Số lần xem
Đang xem 427 Toàn hệ thống 2104 Trong vòng 1 giờ qua
Trang liên kết
Tỉnh thức
giữa đêm thiêng Yên Tử
Để thấm hiểu đức Nhân Tông
Ta thành tâm đi bộ
Lên tận đỉnh chùa Đồng
Tâm sáng Ức Trai
trong tựa ngọc TÌNH YÊU CUỘC SỐNG
DẠY VÀ HỌC Để chấn hưng giáo dục Việt Nam cấp thiết phải có đội ngũ những người thầy giáo ưu tú có tâm đức thiết tha với nghề, có trình độ chuyên môn cao và có kỹ năng giảng dạy tốt. Đây là trang thông tin chuyên đề dạy và học để trao đổi và bàn luận
Norman Borlaug Lời Thầy dặn Việc chính đời người chỉ ít thôi
Chuyên tâm đừng bận chuyện trời ơi
Phúc hậu suốt đời làm việc thiện
Di sản muôn năm mãi sáng ngời.
TỪ MAO TRẠCH ĐÔNG ĐẾN TẬP CẬN BÌNH
Hoàng Kim
nghiên cứu lịch sử Từ Mao Trạch Đông đến Tập Cận Bình góp phần tìm hiểu bình sinh Mao Trạch Đông và bình sinh Tập Cận Bình, những vĩ nhân ảnh hưởng quan trọng đến đất nước Trung Hoa và Thế Giới. Bài này được khởi đăng lần đầu ngày 19.06.2015 trên trang Tình yêu cuộc sống (1) đã bổ sung 57 cảm nhận liên quan đến những sự kiện gần nhất mới đây. Bài viết này tóm tắt những luận điểm chính.
Chủ tịch Trung Quốc Mao Trạch Đông là một nhân vật hiếm có trong lịch sử, nghìn năm công tội. Thời gian và sự khen chê không thể xóa nhòa những dấu ấn nổi bật của Mao. Di sản của Mao Trạch Đông không chỉ là bốn bộ trước tác nổi tiếng “Luận về thực tiễn”, “Luận về mâu thuẫn”, “Bàn về đánh lâu dài” “Bàn về Chủ nghĩa Dân chủ mới” mà chủ yếu là triều đại, thực tiễn và tư tưởng. Chức vụ tối cao của Chủ tịch Mao Trạch Đông được trao truyền qua các thế hệ lãnh đạo của Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa lần lượt từ Mao Trạch Đông, tiếp nối là Đặng Tiểu Bình, Giang Trạch Dân, Hồ Cẩm Đào, đến Tập Cận Bình, nay vừa trên 70 năm.
Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình là con người bí ẩn với hai cuốn sách lớn “Làm việc với những thứ thật, bước đi ở vị trí hàng đầu” và “Những Suy tư từ sông Dương Tử“ góp phần giúp ông giành thắng lợi trong cuộc bầu cử khó khăn chọn ra người đứng đầu chính phủ cùa một quốc gia hơn 1, 34 tỷ người, dẫn đến việc chuyển giao quyền lực năm 2012. Cách hành xử của vị lãnh tụ này thật cẩn trọng, quyết đoán và khó lường. Các chuyên gia chiến lược thế giới suy đoán về tư tưởng và đường lối chính trị của ông là “theo Mao và mãi mãi theo Mao” nhưng đó cũng chỉ là sự suy luận thông qua việc làm và dư luận. Ông chọn theo Mao là chọn theo đường lối thực tiễn “có lý, có lợi, đúng lúc”.
Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đang quyết tâm cao độ theo đuổi chủ thuyết Trung Nam Hải “nắm vững Trung, hướng về Nam, mở rộng Hải” của Chủ tịch Mao Trạch Đông trên cơ sở thuyết “biển lịch sử” từ thời đế quốc La Mã tuyên ngôn cách đây 2000 năm nhằm đưa ra phương lược mưu chiếm trọn 80% hải phận của vùng Đông Nam Á (theo đường Lưỡi Bò), khôi phục vị thế và địa giới lịch sử Trung Quốc thời kỳ rộng nhất, huy hoàng nhất. Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình năm 2014 đã tuyên bố tại Thượng Hải “chính người Châu Á phải điều hành công việc của Châu Á, giải quyết các vấn đề của khu vực Châu Á và duy trì an ninh của Châu Á”. Ông ráo riết thực hiện chiến lược “không đánh mà thắng” với một loạt kế sách liên hoàn trên biển Đông thông qua sức mạnh kinh tế và tiến bộ công nghệ: xây dựng đảo trong quần đảo Trường Sa; điều giàn khoan thăm dò dầu khí chập chờn ở các điểm nóng; ký hợp tác Trung Nga nhận mua khí đốt và năng lượng dài hạn từ Nga giải tỏa giúp Nga sự căng thẳng suy thoái kinh tế do sức ép giá dầu lửa xuống thấp vì sự can thiệp của Tây Âu và Mỹ; Trung Quốc tỏ rõ lập trường ủng hộ Nga chống li khai để giữ vững đường hằng hải sống còn của Nga thông ra biển lớn mà Pie Đại Đế nhân vật lịch sử vĩ đại nhất nước Nga quyết tâm sắt đá tranh đoạt bằng được Sankt-Peterburg dù mọi giá . Trung Quốc thực hành chiến lược “Nam Nam” mở rộng ảnh hưởng nước lớn tại Đông Nam Á, châu Phi và châu Mỹ Latinh. Trung Quốc với chiến lược "Vành đai và con đường" hiện là tâm điểm của cuộc khủng hoảng địa chính trị, kinh tế, khoa học công nghệ đang ngày một gia tăng tại châu Á và Thế giới. Chiến tranh thương mại Hoa Kỳ Trung Quốc 2018-2019 là tâm điểm của thời sự Thế giới biến chuyển.
Chủ tịch Tập Cận Bình trước và ngay sau ngày 14 tháng 3 năm 2013 (ông được bầu làm Chủ tịch nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa) đã nhanh chóng ra tay chiến dịch “đả hổ, diệt ruồi, săn sói, quét muỗi”. Các con hổ lớn Bạc Hi Lai (2012), Từ Tài Hậu (2012), Chu Vĩnh Khang (2013) và mới đây là Quách Bá Hùng (2015) Lệnh Kế Hoạch (2016) lần lượt bị sa lưới. Chiến dịch này hiện đang ở vào hồi kết thúc của giai đoạn ”đả hổ, diệt ruồi” giành thắng lợi quyết định ở cấp lãnh đạo thượng tầng, quân đội, công an, tài chính kinh tế và truyền thông tại các thành phố lớn, nay đang chuyển sang giai đoạn “săn sói, quét muỗi” càn quét cường hào tham nhũng vừa và nhỏ ở vùng nông thôn và những nguy cơ tiềm ẩn ở các lĩnh vực khác. Chủ tịch Tập Cận Bình “chống tham nhũng không màng sống chết cá nhân”. Ông đề ra khẩu hiệu “Tứ Toàn” (Bốn toàn diện): “Xây dựng kinh tế xã hội thịnh vượng toàn diện; Cải tổ xã hội sâu sắc toàn diện; Thực hiện Nhà nước pháp quyền toàn diện; Thực thi kỷ cương Đảng toàn diện”. Đây là một cuộc chiến sinh tử, một cuộc cách mạng toàn diện, sâu sắc, rộng lớn và triệt để về kinh tế, xã hội, nhà nước và đảng cầm quyền. Trong cuộc chiến này, quan điểm của ông Tập là vạch trần mọi tật xấu, sai lầm, khuyết điểm, không được che dấu đảng viên và nhân dân điều gì, không có nhân vật nào bất khả xâm phạm, không một lãnh vực nào bị cấm, dù là lãnh tụ tối cao.
Tôi dạo chơi Thiên An Môn, Cố Cung, Di Hòa Viên, Thiên Đàn trong ngày Quốc tế Lao động, ngắm những nơi lưu dấu các di sản của những triều đại hiển hách nhất Trung Hoa, lắng nghe đất trời và các cổ vật kể chuyện. Tôi ngắm nhìn người nghệ sĩ nhân gian, vui cùng ông và đùa cùng trẻ thơ. Ngày trước đó, tôi vinh hạnh được làm việc với giáo sư Zhikang Li, trưởng dự án Siêu Lúa Xanh (Green Super Rice) chương trình nghiên cứu lúa nổi tiếng của CAAS & IRRI và có cơ hội tiếp cận với các nghiên cứu của Viện Hàn lâm Khoa học Nông nghiệp Trung Quốc. Suy ngẫm từ núi Xanh (景山, Jǐngshān, Cảnh Sơn, Green Mount), ngọn núi địa linh của đế đô Bắc Kinh, tôi tâm đắc lời nhắn gửi sâu xa của bậc hiền minh Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, nhà tiên tri lỗi lạc: “Muốn bình sao chẳng lấy nhân / Muốn yên sao lại bắt dân ghê mình”. “Biển Đông vạn dặm giang tay giữ. Đất Việt muôn năm vững thái bình (Vạn lý Đông minh quy bá ác/ Ức niên Nam cực điện long bình). Suy ngẫm về cuộc cách mạng Xanh và đỉnh cao Hòa Bình. Lời giáo sư Norman Borlaug văng vẳng bên tai tôi: “Đời người tối thiểu phải ăn, kế đến là học tập, công việc, nhà ở, quần áo và chăm sóc sức khỏe. Quanh ta còn nhiều mảnh đời bất hạnh. Hiểm họa nghèo đói vẫn bùng phát bất cứ lúc nào. Hãy luôn nhớ điều đó.”
Sự hiền minh lỗi lạc của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, và di sản vô giá của giáo sư Norman Borlaug cùng với các bậc Thầy về cách mạng xanh mãi mãi là niềm tin và nổ lực của chúng ta.
Phan Huy Chú (1782 – 1840) là danh nhân văn hoá Việt Nam, nhà khoa học bách khoa thư văn sử địa nổi tiếng với tác phẩm lớn “Lịch triều hiến chương loại chí”. Ông đồng thời cũng là nhà giáo, nhà thơ của triều vua Minh Mạng.
Phan Huy Chú (tên khác là Phan Huy Hạo, tên hiệu là Mai Phong), sinh năm Nhâm Dần 1782, quê gốc xã Thu Hoạch, huyện Thiên Lộc, tỉnh Hà Tĩnh, sinh ra và lớn lên ở xã Thụy Khê, huyện Yên Sơn, Phủ Quốc Oai, nay là làng Sài Sơn, huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây. Ông xuất thân trong gia đình có truyền thống khoa bảng, là con trai thứ ba của Lễ bộ Thượng thư, tiến sĩ Phan Huy Ích. Ông nội là tiến sĩ Phan Huy Cận, ông ngoại là Ngô Thì Sĩ, cha là Phan Huy Ích, bố vợ là Nguyễn Thế Lịch, bác là Ngô Thì Nhậm, chú là Phan Huy Ôn, anh là Phan Huy Thực… Tiến sĩ Phan Huy Ích trong “Thứ nam thực sinh hỉ phú” (bài phú mừng sinh nhật con trai thứ hai Phan Huy Thực) đã viết: “Văn phái dư lan cự cửu nguyên”, nghĩa là: “dòng văn để lại đủ cửu nguyên”. Ông cũng có lời chú trong “Dụ am ngâm lục” rằng: “Phụ thân tôi Phan Huy Cận, thi Hương, thi Hội 2 lần đỗ đầu (lưỡng nguyên). Tôi thi Hương, thi Hội, thi Ứng chế ba lần đều đỗ đầu (tam nguyên). Bác Hy Doãn (Ngô Thì Nhậm) và chú Nhã Hiên (Phan Huy Ôn) em trai thứ 3 của tôi đều đỗ đầu thi Hương. Tất cả cộng lại được chín lần đỗ đầu, gọi là cửu nguyên”. Tác động của dòng dõi tài danh, hiếu học và những quan hệ trí tuệ đã ảnh hưởng rất lớn đến tinh thần, tính cách của nhà khoa học Phan Huy Chú. Phan Huy Chú là một nhà bác học, danh nhân văn hoá Việt Nam, với tài danh lỗi lạc về bách khoa thư. Ông đã để lại cho hậu thế nhiều tác phẩm có giá trị, nổi bật nhất là bộ “Lịch triều hiến chương loại chí” gồm 49 quyển khảo cứu về lịch sử Việt Nam từ lập quốc đến cuối triều Lê.
Phan Huy Chú trong bộ sách “Lịch triều hiến chương loại chí”, đã sưu tầm tư liệu, khảo cứu sách vở, đối chiếu sắp xếp, trình bày cô đọng, mạch lạc sinh động, có tầm khái quát cao, chia theo từng loại hiến chương gọi là chí: dư địa chí, nhân vật chí, lễ nghi chí, khoa mục chí, quốc dụng chí, hình luật chí, văn tịch chí, binh chế chí, quan chức chí, bang giao chí. Trong đó: 1) Dư địa chí: Khảo cứu về đất đai, phong thổ và lịch sử địa lý Việt Nam qua các đời; 2) Nhân vật chí: Nói về tiểu sử từ vua chúa, tướng sĩ đến những người trung thần, tiết nghĩa có công với nước; 3) Quan chức chí: Xét về chế độ quan lại ở Việt Nam; 4) Lễ nghi chí: Khảo sát các quy định, thể chế, phẩm phục của vua chúa, quan lại cùng các nghi lễ trong triều đình; 5) Khoa mục chí: Nói về chế độ giáo dục, khoa cử đời xưa; 6) Quốc dụng chí: Viết về chế độ thuế khóa, tài chính qua các triều; 7) Hình luật chí: Xét về pháp luật các đời. 8) Binh chế chí: Khảo về quy chế tổ chức và việc luyện binh qua các đời; 9) Văn tịch chí: Nói về tình hình sách vở nước Việt xưa; 10) Bang giao chí: Khảo về việc giao thiệp, nghi lễ đón tiếp sứ thần các nước qua các đời).
Lê Minh Quốc năm 2009 (5) cho biết: “Năm 1960, 120 năm sau ngày ông mất, Hội Sử học Việt Nam đã tổ chức dịch tác phẩm bày ra chữ Quốc ngữ, dày đến 1.450 trang, khổ 14,5 x 20 cm và ghi nhận: “Trong kho tàng thư tịch Việt Nam, nếu trước kia có bách khoa toàn thư, thì phải nhận rằng, Lịch triều hiến chương loại chí là bộ bách khoa toàn thư đầu tiên của Việt Nam, là cả một kho tư liệu cần thiết cho công tác nghiên cứu và xây dựng các khoa học xã hội…”. Chúng ta hãy đọc lại một đoạn ngắn trong Lịch triều hiến chương loại chí có liên quan đến quần đảo Hoàng Sa … Nhà bác học Phan Huy Chú viết: “Ngoài biển phía đông bắc có đảo Hoàng Sa, nhiều núi lớn nhỏ, đến hơn 130 ngọn núi. Từ chỗ núi chính đi ra biển sang các đảo khác ước chừng hoặc một ngày; hoặc vài trống canh. Trên núi có suối nước ngọt. Trong đảo có bãi cát vàng, dài ước chừng 30 dặm, bằng phẳng rộng rãi. Trong bãi có dòng nước trong suốt đến đáy. Sườn đảo có vô số vỏ yến sào; các thứ chim có đến hàng nghìn vạn con, thấy người vẫn cứ đỗ quanh, không bay tránh. Bên bãi cát, vật lạ rất nhiều, có thứ ốc có vằn gọi là ốc tai voi to như cái chiếu, trong bụng có hột châu to bằng ngón tay cái, nhưng sắc nó đục, không bằng ngọc châu ở trong con trai; vỏ nó đẽo làm bia được, lại có thể nung làm vôi để xây tường. Có thứ ốc gọi là ốc xà cừ, có thể khảm vào các đồ vật; có thứ gọi là ốc hương. Thịt các con trai, con hến đều có thể làm mắm hoặc nấu ăn được. Có thứ đồi mồi rất lớn, gọi là hải ba, mai nó mỏng, có thể ghép làm các đồ vật; trứng nó như đầu ngón tay cái. Lại có thứ gọi là hải sâm, tục gọi con đột đột, nó bơi lội ở bên bãi cát, bắt về, xát vôi qua, rồi bỏ ruột đi phơi khô. Khi nào ăn, lấy nước cua đồng mà ngâm, nấu với tôm và thịt lợn, ngon lắm. Các thuyền buôn khi gặp gió thường nấp vào đảo này. Các đời chúa Nguyễn đã đặt đội Hoàng Sa 70 người, người làng An Vĩnh thay phiên nhau đi lấy hải vật. Hàng năm cứ đến tháng ba, khi nhận được mệnh lệnh sai đi, phải đem đủ sáu tháng lương thực, chở năm chiếc thuyền nhỏ ra biển, ba ngày ba đêm mới đến đảo ấy. Ở đấy tha hồ tìm kiếm các thứ; bắt cá ăn, tìm được những thứ của quý của bọn Tàu ô rất nhiều và lấy được hải vật rất nhiều. Đến tháng tám thì đội ấy lại về, vào cửa Yêu Môn (còn gọi cửa Yêu Lục, tức cửa Thuận An) đến thành Phú Xuân đưa nộp”… Báo Tiếng dân (số ra ngày 23/7/1938) cụ Minh Viên Huỳnh Thúc Kháng đã khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa “Dấu tích đảo Tây Sa (Paracels) trong lịch sử Việt Nam ta và giá trị bản “Phủ biên tạp lục” của Lê Quý Đôn và “Lịch triều hiến chương loại chú” của Phan Huy Chú “Hoàng Sa: là phần sở hữu của nước Nam ta, vì chính người Nam đã chiếm trước hết và đã kinh dinh các công cuộc ở đảo ấy”. Với các tài liệu ấy, theo cụ: “Trở thành món tài liệu rất quý giá có quan hệ đến công pháp quốc tế không phải là ít”.
Bản đồ Đại Nam nhất thống toàn đồ (tên gốc: 大南一統全圖 hoặc 大南一統全圖) do Phan Huy Chú xuất bản đời Nguyễn vào khoảng năm 1838 (theo Trần Nghĩa, Viện Nghiên cứu Hán Nôm 1990) là một chứng cứ pháp lý quốc tế về Hoàng Sa Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam là không thể chối cãi. Chỉ riêng một dẫn liệu về lời văn và bản đồ đã nêu trên đã cho thấy ý nghĩa và tầm vóc đóng góp của Phan Huy Chú cho non sông Việt.
Ngoài tác phẩm lớn “Lịch triều hiến chương loại chí”, Phan Huy Chú còn có các tác phẩm khác như: “Hoàng Việt dư địa chí”, Mai Phong du Tây thành dã lục, “Hoa thiều ngâm lục” (tập thơ đi sứ Tàu), “Bình Định quy trang”, “Dương trình ký kiến”, “Hoa trình ngâm lục”, Lịch đại điển yếu thông luận; “Hải trình chí lược”… hay còn gọi là Dương trình kí kiến (ghi chép những điều trông thấy lúc đi Batavia); Điều trần tứ sự tấu sở.
Phan Huy Chú là tấm gương lớn về hoạt động học thuật. Ông không được khoa bảng như cha ông, song thực học, thực tài, uyên bác, xuất chúng. Ông thực hiện công việc nghiên cứu bằng lao động khoa học miệt mài, với tâm huyết lớn. “Lịch triều hiến chương loại chí” là công trình học thuật cá nhân đồ sộ với hình thức độc đáo, nội dung lớn lao đã được ông thực hiện trong mười năm (1809 – 1819), chưa kể thời gian đọc sách, ghi chép, sưu tầm trước đó. Đây là “một bộ sách thường đọc của một đời”, là điểm đặc sắc trong lịch sử văn hoá nước nhà.
Phan Huy Chú viết: “Nước Việt ta tiếng khen lễ nghĩa đã hơn nghìn năm, vốn có thư tịch đã từ lâu lắm. Kể từ Đinh, Lê dựng nước đối địch với Trung Hoa, mệnh lệnh từ chương dần dần rõ rệt. Đến Lý, Trần nội trị, văn vật mở mang, về tham định thì có những sách điển chương điều luật, về ngự, chế thì có các thể chiếu sắc thi ca. Trị bình đời nối, văn nhã đủ điều. Huống chi, nho sĩ đời nào cũng có, văn chương nảy nở như rừng, sách vở ngày càng nhiều, nếu không trải qua binh lửa mà thành tro tàn… Than ôi! Sách vở các đời đã từng tản mát, sách mất đã khó sưu tầm, sách còn lại nhiều sai lẫn, đằng đẵng ngàn năm, biết theo vào đâu mà khảo xét? Nhưng sự học ở các nhà nho quý ở tìm rộng, có sách vở để làm bằng. Tôi bèn xét tìm sử cũ, tham khảo các nhà…” (Trích quyển XLII Lịch triều hiến chương loại chí). Một thoáng như vậy để thấy tầm suy xét của Phan Huy Chú khi bắt tay vào thực hiện pho sách đồ sộ này.
Phan Huy Chú chuộng thực làm, thực học, không ưa danh hão. Ông đặt trọng tâm cuộc đời vào việc viết sách và dạy học. Với ông “văn minh của loài người đều chứa trong sách vở”. Ông không may mắn về đường quan lộ, 2 lần khoa cử chỉ đạt học vị tú tài, đến tuổi tứ tuần mới nhận chức quan, trôi dạt trong cảnh quan trường thăng giáng, mờ tỏ.
Sách “Lịch triều hiến chương loại chí” ngày nay (*)
Phan Huy Chú bắt đầu làm quan Hàn lâm Biên tu từ năm 1821, khi vua Minh Mạng biết đến tài năng của ông và triệu vào Huế giữ chức này. Ông đã dâng bộ “Lịch triều hiến chương loại chí” lên vua Minh Mạng, được vua thưởng 30 lạng bạc, 1 áo sa đỏ, 30 cây bút và 30 thỏi mực. Năm Minh Mạng thứ 4 (1823) ông làm “Lang trung bộ Lại”, năm Minh Mạng thứ 6 (1825) được sung vào sứ bộ sang Trung Quốc. Năm 1828 làm Thừa phủ Thừa Thiên. Năm 1829 làm Hiệp trấn Quảng Nam, sau đó bị giáng. Năm 1831 được cử làm Phó sứ sang Trung Quốc lần 2, khi về bị cách chức. Năm 1832 đi Biên lực ở Giang Lưu Ba (nay là nước Indonesia). Xong nhiệm vụ trở về ông được khôi phục giữ chức Tư vụ bộ Công… Vua Minh Mệnh là người chuộng tài năng nhưng có tính tự phụ và đa nghi. Ông dè dặt với tầng lớp nho sĩ Bắc Hà có quan hệ với triều Tây Sơn, trọng khí tiết và có chính kiến. Phan Huy Chú bởi ấp ủ tấm lòng ưu ái vì dân nước nên năm 1823, khi được thăng chức Lang trung bộ Lại, đã mạnh dạn dâng sớ điều trần bốn việc: bớt thuế, bớt lính; thực hiện chế độ quân điền; bãi bỏ những cuộc hành binh dẹp loạn; nghiêm trị bọn sâu mọt chuyên đục khoét lương dân. Việc dâng sớ điều trần bốn việc của Phan Huy Chú đã bị vua Minh Mệnh quở trách. Ông cũng như nhiều bậc tài trí thời ấy đã không được vua thực sự tin dùng. Từ sau mấy lần bị vua Minh Mệnh đối xử thô bạo, ông trở nên kín đáo, tuy không vội từ quan nhưng không còn hăm hở như buổi đầu. Hơn mười năm làm quan, ông dù có lúc được thăng Hiệp trấn Quảng Nam, hai lần đi sứ, nhưng ông vẫn luôn bị vua trách phạt. Cuối cùng, chán cuộc đời làm quan, Phan Huy Chú vịn cớ đau yếu, xin từ quan về nhà mở trường dạy học ở Thanh Mai thuộc huyện Tiên Phong, tỉnh Sơn Tây (nay là xã Vạn Thắng, huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây) rồi mất tại đó năm Canh Tý 1840, thọ 58 tuổi.
Lăng mộ nhà bác học Phan Huy Chú
(Ba Vì – Hà Nội) Ảnh Nguyễn Văn Chiến (1)
PHAN HUY CHÚ
(1782 – 1840)
Chữ Hán 潘輝注 tự Lâm Khanh
Thuở nhỏ có tên là Hạo sau đổi tên là Chú
Là một danh sĩ triều nhà Nguyễn.
Nhà thờ Phan Huy Chú hiện toạ lạc tại quê nhà Sài Sơn, huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây. Đây là di tích Lịch sử – Văn hoá đã được xếp hạng bởi Bộ Văn hoá – Thông tin ngày 24 tháng 11 năm 2000.
Hoàng Kim
Tuyển chọn, Biên soạn
Bài đăng lần 1 năm 2008, soát xét và bổ sung lần 2 năm 2012
hiệu đính và bổ sung lần 3 vào ngày 27 tháng 5 năm 2016
hiệu đính và hoàn thiện lần 4 vào ngày 27 tháng 5 năm 2019
Tài liệu tham khảo: 1) Bách khoa toàn thư mở Wikipedia: Phan Huy Chú; 2) Nguyễn Văn Chiến, 2009, Học vị, học vấn, học thuật Phan Huy Chú, Quê Hương Online; 3) Hội đồng Nhân dân thành phố Đà Nẵng 2000, Nghị quyết số 06-2000/NQ-HĐ, khóa VI, ngày 19-7-2000 về đặt tên một số đường của TP Đà Nẵng trong đó có đường Phan Huy Chú (kèm lược sử); 4) TS. Phan Huy Dục 2008. Phan Huy Chú và văn hoá Việt Nam. An ninh Thủ Đô Online (Phan Huy Chú, thư hoạ hình đầu tiên là trích dẫn theo Phan Huy Dục); 5) Lê Minh Quốc 2009. Nhớ Phan Huy Chú 1782-1840 Nhà bách khoa toàn thư của Việt Nam. Phụ Nữ Online (trang bìa sách Lịch triều Hiến chương loài chi trong bài này đã dẫn theo tài liệu của Nguyễn Xuân Diện). 6) Ảnh đầu trang: Phan Huy Chú và Văn hóa Việt Nam. Báo Đăk Lăk điện tử ngày 16 tháng 7 năm 2011. xem tiếp CNM365 Chào ngày mới 27 tháng 5
Nguyễn Hàm Ninh là Thầy vua Thiệu Trị người nối ngôi vua cha Minh Mệnh năm 1841. Vua Minh Mệnh là ông vua giỏi quyền thuật, thanh thận cần, thông minh hiếu học, sáng suốt uy vũ, hà khắc quyết đoán trong việc dùng người. Vua biết rõ sau thời kỳ dùng võ để lập quốc là phải dùng văn để trị nước, nên vua rất chú trọng chọn thầy giỏi để dạy cho con mình nhằm khẳng định quyền uy tối thượng của vương triều. Nguyễn Hàm Ninh năm Bính Thân (1836) lúc 28 tuổi đã được vua Minh Mệnh và triều Nguyễn vời vào cung nhậm chức Quốc học độc thư (một thầy một trò) dạy Thái tử con vua Minh Mệnh là Nguyễn Phúc Miên Tông sinh năm 1807 lúc ấy 29 tuổi lớn hơn Nguyễn Hàm Ninh một tuổi, để năm năm sau (1841) Thái tử lên nối ngôi vua kế thừa đại thống. Điều này đã cho thấy vua Minh Mệnh và vua Thiệu Trị rất tôn trọng Nguyễn Hàm Ninh. Ông làm quan trãi ba triều vua, đến thời vua Tự Đức nối ngôi vua cha Thiệu Trị thì ông cáo quan về nghỉ hưu ở quê, . Đại Nam chính biên liệt truyện do Cao Xuân Dục làm tổng tài đã nhận định tổng quát cuộc đời về sự nghiệp văn chương của Nguyễn Hàm Ninh, như sau: “Hàm Ninh lấy văn học nổi tiếng. Về thơ văn thời trầm tĩnh, hùng mạnh; khi đè nén, khi phô trương, và sở trường về lối ngũ ngôn. Thương Sơn công (tức Tùng Thiện Vương Miên Thẩm) vẫn thường khen, nay có thơ văn tập gọi là Tĩnh Trai”. Nguyễn Hàm Ninh cuộc đời đa truân; Nguyễn Hàm Ninh người thầy của vua. Nguyễn Hàm Ninh văn chương nết đất là ba điều mà tôi tâm đắc.
NGUYỄN HÀM NINH CUỘC ĐỜI ĐA TRUÂN
Nguyễn Hàm Ninh (1808-1867) tự là Thuận Chi, hiệu Tĩnh Trai và Nhâm Sơn, là người làng Phù Ninh, sau dời sang làng Trung Ái, phủ Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình (nay là làng Trung Thuần, xã Quảng Lưu, thị xã Ba Đồn, tỉnh Quảng Bình). Ông sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo, hậu duệ đời thứ 5 của cụ Nguyễn Đăng Khoa là một người đã từng đỗ tú tài tại trường Hà Nội sau di cư vào làng Phù Hóa sau dời về làng Trung Thuần. Nguyễn Hàm Ninh có sáu anh em bốn trai hai gái. Ông là con trai trưởng. Gia đình ông làm nghề nông nhà nghèo nhưng rất hiếu học. Ông được người cô không con nuôi cho ăn học. Ông đỗ tú tài năm Kỷ Sửu lúc 21 tuổi (1829) đỗ thủ khoa kỳ thi Hương ở trường Thừa Thiên (kỳ thi vào tháng 7 năm 1831) năm 23 tuổi (1831); Ông làm quan dưới ba triều vua Minh Mạng – Thiệu Trị – Tự Đức, lần lượt trải qua các chức: dạy học tại Quốc Tử Giám (được bổ chức ngay sau khi thi đỗ); năm 1833 nhậm chức Tri huyện Lục Ngạn (làm được một thời gian, đến tháng 5/1833 có tang cha, xin nghỉ chức về cư tang); năm 1836 được vời ra làm Quốc học độc thư (ở đây Nguyễn Hàm Ninh được làm việc trực tiếp với Thái tử Nguyễn Phúc Miên Tông tức vua Thiệu Trị sau này); năm 1838 lãnh chức Chủ sự Phủ Tôn Nhơn (làm được một thời gian vì phạm lỗi nên bị vua Minh Mạng bãi chức, cho về quê); tháng giêng năm 1841, được vua Thiệu Trị vời ra làm Kiểm thảo sung chức Hành tẩu ở Nội các; mùa đông năm 1845 được chuyển ra Bắc bộ làm chức Phó lang [1]; tháng 5 năm 1846 được thăng quyền Lang trung bộ Lại; tháng 5 nhuận năm 1846 được chuyển sang làm Lang trung bộ Lễ; tháng 10 năm 1846 được điệu bổ quyền Án sát tỉnh Khánh Hòa; Ở đây, ông bị thuyền Tây bắt (xem ghi chú tại Đại Nam Thực lục chinh biên trang 954) bị triều đình cách chức đày vào Đà Nẵng sung quân. Ít lâu sau, ông mới được cho về làm Trước tác ở Viện Hàn Lâm. Lại bị khiển trách, và lần này thì ông bị cách chức luôn. Ngày 15 tháng 12 năm Đinh Mão (1867), Nguyễn Hàm Ninh qua đời, lúc thọ 59 tuổi. Mộ Nguyễn Hàm Ninh hiện ở xã Quảng Lưu, thị xã Ba Đồn tỉnh Quảng Bình. Mộ ông nằm giữa rú Cám trên Động Cao của xóm 4 xã Quảng Lưu, bên hồ Vân Tiền. Đây là địa danh Bài ca Trường Quảng Trạch mà Hoàng Kim đã kể trong bài trước. Tác phẩm ” Nguyễn Hàm Ninh một đời người một đời thơ” của nhà văn thầy giáo Hoàng Minh Đức, người bạn cùng làng của Hoàng Kim, trong sách “Đất và Người quê tôi” Nhà Xuất bản Thuận Hóa 2015 trang 87-98 và trên trang Tin Quảng Bình https://tinquangbinh.com/2983/nguyen-ham-ninh-mot-doi-nguoi-mot-doi-tho/ sẽ cung cấp bổ sung thêm nhiều chi tiết thú vị về thân thế cuộc đời và thơ văn Nguyễn Hàm Ninh.
(*) Đại Nam thực lục (“Chính biên – Đệ tam kỷ – Quyển LXIV, Thực lục về Hiến tổ chương hoàng đế”) chép: Đinh Mùi, Thiệu Trị năm thứ 7 (1847), mùa xuân, tháng giêng [63, tr.954]. (…) Thự án sát tỉnh Khánh Hòa là Nguyễn Hàm Ninh có tội bị mất chức. Ninh, lúc mới đến nhậm chức, có đi lễ (các nơi) chùa cổ, đền thiêng, nghe nói có một chiếc thuyền của người Tây dương đến đỗ ở ngoài bể, trong thuyền chỉ có độ 16 người. Ninh bảo thuộc hạ rằng: ‘Ta nghe nói người Tây dương rất có lòng tốt, không ngại gì, nhân tiện đến để yên ủi’. Ninh mới ủy người tìm chúng lên bờ, tặng cho một thanh đoản kiếm, rồi cho thuyền về trước. Kếđó Ninh cùng với thự Phó vệ úy Vũ Thành, Tri huyện huyện Vĩnh Xương Hoàng Minh và hơn 20 người viên biền, cùng xuống thuyền. Vừa ngồi yên, người Tây dương thốt nhiên cầm dao súng sấn đến trói cả lại, tra khảo đòi tiền bạc, làm đủ mọi thứ khổ nhục. Ninh thế không làm sao được, đâm đầu xuống biển tự tận. Người Tây dương lại cứu sống lại, giữ hơn 19 ngày, yêu sách không được, mới tha cho về. (Thuyền Tây dương) lại giương buồm mà đi. Việc đến tai vua. Vua than rằng: ‘Người Tây dương đến đó, chỉ là kiếm củi lấy nước mà thôi. Nguyễn Hàm Ninh là một viên quan to ở tỉnh, không có duyên cớ gì mà khinh thường đến, để mắc mưu chúng! Thân danh của Ninh vẫn không đáng kể, nhưng còn quốc thể thì sao?’. Lập tức sai bắt Ninh khóa tay, giải về, giao cho bộ Hình trị tội. Đến khi án dâng lên, Ninh và Vũ Thành, Hoàng Minh đều bị cách chức, phát vãng đến hai thành Điện Hải, An Hải sung làm quân. Bố chính Ngô Văn Địch, Lãnh binh Đỗ Tiệm không ngăn ngừa trước khi xảy việc, đều phải giáng một cấp. Bổ Lang trung bộ Binh Đặng Bá Văn làm án sát tỉnh Khánh Hòa. [63, tr.962-963].
NGUYỄN HÀM NINH NGƯỜI THẦY CỦA VUA
Nguyễn Hàm Ninh cuộc đời đa truân vì sao lại làm được Thầy của Vua ? Nguyễn Hàm Ninh thơ và đời ông đã nói rõ điều đó. Hai ghi chép về vua Minh Mệnh và vua Thiệu Trị là sự lý giải và bài học lịch sử sâu sắc
Nguyễn Hàm Ninh dạy Thái tử con vua (Quốc học độc thư một thầy một trò) dù ông nhỏ hơn con vua một tuổi vẫn được vua Minh Mệnh và vua Thiệu Trị tín nhiệm mời làm Thầy. Lý do vì: Nguyễn Hàm Ninh nổi tiếng văn chương. Nguyễn Hàm Ninh và Cao Bá Quát là đôi bạn thơ.trác tuyệt, Nguyễn Hàm Ninh là bạn thơ của Tam Khanh là Nguyệt Đình, Mai Am và Huệ Phố ở Huế, lại được Tùng Thiện Vương nổi tiếng văn chương (con vua Minh Mệnh) rất trọng vọng và nhân cách của Nguyễn Hàm Ninh lại cực cực kỳ trầm tĩnh hùng mạnh. Thơ Nguyễn Hàm Ninh viết về tâm sự của riêng ông, về nạn nước, về sự cùng cảnh sống khổ cực của những người nông dân nghèo nhưng phân định rất rõ ràng thị phi phải trái. Cuộc đời của Nguyễn Hàm Ninh cũng thật khác với Cao Bá Quát tuy hai ông là bạn chí thân. Thơ và đời Nguyễn Hàm Ninh trầm tĩnh, lắng đọng và dung dị hơn. Trong khi, Cao Bá Quát là một nhà thơ nổi danh ở giữa thế kỷ 19 trong lịch sử văn học Việt Nam, “Văn như Siêu Quát vô Tiền Hán. Thi đáo Tùng Tuy thất Thịnh Đường” (vua Tự Đức đã khen vậy 文 如 超 适 無 前 暵. 詩 到 從 綏 失 盛 唐 ) Cao Bá Quát làm quân sư trong cuộc nổi dậy Mỹ Lương, và bị mất ngay tại trận tiền vào tháng Chạp năm Giáp Dần (1855), gia đình ông bị tru di tam tộc, bị triều Nguyễn trả thù khốc liệt (***). Nguyễn Hàm Ninh thì qua bao nhiêu lần thăng giáng nhưng cuối đời vẫn thanh nhàn thảnh thơi với thơ Lệ Sơn xuân cảnh Phong Kiều dạ bạc dịch thơ Trương Kế và nhiều giai thoại truyền kỳ lắng đọng mãi với thời gian.
Vua Minh Mệnh là ông vua thịnh thế nhất thời nhà Nguyễn, bất luận khen hay chê. Thời vua Minh Mệnh, nước Đại Nam là rộng lớn nhất so với nước Đại Việt hoặc Việt Nam từ xưa tới nay; số hiền thần, danh sĩ , người tài trí thời vua Minh Mệnh là nhiều không đếm xuể ví như Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Phan Huy Chú, Trương Đăng Quế, Trịnh Hoài Đức, Trương Minh Giảng, Nguyễn Tri Phương, Hoàng Tế Mỹ, Lê Văn Đức, Doãn Uẩn, …, Vua Minh Mệnh có 1 vợ, 2 phi, 6 tần, 2 tiệp dư, 7 quý nhân, 2 mỹ nhân, 8 tài nhân, 15 cung nhân, ông có tới 142 người con, gồm 78 hoàng tử và 64 công chúa. Vua Minh Mệnh không lập hoàng hậu mà chỉ cao nhất là hoàng phi. Mẹ của vị hoàng tử trưởng Nguyễn Phúc Miên Tông (tức vua Thiệu Trị sau này) là bà Hồ Thị Hoa, còn có tên là Thật, sinh 1791. Bà qua đời năm 1807 lúc 17 tuổi chỉ 13 ngày sau khi sinh con. Bà được phong tước vị Tá Thiên Nhân hoàng hậu sau khi mất. Lăng của bà hiệu là Hiếu Đông Lăng, phía tả lăng Thiệu Trị tại làng Cư Chánh, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Nguyễn Phúc Miên Tông được bà nội là Thuận Thiên Cao Hoàng hậu chăm sóc và nuôi dưỡng. Vua Minh Mệnh đã thảo ra 11 bài thơ, trong đó có bài “Đế hệ thi” và 10 bài “Phiên hệ thi”.là phép đặt tên đôi khá chặt chẽ và tế nhị trong hoàng tộc Mỗi bài thơ 20 chữ với ý nghĩa tốt đẹp uyên bác dùng làm tiền từ cho 20 đời nối tiếp kể từ đời vua Minh Mệnh. “Đế hệ thi” có 20 chữ: “Miên, Hường, Ung, Bữu, Vĩnh/ Bảo, Quý, Định, Long, Tường/ Hiền, Năng, Kham, Kế, Thuật/ Thế, Thoại, Quốc, Gia, Xương.” Tất cả con trai Minh Mệnh theo phép đặt tên này đều phải có từ “Miên” đứng đầu, thêm sau đó là riêng như Miên Tông, Miên Định, Miên Nghi, Miên Hoành, Miên An…Từ đó trở đi, Hoàng tử hễ sinh thêm con trai thì đầy 100 ngày phải làm lễ “bảo kiến” (ẵm đến ra mắt vua) chiếu theo “đế hệ thư” con của thế hệ “Miên” đều phải có tên bắt đầu bằng chữ “Hường”; mọi trai của thế hệ “Hường” lại lấy tiền từ “Ưng” thêm sau tên do gia đình đặt… cứ thế đến hết 20 chữ của bài thơ “đế hệ” .10 bài thơ “Phiên hệ thi” cũng theo nguyên tắc như trên. Mục đích việc này nhằm chia rõ đế hệ được kế thừa đế nghiệp, phiên hệ là bờ rào bao quanh bảo vệ đế hệ. Minh Mệnh nói: Trẫm không dám so sánh với nhà Chu xưa ở Trung Nguyên bói năm được 700 năm, bói đời được 30 đời. Nhờ các tiên đế ta tính nhân đức, chính sự ân huệ tốt họ Nguyễn Phúc được cội sâu gốc bền, nghiệp lớn tốt thịnh. Trẫm chỉ giơ tay lên trán cầu trời cho từ nay về sau con cháu ta nhận nối cơ đồ lớn, được hưởng phước 500 năm, tức là hơn 20 đời, chẳng dám mong nhiều hơn! Triều Nguyễn đã thực hiện bài “đế hệ thư” đến chữ thứ 5 – “Vĩnh” thì bị cuộc cách mạng tháng Tám 1945 lật đổ.
Vua Thiệu Trị (1807-1847) là vị Hoàng đế thứ ba của nhà Nguyễn. Ông trị vì 7 năm từ năm 1841 đến khi qua đời năm 1847, được truy tôn miếu hiệu là Hiến Tổ. Vua Thiệu Trị phần nhiều sử sách đều nhận định là một người hiền hoà, siêng năng cần mẫn nhưng không năng động hùng tâm tráng khí và quyền thuật như vua Minh Mệnh. Ông được các quan Trương Đăng Quế, Lê Văn Đức, Doãn Uẩn, Nguyễn Tri Phương, Trương Minh Giảng, Lâm Duy Tiếp ra sức phò tá. Mọi cải cách và định chế pháp luật, hành chính, học hiệu, điền địa, binh bị đều đã được sắp đặt khá quy củ từ thời Minh Mạng, mà Thiệu Trị chỉ áp dụng, ít thay đổi. Phần lớn các cuộc chiến tranh, nổi dậy thời Thiệu Trị đều là do hậu quả từ thời vua Minh Mạng để lại và tình thế thay đổi đặc biệt trong mối quan hệ với Pháp, Xiêm, chủ nghĩa tư bản thời ấy đang vươn ra tìm kiếm thị trường. Thiệu Trị cũng là cũng là một vị vua giỏi văn chương có rất nhiều bài thơ mà nổi tiếng nhất là 2 bài thơ chữ Hán tên là Vũ Trung Sơn Thủy (Cảnh trong mưa) và Phước Viên Văn hội lương dạ mạn ngâm (Đêm thơ ở Phước Viên). Hai bài thơ này không trình bày theo lối thường mà viết theo lối ‘bát quái trận đồ’ thành 5 vòng tròn đồng tâm, mỗi vòng tròn có một số chữ, đếm mỗi bài có 56 chữ, ứng với một bài thơ thất ngôn bát cú thành 64 bài thơ. Hiện nay tuy các nhà ngôn ngữ và học giả đã tìm ra được 128 cách đọc nhưng ‘bát quái trận đồ’ vẫn còn là một thách đố chưa tìm hết lời giải. Thiệu Trị được đích thân vua Minh Mệnh lựa chọn và bồi dưỡng, làm vua lúc đã 34 tuổi. Hãn nhiên khi thờ Nguyễn Hàm Ninh làm người Thầy thì đó không chỉ là chủ ý của Minh Mệnh, ý kiến của triều thần mà còn là chủ ý của Thiệu Trị.
Triều Nguyễn tri tâm thuật quản lý ân uy tương phối có từ thời Gia Long đạt thịnh thế ở thời Minh Mệnh và được duy trì tiếp ở các đời vua sau. ‘Tứ bất” (bốn không) nhà Nguyễn thực thi mà không công bố thành vǎn bản nhưng rất chú trọng và ứng dụng quyền biến Không có Trạng nguyên, không có Tể tướng, không có Hoàng hậu không có Đông cung, Minh Mệnh rất quan tâm đến học hành khoa cử, tuyển chọn nhân tài nhưng cũng rất tâm thuật khống chế. Minh Mệnh chọn Nguyễn Hàm Ninh tâm cơ, thực tài, lỗi lạc nhân cách và văn chương nhưng không có địa vị cao để dạy con Vua là thực có tâm ý. Vua Minh Mệnh tinh thâm Nho học, đã dựng Quốc Tử giám, đặt chức Tế tửu và Tư nghiệp năm Tân Tị (1821), mở lại thi Hội thi Đình năm Nhâm Ngọ (1822). Trước đó, 6 năm một khoa thi nay rút xuống 3 năm: các năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu, thi Hương; các năm Thìn, Tuất, Sửu, Mùi thi Hội thi Đình. Vua còn cho đặt đốc học ở Gia Định thành, dùng thầy giáo người Nghệ An là Nguyễn Trọng Vũ làm phó đốc học để khuyến khích việc học tập ở Nam bộ.
NGUYỄN HÀM NINH VĂN CHƯƠNG NẾT ĐẤT
Bài thơ Phong Kiều dạ bạc của Trương Kế, người đời cho rằng bản dịch thơ "Nửa đêm đậu bến Phong Kiều" của Nguyễn Hàm Ninh là hay hơn cả.
Quạ kêu, trăng lặn, trời sương,
Lửa chài le lói sầu vương giấc hồ.
Thuyền ai đậu bến Cô Tô,
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San.
Nguyễn Hàm Ninh là bạn thơ của Cao Bá Quát và Thương Sơn Công Miên Thẩm, ông lưu lại trong dân gian một trời huyền thoại như thực như hư: "Hùm hét La Hà" "Bò đi Đá Nhảy" "“Chân dậm, tay mò bơn hói Kịa ” " Má kề, miệng ngậm bống khe Giang" "Nước trong như mắt người thanh lịch. Cỏ mướt như lưng gái dậy thì" . Nguyễn Hàm Ninh văn chương nết đất. Dưới đây là ít trích dẫn giai thoại và thơ Nguyễn Hàm Ninh. mời xem tiếp tại đây (hoặc ở đây *)
BILL GATES VIẾT GÌ HÔM NAY?
Bill Gates 1 tháng 6 lúc 00:00
Xin chúc mừng vòng đầu tiên của những người nhận giải thưởng từ Máy gia tốc chẩn đoán thuốc của Alzheimer. Ý tưởng của bạn đang đưa chúng ta đến gần hơn với một chẩn đoán đáng tin cậy, giá cả phải chăng và dễ sử dụng cho bệnh Alzheimer.
(Congratulations to the first round of award recipients from the Alzheimer’s Drug Discovery Foundation’s Diagnostics Accelerator. Your ideas are getting us closer to a reliable, affordable, and easy-to-use diagnostic for Alzheimer’s disease).
Bill Gates 30 tháng 5 lúc 00:30
Gần đây tôi đã ngồi xuống với một trong những tác giả yêu thích của tôi, Jared Diamond. Chúng tôi đã nói về cuốn sách mới đầy hấp dẫn của anh ấy, Upheaval, và lý do tại sao xã hội của chúng tôi trở nên cực đoan về mặt chính trị: https://b-gat.es/2Xg2JIa (I recently sat down with one of my favorite authors, Jared Diamond. We talked about his fascinating new book, “Upheaval,” and why our society has become so politically polarized: https://b-gat.es/2Xg2JIa)
Bill Gates 29 tháng 5 lúc 02:14 ·
Nếu bạn giống như tôi, bạn có thể bắt đầu suy nghĩ về những gì LỚN trong danh sách đọc mùa hè của bạn trong năm nay. Đây là một nơi tuyệt vời để bắt đầu: https://b-gat.es/2YTyUxf (If you’re like me, you’re probably starting to think about what’s on your summer reading list this year. This is a great place to start: https://b-gat.es/2YTyUxf)
BILL GATES HỌC ĐỂ LÀM Bill Gates là một thế giới trí tuệ, lắng đọng kinh nghiệm sống học để làm (learning to doing) cần được khám phá. Bill Gates bỏ học mà thành tài, giàu có mà phúc hậu, bỏ quyền lực mà làm từ thiện, sống hữu hạn mà vĩnh cữu. Nhiều giá trị lớn của ông cần được khám phá không riêng cho lớp trẻ mà mang tính phổ quát cho tất cả mọi người.
Gates Notes và @BillGates là một trong những trang yêu thích nhất của tôi. Văn hóa mạng ngày nay đang tương tác mỗi lúc một hoàn hảo và hợp lý hơn với văn hóa đọc, đó là sự phối kết của phát triển và bảo tồn. Văn hóa mạng nhanh mạnh hiệu quả hơn, chia sẽ hơn, cần cho sự đọc mau lẹ và tiết kiệm thời gian hơn, trong khi văn hóa đọc sâu sắc, tinh tế hơn, chắt lọc hơn, cần cho bảo tồn và suy ngẫm nhiều hơn, lắng đọng tinh hoa hơn. Trang Gates Notes và @BillGates tổng hòa khá hoàn hảo điều đó.
“Đừng so sánh mình với bất cứ ai trong thế giới này … nếu bạn làm như vậy, bạn đang sỉ nhục chính mình” (Don’t compare yourself with anyone in this world … if you do so, you are insulting yourself. Bill Gates).
Những câu nói Bill Gates thật đáng suy ngẫm. Cuộc đời của nhiều người không thành công và kém may mắn có thể vịn lời ông mà đứng dậy. Minh triết nhân sinh của Bill Gates thật chí thiện, trí tuệ với tư duy mạch lạc và có hệ thống khoa học. Bill Gates là chuyên gia hàng đầu của máy tính nhưng trong Gates Notes công việc đầu tư tiền bạc, công sức và thời gian của ngân quỹ Bill & Melinda Gates Foundation lại xếp hàng đầu cho nông nghiệp, thiên nhiên, đồ ăn thức uống của con người.
Sự lựa chọn này của Bill Gates làm tôi nhớ đến lời thầy Norman Borlaug: “Đời người tối thiểu phải ăn, kế đến là học tập, công việc, nhà ở, quần áo và chăm sóc sức khỏe. Quanh ta còn nhiều mảnh đời bất hạnh. Hiểm họa nghèo đói vẫn bùng phát bất cứ lúc nào. Hãy luôn nhớ điều đó”; “Hãy vươn tới những vì sao. Cho dù không chạm được vào nó, nhưng nếu cố gắng hết sức, ít ra, chúng ta cũng chạm được những hạt bụi của ngôi sao”; “Việc chính đời người chỉ ít thôi. Chuyên tâm đừng bận chuyện trời ơi. Phúc hậu suốt đời làm việc thiện. Di sản muôn năm mãi sáng ngời”. xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/2019/06/01/bill-gates-hoc-de-lam-3/
CHÁU VÀ ÔNG
khơi dậy thao thức tiếp nối bài thơ Chính Hữu:
Cháu dắt ông đi/
Hai ông cháu mình vừa đi vừa học/
Ông dạy cháu biết tất cả/
những gì/
Có ở trên trời dưới đất/
Còn cháu thì dạy ông biết/
Cuộc đời này ngắn,/
nhưng ông đừng buồn/
Vì nó - vĩnh hằng - tiếp tục, ...
(thơ Chính Hữu, Ông và cháu).
Cháu dẫn ông vào/
thăm lớp học trẻ thơ mà cháu dạy/
Ông dạy cháu chăm lớp lớn/
lớp làm/
vì cần lắm chén cơm ngon/
Cháu dạy ông học dạy con/
từ thuở còn thơ/
cháu học tiến sĩ/
Để mà - chuyên tâm - dạy trẻ
(thơ Hoàng Kim, Cháu và ông).
Cảm ơn cháu Dinh Thi Thu Hang, một người cháu khởi nghiệp tuyệt vời, nay đang học Early Childhood Education - Doctoral Student tại 広島大学 (Hiroshima University), với lối DẠY VÀ HỌC của Nhật, nơi đã đào luyện nên những thế hệ vàng mà chúng ta nhìn thấy ngày nay. Cám ơn thầy Đậu Quoc Anh, Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam, nhà nghiên cứu và nhà giáo lão thành, là người đã cùng cùng thầy Trần Văn Diễn nhiều năm quản lý đào tạo sau đại học, là thế hệ vàng trí thức tinh hoa Hà Nội. http://fa.hcmuaf.edu.cn/hoangkim
HOA ĐẤT
Người ta hoa đất (*) An nhàn vô sự là tiên (**)
Thung dung cỏ hoa thế giới người hiền
Hoàng Kim kính thầy GS. Mai Văn Quyền
xem tiếp tại đây hoặc tại đây https://hoangkimlong.wordpress.com/category/hoa-dat/
NGÀY CỦA BỐ Thơ đồng dao cho Bình Minh An Hoàng Kim
NGÀY CỦA BỐ Nhớ ngày giỗ Năm tháng Năm Nhớ Tổ Ngoại nhớ Quảng Bình. NGÀY CỦA BỐ Cậu làm ngựa Ngoại chụp hình Vui gia đình Bình Minh An NGÀY CỦA BỐ Mười tám sáu Thương Bà Đen Nhớ Bà Trần.Nhớ thắp hương NGÀY CỦA BỐ Ông thì vui Bà thì cười Cha Mẹ mừng Cháu thì múa . NGÀY CỦA BỐ là ngày giỗ Waterloo Lưu sử thi Nhờ Walter Scott NGÀY CỦA BỐ Con làm ngựa Mẹ chụp hình Vui gia đình Hoa Của Đất NGÀY CỦA BỐ Bình Minh An Hát liên tục Hát liên hoàn Câu ba chữ (xem tiếp tại đây hoặc tại đây...)
TỈNH THỨC SỰ CHẬM RÃI MINH TRIẾT Hoàng Kim
Tôi yêu thơ văn giản dị, xúc động, ám ảnh, chữ ít nhưng gợi nhiều, viết ngắn nhưng dài ở sự ngân vang, những câu chữ cô đặc tối đa kết hợp nhuần nhuyễn giữa phác mộc giản dị với sự chậm rãi minh triết, chỉ viết những điều thôi thúc nhân văn ưng ý (xem tiếp tại đây và tại đây.)
Hồ Chí Minh hữu ý hay vô tình đã chọn ngày 19 tháng 5 để thăm Khổng Tử. Ngày 19 tháng 5 là ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, cũng là ngày thành lập Việt Minh, khai sinh đường Hồ Chí Minh trong lịch sử. Chuỗi ba sự kiện lớn này đóng mốc son ngày 19 tháng 5 vào lịch sử Việt Nam và thế giới đối với nền độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và sự nghiệp thống nhất Tổ quốc Việt Nam. Tôi có viết bài “Hồ Chí Minh trọn đời minh triết” với ba ý: Việt Nam Hồ Chí Minh biểu tượng Việt; Bác Hồ nói đi đôi với làm mẫu mực đạo đức; Bác Hồ rất ít trích dẫn. Hồ Chí Minh bình sinh rất ít trích dẫn nhưng đối với Khổng Tử, Hồ Chí Minh có riêng hai bài đánh giá kỹ và sâu về di sản Khổng Tử. Tới Bắc Kinh lần này, tôi ước nguyện thăm lúa siêu xanh và thăm Khúc Phụ.
Khổng Tử sinh năm 551 mất năm 479 Trước Công Nguyên là nhà hiền triết phương Đông nổi tiếng người Trung Hoa, suốt đời dạy người không mỏi, học người không chán. Các bài giảng và triết lý của ông, đặc biệt là đạo làm người và tu dưỡng đạo đức cá nhân, đã ảnh hưởng sâu rộng đến tư tưởng và đời sống của nhiều nước Đông Á suốt hai mươi thế kỷ qua. Người Trung Hoa đời sau đã tôn xưng ông là Vạn thế Sư biểu (Bậc Thầy muôn đời). Chính phủ Trung Quốc hiện nay, trong nỗ lực truyền bá văn hóa Trung Hoa ra thế giới, đã thành lập hàng trăm Học viện Khổng Tử khắp toàn cầu.
Khổng Tử là người thế nào? Viết về Khổng Tử liệu có thức thời không? Học để làm điều gì ở Khổng Tử? xem tiếp ...
Giáo sư tiến sĩ Mai Văn Quyền là nhà khoa học xanh, chuyên gia hàng đầu Việt Nam về lĩnh vực thâm canh lúa, hệ thống nông nghiệp, sinh lý thực vật và quản lý bền vững đất nước cây trồng. Thầy Quyền là gương sáng nghị lực, minh triết, phúc hậu, tận tâm trong nghiên cứu và giảng dạy nông học, suốt đời đồng hành với nông nghiệp, nông dân, nông thôn Việt Nam. Giáo sư Mai Văn Quyền nay (2017) đã qua tuổi 82 nhưng Thầy vẫn thung dung đi tới trong tốp đầu của các chuyên gia nông nghiệp Việt Nam thời hiện đại. Giáo sư là thầy hướng dẫn đã bảo vệ thành công của 12 tiến sĩ khoa học nông nghiệp, nhiều thạc sỹ, kỹ sư nông học, tác giả của sáu sách chuyên khảo và nhiều bài báo, bài viết đăng trên các tạp chí, sách ở trong và ngoài nước. Giáo sư Mai Văn Quyền từ năm 2007 đến nay là cộng tác viên thường xuyên của đài VOV 2 phát thanh mỗi tuần 2 lần các nội dung về phân bón trong khuôn khổ hợp tác giữa Đài VOV2 với công ty Cổ phần phân bón Binh Điền. Giáo sư là chuyên gia của chương trình VTV “Đồng hành và chia sẻ” hàng tuần trả lời các câu hỏi của nông dân cả nước qua thư bạn nghe đài, là cộng tác viên của báo Nông nghiệp Việt Nam và các báo nông nghiệp, viết bài phổ biến khoa học trong lĩnh vực phân bón, khoa học đất, sinh lý thực vật và khoa học cây trồng. Thầy với cương vị là Chủ tịch Hội đồng Khoa học của Công ty Cổ phần Phân bón Bình Điền, hàng năm tổ chức nhiều lớp tập huấn chuyển giao kỹ thuật sử dụng phân bón cho nông dân Việt Nam, Campuchia, và Myanmar, qua đó tạo thêm điều kiện tăng thêm sự hiểu biết và thắt chặt mối quan hệ giữa nhân dân và chính phủ các nước với nhân dân và chính phủ Việt Nam. Thầy Quyền là một điểm kết nối tuyệt vời trên Con đường lúa gạo Việt Nam.Thầy Quyền là gương sáng Thầy bạn trong đời tôi, Thầy bạn là lộc xuân cuộc đời. Bài học của thầy Quyền là Trí tuệ bậc Thầy. (xem tiếp...)
NGUYỄN DU 250 NĂM NHÌN LẠI
Hoàng Kim Nguyễn Du sinh ngày 3 tháng 1 năm 1766 nhằm ngày 23 tháng 11 năm Ất Dậu, tại phường Bích Câu ở Thăng Long (Hà Nội), mất ngày 16 tháng 9 năm 1820 (nhằm ngày 10 tháng tám năm Canh Thìn) tại kinh đô Huế, hưởng thọ 55 tuổi. Nguyễn Du tự Tố Như, hiệu Thanh Hiên, biệt hiệu Hồng Sơn Liệp Hộ (người đi săn ở núi Hồng), lại có hiệu Nam Hải Điếu Đồ (kẻ đi câu ở biển Nam). Nguyễn Du là danh nhân văn hóa thế giới, nhà thơ lớn, danh sĩ tinh hoa, hiền tài lỗi lạc, nhà chính trị, ngoại giao, văn hóa, giáo dục kiệt xuất không chỉ của nhà Nguyễn mà còn là kỳ tài muôn thuở của mọi thời đại Việt Nam. Nguyễn Du đã vượt lên vinh nhục bản thân giữa thời nhiễu loạn, vàng lầm trong cát để trao lại ngọc cho đời. (xem tiếp...)
"Thanh nhàn vô sự là tiên", ngày xuân đọc Trạng Trình là học phong thái thung dung tự tại, gần với thiên nhiên và dân chúng. Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491–1585) là nhà giáo, nhà tiên tri, nhà thơ triết lý, nhà văn hoá lớn của thời Lê - Mạc, bậc kỳ tài yêu nước thương dân, xuất xử hợp lý, hợp thời, sáng suốt. Sấm ký Nguyễn Bỉnh Khiêm thể hiện khả năng dự báo thiên tài và tầm nhìn kiệt xuất của một trí thức lớn.
Bài tựa về Trạng Trình của tiến sĩ Vũ Khâm Lân có vị trí trọng yếu để tìm hiểu thân thế và sự nghiệp của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Tác phẩm được viết năm 1743 cho tập gia phả dòng họ Trạng Trình sau khi cụ Trạng đã mất khoảng 158 năm. Áng văn xuất sắc này là viên ngọc rất quý của người xưa xứng đáng được đọc đi đọc lại nhiều lần. Hoàng Kim duyên may sưu tầm được sách hay nay tuyển chọn, biên soạn thành chín mục, hổ trợ dạy và học, đăng dần trên blog: Ngày xuân đọc Trạng Trình (1); Nguyễn Bỉnh Khiêm trí tuệ bậc Thầy (2); Bài tựa Nguyễn Công Văn Đạt phổ ký của TS. Vũ Khâm Lân (3) Sấm ký Nguyễn Bỉnh Khiêm (4); Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm (5). Thầy bạn Nguyễn Bỉnh Khiêm (6); Học trò Nguyễn Bỉnh Khiêm (7); Giai thoại về Trạng Trình (8); Cảm nhận về Trạng Trình (9).
Ngày xuân đọc Trạng Trình để học gương đạo đức thương dân, học sự minh triết thuận lý, tuỳ thời của kẻ sĩ trước biến động phức tạp. Học sự thanh nhàn vô sự là tiên, thung dung tự tại, gần với thiên nhiên và dân chúng. Học những trang thơ văn, sấm ký, thấm đẫm tình người và sự minh triết. Học những giai thoại, lời truyền, tâm thức dân gian, di tích lịch sử- văn hoá về Người.
Ngày xuân đọc Trạng Trình, càng thấy sự DẠY VÀ HỌC thật tâm huyết, trí tuệ và vinh dự biết bao!
Quả táo Apple Steve Jobs. Ba quả táo làm thay đổi thế giới: quả táo trong vườn địa đàng Adam và Eva, quả táo rơi trúng Newton, và quả táo cắn dở của Steve Jobs, cựu CEO của hãng Apple, con người huyền thoại của thế kỷ 21. Những câu chuyện về Jobs luôn là nguồn cảm hứng dồi dào cho thế hệ trẻ. Quả táo là Apple. Quả táo cũng là Steve Jobs. Quả táo là loại trái cây ngon phổ biến nhất hành tinh. Quả táo nay cũng là máy tính chất lượng Apple, thương hiệu giá trị nhất thế giới. Quả táo Steve Jobs cũng như Kiều Nguyễn Du. Ai nói đến Kiều lập tức gợi nhớ Nguyễn Du; ai nói đến Quả táo Apple lập tức gợi nhớ Steve Jobs và ngược lại. Thương hiệu Apple, điều hay nhất là “quả táo có cắn một miếng”. Chúng ta nhìn quả táo Jobs đã cắn một miếng mà thấy thèm. Táo ngon mọi người đều thèm cắn. Apple Steve Jobs làm nên giá trị Mỹ, là tấm giấy thông hành của nước Mỹ đi ra thế giới.
Tôi kể bạn nghe “câu chuyện quả táo”,“câu chuyện về ông chủ apple”, “hoa và ong” với những trãi nghiệm và suy ngẫm của riêng mình. Thật lạ lùng ý tưởng này của tôi lại trùng hợp với thầy Nguyễn Lân Dũng. Thầy Lân Dũng cũng nâng niu, sưu tầm, biên soạn "Câu chuyện ông chủ Apple". Thầy đã tuổi trên tám mươi mà vẫn thật tận tụy thu thập tuyển chọn thông tin về các điều hay lẽ phải, những gương sáng lập nghiệp để trao lại cho lớp trẻ. Biển học vô bờ, siêng năng là bến. Kiến thức nhân loại là mênh mông như biển và cao vọi như núi. Việc chính đời người là chọn lọc thông tin để dạy, học và làm được những điều bổ ích cho chính mình, cộng đồng và đất nước. Việt Nam chúng ta đã có tấm giấy thông hành của một đất nước độc lập, đẹp và thân thiện với những danh nhân minh triết dựng nước, giữ nước và nhiều gương anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang nhưng vẫn thiếu vắng những thương hiệu Việt lừng lẫy như Apple Steve Jobs xem tiếp...
Hồ Chí Minh trọn đời minh triết, kẻ phi thường mở nước, tâm hồn bình dị chí anh minh. “Kẻ phi thường” là chữ của Bác Hồ dùng để đánh giá và tôn vinh vị vua khai quốc Lý Thái Tổ Công Uẩn, cũng là chữ đánh giá công bằng lịch sử đối với người anh hùng áo vải Quang Trung hoàng đế Nguyễn Huệ. Bác Hồ ngày 19 tháng 5 năm 1965 thăm Khúc Phụ bày tỏ sự đánh giá công tâm học Khổng Tử và chính Người đã suốt đời ưu tiên thực hành đạo đức nhưng chính Bác đã lựa chọn “đường kách mệnh” theo Lê Nin.
Hồ Chí Minh tâm hồn bình dị chí anh minh, chính đại quang minh đi vào cửa chính của lịch sử Việt Nam và Thế Giới. Chủ tịch Mao Trạch Đông đã đánh giá đặc biệt trân trọng đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đôi câu đối đề tặng do chính Thủ tướng Chu Ân Lai trưởng đoàn Chính phủ Trung Quốc mang sang phúng viếng: Chí khí tráng sơn hà, kim cổ anh hùng duy hữu nhất. Minh tinh quang vũ trụ, Á Âu hào kiệt thị vô song. (Người anh hùng từ trước tới nay có chí khí bao trùm đất nước. Ngôi sao sáng vũ trụ, Á Âu hào kiệt có một không hai).
Bình sinh Hồ Chí Minh, đánh giá đúng hơn hết có lẽ là bài thơ dưới đây được cho là của 5 nhà cách mạng lão thành Nga kính viếng Bác :
Bình sinh đầu ngẩng tới trời xanh
Khuất núi hồn THƠM quyện đất lành
Anh hùng Hồ dễ nên nghiệp ấy
Tâm hồn bình dị CHÍ anh MINH. (xem tiếp...)
TÌNH YÊU CUỘC SỐNG. Giáo sư Tôn Thất Trình, tiến sĩ Trần Văn Đạt, tiến sĩ Nguyễn Văn Ngưu, phó giáo sư tiến sĩ Bùi Bá Bổng là những người Việt lỗi lạc ở FAO (Tổ chức Lương Thực Nông nghiệp Quốc tế, ảnh FAO, Wikipedia).
Thầy Tôn Thất Trình, tiến sĩ Trần Văn Đạt và tiến sĩ Nguyễn Văn Ngưu nay đều đã nghỉ hưu. PGS. TS. Bùi Bá Bổng hoàn thành nhiệm vụ Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp Phát triển Nông thôn Việt Nam ( 2001-2013) từ ngày 3 tháng 11 năm 2013 đến nay làm chuyên gia cao cấp về sản xuất lúa gạo tại FAO- RAP (1).
Câu chuyện thú vị là Viện Lúa Việt Nam có Giao ban cây lúa của bốn đời Viện Trưởng (5) gồm GS. Nguyễn Văn Luật, PGS. Bùi Bá Bổng, GS. Bùi Chí Bửu và TS. Lê Văn Bảnh thì ở FAO Rome cũng có sự Giao ban cây lúa của bốn đời Chánh chuyên gia, Thư ký Điều hành, Thư ký Kỹ thuật của Ủy ban Lúa Gạo Quốc tế, đó là GS. Tôn Thất Trình, TS. Trần Văn Đạt, TS. Nguyễn Văn Ngưu và PGS. Bùi Bá Bổng. Một sự so sánh thật thú vị chuyển tầm nhìn từ tầm nền nông nghiệp quốc gia đến nền nông nghiệp toàn cầu.
TÌNH YÊU CUỘC SỐNG. Bài thơ Câu cá bên dòng Sêrêpôk là cảm tác của tôi năm 1972 tại Tây Nguyên, trong buổi chiều câu cá bên dòng Sêrêpôk gần Buôn Đôn. Buổi câu cho bữa cơm người bạn sốt rừng ốm nặng thèm ăn cá. Nơi tôi câu cá là binh trạm nằm ở khoảng giữa Đăk Tô-Tân Cảnh và Buôn Đôn, rất gần điểm ảnh dòng sông Sêrêpôk của Đỗ Tuấn Hưng (hình). Lúc câu, tôi nghĩ nhiều về bài thơ Chèo thuyền trên sông Neva của Hoàng Bình và bức tranh sơn dầu nổi tiếng của Repin “Những người kéo thuyền trên sông Volga” và cảm nhận của người lính trước dòng sông. Neva, Volga là sông Nga huyền thoại sau này tôi may mắn được đến. Mekong sông Hồng là sông Việt mến yêu của Tổ Quốc tôi. Từ Mekong đến Neva, nhớ lại và suy ngẫm.(xem tiếp...)
VỀ MIỀN TÂY. ” Sao anh chưa về lại miền Tây. Nơi một góc đời anh ở đó. Cần Thơ Sóc Trăng sông Tiền Sông Hậu,… Tên đất tên người chín nhớ mười thương. Anh có về Bảy Núi Cửu Long, Nắng đồng bằng miên man bao nỗi nhớ. Kênh ông Kiệt thương mùa mưa lũ…. Anh có về nơi ấy với em không?” (thơ Hoàng Kim). Miền Tây Nam Bộ với tôi là cả một vùng ký ức. Nhớ miền Tây, tôi ghé vào đọc trang Những khoảng lặng cuộc sống – VỀ MIỀN TÂY bài ký rất hay của Nguyễn Quỳnh Trâm. (Bình minh trên bến Ninh Kiều, ảnh Nguyễn Quỳnh Trâm) Tôi tẩn mẩn xếp lại những tản văn hay, bài thơ hay, trang thư … của những người bạn, và lắng nghe nôn nao ký ức dội về …
Pie đại đế là nhân vật lịch sử vĩ đại nhất nước Nga, vượt cả Stalin và Le Nin . Ông đã có những thành tựu đặc biệt to lớn trong công cuộc hiện đại hóa đất nước, chuyển đổi mạnh mẽ một nước Nga lạc hậu, đi sau Tây Âu hàng trăm năm vượt lên trở thành một trong năm đại đế quốc của châu Âu, chỉ trong một thời gian ngắn. Pie đại đế có tố chất quân vương vừa cứng rắn vừa mềm dẽo: vừa nhiệt huyết kiên quyết, vừa bao dung mềm mỏng, vừa tàn nhẫn cứng rắn, vừa tình cảm ân nghĩa. Ông đã tạo nên bước ngoặt trong lịch sử nước Nga.
19 tháng 5là ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, cũng là ngày thành lập Việt Minh, khai sinh đường Hồ Chí Minh trong lịch sử. Chuỗi ba sự kiện lớn này đóng mốc son ngày 19 tháng 5 vào lịch sử Việt Nam và thế giới đối với nền độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và sự nghiệp thống nhất Tổ quốc Việt Nam. Bác Hồ trọn đời minh triết. Bài viết này chỉ xin đề cập ba ý: Việt Nam Hồ Chí Minh biểu tượng Việt; Bác Hồ nói đi đôi với làm mẫu mực đạo đức; Bác Hồ rất ít trích dẫn.
Việt Nam Hồ Chí Minh là biểu tượng Việt
Bác Hồ là biểu tượng của thế giới người hiền, là tinh hoa văn hóa Việt gốc và văn hóa tương lai.
Giáo sư Trần Văn Giàu trong bài viết Nhân cách lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã luận về bảy phẩm chất nhân cách mà cũng là minh triết của Bác Hồ được con dân nước Việt và thế giới ngợi ca. Đó là : Ưu tiên đạo đức, Tận tụy quên mình, Kiên trì bất khuất, Khiêm tốn giản dị, Hài hòa kết hợp, Thương, quý người, nâng đỡ con người, thấu tình đạt lý, Yêu thiên nhiên, hòa hợp với thiên nhiên. Giáo sư Trần Văn Giàu kết luận: “Xin mượn ý của một nhà báo ở châu Đại Dương để tạm kết chủ đề luận về nhân cách Hồ Chủ tịch: Người ta không thể trở thành một Cụ Hồ Chí Minh, nhưng ở Cụ Hồ, mỗi người có thể học một số điều làm cho mình trở thành tốt hơn”.
Bác sĩ Vũ Đình Tụng đã kể câu chuyện Bức thư huyết lệ trong hàng vạn chuyện đời thường về Bác Hồ, xin được trích nguyên văn.(xem tiếp)
Nhà bác học Anhstanh, cha đẻ của Thuyết tương đối, đã nhận định: “Nếu có một tôn giáo nào đương đầu với các nhu cầu của khoa học hiện đại thì đó là Phật giáo. Phật giáo không cần xét lại quan điểm của mình để cập nhật hóa với những khám phá mới của khoa học. Phật giáo không cần phải từ bỏ quan điểm của mình để xu hướng theo khoa học, vì Phật giáo bao hàm cả khoa học cũng như vượt qua khoa học” . “Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo toàn cầu, vượt lên trên mọi thần linh, giáo điều và thần học. Tôn giáo ấy phải bao quát cả phương diện tự nhiên lẫn siêu nhiên, đặt trên căn bản của ý thức đạo lý, phát xuất từ kinh nghiệm tổng thể gồm mọi lĩnh vực trên trong cái nhất thể đầy đủ ý nghĩa. Phật giáo sẽ đáp ứng được các điều kiện đó” . “Khoa học mà thiếu tôn giáo là khập khiễng. Tôn giáo mà không có khoa học thì mù quáng” . Cả ba câu này đều được trích từ Những câu nói nổi tiếng của Anhstanh (Collected famous quotes from Albert), và được dẫn lại trong bài Minh triết sống thung dung phúc hậu của Hoàng Kim
Khoa học và thực tiễn giúp ta tìm hiểu những phương pháp thực tế để thể hiện ước mơ, mục đích sống của mình nhằm sống yêu thương, hạnh phúc,vui khỏe và có ích. Đọc rất kỹ lại Ki tô giáo, Hồi giáo,Do Thái giáo,Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo, … và chiêm nghiệm thực tiễn , tôi thấm thía câu kinh Phật với triết lý vô ngã: Chân lý là suối nguồn chứ không phải là con người thần thánh hay chân lý tuyệt đối. Trúc Lâm Yên Tử Trần Nhân Tông có minh triết: Hãy quay về tự thân chứ không tìm ở đâu khác. Luật Hấp Dẫn, Thuyết Tương đối, Thành tựu Khoa học và Thực tiễn giúp ta khai mở nguồn năng lượng vô tận của chính bản thân con người và thiên nhiên. Đó là ba ngọn núi cao vọi của trí tuệ, là túi khôn của nhân loại. Qua đèo chợt gặp mai đầu suối. Gốc mai vàng trước ngõ. Nhớ cánh mai xưa. …
Việt Nam là chốn tâm thức thăm thẳm của đạo Bụt (Phật Giáo) trãi suốt hàng nghìn năm. Lịch sử Phật giáo Việt Nam theo sách Thiền Uyển tập anh xác nhận là đạo Phật được truyền trực tiếp từ Ấn Độ theo đường biển vào Việt Nam, gồm Giao Chỉ ở phía bắc và Chăm pa ở phía nam, khoảng thế kỉ thứ ba đến thế kỉ thứ hai trước Công nguyên, chứ không phải từ Trung Hoa như một số quan niệm trước đây. Phật giáo đồng hành chung thủy, lâu bền với dân tộc Việt, dẫu trãi nhiều biến cố nhưng được dẫn dắt bởi những nhà dẫn đạo sáng suốt và các đấng minh vương, lương tướng chuộng nhân ái của các thời nên biết thể hiện sự tốt đạo, đẹp đời. Việt Nam là nước biết tiếp thu, chắt lọc tri thức tinh hoa của nhân loại, chuộng sự học, đồng thời biết quay về với tự thân tổng kết thực tiễn, chứ không tìm ở đâu khác.
Phật giáo, Khoa học và Việt Nam là ba học hỏi và nhận thức căn bản của tôi.
Bản chất cuộc sống là hạnh phúc và đau khổ, vui vẻ và phiền muộn, sự thiếu hoàn thiện và vô thường. Minh triết của đời người hạnh phúc là biết sống thung dung, phúc hậu, thanh thản, an nhiên tự tại, nhận ra kho báu vô giá của chính mình, không lo âu, không phiền muộn, sống với tinh thần dịu hiền và trái tim nhẹ nhõm.
Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491–1585) là nhà giáo, nhà tiên tri, nhà thơ triết lý, nhà văn hoá lớn của thời Lê -Mạc, bậc kỳ tài yêu nước thương dân, xuất xử hợp lý, hợp thời, sáng suốt. Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm là những kiệt tác bền vững với thời gian: “Biển Đông vạn dặm giang tay giữ. Đất Việt muôn năm vững thái bình” (Cự ngao đới sơn). An nhàn, vô sự là tiên (Sấm ký). Giữ khí, gìn tinh, lại dưỡng thần Ít lo, ít muốn, ít lao thân (Dưỡng sinh thi). Nhàn (Thơ Nôm, bài 73) Chín mươi thì kể xuân đà muộn. Xuân này qua thì xuân khác còn (Chín mươi, thơ Nôm bài 29 ). Vẹn toàn điều Thiện là Trung, không vẹn toàn điều Thiện thì không phải là Trung. Tân là cái bến, biết chỗ dừng lại là bến chính, không biết chỗ dừng lại là bến mê… Nghĩa chữ Trung chính là ở chỗ Chí Thiện. (Trung Tân quán bi ký, 1543) Làm việc thiện không phải vì công tích mà ở tấm lòng. Nay vừa sau cơn loạn lạc thì chẳng những thân người ta bị chìm đắm, mà tâm người ta càng thêm chìm đắm. Các bậc sĩ đệ nên khuyến khích nhau bằng điều thiện, để làm cho mọi người dấy nên lòng thiện mà tạo nên miền đất tốt lành. (Diên Thọ kiều bi ký, 1568). Dưới đây là Những kiệt tác thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm, tuyển những bài đặc sắc nhất trong kho tàng đồ sộ thơ văn Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Ba chuyện vui cho em: Những điều Harvard không dạy bạn; Dưỡng sinh thi của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Danh ngôn của Albert Einstein Em thích chuyện nào? xem tiếp...
Nha Trang, biển yển rừng trầm, thiên đường nghỉ dưỡng du lịch biển đảo nổi tiếng Việt Nam là nơi an nghĩ và lưu dấu những cống hiến đặc biệt xuất sắc của nhà bác hoc thiên tài Yersin. Quần thể mộ Yersin ở Suối Dầu và thư viện Yersin ở Viện Pasteur Nha Trang là trường hợp duy nhất Chính phủ Việt Nam cấp bằng chứng nhận di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia cho một người nước ngoài. Tại làng Tân Xương ở Suối Dầu, dân làng thờ Yersin làm thành hoàng. Ngày mỗi ngày, công viên Yersin, Bảo tàng Yersin, mộ Yersin càng có nhiều lượt khách trong nước và quốc tế đến thăm để chiêm nghiệm bài học lớn tình yêu cuộc sống. (xem tiếp...)
Tình hình biển Đông có gì mới ? các bài mới đáng chú ý : 7 đảo nhân tạo Trung Quốc vừa bồi đắp ở Trường Sa đặt ra vấn đề cấp bách gì? (Hải Đăng, VHNA 30 3 2015) Mỹ: Trung Quốc xây Vạn lý Trường Thành trên Biển Đông (VOA 2 4 2015); Sóng ngầm địa chính trị khu vực và sự lựa chọn của Việt Nam (Lê Hồng Hiệp. Nghiên cứu Quốc tế 28. 12. 2014); Biển Đông: Thế trận đảo nhân tạo Trung Quốc đe dọa Việt Nam (RFI, 2.3. 2015); Trang Tình yêu cuộc sống lập chuyên mục này để chăm chú theo dõi và quan tâm sâu sắc. “Biển Đông vạn dặm chung tay giữ. Đất Việt muôn năm vững thái bình” (Nguyễn Bỉnh Khiêm 1491-1585). xem tiếp: https://hoangkimlong.wordpress.com/2015/04/02/tinh-hinh-bien-dong-co-gi-moi-2/
Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn mất ngày 1 tháng 4 năm 2001. Di sản của người nhạc sĩ tài hoa này để lại là Nhạc Trịnh với trên 600 ca khúc về tình yêu cuộc sống, hòa bình nhân đạo và nỗi đau thân phận con người. “Bao nhiêu năm rồi còn mãi ra đi. Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt. Trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt. Rọi suốt trăm năm một cõi đi về…” Tình yêu cuộc sống Chào ngày mới 01 tháng 4 ghi nhận ngày mất của Trịnh là một trong ba sự kiện đáng nhớ nhất của ngày này. Bài dưới đây là những ghi nhớ của tôi về Trịnh Công Sơn. xem tiếp
Thăm nơi tưởng niệm nhà giáo Jan Amos Komenský (1592-1670) ở thành phố Kunvald và học tập, nghiên cứu hai tuần tại Viện Di truyền Mendel, nơi từng làm việc của nhà di truyền học Gregor Johann Mendel(1822 – 1884) ở thành phố Brno, nước cộng hòa Séc. Hoàng Kim Rừng bao la. Mênh mông rừng lipa. Ngọn gió thổi từ đâu phương xa? Có phải thổi từ chiều sâu lịch sử? Dấu ấn thời gian phôi pha. Trang đời như trang vở. Người thợ khéo để lại ngôi chùa. Cho khách thập phương ngưỡng mộ. Người thầy giỏi gửi lại trang sách cuộc đời. Cho cháu con ngàn năm tưởng nhớ. Vị tướng để lại chiến công Mở cõi, xây nền. Con người và thiên nhiên. Lưu giữ những điều thiện ác. Bao thế kỷ đi qua Trăm năm là khoảng khắc Ta có gì đây để lại cho đời? (xem tiếp)
“Qua đèo chợt gặp mai đầu suối” là bài viết được nhiều người yêu thích và trao đổi. Nay tôi bổ sung thêm năm tìm tòi mới: 1) Tầm hữu vị ngộ, thơ Hồ Chí Minh, đúc kết mới sau tám năm tìm hiểu. 2) Nhành mai, điểm nhấn tinh tế trong thơ Bác. 3) Đèo Ngang và những tuyệt phẩm thơ cổ. 4) Đèo Ngang, nơi lưu dấu những huyền thoại. 5) Hoàng Kim cảm khái về những câu thơ lưu lạc: Ai gửi ai những câu thơ lưu lạc. Chốn nhân gian thầm lặng tháng năm dài. “Thập tải luân giao cầu cổ kiếm. Nhất sinh đê thủ bái hoa mai” (Mười năm lưu lạc tìm gương báu/ Bình sinh ta chỉ bái hoa mai). Thơ ai mà tráng khí vậy? Hóa ra, đó không hẵn là thơ Cao Bá Quát, quốc sư khởi nghĩa Mỹ Lương, cũng không hẵn là của tri phủ Hán Dương Ngải Tuấn Mỹ , người tặng đôi câu đối trên cho Nguyễn Tử Giản phó chánh sứ triều Nguyễn, mà có thể là của Nguyễn Du, câu thơ lưu lạc trên gốm sứ Trung Hoa như những phát hiện mới đây về đĩa Mai Hạc truyền tụng trong dân gian.
Kính thưa đ/c Nguyễn Hay, Hiệu trưởng; Đ/c Huỳnh Thanh Hùng - Bí thư Đảng ủy, P. Hiệu trưởng; các đ/c trong Ban Chấp hành Đảng ủy; lãnh đạo các đoàn thể quần chúng, đảng viên được nhận huy hiệu 40 năm, 30 năm tuổi Đảng và toàn thể cán bộ, đảng viên trong Đảng bộ Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh. (xem tiếp).
“..Học thuyết của Khổng Tử có ưu điểm là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tôn giáo của Jêsu có ưu điểm của nó là lòng nhân ái cao cả. Chủ nghĩa Mác có ưu điểm là phương pháp làm việc biện chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm là chính sách của nó thích hợp với điều kiện nước ta. Khổng Tử, Jêsu, Mác, Tôn Dật Tiên chẳng có ưu điểm chung đó sao? Họ đều mưu cầu hạnh phúc cho loài người, mưu cầu hạnh phúc cho xã hội. Nếu hôm nay họ còn sống trên đời này, tôi tin rằng họ nhất định sống chung với nhau rất hoàn mỹ như những người bạn thân thiết. Tôi cố gắng làm một người học trò nhỏ của các vị ấy..”
- Trích "Hồ Chí Minh về vấn đề tôn giáo và tín ngưỡng", NXB Khoa học xã hội, H.1996, tr. 152.
Ảnh: Chủ tịch Hồ Chí Minh và Thủ tướng Phạm Văn Đồng.
ĐỌC LẠI VÀ SUY NGẪM. Hoàng Kim. Tôi đọc lại Vương Trí Nhàn: Thử trả lời câu hỏi:Thế nào mới là văn hóa thực thụ? "Thành kính và thuần thục", ông chiêm nghiệm và tự trả lời. Hữu Mai tại tiểu thuyết lịch sử đầu tiên về đại tướng Võ Nguyện Giáp trong chiến dịch Điện Biên Phủ "Không phải huyền thoại" cũng tự chiêm nghiệm và tự trả lời "mà là trí tuệ Con Người". Câu trả lời ngoài trang sách "ý tại ngôn ngoại" cũng không nằm trong tựa đề cuốn sách nổi tiếng nêu trên được tái bản lần thứ tư mà do người đọc tự mình suy ngẫm và rút ra.
Vương Trí Nhàn kể chuyện Nguyễn Tuân viết thiên truyện mang tên 'Chén trà trong sương sớm' , sau Nguyễn Tuân giản lược đi mà chỉ gọi 'Chén trà sương': " Nhân vật chính trong truyện, một cụ già, đã làm cái việc chuẩn bị cho những chén trà uống trong buổi sớm mai của mình với tất cả thành kính và những sự dụng công, mà người ngày nay chắc bảo là cầu kỳ: nào ấm đun phải ra sao, lửa phải cháy đượm thế nào, nước sôi già phải được thử lại thế nào. Rồi pha, rồi uống, nhất nhất đều tuân thủ những nguyên tắc khắt khe của trà đạo. Nguyễn Tuân kết luận: Chưa bao giờ ông già này dám cẩu thả trong cái thú chơi thanh đạm. Pha cho mình cũng như pha trà mời khách, cụ ấy đã để vào đấy nhiều công phu. Những công phu đó đã trở nên lễ nghi. Trong ấm trà pha ngon, người ta nhận thấy có một mùi thơ và một vị triết lý . Uống trà đã vậy, đến như những ngày sóc vọng tức là tuần rằm mùng một, lên chùa lễ Phật hoặc giỗ tết thờ cúng tổ tiên, ông cha ta xưa càng đòi hỏi một sự thuần khiết trong nghi lễ, bao gồm cả tấm lòng chân thành lẫn sự tự nguyện tôn trọng mọi quy tắc ứng xử đã trở thành khuôn mẫu."
Vương Trí Nhàn cảnh báo: "Những cách làm phi văn hóa đang quá phổ biến ... Đang thấy xảy ra một quá trình đối nghịch đáng ngại, tức là người đến với văn hoá càng đông thì văn hoá lại càng trở nên xô bồ, thô lậu và chưa biết bao giờ tìm lại được vẻ thiêng liêng thanh khiết của nó. Đôi khi, người ta không khỏi phì cười để rồi sau đó thấm thía buồn trước việc mấy cô mấy cậu choai choai vào chùa mà ăn mặc hở hang và cả mấy câu cầu khấn tối thiểu cũng không thuộc. Lại càng buồn hơn khi phải tận mắt chứng kiến những công trình tu bổ di tích văn hoá theo lối học đòi, làm mất vẻ cổ kính vốn có, hoặc phải đọc những dòng mô tả lịch sử một nghệ thuật truyền thống nào đó được viết vội vàng theo kiểu nói lấy được, khen lấy được. Dẫu sao, những vụng dại ấy còn có thể tạm tha thứ. Đến như những người mở hội lễ chỉ nhằm thu tiền lệ phí, góp tiền công đức xây chùa đúc tượng cốt để cầu mong thần thánh bỏ qua cho mọi hành động gian manh, đội bát hương cốt để phát tài phát lộc thăng quan tiến chức... tóm lại, làm tất cả những việc cao quý với mục đích vụ lợi, rồi lại tự lừa luôn cả mình và lớn tiếng khuyên nhủ mọi người trở về với văn hoá dân tộc, thì trước khi nói đến khía cạnh đạo đức, ở đây còn có vấn đề chính danh tức là người ta đã không làm đúng một việc như ý nghĩa việc đó phải có".
Xuân sang, suy ngẫm về "Góc nhìn" góp phần bảo tồn và tôn vinh Văn Hóa Việt. Hãy học thái độ của nước mà đi như dòng sông. Bảo tồn và phát triển những giá trị đích thực. Dòng sông văn hóa Việt thao thiết chảy, thao thiết đi về biển lớn, lắng đọng phù sa sỏi đá, tắm mát cây cối ruộng đồng và neo giữ bến quê lòng người... Thế nào là văn hóa thực thụ? "Thành kính và thuần thục, đi như dòng sông" (đọc tiếp)
DẠY VÀ HỌC. Giáo sư Sebastian Thrun, 45 tuổi người Đức, giảng dạy môn trí tuệ nhân tạo (AI - Artificial Intelligence) của Trường Đại học Stanford, tiếp nối Khan Academy, đang góp phần làm thay đổi phương thức dạy và học trên toàn thế giới. Trang "Học thế nào" có bài viết "Giáo dục đẳng cấp thế giới" của Salman Khan do Đào Minh Châu dịch, Các khóa học đại trà trực tuyến mở MOOC do Nguyễn Ngọc Tuấn giới thiệu. Giáo sư Tôn Thất Trình có bài "Đại học trực tuyến Hoa Kỳ". Mạng Thông tin Khoa học và Công nghệ thành phố Hồ Chí Minh (Science and Technology Information.Net -STINET- có bài "Giáo sư không biên giới".
Mô hình dạy và học trực tuyến đã được Thrun học tập và cải tiến từ Khan Academy nơi có hơn 200 triệu lượt truy cập bài giảng trực tuyến video với đủ mọi chủ đề. Thrun cho biết ông đã làm điều này khi nhận thức được nhu cầu rất cao của internet trong thế giới hiện đại. Ông thật sự bị sốc khi thấy số người đăng ký học ông lên tới 160.000 người và điều bất thường đã xảy ra trong lớp học, sau khi bài giảng của ông được đưa lên internet hai hoặc ba tuần thì lớp học chỉ còn khoảng 30 sinh viên so với 200 sinh viên được đăng ký ban đầu. Ông hỏi và sinh viên đã cho ông biết rằng họ thích nghe bài giảng của ông trên internet hơn, vì có thể nghe đi nghe lại bài học nhiều lần vào bất cứ lúc nào với sự miễn phí. Rõ ràng tính cấp thiết phải đào tạo trực tuyến và phải đổi mới tư duy để vận dụng và khai thác hết khả năng của internet phục vụ dạy và học (xem tiếp)
DẠY VÀ HỌC. Bản chất cuộc sống là hạnh phúc và đau khổ, vui vẻ và phiền muộn, sự thiếu hoàn thiện và vô thường. Minh triết của đời người hạnh phúc là biết sống thung dung, phúc hậu, thanh thản, an nhiên tự tại, nhận ra kho báu vô giá của chính mình, không lo âu, không phiền muộn, sống với tinh thần dịu hiền và trái tim nhẹ nhõm (xem tiếp)
DANH NHÂN VIỆT. Nguyễn Hiến Lê (1912–1984) là nhà giáo, nhà văn, học giả, dịch giả, với 120 tác phẩm sáng tác, biên soạn và dịch thuật thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau. Ông là người được giới trí thức và nhân dân lao động kính trọng vì nhân cách cao qúy, cuộc sống thanh bạch, học vấn uyên bác và hiệu qủa lao động hiếm thấy. Trong “Lời mở đầu” tác phẩm “Đời viết văn của tôi” Nguyễn Hiến Lê đã viết: “Đời tôi có thể tóm tắt trong hai chữ HỌC và VIẾT. Hai việc đó liên quan mật thiết với nhau gần suốt đời. Tôi VIẾT ĐỂ HỌC và HỌC ĐỂ VIẾT”. Ông trí tuệ bậc Thầy về nhân sinh, thông hiểu kinh Dịch đạo của người quân tử, là“ngọn đèn” văn hóa chung thủy như lời thơ của P. Schneider nhà Việt Nam học người Pháp đã kính tặng ông trong lần gặp cuối cùng. Nguyễn Hiến Lê cuộc đời và sự nghiệp là mẫu mực nhân cách người hiền còn mãi với thời gian. Xem tiếp ...
NGỌC PHƯƠNG NAM. Trong các nhà văn nhà thơ đương đại, tôi thích nhất Nguyên Ngọc, Nguyễn Khải và Trần Đăng Khoa. Riêng về Lão Khoa, tôi may mắn ở chung xóm Lá nên trò chuyện tự nhiên, đôi khi suồng sả thân tình vì nghĩ mình người quen và nhiều tuổi hơn Khoa một chút. Đọc Đảo Chìm của Trần Đăng Khoa nhà văn Lê Lựu nhận xét : “Tất cả những truyện viết trong Đảo chìm, Khoa đã kể cho tôi nghe không dưới 10 lần, nhưng đến khi đọc văn vẫn thấy có cái gì như mình mới khám phá, như mới bắt gặp, như mới đột nhiên ngỡ ngàng và cứ như thần. Mà chuyện thì rõ ràng là đã nghe kể đến thuộc làu rồi”. Tôi cũng đã đọc Chuyện ở Quảng Bình của Trần Đăng Khoa không dưới 10 lần và tự mình tẩn mẫn chép vào thư mục cá nhân những bài tâm đắc nhất..Lạ thật! một thời gian sau rỗi rãi đọc lại. Như hôm trước 12 giờ đêm, tôi đọc lại lần nữa "Quyền lực thứ tư" vẫn thấy “có cái gì như mình mới khám phá, như mới bắt gặp, như mới đột nhiên ngỡ ngàng và cứ như thần”. Tài thật ! Đúng là văn chương đích thực: giản dị, xúc động, ám ảnh ! Lão Khoa Vài nét về thơ Việt Nam hiện đại đã xuất sắc khái quát nữa thế kỹ thơ Việt tại cuộc gặp gỡ các nhà thơ thế giới tổ chức tại Pháp từ ngày 22-5 đến 02-6- 2013. Tôi tâm đắc với bài viết và thật sự thú vị khi đọc kỹ nhiều lần chính văn cùng những lời bình hay của bạn hữu xóm Lá. Khoa là giấy thông hành thơ Việt hiện đại đi ra thế giới. xem tiếp ...
NGỌC PHƯƠNG NAM Đối thoại Shangri-La 2013 bài phát biểu của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng:”Xây dựng lòng tin chiến lược vì hòa bình, hợp tác, thịnh vượng của châu Á” ; G.S. Carl Thayer và câu chuyện Hoàng Sa. Một số hình ảnh biển đảo Việt Nam và một số tin về “Tình hình biển Đông có gì mới ?“ (trên 15 triệu dân Việt sống dựa vào biển, ảnh internet)
Giáo sư Carl Thayer và câu chuyện Hoàng Sa (VietNamNet) Carl Thayer, vị giáo sư đã nghỉ hưu của Học viện Quốc phòng Úc, Đại học New South Wales, đã nhiều lần sang Việt Nam dự các hội thảo quốc tế. Nhưng, có lẽ, đây là lần đầu tiên GS Carl Thayer đến một tỉnh lẻ như Quảng Ngãi. Ngày 27.4.2013, Việt Nam đã tổ chức cuộc hội thảo quốc tế về chứng cớ lịch sử và pháp lý của Việt Nam tại Đại học Phạm Văn Đồng. Lý Sơn nhìn từ trên cao , ảnh Huỳnh Phan , Tuần Việt Nam. xem tiếp
Tình hình biển Đông có gì mới?
Dưới đây là tổng hợp tin tức chính của hai năm từ ngày 26 tháng 6 năm 2011 đăng bài viết có chủ đề “Tình hình biển Đông có gì mới? ” cho đến nay
DẠY VÀ HỌC. "Thấm thoắt thoi đưa vừa ngoảnh lại. Xuân nay mình đã tám lăm tròn. Bốn tư năm lẻ đi đánh giặc. Hưu về tóc bạc vẫn lòng son..." Tôi có anh Phạm Hồng, người lính già thời Bác, người chính ủy sư đoàn cũ năm nay 85 tuổi, thân như anh em ruột. Năm 2008, lúc 80 tuổi anh ghi thư cho tôi mà lời văn và câu thơ vẫn minh mẫn lắm. Anh vui vẻ, tráng kiện, lạc quan và thực sự là “người lính già đầu bạc, kể mãi chuyện Nguyên Phong“: Câu chuyện về bộ đội anh Văn, người lính cụ Hồ, năm cha con ra trận. Câu chuyện về một gia đình quân nhân, thanh bạch, trung trinh, nặng lòng vì nước. Năm nay anh đã luống tuổi. Tôi nhớ anh chị Hồng Hảo cùng gia đình (xem ảnh) nên lần hồi tìm thư anh đọc lại (Hoàng Kim). xem tiếp ...
DẠY VÀ HỌC. Tôi xin thắp nén tâm hương đưa tiễn nhà văn Nguyễn Thị Ngọc Tú "đi công tác" như lời của nhà văn Nguyễn Thị Thu Huệ (một cây bút sắc sảo,ám ảnh, gần nhất với đời sống nông thôn, con gái yêu quý của cô Nguyễn Thị Ngọc Tú, người đã viết cho Văn Công Hùng, bạn tôi) Hôm nay, tôi và những người thân yêu cùng tiễn mẹ đi công tác. Bài viết gan ruột của Huệ xúc động, ám ảnh, làm tôi bần thần ứa nước mắt. Những người làm nông thế hệ chúng tôi mang ơn nhà văn Nguyễn Thị Ngọc Tú với những trang viết thấm đẫm tính nhân văn. Huệ (Tiểu thuyết, 1964); Người hậu phương (truyện ngắn, 1966); Đất làng (Tiểu thuyết, 1974); Buổi sáng (Tiểu thuyết, 1976); Ngõ cây bàng (Tiểu thuyết, 1980); Câu chuyện dưới tán lá rợp (truyện ngắn, 1982); Những dấu chân phía chân trời (truyện ngắn, 1983), Hạt mùa sau (1985). Đặc biệt là "Hạt mùa sau" tuyệt hay và chân thực một cách kỳ lạ. Đó là những nguyên mẫu có thật đời thường mà tôi biết khá rõ. Tôi đã mua ba cuốn "Hạt mùa sau" gửi tặng cho ba người bạn vì sự cảm phục nghề văn và sự dấn thân của cô. Tôi học cô viết văn để "góp phần giới thiệu một góc nhìn về sự dấn thân và kinh nghiệm của những nhà khoa học xanh, nhà giáo nghề nông vô danh đã thầm lặng gắn bó đời mình với nhà nông, sinh viên, ruộng đồng, giảng đường và phòng thí nghiệm" như thầy Lương Định Của, Thầy bạn là lộc xuân cuộc đời! Nguyễn Thị Ngọc Tú hạt mùa sau là ngọc quý, tinh tú trong lòng tôi. Hoàng Kim (xem tiếp)
Con thăm Thầy lên non thiêng Yên Tử
Về đất lành chùa Giáng giữa đồng xuân (1)
Thơm hương lúa ngậm đòng chăm bón đúng (2) Ngát gương sen lồng lộng bóng trúc mai (3)
Biết ơn Thầy trọn đời thương hạt gạo
Bưng bát cơm đầy, quý giọt mồ hôi
Con xin được theo Thầy làm Hoa Lúa
Hoa quê hương hạt ngọc trắng ngần.
(xem tiếp)
DẠY VÀ HỌC. Ngày xuân năm nay, lớp Trồng Trọt 2C Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh chúng tôi rũ nhau gặp mặt và dâng hương ở Văn miếu Trấn Biên tỉnh Đồng Nai. Chúng tôi lưu lại một số hình ảnh, địa chỉ liên lạc với vài ghi chép bước đầu về: Văn miếu Trấn Biên huyền thoại; Lớp Trồng Trọt 2C thương quý; sông Đồng Nai thao thiết chảy… (xem tiếp)
DẠY VÀ HỌC. Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm(1491–1585) là nhà giáo, nhà tiên tri, nhà thơ triết lý, nhà văn hoá lớn của thời Lê -Mạc, bậc kỳ tài yêu nước thương dân, xuất xử hợp lý, hợp thời, sáng suốt. Sấm ký Nguyễn Bỉnh Khiêm thể hiện khả năng dự báo thiên tài và tầm nhìn kiệt xuất của một trí thức lớn. Bài tựa về Trạng Trình của tiến sĩ Vũ Khâm Lân có vị trí trọng yếu để tìm hiểu thân thế và sự nghiệp của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Tác phẩm được viết năm 1743 cho tập gia phả dòng họ Trạng Trình sau khi cụ Trạng đã mất khoảng 158 năm. Áng văn xuất sắc này là viên ngọc rất quý của người xưa xứng đáng được đọc đi đọc lại nhiều lần.Hoàng Kim duyên may sưu tầm được sách hay nay tuyển chọn, biên soạn thành chín mục, hổ trợ dạy và học, đăng dần trên blog: Nguyễn Bỉnh Khiêm trí tuệ bậc Thầy (1) ; Nguyễn Bỉnh Khiêm trên Wikipedia Tiếng Việt bản 17.2.2008 của dạy và học(2); Ngày xuân đọc Trạng Trình (3); Sấm ký Nguyễn Bỉnh Khiêm (4); Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm (5). Thầy bạn Nguyễn Bỉnh Khiêm (6); Học trò Nguyễn Bỉnh Khiêm (7); Giai thoại về Trạng Trình (8); Cảm nhận về Trạng Trình (9). Nguyễn Bỉnh Khiêm ngày xuân đọc lại để học gương đạo đức thương dân, học sự minh triết thuận lý, tuỳ thời của kẻ sĩ trước biến động phức tạp. Học sự thanh nhàn vô sự, thung dung tự tại, gần với thiên nhiên và dân chúng. Học những trang thơ văn, sấm ký, thấm đẫm tình người và sự minh triết. Học những giai thoại, lời truyền, tâm thức dân gian, di tích lịch sử- văn hoá về Người. Ngày xuân đọc Trạng Trình, càng thấy sự dạy và học thật tâm huyết, trí tuệ và vinh dự biết bao!
DẠY VÀ HỌC. Sau bài "Nông nghiệp thông minh luân canh tôm lúa" là câu chuyện thời sự thành công "Trồng bồn bồn kết hợp nuôi cá" .
Đây là một thí dụ điển hình về cách làm nông nghiệp thông minh của người dân Nam Bộ. Cây bồn bồn còn gọi là cỏ nến lan (Typha. spp) thuộc họ lác, rất dễ trồng, ít sâu bệnh, nhẹ công chăm sóc, ít vốn đầu tư. Đây là cây bản địa lâu đời thích nghi nhiều tỉnh vùng sông nước Nam Bộ. Gốc bồn bồn có ngó ở bên trong dùng làm gỏi và dưa muối một món ăn dân dã nay đã thành đặc sản nhà hàng dùng quen như cá kèo, cá lóc kho tộ. Thân lá bồn bồn bán cho các cơ sở đan giỏ xuất khẩu. Rễ cây bồn bồn lọc nước kênh rạch trong hơn, làm sạch môi trường nước nơi chúng sinh sống, vừa giảm rong rêu lại tăng cua cá.
Trồng bồn bồn một công đôi việc: vừa làm thực phẩm vừa làm sạch nước và thu hút cá. “người ta tạo nên các bè cây bồn bồn với bộ khung nổi làm bằng ống nhựa PVC và màng lưới nylon phủ đáy để đổ đất trồng. Các bè nổi này …thường được di chuyển đến những vị trí khác nhau để khử sạch nguồn nước, làm giảm độ bùn, hạ thấp độ mặn và đưa các chỉ số COD, BOD trở lại bình thường…" Lúc đó bộ rễ bồn bồn phát triển rất nhanh, các thân ngầm mọc trong lớp bùn trên giàn sinh ra rất nhiều mầm non (ngó) để làm thức ăn, tiêu thụ nội địa và xuất khẩu.
DẠY VÀ HỌC Tiến sĩ Alan Phan ,Chủ Tịch Quỹ Đầu Tư Viasa,người có trên 43 năm bôn ba làm ăn tại Mỹ và Trung Quốc trong bài: "Tài sản mềm của Việt Nam" đăng trên Góc nhìn Alan Phan đã có nhận xét: "Hai ngành nghề Việt Nam có lợi thế hàng đầu tại ASIAN đó là nông nghiệp công nghệ cao và công nghệ thông tin nếu biết phát triển đồng bộ và sáng tạo."Tôi rất tâm đắc và đồng tình với TS.Alan Phan trên tầm nhìn và quan điểm này. Dẫu vậy tôi lại thích cụm từ "nông nghiệp thông minh"hơn là :"nông nghiệp công nghệ cao" vì nhiều người hiểu chưa đúng dễ ngô nhận và giáo điều khi áp dụng Giáo sư tiến sĩ Nguyễn Văn Luật, anh hùng lao động, nguyên Viện Trưởng Viện Nghiên cứu lúa Đồng Bằng Sông Cửu Long đã viết bài "Luân canh tôm lúa một kiểu nông nghiệp thông minh" đăng trên báo Nhân Dân . "Nông nghiệp thông minh" vừa dung nạp được kiểu nông nghiệp truyền thống có từ bao đời, vừa có kiểu nông nghiệp sinh thái, nông nghiệp đô thị, nông nghiệp miệt vườn, nông nghiệp du lịch, nông nghiệp an dưỡng,và vừa có "nông nghiệp công nghệ cao" chứ không phải áp dựng "nông nghiệp công nghệ cao" bằng bất cứ giá nào! Bản chất của loại hình "nông nghiệp thông minh"hay :"nông nghiệp công nghệ cao" là tạo ra những sản phẩm xanh, sạch, an toàn được đảm bảo bởi những cơ quan kiểm phẩm nổi danh thế giới là bước đầu. Phát huy trí sáng tạo, tổng kết thực tiễn và giáo dục huấn luyện nông dân công nghệ mới và quy trình canh tác thích hợp hiệu quả. Sử dụng đội ngũ trí thức trẻ bén nhậy, năng động, bám sát thực tiễn, đổi mới huấn luyện theo phương thức học để làm (Learning by Doing) tạo nên làn sóng thay đổi bộ mặt nông nghiệp,nông dân, nông thôn Việt Nam. Đó cũng chính là cách làm"Luân canh tôm-lúa xây dựng mô hình mangtính bền vững" của Nguyễn Bình trên báo Đất Mũi mà bà con Xóm Lá và mọi người cùng đọc dưới đây. Đó là "bác sỹ ".Của (Lương Định Của con đường lúa gạo) học Nhật về "kiến thức đầy mình" mà lại dạy "làm bờ vùng bờ thửa , cây nông tay thằng hàng" cho hàng triệu nông dân. Đó là bác Năm Hoằng (Trần Ngọc Hoàng dưới đáy đại dương là ngọc) :"thau chua, rửa phèn, lấn biển", bất chấp tử sinh công tôi để dựng nghiệp nông trường, họa lên bàn thờ dáng vóc của người anh hùng chân đất, trượng nghĩa vì dân.. Đó là anh Hồ Quang Cua gạo thơm Sóc Trăng với những chén cơm thơm đặc sản đầy đặn ân tình. Và đây nữa Địa chỉ xanh những giống lúa chịu hạn mặn có tên của Phạm Trung Nghĩa nhà khoa học xanh Viện Lúa . Thầy Luật viết những lời cảm động: "Hoàng Kim thân mến!Cảm ơn vì thông tin đầu tiên về TS Nghĩa, cùng bài viết đầu tiên về TS Nghĩa. Gần đây tôi cùng TS Nghĩa đi nhiều nơi, lần gần nhất là đi Sóc Trăng thăm giống lúa của Nghĩa, ấn tượng nhất là giống 85 ngày đạt 7 tấn thóc khô ở Long Phú. Rồi cùng dự mấy cuộc họp.Tôi có viết một bài về Nông nghiệp thông minh: Luân canh Lúa - tôm ở Bán Đảo Cà Mau, trong đó có kể đến cố Giám đốc Trần Ngọc Hoàng (cha Ba Sương), TS Nghĩa và Hồ Quang Cua. Báo Nhân dân đã đăng, rất vui là không bị xóa bác Năm Hoàng, và nói về hai nhân vật rất triển vọng là KS Cua và TS Nghĩa. Gửi Hoàng Kim tham khảo". Tôi xin chép lại ba bài trên đây để bà con Xóm Lá và mọi người cùng đọc
TÌNH YÊU CUỘC SỐNG. Phạm Trung Nghĩa thành quả các nghiên cứu của Anh đã đi vào bữa cơm của mỗi gia đình, thầm lặng mà thiết thực, hiệu quả. Anh mất quá sớm lúc 51 tuổi !!! khi sức cống hiến của anh đối với khoa học đang ở độ rực rỡ nhất. Anh để lại những công trình dang dở, những giống lúa triển vọng đang xanh mướt trên đồng. Anh để lại những trang viết chưa dừng, những việc tốt đang làm và những dự định đang ấp ủ thực hiện. Anh là nhà khoa học xanh hiền hậu, tài năng, chịu khó, người bạn hiền của nông dân, người thầy giỏi của con tôi và nhiều lớp học trò may mắn được anh chỉ dạy. Mãi còn đó lời khuyên của anh chân thành mà minh triết: “Hãy cúi xuống làm việc. Khi kết quả thành rồi, người đời sẽ dắt bạn lên !“Hãy cúi xuống học trên đồng, cúi xuống học trong phòng thí nghiệm, cúi xuống học thầy, học bạn và láng nghe tiếng nói người dân”
TÌNH YÊU CUỘC SỐNG. Những ngôi sao không bao giờ tắt là lời tôn vinh những con người quả cảm, xả thân cho Tổ Quốc sống mãi. Đó là nén tâm hương mà nhà văn Lưu Quốc Hòa, nhà thơ Trần Đăng Khoa, nhà thơ Chữ Thu Hằng cùng những người thân, đồng đội, đồng nghiệp, đồng hương và những tấm lòng thành của người dân khắp mọi miền đất nước dâng lên mười cô gái Lam Hạ, nhân ngày quê hương vừa khởi công xây dựng khu Tâm linh Lam Hạ và mở cửa ngôi đền thiêng tưởng niệm các liệt sĩ đã hy sinh ở Hà Nam trong suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.
Ngôi đền thiêng trong lòng dân mỗi năm lại nối thêm những lời tôn vinh cao quý. Tôi ứa nước mắt xúc động trước bài "Vẫn người đồng chiêm" của chị Nguyễn Thị Tuyết, bài đúc kết của Trần Đăng Khoa và những người bạn quý mến đã nói hộ lòng mình ...
Bài ca Tổ Quốc. có lẽ không ở đâu trên thế gian này thấm nhiều máu xương như đất Việt Nam cho mỗi tấc đất, ngọn núi, dòng sông, cửa biển. Không ở đâu mà bài học lịch sử “vua tôi đồng lòng, toàn dân đồng sức” “lật thuyền thấm thía dân như nước” sâu sắc như ở nơi này.
Tôi tin những người sống chí tình chí nghĩa với đồng bào mình, những người quả cảm hiến dâng trọn đời mình cho quê hương đất nước, những người sống phúc hậu yêu thương, làm việc tốt, viết và nói điều hay sẽ mãi mãi là những ngôi sao không bao giờ tắt. Tôi tin nghĩa cử của lòng dân, giếng ngọc thanh xuân của người Việt vĩnh viễn không bao giờ khô cạn. Tôi tin những bài mà các bạn xóm Lá viết dưới đây là những nén tâm hương thắp sáng những người bình dị mà cao quý, việc nhỏ mà nghĩa lớn.
DẠY VÀ HỌC. Bài viết Lựa chọn thành công - Bài học từ Đông Á và Đông Nam Á cho tương lai của Việt Nam (1) là báo cáo về Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam 2010 - 2020. do một nhóm giáo sư và chuyên gia thuộc đại học Harvard ( một trong những đại học tư nổi tiếng nhất của Hoa Kỳ, nằm ở thành phố Cambridge, Massachusetts ) trình bày một khuôn khổ chiến lược giúp Việt Nam xác định các ưu tiên và đưa ra các quyết sách kinh tế cho những năm đầu của thế kỷ 21. Tài liệu chỉ rõ: Việt Nam đã thay đổi rất nhiều sau gần 20 năm với thành tích tăng trưởng cao và rất nhiều người dân Việt Nam đã thoát khỏi cảnh đói nghèo. Với tư cách một quốc gia, Việt Nam ngày càng nhận được sự nể trọng và có ảnh hưởng ngày càng lớn hơn trong cộng đồng quốc tế. Có được thành công này một phần là nhờ vào những quyết định sáng suốt của chính phủ trong việc giải phóng lực lượng sản xuất và hội nhập ngày càng sâu sắc hơn vào nền kinh tế toàn cầu. Hệ quả tất yếu của những thay đổi chính sách này là nền kinh tế Việt Nam ngày nay đã trở nên phức tạp hơn rất nhiều, đòi hỏi việc ra chính sách phải hết sức thận trọng và sáng suốt. Thế nhưng sự “quá tải” trong vai trò của nhà nước và sự xuất hiện của những nhóm đặc quyền được hưởng đặc lợi từ việc giữ nguyên trạng thái hiện tại làm cho quá trình hoạch định chính sách trở nên nặng nề và thiếu động cơ tiếp tục cải cách. Trái với tinh thần khẩn trương và cấp thiết của những năm đầu đổi mới, Việt Nam ngày nay đang được bao trùm bởi một bầu không khí thỏa mãn và lạc quan, được nuôi dưỡng bởi thành tích thu hút đầu tư nước ngoài và sự ngợi ca của cộng đồng quốc tế và các nhà tài trợ. Trong bối cảnh mới này, với tư cách là một nghiên cứu có tính định hướng về chiến lược kinh tế của Việt Nam thì nội dung của cuốn sách Theo hướng rồng bay không còn thích hợp nữa và cần được viết lại. Một luận điểm quan trọng của bài viết này là Đông Á - được hiểu bao gồm Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Trung Quốc, Hồng-kông, và Singapore nhìn chung đã thành công hơn so với các nước Đông Nam Á - bao gồm Thái-lan, In-đô-nê-xia, May-lay-xia, và Phi-lip-pin. Bài viết này xem Trung Quốc như một trường hợp đặc biệt: với vị trí địa lý, truyền thống văn hóa, tốc độ tăng trưởng rất nhanh, và chất lượng các trường đại học tinh hoa, Trung Quốc chắc chắn thuộc về mô hình Đông Á, thế nhưng đồng thời Trung Quốc cũng lại có những nhược điểm tương tự như của các nước Đông Nam Á. Đối với Việt Nam, một nước có nhiều điểm tương đồng trong chiến lược phát triển so với Trung Quốc thì ý nghĩa của phân tích này rất quan trọng. Việt Nam phải đi theo quỹ đạo phát triển của các nước Đông Á nhưng lại không được phép sử dụng những công cụ chính sách mà những nước này đã từng sử dụng trong quá trình công nghiệp hóa của chúng. Đáng tiếc là Việt Nam không những không rút được những bài học từ việc nghiên cứu các nền kinh tế đi trước, mà trái lại còn lặp lại nhiều sai lầm của các nước Đông Nam Á , Đông Á , và Trung Quốc. Một số người có thể cho rằng, việc bài viết này rút gọn 30 năm vào trong một vài nguyên lý cơ bản là một sự đơn giản hóa thái quá. Tuy nhiên, ở cấp độ chiến lược, kinh nghiệm của các nước Đông Á và Đông Nam Á cung cấp cho Việt Nam những bài học quan trọng mà Việt Nam không thể không nghiên cứu thật thấu đáo. Bài học Lựa chọn thành công cần đọc lại. Những đề xuất cách đây năm năm vẫn nóng hổi tính thời sự...
Lựa chọn Thành công
- Bài học từ Đông Á và Đông Nam Á
cho tương lai của Việt Nam
Harvard University
John F Kennedy School of Government
Chương trình Châu Á
CÂY LƯƠNG THỰC. Mời các bạn đến địa chỉ xanh Tiến sĩ lúa mùa , bài và ảnh của Vĩnh Hòa đăng trên báo Sài Gòn Tiếp Thị tháng 9 năm 2012. Tại đây có tên của các giống lúa mùa ưu tú đang được chọn tạo: Sỏi, Một Bụi Đỏ năng suất cao, chịu mặn khá. Hơn thế nữa, ở đó đang tiếp tục tạo chọn những giống lúa thơm chịu mặn TP (Thơm Phức) bằng kỹ thuật điện di protein lấy cái phần thơm ngon của lúa thơm lai với các giống lúa năng suất cao chịu mặn. Chúng ta hãy đón nhận những thành tựu mới này của PGS.TS.Võ Công Thành cùng cộng sự ở Trường Đại học Cần Thơ , các giống lúa chịu mặn ưu tú của TS. Phạm Trung Nghĩa và cộng sự Viện Lúa Đồng Đằng Sông Cửu Long, những kết quả mới của chương trình Siêu Lúa Xanh (Green Super Rice- GRS). Sự cần thiết phải tiếp sức để đánh giá và tuyển chọn giống lúa tốt trên diện rộng. Giấc mơ xanh trên 700.000 ha ngập mặn đòi hỏi sự nỗ lực đúng hướng của nhiều thế hệ.
DẠY VÀ HỌC."Trăm năm tích đức tu hành. Chưa lên Yên Tử chưa thành quả tu". Tôi thực sự ngưỡng mộ đức Nhân Tông nên đã thành tâm một mình đi bộ trong đêm lên non thiêng Yên Tữ từ chùa Hoa Yên để đón bình minh trên đỉnh Yên Tử lúc hừng đông (ảnh trên). Bạn có thể thấy ngọn núi chòm cao nhất, xa mờ phía sau lưng lăng mộ Trần Nhân Tông cách chùa Hoa Yên khoảng 7 km đường rừng, dốc cao (ảnh dưới). Đi trong đêm không trặng, ít sao, rất lạnh của giao mùa để thấm hiểu đức Nhân Tông "giờ Tí ta phải đi rồi".
Gần đây, sự thành lập Viện Trần Nhân Tông tại Hoa Kỳ càng cho thấy tầm vóc to lớn của Trần Nhân Tông đối với Việt Nam và thế giới. Trần Nhân Tông non thiêng Yên Tử là con người, di sản, thắng địa có một không hai trong lịch sử Việt Nam và nhân loại với năm điểm kiệt xuất: 1)Trần Nhân Tông (1258-1308)là một trong những vị vua đức độ và anh minh nhất của lịch sử Việt Nam. Người tên thật là Trần Khâm, vua Trần thứ ba, sau vua cha Trần Thánh Tông và trước vua Trần Anh Tông). Vị minh quân lỗi lạc này làm vua 15 năm (1278 – 1293) đã trực tiếp lãnh đạo cuộc kháng chiến hai lần đánh thắng quân Nguyên Mông là đội quân xâm lược hùng mạnh nhất thời đó "xã tắc hai phen bon ngưa đá/ Non sông muôn thuở vững âu vàng"; 2) Tổ sư thiền phái Trúc Lâm và Thái Thượng Hoàng 15 năm (1294-1306), là vua Phật Việt Nam. 3) Người Thầy chiến lược vĩ đại của Việt Nam với kế sách một chữ "đồng" “vua tôi đồng lòng, toàn dân đồng sức”, giữ nước, mở nước, mở đất phương Nam, thống nhất non sông, quy giang sơn về một mối bằng vương đạo, thuận thời, thuận người. 4) Nhà trị loạn kỳ tài đã hưng thịnh nhà Trần và cứu nguy cho nước Việt ở thời khắc quyết định, biến nguy thành an, biến những điều không thể thành có thể. 5) Nhà văn hóa và nhà thơ kiệt xuất với thắng tích Trúc Lâm Yên Tử trãi 700 năm hương khói chưa bao giờ dứt và kiệt tác Trần Nhân Tông còn mãi với thời gian.Giáo sư Trần Văn Giàu bài học lớn trong câu chuyện nhỏ : "Có lẽ tôi đọc khá nhiều về sử các nước trên thế giới nhưng chưa tìm thấy lịch sử nước nào có một người đặc biệt như Trần Nhân Tông ở Việt Nam. Người (tôi mở ngoặc chữ Người phải viết hoa chữ N) đặc biệt ở chỗ nào? Tại nước Tàu lúc bấy giờ Triều đình nhà Tống rất hùng mạnh nhưng quân Nguyên Mông đã tràn xuống đánh thắn thần tốc , đến nỗi vua quan nhà Tống phải chạy ra biển và nhảy xuống biển tự vẫn. Tại Tây Á, Trung Á và một phần châu Âu cũng thua thảm hại , đến nỗi Giáo hoàng La Mã cũng lên tiếng sợ hãi. Trong lúc ấy Việt Nam so với phương Bắc thì quá nhỏ bé và quá nghèo yếu, thế mà Người dám không cho Nguyên Mông mượn đường xâm lược Chiêm Thành. Lại còn đánh bại ba lần Nguyên Mông xâm lược. Sau khi thắng giặc, Người lại lên núi sống. Người dám nghĩ, dám làm những việc không ai dám nghĩ chứ đừng nói đến làm !". "Qua lịch sử, chúng ta nói về những vấn đề vượt lên trên lịch sử. Qua lịch sử ta nói đến con người, nhân cách của Người. Từ nhân cách ấy, cho ta thấy nhân cách của một dân tộc. Một đất nước sản sinh ra được một con người có một không hai trên thế giới, thử hỏi đất nước ấy và dân tộc ấy có đặc biệt hay không ?"
DẠY VÀ HỌC Tuần làm việc vừa rồi của tôi đầy ắp những sự kiện: Đi Buôn Ma Thuột doc đường ghé thánh địa Cát Tiên. Hướng dẫn nhân giống sắn mới KM419, KM140, KM98-5 và tập huấn kỹ thuật thâm canh sắn cho nông dân và cán bộ của nhà máy chế biến sắn Eakar và Krông Bông. Bay đêm vội vã về họp Khoa để lấy phiếu tín nhiệm nhân sự cho nhiệm kỳ Hiệu trưởng mới. Đi miền Tây với sinh viên đánh giá nguồn gen siêu lúa cùng TS Phạm Trung Nghĩa phó Viện trưởng Viện Lúa với anh Quách Văn Nam, Giám đốc Sở Nông nghiệp Sóc Trăng cùng anh Phước, chị Bắp và những cán bộ kỹ thuật Trại giống lúa Long Phú. Đến Viện Lúa đánh giá những dòng lúa cao sản chịu mặn hạn, thăm những người bạn quý đang thầm lặng dâng hiến đời mình cho bát cơm của người dân. Trở về gần nửa đêm, kịp ghé thăm nhà của cô học trò nghèo giũa cánh đồng vùng xa Tân Trụ, Long An. Lòng tôi dào dạt với bao cảm xúc bài học cây lúa miền Tây. Sự phát triển cây lúa và hạt gạo Việt Nam vươn ra thị trường Quóc tế. Quá trình mở đất mở nước miền Tây Việt Nam tương đồng với quá trình chinh phục miền Tây nước Mỹ nhưng nhiều điểm rất khác biệt. Cây lúa Việt Nam cổ xưa và hiện đại, thân thiết và huyền thoại. Con đường lúa gạo vắt ngang nền văn hóa Việt. Đất và người phương Nam là bài học lớn.
DẠY VÀ HỌC. Tôi vừa thăm thánh địa Cát Tiên do một duyên may kỳ lạ. Chuyến đi không hẹn trước đã đưa tôi về Vườn Quốc gia Cát Tiên (bao gồm khu di tích khảo cổ Cát Tiên), nơi là một trong bốn hồ sơ khoa học của Việt Nam đang chuẩn bị để trình lên UNESCO công nhận vùng đất thiêng này là di sản thiên nhiên văn hóa thế giới. Thánh địa Cát Tiên có thật mà như huyền thoại. Tôi bồi hồi đi trong giấc mơ lạ theo sự chỉ dẫn của thiền sư Phật Ý Linh Nhạc ở câu chuyện dài Nguyễn Du nửa đêm đọc lại. Cát Tiên di sản và huyền thoại là vùng thiên nhiên nguyên sinh, khối lịch sử văn hóa tâm linh đồ sộ. Bộ sưu tập khảo cổ Cát Tiên chỉ mới phát lộ một phần của kho báu vô giá, đầy ắp những bí ẩn chờ được đánh thức. Hỡi người thân yêu hãy biết trân trọng!
DẠY VÀ HỌC. Trang blog của GS. Nguyễn Lân Dũng có bài viết "Nhớ về Cha" của ông Hoàng Vĩnh Giang với những lời văn giản dị mà cảm động: "Người ta nói rằng con hơn cha là nhà có phúc, điều này có thể không sai ở những trường hợp nào đó, nhưng ở gia đình tôi, câu nói này là một sự xúc phạm. Đối với cha, một nhân sĩ trí thức, với một bề dày cống hiến, một nhân cách lớn, chúng tôi chỉ có thể thề trước vong linh của cụ là sẽ nguyện noi theo Người cống hiến cho đất nước với hết khả năng của mình để không phụ kỳ vọng của cha, không làm hổ danh là dòng dõi, là hậu duệ của cha và của gia tộc có truyền thống yêu nước, truyền thống cách mạng". Giáo sư Hoàng Minh Giám là một trí thức lớn, nhà giáo, nhà văn hoá mẫu mực Lời dạy của Người về văn hoá thật đáng suy ngẫm: “Văn hóa cao hay thấp không nằm trong nghề nghiệp nào đó mà nằm ở nền tảng giáo dục mà người đó đã tiếp thu được. Không có sự phân biệt nghề nào được cho là sang hay hèn, lao động chân tay hay lao động trí óc. Điều chính là cần sống, ứng xử và cống hiến theo sự nhận thức mà cá nhân đó có được sau quá trình được giáo dục trải nghiệm cuộc sống. Một người nông dân thức ngộ tốt đạo làm người còn hơn rất nhiều một trí thức lại có những hành vi không mang lại lợi ích cho đời” (GS. Hoàng Minh Giám. Ảnh tư liệu Hoàng Vĩnh Giang) xem tiếp
DẠY VÀ HỌC. Trong các nhà văn nhà thơ đương đại, tôi thích nhất Nguyên Ngọc, Nguyễn Khải và Trần Đăng Khoa. Riêng về Lão Khoa, tôi may mắn ở chung xóm Lá nên trò chuyện tự nhiên, đôi khi suồng sả thân tình vì nghĩ mình người quen và nhiều tuổi hơn Khoa một chút. Đọc Đảo Chìm của Trần Đăng Khoa, nhà văn Lê Lựu nhận xét: “Tất cả những truyện viết trong Đảo chìm, Khoa đã kể cho tôi nghe không dưới 10 lần, nhưng đến khi đọc văn vẫn thấy có cái gì như mình mới khám phá, như mới bắt gặp, như mới đột nhiên ngỡ ngàng và cứ như thần. Mà chuyện thì rõ ràng là đã nghe kể đến thuộc làu rồi”. Tôi cũng đã đọc Chuyện ở Quảng Bình của Trần Đăng Khoa không dưới 10 lần và tự mình tẩn mẫn chép vào thư mục Trần Đăng Khoa một số bài viết chọn lọc. Lạ thật! một thời gian sau rỗi rãi đọc lại. Như hôm nay 12 giờ đêm, tôi đọc lại lần nữa "Quyền lực thứ tư" vẫn thấy “có cái gì như mình mới khám phá, như mới bắt gặp, như mới đột nhiên ngỡ ngàng và cứ như thần”. Tài thật ! Đúng là văn chương đích thực: giản dị, xúc động, ám ảnh !
DẠY VÀ HỌC. Tôi sang nhà Lão Khoa để cùng anh và mọi người dâng nén tâm hương Vĩnh biệt người cắm cờ trên dinh Độc Lập. Anh Bùi Quang Thận đã là người lính nhân chứng lịch sử, biểu tượng khép lại cuộc chiến tranh. Trang văn của Trần Đăng Khoa đã tạc hình Anh vào lòng người như Dáng đứng Việt Nam của Lê Anh Xuân, Người mẹ cầm súng của Nguyễn Thi, Phan Thiết có anh tôi của Hữu Thỉnh, … và cũng tựa như Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu. Tôi xúc động trước nghĩa cử của Khoa đã biến nhà mình thành nơi tưởng niệm anh Thận, đã viết bài xúc động về Những cô gái Lam Hạ trên trang của nhà văn Lưu Quốc Hòa. Lòng tôi bùi ngùi nhớ đến vần thơ Nhớ bạn và Mảnh đạn trong người của anh Hoàng Trung Trực: “Ngỡ như bạn vẫn đâu đây/ Khói hương bảng lãng đất này bình yên/ Tình đời chưa dễ nguôi quên/ Những dòng máu thắm viết nên sử vàng”. “Khi lên bàn tiệc hả hê/ Người đời uống cả lời thề chiến tranh/ Mới hay cuộc sống yên lành/ Vẫn còn mảnh đạn hoành hành đời ta” . Xin chép bài của Khoa về trang Dạy và học.
(Bùi Quang Thận cầm cờ chạy bộ vào Dinh Độc Lập sau khi xe tăng đâm đổ cổng- ảnh Francoise Demulder chụp ngày 30 tháng 4 năm 1975, nguồn Wikipedia - Tiếng Việt).
DẠY VÀ HỌC. Tưởng nhớ bà Olinor Ostrom (giáo sư chính trị học, giải Nobel Kinh tế năm 2009) vừa mất. Tiến sĩ Tô Văn Trường (người viết về GS. Võ Tòng Xuân mà tôi đã đề cập trong Bài học thực tiễn từ người Thầy) đã gửi về bài này “Cha chung về tài nguyên không ai khóc”. Giáo sư Nguyễn Văn Luật email cho tôi để sớm lan tỏa bài viết như là một sự tôn vinh con người đã suốt đời tận tụy nghiên cứu bảo vệ môi trường. Bài học từ bà Olinor Ostrom nóng hổi tính thời sự không những cho thế giới mà còn cho Việt Nam đối với tư duy kinh tế chính trị xã hội: Bằng cách nào để bảo vệ tài nguyên chung? Câu hỏi sinh tử, bức thiết đối với đất nước. Sự lạm dụng của chung để làm giàu bất chính và mưu cầu lợi ích nhóm mà báo chí gần đây đang rộ lên đều có cách chế tài hiệu quả. Tôi đăng đúng bản email chỉ biên tập một chữ lỗi chính tả ở cuối bài. (xem tiếp)
DẠY VÀ HỌC. Gia đình, bạn bè và đất nước là hồi ký của bà Nguyễn Thị Bình, người đương thời nhưng đã là danh nhân lịch sử của thời đại Hồ Chí Minh. Vị Phó Chủ tịch Nước, nữ Bộ trưởng Ngoại giao đầu tiên của Việt Nam, Trưởng đoàn đàm phán của Chính phủ Cách mạng Lâm thời miền Nam Việt Nam tại hòa đàm Paris. Bà cũng đã từng giữ trọng trách Bộ trưởng Bộ Giáo dục, Phó trưởng Ban Đối ngoại Trung ương Đảng, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Đại biểu Quốc hội. Ở bất cứ cương vị nào Người cũng hoàn thành xuất sắc, lưu tiếng tốt trong lòng dân. Tập Hồi ký đang được lưu hành trên mạng và dư luận đánh giá cao. "Sức hấp dẫn, tính thuyết phục lớn và sâu của bà. Sức trẻ của trí tuệ và tâm hồn, sức sống và sức làm việc đáng kinh ngạc, tầm nghĩ rộng, sâu và sắc, thậm chí càng phát triển cùng tuổi tác. Hầu như trên tất cả các mũi nhọn nhất và sâu nhất của đời sống xã hội và con người hiện tại đều có mặt bà, ở hàng đầu, miệt mài, không mệt mỏi..." "Có lẽ bà là người Việt Nam có nhiều bạn bè nhất trên thế giới, từ những người dân thường cho đến các nguyên thủ quốc gia nổi tiếng và thuộc nhiều chế độ chính trị khác nhau. Bà – một phụ nữ nhỏ nhắn, khiêm nhường mà uyên bác, gần gũi mà sang trọng đại diện cho một Việt Nam đang chiến đấu khốc liệt. Sự kiên định không gì lay chuyển nổi lại được thể hiện chính bằng một vẻ thong dong đầy tự tin. Bà đem bạn bè về cho dân tộc. Và, đấy là một trong những nhân tố quan trọng nhất góp phần quyết định thắng lợi kỳ lạ của Việt Nam trong thế kỷ qua." , Cuốn Hồi ký 420 trang do Nhà Xuất Bản Tri Thức ấn hành. Ấn bản Gia đình, bạn bè và đất nước tại Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước bao gồm các nội dung: quê hương; tuổi thơ; “tôi là người hạnh phúc”; trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp; một mặt trận đặc biệt của cuộc chống Mỹ cứu nước; cuộc đàm phán dài nhất lịch sử; toàn thắng đã về ta; những kỷ niệm và cảm nghĩ còn lắng sâu; toàn thắng và thống nhất đất nước; những điều tôi nghĩ có trách nhiệm phải nói rõ hơn; vào ngành giáo dục; trở lại ngoại giao nhân dân; Phó Chủ tịch nước; về hưu nhưng bận rộn nhà văn Nguyên Ngọc nhận định.(xem tiếp)
DẠY VÀ HỌC Ngày nay, lĩnh vực học thuật đang có những bước phát triển đột phá trên toàn cầu. Ở Việt Nam việc áp dụng phương pháp dạy học lấy người học làm trung tâm là cách dạy học mang tính khoa học, tích cực đang ngày càng được quan tâm cải tiến cho phù hợp với điều kiện của nước ta nhằm đào tạo ra nguồn nhân lực đáp ứng tốt hơn cho thực tế sản xuất ( hình ảnh minh họa cho phương pháp dạy học).
Phương pháp dạy học lấy người học làm trung tâm được dựa trên 14 nguyên tắc sau: (xem tiếp)
THƠ CHO CON. Một đôi lời cho con. "Theo ngọn sóng trông mù xa tít tắp Nơi mặt trời sà xuống biển mênh mông Ở nơi đó là bến bờ Tổ Quốc Sóng yêu thương vỗ mãi đến vô cùng." Ban mai trên biển Nhật Lệ Quảng Bình, Chùm ảnh của Hoàng Kim, bài thơ Sóng yêu thương vỗ mãi đến vô cùng và video nhạc tuyển Nhật Lệ trăng huyền thoại ...
NGỌC PHƯƠNG NAM Lớp Trồng trọt 10A chúng tôi đã có ba chuyến đi về nguồn: Lần đầu là năm 2007 kỹ niệm 40 năm thành lập Trường Đại học Nông nghiệp 2 Hà Bắc (nay là Trường Đại học Nông Lâm Huế). Lần thứ hai là năm 2011 gặp mặt kỹ niệm 30 năm ngày ra Trường . Lần thứ ba là năm 2012 kỹ niệm 45 năm thành lập Trường Đại học Nông Lâm Huế truyền thống, đổi mới và phát triển. Thầy trò, bầu bạn một thuở, sống lại những ngày xưa cùng học và cùng nhau thăm lại chốn xưa. Một số hình ảnh, cảm nhận, địa chỉ và email liên lạc được cập nhật tại đây
Những bài viết và liên kết chính (Bấm vào mỗi hàng để xem ảnh)
HỌC MỖI NGÀY. Ngô Trần Đức vừa có bài viết “Đẩy mạnh đổi mới toàn diện đất nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh” đăng trên trang Viet-Studies. Tác giả nhấn mạnh trong lời kết: “Đây là cả một chương trình lớn, phải vừa nghiên cứu, vừa làm từng bước. Tuy nhiên, định hướng cho nó đã có sẵn trong tư tưởng Hồ Chí Minh, có điều là Đảng có quyết tâm làm, quyết tâm trở về với nền tảng tư tưởng của mình hay không? Viết tới đây, tôi bỗng nhớ tới lời của Phật hoàng Trần Nhân Tông: Gia trung hữu bảo, hưu tầm mịch, Đối cảnh vô tâm, mạc vấn Thiền! (nghĩa là: của báu đã có sẵn trong nhà, không phải đi tìm ở đâu nữa, nếu đứng trước cảnh -nhân dân điêu đứng - mà không động tâm, thì khỏi nói đến chuyện tu Thiền làm gì).xem tiếp
DẠY VÀ HỌC. Đạo Đức Kinh là kho báu trí tuệ của bậc hiền triết Tác phẩm được gọi tên Đạo Đức Kinh và được chia làm 81 chương là theo thói quen ước lệ xưa nay. Bản văn Mã Vương Đôi hoàn toàn không đề tên tựa sách hay phân làm chương hồi. Tư tưởng Đạo Đức Kimh đơn giản nhưng cực kỳ sâu sắc, vi diệu. Rene Beritrand nhận xét “Ông chỉ viết có một quyển rất vắn tắt: ĐẠO ĐỨC KINH. Vài dòng chữ hợp thành quyển sách ấy chứa đựng tất cả sự khôn ngoan trên quả đất này” . Lời bình của E.V. Zenker: “Lão Tử đâu phải chỉ sống cho nước Trung Hoa và thời đại của ông mà thôi; ông là một trong những bậc Thầy thuần tuý nhất và sâu sắc nhất của nhân loại ”. xem tiếp ...
DẠY VÀ HỌC. Lão Tử là nhà hiền triết Trung Quốc cổ đại, một trong những người thầy lớn nhất của mọi thời đại. Trong biển học tri thức mênh mông, Lão Tử đã trao truyền lại cho đời sau kho báu Đạo Đức Kinh vô giá chỉ vẻn vẹn trên 5000 chữ nhưng chứa đựng túi khôn của nhân loại. Những lời vàng cách đây hơn hai ngàn năm đến nay vẫn vằng vặc như sao Mai mới mọc. Bốn chữ vàng tinh hoa của đạo học và phép xử thế, căn bản của phép quyền biến và sự cương nhu đó là “biết đúng, biết đủ” (tri túc, tri chỉ). Lão Tử viết trong chương 67 (đại ý của lời văn được diễn đạt theo lối mới): “Ta nắm lấy ba phép báu: thứ nhất là nhân từ , thứ nhì là tiết kiệm, thứ ba là khiêm nhu, không tranh với người khác. Ta biết nhân từ thì được dũng cảm; biết tiết kiệm thì được rộng rãi; biết khiêm nhu không tranh đoạt người thì được tôn vinh.” Tôi duyên may được đọc một số sách của các tác giả đáng kính và may được tiếp xúc với những người bạn biết trọng vốn cổ văn hoá phương Đông nên đã mạnh dạn lập thư mục này như là một cách để tự học. Người ta biết được rất ít về cuộc đời Lão Tử nhưng lại có rất nhiều luận bàn suốt trên hai nghìn năm qua về bộ sách Đạo Đức Kinh . Tác phẩm này đã được nhiều nhà nghiên cứu Trung Hoa và Đông Phương, Tây Phương coi là một kỳ thư hiếm thấy trong lịch sử nhân loại tương tự Kinh Dịch. Tôi tán đồng với anh Nguyễn Quốc Toàn hãy khởi đầu từ Đạo Đức Kinh và Đạo Giáo để tìm hiểu Lão Tử, Đạo Đức Kinh và Đạo Học . Tiếp đến hãy đọc Lão Tử túi khôn của nhân loại và Lão Tử tri túc tri chỉ của Vương Tuệ Mẫn. Sau đó mới có thể dần vào bên trong (xem tiếp)…
“Tuổi thơ con khuất mẹ cha / Nay nghe câu hát mắt nhoà niềm riêng” Tôi lặng người nhớ mẹ và khóc lặng lẽ khi nghe bài hát Gặp mẹ trong mơ (Mother in the dream) của cậu bé 12 tuổi làm cả triệu người rơi nước mắt. Cảm ơn sự kết nối , chuyển ngữ và giới thiệu của những người bạn. (xem tiếp)
Dẫu xa cách, bạn ơi đừng buồn nhé
Lời yêu thương ta đã nói nhau rồi
Khi mình đã mến yêu trao cảm nhận
Mối chân tình trân quý bạn mình ơi
Học điều hay thêm yêu đời sống đẹp
Càng thiêng liêng tình bạn kết lâu bền
Giữa những người hiền trọng tình thân ái
Chung vui buồn sướng khổ chẳng hề quên.
Đi như dòng sông suốt đời chảy mãi
Dòng Linh Giang hoà quyện nước Hương thơm
Cửu Long mênh mông, sông Thương bến nhớ
Sông Lam xanh và Nhật Lệ trong.
Dẫu xa cách , bạn ơi, mình mãi nhớ
Sóng yêu thương đằm thắm vỗ trong lòng.
Ta đã ở trong nhau dịu dàng giấc ngủ
Chút hương thầm trong trẻo hoá mênh mông.
DẠY VÀ HỌC Hôm trước, tôi đã thích thú chép lại bài viết Chi tiết và Chậm từng giọt chữ của Nguyễn Ngọc Tư , nay bất chợt gặp được lời cảm nhận rất hay của một vị giáo sư dạy tiếng Việt ở nước ngoài trên trang blog của anh Sỹ Liêm. Lời cảm nhận không có tựa đề nhưng đại ý “Không ai dám nói tiếng Việt dễ”, nội dung thật bổ ích. Tôi xin chép lại trên trang chính để mọi người cùng đọc.
Chào các bạn,
Tôi không phải một Blogger. Tôi là giáo sư dạy tiếng Việt ở nước ngoài, tôi thấy Sỹ Liêm có bài viết rất chính xác. Nhưng có lẽ, những gì thật quá, thường không được lòng của nhiều người. Tôi bổ sung thêm ý của mình :
Không ai dám nói tiếng Việt dễ. Tiếng Việt khó vì nhiều lý do. Cái lý do đầu tiên là tiếng Việt có tính cách ngữ cảnh cao. Ví dụ, một câu rất đơn giản trong tiếng Anh, chẳng hạn ‘He goes to Saigon’, thì người ta sẽ buột miệng nói ngay, à ông ấy đi Sài Gòn; nhưng nghiêm chỉnh mà nói, dịch như vậy không có gì bảo đảm là chính xác cả, vì trong tiếng Việt của mình ‘He’ có thể là anh ấy, có thể chú ấy, có thể cậu ấy, có thể nó, có thể hắn. Chữ ‘He’ đó nếu là con trai tôi, tôi phải nói đó là con trai tôi, nếu là ông nội tôi, tôi phải nói đó là ông nội tôi, chứ không thể nói nó hay mày được. Cho nên chữ đơn giản ‘He’ không thể dịch ra tiếng Việt được, nếu mình không biết trước người ấy là ai. Thí dụ thứ hai, động từ ‘to go’ là đi. Nếu người đang ở Hà Nội thì không ai nói ‘Ông ấy đi Sài Gòn’, mà phải nói ‘Ông ấy vào Sài gòn’. Ở Vũng Tàu chẳng hạn, ‘Ông ấy lên Sài gòn’. Không phải ‘ông ấy đi Hà Nội’, mà ‘ra Hà Nội’. Như vậy trong tiếng Việt, nếu mình biết người phát ngôn cụ thể là ai, có quan hệ với người nói như thế nào, và thứ hai nữa, biết cái nơi người ấy đang ở đâu, thì mình mới dịch đúng chữ hết sức đơn giản như vậy. Nếu bạn đọc tiếng Anh ‘I love you’, tôi bảo đảm không có người nào có thể dịch ra tiếng Việt được cả. Nó không có gì chắc ‘anh yêu em’ cả, nhưng có thể ‘em yêu anh’, ‘thầy yêu con’, ‘cô yêu con’, hay ‘tôi yêu nước tôi’ chẳng hạn. Chữ ‘you’ đó có thể là đất nước, có thể là vô số (xem tiếp)
NGỌC PHƯƠNG NAM Theo VnExpress, trong số 7 tỷ người trên thế giới, tạp chí Forbes đã chọn ra 70 người quyền lực nhất, dựa theo vai trò lãnh đạo, tầm ảnh hưởng và nguồn lực tài chính. Trong số 10 người quyền lực nhất thế giới có anh chàng người Mỹ gốc Do Thái Mark Elliot Zuckerberg, người sáng lập mạng xã hội Facebook. Anh ta đã làm được điều không tưởng là tạo ra được kết nối trực tuyến toàn cầu thay cho việc kết nối vật lý mà vẫn đảm bảo tính riêng tư. Người sử dụng vẫn sở hữu, sử dụng thư viện thông tin cá nhân nhưng vẫn có khả năng giao tiếp với cộng đồng mạng toàn cầu trong cùng một lúc và sự chia sẻ thông tin là vô giới hạn.(Xem tiếp)
DẠY VÀ HỌC. Đầu xuân giáo sư Hoàng Tụy đã viết bài "Tái cấu trúc và sửa lỗi hệ thống" đăng trên viet-studies.info, Giáo sư nhấn mạnh "Tái cơ cấu là để sửa các lỗi hệ thống, cho nên trước hết phải nhận định đúng các lỗi hệ thống, mới biết nên tái cơ cấu như thế nào và sau đó phải có đủ quyết tâm mới thực hiện được đến nơi đến chốn. Toàn bộ công việc đụng chạm đến các nhóm lợi ích mà một số nhóm này gắn chặt với các lỗi hệ thống, cho nên sẽ rất gay go, gian khổ. Từ hai mươi năm nay đây là thử thách lớn nhất, cầu mong hồn thiêng sông núi giúp đất nước vượt qua được thử thách này." (xem tiếp)
HỌC MỖI NGÀY. Giáo sư Lân Dũng vừa có bài "Những người làm thơ không chuyên" . Giáo sư viết: Tôi chỉ nhặt vội mấy dòng thơ mà sao thấy tâm đắc quá. Chẳng hạn như một cảm xúc đầy nhân bản của tác giả Trần Quê (Hàng không VN): Cụ cào ngao trên bãi biển này/ Trong dãy quán trên bờ bao người đang say/ Say mực, say tôm, say cua, say ghẹ/ Say rượu, say bia. Say..! Say bao thứ nữa/ Một lần say đủ cả tháng cụ cào/ Biển có say mà tung sóng ào ào/ Bãi có say mà lao xao tiếng cười, tiếng nói/ Dọc bãi biển cụ già chân mềm tay yếu/ Lặng lẽ kéo cào cóp nhặt những con ngao… Hay một bài Thất ngôn bát cú của chị QN, một phụ nữ đang sống xa xứ, mà có đủ mỗi sắc mầu cho từng câu thơ: Mây buồn xám xịt cả trời không/ Bất chợt thèm sao giọt nắng hồng/ Đất tổ mai vàng còn thắm nhụy/ Quê người tuyết trắng vẫn đầy bông/ Nghe mùi rượu đỏ hồn cay đắng/ Nhớ vị chưng xanh dạ ấm nồng/Nuốt nỗi oan trường cam khổ nhục/ Xuân đời tím tái giữa ngàn đông. Còn đây là tâm tư thật chua xót của thầy giáo Vũ Ngọc Huyên (Thanh Hóa) : Ai ơi bưng bát cơm đầy/ Ăn rồi có nhớ những ngày cháo khoai ?/Bây giờ ăn cả tương lai/Nghĩ xem con cháu ngày mai ăn gì ?.. Cũng vậy , nhà giám sát công trình Nguyễn Vĩnh Tuyền đã tự giám sát mình: Ngày xưa.../ Khi Cha còn sống vẫn răn dạy tôi:/Hãy sống cho tử tế/ Khi Mẹ còn sống vẫn nhắc nhở tôi:/Hãy sống cho hẳn hoi/ Tôi nhớ Ngoại tôi 90 tuổi những năm tụt đáy 80/Người nhặt từng hạt gạo ai rơi vãi trên đường/ Người gom từng lá khô, que củi sau vườn/ Mũi chỉ, đường kim vá bao nhiêu thiếu hụt, rách tươm../ Để lành cho sạch/ Để rách cho thơm… Còn đây, thơ tình của sĩ quan cảnh sát hưu trí Trịnh Tuyên (Thanh Hóa): Chiều nay không hẹn mà chờ/ Không mê mà đắm, không thờ mà thiêng/ Chiều nay, mây núi ngả nghiêng/ Tôi đi về phía không em...Một mình… (xem tiếp)
NGỌC PHƯƠNG NAM . Tôi ngẫn người khi đọc bài của Thanh Vân bình “lão Chu đi chợ” và phải dụi mắt đọc lại thơ Chu Nhạc “đi chợ Cốc pài”. Bài thơ rất hay! Lời bình tuyệt hay! Hóa ra có những bài thơ giản dị đến mức tưởng là bình thường, đôi khi lãng quên, nhưng khi có người bình chuẩn và đọc kỹ mới thấm. Ngẫm lại thấy thấm thía lời kết: “Thông điệp bài thơ thật hay được chuyển tải trong mười hai câu thơ lục bát giản dị về hình ảnh và câu chữ. Giản dị nhưng rất thanh cao, nho nhã. Rượu trong lòng, mật ủ trong ong, bạc đeo vòng cổ, những thứ muốn mua,thậm chí mua rất nhiều tiền cũng không ai bán. Mấy ai đã viết được như thế. Sau phiên chợ vùng cao đó, lão đã thay đổi. Chủ nhật nào lão cũng lai vợ đi chợ Mơ, một cái chợ nổi tiếng thành Thăng Long có đầy đủ mọi thứ trên trời dưới biển. Lão ngoan ngoãn đi theo vợ, nhận mớ rau, con cá … từ tay vợ, bỏ vào làn và xách một cách cẩn thận.” Chợt lặng người vì nhớ câu nói của Lê Quý Đôn “Kiến thức của mỗi người thì có hạn. Tài trí trong thiên hạ là vô cùng”. Và hiểu sâu thêm “Tam Bảo” của Lão Tử: Ta nắm lấy ba vật báu. Thứ nhất là nhân TỪ, thứ nhì là tiết KIÊM, thứ ba là BẤT TRANH, khiêm tốn. Cám ơn anh Chu Nhạc và anh Thanh Vân. Chúc những điều tốt lành và xuân mới. (xem tiếp)
DẠY VÀ HỌC. Nhân cảm nhận tản văn hay "Khát vọng văn chương" của anh Nguyễn Chu Nhạc, tôi đọc lại và suy ngẫm bài viết "Tôi viết vậy thì tôi tồn tại" nơi lắng đọngkhát vọng văn chương và kinh nghiệm trọn một đời văn của Nguyễn Khải : "Viết là một cách để tồn tại. Descartes có câu: “Tôi tư duy vậy thì tôi tồn tại” (Je pense donc je suis), tôi muốn nói nhại câu danh ngôn ấy: “Tôi viết vậy thì tôi tồn tại” (J’écris donc je suis). “Viết văn không chỉ do nhu cầu kiếm sống, viết văn cũng không chỉ do những bức xúc khôn khuây của cá nhân, mà viết còn là mong muốn được trao trở về với cái vô hạn”."Biết bỏ qua những chuyện vô nghĩa (tức là phải biết cách đứng lùi lại một chút, đứng về thì tương lai để nhìn cái hôm nay như đã thuộc của thì quá khứ), tập trung sức lực vào những công việc ấp ủ một đời của mình, những việc thuộc về lợi ích lâu dài của cộng đồng". "Biết cách ẩn nhẫn, nín nhịn, biết chọn cái lúc cần nói, cần viết, biết dừng lại cái lúc cần dừng, dám dẹp bỏ lòng tự ái tầm thường, bỏ qua những hiểu nhầm thiển cận của bạn bè và người thân để bảo vệ đến cùng hòn ngọc ngậm không bị phá huỷ. Nó là công lực tu luyện một đời của mình để trao lại cho những thế hệ đến sau."“Trên cuộc đời không có bước đường cùng, chỉ có những ranh giới, điều cốt yếu là phải vượt qua được những ranh giới ấy”.
NGỌC PHƯƠNG NAM. Tiểu luận Văn học Nga chiếc nôi vĩ đại và êm ái của Nguyễn Chu Nhạc và chân dung văn Ivan Novitxky của Trần Đăng Khoa rất ấn tượng về văn chương Nga và người Nga. Mình đã đọc nhiều lần bài Khoa viết trong Chân dung và đối thoại nhưng đọc lại trang này trên mạng vẫn thấy tươi rói, ngời lên con người Nga, tính cách Nga điển hình tựa như Natasha Rostova trong Chiến tranh và Hòa bình của Lev Tonstoi, như Acxênhia của Mikhain Sôlôkhôp và anh Ivan Nga cùng chú gấu Misa vậy. Bài tiểu luận của Nguyễn Chu Nhạc thật quý như vị tướng khái quát lực lượng trước trận đánh. Chu tiên sinh nên gửi bài này lên Từ điển Bách khoa Mở kiểu như Cây Lương thực – Wikipedia tiếng Việt. Việc này sẽ lợi cho lớp trẻ dễ hơn khi đi vào những dãy núi hùng vĩ của văn chương Nga. Hoài Tố Hạnh bình: “Ôi chao tham chén bỏ mâm/ Tham vàng bỏ ngãi, lẫn ông với thằng./ Chênh vênh vỡ nửa vầng trăng/ Mới hay nòng nọc, thằn lằn đứt đuôi / Mới hay cá biển chim trời/ Một thời buông, bắt, một thời mò kim …” Mình vui bạn để ca nối lời: “Thật vàng chẳng phải than đâu / Mà đem thử lửa cho đau lòng vàng/ Hiểu sâu cá biển chim ngàn/ Mới hay thầy bạn là vàng của tâm.” (ảnh HK sách Đường sống, tác phẩm Lev Tonstoy. Nhà Xuất bản Tri thức, Hà Nội, 1180 trang). Xem tiếp
DẠY VÀ HỌC. Anh Bùi Văn Bồng vừa gửi email cho tôi bài viết "Suy tư qua văn bia ở Văn Miếu Quốc Tử Giám" bàn về sự học và sự đời. Đây cũng là bài bàn luận với anh Trần Đăng Khoa về”Thật và giả”. Tôi rất tâm đắc với anh Bùi Văn Bồng: “Mỗi người cần học tập, phải học tập để tồn tại, phát triển trong xã hội mà họ đang sống. Khi bé thơ thì ta phải học ăn, học nói, học gói, học mở, học cách đi, đứng… Và khi lớn lên, ta phải học kiến thức, học lối sống tốt, học nhân cách đẹp…Không ai có thể tồn tại nếu từ bỏ sự học. Học kiến thức văn hóa, chuyên môn, khoa học là rất cần thiết, nhưng điều cốt yêu nhất vẫn là HỌC LÀM NGƯỜI. … cần lo HỌC LÀM NGƯỜI, thì học văn hóa mới có ích cho dân chúng, xã hội và đất nước. …Ngẫm ra, sự học kết gắn rất chặt chẽ với sự đời. Học làm người keo sơn với học văn hóa thì mới nên con người chân chính rạng sáng với đời. Và, vì những lẽ ấy, từ xa xưa con người đều phải trọng sự học. Dân tộc ta vốn có truyền thống hiếu học, và truyền thống đó càng về đời sau càng thêm mở mang. Sự học cần thiết và có ý nghĩa cao quý đối với sự đời biết bao”.
DẠY VÀ HỌC. Trần Đăng Khoa quý mến! Mình chưa bình luận mà chỉ xin bạn chép lại bài này về các trang Dạy và học, Học mỗi ngày, Ngọc phương Nam. Mình ủng hộ điều bạn viết: Phải làm sao để những lời nói phải, những bài viết hay được nhiều người dân biết. “Biết … để ủng hộ. Nếu không có sự ủng hộ của dân, của toàn xã hội, thì ngay cả một việc nhỏ cũng khó thành công được, chứ đừng nói những việc phức tạp, những việc tồn đọng đã thành nỗi nhức nhối của toàn xã hội, như tai nạn giao thông và nạn tắc đường”. Xưa kia, “Thư can vua đừng đuổi khách” của Lý Tư không tài nào lọt được tới tai của bậc Quân Vương nhưng bằng kế sách của Úy Liêu, việc khó khăn ấy đã làm được. Lý Tư trước đó định bán nhà bỏ Tần để đi nơi khác khi lời khuyên can của ông chẳng thể đến tai Vua. Sau này ông đã nghe lời Úy Liêu mời dân Xóm Lá đồng lòng học thuộc bài “Thư can vua đừng đuổi khách”. Kết cục dù Thủy Hoàng Đế vứt bỏ tấu trình, bắt kẻ sỹ ngậm miệng thì nhất loạt những lời nói phải vẫn đến được tai Người. Và điều sẽ đến phải đến. Cám ơn Trần Đăng Khoa. Theo mình THẬT VÀ GIẢ là một bài viết rất hay về văn hóa và giáo dục. Hoàng Kim (xem tiếp)
DẠY VÀ HỌC. GS Nguyễn Lân Dũng viết bài Du lịch Nepal tại sao không? có rất nhiều thông tin bổ ích gợi mở nghiên cứu và học hỏi hệ thống giáo dục Nepal, “một nước có thể coi là kém phát triển nhưng xem ra việc đổi mới giáo dục đã tiến một bước rất xa so với Việt Nam, ít nhất là trong lý luận phát triển chương trình giáo dục phổ thông”. Bài viết cũng là trang thông tin du lịch rất thú vị hành hương về quê hương Đức Phật, đến với dãy Hymalaya Tuyết Sơn huyền thoại và đỉnh Everest (8848m) cao nhất thế giới. GS Nguyễn Lân Dũng đã là một trong tứ hùng của Quốc Hội Việt Nam khóa X, XI, XII, người đương thời hỏi gì đáp nấy và chuyên gia cao cấp của Viện Vi sinh vật và CNSH (ĐHQG HN). Học Thầy là điều đương nhiên và không cần bàn. Việc cần đọc lại và suy ngẫm là chúng ta phải đủ thông tin về người, về mình để lựa chọn và xác định nội dung và bước đi thích hợp điều kiện cụ thể của Việt Nam. Phản biện GS Nguyễn Lân Dũng của GS. Nguyễn Khắc Phi và bài viết Tổng quan về giáo dục Nepal của anh Đổ Ngọc Thống được tập hợp tại đây để rộng đường dư luận.
HỌC MỖI NGÀY. Mồng 4 tháng 12 là kỹ niệm ngày mất của anh Phạm Tiến Duật. Thấm thoắt mới đó mà đã bốn năm rồi ! (4/12/2007-4/12/2011). Tôi đăng bài của anh Tô Hoàng như là một nén hương tưởng nhớ anh Phạm Tiến Duật. Xin trích một tứ thơ của anh qua lời bình của anh Tô Hoàng: "Mai ngày giã bạn ta về/ Nghe tiếng kẹt cửa, nhớ tre rừng Lào. Bạn trẻ đọc lướt qua, thấy vần điệu vui vui, thuận chiều thế thôi. Nhưng suy ngẫm một tý, chắc bạn sẽ hỏi: Là sao?. Sao đây, tan cuộc chia tay nhau, lại nhớ đến tre của nước Lào? Sự thể là như sau, trên những cung đường Trường Sơn, phía Bắc tỉnh Atôpư, đang đeo nặng, leo dốc cao bằng thang tre, thang giây, có khi đi từ sớm tửng đến tận sập chiều chưa qua hết vài đường bình độ, lính ta bỗng gặp giữa rừng một đoạn đường bằng, cát mịn mát dưới chân, và hai bên đường là những bụi lồ ô, bụi bương, giữa trưa gió hây hẩy thổi, khiến thân bương, thân lồ ô cọ vào nhau phát ra những âm thanh quen thuộc của quê hương buổi nào. Lòng lính lâng lâng, bồi hồi khi nhẩm tính mình đã đi xa làng xóm, xa người yêu từng ấy ngày, từng ấy tháng. Liệu rồi, trong đời mình còn được nghe lại tiếng cót két, cọt kẹt của bụi tre làng nữa hay không đây?Hiểu và nắm bắt được buồn vui ấy của lính, nhà thơ gắng diễn tả qua vần điệu. Và cái lãng mạn, chất thơ của Duật là ở chỗ, ném mọi cảm xúc ấy về phía tương lai, về ngày chiến thắng, khi đã về tới trước cổng hoặc trong mảnh sân nhà, run run đưa tay đẩy cánh cửa liếp, cánh cổng tre, anh lính nghe tiếng cánh cổng, cánh cửa kêu, chợt nhớ tới đoạn đường bằng phẳng, có bóng tre phủ mát rượi trên đoạn đường Trường Sơn qua đất Lào thuở nào. (xem tiếp)
NGỌC PHƯƠNG NAM. Trang Viet-Studies.info gần đây có bài viết hay của Nguyễn Trọng Bình : Làm gì để nâng tầm văn học Đồng bằng Sông Cửu Long? Không hiểu sao khi đọc xong tôi lại vẫn vơ nghĩ sang chủ đề mới Làm gì để nâng tầm văn hóa Việt? Văn là Người. Cái gốc của sự học là học làm người . Nghèo đói, dốt nát thì không thể có tầm văn hóa nhưng giàu sang, nhiều chữ chưa chắc đã văn hóa cao. Người Việt có nhiều phẩm chất tốt và thói hư tật xấu. Một dân tộc muốn trường tồn và phát triển phải loại bỏ được tính xấu và tôn vinh nét đẹp văn hóa như chúng ta đã từng làm Vinh danh hạt ngọc Việt. Có như vậy chúng ta mới nâng được tầm văn hóa và tầm văn học của dân tộc. Chợt dưng tôi nhớ đến lời trao đổi của Khổng Tử về giáo dục văn hóa: “Trong nhà thì hiếu thảo với cha mẹ. Ra ngoài thì kính nhường bậc huynh trưởng. Thận trọng lời nói mà thành thực. Yêu khắp mọi người mà gần gũi với người nhân. Nổ lực, siêng năng việc làm và chăm chú, chuyên cần việc học.” (đọc tiếp)
NGỌC PHƯƠNG NAM. “Đến nay Ánh viết trên trăm cuốn sách, nó cũng không nhớ là bao nhiêu cuốn. Mình hỏi Ánh, nói ông nói chính xác là bao nhiêu cuốn, nó nhăn răng cười, nói đại khái hơn trăm cuốn. Sách Ánh bán chạy khủng khiếp, tái bản liên tù tì, hiếm có cuốn nào in dưới vạn bản, làm nhà văn được như vậy thật sướng. Trẻ con bây giờ đứa nào không biết Nguyễn Nhật Ánh chắc chắn đó là đứa cực dốt văn. Xưa có Tô Hoài, Xuân Sách, Trần Đăng Khoa giờ có Nguyễn Nhật Ánh, chỉ mỗi Nguyễn Nhật Ánh không còn ai. Bảo Ninh có lần vỗ vai mình, buột miệng nói này, nói ra dại mồm chứ thằng Ánh mà chết thì nước Nam này chẳng còn ai viết sách cho bọn trẻ không nhỉ. Mình cũng chẳng biết nói thế nào, nghĩ mãi không ra ai có thể thay thế được Nguyễn Nhật Ánh.“ Nguyễn Quang Lập đã viết như vậy về Nguyễn Nhật Ánh, tác giả sách thiếu niên Việt Nam được ưa chuộng nhất hiện nay, trong bài Ông bán vé về tuổi thơ đăng trên blog Quê choa (xem tiếp)
NGỌC PHƯƠNG NAM. Cám ơn anh Thanh Vân đã ghé thăm và đồng cảm: "Anh Giắng là một tâm hồn thơ tài hoa". Tôi hoàn toàn đồng tình với anh. Phạm Minh Giắng là một số phận đặc biệt nằm liệt từ nhỏ và có những câu thơ tài hoa ám ảnh: "Tôi nằm trong góc cô đơn/ Với thơ thì chẳng tính hơn thiệt gì./ Với tình chẳng chối từ chi/ Được nhiều bạn đọc khen chê càng mừng." (Gửi mọi người) "Vinh quang sao sáng dạy người/ Áo cơm thì thấp, nụ cười thì cao" (Thầy tôi). Những câu anh Giắng viết về Người Hà Nội thật xúc động: "Bấy mươi năm đã qua đi/ Aó tôi giờ chẳng kém gì người xa/ Mỗi lần ký ức mở ra/ Bàn tay vá rách thành hoa hiện về./ Tôi nằm liệt ở nhà quê/ Thăng Long chưa một lần về mà yêu/ Nghìn năm trăm trận lệch xiêu/ Phồn hoa thanh lịch, bao nhiêu thiếu thừa/ Cảnh, tình dời đổi thoi đưa/ Dáng hình Hà Nội người xưa tôi tìm". Mình sang thăm gấp đi anh Thanh Vân, và đây hãy là một địa chỉ thường xuyên ghé đến. Trong góc cô đơn là một người bạn. Chúng mình đến thăm đi. Hãy có gì đó để chia xẻ. Trời ơi ! Chúng ta biết tin anh ấy muộn quá. Dẫu vậy, chậm còn hơn không. Người Hà Nội (hình minh họa) , Nổi lòng Thúy Vân , Bạn của tôi chắc chắn sẽ mãi lắng đọng sâu sắc trong tâm thức chúng ta. Địa chỉ anh Giắng: http://phamiga.blogtiengviet.net
DẠY VÀ HỌC. Năm 2010 Trường Đại Học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh kỹ niệm 55 năm ngày thành lập. Tôi đã viết bài Thầy bạn là lộc xuân cuộc đời giới thiệu một góc nhìn về sự dấn thân và kinh nghiệm của những nhà khoa học xanh, nhà giáo nghề nông vô danh đã thầm lặng gắn bó đời mình với nông dân, sinh viên, ruộng đồng, giảng đường và phòng thí nghiệm. Hôm nay, tôi muốn kể về Trường Cấp Ba Bắc Quảng Trạch mái trường bên dòng Gianh và thầy Nguyễn Khoa Tịnh. Hình ảnh của thầy đứng khóc trên bục giảng vận động thầy cô, bạn hữu chia sớt khoai sắn giúp đỡ anh chị em tôi vượt khó đã theo tôi suốt đời. Bài thơ “Em ơi em can đảm bước chân lên !” đã lay động tình cảm yêu thương đùm bọc của một thế hệ thầy trò Trường Cấp Ba Bắc Quảng Trạch. Thầy Hiệu trưởng Trần Đình Côn đã viết những lời xúc động trong trường ca tình thầy trò: “Thương em nhỏ gieo neo mẹ mất. Lại cha già giặc giết hôm qua. Tình thầy, tình bạn, tình cha. Ấy là ân nghĩa thiết tha mặn nồng” Những gương mặt thầy bạn đã trở thành máu thịt trong đời tôi. Lời của thầy theo mãi bước em đi.
NGỌC PHƯƠNG NAM. Lão Hâm Phan Chí Thắng có lối viết thật nhẹ nhàng mà sâu sắc. Khách đến thăm thường học được một điều gì đó qua những mẫu chuyện rất đời thường của lão. Tôi hay ghé thăm anh nhưng ít khi để lại cảm nhận. Có hôm tôi tần ngần trước bức họa xe pháo mã biết anh nhớ mình định cảm nhận nhưng lại thôi. Tôi thích ủ chín cảm xúc để viết được những điều mình muốn nói mà không bị áp lực của sư thăm hỏi xã giao thuần túy. Câu chuyện bên bàn cờcủa anh thực ra không lạ nhưng là lối viết có hồn và thông điệp gửi đến người đọc rất rõ ràng. Ông bà chúng ta vẫn thường nói: "Tốt gỗ hơn tốt nươc sơn" . Đại tướng Võ Nguyên Giáp khi được tôn vinh anh Cả của quân đội nhân dân Việt Nam, vị danh tướng thiên tài quân sư cũng đã nói đại ý: Ông thực hiện tốt trọng trách của mình cũng ví như một người lính đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trên chiến trường . Câu chuyện bên bàn cờ thật thấm thía... Tôi chọn bức tranh Sông thu trên trang blog của anh làm phong cảnh cho bài viét này. "Ao thu lạnh lẽo nước trong veo. Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo... ". Lão Hâm đang vui cùng Nguyễn Khuyến chăng? (xem tiếp)
HỌC MỖI NGÀY. Bài văn dưới đây là của em Nguyễn Trung Hiếu học sinh trường Amstecdam, Hà Nội. Bài do anh Nguyễn Hải Bằng cung cấp ; Ảnh: Thắp đèn lên đi em. HK ..."Mẹ ơi, tiền quan trọng đến thế nào với gia đình mình thì chắc mẹ hiểu rõ hơn con. Cứ nghĩ đến tiền là con lại nhớ đến những đêm bố mất ngủ đến rạc cả người, nhớ đến những vết chích ven sưng to như quả trứng gà của mẹ, nhớ đến cả thìa đường pha cốc nước nóng con mang cho mẹ để mẹ uống bồi bổ mỗi tối. Mẹ chắt chiu đến mức sữa ông thọ rẻ tiền mà cũng không mua để tự bồi dưỡng sức khỏe cho mình. Con sợ tiền mà lại muốn có tiền. Con ghét tiền mà lại quý tiền nữa mẹ ạ. Con quý tiền và tôn trọng tiền bởi con luôn biết ơn những người hảo tâm đã giúp nhà mình. Từ những nhà sư tốt bụng mời mẹ đến chùa vào cuối tuần, những cô bác ở Hội chữ thập đỏ quyên góp tiền giúp mẹ và gia đình mình. Và cả những người bạn xung quanh con, dù chưa giúp gì được về vật chất, tiền bạc nhưng luôn quan tâm hỏi thăm sức khỏe của mẹ… Nhờ họ mà con cảm thấy ấm lòng hơn, vững tin hơn." (xem toàn văn và đọc tiếp)
DANH NHÂN VIỆT “Bình sinh đầu ngẩng tới trời xanh / Khuất núi hồn THƠM quyện đất lành / Anh hùng HỒ dễ nên nghiệp ấy? / Tâm hồn bình dị CHÍ anh MINH“. Đây là bài tứ tuyệt được thêu trên bức trướng do 5 nhà cách mạng lão thành Nga gửi đến tang lễ Chủ tịch Hồ Chí Minh.. Làm sao mà các nhà cách mạng Nga lại làm được thơ tứ tuyệt, hay là họ nhờ ai đó làm giúp theo ý họ? Các chữ viết hoa trong bài tứ tuyệt được thêu chữ hoa, nghĩa là có dụng ý. Ba chữ là lấy từ trong “Hồ Chí Minh”. Còn chữ “Thơm” có phải đó cũng là tên hoạt động của Bác Hồ trong thời gian công tác cùng với 5 nhà cách mạng Nga kia? Hay là một tên gọi khác của Bác mà rất ít người biết? Câu hỏi trên của anh Phan Chí Thắng , mỗi năm tôi lại đưa lên mạng ít nhất một lần để thu thập thêm tư liệu. Nhiều vấn đề lịch sử sẽ cần phải có thêm thông tin và thời gian. Dưới đây là hai bài viết của Lê Mai về Chủ tịch Nước Hồ Chí Minh và đường dẫn tới tác phẩm Một Cơn Gió Bụi – Lệ Thần Trần Trọng Kim làm sáng thêm một góc khuất của trí tuệ bậc Thầy. Anh hùng HỒ dễ nên nghiệp ấy ?
NGỌC PHƯƠNG NAM. Lần trước trang dayvahoc đã tuyển chọn chùm thơ hay về biển. Trong số đó có những bài được nhiều người ưa thích như: Tổ quốc nhìn từ biển của Nguyễn Việt Chiến; Biển của Puskin; Biển của Xuân Diệu, Thơ viết ở biển của Hữu Thỉnh; Biển một bên và em một bên của Trần Đăng Khoa; Thuyền và biển của Xuân Quỳnh; Giao hưởng biển của Vũ Thanh Hoa; Biển bạc đầu nông nổi tuổi hai mươi của Nguyễn Trọng Tạo; Biển núi em và sóng của Đỗ Trung Quân; Núi và biển Nha Trang của Hồ Tịnh Tâm và Video nhạc tuyển Đừng ví em là biển, nhạc Trần Thanh Tùng, thơ Minh Thiên, trình bày Anh Thơ. Lần này, mời các bạn thưởng thức tuyệt phẩm Xa khơi, nhạc Nguyễn Tài Tuệ, trình bày Anh Thơ và chùm thơ về biển của Tường Vi, Quỳnh Trâm, Hoàng Kim, …
DẠY VÀ HỌC. Nguyễn Trãi đã có nhiều tôn vinh nhưng như giáo sư Phan Huy Lê nhận xét trong bài "Nguyễn Trãi - 560 năm sau vụ án Lệ chi viên":"Cho đến nay, sử học còn mang một món nợ đối với lịch sử, đối với Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ là chưa khám phá và đưa ra ánh sáng những con người cùng với những âm mưu và hành động lợi dụng việc từ trần đột ngột của vua Lê Thái Tông ở Lệ Chi Viên để vu oan giá hoạ dựng nên vụ án kết liễu thảm khốc cuộc đời của một anh hùng vĩ đại, một nữ sĩ tài hoa, liên luỵ đến gia đình ba họ. Với tình trạng tư liệu quá ít ỏi lại bị chính sử che đậy một cách có dụng ý, thì quả thật khó hi vọng tìm ra đủ chứng cứ để phá vụ án bí hiểm này. Nhưng lịch sử cũng rất công bằng. Với thời gian và những công trình nghiên cứu của nhiều thế hệ các nhà sử học, nhà văn học, nhà tư tưởng, nhà văn hoá..., lịch sử càng ngày càng làm sáng rõ và nâng cao nhận thức về con người và sự nghiệp của Nguyễn Trãi, về những công lao, cống hiến, những giá trị đích thực của ông trong lịch sử cứu nước và dựng nước, lịch sử văn hoá của dân tộc".
Trong tất cả những tư liệu lịch sử để lại thì tư liệu sáng giá nhất, rõ rệt nhất, sâu sắc nhất để minh oan cho Người lại chính là những kiệt tác thơ văn Nguyễn Trãi, "Họa phúc có nguồn đâu bổng chốc, Anh hùng để hận mãi nghìn năm"; "Số khó lọt vành âu bởi mệnh. Văn chưa tàn lụi cũng do trời ". (xem tiếp)
DẠY VÀ HỌC. Mình đã có bài Nguyễn Quang Lập trong mắt ai, nay chỉ viết thêm đôi điều: 1) Những điểm nhấn để tìm hiểu về bọ Lập, con người, sự nghiệp và tác phẩm là Quê Choa; Nguyển Quang Lập trên Wikipedia-Việt 2) Năm tác phẩm “đinh” mà Lập đã đóng vào bức tường thời gian vốn đã rất cứng và nghiệt ngã mưa nắng, theo mình đó là Đời cát; Thung lũng hoang vắng; Ký ức vụn; Văn tế biểu tình và Lời cuối cho bauxite . Người đọc cho dù khen hay chê đều không dễ quên. Lập viết: “Đường xa nghĩ nỗi sau này mà kinh; kinh thì kinh thật nhưng chắc là không xa nữa đâu”.
Lập đã linh cảm và tự nguyện tận hiến cho nghệ thuật.
Tài !
Lập là con của thầy Nguyễn Quang Đạng,người thầy giáo rất tình nghĩa và danh tiếng ở Ba Đồn, Quảng Trạch. Mình cùng học với anh Nguyễn Quang Thắng, anh ruôt của Lập nên sớm biết rất rõ nhiều chuyện cảm động của anh Thắng và biết những đứa em Lâp, Vinh của anh ấy. Nhưng khi mình đọc những trang Lập viết về cu Vinh, mình vẫn bàng hoàng về tính chân thực, tình anh em, tình nghĩa vợ chồng mà hiếm có một trang viết nào về cu Vinh hay hơn thế.
Lâp ơi, mình chép tặng bạn một đoạn thơ của lão Khoa viết cho bạn của Khoa nhưng cũng là nói hộ lòng mình nghĩ về anh em nhà bạn:
DẠY VÀ HỌC. Trang www.dayvahoc.blogtiengviet.net tuyển chọn thơ hay về biển. Trong đó có những bài được nhiều người ưa thích như: Tổ quốc nhìn từ biển của Nguyễn Việt Chiến; Biển của Puskin; Biển của Xuân Diệu, Thơ viết ở biển của Hữu Thỉnh; Biển một bên và em một bên của Trần Đăng Khoa; Thuyền và biển của Xuân Quỳnh; Giao hưởng biển của Vũ Thanh Hoa; Biển bạc đầu nông nổi tuổi hai mươi của Nguyễn Trọng Tạo; Biển núi em và sóng của Đỗ Trung Quân; Núi và biển Nha Trang của Hồ Tịnh Tâm; Đừng ví em là biển, nhạc Trần Thanh Tùng, thơ Minh Thiên, trình bày Anh Thơ
Ai thấy mình vĩ đại muốn tự hiểu giọt nước trong biển cả hãy đứng trước biển.
Ai muốn học bài học vô giá thiên nhiên và cuộc sống hãy đứng trước biển.
Ai muốn tìm hiểu huyền thoại Lạc Long Quân và Âu Cơ, học khí phách người Cha “đạp luồng sóng dữ, chém cá kình ở biển khơi” hãy đứng trước biển.
Ai muốn hiểu vũ trụ bao la, trời, núi, biển, sóng và sông hãy đứng trước biển.
Biển là bài học mênh mông về Quê Hương, Tổ Quốc: Sóng yêu thương vỗ mãi đến vô cùng.
Đào Duy Từ là nhà chính trị quân sự lỗi lạc, danh nhân văn hóa kiệt xuất, bậc công thần số một của triều Nguyễn, Sự nghiệp của ông là đặc biệt to lớn đối với dân tộc và thời đại mà ông đã sống. Ông bắt đầu thi thố tài năng từ năm 53 tuổi đến năm 62 tuổi thì mất. Chỉ trong 9 năm ngắn ngủi (1625-1634), Đào Duy Từ đã kịp làm nên kỳ tích phi thường: Giữ vững cơ nghiệp của chúa Nguyễn ở Đàng Trong chống cự thành công với họ Trịnh ở phía Bắc; Mở đất phương Nam làm cho Nam Việt thời ấy trở nên phồn thịnh. Đặt nền móng vững chắc cho triều Nguyễn, sửa sang chính trị, quan chế, thi cử, võ bị, thuế khóa, nội trị, ngoại giao. Sau khi ông mất (1634) triều Nguyễn còn truyền được 8 đời (131 năm), cho đến năm 1735, khi Vũ Vương mất, thế tử chết, Trương Phúc Loan chuyên quyền, lòng người li tán, nhà Tây Sơn nổi lên chiếm đất Quy Nhơn, họ Trịnh lấy đất Phú Xuân, thì cơ nghiệp nhà Nguyễn mới bị xiêu đổ.
DẠY VÀ HỌC. 5 tuyệt phẩm thơ cổ nổi tiếng mà tôi ưa thích nhất là “Mốt mai một cuốc một cần câu” của Nguyễn Bỉnh Khiêm. “Viếng mộ Liễu Hạ Huệ” của Nguyễn Du. “Đập đá ở Côn Lôn” của Phan Chu Trinh, “Cảm hoài” của Đặng Dung và “Thợ bán than” của Trần Khánh Dư. Nguyễn Bỉnh Khiêm là bâc kỳ tài hiểu sâu sắc biến dịch và thời thế “Thanh nhàn vô sự là tiên. Năm hồ phong nguyêt ruỗi thuyên buông chơi ” ứng xử hợp lý, tùy thời, lạc quan của bâc tiên tri. Ngày xuân đọc Trạng Trình, sấm ký Nguyễn Bỉnh Khiêm, thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm để thấu hiểu sự nghiêp lạ lùng và đỉnh cao vọi của thơ nôm danh sỹ. Nguyễn Du viếng mộ Liễu Hạ Huệ nơi “bia tàn chữ mất vùi gai góc/ nghe tiếng nghìn năm tôi xuống xe” càng cho thấy nhân cách kẻ sĩ và sự cảm thông của ông đối với Liễu Hạ Huê sâu sắc đến dường nào. Người hiền thực ra đời nào cũng có, thời thế nhiễu loạn, chẳng qua vàng lầm trong cát đấy thôi. Đọc Tâm sự của Nguyễn Du qua Đối tửu để hiểu và thương Nguyễn Du. Phan Chu Trinh “Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn. Lừng lẫy làm cho lở núi non… ” “Cảm hoài” của Đặng Dung và “Thơ bán than” của Trần Khánh Dư thật bi tráng và lẫm liêt. (xem tiếp)
NGỌC PHƯƠNG NAM. Tôi thích chất trí tuệ trong sự hỏi và trả lời với Ngô Bảo Châu. Câu hỏi của thượng tọa Thích Nhật Từ khá hay và trả lời của giáo sư Ngô Bảo Châu chứa đựng những mảnh vụn lấp lánh của minh triết. Người đọc có thể tìm được những chỉ dấu khôn ngoan để tự tìm kiếm câu trả lời cho riêng mình mà không cần phải tranh luận. Cuộc đời có nhiều nẽo đường cũng như các câu hỏi có nhiều cách trả lời. Tùy theo lời giải và nội lực của mỗi người mà ta về đến đích hoặc dừng lại dọc đường. Lần trước chúng ta đã có Toàn văn phát biểu của GS. Ngô Bảo Châu trong buổi lễ long trọng của Nhà nước tôn vinh Giáo sư Ngô Bảo Châu đoạt giải toán học Fields. Sau đó với nhiều lời khen chê đối với bài viết Cẩu thả và sợ hãi. Blog Thích học Toán của Ngô Bảo Châu đã đóng và nay mở lại Sổ tay Thích học Toán với chuyện dang dở. Sự đối thoại đáng suy ngẫm. (HK) xem tiếp ...
DẠY VÀ HỌC. Tôi tâm đắc với cảm nhận của Trần Đăng Khoa trong Bố và các con: “Cái đích đến của nhà văn là bạn đọc. Nếu giời lôi thân xác về giời thì hồn vía tinh hoa cũng cần phải nằm lại trong trái tim và tình cảm của bạn đọc …Tô Hoài là một ông khổng lồ về Lao động nghệ thuật. Ông già này có lẽ là người minh mẫn đến cả khi về cõi. Tôi đi nước ngoài, một phóng viên hãng CNN hỏi tôi: “Ông Tô Hoài viết cái gì cũng có vấn đề cả. Thế ông ấy không biết sợ à?”. Tôi bảo: “Trên thế gian này, có một căn bệnh thế kỷ mà cả loài người khiếp sợ. Đó là bệnh Sida. Nhưng Tô Hoài cũng không sợ SIDA. (SIDA phát bệnh cũng phải 20 năm) Đến cả Sida, cụ Dế Mèn còn không sợ thì ông cụ còn biết sợ cái gì? “. Tác phẩm “Dế mèn phiêu lưu ký” của Tô Hoài là bức tranh thiên nhiên cũng là bức tranh sinh động về cuộc đời. Trong thế giới thực hư huyền thoại này có võ sĩ Dế Mèn với chị Cốc, chị Cò, Ểng ương, Mèo lười, Võ sĩ bọ ngựa, Ngỗng, Dê, Bò, Bướm , Bìm bịp … và ẩn hiện cả Ba người khác…Sức lao động sáng tạo của Tô Hoài chắp cánh cho trí tưởng tượng của tuổi thơ và lối nói ẩn dụ của người lớn. Ông là biểu tượng điển hình của sự gắn kết thành công Nhà văn, Nhân vật và Bạn đọc. Tô Hoài trong trái tim bạn đọc. (xem tiếp)
DẠY VÀ HỌC. Bạn đã ghé thăm trang http://lucbat.com chưa? Đó là một viên ngọc quý! Lục bát kết nối, tôn vinh, chia sẻ Hồn quê và Di sản Văn hóa. Website đang được xây dựng, thử nghiệm và điều hành phi lợi nhuận bởi các tình nguyện viên. Nhân kỷ niệm sinh nhật tròn ba năm website này trình làng, Lễ hội Lục Bát Tân Mão – 2011, đã được tổ chức trang trọng tại nhà số 6, ngõ 40, đường Võ Thị Sáu, Hà Nội ngày 3 .9.2011. Ý tưởng và cách tổ chức là thiết thực, không ồn ào nhưng hiệu quả.
Xin Chúc Mừng http://lucbat.com và trân trọng giới thiệu trang web bổ ích này cùng bạn đọc (xem tiếp)
CÂY LƯƠNG THỰC. Ba vấn đề chính nông dân trồng lúa nên quan tâm là dụng cụ sạ lúa theo hàng IRRI SEEDER, máy gặt lúa và máy sấy lúa. GS. TS. Nguyễn Văn Luật, anh hùng lao động, nguyên Viện trưởng Viện Lúa ĐBSCL đã trả lời phóng viến Báo Nông nghiệp Việt Nam ngày 12.8.2011 nhân chuẩn bị cho “Festival lúa gạo Việt Nam ” ngày 8-14/11/2011 tại Sóc Trăng (xem tiếp)
Lũ đẹp là tản văn hay của anh Chu Nhạc. "Con đường từ Long Xuyên đi Châu Đốc, rồi bẻ quẹo đi Núi Sam, Nhà Bàng, Tịnh Biên, Tri Tôn, bên sông, bên đồng, mênh mông nước. Lũ đẹp, cụm từ ấy luôn được lặp đi lặp lại trên miệng người xứ sở này. Lũ đẹp, niềm vui hiện rõ trên gương mặt mọi người . Bên dưới mặt đất đồng bằng là túi phèn tiềm tàng. Ấy vậy, năm nào lũ lớn lũ đẹp, không những nhiều tôm cua cá về theo nước, mà thêm phù sa màu mỡ, đồng ruộng được thau chua rửa mặn. Ngược lại, lũ nhỏ, vụ sau mất mùa... Bao đời nay đã thế, và bây giờ cũng không mấy khác. Kỹ thuật canh tác cao cũng chỉ giúp được con người ta phần nào thôi, bởi thiên nhiên có những quy luật riêng của mình. Hôm chia tay Miền Tây, máy bay cất cánh từ sân bay Trà Nóc, Cần Thơ. Đồng bằng sông Cửu Long trắng trời nước, từ cửa sổ máy bay nhìn xuống, thấp thoáng những mái nhà, những hàng dừa xanh... Lũ đẹp !..."Phải là người từng trãi nghề nông và miền Tây mới hiểu thau chua, rữa phèn, sống chung với lũ, né lũ, lũ đẹp và sạ ngầm lúa trên đất phèn sau lũ. ĐBSCL có 1,6 triệu ha đất phèn, đặc biệt vùng đất phèn nặng do địa hình trũng, nước rút chậm nên áp dụng phương pháp sạ ngầm trong tháng 12 để sạ sớm hơn 2-3 tuần so với chờ nước rút cạn sạ ướt gác sang tháng 1. Kỹ thuật sạ ngầm lúa trên đất phèn sau lũ ở vùng Tây Nam Bộ có ý nghĩa tương tự như kỹ thuật trồng ngô đông, khoai lang đông trên đất ướt ở miền Bắc Việt Nam có lợi là "cướp thời vụ", chi phí nhẹ, năng suất cao hơn so với gieo muộn. Mười điểm lưu ý khi sạ ngầm lúa sau lũ ở ĐBSCL là những kinh nghiệm rất quý ở Tây Nam Bộ.
Tôi nghe lần đầu các chữ “lũ đẹp” cùng với “né lũ ” “dưới đáy đại dương là ngọc” và “chưa kỹ đậu con, đừng vội làm sư” là từ bác Năm Hoằng, bố của chị Ba Sương. Hiện nay, tôi vẫn còn giữ cái máy điện thoại di động bác tặng cho từ thuở bác nói với tôi rằng thích “đi chân đất, đầu đội trời, nói lời hay, làm việc tốt” . Chuyện hay là vậy mà thấm thoắt đã trên 15 năm rồi. Cha con của hai người anh hùng, thì người đã chết không thể đội mồ ngồi dậy để biện minh cho quyết sách lập “quỷ đờì sống” là đúng hay sai trong quá khứ, người thì ngồi tù sau khi đã nhận tống đạt kết luận điều tra. Trận lũ lớn tràn qua như trận lũ của các bác Lê Huy Ngọ, Nguyễn Quang Hà có phù sa được bồi là lương tâm xã hội được thức tỉnh. Anh Chu Nhạc trong cái hôm đi từ Cần Thơ lên An Giang, … có nhớ về xe ngựa Bảy Núi vậy có bùi ngùi khi ngang qua Nông Trường Sông Hậu? Lũ đẹp, sạ ngầm, mùa cá linh, bông điên điển, Thất Sơn, Cửu Long … đất và người phương Nam ấn tượng biết mấy ?
Mười điểm lưu ý khi sạ ngầm lúa trên đất phèn sau lũ
Lê Lựu nói về Đảo Chìm của Trần Đăng Khoa: “Tất cả những truyện viết trong Đảo chìm, Khoa đã kể cho tôi nghe không dưới 10 lần (!), nhưng đến khi đọc văn vẫn thấy có cái gì như mình mới khám phá, như mới bắt gặp, như mới đột nhiên ngỡ ngàng và cứ như thần. Mà chuyện thì rõ ràng là đã nghe kể đến thuộc làu rồi”. Tôi cũng đã đọc Chuyện ở Quảng Bình không dưới 10 lần, đã tự mình chép lại những bài của Khoa mà tôi tâm đắc nhất vào thư mục cá nhân . Thế nhưng, khi tôi đọc lại bài này cũng vẫn thấy “có cái gì như mình mới khám phá, như mới bắt gặp, như mới đột nhiên ngỡ ngàng và cứ như thần”. Lạ, thật lạ! Đúng là văn chương đích thực: thật, giản dị và ám ảnh !
Tôi có duyên với Trần Đăng Khoa ở ba việc (xem tiếp):
NGỌC PHƯƠNG NAM. Khoa học dự báo có một khoảng cách lớn so với mê tín bói toán. Đó là phép biến Dịch dựa vào trí tuệ siêu việt nhận thức được quy luật tự nhiên trời đất và con người được vận dụng một cách tài tình vào trong thực tiễn. Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà tiên tri thiên tài của khoa học dự bào đã được lịch sử kiểm chứng. Sấm Trạng Trình được xem là di sản văn hoá vô giá của dân tộc Việt , là cẩm nang ứng xử, xem xét và dự báo vận nước từ năm 1509 đến năm 2011 (phân phân tùng bách khởi). Hãy vận dụng Sấm ký nghiên cứu phép ứng xử và dự báo triển vọng cho sự giải quyết tranh chấp chủ quyền, kinh tế, chính trị trên biển Đông? Lối giải đoán ví như câu trả lời của TS Vũ Cao Phan đã trao đổi trên Đài truyền hình Phượng Hoàng ,Trung Quốc . Xin mời đọc lại Sấm ký Nguyễn Bỉnh Khiêm và thử giải đoán: ” … 223- Phú quý hồng trần mộng. Bần cùng bạch phát sinh. Hoa thôn đa khuyển phệ. Mục giã giục nhân canh. Bắc hữu Kim thành tráng. Nam hữu Ngọc bích thành. Phân phân tùng bách khởi. Nhiễu nhiễu xuất đông chinh. Bảo giang thiên tử xuất. Bất chiến tự nhiên thành. 233- Rồi ra mới biết thánh minh…”
(xem tiếp ...)
FOOD CROPS. “Đời người tối thiểu phải ăn, kế đến là học tập, công việc, nhà ở, quần áo và chăm sóc sức khỏe. Quanh ta còn nhiều mảnh đời bất hạnh. Hiểm họa nghèo đói vẫn bùng phát bất cứ lúc nào. Hãy luôn nhớ điều đó.” “Hãy vươn tới những vì sao. Cho dù không chạm được vào nó, nhưng nếu cố gắng hết sức, ít ra, chúng ta cũng chạm được những hạt bụi của ngôi sao” ‘Reach for the stars. Although you will never touch them, if you reach hard enough, you will find that you get a little star dust on you in the process’. Lời của Thầy Norman Bourlaug và di sản của Người về cuộc cách mạng xanh mãi mãi là niềm tin và nổ lực của chúng ta !
NGỌC PHƯƠNG NAM. Nông thôn trong mắt Trần Đăng Khoa “Cái còn thì vẫn còn nguyên. Cái tan dù tưởng vững bền cũng tan” Trần Đăng Khoa kể Thời sự làng tôi với một lối văn giản dị: “- Này, vừa rồi anh có nghe đài không? Mẹ tôi hỏi với vẻ mặt nghiêm trọng. Tôi đâm hoảng. Chắc lại có ông to to nào vừa mới chết chăng? Hay là có chuyện gì? – À, là đài nói về làng mình. Thế mà nhà mình lại không biết để mở nghe mới tiếc chứ. Chẳng biết cô nhà báo kể những chuyện gì mà hay lắm…” Cứ thế, câu chuyện cuốn hút ta về vùng quê Hải Dương nơi Khoa sinh ra và lớn lên.Trần Đăng Khoa nói về nông thôn mới ám ảnh tôi sâu sắc kỳ lạ như câu thơ thần đồng của anh năm xưa mà tôi đã thuộc lòng từ nhỏ “Năm nay em lớn lên rồi/ Không còn nhỏ xíu như hồi lên năm/ Nhìn trời, trời bớt xa xăm/ Nhìn sao, sao cách ngang tầm cánh tay”. Phải trãi nghiệm mới thấu hiểu những chuyển đổi của nông thôn Việt trên nữa thế kỷ. Tôi tin nhiều người sẽ tìm đến và nhiều năm sau vẫn còn quay lại với trang văn này Thời sự làng tôi
DẠY VÀ HỌC. Tôi chép tặng bạn hai bài Lạ mà Quen: Trần thế và Truyện kể có nhiều thành ngữ tục ngữ nhất. Lạ vì thời buổi này có người đã cai Tivi và nay thì cai luôn đọc báo. Lạ vì bài văn vui vui đầy ắp thành ngữ, tục ngữ. Quen vì ý nghĩ "Vất bỏ ngoài tai mọi chuyện đời/ Lòng không vướng bận dạ an thôi"(xem tiếp
THUNG DUNG. Câu chuyện đưa những thí dụ, những nội dung lên các website làm sống dậy trong thế giới mạng những thông tin hữu ích không phải là câu chuyên quá xa lạ mà ý nghĩa của câu chuyện trong cuộc sống đích thực lần này chính là ở việc những người đi “vác tù và hàng tổng” đang bằng những nổ lực cá nhân để có thể xây dựng một cách đầy đủ nhất, đa dạng nhất, đồ sộ nhất về tư liệu để có thể tạo nên một dung diện về văn hóa Việt Nam và cùng với điều đó họ cũng là những người tiên phong đưa công nghệ Wiki 2.0 vào Việt Nam để tất cả những người sử dụng có thể cùng tham gia xây dựng văn hóa Việt với khái niệm đây là một thực thể sống, không bất biến, luôn vận động cùng với sự đóng góp của tất cả mọi người. Chúng ta hãy đến với videovà website bách khoa toàn thư văn hóa Việt. Chào mừng bạn đến với những tấm lòng và những bài viết sâu sắc, tâm huyết đối với sự nghiệp giáo dục và chấn hưng văn hóa http://vhv.com.vn/
HỌC MỖI NGÀY. Xin thưa : bằng nền xuất bản. "Sự giàu có của một quốc gia thường được đánh giá bằng GDP hay thu nhập bình quân đầu người nhưng về mức độ văn minh, về nền dân trí sẽ được đánh giá bằng nền xuất bản, bằng các cuốn sách do dân tộc đó làm ra. Nhưng đó là trách nhiệm của nhà nước nhiều hơn là trách nhiệm của doanh nghiệp." Ông Nguyễn Cảnh Bình, Giám đốc Alpha Books, trên Bee.net đã trao đổi như vậy.(xem tiếp)
DẠY VÀ HỌC. Bẵng một thời gian chưa đến thăm anh (Bulukhin- Nguyễn Quốc Toàn) Hôm nay tôi ghé lại,và chợt lặng người trước bài “Lời thề cỏ may” anh giới thiệu bài viết của cậu con Nguyễn Quốc Tuấn . Mục cảm nhận có bản nhạc “Anh còn nợ em” thấm đẫm tính nhân văn của nhạc sĩ Anh Bằng qua lời ca ngọt ngào Thiên Kim (+Tăng Thanh Hà) do bạn anh post tặng. Anh đã cố tình dùng lại tiêu đề “Lời thề cỏ may” của Trần Đăng Khoa trích trong tuyệt phẩm “Ngày Tết đọc 5 bài thơ lục bát” bình bài thơ cùng tựa đề này của Phạm Công Trứ. Ba góc nhìn đều có những sâu lắng riêng. Xin được chép chung những bài này vào “kho báu” để mọi người cùng đọc. (xem tiếp tại đây hoặc tại đây)
HỌC MỖI NGÀY. Từ "hiu hiu gió bấc" đến "đồng cỏ chát" và những con chữ "lặm lội" là bài viết mới của Nguyễn Lâm Cúc đăng trên báo Văn Nghệ Trẻ. Tôi cũng tin như Cúc, "kho chữ Việt không ngừng bổ sung nhiều từ mới, nhiều chữ mới do thời đại, do cuộc sống mang lại để cũng có thể dùng nó chuyển tải lại hơi thở thời đại và mạch đập cuộc sống". Văn Việt, chữ Việt hiện nay dẫu nhiều sạn nhưng cũng có thêm nhiều viên ngọc mới. Tôi chép lại bài viết này để thỉnh thoảng đọc và suy ngẫm. Đãi sạn tìm vàng đâu chỉ là nghiệp của nhà ngôn ngữ, nhà văn mà còn phải nằm trong ý thức thường trực của mỗi nhà giáo, mỗi học sinh, sinh viên và toàn xã hội ...(xem tiếp)
DANH NHÂN VIỆT. Giáo sư Trần Văn Giàu là nhân vật lịch sử Nam Bộ, cặp song sinh thế kỷ với đại tướng Võ Nguyên Giáp trong thời đại Hồ Chí Mính. Hồi ký Trần Văn Giàu là tác phẩm sẽ còn được nhiều người đọc lại. Thời gian và sự khen chê không làm nhoà được dấu ấn của người đã góp phần làm nên lịch sử, nghiên cứu và giảng dạy lịch sử. Bài viết của Lữ Phương “Vài ghi nhận nhân đọc Hồi ký Trần Văn Giàu” có nhiều tư liệu quý đáng đọc và suy ngẫm. Đoạn kết còn phải bàn thêm “Riêng với tôi …cho đến hết”. Hình như vấn đề Nam Bộ và quy non sông về một mối, vấn đề lãnh tụ và ngọn cờ đại đoàn kết dân tộc, chiến lược và sách lược, tổng thể và vùng miền … chưa được luận bàn thấu tình đạt lý để hiểu được uẩn khúc lịch sử và đời người. Tôi nhớ bài thơ từ sách tuổi thơ “Học đi em. Học đi mà nhớ mãi. Quê hương ta một dãi. Từ mũi Cà Mau, đến địa đầu Móng Cái. Quê hương ta. Đồng ruộng phì nhiêu. Đủ bốn mùa hoa trái. Núi Trường Sơn vĩ đại. bờ biển rộng bao la. Có Việt Bắc, mồ ma giặc Pháp , nối liền Đồng Tháp Nam Bộ Thành Đồng…”. Lịch sử cần sự thật và suy ngẫm. (Hoàng Kim) xem tiếp
HỌC MỖI NGÀY. Sau khi tạo nên khu vực Washington năm 1853, Chính phủ Mỹ đã đề nghị người da đỏ ký các hiệp định để mua đất của họ. Người da đỏ biết là không thể nào từ chối được. Dưới đây là bài diễn văn bi tráng của ông Seattle (1786-1866), trùm da đỏ, đọc trước thống đốc Isaac Stevens. Nhiều ý căn dặn được nhắc đi nhắc lại thật thấm thiết. Bài văn này được coi là một tài sản văn hoá vô giá để đời và đã được dịch sang nhiều thứ tiếng. Nguyễn Vạn An phỏng dịch từ bản Pháp Ngữ. xem tiếp ...
(trùm gia đỏ Seattle, ảnh trên mạng, không thấy ghi tên tác giả)
DẠY VÀ HỌC. Blog Hiệu Minh vừa có bài viết mới "Nước Lào không còn ...chậm" nói về không gian văn hóa, kinh tế của khu vực Đông Dương đang thay đổi trong xu hướng toàn cầu hóa. Tôi nhớ bài viết "Tháp vàng, hoa trắng nắng Mekong" và sự thấm thía lịch sử "Dân Việt nghìn năm xuôi lấn biển. Tựa lưng vào núi hướng về Nam, thoáng chốc ngàn năm nhìn trở lại. Tháp vàng, hoa trắng, nắng Mekong". Đi xa để lại nghĩ về gần. Sự giao thoa của những nền văn hóa là cuốn sách mở cần tìm tòi và suy ngẫm như sông trăng lồng lộng xuôi về biển rộng lúc hừng đông. Hoàng Kim (Thạp Luổng biểu tượng của nước Lào - ảnh otofun.net) xem ..
FOODCROPS. Viện Hàn lâm khoa học hàng đầu của Anh cho biết: Trung Quốc vừa qua mặt Nhật Bản, xếp thứ 2 trên thế giới về số lượng công trình nghiên cứu được công bố trên các tạp chí chuyên ngành quốc tế, có thể vượt Mỹ năm 2020 (Hiệp hội hoàng gia Royal Society). Trung Quốc, với lịch sử giai đoạn văn minh liên tục dài nhất của thế giới, có hệ thống chữ viết, ngôn ngữ riêng, dân số bằng 1/5 của 6,8 tỷ dân số thế giới đang dần thể hiện là một trong những nước có nền văn minh sớm nhất. Xếp vị trí thứ 6 (1999-2003) lên vị trí thứ top 3 (2004-2008) sau Mỹ. Giáo sư John Holdren, Mỹ nhận định, Trung Quốc đã có những bước tiến vượt bậc trong cách tân khoa học. Bắc Kinh không tiếc đầu tư tiền cho phòng nghiên cứu có quy mô đồ sộ ở các trường đại học để sinh viên có cơ hội tiếp cận, được đào tạo để thử nghiệm các ý tưởng mới. Trung Quốc muốn đứng đầu thế giới về khoa học là một mục tiêu có tính khả thi. Ở đây, họ đã là nước cung cấp hàng giá rẻ lớn nhất thế giới, số lượng nhà nghiên cứu trẻ “nghèo hiếu học” có chí cầu tiến gia tăng, trong điều kiện được đầu tư cao về khoa học và công nghệ, … Trung Quốc sẽ sớm trở thành nước cung cấp trí tuệ hàng đầu (Denis Simon, Mỹ). Về số lượng nghiên cứu, Trung Quốc công bố nhiều công trình hơn Mỹ trong các lĩnh vực khoa học tự nhiên và công nghệ. Trung Quốc sẽ trở thành nước công bố nhiều công trình nghiên cứu nhất thế giới trong mọi lĩnh vực (Caroline Wagner,Mỹ). Khao khát công nghệ, tri thức quay về, chất xám ngừng chảy, tập trung thành tích, phổ cập sáng chế, chấp nhận có hạn chế nhưng sẽ có tích cực để học tập những công nghệ tiên tiến. Trung Quốc phát triển quá nhanh và bất ngờ đến mức mọi người hoài nghi (Rasmus Nielsen, Mỹ). Viện nghiên cứu di truyền học Bắc Kinh (BGI) sau chuyển về Thẩm Quyến, quy tụ hơn 1500 nhà khoa học các nhà khoa học trong nổ lực thành viện nghiên cứu gen hàng đầu thế giới, chuyên nghiên cứu về giải mã gen di truyền sinh vật. Chấp nhận rủi ro để đạt mục đích (Minmin Lou, Trung Quốc) . Hoàng Long tổng hợp (xem tiếp)
DẠY VÀ HỌC. Đời tôi có thể tóm tắt trong hai chữ HỌC và VIẾT. Hai việc đó liên quan mật thiết với nhau gần suốt đời, tôi VIẾT ĐỂ HỌC và HỌC ĐỂ VIẾT . Nguyễn Hiến Lê đã viết như vậy trong “Lời mở đầu” của tác phẩm “Đời viết văn của tôi”.Phan Ngọc Hiền tại bài viết Rành mạch như Nguyễn Hiến Lê cho biết thêm những thông tin về vị học giả đáng kính này: Điều đặc biệt ở học giả Nguyễn Hiến Lê là không chỉ trong việc viết mà trong cuộc sống đời thường, ông luôn sòng phẳng, rành mạch thể hiện thái độ, quan niệm sống của mình... (xem tiếp)
DẠY VÀ HỌC. Những ngày này toàn thế giới đầy lo âu và khâm phục hướng về nước Nhật. Vượt lên thảm họa động đất, sóng thần, rò rĩ năng lượng hạt nhân đang tàn phá là hình ảnh người Nhật điềm tĩnh, không rối loạn, kiên cường và chính xác khắc phục sự cố. Người Nhật và nét đẹp văn hóa thật đáng khâm phục. (xem thêm)
FOODCROPS. Trận động đất gần 9 độ richter ở Nhật Bản (11/3) là trận động đất rất mạnh. Nó được so với sức nổ của 6,7 nghìn tỷ khối lượng chất nổ TNT và gấp 1000 sức hủy của tất cả vũ khí hạt nhân của thế giới (theo ViệtBáo), trận động đất khiến giảm 1,6 phần triệu giây thời gian một ngày do tốc độ xoay thay đổi (NASA). Những đợt dịch chuyển địa chất khổng lồ xung quanh “vành đai lửa” Thái Bình Dương tương lai sẽ thế nào?!. Nhật Bản do đặc điểm địa lý nằm gần nhiều mãng kiến tạo lớn nhỏ khác nhau của Thái Bình Dương, Á-Âu, Bắc Mỹ, Philippine nên luôn phải đối diện động đất và sóng thần. Sự kiện “siêu mặt trăng” ngày 19/3, với hiện tượng mặt trăng gần trái đất có liên quan đến hoạt động địa chấn. Thủy triều sẽ lên cao và hạ thấp hơn bình thường nhưng không đáng kể (John Vidale) ý kiến trái chiều với các nhà tôn giáo, tuy nhiên những dự đoán của họ vẫn khẳng định thiên nhiên đang thay đổi hàng ngày trên trái đất, và yếu tố thời tiết thiên nhiên cần chú ý dự phòng. Những công trình quan trọng, những lò nguyên tử, phải luôn được cân nhắc và đảm bảo. Động đất nối tiếp động đất và sóng thần là sức mạnh thiên nhiên khó dự phòng nhưng hiểm họa từ những nhà máy thì có thể được dự phòng từ trước. Thông tin người Việt xem tại trang vysajp.org; có người an toàn, có người mất tích.(xem FOOD CROPS. HỌC MỖI NGÀY.)
DẠY VÀ HỌC. Thơ hay là thơ giản dị, xúc động và ám ảnh. Tuổi thơ đọc Kiều, tôi thích nhất hai câu: "Cỏ non xanh rợn chân trời./Cành lê trắng điểm một vài bông hoa". Lớn lên, lời thơ ám ảnh là mối tình của Thuý Kiều và Từ Hải "Trai anh hùng, gái thuyền quyên. Phỉ nguyền sánh phượng, đẹp duyên cưỡi rồng". Sau này khi qua trãi nghiệm, tôi tâm đắc nhất với hai câu kết: "Thiện căn ở tại lòng ta. Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài". Thơ Nguyễn Du lung linh, huyền ảo (1), đã có biết bao lời bình suốt từ xưa đến nay. Gần đây, thêm những lời bình rất hay của Nguyễn Thế Quang (Nguyễn Du, Tiểu thuyết lịch sử, Nhà Xuất Bản Hội Nhà Văn, Công ty TNHH Sách Phương Nam phát hành năm 2010, 416 trang) để càng thông tỏ hơn sự hiền tài của nhà văn hoá lớn. Bài viết dưới đây của nhà giáo Nguyễn Đình Chú " Nhà văn Đặng Thai Mai chọn câu Kiều hay nhất" càng làm sáng thêm Nguyễn Du và những câu thơ tài hoa.
HỌC MỖI NGÀY: Giáo sư Vũ Đình Hoè người tạo nền cho giáo dục với ba chủ trương lớn khởi đầu của nước Việt Nam mới : Một là, quyết tâm thanh toán nạn mù chữ trong vòng một năm với mức tốn phí tiền bạc không đáng kể, vì chủ yếu dựa vào sức dân. Hai là, dạy học bằng tiếng Việt ở tất cả các cấp, kể cả bậc đại học.Ba là, nhanh chóng thực hiện cải cách giáo dục. “Thay thế hẳn nền giáo dục nhồi sọ của thực dân Pháp trước đây bằng nền giáo dục mới theo ba phương châm: dân chủ, dân tộc, khoa học”. Người Thầy tròn 100 tuổi vừa thanh thản ra đi ngày 29.1.2011, Thế hệ vàng Vũ Đình Hòe không lặp lại nhưng sức cảm hoá và ý nguyện của Người (Giáo sư Vũ Đình Hoè để lại ba điều ước) vẫn tiếp tục tạo đà cho sự nghiệp trồng người của dân tộc Việt đi tới.
HỌC MỖI NGÀY. Chào mừng mạng doanh nhân trí thức NES kho tri thức giàu thông tin về phản biện xã hội, văn hoá, khoa học kỹ thuật Trong chùm bài đầu xuân có bài của giáo sư Phan Huy Lê " Khách quan- Trung thực- Công bằng về chúa Nguyễn, triều Nguyễn" và bài của giáo sư Joseph S. Nye, "Tính hiện thực của quyền lực ảo". (xem tiếp)
THUNG DUNG. Sấm ký là những lời tiên tri của Nguyễn Bỉnh Khiêm về các biến cố chính của dân tộc Việt trong khoảng 500 năm (từ năm 1509 đến năm 2009). Đây là những dự báo thiên tài, hợp lý, tùy thời, tự cường, hướng thiện và lạc quan theo lẽ tự nhiên “thuận thời thì an nhàn, trái thời thì vất vả”. “Trạng Trình đã nắm được huyền cơ của tạo hóa” (lời Nguyễn Thiếp – danh sĩ thời Lê mạt). “An Nam lý học hữu Trình Tuyền” (lời Chu Xán – sứ giả của triều Thanh). xem tiếp ...
HỌC MỖI NGÀY. Hoàng Hạc Lâu là thắng cảnh nổi tiếng ở Vũ Hán gắn liền với sông Trường Giang, trận Xích Bích, huyền thoại hạc vàng, Thôi Hiệu đề thơ, Lý Bạch gác bút, Khổng Minh mượn gió đông, Tôn Quyền xem trận thế, Khuất Nguyên viết Ly tao, Nhạc Phi trần tình biểu, Nguyễn Du viết tuyệt phẩm trong bắc hành tạp lục, Tô Thức, Mạnh Hạo Nhiên, Mao Trạch Đông ... đề thơ. Biết bao danh hoạ và ảnh đẹp về Hoàng Hạc Lâu làm say đắm lòng người. Ngày xuân, xin giới thiệu một thắng cảnh du lịch nổi tiếng của thế giới (xem tiếp)
HỌC MỖI NGÀY. Nhà thơ Việt Phương đọc thơ của mình cho Bác Hồ nghe, trong đó có những ý so sánh sự ác độc của người đời với loài cầm thú, kiểu như "nhăn nhở như đười ươi", "rình mò như cú vọ", "nham hiểm như cáo già", "độc ác như báo hổ". Nghe xong, Bác lắc đầu và bảo: "- Không phải thế đâu chú ạ! Loài vật không xấu xa thế đâu. Đó là định kiến sai lầm của con người gán cho loài vật. Loài vật không xấu xa thế đâu. Loài vật không có như chú viết: nhăn nhở, rình mò, nham hiểm, độc ác. Không phải thế đâu." Nhà thơ Việt Phương sau này qua trãi nghiệm đã rất thấm thía bài học trên từ Bác. Sự sống rộng hơn sự người nhiều lắm, chứa đựng nhiều thành tố khác mà con người cần tương kính, tương thân, tương ái…” (xem tiếp).
DẠY VÀ HỌC. Tuần Việt Nam đăng bài "Lịch sử cần sự thật" của tác giả Trần Kinh Nghị - nhà ngoại giao lâu năm, nguyên Phó Đại sứ Việt Nam tại Đan Mạch. Bài viết là một tư liệu quý góp phần hiểu biết đúng đắn hơn về lịch sử và cội nguồn dân tộc Việt Nam trong sự quan hệ với Trung Quốc và các bên liên quan khác trong khu vực. (xem tiếp)
Bác Trần có sách hay (1), trò giỏi (2), thầy quý (3) vợ hiền (4) bạn đồng hành thế kỷ (5) và sống phúc hậu giữa lòng dân. Bác không tiếp tục làm nhà cách mạng, nhà tư tưởng, nhà lãnh đạo quốc gia nhưng lại thung dung làm nhà sử học, nhà văn hóa, nhà giáo dục. Sự nghiệp ấy, thời thế ấy, điều kiện ấy, bác đã tận lực, thức thời và đều đạt đến đỉnh cao.
Người hiền đi xa, tiếng thơm còn mãi. Bác viết rằng thế giới đổi thay chỉ giá trị nhân văn và tri thức hợp thời còn lại. Sau năm trăm năm dân Việt sẽ còn nhớ đến Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp. Nhân cách và di sản tri thức của bác Trần Văn Giàu chắc chắn sẽ còn nhiều người tìm lại không chỉ vì sử và văn hóa mà vượt lên trên sử, bác đã và đang nói đến CON NGƯỜI.
BÁC VÕ NGUYÊN GIÁP DĨ CÔNG VI THƯỢNG, THIÊN TÀI QUÂN SỰ
Bác Võ dĩ công vi thượng, thiên tài quân sự, biết mình biết người. Thật đẹp tấm ảnh đại tướng Võ Nguyên Giáp và giáo sư Trần Văn Giàu chụp chung. Hai trí tuệ bậc Thầy của một cặp song sinh thế kỷ.
Rừng bao la
Mênh mông rừng lipa
Suối nước Tabor êm chảy hiền hòa
Lối mòn nghiêng vách đá
Thấp thoáng lâu đài cổ
Ẩn hiện nhà thờ đức chúa Giêsu
Dấu ấn thời xa xưa
Lưu lại trên tượng đá
Đâu dấu tích của thời Trung cổ?
Đâu địa đạo dưới tầng sâu?
Rừng lipa gió thổi rì rào
Chồi non thay lá mới
Đi dạo giữa Tabor êm đềm
Mà lòng ta bão nổi
Cồn cào bao ước mong …
HỌC MỖI NGÀY. Những thất bại, va vấp mà chúng ta trải qua trong đời cũng có ý nghĩa và giá trị của riêng nó, mỗi người phải có lúc thất bại đến đau đớn để hiểu mình hơn và hiểu người hơn. Để rồi để có yêu thương, sẻ chia, nâng đỡ và tha thứ.Thất bại không chỉ giúp chúng ta trưởng thành hơn, mà còn làm chúng ta con người hơn." Một bài hay từ trang củaThanh Thủy
DẠY VÀ HỌC . Nguyễn Ngọc Tư là niềm quý trọng và yêu mến trong lòng tôi Văn của cô thật đằm thắm, giản dị và nhân hậu từ Ngọn đèn không tắt tới Cánh đồng bất tận đến những trang viết mới. Nhà văn Nguyên Ngọc đã viết về Không gian Nguyễn Ngọc Tư , giáo sư Trần Hữu Dững lập chuyên trang về cô. Anh Nguyễn Trọng Bình mới đây đã có bài viết rất hay Nguyễn Ngọc Tư từ góc nhìn văn hóa. Tôi tâm đắc nhất chất người Nam Bộ trong văn Nguyễn Ngọc Tư . Đọc văn của cô , tôi nhớ thầy Lương Định Của, Võ Tòng Xuân và những bạn Nam Bộ thân thiết Bùi Chí Bửu, Mai Thành Phụng ... (xem tiếp)
DẠY VÀ HỌC. Đêm pháo hoa, một bài viết sâu sắc của anh Phan Chí Thắng . Ảnh Chinhphu.vn. "Tôi thấy pháo hoa rất đẹp. Pháo hoa càng đẹp hơn khi tôi hiểu rằng có nó là nhờ những người như anh Khâm, những thế hệ con dân Việt Nam vô danh thầm lặng chịu mọi mất mát thiệt thòi." (xem tiếp)Xem tiếp >>
DẠY VÀ HỌC "Người lái taxi và bà cụ " là câu chuyện song ngữ cảm động do Hiệu Minh giới thiệu. Anh khiêm tốn mong có người dịch tiếng Anh chuyên nghiệp hiệu đính để có bản dịch tốt hơn. Riêng tôi đã thấy câu chuyện thật tuyệt vời và Hiệu Minh dịch hay, sát nghĩa với một ngôn ngữ Việt trong sáng. Hiệu Minh là một cây bút trẻ tài năng trên Việt Nam Net, Tiền Phong với nhiều bài viết hay. Xin chúc mừng anh và mời các bạn cùng đọc ... (xem tiếp)
THUNG DUNG. Chu Dung Cơ khi lên nhậm chức thủ tướng Trung Quốc, trước họa tham nhũng và chống đối, ông đã làm “Bàng Đức mang quan tài ra trận”. Dịp đó, chuyện cực ngắn Trung Quốc loan truyền câu chuyện vui “Con chim ngập trong đống phân”. Không hiểu sao, liên tưởng thân phận của những người bị vùi dập trong cách mạng văn hóa nay nhờ ơn tri ngộ của Đặng Tiểu Bình kéo lên từ tủi nhục, tôi lại thấy lo cho ông. Liệu ông có quá “đại ngôn” để rước họa vào thân. Sau này, khi thấy ông xuất xử đúng mực, hợp lý,”dĩ công vi thượng” (đặt việc công lên trên) “tận nhân lực” (làm hết mình) và khéo lui đúng lúc thì mới thấy ông quả là người hiểu đời. Vương Mông, người cùng thời với ông, viết “Triết lý nhân sinh của tôi” dài mà không thừa. Ông (Chu Dung Cơ) thì viết “Hiểu đời” ngắn mà không thiếu. Tôi thích nhất câu” Quý trọng và được đắm mình trong những tình cảm chân thành là một niềm vui lớn”. Nhưng sao ông lại chỉ nói đến người già trong khi những lời ông đáng suy ngẫm cho lớp trẻ lắm chứ ? (xem tiếp)
THUNG DUNG. Phan Chí Thắng. Khổng tử thường đưa học trò đi các nơi du lịch sinh thái, vừa đi vừa dạy bằng cách trò chuyện với học trò. Các giáo án từ trên đưa xuống tỏ ra quá giáo điều và khô cứng nên ông không dùng. Mà ông cũng không bao giờ chuẩn bị giáo án. Ông phó mặc cho trí tuệ và cảm hứng dẫn dắt. Vào một ngày đầu thu mát mẻ, ông đưa mấy người học trò ra vườn trúc. Những khóm trúc xanh nằm giữa bãi cỏ xanh. Xa xa có con suối róc rách, bên kia con suối là đồi chè rất xanh, vài ba thiếu nữ đang khom lưng hái chè. Cầm chén rượu từ tay Tử Tư, người cháu duy nhất là môn đồ của ông, Khổng tử thư thái ngắm nhìn cảnh đẹp thiên nhiên đang bày ra trước mắt. Mấy người học trò cung kính chắp tay đứng sau lưng ông. Bỗng Khổng tử cất tiếng: - Hôm nay ta muốn các con trả lời câu hỏi: “Cái gì ở sau lưng người đàn bà?” (xem tiếp)
DAY VÀ HỌC. Bạn cảm thấy bệnh sống nhanh sống gấp dường như đã di căn đến thú nhàn nhã cuối cùng của mình, xộc vào thành lũy cuối cùng. Và chỉ khi gặp Già, ngồi giữa căn nhà lấp ló trong vườn dừa của Già nghe Già đọc một đoạn văn của Hemingway, Lỗ Tấn, Lev Tolstoi… thì mới cảm thấy thật rõ ràng. Chỗ Già gì cũng chậm, nước trà rót chậm, điếu thuốc cháy chậm, tiếng nước mương vườn chậm rãi chảy, và giọng Già nhẩn nha mà nghiêm cẩn, "Hằng năm, tôi đợi mùa thu tới, để buồn…" (*). Tôi thật may mắn khi chiều cuối tuần được niềm vui lặng lẽ trò chuyện với Tư để cảm nhận thấm thía ... Chậm từng giọt chữ , Chậm từng giọt chữ. Chậm từng giọt chữ.... xem tiếp
THUNG DUNG. Tôi lặng người khi đọc xong bài “Điều không có trong bài giảng” của anh Đinh Đình Chiến. Anh Chiến là hiệu trưởng của Trường THPT Hùng Vương, chủ bút của blog Góc khuất . Anh là bạn học thuở nhỏ của tôi ở Trường cấp ba Bắc Quảng Trạch, Đồng hương Quảng Bình, chúng tôi xa quê trên ngàn cây sồ và tình cờ gặp nhau ở đất phương Nam. Dịp ấy, tôi ngỡ ngàng khi anh bất chợt phát hiện: ”Phải Kim đấy không? Cậu có phải là Hoàng Kim trong bài thơ của thầy Côn: Thương em nhỏ gieo neo mẹ mất/ Lại cha già giặc giết hôm qua/ Tình thầy, tình bạn thiết tha/Đấy là tình nghĩa thiết tha mặn nồng”. Tôi choáng người khi anh đọc lại rành rọt những câu thơ trong bài thơ của Thầy cách đây trên bốn mươi năm, tưởng đã chìm sâu vào ký ức. Sau đó chúng tôi có những lần gặp nhau nhưng vì xa cách nên cũng không thường gặp. Trang viết www.dinhdinhchien.vnweblog.com tôi thỉnh thoảng ghé. Bẳng đi chưa lâu, những bài viết mới của anh làm tôi bồi hồi, ngở ngàng. Thôi thì đành lòng chưa viết dài chỉ xin lưu dấu Lộc xuân nơi đây để thỉnh thoảng đọc lại (xem tiếp)
Nhớ bao đồng đội thương yêu
Đã nằm lòng đất thắm nhiều máu xương THUNG DUNG . Chùm thơ 27/7
NHỚ BẠN
Hoàng Trung Trực
Chiến tranh nay đã qua rồi
Non sông một giãi, đất trời bình yên
Ngàn năm sau chẳng lãng quên
Những dòng máu thắm viết nên sử vàng
Trời xanh, mây trắng, thu sang
Mình ta đứng giữa nghĩa trang ban chiều
Nhớ bao đồng đội thương yêu
Đã nằm lòng đất thắm nhiều máu xương
Xông pha trên các chiến trường
Chiều nay ta đến thắp hương bạn mình …
Một thời chiến đấu hi sinh
Tin Dân, tin Đảng , tin mình, tin trên
Trãi qua cuộc chiến gan bền
Lòng yêu Tổ Quốc sẵn quên đời mình
Đi vào cuộc chiến làm vinh
Lời thề vì Nước hiến mình ngại chi
Đời ta cùng bạn một thì
Gắn nhau lý tưởng, quản gì gian lao
Tình yêu Tổ Quốc dâng cao
Một thời chiến trận xiết bao là tình…
DANH NHAN VIỆT. Hàm Châu .Báo Văn hóa Nghệ An trực tuyến đăng bài "Tạ Quang Bửu một trí tuệ quảng bác , người chân tính chăm sóc các tài năng khoa học". Ngay trong những năm chiến tranh chống Mỹ ác liệt, ông đã mời một số nhà toán học Pháp được tặng Huy chương Fields (được coi như Giải thưởng Nobel trong toán học) như Laurent Schwartz, Alexandre Grothendieck sang thăm Việt Nam, đọc bài giảng về các vấn đề toán học hiện đại nhất, để cập nhật kiến thức cho đội ngũ nghiên cứu toán học nước ta. Ông là người đề xướng và tổ chức thực hiện việc thi tuyển sinh đại học và kiểm tra kiến thức nghiên cứu sinh một cách công bằng, minh bạch. Ông cũng là một trong những người chủ trương mở các lớp phổ thông chuyên toán ở nước ta vào năm 1965, từ đó đào tạo được mấy thế hệ các nhà khoa học tài năng cho đất nước. Ông mạnh dạn đưa học sinh ta đi dự các Olympic Toán Quốc tế ngay từ mùa hè năm 1974, khi nửa nước còn chiến tranh giải phóng. Nhiều học sinh chuyên toán thời ấy, về sau, đã trở thành những nhà toán học, nhà vật lý, nhà cơ học hay nhà quản lý khoa học và giáo dục có tiếng... (xem tiếp)
HỌC MỖI NGÀY. Nguyễn Duy . Dù có sao vẫn Tổ Quốc trong lòng mạch tâm linh trong sạch vô ngần còn thơ còn dân. Ta là dân – vậy thì ta tồn tại. Giọt từng giọt nặng nhọc Nặng nhọc thay Dù có sao đừng thở dài. Còn da lông mọc còn chồi nảy cây ! (xem tiếp)
Learning by Doing. Thiền sư Thích Thanh Từ là vị chân tu đạo hạnh và thực tiễn. Chân tu đi không lệch hướng và trực chỉ nhân tâm. bạo gan dám nói, dám làm, dám chỉnh đốn những gì tự thấy sai lạc chánh pháp, quên mất cội nguồn Phật giáo Việt Nam, Đạo hạnh nhiệt huyết thường xuyên với khát vọng và ước mơ tràn đầy, thấu hiểu và giác ngộ. Thực tiễn và cụ thể, biến những gì ôm ấp trong lòng thành hiện thực nên bảng hiệu những ngôi Thiền viện hiện đứng sừng sững trước mắt và trong lòng người. Thiền sư Thích Thanh Từ có một khối lượng trước tác thật đồ sộ, giản dị, tinh tường và quý giá. Tôi ngưỡng mộ thiền sư và tâm đắc "Tuệ Trung Thượng sĩ ngữ lục"., "Bát Nhã tâm kinh giảng giải" và "Trọn một đời tôi". Thiền sư Thích Thanh Từ hiện về trụ trì tại chùa Lân (hình trên) một thắng tích trong non thiêng Yên Tử nơi Vua Phật Trần Nhân Tông hôi tụ tinh hoa Phật giáo Việt Nam "Trăm năm tích đức tu hành. Chưa đi Yên Tử chưa thành quả tu". Anh Bulukhin có bài viết hay và sâu sắc gợi mở học hỏi "Đôi điều tâm đắc với thiền sư Thích Thanh Từ" tại đây.
HỌC MỖI NGÀY. Người lớn, nhất là các bậc làm cha mẹ, đôi khi cứ nghĩ đơn giản là sinh con ra, cho con ăn uống no đủ, học hành tử tế là đã làm tròn bổn phận rồi. Tuy nhiên, họ quên đi rằng, trẻ cũng có nhu cầu được quan tâm, nếu không được như thế, các em sẽ cảm thấy bơ vơ, lạc lõng ngay trong chính ngôi nhà của mình. Dưới đây là mẩu chuyện đáng để các bậc làm cha mẹ suy ngẫm. (xem tiếp)
HỌC MỖI NGÀY. Với tựa đề "Hoan hô Quốc hội" www.bee.net đã đăng ý kiến của GS. Chu Hảo, Giám đốc Nhà Xuất bản Tri thức: “Chúng ta cám ơn Quốc hội đã tạo ra bước đột phá này (bác dự án đường sắt cao tốc Bắc Nam), và hy vọng rằng tinh thần ấy tiếp tục được phát huy để góp phần thực thi một Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân, như chúng ta vẫn nói hàng ngày” (xem tiếp)
DẠY VÀ HỌC. Kindle là thiết bị cầm tay để đọc sách do Amazon.com sáng chế, phiên bản đầu tiên xuất hiện trên thị trường Hoa Kỳ từ tháng 11 năm 2007. Anh Vũ Duy Mẫn đã kịp thời thông tin về thiết bị này trên trang Blog Duy Mẫn với tựa đề Kindle của Amazon. Hiện nay nhiều cuốn sách thú vị, bạn đã có thể tìm thấy và đọc trực tuyến tại Google Book, Goodreader,Tủ sách tuổi trẻ, Việt Nam thư quán. .... thì những thiết bị đọc sách điện tử dễ dàng, thoải mái sẽ góp phần quan trọng trong việc nâng cao chất lượng cuộc sống (xem tiếp)
HỌC MỖI NGÀY. Quốc hội Việt Nam bị chia rẽ bởi Dự án đường sắt cao tốc Bắc Nam với nhiều ý kiến đồng tình lẫn phản đối. Tổng Công ty Đường sắt Việt Nam đã đề xuất dự án với tổng số tiền đầu tư là 55,88 tỷ USD cho đến năm 2035, khi dự án hoàn thành, bằng cách tiến hành từng đoạn, khai thác tức thì, mỗi năm vốn đầu tư 2 - 2,1 tỷ đôla. Chính phủ Việt Nam sẽ chịu trách nhiệm đầu tư 31 tỷ đôla vào cơ sở hạ tầng, còn tiền đầu tư vào các phương tiện là do các doanh nghiệp. Nguồn vốn của Chính phủ chủ yếu là vốn vay ODA của Nhật. Một trong nhũng phản biện xã hội đáng lưu ý là của Nguyễn Lưu Hải Khôi từ Tokyo (Nhật Bản) tựa đề "Bởi đất nước mang hình dấu hỏi?" không đồng tình với năng lực tư duy chiến lược và cấu trúc thích hợp của tiến trình ra quyết định. Nhận thấy đây là một vấn đề lớn không chỉ cho ngành đường sắt mà còn là kinh nghiệm cho nhiều lĩnh vực khác của nền kinh tế quốc dân nên tôi đã chép bài này để đọc kỹ (xem tiếp)
ĐỌC LẠI VÀ SUY NGẪM. Nguyễn Du viếng mộ Liễu Hạ Huệ nơi “bia tàn chữ mất vùi gai góc/ nghe tiếng nghìn năm tôi xuống xe” càng cho thấy nhân cách kẻ sĩ và sự cảm thông của ông đối với Liễu Hạ Huê sâu sắc đến dường nào. Người hiền thực ra đời nào cũng có, thời thế nhiễu loạn, chẳng qua vàng lầm trong cát đấy thôi. Nguyễn Du là con quan tướng quốc Nguyễn Nhiễm cựu thần nhà Lê và mẹ ông là người phụ nữ tài sắc, vợ lẽ nhà quan, gặp lúc thế nước động loạn, chúa Trịnh, nhà Tây Sơn, nhà Nguyễn đều có ý riêng. Ông lớn lên trong cảnh lận đận không nhà, có tài mà không thể cậy. Ông là một đại sĩ phu tài năng trác tuyệt nhưng chỉ làm một viên quan thường triều Nguyễn mà vua vừa dùng, vừa tìm cách kiềm chế như đối với Nguyễn Công Trứ, Phan Huy Chú. Ông vì giỏi nên được vua Nguyễn cử đi sứ Tàu mà thôi. Thơ Nguyễn Du vì vậy kín đáo và sâu sắc hiếm thấy (còn tiếp)
HOCMOINGAY. Trung tướng Đồng Sĩ Nguyên và thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh vừa đề xuất yêu cầu với các cấp lãnh đạo có thẩm quyền: " Đến khi nào Đại tướng Võ Nguyên Giáp trút hơi thở cuối cùng, cần tiến hành nghi lễ Quốc tang đối với Đại tướng và Ngôi nhà 30 Hoàng Diệu nên dùng làm nhà lưu niệm Đại tướng mà không dùng vào bất cứ việc gì khác." . Ý kiến này lường trước sự việc sẽ đến và nêu ra sớm ngày 9 tháng 5 năm 2010 khi Đại tướng còn khỏe mạnh là rất cần thiết, để đồng bào cả nước và bầu bạn năm châu không đột ngột và báo chí thông tin chính xác kịp thời. Nhân điều này làm tôi nhớ đến hai trong số những kiến nghị sâu sắc của Đại tướng Võ Nguyên Giáp về biển đảo và giáo dục - khoa học. Kiến nghị biển đảo được ghi vào Nghị quyết Bộ Chính Trị Trung ương Đảng ngày 25.3.1975 "Vừa chuẩn bị cho trận quyết chiến chiến lược cuối cùng vừa tiến hành giải phóng các đảo và quần đảo quân ngụy đang chiếm giữ" . Kiến nghị giáo dục -khoa học tại bài viết của Đại tướng đăng trên Tạp chí Cộng sản số 1-1989 " Để cho khoa học thật sự trở thành động lực phát triển kinh tế xã hội". Những đề xuất thật trách nhiệm và quý biết bao! Học không bao giờ muộn ! (Ảnh trong bài Mùa xuân Võ Nguyên Giáp) xem tiếp
DẠY VÀ HỌC. Dương Danh Dy một chuyên gia kỳ cựu của Việt Nam về Trung Quốc trong bài viết "Hồ Chí Minh với Trung Quốc" đã nêu hai bài học lớn của Bác mà ông không dám quên, đó là "1) Tôn trọng vai trò và lợi ích nước lớn của Trung Quốc trong quan hệ quốc tế với Bác không có nghĩa là không tôn trọng lợi ích chung của phe xã hội chủ nghĩa của phong trào cộng sản quốc tế, của nhân dân các nước khác". 2) Với Bác, tôn trọng vai trò nước lớn và gìn giữ tình hữu nghị của Trung Quốc trong quan hệ với Việt Nam không có nghĩa là nhắm mắt làm theo, từ bỏ lợi ích chính đáng của dân tộc." Ông viết "Để vận dụng tốt hai bài học trong ứng xử đối với Trung Quốc của Bác tôi nghĩ mỗi người Việt Nam chúng ta, nhất là những người lãnh đạo và đông đảo những nhà ngoại giao, nhà nghiên cứu, nhà quản lý các địa phưong.. cần nghiêm túc tu dưỡng rèn luyện không ngừng về ba mặt chủ yếu: trí tuệ, bản lĩnh, nghệ thuật. Trong hoạt động đối ngoại đó là ba điều không thể thiếu, nhưng học cho thấu đáo và vận dụng được chúng không dễ." (xem tiếp)
HỌC MỖI NGÀY. "Em ơi! /Buồn làm chi / Anh đưa em về bên kia sông Ðuống/ Ngày xưa cát trắng phẳng lỳ / Sông Ðuống trôi đi / Một giòng lấp lánh / Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ... " Nhà thơ Hoàng Cầm, nhà thơ đất Phúc Tằng, Việt Yên, Bắc Giang đã đi vào cõi vĩnh hằng lúc 9g 30 sáng ngày 6 tháng 5 năm 2010 nhưng các vần thơ của ông về giòng sông Đuống thân thương vẫn còn đó như Tế Hanh với "Nhớ con sông quê hương", Lưu Quang Vũ với "Qua sông Thương" Dư âm lắng đọng là tình nước tình người (xem tiếp)
HOCMOINGAY. Đã tắt lặng Cây đàn thơ Hoàng Cầm là bài viết của anh Phan Chí Thắng vĩnh biệt nhà thơ Hoàng Cầm đăng trên VietnamNet . Cây đàn thơ là chữ của anh Chí Thắng gọi lão nhà thơ Hoàng Cầm. Cầm là cây đàn, Hoàng Cầm lưu danh cùng non sông Việt bởi thơ. Bài bình thơ tuyệt hay của anh Phan Chí Thắng đã giúp chúng ta hiểu sâu hơn tuyệt phẩm Lá Diêu Bông “Cây đàn thơ Hoàng Cầm đã tắt lặng, nhưng dư âm của nó vẫn ngân nga, vọng mãi trên thi đàn, trong lòng người và nhân thế...Trong tài sản thơ phú giầu có của ông, Hoàng Cầm có rất nhiều tác phẩm, ngay cả khi chưa công bố, đã được "ngôn truyền" trong công chúng. Và khi cất tiếng hoan ca, nó đủ sức lay động tới con tim mọi giai tầng. Lá Diêu bông là một bài thơ có số phận "hạnh phúc" như thế, cho dù nó nói về nỗi bất hạnh- hay hạnh phúc "ảo" của kiếp người. Bài thơ dạng kể chuyện, ngắn gọn đến mức tiêu biểu cho sự hàm súc, hàm súc từ hình ảnh đến ngôn từ, khó có thể lược bớt đi một từ nào trong bài thơ. "Váy Đình Bảng buông chùng cửa võng / Chị thẩn thơ đi tìm/ Đồng chiều - cuống rạ/ Chị bảo đứa nào tìm được lá diêu bông/ Từ nay ta gọi là chồng/ Hai ngày em tìm thấy lá/ Chị chau mày đâu phải lá diêu bông/ Mùa đông sau em tìm thấy lá/ Chị lắc đầu trông nắng vãn bên sông/ Ngày cưới chị, em tìm thấy lá/ Chị cười xe chỉ ấm trôn kim/ Chị ba con em tìm thấy lá/ Xoè tay phủ mặt chị không nhìn/ Từ thuở ấy/ Em cầm chiếc lá / Đi đầu non cuối bể/Gió quê vi vút gọi./ Diêu Bông hời... /ới Diêu Bông” (đọc tiếp)
DANH NHÂN VIỆT. Merle L. Pribbenow, cựu nhân viên CIA về Đông Dương đã có một công trình nghiên cứu khá công phu về Tổng tiến công năm 1975. Đấu pháp chiến lược kết thúc chiến tranh có một không hai do Đoan Trang lược dịch và chú thích. Đây là một tài liệu quý cung cấp những thông tin và góc nhìn của một chuyên gia tình báo Mỹ về tầm vóc tư duy chiến lược và nghệ thuật quân sự Việt Nam. Đồng thời cũng làm rõ thêm về tương quan lực lượng, vai trò của Tổng hành dinh và tài năng chói sáng của đại tướng Võ Nguyên Giáp.
NHỚ MẸ Nguyễn Vạn An. "Tối nay ngồi vẽ mẹ. Một người mẹ của đồng quê đất Việt. Da mặt mẹ đã xạm đen vì giãi dầu. Đôi mắt mẹ đã chĩu xuống vì suy nghĩ, vì chịu đựng, vì lo lắng cho các con. Đôi môi mẹ đã khô khan nứt nẻ, vì tranh thủ, vì buôn bán, vì cãi cọ, vì van xin, vì cầu nguyện. Cứ mỗi nỗi nhớ là vẽ một nét nhăn trên mặt mẹ. Vẽ một lúc thì mặt mẹ đầy nét nhăn nheo. Vậy mà nỗi nhớ vẫn chưa nguôi. Làm sao con có thể vẽ được hết nỗi nhớ mẹ ! Từ lúc sanh đứa con đầu, mẹ chỉ sống về chúng con. Bây giờ chúng con đã khôn lớn, đã nên người. Mẹ muốn gì chúng con cũng có thể đem về cho mẹ được. Nhưng mà mẹ đã đi rồi !" Trên đây là một tác phẩm của anh Nguyễn Vạn An trên trang DẠY VÀ HỌC (đọc tiếp)
TÌNH YÊU CUỘC SỐNG . Nhà văn Hoàng Đình Quang sinh năm 1951, quê Thái Nguyên, hiện sống và viết tại thành phố Hồ Chí Minh. Tác phẩm đã in: Hát chẳng theo mùa 2009; Xuân Lộc 2006; Phản trắc 2006; Cánh đồng lưu lạc 2005; Học làm giàu từ những doanh nhân khổng lồ (hai tập) 2004; Phiên chợ Tết cuối cùng 2002; Thua thắng nghề buôn (hai tập) 1999; Thời loạn 1997; Mùa chim ngói 1995; Định mệnh 1993; Những ngày buồn 1992; Nỗi lòng trinh nữ 1992 (Bút danh Kiều Hồng ); Nói thầm 1991, Chàng nai 1983. Trang weblog giao lưu với bạn hữu của anh Quang là http://quangnv.vnweblogs.com . Anh Hoàng Đình Quang có nhiều tiểu thuyết và truyện ngắn hay. Anh cũng là nhà biên tập chuyên nghiệp, tốt bụng, khách quan và tận tâm. Thơ Hoàng Đình Quang hay không kém văn, có ngôn ngữ riêng, một số câu giản dị mà ám ảnh “Xin em đừng tin những câu tôi viết/ Con chim vu vơ hót chẳng theo mùa”; “Sào định mệnh cắm vào dòng sông khác/ Đá cỏ hai bờ đã in dấu trăm năm”; “Phong trần đậu bến thuyền quyên/ Phong lưu thì lắm, bạc tiền thì không/ Em cho anh cả tấc lòng/ Anh đem trao lại cái không có gì…”; “Báu chi châu báu, ngọc ngà / Thà say khướt, chứ tỉnh ra… lại cười!”. Bài thơ Hưng Yên của anh vừa quen vừa lạ, đã chạm đến vẻ đẹp của thú chơi thơ đường luật tao nhã: “Thanh tân em gái cười trong nón/ Chầm chậm mẹ già ngóng trước hiên/ Phố Nối ngập ngừng ta tiễn bạn/ Với Hưng Yên, thượng lộ bình yên!” Bản dịch bài thơ Tương tiến tử của Lý Bạch thật thú vị, không hẵn là thơ dịch “Trời sinh ta có tài cao / Lo gì chẳng có chỗ nào kiếm ăn / Hết tiền? Xin chớ lăn tăn / Đồng tiền là thứ có chân đi, về!” Thơ Hoàng Đình Quang ấn tượng hơn cả là những bài thơ tình. Đó là những lời yêu thương lặng lẽ khát vọng. Bài thơ “Vũng Tàu” là lời kết có hậu: “Hỡi những ai lưu lạc giữa cuộc đời/ Không nơi hôn nhau thì trong mơ sẽ có/ Dù Bãi Trước, Bãi Sau chỉ toàn sóng gió/ Hạt cát cuối cùng vẫn lấp lánh ngọc trai.”Xin giới thiệu một chùm thơ của anh Hoàng Đình Quang và bức ảnh “Đón bạn ở xa về” (anh Quang là người thứ tư, bên phải qua).Hoàng Kim tuyển chọn và giới thiệu (đọc tiếp)
TÌNH YÊU CUỘC SỐNG. Nhà văn Nguyễn Khải đã mất cách đây trên hai năm (ông mất ngày 15. 1. 2008) nhưng trang văn và cuộc đời của ông vẫn tồn tại . Những tác phẩm chính của ông vẫn tiếp tực thức tỉnh các thế hệ: Tôi viết vậy thì tôi tồn tại; Xung đột; Mùa lạc; Gặp gỡ cuối năm; Thời gian của người; Điều tra về một cái chết; Vòng sóng đến vô cùng; Cõi nhân gian bé ti; Nếp nhà; Hà Nội trong mắt ai; Một người Hà Nộị; Chút phấn cho đời; Thượng đế thì cười và … Đi tìm cái tôi đã mất. Nhà văn Nguyên Ngọc đã viết về ông những dòng cảm mến: “Nguyễn Khải có một số phận rất Việt Nam. Anh có một tuổi thơ buồn, éo le và cả tủi nhục nữa – cũng như cái “tuổi thơ” của nhân dân mình vậy, rất có thể đắm chìm mãi mãi nếu tự trong anh – lại cũng như tự trong nhân dân mình vậy – không có một sức tự vươn lên kỳ lạ, im lặng, nhẫn nhục, mà kiên trì, kiên định, dũng cảm một cách thực sự là dũng cảm bởi không hề ồn ào, để thành người, một con người đàng hoàng trong cuộc đời, thành đạt trong sự nghiệp và ở đỉnh cao… Cũng từ chính chìm nổi của cuộc đời mình mà Nguyễn Khải hiểu và có quan niệm rất sâu, rất nghiêm về nghề và nghiệp cầm bút. Nghề cầm bút, với anh, trước hết và sau cùng nữa, là nghề làm người. Nghiêm trang và khó nhọc như nghề làm người…Nguyễn Khải không mất, nhà văn rất thời sự ấy lại cũng là nhà văn của tương lai”. Triệu Xuân nhận xét: “Nguyễn Khải là một trong những người tiên phong viết tiểu thuyết về cuộc sống dân sự đầy vật lộn cam go sau chiến tranh. Tôi nghĩ chính anh, nhà văn Nguyễn Khải đã khai sinh dòng tiểu thuyết viết về những chuyện thường ngày, bám sát các sự kiện nóng hổi, đầy chất trí tuệ, chính luận của văn học Việt Nam.” (xem tiếp)
DẠY VÀ HỌC. Nguyễn Vạn An là một họa sĩ tài hoa Việt kiều tại Pháp. Anh viết thơ văn hay, giỏi chơi đàn và khiếu thưởng thức nghệ thuật tinh tế. Thơ văn anh giản dị, giàu tính nhân văn. Sau trang viết thấp thoáng hình bóng một người tốt, hiền lành, có chút hài hước kín đáo. Tác phẩm chính của anh tại trang Nguyễn Vạn An, dưới đây trích đăng ba bài. Tôi viết bài Đợi anh sau một thời gian anh vắng lâu trên blog, nay anh đã trở lại. Bạn tốt là lộc xuân của cuộc đời (xem tiếp)
HOCMOINGAY dẫn nguồn tin của http://niemtin.free.fr : Theo tạp chí giáo dục danh tiếng của Anh Times Higher Education (THE) và tổ chức xếp hạng các trường đại học trên thế giới đã công bố danh sách 100 trường đại học hàng đầu năm 2009 (xem tiếp)
HOCMOINGAY. Tác giả Nguyễn Trung vừa có bài viết "Việt Nam trong thế giới của thập kỷ thứ hai thế kỷ 21 " đăng trên tạp chí Thời đại mới số 18 tháng 3 năm 2010. "Kể từ khi hoàn thành sự nghiệp giải phóng và thống nhất đất nước ngày 30 Tháng Tư năm 1975, do đòi hỏi trong nước và bối cảnh quốc tế mới, chưa bao giờ mà độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia và tương lai phát triển của đất nước phải đối phó với nhiều thử thách nguy hiểm và quyết liệt như hiện nay. Cụ thể là con đường phát triển của Việt Nam đang đặt ra nhiều đòi hỏi gắt gao, đồng thời cục diện quốc tế và khu vực đang đi vào một bước ngoặt đặt nước ta trước nhiều thách thức mới. Tất cả tạo nên sức ép căng thẳng bên ngoài và bên trong, đòi hỏi cả nước phải dấn lên đối mặt." Tài liệu nghiên cứu này là nghiêm túc công phu và có nhiều thông tin (mời xem tiếp tại đây hoặc tại đây)
HOCMOINGAY. Trần Đăng Khoa. Nhiều chuyện bọ Lập kể trong “Ký ức vụn” là chuyện thật. Những “nhân vật” cũng có thật. Có người là bạn bè thân quen một thuở của Lập. Có người nổi tiếng mà nói tên thì ai cũng biết. Có những người bình dị ta vẫn gặp hàng ngày. Rồi cả những vị khai quốc công thần. Tất cả đều bình đẳng dưới ngòi bút của Lập. Hóm hỉnh. Hài hước. Nhiều khi đọc không nhịn được cười. Nhưng đằng sau tiếng cười, ta có thể ứa nước mắt. Từ thằng bé sứt môi, ông cụ Hoi, anh cu Hó, con bé ăn ruồi, đến Đại tướng lừng danh Võ Nguyên Giáp. Tất cả đều rất đẹp. Đằng sau những tình tiết tưởng như thật thà, bâng quơ, là những thân phận, những kiếp người trong cõi đời dâu bể. Ký ức vụn là cuốn sách hay. Lại dễ đọc. Và đã đọc rồi thì rất khó quên. (xem tiếp)
HOCMOINGAY. "Tôi muốn dùng cả sự sống của tôi để cảm tạ một người, là người mẹ đã sinh và nuôi nấng tôi. Mẹ tôi là một người phụ nữ nông dân bình thường, nhưng những đạo lý mẹ dạy tôi nên người đã khích lệ tôi cả đời...Nếu nghèo đói là trường đại học tốt nhất, thì tôi muốn nói rằng, người mẹ nông dân của tôi chính là người thầy giáo giỏi nhất của đời tôi. Dưới khán đài, không biết có bao nhiêu đôi mắt đã ướt đẫm, tôi quay về phía người mẹ tóc hoa râm của tôi, cúi người xuống kính cẩn... ". Đó là câu chuyện cảm động không thể cầm được nước mắt từ blog Nguyễn Thành Nam. (xem tiếp)
HOCMOINGAY. Sáng sớm ở Luang Prabang của nước Lào, khoảng từ 5h, không gì hay bằng ra đường và ngắm các nhà sư đi khất thực...Lạ thay là một dân tộc, là những con người, suốt đời, suốt ngày nào cũng vậy, mỗi buổi sáng lại dậy thật sớm, dọn mình thật thanh khiết rồi ra ngồi lặng lẽ và cung kính bên đường để chờ làm công việc hẳn là tự nguyện nhất trong những công việc ở đời. Mở đầu một ngày sống như vậy thì thật khó làm điều ác trong ngày. Và một chút nhận xét nữa: ở đây người ta sống chậm. Không quan tâm, không ham hố tốc độ. Hình như giữa sự thâm trầm của tu, chùa, sư và sự thanh thản của cuộc sống hằng ngày chẳng có mấy khoảng cách.(xem tiếp)
THUNG DUNG. Kinh Dịch xem chơi, yêu tính sáng yêu hơn châu báu. Sách Nhàn đọc giấu, trọng lòng rồi trọng nữa hoàng kim...(Trần Nhân Tông) Người ơi con đến đây tìm/ Non thiêng Yên Tử như tranh họa đồ/ Núi cao trùng điệp nhấp nhô/ Trời xuân bảng lãng chuông chùa Hoa Yên/ Thầy còn dạo bước cõi tiên/ Con ươm mầm sống xanh thêm ruộng vườn/ Mang cây lộc trúc về Nam/ Ken dày phên giậu ở miền xa xôi/ Cư trần lạc đạo Người ơi/ Tùy duyên vui đạo sống đời thung dung/ Hành trang Thượng sĩ Tuệ Trung/ Kỳ Lân thiền viện cành vươn ra ngoài/ An Kỳ Sinh trấn giữa trời/ Thơ Thiền lưu dấu muôn đời nước non .Hoàng Kim (xem tiếp)
DẠY VÀ HỌC. Trao đổi về tình yêu cuộc sống. Chọn bạn đời như thế nào? Hãy chọn người tốt có tâm sinh lý bình thường; Yêu là chọn người thích hợp; Tự chủ, nghị lực và sáng tạo; Đừng coi thường chuyện nhỏ; Nhẫn nhịn giúp nhau tự hoàn thiện bản thân. (xem tiếp)
DẠY VÀ HỌC. Phan Chí Thắng. Ta nợ mặt trời chiếc bóng dưới chân/ Ta nợ đêm thu tiếng sáo trong ngần/Ta nợ mẹ già tháng năm tần tảo/ Ta nợ vợ hiền một thời thanh xuân/Ta nợ cuộc đời cúi đầu tạ lỗi/ Ta nợ quê hương núi thẫm ráng chiều/ Ta nợ lòng mình những lần thất hẹn/ Ta nợ cuộc tình khoá lễ cầu siêu. TA NỢ của Phan Chí Thắng là một bài thơ hay. Đó là một góc nhìn khác về cuộc sống so với NỢ của Nguyễn Duy. Đọc và chiêm nghiệm hai bài thơ này, ta thấu hiểu thêm câu kết xúc động trong BÀI THƠ VIỆT BẮC của Trần Dần "Đi/ Tất Cả/Dù quen tay vỗ nợ/Cũng chớ bao giờ/ vỗ nợ/ NHÂN DÂN, nhớ đến và thấm thía câu kinh Phật: "Món nợ lớn nhất của đời người là tình cảm (xem tiếp)
HOCMOINGAY. Làn sóng ứng dụng công nghệ thông tin để tạo website giáo dục Việt Nam nhằm hỗ trợ mạnh mẽ, đắc lực cho dạy và học đang bùng phát mạnh mẽ tại khối giáo dục phổ thông, ở các thầy cô giáo độ tuổi 27- 45, tâm huyết với nghề, năng lực chuyên môn tốt, muốn nâng cao kỹ năng dạy học qua việc tạo website cá nhân để chia sẻ kinh nghiệm và tư liệu giáo dục. Năm nhược điểm của họ khi tạo website là: Chưa nhận định rõ trình độ và chưa xác định đúng đối tượng; chưa chuẩn bị tốt các tài liệu phục vụ công tác giảng dạy; website mắc nhiều lỗi thiết kế; thiếu tương tác; thiếu cập nhật. Thạc sỹ Trương Tinh Hà, giám đốc điều hành website giaovien.net đã nhận định như vậy (xem tiếp).
Hoàng Kim. "Em về Châu Đốc Long Xuyên / Anh lên Srê pok với niềm nhớ thương/ Nằm đêm lưng chẳng tới giường/ Nghe chao cánh võng giữa rừng canh khuya". Gặp Hoàng Bình, tôi lại nhớ Long Xuyên , nhớ Srê pok, nhớ kỹ niệm một thời , thuở mà tôi đã viết liền mạch hai bàì họa thơ "Chèo thuyền trên sông Vôn ga " của Hoàng Bình. Tôi gặp Bình trong tiệc cưới và đề nghị anh chép lại bài thơ trên. Đất phương Nam đã là nơi đại gia đình chúng tôi đoàn tụ (xem tiếp)
DAYVAHOC. Mời các bạn ghé thăm trang web "Chân trời rộng mở" của cô giáo Phạm Thị Thương Huyền ở Trường Tiểu học số 2 Vĩnh Lâm, Vĩnh Linh, Quảng Trị trên Thư viện trực tuyến VIOLET. Trang web thật hay và bổ ích! Một cô giáo vùng sâu, vùng xa, nơi miền quê nghèo khó đã làm được những điều thật tốt, ứng dụng công nghệ thông tin vào bài giảng trực tuyến của mình, để bài học sâu sắc hơn, sinh động hơn. Cấu trúc tài nguyên dạy học của cô rất đáng cho chúng ta học tập với nội dung khá chất lượng, chuyên đề phong phú, phù hợp với tâm lý lứa tuổi nên có giá trị tham khảo tốt cho việc dạy và học. Lời cô tự bạch thật chí lý: "Thế giới này không dừng lại để đợi ta!" Cám ơn VIOLET. Cám ơn cô giáo. (xem tiếp)
DANHNHANVIET. "Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh chưa bao giờ đề cao mình. Người luôn sống giản dị như một lão nông tri điền, như một bậc túc nho nơi thôn dã. Chỉ sau khi Người mất trong nhiều năm về sau, các nhà nghiên cứu mới phát lộ được những di sản Hồ Chí Minh để lại nằm sâu thành tầng, thành vỉa. Và những người tiên phong nhìn ra tư tưởng Hồ Chí Minh đó là hai nhà văn hóa Phạm Văn Đồng và Võ Nguyên Giáp. Phạm Văn Đồng đánh giá “Hồ Chí Minh là tinh hoa nhân loại”. Còn Võ Nguyên Giáp nhận định “Thế giới còn đổi thay nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh sống mãi”. Đạo diễn Nhật Minh đã viết những câu trên trong bài viết Đâu là sự thật trong bộ phim "Sự thật về Hồ Chí Minh". Những điều sâu sắc và những tinh tế trong các tư liệu của Nhật Minh cần đọc lại và suy ngẫm (xem tiếp)
HOCMOINGAY. Tên tuổi Võ Nguyên Giáp gắn liền với trận Điện Biên Phủ, kết thúc chế độ thực dân Pháp ở Việt Nam, một chiến thắng làm rung động địa cầu. Napoleon chết ở tuổi 52, còn Võ Nguyên Giáp vẫn sống tỉnh táo khỏe mạnh cho đến bây giờ ở tuổi 99. Tuy sống chết là số mạng nhưng người thông minh nhân hậu, có cuộc sống chừng mực, quân bình, thường sống rất lâu (đọc Đại tướng Võ Nguyên Giáp thời trẻ của Hồng Cư và Đặng Bích Hà). Trong các danh nhân Việt Nam chỉ có Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm sống lâu trên 90 tuổi. Những giờ rảnh rỗi trong bệnh viện, tôi mang tập Hồi ức Đại tướng Võ Nguyên Giáp ra đọc. Một bác sĩ người Mỹ đi qua trông thấy bìa sách, kêu lên “Ồ, Võ Nguyên Giáp”. Tôi hỏi: “Ông cũng biết Võ Nguyên Giáp à?”. Ông trả lời: “Tôi biết chứ: Việt Nam, Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp”. Cho đến bây giờ, đó vẫn là một thực tế. Tư liệu về đại tướng Võ Nguyên Giáp trên Tạp chí Hồn Việt (xem tiếp)
DAYVAHOC. GSTS. Anh hùng lao động Nguyễn Văn Luật: "xin trình bày một số hiểu biết sau vài thập kỷ hòa nhập với dân Nam Bộ mà người "khai tâm" cho tôi là thầy Lương Định Của như một nén tâm nhang kính thầy sắp vào dịp giỗ thầy sau 35 năm ngày mất, tháng 12/1975, ở tuổi 55 sung mãn sức lực, trí lực... Chân thành và khẳng khái trong cuộc sống, sáng tạo trong lao động chân tay và trí óc, nhân ái trong giao tiếp, độ lượng trong ứng xử xã hội, dũng cảm trong chống ngoại xâm, hòa nhập với cộng đồng và thân thiện với cây cỏ sông nước, là những phẩm chất rất quý của con người Nam Bộ cả xưa và nay (xem tiếp)
DANHNHANVIET. Giáo sư Nguyễn Lân (1906-2003) là người Thầy về tâm lý giáo dục và ngôn ngữ Việt, là gương sáng của một dòng họ lớn. Ông là nhà giáo nhân dân, nhà biên soạn từ điển, học giả nổi tiếng của Việt Nam. Ông đã công hiến trọn đời mình cho nền giáo dục Việt Nam và là người có công trong việc xây dựng bộ môn và khoa tâm lí học, giáo dục học của hệ thống các trường Sư phạm ở Việt Nam. GS Nguyễn Lân Dũng đã xúc động viết về giáo sư Nguyễn Lân "Chúng tôi vô cùng tự hào về cái gia tài tinh thần mà cụ đã để lại cho muôn đời con cháu. Đó là tấm gương về lòng tin, tin ở chính mình, tin ở sự nghiệp vẻ vang của dân tộc, tin ở lẽ phải, ở chính nghĩa, tin ở tất cả những người lương thiện sống quanh ta. Đó là tấm gương về lòng hiếu học và ý chí phấn đấu học tập suốt đời để không ngừng làm giàu kiến thức cho mình và dùng kiến thức ấy để cống hiến cho sự nghiệp trồng người. Đó là tấm lòng nhân ái, yêu đời, yêu người, vị tha, khoan dung dành cho những người sống quanh mình. Đó là tấm gương về nếp sống giản dị, tiết kiệm, không màng công danh, phú quý, không chuộng hình thức, luôn khiêm nhường và quý trọng sức lao động của người khác. (xem tiếp)
DAYVAHOC. Dạ Ngân. Ai rồi cũng sẽ có lúc rủi ro hay lóng ngóng như vậy. Bỗng nghe thấy một mùi thơm sát bên và một giọng nói trai trẻ vô cùng lễ phép: “Để cháu dựng xe giúp còn cô lượm kỹ các thứ cho vô giỏ đi. Không sao đâu, ổn rồi, đi tiếp đi cô!” Nhận lại chiếc xe đã được nổ máy giúp, thế là lập cập qua đường, không kịp nhìn lấy lần nào người ơn ấy. Vậy mà nhớ, nhớ mãi mùi thơm và giọng nói, tất cả là một mùi thơm của lòng tốt, của văn minh, của hiếm.(xem tiếp)
HOCMOINGAY. BS. Hồ Hải. Nhân câu chuyện du học sinh Hồ Quang Phương bị cảnh sát Mỹ đánh đập dã man và sự việc lên án của báo chí Việt Nam. Cũng như cháu Hồ Quang Phương nhờ luật sư để kiện ra ra tòa 4 cảnh sát Mỹ tham gia vào cuộc đánh. Với vốn hiểu biết nhỏ nhoi của mình tôi xin gửi đến các du sinh, đặc biệt, các du sinh Việt sang Mỹ ở tuổi trưởng thành một số hiểu biết của mình về văn hóa đối xử với cảnh sát Mỹ. Ngõ hầu sự việc đáng tiếc này không còn xảy ra nữa (xem tiếp)
HOCMOINGAY. Trong thư của tổng thống Mỹ Obama gửi học sinh, sinh viên nhân ngày khai trường thì những cụm từ Google, Facebook ... đã được nhắc tới một cách hãnh diện, tự hào với niềm tin sâu sắc vào sức sáng tạo, khám phá của lớp trẻ sẽ tự tin vào đời làm chủ vận mệnh của chính bản thân mình, đóng góp giá trị cho gia đình, cộng đồng, đất nước và làm thay đổi thế giới. Google đã là công cụ tìm kiếm rất hiệu quả mà hầu hết các bạn trẻ Việt Nam quen thuộc như thư điện tử email, chát. Vây thì trang cá nhân Facebook bạn đã có hay chưa? "Ngôi nhà trên mạng của bạn" là quan trọng lắm đấy! Facebook nổi trội vì nó là mạng xã hội mạnh nhất toàn cầu, thân thiện, dễ sử dụng, giao diện đẹp, sử dụng và có khả năng chuyển đổi nhiều ngôn ngữ rất dễ dàng, được hổ trợ rất mạnh của các công cụ tìm kiếm. Tại trang cá nhân này, bạn có thể chia sẽ với người thân, bạn hữu mọi lúc mọi nơi (Tường) giới thiệu thông tin cá nhân và địa chỉ liên hệ (Thông tin) viết bài về các lĩnh vực mà bạn quan tâm (Ghi chú) lưu trữ và chia sẽ hình ảnh (Hình ảnh) video (Video) và nhiều tiện ích quan trọng khác. Chỉ cần một cú nhấp chuột và liên kết với những người đã biết, bạn sẽ được giúp đỡ và ... tôi cũng có thể giúp bạn ! (xem tiếp)
THUNG DUNG Đông tàn ắt tới xuân sang Ngôi sao vừa khuất, vừng dương lại ngời Giọt sương sớm, nắng ban mai Một vùng tươi mát, một trời yêu thương (xem tiếp)
DAYVAHOC. "Ta gặp nhau từ lúc tóc còn xanh/ Nay tìm lại thì đầu đã bạc/ Để nhớ một thời cùng toàn dân đánh giặc/ Gian khổ chất chồng, mất mát đau thương.../ Bốn mươi năm thầy bạn tỏa muôn phương/ Nay ôn lại thầy trò thời chống Mỹ/ Trăm khuôn mặt anh chị nào cũng quý/ Bình dị, chân thành, tình nghĩa, thuỷ chung/ Nét đẹp quê hương Quảng Trạch anh hùng..." đó là lời Thầy Phạm Ngọc Căng cựu Hiệu trưởng Trường Cấp Ba Bắc Quảng Trạch cùng thầy Châu, thầy Thành vui gặp cựu học sinh của Trường tại đất phương Nam ... "Chúng tôi sà vào lòng Thầy mà trẻ lại". Bài viết xúc động của anh Đinh Đình Chiến cũng là tâm sự của tất cả chúng tôi... (xem tiếp)
DAYVAHOC. Anh Vũ Đức Ninh hiện công tác ở Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Đồng Nai được nhiều người quý mến gọi tên là ‘người đi tìm đồng đội”. Anh nguyên là chiến sĩ trinh sát đoàn đặc công 113 miền Đông Nam Bộ (xem tiếp).
HOCMOINGAY. Báo An Giang khởi đăng loạt bài phóng sự "Kênh ông Kiệt tắm mát đồng bằng " của tác giả Bảo Trị- Thành Chinh. Việc đặt tên công trình kênh T5 là kênh Võ Văn Kiệt và đặt bia lưu niệm tại đầu kênh để ghi nhớ công lao của cố Thủ tướng với hệ thống kênh huyết mạch, tháo chua, rửa phèn, mở mang vùng đất hoang hóa của khu vực Tứ giác Long Xuyên là Quyết nghị của Hội đồng nhân dân tỉnh An Giang khóa VII. (xem tiếp)
DAYVAHOC. Blog Nguyễn Trọng Tạo New. Nhà phê bình - người bạn lớn của những nhà sáng tác. Một câu ngạn ngữ Pháp nói rằng: "Khen đúng là bạn, chê đúng là thầy". Câu ngạn ngữ này đúng trong mọi trường hợp, và riêng với văn học, Hoài Thanh còn vận thêm rằng: "Khen đúng là bạn của nhà văn, chê đúng là thầy của nhà văn"...(ảnh Nguyễn Trọng Tạo bởi Nguyễn Đính Toán) xem tiếp
HOCMOINGAY. Phạm Anh. Báo Lao Động số 187 Ngày 21/08/2009 đã cảnh báo một vấn nạn: Các trang tin cứ "vô tư" lấy lại tin mà không cần sự đồng ý của các báo!. Chưa bao giờ và chưa khi nào công nghệ sao chép lại nở rộ và bùng phát như hiện nay. Với công nghệ này, nhiều website đang sống "ký sinh" từ nguồn thông tin dồi dào mà các báo chí phải dày công sưu tầm tư liệu, viết bài và đăng tải. Sự lẫn lộn này đang tạo ra những hệ luỵ. Việc điểm báo, điểm tin cần phải rõ tác giả, rõ nguồn trích dẫn, không vụ lơi và không được vi phạm luật bản quyền (xem tiếp).
TINKHOAHOC. “Sự nghiệp Công Nghiệp Hóa sẽ khó hoàn thành nếu bỏ qua vi mạch (microcircuits), hay mạch tích hợp (Integrated Circuits - IC), là linh kiện cơ bản, là buồng tim, là bộ não của các máy điện tử, tin học, tự động hóa, kiểm soát, đo lường, tính toán, v.v., phục vụ cho mọi hoạt động của xã hội ngày nay. Ở châu Á, Nhật Bản là quốc gia tiên phong trong lĩnh vực này, vào giữa thập kỷ 1970, Nhật Bản có một kế hoạch quốc gia 5 năm gọi là “VL Project” với mục đích xác lập công nghệ chế tạo đại trà những con chip có quy mô trên 1 triệu transistor. Kế hoạch này đã thành công mỹ mãn, và một bước đã đưa Nhật Bản lên hàng đầu về chế tạo vi mạch. Ở Nhật Bản, nền công nghiệp vi mạch ngày nay có kích thước ngang ngửa với nền công nghiệp chế tạo xe ôtô, nghĩa là một trong những công nghiệp chủ chốt. Sau thành công kể trên, nhiều nước công nghiệp từ Âu sang Á đã rập theo khuôn mẫu của Nhật Bản, đưa ra những kế hoạch tương tự. Một trong những nước châu Á là Hàn Quốc đã thành công vào cuối thập kỷ 1990. Những nước và vùng lãnh thổ khác ở châu Á cũng lần lượt nắm bắt được công nghệ chế tạo vi mạch, như Ðài Loan, Singapore, Trung Quốc...". Trang http://niemtin.free.fr/vnthietkevimach.htm điểm tin mới về lĩnh vực này.
HOCMOINGAY. 13 tháng 8 năm 2008 là ngày mất của Sơn Nam, nhà văn, nhà báo, nhà khảo cứu Nam Bộ, con người được mệnh danh là "ông già Nam Bộ", "ông già Ba Tri", “ông già đi bộ’, "pho từ điển sống về miền Nam" hay là "nhà Nam Bộ học". Ông đã để lại nhiều tác phẩm mà tôi ấn tượng nhất là "Bà Chúa Hòn" và "Hương rừng Cà Mau". Nhớ lời điếu của ông khóc cụ Bùi Giáng: "Anh Giáng ơi! Sinh thời anh ăn mặc xốc xếch, áo trong dài hơn áo ngoài,…nhưng văn thơ của anh ngay ngắn đường hoàng. Anh có nề gì cháo chợ cơm hàng, cả cơm thừa canh cặn, nhưng câu chữ anh xài sạch sẽ, ý tứ sáng trong. Cả đời anh lang thang khi chùa khi chợ có cố định đâu đâu, mà bữa nay đưa anh đi có quân canh lính gác, có vòng hoa của Thành ủy - Ủy Ban, có Hội Nhà văn, dậy là anh có hộ khẩu Sài Gòn rồi đó nghe anh Giáng!. Ông để ý cụ Trương Vĩnh Ký đã dành thời gian sau cùng để viết chuyện cho con nít đọc, “mà viết chuyện hay con nít tìm đọc là khó lắm đó nghe” chứ không chỉ là những công trình bác học đồ sộ. Nhớ Sơn Nam là nhớ những trang văn, những mẫu chuyện đời tinh tế thấm đẫm tính nhân văn.(Sơn Nam ảnh Đức Huy) xem chi tiết
DAYVAHOC. Sống trong đời sống cần có một tấm lòng/ Để làm gì em biết không? Để gió cuốn đi, để gió cuốn đi ... Bài hát vàng, giai điệu ngọt ngào, sâu lắng "Để gió cuốn đi" của nhạc sỹ Trịnh Công Sơn trong anbum vàng NHACSO.NET với lời bình thật hay của anh Trần Đức Khiêm. Bản nhạc này tối nay lại tiếp tục cất lên làm xúc động lòng người. Mời bạn cùng lắng nghe ...
DAYVAHOC. GS.VS. Đào Thế Tuấn và TS. Đào Thế Anh. Vấn đề nông nghiệp, nông dân và nông thôn nước ta hiện nay về thực chất là vấn đề phát triển bền vững. Nếu công cuộc Đổi mới dẫn đến sự phân hóa xã hội quá mức, tăng khoảng cách giữa thành thị và nông thôn thì sự phát triển sẽ không bền vững. Nông nghiệp, nông dân và nông thôn là ba vấn đề khác nhau nhưng nếu không cùng được giải quyết một cách đồng bộ thì không thể công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước một cách vững chắc được (xem tiếp).
DAYVAHOC. Nguyên Ngọc. Mở đầu cuốn Việt Nam văn hóa sử cương, cụ Đào Duy Anh viết: “Khắp một vùng trung châu Bắc Việt, không mẩu đất nào là không có dấu vết thảm đảm kinh dinh của tổ tiên ta để giành quyền sống với vạn vật; suốt một dải Trung Việt vào đến trung châu Nam Việt, không một khúc đường nào là không nhắc lại sự nghiệp gian nan tiến thủ của tổ tiên ta để mở rộng hy vọng cho tương lai.” Thật ngắn gọn, thật súc tich, vị học giả cao kiến đã đúc kết chặt chẽ và cực kỳ chính xác hai chặng đường lớn mấy thiên niên kỷ của dân tộc; và chỉ bằng mấy chữ cô đọng, chỉ ra không thể rõ hơn nữa đặc điểm cơ bản của mỗi chặng, có ý nghĩa không chỉ để nhìn nhận quá khứ, mà còn để suy nghĩ về hôm nay và ngày mai – những suy nghĩ, lạ thay, dường như đang càng ngày càng trở nên nóng bỏng, cấp thiết hơn (xem tiếp).
DAYVAHOC. GS.TS. Mai Văn Quyền. Khi bàn về chủ đề Tam nông: “ Nông nghiệp- nông dân- nông thôn”, trên Báo Nông nghiệp Việt Nam có nhiều tác giả đã viết và đề cập đến nội dung “ Nông dân đang cần gì”được đăng tải thành ba chủ đề chính: i/ Những vấn đề đất đai; ii/ Vấn đề đào tạo nghề: no nghề- đói việc, và iii/ nông dân đang khát vốn. Số bài chính thức được đăng tải trong 21 kỳ kể từ tháng 7 năm 2008 cho đến 1/4/2009. Những nội dung các bài báo trong ba chủ đề nói trên đã được nhiều từng lớp cán bộ và nông dân trong đó có tác giả bài này hưởng ứng và thảo luận rất sôi nổi. Điều đó chứng tỏ rằng các tác giả đã “ gãi đúng chổ ngứa” của người nông dân hiện nay. Những nội dung này đã trở thành hết sức bức xúc đối với nông dân. Bởi lẽ nếu không có biện pháp đúng đắn và thích hợp để đẩy nhanh các chủ đề này trở thành hiện thực thì mục tiêu cơ bản về công nghiệp hóa (CNH) và hiện đại hóa (HĐH) lấy cột mốc từ năm 2020 trở đi sẽ chỉ là điều mong ước mà thôi. (xem tiếp)
THUNG DUNG. Sớm nay, nhận email của anh Phạm Xuân Liêm, tôi đọc đi đọc lại nhiều lần bài viết Người Mỹ dạy bài học 'Cô bé lọ lem' như thế nào? mà xúc động ứa nước mắt. Tuổi tôi đã trãi nghiệm qua nhiều điều và không dễ khóc nhưng nước mắt đời người đã rơi lặng lẽ ... Sâu thẳm trong lòng tôi là sự biết ơn những người Thầy bằng những bài học giản dị của cuộc sống đã khai mở, giác ngộ cho tôi đủ niềm tin và nghị lực để vượt qua những trở ngại, khó khăn và biết sống có ích hơn cho mọi người. Cái gốc của sự học là học làm người. Một bài giảng hay phải là một bài giảng đầy trách nhiệm, tâm huyết và thực sự có ích, thực sự cần thiết. Lắng sâu trong những email, cảm nhận của bạn, của thầy là sự trân trọng, tin cậy, yêu thương... Lưu lại bài giảng "Cô bé lọ lem" để thay lời muốn nói... (xem tiếp)
DAYVAHOC. Thời gian như nước cuộn trôi/ Không gian còn giữ mặt người thương yêu. Hai câu thơ nổi tiếng của nhà thơ Tế Hanh đã được nhà thơ Hữu Thỉnh, Bí thư Đảng Đoàn, Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam trích dẫn trong điếu văn đọc trước linh cữu của ông - "Cây đại thụ cuối cùng tỏa bóng trên thi đàn thơ ca Việt Nam hơn nữa thế kỹ qua". Tế Hanh là tác giả của nhiều bài thơ quen thuộc "Nhớ con sông quê hương" "Hạnh phúc" "Mưa ngâu" ... đã lay động sâu xa tình cảm của nhiều người đối với tình yêu, quê hương, đất nước. Tôn vinh giá trị nhân văn của ông, nhà thơ Hữu Thỉnh đã ca ngợi: "Với lòng kính trọng và tiếc thương vô hạn, gia đình và bạn bè đồng nghiệp quây quần tiễn đưa Anh hôm nay. Cả con sông Trà Bồng, con sông quê hương đã vang danh trong thơ Anh." (Ảnh con sông quê hương trong trang web của nhóm Thiên bút thi hữu Quảng Ngãi (xem tiếp)
DAYVAHOC. Những đêm làm việc khuya, đôi khi bạn thích một ly trà ấm, một chút trái cây, hoặc một lời nhắc nhở ân cần của người thân. Đêm nay, tôi đọc bài "Cây táo" lúc nữa đêm do anh Nguyễn Văn Bộ gửi tặng. Lòng cảm thấy xúc động, ấm áp giữa tình yêu thương. Có những câu chuyện nhẹ nhàng nhưng thật đáng suy ngẫm... (xem tiếp)
DAYVAHOC. Báo SGTT.COM.VN. Giáo sư Phạm Minh Hạc nói: "ở bậc đại học chúng ta đang tìm mọi cách để giảm tải, để bớt gánh nặng “thi cử” cho gia đình và xã hội trong khi… chúng ta đã hoà bình được 34 năm, đổi mới được 23 năm mà vẫn để một thực trạng giáo dục như hiện nay thì không thể không suy nghĩ được. Đấy là chưa nói đến nhiều nơi không hiểu tại sao lúa gạo nhiều, mặt trời quanh năm, mấy chục năm mới có bão lũ mà trẻ em vẫn suy dinh dưỡng thuộc loại cao nhất, vậy thì làm sao chúng ta có nhân lực tốt, có “top bóng đá giỏi” trong tương lai, đáng lo lắm! (xem tiếp)
HOCMOINGAY. Báo SGTT.COM.VN ngày 4.7.2009 có bài "Bạn và tôi" ghi lại những nhàn đàm thấm thía, sâu sắc của Phan Cẩm Thượng, Nguyễn Ngọc Trân và Thạch Thảo. Đồng thời cũng có bài viết khá hay "Hai nhà văn già và cô gái trẻ" của Minh Nguyễn viết về Nguyên Ngọc, Nguyễn Ngọc Tư và Trang Thế Hy. Một Nguyên Ngọc với “Chất tinh tuý và sang trọng của sự thô mộc một cách tự do”. Một Nguyễn Ngọc Tư " bản lĩnh và chuyên nghiệp, coi văn chương vừa là nghiệp, vừa là một trò chơi, vừa là cuộc đời, vừa là giấc mộng; Tư là nhà văn rất xã hội, nhưng xã hội một cách rất văn học, rất nghệ sĩ" Một Trang Thế Hy "người hiền của văn chương Nam Bộ" (xem tiếp)
DAYVAHOC. Bà Nguyễn Thị Bình, nguyên Phó Chủ tịch Nước, hiện là Chủ tịch Quỹ Hòa bình và phát triển Việt Nam vừa có bài viết quan trọng "Bảo đảm sự phát triển ổn định hệ thống đại học, cao đẳng ngoài công lập ở nước ta" đăng trên tạp chí cộng sản số 10 (178) ngày 25/5/2009. Một trong những đổi mới quan trọng của giáo dục đại học ở nước ta trong vòng hai thập niên qua là sự ra đời của hệ thống các trường ngoài công lập. Bài viết điểm lại những nét chính của sự phát triển hệ thống đó, nêu một số vấn đề tồn tại và kiến nghị các biện pháp giải quyết (xem tiếp)
DAYVAHOC. TSKH. Phạm Đỗ Nhật Tiến, Tạp chí Cộng sản 28/6/2009. Giáo dục đại học Việt Nam cũng đang đứng trước bài toán xếp hạng. Tuy nhiên, để tìm ra lời giải của bài toán này, cần có cách tiếp cận sòng phẳng trong một số vấn đề tuy đơn giản nhưng nhạy cảm. Về chính danh, hiện nước ta chỉ có 5 đại học, bao gồm 2 đại học quốc gia và 3 đại học khu vực, còn lại là các học viện và trường đại học. Tuy nhiên, thực tế lại khá lộn xộn. Tiếp đến lại là việc phân loại trong nội bộ các đại học để làm rõ đại học nào là đại học nghiên cứu. Trên thế giới, các đại học nghiên cứu đều có tiêu chí riêng, trong đó có tiêu chí về vai trò trung tâm của nghiên cứu khoa học trong các hoạt động của nhà trường; tiêu chí về tỷ lệ cao các nghiên cứu sinh trong tổng số người học trong trường. Nếu xét theo các tiêu chí này, e rằng, trước mắt cũng như trong trung hạn, chúng ta chưa có đại học nào đủ tiêu chuẩn là đại học nghiên cứu.Vì thế, giáo dục đại học Việt Nam cần làm rõ cái lõi hợp lý trong xếp hạng, từ đó tìm ra lối đi riêng với những lựa chọn ưu tiên phù hợp. Trong điều kiện cụ thể của nước ta hiện nay, ưu tiên là nâng cao chất lượng đào tạo của toàn hệ thống và vì vậy cần tập trung vào xếp hạng quốc gia.Để thử sức trên sân chơi quốc tế thì sự lựa chọn hợp lý hơn cả là Webometrics. Với sự thâm nhập mạnh mẽ của ICT vào đời sống giáo dục, chắc chắn trong tương lai không xa, đây sẽ là một “sân chơi” có hạng về chất lượng và hiệu quả giáo dục. Chúng ta lại đang có một số lợi thế nhất định trên “sân chơi” này, dù rằng vị trí xếp hạng còn rất khiêm tốn.(Hình trên: Đại học Nông Lâm TP Hồ Chí Minh, giảng đường Phượng Vĩ) xem tiếp
DAYVAHOC. Theo http://niemtin.free.fr/daihocduc.htm dẫn nguồn tin từ Bộ Giáo dục và Đào tạo cho biết, Chính phủ đã đồng ý cho xây dựng bốn trường đại học, với mục tiêu lọt vào top 200 trường đại học tốt nhất thế giới vào năm 2020. Đây là một trong những mục tiêu của chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2009 - 2020. Bà Trần Thị Hà, Vụ trưởng Vụ Đại học ( Bộ Giáo dục và Đào tạo ) cho biết, 4 trường này được xây dựng theo mô hình đại học công lập phi lợi nhuận, với hệ thống đào tạo đa ngành, đạt trình độ quốc tế. Hiện, đã có một trong số 4 trường đại học nói trên được thành lập, đó là Đại học Việt Đức tại Tp.Hồ Chí Minh (Trang web http://www.vgu.edu.vn). Đại học Việt Đức khai giảng khóa đầu tiên vào ngày 10/9/2008 với 80 học viên cho 2 khoa điện tử và xây dựng. Trường dự kiến sẽ có 5.000 sinh viên vào năm 2020. Đại học Khoa học Công nghệ (Hà Nội) cũng đã được Thủ tướng Chính phủ đồng ý thành lập về nguyên tắc. Hai trường tiếp theo dự kiến sẽ thành lập tại Cần Thơ và Đà Nẵng. Được biết, số tiền đầu tư cho mô hình giáo dục đại học chất lượng nói trên là 400 triệu USD, vay của Ngân hàng Thế giới (World Bank) và Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB). xem tiếp ...
DAYVAHOC. Nguyên Ngọc là nhà văn Việt Nam đương đại yêu quý nhất của tôi (HK). "Trong văn học cách mạng Việt Nam, Nguyên Ngọc là nhà văn luôn có mặt ở tiền tuyến. Ông thuộc số những người cầm súng trước khi cầm bút, trãi nghiệm qua hai cuộc kháng chiến lâu dài và gian khổ của dân tộc, Những năm ở chiến trường, trước hết anh là một cán bộ chính trị. ...Anh phải dành nhiều thời gian cho việc xây dựng đội ngũ, bồi dưỡng người viết, trực tiếp giảng bài cho học viên ở các lớp bồi dưỡng mở tại nhiều địa phương khác nhau. Với cương vị người cán bộ chính trị, người ta lại thấy anh có mặt góp ý kiến cho các đội quân chính trị sắp kéo vào đấu tranh trong thành phố ở đơn vị này, lại hăng hái tham gia thảo luận phương án tác chiến của một đơn vị khác. Khi về hậu cứ, cũng như mọi cán bộ khác, anh lo phát rẫy tăng gia tự túc, gùi gạo, đào hầm, làm nhà, biên tập bài vở và giải quyết hàng loạt công việc sự vụ của người thường trực cơ quan văn nghệ. Thời gian dành cho sáng tác văn học của anh, vì thế bao giờ cũng chỉ là những mảnh vụn ít ỏi gom nhặt giữa những nhiệm vụ khẩn thiết khác...Hết sức coi trọng tác dụng của văn học và vị trí xã hội của nhà văn, anh không muốn và không thể chấp nhận quan niệm nhà văn chỉ đi vào cuộc sống để thu lượm tài liệu, quan sát thực tế cho tác phẩm của mình. Cao hơn trang sách, mục đích của mọi trang sách vẫn là thắng lợi trong cuộc sống, và anh có ý thức tự mình trực tiếp tham gia vào mọi diễn biến của cách mạng, tự mình thể nghiệm những vấn đề mình sẽ viết." (xem tiếp)
Thắp đèn lên đi em! Hoàng Kim. "Em đã đọc nhiều gương sáng danh nhân / Hãy biết nhục, biết hèn mà lập chí/ Thắp đèn lên đi em, ngọn đèn dầu bền bỉ/ Sáng giữa đời lấp lánh một niềm tin." Trang thơ cũ, nay đọc lại vẫn nóng hổi ...Cuộc sống đã biết bao đổi thay nhưng những vùng quê nghèo, những cuộc đời bất hạnh, những đói nghèo, cơ cực vẫn còn đó.... (phóng sự ảnh: sống dưới ánh đèn dầu trên vietbao.vn) Hãy cố gắng lên các em, những học sinh nghèo hiếu học! (xem tiếp)
Báo Người Lao Động đưa tin: "Nhân giỗ đầu cố PGS-TS Lưu Trọng Hiếu, nguyên giảng viên Trường ĐH Nông Lâm TPHCM gia đình đã trao tặng 145 triệu đồng cho sinh viên nghèo hiếu học của Trường Đại học Nông Lâm TPHCM. Lúc sinh thời, PGS-TS Lưu Trọng Hiếu đã mong muốn thành lập quỹ học bổng để hỗ trợ cho sinh viên có hoàn cảnh khó khăn, có ý chí phấn đấu học giỏi. Thể theo di nguyện, gia đình đã dành toàn bộ số tiền phúng điếu để đưa vào quỹ học bổng “Đồng hành cùng ĐH Nông Lâm TPHCM”. Cố PGS-TS Lưu Trọng Hiếu đã từng được Chính phủ Pháp trao tặng Huân chương Nông nghiệp Bội tinh". Thầy Hiếu mất ngày 15.5 2008 dương lịch. Thầy lưu dấu những ký ức "Trường tôi" trong bài viết thương yêu gửi lại (đón đọc trong số tới tại trang DẠY VÀ HỌC)
Facebook Hoang Kim: Bạn MeBauBi nhắn tin Sáng nay báo Tuổi Trẻ đăng một mẩu trên chuyên mục Chuyện thường ngày, có thể nhiều bạn chưa đọc. Mình post lại để cả nhà cùng đọc nhé! TT - Anh Bút Bi thân mến, tôi kể anh nghe chuyện này. Tôi vừa về từ Trường Sa. Anh hiểu được cuộc chia tay của người đất liền với lính đảo không? Xúc động lắm, dằn lòng lắm. Vậy mà tôi không khóc. Nhưng chiều nay tôi đã khóc ở một tiệm ảnh.
DANH NHAN VIET. TS. Cù Huy Hà Vũ (tác giả bài viết) và GS. Trần Hữu Dũng (chủ bút trang website viet-studies) đã đăng tài liệu rất quý "Đại tướng Võ Nguyên Giáp: Chân dung một huyền thoại". Tôi thật tâm đắc, thấm thía khi đọc đi đọc lại nhiều lần và suy ngẫm về những trích đoạn :“Vậy theo Đại tướng, thế nào là bản sắc văn hóa dân tộc?”“Độc lập- Tự do” – Đại tướng mạnh mẽ - Văn hóa Việt Nam tựu trung gồm hai chữ: dũng cảm và thông minh. Quyết đánh, quyết thắng và biết đánh biết thắng. “Quyết” mà không “biết” thì sẽ thất bại”. "Việc Võ Nguyên Giáp thay đổi cách đánh vào phút chót tại lòng chảo Mường Thanh mang một ý nghĩa lớn lao hơn người ta tưởng rất nhiều. “Quyết định khó khăn nhất trong đời cầm quân” của ông không chỉ chấm dứt giấc mộng thực dân của Pháp tại Việt Nam nói riêng và Đông Dương nói chung mà còn bảo đảm thắng lợi cho cuộc kháng chiến chống Mỹ sau này, thu giang san về một mối." Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã hội tụ cả Nhân, Trí, Dũng của một Thiên tài quân sự: Nhân văn, nhẫn nại, cẩn trọng, quyết đoán, Thật xúc động trước câu hỏi của người Thầy: “Mình có khó tính lắm không?” và câu trả lời tuyệt hay của Hà Vũ “Thưa Đại tướng, dễ dãi không làm nên nghiệp lớn!”
HỌC MỖI NGÀY. TS. Lê Kiên Thành, con trai của cố Tổng Bí thư Lê Duẩn trò chuyên với Lương thị Bích Ngọc, báo VietNamNet: "Cha tôi đã từng tâm sự với các con: “Cả đời ba vui, cuối đời lại buồn”. Tôi hiểu ông nói cả đời vui là cả những lúc bị tù đày đánh đâp tàn khốc nhất. Còn nỗi buồn lại xuất hiện khi một trong những mong ước của đời ông đã thành hiện thực là giang sơn thu về một mối... Nhưng không phải bây giờ và cũng không thể là tôi có thể nói ra điều đó...". "Tôi nghĩ, có lẽ đã đến lúc một số biên bản cuộc họp Bộ chính trị thời đó có thể công bố để lịch sử có thể sáng rõ hơn; và con cháu có thể thấu hiểu những điều mà cha ông họ từng trải qua để có được như bây giờ. Và có thể, đó cũng là bài học cho hậu thế...".Tôi chép lại nguồn tư liệu chọn lọc này để đọc lại và suy ngẩm về sự minh triết, giỏi dùng người của chủ tịch Hồ Chí Minh; sự cẩn trọng và tài điều binh khiển tướng của đại tướng Võ Nguyên Giáp; sự chỉ đạo quyết liệt sát thực tiễn cũa Tổng Bí thư Lê Duẫn ...Nếu thiếu một trong những nhân tố đó thì lịch sử Việt Nam hiện đại sẽ có thể khác...
HOCMOINGAY. Nhà xuất bản Lao động vừa xuất bản cuốn TRẦN ĐĂNG KHOA, TUYỂN THƠ. Sách in khổ 13x 20,5 dày 576 trang. Mở đầu tập thơ bề thế này là bài viết của Nhà văn Đình Kình với tiêu đề "Đọc lại thơ Trần Đăng Khoa". Được sự đồng ý của nhà văn Đình Kính, và theo yêu cầu của nhiều bạn đọc, Cát Biển xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc bài viết trên do nhà văn Đình Kính vừa gửi tới cho Blog Cát Biển. (xem tiếp)
HOCMOINGAY. Chính phủ nào muốn thành công trong tương lai cần phải tập trung đầu tư vào giáo dục, nghiên cứu và phát triển hạ tầng công nghệ - Chủ tịch tập đoàn Intel , Ông Craig Barrett đã nói như vậy trong lời phát biểu nhân chuyến thăm Việt Nam ngày 10.4. 2009 Đầu tư giáo dục là cạnh tranh cấp quốc gia. Đây là thông điệp chung cho nhiều chính phủ ở châu Á mà ông Barrett đã truyền tải trong chuyến thăm cuối cùng của ông với cương vị là chủ tịch Intel. Lãnh đạo Intel từ trên một thập niên nay, giúp công ty này giữ vững vị trí hàng đầu trong ngành công nghệ thông tin của Mỹ, ông Barrett được coi là người có tầm nhìn sâu rộng. Những ý kiến của ông về nâng cao sức cạnh tranh quốc gia và phát triển công nghệ thường được coi trọng. Ông Barrett cho rằng mỗi quốc gia đang ở một giai đoạn khác nhau về đổi mới công nghệ và giáo dục. Điều đó có nghĩa là khó có thể so sánh một cách hoàn hảo về mức độ phát triển của Mỹ với Trung Quốc hay Việt Nam. Tuy nhiên, ông cũng cho rằng các quốc gia phải chú ý rằng khi phát triển giáo dục và nghiên cứu khoa học, họ đang phải cạnh tranh với các quốc gia khác chứ không phải chỉ trong đất nước của mình. Việt Nam đang ở đâu trong cuộc cạnh tranh này? Theo một số số liệu thống kê được đưa ra gần đây, Việt Nam luôn đứng hạng chót trong các tỷ lệ các báo cáo, nghiên cứu khoa học cũng như những bằng sáng chế. Theo một so sánh của Reuter Thompson về các nghiên cứu khoa học được đăng tải giữa những trường đại học lớn ở các quốc gia (không tính Mỹ), trường đại học quốc gia Hà Nội và TP.HCM đứng hạng chót với chỉ 48 nghiên cứu khoa học, trong khi quốc gia áp chót là Indonesia cũng có đến 120 nghiên cứu được xuất bản. Chỉ riêng đại học Peking (Trung Quốc) có tới 3.694 nghiên cứu, và đại học Seoul (Hàn Quốc) có 5.714 nghiên cứu. Một số liệu khác về bằng sáng chế khoa học được cấp trong năm 2006, thì Việt Nam cũng đứng hạng chót vì không có một sáng chế nào. Trong khi đó, Hàn Quốc có 102.633 sáng chế, Trung Quốc có 26.292 sáng chế và đến Thái Lan cũng có đến 158 sáng chế. Những số liệu này minh chứng cho sự thấp kém và tụt hậu của giáo dục bậc cao Việt Nam. Trong khi, chính giáo dục bậc cao là yếu tố then chốt giúp một quốc gia vươn lên. Tại sao Việt Nam lại thiếu nghiên cứu khoa học trầm trọng đến thế? (xem tiếp bài viết của Lan Anh)
DẠY VÀ HỌC. Diễn văn bế mạc của nhà văn Nguyên Ngọc tại lễ trao các giải thưởng 2008 của Quỹ Văn hóa Phan Châu Trinh Hà Nội, ngày 27 tháng 3 nănn 2009. Đây là lần đầu tiên chúng ta trao ba giải thưởng mang tên nhà khai sáng Phan Chu Trinh cho ba lĩnh vực Tinh hoa Giáo dục Quốc tế, Việt Nam học, và Nghiên cứu, chủ yếu là về khoa học xã hội. (xem chi tiết).
HIỆN ĐẠI HÓA GIÁO DỤC ĐỂ ĐI VÀO NỀN KINH TẾ TRI THỨC
HOCMOINGAY. Ngày nay, trào lưu kinh tế thế giới đang chuyển sang kinh tế trí thức. Giá trị sản phẩm không còn dựa trên vật liệu căn bản của sản phẩm mà dựa trên giá trị sáng chế của sản phẩm đó. Giá trị sáng chế của sản phẩm trở thành điểm trọng yếu trong việc cạnh tranh lâu dài. Sự phồn vinh của xã hội phụ thuộc vào sự phát triển nền kinh tế trí thức. Khoa học kỹ thuật có tiềm năng vô cùng to lớn và có khả năng đưa nền kinh tế của đất nước phát triển vượt trội : bắt đầu từ khoa học kỹ thuật và công nghệ, củng cố giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực. Khai thác, ứng dụng những thành quả khoa học kỹ thuật tiên tiến vào mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội - khoa học kỹ thuật, kết hợp chặt chẽ với việc canh tân đổi mới sẽ là tiền đề để Việt Nam hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu và giữ vững thế cạnh tranh trên thương trường. Trang tin http://niemtin.free.fr đã tổng hợp những thu thập tài liệu trao đổi, tư vấn của các chuyên gia hàng đầu trong và ngoài nước về các lĩnh vực quan trọng để chấn hưng giáo dục và canh tân đất nước. Nội dung những bài viết chuyên ngành KHOA HỌC CÔNG NGHỆ bao gồm: giáo dục đào tạo, y học, công nghệ thông tin viễn thông, công nghệ sinh học, nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, năng lượng, công nghệ dầu khí, công nghệ hàng không, công nghệ đóng tàu, công nghiệp, xây dựng, môi trường đô thị, khoa học thống kê, công nghệ nano, công nghệ bán dẫn, vi mạch, điện tử, tự động hóa, công nghệ hóa học vật liệu, công nghệ cơ học, thiên văn vũ trụ. Nội dung chuyên ngành KINH TẾ XÃ HỘI có: Thị trường tiêu thụ nội địa, đầu tư kinh doanh, kinh tế thương mại, tài chính ngân hàng, giao thông vận tải, du lịch giải trí, thị trường chứng khoán, ý kiến chuyên gia trí thức Việt Nam, những ý kiến góp ý của các tổ chức và chuyên gia nước ngoài, thế giới, thiệp chúc mừng và quà tặng cuộc sông. Đây là các trang tham khảo chuyên đề cần thiết, quan trọng, bổ ích và lý thú (xem chi tiết)
DAYVAHOC. GS TS Phan Đình Diệu. Hơn 10 năm trước, khi Internet xuất hiện và "chào" Việt Nam, GS.TSKH Phan Đình Diệu đã cùng với các nhà khoa học khác đề nghị Chính phủ phê chuẩn việc cần phải tiếp nhận và hòa nhập với thế giới Internet rộng mở. Và bây giờ, lúc Internet đã phát triển rất mạnh mẽ và được coi là không thể thiếu đối với đời sống và sự phát triển của đất nước, GS Phan Đình Diệu lại say sưa bày tỏ mong muốn : Internet tại Việt Nam sẽ làm sao phát triển sâu hơn nữa, xa hơn nữa và rộng hơn nữa. (xem chi tiết)
DAYVAHOC.Trang web SÔNG CỬU LONG vừa đăng bài viết: Về cụ Phan Thanh Giản:“Trao đổi với đồng nghiệp” của nhà văn Hoàng Lại Giang, tác giả của truyện danh nhân “Phan Thanh Giản - nỗi đau trăm năm" (NXB Văn học- 1996). Đây là tư liệu quý cho những ai quan tâm đến lịch sử, văn hóa dân tộc và vùng đất phương Nam yêu quý của Tổ quốc (xem tiếp)
DẠY VÀ HỌC. Bài viết của Hà Bảo Lâm về kinh nghiệm dạy và học độc đáo của Giáo sư "thiền " Lê Khánh Bằng. Giáo sư trao đổi: "Đã đến lúc người dạy phải tính đến nhu cầu, nguyện vọng của người học, đến những đặc điểm tâm sinh lý và cấu trúc tư duy của từng người. Coi trọng việc phát huy cao độ tính tích cực và nội lực của người học, tổ chức cho học sinh hoạt động độc lập và theo nhóm (thảo luận, làm thí nghiệm, quan sát vật mẫu, phân tích số liệu...). Từ đó, học sinh vừa tự nắm vững các tri thức, kỹ năng mới, đồng thời được rèn luyện về phương pháp tự học, được tập luyện phương pháp nghiên cứu, sáng tạo." (xem tiếp)
Người bình thản ngắm Hồ Gươm gợn sóng
Nước trong xanh lấp loáng bóng chiều xanh
Hàng cây mướt trãi một màu xanh ngọc
Và dòng xe nườm nượp giữa thanh bình...
Nghìn năm trước còn mênh mông cỏ lác
Chưa lầu cao, chưa bóng dáng con đường
Chỗ Người đứng là bãi hoang ngập nước
Sông tắc dòng đầy rác rến bèo rong ...
Dưới con mắt bậc thiên tài mưu lược
Người đã nhìn ra thế đất rồng bay
Hồ Lục Thủy thành trái tim đất nước
Để nghìn năm trụ vững nước non này
Người bất tử cùng Hồ Gươm bất tử
Quanh tượng Người năm tháng mãi tươi xanh
Gió muôn hướng tụng ca hàng cồ thụ
Từng đàn chim ríu rít rộn đô thành.
Con đứng lặng trước tượng đài Thái Tổ
Ngẫm con đường xa lắc suốt ngàn năm
Bao minh chứng về những thời giông gió
Từng vùi sâu trong đáy nước hồ Gươm
Hoàng Gia Cương
Rút trong tập thơ: Trãi nghiệm với thời gian DAYVAHOC
DAYVAHOC. Trần Đăng Khoa. Rừng núi nhiều nơi đã trơ trụi, nhưng Mường Phăng thì vẫn um tùm rậm rạp như rừng nguyên sinh. Tôi đã đi dưới những tầng cây ấy, nghe chim rừng hót ríu ran. Một làn suối âm thanh trong trẻo và mát rượi rót xuống từ lưng chừng trời. Không một dành cây nào bị chặt phá hay bị bẻ gẫy. Ở đây, người dân còn đói cơm, thiếu mặc, nhưng họ vẫn nâng niu gìn giữ khu rừng. Họ tự đặt tên cho khu rừng là Rừng Đại tướng. Đấy là ngôi đền thiêng, ngôi đền xanh thiên nhiên mà người dân đã tự lập để thờ ông. Đối với vị tướng trận, đó là hạnh phúc lớn. Một hạnh phúc mà không phải ai cũng có được (xem tiếp).
DANHNHANVIET. "Những người làm công tác khuyến học và những người được thụ hưởng khuyến học trân trọng kính chúc Đại tướng mạnh khoẻ, minh mẫn, trường thọ, mãi mãi là gương sáng của một danh tướng văn võ song toàn.Tên tuổi và công lao của Đại tướng không chỉ gắn liền với những chiến thắng lẫy lừng trong sự nghiệp chống ngoại xâm mà còn là một biểu tượng rực rỡ của tinh thần hiếu học và khuyến học của nhân dân Việt Nam." Ảnh: Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Chủ tịch Hội Khuyến học Việt Nam Nguyễn Mạnh Cầm (xem tiep)
DANHNHANVIET. 30 năm ở thế kỷ 13, dân tộc ta đánh thắng ba cuộc tiến công của đế chế Nguyên Mông dưới sự thống lĩnh của Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn và 30 năm đánh thắng hai đế quốc hùng mạnh ở thế kỷ 20, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, dưới sự chỉ huy của tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp. Không phải ngẫu nhiên mà khi bình chọn danh tướng thế giới, các nhà khoa học lịch sử quân sự nhiều nước đã bình chọn hai vị thống soái của Việt Nam có chiến công nổi bật nhất tiêu biểu cho hai thời đại đó là Trần Quốc Tuấn và Võ Nguyên Giáp! Nhiều người cho rằng tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp xứng đáng là anh hùng dân tộc, và cùng có chung nhận xét: “Một trong muôn vàn biểu hiện sự sáng suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh là đã phát hiện sớm và trọng dụng đúng nhân tài, chọn Võ Nguyên Giáp làm người phụ trách công tác quân sự của Đảng ta” (xem tiếp)
DAYVAHOC. Phan Quế. Giữa ồn ã của cuộc mưu sinh ta vẫn luôn luôn có nơi để được nhẩm đọc câu Hạ Mã khi vào chốn thiêng, biết ngước nhìn vầng mặt trời trên Khuê Văn Các, soi mặt nơi Thiên Quang Tỉnh, trang trọng đọc câu Hiền tài là nguyên khí của quốc gia và ra về cứ nhẩm mãi câu của bậc túc nho xứ Tiên Điền mà thấy trân trọng biết bao trước cái nôi của sự học đất nước trong Cổ Kim Nhật Nguyệt của thời gian, không gian, vũ trụ và con người. Mỗi ngày càng mỗi thấm hơn vẻ đẹp chữ nghĩa chốn Miếu Văn, nơi mà mình mới chỉ biết chỉ hiểu được phần nào trước nguồn di sản lớn lao, vô giá cha ông để lại. (xem tiếp)
HOCMOINGAY. Lê Quỳnh BBC Vietnamese.com, Washington DC. Trong bài diễn văn nhậm chức của tổng thống Mỹ Barack Obama, chữ "tôi" chỉ dùng ba lần, trong lúc đại từ "chúng ta" xuất hiện hơn 60 lần, vừa để hứa hẹn một chính quyền "của nhân dân" mà cũng là lời kêu gọi nhân dân góp sức. Ông kêu gọi người Mỹ trở lại với những giá trị "cũ" mà cha ông đã dựa vào để dựng xây nước Mỹ: "sự chăm chỉ và trung thực, dũng cảm và công bằng, rộng lượng và tò mò, trung thành và yêu nước". Cái người Mỹ phải có là "một thời kỳ mới của tinh thần trách nhiệm, sự nhận diện của từng người Mỹ rằng chúng ta có nhiệm vụ với bản thân, quốc gia và thế giới". Ảnh: Tổng thống Barack Obama đọc diễn văn nhậm chức, báo hiệu thời kỳ mới (xem tiếp)
HOCMOINGAY. Tổng thống Obama đã viết cho các con gái:"Khi cha còn trẻ, cha đã nghĩ cuộc sống xét cho cùng là về bản thân mình, về việc mình sẽ đi trong thế giới này ra sao, trở nên thành đạt và có được những gì mình muốn. Nhưng rồi hai con đã đến với cuộc sống của cha với tất cả sự tò mò, tinh quái và những nụ cười luôn làm cha ấm lòng và toả sáng cuộc sống của cha mỗi ngày. Và bỗng nhiên, tất cả những kế hoạch to tát cha đặt ra cho bản thân dường như chẳng còn gì quan trọng. Cha nhanh chóng nhận ra rằng niềm vui lớn nhất của cuộc đời cha chính là niềm vui cha nhìn thấy trong cuộc đời các con. Và cha nhận ra rằng cuộc sống riêng của cha sẽ chẳng có ý nghĩa gì mấy nếu cha không thể đảm bảo rằng các con sẽ có được mọi cơ hội để hạnh phúc và thành công trong cuộc sống của các con." (Gia đình Obama. Ảnh: Corbis) xem tiếp...
DẠY VÀ HỌC. GS. Võ Tòng Xuân.Từ nhiều năm nay, Ngân hàng thế giới (NHTG) đã đầu tư cho giáo dục Việt nam qua nhiều dự án lên đến hàng trăm triệu đôla. Nhưng tình trạng giáo dục của Việt nam vẫn còn nhiều bất cập khiến cho xã hội tiếp tục phê phán. Vừa qua một số chuyên gia giáo dục của Phòng Phát triển con người Khu vực Đông Nam Á và Thái bình dương thuộc Ngân Hàng Quốc Tế đã cùng Viện Khoa học Lao động và Xã hội Việt nam điều tra nghiên cứu sâu rộng tình trạng giáo dục đại học của Việt nam để tìm hiểu những mặt mạnh và mặt yếu so với những tiêu chuẩn quốc tế, từ đó có thể đề xuất những hướng cần chỉnh sửa. Báo cáo “Việt Nam: Giáo dục đại học và Kỹ năng cho tăng trưởng” đã được xuất bản vào tháng 12-2007 (xem tiếp)
DẠY VÀ HỌC. Cao Thị Anh Tú (Hà Nội Mới)- Nhà văn Nguyễn Khải đã đi xa (ông mất ngày 15-1-2008) nhưng vẻ đẹp trong những áng văn chương của ông tiếp tục được khám phá. Hình mẫu nhân vật thường quen thuộc trong tác phẩm của ông là những người có nhân cách bền vững trước những biến động của thời cuộc (Ảnh: Nhà văn Nguyễn Khải với chiếc máy đánh chữ đã gắn bó với ông cho đến cuối đời). xem tiếp
QUA ĐÈO CHỢT GẶP MAI ĐẦU SUỐI. Đào Duy Từ mãi mãi là một người Thầy đức độ, tài năng của dân tộc Việt. Chỉ trong thời gian ngắn ngủi chín năm (1625-1634), được Chúa Nguyễn tin dùng, Đào Duy Từ đã kịp xây dựng được một định chế chính quyền rất được lòng dân. Do vậy, sau đời chúa Nguyễn Phúc Nguyên còn truyền thêm được bảy đời nữa; Giữ vững cơ nghiệp của chúa Nguyễn ở Đàng Trong chống cự thành công với họ Trịnh ở phía Bắc; Mở đất phương Nam làm cho Nam Việt thời ấy trở nên phồn thịnh, nước lớn lên, người nhiều ra; Đặt nền móng vững chắc cho triều Nguyễn, sửa sang chính trị, quan chế, thi cử, võ bị, thuế khóa, nội trị, ngoại giao; Những di sản của ông để lại đều là những kiệt tác (xem chi tiết)
HỌC MỖI NGÀY. Bùi Ngọc Tấn. CHÀO NĂM MỚI! ..."Tác phẩm Đàm đạo về Điều Ngự Giác Hoàng của tôi viết đã xong, đã gửi cho NXB Văn hóa Sài Gòn, nếu được duyệt in, tôi sẽ chuyển cho Hội xem, in lời cám ơn. May quá. (ảnh: Mắt trẻ thơ - Bùi Ngọc Tấn). Đã từ lâu, chuyện đặt hàng thường được hiểu là lo cho thằng nhà văn chỗ ăn, chỗ nghỉ, dúi vào tay dăm triệu, dắt đi lang thang đâu đó, liêng láo trợn mắt nhìn qua nhìn lại, về, ly cụng côm cốp… và, viết đi…thế thì làm gì còn gọi là sự sáng tạo, là đỉnh cao của tác phẩm? Tôi không hiểu. May mà Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh cho đến Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường cho đến những truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp… không thấy ai đặt hàng hay chính tự thân các nhà văn này đã đặt hàng cho chính mình bằng những mệnh lệnh của trái tim? Cũng như tôi chưa thấy một tác phẩm đặt hàng nào mà trở nên nổi tiếng cả. Chả thế năm nào, nhà văn Phạm Thị Hoài từng nói đến một nền văn học minh họa của Việt Nam với những tác phẩm viết trong chiến tranh, nhưng tôi còn hiểu thời điểm đó chính là tổ quốc đặt hàng những nhà văn-người lính cầm bút viết phục vụ nhiệm vụ đánh giặc. Không hiểu như vậy có đúng không chị Hoài ơi, thời thế thế thời phải thế.
Một nhà văn viết theo đơn đặt hàng mà lại thành công, đó chính là Nguyễn Khải, như trong các tác phẩm của mình, ông cho biết như vậy. Văn Nguyễn Khải lạnh lùng đi vào từng chi tiết đọc đến ghê người, nó không có sự óng ả mềm mại, trau truốt…nhưng đấy lại là sự thành công của nhà văn này mà không dễ có người thứ hai được như thế. Riêng với nhà văn Nguyễn Thị Ngọc Hải, chị có nhiều tác phẩm ký thành công, được nhiều giải thưởng, trong đó một tác phẩm rất nổi tiếng đó là Phạm Xuân Ẩn, tên người như cuộc đời. Thế nên cơ quan tôi rất yên tâm khi “đặt hàng” chị và bản thân tôi cũng tin vào tài năng cầm bút của chị, cũng là “chọn mặt gửi vàng” , ừ cũng là đặt hàng nhưng cũng chọn người mà đặt hàng chứ !"
HOCMOINGAY. Trong khoảng từ năm 1978-2005, 770.300 người Trung Quốc đã đi du học và không đầy 1/4 số đó quay trở về. Tuy nhiên, đa số những người về nước sau khi tốt nghiệp đã hồi hương sau năm 2000, chỉ tính riêng trong năm 2005 là 35.000 người. Những người hồi hương thường nhắm tới quyền được giới thiệu các phương pháp giảng dạy mới, hướng dẫn nghiên cứu hoặc giám sát quá trình cải cách chương trình giảng dạy. Họ đã tìm thấy cơ hội của họ vào năm 1998, khi chính phủ trung ương công bố một dự án được lập ra nhằm chuyển hàng triệu USD vào một nhóm nhỏ các trường đại học ưu tú, nhằm giúp chúng nổi lên trên trường quốc tế. Chính phủ Trung Quốc đã cấp cho 9 trường đại học hàng đầu khoản đầu tư tương đương 120 triệu USD mỗi trường với quy định 20% trong tổng số tiền đó được dành để thuê cán bộ từ nước ngoài.Tuy nhiên, đổi mới không phải lúc nào cũng tới một cách dễ dàng. Tại các trường đại học ít danh tiếng hơn bên ngoài Thượng Hải và Bắc Kinh, những học giả hồi hương đối mặt với điều tiếng rằng họ đang quay trở về Trung Quốc vì thất bại ở nước ngoài. Khi ngày càng có nhiều học giả hồi hương, các chính sách tuyển dụng được siết chặt. Hy vọng lớn nhất cho việc giải quyết những khó khăn trên có thể nằm ở việc tiếp tục phát triển giáo dục sau đại học.Trước sức hút của một Trung Quốc đang ngày càng lớn mạnh, các học giả tu nghiệp ở nước ngoài vẫn tiếp tục trở về cùng với một bộ phận nhỏ nhưng ngày càng tăng các học giả ngoại quốc thích được làm việc ở đại lục. Thanh Bình - báo Việt Nam Net, đã dịch tài liệu "The Chronicle of Higher Education" về kinh nghiệm của Trung Quốc trong sự thu hút nguồn lực cho các trường đại học (ảnh Hoàng Tố Nguyên: Trường Đại học Sư phạm Hoa Trung) xem thêm
DANHNHANVIET. Thăng Long- Hà Nội nghìn tuổi, có Đại học tư thục Thăng Long- không vì chia lợi nhuận, là mơ ước của Phan Bội Châu và các sĩ phu đầu thế kỷ XX. Phan Chu Trinh- Phan Bội Châu đã sang Nhật Bản học Khánh Ứng Nghĩa Thục- đại học tư thục đầu tiên, do học giả uyên bác thời Minh Trị là Fukuzawa Ykichi (1835-1901) lập 1868. “Nghĩa thục” là “public school” của người Anh, mang ý nghĩa tự cường, độc lập, sáng tạo, óc tháo vát, lòng tự nguyện đóng góp vào các việc công ích, góp phần làm cho sự nghiệp Duy Tân, học tập phương Tây của Nhật Bản thành công, rạng danh nước Nhật. Đầu 1905, các cụ mở trường Đông Kinh Nghĩa Thục tại Hà Nội, được chín tháng, bị thực dân Pháp đóng cửa. Cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI, Đại học Thăng Long chắp cánh ước mơ của Thăng Long- Hà Nội. Mọi hy vọng hãy đến với tất cả những ai học tập, giảng dạy, nghiên cứu tại đây. Bài viết của Mai Thục đăng trên báo Người Hà Nội 18.12.2008
Nếu không có lực lượng kiểm lâm, rừng đã tan hoang từ lâu. Từ ngày có lực lượng kiểm lâm, rừng vẫn tan hoang mà tan hoang từ từ.
Kiểm lâm viên Hoàng Minh Huệ bị lâm tặc tấn công, chém vào vai, đe dọa mạng sống. Dù rất kiên nhẫn giải thích, rồi yêu cầu buông dao, rồi bắn chỉ thiên cảnh cáo, nhưng kiểm lâm viên Hoàng Minh Hụệ vẫn bị tên lâm tặc xông đến, chém thẳng vào người. Một tiếng nổ từ súng của Hoàng Minh Huệ. Tên đại ca lâm tặc có tên là Trần Văn Thắng chết tại chỗ. Hoàng Minh Huệ bị khởi tố. Bị án sơ thẩm phạt 30 tháng tù giam. Báo chí ào ào lên tiếng bảo vệ Huệ... Ngay khi sự việc xảy ra tôi đang ở trong trại giam..Khi ra, vụ án Hoàng Minh Huệ vẫn nóng rực trong dư luận. Một năm sau xử sơ thẩm. Dư luận ngơ ngác, hành động một kiểm lâm chống lại sự tấn công ác thú của lâm tặc, bị lâm tặc chém trọng thương vai, đã bắn cảnh cáo nhưng không được, đành phải bắn thẳng để bảo vệ mình và đồng đội, lại bị xử tù, lại đền tiền nhân mạng cho gia đình tên lâm tặc. Phản đối từ ngành kiểm lâm đến các cơ quan báo chí đến dư luận. Nhưng ... (Xem tiếp)
Tôi chép lại bài văn cảm động “Bản chất của thành công” để tặng cho những học sinh thân thương của mình sắp bước vào đời. Bài này do cô nữ sinh trung học Hà Minh Ngọc viết, đã đăng trên báo Tuổi Trẻ cách đây trên năm tháng. Tình thương yêu, nhân cách, nghị lực và ước mơ luôn là bài học lớn cho tất cả chúng ta. Trường học chấm điểm sinh viên. Trường đời đánh giá con người.
Nghìn dặm tìm anh chẳng gặp anh Đường về vó ngựa dẫm mây xanh Qua đèo chợt gặp mai đầu suối Đóa đóa vàng tươi xuân thắm cành.
Tôi biết bài thơ kỳ lạ này của Bác Hồ đăng trên báo khoảng năm 1970 do một chuyện ngẫu nhiên tình cờ nên nhớ mãi. Bài thơ kỳ lạ vì ẩn chứa nhiều triết lý sâu sắc không dễ thấy, vì nó là thơ của Bác Hồ mà không thấy sách báo nào nhắc đến hơn ba mươi năm qua.
BILL GATES - ông chủ của tập đoàn máy tính lớn nhất thế giới Microsoft - trước khi về hưu vào đầu tháng 7 năm nay, đã đưa ra 10 lời khuyên dành cho các bạn thanh niên trên con đường lập nghiệp. Hải Hiền VNN đã đưa tin. PGS.TS. Phan Thanh Kiếm đã kịp thời chuyển tin này cho DẠY VÀ HỌC. Bạn hãy chọn câu bạn thích. Tôi thì thích nhất ba câu: 1. Thế giới vốn không công bằng. Bạn biết điều này chứ? Dù bạn có nhận thấy sự bất công trong xã hội hay không thì cũng đừng hy vọng làm thay đổi được nó. Việc cần làm là hãy thích nghi với nó. 2. Khi đi học, bạn đứng thứ mấy trong lớp cũng không phải là vấn đề quan trọng. Nhưng khi đã bước chân ra xã hội thì mọi việc lại không đơn giản như vậy. Dù đi đâu hay làm công việc gì bạn cũng nên tạo đẳng cấp cho mình. 3. Khi bạn gặp khó khăn hay bế tắc trong công việc thì đừng có oán trách số phận. Điều bạn học được khi gặp trắc trở chính là kinh nghiệm và bài học để lần sau không bao giờ mắc phải nữa. Với bạn, bạn thích câu nào ? (xem 10 câu)
ĐÀO DUY TỪ là nhà chính trị quân sự lỗi lạc, danh nhân văn hóa kiệt xuất, bậc công thần số một của triều Nguyễn, Sự nghiệp của ông là đặc biệt to lớn đối với dân tộc và thời đại mà ông đã sống. Ông bắt đầu thi thố tài năng từ năm 53 tuổi đến năm 62 tuổi thì mất. Chỉ trong 9 năm ngắn ngủi (1625-1634), Đào Duy Từ đã kịp làm nên kỳ tích phi thường: Giữ vững cơ nghiệp của chúa Nguyễn ở Đàng Trong chống cự thành công với họ Trịnh ở phía Bắc; Mở đất phương Nam làm cho Nam Việt thời ấy trở nên phồn thịnh. Đặt nền móng vững chắc cho triều Nguyễn, sửa sang chính trị, quan chế, thi cử, võ bị, thuế khóa, nội trị, ngoại giao.
Sau khi ông mất (1634) triều Nguyễn còn truyền được 8 đời (131 năm), cho đến năm 1735, khi Vũ Vương mất, thế tử chết, Trương Phúc Loan chuyên quyền, lòng người li tán, nhà Tây Sơn nổi lên chiếm đất Quy Nhơn, họ Trịnh lấy đất Phú Xuân, thì cơ nghiệp nhà Nguyễn mới bị xiêu đổ.
Đào Duy Từ mang tâm nguyện và chí hướng lớn lao như vua Trần Thái Tông “Nếu chỉ để lời nói suông cho đời sau, sao bằng đem thân mình đảm nhận trọng trách cho thiên hạ trước đã”. Di sản của ông không chỉ là trước tác mà là triều đại. Ông là nhà thực tiễn sáng suốt có tầm nhìn sâu rộng lạ thường. Ngay trong trước tác của ông cũng rất trọng gắn lý luận với thực tiễn. Binh thư “Hổ trướng khu cơ” gắn với những danh tướng cầm quân lỗi lạc một thời Nguyễn Hữu Dật, Nguyễn Hữu Tiến. Vũ khúc, tuồng cổ Sơn Hậu gắn với di sản văn hóa Huế lưu dấu mãi cho đến tận ngày nay. Việc sửa sang chính trị, quan chế, thi cử, võ bị, thuế khóa, nội trị, ngoại giao gắn với hệ thống chính trị tiến bộ hợp lòng dân. Ông thật xứng danh là bậc kỳ tài muôn thuở với những di sản còn mãi với non sông. (xem tiếp)
Nhà phú hộ Lê Phú ở thôn Tùng Châu, phủ Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định thuê được một đứa ở chăn trâu tên là Đào Duy Từ. Tuy đã đứng tuổi, nhưng Duy Từ tỏ ra rất cần mẫn, siêng năng. Ngày ngày cứ sáng, sớm lùa trâu đi ăn, mãi chập tối mới đánh trâu về, trời nắng cũng như trời mưa, khiến gia chủ rất vừa lòng, chưa hề có tiếng chê trách.
Một hôm, phú hộ họ Lê mời các Nho sĩ hay chữ khắp vùng đến nhà dự hội bình văn. Chập tối, sau khi tiệc tùng xong, mọi người còn trà thuốc, bàn cãi chữ nghĩa văn chương, thì vừa lúc Đào Duy Từ chăn trâu về. Thấy đám đông khách khứa trò chuyện rôm rả, Duy Từ bèn lại gần, đứng ghếch chân lên bậc thềm nhìn, tay vẫn cầm chiếc roi trâu, vai đeo nón lá, lưng quấn khố vải... Chủ nhà ngồi phía trong nhìn thấy cho là vô lễ, giận dữ quát:
- Kẻ chăn trâu kia! Hạng tiểu nhân biết gì mà dám đứng nhìn các quan khách đây là những bậc danh Nho ?
Duy Từ nghe mắng song không tỏ ra sợ hãi, cười ha hả, rồi nói một cách thản nhiên: (xem tiếp)
“Trèo lên cây bưởi hái hoa /Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân /Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc /Em có chồng anh tiếc lắm thay” / “Ba đồng một mớ trầu cay / Sao anh chẳng hỏi những ngày còn không? Bây giờ em đã có chồng / Như chim vào lồng như cá cắn câu /Cá cắn câu biết đâu mà gỡ /Chim vào lồng biết thuở nào ra?... ” /“Có lòng xin tạ ơn lòng / Đừng đi lại nữa mà chồng em ghen!”. Chùm thơ này đã có trong dân gian từ lâu. Gọi là chùm thơ vì đây không phải là một bài mà là ba bài, gieo theo thể liên vận, gắn với “Giai thoại Đào Duy Từ” Truyện rằng: “…
“Anh trồng gốc mai này cho em!” Anh cả của tôi trước khi mất đã trồng tặng cho tôi một gốc mai trước ngõ vào hôm sinh nhật con tôi. Cháu sinh đêm trước Noel còn anh thì mất đúng đêm trăng rằm tháng giêng. Anh trò chuyện với anh Cao Xuân Tài bạn tôi, trong khi tôi cùng vài anh em đào huyệt và xây kim tỉnh cho anh. Nhìn anh bình thản chơi với các cháu, tôi nao lòng rưng rưng. Chưa bao giờ và chưa khi nào tôi thấm thía những bài thơ về hoa mai cuối mùa đông tàn bằng lúc đó. Anh ra đi đầu năm 1994 do căn bệnh ung thư hiểm nghèo khi các con anh còn thơ dại. Bài kệ "Cáo tật thị chúng" (Cáo bệnh với đệ tử) của thiền sư Mãn Giác (1052 - 1096) trong Thiền Uyển Tập Anh và lời bình của anh về nhân cách người hiền, cốt cách hoa mai đã đi thẳng vào tâm thức của tôi…
"That Luang", "Champa", "golden light in Mekong River" là những ấn tượng khó quên về đất nước Lào. That Luang (tháp vàng) là biểu tượng quốc gia. Cham pa (hoa trắng) là sắc hoa sứ thanh khiết mà người Lào rất mến chuộng. Nắng vàng rực rỡ trên sông Mekong tạo nên vẻ đẹp kỳ ảo của Viên Chăn. Uống bia Lào, ăn mực và nhâm nhi cà phê Việt, ngắm nắng chiều dát vàng trên sông xanh mà bờ sông bên kia là Thái Lan, để lắng nghe nhịp sống chậm rãi và yên bình.Tôi vui được tham dự Hội nghị Nghiên cứu Sắn Quốc tế lần thứ Tám (8th Asian Cassava Research Workshop) tổ chức tại Viên Chăn, ngày 20 - 24 / 10/ 2008 nên đã cảm khái viết bài thơ Tháp vàng, hoa trắng, nắng Mekong; Đồng thời, lưu lại một số hình ảnh về đất nước Lào và hội nghị tại đây http://cassavaviet.blogspot.com