Bắc điểm hẹn;Thăm nhà cũ của Darwin; Sự chậm rãi minh triết; Châu Văn Tiếp Phú Yên; Tiệp Khắc kỷ niệm một thời; Praha Goethe và lâu đài cổ; Chuyện thầy Tôn Thất Trình; Sao Kim kỳ thú; Về Trường để nhớ thương; Quảng trường Wenceslas ở Praha di sản văn hóa thế giới nổi tiếng (hình). Ngày 25 tháng 11 năm 1992 Hội đồng Liên bang bỏ phiếu quyết định chia tách Tiệp Khắc thành Cộng hòa Séc và Cộng hòa Slovakia.  Ngày 25 tháng 11 năm 1784 Châu Văn Tiếp tử thương tại trận thủy chiến ở Măng Thít  giữa thủy quân Xiêm  Nguyễn với thủy quân Tây Sơn. Châu Văn Tiếp người Đồng Xuân Phú Yên là danh tướng Việt Nam cuối thế kỷ 18 một trong Tam hùng Gia Định dưới thời Nguyễn Ánh. Mang Thít là một huyện thuộc tỉnh Vĩnh Long  miền Tây Nam Bộ nơi có sông Mang Thít là thủy lộ quan trọng ở Đồng bằng Sông Cửu Long và nơi nuôi cá bè cho năng suất rất cao cũng là huyện sản xuất nhiều lúa gạo và trái cây ngon. Ngày 25 tháng 11 năm 1887 là ngày sinh Nikolai Ivanovich Vavilov, (mất năm 1943) nhà di truyền học nổi tiếng người Nga và Liên Xô, được biết đến nhiều nhất vì đã nhận dạng ra các trung tâm nguồn gốc của các loại cây trồng. Ông dành trọn cuộc đời mình cho việc nghiên cứu và cải thiện lúa mì, ngô và các loại cây lương thực khác, góp phần vào việc cải thiện và tăng năng suất các giống cây trồng; xem tiếp Bài viết chọn lọc ngày 25 tháng 11: Thầy Luật lúa OMCS OM; Nôi ví dặm ân tình; Câu chuyện ảnh tháng 11; Lên Việt Bắc điểm hẹn;Thăm nhà cũ của Darwin; Sự chậm rãi minh triết; Châu Văn Tiếp Phú Yên; Tiệp Khắc kỷ niệm một thời; Praha Goethe và lâu đài cổ; Chuyện thầy Tôn Thất Trình; Sao Kim kỳ thú; Về Trường để nhớ thương; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-25-thang-11/;

vienluathambacgiap

THẦY LUẬT LÚA OMCS OM
Hoàng Kim

Giáo sư Nguyễn Văn Luật, anh hùng lao động là tác giả chính của cụm công trình đoạt Giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học công nghệ 10 nhà khoa học được nhận năm 2000. Tập thể Viện Lúa là anh hùng lao động thời kỳ đổi mới năm 2000, đến năm 2014 Viện Lúa phát huy truyền thống và được nhận Huân chương Độc Lập hạng Nhất cao quý nhất của Việt Nam. Thầy là một người lính và danh tướng lỗi lạc của mặt trận nông nghiệp Điện Biên Nam Bộ. Trong câu chuyện đời thường của giáo sư Luật có ba câu chuyện tiếu lâm, học mà vui, vui mà học. Đó là “Ôm em và ôm em cực sướng”, “Nuôi heo trồng so đũa nuôi dê”, “Thầy Luật bạn và thơ”.. Chuyện được tình tự kể như dưới đây. https://hoangkimlong.wordpress.com/category/thay-luat-lua-omcs-om/

Thầy Nguyễn Văn Luật (phải) là giáo sư tiến sĩ anh hùng lao động, cựu Viện trưởng Viện Lúa ĐBSCL, tác giả chính của OMCS OM trên đồng lúa mới với kỹ sư Hồ Quang Cua (trái) anh hùng lao động, tác giả chính thương hiệu gạo thơm Sóc Trăng nổi tiếng Việt Nam .

Thế hệ chúng tôi may mắn được kết nối với những người Thầy trí thức lớn, những bạn nhà nông tâm huyết, trí tuệ, gắn bó suốt đời với nông dân đồng nghiệp, sinh viên cây lương thực và nghề nông.Khi nói đến họ là nói đến một đội ngũ thầm lặng dấn thân cho hạt ngọc Việt và sự đi tới không ngưng nghỉ của Việt Nam con đường xanh, tỏa sáng nhân cách và trí tuệ Việt. “Con đường lúa gạo Việt Nam” là chuỗi giá trị sản phẩm kết nối những thế hệ vàng nông nghiệp Việt Nam làm rạng danh Tổ Quốc. Đó là Lương Định Của lúa ViệtThầy Tuấn kinh tế hộ; Thầy Luật lúa OMCS OM; Thầy Quyền thâm canh lúa; Những người Việt lỗi lạc ở FAO; Chuyện cô Trâm lúa lai; Chuyện thầy Hoan lúa lai; Hồ Quang Cua gạo thơm Sóc Trăng; Thầy nghề nông chiến sĩ. Hôm nay chúng tôi tự hào giới thiệu một góc nhìn ‘Thầy Luật lúa OMCS OM’ người Thầy đã lưu dấu nhiều ấn tượng sâu xa trong cây lúa Việt Nam và vùng lúa Nam Bộ. Câu chuyện này là sự nối dài tỏa rộng thêm “Con đường lúa gạo Việt Nam” từ Đại Ngãi Long Phú Sóc Trăng quê hương của nhà bác học nông dân anh hùng lao động Lương Định Của, người thầy nghề lúa, đến Viện Lúa Ô Môn, nôi khai sinh thương hiệu OM và OMCS nổi tiếng đến làng OM, cầu OM, cầu Nhót Hà Nội quê hương của thầy Luật.

Giáo sư Nguyễn Văn Luật là tác giả chính của thương hiệu lúa giống OMCS OM, đến nay trong thương hiệu OM lúa giống đã có trên 166 giống lúa của nhiều tác giả Viện Lúa được Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn công nhận, mà phần lớn đều mang tên OM. GS Nguyễn Văn Luật cũng là tác giả chủ biên của bộ sách đồ sộ gần 1.500 trang “Cây lúa Việt Nam thế kỷ 20” ba tập do Nhà Xuất Bản Nông nghiệp, Hà Nội. xuất bản năm 2001, 2002, 2003 mà bất cứ chuyên gia nông nghiệp Việt Nam nào khi soát xét cây lúa Việt Nam của một thời và ‘Việt Nam chốn tổ của nghề lúa’ đều không thể bỏ qua. Bài học lớn hơn hết, sâu đậm hơn hết là bài học tập hợp và phát huy được năng lực của một đội ngũ chuyên gia tuyệt vời đầy tài năng và một đội ngũ các lãnh đạo qua các thời kỳ thật tâm huyết. Bài học cao quý của sự đoàn kết một lòng hoàn thành tốt nhiệm vụ của các thế hệ cán bộ viên chức người lao động Viện Lúa, sự quan tâm của Đảng, Chính phủ và các cấp lãnh đạo Trung ương, địa phương và doanh nghiệp, sự cộng hưởng, giúp đỡ và liên kết thật tuyệt vời của thầy cô, bạn hữu, đồng nghiệp bạn nhà nông cùng với đông đảo nông dân từ khắp mọi miền đất nước.

ÔM EM VÀ ÔM EM CỰC SƯỚNG

Thủ tướng Chính phủ Võ Văn Kiệt thời đó cũng như Thủ tướng Phạm Văn Đồng tiền nhiệm đều ham làm lúa, thăm lúa vì … dân đói. Thủ tướng Chính phủ Võ Văn Kiệt thăm Viện Lúa giữa năm 1997 và hỏi Viện trưởng Nguyễn Văn Luật: ‘Vì sao anh đặt tên lúa giống là OM và OMCS?’

Giáo sư Nguyễn Văn Luật trả lời: “Thưa Thủ tướng, để tỏ lòng biết ơn lãnh đạo và nhân dân địa phương tạo điều kiện cho Viện hoạt động, chúng tôi lấy tên huyện Ô Môn của địa phương làm tên của giống lúa do Viện tạo chọn”.

Trong không khí vui vẻ, nhiều người đã bổ sung những ý kiến tốt đẹp. Chủ tịch tỉnh Ba Xinh cười nói OM nghĩa là Ôm Em, một phóng viên ngồi ở vòng ngoài nói xen vào OMCS nghĩa là Ôm Em Cực Sướng, đoàn tháp tùng có một cán bộ ở Hà Nội nói là địa danh quê của Viện trưởng là làng OM, cầu OM cầu Nhót Hà Nội, nên OM cũng có nghĩa là làng OM, cầu OM.Thủ tướng tóm tắt ; Vậy OM là O EM, O BẾ EM !

Ngài Ngài đại sứ Ấn Độ có lần đến thăm Viện biết chuyện có bổ xung: dân Ấn Độ chúng tôi khi phát âm Ô Ô ÔM ÔM… , hai tay chắp lại, là để tỏ lòng thành kính cầu phúc!

Có một chuyện vui liên quan là giáo sư Luật một lần đi với cố nhà báo Nhật Ninh, gặp anh xe ôm dọc đường gọi là “anh hai ôm em”..! và chuyện này đã đăng báo Nhân Dân mà tác giả là Nhật Ninh!

OM và OMCS là những câu chuyện như suối nguồn tươi trẻ thao thiết chảy giữa vùng quê Nam Bộ và xuống nông thôn càng có thêm nhiều huyền thoại thú vị.

Nghe nói có một lần cố đại tướng Võ Nguyên Giáp khi đang làm Phó Thủ Tướng phụ trách Khoa học Kỹ thuật và Chương trình Kế họach hóa Gia đình, trong một chuyến thăm một đơn vị rất thành công ở miền Tây, bác Văn đã hỏi về bài học kinh nghiệm thành công. Vị giám đốc đơn vị vui vẻ trình bày: Em có bốn bài học thấm thía nhất: một là o bế dân, được lòng dân nên được tất cả; hai là o bế địa phương, mất lòng thổ địa thì chẳng thể anh hùng; ba là o bế hiền tài và các vị cao minh, sự nghiệp phát triển được là nhờ họ; bốn là o bế em, thuận vợ thuận chồng tát biển đông cũng cạn.

Thầy Viện trưởng khác của tôi kể chuyện là cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt nói vậy không là nói vui mà thực sự chính cụ đã trãi nghiệm sâu sắc về sự O bế Em thành công, mà chính mối tình này làm ông còn một người con Phan Thanh Nam sinh ngày ngày 25 tháng 2 năm 1952, người đã thay mặt gia đình đọc lời cảm tạ trong lễ tang của ông. Mẹ của Nam là bà Hồ Thị Minh, chủ bút đầu tiên của tờ Phụ nữ cứu quốc Nam bộ. Cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt có người vợ đầu cùng hai người con út, một trai một gái, đã thiệt mạng khi quân đội Hoa Kỳ bắn chìm tàu Thuận Phong trong một cuộc càn quét qua chiến khu Củ Chi và người con trai đầu của ông là Phan Chí Dũng đã hi sinh ngày 29 tháng 4 năm 1972 tại Sóc Trăng trong một lần đi trinh sát. Câu chuyện đời thường và lời cụ Kiệt thật thấm thía. Đó là một sự trãi nghiệm.

OM hay ÔM, O hay Ô, chữ nào hay hơn? Hóa ra hai chữ đều hay. “Om mầm nên nõn lá” việc lặt lá mai và cái lạnh giá mùa đông là sự om mầm để cây nẩy lộc xuân. Con đường lúa gạo Việt Nam, Viện Lúa 40 năm xây dựng phát triển có nhiều những dâng hiến lặng lẽ mà giáo sư Luật là một trong những con người ấy.

Trong bài “Thầy bạn là lộc xuân của cuộc đời” tôi có kể về giáo sư Bùi Chí Bửu tâm sự với tôi: Anh Bổng (Bùi Bá Bổng) và mình đều rất thích bài thơ này của Sơn Nam :

Trong khói sóng mênh mông
Có bóng người vô danh
Từ bên này sông Tiền
Qua bên kia sông Hậu
Tay ôm đàn độc huyền
Điệu thơ Lục Vân Tiên
Với câu chữ
Kiến nghĩa bất vi vô dõng giả
Từ Cà Mau Rạch Giá
Dựng chòi đốt lửa giữa rừng thiêng
Muỗi vắt nhiều hơn cỏ
Chướng khí mờ như sương
Thân chưa là lính thú
Sao không về cố hương ?

Nhớ Thầy Luật lúa OM và OMCS là nhớ thầy Hai Lúa ‘anh hai ôm em’ trong số những dâng hiến lặng lẽ đó.

“NUÔI HEO, TRỒNG SO ĐŨA, NUÔI DÊ”

Ông Nguyễn Khôi phó Vụ trưởng Vụ Dân tộc Văn phòng Quốc hội có bài thơ ‘Giáo sư Lúa’ tặng GSTS Nguyễn Văn Luật.

GIÁO SƯ LÚA

Trai Hà Nội đi Nông Lâm buổi ấy
Bạn bè cười cày đường nhựa được chăng?
Rồi ở Viện suốt đời vì cây lúa
Đem sông Hồng vào với Cửu Long.

Đất Ô Môn đồng chua cỏ lác,
Ôi Cần Thơ đất rộng Tây Đô
Xứ Nam Bộ hai mùa mưa nắng,
Kết 20 triệu tấn lúa ước mơ …

Anh Kỹ sư rồi thành ông Tiến sĩ,
Vị Giáo sư lội ruộng suốt ngày.
Lại nhớ thời Hải Dương – Ô Mễ
Làm bèo dâu, cấy thẳng mê say.

Nay lúa vượt 25 triệu tấn,
Ôi Việt Nam, sức sống diệu kỳ.
Sông Hồng với Cửu Long hòa sóng,
Bạn bè đùa ‘ông Tiến sĩ nhà quê”.

Mùi hạnh phúc đượm bao sương mấy nắng,
Trai Hà Thành đen nhẽm ngỡ nông dân.
Cũng xởi lởi như Bác Hai Nam Bộ
Viết vần thơ ca ngợi ruộng đồng.

Tôi xin giải thích thêm bài thơ của cụ Nguyễn Khôi về 25 triệu tấn lúa này là 25 triệu tấn lúa mà toàn quốc Việt Nam đạt được năm 1995. Viện Lúa 40 năm xây dựng phát triển đã góp phần đưa sản lượng lúa ở ĐBSCL từ khoảng 4 triệu tấn/ năm 1977 vượt trên 25 triệu tấn/ năm 2016, tăng hơn gấp 6 lần, và điều kì diệu là  25 triệu tấn lúa trên năm tại ĐBSCL năm 2016 bằng toàn bộ sản lượng lúa Việt Nam năm 1995.   Chùm thơ cuối của tác giả Nguyễn Khôi thật thấm thía: “Mùi hạnh phúc đượm bao sương mấy nắng,/ Trai Hà Thành đen nhẽm ngỡ nông dân/ Cũng xởi lởi như Bác Hai Nam Bộ/ Viết vần thơ ca ngợi ruộng đồng”.

Trong những câu chuyện tiếu lâm cười vui một thời có chuyện Viện Lúa Viện Dê Viện Trưởng Dê mà tôi tần ngần không dám đặt tên này mà kể chệch đi một chút là “nuôi heo, trồng so đũa, nuôi dê”. Hồi đó, cán bộ công nhân viên của các Viện nghiên cứu và Trung tâm Nông nghiệp đều quá vất vả và thiếu thốn. Hầu như nhà nào cũng nuôi heo,  phải tăng gia sản xuất mới có đồng gia đồng vào, vợ đẻ con bệnh không lo bằng heo đẻ, heo bệnh. Cán bộ công nhân ra đồng làm ruộng, vui vè chuyện trò thì thường đầu tiên là kể chuyện vợ chồng con cái, kế đến là việc nuôi heo, trồng so đũa, nuôi dê thật hợp với Viện Lúa, sau đó là đến chuyện tiếu lâm nam nữ.

Giáo sư Luật kể rằng một hôm ông đi qua dãy nhà lá trên đoạn đê cụt trong Viện chợt nghe tiếng ục ịch, sột soạt, hổn hển, ông dừng lại nghe và dòm qua cửa sổ mở thì hóa ra đó là tiếng động của hai cô kế toán trường trung cấp Xuân Mai về Viện đang vuốt ve … hai con lợn trắng hồng độ 45 – 50 kg. Cô Hinh nhanh nhẩu tự giới thiệu đây là nhà ở của Hồng heo, Hồng Hinh, Hồng Hay ! Hai cô này đến nay đã thành bà nội bà ngoại, nhà cửa khang trang, con cháu học hành thành đạt, nhưng chắc vẫn nhớ một thời gian khó đã dành nơi tốt nhất cho heo ở.

Nhiều gia đình ở Viện lúa thuở đó đều trồng so đũa và nuôi dê sữa. Nhà giáo sư Viện trưởng cũng nuôi vài con heo và một con dê Bách Thảo mỗi sáng vắt được đến 5 – 6 lít sữa, dư dùng. Lộc, Thành và Thu Hiền là con của giáo sư Luật sáng sáng thay nhau đi bỏ sữa cho các nhà cần và đi học về là vác câu liêm lấy lá so đũa để nuôi dê. Viện Lúa hồi đó, đất nền nhà và đường sá trụ sở mới được tôn lên từ đất ruộng chua phèn nên rất ít cây phát triển được, ngoại trừ rau muống dại, chuối, mía, và trồng so đũa để lấy hoa nấu canh, thân cây đục lỗ cấy nấm mèo (mộc nhĩ), lấy lá nuôi dê.

Viện Lúa ĐBSCL một thời không chỉ vang danh lúa mới OM, OMCS mà còn vang danh là Viện Dê, Viện Trưởng Dê. Bộ trưởng Nguyễn Công Tạn, Bí thư Tỉnh Ủy Tám Thanh và các cán bộ đi cùng khi đến tham quan Viện Lúa, ngoài việc thăm đồng đều không quên đến thăm các mô hình trồng so đũa  – nuôi dê, cũng như sau thăm mô hình con cá con tôm ôm cây lúa ‘canh tác bền vững trong vuông’. Một số gia đình kỹ sư giỏi nuôi dê như gia đình kỹ sư Bình Thủy có thêm tên gọi thân mật Bình dê, tương tự như nhiều cặp vợ chồng của Bổng Hòa lúa, Bửu Lang lúa quen thuộc với nông dân miền Tây.

Tôi có một kỷ niệm vui với Viện Lúa là trồng sắn ngô xen thêm đậu xanh, lạc, đậu rồng và tôi khuân về từ Viện Lúa hai con dê Bách Thảo để làm mô hình kinh tế hộ gia đình. Các con tôi Nguyên Long còn quá bé, thuở đó vợ chồng đều bận rộn suốt ngày mà dê Bách Thảo phá quá, gặm cỏ và cây cối rất miệt mài. Tôi có sáng kiến buộc hai con dê lại với nhau và treo bao cỏ trên gác bếp cao để dê rút cỏ ăn dần. Thế nhưng một hôm một con leo lên cao rút cỏ, con ở dưới giật kéo làm con ở trên ngã vật xuống và bị … ‘chấn thương sọ não’ như anh em trong cơ quan nói vui. Chúng tôi mua hai can rượu và xẻ thịt dê gõ kẽng ‘báo động’ mời anh em về liên hoan và chia thịt dê cho mọi nhà. Câu chuyện ‘mổ dê đãi tiệc’ nghe thật hoành tráng và nhớ quá một thời.

Đến Long Phú, Sóc Trăng bạn sẽ gặp con đường Trường Khánh - Đại Ngãi nối vựa lúa chất lượng ngon và năng suất cao nhất nước.

Con đường lúa gạo Việt Nam đang tỏa rộng nhiều vùng đất nước, kết nối lớp lớp những dâng hiến lặng lẽ tôn vinh hạt ngọc Việt. Cây lúa Việt Nam nửa thế kỷ nhìn lại (1977 – 2017) có tốc độ tăng năng suất vượt 1,73 lần so với thế giới. Thành tựu này có cống hiến hiệu quả của nhà bác học nông dân Lương Định Của ở chặng đường đầu của nước Việt Nam mới và lớp lớp những tài danh nông nghiệp Việt trong đó có giáo sư tiến sĩ Nguyễn Văn Luật anh hùng lao động, Bác Hai Nam Bộ, ‘anh Hai ôm em’  là một điểm đến đặc biệt ấn tượng .

THẦY LUẬT BẠN VÀ THƠ

Giáo sư Lê Văn Tố nhắn trên Facebook: “Tôi kính nể hai người anh hùng chân chính này và vinh dự được đàm đao với hai anh hùng tại nhà. Nói đến nông sản mà không nói đến công nghệ sau thu hoạch là việt vị nên sau khi thành lập cơ sở nghiên cứu theo đề nghị của GS Luật, tôi đã viết phần này”. Câu chuyện của thầy Tố, tôi chỉ lưu được một chút nhỏ trong bài Chuyện đời giáo sư Lê Văn Tố và mong thầy trao đổi thêm đôi lời về lĩnh vực chuyên sâu đầy thách thức và cơ hội này đối với lớp trẻ.

Giáo sư Trịnh Xuân Vũ người thầy đại thụ sinh học và sinh lý thực vật, hôm chấm luận văn thạc sĩ mới đây, đã kể chuyện và bàn luận với chúng tôi về sự vào cuộc của các đại gia kinh tài cho Nông sản Việt, chuyện quen và lạ mà anh Nam Sinh Đoàn đã bàn. Giáo sư Nguyễn Thơ góp vui: “Đi họp với các Cụ ớn nhất là các Cụ mang thơ đến tặng. Một hội nghề nghiệp đã đùa “Xin mọi người hãy để giày dép và thơ ở ngoài”.Thế nhưng ‘thầy Luật bạn và thơ Lúa mới’ là không hề cũ và không thể quên. Nhớ và quên là hai mặt của nhận thức, minh triết của đời thường. Văn hóa là gì còn lắng đọng khi người ta đã quên đi tất cả.

Tôi may mắn trong số những người bạn vong niên của thầy Luật “Em Hoàng Kim nhớ nhất là lúc lần đầu đi cùng thầy Van Quyen Mai về Ô Môn và về Cần Thơ cùng thầy Nguyễn Văn Luật, thầy Võ Tòng Xuân (là thân phụ của thầy giáo Võ-Tòng Anh) những người đã cùng cố giáo sư viện sĩ Đào Thế Tuấn chung sức xây dựng Chương trình Hệ thống Canh tác Việt Nam là điểm sáng một thời Nông Nghiệp Việt Nam (mà thầy Phạm Văn Hiền của Nong Lam University in Ho Chi Minh city, Nong Hoc Web nay đã phát triển thành giáo trình tâm đắc). Một số thầy ở Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam thuộc Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam đùa là nhóm thầy Van Quyen Mai và chúng tôi là về Cần Thơ Ô Môn để làm “lô đối chứng”.Nhưng chính nhờ sự giao lưu học tập ấy (về cách tập hợp dấn thân của tập thể Viện Lúa đạo quân tiên phong của Điện Biên Nam Bộ) để rồi chúng ta đã tiếp nối làm nên cuộc Cách mạng sắn ở Việt NamHoa Lúa; Hoa Đất , Hoa Người …Thật biết ơn quý Thầy khoa học nông nghiệp đầu ngành, biết ơn Viện Lúa xây dựng và phát triển

Giáo sư tiến sĩ Nguyễn Văn Luật anh hùng lao động, Bác Hai Nam Bộ, ‘anh Hai ôm em’  là một điểm đến đặc biệt ấn tượng .

Hoàng Kim chép lưu lại bài thơ ‘Thăm bạn Ô Môn’ của PTS Nguyễn Hữu Ước, Viện trưởng Viện Mía Đường, tại Ô Môn đêm 14 12 1992 cùng bài thơ “Giáo sư Lúa” của ông Nguyễn Khôi là Phó Vụ trưởng Vụ Dân tộc Văn phòng Quốc hội (đã trích dẫn trong bài “Thầy Luật lúa OMCS OM” phần hai) và bốn bài thơ đầu, giữa và cuối tập thơ “Lúa mới” của giáo sư Nguyễn Văn Luật

THĂM BẠN Ô MÔN
Nguyễn Hữu Ước
Thân mến tặng GSTS Nguyễn Văn Luật
và các bạn Viện Lúa ĐBSCL Ô Môn

Ô Môn ơi thế là đã đến
Bao chờ trông nay mới thỏa lòng
Trời Cần Thơ dạt dào gió nắng
Lúa ngập đồng gợn sóng mênh mông …

Giống lai nào bình chọn – tay em
Vần thơ nào dưới trăng anh viết?
Để ta say màu xanh mái tóc
Say con diều nghiêng cánh gọi trăng.

Chất dẻo thơm hạt gạo “Ô Môn”
Những chắt lọc công trình trí tuệ
Nuôi cuộc đời năng mưa vất vả
Xây niềm tin đi tới tương lai.

Gặp đây rồi – Vui quá đêm nay
Ly rượu nồng ấm tình bầu bạn
Không còn cách sông Tiền, sông Hậu
Trái tim ta làm nhịp nối bờ xa …

HOA NGỌC TRÂM
Luat Nguyen

Ngọc Trâm trong trắng thơm lâu
Chẳng khoe sắc thắm, chẳng sầu gió mưa
Trông hoa nhớ mẹ năm xưa
Hoa thanh tao ấy bây giờ còn đây.
11. 1983
Lúa mới, Nguyễn Văn Luật 1997 (bài đầu).

NHÀ NÔNG HỌC
Luat Nguyen

Là nhà nông học của nghề nông
Như những nhà thơ của ruộng đồng
Chữ tâm trong anh đầy sức sống
Tình anh như biển lúa mênh mông.
1961

TRÊN SÂN CHIM BẠC LIÊU
Luat Nguyen
Tặng ngài TLS Ấn Độ N.Dayakar

Anh với tôi trên đài quan sát
Canh rừng xanh, giữ biển Thái
Bình
Đàn cò mang nắng bình minh
Ngao du kết bạn tâm tình khắp nơi
1991
Lúa mới, Nguyễn Văn Luật 1997 (bài giữa).

XUÂN
Luat Nguyen

Xuân thời gian, xuân bất tái lai
Hương sắc tình xuân đâu có phai
Sức xuân trong anh từ em đến
Viết bản tình ca -tha thiết – không lời.
22 2 1997
Lúa mới, Nguyễn Văn Luật 1997 (bài cuối)

CHỒI TƠ
Luat Nguyen

Tình em sưởi ấm mùa xuân trẻ!
Mang nắng chan hòa nhuộm sắc hoa!
Anh muốn gom mưa từ bốn bể!
Để em tưới mát những chồi tơ!

Thầy
Luat Nguyen nhắn ngày 24 11 2021 “Xin đóng góp với trang mạng của TS Hoàng Kim bài thơ Chồi tơ tôi làm tặng cố bà xã tôi hồi được Nhà nước phong tạng Nhà Giáo ưu tú” xem tiếp tại https://hoangkimlong.wordpress.com/category/thay-luat-lua-omcs-om/.

Tôi dừng lâu trước bài thơ xúc động của anh Nguyễn Hữu Ước viết tại Ô Môn đêm 14 12 1992. Anh Ước thăm Ô Môn chậm hơn nhiều so với chúng tôi, không được làm “lô đối chứng” hoạt động chung chương trình lúa và hệ thống canh tác kết nối từ rất sớm với Viện Lúa Ô Môn.. Giáo sư Vũ Công Hậu nói “Được làm đối chứng là tốt lắm đấy cậu ạ. Cậu phải tâm huyết lắm mới tạo được sự đột phá. Cậu thay đổi thói quen ưa thích và thị trường tiêu dùng của người dân, đặc biệt là đối với lão nông tri điền, để chọn được một giống tốt thực sự trong sản xuất là thật khó. Làm việc thật và bước đi hàng đầu là điều không dễ dàng. Người ta nhiều khi phải ‘né’ đối chứng thật tốt ‘nước sông không phạm nước giếng” đấy cậu ạ. Giáo sư Vũ Công Hậu và anh Nguyễn Huy Ước ngày nay đều là người thiên cổ nhưng những sự quý mến, trân trọng công sức của một thế hệ vàng tâm huyết và lời tâm tình thật đáng quý.

DẠY VÀ HỌC không chỉ là trao truyền kiến thức mà còn thắp lên ngọn lửa. Chừng nào mỗi chúng ta chưa ứa nước mắt thấm hiểu sự nhọc nhằn của người nông dân một nắng hai sương làm ra hạt gạo. Chừng nào những giá trị lao động khoa học cao quý, liên tục, âm thầm chưa mang lại đủ niềm vui cho bữa ăn của người dân nghèo. Chừng đó chúng ta sẽ còn phải DẠY VÀ HỌC. Cái gốc của sự học là HỌC LÀM NGƯỜI.

Các sâu sắc của sự học làm người là noi theo gương sáng (mặt tốt) của những bậc thầy minh triết, phúc hậu, tận tâm với Người với Đời. Sức lan tỏa của một người Thầy là tình yêu thương con người, sức tập hợp và cảm hóa. Thầy Nguyễn Văn Luật trở thành nhân vật lịch sử của em để đón nhận mọi sự khen chê của đời thường, nhưng riêng em luôn nhớ về Thầy với những điều cảm phục ngưỡng mộ”.

Thầy Luật lúa OMCS OM một thời sôi nổi

Hoàng Kim

CÂU CHUYỆN ẢNH THÁNG 11
Hoàng Kim

Thăm nhà cũ của Darwin
Về Trường để nhớ thương
Chuyện thầy Tôn Thất Trình
Dạy và học 24 tháng 11


DẠY VÀ HỌC 24 THÁNG 11
Hoàng Kim
CNM365 Tình yêu cuộc sốngVề Trường để nhớ thương; Chuyện thầy Tôn Thất Trình; Một gia đình yêu thương; Sao Kim kỳ thú; Thăm nhà cũ của Darwin; Nguyễn Du trăng huyền thoại, Ngày 24 tháng 11 năm 1639, Sao Kim lướt qua Mặt Trời được quan sát và xác nhận bởi Jeremiah Horrocks và William Crabtree sau khi Horrocks dự đoán sự kiện này. Sao Kim Thái Bạch Kim Tinh là sao Hôm sao Mai trong Thái Dương hệ (hình).. Ngày 24 tháng 11 năm 1859 cuốn sách ‘Nguồn gốc các loài’ của nhà tự nhiên học người Anh Charles Darwin được xuất bản lần đầu tiên và được bán hết trong vòng một ngày. Sách cho rằng những sinh vật tiến hóa từ từ theo thuyết chọn lọc tự nhiên. Ngày 24 tháng 11 năm 1974 Bộ xương họ người sống khoảng 3,2 triệu năm trước đây tại chây Phi trong vùng lõm Afar ở Ethiopia thuộc loài Australopithecus afarensis đã tuyệt chủng được Donald Johanson và các nhà cổ nhân chủng học khám phá và đặt tên là “Lucy” theo bài hát “Lucy in the Sky with Diamonds” của The Beatles; Bài viết chọn lọc ngày 24 tháng 11: Về Trường để nhớ thương; Chuyện thầy Tôn Thất Trình; Một gia đình yêu thương; Sao Kim kỳ thú; Thăm nhà cũ của Darwin; Nguyễn Du trăng huyền thoại, Đào Duy Từ còn mãi; Đồng xuân lưu dấu hiền; Nhớ Người; Nông lịch tiết Tiểu tuyết; 24 tiết khí nông lịch; Tỉnh thức; CNM365; #hoangkimlong; #CLTVN; #Thungdung; Có lớp sinh viên như thế; Nguyễn Hiến Lê sao sáng; Sớm đông nhớ Trạng Trình; Nông nghiệp Việt trăm năm; Thầy Dương Thanh Liêm; Thầy tôi sao sáng giữa trời; Hoa Mai với Thiền sư; Trường tôi nôi yêu thương; Kỷ yếu khoa Nông học kỷ niệm 65 năm thành lập Khoa; Một niềm tin thắp lửa; Thầy bạn là lộc xuân; Thầy bạn trong đời tôi; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-24-thang-11/;

VỀ TRƯỜNG ĐỂ NHỚ THƯƠNG
Hoàng Kim


Đại học Nông Lâm thật thích
Bạn thầy vui thật là vui
Sân Trường giảng đường ấm áp
Đường xuân phơi phới tuyệt vời

Hình như mọi người trẻ lại
Hình như người ấy đẹp hơn
Hình như tre già măng mọc
Nắng mai soi giữa tâm hồn.

Thầy bạn trong ngoài thiện nguyện
Về Trường chia sẻ động viên
Trang sách trang đời lắng đọng
Yêu thương bao cuộc đời hiền

Thầy bạn ngày vui hẹn gặp
Lời thương mong ước bình an
Tình khúc Nông Lâm ngày mới
Sức xuân Tự nguyện Lên đàng

Bài đăng trên Kỷ Yếu 65 năm Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh trang 146

Thầy bạn trong đời tôi

Ngày Nhà Giáo Việt Nam ở Trường tôi năm 2020 có nhiều chuyện vui và thật cảm động. Anh Đoàn Nhật Châu cùng với các anh chị Bùi Đức Hàn, LS Nguyen Huu Duc, Thanhminh Nguyen, Huỳnh Hồng , Hung Huynh; Tuấn Lê; Xuyen Ho; Tuan Nguyen,… với nhiều anh chi khác, đa số là từ khóa 15 U70 của Cựu SV Nông Nghiệp ( Đại Gia Đình NÔNG LÂM MỤC SÚC ), những lớp cựu sinh viên ngay trước ngày Việt Nam thống nhất, mà ngày nay phần lớn làm thầy cô và chuyên gia trên nhiều lĩnh vực. Họ cùng nhau về Trường và lưu dấu video Cựu sinh viên Khóa 15 (1973) THAM DỰ KỶ NIỆM 65 NĂM KHOA NÔNG HỌC https://www.facebook.com/chau.doannhat/posts/3550807504980087 của anh Đoàn Nhật Châu và bạn hữu. Video thật tuyệt vời !

KỶ YẾU 65 NĂM TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINHhttps://kyyeunonglam.blogspot.com/2020/11/ky-yeu-65-nam-truong-ai-hoc-nong-lam.html.

KỶ YẾU KHOA NÔNG HỌC 65 năm thành lập Khoa mời vào đường link để xem chi tiết https://kyyeunonghoc.blogspot.com/2020/11/ky-yeu-ky-niem-65-nam-thanh-lap-khoa.html

Chuyện thầy Tôn Thất Trình là ghi chép nhỏ của Hoàng Kim về thầy Tôn Thất Trình, chuyện ngoài chính sử chưa có trong kỷ yếu. Đây là những ghi chép cá nhân, chỉ có ít trích đoạn đã lưu tại kỷ yếu 55 năm khoa Nông học thuở trước Tôi cảm phục, tâm đắc về nhân cách, trí tuệ, sự dạy và học của Thầy nên lưu lại Điều này là sự học Lê Quý Đôn tinh hoa chép lại những ghi chú nhỏ (Notes) không nỡ quên này. (xem tiếp…)

Về Trường để nhớ thương
Trường tôi nôi yêu thương
Thầy bạn trong đời tôi

Chuyện thầy Tôn Thất Trình là ghi chép nhỏ của Hoàng Kim về thầy Tôn Thất Trình, chuyện ngoài chính sử chưa có trong kỷ yếu. Đây là những ghi chép cá nhân, chỉ có ít trích đoạn đã lưu tại kỷ yếu 55 năm khoa Nông học thuở trước Tôi cảm phục, tâm đắc về nhân cách, trí tuệ, sự dạy và học của Thầy nên lưu lại Điều này là sự học Lê Quý Đôn tinh hoa chép lại những ghi chú nhỏ (Notes) không nỡ quên này. .

CHUYỆN THẦY TÔN THẤT TRÌNH
Hoàng Kim

Tôi noi theo dấu chân những thầy tôn kính Lương Định Của, Mai Văn Quyền con đường lúa gạo Việt Nam để làm nhà khoa học xanh. Thật may mắn cho tôi trong mươi năm cuối được về lại Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh dạy học, trọn con đường nhà khoa học xanh người thầy chiến sĩ. “Bao năm Trường Viện là nhà. Sắn khoai ngô lúa đều là thịt xương. Một đời người một rừng cây. Thầy ươm giống tốt để mai thành rừng”. Trường Đại Học Nông Lâm là nôi trưởng thành của tôi từ khi là sinh viên nông học, ra đi khoác áo lính cho sự thống nhất toàn vẹn Tổ Quốc, sau về làm nhà nghiên cứu nông học gần ba mươi năm và cuối cùng trở thành người thầy nghề nông. Thật hết sức thân thương khi mỗi ngày, tôi được gần gũi chiếc bàn kỷ vật thầy Tôn Thất Trình và gian phòng của Thầy với môn học Cây Lương thực. Di sản thầm lặng này đã giúp tôi cơ hội cao quý kể lại câu chuyện cổ tích cho người lớn, một tia sáng của Trường tôi. Bài này tiếp nối bài “Thầy bạn là lộc xuân“.

Tôi chưa được học thầy Trình nhưng cuộc đời, việc làm, trang sách của thầy ám ảnh tôi đến lạ. Thầy Tôn Thất Trình trong mắt tôi là người “sống nhân cách, dạy từ xa và chăm viết sách”.Trong bài “Thầy bạn là lộc xuân“ tôi đã giới thiệu đôi nét về thầy Tôn Thất Trình, nay xin được chép lại ở đây để bạn đọc khỏi mất công lục lại

ĐÔI NÉT VỀ THẦY TRÌNH

Giáo sư Tôn Thất Trình sinh ngày 27 tháng 9 năm 1931 ở huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên (Huế), thuộc hoàng tộc nhà Nguyễn Phước, hiện hưu trí tại Irvine, California, Hoa Kỳ Thầy đã có nhiều đóng góp thiết thưc, hiệu quả cho nông nghiệp, giáo dục, kinh tế Việt Nam. Thầy làm giám đốc Trường Cao Đẳng Nông Lâm Súc Sài Gòn theo bổ nhiệm của GS. Phạm Hoàng Hộ, tổng trưởng giáo dục đương thời chỉ sau bác sỹ Đặng Quan Điện vài tháng. Giáo sư Tôn Thất Trình đã hai lần làm Tổng Trưởng Bộ Canh Nông và Cải Cách Điền Địa năm 1967 và 1973, nguyên chánh chuyên viên,  tổng thư ký Ủy Ban Lúa Gạo Quốc Tế của FAO (Rome).

Thành tựu nổi bật của giáo sư trên lĩnh vực nông nghiệp bao gồm việc chỉ đạo phát triển đại trà năm 1967-1973 lúa Thần Nông (IR8…) nguồn gốc IRRI mang lại chuyển biến mới cho nghề lúa Việt Nam; Giáo sư trong những năm làm việc ở FAO đã giúp đỡ Bộ Nông nghiệp Việt Nam phát triển các giống lúa thuần thấp cây, ngắn ngày nguồn gốc IRRI cho các tỉnh phìa Bắc; giúp phát triển  lúa lai, đẩy mạnh các chưong trình cao su tiểu điền, mía, bông vải, đay, đậu phộng , dừa, chuối, nuôi cá bè ở Châu Đốc An Giang, nuôi tôm ở Bạc Liêu, Sóc Trăng, nuôi cá măng ở Bình Định, nuôi tôm càng xanh ở ruộng nước ngọt, trồng phi lao chống cát bay, trồng bạch đàn xen cây họ đậu phủ xanh đất trống đồi trọc, trồng lại thông hai lá, ba lá ở Huế và ở Đà Lạt,  nuôi heo lai ba dòng nhiều nạc,  nuôi dê sữa , bò sữa, trồng rau, hoa, cây cảnh. Trong lĩnh vực giáo dục, giáo sư đã trực tiếp giảng dạy, đào tạo nhiều khóa học viên cao đẳng, đại học, biên soạn nhiều sách.  Giáo sư có nhiều kinh nghiệm và  đóng góp trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại và quan hệ quốc tế với Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản, Mỹ, Pháp…

Tôi học gián tiếp Thầy qua sách báo và internet. Giáo trình nông học sau ngày Việt Nam thống nhất thật thiếu thốn. Những sách Sinh lý Thực vật, Nông học Đại cương, Di truyền học, Khoa học Bệnh cây , Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam … do tập thể hoặc chuyên gia đầu ngành phía Bắc biên soạn thời đó hiếm và quý như vàng. Cái khó khác cho thầy trò chúng tôi là thiếu kinh nghiệm thực tiễn của đồng ruộng phương Nam. Những bộ sách của thầy Trình như Cải Thiện Trồng Lúa 1965-66 (hai lần tái bản), Nông Học Đại Cương 1967 (ba lần tái bản), Mía Đường 1972 (hai lần tái bản), Cây Ăn Trái Có Triển Vọng 1995 (ba lần tái bản), Cây Ăn Trái Cho Vùng Cao 2004, … cùng với sách của các thầy Nguyễn Hiến Lê, Trần Văn Giàu, Phạm Hoàng Hộ, Lương Định Của, Lê Văn Căn, Vũ Công Hậu, Vũ Tuyên Hoàng, Đường Hồng Dật, Nguyễn Văn Luật, Võ Tòng Xuân, Mai Văn Quyền, Thái Công Tụng, Chu Phạm Ngọc Sơn, Phạm Thành Hổ … đã bổ khuyết rất nhiều cho sự học hỏi và thực tế đồng ruộng của chúng tôi. Sau này khi đã ra nước ngoài, thầy Trình cũng viết rất nhiều những bài báo khoa học kỹ thuật, khuyến học trên các báo nước ngoài, báo Việt Nam và blog The Gift.

Điều tôi thầm phục Thầy là nhân cách kẻ sĩ vượt lên cái khó của hoàn cảnh để phụng sự đất nước. Lúa Thần Nông áp dụng ở miền Nam sớm hơn miền Bắc gần một thập kỷ. Sự giúp đỡ liên tục và hiệu quả của FAO sau ngày Việt Nam thống nhất có công lớn của thầy Trình và anh Nguyễn Văn Đạt làm chánh chuyên gia của FAO. Blog The Gift là nơi lưu trữ những “tâm tình” của gíáo sư dành cho Việt Nam, đăng các bài chọn lọc của Thầy từ năm 2005 sau khi về hưu. Đa số các bài viết trên blog của giáo sư về Phát triển Nông nghiệp, Kinh Tế Việt Nam, Khoa học và Đời sống  trong chiều hướng khuyến khích sự hiếu học của lớp trẻ. Nhân cách và tầm nhìn của Thầy đối với tương lai và vận mệnh của đất nước đã đưa đến những đóng góp hiệu quả của Thầy kết nối giữa quá khứ và hiện tại, tạo niềm tin tương lai, hòa giải và hòa hợp dân tộc”.

‘Thầy Trình với thầy Của’, ‘Chiếc bàn của thầy Trình’, ‘FAO Trình Đạt Ngưu Bổng’, ‘Thầy Trình với lúa cá’, ‘Thầy Trình với The Gift’ là những mẫu chuyện chiêm nghiệm mà tôi thích trích dẫn và kể tại Các lớp học trên đồng .

THẦY TRÌNH VỚI THẦY CỦA

Chuyện này gợi cho tôi nhiều suy tư: Thầy Trình quý trọng thầy Của và thầy Của tìm đến ngay thầy Trình sau ngày Việt Nam thống nhất. Thầy Trình ra đi vì không thể ở lại nhưng sự ứng xử của thầy sau ngày ra đi là một bài học lớn. Thầy Của mất thật sớm, ngay cuối năm 1975, lúc Thầy mới 55 tuổi, còn rất nhiều khả năng cống hiến và chưa được hưởng không khí hoà bình bao lâu. Cuộc đời, số phận, nhân cách và cống hiến của hai người Thầy nghề nông vượt lên khen chê và lắng đọng một di sản.

Tôi đã có chùm 9 bài viết về thầy Lương Định Của, bao gồm: Lương Định Của con đường lúa gạo, Lương Định Của cuộc đời và sự nghiệp;Lương Định Của quê hương và dòng họ;  Lương Định Của những năm tháng tuổi trẻ;Lương Định Của luồng gió từ Hà Nội; Lương Định Của nhà bác học nông dân;  Lương Định Của chính khách giữa lòng dân;Thầy bạn và học trò Lương Định Của;  Ông bà Của cổ tích giũa đời thường. 9 bài này sau này đúc kết thành Sóc Trăng Lương Định Của Trong số các bài trên thì bài viết Lương Định Của luồng gió từ Hà Nội; liên quan thật nhiều chuyện thầy Trình và thầy Của, mà nay tôi muốn trích dẫn đôi điều về tình bạn ấy.

Chuyện kể rằng năm 1952, giáo sư Lương Định Của lúc ấy đã đạt được học vị bác sĩ ở Nhật Bản. Đó là một danh vị thực chất cao quý thời đó mà sau này ông kiên quyết từ chối mọi danh xưng tiến sĩ mà người đời khoác cho.  Thầy Lương Định Của đạt được học vị cao, có công ăn việc làm,  vẫn nghĩ tới việc về nước phục vụ, kịp trước khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi hoàn toàn. Luồng gió từ Hà Nội đã thôi thúc ông hướng về Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đang tạo lập. Ông từ chối các cơ hội đi Mỹ, IRRI để tìm cách về nước tham gia kháng chiến nhưng “Đường về Việt Bắc xa xôi lắm!”. Sau nhiều nỗ lực móc nối, chờ đợi, xoay đường này cách khác, Ông đã đưa cả gia đình về Sài Gòn, làm việc một thời gian ngắn ở Viện Khảo cứu Nông nghiệp Sài Gòn, Bộ Canh Nông (nay là Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam), sau đó quá cảnh bưng biền và đầu năm 1954 cả nhà cùng lên một chuyến tàu tập kết ra Bắc

Nhà báo Phan Quang kể câu chuyện Kỷ niệm đời thường về nhà khoa học Lương Định Của đã cho hay: “Hồi còn là sinh viên, ông đã cùng nhiều lưu học sinh Nhật và nước ngoài trong đó có Đặng Văn Ngữ, tham gia các cuộc biểu tình tuần hành phản đối thực dân Pháp xâm lược Việt Nam. Theo như ông còn nhớ, ít nhất có bốn cuộc lớn, ba lần ở Tokyo, và một lần ở Kyoto. Hoạt động chống chiến tranh Việt Nam có thuận lợi là Đảng Cộng sản Nhật Bản hết lòng ủng hộ cuộc chiến đấu của nhân dân ta. Nhiều Việt kiều ở Nhật nhờ thông qua Đảng Cộng sản Nhật Bản hoặc các tổ chức nhân dân do Đảng lãnh đạo mà giữ được mối liên hệ liên tục với phong trào kháng chiến trong nước.

Qua sự giới thiệu của một người bạn, một mặt Lương Định Của tiếp xúc với các nghị sĩ tiến bộ trong Quốc hội Nhật, nhờ giúp đỡ tạo điều kiện cho ông sớm được trở về vùng tự do nước Việt Nam. Thượng Nghị sĩ Kazami được các bạn Nhật cử đứng ra lo liệu việc này. Mặt khác, Lương viết thư gửi Đại sứ quán ta ở Bắc Kinh bày tỏ mong muốn của mình, và chẳng bao lâu sau nhận được thư Đại sứ trả lời đã chuyển nguyện vọng của ông về nhà. Theo sự hướng dẫn của ông Kazami, mùa hè 1952 Lương Định Của xin thôi việc ở Kyoto, lên thủ đô Tokyo chờ ngày về nước.

Ông xin việc làm ở Sở Nghiên cứu Khoa học Nông nghiệp Trung ương của Nhật Bản để có thể thu nhập trong thời gian chờ đợi. Đầu những năm 50, sau chiến thắng biên giới, tình hình nước ta rất sôi động. Đảng Lao động Việt Nam đảm nhiệm công khai sứ mệnh lịch sử lãnh đạo toàn dân kháng chiến. Mặt trận Liên Việt thành lập, giương cao ngọn cờ đại đoàn kết. Các vùng tự do được giữ vững. Chiến tranh nhân dân phát triển mạnh ở vùng sau lưng địch.

Thực dân Pháp ý thức rõ, tiến hành phá hoại kinh tế, gây nạn đói kém, cắt nguồn hậu cần của Quân đội Nhân dân Việt Nam là một mặt trận có ý nghĩa chiến lược đối với thành bại của chúng trong chiến tranh.Thông tri của tướng De Linarès, tư lệnh chiến trường Bắc Bộ gửi các cấp dưới đề ngày 14-3-1951 hướng dẫn cụ thể như sau:

“… Về phá hoại, có hai cách thực tế có thể áp dụng: a) làm ướt thóc hoặc bắt dân phải để thóc lúa ngoài trời trong mùa mưa ẩm. Tuy nhiên, để chắc chắn hạt gạo sẽ thối hẳn, phải dấp nước cho ướt thóc trong thời gian bốn mươi tám giờ. Ngoài ra, để cho sự phá hoại bảo đảm hiệu quả chắc chắn của nó, trong thời gian ấy, phải canh giữ không để cho dân chúng đến lọc lấy phần thóc còn tốt mang đi cất giấu; b) những kho thóc quan trọng nào phát hiện được, cho tưới xăng hoặc dầu nặng vào…” .

Tháng Chín năm 1952, ông Kazami báo cho Lương Định Của biết, có một tàu buôn Nhật Bản sắp sang Hồng Công rồi từ đó đến thành phố Thiên Tân của Trung Quốc. Ông đề nghị Lương đáp chuyến tàu ấy. Vào được Trung Quốc rồi thì rất dễ dàng về Việt Bắc vì biên giới Việt Trung đã thông, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cùng Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã kiến lập quan hệ ngoại giao; giữa hai nước có tình hữu nghị sâu sắc. Ông nói đã nhờ Hội Hoa kiều tại Nhật Bản làm các thủ tục cần thiết cho gia đình Lương nhập cảnh Trung Quốc, ông cũng đã có liên hệ để thông báo với Chính phủ Việt Nam về chuyện này.

Lương Định Của vào Hồng Công, đến biên giới Cửu Long trình giấy giới thiệu của Hội Hoa kiều tại Nhật Bản. Biên phòng Trung Quốc cho biết chưa nhận được chỉ thị. Các bạn khuyên Lương nên trở lại Hồng Công lấy visa nhập cảnh. Hành lý có thể cho chuyển trước sang biên giới, đưa về thành phố Quảng Châu. Vài hôm nữa gia đình Lương đến thì có thể vào Trung Quốc, đến thẳng Quảng Châu luôn.

Trở lại khách sạn, Lương tìm cách liên hệ với Đại sứ quán ta ở Bắc Kinh, vừa gọi điện thoại vừa gửi thư song chờ mãi không thấy hồi âm. Tiền túi cạn dần: phòng trọ khách sạn rất đắt. Hàng ngày bà Của xuống phố mua bánh mì cho cả nhà ăn. Lúc này mới thấy hết bản lĩnh của người phụ nữ ấy. Ông lo cuống lên, bà chỉ cười: “Không sao, để tính xem”. Về đến Việt Nam ông thú thật với bạn bè, nếu không có bà thì với hai đứa con nhỏ, ông chẳng biết đường nào xoay xở trong những ngày quá cảnh Hồng Công. Thái độ bình tĩnh và đầy thông cảm của bà có tác dụng trấn an ông.

Sau một tuần chờ đợi trong lo âu, xuất hiện một người lạ mặt ăn mặc sang trọng. Ông nói: nếu Lương có giấy giới thiệu của Ngân hàng Trung Hoa thì ông có thể giúp cho qua biên giới. Lương Định Của chẳng có giấy tờ gì khác ngoài thư giới thiệu của Hội Hoa kiều tại Nhật Bản. Người lạ mặt khuyên, nếu vậy thì nên theo ông về Macao, ở nhờ nhà con trai ông một thời gian, chờ xin phép nhập cảnh.

Hồng Công là điểm quá cảnh, khách không được phép ở lại lâu. Lương Định Của hết sức phân vân. Người này ông chưa từng quen biết. Trong túi ông lại không có tiền, trừ gói hạt giống dưa. Đến áo quần thay hằng ngày cũng không có đủ vì các valy đã gửi hết vào Trung Quốc rồi.

Ông quyết định hẵng trở về Sài Gòn, rồi tìm cách ra vùng tự do sau. Ông đánh điện cho một người bạn ở Sài Gòn, báo tin mình đang trên đường về nước, đến Hồng Công thì mất hết đồ đạc, nhờ bạn đặt mua vé máy bay cho hai người lớn hai trẻ con, và cho vay tạm hai nghìn USD.

Ngay chiều hôm ấy, nhận được ngân khoản người bạn gửi đến thông qua một ngân hàng lớn. Có tiền, có vé trong tay, ông còn nấn ná lại thành phố này ba tuần nữa, hy vọng có tin tức Đại sứ quán ta tại Bắc Kinh. Cuối cùng hết hạn quá cảnh mới đáp máy bay về Sài Gòn.

Chính quyền Sài Gòn nồng nhiệt đón bác sĩ nông học Lương Định Của du học từ Nhật Bản về. Bộ trưởng Nông Lâm mời ông đến cơ quan, mở rượu whisky chúc mừng, và ngỏ ý mời ông làm thứ trưởng. Lương tìm cách thoái thác khéo. Ông khiêm tốn nói mình xa đất nước đã lâu, xin cho làm việc hợp đồng một thời gian để quen thêm thung thổ và bạn bè, rồi mới dám chính thức nhận nhiệm vụ.”

“Gia đình ông sống cùng gia đình người em trong ngôi nhà ở Đa Cao. Em gái ông có chồng đi kháng chiến, thỉnh thoảng lại kiếm cớ vắng nhà. Ông biết chị ra bưng thăm chồng. Một hôm, vào ngày chủ nhật, ông đang ngồi chơi trước cửa thì thấy một người ăn vận có vẻ như vừa từ nông thôn ra, đi thẳng vào nhà sau nói chuyện với cô em gái. Khách về, Lương hỏi ai vậy, cô em trả lời: “Người ta muốn mời anh ra vùng kháng chiến đấy”. – Vậy em trả lời họ thế nào? Cô em cười: “Em nói, anh vợ con tùm lum thế kia thì làm sao đi kháng chiến được”. Lương Định Của lặng im, vì dự định từ Nhật Bản về thẳng miền Bắc không thành, ông không hề hé răng cho ai biết.

Hiệp định Genève về Đông Dương (1954) được ký kết. Trong giới trí thức Sài Gòn lại một lần nữa xôn xao – tuy thầm lặng – về việc ra đi hay ở lại. Nơi cơ quan Lương làm việc có một chị tên là B., em gái một bác sĩ nha khoa vốn là bạn của ông sau này cũng tập kết ra Bắc và cùng gặp lại nhau tại Hà Nội, có lần hỏi giọng nửa đùa nửa thật: “Nè, Chính phủ Việt Minh kêu gọi trí thức ra Bắc đấy, anh có đi không?”.

Lương nghiêm trang trả lời ông muốn đi. Chị B. bắt liên lạc, bố trí kế hoạch cho ông rời Sài Gòn. Chờ đợi một thời gian khá lâu mới có hồi âm. Lương Định Của nói với các em, ông muốn cho gia đình đi nghỉ mát ở Ô Cấp (Cap Saint Jacques – Vũng Tàu ngày nay) mấy hôm. Nửa đường, theo mật hiệu “cứ theo người có chửa mà đi”, ông đổi xe, đổi hướng, theo người phụ nữ ấy về thành phố Mỹ Tho. Từ đấy lại đổi xe khác, có người khác đón ra bưng biền.

Lương Định Của được nhà lãnh đạo Phạm Hùng tiếp ngay khi vừa đến cứ. Anh Bảy trò chuyện thân tình, và cho ông một bộ quần áo bà ba. Năm 1954, qua liên lạc biệt động, gia đình giáo sư gửi thư xin phép đi tập kết. Anh Hồng Việt kể lại: “Từ Sài Gòn, theo biệt động đưa về Cần Thơ, xuống căn cứ Cà Mau và đi tàu Ba Lan ra Sầm Sơn, Thanh Hoá. Ấn tượng đầu tiên là hưởng luôn một trận gió mùa đông bắc. Nhưng ngày hôm sau là 1.1.1955, gia đình được chứng kiến ngày lễ tưng bừng”.

Luồng gió từ Hà Nội là bước ngoặt của nhà nông học Lương Định Của.

Theo hồi ức của thầy Phan Gia Tân, giảng viên Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh, thì sau ngày Việt Nam thống nhất 30.4.1975, giáo sư Lương Định Của đã đi tìm Giáo sư Tôn Thất Trình ở Trường Đại học Nông nghiệp Sài Gòn (nay là Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh). Thầy Của tiếc không gặp được thầy Trình vì thầy đã ra đi trước đó.

Tấm lòng tri ngộ của họ là dấu ấn “biết mình, biết người” của hai trí thức lớn…

CHIẾC BÀN CỦA THẦY TRÌNH

Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh có di sản biểu tượng là tòa nhà chữ U (nay gọi là tòa nhà Phượng Vĩ) do kiến trúc sư Ngô Viết Thụ thiết kế. Trong tòa nhà chữ U này có chiếc bàn của thầy Tôn Thất Trình ở lầu 1 tại Phòng Cây Lương thực Rau Hoa Quả thuộc Khoa Nông học. Đây cũng là phòng cuối nối liền gần gũi nhất với khu Thư Viện (cũ). Tầng dưới của Thư Viện là Hội Trường Lớn. Góc phải đầu nhà chữ U nay còn bảng đồng lưu danh Kiến Trúc Sư Ngô Viết Thu là Khôi Nguyên La Mã.

Viện Khảo cứu Nông Lâm Đông Dương được thành lập ngày 2 tháng 4 năm 1925 tại Sài Gòn là Viện nghiên cứu khoa học nông lâm nghiệp đầu tiên và duy nhất tại Đông Dương, nay là Viện Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam là nơi thầy Tôn Thất Trình có nhiều năm làm việc ở đấy. Thầy Trình đã tham gia dự án thực hiện hợp tác nghiên cứu lúa với Đài Loan giai đoạn 1950-1957, gồm các ông Trương Văn Hiếu, Phạm Huy Lân, Tôn Thất Trình, Trần Thiện Tín, Trần Bình Cư, Đoàn Kim Quan. Hai tác giả Bùi Minh Lương, Tôn Thất Trình, Tổng Nha Canh Nông đã biên soạn sách “Đất Nông nghiệp Việt Nam” – Bắc Kontum (1959) rất công phu.

Thầy Tôn Thất Trình làm Hiệu Trưởng Trường Cao Đẳng Nông Lâm Súc Sài Gòn từ năm 1964 đến năm 1968. Trước thầy Trình là thầy Đặng Quan Điện (1962-1964). Tiền thân Trường Cao Đẳng Nông Lâm Súc Sài Gòn là Trường Quốc Gia Nông Lâm Mục Blao Bảo Lộc (1955-1962), Hiệu trưởng đầu tiên là thầy Vũ Ngọc Tân (1955-1958),và thầy Phan Lương Báu (1958-1962). Trường Cao Đẳng Nông Lâm Súc Sài Gòn sau này được thay thế bằng Trung tâm Quốc gia Nông nghiệp Sài Gòn (1968-1972), Học Viện Quốc Gia Nông nghiệp Sài Gòn (1972-1974) và  trở thành Trường Đại học Nông nghiệp trực thuộc Viện Đại Học Bách Khoa Thủ Đức (1974 -1975)  do thầy Lê Văn Ký làm Hiệu trưởng (1974-1975).

Giáo sư Tôn Thất Trình vẫn trực tiếp giảng dạy môn cây lương thực cho dù hai lần Thầy làm Tổng Trưởng Bộ Canh Nông và Cải Cách Điền Địa năm 1967 và 1973, tên Trường thay đổi nhiều lần và xã hội quá nhiều biến động. Chiếc bàn to quá khổ (dài 1,8m rộng 1,2m, gỗ tốt, chắc, nặng, nằm ở phòng cuối góc bên phải của khối nhà. Cái bàn này có lẽ vì quá to và nặng, không dễ mang ra khỏi cửa, phòng lại là góc khuất làm việc dạy học của người thầy “full professer” (giáo sư) Hiệu trưởng đầu tiên, mà phòng không phải ở tâm điểm chính diện phong thủy, nên nơi này và chiếc bàn này 40 năm qua có lẽ vì vậy mà rất ít thay đổi chỉ mấy lần tách nhập Bộ môn.

Chuyện tôi được may mắn về phòng này và được nghe kể lại là một câu chuyện dài …

THẦY TRÌNH NGÀY RA ĐI

Khi thời cơ lịch sử thống nhất Việt Nam xuất hiện, ngày 7 tháng 4 năm 1975, Đại tướng Võ Nguyên Giáp từ Tổng Hành Dinh Hà Nội đã phát đi mệnh lệnh tác chiến nổi tiếng đến toàn mặt trận “Thần tốc, thần tốc hơn nữa; táo bạo, táo bạo hơn nữa; tranh thủ từng phút, từng giờ; xốc tới mặt trận; giải phóng miền Nam. Quyết chiến và toàn thắng!”. Năm cánh quân lớn của lực lượng giải phóng đã nhanh chóng áp sát gần thành phố. Ngày 29 tháng 4 năm 1975 Chiến dịch Gió lốc (Cuộc hành quân Frequent Wind) Những người Mỹ cuối cùng rút khỏi Việt Nam. Cũng ngày này, Quân đội Nhân dân Việt Nam đánh chiếm đảo Trường Sa từ Quân lực Việt Nam Cộng hòa, hoàn thành tiếp quản các đảo thuộc quần đảo Trường Sa do Việt Nam Cộng hòa chiếm giữ. Sài Gòn trước ngày thất thủ hoảng loạn cực độ.  Trừ một số quan chức và tướng lĩnh cao cấp có điều kiện và thế lực đã kiếm cớ rời đi trước đó. Số còn lại hoang mang tính toán. Nhiều người bỏ nhiệm sở lánh lo việc riê

Dạy và học 23 tháng 11


 

 

DẠY VÀ HỌC 23 THÁNG 11
Hoàng Kim
CNM365 Tình yêu cuộc sốngĐào Duy Từ còn mãi; Đồng xuân lưu dấu hiền; Nhớ Người; Nông lịch tiết Tiểu tuyết; 24 tiết khí nông lịch; Tỉnh thức; CNM365; #hoangkimlong; #CLTVN; #Thungdung; Có lớp sinh viên như thế; Thầy Dương Thanh Liêm; Thầy tôi sao sáng giữa trời; Nguyễn Hiến Lê sao sáng; Sớm đông nhớ Trạng Trình; Nông nghiệp Việt trăm năm; Hoa Mai với Thiền sư; Trường tôi nôi yêu thương; Kỷ yếu khoa Nông học kỷ niệm 65 năm thành lập Khoa; Về Trường để nhớ thương; Một niềm tin thắp lửa; Thầy bạn là lộc xuân; Thầy bạn trong đời tôi; Đào Duy Từ (1572–1634) là bậc kỳ tài chính trị quân sự lỗi lạc và danh nhân văn hóa kiệt xuất, công thần số một của nhà Nguyễn, Đào Duy Từ làm Thái Sư Hoằng Quốc Công, cố vấn chính trị quân sự cao cấp của chúa Nguyễn Phúc Nguyên, Ông bắt đầu thi thố tài năng từ năm 53 tuổi đến năm 62 tuổi thì mất nhưng trong 9 năm ngắn ngủi ấy (1625- 1634) ông đã kịp làm nên năm kỳ tích phi thường: 1) Giữ vững cơ nghiệp của chúa Nguyễn ở Đàng Trong chống cự thành công với họ Trịnh Đàng Ngoài; 2) Xây dựng được một định chế chính quyền rất được lòng dân, đặt nền móng vững chắc cho nhà Nguyễn lưu truyền được chín đời chúa, mười ba đời vua, sửa sang chính trị, quan chế, thi cử, võ bị, thuế khóa, nội trị, ngoại giao, các thời vua nhà Nguyễn đều khâm phục, kính trọng và tôn làm Thầy; 3) Mở đất phương Nam làm cho Nam Việt thời ấy trở nên phồn thịnh hơn, người đông lên, đất rộng ra. 4) Sách binh pháp “Hổ trướng khu cơ” là một trong hai binh thư Việt Nam cổ đại nổi tiếng (cuốn kia là Binh thư yếu lược của danh tướng Trần Quốc Tuấn); Nhã nhạc cung đình Huế, vũ khúc tuồng Sơn Hậu là những kiệt tác và di sản văn hóa vô giá, với giai thoại ca dao, thơ văn truyền đời trong tâm thức dân tộc; 5) Đào Duy Từ là người Thầy đức độ, tài năng, bậc kỳ tài muôn thuở, người khai sinh một dòng họ lớn với nhiều hiền tài và di sản còn mãi với non sông Việt. Cụ Đào Duy Từ có lăng mộ tại trại Tùng Châu xưa, nay là thôn Phụng Du, xã Hoài Hảo, Đền thờ Đào Duy Từ tại thôn Cự Tài 1, xã Hoài Phú, huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định. Đào Duy Từ mất ngày 17 tháng 10 âm lịch năm Mậu Tuất (1634) giỗ ông vào ngày 16/10 âm lịch, khoảng tiết Tiểu tuyết 22 – 23/11. Ngày 23 tháng 11 là ngày tiểu tuyết, một trong 24 tiết khí nông lịch. Ngày 23 tháng 11 năm 1922 là ngày sinh của Võ Văn Kiệt, (mất năm 2008) là cựu Thủ tướng Việt Nam. Ông tên thật là Phan Văn Hòa, bí danh Sáu Dân, Chín Dũng, làm Thủ tướng nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam từ ngày 8 tháng 8 năm 1991 cho đến ngày 25 tháng 9 năm 1997. Ngày 23 tháng 11 năm 1871 là ngày mất Nguyễn Trường Tộ, chí sĩ, danh sĩ, kiến trúc sư và là nhà cải cách xã hội Việt Nam ở thế kỷ 19 (sinh năm 1828). Ông nổi tiếng với 58 bản điều trần đề xuất canh tân đất nước liên tiếp gửi lên triều đình Huế, và hai câu thơ viết trước lúc mất năm 41 tuổi, có thể do bị đầu độc “Một kiếp sa chân muôn kiếp hận / Ngoảnh đầu cơ nghiệp ấy trăm năm”; Bài chọn lọc ngày 23 tháng 11: Đào Duy Từ còn mãi; Đồng xuân lưu dấu hiền; Nhớ Người; Nông lịch tiết Tiểu tuyết; 24 tiết khí nông lịch; Tỉnh thức; CNM365; #hoangkimlong; #CLTVN; #Thungdung; Có lớp sinh viên như thế; Thầy Dương Thanh Liêm; Thầy tôi sao sáng giữa trời; Nguyễn Hiến Lê sao sáng; Sớm đông nhớ Trạng Trình; Nông nghiệp Việt trăm năm; Hoa Mai với Thiền sư; Trường tôi nôi yêu thương; Kỷ yếu khoa Nông học kỷ niệm 65 năm thành lập Khoa; Về Trường để nhớ thương; Một niềm tin thắp lửa; Thầy bạn là lộc xuân; Thầy bạn trong đời tôi; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-23-thang-11/.

 

 

CNM365 TÌNH YÊU CUỘC SỐNG
Hoàng Kim

Ta vui hòa nhịp thời gian
Thung dung nhàn giữa gian nan đời thường.

 

 

#cnm365http://cnm365.wordpress.com
CHÀO NGÀY MỚI
#hoangkimlong
https://hoangkimlong.wordpress.com/category/#hoangkimlong

“Chín năm làm một Điện Biên
Nên vành hoa đỏ, nên thiên sử vàng”.
(Hoan hô chiến sĩ Điện Biên, thơ Tố Hữu)

 

 

#hoangkimlong
HOA MAI VỚI THIỀN SƯ
Hoàng Kim
Long

Giấc mơ lành yêu thương
Gốc mai vàng trước ngõ
Chim Phượng về làm tổ
Ngày xuân đọc Trạng Trình

 

 

LÊN TRÚC LÂM YÊN TỬ
Hoàng Kim

Tỉnh thức giữa đêm thiêng Yên Tử
Để thấu hiểu đức Nhân Tông
Ta thành tâm đi bộ
Lên tận đỉnh chùa Đồng
Tâm sáng Ức Trai trong tựa ngọc
 
“Yên sơn sơn thượng tối cao phong
Tài ngũ canh sơ nhật chính hồng
Vũ trụ nhãn cùng thương hải ngoại
Tiếu đàm nhân tại bích vân trung
Ủng môn ngọc sóc sâm thiên mẫu
Quải ngọc châu lưu lạc bán không
Nhân miếu đương niên di tích tại
Bạch hào quang lý đổ trùng đồng” (1)
 

Non thiêng Yên Tử đỉnh kỳ phong
Trời mới ban mai đã rạng hồng
Vũ trụ mắt soi ngoài biển cả
Nói cười lồng lộng giữa không trung
Giáo trúc quanh chùa giăng nghìn mẫu
Cỏ cây chen đá rũ tầng không
Nhân Tông bảo tháp còn lưu dấu
Mắt sáng hào quang tỏa ánh đồng (2)  

Non thiêng Yên Tử
Nghìn năm Thăng Long, Đông Đô, Hà Nôi
Bảy trăm năm đức Nhân Tông
Non sông bao cảnh đổi
Kế sách một chữ Đồng
Lồng lộng gương trời buổi sớm
Trong ngần, thăm thẳm, mênh mông ….  

1) Thơ Nguyễn Trãi
2) Bản dịch thơ Nguyễn Trãi của Hoàng Kim  

 

 

CNM365 TÌNH YÊU CUỘC SỐNG
Hoàng Kim


Tình yêu cuộc sống mãi vĩnh hằng
Tự do hạnh phúc thấu đời chăng?
Ba sinh duyên nợ âu thành phận
Thiên thu tình nghĩa ấy cát đằng
Hoàng Thành chí thiện trời linh cảm
Trúc Lâm phước đức đất tan băng
Ba vạn sáu lăm ngàn thanh thản
Năm tháng an nhiên ước ít nhằng.

(
Vui đi dưới mặt trời, ảnh và họa thơ HH).

 

 

CNM365 MỘT NĂM NHÌN LẠI
https://cnm365.wordpress.com
Run away with me

Chuyên mục

Hoàng Kim, Khoa Nông Học, Trường ĐH Nông Lâm TP.HCM, ĐTDĐ:0903 613024,Email:hoangkimvietnam1953@gmail.com, hoangkim@hcmuaf.edu.vn

Thiết kế: Quản trị mạng- ĐHNL 2007