Trang chủ NLU| KhoaNôngHọc| Mụclục Hoàng KimLong| Tình yêu cuộc sống | CNM365| Khát khao xanh | Dạy và học | Cây Lương thực | FoodCrops| HK1| HK2| HK3| HK4| HKWiki| Violet| FAOSTAT| ThốngkêVN | ThờitiếtVN|
Thống kê
Số lần xem
Đang xem 2502
Toàn hệ thống 4868
Trong vòng 1 giờ qua
Trang liên kết

 

Tỉnh thức
giữa đêm thiêng Yên Tử
Để thấm hiểu đức Nhân Tông
Ta thành tâm đi bộ
Lên tận đỉnh chùa Đồng
Tâm sáng Ức Trai
trong tựa ngọc


TÌNH YÊU CUỘC SỐNG

THUNG DUNG
Nguyễn Bỉnh Khiêm, ...


DẠY VÀ HỌC
Để chấn hưng giáo dục Việt Nam cấp thiết phải có đội ngũ những người thầy giáo ưu tú có tâm đức thiết tha với nghề, có trình độ chuyên môn cao và có kỹ năng giảng dạy tốt. Đây là trang thông tin chuyên đề dạy và học để trao đổi và bàn luận


Khoa Nông Học  
Những nhà khoa học xanh,
http://foodcrops.vn


Norman Borlaug
Lời Thầy dặn

Việc chính đời người chỉ ít thôi
Chuyên tâm đừng bận chuyện trời ơi
Phúc hậu suốt đời làm việc thiện
Di sản muôn năm mãi sáng ngời.


Thông tin Cây Lương thực
 Lúa, Ngô, Sắn, Khoai lang
Nông trại và Hệ thống Canh tác
http://foodcrops.vn
FOOD CROPS
CÂY LƯƠNG THỰC
  



Tình yêu cuộc sống
Thông tin chuyên đề chọn lọc

Science Daily

KHÁT KHAO XANH
HOÀNG KIM
CNM365

Luôn làm mới kiến thức của bạn !



Bút tích NB gửi HK và
Những tư liệu quý về 
GS.TS. Norman Borlaug

Lối vào Phong Nha

 


HOÀNG KIM
NGỌC PHƯƠNG NAM
CHÀO NGÀY MỚI

DẠY VÀ HỌC
CÂY LƯƠNG THỰC
FOOD CROPS



THƯ VIỆN NGHỀ LÚA
Thư viện Khoa học Xã hội





Cassava in Vietnam



A New Future for Cassava in Asia

On-line: Cassava in Asia
(Tải tài liệu PDF tại đây)


 

KimFaceBook
KimYouTube

KimLinkedIn

Songkhongtubien

KIMYOUTUBE. Video nhạc tuyển Sóng không từ biển (xem tiếp).



GỬI THƯ ĐIẾN TỬ VÀ
LIÊN KẾT TRỰC TUYẾN

hoangkimvietnam@gmail.com 
hoangkim@hcmuaf.edu.vn  
TS. Hoàng Kim

http://foodcrops.vn
http://vi.gravatar.com/hoangkimvn
http://en.gravatar.com/hoangkimvn

Thành viên

Email:
Password

Nội dung

  Việt Nam học

  #cnm365 #cltvn 1 tháng 1(01-01-2022)

 

 

#CNM365 #CLTVN 1 THÁNG 1
Hoàng Kim
CNM365 Tình yêu cuộc sống Phú Yên nôi lúa sắn; Lời biết ơn chân thành; Bảo tồn và phát triển sắn; Nhà Trần trong sử Việt; Lời dặn của Thánh Trần; Lời thề trên sông Hóa; Ngày mới lời yêu thương; Ngày xuân đọc Trạng Trình; Ngày mới bình minh an; Ngày khởi đầu Tết dương lịch. Chúc mừng người thân, thầy bạn, mọi người năm mới vui khỏe hạnh phúc. Ngày khởi đầu nhà Trần trong sử Việt. Ngày 1 tháng 1 năm 1226, Trần Thái Tông (Trần Cảnh) được Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi bắt đầu điều hành chính sự. Ngày 1 tháng 12 năm 1502, Rio de Janeiro, thành phố giữa núi và biển tại Brasil, Di sản thế giới UNESCO, một trong bảy kỳ quan thế giới mới, được phát hiện bởi đoàn thám hiểm của Bồ Đào Nha. Ngày 1 tháng 1 năm 1912, Tôn Trung Sơn, đại tổng thống lâm thời Trung Hoa Dân Quốc tuyên thệ nhậm chức tại Tổng thống phủ ở Nam Kinh, ngày khai quốc tại Đài Loan. Ngày 1 tháng 1 năm 1901, liên bang Úc được hình thành từ New South Wales, Queensland, Victoria, Nam Úc, Tasmania, Tây Úc. Ngày 1 tháng 1 năm 1959, Fidel Castro chiếm La Habana, Cách mạng Cuba thành công. Ngày 1 tháng 1 năm 1993, Cộng hòa Séc và Slovakia tách ra hòa bình từ Tiệp Khắc; Bài chọn lọc ngày 1 tháng 1: Phú Yên nôi lúa sắn; Lời biết ơn chân thành; Bảo tồn và phát triển sắn; Nhà Trần trong sử Việt; Lời dặn của Thánh Trần; Lời thề trên sông Hóa; Ngày mới lời yêu thương; Ngày mới bình minh an; Ngày xuân đọc Trạng Trình; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-31-thang-12/

 

 

PHÚ YÊN NÔI LÚA SẮN
Hoàng Kim


Thông tin
Sở Khoa học và Công nghệ Phú Yên, Hội nghị tổng kết hoạt động khoa học và công nghệ Phú Yên giai đoạn 2016-2020; Định hướng phát triển, ứng dụng khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo giai đoạn 2021-2025. Sáng ngày 31/12/2021, tại TP Tuy Hòa, UBND tỉnh Phú Yên đã phối hợp với Sở KH&CN tổ chức hội nghị tổng kết hoạt động khoa học và công nghệ Phú Yên giai đoạn 2016-2020; Định hướng phát triển, ứng dụng khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo giai đoạn 2021-2025. Hội nghị được tổ chức trực tiếp tại TP Tuy Hòa và kết nối trực tuyến đến các thị xã, huyện trong địa phương cùng đại diện Bộ KH&CN. Chủ trì Hội nghị là đồng chí Đào Mỹ, Phó Chủ Tịch UBND tỉnh Phú Yên và đồng chí Dương Bình Phú, Giám đốc Sở KH&CN, tham dự Hội nghị còn có ông Thân Ngọc Hoàng, Phó Vụ trưởng Vụ Phát triển Khoa học và Công nghệ địa phương và đại diện lãnh đạo các Sở, Ban, Ngành, đơn vị, doanh nghiệp trong tỉnh; xem tiếp https://khcnpy.gov.vn/hoi-nghi-tong-ket-hoat-dong-khoa-hoc-va-cong-nghe-phu-yen-giai-doan-2016-2020-dinh-huong-phat-trien-ung-dung-khoa-hoc-cong-nghe-va-doi-moi-sang-tao-giai-doan-2021-2025/

Phú Yên nôi lúa sắn
https://youtu.be/CKdEr4aS2NA Lời biết ơn chân thành bởi Hoàng Kim và đs. 2021. Hoàng Kim tham dự hội nghị theo giấy mời của Chủ tịch UBND Tỉnh Phú Yên và tôi được tặng Bằng khen của Chủ tịch UBND Tỉnh trong hội nghị này. Chúng tôi lưu trích đoạn lúa sắn thuộc lĩnh vực kỹ thuật công nghệ trong phim của Đài Phát thanh và Truyền hình Phú Yên với Sở Khoa học và Công nghệ phối hợp thực hiện tháng 12 năm 2021. Phim chiếu tại Hội nghị Tổng kết Hoạt động Khoa học Công nghệ giai đoạn 2016-2020, Định hướng Phát triển Ứng dụng KHCN & ĐMST giai đoạn 2021-2025

 

 

Trong khi đang họp, tôi nhớ lại ký ức không quên tin nhắn “Dân vùng sắn chạy lũ” ngày 14 11 năm 2021 https://youtu.be/6nbaafj1clM; với giống sắn KM397

 

 

Nhớ chuyện “Mưa lũ gây cô lập hoàn toàn huyện Đồng Xuân” ngày 11 tháng 11, 2020 https://youtu.be/SEFBlK88b3k

 

 

Mỗi tiến bộ khoa học công nghệ ứng dụng nơi vùng sâu vùng xa, nhiều khó khăn, là biết bao sự tâm huyết và cố gắng. “Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”. xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/bao-ton-va-phat-trien-san/

 

 

Nguyện làm Hoa Đất của quê hươnghttps://hoangkimlong.wordpress.com/category/hoa-dat-cua-que-huong/

 

 

SẮN PHÚ YÊN GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
TS. Nguyễn Thị Trúc Mai, TS. Hoàng Kim, TS. Hoàng Long


Báo cáo Phú Yên 28 12 2021 Hội nghị “Giới thiệu về các công nghệ trong sản xuất Nông Lâm Thủy sản”, tài liệu hội nghị và bài tham luận tại Phú Yên 31 12 2021 “Hội nghị Tổng kết hoạt động khoa học và công nghệ giai đoạn 2016- 2020, định hướng phát triển ứng dụng KHCN & ĐMST giai đoạn 2021-2025” UBND Tỉnh Phú Yên,

 

 

Bài học Cây Lương Thực (đọc thêm ngoài bài giảng) đôc tiếp bài “Sắn Phú Yên giải pháp phát triển bền vững” tại đây http://hoangkimlong.wordpress.com/category/bao-ton-va-phat-trien-san/

 

 

CÂY LƯƠNG THỰC VIỆT NAM
Hoàng Kim, Hoàng Long (chủ biên) và đồng sự
http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlong

#CLTVN
Bảo tồn và phát triển sắn
Cách mạng sắn Việt Nam
Chọn giống sắn Việt Nam
Chọn giống sắn kháng CMD
Bạch Mai sắn Tây Nguyên
Giống sắn KM419 và KM440
Mười kỹ thuật thâm canh sắn
Sắn Việt bảo tồn phát triển
Sắn Việt Nam ngày nay
Vietnamese cassava today
Sắn Việt Lúa Siêu Xanh
Sắn Việt Nam bài học quý
Sắn Việt Nam sách chọn
Sắn Việt Nam và Howeler
Sắn Việt Nam và Kawano
Sắn Việt và Sắn Thái
Quản lý bền vững sắn châu Á
Cassava and Vietnam: Now and Then

Lúa siêu xanh Việt Nam
Giống lúa siêu xanh GSR65
Giống lúa siêu xanh GSR90
Gạo Việt và thương hiệu
Hồ Quang Cua gạo ST
Cơm Niêu Vàng Gạo Đông A
Con đường lúa gạo Việt
Chuyện cô Trâm lúa lai
Chuyện thầy Hoan lúa lai
Lúa C4 và lúa cao cây
Lúa sắn Cămpuchia và Lào
Lúa sắn Việt Châu Phi
Lúa Việt tới Châu Mỹ

Giống ngô lai VN 25-99
Giống lạc HL25 Việt Ấn


Giống khoai lang Việt Nam
Giống khoai lang HL518
Giống khoai lang HL491
Giống khoai Hoàng Long
Giống khoai lang HL4
Giống khoai Bí Đà Lạt

Việt Nam con đường xanh
Việt Nam tổ quốc tôi
Vườn Quốc gia Việt Nam
Nông nghiệp công nghệ cao
Nông nghiệp sinh thái Việt
Nông nghiệp Việt trăm năm
IAS đường tới trăm năm
Viện Lúa Sao Thần Nông
Hoàng Thành đến Trúc Lâm
Ngày Hạnh Phúc của em
Có một ngày như thế

Thầy bạn là lộc xuân
Thầy bạn trong đời tôi
Sóc Trăng Lương Định Của
Thầy Quyền thâm canh lúa
Borlaug và Hemingway
Thầy Luật lúa OMCS OM
Thầy Tuấn kinh tế hộ
Thầy Tuấn trong lòng tôi
Thầy Vũ trong lòng tôi
Thầy lúa xuân Việt Nam
Thầy Ngoạn Hồ Núi Cốc
Thầy bạn Vĩ Dạ xưa
Thầy Dương Thanh Liêm
Thầy Hiếu Đêm Giáng Sinh
Phạm Trung Nghĩa Viện Lúa
Phạm Quang Khánh Hoa Đất
Phạm Văn Bên Cỏ May

24 tiết khí nông lịch
Nông lịch tiết Lập Xuân
Nông lịch tiết Vũ Thủy
Nông lịch tiết Kinh Trập
Nông lịch tiết Xuân Phân
Nông lịch tiết Thanh Minh
Nông lịch tiết Cốc vũ
Nông lịch tiết Lập Hạ
Nông lịch tiết Tiểu Mãn
Nông lịch tiết Mang Chủng
Nông lịch tiết Hạ Chí
Nông lịch tiết Tiểu Thử
Nông lịch tiết Đại Thử
Nông lịch tiết Lập Thu
Nông lịch Tiết Xử Thử
Nông lịch tiết Bạch Lộ
Nông lịch tiết Thu Phân
Nông lịch tiết Hàn Lộ
Nông lịch tiết Sương Giáng
Nông lịch tiết Lập Đông
Nông lịch tiết Tiểu tuyết
Nông lịch tiết Đại tuyết
Nông lịch tiết giữa Đông
Nông lịch Tiết Tiểu Hàn
Nông lịch tiết Đại Hàn

Food Crops Ngọc Phương Nam
Nhà sách Hoàng Gia

Video Cây Lương thực chọn lọc :

Cây Lương thực Việt NamChuyển đổi số nông nghiệp, Học không bao giờ muộnCách mạng sắn Việt Namhttps://youtu.be/81aJ5-cGp28; Xem tiếp >>

  Dạy và học 31 tháng 12(31-12-2021)

DẠY VÀ HỌC 31 THÁNG 12
Hoàng Kim
CNM365 Tình yêu cuộc sốngPhú Yên nôi lúa sắnhttps://youtu.be/CKdEr4aS2NA; Nhà Trần trong sử Việt; Lời dặn của Thánh Trần; Lời thề trên sông Hóa; Giống khoai lang Việt Nam; Ngày Hạnh Phúc của em; Trăng rằm vui chơi giăng; Quảng Tây nay và xưa; Bản Giốc và Ka Long; Nguyễn Hàm Ninh Thầy Vua; Ngày 31 tháng 12 năm 1225 nhằm ngày Mậu Dần  mồng 1 tháng 12 năm Ất Dậu, Lý Chiêu Hoàng, Nữ Hoàng cuối cùng của nhà Lý xuống chiếu nhường ngôi, mời chồng là Trần Cảnh lên ngôi Hoàng Đế, khởi đầu Nhà Trần trong sử Việt.  Ngày 31 tháng 12 năm 1879, Thomas Edison con người huyền thoại danh tiếng của nước Mỹ, lần đầu tiên chứng minh đèn sợi đốt trước công chúng tại Ediso New Jersey Hoa Kỳ. Ngày 31 tháng 12 năm 1857 Ottawa được chọn làm thủ đô của Canada do nữ vương Victoria của Anh, khu vực này khi đó là một thị trấn lâm nghiệp; Bài chọn lọc ngày 31 tháng 12: Phú Yên nôi lúa sắn; Nhà Trần trong sử Việt; Lời dặn của Thánh Trần; Lời thề trên sông Hóa; Giống khoai lang Việt Nam; Ngày Hạnh Phúc của em; Trăng rằm vui chơi giăng; Quảng Tây nay và xưa; Bản Giốc và Ka Long; Nguyễn Hàm Ninh Thầy Vua; Thông tin tại http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-31-thang-12/

PHÚ YÊN NÔI LÚA SẮN
Hoàng Kim


Thông tin
Sở Khoa học và Công nghệ Phú Yên, Hội nghị tổng kết hoạt động khoa học và công nghệ Phú Yên giai đoạn 2016-2020; Định hướng phát triển, ứng dụng khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo giai đoạn 2021-2025. Sáng ngày 31/12/2021, tại TP Tuy Hòa, UBND tỉnh Phú Yên đã phối hợp với Sở KH&CN tổ chức hội nghị tổng kết hoạt động khoa học và công nghệ Phú Yên giai đoạn 2016-2020; Định hướng phát triển, ứng dụng khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo giai đoạn 2021-2025. Hội nghị được tổ chức trực tiếp tại TP Tuy Hòa và kết nối trực tuyến đến các thị xã, huyện trong địa phương cùng đại diện Bộ KH&CN. Chủ trì Hội nghị là đồng chí Đào Mỹ, Phó Chủ Tịch UBND tỉnh Phú Yên và đồng chí Dương Bình Phú, Giám đốc Sở KH&CN, tham dự Hội nghị còn có ông Thân Ngọc Hoàng, Phó Vụ trưởng Vụ Phát triển Khoa học và Công nghệ địa phương và đại diện lãnh đạo các Sở, Ban, Ngành, đơn vị, doanh nghiệp trong tỉnh; xem tiếp https://khcnpy.gov.vn/hoi-nghi-tong-ket-hoat-dong-khoa-hoc-va-cong-nghe-phu-yen-giai-doan-2016-2020-dinh-huong-phat-trien-ung-dung-khoa-hoc-cong-nghe-va-doi-moi-sang-tao-giai-doan-2021-2025/ .

Phú Yên nôi lúa sắn
https://youtu.be/CKdEr4aS2NA là lời biết ơn chân thành bởi Hoàng Kim và đs. 2021. Hoàng Kim tham dự hội nghị theo giấy mời của UBND Tỉnh Phú Yên. Chúng tôi lưu trích đoạn lúa sắn thuộc lĩnh vực kỹ thuật công nghệ trong phim của Đài Phát thanh và Truyền hình Phú Yên với Sở Khoa học và Công nghệ phối hợp thực hiện tháng 12 năm 2021. Phim chiếu tại Hội nghị tổng kết hoạt động khoa học công nghệ giai đoạn 2016-2020, định hướng phát triển ứng dụng KHCN & ĐMST giai đoạn 2021-2025

Bình Minh Yên Tử

NHÀ TRẦN TRONG SỬ VIỆT
Hoàng Kim

Nhà Trần khởi đầu từ vua Trần Thái Tông (Trần Cảnh) lên ngôi Hoàng Đế vào ngày 31 tháng 12 năm 1225 nhằm ngày Mậu Dần  mồng 1 tháng 12 năm Ất Dậu, Lý Chiêu Hoàng là vị Nữ Hoàng cuối cùng của nhà Lý xuống chiếu nhường ngôi cho chồng. Tiếp nối vua Trần Thái Tông là vua Trần Thánh Tông (Trần Hoảng), vua Trần Nhân Tông (Trần Khâm. Ba vua là thời nhà Trần thịnh thế ngời sử Việt dựng nên nghiệp lớn, chống quân Nguyên Mông, thống nhất Phật Giáo Việt Nam và đạt đến cực thịnh. Ba vua Trần Anh Tông, Trần Minh Tông, Trần Hiến Tông là thời kế nghiệp. Từ vua Trần Dụ Tông (sau khi thượng hoàng Trần Minh Tông mất) đến Hôn Đức Công, Trần Nghệ Tông, Trần Duệ Tông, cho tới Trần Phế Đế, Trần Thuận Tông, Giản Định Đế, Trần Quý Khoáng là thời suy tàn. Trần triều chấm dứt lúc Trần Phế Đế bị Thượng hoàng Trần Nghệ Tông ép thắt cổ chết thay thế bằng Trần Thuận Tông là con của Trần Nghệ Tông, khi thế lực Hồ Quý Ly đã vững không thể đổi. Vua Trần Thuận Tông trị vì từ năm 1388 cho đến năm 1400 thì bị ép nhường ngôi cho Hồ Quý Lý, lập ra triều đại nhà Hồ. Giặc Minh mượn danh nghĩa “phục Trần diệt Hồ” nhân cơ hội ấy vào cướp nước ta. Giản Định Đế, Trần Quý Khoáng chống nhà Minh nhưng không thành. Nhà Trần trong sử Việt kéo dài 175 năm với 13 đời hoàng đế.

Thái Tông và Hưng Đạo
Ngày mới đầy yêu thương
Nhà Trần trong sử Việt
Lồng lộng như trăng rằm

Ba đỉnh cao Yên Tử
Danh thắng quê hương Trần
‘Thái bình tu nổ lực
Vạn cổ thử giang san’ (*)

Nhà Trần trong sử Việt
Trước đèn bảy trăm năm,
Trúc Lâm Trần Nhân Tông
Thăm thẳm tầm nhìn lớn.

Từ một hai hai năm (1225),
Đến thế kỷ mười bốn (1400)
Chuyện cũ chưa hề cũ
Thoáng chốc tròn tháng năm.

Mừng ngày vui xuân mới
Vui bạn hiền người thân
Thung dung bài viết mới.
Thảnh thơi gieo đôi vần.

(*) Trích dẫn thơ Tụng giá hoàn kinh sư của
Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải

THÁI TÔNG VÀ HƯNG ĐẠO

Minh quân hiền tài vua tôi đồng lòng toàn dân gắng sức. Trần Thái Tông, Trần Hưng Đạo, Trần Thánh Tông là ba đỉnh cao vọi của trí tuệ thời Trần. Vua Trần Nhân Tông khi lên đỉnh Yên Tử có hỏi về ba đỉnh cao của dãy núi kia là gì thì được trả lời đó là dãy Yên Phụ của vòng cung Đông Triều trấn Bắc. Đức vua Phật Trần Nhân Tông đã lạy Yên Phụ và chọn Yên Tử làm nơi Cư trần lạc đạo chốn an nghĩ của mình. Trần Thái Tông và Trần Quốc Tuấn là câu chuyện minh quân thiên tài thật lạ lùng và sâu sắc lưu dấu nơi đất Việt. Bài học lịch sử Trần Thánh Tông, Trần Hưng Đạo, Trần Thánh Tông, Trần Quang Khải, Trần Khánh Dư … là suối nguồn tươi trẻ của một câu chuyện tuyệt vời được nối tiếp sâu hơn trong các chuyên luận khác.

Vua Trần Thái Tông (1218-1277) người sáng nghiệp nhà Trần có câu nói nổi tiếng trong lịch sử: “Nếu chỉ để lời nói suông cho đời sau, sao bằng đem thân mình đảm nhận trọng trách cho thiên hạ trước đã”. Vua Trần Thái Tông là bậc minh quân tài trí được so sánh với Đường Thái Tông Lý Thế Dân là vị vua giỏi Trung Hoa thời trước đó. “Sáng nghiệp Việt, Đường hai Thái Tông/ Đường xưng: Trinh Quán, Việt: Nguyên Phong/ Kiến Thành bị giết, An Sinh sống/ Miếu hiệu tuy đồng, đức chẳng đồng”.

Đường Thái Tông Lý Thế Dân ngày 4 tháng 9 năm 626 đã lên ngôi hoàng đế nhà Đường sau sự biến Huyền Vũ môn. Đường Thái Tông thiết lập nên sự cường thịnh của nhà Đường phát triển về kinh tế và hùng mạnh về quân sự nhất thế giới thời ấy, nhưng so đức độ với vua Việt Trần Thái Tông thì vua Việt được người đời ca ngợi hơn. 

An Sinh Vương Trần Liễu là người chống lại Thái Tông và hận thù giữa họ sâu đến nỗi Trần Liễu còn di nguyện cho Trần Quốc Tuấn sau này nhất thiết phải đoạt lại ngôi vua. Vua Trần Thái Tông không chỉ tha cho An Sinh Vương Trần Liễu mà còn tha cho Trần Quốc Tuấn là người đã gây ra chuyện tầy đình.

Tình yêu thương của Trần Quốc Tuấn và Thiên Thành công chúa là một câu chuyện thật quái và phi thường ! Tình yêu đó thật lớn lao nhưng sự việc quá liều lĩnh, khí phách và đặc biệt nguy hiểm. Trần Quốc Tuấn ngay trong đêm tân hôn của Thiên Thành công chúa với Nhân Đạo Vương đã dám lẻn vào cung của Nhân Đạo Vương ngủ với người mình yêu mà không sợ cái chết trong lúc Trung Thành Vương con trai của Nhân Đạo Vương đang bận đãi khách chưa kịp động phòng. Công chúa Thiên Thành con gái của vua Trần Thái Tông thì đã dám chọn cái chết để trao thân cho Trần Quốc Tuấn là người mình yêu, bất chấp đám cưới với Trung Thành Vương là con trai của Nhân Đạo Vương vị quan đầu triều Trần.

Vua Trần Thái Tông đã không làm ngơ để Quốc Tuấn bị giết. Vua chủ động kết nối lương duyên ngay cho Thiên Thành Quốc Tuấn bất chấp lẽ thường. Câu chuyện vua Trần Thái Tông không những không giết Trần Quốc Tuấn, con của Trần Liễu kẻ tử thù đang rất hận mình và đang “cố tình phạm tội ngông cuồng” trái nhân tình mà còn chủ động tác thành cho Thiên Thành Quốc Tuấn nên vợ chồng, hóa giải mọi điều, thu phục được tấm lòng của bậc anh hùng và giữ lại được cho non sông Việt một bậc kỳ tài muôn thuở

Chuyện lạ và hay, thật hiếm có !

Tượng Trần Quốc Tuấn ở chùa cổ Thắng Nghiêm, ảnh Hoàng Kim

LỜI DẶN CỦA THÁNH TRẦN

Chùa cổ Thắng Nghiêm là nơi Đức Thánh Trần thuở nhỏ đã theo công chúa Thụy Bà về đây để tìm minh sư học phép Chọn người, Đạo làm tướng, viết kiệt tác Binh thư Yếu lược. Mẹ tôi họ Trần. Tôi về dâng hương Đức Thánh Trần tại đền Tổ. Lắng đọng trong tôi
Lời thề trên sông Hóa; Lời dặn của Thánh Trần.

Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn là nhà quân sự kiệt xuất nhất trong lịch sử Việt Nam nhà chính trị, ngoại giao, tư lệnh tối cao của Việt Nam thời nhà Trần, đã ba lần đánh thắng đội quân Nguyên Mông đế quốc hùng mạnh nhất thế giới thời đó. Người là một trong mười vị tướng tài của Thế Giới

Trần Hưng Đạo sinh năm 1232, mất ngày 20 tháng 8 âm lịch năm 1300, ông là con thứ ba của An Sinh Vương Trần Liễu, gọi Trần Thái Tông bằng chú ruột, mẹ ông là Thiện Đạo quốc mẫu, một người trong tôn thất họ Trần. Ông sinh ra ở kinh đô Thăng Long, quê quán ở thôn Tức Mặc, phường Lộc Vượng, TP Nam Định ngày nay. Ông khi lên 5 tuổi năm 1237 làm con nuôi cô ruột là Thụy Bà công chúa, vì cha ông là Trần Liễu chống lại triều đình (Trần Thủ Độ). Đại Việt sử ký toàn thư mô tả ông là người có dung mạo khôi ngô, thông minh hơn người, nhờ được những người tài giỏi đến giảng dạy nên ông sớm trở thành kỳ tài xuất chúng văn võ song toàn, thông hiểu sâu sắc huyền cơ tạo hóa, phép biến dịch và cách dùng binh..

Vua Trần Thái Tông tên thật là Trần Cảnh, sinh ngày 16 tháng 6 năm 1218 mất ngày 1 tháng 4 năm 1277, là vị hoàng đế đầu tiên của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam, lên ngôi ngày 5 tháng 5 năm 1225 mở đầu nhà Trần trong sử Việt. Ông ở ngôi hơn 32 năm (1225 – 1258), làm Thái thượng hoàng trong 19 năm. Trần Cảnh sinh ra dưới thời kỳ nhà Lý còn tại vị, ông cùng tuổi với vị Nữ hoàng nhà Lý lúc bấy giờ là Lý Chiêu Hoàng. Ông được Chiêu Hoàng yêu mến, hay gọi vào vui đùa, Trần Cảnh khi ấy không nói năng gì nhưng khi về đều nói lại với chú họ là Trung Vũ Vương Trần Thủ Độ. Nhà Lý loạn cung đình thuở ấy đã tới đỉnh điểm. Vua Lý tuy có hai con gái thông minh, hiền hậu và rất giỏi nhưng không có con trai nối dõi, trong khi hoàng tộc nhà Lý lắm kẻ mưu mô kém đức dòm ngó ngôi báu. Nước Đại Việt thuở đó bên ngoài thì họa ngoại xâm từ đế quốc Nguyên Mông đang rình rập rất gần, bên trong thì biến loạn bùng nổ liên tục nhiều sự kiện rất nguy hiểm. Trần Thủ Độ nắm thực quyền chốn cung đình, nhận thấy Trần Cảnh cháu mình cực kỳ thông minh đỉnh ngộ, thiên tư tuyệt vời xứng là một minh quân, lại được Lý Chiêu Hoàng yêu mến nên đã sắp đặt hôn nhân giữa Trần Cảnh và Lý Chiêu Hoàng đám đặt cược việc làm vua với họa diệt tộc Trần nếu chọn lầm người. Sự kiện đó xảy ra vào ngày 31 tháng 12 năm 1225, đã chấm dứt triều đại nhà Lý đã tồn tại hơn 200 năm và khai sáng nhà Trần.

Lý Chiêu Hoàng tức Lý hoàng hậu vợ Trần Thái Tông trớ trêu thay sinh con nhưng con bị chết yểu ngay sau khi sinh, cho nên Trần Thái Tông không có người kế vị chính danh phận, trong lúc sự chống đối và chỉ trích cay độc của tôn thất nhà Lý do Hoàng Thái hậu cầm đầu lại đẩy lên cao trào rất nặng nề. Nhiều kẻ tôn thất mượn tiếng có con trai nối dõi dòm ngó cướp ngôi. Thuận Thiên công chúa là vợ của Trần Liễu khi ấy đang mang thai được 3 tháng. Năm 1237, Thái sư Trần Thủ Độ nắm thực quyền phụ chính đã ép cha của Trần Quốc Tuấn là Trần Liễu phải nhường vợ là Thuận Thiên công chúa (chị của Lý Chiêu Hoàng) thay làm Chính cung Hoàng hậu cho Trần Thái Tông, đồng thời giáng Lý hoàng hậu xuống làm công chúa. Việc này khiến Trần Thái Tông bỏ lên tu ở núi Yên Tử.

Người sau này đã chứng ngộ vận nước lâm nguy cường địch bên ngoài câu kết nội gián bên trong không thể không xử thời biến đặt vận mệnh “non sông đất nước Việt trên hết”. Người đã chấp nhận quay trở về “Nếu chỉ để lời nói suông cho đời sau, sao bằng đem thân mình đảm nhận trọng trách cho thiên hạ trước đã”. Trần Thái Tông đã chấp nhận sự sắp xếp của Triều đình.

Sau này, ông truyền ngôi cho Thái tử Trần Hoảng là con thứ, vào ngày 24 tháng 2 năm 1258 để lui về làm Thái thượng hoàng,(con trưởng Trần Quốc Khang vốn là con Trần Liễu, anh em cùng cha khác mẹ với Trần Quốc Tuấn). Trần Thái Tông được tôn làm Hiển Nghiêu Thánh Thọ Thái Thượng Hoàng Đế. Trần Hoảng lên ngôi tức Trần Thánh Tông. Tước vị và thông lệ Thái thượng hoàng của nhà Trần từ đấy đã trở thành truyền thống, vừa rèn luyện cho vị Hoàng đế mới cai trị đất nước càng sớm càng tốt vừa tránh được việc tranh giành ngôi báu giữa các con do chính danh sớm được định đoạt.

Trần Liễu gửi con là Trần Quốc Tuấn cho Thụy Bà công chúa mai danh ẩn tích tại chùa Thắng Nghiêm tìm minh sư luyện rèn văn võ. Sau đó ông dấy binh làm loạn ở sông Cái, cuối cùng bị thất thế, phải xin đầu hàng. Trần Thủ Độ toan chém nhưng Trần Thái Tông liều chết đưa thân mình ra ngăn cản buộc lòng Thủ Độ phải tự mình ném bảo kiếm xuống sông. Trần Liễu được tha tội nhưng quân lính theo ông làm phản đều bị giết hết và vua Thái Tông đổi ông làm An Sinh vương ở vùng đất Yên Phụ, Yên Tử thuộc tỉnh Quảng Ninh ngày nay.

Trần Quốc Tuấn từ 5 tuổi đã được minh sư rèn luyện tỏ ra và một vị nhân tướng lỗi lạc phi phàm lúc trở về sớm được Trần Thái Tông quý trọng đức độ tài năng trong số con cháu vương thất. Qua sự biến Trần Quốc Tuấn yêu thương công chúa Thiên Thành, là con gái của vua Trần Thái Tông, nhân lễ hội trăng rằm nửa đêm đã lẻn vào chỗ ở của công chúa và thông dâm với nàng. Thời nhà Trần đã có quy định, để tránh ngôi vua truyền ra ngoài, chỉ có người trong tộc mới được lấy nhau nên kết hôn cùng huyết thống là điều không lạ và chuyện “quái” ấy cũng ‘quái” như việc Trần Thái Tông lấy vợ Trần Liễu.

Lại oái oăm thay, người Trần Quốc Tuấn yêu say đắm là công chúa Thiên Thành, mà vua Trần Thái Tông năm 1251 đã đính ước gả cô cho Trung Thành Vương là con trai của Nhân Đạo Vương. Vua đã nhận sính lễ, thông báo với quần thần và đang tiệc cưới. Trần Quốc Tuấn nửa đêm trăng rằm đột nhập vào phòng riêng công chúa ở phủ Trung Thành Vương và đôi trai gái trẻ đồng lòng đến với nhau. Quốc Tuấn nói với công chúa Thiên Thành sai thị nữ đi gặp Công chúa Thụy Bà cấp báo với vua ngay trong đêm đó. Vua hỏi có việc gì, Thụy Bà trả lời:“Không ngờ Quốc Tuấn ngông cuồng càn rỡ, đang đêm lẻn vào chỗ Thiên Thành, Nhân Đạo đã bắt giữ hắn rồi, e sẽ bị hại, xin bệ hạ rủ lòng thương, sai người đến cứu”. Trần Thái Tông vội sai người đến dinh Nhân Đạo vương, vào chỗ Thiên Thành, thì thấy Trần Quốc Tuấn đã ở đấy. Hôm sau, Thụy Bà công chúa dâng 10 mâm vàng sống đến chỗ Trần Thái Tông xin làm lễ cưới Thiên Thành công chúa cho Trần Quốc Tuấn. Thái Tông bắt đắc dĩ phải gả công chúa cho ông và lấy 2000 khoảnh ruộng ở phủ Ứng Thiên để hoàn lại sính vật cho Trung Thành vương. Tháng 4 năm đó, Trần Liễu ốm nặng. Lúc sắp mất, Trần Liễu cầm tay Trần Quốc Tuấn, trăng trối rằng: “Con không vì cha lấy được thiên hạ, thì cha chết dưới suối vàng cũng không nhắm mắt được”. Trần Quốc Tuấn ghi để trong lòng, nhưng không cho là phải.

Câu chuyện Trần Quốc Tuấn yêu thương công chúa Thiên Thành và đã làm liều dám lấy tính mạng của mình làm như thể “cố tình phạm tội ngông cuồng trái nhân tình”, nhưng mấy ai thấu hiểu đó là sự lưa chọn sinh tử, phép thử tối cao cuối cùng của vị nhân tướng trước khi trao sinh mệnh đời mình cho Người tin yêu mình trong thực tiễn. Đó là phép biến Dịch của “Đạo làm tướng” “Chọn người”.

Trần Thái Tông và Trần Quốc Tuấn câu chuyện đêm trăng rằm để hiểu sâu hơn chiến công nhà Trần ba lần đánh thắng quân Nguyên. Trần Thái Tông, Trần Quốc Tuấn, Trần Thánh Tông với thực tiễn hiển hách ba lần đánh thắng quân Nguyên và “Vạn Kiếp tông bí truyền thư”, “Binh thư yếu lược” là kiệt tác muôn đời, ba đỉnh cao vọi của trí tuệ Việt Nam và nhân loại.

TRẦN THÁNH TÔNG MINH QUÂN

Trần Thánh Tông sinh ngày 12 tháng 10 năm 1240, mất ngày 3 tháng 7 năm 1290 là  vị Hoàng đế thứ hai của nhà Trần, ở ngôi từ năm 1258 đến 1278 và làm Thái thượng hoàng từ năm 1278 đến năm 1290 lúc qua đời (hình Lăng Trần Thánh Tông ở Long Hưng, Thái Bình). Trần Thánh Tông là vua thánh nhà Trần: Vua nổi tiếng có lòng thương dân và đặc biệt thân thiết với anh em trong Hoàng tộc, điều hiếm thấy từ trước đến nay; Trần Thánh Tôngcó công rất lớn lúc làm Thái thượng hoàng đã cùng với con trai là vua Trần Nhân Tông lãnh đạo quân dân Đại Việt giành chiến thắng trong hai cuộc chiến cuối cùng chống lại quân đội nhà Nguyê
n sang thôn tính nước ta lần thứ hai năm1285 và lần thứ ba năm 1287; Nước Đại Việt suốt thời Trần Thánh Tônglàm vua và làm Thái Thượng hoàng là rất hưng thịnh, hùng mạnh, phát triển toàn diện chính trị, kinh tế, quân sự, ngoại giao, văn hóa, giáo dục  không để cho nhà Nguyên thôn tính.

Trần Thánh Tông cuộc đời và di sản hiếm thấy. Vua Trần Thánh Tông tên thật Trần Hoảng là con trai thứ hai của vua Trần Thái Tông (Trần Cảnh), mẹ là Hiển Từ Thuận Thiên hoàng hậu Lý thị, công chúa nhà Lý, con gái của Lý Huệ Tông và Linh Từ Quốc mẫu. Anh trai lớn của ông, Tĩnh Quốc đại vương Trần Quốc Khang tuy danh nghĩa là con lớn nhất, nhưng thực tế là con của Khâm Minh đại vương Trần Liễu. Như vậy, ông là Hoàng đích trưởng tử (con trai lớn nhất và do chính thất sinh ra) của Trần Thái Tông hoàng đế.

Vua Trần Thánh Tông sinh ngày 25 tháng 9 âm lịch, năm Thiên Ứng Chính Bình thứ 9 (1240), và ngay lập tức được lập làm Hoàng thái tử, ngự ở Đông cung. Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư, trước khi Hiển Từ Thuận Thiên hoàng hậu mang thai ông, Thái Tông hoàng đế nằm mơ thấy Thượng Đế trao tặng bà một thanh gươm báu.

Vua Trần Thánh Tông có vợ là  Nguyên Thánh hoàng hậu Trần Thiều (?– 1287), con gái An Sinh Vương Trần Liễu, mới đầu phong làm Thiên Cảm phu nhân, sau phong lên làm Hoàng hậu. Năm 1278, Trần Nhân Tông tôn làm Nguyên Thánh Thiên Cảm Hoàng Thái hậu u.

Vua Trần Thánh Tông có bốn con: 1) đích trưởng tử là Trần Khâm, tức Nhân Tông Duệ Hiếu hoàng đế, mẹ là Nguyên Thánh hoàng hậu; 2) Tá Thiên đại vương Trần Đức Việp (1265 – 1306), mẹ là Nguyên Thánh hoàng hậu. 3) Thiên Thuỵ công chúa, chị gái Nhân Tông, mất cùng ngày với Nhân Tông (3 tháng 11 âm lịch, 1308), lấy Hưng Vũ vương Trần Quốc Nghiễn, con trai Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn, mẹ là Nguyên Thánh hoàng hậu;4)  Bảo Châu công chúa, lấy con trai thứ của Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải, mẹ là Nguyên Thánh hoàng hậu.

Nhà Trần đánh bại quân Nguyên Mông lần thứ nhất năm 1257, vào ngày 24 tháng 12 năm Nguyên Phong thứ 7 (1257), Thái tử Trần Hoảng đã cùng với vua Trần Thái Tông ngự lâu thuyền mà kéo quân đến Đông Bộ Đầu, đập tan tác quân Nguyên Mông trong Trận Đông Bộ Đầu, buộc họ phải rút chạy và chấm dứt cuộc xâm lược Đại Việt.

Vua Trần Thái Tông nhường ngôi cho Thái tử Trần Hoảng ngày 24 tháng 2, năm 1258 (Nguyên Phong thứ 8). Vua Trần Thánh Tông đổi niên hiệu là Thiệu Long, xưng làm Nhân Hoàng, tôn vua chalàm Thái thượng hoàng, tôn hiệu là Hiển Nghiêu Thánh Thọ Thái Thượng Hoàng Đế .

Vua Trần Thánh Tông ở ngôi 21 năm, đất nước được yên trị . Vua nổi tiếng là vị hoàng đế nhân hậu, hòa ái đối với mọi người từ trong ra ngoài. Ông thường nói rằng: “Thiên hạ là của ông cha để lại, nên để anh em cùng hưởng phú quý chung”.Do vậy, các hoàng thân trong nội điện thường ăn chung cỗ và ngủ chơi chung nhà rất đầm ấm, chỉ khi có việc công, hay buổi chầu, thì mới phân thứ tự theo phép nước .

Tĩnh Quốc đại vương Trần Quốc Khang, trên danh nghĩa là con trưởng của vua Trần Thái Tông, nhưng thực ra là con trai của An Sinh đại vương Trần Liễu cùng Hiển Từ Thuận Thiên hoàng hậu. Trần Quốc Khang tuy là con trưởng  của vua Trần Thái Tông, nhưng  xuất thân đặc biệt nên chịu mọi sự suy xét trong hoàng tộc. Sử cũ kể lại, có lần Trần Thánh Tông cùng với người anh cả là Trần Quốc Khang chơi đùa trước mặt Thái thượng hoàng. Thượng hoàng mặc áo bông trắng, Trần Quốc Khang múa kiểu người Hồ, Thượng hoàng bèn cởi áo ban cho. Vua Trần Thánh Tông thấy vậy cũng múa kiểu người Hồ để đòi thưởng áo bông. Quốc Khang bèn nói:Quý nhất là ngôi vua, tôi đã không tranh với chú hai rồi. Nay đức chí tôn cho tôi thứ nhỏ mọn này mà chú hai cũng muốn cướp sao?

Thượng hoàng Thái Tông cười nói với Quốc Khang:

Vậy ra con coi ngôi vua cũng chỉ như cái áo choàng này thôi à?

Thượng hoàng Thái Tông khen Quốc Khang, rồi ban áo cho ông. Trong Hoàng gia, cha con, anh em hòa thuận không xảy ra xích mích.] Vào tháng 9 năm 1269, Vua Trần Thánh Tông phong cho Trần Quốc Khang làm Vọng Giang phiêu kỵ Đô thượng tướng quân. Một lần khác, vào mùa xuân năm 1270, Trần Quốc Khang xây vương phủ hoành tráng tại Diễn Châu, vua Trần Thánh Tông bèn cho người đến xem. Hoảng sợ, Quốc Khang đành phải dựng tượng Phật tại nơi này – sau trở thành chùa Thông.

Vua Trần Thánh Tông rất quan tâm giáo dục, Trần Ích Tắc, em trai Trần Thánh Tông nổi tiếng là một người hay chữ trong nước được cử mở trường dạy học để các văn sĩ học tập. Danh nho Mạc Đĩnh Chi, người đỗ trạng nguyên đời Trần Anh Tông sau này cũng học ở trường ấy.

Thời vua Trần Thánh Tông nhân sự cũng được thay đổi. Ông xuống chiếu kén chọn văn học sĩ sung vào quan ở Quán và Các. Trước đó, theo quy chế cũ: “không phải người trong họ vua thì không được làm chức Hành khiển“. Nhưng bắt đầu từ đấy, nho sĩ văn học được giữ quyền bính làm hành khiển, như Đặng Kế làm Hàn lâm viện học sĩ, Đỗ Quốc Tá làm Trung thư sảnh trung thư lệnh, đều là nho sĩ văn học.  Vua Trần Thánh Tông cho phép các vương hầu, phò mã họp các dân nghèo để khẩn hoang]. Vương hầu có điền trang bắt đầu từ đấy.

Năm 1262, vua Trần Thánh Tông xuống lệnh cho quan quân chế tạo vũ khí và đúc thuyền. Tại chín bãi phù sa ở sông Bạch Hạc, Lục quân và Thủy quân nhà Trần đã tổ chức tập trận. Vào tháng 9 (âm lịch) năm ấy, ông truyền lệnh cho rà soát ngục tù, và thẳng tay xử lý những kẻ đã đầu hàng quân xâm lược Nguyên trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ nhất thời Nguyên Phong.

Vua Trần Thánh Tông còn cho Lê Văn Hưu tiếp tục biên soạn sách Đại Việt sử ký. Lê Văn Hưu đã làm được bộ sử sách gồm 30 quyển, chép từ đời Triệu Vũ Vương đến Lý Chiêu Hoàng. Việc biên tập bộ sử này được khởi đầu từ đời vua Trần Thái Tông, đến năm 1271 đời Thánh Tông mới hoàn thành.

Năm 1258, sau khi Nhà Trần đánh bại quân Nguyên Mông lần thứ nhất, Trần Thánh Tông sai sứ sang Nam Tống báo việc lên ngôi và được phong làm An Nam quốc vương. Mặc dù Nam Tống đã suy yếu trước sự uy hiếp của Mông Cổ, ông vẫn giữ quan hệ bang giao với Nam Tống ngoài ý nghĩa giao hảo nước lớn còn nhằm mục đích nắm tình hình phương bắc. Khi Thánh Tông sai sứ mang đồ cống sang, vua Tống cũng tặng lại các sản vật của Trung Quốc như chè, đồ sứ, tơ lụa; không những gửi cho Thánh Tông mà còn tặng cả sứ giả.  Sau này khi Nam Tống bị nhà Nguyên đánh bại, phải rút vào nơi hiểm yếu, mới không còn qua lại với Đại Việt. Nhiều quan lại và binh sĩ Tống không thần phục người Mông đã sang xin nương nhờ Đại Việt. Trần Thánh Tông tiếp nhận họ, ban cho chức tước và cử người quản lý.

Năm 1260, hoàng đế nhà Nguyên sai Mạnh Giáp, Lý Văn Tuấn mang chiếu chỉ sang Đại Việt tuyên dụ, với yêu cầu hệ thống chính quyền Đại Việt phải theo lối hoạt động của Thiên triều, không được dấy binh xâm lấn bờ cõi. Vào năm Tân Dậu 1261, niên hiệu Thiệu Long thứ 4, vua Trần Thánh Tông được vua Mông Cổ phong làm An Nam Quốc Vương, lại được trao cho 3 tấm gấm tây cùng với 6 tấm gấm kim thục. Trần Thánh Tông duy trì lệ cống nhà Nguyên 3 năm 1 lần, mỗi lần đều phải cống nho sĩ, thầy thuốc, thầy bói và thợ thuyền mỗi hạng ba người, cùng với các sản vật như là sừng tê, ngà voi, đồi mồi, châu báu…

Vua nhà Nguyên lại đặt chức quan Darughachi tại Đại Việt để đi lại giám trị các châu quận Đại Việt; ý muốn can thiệp chính trị, tìm hiểu nhân vật, tài sản Đại Việt để liệu đường mà đánh chiếm. Thánh Tông bề ngoài tuy vẫn chịu thần phục, nhưng ông biết ý đồ của vua Mông, nên tiếp tục luyện binh dụng võ để chuẩn bị chiến tranh. Ông cho tuyển đinh tráng các lộ làm lính, phân làm quân và đô, bắt phải luyện tập luôn.

Năm 1271, Hốt Tất Liệt đặt quốc hiệu là Nguyên, bình định nốt miền nam Trung Quốc và dụ vua Đại Việt sang hàng, để khỏi cần động binh. Nhà Nguyên cứ vài năm lại cho sứ sang sách nhiễu và dụ vua Đại Việt sang chầu, nhưng vua Trần lấy cớ thoái thác.

Năm 1272, hoàng đế nhà Nguyên cho sứ sang lấy cớ tìm cột đồng trụ của Mã Viện trồng ngày trước, nhưng vua Thánh Tông sai quan sang nói rằng: cột ấy lâu ngày mất đi rồi, không biết đâu mà tìm nữa. Vua Nguyên bèn thôi không hỏi nữa.

Năm 1275, hoàng đế nhà Nguyên ra chiếu dụ đòi vua Đại Việt nộp sổ sách dân số, thu thuế khóa, trợ binh lực cho Thiên triều thông qua sự thống trị của quan Darughachi và đòi nhà vua phải đích thân tới chầu. Vua Thánh Tông sai sứ sang nói với hoàng đế nhà Nguyên rằng: Nước Nam không phải là nước Mường mán mà đặt quan giám trị, xin đổi quan Đại-lỗ-hoa-xích làm quan Dẫn tiến sứ.

Vua nhà Nguyên không cho, lại bắt vua Trần sang chầu. Thánh Tông cũng không chịu. Từ đấy vua nhà Nguyên thấy dùng ngoại giao để khuất phục nhà Trần không được, quyết ý cử binh sang đánh Đại Việt. Nguyên Thế Tổ cho quan ở biên giới do thám địa thế Đại Việt, Trần Thánh Tông cũng đặt quan quân phòng bị.

Theo sách “Các triều đại Việt Nam” của Quỳnh Cư, Đỗ Đức Hùng, “Nhìn chung, vua Trần Thánh Tông thực hiện chính sách ngoại giao mềm dẻo nhưng rất kiên quyết, chằm bảo vệ danh dự của Tổ quốc, ngăn chặn từ xa mọi sự dòm ngó, tạo sự xâm lược của nhà Nguyên.“ Tuy nhiên, sau khi nhà Nguyên diệt Nam Tống (1279), Đại Việt càng đứng trước nguy cơ bị xâm lăng từ đế quốc khổng lồ này.

Mùa đông, ngày 22 tháng 10 năm 1278, sau một năm Thái Tông Thượng hoàng đế băng hà, Thánh Tông hoàng đế nhường ngôi cho con trai là Thái tử Trần Khâm, tức Trần Nhân Tông. Thánh Tông lên làm Thái thượng hoàng, với tôn hiệu là Quang Nghiêu Từ Hiếu Thái Thượng Hoàng Đế. Trên danh nghĩa là Thái thượng hoàng, nhưng Trần Thánh Tông vẫn tham gia việc triều chính.

Quan hệ hai bên giữa Đại Việt và Đại Nguyên căng thẳng và đến cuối năm 1284 thì chiến tranh bùng nổ. Thượng hoàng Thánh Tông cùng Nhân Tông tín nhiệm thân vương là Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn, phong làm Quốc công Tiết chế chỉ huy quân đội trong nước để chống Nguyên Mông. Trong hai lần Chiến tranh với Nguyên Mông lần 2 và lần 3, thắng lợi có vai trò đóng góp của Thượng hoàng Thánh Tông.

Năm 1289, sau khi chiến tranh kết thúc, Thượng hoàng lui về phủ Thiên Trường làm thơ. Các bài thơ thường được truyền lại là: “Hành cung Thiên Trường”, “Cung viên nhật hoài cực”.

Ngày 25 tháng 5, năm Trùng Hưng thứ 6 (1290), Thượng hoàng băng hà tại Nhân Thọ cung, hưởng thọ 51 tuổi. Miếu hiệu là Thánh Tông (聖宗), thụy hiệu là Hiến Thiên Thế Đạọ Huyền Công Thịnh Đức Nhân Minh Va7n Vũ Tuyên Hiếu hoàng đế . Ông được táng ở Dụ Lăng, phủ Long Hưng (Tiến Đức, Hưng Hà, Thái Bình ngày nay).

Ngày nay ở trung tâm thành phố Hà Nội có phố mang tên Trần Thánh Tông.

Vua Trần Thánh Tông  sùng đạo Phật, rất giỏi thơ văn, thường sáng tác thơ văn về thiền. Tác phẩm của Trần Thánh Tông có: Di hậu lục (Chép để lại cho đời sau), Cơ cầu lục (Chép việc nối dõi nghiệp nhà); Thiền tông liễu ngộ (Bài ca giác ngộ Thiền tông), Phóng ngưu (Thả trâu), Trần Thánh Tông thi tập (Tập thơ Trần Thánh Tông), Chỉ giá minh (Bài minh về sự cung kính)…Và một số thư từ ngoại giao, nhưng tất cả đều đã thất lạc, chỉ còn lại 6 bài thơ được chép trong Việt âm thi tập (5 bài) và Đại Việt sử ký toàn thư (1 bài) mà chúng tôi sẽ chép bổ sung vào cuối bài này.

Thơ Trần Thánh Tông  giàu chất trữ tình, kết hợp nhuần nhị giữa tinh thần tự hào về đất nước của người chiến thắng, với tình yêu cuộc sống yên vui, thanh bình, và phong độ ung dung, phóng khoáng của một người biết tự tin, lạc quan. Trong thơ, ông đã xen nhịp ba của thơ dân tộc với nhịp bốn quen thuộc của thơ Đường, tạo nên một nét mới về nhịp điệu thơ và về thơ miêu tả thiên nhiên.

Trong sách Thơ văn Lý Trần, NXB Khoa học xã hội, 1977, có bài thơ Chân tâm chi dụng của Trần Thánh Tông:

<Xem tiếp >>

  Dạy và học 30 tháng 12(30-12-2021)


DẠY VÀ HỌC 30 THÁNG 12
Hoàng Kim
CNM365 Tình yêu cuộc sốngBản Giốc và Ka Long; Sắn Phú Yên giải pháp phát triển bền  vững; Ngày Hạnh Phúc của em; Một niềm tin thắp lửa. Quảng Tây nay và xưa; Người vịn trời chấp sói; Nguyễn Hàm Ninh Thầy Vua; Hoàng ThànhDi sản thế giới tại Việt Nam, Trăng rằm vui chơi giăng; Giống khoai lang Việt Nam; Ngày 30 tháng 12 năm 1075 Khâm Châu thất thủ trong Chiến dịch đánh Tống 1075 -1076 của quân Đại Việt. Chiến dịch đánh Tống do tướng nhà Lý là Lý Thường Kiêt phát động nhằm tấn công quân Tống ở 3 châu Ung Khâm Liêm dọc theo biên giới Tống Việt. Hoàn cảnh lịch sử thời ấy sau năm 1010 Lý Công Uẩn lập ra nhà Lý trải 3 triều vua Lý Thái Tổ, Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông nước Đại Việt phát triển ổn định và khá vững mạnh đến năm 1072, vua Lý Thánh Tông qua đời, vua Lý Nhân Tông là thái tử Càn Đức 7 tuổi lên thay, thái phi Ỷ Lan nhiếp chính, được sự phò tá của Lý Thường Kiệt và Lý Đạo Thành. Nhà Tống ở phương bắc thành lập năm 960 sau thời hậu Đường và thời Ngũ Đại Thập Quốc phải vất vả đối phó với nước Liêu của người Khiết Đan ở phương Bắc, qua thời Tống Thái Tông, nạn cát cứ Thập quốc đã dẹp được nhưng nguy cơ nước Liêu luôn tiềm ẩn với nhà Tống. Đến thời Tống Nhân Tông lại thêm sự uy hiếp của nước Tây Hạ người Đảng Hạng. Nhà Tổng bị mất nhiều phần lãnh thổ cho nước Liêu và nước Tây Hạ, lại phải tốn nhiều của cải và cống phẩm để giữ được hòa bình. Tể tướng Vương An Thạch đã chủ trương biến pháp cải cách bên trong và tiến đánh các nước phía nam Trung Quốc để tìm kiếm một thắng lợi tinh thần giải tỏa các căng thẳng của nhà Tống. Quân Tống tập hợp khoảng 10 vạn quân luyện tập ở các căn cứ Ung Khâm Liêm là Quảng Tây và Quảng Đông ngày nay còn chờ thêm 45 ngàn cấm binh thiện chiến ở phương bắc để khởi sự. Thái úy Đại Việt là Lý Thường Kiệt chủ trương “tiên phát chế nhân” Ngồi yên đợi giặc sao bằng đánh trước để bẻ gãy mũi nhọn của nó. Ông quyết định mở trận tiến công quy mô lớn sang đất Tống ; Ngày 30 tháng 12 năm 1408, Chiến tranh Minh -Việt: Quân Hậu Trần giành thắng lợi trước quân Minh trong Trận Bô Cô tại Nam Định ngày nay. Ngày 30 tháng 12 năm 1808 tức ngày 14 tháng 11 năm Mậu Thìn là ngày sinh của Nguyễn Hàm Ninh người Thầy của vua  (Nguyễn Phúc Miên Tông Thiệu Trị năm 1841 nối ngôi vua cha Minh Mệnh) . Nguyễn Hàm Ninh là một danh sĩ tinh hoa trong lịch sử Việt Nam ; Bài chọn lọc ngày 30 tháng 12: Bản Giốc và Ka Long; Sắn Phú Yên giải pháp phát triển bền  vững; Ngày Hạnh Phúc của em; Một niềm tin thắp lửa. Quảng Tây nay và xưa; Người vịn trời chấp sói; Nguyễn Hàm Ninh Thầy Vua; Hoàng ThànhDi sản thế giới tại Việt Nam, Trăng rằm vui chơi giăng; Giống khoai lang Việt Nam;Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.comhttp://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlong và xem tiếp: https://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-30-thang-12

SẮN PHÚ YÊN GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
TS. Nguyễn Thị Trúc Mai, TS. Hoàng Kim, TS. Hoàng Long

Báo cáo Phú Yên 28 12 2021 Hội nghị “Giới thiệu về các công nghệ trong sản xuất Nông Lâm Thủy sản”, tài liệu hội nghị và bài tham luận tại Phú Yên 31 12 2021 “Hội nghị Tổng kết hoạt động khoa học và công nghệ giai đoạn 2016- 2020, định hướng phát triển ứng dụng KHCN & ĐMST giai đoạn 2021-2025” UBND Tỉnh Phú Yên,

Bài học Cây Lương Thực (đọc thêm ngoài bài giảng) đôc tiếp bài “Sắn Phú Yên giải pháp phát triển bền vững” tại đây http://hoangkimlong.wordpress.com/category/bao-ton-va-phat-trien-san/

CÂY LƯƠNG THỰC VIỆT NAM
Hoàng Kim, Hoàng Long (chủ biên) và đồng sự
http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlong

#CLTVN
Bảo tồn và phát triển sắn
Cách mạng sắn Việt Nam
Chọn giống sắn Việt Nam
Chọn giống sắn kháng CMD
Bạch Mai sắn Tây Nguyên
Giống sắn KM419 và KM440
Mười kỹ thuật thâm canh sắn
Sắn Việt bảo tồn phát triển
Sắn Việt Nam ngày nay
Vietnamese cassava today
Sắn Việt Lúa Siêu Xanh
Sắn Việt Nam bài học quý
Sắn Việt Nam sách chọn
Sắn Việt Nam và Howeler
Sắn Việt Nam và Kawano
Sắn Việt và Sắn Thái
Quản lý bền vững sắn châu Á
Cassava and Vietnam: Now and Then

Lúa siêu xanh Việt Nam
Giống lúa siêu xanh GSR65
Giống lúa siêu xanh GSR90
Gạo Việt và thương hiệu
Hồ Quang Cua gạo ST
Cơm Niêu Vàng Gạo Đông A
Con đường lúa gạo Việt
Chuyện cô Trâm lúa lai
Chuyện thầy Hoan lúa lai
Lúa C4 và lúa cao cây
Lúa sắn Cămpuchia và Lào
Lúa sắn Việt Châu Phi
Lúa Việt tới Châu Mỹ

Giống ngô lai VN 25-99
Giống lạc HL25 Việt Ấn


Giống khoai lang Việt Nam
Giống khoai lang HL518
Giống khoai lang HL491
Giống khoai Hoàng Long
Giống khoai lang HL4
Giống khoai Bí Đà Lạt

Việt Nam con đường xanh
Việt Nam tổ quốc tôi
Vườn Quốc gia Việt Nam
Nông nghiệp công nghệ cao
Nông nghiệp sinh thái Việt
Nông nghiệp Việt trăm năm
IAS đường tới trăm năm
Viện Lúa Sao Thần Nông
Hoàng Thành đến Trúc Lâm
Ngày Hạnh Phúc của em
Có một ngày như thế

Thầy bạn là lộc xuân
Thầy bạn trong đời tôi
Sóc Trăng Lương Định Của
Thầy Quyền thâm canh lúa
Borlaug và Hemingway
Thầy Luật lúa OMCS OM
Thầy Tuấn kinh tế hộ
Thầy Tuấn trong lòng tôi
Thầy Vũ trong lòng tôi
Thầy lúa xuân Việt Nam
Thầy Ngoạn Hồ Núi Cốc
Thầy bạn Vĩ Dạ xưa
Thầy Dương Thanh Liêm
Thầy Hiếu Đêm Giáng Sinh
Phạm Trung Nghĩa Viện Lúa
Phạm Quang Khánh Hoa Đất
Phạm Văn Bên Cỏ May

24 tiết khí nông lịch
Nông lịch tiết Lập Xuân
Nông lịch tiết Vũ Thủy
Nông lịch tiết Kinh Trập
Nông lịch tiết Xuân Phân
Nông lịch tiết Thanh Minh
Nông lịch tiết Cốc vũ
Nông lịch tiết Lập Hạ
Nông lịch tiết Tiểu Mãn
Nông lịch tiết Mang Chủng
Nông lịch tiết Hạ Chí
Nông lịch tiết Tiểu Thử
Nông lịch tiết Đại Thử
Nông lịch tiết Lập Thu
Nông lịch Tiết Xử Thử
Nông lịch tiết Bạch Lộ
Nông lịch tiết Thu Phân
Nông lịch tiết Hàn Lộ
Nông lịch tiết Sương Giáng
Nông lịch tiết Lập Đông
Nông lịch tiết Tiểu tuyết
Nông lịch tiết Đại tuyết
Nông lịch tiết giữa Đông
Nông lịch Tiết Tiểu Hàn
Nông lịch tiết Đại Hàn

Food Crops Ngọc Phương Nam
Nhà sách Hoàng Gia

Video Cây Lương thực chọn lọc :

Cây Lương thực Việt NamChuyển đổi số nông nghiệp, Học không bao giờ muộnCách mạng sắn Việt Namhttps://youtu.be/81aJ5-cGp28; Mười kỹ thuật thâm canh sắn : Cassava in Vietnam Save and Grow 1Daklak; Cassava in Vietnam: Save and Grow 2Daklak; Cassava in Vietnam: Save and Grow 3Daklak; Giống sắn KM410 và KM440 ở Phú Yên https://youtu.be/XDM6i8vLHcI; Giống sắn KM419, KM440 ở Đăk Lăk https://youtu.be/EVz0lIJv2N4; Giống sắn KM419, KM440 ở Tây Ninh https://youtu.be/XMHEa-KewEk; https://youtu.be/kjWwyW0hkbU; https://youtu.be/9mZHm08MskE; Trồng sắn KM419, KM98-5, KM98-1 ở Căm pu chia https://youtu.be/TpTIxv9LaFQ; Ngăn chặn lây lan CWBD bệnh chổi rồng ở Căm pu chia https://youtu.be/0gNY0KZ2nyY; Trồng khoai lang ở Hàn Quốc https://youtu.be/J_6xW3j47Sw; Trồng lúa đặc sản ở Trung Quốc https://youtu.be/rJSZfrJFluw; Trồng khoai lang tím ở Trung Quốc https://youtu.be/0CHOG3r64xs;Trồng và chế biến khoai tây ở Trung Quốc https://youtu.be/0gNY0KZ2nyYv; Làm măng ngọt giá cao ở Trung Quốc https://youtu.be/i1oFFqFMlvI; Nghệ thuật làm vườn “The life of okra and bamboo fence” https://youtu.be/kPIzBRPezY4 Bảy điều trước tiên của người Trung Quốc: Củi, gạo, dầu, muối, tương, giấm, trà | Lý Tử Thất https://youtu.be/u-xS-dkz3a0

Bài viết liên quan (Bộ môn Cây Lương thực Rau Hoa Quả)

GIỐNG SẮN KM440 TÂY NINH
Hoàng Kim, Nguyễn Thị Trúc Mai, Hoàng Long

Bảo tồn và phát triển sắn; Tin nổi bật quan tâm

#quantv#dangvanquan#CLTVN Giống sắn KM440 Tây Ninh (Cassava variety KM440 Tay Ninh), https://youtu.be/9mZHm08MskE, nông dân thường gọi là “mì tai trắng”, để phân biệt với Giống sắn chủ lực KM419 (Cassava popular variety KM419), nông dân thường gọi là “mì tai đỏ”, và Giống sắn KM94 (Cassava variety KM94), nông dân thường gọi là “mì KUC đọt tím” là giống sắn MKUC28-77-3 = KU50= KM94 được khảo nghiệm sản xuất rộng rải tại Tây Ninh năm 1994 và Bộ Nông nghiệp PTNT Việt Nam công nhận giống tiến bộ kỹ thuật đặc cách năm 1995 xem thêm https://kimyoutube.blogspot.com/2021/12/giong-san-km440-tay-ninh.html

Bản Giốc và Ka Long

BẢN GIỐC VÀ KA LONG
Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long và Hoàng Kim

Thác Bản Giốc và sông KaLong là hai địa danh lịch sử văn hóa đặc biệt nổi tiếng Việt Trung. Thác Bản Giốc là thác nước hùng vĩ đẹp nhất Việt Nam tại xã Ðàm Thủy, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng. Sông Ka Long (tên gọi Việt) hoặc Sông Bắc Luân (tên gọi Trung) là sông chảy ở vùng biên giới giữa thành phố Móng Cái tỉnh Quảng Ninh, Việt Nam và thành phố Đông Hưng thuộc địa cấp thị Phòng Thành Cảng, Khu tự trị dân tộc Choang tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc. Tuy nhiên theo các bản đồ của Việt Nam thì quan niệm về dòng chảy của sông Ka Long và sông Bắc Luân không hoàn toàn trùng khớp với quan niệm về sông Bắc Luân của Trung Quốc. Thác Bản Giốc và sông KaLong là nơi lưu dấu các câu chuyên lịch sử và huyền thoại mà tư liệu này là điểm nhấn để quay lại đọc và suy ngẫm.

“Một thác nước tự nhiên, đẹp hùng vĩ bậc nhất thế giới nằm ở giữa ranh giới hai quốc gia, chứa đựng trong đó nhiều tiềm năng tài nguyên về thủy điện, du lịch. Một khu vực cửa sông tàu thuyền hai bên đi lại dễ dàng, giao thương thuận lợi. Tất cả những tiềm năng này đang chờ đợi sự đầu tư, hợp tác cùng khai thác” báo điện tử VOV ngày 27 tháng 11 năm 2015, bình luận.

Sông Ka Long và sông Bắc Luân

Sông Ka Long theo bản đồ của Việt Nam xuất bản, bắt nguồn từ rìa bắc xã Quảng Đức, Hải Hà 21°36′36″B 107°41′2″Đ, phía tây cửa khẩu Bắc Phong Sinh cỡ 5 km, chảy uốn lượn về hướng đông đông bắc. Đoạn sông này dài cỡ 16 km. Sông KaLong đến “bãi Chắn Coóng Pha” ở bản Thán Phún xã Hải Sơn, Móng Cái 21°39′34″B 107°48′24″Đ, thì hợp lưu với Sông Bắc Luân bên Trung Quốc và đổi hướng chảy về đông, sau đó đông nam đến nội thị của thành phố Móng Cái. Toàn bộ đoạn sông nói trên là ranh giới tự nhiên cho đường biên giới Việt – Trung. Sông Kalong đến ranh giới phường Ka Long và Trần Phú ở thành phố Móng Cái thì sông chia thành hai nhánh 21°32′13″B 107°57′58″Đ: 1) Dòng Ka Long chảy trong đất Việt theo hướng Nam xuyên qua thành phố Móng Cái ra biển ở nơi giáp ranh giữa xã Hải Xuân và xã Vạn Ninh. 2) Chi lưu là dòng sông Bắc Luân chảy theo hướng đông, tiếp tục là đường biên giới Việt – Trung, đi qua rìa phía đông bắc phường Hải Hòa, dọc theo rạch Tục Lãm và đổ ra biển Đông ở cửa Bắc Luân. Sông Bắc Luân (Bei Lun He, Bắc Luân hà) phía Trung Quốc thì bắt nguồn từ núi Thập Vạn Đại Sơn 21°45′3″B 107°45′31″Đ ở Phòng Thành, Trung Quốc, chảy theo hướng đông nam tới vùng “bãi Chắn Coóng Pha”. Từ đây sông là ranh giới tự nhiên cho đường biên giới Việt – Trung đến cửa Bắc Luân. Sông có tổng chiều dài 109 km, trong đó đoạn tạo thành biên giới Việt Nam-Trung Quốc là 60 km.

Sông Ka Long là sông Bắc Luân Việt Nam phần chảy trong lãnh thổ Việt Nam và  biên giới Việt Trung. Dòng sông này cũng có chốn hợp lưu và có một phần chảy ở nước ngoài là sông Bắc Luân. Câu chuyện này cũng giống như dòng sông Sesan với dòng sông Mekong, đều có chốn hợp lưu, có một phần ở nước ngoài, và có nơi tự do chảy toàn trong lãnh thổ Việt Nam. Từ Mekong nhớ Neva,  năm trước khi thăm lại Srepok, điểm hợp lưu quan trọng nhất của sông Mekong ở ngã ba Đông Dương, trong lần chuyển giao tiến bộ kỹ thuật canh tác sắn Tây Nguyên,  tôi liên tưởng và suy ngẫm về các dòng sông đất nước. Nay sông Kalong và sông Bắc Luân cũng là một câu chuyên tương tự.

Wikipedia tiếng Việt trích dẫn tư liệu Đại Nam nhất thống chí chépː “Sông Ninh Dương ở cách châu Vạn Ninh 1 dặm về phía tây. Nguồn (của sông này) từ các xã Thượng Lai và Mông Sơn tổng Bát Trang chảy về đông 37 dặm ven theo địa giới nước Thanh (đến ngã ba). Rồi chuyển (dòng) chảy sang phía đông 7 dặm, đổ ra cửa Lạch. Một nhánh chảy về phía nam 5 dặm đến xã Ninh Dương, lại chia làm 2 chiː một chi chảy về phía đông làm sông Trà Cổ, một chi chảy về tây nam 1 dặm đến đông nam núi Hữu Hàn chảy 10 dặm đổ ra cửa Đại… Ải Thác Mang ở xã Vạn Xuân, cách châu Vạn Ninh 2 dặm về phía bắc, giáp đồn phủ Đông Hưng của nước Thanh. Phàm hai nước có công văn đều do ải này giao đệ. (Đường bộ) đi đến tỉnh thành mất 8 ngày“.


Khu vực cửa sông Bắc Luân năm 1888. Công ước năm 1887 giữa Pháp và nhà Thanh lấy cửa sông này làm đường biên giới. Sông Palong nay bắc qua nhánh Ka Long chảy trong thành phố Móng Cái có 2 cầu là cầu Ka Long và cầu Hòa Bình, bắc qua nhánh Bắc Luân chảy dọc biên giới hiện có cầu Bắc Luân nối hai cửa khẩu quốc tế Móng Cái của Việt Nam và cửa khẩu Bắc Luân của Trung Quốc.


Ngày 13/09/2017 hai nước đã cùng khánh thành cầu Bắc Luân 2 Việt – Trung, là cây cầu thứ 2 nối giữa 2 thành phố cũng như 2 quốc gia, cũng là cây cầu dạng vòm lớn nhất Việt Nam. Đi qua cầu Bắc Luân 2 về đêm nhớ về Hoành Mô, Tiên Yên,  Móng Cái kỷ niệm một thời của thuở xưa ‘
Qua sông Thương gửi về bến nhớ‘ với bao kỷ niệm.

Thác Bản Giốc

Thác Bản Giốc là thác nước đẹp hiếm thấy tại xã Ðàm Thủy, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng, trên các trang mạng Trung Quốc gọi là cặp thác Đức Thiên – Bản Ước là một nhóm thác nước nằm trên sông Quây Sơn tại biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc. Nếu nhìn từ phía dưới chân thác, phần thác bên trái và nửa phía tây của thác bên phải thuộc chủ quyền của Việt Nam tại xã Đàm Thủy, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng; nửa phía đông của thác bên phải thuộc chủ quyền của Trung Quốc tại thôn Đức Thiên, trấn Thạc Long, huyện Đại Tân, thành phố Sùng Tả của khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây. Thác nước này cách hXem tiếp >>

  Dạy và học 29 tháng 12(29-12-2021)


DẠY VÀ HỌC 29 THÁNG 12
Hoàng Kim
CNM365 Tình yêu cuộc sốngHoàng ThànhDi sản thế giới tại Việt Nam, Thung dung chào ngày mới; Thanh nhàn vui tháng năm; Trăng rằm vui chơi giăng; Giống khoai lang Việt Nam; IAS đường tới trăm năm; Sóc Trăng Lương Định Của; Tagore Thánh sư Ấn Độ; Quảng Bình đất Mẹ ơn Người; Đồng xuân lưu dấu hiền; Vạn Xuân nơi An Hải; Ngày Hạnh Phúc của em; Một niềm tin thắp lửa. Ngày 29 tháng 12 năm 1427, Sau Hội thề Đông Quan tại khu trung tâm Hoàng Thành Thăng Long,  thủ đô Hà Nội ngày này, nước Đại Việt đã lập lại hòa bình sau 20 năm bị triều Minh đô hộ. Tổng binh triều Minh là Vương Thông dẫn bộ binh rút khỏi An Nam ngày 12 tháng 12 năm Đinh Mùi. Ngày 29 tháng 12 năm 1911, Tôn Trung Sơn trở thành tổng thống lâm thời của Trung Hoa Dân Quốc, ông chính thức nhậm chức vào ngày 1 tháng 1 năm 1912. Ngày 29 tháng 12 năm 1845, Theo thuyết vận mệnh hiển nhiên, Hoa Kỳ sáp nhập Cộng hòa Texas thành tiểu bang thứ 28 của Liên bang; Bài chọn lọc 29 tháng 12: Hoàng ThànhDi sản thế giới tại Việt Nam, Trăng rằm vui chơi giăng; Giống khoai lang Việt Nam; IAS đường tới trăm năm; Sóc Trăng Lương Định Của; Tagore Thánh sư Ấn Độ; Quảng Bình đất Mẹ ơn Người; Đồng xuân lưu dấu hiền; Vạn Xuân nơi An Hải; Ngày Hạnh Phúc của em; Một niềm tin thắp lửa Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.comhttp://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlong và: Ky su Hoang Thanh Thang Longhttps://youtu.be/o8t6aG_hANk; và https://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-29-thang-12

HOÀNG THÀNH
Ngọc Phương Nam
Hoàng Kim

Quên tên cây
làm thuyền
Tận cùng nỗi cô đơn
– độc mộc!

Khoét hết ruột
Chỉ để một lần ngược thác
bất chấp đời
lênh đênh…‘ (*)

Hứng mật đời
thành thơ
Việc nghìn năm hữu lý
trạng Trình

Đến Trúc Lâm
Đạt năm việc lớn Hoàng Thành (**)
Đất trời xanh
Yên Tử …

(**) Hoàng Thành 30 Hoàng Diệu Võ Miếu Việt Nam

MỘT VÙNG TRỜI NHÂN VĂN
Hoàng Kim

Gương trời lồng lộng ban mai
Thung dung ta đến vùng trời nhân văn
Thịnh suy thế nước ngàn năm
Anh hùng là kẻ vì dân vì đời.

Bên lề chính sử dạo chơi
Rùa ơi thương Cụ biết nơi chọn về.
Kỳ Lân mộ, Tháp Rùa bia
Bia đời, bia miệng khắc ghi lòng người.

Tìm nơi tỉnh lặng ta ngồi
Tình yêu cuộc sống là nơi thư nhàn
Câu thơ lưu lạc trần gian.
Hoàng Thành Cổ Kiếm Hồ Gươm gọi về. https://www.facebook.com/v2.3/plugins/video.php?allowfullscreen=true&app_id=249643311490&channel=https%3A%2F%2Fstaticxx.facebook.com%2Fx%2Fconnect%2Fxd_arbiter%2F%3Fversion%3D46%23cb%3Dfafdbb4219042%26domain%3Dcnm365.wordpress.com%26is_canvas%3Dfalse%26origin%3Dhttps%253A%252F%252Fcnm365.wordpress.com%252Ffb17e40023c4a2%26relation%3Dparent.parent&container_width=584&href=https%3A%2F%2Fwww.facebook.com%2F100005729551702%2Fvideos%2Fpcb.1649820831885553%2F1649820678552235&locale=vi_VN&sdk=joey HOÀNG THÀNH https://www.facebook.com/…/pcb…/1649820678552235
Thông tin tại
http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlong và: Ky su Hoang Thanh Thang Long https://youtu.be/o8t6aG_hANk; https://cnm365.wordpress.com/…/chao-ngay-moi-29-thang-12

DI SẢN THẾ GIỚI TẠI VIỆT NAM
Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim

Di sản thế giớilà danh hiệu cao quý và lâu đời nhất trong các danh hiệu của UNESCO. Di sản thế giới gồm ba loại hình di sản văn hóa thế giới, di sản thiên nhiên thế giới và di sản hỗn hợp văn hóa và thiên nhiên thế giới. Việt Nam hiện có 8 di sản được UNESCO công nhận di sản thế giới gồm 5 di sản văn hóa thế giới là Hoàng Thành Thăng Long,  cố đô Huế, Vịnh Hạ Long, Vườn Quốc gia Phong Nha Kẻ Bàng, Quần thể danh thắng Tràng An, Thánh địa Mỹ Sơn, phố cổ Hội An, Thành Nhà Hồ. Ngoài 8 di sản thế giới ở Việt Nam được UNESCO công nhận còn có 1 di sản thế giới Cao nguyên đá Đồng Văn công viên địa chất toàn cầu thuộc Vườn Quốc Gia ở Việt Nam với 11 di sản văn hóa thế giới phi vật thể và 6 di sản tư liệu. Tổng cộng có 26 di sản thế giới tại Việt Nam.

  1. HOÀNG THÀNH THĂNG LONG

Hoàng thành Thăng Long Hà Nội khu di tích Trung tâm được Ủy ban di sản thế giới (thuộc UNESCO) chính thức công nhận là di sản văn hóa thế giới ngày 31-07-2010 tại Hội nghị lần thứ 34, tổ chức tại thủ đô Brasilia của Braxin. Khu di tích Trung tâm Hoàng thành Thăng Long- Hà Nội nằm trong khu vực thuộc quận Ba Đình – Hà Nội với tổng diện tích là 18,395 ha. Trong đó bao gồm khu khảo cổ học được khai quật (ở số 18 đường Hoàng Diệu) và các di tích còn lưu giữ được trong khu di tích Thành cổ Hà Nội như: cột cờ Hà Nội, Đoan Môn, Điện Kính thiên, Hậu Lâu, Bắc Môn cùng phần tường bao và 8 cổng hành cung được xây dựng thời Nguyễn. Khu di tích Trung tâm Hoàng thành Thăng Long – Hà Nội được hình thành từ thời nhà Lý, từ sau những năm 1011 cùng với kinh thành Thăng Long. Kinh thành Thăng long được xây dựng theo mô hình “Tam Trùng Thành Quách”, bao gồm có 3 vòng thành: La thành hay còn gọi là Kinh thành bao quanh kinh đô men theo 3 con sông: sông Hồng, Tô Lịch và sông Kim Ngưu. Tiếp đến là Hoàng thành (vòng thành thứ 2) và trong cùng là Tử Cấm thành (vòng thành thứ 3). Trải qua hơn 10 thế kỷ với nhiều triều đại phong kiến cũng như bao biến cố thăng trầm trong lịch sử Việt Nam, Hoàng thành Thăng Long đã có nhiều sự thay đổi, song riêng khu vực Tử Cấm thành hầu như không thay đổi, chỉ có các kiến trúc bên trong là có sự tu sửa, xây dựng thêm. Vì vậy các di tích ở đây đã có mối liên hệ liên kết khá chặt chẽ tạo nên một tổng thể liên hoàn rất phức tạp nhưng rất phong phú và có sức hấp dẫn đặc biệt trong việc nghiên cứu về vấn đề quy hoạch đô thị và không gian kiến trúc tiếp nối giữa các triều đại trong lịch sử Việt Nam. Đây cũng chính là giá trị độc đáo nhất của khu di tích.

Hoàng thành Thăng Long là di sản văn hóa thế giới được UNESCO công nhận ngày 1/8/2010. Hoàng Thành Thăng Long là khu trung tâm của kinh đô Thăng Long do vua Lý Thái Tổ, vị hoàng đế đầu tiên của nhà Lý quyết định xây dựng. Đây quần thể di tích gắn với lịch sử kinh thành Thăng Long Đông Kinh và tỉnh thành Hà Nội, là công trình kiến trúc đồ sộ, được các triều vua xây dựng trong nhiều giai đoạn lịch sử và trở thành di tích quan trọng bậc nhất trong hệ thống các di tích Việt Nam.

Hoàng thành Thăng Long bắt đầu từ thời kì tiền Thăng Long (An Nam đô hộ phủ thế kỷ VII) qua thời Đinh – Tiền Lê, phát triển mạnh dưới thời Lý, Trần, Lê và thành Hà Nội dưới triều Nguyễn. Kinh đô Thăng Long suốt các triều đại Lý Trần là trung tâm văn hóa, giáo dục và buôn bán của cả nước. Thời Lê Quý Ly cướp ngôi nhà Trần đã thiên đô về Thanh Hóa lấy tên là Tây Đô và đổi Thăng Long thành Đông Đô. Năm 1406, nhà Minh đưa quân xâm lược Đại Ngu, Thăng Long bị chiếm đóng và đổi tên thành Đông Quan. Thời kỳ Bắc thuộc thứ tư bắt đầu từ năm 1407 kéo dài tới năm 1428.

Sau chiến thắng của khởi nghĩa Lam Sơn, Lê Lợi thành lập nhà Lê và Đông Đô trở  lại vị thế kinh thành. Hoàng thành Thăng Long dưới thời nhà Lê tiếp tục được mở rộng. Năm 1430, Đông Đô được đổi tên thành Đông Kinh, đến năm 1466 được gọi là phủ Trung Đô. Bên cạnh, khu vực dân cư được chia thành hai huyện Vĩnh Xương và Quảng Đức, mỗi huyện 18 phường. Phủ doãn là chức đứng đầu bộ máy hành chính thời ấy. xem tiếp …

Trăng rằm

TRĂNG RẰM VUI CHƠI GIĂNG
Hoàng Kim

Trăng rằm đêm Trung Thu
Đêm Vu Lan mờ tỏ
Trăng rằm khuya lồng lộng giữa trời
Thăm thẳm một lời Người nói …

Mẹ cũ như ngôi nhà cũ
Chiếc áo mẹ mang bạc phếch tháng năm
Cha cũ như con thuyền cũ
Dòng sông quê hương thao thiết đời con

Anh chị cũ tình vẹn nghĩa
Trọn đời thương nhau lồng lộng trăng rằm
Em tôi hồn quê dáng cũ
Con cháu niềm vui thơm thảo tháng năm

Thầy bạn lộc xuân đầy đặn
Bài ca thời gian ngời ngợi trăng rằm.

Thắp đèn lên đi em
Đêm Vu Lan gặp bạn
Thương nhớ bài thơ cũ
Chuyện đời không nỡ quên …

Ngày mới và đêm Vu Lan
Vầng trăng Sao Hôm Sao Kim thân thiết.
Loanh quanh tìm tòi cái mới
Đêm Vu Lan thức về lại chính mình.

Đêm Vu Lan nhớ mùa thu đi học
Nhớ ngọn đèn mờ tỏ giấc mơ xưa
Thương con vạc gọi sao mai mọc sớm
Vầng trăng khuya thăm thẳm giữa tâm hồn

Thắp đèn lên đi em (1)
Gốc mai vàng trước ngõ (2)
Tháng bảy mưa ngâu (3)
Đến chốn thung dung (4)

Trăng rằm đêm Trung Thu (5)
Một vùng thiêng tỉnh thức (6)
Quảng Bình đất Mẹ nhớ ơn Người (7)
Về lại mái nhà xưa (8)

Đối thoại với Thiền sư (9)
Giấc mơ hạnh phúc (10)
Ngày mới yêu thương (11)
Hoa Đất (12) Hoa Người (13)

Bài đồng dao huyền thoại (14)
Bài ca Trường Quảng Trạch (15)
Em ơi em can đảm bước chân lên (16)
Bài thơ không quên (17)
Bài ca yêu thương (18)

Đêm Vu Lan nhớ bài thơ đi học
Thấm nhọc nhằn củ sắn củ khoai
Nhớ tay chị gối đầu khi mẹ mất
Thương lời cha căn dặn học làm người

*

Em đi chơi cùng Mẹ
Trăng rằm vui chơi giăng
Thảo thơm vui đầy đặn
Ân tình cùng nước non.

Trăng khuyết rồi lại tròn
An nhiên cùng năm tháng
Ơi vầng trăng cổ tích
Soi sáng sân nhà em.

Đêm nay là đêm nao?
Ban mai vừa ló dạng
Trăng rằm soi bóng nắng
Bạch Ngọc trời phương em.

*

Trăng sáng lung linh trăng sáng quá
Đất trời lồng lộng một màu trăng
Dẫu đêm khuya vắng người quên ngắm
Trăng vẫn là trăng, trăng vẫn rằm.

*

Trăng rằm đường sáng dạo chơi giăng,
Nhớ Bác đôi câu hỏi chị Hằng:
“Thế nước thịnh suy sao đoán định?
Lòng dân tan hợp biết hay chăng?
Vành đai thế biến nhiều mưu hiểm,
Con đường lực chuyển lắm lăng nhăng?
Dân Nam Tiếng Việt nhiều gian khó
Hưng thịnh làm sao hỡi chị Hằng?”.

*
“Bác Hồ thơ ‘Chơi giăng’ đó ông
Vầng trăng cổ tích sáng non sông,
Tâm sáng đức cao chăm việc tốt
Chí bền trung hiếu quyết thắng không?
Nội loạn dẹp tan loài phản quốc
Ngoại xâm khôn khéo giữ tương đồng.
Khó dẫu vạn lần dân cũng vượt.
Lòng dân thế nước chắc thành công”.

Nguyên vận thơ Bác Hồ
CHƠI GIĂNG
Hồ Chí Minh


Gặp tuần trăng sáng, dạo chơi giăng,
Sẵn nhắn vài câu hỏi chị Hằng:
“Non nước tơi bời sao vậy nhỉ?
Nhân dân cực khổ biết hay chăng?
Khi nào kéo được quân anh dũng,
Để dẹp cho tàn bọn nhố nhăng?
Nam Việt bao giờ thì giải phóng
Nói cho nghe thử, hỡi cô Hằng?”.

*
Nguyệt rằng: “Tôi kính trả lời ông:
Tôi đã từng soi khắp núi sông,
Muốn biết tự do chầy hay chóng,
Thì xem tổ chức khắp hay không.
Nước nhà giành lại nhờ tài sắt,
Sự nghiệp làm nên bởi chữ đồng.
Tổ chức, tuyên truyền càng rộng rãi,
Tức là cách mệnh chóng thành công”.

Báo Việt Nam độc lập, số 135, ngày 21-8-1942. Nguồn: Hồ Chí Minh toàn tập (tập 3), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000

GIỐNG KHOAI LANG VIỆT NAM
Hoàng Long, Hoàng Kim, Nguyễn Văn Phu


Giống khoai lang Việt Nam phổ biến HL518 NHẬT ĐỎ, HL491 NHẬT TÍM, HƯNG LỘC 4, HOÀNG LONG, BÍ ĐÀ LẠT, Mười kỹ thuật canh tác khoai lang, liên kết sản xuất chế biến tiêu thu hiệu quả

FOODCROPS. GIỐNG KHOAI LANG VIỆT NAM. Nguồn gen giống khoai lang trên thế giới. Nguồn gen giống khoai lang ở Việt Nam. Nguồn gốc và đặc tính nông sinh họcchủ yếu của một số giống khoai lang phổ biến trong sản xuất hiện nay: Giống phổ biến:  HL518 (Nhật đỏ), HL491 (Nhật tím),  Hoàng Long, Hưng Lộc 4, Bí Đà Lạt; Giống bản địa quý, giống tạo thành và giống triển vọng: Chiêm Dâu,  khoai Sữa, Khoai Gạo, Trùi Sa, Trà Đõa, Dương Ngọc, Bí  Đế,Tự Nhiên, Cực nhanh, KB1, K51,K1, K2, K3, K4, K7, K8, VX37-1, KB1; Kokey 14 (Nhật vàng), Murasa Kimasari (Nhật tím 1), HL284 (Nhật trắng), HL565, HL524, KLC3  …

Nguồn gen giống khoai lang trên thế giới

Cây khoai lang (Ipomoea batatas (L.) Lam.) là cây lương thực thực phẩm thích hợp với tất cả các vùng sinh thái nông nghiệp tại Việt Nam có giá trị dinh dưỡng và giá trị kinh tế cao, tùy thuộc vào chuỗi cung ứng giá trị khép kín từ giống tốt đến kỹ thuật trồng, liên kết sản xuất tiêu thụ hiệu quả. Khoai lang ngày nay trên thế giới, là cây lương thực đứng hàng thứ bảy sau lúa mì, lúa nước, ngô, khoai tây, lúa mạch, và sắn. Năm 2018, toàn thế giới có 118 nước trồng khoai lang trên tổng diện tích 8,06 triệu ha, trong đó châu Phi chiếm 57,07%, châu Á chiếm 36,72%, châu Mỹ chiếm 4,3%. Năng suất khoai lang bình quân của thế giới năm 2018 là 11,40 tấn/ha, trong đó năng suất  khoai lang bình quân của châu Á là 20,53 tấn/ha, châu Mỹ có năng suất bình quân 12,15 tấn/ha, châu Phi năng suất bình quân 5,65 tấn/ha.  Sản lượng khoai lang thế giới có xu hướng giảm từ 142,67 triệu tấn năm 2000, xuống còn 91,95 triệu tấn, năm 2018, lý do chính vì cạnh tranh cây trồng. Sản xuất chế biến tiêu thụ khoai lang chưa hiệu quả bằng sắn và một số chuổi cung ứng nông sản hiệu quả khác. Châu Á cung cấp sản lượng khoai lang khoảng 66,03%, châu Phi cung cấp sản lượng khoảng 28,28%.

Hầu hết những nước trồng nhiều khoai lang trên thế giới đều có bộ sưu tập nguồn gen giống khoai lang. Nguồn gen khoai lang lớn nhất toàn cầu là tại Trung tâm Khoai tây Quốc tế (Centro Internacional de la Papa – CIP) với tổng số 7007 mẫu giống khoai lang được duy trì từ năm 2005. Trong số này có 5.920 mẫu giống khoai lang trồng (Ipomoea batatas) và 1087 mẫu giống khoai lang loài hoang dại (Ipomoea trifida và các loài Ipomoea khác). Việc duy trì nguồn gen ở CIP được thực hiện trong ống nghiệm, trên đồng ruộng, bảo quản bằng hạt và được đánh giá theo tiêu chuẩn quốc tế. Khoai lang Trung Quốc có diện tích, sản lượng, năng suất cao, chịu lạnh nhưng chất lượng không ngon so với khoai lang của Nhật, Mỹ khi trồng ở Việt Nam. Khoai lang Mỹ nổi tiếng về chất lượng cao, phổ biến các giống khoai lang có ruột củ màu cam đậm, dẽo và có hương vị thơm để tiêu thụ tươi như một loại rau xanh cao cấp và dùng trong công nghiệp thực phẩm. Mỹ hiện đang tiếp tục thực hiện các nghiên cứu chọn giống khoai lang chất lượng cao giàu protein, vitamin A và có hương vị thơm; ứng dụng công nghệ gen, công nghệ tế bào trong tạo giống. Khoai lang Nhật cũng nổi tiếng về chất lượng cao với hướng chọn tạo giống khoai lang để sử dụng lá làm rau xanh, làm nước sinh tố và thực phẩm có màu tím hoặc màu cam đậm tự nhiên. Nhược điểm khoai lang Nhật, Mỹ, Trung Quốc  khi trồng ở Việt Nam là thời gian sinh trưởng hầu hết đều dài trên 115 ngàykhông thích hợp hiệu quả khi đưa vào các vụ trồng ở Việt Nam. Năm giống khoai lang phổ biến nhất Việt Nam hiện nay là HL518 Nhật đỏ, HL491 Nhật tím, Hoàng Long, Hưng Lộc 4, Bí Đà Lạt đều vận dụng nguồn gen quý của Nhật, Mỹ, Trung Quốc nhưng đều đã được Việt hóa, lai tạo, tuyển chọn, bồi dục theo định hướng và tiêu chuẩn giống khoai lang tốt Việt Nam (Hoàng Kim và đồng sự 2015, Nguyễn Thị Thủy, Hoàng Kim, Trần Công Khanh, Nguyễn Thị Sâm 1997)

Nguồn gen giống khoai lang ở Việt Nam

Nguồn gen giống khoai lang Việt Nam chủ yếu được thu thập, đánh giá và bảo tồn tại Trung tâm Tài nguyên Thực vật, thuộc Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam với 528 mẫu giống đã được tư liệu hoá (trong đó có 344 mẫu do Trung tâm Nghiên cứu Thực nghiệm Nông nghiệp Hưng Lộc chuyển đến) Viện Cây Lương thực và Cây Thực phẩm (FCRI) có 118 mẫu giống, Trung tâm Nghiên cứu Thực nghiệm Nông nghiệp Hưng Lộc năm 2009 có 78 mẫu giống.Trường Đại Học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh có 30 mẫu giống.

Tại các tỉnh phía Bắc, giống khoai lang trồng phổ biến là khoai Hoàng Long, với các giống khác có quy mô hẹp hơn gồm KB1, K51, Tự Nhiên, Chiêm Dâu, Từ năm 1981 đến nay, Viện Cây Lương thực Cây Thực phẩm (FCRI) và Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Việt Nam (VASI) đã tuyển chọn và giới thiệu  cho sản xuất 15 giống khoai lang tốt theo ba hướng chính: 1) Nhóm giống khoai lang năng suất củ tươi cao, chịu lạnh, ngắn ngày, thích hợp vụ đông, gồm K1, K2, K3, K4, K7, K8, VX37-1, Cực nhanh. Những giống này chủ yếu được nhập nội từ CIP, Philippines, Trung Quốc, Liên Xô (cũ) trong giai đoạn 1980-1986 và tuyển chọn để tăng vụ khoai lang đông. 2) Nhóm giống khoai lang năng suất củ cao, nhiều dây lá thích hợp chăn nuôi, gồm KL1, KL5, K51. Các giống này phát triển ở giai đoạn 1986-2000 trong chương trình hợp tác với CIP. 3) Nhóm giống khoai lang năng suất củ cao, phẩm chất ngon. gồm việc phục tráng và chọn lọc giống khoai lang Hoàng Long, Chiêm Dâu (Vũ Tuyên Hoàng, Mai Thạch Hoành 1986, 1992), Tự Nhiên (Trương Văn Hộ và ctv, 1999); tuyển chọn và phát triển giống khoai lang KB1 (Nguyễn Thế Yên, 2003). Hiện nay dân đang quan tâm các giống khoai đặc sản địa phương và khoai chất lượng cao.

Tại các tỉnh phía Nam các giống khoai lang hiên trồng phổ biến là HL518 (Nhật đỏ), HL491 (Nhật tím), HL4, Hoàng Long, Bí Đà Lạt. Những giống bản địa quý, giống tạo thành và nhập nội có triển vọng gồm  Murasa kimasari (Nhật tím 1) Kokey 14 (Nhật vàng), Chiêm Dâu, Trùi Sa,  Dương Ngọc, Tàu Nghẹn, Khoai Sữa, Khoai Gạo. Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh (NLU) và Trung tâm Nghiên cứu Thực nghiệm Nông nghiệp Hưng Lộc (HARC) từ năm 1981 đến nay đã tuyển chọn và giới thiệu cho sản xuất 7 giống khoai lang có năng suất củ cao, phẩm chất ngon, thích hợp tiêu thụ tươi gồm Hoàng Long, Chiêm Dâu, Gạo, Bí Đà Lạt (1981), HL4 (1987), HL491, HL518 (1997). Các giống khoai lang chất lượng cao có dạng củ đẹp thuôn láng, được thị trường ưa chuộng có HL518, HL491, Kokey 14, Murasa kimasari.  Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh những năm 2008 -2011 cũng đánh giá và tuyển chọn 24 giống khoai lang khảo nghiệm toàn cầu trong chương trình hợp tác với CIP và khảo sát các giống khoai lang nhiều dây lá, năng suất bột cao cho hướng chế biến cồn trong chương trình hợp tác với công ty Technova và công ty Toyota Nhật Bản (Hoàng Kim 2008).

Những giống khoai lang phẩm chất ngon được đánh giá và tuyển chọn trong đề tài “Thu thập, khảo sát, so sánh và phục tráng giống khoai lang tại huyện Xuân Lộc tỉnh Đồng Nai 2008-2010”. Đây là nội dung hợp tác giữa Sở Khoa học Công nghệ Đồng Nai, Viện Sinh học Nhiệt đới, Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh và Phòng Nông nghiệp Xuân Lôc. Kết quả đề tài là các giống khoai lang tốt HL518 Nhật đỏ, HL491 Nhật tím được phổ biến rộng rãi hơn trong sản xuất (Hoàng Kim, Trần Ngọc Thùy, Trịnh Việt Nga, Nguyễn Thị Ninh 2009).  Hai giống khoai lang HL518 (Nhật đỏ) và HL491 (Nhật tím) đã được trồng khá phổ biến và mang lại sự thay đổi căn bản về năng suất cao và chất lượng ngon cho sự canh tác khoai lang tại nhiều tỉnh của Việt Nam. Kỷ yếu 90 năm Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam 1925- 2015, trang 51, hình trên ghi rõ: Bảy giống khoai lang tốt được Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn công nhận giống ở các tỉnh phía Nam tiêu biểu nhất là ba giống HL518 (Nhật đỏ) HL491 (Nhật tím) và Hoàng Long. Giống HL518, HL491 hiện đã được trồng khá phổ biến và mang lại sự thay đổi căn bản về năng suất cao và chất lượng ngon cho sự canh tác khoai lang tại nhiều tỉnh của Việt Nam. Những tỉnh trồng hai giống khoai lang này nhiều là Vĩnh Long, Kiên Giang, Đà Lạt, Đăk Nông, Gia Lai, Đồng Nai và Sóc Trăng, … Tại Vĩnh Long, việc thay thế giống khoai lang địa phương Dương Ngọc, Tàu Nghẹn, Bí Đế bằng hai giống khoai lang HL518 (Nhật đỏ) và HL491 (Nhật tím) và ứng dụng các biện pháp kỹ thuật thâm canh thích hợp đã đưa sản lượng khoai lang Vĩnh Long năm 2000 từ diện tích khoai lang 2,5 ngàn ha, năng suất bình quân 18,4 tấn/ ha, sản lượng 46,2 ngàn tấn lên sản lượng khoai lang năm 2011 đạt 248,7 ngàn tấn, diện tích khoai lang 8,5 ngàn ha, năng suất bình quân 29,2 tấn/ ha (Tổng cục Thống kê 2014).

Nguồn gốc và đặc tính nông sinh học chủ yếu của một số giống khoai lang  

Giống khoai lang HL518 (Nhật đỏ)

Nguồn gốc giống: Giống khoai lang HL518 (Nhật đỏ) là giống khoai lang Việt Nam ưu tú có nguồn gốc từ tổ hợp lai Kokey 14 Nhật Bản polycross, tạo giống tại Việt Nam; giống do Trung tâm Nghiên cứu Thực nghiệm Nông nghiệp Hưng Lộc, Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam chọn tạo và giới thiệu (Nguyễn Thị Thủy, Hoàng Kim, Trần Công Khanh, Nguyễn Thị Sâm 1997 Giống khoai lang HL518 (Nhật đỏ) đã được Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn công nhận giống năm 1997; hiện trồng phổ biến trong sản xuất và bán nhiều ở các siêu thị.
HL518 được nhóm nghiên cứu Việt Nam tuyển chọn trong quần thể 800 hạt khoai lai Kokey 14 polycross nguồn gốc Nhật Bản nhập nội từ CIP vào Việt Nam do chuyên gia CIP là tiến sĩ Il Gin Mok quốc tịch Hàn Quốc. Sau đó Trung tâm Hưng Lộc đã chọn được mẫu giống khoai lang CIP92031 hội được nhiều đặc tính quý, đã sử dụng giống CIP92031 lai hữu tính (back cross) tự phối, tạo chọn được giống HL518. Chi tiết thông tin về tác giả và minh chứng  
Giống khoai lang ở Việt Nam http://www2.hcmuaf.edu.vn/contents.php?ids=9858&ur=hoangkim

Đặc tính giống: HL518 là giống khoai lang rất ngon. Thời gian sinh trưởng từ 95 đến 110 ngày. Năng suất củ tươi: 17-32 tấn/ha, tỷ lệ chất khô 27-30%. chất lượng củ luộc rất ngon, vỏ củ màu đỏ đậm, thịt củ màu cam đậm, dạng củ đều đẹp, dây xanh tím, nhiễm nhẹ sùng, hà và sâu đục dây. Các chợ và siêu thị trên toàn quốc đều có bán. Mười kỹ thuật canh tác khoai lang cần tuyển lại hệ củ theo bản tả kỹ thuật đã đăng ký, để đảm bảo chất lượng và năng suất.
Nguyễn Thị Thủy, Hoàng Kim, Trần Công Khanh, Nguyễn Thị Sâm 1997. Hai giống khoai lang mới HL518 và HL491. Tài liệu báo cáo công nhận hai giống khoai lang HL518 và HL419. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn. Hội nghị khoa học kỹ thuật nông nghiệp ở các tỉnh phía Nam tổ chức tại thành phố Hồ Chí Minh ngày 16-18/9/1997. 18 trang. Two new sweet potato varieties: HL 518 and HL 491. In: MARD Proc. Vietnam Agricultural Research Workshop held in Ho Chi Minh City, Vietnam, Sep 16- 18/1997. 18p.

Giống khoai lang HL491 (Nhật tím)

Giống khoai lang HL491 (Nhật tím) do Trung tâm Nghiên cứu Thực nghiệm Nông nghiệp Hưng Lộc chọn tạo và giới thiệu từ tổ hợp lai Murasa Kimasari polycross nguồn gốc Nhật Bản = CN76-2 CIP/AVRDC (Nguyễn Thị Thủy, Hoàng Kim, Trần Công Khanh, Nguyễn Thị Sâm 1997). Giống đã được Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn công nhận giống năm 1997, hiện phổ biến rộng rãi trong sản xuất và bán nhiều ở các siêu thị.

Đặc tính nông học chủ yếu: Thời gian sinh trưởng từ 95 đến 110 ngày. Năng suất củ tươi: 15-27 tấn/ha, tỷ lệ chất khô 27- 31%. chất lượng củ luộc khá, vỏ củ màu tía, thịt củ màu tím đậm, dạng củ đều đẹp, dây xanh tím, nhiễm nhẹ sùng, hà và sâu đục dây.

Giống khoai lang HOÀNG LONG

Nguồn gốc giống: Hoàng Long là giống khoai lang phổ biến ở Việt Nam. Nguồn gốc Trung Quốc nhập nội vào Việt Nam năm 1968. Giống do Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh tuyển chọn và giới thiệu (Hoàng Kim, Nguyễn Thị Thủy, 1981). Bộ Nông nghiệp và PTNT công nhận giống năm 1981(*).

Đặc tính giống: Thời gian sinh trưởng 85-95 ngày. Năng suất củ tươi 15 – 27 tấn/ ha, tỷ lệ chất khô 27-30%, chất lượng củ luộc khá, vỏ củ màu hồng sẫm, thịt củ màu vàng cam, dạng củ đều đẹp, dây xanh tím phủ luống gọn, mức độ nhiễm sùng và sâu đục dây trung bình

(*) Notes: xem thêm Hoàng Kim, Nguyễn Thị Thủy, 1981: Tiến bộ mới trong chọn giống khoai lang ở các tỉnh phía Nam Việt Nam. (Recent progress in Sweet Potato varietal improvement in South Vietnam. Báo cáo công nhận chính thức bốn giống khoai lang Hoàng Long, Chiêm Dâu, Gạo, Bí Đà Lạt. Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp Thực phẩm. Hội nghị khoa học kỹ thuật nông nghiệp các tỉnh phía Nam lần thứ nhất, thành phố Hồ Chí Minh, 9-11/5/1981. 33 trang MAFI (MARD), Proc. 1st Vietnam Agricultural Research Workshop held in Ho Chi Minh City, Vietnam, May 09-11/1981. 33 pages)  Khoai lang Hoàng Long có nguồn gốc tại Thái Sơn, Thái An, Sơn Đông, Trung Quốc do tổ chuyên gia Trung Quốc mang vào Việt Nam năm 1968 làm việc với các chuyên gia nông nghiệp Việt Nam Quách Ngọc Ân, Đinh Thế Lộc. Khoai lang Hoàng Long được  trồng đầu tiên tại chân núi Trường Sinh thuộc bản Ngọc, xã Cẩm Lương, huyện miền núi Cẩm Thủy và phát triển rộng nhất ở huyện Cẩm Thủy, tỉnh Thanh Hóa. Giống khoai lang Hoàng Long chọn lọc do Hoàng Kim, Nguyễn Thị Thủy Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh thu thập, tuyển chọn và giới thiệu công nhận giống năm 1981. Khoai Hoàng Long chọn lọc được tuyển chọn theo hướng năng suất cao phẩm chất ngon vỏ củ màu hồng sẫm, thịt củ màu vàng cam, dạng củ đều đẹp, chất lượng ngon, độ dẽo hơn độ ngọt Đây là giống khoai lang cao sản được trồng phổ biến nhất Việt Nam trong bốn mươi năm qua, nhiều nhất tại tỉnh Thanh Hóa. Giống khoai Hoàng Long tuyển chọn tại Việt Nam có chất lượng ngon hơn và ngắn ngày hơn so với giống gốc đầu tiên tại Trung Quốc.

Khoai lang Thái An, Sơn Đông Trung Quốc  (hình ảnh Hoàng Kim chụp ngày 26. 5. 2018 tại Thái An, Sơn Đông). Trung Quốc dường như đã có qui trình và máy sản xuất sấy dẻo khoai lang. Việt Nam những sản phẩm sấy dẻo khoai lang dạng này với chất lượng ngon tương xứng tiếc là hiện nay chúng tôi chưa nhìn thấy,.mà chỉ thấy dạng “sweet potatoes chips” nhiều hơn.

LƯU Ý KỸ THUẬT THÂM CANH KHOAI LANG

Việc ứng dụng giống khoai lang tốt có năng suất chất lượng cao và “Mười biện pháp kỹ thuật thâm canh khoai lang” đã mang lại nhiều lợi ích kinh tế cho nông dân.  Tuy vậy, năng suất, sản lượng, hàm lượng các chất trong củ khoai lang (% chất khô, tinh bột, vitamin, … ) là có sự sai khác rất rõ giữa các địa phương, vùng miền, tùy thuộc chủ yếu vào các yếu tố:  đặc điểm sinh thái khí hậu đất đai và mức độ thích hợp với các giống khoai lang khác nhau; trình độ kỹ thuật thâm canh của dân địa phương và điều kiện kinh tế xã hội liên quan đến sản xuất và tiêu thụ khoai lang; mô hình tổ chức sản xuất tiêu thụ khép kín theo VIETGAP và lợi thế so sánh của khoai lang tại nơi thực hiện.

Xem tiếp >>

  Dạy và học 28 tháng 12(29-12-2021)

DẠY VÀ HỌC 28 THÁNG 12
Hoàng Kim
CNM365 Tình yêu cuộc sốngSóc Trăng Lương Định Của; Tagore Thánh sư Ấn Độ; Lên Thái Sơn hướng Phật; Vietnamese cassava today, Thơ Tứ tuyệt Hoàng KimTrăng rằm vui chơi giăng; Giống khoai lang Việt Nam; Quảng Bình đất Mẹ ơn Người; Ban mai đứng trước biển; Đồng xuân lưu dấu hiền; Vạn Xuân nơi An Hải; Thầy bạn là lộc xuân; Đi để hiểu quê hương; Dạo chơi non nước Việt; Champasak ngã ba biên giới; Nếp nhà đẹp văn hóa; Ngày 28 tháng 12 năm 1975 là ngày mất giáo sư tiến sỹ nông học Lương Định Của (1920 – 1975) người đặt nền móng cho nghề lúa Việt Nam, giáo dục ngành di truyền giống nông nghiệp Việt Nam hiện đại. Giáo sư Lương Định Của đã đào tạo nhiều người trở thành cán bộ đầu đàn trong lĩnh vực khoa học nông nghiệp; các “giống bác sĩ Của” thương hiệu Việt như lúa Nông nghiệp 1 (NN1), lúa chiêm 314, NN75-1, NN8-388,  lúa mùa Saisubao, lúa xuân sớm NN75-5, giống dưa lê, cà chua, khoai lang, dưa hấu không hạt, chuối, rau, táo Giáo sư đã đề xướng kỹ thuật thâm canh lúa “cấy nông tay thẳng hàng” “bờ vùng, bờ thửa” “đảm bảo mật độ” được hàng chục triệu nông dân áp dụng, tạo ra cuộc cách mạng trong nông nghiệp Ngày 28 tháng 12 năm 1885 là ngày thành lập Đảng Quốc đại Ấn Độ (có tên đầy đủ là Đảng Quốc dân Đại hội Ấn Độ, viết tắt INC) tại Bombay, Ấn Độ thuộc Anh, la một trong những chính đảng dân chủ lâu đời nhất thế giới, cũng là một trong hai đảng phái chính trị lớn nhất của Ấn Độ, đảng kia là Đảng Bharatiya Janata. Đường lối tự do xã hội được nhiều người xem là trung tả trong nền chính trị Ấn Độ hiện nay. Đảng Quốc đại Ấn Độ được thành lập năm 1885 do sự liên kết bởi các thành viên của phong trào occultist Theosophical Society, Allan Octavian Hume, Dadabhai Naoroji, Dinshaw Wacha, Womesh Chandra Bonnerjee, Surendranath Banerjee, Monomohun Ghose, Mahadev Govind Ranade và William Wedderburn. Đảng Quốc đại Ấn Độ đã trở thành lãnh đạo của phong trào độc lập Ấn Độ, với hơn 15 triệu đảng viên và 70 triệu người tham gia vào cuộc đấu tranh chống lại sự cai trị của Anh ở Ấn Độ. Sau khi độc lập năm 1947, đảng này trở thành chính đảng chủ yếu của Ấn Độ, lãnh đạo bởi gia đình Nehru-Gandhi trong phần lớn thời gian.  Ngày 28 tháng 12 năm 1925 là ngày mất Hoàng giáp Nguyễn Thượng Hiền còn gọi là ông nghè Liên Bạt, sinh năm 1868 tại làng Liên Bạt, tỉnh Hà Đông, hoặc gọi là ông Đốc Nam vì ông có thời gian dài làm đốc học tại Ninh Bình và Nam Định. Ông là con Hoàng giáp Nguyễn Thượng Phiên, và là con rể quan Phụ chính Đại thần Tôn Thất Thuyết. Ông giao thiệp rộng với nhiều chí sĩ yêu nước như Tăng Bạt Hổ, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng. Ông đã cùng Phan Bội Chậu thành lập Việt Nam Quang Phục Hội ở Trung Quốc. Năm 1914 sau khi Phan Bội Châu bị bắt, ông là người lãnh đạo của hội. Sau khi các hoạt động của Việt Nam Quang phục Hội thất bại, Nguyễn Thượng Hiền xuống tóc vào tu ở chùa Thường Tích Quang, Hàng Châu, tỉnh Chiết Giang  và mất tại đây ngày 28 tháng 12 1925. Theo di chúc, thi hài ông được hỏa táng, và tro rải xuống sông Tiền Đường. Ông để lại một số tác phẩm thơ văn bằng chữ Hán, Nôm, trong đó tập văn xuôi Hát Đông thư dị. Thơ văn ông chủ yếu ký thác những tâm sự của mình và lên án chính sách của người Pháp, khơi dậy lòng yêu nước, kêu gọi nhân dân đứng lên chống Pháp. Bài chọn lọc ngày 28 tháng 12: Sóc Trăng Lương Định Của; Tagore Thánh sư Ấn Độ; Lên Thái Sơn hướng Phật; Vietnamese cassava today, Thơ Tứ tuyệt Hoàng KimTrăng rằm vui chơi giăng; Giống khoai lang Việt Nam; Quảng Bình đất Mẹ ơn  Người; Ban mai đứng trước biển; Đồng xuân lưu dấu hiền; Vạn Xuân nơi An Hải; Thầy bạn là lộc xuân; Đi để hiểu quê hương; Dạo chơi non nước Việt; Champasak ngã ba biên giới; Nếp nhà đẹp văn hóa; Thông tin tại http://hoangkimvn.wordpress.comhttp://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-28-thang-12;

THUNG DUNG CHÀO NGÀY MỚI
Hoàng Kim


A Na Bình Minh An
Chốn vườn thiêng cổ tích
Thung dung chào ngày mới
Hoàng Gia Ngọc Phương Nam
https://youtu.be/pG-A1XD32-M

THANH NHÀN VUI THÁNG NĂM
https://youtu.be/FLxmnbU3KSs
Hoàng Kim và Hoàng Long

Sắn Việt Nam ngày nay
Giống bắp nếp Nông Lâm
Hoàng Long cây lương thực
Thơ Tứ tuyệt Hoàng Kim

xem tiếp
http://hoangkimlong.wordpress.com/category/thanh-nhan-vui-thang-nam/

ConduongluagaoVietnam

LƯƠNG ĐỊNH CỦA CON ĐƯỜNG LÚA GẠO
Hoàng Kim

Giáo sư bác sĩ Nông học Lương Định Của, anh hùng lao động, giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học kỹ thuật, cuộc đời và sự nghiệp còn mãi với thời gian, với con đường lúa gạo Việt Nam đang tỏa rộng nhiều vùng đất nước kết nối lớp lớp những dâng hiến lặng lẽ tôn vinh hạt ngọc Việt. Cây lúa Việt Nam nửa thế kỷ nhìn lại (1975-2021) có tốc độ tăng năng suất vượt 1,73 lần so với thế giới. Thành tựu này có cống hiến hiệu quả của thầy Lương Định Của, nhà bác học nông dân người Nam Bộ ở chặng đường đầu của nước Việt Nam mới.

Lương Định Của cuộc đời và sự nghiệp

Giáo sư Lương Định Của sinh ngày 16 tháng 8 năm 1920 tại xã Đại Ngãi, huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng, Theo văn bia gia đình thì ông nội của giáo sư là Lương Đức Ngãi, bà nội là Trịnh Thị Xuân, cha là Lương An Hùng và mẹ là Huỳnh Thị Có. Ông Lương Định Của lên Sài Gòn học xong tú tài và đã du học y học ở Hương Cảng rồi du học kinh tế ở Thượng Hải trước khi được học bổng của chính phủ Nhật Bản, sang Nhật năm 1942, được nhập ngang vào học năm thứ ba tại Trung tâm Nghiên cứu Nông học Nhiệt đới thuộc Trường Đại học Quốc gia Kyushu. Năm 1945 ông cưới vợ là bà Nobuko Nakamura (中村信子) người Nhật.  Năm 1946, ông chuyển sang Trường Đại học Quốc gia Kyoto và được cấp bằng tiến sỹ  nông học ở Nhật Bản. Năm 1954, ông cùng gia đình về Sài Gòn. Sau đó tập kết ra Bắc, làm Phó Giám Đốc Học Viện Nông Lâm Hà Nội , giảng dạy di truyền giống ở Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội (nay là Học Viện Nông Nghiệp Việt Nam) và làm Viện trưởng Viện Cây Lương thực và Cây thực phẩm.

Giáo sư Lương Định Của là người có công lớn trong giáo dục đào tạo, Thầy đã huấn luyện được  nhiều thế hệ học trò trở thành cán bộ đầu đàn trong các lĩnh vực khoa học nông nghiệp với nhiều người xuất sắc. Giáo sư Lương Định Của đã chọn tạo được nhiều giống cây trồng nông nghiệp nổi tiếng một thời như Giống lúa Nông nghiệp I lai tạo từ giống Ba thắc (Sóc Trăng – Nam Bộ) với Kun Ko (Nhật Bản) là giống lúa sớm đi vào sản xuất trên đồng ruộng Việt Nam từ những năm 60 của thế kỷ trước. Sau đó là nhiều giống mới mang tên  “giống bác sĩ Của” như lúa chiêm 314 (lai giữa dòng Đoàn Kết và Thắng Lợi), NN75-1 (lai giữa giống 813 với NN1), NN8-388 (chọn giống từ IR8), lúa mùa Saisubao, lúa xuân sớm NN75-5, giống dưa lê, cà chua, khoai lang, dưa hấu không hạt, chuối, rau, táo…  cùng với những ứng dụng tiến bộ kĩ thuật tam bội thể, tứ bội thể, chất kích thích sinh trưởng. Giáo sư đề xướng mô hình canh tác “bờ vùng, bờ thửa” “cấy nông tay thẳng hàng” “đảm bảo mật độ” được hàng chục triệu nông dân áp dụng trên diện rộng, tạo ra cuộc cách mạng trong nông nghiệp.

Giáo sư Lương Định Của có cuộc đời là một tấm gương sáng của một trí thức lớn dấn thân vì đại nghĩa, Thầy sống thanh đạm, giản dị, say mê, tận tuỵ với sự nghiệp trồng người và nghiên cứu khoa học tạo giống cây trồng, cải tiến kỹ thuật canh tác để mang lại đời sống tốt hơn cho người dân. Giáo sư Lương Định Của được bầu là đại biểu Quốc hội các khoá 2, 3, 4, 5, được phong danh hiệu Anh hùng Lao động và Huân chương Lao động Hạng Nhất năm 1967 và được truy tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học công nghệ đợt 1 năm 1996. Hiện nay Việt Nam có nhiều con đường, mái trường Việt Nam mang tên Thầy. Năm 2006, Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh đã lập Giải thưởng Lương Định Của để hằng năm trao tặng cho những thanh niên có thành tích đặc biệt xuất sắc trong các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật, công nghệ nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới.

LuongDinhCua2

GS Lương Định Của mất ngày 28 tháng 12 năm 1975, mai táng tại Nghĩa Trang Thành phố Hồ Chí Minh. Vợ của giáo sư, bà Nobuko Nakamura, sống cùng gia đình con trai cả Lương Hồng Việt ở thành phố Hồ Chí Minh.

Cuộc đời và sự nghiệp của nhà bác học nông dân Lương Định Của còn mãi với thời gian, với con đường lúa gạo Việt Nam đang tỏa rộng nhiều vùng đất nước kết nối lớp lớp những dâng hiến lặng lẽ tôn vinh hạt ngọc Việt.  Cây lúa Việt Nam nửa thế kỷ nhìn lại (1975-2014) Năm 2013 năng suất lúa gạo thế giới đạt 4,48 tấn/ ha so năm 1975 là 2,49 tấn/ ha gia tăng 1,99 tấn/ ha; Năm 2013 năng suất lúa gạo Việt Nam đạt 5,57 tấn/ ha so với năm 1975 là 2,11 tấn/ ha, gia tăng 3,46 tấn/ ha.Tốc độ tăng năng suất  lúa gạo Việt Nan vượt 1,73 lần so với mức tâng năng suất lúa gạo Thế giới Thành tựu này có cống hiến hiệu quả của nhà bác học nông dân Lương Định Của ở chặng đường đầu của nước Việt Nam mới.

Lương Định Của, con đường lúa gạoLương Định Của cuộc đời và sự nghiệp;Lương Định Của quê hương và dòng họ;Lương Định Của những năm tháng tuổi trẻLương Định Của luồng gió từ Hà Nội; Lương Định Của nhà bác học nông dânLương Định Của chính khách giữa lòng dân; Thầy bạn và học trò Lương Định Của; Ông bà Của, cổ tích giữa đời thường

LuongDinhCua

Lương Định Của, quê hương và dòng họ

Chuẩn bị xong những việc sau cùng để ngày mai cấy các bộ giống lúa mới, chúng tôi lên đường về thăm quê hương thầy Lương Định Của khi trời đã xế chiều. Chúng tôi đến thăm cụ Sáu, em gái Thầy Lương Định Của và thắp hương tại khu mộ gia đình Thầy khi trăng rằm tháng giêng lồng lộng đang lên. Ruộng lúa Đại Ngãi, Trường Khánh xanh ngát dưới ánh trăng.

Ngôi nhà niên thiếu và phần mộ tổ tiên, cha mẹ song thân của giáo sư Lương Định Của tại ấp Ngãi Hoà, cách trụ sở Uỷ ban Nhân dân xã Đại Ngãi khoảng 3 km, và phải đi bằng xe ôm vì lối đi nhỏ bé, thuần phác, khiêm nhường giữa vùng quê Nam Bộ. Xe ôm chạy hun hút dưới vòm dừa nước y như trong vườn thiêng cổ tích. Một số hình ảnh Rằm xuân thăm thầy Lương Định Của tại ấp Ngãi Hòa, xã Đại Ngãi đã được lưu lại

Cha và mẹ của thầy Lương Định Của là Lương An Hùng và Huỳnh Thị Có cùng ông bà nội là Lương Đức Ngãi và Trịnh Thị Xuân đều an táng tại làng quê Đại Ngãi. Chúng tôi bâng khuâng trước phần mộ tổ tiên, cha mẹ song thân của bậc anh hùng. Nơi đây mấy trăm năm trước hẳn rất hoang vu, bởi lẽ mãi cho đến tận nay, vẫn vùng quê hẻo lánh đến vậy. Tôi chợt thấm thía câu thơ Sơn Nam:

Trong khói sóng mênh mông
Có bóng người vô danh
Từ bên này sông Tiền
Qua bên kia sông Hậu
Tay ôm đàn độc huyền
Điệu thơ Lục Vân Tiên
Với câu chữ
Kiến nghĩa bất vi vô dõng giả
Từ Cà Mau Rạch Giá
Dựng chòi đốt lửa giữa rừng thiêng
Muỗi vắt nhiều hơn cỏ
Chướng khí mờ như sương
Thân chưa là lính thú
Sao không về cố hương?

Anh Lương Hồng Việt nói với tôi tổ tiên họ Lương của anh có nguồn gốc Phúc Kiến lánh nạn Mãn Thanh sang cư trú ở Đàng Trong hồi thế kỷ XVII. Nam Bộ là nôi nuôi dưỡng của đại gia đình các dân tộc người Việt, người Hoa, người Khơ Me. Nhiều người Hoa trong số họ đã chung sức cùng người Việt, người Khơ Me khẩn hoang, giữ gìn và sinh sống nhiều đời tại quê hương.

Từ Đại Ngãi, Sóc Trăng về Hà Tiên không xa. Đó là nơi khởi nghiệp của Mạc Cửu công thần đất Hà Tiên ”phên dậu Đại Việt đất phương Nam” và vùng danh thắng Hà Tiên thập vịnh Mạc Thiên Tích. Mạc Cửu là Tổng trấn Hà Tiên, thành hoàng lập trấn địa đầu của đất cực Nam Tổ quốc. Mạc Thiên Tích con của Mạc Cữu làm Tổng binh Đại đô đốc thời chúa Nguyễn Phúc Trú. Hai cha con Mạc Cửu, Mạc Thiên Tích và dòng họ Mạc là những người có công lớn đối với non sông Việt trong sự khai khẩn và trấn giữ miền Tây Nam Bộ. “Chẳng đội trời Thanh Mãn/ Lần qua đất Việt bang/ Triều đình riêng một góc/ Trung hiếu vẹn đôi đường/ Trúc thành xây vũ lược/ Anh Các cao văn chương” (thơ Đông Hồ). Nhà nghiên cứu Trương Minh Đạt đã nhận xét rất chí lý: “Nhờ có Mạc Cửu, người Việt mới bước qua bờ nam sông Tiền”.

Từ Đại Ngãi, Sóc Trăng đi lên hướng Sài Gòn – Gia Định – Đồng Nai – Biên Hòa là vùng đất khởi nghiệp lừng lẫy của Trịnh Hoài Đức công thần nhà Nguyễn, quan Thượng thư, hiệp Tổng trấn, Điền toán (chuyên coi về sự cày cấy khai khẩn đất đai Nam Bộ), nhà thơ, nhà văn, sử gia nổi tiếng với tác phẩm Gia Định thành thông chí một công trình được nhiều nhà nghiên cứu đánh giá cao. Đó cũng là nơi có bậc danh nho Võ Trường Toản cùng với các học trò của ông cũng là những công thần lỗi lạc của nhà Nguyễn như Ngô Tùng Châu, Lê Quang Định, Ngô Nhơn Tĩnh,  Phạm Ngọc Uẩn, Lê Bá Phẩm, những người Việt gốc Hoa noi theo gương thầy Chu Văn An đời Trần, thực lòng yêu thương cộng đồng đại dân tộc Việt Nam, cùng chung lưng đấu cật, góp xương máu, công sức xây đắp nên cơ nghiệp muôn đời.

Và nay có người phụ nữ Nhật Nakamura Nobuko thuận theo giáo sư Lương Định Của “thuyền theo lái, gái theo chồng” tạo dựng nên công đức cùng chồng là vậy.

Lương Định Của những tháng năm tuổi trẻ

Ruộng lúa Trường Khánh Đại Ngãi Long Phú Sóc Trăng dưới ánh trăng rằm tháng Giêng chụp lúc 19g30 mà vẫn lồng lộng xanh mướt lạ thường. Tuổi xuân của Lương Định Của khởi đầu ở vùng quê Đại Ngãi, Long Phú, Sóc Trăng, nơi vùng lúa Trường Khánh. Một năm khởi đầu từ mùa xuân. Một đời bắt đầu bằng tuổi trẻ. Ông là con trưởng trong một gia đình cha mẹ là điền chủ, mất sớm. Ông có hai em gái và một em trai. Ông theo học tiểu học ở Sóc Trăng, trung học ở Sài Gòn, học tiếng Anh ở Hồng Công và Thượng Hải, sống nhờ hoa lợi của số ruộng đất cha mẹ ông để lại. Sau đó ông xin được học bổng Nhật Bản theo học Khoa Nông học Trường Đại học Tổng hợp Kyushu. Kế đó, ông lấy vợ Nhật và theo học tiếp Tiến sĩ Nông học, rồi làm giảng sư Đại học Tổng hợp thành phố Kyoto.

Con đường tuổi thơ Ngãi Hòa, Đại Ngãi, Trường Khánh quê hương Lương Định Của lung linh huyền thoại.

 

Tuổi xuân và những năm tháng đại học

Nhà báo Phan Quang kể về tuổi xuân và những năm tháng đại học của giáo sư Lương Định Của trong bài Kỷ niệm đời thường về nhà khoa học Lương Định Của.

“ Lương Định Của sinh ngày 16-7-1919 tại làng Đại Ngãi, huyện Long Phú tỉnh Sóc Trăng trong một gia đình điền chủ theo đạo Thiên chúa. Cha mẹ mất sớm, lúc ông mới mười hai tuổi. Hồi nhỏ học Trường tiểu học Taberd ở thị xã Sóc Trăng, rồi chuyển lên Sài Gòn theo bậc trung học cũng tại Trường Taberd.

Đến năm thứ tư, Lương Định Của xin sang Hồng Công học tiếp tại trường La Salle College với ý định trau dồi tiếng Anh thật giỏi để sau này đi vào ngành thương mại. Sau khi trúng tuyển kỳ thi tuyển sinh vào đại học (tiếng Anh gọi là University Matriculation), ông rời Hồng Công lên Thượng Hải học. Ở Hồng Công thời ấy chỉ có mỗi một trường đại học, học phí rất cao, trong khi tại Thượng Hải, sinh hoạt rẻ hơn.

Tại đây, ông theo học Trường đại học Saint John’s. Đang học dở chừng thì chiến tranh thế giới lan rộng và ngày càng ác liệt. Cuộc sống của lưu học sinh tại Trung Quốc trở nên bấp bênh. Lương Định Của hiểu, cần phải tìm nguồn sinh hoạt ổn định ở ngay nước ngoài, vì rất khó trông chờ vào món tiền mà ông bác ruột trích từ hoa lợi số ruộng đất cha mẹ ông để lại ở Sóc Trăng vẫn tháng tháng gửi sang cho như những năm trước. Thấy một người bạn học gửi thư xin học phí du học tại Nhật Bản và được chấp thuận dễ dàng, ông cũng nộp đơn và được chấp nhận cho sang Nhật.

Bước chân lên đất nước Phù Tang xưa kia không mấy khác nước mình, nay nhờ công cuộc duy tân đã trở thành một quốc gia hùng mạnh, chàng thanh niên Lương Định Của vẫn ôm ấp mộng làm giàu bằng con đường thương mại. Nhờ tiếp xúc với một số nhà yêu nước Việt Nam sống lưu vong, theo lời khuyên của họ, sau một năm học tiếng Nhật, ông bỏ ngành thương mại chuyển sang học ngành nông nghiệp với hoài bão rõ rệt mang vốn kiến thức về quê hương thiết thực phục vụ đất nước.”

Ông theo học Khoa Nông học Trường Đại học Tổng hợp Kyushu. Năm 1945, Nhật Bản thua trận. Nhân dân Nhật trải qua một thời kỳ cực kỳ khó khăn dưới sự chiếm đóng và cai quản trực tiếp của quân đội Mỹ. Miếng ăn hằng ngày còn chưa đủ, không ít người Nhật đói rét. Chính phủ Nhật Bản làm gì còn có học bổng ưu ái cho du học sinh nước ngoài.

Để có thể tiếp tục theo học, cũng như mọi sinh viên khác, Lương Định Của làm đủ nghề: gia sư, biên dịch tài liệu, phiên dịch tiếng Anh… Cái vốn Anh ngữ lúc này thật sự có ích vì hồi ấy không có nhiều người Nhật sử dụng thành thạo ngoại ngữ. Sự giúp đỡ của Việt kiều ở Nhật là niềm khích lệ lớn đối với ông. Đặc biệt những người Việt Nam vì chống Pháp phải sống xa quê đã bồi dưỡng và khuyến khích lòng yêu nước vốn có trong chàng thanh niên Nam Bộ.”

 

Bác sĩ Nông học, Giảng sư Đại học

Sau thời kỳ tuổi xuân và những năm tháng đại học. giáo sư Lương Định Của học tiếp Tiến sĩ Nông học và làm giảng sư Đại học Tổng hợp thành phố Kyoto, Nhật Bản. Nhà báo Phan Quang trong bài Kỷ niệm đời thường về nhà khoa học Lương Định Của  phần 1 viết tiếp:

“Lương Đình Của miệt mài học tập, nghiên cứu. Một nhà khoa học nổi tiếng khác, cũng là lưu học sinh cùng thời với Lương Định Của là bác sĩ Đặng Văn Ngữ, trước khi về nước phục vụ đã khuyên ông nên ráng ở lại học tập cho thành đạt rồi về sau cũng không muộn. Lương Định Của mãi biết ơn lời khuyên của bạn.

Năm 1947, tốt nghiệp cử nhân Trường Đại học Tổng hợp Kyushu, ngành nông nghiệp. Phần lớn lưu học sinh nước ngoài ở Nhật Bản hồi ấy giật được mảnh bằng đều đi kiếm việc làm hoặc về nước để sớm chấm dứt cảnh thiếu thốn nơi đất khách quê người. Lương Định Của phân vân. Ông cảm thấy vốn kiến thức của mình còn mong manh quá. Nếu muốn thật sự phục vụ đất nước thì còn phải học tập thêm nhiều.

Ông quyết định xin vào làm phụ việc ở Trường Đại học Tổng hợp thành phố Kyoto, cố đô nước Nhật và cũng là quê hương bà Của, tình nguyện làm việc không hưởng lương. Đổi lại, ông được phép đọc sách ở thư viện và dùng một số giờ nghiên cứu, thực nghiệm tại phòng thí nghiệm của nhà trường.

Một lần nữa, cái vốn ngoại ngữ lại có ích cho ông. Ngoài công việc chuyên môn hằng ngày, còn nhận biên dịch ra tiếng Anh và đánh máy các công trình, luận văn cho một số giáo sư trong trường.

Sức làm việc của chàng thanh niên Việt Nam cần cù, ít nói, gây ấn tượng và dần dần giành được lòng yêu mến của các thầy. Trường Đại học Kyoto chính thức cấp cho ông học bổng nghiên cứu sinh. Một thời gian sau, trường bổ nhiệm ông làm một chân tập sự trợ lý (sub-assistant), trong khi chờ đợi hội đủ điều kiện thi lấy bằng tiến sĩ. Một số tạp chí khoa học Nhật Bản và ở nước ngoài bắt đầu đăng tải các công trình nghiên cứu của nghiên cứu sinh Lương Định Của. Bài báo đầu tiên ông được công bố trên một tạp chí khoa học tên tuổi ở nước ngoài phản ánh phần nào sức đọc của ông.”

Đó là Thư mục về các công trình nghiên cứu di truyền học xuất bản ở Nhật Bản, thời gian 1941- 1948 (tạp chí Heredity, London, số 4 năm 1950, trang 121-133). Trong khoảng thời gian trên dưới hai năm (1950-1952), các tạp chí khoa học lớn công bố mười hai công trình của nhà nghiên cứu trẻ.

Ông là một người rất thành thục công việc trong phòng thí nghiệm. Với thiết bị của Trường Đại học Kyoto, Lương Định Của đã chụp được ba vạn tấm ảnh nhiễm sắc thể cây trồng. Sau này có dịp sang thăm Viện Nghiên cứu Lúa gạo Hoa Nam, gặp nhà khoa học Trung Hoa chuyên gia nổi tiếng thế giới về cây lúa là Giáo sư Đình Dĩnh, bác sĩ nông học Lương Định Của được Giáo sư mời thao tác phương pháp chụp ảnh nhiễm sắc thể đã nhuộm mầu sau khi cắt tế bào tại phòng thí nghiệm cho các nhà khoa học của Viện tham khảo.”

Mùa hè năm 1951, Lương Định Của trình luận văn về công trình nghiên cứu nhiều năm của mình với chủ đề: “Cách xử lý đa bội thể di truyền nhằm tạo nên giống lúa mới”. Hội đồng khoa học Trường Đại học Tổng hợp Kyoto nhận xét, với kết quả nghiên cứu khoa học của mình, Lương Định Của đã có cống hiến lớn cho nền nông học trong việc cải thiện giống lúa, và bỏ phiếu nhất trí cấp học vị Bác sĩ Nông học cho ông.

“Cùng với học vị bác sĩ, Lương Định Của còn nhận được bằng khen và tiền thưởng của Viện Nghiên cứu Sinh học Kinhara về công trình “Sự sinh sản của giống lúa lai tạo từ hai giống lúa Japonica và Indica”.

Báo cáo khoa học của Viện khẳng định, với công trình này Lương Định Của đã giải quyết tốt một vấn đề từ năm 1930 đến lúc bấy giờ chưa có ai xử lý được. Một số kỹ thuật do Lương Định Của phát minh, trong đó có phương pháp xử lý rễ trước khi cố định trong việc nghiên cứu hình thái nhiễm sắc thể công bố lần đầu trên tạp chí Botanical Gazette (Mỹ) được ứng dụng rộng rãi tại Nhật Bản.

Kỹ sư Hồ Đắc Song, phó vịên trưởng Viện Cây Lương thực, Cây Thực phẩm, một người cộng tác nhiều năm với bác sĩ Lương Định Của, có lần cho biết: Phát minh của Lương đã được ứng dụng ngay từ hồi ấy trong việc lai tạo giống lúa tại Hoa Kỳ, gọi là phương pháp Lương Định Của.

Theo báo chí Nhật Bản, kể từ những năm đầu công cuộc duy tân đất nước thời Minh Trị thiên hoàng cho đến lúc bấy giờ (1888-1951), trong hơn sáu mươi năm, nước Nhật mới cấp học vị bác sĩ nông học cho hai trăm năm mươi người. Lương Định Của là nghiên cứu sinh trẻ tuổi nhất khi nhận học vị, và cũng là người ngoại quốc duy nhất được cấp bằng bác sĩ nông học tại Nhật bản cho đến lúc bấy giờ.

Nhà báo Phan Quang có dịp được xem những bài báo viết về sự kiện ấy, những mẩu báo cắt chữ in vẫn còn rõ nét tuy giấy đã ố vàng và cứ chực mủn ra vì được xếp lẫn quần áo trong chiếc va ly tàng tàng bất ly thân của gia đình sau mấy chục năm cùng hai ông bà Lương Định Của bôn ba chuyển dịch nhiều nơi.

Báo Mainichi Shimbun số ra ngày 26 tháng Năm năm Chiêu Hòa thứ 26 đăng chân dung lớn của nhà khoa học trẻ với vầng trán cao, chiếc cằm nhọn, khuôn mặt gầy thanh nhã. Tin đăng kèm cho biết nhà khoa học ba mươi mốt tuổi Lương Định Của là người Việt Nam đầu tiên được cấp bằng bác sĩ nông học của Nhật bản. Báo đưa khá chi tiết lý lịch của ông, nói rõ Lương được sự hướng dẫn của Giáo sư nổi tiếng Kinhara, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Sinh học mang tên ông.

Cũng báo Mainichi, một số trước đó đăng ảnh Lương chăm chú trước kính hiển vi, bên cạnh là tấm ảnh khác chụp cận cảnh những hạt lúa do ông lai tạo nên, to gấp đôi những hạt lúa so sánh.

Báo Kyoto Shimbun cũng in ảnh những bông lúa mới được lai tạo nên. Bài báo cho biết thêm, kết quả này đã được thông báo cho Tổ chức Lương Nông Quốc tế (FAO) đóng tại Rome, đồng thời cũng thông báo đến Thủ tướng Ấn Độ J.Nerhu là người đang hết sức quan tâm giải quyết vững chắc vấn đề lương thực cho năm trăm triệu dân nước Ấn Độ mới giành lại được độc lập. v.v…

Mấy tháng sau khi nhận học vị bác sĩ nông học, tháng Mười năm 1951, Lương Định Của được Bộ Giáo dục Nhật Bản bổ nhiệm làm giảng sư Trường đại học Kyoto. Ông là người ngoại quốXem tiếp >>

  Dạy và học 27 tháng 12(28-12-2021)

Tagore dai van hao An Do

CHÀO NGÀY MỚI 27 THÁNG 12
Hoàng Kim
CNM365 Tình yêu cuộc sốnghttps://youtu.be/pG-A1XD32-M Thung dung chào ngày mới; Tagore Thánh sư Ấn Độ; Lên Thái Sơn hướng Phật; Vietnamese cassava today, Thơ Tứ tuyệt Hoàng Kim Ngày 27 tháng 12 năm 1911 Quốc ca Ấn Độ “Jana Gana Mana“, lần đầu tiên hát tại Hội nghị Calcutta của Đảng Quốc Đại Ấn Độ. Bài hát “Jana Gana Mana” là năm đoạn đầu của bài thơ Tagore viết bằng tiếng Bengal đoạt giải Nobel. Bài hát này nguyên bản hát tốn 52 giây, bản rút gọn hát hàng đầu và hàng cuối chỉ tốn 20 giây; Ngày 27 tháng 12 năm 1949, Indonesia chính thức được công nhận do Hà Lan chuyển giao chủ quyền Đông Ấn Hà Lan.  Ngày 27 tháng 12 năm 1845, quyền vận mệnh hiển nhiên một thuật ngữ quan trong trong Văn hóa Mỹ lần đầu tiên được John L. O’Sullivan nói đến tại bài báo với lập luận rằng “Hoa Kỳ có quyền yêu sách toàn bộ xứ Oregon dựa trên quyền vận mệnh hiển nhiên của chúng ta”; Bài chọn lọc ngày 27 tháng 12: https://youtu.be/pG-A1XD32-M Thung dung chào ngày mới; Tagore Thánh sư Ấn Độ; Lên Thái Sơn hướng Phật; Vietnamese cassava today, Thơ Tứ tuyệt Hoàng KimEm ơi can đảm lên;Lời Thầy luôn theo em; Dạy và học ngày mới; Dạy và học để làm; Quảng Bình đất Mẹ ơn Người; Ngày mới trên quê hương; Nếp nhà đẹp văn hóa; Champasak ngã ba biên giới; Vạn Xuân nơi An Hải; Cao Biền trong sử Việt; Lúa Việt tới Châu MỹHoàng Kim thơ cho con; Nếp nhà đẹp văn hóa; Ngày mới lời yêu thương; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.comhttp://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlong và:  https://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-27-thang-12;

THUNG DUNG CHÀO NGÀY MỚI
Hoàng Kim


A Na Bình Minh An
Chốn vườn thiêng cổ tích
Thung dung chào ngày mới
Hoàng Gia Ngọc Phương Nam
https://youtu.be/pG-A1XD32-M

THANH NHÀN VUI THÁNG NĂM
https://youtu.be/FLxmnbU3KSs
Hoàng Kim và Hoàng Long

Sắn Việt Nam ngày nay
Giống bắp nếp Nông Lâm
Hoàng Long cây lương thực
Thơ Tứ tuyệt Hoàng Kim

xem tiếp
http://hoangkimlong.wordpress.com/category/thanh-nhan-vui-thang-nam/

TAGORE THÁNH SƯ ẤN ĐỘ
Hoàng Kim

Rabindranath Tagore, sinh ngày 7 tháng 5 năm 1861,  mất ngày 7 tháng 8 năm 1941, tại Konkata, Ấn Độlà người châu Á đầu tiên đoạt giải Nobel Văn học năm 1913. Tagore không chỉ là nhà thơ và văn hóa lớn Bengal, một triết gia lỗi lạc có đạo đức phẩm hạnh cao quý được Gandhi và  mọi người Ấn Độ gọi là Thánh sư, mà còn là nhà hoạt động xã hội nổi tiếng vì phong trào giải phóng Ấn Độ, vì con người, vì nhân đạo và hòa bình. Tagore là niềm tự hào của trên 1,2 tỷ người Ấn Độ, là nguồn cảm hứng của hơn 200 triệu người Bengal sống ở Tây Bengal của Ấn Độ và Bangladesh cũng như nhiều người trên khắp thế giới. Tagore đã đến Việt Nam. Thơ Tagore đến với bạn đọc người Việt qua các bản dịch của Đỗ Khánh Hoan, Đào Xuân Quý và các dịch giả khác.

Tagore cuộc đời và sự nghiệp

Rabindranath Tagore (1861-1941) là một họa sĩ Vương quốc Anh, nhà thơ, nhà văn, nhà văn hóa, triết gia, nhà viết kịch, nhà viết tiểu luận, nhà soạn nhạc và ca sĩ  Ấn Độ, giải Nobel Văn học năm 1913. Tagore sinh ngày 7 tháng 5 năm 1861 tại Kolkata, Tây Bengal, Ấn Độ trong một gia đình trí thức truyền thống. Cha ông là Debendranath Tagore, một nhà triết học và hoạt động xã hội nổi tiếng. Kolkata thuở ấy là thủ đô của Ấn Độ trong thời kỳ thuộc địa Anh (British Raj) cho đến năm 1911, từng là trung tâm của giáo dục hiện đại, khoa học, văn hóa và chính trị ở Ấn Độ. Kolkata nay là thủ phủ của bang Tây Bengal, Ấn Độ, thành phố tọa lạc ở phía Đông Ấn Độ bên bờ sông Hooghly, có dân số khoảng 11 triệu người với một dân số vùng đô thị mở rộng lên đến 14 triệu người, khiến nó trở thành vùng kết tụ đô thị và là thành phố lớn thứ 3 ở Ấn Độ. Tagore được hun đúc trong một môi trường văn hóa ưu việt vì Calcutta lúc bấy giờ đã là trung tâm của giới trí thức của Ấn Độ, và có rất nhiều nhà văn, học giả, kịch tác gia… thường xuyên lui tới nhà Tagore để đàm luận vấn đề, tổ chức hòa nhạc, diễn kịch..,

Tagore là con thứ mười bốn trong gia đình, lúc đi học đã nổi tiếng thần đồng, giỏi đều các môn nhưng thích nhất thơ ca, tiểu thuyết, kịch họa và triết học. Ông học ở trường một thời gian ngắn; sau về học ở nhà với cha. Tagore lúc 8 tuổi đã nổi tiếng giỏi văn nhất vùng Bengal; 13 tuổi có thể sáng tác nhạc, họạ, đọc sách cổ bằng tiếng Phạn và dịch kịch Shakespeare; 17 tuổi sang Anh du học hoa sĩ; năm 19 tuổi (1880), trở về Ấn Độ, viết vở nhạc kịch đầu tiên. Ông kết hôn với Mrinalini Devi năm 1883. Ông từng học tại Đại học Calcutta, Đại học London, và Trường cao đẳng St. Xavier. Năm 39 tuổi (1910) ông ra đời tiểu thuyết sáng giá nhất Gora ủng hộ tính nhẫn nại tôn giáo và chính trị. Năm Tagore 49 tuổi  ông đã xuất bản thơ Lời dâng (tiếng Bengal là Gitanjali). Kiệt tác thơ này được thế giới công nhận là kì công thứ hai của văn học Ấn Độ (sau Sakuntala của Kalidasa, nhà thơ lớn Ấn Độ thế kỉ thứ V) và Tagore được trao tặng giải văn chương Nobel năm 1913. Ông là người châu Á nhận giải Nobel duy nhất ngoài châu Âu thời đó. Văn chương Tagore giàu tinh thần nhân loại, là gạch nối giữa văn hoá truyền thống Ấn Độ và văn hoá hiện đại Phương Tây, mang lại cho người đọc những cảm nhận sâu sắc, độc đáo, thể hiện một tài năng văn chương kiệt xuất, sau thơ có lẽ là truyện ngắn, triết luận,  kịch, nhạc và họa. Tagore sau thơ Lời dâng và giải Nobel đã được tôn vinh ở Ấn Độ và Bangladesh như một vị thánh. Năm 68 tuổi Tagore bắt đầu vẽ tranh và triển lãm ở Munich, New York, Paris, Moxcva và nhiều nơi khác. 80 tuổi R. Tagore qua đời sau hai năm bị mù, để lại 52 tập thơ, 42 vở kịch, 12 cuốn tiểu thuyết, hàng trăm truyện ngắn, bút kí, tiểu luận, diễn văn, hồi ức, thư tín,  trên 2000 tranh vẽ vô giá và  hơn 2.000 bài hát, ngày nay được gọi là Rabindra Sangeet, được xem là kho tàng văn hoá Bengal, ở cả Tây Bengal thuộc Ấn Độ lẫn Bangladesh, liên quan sâu sắc tới mọi lĩnh vực.

Văn chương Tagore có giá trị cao trong giáo dục nhân điều chỉnh các mối quan hệ tốt đẹp   phổ quát của con người. Thi ca của ông xuất phát từ tính nhân bản sâu sắc, sự hi sinh hiến dâng, ca ngợi thiên nhiên và cuộc sống. Thơ ông là nguồn yêu thương và vui bất tận trong trẻo. Chủ đề tình yêu sâu lắng trong khắp các tác phẩm văn chương của ông. Tagore cũng viết một số tác phẩm để phục vụ cho phong trào giải phóng Ấn Độ. Ông từ chối tước Hiệp sĩ (knight) của Hoàng gia Anh để phản đối cuộc Thảm sát Jallianwala Bagh tại Amritsar năm 1919 mà lính Anh đã nã súng vào thường dân tụ tập không vũ trang, giết hơn 500 người đàn ông, phụ nữ và trẻ em vô tội. Tagore rất nhạy cảm với các sự kiện thế giới xảy ra trong thời đại của mình và biểu hiện niềm đau cũng như nỗi thất vọng đối với chiến tranh. Ông luôn khao khát nền hoà bình cho thế giới. Các chuyến đi vòng quanh thế giới của Tagore đã mài dũa sự am hiểu các đặc trưng đa dạng của ông về các nền văn minh và dân tộc. Ông được xem là thí dụ điển hình cho sự kết hợp tinh tế của phương Đông và phương Tây trong văn chương.

Bài hát Jana Gaṇa Mana của ông được chọn làm quốc ca Ấn Độ và bài hát khác cho Bangladesh. Kiệt tác Gitanjali (Thơ dâng) Balaca, Người làm vườn, Mùa hái quả, Ngày sinh, Thơ ngắn…và nhiều tác phẩm của ông đã được dịch sang tiếng Việt Quan điểm giáo dục phẩm hạnh của ông đã đưa ông tới việc thành lập trường Santiniketan ở Tây Bengal năm 1901, nơi cha ông để lại mảnh đất cho ông làm tài sản. Trường này từ sau năm 1921, rở thành Đại học Vishwa-Bharti và từ năm 1951 đặt dưới quyền quản lý của chính phủ Ấn Độ .

Ngày nay Tagore vẫn là nguồn cảm hứng cho hơn 200 triệu người Bengal sống ở Tây Bengal của Ấn Độ và Bangladesh cũng như nhiều người trên khắp thế giới.Tagore gọi Gandhi là linh hồn vĩ đại (Mahatma), và Gandhi (cùng mọi người Ấn Độ) gọi Tagore là thánh sư (Gurudev) . Thơ Tagore đến với độc giả người Việt qua các bản dịch của Đỗ Khánh Hoan, Đào Xuân Quý và một số dịch giả khác.

Tác phẩm Tagore trên trang Thi Viện, được chép lại ở phụ lục để tiện theo dõi (*)

Tôi yêu mây và sóng Tagore
Hoàng Kim

tỉnh thức với Jana Gaṇa Mana
tôi yêu mây và sóng Tagor.
thích tranh Tagor bút chì tự họa
bài ca thời gian trăng rằm cổ tích

Ngày 27 tháng 12 năm 1911, bài ca “Jana Gana Mana” được hát lần đầu tiên tại Hội nghị Calcutta của Đảng Quốc Đại Ấn Độ. Bài ca này ngày nay là Quốc ca của Ấn Độ, Tôi tỉnh thức với Jana Gana Mana vào ngày 27 tháng 12 năm 1953 và cảm thấy thú vị. Thế nhưng tôi yêu ‘mây và sóng’ Tagore hơn. Tôi chép lại nơi đây bản tiếng Anh thơ ‘mây và sóng’ Tagore, cùng với bản dịch tiếng Việt ưa thích của dịch giả Nguyễn Đình Thi và lời bình cùng với một số bản dịch khác để  tham khảo.

Mây và sóng
Thơ Rabindranath Tagore (Ấn Độ)
bản dịch thơ của Nguyễn Đình Thi

Mẹ ơi, kìa ai đang gọi con trên mây cao.
Họ bảo: “Chúng ta vui chơi từ tinh mơ đến hết ngày
Chúng ta giỡn với sớm vàng rồi lại đùa cùng trăng bạc”
Con hỏi: “Nhưng mà làm thế nào tôi lên trên ấy được?”
Họ trả lời: “Con hãy đi đến hết cõi đất, rồi giơ tay lên trời con sẽ bay bổng lên mây”
Nhưng con nói: “Mẹ tôi đợi tôi ở nhà, tôi có lòng nào bỏ được mẹ tôi”
Họ bèn mỉm cười, và lơ lửng họ bay đi mất
Nhưng con biết trò chơi còn hay hơn của họ
Con làm mây nhé, mẹ làm mặt trăng,
Hai tay con ôm mặt mẹ, còn mái nhà ta là trời xanh

Mẹ ơi, kìa những ai đang gọi con dưới sóng rì rào
“Chúng ta ca hát sớm chiều, chúng ta đi mãi mãi, không biết là đi qua những đâu”
Con hỏi: “Nhưng làm thế nào tôi đuổi được theo bây giờ?”
Họ bảo: “Cứ đi, con cứ đi đến bờ biển, đứng im, con nhắm mắt lại, sóng sẽ cuốn con đi”
Con trả lời: “Nhưng đến tối mẹ tôi nhớ thì sao? Tôi làm thế nào mà rời mẹ tôi được?”
Họ bèn mỉm cười, và nhảy nhót, họ dần đi xa
Nhưng con biết trò chơi còn hay hơn của họ
Con làm sóng nhé, mẹ làm mặt biển,
Con lăn, lăn như làn sóng vỗ, tiếng con cười giòn tan vào gối mẹ
Và không ai trên đời này biết được là mẹ con ta đang ở đâu!

Clouds and waves

MOTHER, the folk who live up in the clouds call out to me
We play from the time we wake till the day ends.
We play with the golden dawn, we play with the silver moon.
I ask, “But, how am I to get up to you?” They answer, “Come to the edge of the earth, lift up your hands to the sky, and you will be taken up into the clouds.”
“My mother is waiting for me at home,” I say. “How can I leave her and come?”
Then they smile and float away.
But I know a nicer game than that, mother.
I shall be the cloud and you the moon.
I shall cover you with both my hands, and our house-top will be the blue sky.
The folk who live in the waves call out to me–
“We sing from morning till night; on and on we travel and know not where we pass.”
I ask, “But, how am I to join you?” They tell me, “Come to the edge of the shore and stand with your eyes tight shut, and you will be carried out upon the waves.”
I say, “My mother always wants me at home in the evening-
– how can I leave her and go?”
Then they smile, dance and pass by.
But I know a better game than that.
I will be the waves and you will be a strange shore.
I shall roll on and on and on, and break upon your lap with laughter.
And no one in the world will know where we both are.

Tôi đồng tình với nhận định của Hoa Xuyên Tuyết:  Bản dịch của Nguyễn Đình Thi thật tuyệt vời! “Đọc bài thơ này mà nao hết cả lòng. Tôi nhớ khi chúng tôi học lớp 6, lần đầu tiên được đọc bài này trong giờ Văn thực nghiệm, nghĩa là một bài thơ không có trong chương trình. Và chính là bản dịch của Nguyễn Đình Thi đây. Bao nhiêu năm qua đi, khi lớn lên, rồi làm mẹ, những lời thỏ thẻ đáng yêu mà du dương như tiếng nhạc của em bé này vẫn vang lên trong tôi, tuy tôi không thuộc hết vì hồi ấy còn bé quá. Nhưng đọc lại là nhớ ngay. Cảm động quá! Nhưng hình như từ “lơ lửng” trong câu “Họ bèn mỉm cười và lơ lửng họ bay đi mất” thì không hợp lắm. Tôi nghĩ nếu đọc là “Họ bèn mỉm cười và lửng lơ họ bay đi mất” thì đúng hơn, so về âm điệu ấy!”

Một bài bình thơ khác của Nguyễn Thị Thanh Huyền giáo viên dạy văn tại trường THPT chuyên Hùng Vương,  Việt Trì,  Phú Thọ do Tôn Tiền Tử đưa lên mạng cũng là một bài bình hay: “Ta-go là nhà thơ hiện đại lớn nhất của Ấn Độ. Ông đã để lại một gia tài văn hoá nghệ thuật đồ sộ. Thơ Ta-go thể hiện tinh thần dân tộc và dân chủ sâu sắc, tính nhân văn và tính trữ tình triết lí nồng đượm. Bài thơ Mây và sóng in trong tập thơ Trăng non là một tuyệt tác, nó là bài ca về tình nhân ái, là ước mơ và khát vọng về tự do, hạnh phúc của con người. Bài thơ là lời của em bé nói với mẹ, là vẻ đẹp mộng mơ của trẻ thơ, là vẻ đẹp thiêng liêng của tình mẫu tử.

Mở đầu bài thơ là cụm từ mẹ con ngọt ngào, sâu lắng, nó mở ra một không gian tràn ngập tình yêu thương giữa con và mẹ. Hình ảnh người mẹ không xuất hiện trực tiếp trong thơ nhưng lại có mặt khắp không gian câu chuyện, có mặt trong lời gọi ngọt ngào và trong lời kể của con. Mẹ đang trân trọng lắng nghe lời con kể: trên my có người gọi con, đây là hình ảnh mộng mơ của con. Có lẽ em bé đang ngước mắt nhìn bầu trời xanh trong, nhìn mây trắng nhởn nhơ bay trong vũ trụ bao la. Bé tưởng tượng mình sẽ lên được tân mây xành để cùng mây chơi với bình minh vàng, chơi với vầng trăng bạc và để khám phá những điều kì diệu trên vũ trụ bao la. Cuộc sống trên mây thật hấp dẫn tuổi thơ nhưng em bé vẫn luôn nghĩ đến mẹ. Cuộc đối thoại tưởng tượng giữa những người trên mây và em bé đã khẳng định tình mẫu tử thắm nồng. “Hãy đến nơi tận cùng Trái đất, đưa tay lên trời, cậu sẽ được nhấc bổng lên tận tầng mây. Mẹ mình đang đợi ở nhà” . Làm sao có thể rời mẹ mà đến được? Con yêu mẹ hiền nên không thể bỏ mẹ để lên đến tầng mây. Có hạnh phúc nào hơn sống bên mẹ của mình. Mặc dù trên mây thật lí tưởng.

Tình yêu mẹ và ước mơ diệu kì vẫn song hành trong con: Con là mây, mẹ sẽ là trăng. Hai bàn tay con ôm lấy mẹ và mái nhà ta sẽ là bầu trời xanh thắm.

Sự lựa chọn của con thật cảm động. Con sẽ luôn gần mẹ. Con và mẹ gần nhau như mây với trăng, mây với bầu trời xanh thẳm. Trong suy nghĩ của con, mẹ là vầng trăng toả sáng, con là áng mây quanh quẩn bên trăng, gắn bó với tràng. Tình mẫu tử thiêng liêng ấy càng biểu hiện sâu đậm hơn qua cuộc trò chuyện của em bé với những người trong sóng. “Bọn tớ ca hát từ sáng sớm cho đến hoàng hôn. Bọn tớ ngao du nơi này nơi nọ mà không biết từng đến nơi nao./ Nhưng làm thế nào mình ra ngoài đó được? Hãy đến rìa biển cả, nhắm nghiền mắt lại, cậu sẽ được sóng mang đi./ Buổi chiều mẹ luôn muốn mình ở nhà, làm sao có thể rời mẹ mà đi được?

Cuộc đối thoại tưởng tượng của những người trong sóng và em bé đã khẳng định được tình mẹ con sâu đậm. Mặc cho những người trong sóng thủ thỉ cùng em về một cuộc viễn du, mặc cho sóng vẫy gọi chào mời, sóng vỗ rì rầm trên mặt biển thật là thích thú. Tuổi thơ nào mà không thích rong chơi đây đó? Mơ ước được đi xa, nhưng, bé lại băn khoăn vì mẹ muốn mình ở nhà. Em không thể đi du ngoạn cùng mây và cũng không muốn đi chơi xa với sóng. Em mơ ước đến tận chân trời góc bể, mơ ước được khám phá những điều kì diệu trong chuyến đi chơi, nhưng em không thể nào rời mẹ. Với em, mẹ là nguồn vui nhất, nụ cười của mẹ là niềm vui của con.

Tình mẹ con thiêng liêng đã làm cho bé ước mơ nhiều điều, liên tưởng đến những trò chơi kì diệu. “Con là sóng và mẹ là bến bờ kì lạ / Con lăn, Lăn mãi rồi sẽ cười vang vỡ tan vào lòng mẹ./ Và không ai trên thế gian này biết mẹ con ta ở chốn nào“. Không có biển thì làm sao có sóng, cũng như không có mẹ thì làm sao có con.. Không có bến bờ thì sóng vỗ vào đâu, cũng khư không có mẹ thì cuộc đời con có ý nghĩa gì. Lòng mẹ bao dung như bến bờ, luôn rộng mở. Hình ảnh bến bờ kì lạ để sóng lăn, lăn mãi rồi sẽ cười vỡ tan được ví như hình ảnh người mẹ luôn vỗ về, ôm ấp con thơ. Mẹ mang đến hạnh phúc cho con, là chỗ dựa của cuộc đời con.

Hình ảnh thiên nhiên giữa sóng và bến bờ, giữa mây và trăng là những hình ảnh tượng trưng, nó thể hiện tấm lòng bao dung của mẹ, nó diễn tả tình mẫu tử thiêng liêng bất diệt. Tình mẫu tử ấy không gì chia cắt được, đúng như câu khẳng định của con: “Và không ai trên thế gian này biết mẹ con ta ở chốn nào“. Tình mẹ con trong câu thơ thật sâu đậm, đây là vẻ đẹp vĩnh hằng của tình mẫu tử. Dù thế gian có như thế nào chăng nữa nhưng tình mẹ con vẫn mãi mãi muôn đời, vẫn tồn tại theo thời gian, vẫn ẩn hiện trong không gian rộng lớn.

Với hình thức đối thoại lồng độc thoại và cách sử dụng, những hình ảnh thiên nhiên giàu ý nghĩa tượng trưng, bài thơ Mây và sóng của Ta-go đã ngợi ca tình mẹ con thắm thiết, thiêng liêng và bất diệt. Nó là điểm tựa để con hướng tới tương lai tươi sáng, hướng tới những điều tốt đẹp trong” cuộc đời”.

(Theo Nguyễn Thị Thanh Huyền, giáo viên dạy văn tại trường THPT chuyên Hùng Vương – Việt Trì – Phú Thọ)

Một số bản dịch khác cũng thật khéo

Mây và sóng
Bản dịch thơ của Đào Xuân Quý

Mẹ ơi, những người sống trên mây đang gọi con:
“Chúng ta chơi đùa từ khi thức dậy cho đến lúc chiều tà,
Chúng ta chơi với buổi sớm mai vàng,
Chúng ta chơi với vầng trăng bạc.”

Con hỏi: “Nhưng tôi làm sao mà lên được với các người?”
Họ trả lời: “Hãy đến bên bờ trái đất,
và đưa tay lên trời,
em sẽ được nhấc bổng lên mây.”

Con nói: “Mẹ tôi đang đợi ở nhà
Làm sao tôi có thể bỏ mẹ tôi mà đi được?”
Thế là họ cười rồi bay đi mất.
Nhưng con biết một trò chơi thích hơn trò ấy, mẹ ơi.
Con sẽ là mây và mẹ sẽ là trăng.
Con sẽ lấy hai tay trùm lên người mẹ,
Và mái nhà sẽ là bầu trời xanh thẳm.

Những người sống trong sóng nước gọi con:
“Chúng ta hát từ sớm mai đến tối,
Chúng ta ngao du khắp nơi này nơi nọ
mà không biết mình đã từng qua những nơi nào”.

Con hỏi: “Nhưng tôi làm sao gặp được các người?”
Họ bảo con: “Hãy đến chỗ gần sát biển
và đứng đó, nhắm nghiền mắt lại,
là em sẽ được đưa lên trên làn sóng”
Con bảo: “Buổi chiều, mẹ tôi luôn luôn muốn tôi ở nhà với mẹ –
Làm sao tôi có thể bỏ mẹ tôi mà đi được?”
Thế là họ cười, múa nhảy rồi đi qua.

Nhưng con biết một trò chơi hay hơn trò ấy
Con sẽ là sóng, mẹ sẽ là một bờ biển lạ lùng.
Con sẽ lăn, lăn, lăn mãi
và vỗ vào gối mẹ, cười vang.
Và không một ai trên cõi đời này biết nơi đâu mẹ con ta đang ở.

Mây và sóng
Bản dịch thơ của Nguyễn Khắc Phi

Mẹ ơi, trên mây có người gọi con:
“Bọn tớ chơi từ khi thức dậy cho đến lúc chiều tà. Bọn tớ chơi với bình minh vàng, bọn tớ chơi với vầng trăng bạc”.
Con hỏi: “Nhưng làm thế nào mình lên đó được?”
Họ đáp: “Hãy đến nơi tận cùng trái đất, đưa tay lên trời, cậu sẽ được nhấc bổng lên tận tầng mây”.
“Mẹ mình đang đợi ở nhà” – con bảo – “Làm sao có thể rời mẹ mà đến được?”
Thế là họ mỉm cười bay đi.
Nhưng con biết có trò chơi thú vị hơn, mẹ ạ.
Con là mây và mẹ sẽ là trăng.
Hai bàn tay con ôm lấy mẹ, và mái nhà ta sẽ là bầu trời xanh thẳm.
Trong sóng có người gọi con:
“Bọn tớ ca hát từ sáng sớm cho đến hoàng hôn. Bọn tớ ngao du nơi này nơi nọ mà không biết từng đến nơi nao”.
Con hỏi: “Nhưng làm thế nào mình ra ngoài đó được?”
Họ nói: “Hãy đến rìa biển cả, nhắm nghiền mắt lại, cậu sẽ được làn sóng nâng đi”.
Thế là họ nhảy múa lướt qua.
Nhưng con biết trò chơi khác hay hơn.
Con là sóng và mẹ sẽ là bến bờ kì lạ,
Con lăn, lăn, lăn mãi rồi cười vang vỡ tan vào lòng mẹ.
Và không ai trên thế gian này biết mẹ con ta ở chốn nào.

Mây và sóng
Bản dịch thơ của Phụng Vũ Cửu Thiên

Mẹ ơi, những người sống trên mây gọi con:
“Chúng ta chơi từ khi thức dậy đến lúc ngày tàn
Chúng ta chơi với bình minh vàng, với ánh trăng bạc”
Con hỏi: “Thế làm sao tôi lên ấy được?”
Họ đáp: “Hãy đến nơi tận cùng thế giới, đưa hai tay lên, con sẽ được nâng đến tận trời cao”.
“Nhưng mẹ tôi đang đợi ở nhà”, con nói, “Tôi đâu thể nào xa mẹ mà bay đến trăng sao!”
Họ chỉ cười, rồi, dần dần trôi vào đâu đó.
Nhưng con biết có trò hay hơn của họ
Con là mây và mẹ sẽ là trăng
Con ôm lấy mẹ, mái nhà sẽ là bầu trời xanh…

Trên sóng nước lại có người gọi con:
“Chúng ta ca hát từ tinh mơ đến đêm khuya
Chúng ta ngao du khắp chốn mà chẳng biết đến đâu”
Con hỏi: “Thế làm sao tôi đến đấy được?”
Họ đáp: “Hãy đến nơi tận cùng bờ biển, nhắm chặt mắt lại, con sẽ được bồng bềnh trên sóng nước”.
“Mẹ tôi đợi tôi về nhà lúc chiều tối”, con nói, “tôi đâu thể rời mẹ mà đi hát ca”.
Họ chỉ cười, nhảy múa và đi xa.
Nhưng con biết có trò còn hay hơn cả
Con là sóng, mẹ là bờ cát lạ
Con sẽ lăn, lăn mãi vào lòng mẹ cười vang
Và sẽ chẳng ai biết sẽ mẹ con mình ở đâu trên thế gian…

Ta chẳng muốn làm một mặt trời đỏ
Ôm hết mộng ngày
Ta chẳng muốn làm một ánh trăng bạc
Thâu hết đêm say

Cảm nhận thơ hay là một cách nhưng dịch và họa được thơ hay là chuyện khó. Ví như ‘Bài thơ cây táo’ chuyển ngữ từ tiếng Anh sang tiếng Việt . Quả táo là loài quả phổ biến nhất hành tinh. William Cullen Bryant (1794-1878) nhà thơ và nhà báo nổi tiếng Mỹ đã viết “Bài ca cây táo” tiếng Anh, tôi tạm chuyển ngữ tiếng Việt: “Cây táo này của chúng ta/ Ngọt ngào cho trăm suối hoa xuân/ Tải cánh bồn chồn của gió tháng năm/ Khi các hàng táo đưa hương thơm qua những cánh cửa mở/ Một thế giới của hoa cho ong,/ hoa cho phòng tĩnh lặng của cô gái mòn mỏi đợi chờ,/ nhánh hoa mừng cho trẻ sơ sinh, / Chúng ta trồng cây táo”. (Nguyên văn: “What plant we in this apple tree?/ Sweets for a hundred flowery springs/ To load the May-wind’s restless wings,/ When, from the orchard-row,/ he pours Its fragrance through our open doors;/ A world of blossoms for the bee,/ Flowers for the sick girl’s silent room, / For the glad infant sprigs of bloom,/We plant with the apple tree” Nguồn: Classic Quotes by William Cullen Bryant (1794-1878) US poet and newspaper editor).

Bài thơ “Mây và sóng” Tagore thật tuyệt vời, bốn bài chuyển ngữ đều thể hiện đúng nội dung tư tưởng, sự nhân hậu trong thơ Tagore nhưng để biểu đạt trở thành tâm hồn Việt giản dị xúc động ám ảnh thì những bài thơ diễn xuất hay quả là những viên ngọc quý.

Tagore di sản bảo tồn và phát triển.

Mùa hái quả (1916) – Fruit gathering

Người thoáng hiện – The fugitive

Những con chim bay lạc (1916) – Stray birds

Quà tặng tình nhân – Lover’s gift

Tâm tình hiến dâng (Người làm vườn) – The gardener

Thơ (1942) – Poems

Thơ dâng – Gitanjali: Song offerings

Trăng non – The crescent moon

Vượt biển – Crossing

thayoi

THƠ TỨ TUYỆT HOÀNG KIM

Lời Thầy dặn thung dung
Hoàng Kim

Việc chính đời người chỉ ít thôi.
Chuyên tâm đừng bận chuyện trời ơi.
Phúc hậu suốt đời làm việc thiện.
Di sản muôn năm mãi sáng ngời

2

Biết đủ thời nhàn sống thảnh thơi
Con, em và cháu vững tay rồi
Đời sống an nhiên lòng thanh thản
Minh triết mỗi ngày dạy học vui.

3

Thung dung đời thoải mái
ban mai của riêng mình
giọt thời gian điểm ngọc
thanh nhàn khát khao xanh.

4

Nhân hậu đời quên tuổi
Thanh nhàn vui tháng năm
Học không bao giờ muộn
Tỉnh lặng với chính mình

5

Quốc Công đạo làm tướng
Tiết Chế đức dụng nhân
Tự do ngời tâm đức
Văn chương ngọc cho đời

Thơ tứ tuyệt Hoàng Kim
LÊN THÁI SƠN HƯỚNG PHẬT
Hoàng KimHoang Long

Đường trần thênh thênh bước
Đỉnh xanh mờ sương đêm
Hoàng Thành Trúc Lâm sáng
Phước Đức vui kiếm tìm ….

xem tiếp
http://hoangkimlong.wordpress.com/category/len-thai-son-huong-phat

34

Tuyết rơi trên Vạn Lý
Trường Thành bao đổi thay
Ngưa già thương đồng cỏ
Đại bàng nhớ trời mây.

35
Ngược gió đi không nản
Rừng thông tuyết phủ dày
Ngọa Long cương đâu nhỉ
Đầy trời hoa tuyết bay..

36

TRUNG QUỐC MỘT SUY NGẪM
Hoàng KimHoang Long

Trung Quốc đường cao tốc
Xem tiếp >>

  Dạy và học 26 tháng 12(26-12-2021)


DẠY VÀ HỌC 26 THÁNG 12

Hoàng Kim
CNM365 Tình yêu cuộc sốnghttps://youtu.be/pG-A1XD32-MThung dung chào ngày mới; Em ơi can đảm lên;Lời Thầy luôn theo em; Dạy và học ngày mới; Dạy và học để làm; Quảng Bình đất Mẹ ơn Người; Ngày mới trên quê hương; Nếp nhà đẹp văn hóa;Champasak ngã ba biên giới; Vạn Xuân nơi An Hải; Cao Biền trong sử Việt; Lúa Việt tới Châu MỹHoàng Kim thơ cho con; Nếp nhà đẹp văn hóa; Vietnamese cassava today; Ngày mới lời yêu thương; Ngày 26 tháng 12 năm 1867 là ngày sinh Phan Bội Châu là danh sĩ và là nhà cách mạng Việt Nam hoạt động trong thời kỳ Pháp thuộc, mất năm 1940). Bài thơ “Chúc Tết Thanh Niên” của ông thật hào khí “Đúc gan sắt để dời non lấp bể Xối máu nóng rửa vết nhơ nô lệ”, cùng với bài thơ “Cảm tác vào nhà ngục Quảng Đông” “Vẫn là hào kiệt, vẫn phong lưu, Chạy mỏi chân thì hẵng ở tù. Đã khách không nhà trong bốn bể, Lại người có tội giữa năm châu. Dang tay ôm chặt bồ kinh tế, Mở miệng cười tan cuộc oán thù. Thân ấy hãy còn, còn sự nghiệp, Bao nhiêu nguy hiểm sợ gì đâu” là lời của bậc anh hùng, vị thiên sứ của dân tộc. Ngày 26 tháng 12 năm 1893 là ngày sinh của Mao Trạch Đông là người ảnh hưởng lớn nhất đến Trung Quốc cận hiện đại. Mao Trạch Đông làm Chủ tịch Đảng Cộng sản Trung Quốc từ năm 1943 đến khi qua đời ngày 9 tháng 9 năm 1976 là người có công trong việc gần như thống nhất được Trung Quốc, đưa Trung Quốc thoát khỏi ách áp bức của ngoại quốc kể từ cuộc Chiến tranh Nha phiến cuối thế kỷ 19, nhưng cũng bị phê phán về trách nhiệm của ông trong nạn đói 1959 – 1961 và những tai họa của Cách mạng văn hóa. Trung Quốc dưới thời ông được tập thể hóa nông nghiệp bằng hình thức công xã nhân dân. Chính sách Đại nhảy vọt) trong kinh tế đã để lại những hậu quả tai hại. Mao Trạch Đông cũng là người phát động Đại Cách mạng văn hóa vô sản, thường gọi là Cách mạng văn hóa đã trực tiếp hay gián tiếp gây ra cái chết cho khoảng 1 triệu người. Chủ tịch Mao Trạch Đông nắm chức vụ tối cao của thế hệ thứ nhất ngày 19 tháng 6 năm 1945 và lần lượt  tiếp nối là  Đặng Tiểu Bình, Giang Trạch Dân, Hồ Cẩm Đào, đến Tập Cận Bình. Ngày 26 tháng 12 năm 1982 là ngày máy tính cá nhân lần đầu tiên được Tạp chí Time bình chọn làm nhân vật của năm là tác phẩm nhân tạo vinh danh trí tuệ con người.; Bài chọn lọc ngày 26 tháng 12: Thung dung chào ngày mới; Em ơi can đảm lên;Lời Thầy luôn theo em; Dạy và học ngày mới; Dạy và học để làm; Quảng Bình đất Mẹ ơn Người; Ngày mới trên quê hương; Nếp nhà đẹp văn hóa;Champasak ngã ba biên giới; Vạn Xuân nơi An Hải; Cao Biền trong sử Việt; Lúa Việt tới Châu MỹHoàng Kim thơ cho con; Nếp nhà đẹp văn hóa; Vietnamese cassava today; Ngày mới lời yêu thương; Thông tin tại http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-26-thang-12;

HOÀNG LONG CÂY LƯƠNG THỰC
Cây Lương thực Việt Nam
E-Learning VNUHCM
https://elearning-vnuhcm.vn/course/view.php?id=63;
E_Learning NLU
Trường tôi nôi yêu thươnghttps://youtu.be/bsZo5e779EA
https://el.hcmuaf.edu.vn/mod/page/view.php?id=4250&forceview=1https://hoangkimlong.wordpress.com/category/hoang-long-cay-luong-thuc/https://hoangkimlong.wordpress.com/category/cay-luong-thuc-viet-nam/

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là tren-con-duong-di-san.jpg

DẠY VÀ HỌC ĐỂ LÀM
Hoàng Kim


Đường xuân theo chân Bác
Dạy và học để làm
Thung dung chào ngày mới
Đi như một dòng sông

Vui đi dưới mặt trời
Sự thật tốt hơn ngàn lời nói
Tỉnh thức cùng tháng năm
Ta về với đồng xuân

Thích nghi để tồn tại
Thầy bạn là lộc xuân
Sự cao quý thầm lặng
Ngày mới Ngọc cho đời

Học không bao giờ muộn
Việt Nam con đường xanh
Nông nghiệp sinh thái Việt
Lời Thầy luôn theo em.

Tự do ngời tâm đức
Văn chương ngọc cho đời

#CLTVN #hoangkimlong #Thungdung Dạy và học để làm. 18 đường dẫn yêu thích, đọc lại và suy ngẫm https://hoangkimlong.wordpress.com/category/day-va-hoc-de-lam

CÂY LƯƠNG THỰC VIỆT NAM

Cây Lương thực Việt Nam#CLTVN chủ yếu có lúa ngô, sắn, khoai. Ẩm thực Việt Nam, nguồn thức ăn đồ uống Việt (Food & Drink) chủ yếu bao gồm gạo, ngô, sắn, khoai, cây đậu đỗ thực phẩm, rau hoa quả, thịt, cá, … Dạy và học cây lương thực ngày nay ngày càng đòi hỏi sự hiểu biết chuyên sâu và có sự kết nối liên ngành, nâng cao sự liên kết hiệu quả sản xuất chế biến cung ứng tiêu thụ sản phẩm thành chuỗi giá trị ngành hàng. Mục tiêu nhằm.nâng cao giá trị chất lượng cuộc sống của người dân, tỏa sáng Việt Nam đất nước con người ra Thế giới về giống cây lương thực Việt, thương hiệu Việt, hiệu sách Việt, sinh thái nông nghiệp, ẩm thực, ngôn ngữ, lịch sử văn hóa Việt Nam. https://hoangkimlong.wordpress.com/category/#CLTVN

Một số sản phẩm Cây Lương thực Việt Nam thương hiệu Nông Lâm được nghiên cứu phát triển, trồng phổ biến trong sản xuất những năm qua, là lời biết ơn chân thành của các tác giả với Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh nhân kỷ niệm 65 năm ngày thành lập (19/11/1955-19/11/2020), Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Việt Nam đường tới IAS 100 năm (1925-2025) với thầy bạn và đông đảo nông dân. Bài viết này giới thiệu một số đúc kết tư liệu liên quan.dạy và học Cây Lương thực Việt Nam giúp bạn đọc tiện theo dõi. Cây Lương thực Việt Nam#CLTVN

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là viet-nam-con-duong-xanh.jpg



Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là lao-hoa-champa-nang-mekong.jpg
Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là 32ef8-43.jpg



Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là bi-mat-cao-bien-trong-su-viet-4.jpg
Con đường di sản Champasak Phú Yên và bản đồ cổ Cao Biền thời Đường **
Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là bi-mat-cao-bien-trong-su-viet-1.jpg
Champasak Phú Yên Con đường xưa mây trắng.Con đường di sản và bản đồ cổ Cao Biền thời Đường **

Chào ngày mới 26 tháng 12 http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-26-thang-12

DẠY VÀ HỌC ĐỂ LÀM
Hoàng Kim

Cây Lương thực Việt Nam
Việt Nam con đường xanh
Thầy bạn là lộc xuân
Vui đi dưới mặt trời.

Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong tác phẩm Nửa đêm, bản dịch của Nam Trân, sách Nhật ký trong tù (viết vào khoảng 29-8-1942 đến ngày 10-9-1943) đã viết: “Ngủ thì ai cũng như lương thiện, Tỉnh dậy phân ra kẻ dữ hiền; Hiền, dữ phải đâu là tính sẵn, Phần nhiều do giáo dục mà nên”. Bác Hồ đã suy nghĩ về vai trò, sứ mệnh của giáo dục. Đó là một sự nghiệp lớn. Bản tính, nhân cách, hạnh phúc của mỗi người là chính do cách suy nghĩ với sự cố gắng của người đó, đã sinh ra lớn lên tôi luyện trong hoàn cảnh nào, thông qua sự tiếp thu và thích ứng với nến giáo dục ấy của gia đình, nhà trường và xã hội đó.

Mục đích dạy và học

Mục đích sau cùng của DẠY VÀ HỌC là thấu suốt bản chất sự vật có lời giải đúng và LÀM được việc. Norman Borlaug lời Thầy dặn thật thấm thía “Đời người tối thiểu phải ăn, kế đến là học tập, công việc, nhà ở, quần áo và chăm sóc sức khỏe. Quanh ta còn nhiều mảnh đời bất hạnh. Hiểm họa nghèo đói vẫn bùng phát bất cứ lúc nào. Hãy luôn nhớ điều đó”; “
Hãy vươn tới những vì sao. Cho dù không chạm được vào nó, nhưng nếu cố gắng hết sức, ít ra, chúng ta cũng chạm được những hạt bụi của ngôi sao”; “Việc chính đời người chỉ ít thôi. Chuyên tâm đừng bận chuyện trời ơi. Phúc hậu suốt đời làm việc thiện. Di sản muôn năm mãi sáng ngời

Dạy và hoc để làm

Dạy và học thế giới văn minh ngày nay là học để làm (Learing to Doing; Learning by Doing). Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Không phải ai cũng huấn luyện được. Muốn huấn luyện thợ rèn, thợ nguội thì người huấn luyện phải thạo nghề rèn, nghề nguội. Người huấn luyện của đoàn thể phải làm kiểu mẫu về mọi mặt tư tưởng, đạo đức, lối làm việc, phải học thêm mãi. Cách thức huấn luyện phải làm sao cốt thiết thực, chu đáo hơn tham nhiều. Huấn luyện từ dưới lên trên, phải gắn liền lý luận với công tác thực tế, huấn luyện phải nhằm đúng yêu cầu, phải chú trọng việc cải tạo tư tưởng. Phải gắn chặt giữa học với hành, lý luận với thực tiễn, kinh nghiệm và thực tế phải đi cùng nhau. Nghiên cứu mà không thực hành là nghiên cứu suông. Thực hành mà không nghiên cứu thì thường hay bị mù quáng… Người huấn luyện nào mà tự cho mình đã biết đủ cả rồi, thì người đó dốt nhất”.

Biết đủ và cẩn trọng

Học làm người chí thiện, biết đủ và cẩn trọng. Cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491–1585) là nhà giáo, nhà tiên tri, nhà thơ triết lý, nhà văn hoá lớn của thời Lê -Mạc, bậc kỳ tài yêu nước thương dân, xuất xử hợp lý, hợp thời, sáng suốt. Cụ đã diễn giải rất rõ ràng, thấu nghĩa lý của sự buông bỏ và sự làm việc thiện đúng nghĩa đã được trích dẫn tại “Ngày xuân đọc Trạng Trình”
https://hoangkimlong.wordpress.com/category/ngay-xuan-doc-trang-trinh/,:

“Vẹn toàn điều Thiện là Trung, không vẹn toàn điều Thiện thì không phải là Trung. Tân là cái bến, biết chỗ dừng lại là bến chính, không biết chỗ dừng lại là bến mê. Nghĩa chữ Trung Chính là ở chỗ Chí Thiện. (Trung Tân quán bi ký, 1543). Làm việc thiện không phải vì công tích mà ở tấm lòng. Nay vừa sau cơn loạn lạc thì chẳng những thân người ta bị chìm đắm, mà tâm người ta càng thêm chìm đắm. Các bậc sĩ đệ nên khuyến khích nhau bằng điều thiện, để làm cho mọi người dấy nên lòng thiện mà tạo nên miền đất tốt lành. (Diên Thọ kiều bi ký, 1568).

Nhiều người chưa biết buông bỏ và hiểu lầm làm việc thiện. Biết đủ chính là buông, là “xả” trong “từ bi hỉ xả” minh triết của đạo Bụt. Không tranh giành chính là từ bi. Không tranh cãi chính là trí tuệ. Không nghe chính là thanh tịnh. Không nhìn chính là tự tại. Tha thứ chính là giải thoát. Dạy và học cẩn trọng “Nồi cơm của Khổng Tử” “Tổn thương sâu mới buông” “Rất đau nhưng không buông” là ba chuyện mẫu mực về sự cẩn trọng trong suy xét lời nói, việc làm để hiểu đúng bản chất sự việc, uốn nắn sai lầm và không làm tổn thương người khác.

Dạy và học ngày nay

Đánh giá giáo dục Việt Nam Nghị quyết số 29-NQ/TW Hội nghị lần thứ tám, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế đã nhận định: Ngành giáo dục đào tạo Việt Nam ngày nay đã có những bước phát triển, song vẫn còn tồn tại một số hạn chế. “1) chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo còn thấp so với yêu cầu, nhất là giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp. Hệ thống giáo dục và đào tạo thiếu liên thông giữa các trình độ và giữa các phương thức giáo dục, đào tạo; còn nặng lý thuyết, nhẹ thực hành. Đào tạo thiếu gắn kết với nghiên cứu khoa học, sản xuất, kinh doanh và nhu cầu của thị trường lao động; chưa chú trọng đúng mức việc giáo dục đạo đức, lối sống và kỹ năng làm việc. Phương pháp giáo dục, việc thi, kiểm tra và đánh giá kết quả còn lạc hậu, thiếu thực chất. 2) Quản lý giáo dục và đào tạo còn nhiều yếu kém. Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục bất cập về chất lượng, số lượng và cơ cấu; một bộ phận chưa theo kịp yêu cầu đổi mới và phát triển giáo dục, thiếu tâm huyết, thậm chí vi phạm đạo đức nghề nghiệp; 3) Đầu tư cho giáo dục và đào tạo chưa hiệu quả. Chính sách, cơ chế tài chính cho giáo dục và đào tạo chưa phù hợp. Cơ sở vật chất, kỹ thuật còn thiếu và lạc hậu, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn”.

Chiến lược giáo dục Việt Nam trích chủ đề Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2021-2030 “Khơi dậy khát vọng dân tộc thịnh vượng và hùng cường, phát huy mạnh mẽ giá trị va7n hóa, con người Việt Nam và sức mạnh thời đại, huy động mọi nguồn lực, phát triển nhanh và bền vững trên cơ sở khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo, đến năm 2030 trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thuộc nhóm trên của các nước có thu nhập trung bình cao.

Chiến lược giáo dục đào tạo tại mục 3 Phương hướng nhiệm vụ giải pháp kinh tế xã hội 2021- 2030 của Dự thảo các văn kiện trình Đại hội 13 của Đảng Cộng sản Việt Nam, tháng 2 năm 2020, xác định: “Đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế. Phát triển đội ngũ chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành; chú trọng đội ngũ nhân lực kỹ thuật, nhân lực quản trị công nghệ, nhân lực quản lý, quản trị doanh nghiệp, nhân lực quản lý xã hội và tổ chức cuộc sống, chăm sóc con người.

Đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp theo hướng mở, linh hoạt, bảo đảm thống nhất với đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đạo tạo. Chú trọng đào tạo tạo lại, đào tạo thường xuyên lực lượng lao động. Hình thành đội ngũ lao động lành nghề, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, gắn kết chặt chẽ giữa đào tạo và sử dụng lao động

Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học; từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học; giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội. Đào tạo con người theo hướng có đạo đức, kỷ luật, kỷ cương, ý thức trách nhiệm công dân, xã hội; có kỹ năng sống, kỹ năng làm việc, ngoại ngữ, công nghệ thông tin, công nghệ số, tư duy sáng tạo và hội nhập quốc tế.

Thực hiện phổ cập giáo dục mầm non. Đưa vào chương trình giáo dục phổ thông nội dung kỹ năng số và ngoại ngữ tối thiểu. Đẩy mạnh phân luồng sau trung học cơ sở; định hướng nghề nghiệp ở trung học phổ thông. Giảm tỉ lệ mù chữ vùng sâu, vùng xa, vùng dân tôc thiểu số.

Sắp xếp lại hệ thống trường học; phát triển hài hòa giữa giáo dục công lập và ngoài công lập, giữa các vùng, miền, ưu tiên các vùng đặc biệt khó khăn, vùng dân tộc thiểu số, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, và các đối tượng chính sách. Đa dạng hóa các loại hình đào tạo, hoàn thiện chính sách phát triển các cơ sở đào tạo ngoài công lập; thực hiện cơ chế tự chủ đối với đào tạo bậc  đại học phù hợp với xu thế chung của thế giới.

Thực hiện cơ chế tự chủ một số trường phổ thông tại các đô thị lớn, các nơi có điều kiện; thí điểm cơ chế cho thuê một số cơ sở giáo dục sẵn có theo nguyên tắc bảo đảm tất cả học sinh được đến trường. Đặc biệt chú ý phát hiện, bồi dưỡng, đãi ngộ, thu hút nhân tài cho phát triển kinh tế , xã hội. Nâng cao chất lượng, hiệu quả dạy và học ngoại ngữ, coi trọng dạy và học tiếng Anh.”

Chấn hưng giáo dục Việt Nam ngày nay giải pháp thực hành trên căn bản nhìn sâu vào thực trạng giáo dục đất nước, đánh giá đúng đắn và thực chất về tất cả những việc đã làm được và chưa làm được, suy xét kỹ nguyên nhân, hệ lụy, xác định hệ thống các giải pháp chỉnh đốn, tăng tốc phát triển trên căn bản đáp ứng tốt các yêu cầu cấp bách nêu trên. Sự đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đào tạo Việt Nam cần bắt đầu từ quan điểm chỉ đạo, nhận thức, định hướng đến mục tiêu, nội dung, phương pháp, cơ chế, chính sách, điều kiện bảo đảm thực hiện; từ tư duy vận hành xã hội, quản lý Nhà nước đến ngành học, hệ thống cơ sở giáo dục đào tạo tại tất cả các bậc học, thống kê và chuẩn hóa người dạy người học, cơ sở vật chất đào tạo; nhất là đội ngũ người thầy phải nêu cao hơn nữa bản lĩnh, đạo đức cách mạng, phải thực hành dân chủ trong trường học, tạo sự đoàn kết, nhất trí, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Nâng cao chất lượng dạy và học của mỗi trường là căn bản của sự đổi mới giáo dục Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Trong trường cần có dân chủ. Đối với mọi vấn đề, thầy và trò cùng nhau thảo luận, ai có ý kiến gì đều thật thà phát biểu. Điều gì chưa thông suốt thì hỏi, bàn cho thông suốt. Dân chủ nhưng trò phải kính thầy, thầy phải quý trò chứ không phải “cá đối bằng đầu”.

Vài góp ý với hội nghị văn hóa toàn quốc” của nhà nghiên cứu văn hóa Nguyễn Đắc Xuân là tâm huyết và rất đáng suy ngẫm.

Làm sao để nuôi dưỡng tài năng của trẻ?” Sự nuôi dưỡng trẻ em và việc phát huy tính thiên tài bẩm sinh trong mỗi con người. Sadhguru giải thích rằng cuộc sống không bao gồm những giải pháp có sẵn, mà đòi hỏi một mức độ tận tâm rất lớn. Xem thêm tại kênh Youtube Chính Thức của Sadhguru Tiếng Việt: https://www.youtube.com/c/SadhguruTiếngViệt video bài trao đổi này tại đây để tham khảo https://www.facebook.com/watch?v=370464078207740

Hoàng Kim

Tài liệu dẫn

GÓP VÀI Ý VỚI HỘI NGHỊ VĂN HÓA TOÀN QUỐC
Nguyễn Đắc Xuân

Sáng 24-11-21, tôi được mời dự trực tuyến Hội nghị Văn Hóa Toàn Quốc do TBT Nguyễn Phú Trọng chủ trì. Đầu truyền hình tại Huế do Bí thư tỉnh ủy Lê Trường Lưu phụ trách. Lần đầu tiên tôi được trực tiếp nghe lãnh đạo đất nước trình bày về vai trò cực kỳ quan trọng của văn hóa đối với đất nước. Hội nghị dành cho toàn bộ quan chức đứng đầu các ngành văn hóa ở Trung ương và một số địa phương. Chưa có ý kiến của những người cầm bút trong xã hội,hay các bậc hưu trí. Do đó sau khi dự Hội nghị xong, tôi thấy tôi phải đại diện cho các nhà nghiên cứu, các nhà văn hóa trong xã hội , tôi xin góp với Trung ương:

Thứ nhất: Ngoài giáo dục cho dân về tình yêu nước. tôi xin nhấn mạnh thêm giáo dục thêm cho dân “tự hào mình là người Việt Nam”. Tự hào mình là người Việt Nam, mình phải làm việc cho Việt Nam, Việt Nam phải giàu mạnh nhân ái cao cả như bài hát Việt Nam Việt Nam của nhạc sĩ Phạm Duy vậy;

Thứ hai, dưới góc nhìn của người nghiên cứu văn hóa: Văn hóa của một nước, một địa phương do tầng lớp quý tộc của nước đó, của địa phương đó tạo nên. Sau 35 năm đổi mới và hội nhập quốc tế Việt Nam đã dần dần hình thành một tầng lớp quý tộc thời xã hội chủ nghĩa. Tầng lớp quý tộc xã hội chủ nghĩa Việt Nam giàu có nhất, sang trọng nhất so với tất cả các tầng lớp quý tộc đã có trong lịch sử Việt Nam. Ăn đặc sản, trong các nhà hàng , khách sạn nhiều sao, ở nhà lầu cao tầng, biệt thự, biệt phủ, sân vườn chiếm hàng ngàn mét vuông đất ở, đi xe đời mới, dùng hàng ngoại, chơi Golf dùng điện thoại thông minh mới nhất,sang nhất, chữa bệnh nước ngoài, gửi con đi học nước ngoài, sính hoa hậu, đi du lịch nước ngoài, có nhà riêng ở các nước lớn, có tài khoản trong các Ngân hàng nổi tiếng thế giới, khi qua đời lễ tang rất lớn, xây lăng đắp mộ hàng ngàn mét vuông. Tầng lớp quý tộc xã hội chủ nghĩa nắm vững mọi quyền lực về tài chính và chính trị.Tầng lớp này chưa tạo được một nền văn hóa mới vì:Xã hội đang có hiện tượng: – Sính danh, sính bằng cấp, chức tước, quyền thế bằng con đường “Chạy”; Hậu quả phổ cập Giáo sư Tiến sĩ đầy mà loay hoay không tìm được cho giáo dục Việt Nam “Triết lý giáo dục Việt Nam là gì”. Chạy thì tốn tiền, được chức phải tham ô để bù lại; cán bộ không học thật nhờ chạy hoặc con ông cháu cha đưa vào nên làm sao hoàn thành được nhiệm vụ văn hóa theo ý lãnh đạo? -Tất cả đều có thể “chạy” nhưng đạo đức nhân cách thì những người có học thật rèn luyện chưa chắc đã có được, học giả thì làm sao có được? Thiếu đạo đức thiếu nhân cách làm sao có văn hóa ? – Thiếu kiến thức, thiếu khả năng mà sính danh nên phải báo cáo láo. Láo là kẻ thù của văn hóa. -Giao cho người dốt làm văn hóa họ sẽ làm hại văn hóa. Tôi tám năm ở chiến trường,leo rừng lội suối ra chiến trường bằng dép cao su – đặc biệt là trận Huế 1968 và Huế 1975 làm gì có máy bay, thiết giáp xe tăng yểm trọ cho chúng tôi đâu mà ngày nay trong Bảo tàng lịch sử Thừa Thiên Huế trưng bày máy bay với xe tăng rất hiện đại. Đi dép cao su mà chiến thắng quân đội Mỹ được trang bị tận răng mới ghê, chứ cũng máy bay, cũng thiết giáp thì còn nghĩa lý gì nữa. v.v. Bao giờ còn những biểu hiện học giả, chạy, tham nhũng, láo, thiếu đạo đức, thiếu nhân cách thì mọi cố gắng xây dựng văn hóa không bao giờ thành công. Đi dự Hội nghị văn hóa phải có vài ý kiến thế thôi. Nếu kể cho hết và đưa ra biện pháp khắc phục thì phải một pho sách dài nhiều tập nhung với tuổi 85 này không hy vọng.

KhongTu2

KHỔNG TỬ DẠY VÀ HỌC
Hoàng Kim

Hồ Chí Minh hữu ý hay vô tình đã chọn ngày 19 tháng 5 để thăm Khổng Tử. Ngày 19 tháng 5 là ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, cũng là ngày thành lập Việt Minh, khai sinh đường Hồ Chí Minh trong lịch sử. Chuỗi ba sự kiện lớn này đóng mốc son ngày 19 tháng 5 vào lịch sử Việt Nam và thế giới đối với nền độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và sự nghiệp thống nhất Tổ quốc Việt Nam. Tôi có viết bài “
Hồ Chí Minh trọn đời minh triết” với ba ý: Việt Nam Hồ Chí Minh biểu tượng Việt; Bác Hồ nói đi đôi với làm mẫu mực đạo đức; Bác Hồ rất ít trích dẫn. Hồ Chí Minh bình sinh rất ít trích dẫn nhưng đối với Khổng Tử, Hồ Chí Minh có riêng hai bài đánh giá kỹ và sâu về di sản Khổng Tử. Tới Bắc Kinh lần này, tôi ước nguyện thăm lúa siêu xanh và thăm Khúc Phụ.

Khổng Tử sinh năm 551 mất năm 479 Trước Công Nguyên là nhà hiền triết phương Đông nổi tiếng người Trung Hoa, suốt đời dạy người không mỏi, học người không chán. Các bài giảng và triết lý của ông, đặc biệt là đạo làm người và tu dưỡng đạo đức cá nhân, đã ảnh hưởng sâu rộng đến tư tưởng và đời sống của nhiều nước Đông Á suốt hai mươi thế kỷ qua.  Người Trung Hoa đời sau đã tôn xưng ông là Vạn thế Sư biểu (Bậc Thầy muôn đời). Chính phủ Trung Quốc hiện nay, trong nỗ lực truyền bá văn hóa Trung Hoa ra thế giới, đã thành lập hàng trăm Học viện Khổng Tử khắp toàn cầu.

Khổng Tử là người thế nào? Viết về Khổng Tử liệu có thức thời không? Học để làm điều gì ở Khổng Tử?

KhongTu1

HỌC ĐỂ LÀM ĐIỀU GÌ Ở KHỔNG TỬ?

Đức Khổng Tử có nhiều triết lý sâu sắc. Khổng Tử suốt đời dạy người không mỏi, học người không chán, ưu tiên dạy và học đạo làm người, đạo đức cá nhân. Khổng Tử là vầng trăng cổ tích, bậc Thầy muôn đời. Tôi tự suy ngẫm, nhận thức mới và thấm thía: Học mà không hành, dạy nhiều vô ích. Sống không phúc hậu, cố gắng vô ích.

Học để làm điều gì ở Khổng Tử của Hồ Chí Minh là trí tuệ Việt Nam. Sâu sắc thay thơ  “Thăm Khúc Phụ/ Hồ Chí Minh/ Mười chín tháng năm thăm Khúc Phụ,/ Thông già, miếu cổ thảy lu mờ./ Uy quyền họ Khổng giờ đâu nhỉ?/ Bia cũ còn soi chút nắng tà”. “Nếu Khổng Tử sống ở thời đại chúng ta và nếu ông khăng khăng giữ những quan điểm cũ thì ông sẽ trở thành phần tử phản cách mạng. Chính phủ Trung Quốc đã làm mất đi một thể chế cũ trái với dân chủ. Còn những người An Nam chúng ta hãy tự hoàn thiện mình, về mặt tinh thần bằng đọc các tác phẩm cXem tiếp >>

  Dạy và học 25 tháng 12(26-12-2021)

 

DẠY VÀ HỌC 25 THÁNG 12
Hoàng Kim
CNM365 Tình yêu cuộc sốngThung dung chào ngày mới; Quảng Bình đất Mẹ ơn Người; Ngày mới trên quê hương; Nếp nhà đẹp văn hóa;Champasak ngã ba biên giới; Vạn Xuân nơi An Hải; Cao Biền trong sử Việt; Lúa Việt tới Châu MỹHoàng Kim thơ cho con; Nếp nhà đẹp văn hóa; Vietnamese cassava today; Ngày mới lời yêu thương; Chúc mừng Giáng Sinh an lành và Năm Mới hạnh phúc.Đêm Giáng Sinh là lễ hội toàn cầu thường được mừng từ tối ngày 24 tháng 12 và được cử hành chính thức vào ngày 25 tháng 12. Lễ chính thức ngày 25 tháng 12 được gọi là “lễ chính ngày”, còn lễ đêm 24 tháng 12 gọi là Đêm Giáng Sinh. Ngày 25 tháng 12 năm 1936, Sự biến Tây An: Tưởng Giới Thạch là Ủy viên trưởng Ủy ban quân sự Chính phủ Quốc dân, Viện trưởng Hành chính Viện Trung Hoa Dân Quốc được trả tự do và đích thân Trương Học Lương đưa ông đi máy bay về Nam Kinh. Ngày 25 tháng 12 năm 1950, Chiến tranh Đông Dương: Chiến dịch Trần Hưng Đạo khởi đầu khi quân Liên hiệp Pháp tiến công vào lãnh thổ do Việt Minh kiểm soát ở Vĩnh Yên Phú Thọ. Ngày 25 tháng 12 năm 2000, Các đại diện của chính phủ Việt Nam và Trung Quốc ký kết Hiệp định Phân định Vịnh Bắc Bộ và Hiệp định hợp tác nghề cá ở Vịnh Bắc Bộ tại Bắc Kinh; Bài chọn lọc ngày 25 tháng 12: Thung dung chào ngày mới; Quảng Bình đất Mẹ ơn Người; Ngày mới trên quê hương; Nếp nhà đẹp văn hóa;Champasak ngã ba biên giới; Vạn Xuân nơi An Hải; Cao Biền trong sử Việt; Lúa Việt tới Châu Mỹ; Hoàng Kim thơ cho con; Nếp nhà đẹp văn hóa; Vietnamese cassava today; Ngày mới lời yêu thương; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlong và  https://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-25-thang-12;  

QUẢNG BÌNH ĐẤT MẸ ƠN NGƯỜI
Hoàng Kim

Quảng Bình đất Mẹ ơn Người
Tổ tiên cát bụi nhiều đời thành quê
Đinh ninh như một lời thề
Trọn đời trung hiếu để về dâng hương

Lòng son trung chính biết ơn
Quê hương chung đúc khí thiêng Quảng Bình
Về quê kính nhớ Tổ tiên
Mừng vui giữa chốn bạn hiền người thân

Đất trời ngày mới thanh tân
Thung dung thăm hỏi ân cần níu chân.
Đường xuân như một dòng sông
Việt Nam thống nhất thác ghềnh đến nơi.

Hồn chính khí bốc lên ánh sáng
Sáng choang ngọc đá giữa hoang tàn’.
Tâm nhân văn lắng đọng tinh hoa
Hoa Đất Hoa Người trong cõi Bụt

HOA ĐẤT CỦA QUÊ HƯƠNG
Hoàng Kim

Đất nặng ân tình đất nhớ thương
Ta làm hoa đất của quê hương
Để mai mưa nắng con đi học
Lưu dấu chân trần với nước non.

NHỚ CẬU HOÀNG THÚC TẤN
Hoàng Kim

Mai trắng tóc người cũng trắng trong
Đường trần lên thấu đỉnh cao phong
Hoàng gia Mạc tộc ngời tâm đức
Nhân hậu an nhiên chẳng thẹn lòng

NHỚ CẬU HOÀNG THANH LUẬN
Hoàng Kim

Nhớ cậu đường xa về tảo mộ
Tổ Hoàng gốc cũ quý người thân
Cầu thương cầu hiếu tình quê vẹn
Mến cháu con xa Liệu nghĩa gần.

BAN MAI ĐỨNG TRƯỚC BIỂN
Hoàng Kim


Đảo Yến trong mắt ai
Ban mai đứng trước biển
Thăm thẳm một tầm nhìn
Vị tướng của lòng dân

Video yêu thích
Bình yên đảo Yến. (QBĐT) – Đảo Yến nằm cách Đèo Ngang 7 km về phía nam, thuộc thôn Thọ Sơn, xã Quảng Đông, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình. Hòn đảo này mang vẻ đẹp hoang sơ, yên bình và được bao quanh bởi màu xanh ngút ngàn của cây cỏ. Cùng với Vũng Chùa – nơi yên nghỉ của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Vũng Chùa – Đảo Yến sẽ là điểm đến giá trị, kết nối với Hoành Sơn Quan, đền thờ Liễu Hạnh Công Chúa… tạo thành một tuyến du lịch đầy thu hút. Nguồn video : Bình yên đảo Yến báo Quảng Bình điện tử người thực hiện: Diệu Hương – Xuân Hoàng – Nguyễn Chiến

NGÀY MỚI TRÊN QUÊ HƯƠNG
Hoàng Kim

Đêm Giáng Sinh an lành
Ông Già Noel mở cửa
Chuông ngân nga mười hai giờ đêm
Đông tàn xuân đã đến

Sáng mai
Em dậy đi làm sớm
Trời còn se lạnh
Đừng quên giữ ấm nghe em

Lời nhắn yêu thương
Tình yêu đầy đặn
Thung dung cuộc đời
Ngày mới trên quê hương.

NGÀY MỚI LỜI YÊU THƯƠNG
Hoàng Kim

Khoác thêm tấm áo trời se lạnh
Đông tàn xuân đến đó rồi em
Phúc hậu mỗi ngày chăm việc thiện
Yêu thương xa cách hóa gần thêm

New day words of love

Wearing sweater when it’s rather cold.
Winter comes to an end ,and early Spring is coming.
Everyday, we care good deeds kindly.
Distant love turn out to be close together.

THUNG DUNG CHÀO NGÀY MỚI
Hoàng Kim


A Na Bình Minh An
Chốn vườn thiêng cổ tích
Thung dung chào ngày mới
Thanh nhàn cùng tháng năm
Hoàng Gia Ngọc Phương Nam
https://youtu.be/pG-A1XD32-M

CHAMPASAK NGÃ BA BIÊN GIỚI
Hoàng Kim
liên khúc thơ cậu
Cương Hoàng Gia


“Trong phút chốc mình đi … qua ba nước
Khác gì đâu? Cây cỏ vẫn quây chung
Bụi lau mải phất cờ quanh cột mốc
Một nhành cây che nắng chẳng phân vùng!” (1)

Champasak là ngã ba biên giới
Chốn đất thiêng Việt Miên Thái và Lào
Nơi năm sông về chung cùng nguồn chính
Cửu Long chia chín dòng đây là chốn hợp lưu

Đất di sản ngàn năm lưu dấu chân của Phật
Vương quốc Lan Xang tỉnh lỵ
Pakse
Chùa Wat Phou là Di sản Thế giới
Champasak nối Núi Nhạn, Đá Bia, Kỳ Lộ, Cao Vương

Khu bảo tồn Quốc gia, Tràm Chim,
Lúa gạo, sắn, cà phê, chợ chính cầu Nippon
Champasak nơi ngã ba biên giới
Lễ buộc chỉ cổ tay thăm thẳm tầm nhìn

Dấu chân Bụt ước con em về lại
Thuyền độc mộc,
Ngọc phương Nam,
Lời nguyền, Vạn Xuân nơi An Hải
Con đường di sản Champasak Phú Yên huyền thoại
Vẫn còn đó đinh ninh.

Con đường di sản Champasak Phú Yên và bản đồ cổ Cao Biền thời Đường

VẠN XUÂN NƠI AN HẢI
Hoàng Kim

Vạn Xuân thế nước ngàn năm
Cao Vương đã chọn nước Nam tìm về.
Địa linh nhân kiệt chở che
An Hải, Vạn Phúc ước thế tròn duyên (1).

“Cái quạt” Nguyễn Bính “Mưa xuân”
xin nối đôi vần kể chuyện nước Nam

“Cái quạt mười tám cái nan
Anh phất vào đấy muôn vàn nhớ nhung
Gió sông, gió núi, gió rừng
Anh niệm thần chú thì ngừng lại đây.

Gió Nam Bắc, gió Đông Tây
Hãy hầu công chúa thâu ngày, thâu đêm
Em ơi công chúa là em
Anh là quan trạng đi xem hoa về

Trên giời có vẩy tê tê
Đôi bên ước thề duyên hãy tròn duyên
Quạt này trạng để làm tin
Đêm nay khép mở tình duyên với nàng.” (2)

Lã Thị Nga vợ Cao Biền
Tổ sư nghề lụa Hà Đông đền thờ
Dân làng Vạn Phúc đến giờ
Đức thương công lớn, phước nhờ ơn thiêng (3)

“Đầm Môn xóm Cát Cao Biền
có đôi chim Nhạn đang chuyền cành Mai”
“Ngó ra thấy mả Cao Biền.
Nhìn vào thấp thoáng Ma Liên Chóp Chài”(4)

‘Đá Dựng’ ‘miếu cổ Cao Quân’
‘Giang sơn bến Lội’ ‘Hoành Linh Long Xà’
‘Tử Sinh’ ‘Cao Cát Mạc Sơn’
‘Tầm Long’ ‘Địa Lý Toàn Thư’ lưu truyền (5).

Báu vật nơi đất Việt Hoàng Kim Pho tượng Phật Quan Âm trở về từ biển cả chùa Thanh Lương Phú Yên
đẹp và kỳ lạ quá ! Thành Hoàng Lương Văn Chánh
Châu Văn Tiếp Phú YênLúa siêu xanh Việt Nam. Mằng Lăng lưu chữ Việt. Lời thương nơi Tháp Nhạn An Hải mả Cao Biền Ghềnh Đá Đĩa Tuy An Báu vật nơi đất Việt.

(2) Cái quạt, Mưa xuân thơ Nguyễn Bính
(1) (3) (4) (5)
Cao Biền trong sử Việt, Báu vật nơi đất Việt thơ và ảnh Hoàng Kim

CAO BIỀN TRONG SỬ VIỆT
Hoàng Kim

Cao Vương1  tinh đẩu trời xứ Bắc
Lão sư 2 An Hải đất phương Nam
Sống gửi chốn xưa lưu thiên cổ 3
Thác về đất mới  đón Vạn Xuân4
Vùng cao tụ khí bình an tới 5
Biển thẳm hoàn lưu chính khí về 6
Danh tướng Lão sư 2 Thầy địa lý 7
Nghe tiếng nghìn năm ta xuống xe 8

Hoàng Kim viếng mộ Cao Vương đất Phú Yên, thành tâm viết bài thơ chiêu tuyết.Cao Biền trong sử Việt. Bài viết này đánh giá lại Cao Biền là một tướng nhà Đường nhưng hai vợ chồng ông đã bỏ phương Bắc để về làm dân của nước Nam. Mộ Cao Biền ở Phú Yên. Đền thờ vợ ông ở Hà Đông,

(1) Chiếu dời đô do vua Lý Thái Tổ ban hành vào mùa xuân năm 1010 để chuyển kinh đô của nước Đại Cồ Việt từ Hoa Lư (Ninh Bình) ra thành Đại La (Hà Nội). (trích) Huống chi thành Đại La, kinh đô cũ của Cao Vương, ở vào nơi trung tâm trời đất, được thế rồng cuộn hổ ngồi, chính giữa nam bắc đông tây, tiện nghi núi sông sau trước. Vùng này mặt đất rộng mà bằng phẳng, thế đất cao mà sáng sủa, dân cư không khổ thấp trũng tối tăm, muôn vật hết sức tươi tốt phồn thịnh. Xem khắp nước Việt đó là nơi thắng địa, thực là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương, đúng là nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời.Trẫm muốn nhân địa lợi ấy mà định nơi ở, các khanh nghĩ thế nào? Bản dịch của Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, in trong Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1993). Nguyên văn: 况高王故都大羅城。宅天地區域之中。得龍蟠虎踞之勢。正南北東西之位。便江山向背之宜。其地廣而坦平。厥土高而爽塏。民居蔑昏墊之困。万物極繁阜之丰。遍覽越邦。斯爲勝地。誠四方輻輳之要会。爲万世帝王之上都。朕欲因此地利以定厥居。卿等如何。

(2) Mả Cao Biền ở Đồng Môn, xóm Cát, thôn 5 xã An Hải, Tuy An, Phú Yên. Cao Biền thời Đường được phong Cao Vương, tĩnh Hải Quân

(3) Lưu thiên cổ: Cựu Đường thư, Tân Đường thư Tư trị Thông giám, là ba bộ sách chính sử của Trung Quốc lưu danh thiên cổ Cao Biền

(4) Đón Vạn Xuân: Vạn cổ thử giang san. Cao Biền buông kiếm tìm về An Hải, sống và chết làm dân Việt Nam. Nhà Đường sụp đổ., Chu Ôn lập nhà Hậu Lương. Khúc Thừa Dụ nhân thế lập nước Vạn Xuân. Việt Nam bắt đầu thời độc lập tự chủ.

(5) Bình an tới: Ngôi đất Cao Biền chọn là làng An Hải, đầm Ô Long Phú Yên. Thời Cao Vương, ông đã lập tuyến phòng thủ từ Ô Long Vũng Rô biển Phú Yên theo sinh lộ Đắk Lắk nối Stung Treng tới hợp lưu sông Me kong (xem bản đồ hình 1 thời hậu Đường) kết nối sinh lộ Bắc Nam dọc Trường Sơn. Mặt Bắc ông đã lập tuyến phòng thủ chắc tiếp ứng nhanh đắp thành Đại La kết nối Vân Đồn của Tĩnh Hải quân, và Lĩnh Nam Đông đạo (nối Hà Nội với Hải Phòng và Quảng Châu ngày nay) nối thủy lộ sông Hồng sông Ka Long sông Bắc Luân.

(6) Chính khí về : chùa Thanh Lương có tượng Phật Quan Âm từ biển dạt vào

(7) Danh tướng đại sư thầy địa lý là ba đánh giá chính về Cao Biền

(8) Nghe tiếng nghìn năm tôi xuống xe “
Nguyễn Du viếng mộ Liễu Hạ Huệ” “bia tàn chữ mất vùi gai góc/ nghe tiếng nghìn năm tôi xuống xe”. Cao Biền dòng dõi tướng môn, quản lý Thần Sách quân thân tín bên cạnh vua. Cao Biền là danh tướng, đạo sư, thầy địa lý công trình sư và nhà tiên tri thời hậu Đường qua đúc kết bởi ba danh mục chính sử Trung Quốc là Cựu Đường Thư, Tân Đường Thư, Tư Trị Thông Giám của ba Tể tướng sử quan và danh sĩ tinh hoa Trung Quốc lần lượt là Lưu Hu, Âu Dương Tu ,Tư Mã Quang. Cao Biền là con người có thật trong lịch sử, giỏi như Gia Cát Vũ Hầu Khổng Minh thời Hán mạt Tam quốc trước đó. Sự khác biệt là Khổng Minh cúc cung tận tụy đến chết mới thôi, còn Cao Biền thì gặp lúc mạt Đường, nhiều kẻ mưu mô, lũ phương sĩ, hoạn quan, quyền thần và kẻ hám lợi cầu danh khắp mọi nơi, với sự kiệt sức của một triều đại đã khủng hoảng đến cực điểm Đặc biệt, Cao Biền bị bó tay khi vua kém tài đức, buông bỏ chính sự, mê muội đồng bóng, tin theo lời dèm pha và mưu kế nghịch tặc tìm cách mượn tay giặc giết lần giết mòn thân tín của ông vì sợ Cao Biền tiếm quyền. Nguy hại thay vua giỏi bị hoạn quan đầu độc chết; vua kém, nhỏ tuổi, bất tài, dễ khiến thì bị đẩy lên ngôi. Sự bi thảm của Cao Biền là ở chỗ đó nhưng sự kiệt xuất của ông là di sản ngàn năm còn mãi với thời gian.“Cao Biền cuộc đời và thời thế” đối chiếu sử Việt tại Đại Việt sử ký toàn thư (1675), Nguyễn Công Văn Đạt phổ ký Gia phả Trạng Trình của Vũ Khâm Lân (1743) Việt sử tiêu án, Đại Việt sử ký tiền biên của Ngô Thì Sĩ (1775), Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim (1919) với nhiều dẫn liệu về Cao Biền đặc biệt trong Thiên đô chiếu của Lý Thái Tổ năm 1010, Thiền Uyển Tập Anh (Ngô Đức Thọ và Nguyễn Thúy Nga dịch từ bản chữ Hán được khắc in năm 1715. Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 1990) cùng với các huyền tích, huyền thoại và sự đánh giá của các sử thần Lê Văn Hưu, Ngô Sĩ Liên. Đồng thời tập hợp gạn đục khơi trong các giai thoại ‘Lẩy bẫy như Cao Biền dậy non’ ‘Long mạch đất Việt và Cao Biền’ để có được thông tin Chuyện Cao Biền tích cũ viết lại. Chân dung Cao Biền khá trùng khớp với nhận định trên. Ông là một danh tướng, đạo sư, thầy địa lý công trình sư và nhà tiên tri thời hậu Đường. Ông là một danh tướng khi đánh bại các cuộc xâm nhập của Nam Chiếu, giữ yên cương vực Tĩnh Hải (trong đó có phần đất của Việt Nam ngày nay). Ông cũng cai trị có phép tắc khi nhậm chức Hữu kim ngô đại tướng quân (868), kiểm hiệu công bộ thượng thư (870), Thiên Bình tiết độ sứ (873), Tây Xuyên tiết độ sứ (874), Thành Đô doãn (875) Kinh Nam tiết độ sứ (878), Trấn Hải tiết độ sứ (879), Hoài Nam tiết độ sứ (880) được dân chúng ngợi ca, nhưng ông đã thất bại trong việc đẩy lui cuộc nổi dậy của Hoàng Sào, ông bị coi là phản thần tạo phản ở Hoài Nam quân, bị Tần Ngạn mưu hại, (nhưng sử Việt và tâm thức dân gian thì cho rằng vợ chồng Cao Biền đều chết ở đất phương Nam , vợ Cao Biền là bà Lã Thị Nga tổ sư nghề dệt lụa Hà Đông đền thờ tại làng Vạn Phúc, Hà Đông ngày nay, Cao Biền thì thành công sau kế “kim thuyền thoát xác” để Cao Biền sau đó về chết ở Đầm Môn xóm cát, thôn 5, An Hải, Tuy An, Phú Yên .Ông bà Cao Biền sống và chết ở đất Việt.Viếng mộ Cao Biền đất Phú Yên là thăm và chiêu tuyết một danh tướng, đạo sư, thầy địa lý công trình sư và nhà tiên tri thời hậu Đường mà sự nghiệp của ông dẫu khen hay chê, dẫu bia đời bia miệng công tội ngàn năm thì dấu ấn và bài học lịch sử vẫn đọng mãi với thời gian. Bài học thấm thía nhất là cuối đời ông đã rũ bỏ kẻ làm vua không xứng để biết tìm về với dân và giá trị cốt lõi. Tuy ông về nơi cát đá nhưng dấu ấn của ông thì không thể xóa nhòa. Người ấy nay đã trãi trên ngàn năm về vùng bình an sông núi hữu tình ở vùng an hải tên xưa và nay làm bạn với đất phú trời yên dân lành . Kẻ sĩ trong thiên hạ quý người thân thương, tri âm tri kỷ, trọng hiền tài, thầy quý bạn hiền, việc làm và lời nói luôn giữ gìn chí thiện, minh triết, thật không thẹn với lòng mình. xem tiếp Cao Biền trong sử Việthttps://hoangkimlong.wordpress.com/category/cao-bien-trong-su-viet/

TÍCH XƯA CHUYỆN CAO BIỀN

Cao Biền là kiêu vệ tướng quân thời Đường mạt,
Chịu mệnh của vua đánh Nam Chiếu cứu An Nam.
Ông dẫn Thần Sách quân là đội Ngự lâm quân
Cấp tốc xuống Quảng Châu điều binh cứu Việt.

Chuyện giống “Thủy Hử” sau này với Lư Tuấn Nghĩa,
Lý Duy Chu nắm hai vạn quân không chịu phát binh
Mưu hiểm mượn tay Nam Chiếu để giết Cao Biền.
Ông vẫn thắng với 5000 thủy quân nhờ tài thao lược.

Cao Biền xây La Thành cứu 40 vạn dân và chặn giặc.
Vua Lý Công Uẩn “Chiếu dời đô” đã nói thật rõ ràng:
“Hoàng Thành Thăng Long công lớn Cao Vương”
La thành – Hải Phòng – Bắc Luân ngàn năm di sản.

Ông trị thủy sông Tô Lịch thoát lũ chuyển mạch sông
Nối tam giác châu Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Châu
Phòng thủ chắc, tiếp viện nhanh, tầm nhìn sâu sắc
Lê Văn Hưu, Ngô Sĩ Liên, Ngô Thì Sĩ đều khen ngợi

Cao Biền là bậc kỳ tài Tịnh Hải Quân an dân thật giỏi
Lê Quý Đôn chép thơ ông Nam Tiến năm năm
Tuyến phòng thủ Cao Biền bản đồ cổ thời Đường
Nối biển với hợp lưu Me kong tầm nhìn thiên nhãn

Vua Đường bị bọn hoạn quan thuật sĩ mưu mô
Chúng mượn tay địch mạnh để hãm hại hiền tài
Trương Lân, Chu Bảo, Cao Tầm, Lã Thị Nga
Tướng giỏi người thân Cao Biền bị ngầm giết hại

Ông chịu tiếng phản thần khi vua chẳng ra vua
Vợ chồng ông đều trở thành dân Việt Nam
Vợ ông đền làng Vạn Phúc là tổ sư nghề lụa Hà Đông
Mả Cao Biền ở Đầm Môn, Xóm Cát, An Hải, Phú Yên

Bà Lã Thị Nga vợ Cao Biền làm thành hoàng nghề dâu tằm
đền miếu chứng tích ngàn năm ở làng Vạn Phúc Hà Đông
Mộ Cao Biền ở Đầm Môn An Hải Phú Yên
Vợ chồng sống chết thủy chung đất phương Nam
Vạn Kiếp tình yêu người gửi lại.
Ngàn năm Đại Lãnh nhạn quay về.

Chuyện xưa nay soi gương kim cổ.
Kỳ tài non sông bền vững âu vàng.
Bí mật Cao Biền sử Việt ngàn năm.
Hoành Linh Đá Dựng miếu cổ quê tôi
Thế núi mạch sông muôn năm Tổ Quốc.
Chúc người nay nhìn sâu vận nước.
Cẩn trọng giữ gìn minh triết thung dung
Lịch sử công bằng vì nước vì dân.

1] Cao Biền tên tự là Thiên Lý 千里, tên chữ Hán là Gāo Pián, 高骈, 高駢,  tại các thư mục cổ Tư trị Thông giám (1), quyển 250-257, Cựu Đường thư (2) quyển 151,182 , Tân Đường thư (3) quyển  224 hạ). Ông là một danh tướng, đại sư, nhà phong thủy trứ danh và nhà tiên tri thời hậu Đường, có tài trí thông tuệ hơn người ví như Gia Cát Khổng Minh thời Tam Quốc. . Tác phẩm Cao Biền “An Nam tống Tào Biệt Sắc quy triều” cùng với những huyền thoại dã sử “Long Mạch đất Việt với Cao Biền”, “Lẩy bẩy như Cao Biền dậy non” tấu thư, tấm bản đồ bí ẩn đã hé lộ thông tin quý để góp phần nhận thức lại đầy đủ hơn về thân phận con người của một bậc kỳ tài,  đồng thời cũng thấm thía bài học lịch sử về khởi nghĩa nông dân, thủ đoạn tranh đoạt nội bộ, nạn cát cứ, để cuối cùng Cao Biền chọn tìm về đất Việt.
2] Cao Biền sinh năm 821 mất ngày 24 tháng 9, năm 887, tước vị là Tiết độ sứ Tĩnh Hải quân Cao Vương, Cao Thái úy, Lạc Điêu thị ngự (落雕侍御) ; Chức quan là Kiểm giáo Thái úy, Chư đạo Hành doanh binh mã Đô thống; Cao Biền trở thành danh tướng khi đánh bại các cuộc xâm nhập của Nam Chiếu, giữ yên cương vực Tĩnh Hải (trong đó có phần đất của Việt Nam ngày nay). Ông cũng cai trị có phép tắc khi nhậm chức Hữu kim ngô đại tướng quân (868), kiểm hiệu công bộ thượng thư (870), Thiên Bình tiết độ sứ (873), Tây Xuyên tiết độ sứ (874), Thành Đô doãn (875) Kinh Nam tiết độ sứ (878), Trấn Hải tiết độ sứ (879), Hoài Nam tiết độ sứ (880) được dân chúng ngợi ca, nhưng ông đã thất bại trong việc đẩy lui cuộc nổi dậy của Hoàng Sào, ông bị Tân Đường thư (3) quyển  224 hạ coi là phản thần tạo phản ở Hoài Nam quân (Sự dùng từ “phản thần” của Âu Dương Tu được coi là tuyệt hay. Cao Biền đến lúc đó đã chính thức rũ bỏ Đường Hy Tông vì chế độ Đường mạt không còn cơ cứu chữa) . Theo chính sử, năm 887, Cao Biền bị Tần Ngạn giam cầm rồi sát hại  nhưng theo dã sử Việt thì Cao Biền khi trốn về Nam đã chứng kiến vợ là Lã Thị Nga cùng toàn gia quyến của người cháu họ là Cao Tầm làm Tiết Độ Sứ ở Giao Châu đã bị những kẻ tranh đoạt thời mạt Đường sát hại thì ông đã chọn về nơi an nghĩ nơi vùng đất ẩn long tiếp giáp giữa Tỉnh Hải và Lâm Ấp tại xóm Cát đầm Môn, An Hải, Tuy An, Phú Yên của đất phương Nam.

3] Tư trị thông giám là một cuốn biên niên sử quan trọng của Trung Quốc, với tổng cộng 294 thiên và khoảng 3 triệu chữ. Tác giả chính của cuốn sử này là Tư Mã Quang, tể tướng cũng là nhà sử học danh tiếng thời Tống. Đây là cuốn sách mà chủ tịch Trung Quốc Mao Trạch Đông lúc sinh thời thường nghiền ngẫm cuốn sách này không mấy khi rời tay, cùng với sách Thủy Hử và sách Tam Quốc Chí được ông học và vận dụng suốt thời trẻ, trong những năm tháng đấu tranh khốc liệt trên chiến trường, còn sách Tư Trị Thông Giám của Tư Mã Quang (1019–1086), tự Quân Thật, hiệu Vu Tẩu, là nhà sử học, học giả danh tiếng Trung Quốc, thừa tướng thời nhà Tống thì Mao Trạch Đông luôn không rời tay suốt những năm tháng cầm quyền. Ông muốn lục tìm trong rối loạn của lịch sử những kế sách kinh bang tế thế. Cao Biền thời Đường mạt trong sách này tại các quyển 250, 251, 252, 253, 254, 255, 256 và 257. Nhân vật  Cao Biền được Tư Mã Quang và sử cổ Tư Trị Thông Giám đánh giá ông tương tự như nhân vật Khổng Minh Gia Cát Lượng đời Hán mạt.

4] Cựu Đường thư là bộ sách lịch sử nằm trong 24 bộ chính sử Trung Quốc do sử quan Lưu Hu triều Hậu Tấn biên soạn. Bắt đầu vào năm Thiên Phúc thứ sáu (941) Tấn Cao Tổ Thạch Kính Đường đời Hậu Tấn lệnh cho Trương Chiêu Viễn và Giả Vĩ phụ trách việc biên soạn sách sử về nhà Đường, dưới sự giám sát sửa chữa của tể tướng Triệu Oánh. Đến năm Khai Vận thứ hai đời Tấn Xuất Đế, (945) thì sách viết xong, ban đầu sách có tên là Đường thư. Do khi đó Lưu Hu là tể tướng giám sát việc tu sửa, xuất bản nên người ta coi sách này là do ông chủ biên. Cựu Đường thư là nguồn sử liệu quý thời nhà Đường (18 tháng 6, 618 – 1 tháng 6, 907). Nhà Đường là một Triều đại Trung Quốc tiếp nối sau nhà Tùy và sau nó là thời kì Ngũ Đại Thập Quốc. Nhà Đường được hoàng đế Đường Cao Tổ Lý Uyên thành lập. Cao Tổ hoàng đế đã từ lâu thâu tóm lấy quyền hành khi nhà Tùy suy yếu rồi sụp đổ. Triều đại này bị gián đoạn khi Nữ hoàng đế Võ Tắc Thiên nắm lấy quyền hành và lập ra nhà Võ Chu (8 tháng 10, 690 – 3 tháng 3, 705). Bà là nữ hoàng đế duy nhất trong lịch sử Trung Quốc. Nhà Đường với kinh đô Trường An (là thành phố đông dân nhất thời bấy giờ, nay là Tây An) được các nhà sử học coi là đỉnh cao trong văn minh Trung Hoa; ngang bằng hoặc vượt trội hơn so với thời kì đầu nhà Hán,  một thời kì hoàng kim của văn minh thế giới. Lãnh thổ của nhà Đường rất rộng lớn, lúc cực thịnh đạt gấp rưỡi lãnh thổ của nhà Hán nhờ có lực lượng quân đội hùng mạnh và các cuộc chinh chiến quân sự. Vua Minh Hiến Tông đánh giá: “Từ thời Tam Đại về sau, công lao cai trị không đâu thịnh bằng nhà Đường, mà trong 300 năm triều Đường, không đâu thịnh bằng thời Trinh Quán (Đường Thái Tông)”. Nhà Hán Học người Đức là Max Weber nhận xét “Dựng nên văn hóa và bản đồ Trung Quốc với những bậc dựng nghiệp chân chính, nhà Đường đáng lưu vinh đến muôn đời”. Cao Biền trong Cựu Đường thư được coi là một danh tướng thời Đường mạt, Cao Biền phò ta ba vua Đường Ý Tông, Đường Hy Tông, Đường Chiêu Tông là ba vị vua cuối cùngcủa nhà Đường.

(3) Tân Đường thư là một sách lịch sử theo thể kỷ truyện nằm trong 24 bộ sách chính sử Trung Quốc. Sách Tân Đường thư do Âu Dương Tu (1007 – 1072), là một nhà văn nổi tiếng, một nhà thơ lớn, một nhà sử học, chính trị gia và đồng thời là một nhà làm từ xuất sắc thời Bắc Tống chủ biên cùng Tống Kỳ, Phạm Trấn, Lữ Hạ Khanh tham gia vào việc viết và biên soạn vào năm Khánh Lịch thứ 4, đến tháng 7 năm Chí Hòa nguyên niên thì hoàn thành. Âu Dương Tu  đỗ đầu khoa thi tiến sĩ; từng giữ các chức quan Hàn lâm học sĩ, Xu mật viện phó sứ, Tham tri ch&iacutXem tiếp >>

  Dạy và học 24 tháng 12(24-12-2021)

CHÀO NGÀY MỚI 24 THÁNG 12
Hoàng Kim
CNM365 Tình yêu cuộc sốngHoàng Kim thơ cho con; Nếp nhà đẹp văn hóa; Happy New Day Vietnamese cassava today; Ngày mới lời yêu thương; Đêm Giáng Sinh là lễ hội toàn cầu được tính từ buổi tối ngày 24 tháng 12 hằng năm trước ngày Lễ Giáng Sinh. Ngày 24 tháng 12 năm 1818, ca khúc Giáng Sinh nổi tiếng “Đêm thánh vô cùng“ của tác giả Josef Mohr và nghệ sĩ organ Franz Xaver Gruber lần đầu tiên được biểu diễn tại một nhà thờ Áo. Ca khúc này đã được UNESCO công nhận là kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể nhân loại vào tháng 3 năm 2011. Ngày 24 tháng 12 năm 1996 là ngày mất của luật sư Nguyễn Hữu Thọ, một chính khách nổi tiếng người Việt Nam (sinh năm 1910). Luật sư Nguyễn Hữu Thọ là Chủ tịch đầu tiên của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, Phó Chủ tịch Nước và Quyền Chủ tịch Nước Việt Nam thống nhất 1980- 1981, Chủ tịch Quốc hội Việt Nam 1981-1987, Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam 1988, Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước khóa VII, VIII. Ông được thưởng Huân chương Sao vàng năm 1993. Ông qua đời tại Thành phố Hồ Chí Minh năm 1996; Bài chọn lọc ngày 24 tháng 12: Hoàng Kim thơ cho con; Nếp nhà đẹp văn hóa; Vietnamese cassava today; Ngày mới lời yêu thương; Cánh cò bay trong mơ; Nông lịch tiết giữa Đông; Tương lai trong tay ta; Đối thoại với Thiền sư; Lên Việt Bắc điểm hẹn; Con nguyện làm Hoa Lúa; Chọn giống sắn Việt Nam; Bảo tồn và phát triển sắn; Nông lịch tiết giữa Đông; Hoa Lúa giữa Đồng Xuân; Mình về thăm nhau thôi; Nguyễn Hiến Lê sao sáng; Thăm Tây Hồ nhớ Người; Tô Đông Pha Tây Hồ; Walt Disney người bạn lớn; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/; http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlong và  https://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-24-thang-12;

THƠ CHO CON
Hoàng Kim
Thương yêu tặng con
Hoang Long
nhân ngày sinh

Con!
Thân thương một tiếng gọi
Hạnh phúc bật nên lời
Lòng Cha bồi hồi
Sung sướng gọi:
Con!

Cha đi công tác xa
Mong đợi Con, từng ngày chờ thư Mẹ
Thư đến!
Con ra đời!
Cha run lên vì mừng
Thao thức suốt đêm
Không ngủ

Bạn bè vây quanh Cha
Trân trọng niềm vui thiêng liêng
Nâng cốc chúc Cha
Hạnh phúc!

Tiếng Con ngọt ngào môi Cha
Dào dạt lòng Cha vỗ mãi
Có Con
Nối cuộc đời Cha
Gấp đôi
Có Con
Đan giữa cuộc đời
Hạnh phúc

Con là sợi dây máu thịt
Yêu thương gắn Mẹ và Cha
Có Con
Cha thấy cuộc đời ý nghĩa hơn
Cuộc sống – Tình yêu – Sự nghiệp
Hai Con là hai con mắt
Cửa sổ tâm hồn Cha
Dẫu đời Cha nhiều chông gai
Trái chín cuộc đời vẫn ngọt
Con là giấc mơ trong trẻo
Là ban mai tươi vui
Là viên ngọc trao đời
Là hương hoa hạnh phúc

Ước vọng cuộc đời Cha
Có Con đi nối con đường sự nghiệp
Con đứng trên vai Cha
Vươn tới những chân trời mơ ước

Hai Con
Hai viên ngọc
Chị con và Con
Mẹ con dịu hiền hơn
Mẹ con đảm đang hơn
Cha bớt vụng về mỗi việc làm nho nhỏ
Con trở thành ngọn lửa
Sưởi ấm lòng Mẹ Cha
Khi mỗi ngày khó khăn
Trong trẻo tiếng Con
Mẹ Cha hết mệt
Con là niềm vui lớn nhất
“Con hơn Cha nhà có phúc”
Cha mong dồn cho Con.

Lớn lên
Con sẽ hỏi Cha
Sao Cha đặt tên Con là Hoàng Long?
Con ơi!
Tên Con là khúc hát yêu thương
Của lòng Cha Mẹ
Cha Mẹ thương nhau
Vì qúy trọng những điều ân nghĩa
Sự nghiệp và tình yêu
Những ngày gian khổ
Cùng nghiên cứu củ sắn, củ khoai
Con là giống khoai Hoàng Long
Tỏa rộng nhiều vùng đất nước
Dẫu không là trái thơm qủa ngọt
Nhưng là niềm vui người nghèo
Để Cha nhớ về quê hương
Khoai sắn bốn mùa vất vả
Để Cha nhớ những ngày gian khổ
Năm năm
Cơm ngày một bữa
Khoai sắn không phụ lòng
Để Cha nhớ về
Lon khoai nghĩa tình
Nắm khoai bè bạn
Gom góp giúp Cha ăn học
Khi vào đời
Cha gặp Mẹ con
Cho nên:
Cha muốn Con
Trước khi làm những điều lớn lao
Hãy biết làm củ khoai, củ sắn
Hãy hướng tới những người lao động
Nhớ quê nghèo cắt rốn, chôn rau

Lớn lên
Con sẽ hỏi cha
Sao Cha đặt tên con Hoàng Long?
Long là rồng
Con là đậu rồng
Là công trình thứ hai Mẹ Cha nghiên cứu
Mẹ con chọn hạt
Cha gieo nên con
Vất vả gian nan
Hứa hẹn một mùa gặt hái
Con là tháng ngày mong đợi
Là niềm vui đóng góp cho đời
Từ hạt đậu củ khoai
Cha Mẹ trao Con sự nghiệp
Cha nhớ câu đối trăm năm
Về một gia đình hạnh phúc
“Sáng khoai, trưa khoai, tối khoai
ngày khoai ba bữa
Cha đỗ, mẹ đỗ, con đỗ
đều đỗ cả nhà”
Chị con và Con
Là mong ước
Của Mẹ và Cha

Lớn lên
Con sẽ hỏi Cha
Sao Cha đặt tên con Hoàng Long?
Long là rồng
Nghĩa mẹ tạo nền
Công cha xây móng
Trước mắt con là sông dài, biển rộng
Ước mong con bay lên
Con hãy đi đến cùng
Mục đích của con
Làm được những điều cao cả
Hãy cố gắng không ngừng
Kiên gan
Bền chí
Ước mơ và hiện thực
Hôm nay và mai sau
Nghị lực là thước đo cuộc đời
Hai chữ đầu tiên Con học làm người
Phải học hai điều NHÂN NGHĨA

Cha mong Con lớn lên
Ít nếm trãi khó khăn, vất vả
Nhưng đừng bao giờ quên
Những ngày đói khổ
Thời thơ ấu của Cha
Mồng Ba tháng Giêng ngày mất của Bà
Hai mươi tháng Mười ngày ông Mỹ giết
Ngày mà cửa nhà tan nát
Đói nghèo Bác dắt dìu Cha
Tuổi thơ thì bắt ốc, mò cua
Lớn một chút trồng khoai, dạy học
Qua danh lợi hiểu vinh, hiểu nhục
Trãi đói nghèo biết nghĩa, biết ân
Phan Thiết là nơi Mẹ đã sinh Con
Ông Bà ngoại nuôi cho Con khôn lớn
Tuổi thơ của Con lớn trong yên ấm
Tao nôi êm ả, thanh bình
Ru cho Con “uống nước nhớ nguồn”
Khi con lớn đừng quên điều HIẾU THẢO

Cha say viết về Con
Kể về Con
Thơ cho Con
Cô bác vây quanh Cha
Gật gù
Thông cảm

Thơ chắp mối
Từng vần,
Từng mảng
Câu thơ chưa chỉnh lời
Nhưng tứ thơ
Dồn dập
Bối hồi
Hạnh phúc lớn
Trong lòng Cha
Ngân mãi

(*) Hoàng Long sinh đêm Noel 24 12 1985

Tho cho con 2

 

CON LÀ NGUỒN HẠNH PHÚC ĐẦU TIÊN
Hoàng Kim
Thương yêu tặng con Tố Nguyên

Mẹ đi về quê ngoại để sinh con
Trời tháng Sáu xanh một màu thương nhớ
Ba mong con mấy đêm liền không ngủ
Ngày hai mươi con khóc chào đời.

Con mang về Ba Mẹ một nguồn vui
Hạnh phúc trăm năm, niềm ao ước lớn
Mong mỏi chứa chan, tình yêu trọn vẹn
Bao yêu thương âu yếm rộn trong lòng.

Ba vui mừng chọn đặt tên con
Cặp tên đẹp giữa muôn ngàn từ ngữ
Cái tên vì con mà thành rực rỡ
Con hãy làm tên đẹp hóa bài ca.

Con Tố Nguyên của Mẹ và Ba
Hoàng Tố Nguyên ngân nga niềm hạnh phúc
Mẹ cùng con
Thủy Nguyên thành chữ kép
Con là nguồn hạnh phúc đầu tiên.

Nguyen Loc 9
Nguyen Long 1

(*) Hoàng Tố Nguyên sinh 21 6 1983

NẾP NHÀ ĐẸP VĂN HÓA
Hoàng Ngọc Dộ khát vọng


Cảnh mãi theo người được đâu em
Hết khổ hết cay hết vận hèn
Nghiệp sáng đèn giời đà chỉ rõ
Rồi đây cay đắng chẳng buồn chen

Hoàng Kim nhớ lại bài thơ anh hai Hoàng Ngọc Dộ đã viết thuở xưa, khi hôm nay gia đình tôi ăn cơm với em Nguyễn Hữu Minh là con trai đầu của dì ruột tôi ở Hà Nội vào thăm. Nguyễn Hữu Minh là giáo sư ngành khoa học xã hội và nhân văn. Chị Hoàng Thị Huyền là bác sĩ bệnh viện Thống Nhất đã cùng lên với em Minh. Ngày vui thương chép lại chùm thơ anh Hai.

NGHỊ LỰC
Hoàng  Kim
Không vì danh lợi đua chen
Thù nhà, nợ nước quyết rèn bản thân !

VỀ LẠI MÁI TRƯỜNG XƯA

Đâu phải bây giờ ta mới quý thời gian
Mỗi ngày đi qua
Mỗi tháng đi qua
Mỗi năm đi qua
Thấm thoắt thời gian
Nhìn sự vật đổi thay ta biết rõ

Mái tóc Thầy ta đã bạc đi già nữa
Hàng trăm bạn bè thuở ấy đã đi xa
Ta lại về đây với mái trường xưa
Thân thiết quá nhưng sao hồi hộp thế
Trăm khuôn mặt trông vừa quen vừa lạ
Ánh mắt chào đọng sáng những niềm vui

Ta chỉ là hạt cát nhỏ nhoi
Trong trùng điệp triệu người lên tuyến lửa
Giá độc lập giờ đây thêm hiểu rõ
Thắng giặc rồi càng biết quý thời gian

Đất nước ba mươi năm chiến đấu gian nan
Mỗi tấc đất đều đậm đà nghĩa lớn
Bao xương máu cho tự do toàn vẹn
Bao đồng bào, đồng chí đã hi sinh.

Ta dâng cho Tổ Quốc tuổi thanh xuân
Không tiếc sức cho cuối cùng trận thắng
Xếp bút nghiên để đi cầm khẩu súng
Càng tự hào làm người lính tiên phong

Nay trở về khi giặc đã quét xong
Trách nhiệm trao tay tiếp cầm ngọn bút
Nâng cuốn sách lòng bồi hồi cảm xúc
Ta hiểu những gì ta phải gắng công

Trận thắng hôm qua bạn góp máu hồng
Lớp học hôm nay bạn không trở lại
Trách nhiệm trong mình nhân lên gấp bội
Đồng chí ơi, tôi học cả phần anh.

Biết ơn thầy cô giáo dịu hiền
Bằng khích lệ động viên lòng vượt khó
Trăm gian nan buổi ban đầu bở ngỡ
Có bạn thầy càng bền chí vươn lên

Trước mỗi khó khăn có bạn luôn bên
Như đồng đội trong chiến hào chia lửa
Ôi thân thiết những bàn tay tập thể
Ta nhủ lòng cần xứng đáng hơn

Đâu phải bây giờ ta mới quý thời gian
Hiểu mất mát, biết tự hào phải cố
Trận tuyến mới nguyện xứng là chiến sĩ
Thiêng liêng lời thề, vững một niềm tin.

NĂM THÁNG Ở TRỜI ÂU

Đi giữa Praha rực rỡ nắng vàng
Gió bớt thổi nên lòng người bớt lạnh
Phố xá nguy nga, nhịp đời hối hả
Gợi lòng ta uẩn khúc những suy tư

Ôi quê hương thân thiết tự bao giờ
Mỗi bước đi xa càng thêm yêu Tổ Quốc
Nhớ quê nhà nửa đêm ta tỉnh thức
Ngóng phương trời vợi vợi nhớ mênh mông

Biết ơn quê nghèo cắt rốn chôn rau
Nơi mẹ cha xưa suốt đời lam lũ
Cha giặc giết luống cày còn bỏ dỡ
Sự nghiệp này trao lại tay con

Biết ơn anh tần tảo sớm hôm
Năm năm học mỗi ngày cơm một bữa
Bắt ốc, mò cua, bền gan, vững chí
Nhắc nhở thù nhà nợ nước cho em.

Biết ơn mái trường ta đã lớn khôn
Hũ gạo nghĩa tình bạn thầy san sẽ
Những lớp đàn em bi bô tuổi nhỏ
Mang mớ rau, củ sắn giúp thầy

Sống giữa lòng dân những tháng những ngày
Anh chị góp công, bạn thầy giúp sức
Đêm trăn trở ngọn đèn khuya tỉnh thức
Nhớ một thời thơ ấu gian nan …

Biết ơn em người bạn gái thủy chung
Thương cha mẹ quý rể nghèo vẫn gả
Em gánh vác mọi việc nhà vất vả
Dành cho anh nghiên cứu được nhiều hơn

Biết ơn trại nhà mảnh đất yêu thương
Nơi suốt đời ta nghĩa tình gắn bó
Mảnh đất thiêng chim phượng hoàng làm tổ
Lúa, ngô, sắn, khoai, hoa, qủa dâng đời

VÒNG QUA TÂY BÁN CẦU

Khi chiều hôm nắng tắt ở chân trời
Tạm ngưng học, tắm rồi em hãy dạo
Bước khoan thai nhận hương trời chiều tối
Nghĩ suy về năm tháng đã đi qua

Em đã xa cái tuổi học trò
Nhưng việc học có bao giớ là muộn?
Nấc thang học càng vươn cao càng muốn
Bao cuộc đời nhờ học để thành công

Nhớ nghe em những năm tháng không quên
Năm năm học mỗi ngày cơm một bữa
Đêm tỉnh thức đói cồn cào trong dạ
Vẫn gan vàng, dạ sắt, lòng son

Nhớ ngày cha ngã xuống vì bom
Tấm áo máu suốt đời ta nhớ mãi
Trong thương đau nhân quyết tâm gấp bội
Phải làm gì để trả mối thù sâu.

Nhớ ngọn đèn chong giữa canh thâu
Những đêm lạnh của trời Hà Bắc
“Thắp đèn lên đi em!” thơ của thời đi học
Xốn xang lòng đã mấy chục năm qua

Ôi vầng trăng, vầng trăng quê ta
Và ngôi sao Mai đã thành đốm lửa
Một giọt máu tim ta treo giữa trời nhắc nhở
Em bên Người năm tháng lớn khôn lên

Nhớ những mùa chiến dịch thức bao đêm
Thèm một bữa cơm rau và giấc ngủ
Sau trận đánh lại miệt mài cuốn vở
Tin có ngày trở lại mái trường yêu

Bao bạn bè của năm tháng không quên
Nay vĩnh viễn nằm sâu trong lòng đất
Về thăm quê cũng người còn, người mất
Bài học trường đời chắp nối bấy năm qua

Nay em như chim trời bay cao, bay xa
Điều kiện học khác xưa, một phòng riêng ngọai quốc
Những tháng học này là niềm mơ ước
Em cần miệt mài tranh thủ thời gian

Dẫu mỗi ngày hơn tám tiếng học căng
Ngôn ngữ mới buổi đầu chưa hiểu kịp
Em hãy học dẫu đêm về có mệt
Mỗi ngày này là vốn quý nghe em!

Chốn phồn hoa bao cám dỗ thấp hèn
Bao thèm muốn khiến người ta lùn xuống
Những dễ dãi khiến lòng người dao động
Em hãy cầm lòng bền chí học chăm.

TỰ THẮNG MÌNH LÀ BÀI HỌC ĐẦU TIÊN

Ngày mỗi ngày phải tự thắng mình
Trận chiến mới, em là chiến sĩ
Ngày mỗi ngày cần ghi đều nhật ký
Tự thắng mình là bài học đầu tiên !

Có điện lung linh suốt đêm
Không quên vầng trăng ngọn lửa
Ngày dẫu miệt mài
Đêm về phải cố

Khắc sâu lời nguyền xưa !

(Ảnh:  Bộ trưởng Nguyễn Ngọc Trìu thăm
ruộng thí nghiệm của Hoàng Kim năm 1987)



LÊN THÁI SƠN HƯỚNG PHẬT
Hoàng Kim

Đường xuân thênh thênh bước
Đỉnh xanh mờ sương đêm
Hoàng Thành Trúc Lâm sáng
Phước Đức vui kiếm tìm.

Lúa Siêu Xanh, khoai Hoang Long, Thái Sơn là ba điểm đến yêu thích nhất của tôi tại đất nước Trung Hoa. Tôi đã có bài viết ‘Đến Thái Sơn nhớ Đào Duy Từ” với một số ảnh đẹp chụp cảnh thu hoạch khoai Hoàng Long ở Sơn Đông với nông dân ở đây và với các chuyên gia khoai lang Trung Quốc năm 1996, ảnh đẹp chụp ở ‘Khổng miếu’ với giáo sư Ấn Độ và chụp ở ‘Khổng Lâm’ với giáo sư khoai lang Rasco người Philippine. Tôi đã viết bài thơ “Đến Thái Sơn” trong hoàn cảnh ấy cho đến ngày trở lại

Tho cho con 1

ĐÊM GIÁNG SINH NHỚ MẸ
Hoàng Long

Con về với mẹ mẹ ơi
Con về với mẹ tháng ngày yêu thương
Ngoài kia con chó mảnh vườn
Hàng tre trước ngõ con đường hôm nao

Cạnh bên là ngõ tường rào
Thằng em hôm trước con cùng bắn bi
Xum xuê bóng mát sơ ri
Cái ao lúc nhỏ nghịch đùa tắm chơi

Ờ kia là cái bể bơi
Xây thành non bộ nghĩ ngơi ngắm nhìn
Mấy con cá nhỏ xinh xinh
Thả giờ bây lớn bấy nhiêu thế à

Phối thêm sắc thắm lan nhà
Mẹ chăm cho lớn nở hoa thế nào
Trúc xanh thông tía bờ rào
Vườn mai ngõ trước thế nào à me

Chậu cá cảnh cạnh gốc me
Mấy con bảy màu hồi giờ ra sao?
Ao nhà lươn lóc trê rô
Tết con về đã tát hồ được chưa?

Sao thèm ăn bát canh me
Tô canh thiên lý mẹ làm con ăn…!

Hoàng Long
24.12. 2010


HOA BÌNH MINH
Hoàng Kim

Sớm xuân cuối đêm lạnh
Tỉnh thức
Hoa Bình Minh
Nắng ban mai đầy cửa
Ngày bình an tuyệt vời.

NGÀY MỚI BÌNH MINH AN
Hoàng Kim

Mai sớm nắng mới lên
Hoa bình minh tỉnh thức
Long lanh hương trời đất
Lộc non xanh mướt cành.

Ngày mới bình minh an
Bà cõng cháu nấu cơm
Ông cùng con đến lớp
Suối nhạc lòng ngân nga

Vui khỏe cùng trẻ thơ …

Chùm ảnh gia đình Ngày mới bình minh an

dav
Thầy Quyền thâm canh lúahttps://hoangkimlong.wordpress.com/category/thay-quyen-tham-canh-lua/
Happy New Day Reinhardt Howeler

HAPPY NEW DAY
Hoàng Kim


Trạng Trình dưỡng sinh thi
Nguyễn Bỉnh Khiêm

Giữ khí, gìn tinh, lại dưỡng thần
Ít lo, ít muốn, ít lao thân.
Cơm nên vừa bụng, đừng nhiều vị,
Rượu chỉ vài phân, chớ qúa từng.
Miệng cứ câu đùa, vui miệng mãi,
Bụng thường nghĩ tốt, bụng lâng lâng.
Bốc đồng, biến trá, thôi đừng hỏi,
Để tớ tiêu dao đến tuổi trăm.

(Bản dịch của GS. Lê Trí Viễn)
see more
Ngày xuân đọc Trạng Trìnhhttps://hoangkimlong.wordpress.com/category/ngay-xuan-doc-trang-trinh/https://www.youtube.com/embed/81aJ5-cGp28?version=3&rel=1&showsearch=0&showinfo=1&iv_load_policy=1&fs=1&hl=vi&autohide=2&wmode=transparentCách mạng sắn Việt Namhttps://youtu.be/81aJ5-cGp28Chọn giống sắn Việt Nam

thayduongthanhlienvabotlasan

Vietnamese cassava today
Miss you Christmas season
Hoang Kim


Good friends are hard to find, hard to leave behind and impossible to forget. The cassava revolution in Vietnam
https://youtu.be/81aJ5-cGp28  is a success story. Vietnamese cassava today, https://hoangkimlong.wordpress.com/category/vietnamese-cassava-today/  the urgency to preserve and develop cassava sustainably. Greetings from HoangKim Vietnam VNCP to Howeler, Martin and friends CIAT, ACIAR “Establishing sustainable solutions to cassava diseases in mainland Southeast Asia”. Merry Christmas and Happy New Year.

Dear Dr. Reinhardt Howeler,

Hello teacher and great friend of Asian cassava farmers. Photo 1 The Global Cassava Workshop in Vietnam in 2000, with the beloved wife of Reinhardt Howeler, and Professor Pham Van Bien, Director of the Southern Institute of Agricultural Science and Technology, seated in the front row on the left. Now she is gone. Please give us belated condolences to you. I and VNCP lost your email. The photo is a silent gratitude in our hearts. Photo 2 Dr. Reinhardt Howeler and Dr. Kazuo Kawano receives the State Prize of Vietnam, presented by Mr. Nguyen Gioi, Deputy Minister of MARD, and Professor Pham Van Bien, Director of IAS, on 4/3/1997. Photo 3 is seven books on CIAT Vietnam, late 20th century and early 21st century, recognizing your outstanding contributions. Photo 4 is Luis Eduardo Barona and Hoang Kim with cassava variety C39 at CIAT in 2003 in collaboration with Hernan Ceballos and Martin Fregene. Photo 5 is the main cassava variety KM419 of Vietnam’s cassava today.

You are always in our hearts. We will always remember and thank you.

My warm greetings to you.
Best regards, Hoang Kim

Sắn Việt Nam ngày nay
NHỚ BẠN MÙA GIÁNG SINH
Hoàng Kim

Bạn tốt khó tìm, khó bỏ lại và không thể quên lãng. Cách mạng sắn Việt Nam  The cassava revolution in Vietnamhttps://youtu.be/81aJ5-cGp28 là câu chuyện thành công. Sắn Việt Nam ngày nay, https://hoangkimlong.wordpress.com/category/vietnamese-cassava-today/ sự cấp thiết phải Bảo tồn và phát triển sắn bền vững.  Lời chào từ HoangKim Vietnam VNCP đến Howeler, Martin với các bạn CIAT, ACIAR “Establishing sustainable solutions to cassava diseases in mainland Southeast Asia”. Chúc mừng Giáng sinh an lành và Năm mới hạnh phúc

Tiến sĩ Reinhardt Howeler quý mến,
Kính chào người Thầy và bạn lớn của nông dân trồng sắn châu Á. Ảnh 1 Hội thảo sắn toàn cầu ở Việt Nam năm 2000, có mặt người vợ yêu quý của Reinhardt Howeler và giáo sư Phạm Văn Biên, Viện trưởng Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam. Nay bà đã mất. Hãy cho chúng tôi chia buồn muộn tới bạn. Tôi và VNCP lạc email bạn. Ảnh này là sự ghi ơn thầm lặng trong lòng chúng tôi. Ảnh 2 Tiến sĩ Reinhardt Howeler Tiến sĩ Kazuo Kawano nhận giải thưởng của nhà nước Việt Nam, được trao tặng bởi ông Nguyễn Giới, thứ trưởng MARD, và giáo sư Phạm Văn Biên, Viện trưởng IAS, ngày 4/3/1997. Ảnh 3 là bảy sách sắn CIAT Việt Nam, cuối thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21, ghi nhận những đóng góp nổi bật của các bạn. Ảnh 4 là Luis Eduardo Barona và  Hoàng Kim với giống sắn C39 ở CIAT năm 2003 trong sự hợp tác với  Hernan Ceballos và Martin Fregene. Ảnh 5 là giống sắn chủ lực KM419 của Sắn Việt Nam ngày nay.

Các bạn luôn trong lòng chúng tôi. Chúng tôi luôn nhớ và ghi ơn các bạn.

Lời chào nồng nhiệt của tôi đến bạn.

Trân trọng Hoàng Kim

CHỌN GIỐNG SẮN VIỆT NAM TỔNG QUAN 1975-2021
Vietnamese Cassava breeding highlight 1975-2021
Bảo tồn và phát triển sắn thích hợp, bền vững
Hoàng Kim, Nguyễn Thị Trúc Mai, Hoàng Long


Việt Nam có tổng diện tích sắn thu hoạch năm 2020 sơ bộ là 524,5 ngàn ha, với năng suất sắn củ tươi bình quân 19,99 tấn/ ha, sản lượng sắn củ tươi 10,48 triệu tấn (GSO 2021). Hai giống sắn thương mại chủ lưc KM419 và KM94 ngày nay (năm 2020) chiếm lần lượt trên 42% và 37% tổng diện tích sắn Việt Nam, tăng hơn so với số liệu tương ứng năm 2016 là 38% và 31,7%
RTB Newsletter 2016. Assessment reveals that most cassava grown in Vietnam has a CIAT pedigree, http://www.rtb.cgiar.org/2016-annual-report/assessment-reveals-that-most-cassava-grown-in-vietnam-has-a-ciat-pedigree/.

Chọn giống sắn Việt Nam tổng quan 1975-2021. Tiến bộ di truyền của nguồn gen giống sắn Việt Nam đúc kết thông tin hệ thống từ các tài liệu khoa học được công bố chính thức, có các quyết định của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn công nhận các giống sắn chủ lực và thương mại, phổ biến được lưu hành tổng hợp tại hình 1. Các giống sắn triển vọng tạo thành trong nước, và các giống sắn nhập nội (cần nhận diện đúng giống gốc theo hồ sơ giống nhập nội/ tạo thành, kết quả khảo nghiệm DUS, VCU, có báo cáo đặc điểm nông sinh học của giống)

Nguồn gốc và đặc điểm của hai giống sắn chủ lực KM419, KM94 và bốn giống sắn có diện tích trồng phổ biến rộng tại Việt Nam KM140, KM98-5, KM98-1, SM937-26 như sau:

GIỐNG SẮN CHỦ LỰC KM419Xem tiếp >>

  Dạy và học 23 tháng 12(23-12-2021)

DẠY VÀ HỌC 23 THÁNG 12
Hoàng Kim
CNM365 Tình yêu cuộc sốngCánh cò bay trong mơ; Nông lịch tiết giữa Đông; Tương lai trong tay ta; Đối thoại với Thiền sư; Lên Việt Bắc điểm hẹn; Con nguyện làm Hoa Lúa; Chọn giống sắn Việt Nam; Bảo tồn và phát triển sắn; Nông lịch tiết giữa Đông; Hoa Lúa giữa Đồng Xuân; Mình về thăm nhau thôi; Nguyễn Hiến Lê sao sáng; Thăm Tây Hồ nhớ Người; Tô Đông Pha Tây Hồ; Walt Disney người bạn lớn; Tháp Tokyo là một tháp truyền thông và quan sát, điểm du lịch nổi tiếng thế giới tại Shiba -koen, quận Minato, Tokyo, Nhật Bản, Ngày 23 tháng 12 năm 1958 là ngày khánh thành Tháp Tokyo có cấu trúc bằng một tháp khung thép kết cấu thép tự lực cao nhất thế giới với độ cao 332,5 mét và cao thứ nhì tại Nhật Bản, lấy cảm hứng từ tháp Eiffel, được sơn màu trắng và cam. Tháp có nguồn thu chính là du lịch và cho thuê đặt ăng ten. Tháp từ ngày khánh thành đến nay đã có trên 150 triệu người đến thăm. Một tòa nhà bốn tầng FootTown nằm ngay bên dưới tháp, gồm các bảo tàng, quán ăn và cửa hiệu, du khách từ đó khởi hành lên đài quan sát chính gồm hai tầng nằm trên độ cao 150 mét và lên đài quan sát đặc biệt có quy mô nhỏ hơn nằm tại độ cao 249,6 mét. Ngày 23 tháng 12 năm 1898,  Lương Khải Siêu xuất bản “Thanh Nghị báo” tại Nhật Bản để ủng hộ vua Quang Tự và công kích thái hậuTừ Hi. Lương Khải Siêu (1873 –1929)  là nhà tư tưởng, nhà cách mạng, chính khách, giáo sư, nhà văn, chủ báo nổi tiếng người Quảng Đông, Trung Quốc thời cận đại. Lương Khải Siêu là  kỳ tài lỗi lạc của Trung Hoa, tiếc là không gặp thời. Ông cùng thầy là Khang Hữu Vi đã làm biến pháp không thành công nên những năm cuối đời đã quyết định rời bỏ chính trường qua châu Âu xem xét tình hình thế giới. Năm 1919, ông về nước chuyên tâm dạy học ở Viện Nghiên cứu Thanh Hoa và viết sách. Nhà văn Nguyễn Hiến Lê sao sáng nhận xét về ông: Lương Khải Siêu là một văn nhân đa tài và đầy nhiệt huyết…Ông tuyệt thông minh, hồi nhỏ theo cử nghiệp, đậu cử nhân rất sớm. Khi nghe nói có Khang Hữu Vi giảng về thực học (lối học thực dụng, trái lại lối học từ chương), cậu cử Lương ghé lại thăm, bị Khang đập cho một vố nặng, chê cái học khoa cử là hủ bại, làm nước yếu dân hèn. Đáng khen cho Lương là chẳng những Lương không bất bình mà còn hốt nhiên tỉnh ngộ, thờ Khang làm thầy, rồi cùng với Khang khảo cứu về văn hóa, chính trị Âu Tây…Nhiều nhà ái quốc lớp cổ của Việt Nam khảng khái bỏ khoa cử rồi vào hội Đông Kinh nghĩa thục cũng là noi gương của Lương vậy. Ông chỉ vì “lo cái gốc của nước mấy lần lung lay, cái sức dân hao mòn vô ích” nên phải làm chính trị. Chỉ vì muốn “tân dân” để cứu nước, ông phải viết báo. Thấy cái học thuyết nào có ích lợi thì giới thiệu liền,…Công việc ông làm, trong trăm năm nay, không ai làm hơn ông, và chưa ai tranh cái uy hiệu “Trần Thiệp trong thế giới tư tưởng mới” của ông được. Về văn, ông viết đủ loại, nhưng về khảo cứu thì chưa sâu…Nhìn chung, văn của ông bình dị, sáng sủa, khúc chiết, nhiều khi hoa mỹ, lôi cuốn độc giả rất mạnh vì tình cảm nồng nàn và thành thật. Ngô Đức Kế, Phan Bội Châu, Dương Bá Trạc ở Việt Nam đều chịu ảnh hưởng của ông rất nhiều. Ngày 23 tháng 12 năm 1970 là ngày cử hành nghi lễ đạt đỉnh cao độ 417 m của Trung tâm Thương mại Thế giới tại Manhattan, New York, Hoa Kỳ là  tòa nhà cao nhất thế giới thời điểm đó; Trung tâm Thương mại Thế giới Một được tái thiết tại vị trí tòa Tháp Đôi 110 tầng, đã bị đổ sụp bởi hai chiếc phi cơ Boeing đâm vào, trong sự kiện ngày 11 tháng 9 năm 2001, hiện nay là Tháp Tự do, tòa nhà cao nhất Hoa Kỳ, cũng cao nhất Tây Bán Cầu, cũng là cao ốc cao thứ ba trên thế giới với độ cao 541,32 m. Bài chọn lọc ngày 23 tháng 12: Cánh cò bay trong mơ; Nông lịch tiết giữa Đông; Tương lai trong tay ta; Đối thoại với Thiền sư; Lên Việt Bắc điểm hẹn; Con nguyện làm Hoa Lúa; Chọn giống sắn Việt Nam; Bảo tồn và phát triển sắn; Nông lịch tiết giữa Đông; Hoa Lúa giữa Đồng Xuân; Mình về thăm nhau thôi; Nguyễn Hiến Lê sao sáng; Thăm Tây Hồ nhớ Người; Tô Đông Pha Tây Hồ; Walt Disney người bạn lớn; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-23-thang-12;

CÁNH CÒ BAY TRONG MƠ
Hoàng Kim

Cánh cò ông Noel
vầng trăng mẹ hiền
mang đến cho em
giấc mơ hạnh phúc
Giấc mơ lành yêu thương

Khi ban mai tỉnh thức
mọc sớm sao tình yêu
thăm thẳm giữa tâm hồn
Cánh cò bay trong mơ …

‘Con cò đi đón cơn mưa
Tối tăm mù mịt ai đưa cò về

bâng khuâng
Cánh cò
Thương lời ru của mẹ:

“Tháng giêng, tháng hai,
Tháng ba, tháng bốn,
Tháng khốn, tháng nạn
Đi vay đi dạm
Được một quan tiền
Ra chợ Kẻ Diên
Mua con gà mái
Về nuôi hắn đẻ
Ra mười quả trứng
Một trứng: ung
Hai trứng: ung
Ba trứng: ung
Bốn trứng: ung
Năm trứng: ung
Sáu trứng: ung
Bảy trứng: ung
Còn ba trứng
Nở được ba con
Con: diều tha
Con: quạ bắt
Con: mặt cắt xơi
Đừng than phận khó ai ơi
Còn da lông mọc, còn chồi nảy cây”.

“Giang sơn vui thú yên hà
Mai là bạn cũ, Hạc là bạn quen”
Thương câu thơ lưu lạc
Nguyễn Du Hồ Xuân Hương

Cánh cò bay trong mơ
Ca dao em và tôi
Bảng lãng cánh cò
Bay giữa nhân gian.

Cánh cò bay trong mơ
Gốc mai vàng trước ngõ
Nhà tôi chim làm tổ
Hoa đồng nội và em

Cánh cò bay trong mơ
Hoa và Ong, Hoa Người
Bài ca nhịp thời gian
Giấc mơ lành yêu thương

NÔNG LỊCH TIẾT GIỮA ĐÔNG
Hoàng Kim

Đêm lạnh đông về chậm nắng lên
Nghe hơi sương giá buốt bên thềm
Em đi làm sớm trời đang ngủ
Giữ ấm xin đừng vội để quên.

SỚM ĐÔNG
Hoàng Kim

Sớm Đông
Trời tạnh mây quang
Vươn vai
Đón nắng
Mặc cơn gió lùa

Vấn vương *
câu hẹn ngày qua
Lập Đông
Ủ mộng
Xuân sang
nõn cành …

24 TIẾT KHÍ NÔNG LỊCH
Hoàng Kim


Khuyên em đừng quên nhất thì nhì thục
Di sản Việt Nam học mãi không cùng
Mình học để làm hai bốn tiết khí
Mộc mạc hát vần bài học đầu tiên.

Đất cảm trời thương lòng người gắn bó
Dẫu khó vạn lần khéo liệu cũng xong
Mùa xuân tới tự tiết xuân sẽ đến
Bởi biết rằng năm tháng đó là em.

6 tháng Một bắt đầu rét nhẹ
21 tháng Một trời lạnh cắt da
4 tháng Hai ngày xuân mới đến
20 tháng Hai Thiên Địa Nhân hòa.

Đồng dao cho em khuyên em đừng tưởng
Câu chuyện mùa xuân
thêm cho mồng Ba
Trải Cốc Vũ qua ngày Hạ Chí
Đại Thử rồi Sương Giáng thành hoa.

6 tháng Năm là ngày Hè đến
22 tháng Năm mưa nhỏ, vào mùa
5 tháng Sáu ngày Tua Rua mọc
21 tháng Sáu là chính giữa Hè.

7 tháng Bảy là ngày nắng nhẹ
23 tháng Bảy là tiết nóng oi
7 tháng Tám chớm thu rồi đó
23 tháng 8 trời đất mây mưa.

Qua Xử Thử đến tiết trời Bạch Lộ
Sau Mưa Ngâu đến Nắng nhạt đấy em.
Tiết Thu Phân khoảng 23 tháng 9
Đối lịch nhà nông em nhớ đừng quên.

Tiết Hàn Lộ nghĩa là trời mát mẻ
Kế tiếp theo là Sương Giáng (sương mù)
23 tháng 10 mù sa dày đặc
Thuyền cỏ mượn tên nhớ chuyện Khổng Minh.

Ngày 7 tháng 11 là tiết lập đông
23 tháng 11 là ngày tiểu tuyết
8 tháng 12 là ngày đại tuyết
22 tháng 12 là chính giữa đông.

*

Khuyên em đừng quên nhất thì nhì thục
Di sản Việt Nam học mãi không cùng
Mình học để làm 24 tiết khí
Mộc mạc hát vần bài học đầu tiên.

Mùa vụ trồng cây, kinh nghiệm nghề nông
Xin em đừng quên điều ông bà dạy
Xuân Hạ Thu Đông hai bốn tiết khí
Khoa học thiên văn ẩn ngữ đời người.

Đất cảm trời thương, lòng người gắn bó
Dẫu khó vạn lần khéo liệu cũng xong
Mùa xuân tới tự tiết xuân sẽ đến
Bởi biết rằng
năm tháng đó là em.

LoiPhatday

TƯƠNG LAI TRONG TAY TA
Hoàng Kim

Thấu suốt sự minh triết
Tương lai trong tay mình
không tranh là trí tuệ,
đừng chấp là từ bi,

không tham thì rộng rãi,
tránh ác thì được lành
lắng nghe thì tâm tĩnh,
bớt nói là thông minh.

không thấy thì tự nhiên
sửa lỗi thì được thiện,
hiếu kính thì phước đức,
tha thứ là giải thoát.

biết đủ biết buông bỏ,
lợi người là giúp mình,
im lặng là tỉnh thức,
giác ngộ về chính tâm.

ĐỐI THOẠI VỚI THIỀN SƯ
Hoàng Kim


Thăm Thiền sư đời thường
Lắng chiều sâu Phật pháp
Thung dung con đường xanh
Hoàng Gia an viên sáng.

THIỀN SƯ LÃO NÔNG TĂNG
https://youtu.be/w21hkPfEA2M

“Mưa thuận gió hòa chăm bón đúng
Nhân tươi quả tốt được thu nhiều”

Viên Minh Thích Phổ Tuệ
Nhớ Viên Minh Hoa Lúa
Hoa Lúa giữa Đồng Xuân
Lời Thầy dặn thung dung

Kim Notes lắng ghi chú

Noi theo dấu chân Bụt
Dạy và học làm Người
Hiểu Quân Dân Chính Đảng
Thấu Lão Nông Lâm Y Sinh
https://hoangkimlong.wordpress.com/category/thien-su-lao-nong-tang/

anh
Nguyễn Quốc Toàn viết
CÂY PHẬT GIÁO
Nguyễn Quốc Toàn 13.1.2019


1- Nếu bạn cho rằng Phật giáo Đại thừa (còn gọi là Phật giáo Pháp môn, hay Phật giáo Phát triển) đã đi quá xa các nguyên lý của đạo Phật nguyên chất, thì nên chăng tham khảo ý kiến của Đại lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ khi ngài dịch bộ ba “Phật giáo tư tưởng luận” của tác giả Kimura Taiken. Trong Lời tựa ở quyển (I) Đại lão Hòa thượng viết: “Phật giáo cũng như cái cây có ba phần. Phần gốc, phần thân, và phần ngọn bao gồm nhiều cành lá. Phần gốc là Căn bản Phật giáo, phần thân là Tiểu thừa Phật giáo, phần ngọn và cành lá là Đại thừa Phật giáo. Người ta không thể nào tưởng tượng được sự tồn tại của một cái cây mà không có gốc. Nhưng nếu chỉ có gốc không thôi thì cây ấy không còn sức sống, hoặc giả có gốc có thân mà không có cành lá thì cây ấy cũng như cây trong mùa đông, không khỏi gây cho người ta cái ấn tượng trơ trụi tiêu điều. Nếu phần gốc và thân cây giữ cho cái cây đứng vững thì phần cành lá sum suê xanh tốt sẽ biểu dương cho sức sống mãnh liệt của toàn bộ cây. Hơn nữa tán cây tươi thắm tỏa ra che rợp khoảng không gian đủ sức mang lại cho người lữ hành trên con đường dài mệt mỏi những phút giây êm mát giữa buổi trưa hè oi bức”

2- Albert Einstein (14.3.1879 – 18.4.1955). Nhà bác học vĩ đại nhất mọi thời đại. Người rất quan tâm và phát biểu khá nhiều về đạo Phật. Câu nói đáng suy ngẫm nhất của ông: “Tôn giáo tương lai sẽ là một tôn giáo toàn cầu vượt lên trên mọi Thần linh giáo điều và Thần học. Tôn giáo ấy phải bao quát cả phương diện tự nhiên lẫn siêu nhiên đặt trên căn bản của ý thức đạo lý, phát xuất từ kinh nghiệm tổng thể, gồm mọi lỉnh vực trong cái nhất thể đầy đủ ý nghĩa nhất. Phật giáo đáp ứng tất cả các điều kiện đó”

3- Vậy là, bác học Albert Einstein từ rất lâu đã nhìn thấy cái cây Phật giáo vững chãi vươn cao đâm chồi nẩy lộc hoa lá sum suê che mát chúng sinh đang vật vả đi trên con đường mưu cầu hạnh phúc và giải thoát.

Ba tập “Phật giáo tư tưởng luận” của Kimura Tai ken do Đại Lão Hòa thượng Thích Quàng Độ dich.

VIẾT TRONG MÙA GIÁNG SINH
Nguyễn Quốc Toàn 20.12.2020


Chúa Giê su có hai lần được sinh ra. Lần đầu từ bào thai mẹ gọi là Giáng sinh. Lần thứ hai bị giết chết chôn trong mộ bổng nhiên sống lại rồi lên trời gọi là Phục sinh. Giáng sinh và Phục sinh là hai lễ trọng của Thiên chúa giáo giáo và cũng là ngày hội của nhiều người không theo Thiên chúa giáo trên toàn thế giới.

1- TheoTân ước (Kinh thánh) thì sự xuất hiện của Giê Su và những gì liên quan đến ngài đều do Thiên chúa sắp đặt. Ông Giu se làm nghề thợ mộc kết hôn với bà Ma ri a, nhưng sau khi cưới ông phát hiện ra vợ mình đã có thai. Chưa biết phải xử lý thế nào về sự phản bội của vợ thì bà Ma ri a kể lại với chồng rằng đã một lần thiên sứ của Chúa trời báo mộng: “Này đây, trinh nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai…”(1). Ông Giu se cũng được thiên sứ báo mộng “Này ông Giu se đừng ngại đón bà Ma ri a vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên con trẻ là Giê su…” (2) . Từ đó, vợ chồng Giu se Ma ri a sống cùng nhà nhưng không hề chung đụng. Do vậy người Ki tô giáo gọi bà Ma ri a là mẹ đồng trinh. Người theo đạo Tin lành phản biện: phụ nữ đã sinh đẻ thì không còn đồng trinh nữa. Cuộc tranh luận cho đến nay vẫn chưa dứt.

Ngày đó Hoàng đế La mã lệnh cho toàn dân dẫu định cư ở đâu cũng phải về quê quán kê khai tài sản, ruộng đất, để triều đình tính thuế. Vợ chồng ông Giu se và bà Ma ri a phải vượt chừng một trăm cây số từ Na da rét về Bê lem để thực thi nghiêm lệnh. Ông Giu se đi bộ bên cạnh con lừa chở vợ. Đường sá khúc khuỷu gập ghềnh đối với bà Ma ri a là một nỗi cực nhọc khủng khiếp. Khi hai người đến được thị trấn Bê lem thì ở đó người đông nghịt, các nhà trọ đều chật như nêm. Bà Ma ri a chuyển dạ đẻ, hai người phải qua đêm trong khu vực dành cho súc vật. Giu se dọn chỗ nằm cho vợ trên rơm cỏ khô bốc mùi ngai ngái. Bà Ma ri a sinh con trai trong máng cỏ và quấn con với tã lót bằng vải. Vào thời điểm đó trời đêm Bê lem bổng dưng bừng sáng. Một ánh sáng tuyệt vời và kì diệu. Dân chúng quỳ xuống cầu nguyện và đâu đó văng vẳng “Hôm nay trong thành Đa vít đã ra đời cho mọi người Đấng cứu độ, ngài là chúa Ki tô… anh em sẽ tìm thấy một hài nhi mình quấn tã lót mằm trong máng cỏ”. Các nhà chiêm tinh ở vương quốc Giu đê phát hiện một ngôi sao mới xuất hiện trên bầu trời Bê lem. Họ biết rằng đấy là báo hiệu một vị vua Do Thái mới ra đời. Trong khi dân chúng toàn vùng đến tặng quà và chức mừng chúa hài đồng thì vua Hê rô đê vô cùng lo sợ. Vì nếu có vua mới xuật hiện thì ngai vàng của ông sớm muộn gì cũng bị lật đổ. Để trừ hậu họa ông hạ lệnh giết toàn bộ những đứa trẻ từ hai tuổi đến những đứa mới sinh trong vùng Bê lem và những nơi lân cận. Thiên sứ lại hiện ra báo mộng cho ông Giu se “này ông, dậy đem hài nhi và mẹ Người trốn sang Ai cập, và cứ ở đó cho đến khi tôi báo lại, vì vua Hê rô đê sẽ tìm giết hài nhi đấy” (3)

2- Chúa Giê su sống hết tuổi thiếu niên ở Ai cập. Khi về lại quê nhà, Ngài gần gũi những người nghèo khổ, dạy dỗ họ những điều hay lẻ phải qua “bài giảng trên núi”. Chẳng hạn: Tám mối phúc… Muối cho đời và ánh sáng cho trần gian… Đừng giận ghét… Đừng ly dị… Chớ ngoại tình…Đừng thề thốt… Chớ trả thù…Phải yêu kẻ thù…Bố thí kín đáo…Không thể vừa làm tôi Thiên chúa vừa làm tôi tiền của… Ngài còn dùng dụ ngôn để người nghe suy tư về nghĩa lý thâm sâu đằng sau lời Ngài nói. Dụ ngôn hạt lúa gợi về cái chết và sự sống: “nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác”(4). Hoặc, “Đất tốt tiếp nhận hạt giống, tiêu biểu cho người lắng nghe lời Thiên chúa, am hiểu và tuân giữ lời ấy. Khi lời Thiên chúa rơi vào những tâm hồn thiện ý, lời ấy chín muồi thành hoa quả đức tin” (5). Đức Giê su được dân chúng ngưỡng mộ bởi ngài dùng phép lạ chữa những bệnh phong hủi, bại liệt, làm cho người mù bẩm sinh sáng mắt, người què quặt đi lại bình thường. Dân chúng và kẻ thù của đức Chúa kinh ngạc đến hãi hùng khi Ngài làm sống lại chàng trai La da rô đã chết 4 ngày, thân thể bắt đầu nặng mùi. Đứng trước mộ Ngài hô lớn “La da rô bước ra”. Một dáng người lờ mờ trỗi dậy trong mộ, trên người vẫn còn vải liệm và trên mặt vẫn đắp khăn. Mác ta và Ma ri a quẹt nước mắt hân hoan đưa cậu em yêu quý của mình về nhà (6).

3- Đức Giê su càng được dân chúng ngưỡng mộ thì chính quyền cai trị La mã, và người Pha ri siêu càng căm ghét. Bọn người này vốn cùng chủng tộc với Giê su nhưng theo đạo Do Thái, chỉ chấp nhận phần cựu ước trong Kinh thánh chứ không chấp nhận Tân ước nói về Giê su. Kẻ thù của đức Chúa bằng mọi cách bắt Ngài tống ngục, nhưng Ngài lại được dân chúng chở che bảo vệ. Trong số mười hai tông đồ của chúa Giê su thì mười một người hết lòng bảo vệ an toàn cho ngài, riêng có Giu đa ra mặt phản bội. Hắn nói với các chức việc rằng “Tôi hôn ai thì chính là người đó các ông cứ thế mà bắt”…Bọn lính ào vào túm lấy đức Giê su, trói chặt ngài lại và lôi đi. Bản án tử hình đã được Hội đồng công nghị thông qua. Lính La mả dẫn Giê su qua cổng bắc thành Giê ru sa lem lên đỉnh Núi Sọ để hành hình. Đức Giê su loạng choạng bước lên dốc, trên vai nặng chĩu cây thánh giá, khắp mình đầy rẫy thương tích. Lính La mã cởi trần truồng đức Giê su và đặt ngài nằm trên thánh giá rồi đóng đinh xuyên vào bàn tay bàn chân. Cây thánh giá được dựng lên. Giê su chỉ nói một câu: “Cha ơi, con xin phó thác hồn con trong tay cha”, nói xong, đầu ngài gục xuống. Bọn lính La mã thay phiên nhau canh gác cực kì cẩn mật nơi chôn cất đức chúa. Họ sợ mười một tông đồ còn lại và dân chúng cướp xác ngài đi chôn nơi khác và phao tin rằng chúa Giê su đã lên trời. Nhưng chỉ ba ngày sau mọi người kinh ngạc không thấy thi hài đức chúa trong mộ. Ngài đã về trời theo sự sắp đặt của Thiên chúa. Và bốn mươi ngày sau khi sống lại đức Giê su xuất hiện giữa các môn đệ, ngài nói với họ về nước Thiên chúa…

4- Đức Giê-su là con chúa Trời, ngài không chịu tội tổ tông do ông A đam và bà E va ăn trái cấm ở vườn Ê đen. Sự thương khó và sự chết của Giêsu là yếu tố cơ bản trong thần học Kitô giáo, liên quan mật thiết tới giáo lý về cứu rỗi và chuộc tội, như là điều kiện cần thiết để con người được tha thứ tội lỗi và hòa giải với Thiên Chúa.
————
(1) (2) Tin mừng theo thánh Mát thêu, trg 1291
(3) Tin mừng theo thánh Mát thêu, trg 1292
(4) (5) Dẫn theo “Chuyện Kinh Thánh” của nhà văn Nobel Pearl Buck.
(6) Trang 1408, Kinh thánh
————
Tượng chúa Ki tô ở Vũng Tàu

anh Bu Lu Khin và các mế

LÊN VIỆT BẮC ĐIỂM HẸN
Hoàng Kim

(3)
Anh lên Tây Bắc chào các mế
Trời suối gần thêm giấc mơ lành
Mây trắng đường xưa thênh thênh bước
Tản mạn cây xanh thăm thẳm anh.

CNM365
Kinh Dịch
Thiên Địa Nhân
Âm Dương Ngũ Hành
Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ
Trâu tìm trâu, Ngựa tìm ngựa
Đối thoai với Thiền sư
Tình Yêu Cuộc Sống
DẠY VÀ HỌC
Thung dung
CNM365

PHÁP TRẦN
Quay đầu là bờ
Thích Thanh Từ (Sư Ông Trúc Lâm)

Trong nhà thiền thường nói, khi ngộ đạo rồi mắt thấy như mù, tai nghe như điếc. Như mù nhưng không phải mù, như điếc nhưng không phải điếc. Giả sử chúng ta đi chợ, nghe người ta xôn xao đủ thứ, nhưng mình không dính, không chú ý. Khi về người nhà hỏi: “Bữa nay đi chợ thấy cái gì?” Mình nói: “Không thấy gì hết”. Nhưng sự thật mình có thấy không? Có thấy nhưng không dính thành ra như không thấy. Còn nếu ta để tâm vào việc gì thì khi được hỏi, mình liền trả lời: “Thấy thế này, thế kia”. Đó là ta đã tích lũy vào pháp trần trong tâm rồi.

Cho nên việc tu có nhiều điểm rất hay mà chúng ta không biết. Như ra đường bị ai nói xúc phạm tới danh dự mình, về nhà ít nhất ta cũng kể lại với người thân nghe. Kể một người nghe mình cũng chưa vừa lòng, phải kể cho người này người kia nghe chừng một trăm lần, như vậy mình đã thuộc lòng trong ký ức sâu quá rồi. Vì vậy khi ngồi thiền nó trồi lên, bỏ được một lát nó trồi lên nữa. Đó là vì chúng ta đã ghi nhớ quá sâu đậm.

Giống như lúc còn bé đi học, mỗi khi muốn thuộc bài, mình phải đọc tới đọc lui nhiều lần mới thuộc. Đem vô sâu là do ôn tới ôn lui nhiều lần. Lỡ nhớ rồi, khi muốn quên cũng phải tập bỏ thường xuyên mới quên được, không có cách nào khác hơn. Vậy mà vừa có chuyện buồn, chuyện giận là chúng ta đem ra kể liền. Gặp ai kể nấy, kể hoài như vậy quên sao được. Khi ngồi thiền nó trồi lên lại than: “Khổ quá! Con tu khó”. Khó là tại ai? Tại mình chứ tại ai, tích lũy nhiều thì nó trồi lên nhiều.

Bây giờ chúng ta thấy chỉ thấy, không thèm quan tâm chú ý gì cả. Thấy tất cả mà tâm không giữ, không dính thì tu dễ không khó. Nếu tu là tìm cái gì ở đâu xa thì khó, đằng này nó đã sẵn nơi mình rồi, chỉ quay lại là hiện tiền. Chúng ta không thấy được cái chân thật là do pháp trần đầy cứng bên trong, nên quay lại thấy toàn tạp nhạp.

Những giờ ngồi thiền là những giờ quay lại, mình thấy pháp trần lăng xăng lộn xộn nên nói thấy loạn tưởng nhiều quá. Thấy loạn tưởng nhiều là tu tiến nhiều. Vì ngày xưa, mỗi khi chúng dấy lên mình chạy theo nên không thấy chúng, bây giờ chúng dấy lên mình biết liền bỏ, đó là tu tiến. Tuy nó còn nhưng mình đã làm chủ được chút chút. Hồi xưa nó dẫn mình chạy theo hoàn toàn, bây giờ nó trồi lên mình từ chối không theo, đó là tiến rõ ràng. Nhưng nhiều khi Phật tử thấy nó rồi sợ, tu gì mà vọng tưởng quá chừng. Sự thật có tiến, tiến từng bước, chứ không phải không tiến.

Bước tiến tiếp theo là ngoài giờ ngồi thiền, khi tiếp xúc với mọi cảnh mọi vật, chúng ta thấy biết rõ ràng nhưng bỏ qua, không chú tâm, đó là ta tu trong mọi lúc mọi nơi. Không phải tay lần chuỗi, thân tọa thiền mới tu. Lần chuỗi tọa thiền mà ai động tới liền la hét là không phải tu. Người không tỏ vẻ tu hành gì hết, nhưng đi đứng tự nhiên thoải mái, ai nói gì thì nói, bỏ qua không để lòng, ấy mới thật là chân tu.

Nhiều khi chúng ta như điên khùng với nhau. Thí dụ mình tưởng mình thông minh, sáng suốt, nhưng ai vừa nói “Chị ngu quá!”, mình liền la đông đổng lên, để nói rằng ta không ngu. Nhưng thật ra như vậy là đã chứng tỏ mình đang ngu. Nếu không ngu, ta chỉ cười, nói: “Phải, tôi ngu” Nói vậy còn gì nữa để la, thì đâu có khổ. Vậy mà ai nói mình ngu liền cự lộn, rồi đủ thứ chuyện thưa kiện … có khổ không? Thế là cả hai đàng đều khùng điên với nhau hết.

Những chuyện hết sức nhỏ như vậy, nhưng mình không biết tu, nên cứ tích lũy trong tâm thành ra sanh bệnh. Bây giờ muốn bỏ, chúng ta phải gỡ lần những thứ đó, từ từ ngồi thiền sẽ được nhẹ nhàng yên ổn. Ai nói gì mình cũng cười. Đức Phật ngày xưa bị Bà la môn theo sau mắng chửi, Ngài im lặng không nói, không nhận, thế mà Bà la môn phải chịu phép, không dám mắng chửi nữa, khỏe khoắn làm sao.

Phật là bậc giác ngộ nên thấy người mê Ngài thương, không phản đối, không chống cự gì cả nhưng lại nhiếp phục được họ. Còn chúng ta bây giờ nghe nói một câu không vừa lòng liền phản đối, chống cự, rốt cuộc càng thêm lớn chuyện. Như vậy ta cùng những người mê kia, không hơn không kém, phải không? Mình là người tỉnh thì phải hơn kẻ mê. Họ nói bậy mình chỉ cười thôi thì không xảy ra chuyện gì hết. Như vậy có khỏe không ?

Cho nên người biết tu xả bỏ hết những gì không quan trọng. Quan trọng là đừng để sáu trần lôi dẫn đi, phải quay về với cái chân thật của chính mình. Cái chân thật ấy ai cũng có nhưng vì vọng tưởng che lấp nên mình không nhận ra. Cho nên Thiền sư Nam Tuyền Phổ Nguyện nói, người tu thiền như con ngỗng chúa uống sữa chừa nước lại. Câu nói nghe muốn bể cả đầu! Làm sao mà uống sữa chừa nước được? Hai thứ ấy hòa lẫn nhau, lọc thế nào ?

Những câu như vậy, tôi cũng mất nhiều năm lắm mới thấy rõ ý nghĩa của nó. Cái gì là sữa?. Cái gì là nước ? Vọng tâm và chân tâm nơi mình hòa lẫn nhau, không phải một cũng không phải hai. Vậy làm sao để lọc chân tâm ra khỏi vọng tâm? Ở đây, chúng ta chỉ cần khéo một chút là thấy liền. Cái biết trong sáng hiện tiền đó là sữa, còn cái biết lăng xăng lộn xộn là nước. Cái biết lăng xăng lộn xộn thì chúng ta không theo, chỉ sống với cái biết yên tĩnh, trong sáng. Đó là mình đã loại nước, uống sữa. Được thế ta là ngỗng chúa.

Những giây phút yên tĩnh, chúng ta ngồi chơi không nghĩ gì hết. Lúc đó tai vẫn nghe, mắt vẫn thấy mà không nghĩ suy điều chi. Như vậy cái biết đó mình đã có sẵn, nhưng vừa dấy nghĩ cái này cái nọ liền quên mất cái biết hằng hữu. Bây giờ chỉ cần không chạy theo các thứ xao động thì nó hiện tiền. Nếu chúng ta đừng đuổi theo những gì mắt thấy, tai nghe, mũi ngửi, lưỡi nếm … ăn cứ ăn uống cứ uống, làm tất cả việc mà đừng dính, nếu không phải Phật thì ít nhất mình cũng là Bồ tát con rồi.

Vì vậy không dính với sáu trần là biết quay đầu, còn dính với sáu trần là đã lao đi trong sanh tử, không có gì khó khăn hết. Trong nhà thiền có câu chuyện của anh hàng thịt, khi nghe một câu nói của vị Thiền sư, liền tỉnh ngộ và làm bài kệ:
Tạc nhật dạ xoa tâm
Kim triêu Bồ tát diện
Dạ xoa dữ Bồ tát
Bất cách nhất điều tuyến.
Dịch:
Hôm qua tâm dạ xoa
Bữa nay mặt Bồ tát
Dạ xoa và Bồ tát
Không cách một đường tơ.

Bồ tát v&Xem tiếp >>

  Dạy và học 22 tháng 12(22-12-2021)

DẠY VÀ HỌC 22 THÁNG 12
Hoàng Kim

CNM365 Tình yêu cuộc sốngCon nguyện làm Hoa Lúa; Chọn giống sắn Việt Nam; Bảo tồn và phát triển sắn; Nông lịch tiết giữa Đông; Hoa Lúa giữa Đồng Xuân; Mình về thăm nhau thôi; Thăm Tây Hồ nhớ Người; Tô Đông Pha Tây Hồ; Walt Disney người bạn lớn; Ngày 22 tháng 12 năm 1944,  Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, tiền thân của Quân đội Nhân dân Việt Nam, được thành lập tại Cao Bằng.Đại tướng Võ Nguyên Giáp tổng kết bài học thắng lợi của chiến tranh Việt Nam là Từ nhân dân mà ra, là sự hình thành và phát triển của ‘chiến tranh nhân dân’ Đại tướng Pháp Jean de Lattre de Tassigny đã thấm thía nói ‘Một quân đội chỉ có thể đánh thắng một quân đội nhưng một quân đội không thể đánh thắng một dân tộc‘. John Kennedy phỏng vấn Đại tướng Võ Nguyên Giáp, tại tác phẩm “Trí tuệ bậc Thầy, Tạp chí George, tháng 11, năm 1998, in trong sách ‘Không phải huyền thoại, Hữu Mai 2011,  đã viết: “Toàn dân chiến đấu” Giáp nói theo triết lý truyền thống Việt Nam về chiến tranh. Hòa trộn triết lý đó với tuyên truyền chính trị không ngưng nghỉ cho chiến sĩ của mình, ông đã tôi luyện nên một đội quân chiến đấu đầy hiệu quả, chiến thắng kiên cường trước những cú tấn công không cân sức. Quân đội đó đã trở thành một trong số những lực lượng bộ binh thiện chiến nhất trên thế giới hiện nay”. Ngày 22 tháng 12 năm 1984 là ngày mất Nguyễn Hiến Lê, nhà giáo, nhà văn, học giả, dịch giả, với 120 tác phẩm sáng tác, biên soạn và dịch thuật thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau, nhà văn hóa giáo dục nổi tiếng người Việt Nam (sinh năm 1912); Ngày 22 tháng 12 là ngày đông chí, một trong  24 tiết khí lịch nhà nông. Bài chọn lọc ngày 22 tháng 12: Con nguyện làm Hoa Lúa; Chọn giống sắn Việt Nam; Bảo tồn và phát triển sắn; Nông lịch tiết giữa Đông; Hoa Lúa giữa Đồng Xuân; Mình về thăm nhau thôi; Thăm Tây Hồ nhớ Người; Tô Đông Pha Tây Hồ; Walt Disney người bạn lớn; Đợi anh ngày trở lại; Tin nổi bật quan tâm; Ngày mới lời yêu thương; Nhớ cây thông mùa đông; Sớm Đông;Vui về với ruộng đồng; Giống Cây Trồng Quảng Bình; Trăng rằm; Sớm Đông; Vui đến chốn thung dung; Vui sống giữa thiên nhiên; Vui bước tới thảnh thơi; Vui đi dưới mặt trời; Câu chuyện ảnh tháng 12; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlong và  https://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-22-thang-12;

CON NGUYỆN LÀM HOA LÚA
Hoàng Kim

Bao năm Trường Viện là nhà
Lúa ngô khoai sắn đều là thịt xương
Một đời người một rừng cây
Thầy ươm giống tốt để mai thành rừng.

Con thăm Thầy lên non thiêng Yên Tử
Về đất lành chùa Giáng giữa đồng xuân
Thơm hương lúa ngậm đòng chăm bón đúng
Ngát gương sen lồng lộng bóng trúc mai

Biết ơn Thầy trọn đời thương hạt gạo
Bưng bát cơm đầy, quý giọt mồ hôi
Con xin được theo Thầy làm Hoa Lúa
Hoa quê hương hạt ngọc trắng ngần.

Lẫn với cỏ không tranh đua hương vị
Không màng ngôi ngự trị các loài hoa
Hoa Lúa đượm hồn quê dung dị
Quên sắc hương để lộng lẫy Hoa Người ! (*)

Con nguyện ước nối đời theo hạt gạo
Chén cơm ngon thơm bếp lửa gia đình
Thầy Trò cùng chung tay làm việc thiện
Sống trọn tình với giấc mơ xanh.

(*) Trích thơ Dương Phượng Toại tặng Hoa Lúa
(**) Kỷ niệm người lính ngày 22 tháng 12, tôi lưu lại một số ghi chép có các bài
Con nguyện làm Hoa Lúa; Thiền Sư Lão Nông Tăng; Hoa Lúa giữa Đồng Xuân; Hoa Đất của quê hương. Con đường mà tôi và các bạn quý đời mình đã lựa chọn sau chiến tranh là về lại trường để  học tiếp, nghiên cứu tuyển chọn được một số giống cây trồng tốt và kỹ thuật canh tác tiến bộ thích hợp, nhằm góp phần nâng cao năng suất chất lượng cây trồng, nguồn thu nhập đời sống và sinh kế cho người nông dân, góp sức đào tạo được một đội ngũ khoa học cây trồng thích hợp cho điều kiện Việt Nam

CHỌN GIỐNG SẮN VIỆT NAM TỔNG QUAN 1975-2021
Vietnamese Cassava breeding highlight 1975-2021
Bảo tồn và phát triển sắn thích hợp, bền vững
Hoàng Kim, Nguyễn Thị Trúc Mai, Hoàng Long


Việt Nam có tổng diện tích sắn thu hoạch năm 2020 sơ bộ là 524,5 ngàn ha, với năng suất sắn củ tươi bình quân 19,99 tấn/ ha, sản lượng sắn củ tươi 10,48 triệu tấn (GSO 2021). Hai giống sắn thương mại chủ lưc KM419 và KM94 ngày nay (năm 2020) chiếm lần lượt trên 42% và 37% tổng diện tích sắn Việt Nam, tăng hơn so với số liệu tương ứng năm 2016 là 38% và 31,7%
RTB Newsletter 2016. Assessment reveals that most cassava grown in Vietnam has a CIAT pedigree, http://www.rtb.cgiar.org/2016-annual-report/assessment-reveals-that-most-cassava-grown-in-vietnam-has-a-ciat-pedigree/.

Chọn giống sắn Việt Nam tổng quan 1975-2021. Tiến bộ di truyền của nguồn gen giống sắn Việt Nam đúc kết thông tin hệ thống từ các tài liệu khoa học được công bố chính thức, có các quyết định của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn công nhận các giống sắn chủ lực và thương mại, phổ biến được lưu hành tổng hợp tại hình 1. Các giống sắn triển vọng tạo thành trong nước, và các giống sắn nhập nội (cần nhận diện đúng giống gốc theo hồ sơ giống nhập nội/ tạo thành, kết quả khảo nghiệm DUS, VCU, có báo cáo đặc điểm nông sinh học của giống)

Nguồn gốc và đặc điểm của hai giống sắn chủ lực KM419, KM94 và bốn giống sắn có diện tích trồng phổ biến rộng tại Việt Nam KM140, KM98-5, KM98-1, SM937-26 như sau:

GIỐNG SẮN CHỦ LỰC KM419

Giống sắn chủ lực KM419 Ở Việt Nam, chúng tôi khuyên nông dân nên trồng các loại giống sạch bệnh của giống sắn chủ lực KM419, và các giống sắn phổ biến KM440, KM94, KM140, KM98-5, KM98-1; cần thử nghiệm sản xuất diện rộng đánh giá năng suất tinh bột và khả năng kháng bệnh khảm lá (CMD), bệnh chổi rồng (CMBD) đối với các giống sắn KM568, KM535, KM440, STB1, HN3, HN5, HLS12 để bảo tồn và phát triển sắn thích hợp. bền vững: xem thêmhttps://hoangkimlong.wordpress.com/category/chon-giong-san-khang-cmd/; #hoangkimlong#CLTVN


Nguyễn Thị Trúc Mai “Với mong muốn góp phần phát triển cây sắn bền vững, bảo vệ kết quả sản xuất người trồng sắn, hiện nay Trúc Mai đang thực hiện chuyển giao số lượng lớn giống sắn KM419 (còn gọi là Siêu bột, Cút lùn, Tai đỏ) và KM94 và hỗ trợ kỹ thuật MIỄN PHÍ. Quy cách giống: 20 cây/bó; độ dài tối thiểu 1,2m/cây, cây giống khỏe, HOÀN TOÀN SẠCH BỆNH (có thể giữ lá cây giống để kiểm tra bệnh khảm + các loại sâu bệnh khác). Địa điểm nhận giống: huyện Đồng Xuân, Phú Yên. Liên hệ Ts sắn TRÚC MAI: 0979872618. Đừng ngại thời tiết và giới tính .Giống sắn KM419 cây thấp gọn, dễ trồng dày, thân xanh thẳng, nhặt mắt, không phân cành, lá già xanh đậm, đọt non màu xanh, cọng xanh tím, số củ 8-12, củ to và đồng đều, dạng củ đẹp, thịt củ màu trắng, chịu hạn tốt.” Thông tin ngày 18/11/2021https://www.facebook.com/TrucMa…/posts/5134183749930863…tích hợp tại #hoangkimlong, #CLTVN ; xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/cltvn/

Giống sắn KM419 nguồn gốc chọn tạo
Giống sắn KM 419 được chọn tạo từ tổ hợp lai BKA900 x KM 98-5. Giống do Trường Đại học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh phối hợp với Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Phú Yên, Trường Đại học Nông Lâm Huế tuyển chọn và giới thiệu (Hoàng Kim, Trần Ngọc Ngoạn, Nguyễn Thị Trúc Mai, Võ Văn Quang, Nguyễn Bạch Mai, Nguyễn Thị Lệ Dung, Nguyễn Phương, Hoàng Long, Nguyễn Minh Cường, Đào Trọng Tuấn, Trần Công Khanh, Nguyễn Minh Hiếu, Nguyễn Văn Bộ, Nguyễn Thị Cách, Nguyễn Trọng Hiển, Lê Huy Ham, H. Ceballos and M. Ishitani. (2016), Giống được Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn công nhận sản xuất thử tại Quyết định số 85 / QĐ-BNN-TT Hà Nội ngày 13 tháng 1 năm 2016 cho vùng sinh thái Bắc Trung Bộ, Duyên hải Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ).

Quá trình chọn tạo và khảo nghiệm giống: KM419 là con lai ưu tú của tổ hợp lai KM98-5 x BKA900 ban đầu do Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh tuyển chọn và giới thiệu Giống KM419 đã được tỉnh Tây Ninh tổ chức trồng rộng rãi từ năm 2009 (Hoàng Kim, Cao Xuân Tai, Nguyễn Phương, Trần Công Khanh, Hoàng Long. 2009. “Tuyển chọn các dòng sắn lai đơn bội kép nhập nội từ CIAT”. Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh, Báo cáo tổng kết Đề tài cấp Bộ Giáo dục và Đào tạo, Mã số đề tài: B2007-12-45; Thời gian thực hiện 1/2007-12/2008. Nghiệm thu đề tài tháng 10/2009). Giống mẹ KM98-5 là giống sắn tốt đã được tỉnh Đồng Nai và Tây Ninh cho phép mở rộng sản xuất năm 2002, 2005 và Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn công nhận giống năm 2009 (Trần Công Khanh, Hoàng Kim và ctv, 2002, 2005, 2007, 2009 ). Giống bố BKA900 là giống sắn ưu tú nhập nội từ Braxil có ưu điểm năng suất củ tươi rất cao nhưng chất lượng cây giống không thật tốt, khó giữ giống cho vụ sau. Giống sắn lai KM419 do kết hợp được nhiều đặc tính tốt của cha mẹ, dẫn đầu năng suất hầu hết các thí nghiệm (Hoang Kim, Nguyen Van Bo Nguyen Phuong, Hoang Long, Tran Cong Khanh, Nguyen Van Hien, Hernan Ceballos, Rod Leproy, Keith Fahrney, Reinhardt Howeler and Tin Maung Aye 2011. Current situation of cassava in Vietnam and the breeding of improved cultivars. In A New Future for Cassava in Asia: Its Use as Food, Feed, and Fuel to Benefit the Poor, 8th Asian Cassava Research Workshop October 20 – 24, 2008 in Vientiane, Lao PDR)

Giống sắn KM419 là giống sắn chủ lực của Việt Nam có diện tích thu hoạch năm 2016 chiếm 38 % so với giống sắn KM94 chiếm 31,7% (RTB Newsletter 2016. Assessment reveals that most cassava grown in Vietnam has a CIAT pedigree), và năm 2019 giống sắn KM419 chiếm khoảng 42% tổng diện tích sắn toàn Việt Nam

Giống sắn chủ lực KM419 đặc điểm nông sinh học:

+ Thân xanh xám thẳng, ngọn xanh cọng đỏ, lá xanh đậm, không phân nhánh.
+ Năng suất củ tươi: 34,9 – 54,9 tấn/ha.
+ Tỷ lệ chất khô: 35,1- 39.0%.
+ Hàm lượng tinh bột: 27,8 – 30,7%.
+ Năng suất tinh bột: 10,1-15,8 tấn/ ha
+ Chỉ số thu hoạch: 62 %.
+ Thời gian thu hoạch: 7-10 tháng.
+ Nhiễm trung bình bệnh chồi rồng và bệnh khảm lá virus CMD
+ Cây cao vừa, nhặt mắt, tán gọn, thích hợp trồng mật độ dày 12,500- 14.000 gốc/ ha .

Giống sắn KM419 đã phát triển rộng rãi tại Tây Ninh, Đồng Nai, Đắk Lắk, Phú Yên,…được nông dân các địa phương ưa chuộng với tên gọi sắn giống cao sản siêu bột Nông Lâm. Đặc biệt tại tỉnh Phú Yên giống sắn KM419 được trồng trên 85% tổng diện tích sắn của toàn tỉnh mang lại bội thu năng suất và hiệu quả cao về kinh tế xã hội. Tại Tây Ninh, năm 2019 diện tích sắn bị nhiễm bệnh CMD tuy vẫn còn cao nhưng mức độ hại giảm mạnh, lý do vì KM419 và KM94 là giống chủ lực chiếm trên 76% diện tích mỗi vụ của toàn tỉnh (KM419 chiếm 45% ở vụ Đông Xuân và 54,2% ở vụ Hè Thu; KM94 chiếm 31% ở vụ Đông Xuân và 21,6% ở vụ Hè Thu). Tại Đăk Lắk, năm 2019 diện tích sắn KM419 chiếm trên 70% diện tích mỗi vụ của toàn tỉnh.

Sự bùng nổ về năng suất sản lượng và hiệu quả kinh tế sắn đã trùng hợp với sự xuất hiện, lây lan của các bệnh hại bệnh sắn nghiêm trọng. Đặc biệt bệnh khảm lá CMD do virus gây hại (Sri Lanka Cassava Mosaic Virus) lây lan rất nhanh và gây hại khủng hoảng các vùng trồng sắn. Tại Việt Nam, bệnh này được phát hiện vào tháng 5/2017 trên giống sắn HLS11, đến tháng 7/ 2019 bệnh đã gây hại các vùng trồng sắn của 15 tỉnh, thành phố, trên hầu hết các giống sắn hiện có ở Việt Nam. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Cục BVTV đã có văn bản 1068 ngày 9/5/2019 xác định “Việc hướng dẫn nông dân mua giống KM419 sạch bệnh là giải pháp an toàn, kinh tế nhất hiện nay” .

#hoangkimlong#CLTVNCách mạng sắn Việt Namhttps://youtu.be/81aJ5-cGp28https://www.youtube.com/embed/XDM6i8vLHcI?version=3&rel=1&showsearch=0&showinfo=1&iv_load_policy=1&fs=1&hl=vi&autohide=2&wmode=transparent Cassava in Vietnam: Save and Grow, PhuYen, Nguyen Thi Truc Mai, Nguyen Minh Hieu, Hoang Kim, Nguyen Trong Tung, 2015. Cassava varieties KM419 and KM440 https://youtu.be/XDM6i8vLHcI

GIỐNG SẮN KM440

Nguồn gốc: KM440 là giống sắn KM94 chiếu xạ hạt giống KM94 bằng tia Gamma nguồn Co 60, thực hiện trên 24.000 hạt sắn KM94 đã qua tuyển chọn đơn bội kép do nhóm nghiên cứu sắn Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hố Chí Minh (NLU) chủ trì chọn tạo giống (Hoàng Kim, Lương Thu Trà, Bùi Trang Việt,  và ctv 2004. Ứng dụng đột biến lý học và nuôi cấy mô để tạo giống khoai mì có thời gian sinh trưởng ngắn, năng suất củ tươi và hàm lượng tinh bột cao, phù hợp với việc né lũ của tỉnh An Giang. Uỷ ban Nhân dân Tỉnh An Giang, Sở Khoa học Công nghệ An Giang, Long Xuyên, An Giang, tháng 5/2004) sau đó tiếp tục cải tiến giống bằng phương pháp tạo dòng đơn bội kép (Hoàng Kim và ctv 2009)

Đặc điểm giống: KM440 thân xanh, thẳng, nhặt mắt, không phân cành, lá già xanh đậm, đọt non màu xanh tím, củ đồng đều, dạng củ đẹp, thịt củ màu trắng, ít nhiễm sâu bệnh, năng suất củ tươi 40,5 đến 53,1 tấn/ha. Hàm lượng bột đạt từ 27,0 -28,9%,. giống ngắn ngày, thời gian giữ bột sớm hơn KM94. (Nguyễn Thị Lệ Dung 2011, Luận văn thạc sĩ NLU; Đào Trọng Tuấn 2013 Luận văn thạc sĩ NLU; Luận văn thạc sĩ NLU; Trần Ngọc Ngoạn, Nguyễn Trọng Hiển, Nguyễn Thị Cách, Hoàng Kim 2013; Nguyễn Minh Cường 2014, Luận văn thạc sĩ NLU; Nguyễn Thị Trúc Mai 2017 Luạn án tiến sĩ Đại học Huế; Nguyễn Bạch Mai 2018 Luận án tiến sĩ Đại học Tây Nguyên)

Các Video thử nghiệm sản xuất diện rộng tại các vùng sinh thái Giống sắn KM419 và KM440 tại Phú Yên https://youtu.be/XDM6i8vLHcI; tại Đăk La8k Kỹ thuật trồng sắn KM419 (khoai mỳ)-ACP_Đăk Lăkhttps://youtu.be/VT3yDprIh8EQuang Chinh Pham; Giống sắn KM419 kỹ thuật thâm canh bền vững tại Tây Ninh https://youtu.be/XMHEa-KewEk Giống sắn KM419 và KM440 trồng thâm canh hàng đôi năng suất cao Tây Ninh https://youtu.be/ItF0sIL1P6I#quantv#dangvanquan Cách trồng mì hàng đôi ở Tây Ninh giúp nâng mật độ trồng từ 10000 gốc/ ha (thích hợp cho giống KM94) lên 14.285 gốc/ha (0,7 m x 1,00m) đến 15.873 gốc/ ha (0,70m x 0,90m), rất thích hợp cho giống sắn KM419 thấp cây, tán gọn, không phân nhánh. Cách thu hoạch mì ở Tây Ninh, giống KM419 (tai đỏ siêu bột), giống KM440 (tai trắng siêu bột) trồng rò đôi https://youtu.be/kjWwyW0hkbU Giống sắn KM419 và KM440 là hai giống sắn đã được Mạng lưới Sắn Việt Nam (VNCP) đánh giá và tuyển chọn.từ Kết quả khảo nghiệm sản xuất diện rộng, đã tổng kết tại nhiều công trình từ năm 2006 đến nay. https://www.youtube.com/embed/9mZHm08MskE?version=3&rel=1&showsearch=0&showinfo=1&iv_load_policy=1&fs=1&hl=vi&autohide=2&wmode=transparent

#quantv #dangvanquan#CLTVNKimYouTube GIỐNG SẮN KM440 TÂY NINH (Cassava variety KM440 Tay Ninh), https://youtu.be/9mZHm08MskE, nông dân thường gọi là “mì tai trắng”, để phân biệt với Giống sắn chủ lực KM419 (Cassava popular variety KM419), nông dân thường gọi là “mì tai đỏ”, và Giống sắn KM94 (Cassava variety KM94), nông dân thường gọi là “mì KUC đọt tím” là giống sắn MKUC28-77-3 = KU50= KM94 (được khảo nghiệm sản xuất rộng rải tại Tây Ninh năm 1994 và Bộ Nông nghiệp PTNT Việt Nam công nhận giống tiến bộ kỹ thuật đặc cách năm 1995) https://www.youtube.com/embed/kjWwyW0hkbU?version=3&rel=1&showsearch=0&showinfo=1&iv_load_policy=1&fs=1&hl=vi&autohide=2&wmode=transparent#quantv #dangvanquan#CLTVNKimYouTube Cách thu hoạch sắn ( khoai mì) Tây Ninh, video Đặng Văn Quân https://youtu.be/kjWwyW0hkbU, https://youtu.be/9mZHm08MskE

.Tại Tây Ninh ngày nay, giống sắn chủ lực KM419 (tai đỏ), nông dân trồng lẫn với giống KM 440 (tai trắng), và các giống phổ biến KM140, KM98-5 (tai xanh), KM98-1. Giống sắn KM94 là giống sắn ngọn tím, cây cao cong khó trồng dày và dễ nhiễm bệnh chồi rồng

Chọn giống sắn Việt Nam ngày nay giải pháp hiệu quả là sử dụng giống sắn KM419 năng suất tinh bột cao, sạch bệnh tiếp tục lai tạo với các giống sắn kháng bệnh CMD đã có. Chọn giống sắn Việt Nam tổng quan 1975 – 2021(hình 1) Sự cải tiến, nâng cấp giống sắn chủ lực KM419, là giống sắn tốt nhất hiện nay, đang đồng hành nổ lực đi tới Hoàng Kim, Trúc Mai, Hoang Long, BM Nguyễn, Hung Nguyenviet, Nguyen Van Nam, Nhan Pham, Jonathan Newby; …

Giống sắn HLS11 rất nhiễm bệnh virus khảm lá, vỏ củ màu nâu đỏ như màu vỏ củ KM94,cây giống HLS11 cao hơn hẳn so với cây giống KM419, KM440 tán gọn, cây cao vừa phải,.

Giống sắn KM419 bìa trái thấp cây, tán gọn, cọng đỏ, chống chịu trung bình với bệnh CMD và các dòng sắn lai ít bệnh CMD và CWBD, so với HLS 11 giữa, cao cây, cọng xanh, nhiễm nặng bệnh CMD

Giống sắn chủ lực KM419 kháng trung bình (cấp 2-3) bệnh CMD, so với HLS11 nhiễm nặng (cấp 5).

GIỐNG SẮN KM 94

Tên gốc KU50 (hoặc Kasetsart 50) được nhập nội từ CIAT/Thái Lan trong bộ giống khảo nghiệm Liên Á năm 1990. Giống do Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam, Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam, Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên nhập nội, tuyển chọn và giới thiệu (Trần Ngọc Quyền, Hoàng Kim, Võ Văn Tuấn, Kazuo Kawano 1995, Trịnh Phương Loan, Trần Ngọc Ngoạn và ctv. 1995). Giống được Bộ Nông nghiệp và PTNT công nhận giống quốc gia năm 1995 trên toàn quốc tại Quyết định số 97/NN-QLCN/QĐ ngày 25/11/1995. Giống sắn KM94 là giống sắn chủ lực của Việt Nam có diện tích thu hoạch năm 2008 chiếm 75, 54% (Hoang Kim Nguyen Van Bo et al. 2010), năm 2016 chiếm 31,8 % và năm 2020 chiếm khoảng 38% tổng diện tích sắn toàn Việt Nam

Giống KM94 có đặc điểm:

+ Thân xanh xám, ngọn tím, không phân nhánh.
+ Năng suất củ tươi: 33,0 tấn/ha.
+ Tỷ lệ chất khô: 35,1- 39.0%.
+ Hàm lượng tinh bột: 28,7%.
+ Năng suất tinh bột: 7,6-9,5 tấn/ ha
+ Chỉ số thu hoạch: 58 %.
+ Thời gian thu hoạch: 9-11 tháng.
+ Nhiễm trung bình bệnh chồi rồng, bệnh khảm lá sắn CMD và bệnh cháy lá
+ Cây cao, cong ở phần gốc, thích hợp trồng mật độ 10.000-11 000 gốc/ ha .

Giống sắn KM94 công bố bệnh chổi rồng trên Báo Nhân Dân năm 2009. Chữa bệnh ”chồi rồng’ trên cây sắn https://nhandan.vn/khoa-hoc/Chua-benh-choi-rong-tren-cay-san/. Bệnh chổi rồng trên sắn Đăk Lăk năm 2017 https://www.youtube.com/embed/up-xe9M5TAQ?version=3&rel=1&showsearch=0&showinfo=1&iv_load_policy=1&fs=1&hl=vi&autohide=2&wmode=transparent Giống sắn KM140 Tây Ninh 2020, giải Nhất VIFOTEC năm 2010; Cassava variety KM140 https://youtu.be/up-xe9M5TAQ (Nguồn: Thiện Vũ TV Đăng ký kênh Thiện Vũ tv tại đây https://www.youtube.com/channel/UC7FC… – LINK https://www.facebook.com/vu.tran.14289 – LINK Xem tiếp >>

  Dạy và học 21 tháng 12(21-12-2021)


DẠY VÀ HỌC 21 THÁNG 12
Hoàng Kim
CNM365 Tình yêu cuộc sốngMình về thăm nhau thôi; Thăm Tây Hồ nhớ Người; Tô Đông Pha Tây Hồ; Walt Disney người bạn lớn; Ngày 21 tháng 12 năm 1937 là ngày phim hoạt hình kinh điển đầu tiên Nàng Bạch Tuyết và bảy chú lùn của  Walt Disney được trình chiếu tại Los Angeles. Walt Disney là thương hiệu nổi tiếng bậc nhất toàn cầu của cả một tập đoàn kinh doanh phim ảnh và các khu vui chơi giải trí mang tên người sáng lập. Đây là phim hoạt hình đưa vào Tàng thư phim Quốc gia Mỹ năm 1989 và được coi là “có ý nghĩa quan trọng về văn hóa, lịch sử, và thẩm mỹ” được Viện Phim Mỹ bình chọn  năm 1997 trong danh sách 100 Phim Mỹ hay nhất mọi thời đại và là phim hoạt hình điện ảnh truyền thống duy nhất còn lại trong danh sách cập nhật năm 2007.  Ngày 21 tháng 12 năm 1967 là ngày mất của Nam Trân, nhà thơ Việt Nam sinh năm 1907. Ngày 21 tháng 12 năm 1992 là ngày mất của Quách Tấn, nhà thơ Việt Nam sinh năm 1910. Ngày 21 tháng 12 năm 2005 là ngày mất của Viễn Phương, nhà thơ người Việt Nam sinh năm 1928. Ba nhà thơ danh tiếng này tuy không sinh và mất cùng năm nhưng lại mất cùng ngày. Họ là tài năng và nhân cách đáng kính trọng; Bài chọn lọc ngày 21 tháng 12: Mình về thăm nhau thôi; Thăm Tây Hồ nhớ Người; Tô Đông Pha Tây Hồ; Walt Disney người bạn lớn; Đợi anh ngày trở lại; Tin nổi bật quan tâm; Ngày mới lời yêu thương; Nhớ cây thông mùa đông; Sớm Đông;Vui về với ruộng đồng; Giống Cây Trồng Quảng Bình; Trăng rằm; Sớm Đông; Vui đến chốn thung dung; Vui sống giữa thiên nhiên; Vui bước tới thảnh thơi; Vui đi dưới mặt trời; Câu chuyện ảnh tháng 12; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlong và  https://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-21-thang-12;

Minh ve tham nhau thoi

MÌNH VỀ THĂM NHAU THÔI
Hoàng Kim

Mình về thăm nhau thôi
không thể chờ nhau mà hóa đá.
Nơi ấy khắc khoải
một niềm thương
thật lạ
ta như con trẻ
kiếm tìm nhau
suốt cuộc đời này.

Nơi ấy
vùng cổ tích hoang sơ
hoa gạo đỏ
tháng Ba
lúa xuân thì
mơn mởn.

Nơi ấy
líu ríu
mưa xuân
ngôi đền thiêng
trấn quốc
bóng chùa
non nước ngân nga.

Nơi ấy
không lo toan
không quay cuồng
không bộn bề
mọi khó nhọc bỏ qua
chỉ ngọt lịm
hương trời hương đất.

Nơi ấy
biển trời
xanh tím
ngẫn ngơ đời

khát khao xanh.

HỒ BA BỂ BẮC KẠN
Hoàng Kim

Mình đến đây rồi Ba Bể ơi
Hồ xanh như ngọc nắng chơi vơi
Mai sau ước lại về thăm bạn
Du Ngoạn Bồng Lai cảnh tuyệt vời.

Hồ Ba Bể là hồ nước ngọt thiên nhiên lớn nhất Việt Nam tại Bắc Kạn, là một trong một trăm hồ nước ngọt lớn nhất thế giới, nằm trong Vườn quốc gia Ba Bể, nơi đây được công nhận là khu du lịch quốc gia Việt Nam. Hồ được hình thành từ cách đây hơn 200 triệu năm. Cuộc kiến tạo lục địa Đông Nam Á cuối kỷ Camri, đã đưa một khối nước khổng lồ với diện tích bề mặt xấp xỉ 5 triệu m2 và chiều dày hơn 30m lên lưng chừng vùng núi đá vôi, tạo ra hồ Ba Bể. Ba nhánh của hồ thông nhau được gọi tên là Pé Lầm, Pé Lù và Pé Lèng. Giá trị lớn nhất của Hồ Ba Bể là cảnh quan địa chất độc đáo, giá trị nổi bật về địa chất địa mạo và giá trị to lớn về đa dạng sinh học. Hồ Ba Bể năm 1995 đã được Hội nghị Hồ nước ngọt thế giới, tổ chức tại Mỹ, công nhận là một trong 20 hồ nước ngọt đặc biệt của thế giới cần được bảo vệ, cũng đúng dịp này Hội thảo Sắn Việt Nam đã được tổ chức ở Hồ Núi Cốc trong hệ thống du lịch được cấu trúc sau này. Vườn quốc gia Ba Bể được công nhận là Vườn di sản ASEAN cuối năm 2004. Xem thêm Vườn Quốc gia ở Việt Nam
https://hoangkimlong.wordpress.com/category/vuon-quoc-gia-viet-nam/

MÌNH VỀ THĂM NHAU THÔI
Hoàng Kim

Mình về thăm nhau thôi
không thể chờ nhau mà hóa đá.

Nơi ấy
khắc khoải
một niềm thương
thật lạ
ta như con trẻ
kiếm tìm nhau
suốt cuộc đời này.

II

Mình về thăm nhau thôi
Nơi ấy
vùng cổ tích hoang sơ
hoa gạo đỏ
tháng Ba
lúa xuân thì
mơn mởn.

Nơi ấy
líu ríu
mưa xuân
ngôi đền thiêng
trấn quốc
bóng chùa
non nước ngân nga.

Nơi ấy
không lo toan
không quay cuồng
không bộn bề
mọi khó nhọc bỏ qua
chỉ ngọt lịm
hương trời hương đất.

Nơi ấy
biển trời
xanh tím
ngẫn ngơ đời

khát khao xanh.

III

Mình về thăm nhau thôi
Thương hoài Tương Tiến Tửu
Ai áo cừu ngàn vàng
Đưa ra đem đổi rượu?

Ai tri kỷ thân thiết
Mang mang đi trong đời
Ai là người tỉnh thức
Mai Hôm vầng trăng soi

Anh Hai xưa đã khuất
Trăng soi “Cuốc đất đêm”
Anh Tư nay lớn tuổi
Đau “Mảnh đạn trong người”

Chú Út ngày tảo mộ
Về làng chật quân nhân
Thương các đêm đói ngủ
Nhớ những ngày hành quân.

Qua thuở đầy gian lao
Mừng non sông một dãi
Vui trường xưa trở lại
Bùi ngùi chuyện mất còn

IV

Ta “Về với ruộng đồng”
Mãi mê cùng năm tháng
Giã từ thời cầm súng
Học lại nghề làm nông.

Thương hạt ngọc trắng trong
Dãi dầu bao mưa nắng
Dẻo thơm chén cơm ngon
Lắng mồ hôi hạn mặn

Minh triết sống phúc hậu
Thanh thản và an vui
Chia may rủi ở đời
Chẳng màng chi danh vọng

V

Trạng Trình xưa vui sống
An nhàn vô sự tiên
Ai thương núi nhớ biển
Hoa Đất thương lời hiền

Lúa đồng xuân vàng óng
Nắng thái dương lam trời
Mưa phương Nam mát đất
Người và cây xanh thôi.

(**) Vui đùa
Hoàng Đình Quang
Thơ không màng đoạt giải

EM Ở NƠI NÀO
Hoàng Đình Quang

Em ở nơi nào trong nỗi nhớ của anh
Dù đi hết một mùa đầy gió bão
Vẫn không thể đến bầu trời huyền ảo
Tưởng đã gần hơn, mà xa thẳm mịt mù.

Anh biết mỗi người còn có một mùa thu
Mùa thu em không có anh trong đó
Dù chiếc lá gói bầu trời bé nhỏ
Đã làm rơi bông hoa tím cuối cùng.

Mùa chia tay nhìn bóng đứng triền sông
Người ngoảnh lại nhớ người không ngoái lại
Hoa rạo rực suốt một thời con gái
Anh trở về say đắm một mình anh.

Biết cầm tay rồi dừng lại không đành
Mỗi chuyến đi xa lại phải lòng người lạ
Ai bất chợt hát một mình trong lá
Lại ngỡ mình đang hát với mùa thu!

CHIA
Hoàng Đình Quang


Đã gần như thành lệ
Hăm hai tháng mười hai
Chúng tôi dăm bảy đứa
Gặp nhau ngồi lai rai

Nem Cầu tre vài bịch
Đế Gò Đen một bình
Mấy bà xã tong tả
Đúng là vợ cựu binh!

Anh nào Adidas
Cởi ra, quảng xó nhà
Chùi chân ngồi xuống đất
Như giữa rừng năm xưa!

Một thẻ hương ngan ngát
Thắp lên gọi bạn bè
Ở Cần Đăng, Sa Mát
Dũng, Huỳnh ơi… có nghe!

Rượu nhắp môi khắp lượt
Muốn say đến tận trời
Nhìn mắt nhau đã ướt
Nghĩ gì đồng đội ơi?

Bỗng nghe động ngoài cửa
Khàn khàn một lời rao:
“Vé số đây! Chiều xổ
Năm mươi triệu, mua nào!”(*).

Một ánh mắt kiên nhẫn
Một khuôn mặt chưa già
Một xấp dầy vé số
Một ống quần đu đưa.

“Đây không mê bạc triệu
Nhưng nào, đưa cả đây
Bỏ nạng, ngồi xuống đất
Làm một chầu cho say!”.

Chia nhau xấp vé số
Cái may rủi ở đời
Thêm người, thêm bát đũa
Thêm nỗi buồn chơi vơi!

22/12/1989
__________
(*) – Giải độc đắc!

Nguồn:
https://hoangkimlong.wordpress.com/category/minh-ve-tham-nhau-thoi/

WALT DISNEY BẠN TRẺ THƠ
Hoàng Kim

Đứa bé trai đến gần một ông già có vẻ ngoài rất thông thái. Ngước nhìn ông, cậu bé nói:“Cháu biết ông là một người rất sáng suốt, uyên thâm. Ông hãy cho cháu biết giá trị tình yêu cuộc sống?”  Ông già nhìn đứa bé đáp:“Suốt cuộc đời mình, ông đã suy ngẫm rất nhiều về điều này và có thể nói ngắn gọn chỉ trong bốn từ: Đầu tiên là SUY NGHĨ . Hãy nghĩ về những giá trị mà con sống vì chúng. Thứ hai là TỰ TIN. Hãy tin tưởng bản thân bằng cách dựa vào những giá trị con nghĩ rằng vì chúng mà con sẽ sống. Thứ ba là ƯỚC MƠ. Mơ ước những gì có thể thành hiện thực dựa vào sự tự tin và những giá trị mà ta sẽ theo đuổi trong cuộc sống. Và cuối cùng là DÁM LÀM. Hãy dám thực hiện để biến ước mơ thành sự thật bằng chính niềm tin và giá trị của chúng ta. Ông già đó chính là hoạ sĩ Walt Disney, người bạn của trẻ em của thế giới.

Họa sĩ Walt Disney có họ tên đầy đủ là Walter Elias Disney sinh ngày 5 tháng 12 năm 1901 mất ngày 15 tháng 12 năm 1966. Ông là nhà sản xuất phim, đạo diễn, người viết kịch bản phim, diễn viên lồng tiếng và họa sĩ phim hoạt hình Mỹ. Ông lớn lên tại trang trại ở Macerline, Missouri.

Ngay từ nhỏ, Walt Disney đã có thiên hướng kinh doanh vượt trội với việc bán những bức phác họa cho bạn bè cùng lớp tiểu học. Walt Disney nhận ra rằng những nét vẽ nguệch ngoạc ấy lại là ý tưởng kinh doanh tuyệt vời sau việc đổi những bức tranh biếm họa ấy với những lần cắt tóc miễn phí. Disney quan tâm sâu sắc tới hội họa và điện ảnh thời trung học đã tham gia lớp học buổi tối tại Trường Nghệ thuật Chicago.

Walt Disney dấn thân vào con đường họa sĩ hoạt hình ở Kansas. Năm 1920, khi đang làm việc tại xưởng quảng cáo phim Kansas City Film Ads, Walt Disney nghĩ ra những nhân vật hoạt hình đầu tiên và năm 1922 lập công ty đầu đời Lau-O-grams. Chẳng bao lâu sau công ty gặp khó khăn, Walt Disney quyết định rời Thành phố Kansas đến Hollywood lập nghiệp chỉ với tinh thần hăng hái của tuổi trẻ, bộ đồ vẽ và những ý tưởng hoạt hình trong đầu. Lúc đi ông nói: “Tôi sẽ làm đạo diễn phim Hollywood!”.

Song ước mơ của Disney không trở thành hiện thực vì tìm chỗ đứng trong làng điện ảnh này không hề dễ dàng. Thế rồi một gara để xe của bác Robert cùng với người anh trai là Ron, Walt Disney thành lập xưởng phim “Disney Brothers Studios” với việc vay Ron 200 USD, người chú 500 USD và nhờ bố mẹ thế chấp ngôi nhà để có 2.500 USD nữa. Sau một thời gian dài, Disney thuê được trụ sở ở Hollywood và bán được loạt phim hoạt hình đầu tiên dựa trên nhân vật cổ tích là Alice, loạt phim Alice Comedies.

Walt Disney luôn tiên phong trong nghệ thuật giải trí lành mạnh một nhu cầu thiết yếu và bền vững của cuộc sống. Năm 1932, bộ phim hoạt hình đầu tiên của thế giới Flowers and Trees do ông sản xuất giành được giải Oscar. Năm 1937, ông cho ra mắt bộ phim hoạt hình dài đầu tiên Nàng Bạch Tuyết và bảy chú lùn ở rạp chiếu bóng Carthay ở Los Angeles. Bộ phim tốn gấn 1,5 triệu đô la Mỹ là một khoản tiền khổng lồ thời đó, nhất là trong bối cảnh đại khủng hoảng diễn ra ở Mỹ. Ông đã mạo hiểm đặt cược toàn bộ sự nghiệp của mình vào bộ phim này và đã được đền đáp. Bộ phim đã thành công vang dội trên phim trường và thương trường: đoạt giải Oscar cộng với 8,0 triệu đô la Mỹ lợi nhuận,  một con số kỉ lục của nền điện ảnh Mỹ thời thập niên 1930.

Walt Disney từ bộ phim ‘Nàng Bạch Tuyết và bảy chú lùn’ đã trở thành nhân vật huyền thoại danh tiếng lừng lẫy của nền điện ảnh thế giới. Trong vòng năm năm sau đó, Disney sản xuất những bộ phim hoạt hình đã trở nên kinh điển như Pinocchio, Chú nai Bambi, Fantasia, Chú voi biết bay Dumbo. Vào thập niên 1940 Disney điều hành Burbank Studios với hơn 1.000 nhân viên.

Walt Disney còn giữ một kỷ lục vô địch tuyệt đối là đã đoạt được 39 Giải Oscar, trong đó có một Giải Oscar danh dự thể hiện lòng ngưỡng mộ đối với thành quả lao động nghệ thuật bất hủ của ông. Oscars là giải thưởng điện ảnh của Viện Hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Điện ảnh Hoa Kỳ (tiếng Anh: Academy of Motion Picture Arts and Sciences, viết tắt là AMPAS) Giải thưởng Viện Hàn lâm Oscar được trao hàng năm từ năm 1928 tại thành phố Los Angelesđể ghi nhận những thành tựu xuất sắc của điện ảnh trong năm của các đạo diễn, diễn viên, kịch bản và nhiều lĩnh vực khác. AMPAS là một tổ chức nghề nghiệp danh dự của những người làm điện ảnh Hoa Kỳ sẽ chịu trách nhiệm bầu chọn và trao giải Oscar. Lễ trao giải Oscar gần đây nhất là Giải Oscar lần thứ 89 đã được trao vào năm 2017. Walt Disney thường bổ sung một câu nói rất ý nghĩa, thể hiện sự mênh mông của lòng mình: “Trong 39 giải Oscar thì 38 giải Oscar còn lại xứng đáng được tặng cho các cộng sự đã cùng với tôi lăn lộn làm phim”

Walt Disney tự biết giới hạn của mình, ông thừa nhận: “Tôi chỉ làm một phần của ngành kinh doanh giải trí là nhu cầu thiết yếu của đời sống con người chứ tôi chưa bao giờ làm nghệ thuật cả”. Walt Disney nhắc đi nhắc lại mục đích của ông không phải vì tiền mà ông chỉ coi tiền là phương tiện để đạt đến kết quả cuối cùng. Thế giới cổ tích giải trí mà ông mang đến cho con người là một nhu cầu thiết yếu vĩnh viễn còn mãi với thời gian chứ không phải là một sự giải trí ngẫu hứng nhất thời. Ông quan tâm đến nhu cầu giải trí của mọi người chứ quyết không không tìm cách thể hiện mình. Walt Disney có đối tượng phục vụ không chỉ là trẻ em mà chính là người lớn, nôi gia đình hạnh phúc, nơi ông bà cha mẹ và con cháu cùng vui chơi với nhau. Disneyland chính là vườn thiêng hạnh phúc. Công viên Disneyland là công viên giải trí đầu tiên được xây dựng tại Disneyland Resort ở Anaheim, California, khai trương vào ngày 17 tháng 7 năm 1955 là công viên chủ đề duy nhất được thiết kế và xây dựng dưới sự giám sát trực tiếp của Walt Disney. Chuột Mickey, chú chuột đáng yêu được họa sĩ Ub Iwerks tạo ra vào năm 1928 đã được ông Walt Disney lồng tiếng và ra đời như thế.

Walt Disney biết vượt qua những thất bại đau đớn khi kinh doanh và cọ xát trên thương trường . Ông trưởng thành, đủ kinh nghiệm và bản lĩnh vượt qua những thất bại tiềm ẩn khi hợp tác và cạnh tranh với những bạn hàng và đối thủ đa dạng trong cuộc sống. Ông đã đúc kết những giá trị bài học đó là ‘suy nghĩ, tự tin, ước mơ, dám làm’. Walt Disney kể lại: “Điều chúng tôi cảm thấy là công chúng mà đặc biệt là trẻ em đều rất thích những con vật nhỏ bé nhưng lanh lợi. Tôi nghĩ chúng tôi mắc nợ Vua hề Sác-lô Charlie Chaplin một ý tưởng. Chúng tôi nghĩ đến chú chuột nhắt bé xíu cũng có lòng khát khao như Vua hề Sác-lô, một anh chàng nhỏ bé cố gắng làm điều mà anh ta có thể làm một cách tốt nhất”. Chú chuột nhắt Mickey nổi tiếng khắp thế giới  bí quyết là do chú ta “rất người”. Chuột Mickey ra đời năm 1928 và nhanh chóng trở thành nhân vật yêu thích của các gia đình Mỹ, tượng trưng cho tinh thần vui vẻ ngay cả khi trong tình huống hiểm nghèo nhất. Đó cũng là lần đầu tiên Walt Disney dùng nhạc nền và các kĩ xảo phụ họa cho phim hoạt hình và hình tượng chú chuột nhắt Mickey trong nghệ thuật hoạt hình tổng hợp sáng tạo đến bất ngờ đã được công chúng nhiệt liệt chào đón, nhất là vào những ngày đầu tiên xuất hiện phim lồng tiếng. Năm 1955, Walt Disney mở hướng đi mới khi ông bỏ ra 17 triệu đô la Mỹ để khai trương công viên Disneyland rộng 70ha chuyên vui chơi giải trí dựa theo những bộ phim hoạt hình của ông. Đây là vườn thiêng cổ tích không chỉ cho trẻ em mà ngay cả người lớn cũng say mê khi chu du trong đó. Walt Disney từ mạo hiểm đến thành công khi trong bảy tuần đầu tiên ‘chuột Mickey và các bạn’ đã đón trên một triệu lượt khách đến thăm. Walt Disney cũng là một trong những người tiên phong của lĩnh vực truyền hình từ năm 1954, ông đã là một trong những người đầu tiên làm truyền hình màu: Năm 1961, ông cho ra đời kênh truyền hình Walt Disney’s Wonderful World of Color; Disney World .Từ giữa thập niên 1960, Walt Disney Disney đã xây dựng, cải tạo, mở rộng Disneyworld với những mục đích xã hội. Disneyworld rộng hơn Disneyland 15 lần, gồm có công viên giải trí, hợp tố khách sạn, sân bay… Ông quan tâm dến từng chi tiết của công trình này, nhưng không kịp sống đến ngày khai trương Disneyworld vào tháng 10 năm 1971. Ông mất ngày 15 tháng 12 năm 1966 vì căn bệnh ung thư phổi. Ngày nay, tên tuổi ông Walt Disney đã trở thành thương hiệu toàn cầu: Walt Disney, người bạn của trẻ em của thế giới.

Walt Disney người bạn lớn trong câu chuyện nhỏ.

THĂM TÂY HỒ NHỚ NGƯỜI
Hoàng Kim

Nam Trân, Quách Tấn, Viễn Phương ơi
Thăm cảnh Tây Hồ mến quý Người
Gạo quế, củi châu, thương nết ngọc
Non vàng, nước biếc, nhớ xinh tươi.

Tô, Nguyễn đêm vui thú bạn hiền
Lúa sắn ngày chăm lo lớp trẻ
Thầy chiến sĩ trầm tích sử ký
Bạn nhà nông đúc kết tinh hoa.

Hoàng Kim thăm Tây Hồ, cảm khái thơ Tô Đông Pha, Nguyễn Du nhớ Nam Trân, Quách Tấn, Viễn Phương là những thi lão. Nam Trân sinh năm 1907 mất ngày 21 tháng 12 năm 1967. Cụ là nhà thơ dịch giả Việt Nam, người ngọc thông tuệ trác việt ngôn ngữ Việt Trung với nhiều bài dịch thơ đặc biệt yêu thích. Ngày 21 tháng 12 năm 1992 là ngày mất của Quách Tấn, nhà thơ Việt Nam sinh năm 1910. Ngày 21 tháng 12 năm 2005 cũng là ngày mất của Viễn Phương, nhà thơ người Việt Nam sinh năm 1928. Ba nhà thơ danh tiếng ấy tuy không sinh và mất cùng năm nhưng lại mất cùng ngày. Họ là tài năng và nhân cách đáng kính. Trong ba người này, tôi thích nhất và thuộc nhất các bản dịch thơ tuyệt phẩm của cụ Nam Trân, có hai bài dưới đây

Dưới nắng long lanh màu nước biếc
Trong mưa huyền ảo vẻ non tươi
Tây hồ khá sánh cùng Tây tử
Nhạt phấn nồng son thảy tuyệt vời.


Người dịch: Nam Trân.
Trích từ nguồn:
http://www.thivien.net

Tô Thức (1036-1101) tự là Tử Chiêm, hiệu là Đông Pha cư sĩ, người My Sơn (nay thuộc tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc). Ông từng làm quan Thái thú. Cha là Tô Tuân, em là Tô Triệt, đều là các đại gia thi văn. Tô Đông Pha là người có tài nhất, tư tưởng và tính tình khoáng đạt nhất trong số bát đại gia của Trung Hoa. Trang thơ Tô Đông Pha) – Thi Viện  và Tô Đông Pha – Wikipedia tiếng Việt.. Ảnh Tây Hồ (hồ Hàng Châu) nơi Tô Đông Pha làm Thứ sử và có công lớn với dân trong việc chống hạn hán, nạo vét ao hồ và và đắp đê, làm cầu để nay Tây Hồ trở thành di sản văn hóa thế giới được  UNESCO công nhận  năm 2011.

Mây đen trút mực chưa nhoà núi,
Mưa trắng gieo châu nhảy rộn thuyền.
Trận gió bỗng đâu lôi cuốn sạch,
Dưới lầu bát ngát nước in trời.

(Bản dịch của Nam Trân)

Mây đen nửa núi mực bôi lên,
Mưa trắng rơi châu trút xuống thuyền.
Cuốn đất gió đâu lùa thổi hết,
Dưới lầu, màu nước tựa thanh thiên.

(Bản dịch của Nguyễn Hiến Lê )
Nguồn: Tô Đông Pha, Nguyễn Hiến Lê, NXB Văn hoá-Thông tin, 2003

Che núi mây đen tựa mực trôi,
Như châu hạt trắng lựa thuyền rơi.
Ào ào gió cuốn mưa tan hết,
Dưới Vọng Hồ lâu lặng bóng trời.

* Làm vào ngày 27 tháng 6 ở lầu Vọng Hồ lúc đang say kỳ 1
(Bản dịch của
Lê Xuân Khải )

六月二十七日望湖樓醉書其一

黑雲翻墨未遮山,
白雨跳珠亂入船。
捲地風來忽吹散,
望湖樓下水如天。

Hắc vân phiên mặc vị già sơn,
Bạch vũ khiêu châu loạn nhập thuyền.
Quyển địa phong lai hốt xuy tán,
Vọng Hồ lâu hạ thuỷ như thiên.

Dịch nghĩa

Mây kéo đen như mực chưa che kín núi,
Giọt mưa trong như giọt châu nhẩy lung tung vào thuyền.
Bỗng nổi gió ào ào thổi tan hết,
Mặt nước dưới lầu Vọng Hồ lại phẳng như trời.

NhoNamTran

Xem tiếp: Tô Đông Pha Tây Hồ

TÔ ĐÔNG PHA TÂY HỒ
Hoàng Kim


Tô Nguyễn đêm vui thú bạn hiền
Lúa sắn ngày chăm lo lớp trẻ
Thầy chiến sĩ trầm tích sử ký
Bạn nhà nông đúc kết tinh hoa.

*

Đông Pha Phật Ấn chuyện đời
Kinh vô lượng thọ, nhớ rồi lại quên
Vui nơi cõi thế bình yên
Được mong mỏi nhớ, được bồn chồn yêu
Hóa sinh cõi tịnh thật siêu
An nhiên năm tháng giữa nhiều gian nan
Cõi trần như đốt như rang
Nguyễn Du huyền thoại, trăng vàng lộng soi
Tây Hồ sánh với Hồ Tây
Câu thơ lưu lạc, một trời yêu thương

Tô Đông Pha Tây Hồ, mỗi năm tôi thường đọc lại. Câu thơ “Mưa” của người hiền lãng đãng đọng mãi ngàn năm: “Mây đen trút mực chưa nhòa núi, Mưa trắng gieo châu nhảy rộn thuyền. Trận gió bỗng đâu lôi cuốn sạch, Dưới lầu bát ngát nước in trời. Mưa, thơ Tô Đông Pha, bản dịch của Nam Trân. https://hoangkimlong.wordpress.com/category/to-dong-pha-tay-ho

Tây Hồ là một hồ nước ngọt nổi tiếng phía tây thành phố Hàng Châu, thủ phủ tỉnh Chiết Giang, cách Thượng Hải 180 km về phía Tây Nam thuộc miền đông Trung Quốc. Tô Đông Pha Tây Hồ” kể chuyện thơ và đời Tô Đông Pha. Bạn đi du lịch Tây Hồ Hàng Châu niềm vui lớn là được chứng kiến công trình thủy lợi Tô Đông Pha. Ông là người hiền bị đưa về trấn nhậm chốn đất xa xôi, khó khăn này. Tây Hồ Hàng Châu ví như đập thủy lợi đồng Cam Phú Yên, thay đổi sinh cảnh tạo nên vựa lúa miền Trung. Thuở xưa khi Tô Đông Pha đến Tây Hồ, thấy ruộng đồng xơ xác, tiêu điều, ông lập tức giúp dân tổ chức làm hồ trữ nước và làm mương tưới mát ruộng đồng. Tây Hồ ngày nay là di sản văn hóa thế giới. Đêm trăng, ngắm trăng rằm lồng lộng soi trên đầm sen và nhà thủy ta tĩnh lặng đẹp lạ lùng! Tô Đông Pha và Nguyễn Du đều là những những danh sĩ tinh hoa, nhà tư tưởng và đại thi hào đã để lại cho đời sự nghiệp lớn giáo dục văn hóa và những viên ngọc văn chương tuyệt kỹ. Tới Tây Hồ, thật kỳ thú được đi trên đê Tô, ngắm vầng trăng cổ tích. Tô Đông Pha (1037-1101) là nhà thơ văn có nhân cách cao quý thời Tống như vầng trăng cổ tích lồng lộng trên bầu trời nhân văn Trung Hoa và nhân loại. Thơ văn Tô Đông Pha và Tư trị thông giám của Tư Mã Quang là kiệt tác soi tỏ nhiều uẩn khúc của lịch sử. Mao Trạch Đông đã nghiền ngẫm rất kỹ các kiệt tác này, và đọc đi đọc lại không biết bao nhiêu lần kiệt tác Tư trị thông giám của Tư Mã Quang cùng với Thơ và từ của Tô Đông Pha để tìm trong rối loạn của lịch sử đôi điều kinh bang tế thế (xem Cuộc cờ Thế kỷ của Diệp Vĩnh Liệt, người dịch Thái Nguyễn Bạch Liên 1996).
Nguyễn Du trăng huyền thoại, bậc danh sĩ tinh hoa Việt Nam cũng để lại cho đời nhiều uẩn khúc lịch sử mơ hồ chưa thấu tỏ.

Hộp trích dẫn tài liệu
LO XA !!
Bu Lu Khin Nguyễn Quốc Toàn
(10.11.2020)

Một số các bà các cô băn khoăn không hiểu sau khi mệnh chung, được vãng sanh về cõi Tây Phương cực lạc có còn là thân đàn bà nữa không, hay phải chuyển giới. Xin được nói ngay, các bà các cô không còn làm thân đàn bà cũng không bị chuyển giới, nhưng vẫn được làm người sống trong tột cùng yên bình, sung sướng. Đấy là tóm lược các kinh Bi hoa, kinh Vô lượng thọ, và kinh A di đà…

1- Theo kinh Bi Hoa (vắn tắt) thì trong Hằng hà sa số kiếp trước, có một đại kiếp (1) tên là Thiện Trì, trong đại kiếp đó có cõi Phật San Đề Lam do đức Phật Bảo Tạng làm giáo chủ. Lại có một vị vua trị vì 4 cõi tên là Vô Tránh Niệm. Ngày kia đức Phật Bảo Tạng đến khu rừng Diêm Phù mở hội thuyết pháp. Nghe tin đó, vua Vô Tránh Niệm cùng một ngàn (1000) người con trai và tám mươi tư ngàn (84.000) vị tiểu vương rời thành An Chu Sa đến rừng Diêm Phù nghe thuyết giảng và cúng dường, lễ bái đức Phật. Sau ba tháng cung nghênh, vua Vô Tránh Niệm thưa với đức Phật: Bạch Thế tôn, nay con muốn được đạo Bồ đề…Trong vòng bảy năm vừa qua con đã ngồi yên tĩnh tư duy về số những cõi Phật thanh tịnh trang nghiêm khác nhau…nay trước oai lực đức Bảo Tạng Như lai con xin phát nguyện…(vua phát nguyện 10 diều, bu chỉ chép lại điều thứ 2 có liên quan đến phụ nữ): “Nguyện cho thế giới của con không có nữ giới, cũng không có tên gọi nữ giới, hết thảy chúng sanh đều hóa sinh chỉ một lần, thọ mạng vô lượng. Thế giới thanh tịnh không có sự xấu xa nhơ nhớp…”. Nghe xong cả 10 điều nguyện của nhà vua, Phật Bảo Tạng khen ngợi: “Lành thay, lành thay. Đại vương, nay sở nguyện của ông thật rất thâm sâu.. chúng sinh trong cõi ấy cũng có tâm thanh tịnh”(2)… Từ đó vua Vô Tránh Niệm trở thành đức Phật A di đà, giáo chủ cõi Tây phương cực lạc.

2- Hóa sinh là sinh ra từ hoa sen thất bảo. Những bông hoa này có độ lớn và màu sắc khác nhau để phù hợp với các “bậc người” từ trần gian vãng sinh lên. Kinh Vô lượng thọ cho hay có ba bậc (vắn tắt): Bậc thượng phẩm là những người xuất gia, lìa tham dục, phát tâm Bồ đề, chuyên tâm niệm Phật A di đà… Bậc trung phẩm là những người tuy không sa môn nhưng làm nhiều công đức …Bậc hạ phẩm là những người không hay làm công đức mà đã phát tâm vô thượng Bồ đề. (3)

3- Không được làm thân đàn bà (như lời nguyện của vua Vô Tránh Niệm trước khi thành Phật) cũng không được chuyển giới. Tất cả cư dân ở cõi Tây phương là một thứ người trung tính, không nam không nữ. Vì có nam có nữ thì có tình yêu lứa đôi, dẫn đến khổ. Tuy nhiên cư dân ở đây có một cuộc sống tột cùng yên bình sung sướng. Kinh A di đà cho hay (vắn tắt): Con người ở đó không biết khổ là gì. Mong được ăn ngon, mặc đẹp, ở sang, sẽ có ngay những thứ đó hiện ra. Một ngày vài lần, tiếng nhạc vi diệu từ hư không vọng xuống cùng với những trận mưa hoa mạn đà la. Ai nấy chỉ việc nhặt hoa đầy làn lễ bái đức Phật. Hồ thất bảo có nước trong xanh bốn mùa mát rượi. Người tắm ở đó thích nước cao lên đến đâu thì mặt nước dâng lên đến đó, thành ra mặt hồ nhấp nhô khi có nhiều người tắm. Pháp môn Tịnh độ khuyến cáo chúng sinh phải hoan hỉ niệm nam mô a di đà Phật thường xuyên sẽ được vãng sanh lên cõi Tây Phương cực lạc. Và ở cõi ấy không làm thân đàn bà thì các bà các cô cũng chẳng thiệt thòi gì cả…
————————
(1) Kiếp: Thời gian trong Phật giáo, có ba loại kiếp. Tiểu kiếp, trung kiếp, đại kiếp. Một tiểu kiếp có 16.800.000 năm, một trung kiếp có 336.000.000 năm, một đại kiếp có 1.334.000.000 năm. Những con số này có tính cách tượng trưng để chỉ một thời gian dài.

(2) Kinh bi Hoa trang 332(3) Kinh Vô lượng thọ, phẩm Phát đại thệ nguyện, trang 41

– Nguyện cầu vãng sinh về Tây phương cực lạc

TÔ ĐÔNG PHA DANH SĨ TINH HOA

Tô Đông Pha tên thật là Tô Thức, tự là Tử Chiêm, hiệu Đông Pha cư sĩ, sinh ngày 8 tháng 1 năm 1037 tại Mi Sơn, tỉnh Tứ Xuyên, mất ngày 24 tháng 8 năm 1101 tại Thường Châu. Địa chỉ ngôi mô của Tô Đông Pha tại thôn Điếu Đài huyên Hiệp Thành, Nhữ Châu ngày nay. Tô Đông Pha là chính khách lỗi lạc, nhà tư tưởng, nhà văn, nhà thơ, nhà phật học, nhà thư pháp, họa sĩ, nhà dược học, người sành ăn nổi tiếng Trung Quốc thời Tống. Tô Đông Pha nhân cách cao quý, việc tốt truyền đời, tình yêu tuyệt vời, thơ văn kiệt tác, thư pháp lừng lẫy, miếng ngon nhớ lâu, vầng trăng cổ tích lồng lộng trên bầu trời nhân loại.

Tô Đông Pha là danh sĩ tinh hoa, một đời yêu thương, thơ ngoài ngàn năm, một trong mười đại văn hào nổi tiếng bậc nhất của Trung Quốc cổ và cận đại, bao gồm: Khuất Nguyên, Tô Đông Pha, Đỗ Phủ, Tư Mã Thiên, Lý Bạch, Bạch Cư Dị, Thang Hiển Tổ, Lục Du, Tào Thực và Tào Tuyết Cần. Thơ và từ Tô Đông Pha được coi là chuẩn mực cổ văn Trung Hoa trong ‘Đường Tống bát đại gia’ gồm Hàn Dũ, Liễu Tông Nguyên đời Đường; Tô Đông Pha, Âu Dương Tu, Tô Tuân, Tô Triệt, Tăng Củng, Vương An Thạch thời Tống. Tô Đông Pha đã để lại cho đời một mẫu mực hiền tài nhân cách cao quý với kiệt tác văn hóa và văn chương đích thực, vầng trăng cổ tích thơ ngoài ngàn năm.

Tô Đông Pha cùng với Tư Mã Quang cựu tể tướng và sử gia danh tiếng là hai nhà tư tưởng nhân vật chính trị quan trọng kiệt xuất của thời Tống. Ông thuộc phái “cựu đảng” “phái coi trọng đạo đức, lẽ phải, kỷ cương”, đối lập hoàn toàn với phái “tân đảng” do Vương An Thạch chủ trương khởi xướng chính sách đổi mới “cường thịnh phát triển lớn mạnh quốc gia, bất chấp đạo lý”, Cuộc đời Tô Đông Pha chính vì vậy luôn bị cản trở dèm pha không suôn sẻ khi phái ‘tân đảng’ cầm quyền thao túng chính sách và dùng mọi quỷ kế để loại trừ đối thủ chính trị. Tô Đông Pha nổi tiếng là một nhà chính luận, các tác phẩm văn chương của ông đều đặc biệt sâu sắc, góp phần to lớn vào việc nâng cao dân trí, hiểu biết bách khoa thư, văn học du lịch Trung Quốc thế kỷ thứ 11. Thơ Tô Đông Pha nổi tiếng suốt lịch sử lâu dài, tầm ảnh hưởng rất rộng lớn tại Trung Quốc, Nhật Bản và các vùng lân cận, cũng được biết đến trong phần nói tiếng Anh trên thế giới thông qua các bản dịch của Arthur Waley và các người kh&aaXem tiếp >>

  Dạy và học 20 tháng 12(19-12-2021)

 

 

DẠY VÀ HỌC 20 THÁNG 12
Hoàng Kim
CNM365 Tình yêu cuộc sốngTin nổi bật quan tâm; Ngày mới lời yêu thương; Nhớ cây thông mùa đông; Sớm Đông;Vui về với ruộng đồng; Giống Cây Trồng Quảng Bình; Trăng rằm; Sớm Đông; Vui đến chốn thung dung; Vui sống giữa thiên nhiên; Vui bước tới thảnh thơi; Vui đi dưới mặt trời; Câu chuyện ảnh tháng 12; Ngày 20 tháng 12 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến trên Đài Tiếng nói Việt Nam phát động cuộc kháng chiến chống Pháp. Lời hiệu triệu ‘quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh’  do Chủ tịch Hồ Chí Minh soạn thảo vào đêm 19 tháng 12, ngày Toàn quốc kháng chiến khi chiến sự bùng nổ. Ngày 20 tháng 12 năm 1977,  Việt Nam gia nhập Liên Hiệp Quốc là một tổ chức quốc tế có mục đích duy trì hòa bình và an ninh trên thế giới, phát triển các mối quan hệ hữu nghị giữa các dân tộc và tiến hành hợp tác quốc tế giữa các nước trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc bình đẳng và quyền tự quyết của các dân tộc. Ngày 20 tháng 12 năm 1994, khánh thành Nhà máy thủy điện Hòa Bình tại Việt Nam. Nhà máy Thủy điện Hoà Bình được xây dựng tại hồ Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình, trên dòng sông Đà thuộc miền bắc Việt Nam. Đây là nhà máy thủy điện lớn nhất Việt Nam và Đông Nam Á. Nhà máy do Liên Xô giúp đỡ xây dựng và vận hành; Bài chọn lọc ngày 20 tháng 12: Tin nổi bật quan tâmNgày mới lời yêu thương; Nhớ cây thông mùa đông; Sớm Đông;Vui về với ruộng đồng; Giống Cây Trồng Quảng Bình; Trăng rằm; Sớm Đông; Vui đến chốn thung dung; Vui sống giữa thiên nhiên; Vui bước tới thảnh thơi; Vui đi dưới mặt trời; Câu chuyện ảnh tháng 12; Có một ngày như thế; Mười thói quen mỗi ngày; Giấc mơ lành yêu thương; 500 năm nông nghiệp Brazil; Vui bước tới thảnh thơi; Minh triết sống phúc hậu;Sự chậm rãi minh triết; Lên Trúc Lâm Yên Tử; Trúc Lâm Trần Nhân Tông; Tìm về đức Nhân Tông; Chọn giống sắn Việt Nam; Đi bộ trong đêm thiêng; Tỉnh thức; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlong và:  https://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-20-thang-12;

Bài học Việt Nam mới https://youtu.be/4cqT8672UF8
Hà Nội Mùa Đông Năm 46 Full HD | Phim Chiến Tranh Việt Nam Hay Nhất

 

 

Tin nổi bật quan tâm
FAO VIỆT NAM HỘI NGHỊ ISG 2021
#Hoàng Kim Long điểm tin

Sáng 16/12/ 2021 tại Hà Nội, Bộ trưởng Bộ NN-PTNT Lê Minh Hoan và ông Ông Rémi Nono Womdim, Trưởng đại diện FAO (Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp của Liên Hợp Quốc) đã ký kết Khung chương trình hợp tác FAO và Việt Nam giai đoạn 2022-2026, trong Hội nghị toàn thể Chương trình hỗ trợ quốc tế (ISG) với chủ đề “Đối tác xanh cho một nền nông nghiệp mới”.tổ chức (bài và ảnh : Minh Phúc. báo Nông nghiệp Viêt Nam)

Ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn đang tích cực hoàn thiện Chiến lược Phát triển nông nghiệp, nông thôn giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 và Kế hoạch hành động quốc gia của Việt Nam về hệ thống lương thực thực phẩm bền vững giai đoạn 2021-2030 để thực hiện mục tiêu tạo dựng hình ảnh nông nghiệp Việt Nam: trở thành nhà sản xuất và cung cấp lương thực, thực phẩm “minh bạch – trách nhiệm – bền vững” mà lãnh đạo Đảng và Nhà nước đã khẳng định với cộng đồng quốc tế. Chiến lược phát triển nông nghiệp, nông thôn giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 được xây dựng xoay quanh ba trụ cột: “Nông nghiệp sinh thái”, “Nông thôn hiện đại”, “Nông dân thông minh”.

Kế hoạch hành động quốc gia chuyển đổi mạnh mẽ sang Hệ thống lương thực thực phẩm xanh minh bạch, trách nhiệm và bền vững ở Việt Nam, giai đoạn 2021-2030 được xây dựng trên cơ sở 5 lộ trình hành động đã được đưa ra tại Hội nghị thượng đỉnh về Hệ thống lương thực thực phẩm (LTTP) của Liên hợp quốc (LHQ) vừa được tổ chức hồi tháng 9 năm 2021 bao gồm: 1) Đảm bảo mọi người tiếp cận được thực phẩm an toàn và dinh dưỡng; 2) Chuyển đổi sang tiêu dùng bền vững; 3) Đẩy mạnh sản xuất bền vững; 4) Xây dựng các chuỗi giá trị cạnh tranh, bao trùm và bình đẳng và; 5) Tăng cường khả năng thích ứng với tổn thương, cú sốc và sức ép. xem thêm https://nongnghiep.vn/nganh-nong-nghiep-khong-the-tu-dung-mot-minh-lam-mot-minh-d310780.html

Chuyển đổi số Quốc gia
Chuyển đổi số nông nghiệp
Đồng bộ hóa dữ liệu
Có lợi cho người dân
Minh bạch rõ thông tin
Ban mai lặng lẽ sáng.
xem tiếp
http://hoangkimlong.wordpress.com/category/tin-noi-bat-quan-tam/

 

 

TIN NÔNG NGHIỆP NỔI BẬT
#CLTVNCây Lương thực Việt Nam

9/12/2021 VAAS New
Đánh giá bộ giống sắn kháng bệnh khảm lá
8/12/2021 Học viện Nông nghiệp Việt Nam:
Hội thảo ‘Giải pháp khai thác bền vững nguồn gen ngô và ứng dụng công nghệ mới trong phát triển giống ngô thực phẩm và thức ăn xanh thích ứng với biến đổi khí hậu’
18/11/2021 Cục Trồng Trọt, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn:
Cấp phép nhập khẩu giống cây trồng qua Một cửa Quốc gia
16/11/2021 VAAS News. Hội thảo Quốc gia Nông nghiệp sinh thái – Phương pháp tiếp cận chuyển đổi bền vững và tích hợp đa giá trị đối với hệ thống nông nghiệp và thực phẩm Việt Nam (hình) ,
https://vaas.vn/vi/hop-tac-quoc-te/hoi-thao-quoc-gia-nong-nghiep-sinh-thai-phuong-phap-tiep-can-chuyen-doi-ben-vung-va?fbclid=IwAR2vvxVQClXTn8QYc0AUk1sdYOG6iBwt_9qZdrozcRje6VtIPmsjfiYAIJo
17/11/2021 VAAS News.
Khai thác ‘mỏ vàng’ chất thải, phụ phẩm nông nghiệp;
16/11/2021 VAAS News
Chuyển đổi số ngành nông nghiệp nên bắt đầu từ đâu?;
11/11/2021 VAAS News
Ứng dụng khoa học công nghệ … cho nông nghiệp bền vững;
9/11/2021 VAAS NEWS
Thành tựu trong điều tra, phân loại, lập bản đồ đất và đánh giá đất đai;
1/10/2021 Cục Trồng Trọt, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn:
Quyết định 3963/QĐ-BNN-TT ngày 01/10/2021 của Bộ NN&PTNT về việc ban hành Kế hoạch chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên đất lúa toàn quốc năm 2021
14/9/2021 Cục Trồng Trọt, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn:
Danh sách tổng hợp giống cây trồng được công nhận lưu hành

 

 

GIỐNG SẮN CHỦ LỰC KM419
Nguyễn Thị Trúc Mai

“Với mong muốn góp phần phát triển cây sắn bền vững, bảo vệ kết quả sản xuất người trồng sắn, hiện nay
Trúc Mai đang thực hiện chuyển giao số lượng lớn giống sắn KM419 (còn gọi là Siêu bột, Cút lùn, Tai đỏ) và KM94 và hỗ trợ kỹ thuật MIỄN PHÍ. Quy cách giống: 20 cây/bó; độ dài tối thiểu 1,2m/cây, cây giống khỏe, HOÀN TOÀN SẠCH BỆNH (có thể giữ lá cây giống để kiểm tra bệnh khảm + các loại sâu bệnh khác).Địa điểm nhận giống: huyện Đồng Xuân, Phú Yên.Liên hệ Ts sắn TRÚC MAI: 0979872618. Đừng ngại thời tiết và giới tính 😊❤.Giống sắn KM419 cây thấp gọn, dễ trồng dày, thân xanh thẳng, nhặt mắt, không phân cành, lá già xanh đậm, đọt non màu xanh, cọng xanh tím, số củ 8-12, củ to và đồng đều, dạng củ đẹp, thịt củ màu trắng, chịu hạn tốt.” Thông tin ngày 18/11/2021 https://www.facebook.com/TrucMa…/posts/5134183749930863… tích hợp tại #CLTVN xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/cltvn/

TIN QUỐC TẾ CHỌN LỌC

Việt Nam ngày nay quan hệ quốc tế đặc biệt với Lào Cămpuchia Cu ba; quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với Trung Quốc, Nga, Ấn Độ; quan hệ đối tác chiến lược với Nhật Bản, Hàn Quốc, Tây Ban Nha; Anh ; Đức, Italy; Thái Lan, Indonesia, Singapore, Pháp; Malaysia, Philippines; Úc; New Zealand; quan hệ đối tác toàn diện với Nam Phi; Chile, Brazil, Venezuela; Argentina; Ukraina; Mỹ, Đan Mạch; Myanmar, Canada; Hungary; Brunei, Hà Lan; quan hệ đối tác lĩnh vực trước đây với Hà Lan năm 2010 về Quản lý nước và Ứng phó với biến đổi khí hậu, năm 2014 thêm Nông nghiệp và An ninh lương thực, năm 2019 quan hệ hợp tác lĩnh vực với Hà Lan đã nâng cấp thành đối tác toàn diện. quan hệ đối tác bạn hữu ‘cùng có lợi’ với Mông Cổ, Triều Tiên, các nước khác ở Đông Âu, Tây Âu, Bắc Âu, Trung Á, Tây Á, Trung Đông, Châu Phi, các chiến lược hợp tác Nam Nam, hợp tác, song phương và đa phương. Việt Nam khi nâng cấp quan hệ với các đại cường là chúng ta đang đứng giữa giao lộ có sự tính toán cân bằng nhiều lợi ích khác nhau.

Tin thế giới chọn lọc 30/8, Trung Quốc đang “cảnh giác cao độ” khi tàu chiến Mỹ tiến đến Đài Loan, FBNC
https://youtu.be/MFR3MXSIf-4; Taliban là Tiểu vương quốc Hồi giáo Afghanistan (IEA) https://youtu.be/WHeeEYprrOs những ngày qua đã giành được chính quyền trong nước này sau mấy chục năm chiến tranhthánh chiến, chống lại chính quyền Karzai được Mỹ hậu thuẫn và ISAF do NATO lãnh đạo trong chiến tranh ở Afghanistan. Taliban trước đây chỉ được ba quốc gia Pakistan, Ả Rập Xê-útCác Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất. thừa nhận, nhưng ngày nay, Trung Quốc, Nga bắt tay Taliban xây dựng chính quyền mới. Thế sự bàn cờ vây . https://youtu.be/CH4VppzT21c. Bài viết này xâu chuỗi Trung Quốc một suy ngẫmVành đai và con đường Trung Nga với Trung ÁThế sự bàn cờ vây; Đọc lại và suy ngẫm.

Sáng kiến “Vành đai, Con đường” của Trung Quốc: 5 năm nhìn lại, tác giả Nguyễn Thu Hà, Học viện Chính trị Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh đăng trên Tạp chí Cộng sản ngày 27 tháng 3 năm 2019 theo số liệu trang Chinadaily: http://www.chinadaily.com.cn/a/201809/05/WS5b8f09bfa310add14f3899b7.html Trong 5 năm qua, sáng kiến “Vành đai, Con đường” do Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình lần đầu tiên đưa ra vào tháng 9 năm 2013 cho đến nay tuy đã đạt được nhiều thành công trên các lĩnh vực, song cũng vấp phải không ít thách thức, nhất từ các nước lớn trên thế giới. Toàn văn câu chuyện ấy được lược khảo tại đây

 

 

LÚA CAO CÂY TRUNG QUỐC
Hoàng Kim Long (điểm tin)


Theo Thời báo Hoàn Cầu, được trích dẫn bởi
báo Tuổi trẻ ngày 30 8 2021 và FBNC, Trung Quốc trồng thành công ‘lúa khổng lồ’ cao tới 2m. Giống lúa này thân cây cao và cứng cáp, có khả năng chống ngập úng và đất mặn, năng suất đạt 11,25-13,50 tấn/ha (750- 900 kg/ mẫu TQ, 15 mẫu TQ là 1 ha). Ông Chen Yangpiao, phó giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và phát triển lúa lai Trung Quốc chi nhánh Trùng Khánh hi vọng giống lúa này có thể trồng ở những vùng trũng ruộng ngập sâu 60-80cm, và có thể nuôi cá tôm trong ruộng lúa. Ông Viên Long Bình Lúa siêu xanh Hòa Bình từng ao ước và chia sẻ khi còn sống: “Tôi đã luôn mơ một ngày nào đó cây lúa sẽ cao như cao lương, hạt to như đậu phộng. Lúc đó chắc tôi và cộng sự sẽ ngồi dưới tán lúa, tận hưởng những ngày mát mẻ”

 

 

LÚA CAO CÂY TRUNG QUỐC.

Ngày 25 tháng 10 năm 2017, China’s People’s Daily cho biết Trung Quốc tạo giống lúa cao hơn đầu người cho năng suất lớn. Giống lúa có tên gọi “lúa khổng lồ” được các chuyên gia ở Viện Nông nghiệp Cận Nhiệt đới thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Trung Quốc lai tạo với hy vọng có thể cung cấp lương thực cho nhiều người hơn. Giống lúa mới được chính thức giới thiệu hôm 16/10 sau 10 nghiên cứu, có năng suất cao hơn 50% so với các giống lúa thông thường. Nhóm nghiên cứu đã trồng thử cây lúa khổng lồ và thu hoạch trên một cánh đồng nằm ở thị trấn Jinjing thuộc huyện Trường Sa, tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc. Cây lúa thân cao trung bình 1,8 mét, những cây lớn nhất cao tới 2,2 mét. Xia Xinjie, một nhà nghiên cứu trong dự án cho biết năng suất dự kiến có thể đạt trên 11,5 tấn/hecta. Số hạt có thể thu hoạch từ một gốc lúa là hơn 500 hạt. Các nhà khoa học Trung Quốc đã sử dụng một loạt công nghệ mới để tạo ra giống lúa mới, bao gồm đột biến, lai hữu tính và lai xa giữa nhiều loại lúa dại. Lúa khổng lồ có thể đem lại lợi ích lớn cho Trung Quốc, quốc gia đang phải đối mặt với tình trạng thiếu nông dân và dân số ngày càng tăng. “Lượng thóc lúa cần sản xuất thêm vào năm 2030 cao hơn 60% so với năm 1995. Hiện nay, một hecta đất trồng lúa cung cấp đủ thức ăn cho 27 người. Vào năm 2050, mỗi hecta phải đáp ứng nhu cầu lương thực cho 43 người”, Yuan Longping, nhà nông nghiệp học nổi tiếng ở Trung Quốc, nhấn mạnh trong một cuộc phỏng vấn vào tháng trước.

Tin liên quan Lúa CLT:

 

 

LÚA C4 TRƯỜNG ĐẠI HỌC OXFORD ANH

Ngày 25 tháng 10 năm 2017 thông tin Lúa C4 của trường đại học Oxford năng suất tăng 50%. Các nhà khoa học làm việc trong Dự án Lúa C4 của trường đại học Oxford đã cải thiện quá trình quang hợp trong lúa gạo và tăng năng suất cây trồng, bằng cách đưa một gen ngô đơn lẻ vào lúa, tiến tới trồng lúa ‘supercharging’ tới mức hiệu quả hơn. Cây lúa sử dụng con đường quang hợp C3, trong môi trường nóng và khô ít hiệu quả hơn con đường C4 được sử dụng trong các thực vật khác như ngô và lúa miến. Gạo ‘chuyển đổi’ sử dụng quang hợp C4, năng suất sẽ tăng khoảng 50%.Các nhà nghiên cứu đã thực hiện phương pháp giải phẫu ‘proto-Kranz’ chuyển gen ngô GOLDEN2-LIKE tới cây lúa làm tăng lượng lạp lục và ty lạp thể có chức năng trong các tế bào vỏ bọc xung quanh lá. Giáo sư Jane Langdale thuộc Đại học Oxford, và nhà nghiên cứu chính về giai đoạn này của dự án lúa gạo C4 cho biết: “Nghiên cứu này giới thiệu một gen duy nhất cho cây lúa để tái tạo bước đầu tiên dọc theo con đường tiến hoá từ C3 đến C4. Đó là một sự phát triển thực sự đáng khích lệ, và thách thức bây giờ là xây dựng trên đó và tìm ra những gen thích hợp để tiếp tục hoàn các bước còn lại trong quá trình “. Thông tin chi tiết tại Đại học Oxford Tin tức & Sự kiện. xem tiếp Lúa C4 và lúa cao cây (Hoàng Kim Long điểm tin chọn lọc Cây Lương Thực Việt Nam)

 

Philippines cho trồng đại trà gạo vàng biến đổi gene - Ảnh 1.

 

Hạt gạo vàng biến đổi gene so với gạo trắng bình thường – Ảnh: IRRI

GOLDEN RICE BIẾN ĐỔI GEN

Theo Hãng tin Reuters, được trích dẫn bởi báo Tuổi trẻ
Philippines cho trồng đại trà ‘gạo vàng’ biến đổi gene ngày 26 tháng 8 năm 2021: “Philippines là quốc gia đầu tiên trên thế giới cho phép trồng đại trà gạo biến đổi gene Golden Rice. Theo Reuters, Viện Nghiên cứu lúa gạo quốc tế (IRRI) có trụ sở tại Philippines đã hỗ trợ phát triển giống gạo vàng đặc biệt này.Trong thông báo ngày 25-8, Bộ Nông nghiệp Philippines (DA) và Viện Nghiên cứu lúa Philippines (PhilRice) xác nhận đã cấp phép an toàn sinh học cho giống Golden Rice.”Sau giấy chứng nhận an toàn sinh học, DA và PhilRice sẽ bắt đầu trồng lấy hạt giống. Thường thì quá trình này sẽ mất 3-4 vụ canh tác”, ông Ronan Zagado – một quan chức phụ trách dự án Golden Rice – cho biết thêm. Được biết giống gạo vàng đã được thử nghiệm thực địa gần một thập kỷ. Golden Rice sẽ được trồng đại trà ở các khu vực có tỉ lệ thiếu vitamin A cao vào quý 3-2022 trước khi bán rộng rãi. Philippines lên kế hoạch trồng đại trà gạo vàng từ năm 2011, nhưng phải trì hoãn vì vấp phải các phản đối và lo ngại từ người dân cũng như các tổ chức nông nghiệp. Tổ chức Hòa bình xanh (Greenpeace) nổi tiếng vì các chiến dịch chống săn bắt cá voi cũng lên tiếng phản đối quyết định của Chính phủ Philippines.Tuy nhiên, người đứng đầu PhilRice đã trấn an các lo ngại và khẳng định Golden Rice đáp ứng được các tiêu chuẩn an toàn quốc gia và quốc tế. Theo IRRI, Golden Rice đã nhận được giấy chứng nhận an toàn thực phẩm từ các cơ quan quản lý ở Úc, New Zealand, Canada và Mỹ. Hiện giống gạo này đang trải qua quá trình xem xét cuối cùng ở Bangladesh. Thực phẩm biến đổi gene từ lâu đã là một đề tài gây tranh cãi. Mục đích biến đổi gene nhằm tạo ra các loại nông sản bổ dưỡng hơn, kháng bệnh tốt hơn. Các cơ quan quản lý bác bỏ các thuyết âm mưu như thực phẩm biến đổi gene gây ung thư, ức chế hệ miễn dịch.Tuy nhiên, người tiêu dùng vẫn e dè trước loại thực phẩm này và kêu gọi các cơ quan quản lý yêu cầu nhà sản xuất dán nhãn cảnh báo thực phẩm biến đổi gene”. xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/tin-noi-bat-quan-tam/

 

 

NGÀY MỚI LỜI YÊU THƯƠNG
Hoàng Kim

Khoác thêm tấm áo trời se lạnh
Đông tàn xuân đến đó rồi em
Phúc hậu mỗi ngày chăm việc thiện
Yêu thương xa cách hóa gần thêm

New day words of love

Wearing sweater when it’s rather cold.
Winter comes to an end ,and early Spring is coming.
Everyday, we care good deeds kindly.
Distant love turn out to be close together.

 

 

NHỚ CÂY THÔNG MÙA ĐÔNG
Hoàng Kim

Xuân Hạ Thu Đông vốn phẳng sòng
Bốn mùa chẳng thể thiếu mùa đông
Tam Đảo non xanh hai cánh rộng
Cửu Long nước biếc một chữ đồng
Trẻ ham tâm đức nên cố gắng
Già mong phúc hậu phải biết chùng
Thung dung nếm trãi mùa đông lạnh
Sông núi trúc mai với lão tùng

Bài thơ ‘Nhớ cây thông mùa đông’ của Hoàng Kim và tấm ảnh này do anh Hà Hữu Tiến chụp trong ngày chúng tôi thăm đàn Nam Giao Huế. Bài thơ này là sự họa vần bài thơ “Vịnh mùa Đông” của cụ Nguyễn Công Trứ lưu lại một kỷ niêm không nỡ quên về sự đùa vui họa thơ cùng các bạn Quế Hằng, Nguyễn Vạn An, Phan Lan Hoa Nay xin trân trọng chép lại để tặng người thân, thầy bạn nhân Noel và Chúc Mùng Năm Mới.

‘Vịnh mùa Đông’ và ‘Cây thông’ là hai bài ngôn chí đặc sắc nhất của cụ Hy Văn Uy Viễn Tướng Công Nguyễn Công Trứ “ra tướng võ, vào tướng văn” tỏ ý với vua Minh Mệnh và các vị quan cao cấp cùng thời như Trương Đăng Quế, Hà Tôn Quyền, Nguyễn Văn Siêu, Nguyễn Quý Tân,… Ông Nguyễn Công Trứ ngầm tỏ ý cho mọi người biết vì sao ông được vua Minh Mệnh tin dùng

“Nghĩ lại thì trời vốn cũng sòng
Chẳng vì giá rét bỏ mùa đông”

Triều Nguyễn thời đó đang như mùa đông lạnh giá, vua Gia Long mất, vua Minh Mệnh nối ngôi, lòng người chưa quy về một mối, triều chính chưa ổn định, lòng người ly tán, số quan lại mới trổi dậy ham vơ vét, còn người công chính như Nguyễn Du thì không muốn hợp tác vì không tin được triều Nguyễn thực lòng tin dùng.

Vua Minh Mệnh hùng tâm tráng chí muốn thiết lập nhà nước kỷ cương rất cần mẫu người kiêu dũng, dấn thân như thơ Nguyễn Công Trứ.”Vịnh mùa đông”: Nghĩ lại thì trời vốn cũng sòng, Chẳng vì rét mướt bỏ mùa đông. Mây về ngàn Hống đen như mực, Gió lọt rèm thưa lạnh tựa đồng. Cảo mực hơi may ngòi bút rít, Phím loan cưỡi nhuộm sợi tơ chùng. Bốn mùa ví những xuân đi cả, Góc núi ai hay sức lão tùng. “Cây thông” “Ngồi buồn mà trách ông xanh. Khi vui muốn khóc buồn tênh lại cười. Kiếp sau xin chớ làm người. Làm cây thông đứng giữa trời mà reo. Giữa trời vách đá cheo leo. Ai mà chịu rét thì trèo với thông“

Chính sử triều Nguyễn chép: Nguyễn Công Trứ (1778-1858) tên tục là Củng, tự là Tồn Chất, hiệu là Ngộ Trai, biệt hiệu là Hy Văn là một nhà quân sự, nhà kinh tế và nhà thơ lỗi lạc trong lịch sử Việt Nam cận đại. Năm 1841, Minh Mạng lâm bệnh nặng. Lúc lâm chung, ông gọi quan đại thần Trương Đăng Quế đến bên giường dụ rằng:” Hoàng tử Trường Khánh Công lấy về ngôi thứ là hàng trưởng, lấy về đức, về tuổi nên nối ngôi lớn. Ngươi nên hết lòng giúp sức rập, hễ việc gì chưa hợp lẽ, ngươi nên lấy lời nói của ta mà can gián. Ngươi trông mặt ta, nên ghi nhớ lấy.“- Minh Mạng. Sau đó, ông cầm tay con trưởng là Trường Khánh Công Nguyễn Phúc Miên Tông trối trăng: “Trương Đăng Quế thờ ta đến 21 năm, trọn đạo làm tôi, một lòng công trung, bày mưu dưới trướng, ra sức giúp việc ngoài biên, thực là một người công thần kỳ cựu của triều đình. Ngươi nên đãi ngộ một cách ưu hậu, hễ nói thì phải nghe, bày mưu kế gì thì phải theo, ngày sau có thể được thờ vào nhà thế thất.” “Hà Tôn Quyền giỏi mưu kế, Hoàng Tế Mỹ giỏi văn chương, Nguyễn Công Trứ giỏi chiến trận, trong triều không nên để vắng ba người ấy”.

Nguyễn Công Trứ tóm tắt toàn cảnh thế nước trong buổi ấy trong bốn câu: “Mây về ngàn Hống đen như mực,/ Gió lọt rèm thưa lạnh tựa đồng./Cảo mực hơi may ngòi bút rít,/ Phím loan cửi nhuộm sợi tơ chùng.”. Nguyễn Công Trứ đã đánh giá vua Minh Mệnh “Nghĩ lại thì trời vốn cũng sòng,… Bốn mùa ví những xuân đi cả,/Góc núi ai hay sức lão tùng.” không như là trường hợp “Thánh nhân bất đắc dĩ dụng QUYỀN”. “Vịnh mùa đông” “Cây thông” là những bài thơ ngôn chí đặc sắc nhất của ông.Xem tiếp >>

  Dạy và học 19 tháng 12(19-12-2021)


DẠY VÀ HỌC 19 THÁNG 12
Hoàng Kim
CNM365 Tình yêu cuộc sốngVui về với ruộng đồng; Trăng rằm; Sớm Đông; Vui đến chốn thung dung; Vui sống giữa thiên nhiên; Vui bước tới thảnh thơi; Vui đi dưới mặt trời; Câu chuyện ảnh tháng 12; Ngày 19 tháng 12 năm 1946 Chiến tranh Đông Dương chính thức bùng nổ, Hồ Chí Minh viết lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Ngày 19 tháng 12 năm 1997 Bộ phim Titanic của đạo diễn James Cameron được phát hành tại Hoa Kỳ, phim giành được thành công lớn về doanh thu và chuyên môn; Bài chọn lọc ngày 19 tháng 12: Vui về với ruộng đồng; Trăng rằm; Sớm Đông; Vui đến chốn thung dung; Vui sống giữa thiên nhiên; Vui bước tới thảnh thơi; Vui đi dưới mặt trời; Có một ngày như thế; Mười thói quen mỗi ngày; Chuyện thầy Lê Văn Tố; Giấc mơ lành yêu thương; 500 năm nông nghiệp Brazil; Minh triết sống phúc hậu;Sự chậm rãi minh triết; Lên Trúc Lâm Yên Tử; Trúc Lâm Trần Nhân Tông; Tìm về đức Nhân Tông; Chọn giống sắn Việt Nam; Đi bộ trong đêm thiêng; Tỉnh thức; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-19-thang-12;

Bài học Việt Nam mới https://youtu.be/4cqT8672UF8
Hà Nội Mùa Đông Năm 46 Full HD | Phim Chiến Tranh Việt Nam Hay Nhất


VUI VỀ VỚI RUỘNG ĐỒNG
Hoàng Kim

Người rất muốn đi về trong tịch lặng
Quẳng lại sau lưng nhân thế muộn phiền
Ta đến chốn thung dung tìm
hoa lúa
Rong chơi đường trần sống giữa thiên nhiên.

Tâm thanh thản buồn vui cùng nhân thế
Đời Đạo thịnh suy sương sớm đầu cành
Lòng hiền dịu và trái tim nhẹ nhõm
Kho báu chính mình phúc hậu an nhiên.

Trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt (*)
Trăng rằm xuân lồng lộng bóng tri âm
Người tri kỷ cùng ta và năm tháng.
Giác Tâm
ta về còn trọn niềm tin.

xem tiếp http://hoangkimlong.wordpress.com/category/vui-ve-voi-ruong-dong

Hình ảnh này chưa có thuộc tính alt; tên tệp của nó là hoangkim1.jpg

VUI ĐI DƯỚI MẶT TRỜI
Hoàng Kim

Hãy lên đường đi em
Ban mai vừa mới rạng
Vui đi dưới mặt trời
Một niềm tin thắp lửa

Ta như ong làm mật
Cuộc đời đầy hương hoa
Thời an nhiên vẫy gọi
Vui khỏe đời cho ta.

Vui đi dưới mặt trời
Nắng dát vàng trên đồng xuân
Mưa ướt vệt bóng mây, tím sắc trời cuối hạ
Đất ước, cây trông, lòng nhớ …

Em trốn tìm đâu trong giấc mơ tâm tưởng
Ngôi nhà con hạnh phúc trăm năm
Bếp lửa ngọn đèn khuya
Vận mệnh cuộc đời cố gắng

Tình yêu là người thầy tốt hơn trách nhiệm
Đồng lòng đất cảm trời thương
Phúc hậu minh triết tận tâm
Cố gắng làm người có ích

Tháng năm tròn đầy vườn thiêng cổ tích
Mừng ban mai mỗi ngày tỉnh thức bình an
Chào ngày mới
CNM365 Tình yêu cuộc sống
Thảnh thơi vui cõi phúc được thanh nhàn.

Hình ảnh này chưa có thuộc tính alt; tên tệp của nó là 2-nhatoi.jpg

Học mặt trời tỏa sáng
Phúc hậu và an nhiên
Biết kiên trì việc chính
Học nước chảy đá mòn
Vui đi dưới mặt trời

TRĂNG RẰM
Hoàng Kim

Đêm nay trăng rằm Đông tháng cuối
đầy trời còn mưa bay
ta thì quen tháng nhớ
người vẫn lạ năm chờ
thoáng chốc tháng mười hai gõ cửa

Mùa Đông đi qua là Xuân tới
ngại chi đêm trở lạnh
ngại chi ngày việc nhiều
biết nợ duyên nhân quả trời tạo nghiệp
hiểu chí thiện phước đức đất nuôi bền

Đường Xuân khát khao xanh mãi
vui đi dưới mặt trời.

hoạ đối thơ Quyen Ngo

VU VƠ
Quyen Ngo

Thôi đừng nhắc bây giờ tháng mấy
khi trời còn mưa bay
ta còn đắp đổi nhớ
người còn bận bịu chờ
mắc mớ gì réo gọi tháng mười hai

Cuộc tình nào vừa mới đan tay
lo chi câu lỗi hẹn
lo chi đường còn dài
dẫu câu hát tuổi nào xa xôi lắm
chim én về chao liệng phía ban mai

Bài thơ nửa chừng bỏ ngỏ
Tin bão xa đang về…

Gió Phương Nam 18.12

xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/trang-ram-sen-tay-ho/

SỚM ĐÔNG
Hoàng Kim

I

Sớm Đông
Trời tạnh mây quang
Vươn vai
Đón nắng
Mặc cơn gió lùa

‘Vấn vương’ * câu hẹn ngày qua
Đông tàn
Ủ mộng
Xuân sang nõn cành

II

Đêm lạnh đông tàn chậm nắng lên
Nghe hơi sương giá buốt bên thềm
Em đi làm sớm trời đang ngủ
Giữ ấm xin đừng vội để quên.

VẤN VƯƠNG
Đỗ Hoàng Phong

Giã bạn rồi mà vẫn ngóng theo
Thuyền vừa buông mái sóng xô theo
Người đi lãng đãng qua sông suối
Kẻ ở bâng khuâng khuất núi đèo
Gặp gỡ đôi nơi chừng xế bóng
Đợi chờ hai ngả đã sang chiều
Đò đưa ai hẹn vào chung bến
Hỏi đến bao giờ mới thả neo?

(*) VẤN VƯƠNG’ thơ của cụ Đỗ Hoàng Phong, 95 tuổi, danh thủ Đường thi, Câu Lạc Bộ Đường Thi Nhà giáo Hải Dương.

CỤ ĐỖ THƠ CHIỀU XUÂN
Hoàng Kim

Cụ Đỗ chiều xuân rộng tháng ngày
Thơ hiền phơi phới đọc vui say
Đỗ Phủ mưa lành tâm ý sáng
Ức Trai nắng ấm đức tỏa bay
Nhà an ruộng tốt trời thêm lộc
Nước đủ người lành đất vén mây
Xứ Đông sứ người đều thương mến
Tuổi Hạc đông phong thích tỏ bày.

Chín lăm in sách tưởng nghe nhầm
“Chiều xuân” thơ Cụ thật uyên thâm
‘Xứ Đông Thi Tập” sâu duyên nghiệp
“Nghĩa Hưng kháng chiến” lắng phương châm
“Thắp sáng Đường Thi” lưu phước đức
“Hương đồng gió nội” gửi nhân tâm
Bảy lăm tuổi Đảng “tình quê” vẹn
Hải Dương nức tiếng ngưỡng mộ tầm.

Cụ Đỗ Hoàng Phong thơ tuyệt hay
Chín lăm sức viết đọc thật say
Con Kim Đỗ Trọng ngời phẩm hạnh
Cháu Ho Dinh Bac sáng danh tài
Đình Làng Ngà vui nơi hạc ẩn
Núi Phượng Hoàng thỏa chốn chim bay
Vắt ngang thế kỷ trồng cây đức
Người và Cha cháu quý thư tay

Bảy lăm tuổi Đảng chẳng chùng dây
Cụ
Đỗ Hoàng Phong rộng tháng ngày
Gia tộc thầy hiền gương người tốt
Xóm giềng bạn quý sáng điều hay
Duy Hưng, Huyền Linh vui chân bước
Thúy Hoa, Lê Nguyễn vững gót giầy
Cụ Trạng Trình xưa khen xuân muộn
Xuân này qua xuân khác gửi “ phây “

Hoàng Kim kính chúc mừng Cụ Đỗ Hoàng Phong

NHỚ CỤ ĐỖ HOÀNG PHONG
Hoàng Kim


Sớm Đông Mai Hạc ngắm xem hình
Cụ Đỗ chiều xuân trí vẫn minh
Vấn vương nhân hậu đời quên tuổi
Chân thành tiết độ đạo đức kinh
Tuổi Hạc sách trời tìm nghĩa lý
Vườn Mai hoa đất quý nhân tình
Vắt ngang thế kỷ trồng cây Đức
Kim Hoàng theo đức nhớ đinh ninh

(*) Nguyên vận thơ cụ
Đỗ Hoàng Phong @Kim Hoàng Vui với Hoàng Kim

Thấy chữ mà sao chẳng thấy hình
Hoàng Kim toả sáng trí thông minh
Hán Nôm nho túc thông từng quyển
Lịch sử uyên thâm thấu mấy kinh
Trên gác bình văn tìm nghĩa lý
Dưới thềm vịnh cảnh đạt nhân tình
Cách núi ,ngăn sông e lạc lối
Mong ngày hội ngộ vẫn đinh ninh

Xem tiếp
Sớm Đônghttps://hoangkimlong.wordpress.com/category/som-dong/

VUI ĐẾN CHỐN THUNG DUNG
Hoàng Kim

Thăm người ngọc nơi xa vùng tỉnh lặng
Chốn ấy non xanh người đã chào đời
Nơi
sỏi đá giữa miền thiêng hoa cỏ
Thiên nhiên an lành,
bước tới thảnh thơi.

Sống giữa đời vui giấc mơ hạnh phúc
Cổ tích đời thường đằm thắm yêu thương
Con cái quây quần thung dung tự tại
Minh triết cuộc đời phúc hậu an nhiên.

Xuân Hạ Thu Đông bốn mùa luân chuyển
Say chân quê
ngày xuân đọc Trạng Trình
Ngày ra ruộng đêm thì đọc sách
Ngọc cho đời giữ trọn niềm tin.

xem tiếp
https://hoangkimlong.wordpress.com/category/vui-den-chon-thung-dung/

VUI SỐNG GIỮA THIÊN NHIÊN
Hoàng Kim

Người khôn về chốn đông người
Cái nhìn thì mỏng, cái cười thì nông
Ta vui về với ruộng đồng
Để gieo tục ngữ để trồng dân ca.

Thung dung cùng với cỏ hoa
An nhiên đèn sách, nhẫn nha dọn vườn
Mặc ai tính thiệt so hơn
Bát cơm gạo mới vẫn thơm láng giềng

Thiên nhiên là thú thần tiên
Chân quê là chốn bình yên đời mình
Bạn hiền bia miệng anh linh
Thảnh thơi hưởng trọn ân tình thế gian.

Nước trong ngập ánh trăng vàng
Ta ra cởi bỏ nhọc nhằn âu lo
Lợi danh một thực mười hư
Trăm điều ước vọng chỉ phù du thôi.

Thung dung thanh thản cuộc đời
Tình quê bồi đắp về nơi đất hiền
Ta về sống giữa thiên nhiên
Chọn tìm giống tốt thêm bền yêu thương.

xem tiếp
http://hoangkimlong.wordpress.com/category/vui-ve-voi-ruong-dong/

Vui đi dưới mặt trời
Một niềm tin thắp lửa

Bài viết mới trên CNM365 Tình yêu cuộc sống
DẠY VÀ HỌC
https://hoangkimvn.wordpress.com
CNM365, ngày mới nhất bấm vào đây   cập nhật mỗi ngày

Video yêu thích
Quà tặng cuộc sống
KimYouTube
Nong Lam University
Kỷ niệm 65 năm Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh
Giúp bà con cải thiện mùa vụ (Video Hoàng Long Nguyễn Văn Phu ở Lào)
Bài học quý giá biết chăm sóc sức khỏe
Secret Garden, Bí mật vườn thiêng 

Trở về trang chính
Hoàng Kim Long, Ngọc Phương NamThung dungDạy và Học, Việt Nam Học, Cây Lương thực Việt Nam, Tình yêu Cuộc sống, CNM365; Kim on LinkedIn Kim on Facebook Kim on Twitter

Xem tiếp >>

  Dạy và học 18 tháng 12(18-12-2021)

DẠY VÀ HỌC 18 THÁNG 12
Hoàng Kim
CNM365 Tình yêu cuộc sốngCâu chuyện ảnh tháng 12; Có một ngày như thế; Mười thói quen mỗi ngày; Chuyện thầy Lê Văn Tố; Giấc mơ lành yêu thương; 500 năm nông nghiệp Brazil; Vui bước tới thảnh thơi; Minh triết sống phúc hậu;Sự chậm rãi minh triết;Lên Trúc Lâm Yên Tử; Trúc Lâm Trần Nhân Tông; Tìm về đức Nhân Tông; Chọn giống sắn Việt Nam; Đi bộ trong đêm thiêng; Tỉnh thức; Thiên hà trong vắt khuya, sao Thủy, sao Kim (sao Thái Bạch Kim Tinh, sao Hôm sao Mai) và Mặt trăng thẳng hàng, một hiện tượng thiên văn quý hiếm ,tác phẩm nổi tiếng ảnh quý ‘bạn quý hiếm gặp’ của nhà thiên văn và du lịch Yuri Beletsky. Ngày 18 tháng 12 là ngày đồng tưởng nhớ Đỗ Phủ, Tchaikovsky và Xuân Diệu.  Ngày 18 tháng 12 năm 757 là ngày Đỗ Phủ ra làm quan ở Trường An dưới triều vua Đường Huyền Tông. Đỗ Phủ là một trong hai nhà thơ vĩ đại nhất Trung Quốc được gọi là Thi thánh Thi sử Trung Quốc do đức độ cao thượng và tài năng tuyệt vời (người kia là Thi tiên Lý Bạch). Đỗ Phủ không rõ ngày sinh và ngày mất nên ngày này được chọn để tưởng nhớ ông. Đỗ Phủ tầm vóc thế giới, có các tác phẩm của ông được so sánh với Shakespeare và Victor Hugo. Đỗ Phủ có cuộc đời giống như đất nước Trung Hoa thuở đó, bị chiến tranh loạn lạc giằng xé liên miên điêu đứng tột cùng và thường xuyên biến động. Bài cổ thi “Xem người đẹp múa kiếm” nổi tiếng của Đỗ Phủ ca ngợi tài nghệ múa kiếm tuyệt luân của mỹ nhân Công Tôn Đại Nương, gợi cho người đời sau của Việt Nam nhớ đến bài thơ “Thuật hoài” của Đặng Dung đêm thanh mài kiếm . Tác phẩm của ông gây ảnh hưởng rất lớn đến văn hóa Trung Quốc và Nhật Bản. Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Di chúc có trích thơ Đỗ Phủ. Sự tích của ông được lưu dấu tại Đỗ Phủ thương đọc lại; Đọc Đỗ Phủ nhớ Đặng Dung. Ngày 18 tháng 12 năm 1892, kiệt tác Kẹp Hạt Dẻ của Tchaikovsky lần đầu tiên được công diễn tại Sankt-Peterburg Nga. Từ đó ngày này và sự kiện này được coi là ngày tưởng nhớ ông tại Nga.  Pyotr Ilyich Tchaikovsky là một nhà soạn nhạc nổi tiếng người Nga thời kỳ âm nhạc lãng mạn. Tchaikovsky sáng tác các nhạc phẩm đậm chất Nga theo một phong cách nghệ thuật rất đặc sắc, riêng biệt, sâu lắng, kết hợp tuyệt vời nghệ thuật múa với giai điệu nhạc Nga. Kiệt tác Kẹp Hạt Dẻ là vở ba lê đặc biệt nổi tiếng và thành công nhất của Tchaikovsky hiện được công diễn nhiều nơi trên thế giới vào dịp Giáng Sinh nhất là ở Mỹ: Ngày 18 tháng 12 năm 1985 là ngày mất của  Xuân Diệu  ông hoàng thơ tình cây đại thụ của nền thi ca hiện đại Việt Nam. Xuân Diệu sinh ngày 2 tháng 2 năm 1916, mất ngày 18 tháng 12 năm 1985.  Di sản Xuân Diệu có trên 450 bài thơ (một số lớn nằm trong di cảo chưa công bố), nhiều bút ký, tiểu luận, phê bình văn học, một số truyện ngắn. “Thơ ông tài hoa, tinh tế và sang trọng” (Trần Đăng Khoa). Bài chọn lọc ngày 18 tháng 12:Câu chuyện ảnh tháng 12; Có một ngày như thế; Mười thói quen mỗi ngày; Chuyện thầy Lê Văn Tố; Giấc mơ lành yêu thương; 500 năm nông nghiệp Brazil; Vui bước tới thảnh thơi; Minh triết sống phúc hậu;Sự chậm rãi minh triết;Lên Trúc Lâm Yên Tử; Trúc Lâm Trần Nhân Tông; Tìm về đức Nhân Tông; Chọn giống sắn Việt Nam; Đi bộ trong đêm thiêng; Tỉnh thức; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/ http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-18-thang-12

CÓ MỘT NGÀY NHƯ THẾ
Hoàng Kim

Chúc mừng ba học viên cao học Phan Thị Mỹ Hạnh, Đặng Thị Ngọc, Nguyễn Bá Tùng đã bảo vệ thành công luận văn thạc sỹ khoa học nông nghiệp,
Một niềm tin thắp lửa (*) Chúc mừng Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh, Khoa Nông Học, Phòng Đào tạo Sau Đại Học, Viện Sinh học Nhiệt Đới, Trung tâm Nghiên cứu Nông nghiệp Hưng Lôc, (**) Trường tôi nôi yêu thương đào tạo phát triển nguồn lực nông nghiệp. Chúc mừng quý Thầy hướng dẫn TS. Võ Thái Dân, TS. Nguyễn Phương, TS. Phan Tường Lộc; TS Bùi Minh Trí cùng quý Thầy Cô, gia đình người và bạn hữu đồng hành hiệu quả. Câu chuyện ảnh tháng 12Có một ngày như thế. Chúc mừng Giáng Sinh và Năm Mới đang đến ấm áp hạnh phúc.

CÂU CHUYỆN ẢNH THÁNG 12
Ba luận văn thạc sĩ khoa học nông nghiệp vừa công bố: Nguyễn Bá Tùng 2020. Khảo sát sinh trưởng và năng suất của 12 giống sắn (Manihot esculenta Crantz) tại tỉnh Đồng Nai và Tây Ninh; Phan Thị Mỹ Hạnh 2020. Đánh giá sinh trưởng phát triển và khả năng kết hợp một số tính trạng của sáu dòng bắp nếp (Zea mays L. var. ceratina) tại Củ Chi thành phố Hồ Chí Minh; Đặng Thị Ngọc 2020. Nghiên cứu tạo rễ tơ cây bá bệnh ( Eurycoma longifolia Jack) và khảo sát một số yếu tố ảnh hưởng đến quá trình nuôi sinh khối rễ :

CÓ MỘT NGÀY NHƯ THẾ
Hoàng Kim

Cánh cò bay trong mơ
Cha Mẹ và người thân
Mục tiêu và động lực
Có một ngày như thế
Thầy bạn là lộc xuân

Câu chuyện ảnh tháng 12

TRƯỜNG TÔI NÔI YÊU THƯƠNG
Hoàng Kim

Đại học Nông Lâm thật thích
Bạn thầy vui thật là vui
Sân Trường giảng đường ấm áp
Đường xuân phơi phới tuyệt vời

Hình như mọi người trẻ lại
Hình như người ấy đẹp hơn
Hình như tre già măng mọc
Nắng mai soi giữa tâm hồn.

Thầy bạn trong ngoài thiện nguyện
Về Trường chia sẻ động viên
Trang sách trang đời lắng đọng
Yêu thương bao cuộc đời hiền.

Thầy ơi hôm nay chưa gặp
Lời thương mong ước bình an
Tình khúc Nông Lâm ngày mới
Sức xuân Tự nguyện Lên đàng.

MỘT NIỀM TIN THẮP LỬA
Hoàng Kim

Nhìn đàn em ngời niềm vui rạng rỡ.
Chợt thấy lòng rưng rưng.
Công việc nghề nông cực mà hạnh phúc.
Cố lên em nổ lực không ngừng !

Hột mồ hôi lắng vào hạt gạo
Câu ca ông bà theo suốt tháng năm
Thêm bữa cơm ngon cho người lao động
Nâng chén cơm thơm, qúy trọng người trồng.

Em ơi hãy học làm ruộng giỏi
Nghề nông thời nào cũng quý kỹ năng
Người dân khá hơn là niềm ao ước
Công việc này giao lại cho em.

Có một mùa xuân hạnh phúc
Ơn mẹ cha lam lũ sớm hôm
Thương con vạc gọi sao mai dậy sớm
Một niềm tin thắp lửa giữa tâm hồn.

Bước tiếp bước giữa trường đời gian khó
Học làm người lao động siêng năng
Rèn nhân cách vượt lên bao cám dỗ
Đức và Tài tử tế giữa Nhân Dân.

Congviecnaytraolaichoem

Trường tôi nôi yêu thương

Câu chuyện ảnh tháng 12
NẮNG ĐÔNG
Hoàng Kim


Hạnh phúc đơn sơ sao đẹp thế
Ngắm hoa nhớ buổi nắng đông về
Yêu sao ngày mới chờ xuân tới
Đông lạnh ta còn mãi miết đi.

Đạo đức niềm tin và lối sống
Nhớ lời Hưng Đạo dặn dò vua
Đường xuân vui bạn quên ngày tháng
Nắng hửng ban mai gió lạnh về


Chúc mừng Hồng Đào sinh nhật vui khỏe xinh tươi 18 tháng 12

Câu chuyện ảnh tháng 12 bảo tồn và phát triển thông tin tại http://fa.hcmuaf.edu/vn/hoangkimlong và: https://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-17-thang-12/
https://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-15-thang-12/
https://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-9-thang-12/
https://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-4-thang-12/
https://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-1-thang-12/

Nguyễn Vũ Tiến Huế thương

NGUYỄN VŨ TIẾN HUẾ THƯƠNG
Hoàng Kim

Gia đình ấm áp niềm hạnh phúc
Ngày vui sinh nhật ghé thăm nhau
Bạn lính cũng quê cùng thầy giáo
Vũ Tiến Hoàng Kim thắm dãi dầu

Kính sư huynh Nguyễn Vũ Tiến Đại học Huế và gia đình vui khỏe. Ngày này của anh thật ấn tượng.
CHÀO NGÀY MỚI 15 THÁNG 12

Dương Hoa Xô 9 12 và thầy bạn
Dương Hoa Xô 9 12 và thầy bạn
Mai Va7n Buông 9 12 và thầy bạn 9 12
Nguyễn Thị Trúc Mai 4 12 2017
Hernan Ceballos Kim và bạn hữu ở Lào 1 12

TỈNH THỨC
Hoàng Kim
thơ đề ảnh
Kenny Rogers‘s photo.

thiên hà trong vắt khuya
chuyển mùa
tự nhiên tỉnh
ta ngắm trời, ngắm biển
chòm sao em.
vầng sáng anh,
dưới vòm trời lấp lánh
khoảnh khắc thời gian
thăm thẳm
một tầm nhìn.

(GET UP
clear late galaxies
transfer season
natural awakening
I watch the sun, watching the sea
watching the constellations.
glow from where he
under the sparkling sky
moment of time
chasms
a vision).

THIÊN HÀ TRONG VẮT KHUYA
Hoàng Kim

vochonggslevanto

CHUYỆN THẦY LÊ VĂN TỐ
Hoàng Kim


Giáo sư Lê Văn Tố là một người thầy hiền hậu, tài năng mà đời tôi may mắn được gần gũi, học hỏi và tôi thực sự kính trọng. Thầy Tố cùng quê Nghệ Tĩnh với cụ Nguyễn Công Trứ người đã tuyên ngôn sứ mệnh của kẻ quốc sĩ: “Đã mang tiếng ở trong trời đất. Phải có danh gì với núi sông” đối với người có học thực sự phải làm được điều gì đó ích lợi cho dân cho nước. Chuyện thầy Lê Văn Tố khơi dậy trong tôi sự thăm thẳm nhớ quê của một người con xa xứ và ước vọng tiếp tục hoàn thiện các công việc ân tình phục vụ ích lợi cho Tổ Quốc Quê Hương. Thầy Tố có nhiều chuyện đời mà tôi thích nhất bảy chuyện: 1) PHTI – HCMC và FCC; 2) Một chuyến đi ‘dối già’ và những suy tư ”, 3) “Lịch sử Logo FCC”, 4) “FOLI và FOVINA”,5) “Câu thơ đời ám ảnh”, 6) “Thầy Tố chuyện đời thường ” 7) “Thầy Tố bạn và học trò ” Trước đây khi bước vào tuổi 75 thầy Tố đã có cuộc du xuân “dối già” cùng vợ về quê. Đó là câu chuyện không phải của riêng ai, chỉ là người trước người sau mà thôi, bạn cũng chẳng kiêng cử về hai chữ “dối già” vì thầy cô nay còn mạnh khỏe lắm, phải thọ đến trăm tuổi, nhưng một cuộc du xuân cùng vợ về quê là chuyện to. Thầy coi xong việc này là thảnh thơi xong một việc chính.

Mời bạn lắng nghe lời Thầy kể:

  1. PHTI – HCMC VÀ FCC

    Thầy
    Lê Văn Tố viết “Tiền nhân bảo” Công trồng là công bỏ, Công làm cỏ là công ăn“. Đúng vậy tôi chỉ có công trồng chỉ có 2 cây là PHTI-HCMC và FCC trồng trong những đêm dài chuyển mình đổi mới: không được thành lập thêm cơ quan ở HCMC nếu không có chữ kí của ông Võ Văn Kiệt phó chủ tịch hội đồng bộ trưởng và ông Phan Văn Khải chủ tịch thành phố. Tôi ở nước ngoài về cầm thơ tay của ông Chín Cần – phó ban tổ chức trung ương, Bộ trưởng, không biết sợ là gì cứ thế xông vào thế mà được việc. Có đội ngủ tốt. Cơ quan làm được nhiều việc, có uy tín với xã hội. Tôi về hưu đã lâu, nhân ngày gia đình Việt Nam, anh em cơ quan đến thăm. Cầm phong bì trên ngực, gạo, sữa nặng quá không ôm được biểu lộ tấm lòng của người già. Trân trong trước tình cảm của anh chị em”. Đọc những lời chia sẻ, Ấm áp mãi tình thân. Trang sách đời rộng mở. Dạy và học chuyên cần. Em Hoàng Kim xin được lưu về chuyên trang Chuyện thầy Lê Văn Tố

2. MỘT CHUYẾN ĐI “DỐI GIÀ” VÀ NHỮNG SUY TƯ
Giáo sư Tiến sĩ Khoa học Lê Văn T

Bước vào tuổi 75 tôi muốn có cuộc du xuân “dối già” cùng vợ về quê.

Như có món nợ nào đó chưa trả xong khi bước sang thế giới khác, đầu óc tôi vẫn văng vẳng đâu đó câu ví dặm “ giận thì giận mà thương thì thương” tôi không giận ai cả. Chỉ biết giận mình vì tuy có một số sản phẩm được người tiêu dùng chấp nhận nhưng chưa có gì đóng góp cho quê hương. Có lẽ núm nhau mẹ chôn ở gốc tre bụi chuối nào đó nên quê hương vẫn sâu đậm trong lòng – mặc dầu li hương hơn 60 năm.

Không sâu đậm sao được đến như Le Breton thầy giáo của giáo sư Lê Thước ở trường quốc học Vinh đã không ngần ngại khi viết: “ông yêu xứ Nghệ và con người Nghệ Tĩnh”( Le vienx An-Tĩnh 1936, bản dịch của Trung Tâm văn hóa ngôn ngữ đông tây năm 2005). Có lẽ Le Breton vì hiểu và yêu xứ Nghệ nên mới để lại tác phẩm chân tình giàu tính văn học, sáng giá về khảo cổ học, sử học, am hiểu về địa chất Nghệ Tĩnh đến thế.

Để tiết kiệm thời gian, tôi liên hệ một số cơ sở du lịch và khách sạn 5 sao Mường Thanh Sông Lam ở Vinh thu xếp cho một chuyến du lịch cao cấp với hướng dẫn viên giàu tri thức, am hiểu địa danh các huyện Diễn Châu, Yên Thành, Nam Đàn, Thanh Chương, Hương Sơn, Hương Khê, theo đường 8 đến biên giới Lào- Việt. Yêu cầu đơn giản đó không được đáp ứng. Tôi thuê xe về quê nội, quê ngoại.

Hai quê qua bao thăng trầm nay đã được công nhận là di tích văn hóa lịch sử. Quê nội đời cố Lê Kim Ứng đã có công giúp phong trào Cần Vương và là nơi trú ngụ của gia đình cụ Nguyễn Sinh Sắc cùng 3 con sinh sống một thời gian thời thơ ấu. Phong cảnh và tình người chắc để lại trong lòng Bác Hồ những kĩ niệm khó quên nên khi Bác gặp tham tán quân sự Việt Nam tại Mạc Tư Khoa (người cùng quê) Bác còn hỏi thăm và khen là Nguyệt Bổng (tên cũ) đẹp.

Nhiều văn nghệ sĩ trong kháng chiến chống Pháp như Nguyễn Văn Tý, Trần Hoàn,…đã từng sinh sống tại quê tôi. Hồi nhỏ chúng tôi vẫn nghêu ngao “một chiều anh bước đi, em tiễn đưa anh ra tận cuối đồi, rằng kháng chiến còn trường kì là còn gian khổ”. Trần Hoàn đã bén duyên với người con gái quê tôi, trước lúc đi công tác xa đã để lại bài hát trên.

Khi vua Hàm Nghi bị bắt, phong trào Cần Vương đi vào thoái trào. Các sĩ phu Cần Vương cảm kích trước sự giúp đỡ của gia tộc Lê Kim Ứng đã nói : việc nước chưa thành, công ơn gia tộc chưa trả được chỉ mới chọn được miếng đất tốt để hai cụ an nghỉ lúc trăm tuổi với lòng mong mỏi gia tộc ngày càng hưng thịnh. Tôi không am hiểu phong thủy nhưng mộ Cố trên đồi cao vẫn hội đủ: tả thanh long, hữu bạch hổ có sông dài uốn lượn phía dưới.Tuổi già nhưng nhờ mấy trăm bậc đá cháu mới làm nên vẫn cố leo lên thắp hương Cố lần cuối.

Bên kia quả đồi là giếng Cửa Khâu nước chảy quanh năm từ lòng núi không bao giờ cạn với đàn cá tung tăng như cá thần Cẩm Thủy (Thanh Hóa). Chị em tôi lúc nhỏ hay phải gánh nước từ giếng Cửa Khâu về để mẹ làm tương ăn quanh năm, thổi xôi nếp rồng cúng giỗ…

Về quê nhiều lần hỏi về giếng Cửa Khâu, nếp rồng, bánh vo (làm từ bột gạo lức lúa nương) chỉ còn mấy người già còn nhớ. May thay lần này có người dẫn đường tìm lại được giếng Cửa Khâu khi trời vừa tối. Cảm động vô cùng bà con xúm lại. Người biếu chai rượu, kẻ chai tương được sản xuất từ nguồn nước giếng này. Đúng là món ngon nhớ đời. Không phải chỉ mình tôi mà biết bao người xứ Nghệ, khách thập phương từng sinh sống ở đây vẫn nhớ con cá mát kho tương, xôi nếp rồng, bánh vo… Nay chỉ còn trong kí ức người già!

Bù lại có món ngọn lang luộc xào tỏi mà các anh chị ở tòa soạn báo Kinh tế Sài Gòn, Sài Gòn Times khi chiêu đãi tôi ở thành phố Hồ Chí Minh thường nhắc đến nay đã trở thành món đặc sản nhưng phổ thông khắp thành Vinh. Ước gì ngọn lang, cá thu nướng Cửa Lò, gà đồi Nghệ An trở thành hàng hóa phổ biến ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh.

Nghệ An còn nổi tiếng với cam Xã Đoài. Lần này về quê, cố tìm đến vùng cam Xã Đoài để mua bằng được loại cam nổi tiếng ngọt, thơm, nguyên gốc về làm quà. Loại cam mà tôi đã từng được ăn, được chứng kiến người dân chăm sóc theo lối cổ truyền. Cũng gọi là cam Xã Đoài bán hiện nay nhưng sao quá nhiều nước và chua! Đường cao tốc vun vút qua xứ đạo năm xưa, khó tìm được người dân để hỏi đường. May gặp được người dắt trâu làm đồng về chỉ nói đơn giản: “Không cần hỏi ai cả cứ đi tiếp nhìn bên trái thấy nhiều tòa nhà, cổng thành kiên cố, đường bê tông dài bao quanh– cam Xã Đoài ở đó.

Có lẽ sau Tết hết mùa cam chỉ thấy hai quả cam đá to tướng trên tượng đài trước tòa dinh thự. Chợt nhớ tới ông Nguyễn Hữu Tiêu giám đốc nông trường Sông Con (Nghĩa Đan) . Chỉ còn một mắt vì gian truân của cuộc đời nhưng vẫn sáng nhìn xa trông rộng nên đã đưa cam Xã Đoài lên vùng đồi tạo nên thương hiệu cam Vinh nổi tiếng một thời làm mát lòng người dân miền Bắc, trong lúc khan hiếm hàng hóa của thời bao cấp.

Hi vọng sẽ còn dịp trở về thắp hương trên bàn thờ ông Tiêu ở Nghĩa Đàn với cam Xã Đoài thứ thiệt. Cam Xã Đoài mọc trên đất pha cát xung quanh nhà thờ Xã Đoài. Có lẽ cần đến vai trò xứ đạo để phát triển và giữ được thương hiệu loại cam quý giá này.

Viết đến đây tôi lại nhớ đến cố ngoại Phan Sĩ Thục được vua Tự Đức cử làm chánh sứ đến triều Thanh. Làm quan to trong triều nhưng khi lương, giáo tàn sát lẫn nhau, cố đã mở cửa nhà quan để giáo dân vào trú ẩn, góp phần hòa giải mâu thuẫn. Ngày nay con đường mang tên ông là một trong những con đường dẫn đến tượng đài Bác Hồ ở Vinh. Tôi thầm cảm ơn các anh chị lớp trước, phải “có tâm có tầm” mới cất giữ được bút phê của vua “Liêm như Thục” và ấn kiếm áo mũ vua ban cho đời sau (sách vua quan triều Nguyễn cũng đã ghi chép chuyện này).

Lần này về quê tôi còn gắng sức đến thắp hương mộ bà Hoàng Thị Loan trên đồi cao. Mát trời cảnh đẹp nhưng nhiều cụ già với lòng thành tâm chỉ ngồi dưới chân đồi. Giá có những chiếc cáng nhỏ để giúp các cụ! Con đường bậc thang lên đồi dốc chỉ có nước trà xanh và nước có gas nếu có củ sắn dây luộc trồng xung quanh đồi hoặc nước sắn dây sẽ thêm mát lòng người đến viếng… Nhà lưu niệm Nguyễn Du to rộng mênh mông nhưng sao vẫn thiếu tiếng ngâm Kiều của mẹ thuở nhỏ…

Quà về quê tôi chỉ có dịp mang theo cam Quỳ Hợp thay cho cam Xã Đoài và chai tương Cửa Khâu. Nếu có thêm cá thu nướng Cửa Lò đông lạnh hút chân không thì tốt biết bao. An ninh ở sân bay Vinh không cho tôi mang chai tương theo người nhưng sau khi biết tôi mang tương về để nghiên cứu phát triển sản xuất đã linh động cho qua. Về Sài Gòn kể chuyện mọi người khen an ninh có tâm và có tầm nhìn…

Chuyến đi dối già chỉ có mấy ngày nhưng có biết bao điều suy tư. Suy tư có thể đúng có thể sai nhưng vẫn là suy tư của người con xứ Nghệ xa quê.

GS. TSKH Lê Văn Tố

 

3. LỊCH SỬ LOGO FCC
The History of Logo FCC

Anh em ở cơ quan cũ FCC và tổng giám đốc FCC anh Trần Phương đến chơi và trao đổi với tôi viết lịch sử FCC để lưu lại và giáo dục truyền thống cho lớp trẻ mới vào . Tôi từ chối và nói : Đã gửi phòng lưu trữ cơ quan các tài liệu cũng như bút tích của ông Võ Văn Kiệt ,ông Phan Văn Khải và ông Nguyễn Văn Chính ( Chín Cần Bí Thư Trung Ương Đảng , Bộ Trưởng Bộ Lương Thực ). Cơ quan nếu cần thì dựa vào tài liệu đó cũng như đĩa CD cử người viết là xong. Nay tôi chỉ kể lịch sử Logo FCC để mọi người có thêm tài liệu: 

Việt Nam từ thiếu ăn bắt đầu xuất cảng gạo, hồi ấy chúng ta giành gạo tốt nhất để bán. Nước ngoài mua gạo 35% tấm Việt Nam về bán lại gạo có phẩm chất cao hơn. Thuộc chuyên môn của mình, tôi đề nghị nhà nước cho thành lập cơ quan giám định thứ 2 với tên giao dịch quốc tế là :Food Control Center (FCC) bên cạnh Vinacontrol. Với sự hợp tác chân thành , tránh phiền phức cho khách hàng FCC đã tới Vinacontrol bàn bạc, thống nhất quy trình làm việc và đưa các mẫu gạo chuẩn để giám định. Cán bộ FCC thắc mắc tại sao mẫu gạo chuẩn chỉ ghi tên Vinacontrol và Viện Nghiên Cứu Lương Thực, còn FCC ở đâu ?

Ở trong tim các anh và trên ngực các anh – Tôi trả lời và chỉ vào ngực áo đồng phục của mọi người có Logo FCC. Mình phục vụ tốt hết lòng với khách hàng sẽ tạo dần uy tín. FCC với đội ngũ chuyên môn của mình đã tới từng kho hàng tham gia chuẩn bị hàng xuất khẩu cho họ theo đúng hợp đồng đã kí đồng thời mời cơ quan giám định quốc tế OMIC-Nhật Bản đến giảng dạy và cộng tác chuyên môn. FCC dần dần đã tạo dựng được uy tín của mình với khách hàng trong và ngoài nước song song với việc đào tạo tuyển dụng nhân viên mới. Có lần doanh nghiệp phản ánh với chúng tôi anh H buổi đêm bắt doanh nghiệp đem xe về Sài Gòn ngủ để mai đến Long An làm việc tiếp. Thời đó đường sá đi lại rất khó khăn sau khi điều tra chúng tôi biết đó là sự thật lập tức cho nhân viên tạm thời nghỉ việc và hẹn lúc nào biết cách phục vụ khách hàng sẽ được làm việc tiếp. Nghề giám định có nhiều lúc cũng rất cân não và khó khăn. Lúc kiểm lô ý dĩ xuất cảng sang Nhật, tới cảng Yokohama họ trả lại vì nhiễm độc tố Aflatoxin vượt chuẩn. Với lề lối làm việc khoa học, FCC khẳng định với khách hàng nếu lỗi của mình, chúng tôi sẽ nhận trách nhiệm nhưng trước hết cần lấy mẫu lại để kiểm tra đồng thời kiểm tra mẫu lưu trữ để trong kho và gửi mẫu sang Băng Cốc, Tokyo. Có kết quả tương đồng, tôi tin rằng chúng tôi có lý và khuyên khách hàng về sấy khô lại sản phẩm đổi các công ten nơ khác, nếu Nhật họ yêu cầu thì mạnh dạn xuất hàng. Mọi việc êm xuôi, tôi cũng trút được gánh nặng thoát khỏi vòng số 8 vì tội cố ý làm trái.

Có lẽ ở Yokohama họ lấy mẫu không đúng cách không đại diện cho lô hàng nên có sai sót nói trên. Từ sự việc này dự án ACIAR đề nghị tôi và một chuyên gia Úc viết bài giảng về phương pháp lấy mẫu cho các trường đại học.

Không phải chỉ tranh luận với khách hàng nước ngoài mà còn tranh luận với hải quan nước nhà. Chúng ta có nhà máy xay bột mì hiện đại nhưng nếu nhập hạt mì về xay sát sẽ bị đánh thuế vì hải quan cho rằng hạt mì là đã qua xay xát (Vì hạt lúa mì sau thu hoạch đã rất bóng ). Thuyết phục không xong, tôi cho hạt mì ngâm ủ và nói nếu qua xay xát hạt mì sẽ không nảy mầm. Cuối cùng hải quan chấp nhận. Có lần chúng tôi mời cán bộ FAO đến chứng kiến lô dầu ăn viện trợ cho Việt Nam bị ôi mốc vì chất lượng kém. Họ tâm phục khẩu khục đổi cho ta lô dầu khác. FCC ngày càng phát triển được ủy quyền giám định không những chỉ hàng lương thực thực phẩm mà còn nhiều loại hàng hóa khác. Cái áo đã chật nhưng Logo FCC đã đi ra thế giới làm thế nào đây ? Động viên anh em tìm thêm một chữ C cho hợp với cái áo mới, từ đó có tên : Food & Commoditoes Control. FCC đã giữ vững và phát triển tên tuổi của mình hơn 30 năm nay nhưng 1 lần nữa chứng tỏ sự non yếu của tôi – 1 người chuyên về kỹ thuật lương thực thực phẩm chỉ nghĩ đến giám định thực phẩm mà thôi…

Khi được xây dựng trụ sở mới tôi bàn với anh em : Mình chưa đủ tài chính xây dưng tòa nhà 9 lầu thì chỉ xây dựng 4 lầu nhưng nền móng kết cấu đủ 9 lầu tránh đập phá lãng phí.

Về hưu đã lâu rất ít khi tới cơ quan nhưng mỗi lần đến để sinh hoạt khoa học hoặc giới thiệu sách khoa học mới của các bạn đồng nghiệp. Nhìn tòa nhà 9 tầng vươn cao giữa hàng me cổ thụ ( Hợp đồng giao hẹn với công ty xây dựng không được chặt me ) lòng tôi lại lâng lâng.”

GS.TSKH Lê Văn Tố

ThayTovachaoPOLI

4. FOLI VÀ FOVINA
Một phần tư thế kỉ trôi qua của sản phẩm nghiên cứu Foli

Xem tiếp >>

  Dạy và học 17 tháng 12(18-12-2021)

DẠY VÀ HỌC 17 THÁNG 12
Hoàng Kim
CNM365 Tình yêu cuộc sốngCâu chuyện ảnh tháng 12; Có một ngày như thế; Mười thói quen mỗi ngày; Giấc mơ lành yêu thương; 500 năm nông nghiệp Brazil; Ngọc Phương Nam ngày mới; Vui bước tới thảnh thơi; Minh triết sống phúc hậu;Sự chậm rãi minh triết; Lên Trúc Lâm Yên Tử; Trúc Lâm Trần Nhân Tông; Tìm về đức Nhân Tông; Chọn giống sắn Việt Nam; Đi bộ trong đêm thiêng; Ngày 17 tháng 12 năm 1819 là ngày Simón Bolívar tuyên bố nền độc lập của Đại Colombia tại Angostura thuộc Venezuela ngày nay. Simón Bolívar (1783 – 1830) là nhà cách mạng nổi tiếng người Venezuela, người lãnh đạo các phong trào giành độc lập ở Nam Mỹ đầu thế kỷ 19. Ông được tôn vinh là George Washington của Nam Mỹ, Người Giải phóng, đại anh hùng dân tộc. Những cuộc chiến đấu do ông lãnh đạo đã lật đổ sự thống trị của Tây Ban Nha, giành độc lập cho sáu quốc gia ngày nay là: Venezuela, Colombia, Panama, Ecuador, Peru, và Bolivia. Ngày 17 tháng 12 năm 1770 là ngày sinh của nhà soạn nhạc cổ điển thiên tài người Đức Ludwig van Beethoven (mất năm 1827). Ông sống chủ yếu ở Viên, Áo và là biểu tượng âm nhạc quan trọng của thời kỳ âm nhạc cổ điển chuyển sang thời kỳ âm nhạc lãng mạn. Ông được coi là người mở đường của thời kỳ âm nhạc lãng mạn. Beethoven được khắp thế giới công nhận là nhà soạn nhạc vĩ đại nhất, nổi tiếng nhất và có ảnh hưởng nhiều nhất tới những nhà soạn nhạc, nhạc sỹ, và khán giả về sau. Ngày 17 tháng 12 năm 1927 là ngày sinh của giáo sư Hoàng Tụy (mất ngày 14 tháng 7 năm 2019 tại Hà Nội), nhà toán học tiêu biểu hàng đầu của Việt Nam. Giáo sư Hoàng Tụy cùng với Giáo sư Lê Văn Thiêm là người tiên phong trong việc xây dựng ngành Toán học Việt Nam và được coi là cha đẻ của lĩnh vực Tối ưu hóa toàn cục (Global Optimization) trong Toán học Ứng dụng; Bài chọn lọc ngày 17 tháng 12: Câu chuyện ảnh tháng 12; Có một ngày như thế;; Mười thói quen mỗi ngày; Giấc mơ lành yêu thương; 500 năm nông nghiệp Brazil; Ngọc Phương Nam ngày mới; Vui bước tới thảnh thơi; Minh triết sống phúc hậu;Sự chậm rãi minh triết; Lên Trúc Lâm Yên Tử; Trúc Lâm Trần Nhân Tông; Tìm về đức Nhân Tông; Chọn giống sắn Việt Nam; Đi bộ trong đêm thiêng; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-17-thang-12; 

NGÀY MỚI
Ngọc Phương Nam

Ai vui tựa gốc lộc mai
Thung dung năm tháng
Miệt mài đồng xuân!

Bình minh như thể bóng hồng
Nắng mưa … chẳng ngại
Thinh không … nói gì?!

Tùy cơ tùy thế tùy nghi
Trúc Lâm thời vận mệnh ghi Hoàng Thành

Câu thơ hạt ngọc long lanh
Tìm trong cát đá
Trờì dành lộc xuân
Đông 2021
Kính cậu mợ Hoàng Gia Cương vui khỏe, cháu
Hoàng Kim thật vui thích họa vần thơ cậu và cháu xin được chép về https://hoangkimlong.wordpress.com/category/ngoc-phuong-nam/…/

LÀM THƠ
Hoàng Gia Cương


Một đời tấp tễnh làm thơ
Mình như thợ vụng …
Bây giờ rỗng không !

Thơ hay như thể bông hồng
Khen, chê … chẳng khó
Ươm, trồng … dễ đâu ? !

Suy tư bạc trắng mái đầu
Mà câu thơ nghẹn nỗi đau chưa thành !

Đâu tìm hạt ngọc long lanh ?
Bon chen sỏi đá …
Thôi đành mặc ai !
Đông 1989

NGỌC PHƯƠNG NAM
Hoàng Kim

hứng mật đời
thành thơ
việc nghìn năm hữu lý
trạng Trình

đến Trúc Lâm
đạt năm việc lớn Hoàng Thành
đất trời xanh
Yên Tử …

(*) Hoàng Kim họa đối
THUYỀN ĐỘC MỘC
Trịnh Tuyên


Quên tên cây
làm thuyền
Tận cùng nỗi cô đơn
– độc mộc!

Khoét hết ruột
Chỉ để một lần ngược thác
bất chấp đời
lênh đênh…‘ (*)

YÊN TỬ TRẦN NHÂN TÔNG
Ngọc Phương Nam

Lên non thiêng Yên Tử
Trúc Lâm Trần Nhân Tông
Lời dặn của Thánh Trần
Thầy Tuệ Trung Thượng Sĩ

Hiểu ‘sách nhàn đọc giấu
Biết ‘câu có câu không
Nghê Việt am Ngọa Vân

Tảo Mai nhớ Nhân Tông

Ân tình đất phương Nam
Nhân Tông Đêm Yên Tử
Chuyện cổ tích người lớn
Hoa Đất thương lời hiền

Yên Tử Trần Nhân Tông,

cropped-dsc00927.jpg

A NA BÀ CHÚA NGỌC
Hoàng Kim

A Na Bà Chúa Ngọc tại tháp Po Nagar, Nha Trang, có văn bia do cụ Phan Thanh Giản soạn ngày 20 tháng 5 năm Tự Đức thứ 9 (1857) , bản dịch của Quách Tấn, ông bà Lê Vinh tạc năm 1970. Hình tượng Mẹ thật tuyệt vời này trong tín ngưỡng Đạo Mẫu Việt Nam với văn hóa Việt Chăm. Những công trình nghiên cứu lịch sử văn hóa gần đây của các tác giả Ngô Đức Thịnh 2009, Lê Đình Phụng 2015, Huỳnh Thiệu Phong 2016 và những người khác giúp soi thấu nhiều góc khuất để tích cũ viết lạị bài A na Bà Chúa Ngọc. Cám ơn các tác giả của những tài liệu đã trích dẫn (HK).

BÀ THIÊN Y A NAN
Lược sử


Xưa tại núi Đại An (Đại điển) có hai vợ chồng Ông tiều đến cất nhà và vỡ rẫy trồng dưa nơi triền núi. Dưa chín thường hay bị mất.

Một hôm ông rình, bắt gặp một thiếu nữ trạc chừng chín mười tuổi hái dưa rồi giỡn dưới trăng. Thấy cô gái dễ thương ông đem về nuôi. Hai ông bà vốn không con cái, nên đối với thiếu nữ thương yêu như con ruột.

Một hôm trời mưa lụt lớn, cảnh vật tiêu điều buồn bã thiếu nữ lấy đá chất ba hòn dã sơn và hái hoa lá cắm vào, rồi đứng ngắm làm vui. Cho rằng hành vi của con không hợp với khuê tắc, ông tiều nặng tiếng rầy la. Không ngờ đó là một tiên nữ giáng trần đang nhớ cảnh Bồng lai. Đã buồn thêm bực nhân thấy khúc kỳ nam theo nước nguồn trôi đến tiên nữ bèn biến thân vào khúc kỳ, để mặc cho sóng đưa đẩy. Khúc kỳ trôi ra biển cả rồi tấp vào đất Trung Hoa. Mùi hương bay ngào ngạt. Nhân dân địa phương lấy làm lạ rũ đến xem. Thấy gỗ tốt xứm nhau khiêng, nhưng người đông bao nhiêu cũng không giở nổi.

Thái tử Bắc Hải nghe tin đồn, tìm đến xem hư thực, thấy khúc gỗ không lớn lắm lẽ gì nặng đến nỗi giở không lên, Thái Tử bèn lấy tay nhấc thử. Chàng hết sức lạ lùng vì khúc gỗ nhẹ như tờ giấy, bèn đem về cung, trân trọng như một bảo vật.

Một đêm, dưới bóng trăng mờ. Thái Tử thấy có bóng người thấp thoáng nơi để khúc kỳ nam. Nhưng lại gần xem thì tứ bề vắng vẻ, bên mình chỉ phảng phất mùi hương thanh thanh từ khúc kỳ bay ra. Chàng quyết rình xem mấy đêm liền không hề thấy khác lạ. Chàng không nản chí. Rồi một hôm, đêm vừa quá nửa, bốn bề im phăng phắc, một giai nhân tuyệt sắc theo ngọn gió hương ngào ngạt từ trong khúc kỳ nam bước ra.

Thái Tử vụt chạy đến ôm choàng. Không biến kịp, giai nhân đành theo Thái Tử về cung và gho biết rõ lai lịch.

Giai nhân xưng là Thiên Y A Na.

Thái Tử vốn đã trưởng thành nhưng chưa có lứa đôi vì chưa chọn được người xứng ý. Nay thấy A Na xinh đẹp khác thường bèn tâu phụ hoàng xin cưới làm vợ. Nhà vua xin bói cát hung. Trúng quẻ “đại cát” liền cử lễ thành hôn.

Vợ chồng ăn ở với nhau rất tương đắc và sanh được hai con, một trai, một gái, trai tên Trí, gái tên Quý, dung mạo khôi ngô.

Thời gian qua trong êm ấm Nhưng một hôm lòng quê thúc giục Thiên Y bồng hai con nhập vào kỳ nam trở về làng cũ.

Núi Đại An còn đó nhưng vợ chồng ông tiều đã về cõi âm Thiên Y bèn xây đắp mồ mã cha mẹ nuôi và sửa sang nhà cửa để phụng tự. Thấy dân địa phương còn dã man, bà đem văn minh Trung Hoa ra giáo hóa, dạy cày cấy, dạy kéo vải, đệt sợi .. và đặt ra lễ nghi .. từ ấy ruộng nương mở rộng đời sống của nhân dân mỗi ngày mỗi thêm phúc túc phong lưu công khai phá của bà chẳng những ở trong địa phương và các vùng lân cận cũng được nhờ. Rồi một năm vào ngày lành tháng tốt, trời quang mây tạnh một con chim hạc từ trên mây bay xuống, bà cùng hai con lên lưng hạc bay về tiên.

Nhân dân địa phương nhớ ơn đức xây tháp tạc tượng vào năm 817 phụng thờ và mỗi năm vào ngày bà thăng thiên 23. 3 âm lịch tổ chức lễ múa bóng dâng hương hoa rất long trọng. Ở Bắc hải Thái Tử trông đợi lâu ngày không thấy vợ con trở về bèn sai một đạo binh dong thuyền sang Đại an tìm kiếm. Khi thuyền đã đến nơi thì bà đã trở về Bồng đảo. Người Bắc hải ỷ đông hà hiếp dân địa phương ngờ rằng dân địa phương nói dối bèn hành hung không giữ lễ xúc phạm thần tượng, nhân dân bèn thắp nhang khấn vái. Liền đó gió thổi đá bay đánh đắm thuyền của Thái Tử Bắc hải.

Nơi đây nổi lên một hòn đá lớn tục gọi là đá chữ.

Ngày 20 5 năm Tự Đức thứ 9 ‘1857’ PHAN THANH GIẢN
Thượng thư Lễ nghi thảo văn, theo bản dịch Quách Tấn

Văn bia viết về Thiên Y A Na tại tháp Po Nagar, Nha Trang do cụ  Phan Thanh Giản soạn ngày 20 tháng 5 năm Tự Đức thứ 9 (1857) – bản dịch của Quách Tấn – ông bà Lê Vinh tạc năm 1970 (Thiên Y A NA Wikipedia Tiếng Việt), văn bản đánh máy của Hoàng Kim sao y văn bản tại tháp Po Nagar, Nha Trang.

30 Hoàng Diệu, Võ Miếu Việt Nam
30 Hoàng Diệu, Võ Miếu Việt Nam

30 HOÀNG DIỆU VÕ MIẾU VIỆT NAM
Hoàng Kim

Hoàng Diệu là quan Tổng đốc của nhà Nguyễn sinh năm 1829, mất ngày 25 tháng 4 năm 1882 khi ông quyết tử bảo vệ thành Hà Nội chống lại Pháp tấn công. Trận đánh không cân sức, vì sự phòng thủ không được tăng cường, hỏa mai thô sơ không cản nổi đại bác, súng trường. Trong tình thế tuyệt vọng, Hoàng Diệu vẫn bình tĩnh dẫn đầu quân sĩ chiến đấu chống lại giặc Pháp. Đến lúc thành không thể giữ, ông lệnh cho tướng sĩ rút lui để tránh thương vong, và cắn ngón tay lấy máu viết di biểu gửi vua Tự Đức: “Thành mất không sao cứu được, thật hổ với nhân sĩ Bắc thành lúc sinh tiền. Thân chết có quản gì, nguyện xin theo Nguyễn Tri Phương xuống đất. Quân vương muôn dặm, huyết lệ đôi hàng“. Sau đó, ông ra trước Võ miếu dùng khăn bịt đầu thắt cổ tự tử, hưởng dương 54 tuổi.

Võ Nguyên Giáp là Đại tướng đầu tiên, Tổng tư lệnh của Quân đội Nhân dân Việt Nam, ông sinh ngày 25 tháng 8 năm 1911, mất ngày 4 tháng 10 năm 2013. Ông là một trong những người góp công thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, được chính phủ Việt Nam đánh giá là “người học trò xuất sắc và gần gũi của Chủ tịch Hồ Chí Minh”, là chỉ huy chính trong các chiến dịch và chiến thắng chính trong Chiến tranh Đông Dương (1946–1954) đánh bại Thực dân Pháp, Chiến tranh Việt Nam (1960– 1975) chống Mỹ, thống nhất đất nước và Chiến tranh biên giới Việt-Trung (1979)chống quân Trung Quốc tấn công biên giới phía Bắc. Ông được đánh giá là một trong những vị tướng kiệt xuất trong lịch sử Việt Nam và thế giới.

30 Hoàng Diệu là nơi ở của đại tướng Võ Nguyên Giáp, ngôi đền thiêng Võ miếu  của dân tộc Việt, nơi lưu dấu hình ảnh của bậc anh hùng “Nghệ thuật quân sự Việt Nam là dám đánh và biết  thắng”.”Chúng tôi trả lời là từ “lo sợ” không có trong tư duy quân sự của chúng tôi”. Võ Nguyên Giáp là  người đã cùng Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo quân dân Việt kháng chiến chống Pháp thành công, rửa sạch làu nỗi nhục mất nước của dân tộc Việt  trong Chiến tranh Pháp – Đại Nam (1858 -1884) kết thúc bằng thắng lợi của Đế quốc thực dân Pháp chiếm toàn bộ lãnh thổ Đại Nam và thiết lập bộ máy cai trị thời kỳ Pháp thuộc.  Chiến tranh Pháp – Đại Nam (1858-1884) 26 năm và Chiến tranh Đông Dương (1946 – 1954) 9 năm, nguyên nhân mất nước và giành lại được chủ quyền là bài học lớn. Nói theo Binh pháp Tôn Tử là  phải tìm hiểu và đánh giá thật kỹ thực lực và nội tình đôi bên về  ” thiên thời, địa lợi, nhân hòa, tướng soái, quân kỷ “. Nguyên nhân sự mất nước của triều vua Tự Đức nhà Nguyễn trong 26 năm đối trận chủ yếu thua là do “trang bị vũ khí  triều Nguyễn kém xa quân đội đế quốc Pháp”, “nền văn minh nông nghiệp Á Đông  quá lạc hậu so với nền văn minh khoa học phương Tây”, “tham vọng thực dân của đế quốc Pháp cướp chủ quyền, tài nguyên, nhân lực nước ta”; “sự lúng túng của vua quan nhà Nguyễn không tìm ra được cách đánh và kế sách biết thắng”.  Cụ Nguyễn Tri Phương, cụ Hoàng Diệu đều là người dám đánh nhưng chỉ đến thời cụ Hồ, tướng Giáp thì mới vừa “dám đánh và biết thắng”. Toàn dân đồng sức, trên dưới đồng lòng, tận dụng tốt  “thiên thời, địa lợi, nhân hòa, tướng soái, quân kỷ” mà thành công.

Đọc và suy ngẫm về Hoàng DiệuTướng Giáp nhân ngày mất bi tráng của Tổng đốc Hoàng Diệu ngày 25 tháng 4 năm 1882. Hoàng Diệu được đông đảo sĩ phu, nhân dân Hà Nội và Bắc Hà khâm phục thương tiếc. Ông được thờ trong đền Trung Liệt (cùng với Nguyễn Tri Phương) trên gò Đống Đa với câu đối: Thử thành quách, thử giang sơn, bách chiến phong trần dư xích địa. Vi nhật tinh, vi hà nhạc, thập niên tâm sự vọng thanh thiên Dịch: Kia thành quách, kia non sông, trăm trận phong trần còn thước đất/ Là trời sao, là sông núi, mười năm tâm sự với trời xanh. Vua Tự Đức mặc dầu không ủng hộ Hoàng Diệu trong việc chống đối với quân Pháp tại thành Hà Nội, vẫn phải hạ chiếu khen ông đã tận trung tử tiết, sai quân tỉnh Quảng Nam làm lễ quốc tang. Tôn Thất Thuyết, một đại biểu nổi tiếng của sĩ phu kiên quyết chống Pháp đã ca ngợi ông trong hai câu đối: Nhất tử thành danh, tự cổ anh hùng phi sở nguyện. Bình sanh trung nghĩa, đương niên đại cuộc khởi vô tâm. Dịch: Một chết đã thành danh, đâu phải anh hùng từng nguyện trước. Bình sanh trung nghĩa, đương trường đại cuộc tất lưu tâm. Cụ Phó bảng Nguyễn Trọng Tỉnh có bài thơ điếu Hoàng Diệu, ghi lại trong Lịch sử vua quan nhà Nguyễn của Phạm Khắc Hòe như sau: Tay đã cầm bút lại cầm binh. Muôn dặm giang sơn nặng một minh. Thờ chúa, chúa lo, lo với chúa. Giữ thành, thành mất, mất theo thành. Suối vàng ắt hẳn mài gươm bạc. Lòng đỏ thôi đành gửi sử xanh. Di biểu nay còn sôi chính khí. Khiến người thêm trọng bút khoa danh.

Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường viết: Tôi có đi thăm mộ cụ Hoàng Diệu ở giữa cánh đồng Xuân Đài. Mộ không bề thế như tôi tưởng, còn quá nhỏ so với lăng mộ của những viên quan lớn vô tích sự trên triều đình Huế mà tôi vẫn thường thấy. Mộ là một nắm vôi khô nằm vùi giữa đồng cỏ voi, xa khu dân cư…Hồi nhỏ nhà nghèo, mẹ chăn tằm dệt lụa nuôi con ăn học. Hoàng Diệu lớn lên bằng tuổi trẻ gian khổ ở làng quê, buổi sáng sớm đi học chỉ súc miệng và nhịn đói, trưa về ăn một chén bắp nấu đậu, đến tối cả nhà chia mỗi người một bát cơm. Ngày nghe tin chồng tuẫn tiết, bà Hoàng Diệu đang cuốc cỏ lá de, ngất xỉu ngay trên bờ ruộng…Làm quan Tổng đốc mà nhà còn nghèo đến thế, huống là nhà dân… Nhà văn Sơn Nam viết: “Đi thăm mộ Hoàng Diệu, (nghe) lúc làm quan, có lần ông gửi về cho mẹ một vóc lụa. Bà mẹ không nhận, gửi trả lại cho con, kèm theo một nhánh dâu, tượng trưng cho ngọn roi, để cảnh cáo đứa con đừng nhận quà cáp gì của dân.

Những người nặng lòng với nước đều biết rút tỉa bài học trong thịnh suy, thành bại để mưu cầu hạnh phúc cho dân.

Dám đánh và biết thắng là tinh hoa nghệ thuật quân sự Việt Nam.

Hoàng Kim

NGỌC PHƯƠNG NAM NGÀY MỚI
Hoàng Kim


Ai đến
nơi nao
xa
thăm thẳm
chia nửa
vầng trăng
khuyết lại tròn,
mưa
níu ngày dài
thêm nỗi nhớ
ngóng cửa
chờ nhau
ai
nhớ ai …

Cứ đợi
cứ chờ
thương
mòn mỏi
gìn vàng
giữ ngọc
nắng mai
nay,
Chút thôi
mưa sớm
trời
quang lại,
sương đọng
mi ai
lặng lẽ
hoài …

(Ngọc Phương Nam, hè 2013)

TỰ SỰ
Chunhac Nguyen


Người về
phương ấy
xa
lăm lắm
để lại
mình tôi
với mùa hè,
nắng
tuy chưa gắt
nhưng dai dẳng
của nỗi chờ trông
nắng
sắt se…

Chẳng biết
bao giờ
người
trở lại
bồi hồi
ngõ nhỏ
tĩnh lặng
xưa,
hiu hắt
nắng chiều
xiên
quán lá,
điệu nhạc
ai
sầu
da diết
đưa…

(Bình Dương . hè 2011)

KÊNH ÔNG KIÊT GIỮA LÒNG DÂN
Hoàng Kim

Giống sắn KM94, KM98-1, giống lúa gạo thơm ngon KĐM 135 ngon cơm sinh trưởng phát triển tốt trên vùng đất hoang hóa được tưới ở Tri Tôn, Tịnh Biên đã mang lại niềm vui cho người nghèo tại vùng đất này; chính nhờ kênh ông Kiệt mới bảo tồn và phát triển tốt được. Bảy Nhị kênh ông Kiệt và tôi là ký ức lắng đọng mãi trong lòng tôi

Thơ cho em giữa tháng năm này
Là lời người dân nói vể
kênh ông Kiệt
Là con kênh xanh mang dòng nước mát
Làm ngọt ruộng đồng Tứ giác Long Xuyên

Con kênh T5 thoát lũ xả phèn
Dẫn nước ngọt về vùng quê nghèo khó
Tri Tôn, Tịnh Biên trong mùa mưa lũ
Giữa hoang hóa, sình lầy, thấm hiểu lòng dân

Nguyễn Công Trứ xưa khẩn hoang đất dinh điền
Thoại Ngọc Hầu mở mang kênh Vĩnh Tế
Kênh ông Kiệt giữa lòng dân bền bỉ
Ân nghĩa cuộc đời lưu dấu nghìn năm

Em ơi khi nuôi dạy con
Hãy dạy những điều vì dân, vì nước
Người ta sinh ra cho đến khi nhắm mắt
Đọng lại trong nhau vẫn chỉ những CON NGƯỜI.

KenhVoVanKiet

Kênh ông Kiệt giữa lòng dân

 

Hệ thống thủy lợi nội đồng nối với “Kênh ông Kiệt” đã mang nguồn nước ngọt về ruộng

Giống lúa KĐM 135 ngon cơm sinh trưởng phát triển tốt trên vùng đất hoang hóa được tưới đã mang lại niềm vui cho người nghèo.

Các giống cây màu rau đậu trồng vụ khô sau khi thu hoạch lúa đã giúp nâng cao đời sống người dân.

Khoa học kỹ thuật bám dân bám ruộng âm thầm nhưng hiệu quả làm đổi thay vùng Tri Tôn Tịnh Biên.

Ông Nguyễn Minh Nhị (nguyên Chủ tịch tỉnh) cùng anh Ngô Vi Nghĩa với giống mì ngắn ngày trên ruộng tăng vụ.

“Kênh ông Kiệt” và vùng đất An Giang cũng là nôi nuôi dưỡng phát triển của các giống mì ngắn ngày KM98-1, KM140 đươc chọn tạo để đáp ứng nhu cầu né lũ nay đã phát triển rộng khắp toàn quốc (ảnh Thầy Lê Minh Tùng, Hiệu trưởng Trường Đại học An Giang, Phó Chủ tịch tỉnh An Giang với giống mì KM98-1)

Nghiên cứu tuyển chọn giống sắn năng suất tinh bột cao kháng được sâu bệnh hại chính (CMD, CWBD) phú hợp với điều kiện sản xuất tại tỉnh Phú Yên và vùng phụ cận được thực hiện ngày nay là sự bảo tồn và phát triển chuỗi kinh nghiệm quý Cách mạng sắn Việt Nam.

 - 1

Thủ tướng Võ Văn Kiệt cho các cháu uống vacxin phòng bệnh ở Đà Nẵng. (Ảnh: Minh Đạo)

MỘT NÉN HƯƠNG THÀNH KÍNH
Việt Phương

Bài viết này của cố nhà thơ Việt Phương lúc ông 85 tuổi nhớ về cố Thủ tướng Võ Vă Kiệt

Tôi không phải là người được biết đồng chí Võ Văn Kiệt – Sáu Dân từ sớm, cũng không phải người được giúp việc anh Sáu Dân lâu năm.

Khi tôi bắt đầu là một chuyên gia tư vấn của Thủ tướng Võ Văn Kiệt, tôi 65 tuổi và anh Sáu Dân 71 tuổi. Chỉ sau một thời gian ngắn, tôi thấy cái tên Sáu Dân thật hợp với tính cách của anh. Tôi trân trọng người lãnh đạo và yêu quý CON NGƯỜI anh.

Sáu Dân từ sớm có ý thức về dân tộc, về đất nước, từ năm 17 tuổi. Ý thức ấy ngày càng sâu sắc, trở thành tâm niệm góp phần giải phóng dân tộc, làm giàu đẹp nước Việt Nam, người Việt Nam, toàn dân tộc và từng người dân.

Sáu Dân là con người biết người, biết mình, phục thiện, theo lẽ phải, có lỗi thì nhận lỗi và sửa chữa, thẳng thắn, chân thành, từ khi là con nhà nghèo ở đợ, không được vào trường học đến khi là Thủ tướng Chính phủ. Anh biết mình có năng khiếu, sở trường ở những điểm nào, có khiếm khuyết, hẫng hụt ở những điểm nào, biết mình có một sứ mệnh và biết mình không toàn bích.

Sáu Dân có đức tính lắng nghe và biết chọn, có đòi hỏi tự thân được chia sẻ, trao gửi việc làm và tâm tình với đồng bào, đồng chí, có khả năng cảm thông với mọi tầng lớp, mọi con người.

Trong đời mình, càng về sau càng nổi bật, Sáu Dân coi trọng báo chí, đỡ đầu, hướng dẫn, khi cần thì bênh vực, che chắn cho những tờ báo, những nhà báo chân chính, dũng cảm, sáng tạo, và bản thân Sáu Dân là một nhà báo viết nhiều, viết cẩn trọng, đầy trách nhiệm, không chỉ viết bằng mực mà viết bằng máu, bằng tâm huyết của mình.

Sáu Dân có một chất người, một nhân cách phong phú, nhiều chiều cạnh, yêu sống, biết sống và dám sống, nhưng thiếu điều kiện, cả điều kiện bên ngoài và điều kiện bản thân, để phát huy mình đích đáng hơn nữa.

Nhược điểm của Sáu Dân là tuy hiểu biết và từng trải sâu rộng, nhưng còn thiếu một trình độ triết học và chính trị, thiếu một nền tảng văn hóa nghĩa rộng ở tầm cần có của người đứng đầu Chính phủ và nền hành pháp Việt Nam trong thời đại ngày nay.

Khuyết điểm của Sáu Dân là tuy sáng suốt trong đánh giá con người, mà lại cả tin nhiều khi đến ngây thơ, biết bảo vệ, gìn giữ cho bạn hữu, mà chưa biết bảo vệ, giữ gìn đủ mức cho mình.

Đối với tôi, Sáu Dân là một người anh lớn, một người bạn thân, mà bài học và kỷ niệm sống thấm thía trong tôi qua từng đoạn đường đời, qua mọi vui buồn của cuộc sống.

Nếu chỉ nói một câu về Sáu Dân, thì tôi xin nói rằng: Cầu mong và tin tưởng dân tộc ta có những con người, có những người cầm quyền có đức, có tài, tốt và đẹp như Sáu Dân.

MƯỜI THÓI QUEN MỖI NGÀY
Hoàng Kim

1. Vui khỏe phúc hậu, an nhàn vô sự là tiên
2. Biết dưỡng sinh, sống quen thanh đạm nhẹ mình
3. Hưởng ánh nắng, khí trời và sương mai mỗi sáng
4.
Dạy và họctình yêu cuộc sốngXem tiếp >>

  Dạy và học 16 tháng 12(16-12-2021)

DẠY VÀ HỌC 16 THÁNG 12
Hoàng Kim
CNM365 Tình yêu cuộc sốngLên Trúc Lâm Yên Tử; Trúc Lâm Trần Nhân Tông; Tìm về đức Nhân Tông; Sự chậm rãi minh triết; Chọn giống sắn Việt Nam; Đi bộ trong đêm thiêng; Linh Giang sông quê hương; Linh Giang Đình Minh Lệ; Thăm nhà cũ của Darwin; Đất Mẹ vùng di sản; Đi thuyền trên Trường Giang; Chiếu đất ở Thái An; Lên đỉnh Thiên Môn Sơn; Lên Thái Sơn hướng Phật; Qua Trường Giang nhớ Mekong; Ngày 16 tháng 12 năm 1308 vào lúc nửa đêm nhằm ngày 3 tháng 11 âm lịch năm Mậu Thân giờ Tý canh ba là ngày mất của Trần Nhân Tông vị hoàng đế thứ ba của nhà Trần. Trần Nhân Tông là minh quân nổi tiếng anh minh trong lịch sử Việt Nam. Ông sinh năm 1258 trị vì 15 năm (1278 – 1293) và làm Thái thượng hoàng 15 năm  Với 50 năm cuộc đời, Trần Nhân Tông đã kịp làm được ít nhất năm việc lớn hiếm thấy và khó ai bì kịp ở mọi dân tộc và mọi thời đại:: 1) Minh quân lỗi lạc, làm vua 15 năm (1278 – 1293) trực tiếp lãnh đạo cuộc kháng chiến hai lần đánh thắng quân Nguyên Mông là đội quân xâm lược hùng mạnh nhất thời đó; 2) Tổ sư thiền phái Trúc Lâm và Thái Thượng Hoàng 15 năm (1294- 1306), là vua Phật Việt Nam. 3) Nhà văn hóa và nhà thơ kiệt xuất với  thắng tích Trúc Lâm Yên Tử và kiệt tác Trần Nhân Tông; 4) Người thầy chiến lược của sự nghiệp mở nước và thống nhất non sông Việt “vua tôi đồng lòng, toàn dân đồng sức”, mở đất phương Nam bằng vương đạo, thuận thời, thuận người . 5) Nhà trị loạn kỳ tài đã hưng thịnh nhà Trần và cứu nguy cho nước Việt ở thời khắc quyết định, biến nguy thành an, biến những điều không thể thành có thể.Thời đại Trần Nhân Tông, quân đội Đại Việt dưới sự chỉ huy trực tiếp của Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn đã đánh tan tác quân đội hùng mạnh của Nhà Nguyên, bảo vệ bờ cõi Đại Việt trước vó ngựa nổi tiếng vô địch của người Mông Cổ. Ngay sau khi dẹp yên quân giặc, ông cho giảm thuế, phát lương chẩn, tích cực khôi phục các công trình đã bị quân Nguyên hủy hoại, mau chóng sau đó quốc gia hồi phục, Đại Việt dần lấy lại sự hưng thịnh và phát triển cực thịnh thêm nữa. Năm 1293, Nhân Tông thoái vị, nhường ngôi cho Thái tử Trần Thuyên kế vị, tức Trần Anh Tông hoàng đế, ông lui về làm Thái thượng hoàng, chuyên tâm vào nghiên cứu Phật giáo. Ông là người đã thành lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử nổi tiếng. Sau khi nhường ngôi, ông thường hay lấy pháp hiệu là Đầu đà Giác Hoàng Điều ngự. Trần Nhân Tông không chỉ là một vị vua tài năng mà còn là một nhà thơ thiền kiệt xuất  của triều đại nhà Trần. Thơ ông có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa cảm quan triết học và cảm quan thế sự, có tinh thần lạc quan, yêu đời, tấm lòng vị tha của một nhân cách lớn với sự rung động tinh tế, lòng yêu tự do của một minh triết với lối viết giản dị, trí tuệ uyên bác từ bi lịch lãm. Trần Nhân Tông đã có các tác phẩm Trần Nhân Tông thi tập, Đại hương hải ấn thi tập,Thạch thất mỵ ngữ, Tăng già toái sự và bộ Trung hưng thực lục do ông sai văn thần biên soạn. Di sản hiện bảo tồn 31 bài thơ, hai cặp câu thơ lẻ, một bài minh và một bài tán. sách Thiền tông bản hạnh còn có hai bài văn Nôm biền ngẫu mà đức Nhân Tông là tác giả; Ngày 16 tháng 12 năm 2009, bộ phim Avatar được phát hành trên phạm vi quốc tế, sau đó trở thành phim có doanh thu cao nhất mọi thời đại. Ngày 16 tháng 12 năm 2010 là ngày mất Trần Văn Giàu (6 tháng 9, 1911 – 16 tháng 12, 2010) là nhà hoạt động cách mạng, nhà giáo, nhà khoa học nghiên cứu lịch sử triết học nổi tiếng Việt Nam; Bài chọn lọc ngày 16 tháng 12:Lên Trúc Lâm Yên Tử; Trúc Lâm Trần Nhân Tông; Tìm về đức Nhân Tông; Sự chậm rãi minh triết; Chọn giống sắn Việt Nam; Đi bộ trong đêm thiêng; Linh Giang sông quê hương; Linh Giang Đình Minh Lệ; Thăm nhà cũ của Darwin;Đất Mẹ vùng di sản; Đi thuyền trên Trường Giang; Chiếu đất ở Thái An; Lên đỉnh Thiên Môn Sơn; Lên Thái Sơn hướng Phật; Qua Trường Giang nhớ Mekong; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-16-thang-12

LÊN TRÚC LÂM YÊN TỬ
Hoàng Kim 

Tỉnh thức giữa đêm thiêng Yên Tử
Để thấu hiểu đức Nhân Tông
Ta thành tâm đi bộ
Lên tận đỉnh chùa đồng
Tâm sáng Ức Trai trong tựa ngọc

“Yên sơn sơn thượng tối cao phong
Tài ngũ canh sơ nhật chính hồng
Vũ trụ nhãn cùng thương hải ngoại
Tiếu đàm nhân tại bích vân trung
Ủng môn ngọc sóc sâm thiên mẫu
Quải ngọc châu lưu lạc bán không
Nhân miếu đương niên di tích tại
Bạch hào quang lý đổ trùng đồng” (1)
 

Non thiêng Yên Tử đỉnh kỳ phong
Trời mới ban mai đã rạng hồng
Vũ trụ mắt soi ngoài biển cả
Nói cười lồng lộng giữa không trung
Giáo trúc quanh chùa giăng nghìn mẫu
Cỏ cây chen đá rũ tầng không
Nhân Tông bảo tháp còn lưu dấu
Mắt sáng hào quang tỏa ánh đồng (2)  

Lên non thiêng Yên Tử
Nghìn năm Thăng Long, Đông Đô, Hà Nôi
Bảy trăm năm đức Nhân Tông
Non sông bao cảnh đổi
Kế sách một chữ Đồng
Lồng lộng gương trời buổi sớm
Trong ngần, thăm thẳm, mênh mông ….  

1) Thơ Nguyễn Trãi
2) Bản dịch thơ Nguyễn Trãi của Hoàng Kim

TRÚC LÂM TRẦN NHÂN TÔNG
Hoàng Kim

Trần Nhân Tông (1258-1308)  là một trong những vị vua anh minh nhất của lịch sử Việt Nam. Người tên thật là Trần Khâm, vua Trần thứ ba (sau vua cha Trần Thánh Tông và trước vua Trần Anh Tông). Với 50 năm cuộc đời, vua Phật Trần Nhân Tông đã kịp làm được ít nhất năm việc lớn hiếm thấy và khó ai bì kịp ở mọi dân tộc và mọi thời đại: 1) Minh quân lỗi lạc, làm vua 15 năm (1278 – 1293) trực tiếp lãnh đạo cuộc kháng chiến hai lần đánh thắng quân Nguyên Mông là đội quân xâm lược hùng mạnh nhất thời đó; 2) Tổ sư thiền phái Trúc Lâm và Thái Thượng Hoàng 15 năm (1294-1306) là vua Phật Việt Nam. 3) Nhà văn hóa và nhà thơ kiệt xuất với kiệt tác thơ Thiền Trần Nhân Tông và thắng tích Trúc Lâm Yên Tử; 4) Người thầy chiến lược vĩ đại muôn đời của kế sách một chữ “đồng” “vua tôi đồng lòng, toàn dân đồng sức”, nhược thắng cường, yếu thắng mạnh, nước nhỏ thắng nước lớn, sự nghiệp mở nước và thống nhất non sông Việt bằng vương đạo, thuận thời, thuận người . 5) Nhà trị loạn kỳ tài đã hưng thịnh nhà Trần và cứu nguy cho nước Việt ở thời khắc quyết định, biến nguy thành an, biến những điều không thể thành có thể.

Kiệt tác thơ thiền đức Nhân Tông là đỉnh cao thơ Thiền thời Trần:

Cư trần lạc đạo phú
Đại Lãm Thần Quang tự
Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca
Đăng Bảo Đài sơn
Đề Cổ Châu hương thôn tự
Đề Phổ Minh tự thủy tạ
Động Thiên hồ thượng
Họa Kiều Nguyên Lãng vận
Hữu cú vô cú
Khuê oán
Lạng Châu vãn cảnh
Mai
Nguyệt
Nhị nguyệt thập nhất nhật dạ
Quỹ Trương Hiển Khanh xuân bính
Sơn phòng mạn hứng
I
II
Sư đệ vấn đáp
Tán Tuệ Trung thượng sĩ
Tảo mai
I
II
Tặng Bắc sứ Lý Tư Diễn
Tây chinh đạo trung (tái chinh Ai Lao)
Thiên Trường phủ
Thiên Trường vãn vọng
Tống Bắc sứ Lý Trọng Tân, Tiêu Phương Nhai
Tống Bắc sứ Ma Hợp, Kiều Nguyên Lãng
Trúc nô minh
Tức sự
I
II
Vũ Lâm thu vãn
Xuân cảnh
Xuân hiểu
Xuân nhật yết Chiêu Lăng
Xuân vãn

Lên non thiêng Yên Tử, khảo sát điền dã những chứng tích lịch sử văn hóa lưu dấu mãi với thời gian. “Soi sáng lại chính mình là phận sự gốc, chẳng từ nơi khác mà được.” (Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc.). Đức Nhân Tông viết về sự đạt ngộ với người thầy là Tuệ Trung Thượng Sĩ . “Nghe xong, tôi thông suốt được đường vào, bèn vén áo thờ Ngài làm thầy”. “Soi sáng lại chính mình” chứ không tìm kho báu ở đâu khác là trí tuệ siêu việt của vua Phật Trúc Lâm Yên Tử Trần Nhân Tông.

Kinh Dịch xem chơi, yêu tính sáng yêu hơn châu báu.
Sách Nhàn đọc giấu, trọng lòng rồi trọng nữa hoàng kim…

Trần Nhân Tông

TÌM VỀ ĐỨC NHÂN TÔNG
Hoàng Kim


Người ơi con đến đây tìm
Non thiêng Yên Tử như tranh họa đồ
Núi cao trùng điệp nhấp nhô
Trời xuân bảng lãng chuông chùa Hoa Yên

Thầy còn dạo bước cõi tiên
Con ươm mầm sống xanh thêm ruộng vườn
Mang cây lộc trúc về Nam
Ken dày phên giậu ở miền xa xôi

Cư trần lạc đạo, Người ơi
Tùy duyên vui đạo sống đời thung dung
Hành trang Thượng sĩ Tuệ Trung
Kỳ Lân thiền viện cành vươn ra ngoài

An Kỳ Sinh trấn giữa trời
Thơ Thiền lưu dấu muôn đời nước non …

SỰ CHẬM RÃI MINH TRIẾT
Hoàng Kim

SỰ CHẬM RÃI MINH TRIẾT
Hoàng Kim


Đi bộ trong đêm thiêng
Sự chậm rãi minh triết
Tỉnh thức cùng tháng năm
Việt Nam con đường xanh

Cây Lương thực Việt Nam
Ngày mới Ngọc cho đời
Tháng mười hai thong thả
Vui đi dưới mặt trời

Chậm rãi học cô đọng
Giản dị văn là người
Lời ngắn mà gợi nhiều
Nói ít nhưng ngân vang .

Vườn xưa lại gió sương
Lặng ngắm nhìn đường xuân

xem tiếp
https://hoangkimlong.wordpress.com/category/su-cham-rai-minh-triet/

TỈNH THỨC
Hoàng Kim

thiên hà trong vắt khuya
chuyển mùa
tự nhiên tỉnh
ta ngắm trời ngắm biển
chòm sao em
vầng sáng anh
dưới vòm trời lấp lánh
khoảnh khắc thời gian
thăm thẳm
một tầm nhìn.

ĐI BỘ TRONG ĐÊM THIÊNG
Hoàng Kim

Lên non thiêng Yên Tử
Đêm trắng và bình minh
Khi nhớ miền đất thiêng
Lại thương vùng trời thẳm

Đi đường thấu non cao
Tầm nhìn ôm biển rộng
Thương Nhân Tông Bảo Sái
Đỉnh mây vờn Trúc Lâm

Dạo chơi non nước Việt
Non xanh bên bạn hiền
Thung dung cùng cây cỏ
Xuống núi thăm người quen.

*

Nguyễn Hiến Lê sao sáng
Đi bộ trong đêm thiêng
Sự chậm rãi minh triết
Noi dấu chân người hiền
Nền giáo dục phục vụ

;

;

Chùa Hoa Yên

Con ươm mầm sống xanh thêm ruộng vườn

Mang cây lộc trúc về Nam
Kỳ Lân thiền viện

An Kỳ Sinh nối chùa Đồng
Khoai Hoàng Long nơi Yên Tử

Nguồn: http://thungdung.wordpress.com/yentu/
Lên non thiêng Yên Tử

Bài viết mới trên CNM365 Tình yêu cuộc sống
DẠY VÀ HỌC
https://hoangkimvn.wordpress.com
CNM365, ngày mới nhất bấm vào đây   cập nhật mỗi ngày

Video yêu thích
Quà tặng cuộc sống
KimYouTube

Trở về trang chính
Hoàng Kim Long, Ngọc Phương Nam, Thung dung, Dạy và Học, Việt Nam Học, Cây Lương thực Việt Nam, CNM365Tình yêu Cuộc sống, Kim on LinkedIn, Kim on Facebook, Kim on Twitter

Xem tiếp >>

  Dạy và học 15 tháng 12(16-12-2021)


DẠY VÀ HỌC 15 THÁNG 12
Hoàng Kim
CNM365 Tình yêu cuộc sốngSự chậm rãi minh triết; Linh Giang sông quê hương; Linh Giang Đình Minh Lệ; Thăm nhà cũ của Darwin; Đi bộ trong đêm thiêng; Đất Mẹ vùng di sảnĐi thuyền trên Trường Giang; Chiếu đất ở Thái An; Lên đỉnh Thiên Môn Sơn; Lên Thái Sơn hướng Phật; Qua Trường Giang nhớ Mekong; Chọn giống sắn Việt Nam; Ngày 15 tháng 12 năm 1939, bộ phim “Cuốn theo chiều gió” lần đầu tiên được công chiếu tại nhà hát Loew’s Grand ở Atlanta, Georgia, Mỹ. Cuốn theo chiều gió” (Gone With the Wind) là bộ phim Mỹ thuộc thể loại phim chính kịch lãng mạn sử thi phỏng theo kiệt tác tiểu thuyết cùng tên của Margaret Mitchell, xuất bản năm 1936. Phim được sản xuất bởi David O.Selznick, đạo diễn Victor Fleming và kịch bản gốc Sidney Howard. Bộ phim được quay ở miền Nam nước Mỹ trong thời gian xảy ra nội chiến. Các diễn viên chính bao gồm Clark Gable, Vivien Leigh, Leslie Howard, Olivia de Havilland và Hattie McDaniel. Nội dung của phim xoay quanh cuộc nội chiến Mỹ và thời kì tái thiết nhìn từ quan điểm của một người Mỹ da trắng ở miền Nam. Ra mắt năm 1939, Gone With the Wind đã chứng tỏ sức sống mãnh liệt, lâu bền trong lòng khán giả khi dẫn đầu danh sách 100 bộ phim thành công nhất mọi thời đại về doanh thu tại Mỹ. Đây là kết quả từ cuộc thăm dò của nhật báo điện ảnh Screen Digest. Bộ phim đoạt 9 giải Oscar và vừa được bình chọn là bộ phim có nhiều khán giả nhất mọi thời đại trong lịch sử chiếu bóng Anh Quốc. Kể từ khi được phát hành năm 1939, phim “Cuốn theo chiều gió” đã mang lại 3.4 tỷ đô la (đứng sau phim Titanic đạt 4 tỷ đô la doanh thu phòng vé, tính đến thời điểm này). Với độ dài ba giờ bốn mươi phút và bốn phút nghỉ giữa các phần, “Cuốn theo chiều gió” là bộ phim Mỹ có lồng tiếng dài nhất từng được thực hiện cho tới nay. Ngày 15 tháng 12 năm 1966 là ngày mất của Walt Disney, họa sĩ phim hoạt hình, đạo diễn, nhà kịch bản, nhà sản xuất người Mỹ.  Walter Elias Disney sinh ngày 5 tháng 12 năm 1901 mất ngày 15 tháng 12 năm 1966 . Ông lớn lên tại trang trại ở Macerline, Missouri. Ngay từ nhỏ, Disney đã có thiên hướng kinh doanh vượt trội với việc bán những bức phác họa cho bạn bè cùng lớp tiểu học. Walt Disney nhận ra rằng những nét vẽ nguệch ngoạc ấy lại là ý tưởng kinh doanh tuyệt vời sau việc đổi những bức tranh biếm họa ấy với những lần cắt tóc miễn phí. Disney quan tâm sâu sắc tới hội họa và điện ảnh thời trung học đã tham gia lớp học buổi tối tại Trường Nghệ thuật Chicago. Disney dấn thân vào con đường họa sĩ hoạt hình ở Kansas. Năm 1920, khi đang làm việc tại xưởng quảng cáo phim Kansas City Film Ads, Disney nghĩ ra những nhân vật hoạt hình đầu tiên và năm 1922 lập công ty đầu đời Lau-O-grams. Chẳng bao lâu sau công ty gặp khó khăn, Disney quyết định rời Thành phố Kansas đến Hollywood lập nghiệp chỉ với tinh thần hăng hái của tuổi trẻ, bộ đồ vẽ và những ý tưởng hoạt hình trong đầu. Lúc đi ông nói:”Tôi sẽ làm đạo diễn phim Hollywood! “. Song ước mơ của Disney không trở thành hiện thực vì tìm chỗ đứng trong làng điện ảnh này không hề dễ dàng. Thế rồi một gara để xe của bác Robert cùng với người anh trai là Ron, Walt Disney thành lập xưởng phim “Disney Brothers Studios” với việc vay Ron 200 USD, người chú 500 USD và nhờ bố mẹ thế chấp ngôi nhà để có 2.500 USD nữa. Sau một thời gian dài, Disney thuê trụ sở ở Hollywood và bán được loạt phim hoạt hình đầu tiên dựa trên nhân vật cổ tích là Alice, loạt phim Alice Comedies. Ngày nay, tên tuổi ông Walt Disney là thương hiệu của cả một tập đoàn toàn cầu về phim ảnh và các khu vui chơi giải trí. Công chúng, đặc biệt là các em nhỏ rất thích những con vật nhỏ bé nhưng lanh lợi. Walt Disney nghĩ rằng ông đã mắc nợ Charlie Chaplin một ý tưởng. Ông sáng tạo ra chú chuột nhắt bé xíu Mickey khi nghĩ tới lòng khát khao như Chaplin, một anh chàng nhỏ bé ‘ đã cố gắng làm điều mà anh ta có thể làm một cách tốt nhất”. Bí quyết khiến Chuột Mickey nổi tiếng là như thế là do chú ta “rất người”. Năm 1928, Chuột Mickey ra đời và nhanh chóng trở thành nhân vật yêu thích của không chỉ mọi gia đình Mỹ, mà còn cho trẻ em khắp toàn cầu, tượng trưng cho tinh thần vui vẻ ngay cả khi trong tình huống ngặt nghèo. Ngày 15 tháng 12 năm 1926 là ngày sinh Chính Hữu, nhà thơ, sĩ quan quân đội người Việt Nam Chính Hữu (15 tháng 12 năm 1926 – 27 tháng 11 năm 2007), tên thật là Trần Đình Đắc, là một nhà thơ Việt Nam, nguyên Đại tá, Phó cục trưởng cục Tuyên huấn thuộc Tổng cục chính trị, Quân đội Nhân dân Việt Nam, nguyên Phó tổng thư ký Hội Nhà văn Việt Nam. Ông được Nhà nước Việt Nam trao tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học và nghệ thuật đợt hai (năm 2000). Chính Hữu sinh tại Vinh (Nghệ An), nguyên quán tại huyện Can Lộc (nay là huyện Lộc Hà), tỉnh Hà Tĩnh. Ông học tú tài (triết học) ở Hà Nội trước cách mạng tháng Tám và gia nhập Trung đoàn Thủ Đô năm 1946, sau đó hoạt động liên tục trong quân đội suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp và kháng chiến chống Mỹ.  Chính Hữu làm thơ từ năm 1947 và hầu như chỉ viết về người lính và chiến tranh. Thơ Chính Hữu không nhiều, các tác phẩm chính của ông gồm có Đầu súng trăng treo (tập thơ, Nhà xuất bản Văn học, 1966); Thơ Chính Hữu (tập thơ, Nhà xuất bản Hội nhà văn, 1997); Tuyển tập Chính Hữu (Nhà xuất bản Văn học, 1998); Trong đó, tập thơ Đầu súng trăng treo (1966) là tác phẩm chính. Thơ Chính Hữu có nhiều bài đặc sắc, cảm xúc dồn nén, ngôn ngữ và hình ảnh chọn lọc, hàm súc. Bài thơ “Đồng chí” được in vào tháng 2 năm 1948 rất nổi tiếng, sau này đã được phổ nhạc cho bài hát “Tình đồng chí”đã khơi dậy những xúc động mãnh mẽ trong lòng nhiều thế hệ. Ngoài bài thơ Đồng chí được nhạc sỹ Minh Quốc phổ nhạc, một số bài thơ khác của ông cũng là nguồn cảm hứng cho các nhạc sỹ khác sáng tác các bài hát nổi tiếng như bài “Ngọn đèn đứng gác” (nhạc sỹ Hoàng Hiệp), “Bắc cầu” (nhạc sỹ Quốc Anh), “Có những ngày vui sao” (nhạc sỹ Huy Du). Ông mất ngày 27 tháng 11 năm 2007 tại Bệnh viện Hữu Nghị – Hà Nội. Một số trích đoạn nhiều người ưa thích: Nhớ đêm ra đi, đất trời bốc lửa /Cả kinh thành nghi ngút cháy sau lưng / Những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng /Hồn mười phương phất phơ cờ đỏ thắm/ Rách tả tơi rồi đôi giày vạn dặm/ Bụi trường chinh phai bạc áo hào hoa… (Ngày về); Áo anh rách vai / Quần tôi có vài mảnh vá / Miệng cười buốt giá/ Chân không giày/ Thương nhau tay nắm lấy bàn tay… (Đồng chí).; Bài chọn lọc ngày 15 tháng 12:m rãi minh triết; Linh Giang sông quê hương; Linh Giang Đình Minh Lệ; Thăm nhà cũ của Darwin; Đi bộ trong đêm thiêng; Đất Mẹ vùng di sản; Đi thuyền trên Trường Giang; Chiếu đất ở Thái An; Lên đỉnh Thiên Môn Sơn; Lên Thái Sơn hướng Phật; Qua Trường Giang nhớ Mekong; Chọn giống sắn Việt Nam; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/ http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-15-thang-12/;

SỰ CHẬM RÃI MINH TRIẾT
Hoàng Kim


Đi bộ trong đêm thiêng
Sự chậm rãi minh triết
Tỉnh thức cùng tháng năm
Việt Nam con đường xanh

Cây Lương thực Việt Nam
Ngày mới Ngọc cho đời
Tháng mười hai thong thả
Vui đi dưới mặt trời

Chậm rãi học cô đọng
Giản dị văn là người
Lời ngắn mà gợi nhiều
Nói ít nhưng ngân vang .

Vườn xưa lại gió sương
Lặng ngắm nhìn đường xuân

xem tiếp
http://hoangkimlong.wordpress.com/category/su-cham-rai-minh-triet/

TỈNH THỨC
Hoàng Kim

thiên hà trong vắt khuya
chuyển mùa
tự nhiên tỉnh
ta ngắm trời ngắm biển
chòm sao em
vầng sáng anh
dưới vòm trời lấp lánh
khoảnh khắc thời gian
thăm thẳm
một tầm nhìn.

VIỆT NAM CON ĐƯỜNG XANH
Vietnam Green Road
Hoàng
Kim

Dạy học nghề làm vườn
Suy tư sông Dương Tử
Trung Quốc một suy ngẫm
Việt Nam con đường xanh


https://hoangkimlong.wordpress.com/category/viet-nam-con-duong-xanh/

CÂY LƯƠNG THỰC VIỆT NAM
Hoàng Kim, Hoàng Long (chủ biên) và đồng sự
http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlong

Bài viết mới (đọc thêm, ngoài giáo trình, bài giảng)

CÂY LƯƠNG THỰC VIỆT NAM

Cây Lương thực Việt Nam#CLTVN chủ yếu có lúa ngô, sắn, khoai. Ẩm thực Việt, nguồn thức ăn đồ uống Việt (Food & Drink) bao gồm gạo ngô, sắn, khoai, cây đậu đỗ thực phẩm, rau hoa quả, thịt, cá, … Dạy và học cây lương thực ngày nay ngày càng đòi hỏi sự hiểu biết chuyên sâu và có sự kết nối liên ngành, nâng cao sự liên kết hiệu quả sản xuất chế biến cung ứng tiêu thụ sản phẩm thành chuỗi giá trị ngành hàng. Mục tiêu nhằm.nâng cao giá trị chất lượng cuộc sống của người dân, tỏa sáng Việt Nam đất nước con người ra Thế giới về giống cây lương thực Việt, thương hiệu Việt, hiệu sách Việt, sinh thái nông nghiệp, ẩm thực, ngôn ngữ, lịch sử văn hóa Việt Nam.

Một số sản phẩm Cây Lương thực Việt Nam thương hiệu Nông Lâm được nghiên cứu phát triển, trồng phổ biến trong sản xuất những năm qua, là lời biết ơn chân thành của các tác giả với Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh nhân kỷ niệm 65 năm ngày thành lập (19/11/1955-19/11/2020), Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Việt Nam đường tới IAS 100 năm (1925-2025) với thầy bạn và đông đảo nông dân. Bài viết này giới thiệu một số đúc kết tư liệu liên quan.dạy và học Cây Lương thực Việt Nam giúp bạn đọc tiện theo dõi. Cây Lương thực Việt Nam#CLTVN

#CLTVN

CHUYỂN ĐỔI SỐ NÔNG NGHIỆP
Tin nổi bật quan tâmBảo tồn và phát triển sắnGiống sắn chủ lực KM419https://www.facebook.com/TrucMa…/posts/5134183749930863…

Trúc Mai cùng với Van Quyen Mai29 người khác. 2 giờ  Thông tin ngày 18/11/2021: “Với mong muốn góp phần phát triển cây sắn bền vững, bảo vệ kết quả sản xuất người trồng sắn, hiện nay Trúc Mai đang thực hiện chuyển giao số lượng lớn giống sắn KM419 (còn gọi là Siêu bột, Cút lùn, Tai đỏ) và KM94 và hỗ trợ kỹ thuật MIỄN PHÍ. Quy cách giống: 20 cây/bó; độ dài tối thiểu 1,2m/cây, cây giống khỏe, HOÀN TOÀN SẠCH BỆNH (có thể giữ lá cây giống để kiểm tra bệnh khảm + các loại sâu bệnh khác).Địa điểm nhận giống: huyện Đồng Xuân, Phú Yên.Liên hệ Ts sắn TRÚC MAI: 0979872618. Đừng ngại thời tiết và giới tính 😊❤.Giống sắn KM419 cây thấp gọn, dễ trồng dày, thân xanh thẳng, nhặt mắt, không phân cành, lá già xanh đậm, đọt non màu xanh, cọng xanh tím, số củ 8-12, củ to và đồng đều, dạng củ đẹp, thịt củ màu trắng, chịu hạn tốt.” Thông tin tích hợp tại #CLTVN xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/cltvn/

HK20

#CLTVN

 

HOÀNG LONG DẠY VÀ HỌC
Cây Lương thực Việt Nam
E-Learning VNUHCM
https://elearning-vnuhcm.vn/course/view.php?id=63;
E_Learning NLU
Trường tôi nôi yêu thươnghttps://youtu.be/bsZo5e779EA
https://el.hcmuaf.edu.vn/mod/page/view.php?id=4250&forceview=1https://hoangkimvn.wordpress.com/2021/10/9/hoang-long-day-va-hoc/ https://hoangkimlong.wordpress.com/category/cay-luong-thuc-viet-nam/

Bảo tồn và phát triển sắn
Cách mạng sắn Việt Nam
Chọn giống sắn Việt Nam
Chọn giống sắn kháng CMD
Bạch Mai sắn Tây Nguyên
Giống sắn KM419 và KM440
Mười kỹ thuật thâm canh sắn
Sắn Việt bảo tồn phát triển
Sắn Việt Nam ngày nay
Vietnamese cassava today
Sắn Việt Lúa Siêu Xanh
Sắn Việt Nam bài học quý
Sắn Việt Nam sách chọn
Sắn Việt Nam và Howeler
Sắn Việt Nam và Kawano
Sắn Việt và Sắn Thái
Quản lý bền vững sắn châu Á
Cassava and Vietnam: Now and Then

Lúa siêu xanh Việt Nam
Giống lúa siêu xanh GSR65
Giống lúa siêu xanh GSR90
Gạo Việt và thương hiệu
Hồ Quang Cua gạo ST
Cơm Niêu Vàng Gạo Đông A
Con đường lúa gạo Việt
Chuyện cô Trâm lúa lai
Chuyện thầy Hoan lúa lai
Lúa C4 và lúa cao cây
Lúa sắn Cămpuchia và Lào
Lúa sắn Việt Châu Phi
Lúa Việt tới Châu Mỹ

Giống ngô lai VN 25-99
Giống lạc HL25 Việt Ấn

Giống khoai lang Việt Nam
Giống khoai lang HL518
Giống khoai lang HL491
Giống khoai Hoàng Long
Giống khoai lang HL4
Giống khoai Bí Đà Lạt

Việt Nam con đường xanh
Việt Nam tổ quốc tôi
Vườn Quốc gia Việt Nam
Nông nghiệp công nghệ cao
Nông nghiệp sinh thái Việt
Nông nghiệp Việt trăm năm
IAS đường tới trăm năm
Viện Lúa Sao Thần Nông
Hoàng Thành đến Trúc Lâm
Ngày Hạnh Phúc của em
Có một ngày như thế

Thầy bạn là lộc xuân
Thầy bạn trong đời tôi
Sóc Trăng Lương Định Của
Thầy Quyền thâm canh lúa
Borlaug và Hemingway
Thầy Luật lúa OMCS OM
Thầy Tuấn kinh tế hộ
Thầy Tuấn trong lòng tôi
Thầy Vũ trong lòng tôi
Thầy lúa xuân Việt Nam
Thầy Ngoạn Hồ Núi Cốc
Thầy bạn Vĩ Dạ xưa
Thầy Dương Thanh Liêm
Thầy Hiếu Đêm Giáng Sinh
Phạm Trung Nghĩa Viện Lúa
Phạm Quang Khánh Hoa Đất
Phạm Văn Bên Cỏ May

24 tiết khí nông lịch
Nông lịch tiết Lập Xuân
Nông lịch tiết Vũ Thủy
Nông lịch tiết Kinh Trập
Nông lịch tiết Xuân Phân
Nông lịch tiết Thanh Minh
Nông lịch tiết Cốc vũ
Nông lịch tiết Lập Hạ
Nông lịch tiết Tiểu Mãn
Nông lịch tiết Mang Chủng
Nông lịch tiết Hạ Chí
Nông lịch tiết Tiểu Thử
Nông lịch tiết Đại Thử
Nông lịch tiết Lập Thu
Nông lịch Tiết Xử Thử
Nông lịch tiết Bạch Lộ
Nông lịch tiết Thu Phân
Nông lịch tiết Hàn Lộ
Xem tiếp >>

  Dạy và học 14 tháng 12(14-12-2021)

DẠY VÀ HỌC 14 THÁNG 12
Hoàng Kim
CNM365 Tình yêu cuộc sốngĐất Mẹ vùng di sản; Đi thuyền trên Trường Giang; Chiếu đất ở Thái An; Lên đỉnh Thiên Môn Sơn; Lên Thái Sơn hướng Phật; Chọn giống sắn Việt Nam; Tỉnh thức; Bill Gates học để làm;Ta về trời đất Hồng Lam; Ngày 14 tháng 12 năm 1994, Trung Quốc bắt đầu khởi công xây dựng đập Tam Hiệp trên sông Trường Giang. Đập Tam Hiệp là công trình thủy điện lớn nhất thế giới cũng là công trình kinh tế quốc phòng quan trọng bậc nhất Trung Quốc.Trường Giang là con sông dài nhất châu Á và đứng thứ ba trên thế giới sau sông Nin ở Châu Phi và sông Amazon ở Nam Mỹ. Sông Trường Giang là nơi có đập thủy điện Tam Hiệp lớn nhất thế giới. Ngày 14 tháng 12 năm 2004, Cầu cạn Millau là cây cầu dây văng cao nhất thế giới bắc qua thung lũng sông Tarn ở Millau, miền nam nước Pháp được mở cửa chính thức. Ngày 14 tháng 12 năm 1503 là ngày sinh của Nostradamus (mất ngày 2 tháng 7 năm 1566) là nhà tiên tri chiêm tinh dược sĩ người Pháp tác giả cuốn sách “Những lời tiên tri” (Les Propheties) nổi tiếng thế giới; ; Bài chọn lọc ngày 14 tháng 12: Đất Mẹ vùng di sản; Đi thuyền trên Trường Giang; Chiếu đất ở Thái An; Lên đỉnh Thiên Môn Sơn; Lên Thái Sơn hướng Phật; Chọn giống sắn Việt Nam; Tỉnh thức; Bill Gates học để làm;Ta về trời đất Hồng Lam; Hoang Kim Long Hoang Gia; Tỉnh thức cùng tháng năm; Cẩn trọng giữ sức khỏe; VinaXanh Hoa Đất; Chuyện về vua Hàm Nghi; Chuyện thầy Lê Văn Tố; Phương Nam đêm anh về;Hoàng Trung Trực đời lính; Vườn Quốc gia Việt Nam; Nha Trang và A. Yersin; Hà Nội mãi trong tim; Sớm mai qua Đại Lãnh; Đến với bài thơ hay; Đối thoại với Thiền sư; Trà sớm thương người hiền; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/ và http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-14-thang-12/; 

PhongNha

ĐẤT MẸ VÙNG DI SẢN
Hoàng Kim

Lên chùa Đồng Yên Tử
Đến Kiếp Bạc Côn Sơn
Vào Tràng An Bái Đính
Về Nghĩa Lĩnh, Đền Hùng

Thăm Trường xưa Hà Bắc
Nhớ Linh Giang quê hương
Động Thiên Đường tuyệt đẹp
Biển Nhật Lệ Quảng Bình

Đất Mẹ vùng di sản
Nguồn Son nối Phong Nha
Biển xanh kề núi thẳm
Mừng bạn về Quê Choa

 

Quảng Bình là vùng di sản địa linh nhân kiệt, nơi trung độ gánh hai đầu đất nước, nơi giao thoa và tiếp biến văn hoá lịch sử trên cả hai chiều Bắc Nam và Đông Tây. Đây là vùng danh thắng hang động và vùng rừng nguyên sinh có giá trị du lịch sinh thái rất nổi tiêng như Vườn quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng, khu bảo tồn thiên nhiên Khe Nét, khu bảo tồn thiên nhiên núi Giăng Màn, khu bảo tồn thiên nhiên Khe Ve. Đây cũng là vùng cảnh quan hấp dẫn của nhiều cụm du lịch đầy tiềm năng như Đèo Ngang – Sông Roòn – vũng nước sâu Hòn La – Sông Gianh – đèo Lý Hoà – sông Nhật Lệ – Luỹ Thầy – Sông Dinh, suối nước nóng Bang, Bàu Tró, phá Hạc Hải, Lèn Bảng, Minh Cầm…Quảng Bình cũng là vùng đất có nhiều người con lỗi lạc trong lịch sử dân tộc như Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Hữu Cảnh, Dương Văn An, Nguyển Hàm Ninh, … Nay đón bạn về thăm, xin lưu lại chùm thơ và một số hình ảnh …

 

Ảnh
Ảnh
Ảnh
Ảnh
Ảnh
Ảnh
Ảnh
Ảnh
Ảnh
Ảnh
Ảnh
Ảnh
Ảnh
Ảnh
Ảnh
Ảnh
Ảnh
Ảnh
Ảnh
Ảnh
Ảnh
Ảnh
Ảnh
Ảnh

【World Heritage】Phong Nha Cave – Quang Binh / Vietnam

ĐI THUYỀN TRÊN TRƯỜNG GIANG
Hoàng Kim

Đi thuyền trên Trường Giang
Thăm thẳm dòng sông phẳng
Chốn xưa trận Xích Bích
Sử thi Tô Đông Pha.

Người Việt xưa nơi này (*)
Bách Việt vùng Mân Việt
Trần Tự Minh nhà Trần
Nam tiến từ thời trước

Đại chiến hồ Bà Dương
Nhà Minh thành đế nghiệp
Ninh Minh giang chu hành*
Hoàng Hạc Lâu trời biếc

Sông quanh co thăm thẳm
Hiểm sâu như lòng người
Đi thuyền trên Trường Giang
Thương hoài thơ Tô Nguyễn

Nhớ giấc mơ Trung Hoa
Bảy ba vượt sông rộng **
Nguyễn Du hồn nơi nao
Trường Giang cuồn cuộn chảy

(*) Trường Giang (sông Dương Tử) ranh giới tự nhiên của tộc Bách Việt

(**) Sông Trường Giang nơi khoảng giữa đập Tam Hiệp và Vũ Hán có 5 sự kiện lớn của lịch sử: Sự kiện Trận Xích Bích đặc biệt nổi tiếng thời Tam Quốc; sự kiện “Đại chiến hồ Bà Dương” trận thủy chiến ác liệt bậc nhất cuối thời nhà Nguyên đầu thời Minh, có sự kiện “Ninh Minh giang chu hành” của Nguyễn Du là kiệt tác văn chương và sách trắng ngoại giao đầu triều Nguyễn Ánh đánh giá thái độ của nhà Thanh sự sâu hiểm sông Trường Giang như lòng người qua ‘bang giao tập ngoại giao thời Tây Sơn” với các sự kiện bí mật kho báu trên đỉnh Tuyết Sơn và cái chết bí ẩn của Nguyễn Huệ; có sự kiện Chủ tịch Mao Trạch Đông bơi qua sông Trường Giang ngày 6/7/1966; có sự kiện đập Tam Hiệp bắt đầu tích nước vào ngày 1 tháng 6 năm 2003 đúng vào đêm trăng tròn 15 tháng 4 âm lịch hàng năm, cũng là ngày Tam Hiệp (đản sanh, giác ngộ, giải thoát),

“Đại chiến hồ Bà Dương” là sự kiện lớn nhất thay đổi vận mệnh Trung Quốc cận đại xẩy ra ngày 3 tháng 10 năm 1363. Trần Hữu Lượng năm Chí Chính thứ 20 (1360) là Hán Vương giành trọn nửa nước, đã dẫn đội thủy quân mạnh từ Thái Thạch theo Trường Giang xuôi xuống phía đông, tiến công Chu Nguyên Chương và sau đó tử trận.. Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương nhờ thắng này mà thồng nhất Trung Quốc và khai sáng nhà Minh Hạc vàng nghìn năm dấu tích cũ (*) Theo các bộ sử Việt như Đại Việt sử ký toàn thư, Việt sử tiêu án của Ngô Thời Sĩ, Đại nam thực lục, Đại Việt sử ký bản kỷ cùng gia phả nhà Trần để lại thì các bộ sử Việt đều khẳng định Trần Hữu Lượng là con thứ của Trần Ích Tắc. Sử Việt xác định Trần Ích Tắc có người con thứ là Trần Hữu Lượng ở Hồ Bắc. Trần Ích Tắc khi qua đời có con cả là Trần Hữu Thành thay cha dạy học cho Trần Hữu Lượng. Tổ tiên nhà Trần  là cụ tổ Trần Tự Minh thuộc nhóm tộc người Bách Việt ở vùng Mân Việt (nay thuộc Phúc Kiến – Trung Quốc), theo dòng người Bách Việt xuống phía Nam giúp vua An Dương Vương. Trần Tự Minh cùng Cao Lỗ từng là những vị tướng tài ba trụ cột, là hai cánh tay đắc lực giúp An Dương Vương nhiều lần đánh bại quân Triệu Đà.  Sau này Trần Hữu Lượng học theo cuốn sách Đông A võ phái của cụ tổ là Trần Tự An, noi gương tổ phụ khởi nghĩa chống Chu Nguyên Chương. Đại Việt Sử ký Toàn thư có viết rằng Trần Hữu Lượng từng sai sứ sang hòa thân với Trần Dụ Tông, liên minh với quân Đại Việt chống Nguyên:  “Giáp Ngọ, [Thiệu Phong] năm thứ 14 [1354], (Nguyên Chí Chính năm thứ 14). Mùa xuân, tháng 2, quan trấn giữ biên giới phía bắc cho chạy trạm tâu việc Trần Hữu Lượng nước Nguyên dấy binh, sai sứ sang xin hòa thân (Hữu Lượng là con Trần Ích Tắc)”. Tuy nhiên vua Trần là Trần Dụ Tông đã từ chối. Nhà Trần Đại Việt từ khi Trần Ích Tắc chạy theo quân Nguyên, đã xem ông ta là kẻ phản bội và không công nhận là dòng tộc nữa, nên đã từ chối “hòa thân”:

Nguyễn Du viết bài “Minh Ninh Giang Chu Hành” tả cảnh hiểm trở của sông Minh Ninh là sông Trường Giang ngày nay

ĐI THUYỀN TRÊN SÔNG MINH GIANG
Nguyễn Du thơ chữ Hán
Nhất Uyên dịch thơ

Vùng núi Việt Tây nhiều khe núi,
Qua nghìn năm chảy hợp thành sông.
Nước như đổ tự trời cao xuống,
Trên thác nghe gì chăng ?
Rồng thiêng nổi giận sấm đùng đùng
Dưới thác nghe thấy gì ?
Máy nỏ bật nhanh tên lìa dây,
Một dòng vạn dậm không ngừng chảy.
Núi cao giáp bờ như tường thành,
Ở giữa đá lạ chen chúc nổi.
Như rồng, rắn, cọp, beo, ngựa, trâu
la liệt trước mặt bày.
Lớn như cái nhà, nhỏ như nắm tay,
Hòn cao như đứng, thấp ngủ say.
Hòn thẳng như chạy, cong vòng xoay,
Nghìn hình vạn vẽ không nói hết,
Giao long ra vào thành vực sâu.
Sóng vỗ phun bọt ngày đêm ầm ầm tiếng,
Nước lụt hạ dâng tuôn trào sôi.
Một ngày ba ngày lòng bồi hồi.
Bồi hồi lo sợ điều trông thấy,
Nguy thay hiểm thay chìm sâu không đáy.
Ai cũng nói đất Trung Hoa bằng phẳng,
Hóa ra đường Trung Hoa lại thế này.
Sâu hiểm quanh co giống lòng người,
Nguy vong, nghiêng đổ đều ý trời.
Tài cao văn chương thường bị ghét,
Thịt người là thứ ma quỷ thích,
Làm sao dẹp yên hết phong ba ?
Trung tín thảy không nhờ cậy được.
Không tin: “Ra cửa đường hiểm nguy“
Hãy  ngắm dòng sông cuồn cuộn chảy.

Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
MINH NINH GIANG CHU HÀNH

Việt Tây sơn trung đa giản tuyền,
Thiên niên hợp chú thành nhất xuyên.
Tự cao nhi hạ như bát thiên,
Than thượng hà sở văn ?
Ứng long kích nộ lôi điển điển,
Than hạ hà sở kiến ?
Nổ cơ kịch phát thỉ ly huyền,
Nhất tả vạn lý vô đình yên.
Cao sơn giáp ngan như tường viên,
Trung hữu quái thạch sâm sâm nhiên.
Hữu như long, xà, hổ, báo, ngưu, mã la kỳ tiền.
Đại giả như ốc, tiểu như quyền.
Cao giả như lập, đê như miên,
Trực giả như tẩu,khúc như tuyền.
Thiên hình vạn trạng nan tận ngôn.
Giao ly xuất một thành trùng uyên,
Dũng đào phún mạt đạ tranh hôi huyên.
Hạ lao sơ trướng phí như tiên.
Nhất hành tam nhật tâm huyền huyền.
Tâm huyền huyền đa sở úy.
Nguy hồ đãi tai cốt một vô để.
Cộng đạo Trung Hoa lột thản bình,
Trung Hoa đạo Trung phù như thị !
Oa bàn khuất khúc tự nhân tâm,
Nguy vong khuynh phúc giai thiên ý.
Cao tài mỗi bị văn chương đố.
Nhân nhục tối vi ly mị hỷ,
Phong ba na đắc tận năng bình.
Trung tín đáo đầu vô túc thị.
Bất tín “xuất môn giai úy đồ “
Thị vọng thao thao thử giang thủy.

Chú Thích:
Minh Ninh giang:  sông Minh Giang chảy qua Minh Ninh. Ứng long: Rồng hiện.Trung tín: Đường Giới đời  Tống: Bình sinh thượng trung tín, Kim nhật nhiệm phong ba: Ngày thường giữ trung tín, Hôm nay mặc kệ phong ba….,Nguyễn Du viết : Đường Trung Hoa không bằng phẳng mà quanh co, sâu hiểm như lòng người. Trung tín thảy không nhờ cậy được.

TỪ TRƯỜNG GIANG NHỚ MEKONG
Hoàng Kim

Đập Tam Hiệp trên sông Trường Giang và hệ thống các đập thủy điện điều tiết lượng nước tại thượng nguồn sông  Mekong ở Trung Quốc là những vấn đề ảnh hưởng hết sức sâu sắc đến trị thủy và quốc phòng, năng lượng, an sinh xã hội, môi trường. Đây là kế hoạch đặc biệt to lớn, tốn kém, lâu dài và gây nhiều tranh cải.

Đập Tam Hiệp trên sông Trường Giang

Đập Tam Hiệp trên sông Trường Giang tại Trung Quốc là đập thủy điện lớn nhất thế giới. Năm 1992, Đại hội đại biểu Nhân dân toàn quốc Trung Quốc thông qua quyết nghị liên quan đến việc xây dựng đập Tam Hiệp trên Trường Giang. Đập Tam Hiệp bắt đầu tích nước vào ngày 1 tháng 6 năm 2003. Ngày lễ kỷ niệm này trùng khớp với ngày Phật đản Vesak Day là ngày kỷ niệm Đức Phật Như Lai Tất-đạt-đa Cồ-đàm sinh ra tại vườn Lâm-tì-ni, năm 624 TCN, diễn ra vào đêm trăng tròn 15 tháng 4 âm lịch hàng năm, cũng là ngày Tam Hiệp (đản sanh, giác ngộ, giải thoát), và cũng trùng khớp với Ngày Quốc tế Thiếu nhi (năm 2015). Sông Trường Giang là sông dài nhất châu Á và đứng thứ ba trên thế giới sau sông Nin ở Châu Phi và sông Amazon ở Nam Mỹ. Sông Hoàng Hà và sông Trường Giang là hai con sông mẹ vĩ đại, quan trọng bậc nhất trong lịch sử văn hóa và kinh tế của Trung Quốc. Đồng bằng châu thổ sông Trường Giang màu mỡ tạo ra 20% GDP của Trung Quốc. Trường Giang chảy qua nhiều hệ sinh thái đa dạng và bản thân nó cũng là nơi sinh sống cho nhiều loài đặc hữu và loài nguy cấp như Cá sấu Trung Quốc và Cá tầm Dương Tử. Qua hàng ngàn năm, người dân đã sử dụng con sông để lấy nước, tưới tiêu, ngọt hóa, vận tải, công nghiệp, ranh giới và chiến tranh. Công trình thủy lợi đập Tam Hiệp trên Sông Trường Giang không chỉ là  đập thủy điện lớn nhất thế giới mà còn liên quan sâu xa tới đại kế “Tam tuyến” kết hợp chính trị, quân sự, kinh tế, quốc phòng của Mao Trạch Đông mà bạn cần đọc kỹ bài
Trận Vũ Hán bài học lịch sử.

Sông Mekong cũng là một trong những con sông lớn nhất thế giới, là sông lớn thứ 10 trên thế giới về lưu lượng nước và đứng thứ 12  trên thế giới về độ dài. Sông Mekong bắt nguồn từ Trung Quốc, chảy qua Lào, Myanma, Thái Lan, Campuchia, Việt Nam và đổ ra Biển Đông.  Sông Mekong có đặc điểm thủy năng nổi bật là vai trò điều tiết lượng nước “Biển Hồ” Tonlé Sap là hồ thiên nhiên lớn nhất Đông Nam Á . Ngày nay, Trung Quốc đã hoàn thành việc xây dựng hơn một chục đập thủy điện gồm Mạn Loan, Đại Triều Sơn, Cảnh Hồng, Tiểu Loan … ở phần thượng nguồn gây nhiều thay đổi về điều tiết trữ lượng nước, gia tăng mức độ xói mòn cũng như gây thiệt hại cho nông nghiệp và nguồn cá. Sông Mekong không những đặc biệt quan trọng đối với an sinh, lương thực, nguồn nước trong lưu vực mà còn ảnh hưởng rất sâu sắc tới hệ sinh thái, nghề cá và đời sống văn hóa. Sông Mekong hiện tồn tại nhiều vấn nạn như chưa quản lý phát triển bền vững an sinh, nghề cá trên sông, nghề rừng, nạn buôn lậu gỗ, buôn sinh vật lâm nông sản quý,  buôn ma túy, buôn người, … Nguyên nhân và giải pháp chính khắc phục những vấn nạn trên là thách thức rất lớn ở tầm liên quốc gia, đòi hỏi tầm nhìn sâu rộng và sự tham gia mạnh mẽ của hệ thống truyền thông !

Đập Tam Hiệp trên sông Trường Giang và một loạt đập như  Mạn Loan, Đại Triều Sơn, Cảnh Hồng, Tiểu Loan … trên Sông Mekong không phải là một câu chuyện nhất thời mà là một kế hoạch lâu dài có tính toán kỹ. Việc chọn tên Tam Hiệp và chọn ngày 1 tháng 6 Tam Hiệp Phật đản, giác ngộ và giải thoát cho ngày tích nước đầu tiên của con đập lớn nhất thế giới là giấc mơ lớn của một triều đại.

Đập Tam Hiệp trên sông Trường Giang có vị trí trọng yếu tại vùng Long Mạch Trung Hoa của núi Tuyết và lưu vực sông Dương Tử. Chuỗi địa danh huyền thoại Trung Khánh, Vũ Hán, Thượng Hải thăm thẳm một tầm nhìn.

Bí mật kho báu trên đỉnh Tuyết Sơn với Từ Mao Trạch Đông tới Tập Cận BìnhBiển Đông vạn dặm giúp chúng ta một góc nhìn tham chiếu.

Trung Hoa mới đang trỗi dậy. Mao Trạch Đông khởi xướng chính sách được phổ biến năm 1954 trong cuốn “Lịch sử Tân Trung Quốc” có kèm theo bản đồ, nhắc lại lời Mao: “Tất cả các lãnh thổ và hải đảo thuộc khu vực ảnh hưởng của Trung Quốc đã từng bị phe đế quốc Tây phương và Nhật Bản chiếm đoạt từ giữa thế kỷ 19 đến sau thế chiến lần thứ nhất, như Ngoại Mông, Triều Tiên, An Nam, Mã Lai, Thái Lan, Miến Điện, Bhutan, Nepal, Ladakh, Hồng Kông, Macao, cùng những hải đảo Thái Bình Dương như Đài Loan, Bành Hồ, Ryukyu, Sakhalin, phải được giao hoàn cho Trung Quốc.” Mao Trạch Đông đưa ra phương lược “tam tuyến” hướng xử lý khi có chiến tranh lớn, tại Hội nghị Trung Ương từ ngày 18 tháng 9 đến ngày 12 tháng 10 năm 1965. Ông nói: Trung Quốc không sợ bom nguyên tử vì bất kỳ một ngọn núi nào cũng có thể ngăn chặn bức xạ hạt nhân. Dụ địch vào sâu nội địa tới bờ bắc Hoàng Hà và bờ nam Trường Giang, dùng kế “đóng cửa đánh chó” lấy chiến tranh nhân dân, chiến tranh du kích, vận động chiến, đánh lâu dài níu chân địch, tận dụng thiên thời địa lợi nhân hòa, thời tiết mưa gió lầy lội, phá tan kế hoạch tốc chiến tốc thắng của địch. Bắc Kinh, Trùng Khánh, Thượng Hải, Thiên Tân là bốn thành phố trực thuộc Trung Ương, chuyển hóa công năng để phát huy hiệu lực bảo tồn và phát triển. Trùng Khánh là thủ đô kháng chiến lúc đất nước Trung Hoa động loạn

Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình với cuốn sách lớn Những Suy tư từ sông Dương Tửcó đề cập sâu sắc đến vấn đề này. Từ Tam Hiệp Trường Giang đến Mekong đang thay đổi sinh thái Trung Hoa và ảnh hưởng sâu sắc đến Đông Nam Á với Thế Giới.

Nhân loại hãy cẩn trọng !

 Suy ngẫm từ núi Xanh Bắc Kinh

Qua Trường Giang nhớ Mekong

Trung Quốc đang có một vị lãnh tụ cứng rắn định hình và đang tung hoành. Cục diện chính trị tại Trung Quốc đang thay đổi “có thể tốt hay xấu hơn, nhưng điều chắc chắn là không thể quay ngược lại được nữa”. Sông Trường Giang với đập Tam Hiệp đã hoạt động. Sông Mekong với đập Mạn Loan, Đại Triều Sơn, Cảnh Hồng, đã hoạt động, Tiểu Loan cùng nhiều đập khác đang định hình. Từ Tam Hiệp Trường Giang đến Mekong với hàng  chục đập ngăn đang thay đổi sinh thái Trung Hoa và ảnh hưởng sâu sắc đến Đông Nam Á .

4K Video Beauty of Nature

Đập Tam Hiệp trên sông Trường Giang ở Trung Quốc trong một lần xả nước năm 2016. Đây là đập thủy điện lớn nhất thế giới – Ảnh: AFP

Trung Quốc nắm trong tay vũ khí hủy diệt đáng sợ nào? Báo Tuổi trẻ trực tuyến ngày 27 tháng 8 năm 2017 dẫn lời chuyên gia Eugene K. Chow một chuyên gia về quan hệ quốc tế cho rằng Bắc Kinh đang nắm trong tay một loại vũ khí hủy diệt hàng loạt mà cả thế giới không ngờ tới đó là đập nước. Tác giả Eugene K. Chow nhận định: “Với hơn 87.000 con đập và quyền kiểm soát cao nguyên Tây Tạng, thượng nguồn của 10 con sông lớn nuôi sống 2 tỉ người, Trung Quốc đang sở hữu một loại vũ khí hủy diệt. Chỉ với một cái gạt cần, họ có thể giải phóng hàng trăm triệu khối nước từ các con đập khổng lồ, gây ra những trận lụt khủng khiếp đủ sức định hình lại toàn bộ hệ thống sinh thái ở các nước hạ nguồn”. xem tiếp: https://tuoitre.vn/trung-quoc-nam-trong-tay-vu-khi-huy-diet-dang-so-nao-1375993.htm

Tam Hiệp Đạo Cô trong Truyện Kiều có nói lời tiên tri “thả một bè lau” với vãi Giác Duyên. Chúng ta hãy tự cũng cố và trầm tĩnh theo dõi.

Đi thuyền trên Trường Giang. Học thái độ của nước mà đi như dòng sông.

Hoàng Kim

CHIẾU ĐẤT Ở THÁI AN
Hoàng Kim

Tỉnh thức lên Thái Sơn
Thung dung ngủ cội tùng
Chiếu đất ở Thái An
Đêm thiêng chào ngày mới

Ai uống rượu Hàm Hanh
Lòng tưởng nhớ Lỗ Tấn (*)
Ta mang rượu Thái Sơn
Ngon xách về chẳng dễ

“Núi cao ta trồng
Đường rộng ta đi
Tuy đích chưa đến
Nhưng lòng hướng về”


Lên Thái Sơn hướng Phật
Về ngủ bên cội tùng
Trải
một cơn gió bụi
Thoáng chốc ba mươi năm

THÁI AN NÚI THÁI SƠN

Thái An là nơi trung tâm quần thể du lịch Thái Sơn. Tôi xách rượu Thái Sơn và khoai lang Hoàng Long (hình) định mang về Trường Đại Học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh để làm quà cho thầy bạn quý. Trong ảnh phía sau lưng tôi là gốc tùng nơi Hoàng Long và tôi đã nằm ngủ suốt đêm qua ngoài trời vì không thể thuê được nhà trọ. Trung Quốc luật lệ hiện thời yêu cầu khách ngoại quốc phải ngủ ở những khách sạn được phép tiếp nhận người nước ngoài nên người lái xe taxi tuy đã cố gắng chạy lòng vòng tìm kiếm suốt hơn 90 phút nhưng vẫn không thể giúp được. Tôi sau khi lên ga Thái An của đường sắt cao tốc Sơn Đông Bắc Kinh về cửa khẩu sân bay thì món đặc sản quý giá rượu Thái Sơn lại không được mang về. Mặc dầu chúng tôi có đầy đủ phiếu hàng giấy tờ cần thiết nhất để minh chứng rượu được mang đi chứ không phạm lỗi ‘mang chất lỏng lên máy bay’. Tôi đã cố gắng hết sức giải thích tôi là thầy giáo nông học Việt Nam từng tới Sơn Đông từ thuở xưa ba mươi năm trước và nay thăm lại chốn cũ, nhưng vẫn không thể mang rượu về. Tôi đã tặng lại số quà này cho các bạn hải quan ở cửa khẩu bên đó.

Tấm hình này là Giáo sư viện sĩ Zhikang Li nhà di truyền chọn giống cây trồng hàng đầu Trung Quốc, IRRI và Thế giới, nhà khoa học chính của Dự án IRRI Green Super Rice GSR với Phó Giáo sư Tiến sĩ Tian Qing Zheng là Trưởng nhóm nghiên cứu GSR vùng Châu Á và Châu Phi, quản lý nguồn gen lúa gạo GSR của Viện Hàn lâm Khoa học Nông nghiệp Trung Quốc, Bắc Kinh, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.  Tôi đã tâm đắc nói với thầy Li và thầy Zheng: “Khoai Hoang Long, Lúa Siêu Xanh, Núi Thái Sơn là ba điểm đến yêu thích nhất của tôi tại đất nước Trung Hoa“. “Tôi bắt đầu sự nghiệp nghiên cứu của mình bằng giống khoai Hoàng Long và lấy tên khoai Hoàng Long đặt tên cho con trai Hoang Long của mình. Con trai tôi bắt đầu sự nghiệp của cuộc đời con bằng lúa siêu xanh, học và sau 9 năm làm việc cùng hai Thầy nay đã thành tựu. Hai cha con tôi trước khi về nước sẽ lên núi Thái Sơn hướng Phật đêm trăng rằm Phật Đản 2018 ở đất nước Trung Hoa”.

Thái An núi Thái Sơn, tôi lưu lại hình ảnh và câu chuyện suy ngẫm về chuyến đi Lên Thái Sơn hướng Phật, một sự lắng đọng tiếp nối Giống khoai lang Hoàng Long

Tôi có 17 ghi chú nhỏ (Notes), mỗi ghi chú là một đường link, được chép chung trong bài “Lên Thái Sơn hướng Phật” ghi lại TRUNG QUỐC HỌC TINH HOA, là những ký ức về các chuyến du khảo Trung Hoa của đời tôi tạm coi là một nhận thức luận của riêng mình. Ngoài ra còn có bài nghiên cứu lịch sử Từ Mao Trạch Đông tới Tập Cận Bình. Trung Quốc có nhiều nơi hiểm trở, núi cao vọi và sông vực sâu thẳm quanh co, hạng người có đủ cả chí thiện và cực ác, gợi nhớ Nguyễn Du trăng huyền thoại, nay xin lần lượt chép tặng bạn đọc.

LÊN THÁI SƠN HƯỚNG PHẬT
Hoàng Kim và Hoàng Long

Đường trần thênh thênh bước/
Đỉnh xanh mờ sương đêm/
Hoàng Thành Trúc Lâm sáng/
Phước Đức vui kiếm tìm/.

Lên Thái Sơn hướng Phật/
Chiếu đất ở Thái An/
Đi thuyền trên Trường GXem tiếp >>

  Dạy và học 13 tháng 12(13-12-2021)

DẠY VÀ HỌC 13 THÁNG 12
Hoàng Kim
CNM365 Tình yêu cuộc sốngHoang Kim Long Hoang Gia; Chọn giống sắn Việt Nam; Tỉnh thức cùng tháng năm; Cẩn trọng giữ sức khỏe; VinaXanh Hoa Đất; Chuyện về vua Hàm Nghi; Chuyện thầy Lê Văn Tố; Phương Nam đêm anh về;Hoàng Trung Trực đời lính; Vườn Quốc gia Việt Nam; Nha Trang và A. Yersin; Hà Nội mãi trong tim; Sớm mai qua Đại Lãnh; Đến với bài thơ hay; Đối thoại với Thiền sư; Trà sớm thương người hiền; Miên Thẩm thầy thơ Việt; Bill Gates học để làm. Ngày 13 tháng 12 năm 1888, Hoàng đế Hàm Nghi bị đưa lên tàu sang an trí tại Algérie thuộc Pháp, sau khi bị thực dân Pháp bắt. Hoàng đế Hàm Nghi (3 tháng 8 năm 1871 – 4 tháng 1 năm 1943) là vị vua thứ 8 của nhà Nguyễn, vương triều phong kiến cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân được coi là ba vị vua Việt Nam yêu nước trong thời kỳ Pháp thuộc. Hoàng đế Hàm Nghi là em trai của vua Kiến Phúc, năm 1884 vua Hàm Nghi được các phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết đưa lên ngôi ở tuổi 13. Sau khi cuộc phản công tại kinh thành Huế thất bại năm 1885, Tôn Thất Thuyết đưa ông ra ngoài và phát hịch Cần Vương chống thực dân Pháp.Tôn Thất Thuyết đã nhân danh vua Hàm Nghi phát động phong trào Cần Vương, kêu gọi văn thân, nghĩa sĩ giúp vua, giúp nước. Phong trào này kéo dài đến năm 1888 thì vua Hàm Nghi bị bắt. Sau đó, ông bị đem an trí ở Alger (thủ đô xứ Algérie). Ông qua đời tại đây năm 1943 vì bệnh ung thư dạ dày. Chuyện về vua Hàm Nghi cho biết thêm những ngày cuối của vua Hàm Nghi.  Ngày 13 tháng 12 năm 2002, Liên minh châu Âu (European Union viết tắt EU), là một liên minh kinh tế chính trị bao gồm 28 quốc gia thành viên thuộc Châu Âu, trong ngày này đã tuyên bố mười nước  Estonia, Hungary, Latvia, Litva, Malta, Ba Lan, Séc, Síp, Slovakia và Slovenia sẽ là thành viên của mình từ ngày 1 tháng 5 năm 2004. Liên minh châu Âu sau sự kiện này có trên 500 triệu dân chiếm khoảng 30% GDP danh nghĩa và  22% GDP sức mua tương đương của thế giới; Bài chọn lọc này 13 tháng 12: Hoang Kim Long Hoang Gia; Chọn giống sắn Việt Nam; Tỉnh thức cùng tháng năm; Cẩn trọng giữ sức khỏe; VinaXanh Hoa Đất; Chuyện về vua Hàm Nghi; Chuyện thầy Lê Văn Tố; Phương Nam đêm anh về;Hoàng Trung Trực đời lính; Vườn Quốc gia Việt Nam; Nha Trang và A. Yersin; Hà Nội mãi trong tim; Sớm mai qua Đại Lãnh; Đến với bài thơ hay; Đối thoại với Thiền sư; Trà sớm thương người hiền; Miên Thẩm thầy thơ Việt; Bill Gates học để làm, Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-13-thang-12/;

HOÀNG GIA
Hoàng Kim
Long

Việc chính đời người chỉ ít thôi.
Chuyên tâm đừng bận chuyện trời ơi.
Phúc hậu suốt đời làm việc thiện.
Di sản muôn năm mãi sáng ngời

Tỉnh thức giữa đêm thiêng Yên Tử
Để thấu hiểu đức Nhân Tông
Ta thành tâm đi bộ
Lên tận đỉnh chùa Đồng
Tâm sáng Ức Trai trong tựa ngọc
 
“Yên sơn sơn thượng tối cao phong
Tài ngũ canh sơ nhật chính hồng
Vũ trụ nhãn cùng thương hải ngoại
Tiếu đàm nhân tại bích vân trung
Ủng môn ngọc sóc sâm thiên mẫu
Quải ngọc châu lưu lạc bán không
Nhân miếu đương niên di tích tại
Bạch hào quang lý đổ trùng đồng” (1)
 

Non thiêng Yên Tử đỉnh kỳ phong
Trời mới ban mai đã rạng hồng
Vũ trụ mắt soi ngoài biển cả
Nói cười lồng lộng giữa không trung
Giáo trúc quanh chùa giăng nghìn mẫu
Cỏ cây chen đá rũ tầng không
Nhân Tông bảo tháp còn lưu dấu
Mắt sáng hào quang tỏa ánh đồng (2)  

Non thiêng Yên Tử
Nghìn năm Thăng Long, Đông Đô, Hà Nôi
Bảy trăm năm đức Nhân Tông
Non sông bao cảnh đổi
Kế sách một chữ Đồng
Lồng lộng gương trời buổi sớm
Trong ngần, thăm thẳm, mênh mông ….  

1) Thơ Nguyễn Trãi
2) Bản dịch thơ Nguyễn Trãi của Hoàng Kim  

Ngược gió đi không nản
Rừng thông tuyết phủ dày
Ngọa Long cương đâu nhỉ
Đầy trời hoa tuyết bay

Biết đủ thời nhàn sống thảnh thơi
Con, em và cháu vững tay rồi
Đời sống an nhiên lòng thanh thản
Minh triết mỗi ngày dạy học vui.

thungdung

Thung dung đời thoải mái
ban mai của riêng mình
giọt thời gian điểm ngọc
thanh nhàn khát khao xanh.
https://www.youtube.com/embed/w21hkPfEA2M?version=3&rel=1&showsearch=0&showinfo=1&iv_load_policy=1&fs=1&hl=vi&autohide=2&wmode=transparent

Thiền Sư Lão Nông Tăng

“Mưa thuận gió hòa chăm bón đúng
Nhân tươi quả tốt được thu nhiều”


Nhớ Viên Minh Hoa Lúa
Hoa Lúa giữa Đồng Xuân
Viên Minh Thích Phổ Tuệ
Lời Thầy dặn thung dung


Kim Notes lắng ghi chú

Noi theo dấu chân Bụt
Dạy và học làm Người
Hiểu Quân Dân Chính Đảng
Thấu Lão Nông Lâm Y Sinh
https://hoangkimlong.wordpress.com/category/thien-su-lao-nong-tang/

CÓ MỘT NGÀY NHƯ THẾ
Hoàng Kim

Có một ngày như thế
Em vượt lên chính mình
Nhóm bạn quý thân thương
Cùng thầy cô một thuở

(*) Chúc mừng các em tân thạc sĩ
Phan Thao, Nguyễn Xuân Du, Phuong Tran. Chúc mừng các Thầy Cô Thái Dân Võ , Tam Pham,Trần Thị Dạ Thảo, Nguyễn Phương, Nguyễn Duy Năng, Bui Minh Tri, Mai Thành Phụng, Nguyễn Công Thành và các bạn. Mái trường thân yêu và bạn học (ảnh Nguyễn Xuân Du) xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/co-mot-ngay-nhu-the/

NỢ DUYÊN
Hoàng Kim

Nợ anh mưa nắng dãi dầu
Em tôi rụng tóc sói đầu nhớ thương.
Nợ em nửa sợi tơ vương
Anh mang vàng đá trãi đường nhân duyên.

xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/no-duyen

24 TIẾT KHÍ NÔNG LỊCH
Hoàng Kim

Khuyên em đừng quên nhất thì nhì thục
Di sản Việt Nam học mãi không cùng
Mình học để làm hai bốn tiết khí
Mộc mạc hát vần bài học đầu tiên.

Đất cảm trời thương lòng người gắn bó
Dẫu khó vạn lần khéo liệu cũng xong
Mùa xuân tới tự tiết xuân sẽ đến
Bởi biết rằng năm tháng đó là em.

6 tháng Một bắt đầu rét nhẹ
21 tháng Một trời lạnh cắt da
4 tháng Hai ngày xuân mới đến
20 tháng Hai Thiên Địa Nhân hòa.

Đồng dao cho em khuyên em đừng tưởng
Câu chuyện mùa xuân
thêm cho mồng Ba
Trải Cốc Vũ qua ngày Hạ Chí
Đại Thử rồi Sương Giáng thành hoa.

6 tháng Năm là ngày Hè đến
22 tháng Năm mưa nhỏ, vào mùa
5 tháng Sáu ngày Tua Rua mọc
21 tháng Sáu là chính giữa Hè.

7 tháng Bảy là ngày nắng nhẹ
23 tháng Bảy là tiết nóng oi
7 tháng Tám Lập Thu rồi đó
23 tháng 8 trời đất mưa Ngâu

Qua Xử Thử đến tiết trời Bạch Lộ
Sau Mưa Ngâu đến Nắng nhạt đấy em.
Tiết Thu Phân khoảng 23 tháng 9
Đối lịch nhà nông em nhớ đừng quên.

Tiết Hàn Lộ nghĩa là trời mát mẻ
Kế tiếp theo là Sương Giáng (sương mù)
23 tháng 10 mù sa dày đặc
Thuyền cỏ mượn tên nhớ chuyện Khổng Minh.

Ngày 7 tháng 11 là tiết lập đông
23 tháng 11 là ngày tiểu tuyết
8 tháng 12 là ngày đại tuyết
22 tháng 12 là chính giữa đông.

Khuyên em đừng quên nhất thì nhì thục
Di sản Việt Nam học mãi không cùng
Mình học để làm 24 tiết khí
Mộc mạc hát vần bài học đầu tiên.

Mùa vụ trồng cây, kinh nghiệm nghề nông
Xin em đừng quên điều ông bà dạy
Xuân Hạ Thu Đông hai bốn tiết khí
Khoa học thiên văn ẩn ngữ đời người.

Đất cảm trời thương, lòng người gắn bó
Dẫu khó vạn lần khéo liệu cũng xong
Mùa xuân tới tự tiết xuân sẽ đến
Bởi biết rằng
năm tháng đó là em.

xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/hoa-lua-giua-dong-xuan/

TỈNH THỨC CÙNG THÁNG NĂM
Hoàng Kim

Sớm nào cũng dành nửa tiếng,
Thung dung đếm nhịp thời gian.
Thong thả chỉ thêu nên gấm,
An nhiên việc tốt cứ làm.
Thoáng chốc đường trần nhìn lại,
‘Thanh nhàn vô sụ là tiên‘

*

Đạt Ma
Úp mặt vào tường
Chín năm diện bích chẳng thương … thân mình

Văn chương
Giáo ngoại biệt truyền
Thành tâm trực chỉ, chẳng buông lời thừa

Hoa sen
Trắng một giấc mơ
Kiến tính thành Phật, thờ ơ danh nhàm

#Thungdung
Bước tới an nhàn
Vui
#dayvahoc … quẩy tiên
Dép trần
Ngày 12 12 2021

vui họa thơ cậu Hoàng Gia Cương

BÀI THƠ … THỜI MẮC DỊCH
Hoàng Gia Cương


Làm chi?
Tớ chẳng làm chi
Suốt ngày lùi lũi chỉ vì … nghiện thơ!

Thờ ơ?
Tớ chẳng thờ ơ
Xưa – gì cũng muốn nhưng giờ lại không!

Lông bông?
Tớ chẳng lông bông
Chỉ vì Covid nên mong … sổng chuồng!

Phát cuồng?
Tớ chẳng phát cuồng
Chỉ mong được … đấm vào chuông
Kêu trời!

Đêm 16/8/2021

TĨNH THỨC HOA SEN TRẮNG
Hoa sen trắng
Nhà văn Triết gia Ấn độ Osho


Tổ sư Bồ đề đạt ma đến với một chiếc giầy.

Triết gia Osho nổi tiếng người Ấn độ nói: Tôi cực lạc vì tên của Tổ sư Bồ đề đạt ma đã làm cho tôi phiêu diêu. Đã từng có nhiều chư phật trên thế giới, nhưng Tổ sư Bồ đề đạt ma sừng sững như đỉnh Everest. Cách hiện hữu của ông ấy, cách sống, và cách diễn đạt chân lí đơn giản là của ông ấy; nó là vô song.

Trong các chùa ở Miền tây thường bên cạnh thờ tượng Đức Phật, có thờ tượng của Tổ sư Bồ đề đạt ma. Tượng Tổ sư dễ nhận biết. Gương mặt một người hung dữ, vai đeo gậy. Trên gậy có chỉ một chiếc giày.Tổ sư Bồ đề đạt ma đã du hành từ Ấn Độ sang Trung Quốc để truyền bá thông điệp của Đức Phật, người thầy của mình, mặc dầu họ sống cách nhau một nghìn năm.

Khi Tổ sư Bồ đề đạt ma đến Trung Quốc, Vũ Đế ra đón ông ấy ở biên ải. Mọi ngưỡi nghĩ rằng một chứng ngộ lớn đang tới! Và tất nhiên Vũ Đế đã tưởng tượng Tổ sư có nét gì đó giống như Đức Phật: rất hoà nhã, duyên dáng, vương giả. Tuy nhiên khi ông ta thấy Bồ đề đạt ma thì ông đã bị choáng. Tổ sư Bồ đề đạt ma trông rất thô thiển. Không chỉ thế, ông ấy còn có vẻ rất ngớ ngẩn. Ông ấy đến cây gậy đeo trên vai chỉ có một chiếc giầy.Vũ Đế bối rối. Ông ta đã tới cùng với cả đoàn triều đình với các hoàng hậu quí phi. Họ sẽ nghĩ gì khi ta ra đón một loại người như thế này? Ông cố gắng vì lịch sự bỏ qua điều đó. Và ông đã không muốn hỏi “Sao ông lại đến nước chúng tôi chỉ với một chiếc giầy?

Nhưng Tổ sư Bồ đề đạt ma đã không để Vũ Đế yên. Ông ấy nói: -Đừng cố bỏ qua nó. Hãy hỏi và thẳng thắn ngay từ chính lúc đầu đi. Ta đã đọc được câu hỏi trong đầu ông rồi.Vũ Đế đâm ra lúng túng; sau cùng ông nói:-Vâng, ông đúng, câu hỏi này đã nảy sinh trong ta: Sao ông đến mà chỉ mang một chiếc giày?

Tổ sư Bồ đề đạt ma nói, -Để mọi thứ vào cảnh quan đúng như từ chính lúc đầu. Ta là người vô lí! Ông phải hiểu điều đó từ chính lúc bắt đầu. Ta không muốn tạo ra bất kì rắc rối nào về sau. Hoặc ông chấp nhận ta như ta vậy hoặc ông đơn giản nói rằng ông không thể chấp nhận được ta. Và ta sẽ rời khỏi vương quốc của ông. Ta sẽ đi lên núi. Ta sẽ đợi ở đó đến khi người của ta đến với ta. Vũ Đế lúng túng. Ông đã mang theo nhiều câu hỏi khi đến đón Tổ sư. Nhưng ông băn khoăn có nên đưa chúng ra hay không? Ông nghi ngai câu trả lời là lố bịch. Nhưng Tổ sư Bồ đề đạt ma một mức khăng khăng:-Ông hãy nên hỏi những câu ông đã mang tới đây.

Vũ Đế gượng gạo hỏi:-Câu hỏi đầu: Ta đã làm được nhiều phước đức…. Tổ sư Bồ đề đạt ma nhìn sâu vào trong đôi mắt của Vũ Đế. Một cơn lạnh toát chạy dọc sống lưng nhà vua. Ông nói:-Toàn những điều vô nghĩa! Làm sao ông có thể làm được nhiều phước đức ? Ông còn chưa nhận biết phước đức được hình thành từ nhận biết . Mà ông ngụ ý phước đức nào? Làm sao ông có thể tạo ra được phước đức? Phước đức chỉ được tạo ra từ Đức Phật.

Vũ Đế ngại ngần:-Việc ta nói làm nhiều phước đức. Ta ngụ ý rằng ta đã làm nhiều đến chùa, nhiều điện thờ cho Phật. Ta đã làm nhiều đạo tràng cho các khất sĩ Phật tử, các tín đồ, và tì kheo. Ta đã thu xếp cho hàng nghìn học sĩ để dịch kinh sách Phật sang tiếng Trung Quốc. Ta đã tiêu tốn hàng triệu đồng bạc cho việc phục vụ Đức Phật. Nhiều triệu khất sĩ xin ăn mọi ngày từ cung điện này nọ này trên khắp nước.

Và Tổ sư Bồ đề đạt ma cười. Vũ Đế chưa từng bao giờ nghe thấy tiếng cười như thế. Tiếng cười bụng có thể làm rung chuyển cả núi. Tổ sư cười sằng sặc và nói:-Ông đã hành động một cách ngu xuẩn. Mọi nỗ lực của ông đều đã là cực kì phí hoài. Sẽ không tạo ra kết quả nào từ nó cả. Đừng cố, và đừng tưởng tượng rằng ông sẽ được lên cõi trời thứ bẩy như các khất sĩ Phật giáo đã nói cho ông. Họ chỉ khai thác ông thôi.

Đây là chiến lược khai thác những người ngu như ông. Họ khai thác lòng tham của ông về thế giới bên kia, Họ vẽ cho ông những hứa hẹn lớn. Và lời hứa của họ không thể chứng minh là sai được vì không ai quay trở về từ thế giới bên kia để nói liệu những lời hứa đó có được hoàn thành hay không. Ông đã bị họ lừa rồi. Không có cái gì sẽ xảy ra từ điều mà ông nghĩ là việc làm phước đức. Thực ra, ông sẽ rơi vào địa ngục thứ bẩy, vì một người sống với những ham muốn sai như thế, người sống có ham muốn như thế, đều sẽ rơi vào địa ngục.

Vũ Đế e ngại. Ông cố gắng lái câu chuyện sang một chủ đề khác: -Vậy có cái gì linh thiêng hay không? Tổ sư Bồ đề đạt ma nói, -Không có cái gì linh thiêng, cũng như không có cái gì là báng bổ. Linh thiêng và báng bổ, đều là thái độ của tâm trí, của định kiến. Mọi việc đều đơn giản như chúng vậy. Không cái gì sai và không cái gì đúng, không cái gì tội lỗi và không cái gì phước đức. Vũ Đế buồn bực:-Ông thật quá thể đối với ta và người của ta. Sau đó, Tổ sư Bồ đề đạt ma nói lời tạm biệt, quay lưng lại và đi lên núi.

Trong chín năm trên núi ông ấy ngồi quay mặt vào tường. Mọi người đến với ông bởi vì đã được nghe, biết về cuộc đối thoại này. Dù khoảng cách sống giữa Tổ sư và Đức Phật trong hơn một nghìn năm, nhưng về trung tâm Tổ Sư vẫn ở cùng Đức Phật. Tổ sư nói điều tinh tuý của Đức Phật – tất nhiên theo cách riêng của ông ấy, theo phong cách của ông ấy, Ngay cả Phật cũng sẽ thấy cách trình bày này đó là kì lạ.

Đức Phật là người văn hoá, phức tạp, và duyên dáng. Còn Tổ sư Bồ đề đạt ma chính là cái đối lập trong cách diễn đạt của Đức Phật. Tổ sư không là người mà là con sư tử. Tổ sư không nói, mà ông ấy gầm lên. Tổ sư không có cái duyên dáng mà Đức Phật có. Cái mà ông ấy có là sự thô thiển, dữ dằn. Không thanh nhã như kim cương; Tổ sư hệt như vĩa quặng: thô ráp tuyệt đối , không có một sự đánh bóng. Và đó là cái đẹp của ông ấy. Đức Phật có cái đẹp rất nữ tính, lịch sự, mảnh mai. Còn Tổ sư Bồ đề đạt ma có cái đẹp riêng . Cái đẹp của một tảng đá – mạnh mẽ, nam tính, không thể phá huỷ được, cái đẹp của một sức mạnh lớn lao.

Đức Phật toả sức mạnh, nhưng sức mạnh của Đức Phật rất im lặng, như tiếng thì thào, như làn gió mát. Còn Tổ sư Bồ đề đạt ma là cơn bão, sấm rền và chớp giật. Đức Phật đến cửa nhà bạn nhẹ nhàng không một tiếng động, bạn thậm chí sẽ không nghe thấy tiếng bước chân của ông ấy. Còn Tổ sư Bồ đề đạt ma, khi ông ấy đến nhà bạn, ông ấy sẽ làm rung chuyển cả ngôi nhà từ tận móng của nó. Đức Phật sẽ không lay bạn dậy ngay cả khi bạn đang ngủ. Còn Tổ sư Bồ đề đạt ma? Ông ấy sẽ dựng bạn dậy từ trong nấm mồ! Ông ấy đánh mạnh, ông ấy là chiếc búa.

Tổ sư là chính cái đối lập của Đức Phật trong cách diễn đạt, nhưng thông điệp của ông ấy với Đức Phật là một. Tổ sư cúi mình trước Đức Phật là thầy của mình. Tổ sư chưa bao giờ nói “Đây là thông điệp của ta”. Tổ sư đơn giản nói:-Điều này thuộc về chư phật, chư phật cổ đại. Ta chỉ là sứ giả. Không cái gì là của ta, bởi vì ta không có. Ta như cây trúc hồng được chư phật chọn để làm chiếc sáo cho họ. Họ hát: ta đơn giản để cho họ hát qua ta.

TỈNH THỨC CÙNG THÁNG NĂM
Phan Chi Thắng, Hoàng Kim


Lão Hâm thơ cảm khái

Ngày ấy tóc còn xanh
Nụ cười khoe sắc thắm
Bây giờ tóc hết rậm
Lên men màu khói sương

Tao nhân cõi vô thường
Chén rượu nồng xin cạn
Uống cho mình, cho bạn
Ai biết được ngày mai?

Một khắc cũng rất dài
Một đời thành ra ngắn
Câu thơ cười trăng lặn
Sáng hơn cả đêm rằm!

TỈNH THỨC CÙNG THÁNG NĂM
Hoàng Kim thơ nối vần

II
Mãi vui cùng tháng năm
Quên nhọc nhằn ngày tháng
Nhớ hôm nao tiễn bạn
Thương ngày anh đến thăm …

Đêm xòe một bình minh (1)
Đi bộ cùng quá khứ (2)
Sương sớm mờ xe buýt
Thấm chuyện cười lão Hâm

Bóng nắng rạng ban mai
Câu thơ vàng dát ngọc
Mưa Ngâu suốt đêm rồi
Ngày mới mừng tỉnh thức


Những bài cùng chủ đề
Bài thơ Viên đá Thời gian
Về với vùng văn hóa
Tỉnh thức cùng tháng năm

TỈNH THỨC CÙNG THÁNG NĂM
Hoàng Kim

I
Thiên hà trong vắt khuya
chuyển mùa/ tự nhiên tỉnh
Ta ngắm trời, ngắm biển
chòm sao em
vầng sáng anh,
dưới vòm trời lấp lánh
khoảnh khắc thời gian
thăm thẳm
một tầm nhìn
.

(Get up /Greeting from Hoàng Kim Vietnam to Kenny Rogers/ Clear late galaxies/ transfer season/ natural awakening/ I watch the sun, watching the sea/ watching the constellations./ glow from where he/ under the sparkling sky/ moment of time/ chasms/ a vision.’. Ngày này mấy năm trước tôi ốm nặng. Huỳnh Hồng, Nguyễn Bạch Mai và các bạn lúc ban ngày đến thăm. Buổi tối, tôi lên sân thượng bệnh viện ngắm sao. Nhớ lại bức ảnh đẹp nổi tiếng của Kenny Rogers. Tôi bật ra tứ thơ trên và nhắn gửi ông. Rất nhanh sau đó, tôi đã kết nối được với Kenny Rogers, lắng nghe từ ông lời cảm ơn. I love you all… thank you. -Kenny; Sự Tỉnh thức trong tôi. Thế giới phẳng chưa bao giờ gần đến thế Tôi vào trang của ông và sáng lên trang văn CNM365 Tình yêu cuộc sống của ngày này.

Mỗi nhân cách tự tỏa sáng khi khai mở chính mình. Cảm ơn Kenny Rogers đã giúp tôi học cách thông minh để làm cho Hoàng Kim biết tương tác tốt hơn với bạn hữu và mọi người. Mỗi chúng ta là một thế giới. Dạy, học và làm từ bài học của chính bản thân mình. xem tiếp
https://hoangkimlong.wordpress.com/category/tinh-thuc-cung-thang-nam/ với https://hoangkimlong.wordpress.com/category/hoang-kim-long-hoang-gia/

CHỌN GIỐNG SẮN VIỆT NAM
Hoàng Kim
, Hoàng Long, Nguyễn Thị Trúc Mai, Nguyễn Bạch Mai, Nguyễn Việt Hưng, Trần Công Khanh (Bài tổng hợp dùng để giảng dạy sắn trong nhà trường và làm tài liệu khuyến nông)

Việt Nam có tổng diện tích sắn thu hoạch năm 2018 là 513.000 ha, với năng suất sắn củ tươi bình quân 19,2 tấn/ ha, sản lượng sắn củ tươi 9,84 triệu tấn. Hai giống sắn chủ lưc KM419 và KM94 chiếm lần lượt 38% và 31,7% tổng diện tích sắn Việt Nam, là hai giống sắn thương mại phổ biến nhất Việt Nam hiện nay.
RTB Newsletter 2016. Assessment reveals that most cassava grown in Vietnam has a CIAT pedigree, http://www.rtb.cgiar.org/2016-annual-report/assessment-reveals-that-most-cassava-grown-in-vietnam-has-a-ciat-pedigree/ .
Nguồn gốc và đặc điểm của hai giống sắn chủ lực KM419, KM94 và bốn giống sắn có diện tích trồng phổ biến rộng tại Việt Nam KM140, KM98-5, KM98-1, SM937-26 như sau

Giống sắn KM419
Giống sắn KM 419 được chọn tạo từ tổ hợp lai BKA900 x KM 98-5. Giống do Trường Đại học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh phối hợp với Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Phú Yên, Trường Đại học Nông Lâm Huế tuyển chọn và giới thiệu (Hoàng Kim, Trần Ngọc Ngoạn, Nguyễn Thị Trúc Mai, Võ Văn Quang, Nguyễn Bạch Mai, Nguyễn Thị Lệ Dung, Nguyễn Phương, Hoàng Long, Nguyễn Minh Cường, Đào Trọng Tuấn, Trần Công Khanh, Nguyễn Minh Hiếu, Nguyễn Văn Bộ, Nguyễn Thị Cách, Nguyễn Trọng Hiển, Lê Huy Ham, H. Ceballos and M. Ishitani. (2016), Giống được Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn công nhận sản xuất thử tại Quyết định số 85 / QĐ-BNN-TT Hà Nội ngày 13 tháng 1 năm 2016 cho vùng sinh thái Bắc Trung Bộ, Duyên hải Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ).

Giống sắn KM419 là giống sắn chủ lực của Việt Nam có diện tích thu hoạch năm 2016 chiếm 38 % so với giống sắn KM94 chiếm 31,7% (RTB Newsletter 2016. Assessment reveals that most cassava grown in Vietnam has a CIAT pedigree), và năm 2019 giống sắn KM419 chiếm khoảng 42% tổng diện tích sắn toàn Việt Nam

Giống KM419 có đặc Xem tiếp >>

  Dạy và học 12 tháng 12(12-12-2021)

DẠY VÀ HỌC 12 THÁNG 12
Hoàng Kim
CNM365 Tình yêu cuộc sốngHoàng Trung Trực đời lính; Vườn Quốc gia Việt Nam; Nha Trang và A. Yersin; Hà Nội mãi trong tim; Sớm mai qua Đại Lãnh; Đến với bài thơ hay; Đối thoại với Thiền sư; Trà sớm thương người hiền; Miên Thẩm thầy thơ Việt; Vườn Quốc gia Phong Nha Kẻ Bàng một di sản nổi bật trong 33 di sản Vườn Quốc gia ở Việt Nam. Ngày 12 tháng 12 năm 2001, Thủ tướng Việt Nam Phan Văn Khải ra quyết định thành lập Vườn quốc gia Phong Nha Kẻ Bàng trên cơ sở khu bảo tồn thiên nhiên cùng tên. Ngày 12 tháng 12 năm 1936, Sự biến Tây An thay đổi vận mệnh Trung Quốc, tổng thống Trung Hoa Dân Quốc Tưởng Giới Thạch bị Trương Học Lương và Dương Hổ Thành bắt cóc để buộc Quốc Dân đảng phải hợp tác với đảng Cộng sản trong công cuộc kháng Nhật. Ngày 12 tháng 12 năm 1935 chương trình quốc gia Đức hóa ‘Suối sinh’ Lebensborn được Thống chế Heinrich Himmler Đức Quốc Xã cho thành lập nhằm tăng sự thuần khiết chủng tộc Aryan; Bài viết chọn lọc ngày 12 tháng 12: Hoàng Trung Trực đời lính; Vườn Quốc gia Việt Nam; Nha Trang và A. Yersin; Hà Nội mãi trong tim; Sớm mai qua Đại Lãnh; Đến với bài thơ hay; Đối thoại với Thiền sư; Đến với bài thơ hay; Trà sớm thương người hiền; Miên Thẩm thầy thơ Việt; Sơn Nam ông già Nam Bộ; Thầy nghề nông chiến sĩ; Di sản thế giới tại Việt Nam; Sông Hoàng Long chảy hoài; Giấc mơ lành yêu thương; Câu chuyện ảnh tháng 12; Hương sen vùng Đồng Tháp; Nguyễn Hiến Lê sao sáng; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/cate…/chao-ngay-moi-12-thang-12;

HOÀNG TRUNG TRỰC ĐỜI LÍNH
Hoàng Kim giới thiệu

Hoàng Ngọc Dộ khát vọng‘, ‘Hoàng Trung Trực đời lính‘ ‘Hoang Kim Long Hoang Gia‘ là ba tập tư liệu nhỏ của gia đình chúng tôi nhằm bảo tồn và phát triển những kinh nghiệm sống lắng đọng và nếp nhà, ‘Hoàng Trung Trực đời lính‘ gồm chín bài: 1) Lời nói đầu; 2) Viếng mộ cha mẹ; 3) Nhớ bạn, 4) Mảnh đạn trong người; 5) Bền chí; 6) Trò chuyện với thiền sư; 7) Trạng Trình; 8) Trường ca Dấu chân người lính‘ 9) Một số bài thơ khác. ‘Hoàng Trung Trực đời lính‘ gắn với sự thân thiết của nhiều đồng đội đã ngã xuống, sự đau đời mảnh đạn trong người và sự thung dung, mẫu mực, đời thường của người con trung hiếu trong và sau chiến tranh. xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/hoang-trung-truc-doi-linh/

LỜI NÓI ĐẦU
Hoàng Trung Trực

Năm Thân con khóc chào đời. Tôi sinh năm 1944, năm trước của cách mạng tháng Tám và ngày Độc Lập 2 tháng 9 năm 1945. Trãi qua hai cuộc kháng chiến chống ngoại xâm của dân tộc, tôi làm người lính và trở thành người chỉ huy trưởng thành trong cuộc chiến tranh chống ngoại xâm; đã qua chỉ huy tiểu đội, trung đội, đại đội, tiểu đoàn, trung đoàn, sư đoàn binh chủng hợp thành trong chiến tranh.

Qua năm tháng của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, không biết bao nhiêu người lính, người chiến sĩ thân thiết nhất của mình đã nằm lại vĩnh viễn dưới lòng đất để dành độc lập tự do cho Tổ quốc và cho chính bản thân mình được vinh dự sống đến ngày hôm nay. Tôi ghi lại những trang nhật ký đời mình bằng thơ về dấu chân người lính của tôi, trong dấu chân lịch sử của dân tộc, để con cháu đời sau đọc và hiểu rõ bản chất người lính đã một thời chấp nhận sự hi sinh thân mình cho độc lập tự do của Tổ quốc.

Nguyễn Du có viết “Lời quê chắp nhặt dông dài. Mua vui cũng được một vài trống canh” Còn thơ của tôi chắp nhặt cuộc đời người lính của mình và của đồng chí, đồng đội đã trãi chiến trận trên các chiến hào của các chiến trường . Mong sao cũng chắp nhặt được cho đời vài lời quê mua vui được một vài trống canh.

Hoàng Trung Trực sinh ngày 26 tháng 2 năm 1944 tại xã Quảng Minh, huyện Quảng Trạch (thị xã Ba Đồn ngày nay), tỉnh Quảng Bình, là đại tá Quân đội Nhân dân Việt Nam thời chống Mỹ, trình độ học vấn : Cao học; Quyết định thăng quân hàm Thượng tá, Đại tá do Thử tướng Chính phủ Phạm Văn Đồng ký trong chiến tranh Thập niên 1970-1980; Đã qua chỉ huy từ cán bộ Đại đội, Tiểu đoàn, Trung đoàn, Sư đoàn trong chiến tranh và Đặc khu trong hòa bình. Thương binh 2/4, loại A; được tặng 17 Huân chương các loại trong chiến tranh; đã qua các Trường đào tạo: Học Viện Lục Quân Đà Lạt; Học Viện Quân sự Cao cấp Khóa 1; Nghĩ hưu tháng 11/1991. Tôi có vợ là Trần Thị Hương Du làm ở Ngân hàng ( đã nghỉ hưu) với hai con Hoàng Thế Tuấn kỹ sư bách khoa điện tử viễn thông và Hoàng Thế Toàn thạc sĩ bác sỹ. Chỗ ở hiện nay: Số nhà 28/8/25 đường Lương Thế Vinh , phường Tân Thới Hòa, quận Tân Phú, thành phố Hồ Chí Minh. Điện thoại: 02839611907.

Tôi đã từng trãi qua các chiến dịch: giải phóng nước bạn Lào thời gian từ tháng 10 năm 1963 đến tháng 5 năm 1965; Chiến dịch đường 9 Khe Sanh Quảng Trị từ tháng 6 năm 1965 đến tháng 12 năm 1967, Chiến dịch Mậu Thân ở Thừa Thiên Huế từ tháng 1 năm 1968 đến tháng 12 năm 1970: Chiến dịch đường 9 Nam Lào từ tháng 1 năm 1971 đến tháng 4 năm 1971; Chiến dịch Quảng Trị từ tháng 5 năm 1972 đến tháng 11 năm 1973; chuỗi các chiến dịch Phước Long, Chơn Thành, Dầu Tiếng, Xuân Lộc và chiến dịch Hồ Chí Minh từ tháng 12 năm 1973 đến tháng 4 năm 1974; Các chiến dịch giúp bạn Căm pu chia từ tháng 5 năm 1977 đến tháng 12 năm 1985

Hoàng Trung Trực đời lính
một ít bài Hoàng Kim trích đăng

VIẾNG MỘ CHA MẸ
Hoàng Trung Trực

“Dưới lớp đất này là mẹ là cha
Là khởi phát đời con từ bé bỏng
Là lời mẹ ru dịu dàng cánh võng
Là gươm đao cha một thuở đau đời.

Hành trang cho con đi bốn phương trời
Là nghĩa khí của cha, là nhân từ của mẹ
Vẫn bầu sữa tinh thần không ngừng không nghỉ
Để hành trang cho con đi tiếp cuộc đời

Cuộc đời con bươn chải bốn phương trời
Nay về lại nơi cội nguồn sinh trưởng
Dâng nén hương mà lòng hồi hồi tưởng
Thuở thiếu thời trong lồng cánh mẹ cha

“Ước hẹn anh em một lời nguyền
Thù nhà đâu sá kể truân chiên
Bao giờ đền được ơn trung hiếu
Suối vàng nhắm mắt mới nằm yên” (6)

“Không vì danh lợi đua chen
Công Cha nghĩa Mẹ quyết rèn bản thân !”

NHỚ BẠN
Hoàng Trung Trực

Ngỡ như bạn vẫn đâu đây
Khói hương bảng lãng đất này bình yên
Tình đời đâu dễ nguôi quên
Những dòng máu thắm viết nên sử vàng

Trời xanh mây trắng thu sang
Mình ta đứng giữa nghĩa trang ban chiều
Nhớ bao đồng đội thương yêu
Đã nằm lòng đất thấm nhiều máu xương

Xông pha trên các chiến trường
Chiều nay ta đến thắp hương bạn mình

MẢNH ĐẠN TRONG NGƯỜI
Hoàng Trung Trực

Bao nhiêu mảnh đạn gắp rồi
Vẫn còn một mảnh trong người lạ thay
Nắng mưa qua bấy nhiêu ngày
Nó nằm trong tuỹ xương này lặng câm…

Thời khói lửa đã lui dần
Tấm huân chương cũng đã dần nhạt phai
Chiến trường thay đổi sớm mai
Việt Nam nở rộ tượng đài vinh quang.

Thẳng hàng bia mộ nghĩa trang
Tên đồng đội với thời gian nhạt nhoà
Muốn nguôi quên lãng xót xa
Hát cùng dân tộc bài ca thanh bình

Thế nhưng trong tuỷ xương mình
Vẫn còn mảnh đạn cố tình vẹn nguyên
Nằm hoài nó chẳng nguôi quên
Những ngày trở tiết những đêm chuyển mùa

Đã qua điều trị ngày xưa
Nó chai lỳ với nắng mưa tháng ngày
Hoà bình đất nước đổi thay
Đêm dài thức trắng, đau này buồn ghê

Khi lên bàn tiệc hả hê
Người đời uống cả lời thề chiến tranh
Mới hay cuộc sống yên lành
Vẫn còn mảnh đạn hoành hành đời ta.

BỀN CHÍ
Hoàng Trung Trực

Chỉ có chí mới giúp ta đứng vững
Và dòng thơ vực ta dậy làm người
Giờ ta hiểu vì sao Đặng Dung mài kiếm
Thơ “Thuật hoài” đau cảnh trần ai.

Cụ Nguyễn Du vì sao nén thở dài
Quan san cả trong lòng người áo gầm
Lầu Ngưng Bích vì đâu Kiều xế bóng
Khúc “Đoạn trường” dậy sóng nhớ lòng ai

Phạm Ngũ Lão sớm xuất chúng hơn người
Vì sao thành một hiền nhân trầm mặc
Ai chộn rộn đi kiếm tìm quyền lực
Để đời Ức Trai phải chịu án Lệ Chi Viên

Thương Nguyễn kim nặng lòng tri kỷ
Xoay cơ trời tạo lại nghiệp nhà Lê
Giữa sa trường phải chịu thác mưu gian
Gương trung liệt dám quên mình vì nước

Ơn Trạng Trình nhìn sâu thế nước
Miền Đằng Trong hiến kế Nguyễn Hoàng
Hoành Linh Lũy Thầy dựng nghiệp phương Nam
Đào Duy Từ người Thầy nhà Nguyễn

Sông núi này mỏi mòn cố quận
Hạnh Phúc là gì mà ta chưa hay
Ta đọc Kiều thương hàn sĩ đời nay
Còn lận đận giữa mênh mang trời đất.

Ta an viên vợ con, em trai Thầy học
Anh trai ta lưu ‘Khát vọng” ở đời
Chỉ có chí cùng niềm tin chân thật
Và dòng thơ vực ta dậy làm người

TRÒ CHUYỆN VỚI THIỀN SƯ
Hoàng Trung Trực

Vất bỏ ngoài tai mọi chuyện đời
Lòng không vướng bận dạ an thôi
Ráng vun đạo đức tròn nhân nghĩa
Huệ trí bùng khai tỏa sáng ngời

Lòng lộng đêm nghe tiếng mõ kinh
Bao nhiêu ham muốn bỗng an bình
Tâm tư trãi rộng ngàn thương mến
Mong cả nhân loài giữ đức tin.

Thượng Đế kỳ ba gíáo đô đời
Vô minh cố chấp tại con người
Thánh Tiên tùy hạnh tùy công đức
Ngôi vị thiêng liêng tạo bởi Người.

Vững trụ đức tin đạo chí thành
Vô cầu vô niệm bả công danh
Sớm hôm tu luyện rèn thân chí
Đạo cốt tình thương đức mới thành

TRẠNG TRÌNH
Hoàng Trung Trực

Hiền nhân tiền bối xưa nay
Xem thường danh vọng chẳng say tham tiền
Chẳng màng quan chức uy quyền
Không hề nghĩ đến thuyết truyền duy tâm
Đức hiền lưu giữ ngàn năm
Vì Dân vì Nước khó khăn chẳng sờn
Hoàn thành sứ mạng giang sơn
Lui về ở ẩn sáng thơm muôn đời
Tầm nhìn hơn hẳn bao người
Trở thành Sấm Trạng thức thời gương soi.

(*) ‘Trò chuyện với Thiền sư’ là tâm sự của Hoàng Trung Trực với thầy Thích Giác Tâm là vị cao tăng trụ trì ở chùa Bửu Minh, Biển Hồ ‘mắt ngọc Tây Nguyên” Pleiku – Gia Lai, nơi điểm nhấn của dòng sông Sê San huyền thoại, một trong các chi lưu chính của sông Mekong bắt nguồn từ núi Ngọc Linh và Chư Yang Sin nổi tiếng Tây Nguyên, Việt Nam. Bửu Minh (www.chuabuuminh.vn) là ngôi chùa cổ, một trong những địa chỉ văn hóa gốc của Tây Nguyên. Về nơi tịch lặng thơ Thượng tọa Thích Giác Tâm trích dẫn từ nguồn “Đạo Phật ngày nayhttp://www.daophatngaynay.com/vn/van-hoc/tho/15739-ve-noi-tich-lang.html

Về nơi tịch lặng
Thích Giác Tâm

Kính tặng quý thiện hữu cùng một trăn trở, ưu tư cho Đạo Pháp .

Ta rất muốn đi về trong tịch lặng.
Quẳng lại sau lưng nhân thế muộn phiền.
Lòng thao thức Đạo Đời luôn vướng nặng.
Mũ ni che tai, tâm lại hóa bình yên.

Đời chộn rộn sao còn  theo chộn rộn?
Đạo hưng suy ta mất ngủ bao lần.
Đời giả huyễn thịnh suy luôn bề bộn.
Đạo mất còn ta cứ mãi trầm ngâm.

Vai này gánh  cho vai kia nhẹ bớt.
Tìm tri âm ta nặng bước âm thầm.
Sợi tóc bạc trên đầu còn non nớt.
Tháng năm nào ta thấy lại nguồn tâm ?

Gia Lai 10-09-2014

(**) “Đến chốn thung dung”  là thơ Hoàng Kim, nhà khoa học xanh người thầy chiến sĩ quê Quảng Bình, em của Hoàng Trung Trực,

Đến chốn thung dung
Hoàng Kim

Người rất muốn đi về trong tịch lặng
Quẳng lại sau lưng nhân thế muộn phiền
Ta đến chốn thung dung tìm
hoa lúa
Rong chơi đường trần, sống giữa thiên nhiên.

Tâm thanh thản buồn vui cùng nhân thế
Đời Đạo thịnh suy sương sớm đầu cành
Lòng hiền dịu và trái tim nhẹ nhõm
Kho báu chính mình phúc hậu an nhiên.

Trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt (**)
Trăng rằm xuân lồng lộng bóng tri âm
Người tri kỷ cùng ta và năm tháng.
Giác Tâm:
Ta về còn trọn niềm tin.

Hai anh em giữa Sài Gòn giải phóng (Hoàng Trung Trực sư 341, Hoàng Kim sư 325B)

 

HOÀNG TRUNG TRỰC ĐỜI LÍNH
Hoàng Trung Trực
    
Cuộc đời và thời thế


Năm Thân con khóc chào đời
Sức sống sữa Mẹ suốt đời tình thương
Nước nhà gặp cảnh tai ương
Việt Nam là bãi chiến trường giao tranh
 Pháp Nhật Tàu tới hoành  hành
Chạy giặc Cha Mẹ phải đành lánh thân
Người dân khổ cực muôn phần
Nước nhà chiến sự, nghèo bần Mẹ Cha
Trường Sơn rừng núi là nhà
Rừng thiêng nước độc, ta ra chẳng thời *

(*) Ernest Hemingway (1899-1961), tác giả của kiệt tác Ông già và biển cả, Giã từ vũ khí, là một cựu quân nhân, sống trãi gần trọn đời trong chiến tranh và nghèo đói của chiến tranh thế giới thứ nhất và thứ hai, nên ông đã mô tả người như ông là thế hệ cầm súng, không hề được tận hưởng chất lượng cuộc sống, là “Thế hệ bỏ đi” (Lost Generation) của cộng đồng người Paris xa xứ; xem Borlaug và Hemingway
                                 
Tuổi thơ trong nghèo đói


Ai quyền sống được làm người
Mà dân mất nước gặp thời chua cay?
Đời Cha sự nghiệp đổi thay
Lính Tây ngày trước, thời này đánh Tây

Ru ta lời Mẹ đêm ngày
Vọng theo hồn Nước tháng ngày bên Cha
Cha thì chiến đấu đường xa
Mẹ con chạy giặc, cửa nhà thì không
Nỗi niềm cuộc sống đau lòng
Bão mưa tàn phá, gió lồng không ngơi.

Gia đình nhiều nguy nan

Mẹ ta dãi nắng dầm mưa
Lo cho con có cháo dưa học hành
Giữa rừng số phận mong manh
Mẹ phải chịu bệnh hoành hành héo hon
Đời Mẹ chung thủy sắt son
Đời Cha lính chiến tuổi xuân đọa đày
Lời thề nguyên bản xưa nay
Đã là người lính không lay lòng vàng
Bệnh về chẳng chút thở than
Bao nhiêu mầm bệnh Cha mang theo về

Mẹ Cha bao gian khổ

Bệnh sốt rét thật là ghê
Gan lách phù thủng trăm bề hại Cha
Chiến tranh tan cửa nát nhà
Mình Cha xoay xở thật là gian nan
Phận con rau cháo cơ hàn
Tuổi thơ năm tháng bần hàn Mẹ Cha
Tháng ngày khoai muối dưa cà
Đời còn Cha Mẹ đậm đà tình thương
Tình Cha Mẹ, nghĩa Nước Non
Tháng ngày chăm chút vuông tròn hiếu trung.

Tuổi xuân vui lên đường

Lên đường theo lệnh tòng quân

Xa nhà nỗi nhớ bội phần từ đây
Mẹ khóc nước mắt tuôn đầy
Lo con gian khổ cuộc đời chiến binh
Cha không khóc chỉ làm thinh
Tiễn con tựa cửa lặng nhìn theo con

Vần xoay sự nghiệp vuông tròn
Dấu chân Cha trước, nay con theo Người
Gẫm suy mới rõ thế thời
Hoàng Trung Trực đã thành người chiến binh.

 

Giải phóng nước bạn Lào
(10/1963- 5/1965)


Đất Hương Khê , núi Quảng Bình
Vượt Trường Sơn vắt sức mình kiệt hao
Núi Phú Riềng, đất Lạc Xao
Nơi này ghi dấu chiến hào binh ta
Đời nhọc nhằn, thân xót xa

Trĩu vai súng đạn, gạo là quanh lưng        
Vượt bao đèo dốc  hành quân
Liên hồi tác chiến, máu dầm mồ hôi
Lại thêm sốt rét từng hồi
Thuốc men chẳng có, tháng trời toàn măng
Chia nhau chén cháo cứu thân
Trên bom, dưới đạn, ngủ hầm, tình thâm.

Nhớ người thân đã khuất

Đêm trường thân lại xông pha
Theo chân thủ trưởng vào ra trận thù
Đạn giặc đan chéo như mưa
Đôi chân thủ trưởng đạn cưa mất rối
Trong ta tỉnh thức tình người
Cõng ngay thủ trưởng xuôi đồi chạy lui
Đêm rừng trời lại tối thui
Lạc mất phương hướng tới lui tìm đường
Quay đầu hỏi ý tình thương
Mới hay thủ trưởng tìm đường đi xa


Không hơi thở một xác ma
Làm ta thực sự xót xa một mình

Người thấm mệt, phút tử sinh
Giữa rừng im ắng lặng thinh không người 
Chỉ nghe tiếng thú quanh đồi

Làm cho ớn lạnh khắp người của ta
Song vì cái đói không tha
Cho nên khiếp sợ theo đà mất tiêu
Trãi qua những phút hiểm nghèo
Vác xác thủ trưởng cố leo tìm đường.

Giữa rừng núi, không người thương
Còn đâu phương hướng, tai ương không người
Một tâm hồn một cuộc đời
Không gạo không lửa, giữa trời rừng xanh
Một mình tính mạng mong manh
Tình thương người lính giúp anh chí bền
Năm ngày thủ trưởng vẫn nguyên
Tìm ra đơn vị bình yên lòng mình.

Tin Mẹ mất giữa chiến trường

Nỗi đau nghiệt ngã vô hình
Nhận tin Mẹ mất nội tình cách phân
Công ơn Mẫu tử tình thâm
Căn bệnh đã cướp Mẫu thân mất rồi
Còn đâu bóng dáng hình Người
Đất trời nghiêng ngữa hại đời ta đây
Nỗi lòng đau khổ khôn khuây
Mẹ hiền ơi phút giờ này còn đâu
Lòng buồn tê tái đêm thâu
Trần gian đâu nữa Mẹ hiền, Cha ơi

Buồn thương Cha nỗi nhớ Người
Tình thương Cha Mẹ, trên đời còn Cha 

Con không khóc chỉ nhớ nhà
Trăm lần thương Mẹ xót xa phận mình
Làm người lính chiến tử sinh
Chiến tranh tàn khốc dứt tình Mẹ Cha
Tang thương đến không về nhà
Cuộc đời người lính vẫn là chiến tranh
Máu bạn đổ tiếp bên anh
Xác xương vùi dập trời xanh phủ rừng
Núi đồi che ấm thân lưng
Nhóm lên ngọn lửa bập bùng Trường Sơn.

(xem tiếp chuỗi chiến dịch và sự kiện chính …)

.MỘT SỐ CÁC GHI CHÚ

Gia đình tôi trong ngày viếng bác Giáp

Từ Khát vọng đến CNM365

VƯỜN QUỐC GIA VIỆT NAM
Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim

Việt Nam hiện có 33 Vườn Quốc Gia (VQG) Ở vùng núi và trung du phía Bắc có 1) Tam Đảo, 2) Hoàng Liên, 3) Ba Bể, 4) Cao nguyên đá Đồng Văn, 5) Phia Oắc – Phia Đén, 6) Bái Tử Long, 7) Xuân Sơn, 8) Quần thể di tích danh thắng Yên Tử; Ở vùng đồng bằng sông Hồng có 9) Ba Vì, 10) Cúc Phương, 11) Cát Bà, 12) Xuân Thủy; Ở vùng ven biển bắc Trung Bộ có 13) Phong Nha – Kẻ Bàng, 14) Bến En, 15) Pù Mát, 16) Vũ Quang ; Ở vùng ven biển nam Trung Bộ có 17) Bạch Mã, 18) Núi Chúa, 19) Phước Bình ; Ở vùng Tây Nguyên có 20) Chư Yang Sin, 21) Bidoup Núi Bà, 22) Chư Mom Ray, 23) Kon Ka Kinh, 24) Yok Đôn; Ở vùng Đông Nam Bộ có 25) Cát Tiên, 26) Lò Gò-Xa Mát, 27) Bù Gia Mập,  28) Côn Đảo; Ở vùng Tây Nam Bộ có 29) Mũi Cà Mau, 30) Phú Quốc, 31) Tràm Chim, 32) U Minh Hạ,  33) U Minh Thượng.

Riêng Quần thể di tích và danh thắng Yên Tử là khu di tích lịch sử văn hóa thiên nhiên đặc biệt gắn liền với sự ra đời, hình thành và phát triển của thiền phái Trúc Lâm Việt Nam được kỳ vọng là di sản thế giới liên tỉnh Bắc Giang, Hải Dương và Quảng Ninh đầu tiên ở Việt Nam đã lập hồ sơ trình UNESCO công nhận nhưng tạm thời dừng lại vì những lý do đặc biệt liên quan đến sự bảo đảm an ninh và phát triển bền vững quốc gia. 32 Vườn Quốc Gia Việt Nam (chưa tính Quần thể di tích và danh thắng Yên Tử) có tổng diện tích khoảng 10.455,74 km² (trong đó có 620,10 km² là mặt biển), chiếm khoảng 3% tổng diện tích lãnh thổ đất Việt Nam.

Vườn Quốc Gia Việt Nam đầu tiên là Vườn Quốc Gia Cúc Phương được công nhận năm 1966 thuộc địa bàn 3 tỉnh Ninh Bình, Thanh Hóa, Hòa Bình. Vườn Quốc Gia Việt Nam mới được công nhận năm 2018 là Khu bảo tồn thiên nhiên Phia Oắc – Phia Đén quy mô diện tích 10.245,6 ha nằm trên địa bàn 5 xã của huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng.

CatTien

Thiên nhiên là bà mẹ của cuộc sống. Đến với thiên nhiên, chúng ta được tắm mình trong nguồn năng lượng vô tận của trời xanh, cây xanh, gió mát và không khí  an lành. Ngắm di vật cổ ở Nam Cát Tiên, đối thoại với lịch sử văn hóa của một vùng đất, ta hiểu được tường tận nhiều điều. Vườn Quốc gia Việt Nam là một pho sách mở cần được khám phá, khai mở, bảo tồn và phát triển. Đó là một nguồn năng lượng dồi dào và mạch viết vô tận. Đặc biệt là khi kết nối hòa quyện được những di sản vô giá của dân tộc với các di sản lịch sử địa lý văn hóa du lịch của toàn thế giới. Dưới đây là tóm tắt giới thiệu về Di sản 33 Vườn Quốc gia Việt Nam.

Vườn Quốc Gia ở Việt Nam 33 Quần thể di tích danh thắng Yên Tử (ảnh tư liệu HK, trích dẫn bởi Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim 2018)

33. Quần thể di tích danh thắng Yên Tử là quần thể liên tỉnh Quảng Ninh Bắc Giang Hải Dương đặc biệt nổi tiếng lần đầu tiên ở Việt Nam được đệ trình Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hiệp quốc UNESCO xem xét, công nhận là Di sản Thế giới, nhung tạm thời dừng lại vì những lý do đặc biệt liên quan đến sự bảo đảm an ninh và phát triển bền vững quốc gia. Núi Yên Tử nối 99 ngọn núi Nham Biền tới Tam Đảo của vòng cung Đông Triều “Trường thành chắn Bắc” với bề dày dãy núi non đặc biệt hiểm trở khoảng 400 km núi đá che chắn mặt Bắc của thủ đô Hà Nội non sông Việt. “Trăm năm tích đức tu hành. Chưa lên Yên Tử chưa thành quả tu”(Non thiêng Yên Tử, ảnh Hoàng Kim).

Vườn Quốc Gia ở Việt Nam 1 VQG Tam Đảo (ảnh tư liệu VQG Tam Đảo, trích dẫn bởi Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim 2018)

1. Vườn quốc gia Tam Đảo là một vườn quốc gia của Việt Nam, nằm trọn trên dãy núi Tam Đảo, một dãy núi lớn dài trên 80 km, rộng 10–15 km chạy theo hướng Tây Bắc Đông Nam. Vườn trải rộng trên ba tỉnh Vĩnh Phúc (huyện Tam Đảo), Thái Nguyên (huyện Đại Từ) và Tuyên Quang (huyện Sơn Dương), cách Hà Nội khoảng 75 km về phía Bắc.Tọa độ địa lý của Vườn quốc gia Tam Đảo: 21°21′-21°42′ vĩ Bắc và 105°23′-105°44′ kinh Đông. Ngày 6 tháng 3 năm 1986, Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định số 136/TTg về việc phê duyệt “Dự án khả thi đầu tư xây dựng Vườn quốc gia Tam Đảo”. Ngày 15 tháng 5 năm 1996 Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã có quyết định số 601 NN-TCCB/QĐ về việc thành lập Vườn quốc gia Tam Đảo trực thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn.

Vườn Quốc Gia ở Việt Nam 2 VQG Hoàng Liên (ảnh tư liệu VQG Hoàng Liên, trích dẫn bởi Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim 2018)

2. Vườn quốc gia Hoàng Liên là một vườn quốc gia Việt Nam được thành lập năm 2002, nằm ở độ cao từ 1.000-3000m so với mặt biển trên dãy Hoàng Liên Sơn thuộc địa bàn các huyện Than Uyên, Phong Thổ tỉnh Lai Châu và Sa Pa của tỉnh Lào Cai. Tọa độ địa lý của vườn từ 22°07′-22°23′ độ vĩ Bắc và 103°00′-104°00′ độ kinh Đông. Trước khi được công nhận là vườn quốc gia, khu vực này là một khu bảo tồn thiên nhiên mang tên Khu Bảo tồn Thiên nhiên Hoàng Liên – Sa Pa từ năm 1996. Vườn quốc gia Hoàng Liên được thành lập theo Quyết định số 90/2002/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 12 tháng 7 năm 2002, về việc chuyển Khu Bảo tồn thiên nhiên Hoàng Liên-Sa Pa thành Vườn quốc gia Hoàng Liên. Vườn quốc gia Hoàng Liên được chọn là một Trung tâm đa dạng của các loài thực vật trong Chương trình bảo tồn các loàì thực vật của Hiệp hội Bảo vệ Thiên nhiên Thế giới (IUCN). Vườn cũng được Quỹ môi trường toàn cầu được xếp vào loại A, cao cấp nhất về giá trị đa dạng sinh học của Việt Nam. Năm 2006, Vườn quốc gia Hoàng Liên được công nhận là Vườn di sản ASEAN.

Vườn Quốc Gia ở Việt Nam 3 VQG Ba Bể (ảnh tư liệu VQG Ba Bể, trích dẫn bởi Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim 2018)

3. Vườn quốc gia Ba Bể là một vườn quốc gia, rừng đặc dụng, khu du lịch sinh thái của Việt Nam, nằm trên địa phận tỉnh Bắc Kạn, với trung tâm là hồ Ba Bể. Vườn quốc gia Ba Bể được thành lập theo Quyết định số 83/TTg ngày 10 tháng 11 năm năm 1992 của Thủ tướng Chính phủ. Vườn quốc gia Ba Bể nằm trên địa bàn 5 xã Nam Mẫu, Khang Ninh, Cao Thương, Quảng Khê, Cao Trĩ thuộc huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn, có tọa độ là 105°36′55″ kinh đông, 22°24′19″ vĩ bắc. Vườn quốc gia này Hà Nội 250 km về phía bắc, thuộc địa bàn huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn và cách thành phố Bắc Kạn 50 km. Vườn quốc gia Ba Bể là một điểm du lịch sinh thái lý tưởng với phong cảnh kỳ thú và sự đa dạng sinh học. Năm 2004, Ba Bể đã được công nhận là một di sản thiên nhiên của ASEAN. Trước đó, đây từng là Khu danh lam thắng cảnh và Di tích lịch sử, là Khu rừng cấm hồ Ba Bể. Vườn Quốc gia Ba Bể được thành lập theo quyết định số 83/TTg ngày 10/11/1992 của Chính phủ với diện tích 7.610 ha, trong đó có 3.226 ha là phân khu bảo vệ nghiêm ngặt và hơn 300 ha diện tích mặt hồ. Những nghiên cứu khoa học khẳng định đây là khu vực giàu có về đa dạng sinh học, có nhiều nét đặc trưng của hệ sinh thái điển hình rừng thường xanh trên núi đá vôi và hồ trên núi, rừng thường xanh đất thấp. Trung tâm của vườn là hồ Ba Bể với chiều dài tới 8 km và chiều rộng 800 m, nằm trên độ cao 178 m, là “hồ tự nhiên trên núi có ý nghĩa đặc biệt quan trọng ở Việt Nam”. Nằm trên vùng núi đá vôi, vốn có rất nhiều hang động caxtơ….mà hồ vẫn tồn tại với cảnh đẹp mê người là điều diệu kì, hấp dẫn mà thiên nhiên ban tặng. Vườn Quốc gia Ba Bể có 1.281 loài thực vật thuộc 162 họ, 672 chi, trong đó có nhiều loài thực vật quý hiếm có giá trị được ghi vào Sách Đỏ của Việt Nam và Thế giới.

Vườn Quốc Gia ở Việt Nam 4 VQG Bái Tử Long (ảnh tư liệu VQG Bái Tử Long, trích dẫn bởi Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim 2018)

4. Vườn quốc gia Bái Tử Long là một khu bảo tồn sinh quyển cấp quốc gia tại khu vực vịnh Bái Tử Long huyện Vân Đồn tỉnh Quảng Ninh Việt Nam. Vườn được thành lập theo quyết định 85/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, ngày 1 tháng 6 năm 2001. Vườn quốc gia Bái Tử Long nằm trong vùng có tọa độ địa lý là: 20°55’05” ÷ 21°15’10” vĩ độ Bắc và 107°30’10” ÷ 107°46’20” kinh độ Đông. Diện tích tự nhiên của vườn bao gồm diện tích đất đai của tất cả các đảo nằm trong khu vực tọa độ trên, kèm theo các vùng biển vùng quanh các đảo này với bề rộng 1 km tính từ đường bờ biển các đảo đó, tổng diện tích là 15.783 ha. Các đảo thuộc vườn quốc gia bao gồm: Ba Mùn, Trà Ngọ Lớn, Trà Ngọ Nhỏ, Sậu Nam, Sậu Động, Đông Ma, Hòn Chính, Lò Hố, Máng Hà Nam, Máng Hà Bắc, Di To, Chầy Cháy, Đá Ẩy, Soi Nhụ,…, và các đảo nhỏ trong vùng tọa độ nêu trên.

05VQGXuanSon
Vườn Quốc Gia ở Việt Nam 5 VQG Xuân Sơn (ảnh tư liệu VQG Xuân Sơn, trích dẫn bởi Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim 2018)

5. Vườn quốc gia Xuân Sơn là một vườn quốc gia nằm trên địa bàn huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ. Vườn quốc gia Xuân Sơn với kiểu địa hình núi đá vôi đặc trưng, được chuyển từ khu bảo tồn thiên nhiên Xuân Sơn thành vườn quốc gia theo Quyết định của Thủ tướng chính phủ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam số 49/2002/QĐ-TTg ngày 17 tháng 4 năm 2002. Vườn quốc gia Xuân Sơn nằm ở huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ, cách thành phố Việt Trì 80 km, Hà Nội 120 km, có tọa độ địa lý: Từ 21°03′ đến 21°12′ vĩ bắc và từ 104°51′ đến 105°01′ kinh đông, phạm vi ranh giới được xác định: Phía Đông giáp các xã Tân Phú, Minh Đài, Long Cốc, huyện Tân Sơn. Phía Tây giáp huyện Phù Yên (tỉnh Sơn La), huyện Đà Bắc (tỉnh Hoà Bình). Phía Nam giáp huyện Đà Bắc (tỉnh Hoà Bình). Phía Bắc giáp xã Thu Cúc, huyện Tân Sơn. Vườn quốc gia Xuân Sơn nằm trên hệ thống núi đá vôi có độ cao từ 700 đến 1.300 m. Trong khu vực có rất nhiều hang đá. Vườn quốc gia Xuân Sơn có diện tích vùng đệm 18.369 ha, trong đó diện tích vùng lõi là 15.048 ha khu vực bảo vệ nghiêm ngặt là 11.148 ha, Điểm đặc trưng của Xuân Sơn là vườn quốc gia duy nhất có rừng nguyên sinh trên núi đá vôi (2.432 ha). Xuân Sơn được đánh giá là rừng có đa dạng sinh thái phong phú, đa dạng sinh học cao, đa dạng địa hình kiến tạo nên đa dạng cảnh quan.

Vườn Quốc Gia ở Việt Nam 6 VQG Ba Vì (ảnh tư liệu VQG Ba Vì, trích dẫn bởi Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim 2018)

6. Vườn quốc gia Ba Vì là một vườn quốc gia của Việt Nam, nằm trên khu vực dãy núi Ba Vì thuộc huyện Ba Vì (Hà Nội) và hai huyện Lương Sơn, Kỳ Sơn tỉnh Hòa Bình với diện tích 10.814,6 ha, có toạ độ địa lý: từ 20 độ 55′ đến 21 độ 07′ vĩ bắc và 105 độ 18′ đến 105 độ 30′ kinh đông, cách trung tâm Hà Nội 50 km về phía tây, và cách Sơn Tây, Hà Nội 15 km, được thành lập năm 1991 theo quyết định số 17-CT ngày 16 tháng 01 năm 1991 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Việt Nam. Vườn quốc gia Ba Vì từ đầu thế kỉ 20, đã là địa danh nổi tiếng về sự đa dạng hệ sinh thái và phong cảnh đẹp, khí hậu mát mẻ. Vườn quốc gia này nằm trong dãy núi cao chạy dọc theo hướng đông bắc – tây nam với đỉnh Vua cao 1.296 m, đỉnh Tản Viên cao 1.227m, đỉnh Ngọc Hoa cao 1.131 m. Về động vật, có 45 loài thú, 115 loài chim, 61 loài bò sát và 27 loài ếch nhái, trong đó có nhiều loài quý hiếm có tên trong SáchXem tiếp >>

  Dạy và học 11 tháng 12(11-12-2021)


 

 

DẠY VÀ HỌC 11 THÁNG 12
Hoàng Kim
CNM365 Tình yêu cuộc sốngĐến với bài thơ hay; Trà sớm thương người hiền; Miên Thẩm thầy thơ Việt; Sơn Nam ông già Nam Bộ; Thầy nghề nông chiến sĩ; Di sản thế giới tại Việt Nam; Sông Hoàng Long chảy hoài; Hoàng Trung Trực đời lính; Giấc mơ lành yêu thương; Đối thoại với Thiền sư; Câu chuyện ảnh tháng 12; Hương sen vùng Đồng Tháp; Nguyễn Hiến Lê sao sáng; Trung Quốc một suy ngẫm; Nông lịch tiết Đại tuyết; Nắng Đông; Lời Thầy dặn thung dung; Đỗ Phủ thương đọc lại; Đặng Dung thơ Cảm hoài; Lên Việt Bắc điểm hẹn; Lên non thiêng Yên Tử; Chuyện đồng dao cho em; Đêm Yên Tử, Ngày 11 tháng 12 năm 1819 là ngày sinh của Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, danh sĩ Việt Nam, hoàng thân, nhà thơ lớn thời nhà Nguyễn (mất năm 1870). Ngày 11 tháng 12 năm 1926 là ngày sinh Sơn Nam, nhà văn, nhà báo, nhà nghiên cứu văn hóa nổi tiếng người Việt (mất năm  2008). Ngày 11 tháng 12 năm 1997 ngày bắt đầu kí kết Nghị định thư Kyoto (Kyoto Protocol) Chương trình khung về biến đổi khí hậu toàn cầu của Liên Hiệp Quốc với mục tiêu cắt giảm lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính; Bài viết chọn lọc ngày 11 tháng 12: Đến với bài thơ hay; Trà sớm thương người hiền; Miên Thẩm thầy thơ Việt; Sơn Nam ông già Nam Bộ; Thầy nghề nông chiến sĩ; Di sản thế giới tại Việt Nam; Sông Hoàng Long chảy hoài; Hoàng Trung Trực đời lính; Thầy nghề nông chiến sĩ; Giấc mơ lành yêu thương; Đối thoại với Thiền sư; Câu chuyện ảnh tháng 12; Hương sen vùng Đồng Tháp; Nguyễn Hiến Lê sao sáng; Trung Quốc một suy ngẫm; Nông lịch tiết Đại tuyết; Nắng Đông; Lời Thầy dặn thung dung; Đỗ Phủ thương đọc lại; Đặng Dung thơ Cảm hoài; Lên Việt Bắc điểm hẹn; Lên non thiêng Yên Tử; Chuyện đồng dao cho em; Đêm Yên Tử; Thông tin tại http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-11-thang-12;

 

 

ĐẾN VỚI BÀI THƠ HAY
Hoàng Kim

tuyển chọn chùm thơ hay:”Khát vọng” Hoàng Ngọc Dộ; “Trạng Trình” Hoàng Trung Trực; “
Lời Thầy dặn thung dung” Hoàng Kim; “May mà” Lê Đình Cánh; “Bảy Núi miền ký ức” Nguyễn Chu Nhạc; “Về miền Tây yêu thương” Hoàng Kim; “Thành Nam chiều chớm đông” Hoàng Gia Cương; “Em tôi” Lê Thuận Nghĩa; “Biển và em” Nguyên Hùng; “Ở đâu” Phan Chí Thắng; “Nhớ nốt lặng bên đời” Hoàng Kim; “Mượn và trả” Nguyễn Duệ Mai; “Bến trần gian đò mỏng”; “Thiếu một mùa đông” “Tiếng chuông chùa” “Rụng nắng ” “Vòng quay” Nguyễn Duệ Mai; “Sáng nay vui với trẻ thơ” Hoàng Kim; “Giày và thơ” Thanh Vân; “Em nào có hững hờ” Mai Khoa; Uống rượu ở quán Hàm Hanh” “Đãi trăng”; “Hát vu vơ” “Không hẹn hò đời hóa hoang vu” Lâm Cúc; “Nói với sông Đồng Nai” Nguyễn Hoài Nhơn; “Về với vùng cát đá“; “Giấc mơ lành yêu thương“; “Vui đi dưới mặt trời “; “Trường tôi nôi yêu thương” “Một niềm tin thắp lửa” Hoàng Kim

 

 

KHÁT VỌNG
Hoàng Ngọc Dộ

Cảnh mãi theo người được đâu em
Hết khổ hết cay hết vận hèn
Nghiệp sáng đèn giời đà chỉ rõ
Rồi đây cay đắng chẳng buồn chen.

http://hoangkimlong.wordpress.com/category/hoang-ngoc-do-khat-vong

 

 

TRẠNG TRÌNH
Hoàng Trung Trực

Hiền nhân tiền bối xưa nay
Xem thường danh vọng chẳng say tham tiền
Chẳng màng quan chức uy quyền
Không hề nghĩ đến thuyết truyền duy tâm.

Đức hiền lưu giữ ngàn năm
Vì Dân vì Nước khó khăn chẳng sờn
Hoàn thành sứ mạng giang sơn
Lui về ở ẩn sáng thơm muôn đời.

Tầm nhìn hơn hẳn bao người
Trở thành Sấm Trạng thức thời gương soi.

LỜI THẦY DẶN THUNG DUNG
Hoàng Kim


Việc chính đời người chỉ ít thôi
Chuyên tâm đừng bạn chuyện trời ơi
Phúc hậu suốt đời làm việc thiện
Di sản muôn năm mãi sáng ngời

xem tiếp
#Thungdung; htt

 

Cầu Bạch sông Ngọc Lam Kinh (ảnh Đỗ Dung)

 

MAY MÀ…
Lê Đình Cánh 

May mà Huế ở Thừa Thiên
Kinh kỳ thuở trước còn nguyên cổ thành
Tháp xưa còn tiếng chuông lành
Tường rêu còn nhuộm sứ sành sắc lam.

May mà Huế ở trời Nam
Còn câu đối cũ dựng am sách nghèo
Nhà vườn còn gác trăng treo
Còn diều khuê các bơi chèo gió xanh.

Nếu mà Huế ở xứ Thanh
Lầu son ngói nát, Cổ thành gạch tan
Hán Nôm nghìn tuổi thành than
Nền xưa dấu cũ hoang tàn nắng mưa.

Lời bình của Bulukhin (Nguyễn Quốc Toàn)

Lê Đình Cánh là một trong những nhà thơ mà tôi yêu thich. Trong khi lục bát Đồng Đức Bốn xuất thần, bạo liệt, có lúc bụi bặm… Lục bát Nguyễn Duy tài hoa mà hóm hỉnh, thì lục bát Lê Đình Cánh cứ rỉ rả mà thâm trầm sâu cay. Thọ Xuân là quê ông,”May mà” là bài thơ ông nói về quê mình?? Ở đó có Lam Kinh, một khu di tích rộng khoảng 30 ha ở xã Xuân Lam. Lam Kinh có đến 14 công trình di tích như Ngọ môn, Sân rồng, Chính điện Lam Kinh, Khu thái miếu triều Lê sơ, Lăng mộ các vua và hoàng hậu, Vĩnh lăng, Bia Vĩnh Lăng, Hựu lăng, Chiêu lăng, Dụ lăng, Kinh lăng, Khu đền thờ Lê Lợi, Khu đền thờ Lê Lai, Đền thờ Bố Vệ. Nhà nước đã bỏ ra vô số công sức và tiền của để tôn tạo phục chế lại Lam Kinh nhưng rồi không hiểu sao vong linh các vua Lê cứ hỏi nhau nơi đây là đâu nhỉ? Có phải là Lam Kinh vàng son trên đất Thọ Xuân không? Lê Đình Cánh làm thơ chứ không làm vua nên ông không hỏi thế. Mà hỏi ai? và ai trả lời? ông chỉ hú vía thốt lên “may mà” nghe sao mà ai oán. 

May mà Huế ở Thừa Thiên
Kinh kỳ thuở trước còn nguyên cổ thành 

Đọc đến đó chưa ai hiểu nhà thơ nói gì. Thì Huế vẫn còn cho nên Unesco mới phong tặng danh hiệu Di sản văn hoá của nhân loại chứ sao. Tiếp theo tác giả vẫn tiếp tục rỉ rả với cố đô Huế

May mà Huế ở trời Nam
Còn câu đối cũ dựng am sách nghèo…

Thế rồi đột ngột như cầu thủ nhà nghề phạt trực tiếp 11 mét. Tác giả cho bóng vào gôn 

Nếu mà Huế ở xứ Thanh 
Lầu son ngói nát cổ thành gạch tan

Lê Đình Cánh tuyệt nhiên không nói đến Lam Kinh, vì sao vậy? vì Xứ Thanh là phát tích nhiều triều đại vua chúa chứ đâu chỉ có các đời vua thời hậu Lê. Có lẽ những Lê Hoàn, những chúa Trịnh, chúa Nguyễn rồi vua Nguyễn cũng không còn lăng tẩm mà về vì hậu duệ thời a còng đang làm cái việc gọi là duy tu và tôn tạo các di tích lich sử và văn hoá…

BẢY NÚI MIỀN KÝ ỨC
Nguyễn Chu Nhạc


(6)
Bảy Núi,
những chóp mái
chùa Khơ-me vời vợi
vươn lên trời xanh
những phum sóc quây quần,
nơi nương náu
tình thần mộ đạo
những dân lành Phật giáo
quanh năm cày ruộng làm nương,
vất vả sớm hôm
chẳng một lời than
bao nhiêu của cải
sẵn lòng dâng cửa Phật,
chỉ giữ lại tấm lòng chân thật,
làm vốn riêng cho mình,
tự biết phận chúng sinh,
nương cửa Phật
làm những điều phúc đức,
tự răn lòng
chờ làm điều gì ác,
đến rắn thần Nagar, chằn tinh Yeak
dẫu hung dữ bao nhiêu
cũng quy Phật
hiền từ.
hãy như chim thần Krud
giang cánh lấy thân đỡ mái chùa,
hay tiên nữ Apsara ca múa
hay như thần Bayon canh bốn phía,
giữ lành cõi Phật an vui
giữ bình yên cho cuộc sống con người,
được cấy trồng mùa vụ tốt tươi,
niềm hạnh phúc dưới mái nhà no ấm.
để mỗi mùa mưa
hội đua bò náo nhiệt
để tết Đôn-ta
nhà đầy bánh trái
dâng lên lễ bái ông bà,
để tết Cholchnam Thmay
té nước thỏa thuê
người người dày thêm phúc lộc,

Bày Núi,
dưới bóng núi Dài, núi Tượng
tự bao giờ
sinh đạo Tứ ân,
những người đàn ông,
trang phục bà ba đen
bới tóc, râu chòm guốc mộc,
lấy Hiếu nghĩa ở đời làm trọng,
ân tổ tiên,
ân đất nước hàng đầu,
ân Tam bảo gốc rễ bền sâu,
ân đồng bào
và bao la nhân loại,
Đức Bổn sư, Ngô Lợi,
xưa kia kháng giặc Tây
lập đạo chiêu nhân,
theo chiếu Cần vương
lập ấp khẩn hoang,
nuôi chí bền gây dựng,
dẫu chẳng thể dời non lấp biển,
đạo còn đây
ân tiên tổ, non sông,
học Phật tu nhân,
giữ đạo làm dân,
chuyện thường tình,
âu cũng là trọn nghĩa,…

(trích Trường ca)

 

oitiengvietnhubunvanhulua

 

VỀ MIỀN TÂY YÊU THƯƠNG
Hoàng Kim

Sao anh chưa về lại miền Tây.
Nơi một góc đời anh ở đó.
Cần Thơ Sóc Trăng sông Tiền Sông Hậu,…
Tên đất tên người chín nhớ mười thương.

Anh có về Bảy Núi Cửu Long,
Nắng đồng bằng miên man bao nỗi nhớ.
Kênh ông Kiệt thương mùa mưa lũ….
Anh có về nơi ấy với em không?

*

Mình về với đất phương Nam.
Ninh Kiều thắm nước, Sóc Trăng xanh đồng.
Về nơi ấy với em không ?
Bình minh Yên Tử mênh mông đất trời.

Ta đi cuối đất cùng đời
Ngộ ra hạnh phúc thảnh thơi làm Người.

 

 

THÀNH NAM CHIỀU CHỚM ĐÔNG
Hoàng Gia Cương


Thành Nam buổi ấy tôi về
Nhẫn nha chuối ngự, nhâm nhi kẹo Sìu (*)
Góc hồ gió thổi đìu hiu
Thoảng đâu tiếng ếch cuối chiều bâng quơ…

Người xưa trong cõi sa mù
Đơn sơ nấm mộ bên bờ nắng mưa
Trăm năm khuất một đời thơ
Nhân tình thấm đẫm chát chua mặn mà .

Ngẫm nhìn thế sự gần xa
Biết là cốt cách, biết là đắng cay-
Những nhà trào lộng xưa nay
Bông phèng mong để lấp đầy khổ đau!

Gắng tìm chẳng thấy hương đâu
Chắp tay tôi đứng nghiêng đầu vái ông
Trời tây một vệt ráng hồng
Còn mưa còn gió nên lòng còn se!

Lời nối vần Hoàng Kim:

Trí minh tâm sáng thơ nghề
Đức cao công trọng phước về chính tâm

 

DSC09855

 

EM TÔI
Lê Thuận Nghĩa


(Đến với bài thơ hay. Hoàng Kim. Đọc “
Em tôi” của Lê Thuận Nghĩa “Bao người miếng ngập giữa làng. Hạt mè hột đậu em rang đợi người. Trúc xinh đình rộng phỡn phơi. Em tôi lặng chín cả thời xưa nay.”,  tôi nhớ Hoàng Ngọc Dộ trang thơ khát vọngHôm nay anh được chén cơm ngon. Cửa miệng anh ăn nuốt chả trơn. Bởi lẽ ngày dài em lam lũ. Mà sao chỉ được bữa cơm tròn.“)

Bao người cũ đã mới rồi
Chỉ còn em vẫn kín thời ngày xưa
Đèo heo mấy bận mút mùa
Mờ môi hút gió nhặt thưa nụ cười

Bao người đã bỏ cuộc chơi
Riêng em nhặt nắng cuối trời ra hong…
Bò hóc mắm ủ lòng tong
Để cho bò tó ấm cùng hốc hang

Bao người miếng ngập giữa làng
Hạt mè hột đậu em rang đợi người
Trúc xinh đình rộng phỡn phơi
Em tôi lặng chín cả thời xưa nay

Không lời gửi cuối đuôi mày
Mà nghe đến tận ngất ngây mùa màng
Không lời yểm dụ kim thang
Em tôi bí rợ tập tàng hồn Quê

Em tôi
Cõi mộng
Tôi về…..

BIỂN VÀ EM
Nguyên Hùng

Anh lớn lên trên sóng
Nên say hoài biển xanh
Biển đưa ngàn chiếc võng
Ru bồng bềnh hồn anh.

Em chỉ là giọt nhỏ
Giữa dòng đời lặng trôi
Mà trước em anh ngỡ
Trước muôn trùng biển khơi.

(Đọc tiếp
Nguyên Hùng bạn xứ Nghệ)

Ở ĐÂU?
Phan Chí Thắng

Ở đâu có một ngôi nhà bé
Cửa sổ đèn khuya bóng em ngồi
Giai điệu dân ca ngân nhè nhẹ
Tự tình dạ khúc gửi xa xôi

Ở đâu có một khuôn vườn lặng
Em nở dùm tôi những nụ hồng
Chim hót chào reo bình minh nắng
Sương mòn xao xuyến như mắt mong

Ở đâu có một trời thương nhớ
Em thấu dùm tôi nỗi cháy lòng

Ở đâu có một con thuyền nhỏ
Chở những vần thơ tôi sang sông                                          

 

Đá Dựng Đại Lãnh

 

NHỚ NỐT LẶNG BÊN ĐỜI
Hoàng Kim

Ta vừa mới Đùa vui cùng Thuận Nghĩa
Nay thung dung dạo gót ngắm Đôi bờ
Nốt lặng bên đời sớm xuân thưởng thức
Nghe tơ trời gió mát lẫn vào thơ.

Mượn và trả, thơ hay đong cõi thực
Bến trần gian đò mỏng, Thiếu mùa đông
Tiếng chuông chùa, nghe đêm, nốt lặng
Rụng nắng, Vòng quay, chầm chậm trời chiều.

Mượn và trả
Nguyễn Duệ Mai

Cho em mượn, nắng và mây anh nhé
Để lang thang cùng với cánh chim trời
Cho em mượn, gió và mưa anh nhé
Để yếu mềm cùng với mảnh buồm trôi
Cho em mượn những câu thơ anh nhé
Để lẳng lơ cùng nốt lặng bên đời
Cho em mượn cây cọ màu anh nhé
Để ngoại tình cùng bức vẽ tinh khôi

Em sẽ trả
Đôi vai mình bé nhỏ
Cho anh gục đầu…
Nơi cõi thực đầy vơi…

Bến trần gian đò mỏng…
Nguyễn Duệ Mai

Cần bao nhiêu giọt nắng
Mới thành một mùa vàng?
Cần bao nhiêu khoảnh khắc
Mới xếp được thời gian?

Ta như hai giọt nắng
Không thể gộp thành chiều
Ta như hai cung bậc
Không thể gộp thành yêu!

Cánh chim không lẻ bạn
Vẫn lạc giữa cuộc đời
Con thuyền neo bãi cạn
Vẫn mơ ngày xa khơi…

Bến trần gian đò mỏng
Xô lệch mái chèo đời
Buông câu thơ khỏa sóng
Buồn đầy rồi sẽ vơi…

Thiếu một mùa đông
Nguyễn Duệ Mai

Ta đã vẽ được mùa xuân
Bằng những sắc xanh hy vọng
Có đàn Én chao cánh mỏng
Cây non hé búp yên bình

Ta đã vẽ được mùa hạ
Đôi lằn nắng lửa mưa giông
Đỏ chói ngang trời tia chớp
Bão tan đất lại mềm lòng

Ta đã vẽ được mùa thu
Thấp đằm sắc vàng của nắng
Thầm lặng từng làn mây trắng
Du miên theo ký ức về…

Nhưng chưa vẽ được mùa đông
Tô màu gì cho gió bấc?
Hay là mông lung ánh mắt?
Hay là bôi xám toàn khung?

Bởi không vẽ được mùa đông
Nên vòng luân hồi còn khuyết

Làm sao tu cho trọn kiếp
Khi còn thiếu một mùa đông?!

Tiếng chuông chùa
Nguyễn Duệ Mai

Ta đi mượn tiếng chuông chùa
Đem về gọi nắng để xua mưa dầm
Chuông kêu, đời vẫn lặng câm
Nắng chang chang nắng, mưa dầm dầm mưa!

Hỏi sư, chẳng thấy sư thưa
Chỉ nghe tiếng lá lạc mùa gọi nhau…

Rụng nắng
Nguyễn Duệ Mai
Một chiều,
Rung gốc thời gian
Bao nhiêu hoa nắng
Rụng vàng xuống tay!

Sao không thành quả trên cây
Mà rơi hoang phí thế này…
Nắng ơi!

Vòng quay…
Nguyễn Duệ Mai

Khoác chiều hờ hững trên vai
Ta đi theo vệt nắng cài nghiêng nghiêng

Lá vàng rụng nửa hàng hiên
Mà hồn còn lạc ở miền cỏ hoa

Tuổi qua
Cảm xúc chưa qua
Tình còn
Mộng đã rời xa mất rồi

Xuân tàn
Hạ cũng chơi vơi
Thu chờ se sắt
Đông trôi lặng trầm

Chênh vênh một khúc nguyệt cầm
Nghe thời gian vọng thì thầm bên tai

Khoác chiều chầm chậm lên vai
Bánh xe duyên phận nối dài vòng quay…

 

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là c490e1babfn-ve1bb9bi-bc3a0i-thc6a1-hay.jpg

 

SÁNG NAY VUI VỚI TRẺ THƠ
Hoàng Kim

Sáng nay vui với trẻ
thơ.
Buổi chiều
ướm thử giày xưa giật mình.
Thơ hay đẹp cả lời bình
Mai vàng, mây thắm, lung linh sắc màu

GIÀY VÀ THƠ
Lời bình của
Thanh Vân

Tôi có một anh bạn làm phóng viên viết về mảng thời trang và văn hoá ở một tờ báo ăn khách nọ. Hắn biết tôi thích ngắm gái đẹp, lại có chút năng khiếu “hỏi xoáy đáp xoay “ nên mỗi lần đi phỏng vấn hoa hậu, người mẫu, hắn thường rủ tôi đi cùng. Năm trước, nhờ có tôi mà bài phỏng vấn hoa hậu X của hắn, báo bán chạy như tôm tươi, hắn được Tổng biên tập khen và thưởng cho một tháng du lịch đảo Phú Quốc để theo dõi và viết bài đưa tin về cuộc thi hoa hậu Việt Nam 2014. Tôi còn nhớ như in lần đó, khi nàng ô sin đẹp tuyệt trần (tôi đã tưởng nhầm là hoa hậu) ra mở cổng và dẫn chúng tôi vào phòng khách là lúc hoa hậu X đang thử giày để tối đi dự event từ thiện. Ở một góc phòng khách, một cái tủ to tướng cơ man là giày được trưng bày như ở một cửa hàng giày thời trang trong siêu thị Tràng Tiền Plaza. Như bạn bè người thân trong nhà, nàng vẫy hắn và tôi đến bên gian hàng, nàng chỉ từng đôi, từng đôi một, giới thiệu tên hãng và xuất xứ của nó. Tôi hỏi nàng đây là cửa hàng giày cũ hay giày mới. Giọng nàng ngọt ngào và tự hào : giày xưa đấy anh . Nó đã in dấu chân em trên đại lộ Paris, đại lộ thành Rome, đại lộ Holywood v.v…Buổi phỏng vấn nàng về từ thiện lại thành buổi phỏng vấn về thời trang giày và những bước đi trên sàn catwalk . Nàng hết thử đôi này đến đôi khác, dạo những bước chân uyển chuyển. Anh bạn tôi hết đứng, lại ngồi, lại khom lưng qùi gối chụp ảnh nàng lia lịa. Còn tôi vừa ngắm nàng vừa hỏi nàng những câu hỏi bâng quơ về giày. Tôi còn nhớ một số câu hỏi đại loại như sau:
– Màu sắc giày em yêu thích là màu gì?.
– Em thích màu hồng, màu tím, màu của bình minh và màu của thủy chung.
– Vì sao em lại thích bộ sưu tập giày ?.
– Vì giày gắn liền với bước chân. Nhiều bước chân cộng lại là lịch sử của cuộc đời…
– Em có hay đi lại giày cũ không?
– Thường xuyên. Vì mỗi lần đi giày cũ em như trở về quá khứ.
– Bây giờ đi lại đôi giày lúc đăng quang hoa hậu em thấy chân mình còn vừa không? Một câu hỏi khó và một thoáng bối rối trên khuôn mặt nàng:
– Vẫn vừa. Bàn chân em vẫn không thay đổi, vẫn size 36 như lúc đăng quang.
……..Khi tôi nói chuyện với nàng, anh bạn phóng viên của tôi đã mở máy ghi âm ghi lại tất cả để làm tư liệu bài viết. Ngồi trên xe lúc ra về, hắn lại mở ra nghe và bình luận. Hắn khen nàng là hoa hậu Việt Nam thông minh nhất từ trước đến nay. Hắn khuyên tôi nên viết một bài thơ về nàng, về những đôi giày của nàng. Hắn hứa sẽ đăng trên báo của hắn và trả nhuận bút cao hơn mọi người.

……..Hắn cứ tưởng làm thơ là dễ lắm, dễ hơn viết những câu chuyện lá cải của hắn. Đã mấy tháng nay, đầu óc tôi mụ mị, chẳng viết nỗi một câu thơ nào. Nàng thơ bỏ tôi mà đi thật rồi. Để duy trì và tìm lại cảm xúc thơ, đêm nào tôi cũng miệt mài đọc thơ cho đến tận một giờ sáng rồi mới đi ngủ. Thơ trên báo Văn Nghệ Già, Văn Nghệ Trẻ, Văn Nghệ Quân Đội, Tác Phẩm Mới, thơ trên Facebook, thơ trên các trang Web, thơ tập bạn bè tặng v.v…Giữa núi thơ biển chữ tôi đâm hoang mang. Tập thơ Mùa thu gõ cửa -Lão Chiếu ( tên thật là Nguyễn Thanh Quang ) tặng tôi đã hơn tháng vẫn chưa đọc. Tôi nghĩ lão là anh vô danh tiểu tốt trong làng Văn, lão biên tập và xuất bản chắc có gì hay mà đọc. Ừ lão có nhã ý tặng thì đọc xem sao, biết đâu gặp được bài thơ hay?. Và khi đọc xong tập thơ này, tôi thấy mình đã hiểu sai lão. Với hơn một trăm bài thơ của 54 tác giả tôi đã như lạc vào một vườn hoa đầy hương sắc. Có rất nhiều câu thơ lấp lánh và nhiều bài thơ long lanh, thực sự là thơ. Ví dụ như Lời Thị Màu ( Hoàng Kim Hương ), Khúc em xa, Viết trước cổng chùa ( Đặng Khánh Cường ), Chị ngồi giặt áo ( Nguyễn Lâm Cẩn ), Hà Nội sang mùa ( Đỗ Minh Ngọc ), Gia điệu thu Hà Nội ( Nguyễn Thị Lan Anh ), Đi qua chiều Hà Nội (Dương Thu Hương) v.v…Trong đó tôi ấn tượng nhất là ba bài : Dắt mùa, Vết nứt và Ướm thử giày xưa của Duệ Mai. Trong ba bài tôi lại tâm đắc bài Ướm thử giày xưa. Vì đây là bài thơ viết về giày mà anh bạn tôi đặt hàng viết cho cô hoa hậu trong chuyến đi phỏng vấn mà tôi không sao viết nổi. Bạn thử đọc bài thơ này của Duệ Mai :

ƯỚM THỬ GIÀY XU&A
Nguyễn Duệ Mai

Dừng chân,
Ướm thử giày xưa
Gót qua dâu bể
Còn vừa nữa đâu!

Ngỡ như mới giập bã trầu
Mà thời gian đã nhuốm màu bạc vôi!
Dấu son trải dọc đường đời
Chỉ mình mình biết sạn rơi kẽ nào…

Tháo ra, dốc hết lao xao
Lót thêm lành lặn, trả vào khôi nguyên.
Giày xưa
Da hãy còn mềm
Chân nay
Chai đã cứng thêm mấy phần!

Thở dài, đóng lại tần ngần
Lạc giày, lạc cả bước chân…
Thôi đành!

Bài thơ thật gọn gàng xinh xắn , câu chữ giản dị , nhưng thật ám ảnh và ma mị. Bàn chân khi đã đến tuổi trưởng thành mấy khi thay đổi. Bao năm tôi vẫn đi cỡ giày 41. Nàng hoa hậu vẫn đi giày cỡ 36 đấy thôi. Thế mà Duệ Mai ướm lại giày xưa thì không vừa “ Gót qua dâu bể/ Còn vừa Xem tiếp >>

  Dạy và học 10 tháng 12(10-12-2021)


DẠY VÀ HỌC 10 THÁNG 12
Hoàng Kim

CNM365 Tình yêu cuộc sốngĐền Ngọc Sơn Hồ Gươm; Hà Nội mãi trong tim; Sớm mai qua Đại Lãnh; Cầu Minh Lệ Rào Nan; Di sản thế giới tại Việt Nam; Sông Hoàng Long chảy hoàiGiấc mơ lành yêu thương; Đối thoại với Thiền sư; Hoàng Trung Trực đời lính; Bill Gates học để làm; Hương sen vùng Đồng Tháp; Thầy nghề nông chiến sĩ; Câu chuyện ảnh tháng 12; Đoan Môn Hoàng Thành Thăng Long (hình); Ngày 10 tháng 12 năm 1427 nhằm ngày 22 tháng 11 năm Đinh Mùi là ngày Hội thề Đông Quan tại Đoan Môn Hoàng Thành Thăng Long thủ đô Hà Nội ngày nay, được tổ chức giữa thủ lĩnh nghĩa quân Lam Sơn Lê Lợi và chủ tướng quân Minh là Vương Thông,  Đại Việt giành lại độc lập hoàn thành cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Vua Minh sai La Nhữ Kính mang thư sang phong Trần Cảo làm An Nam Quốc Vương, bãi bỏ quân nam chinh, ra lệnh cho Vương Thông trở về Bắc, trả lại đất cho An Nam, cho sứ thần đi lại, việc triều cống thực hiện theo lệ cũ năm Hồng Vũ.  Quân Minh tổng cộng 10 vạn người đã được hồi hương an toàn. Bình Ngô đại cáo do Nguyễn Trãi viết theo ý chỉ của Lê Lợi đã khẳng định: Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng Thần Vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc, Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà vẫn tim đập chân run. Họ đã tham sống sợ chết mà hoà hiếu thực lòng Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức. Chẳng những mưu kế kì diệu Cũng là chưa thấy xưa nay. Ngày 10 tháng 12 năm 2009 là ngày trình chiếu lần đầu tiên bộ phim Avatar là bộ phim khoa học viễn tưởng có doanh thu hơn 2 tỷ đô la cao nhất mọi thời đại tại Mỹ, Canada và toàn thế giới  Avatar đã được đề cử 9 giải Oscar, bao gồm Phim xuất sắc nhất, Đạo diễn xuất sắc nhất và đoạt 3 giải: Quay phim xuất sắc, Hiệu ứng hình ảnh và Chỉ đạo nghệ thuật xuất sắc nhất. Cameron sau thành công của phim này, đã ký hợp đồng với hãng 20th Century Fox để sản xuất hai phần tiếp theo. Ngày 10 tháng 12 là ngày lễ trao giải thưởng Nobel Hòa bình tại Oslo Na Uy  trong ngày mất của Alfred Nobel; Bài viết chọn lọc ngày 10 tháng 12: Sơn Hồ Gươm; Hà Nội mãi trong tim; Sớm mai qua Đại Lãnh; Cầu Minh Lệ Rào Nan; Di sản thế giới tại Việt Nam; Sông Hoàng Long chảy hoàiGiấc mơ lành yêu thương; Đối thoại với Thiền sư; Hoàng Trung Trực đời lính; Bill Gates học để làm; Hương sen vùng Đồng Tháp; Thầy nghề nông chiến sĩ; Câu chuyện ảnh tháng 12; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-10-thang-12

ĐỀN NGỌC SƠN HỒ GƯƠM
Minh Sơn Hoàng Bá Chuân

Tô điểm Hà Thành một hạt châu
Ấy hồ Lục Thủy tiếng từ lâu
Trăng vờn cổ thụ mây lồng nước
Tháp hướng trời xanh gió lộng cầu
Kiếm bạc hưng bang rùa vẫn ngậm
Bút son kiến quốc hạc đương chầu
Trùng trùng lá biếc hoa phơi gấm
Kìa tượng Vua Lê chót vót cao

1966
(Đã in trong tuyển tập Ngàn năm thương nhớ
NXB Hội Nhà Văn xuất bản năm 2004 nhân kỷ
niệm 1000 năm Thăng Long Hà Nội)

HÀ NỘI MÃI TRONG TIM
Hoàng Kim

Đền Ngọc Sơn Hồ Gươm
Hoàng Thành ngọc cho đời
Tháp Bút viết trời xanh
Trăng rằm sen Tây Hồ

https://hoangkimlong.wordpress.com/category/den-ngoc-son-ho-guom/https://hoangkimlong.wordpress.com/category/hoang-thanh-ngoc-cho-doi/
https://hoangkimlong.wordpress.com/category/thap-but-viet-troi-xanh/
https://hoangkimlong.wordpress.com/category/trang-ram-sen-tay-ho/

Bài đã đăng trong chuyên mục Hà Nội mãi trong tim

Sớm xuân Đại Lãnh
Bình minh Đại Lãnh
Tàu qua Đại Lãnh
Đá Dựng Đại Lãnh

SỚM MAI QUA ĐẠI LÃNH
Hoàng Kim

Vui được dịp sớm mai qua Đại Lãnh
Ngắm đất trời núi biển lúc hừng đông
Nghe vó ngựa ruổi dài đường vạn dặm
Đá Bia ơi.thăm thẳm đất Tiên Rồng

CẦU MINH LỆ RÀO NAN
Hoàng Kim

Linh Giang Đình Minh Lệ
Cầu Minh Lệ Rào Nan
Bến Lội Đền Bốn Miếu
Đá Đứng chốn sông thiêng

Nguồn Son nối Phong Nha
Đất Mẹ vùng di sản
Lời thề trên sông Hóa
Lời dặn của Thánh Trần

Ta về với Linh Giang
Làng Minh Lệ quê tôi

Tôi sinh ở
Làng Minh Lệ, Ba Đồn, Quảng Bình. Nguồn gốc tổ tiên, ông bà, cha mẹ là nơi này. Gia đình chúng tôi ngày nay đoàn tụ đất phương Nam, phần lớn làm nghề thầy giáo, thầy thuốc, thầy nghề nông chiến sĩ và một số giữ nghiệp nhà nông. Chúng tôi đã đưa phần mộ cha mẹ ở Minh Lệ Quảng Bình vào Hưng Long Đồng Nai. Nhưng nỗi niềm của những người con xa xứ vẫn thăm thẳm nhớ về nơi sinh thành. Tôi lưu mười đường links chọn lọc Kim Notes lắng ghi chú trên đây về địa chí, lịch sử, văn hóa, gia tộc cho mình và con cháu để nhớ nguồn; xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/cau-minh-le-rao-nan/.

Làng Minh Lệ quê tôi

Quảng Bình quê hương tôi đất không rộng, người không đông nhưng địa linh nhân kiệt, có địa thế sinh tử ‘nối hai đầu đất nước’ cầu nối thống nhất Tổ quốc với bề dày văn hiến và võ công, với các địa danh quần thể du lịch sơn thủy hữu tình đẹp hiếm thấy. Quảng Bình là nơi hẹp nhất Việt Nam, từ biển Đông sang Lào chỉ khoảng 50 km, ngay vùng địa danh quê tôi, nơi mà một cuộc chiến uy lực, bất ngờ, mãnh liệt, thần tốc, chớp nhoáng, có thể bẻ gãy đôi Việt Nam tại địa bàn sinh tử đặc biệt xung yếu, hiểm địa này. Cầu Minh Lệ Rào Nan gần Đá Đứng chốn sông thiêng được coi là “nơi tuyệt thế hiểm địa”, “điểm huyệt sinh tử phù” của huyền thoại “Cao Biền ném bút thần” Cao Biền trong sử Việt. Nơi tích xưa Lời thề trên sông Hóa, Lời dặn của Thánh Trần phải thuộc nằm lòng:Kế sách một chữ Đồng; “Khoan sức cho dân để sâu rễ bền gốc” https://hoangkimlong.wordpress.com/category/loi-dan-cua-thanh-tran/https://hoangkimlong.wordpress.com/category/cao-bien-trong-su-viet

Cầu Minh Lệ Rào Nan dễ nhớ dễ lưu dấu, giữa vùng Minh Linh huyền tích ngàn năm Đá Đứng chốn sông thiêng của địa linh Linh Giang Đình Minh Lệ, Bến Lội Đền Bốn Miếu, Nguồn Son nối Phong Nha. Đây là nơi hợp lưu sơn thủy, kết nối với cửa ngõ tuyến du.lịch tuyệt đẹp Phong Nha Kẻ Bàng di sản thiên nhiên Thế giới. Nơi đây cũng là vùng đất địa linh hiểm yếu sinh tử để thống nhất đất nước, bước qua lời nguyền chia cắt ranh giới đôi bờ (Linh Giang/ sông Gianh / Ranh (giới) Nơi đây là hợp lưu sơn thủy của thế núi, mạch sông, người hiền tài, tướng giỏi, lòng dân. Vùng đất này là điểm nhấn địa chí văn hóa lịch sử, là một trong những điểm chính yếu của con đường huyết mạch Nam Tiến người Việt. Bến Lội Đền Bốn Miếu là nơi hợp lưu của dòng Rào Nan với một nhánh nhỏ là Rào Đá, do phù sa của Rào Đá tuôn ra mạnh nên chỗ hợp lưu ấy bị cạn lại mới gọi Bến Lội, ngày xưa nơi ấy là vậy, nhưng ngày nay lại là Cầu Minh Lệ Rào Nanhttps://hoangkimlong.wordpress.com/category/cau-minh-le-rao-nan.

Đền Bốn Miếu có tên thường gọi là Nghè Bốn Miếu, hoặc Nghè Miếu, có dấu tích cổ của bốn ngôi miếu thiêng (hình 2), thờ Thành hoàng làng Trung lang Thượng tướng quân Trương Hy Trọng (hình 3 và hình 4) và các vị Thần tổ của bốn họ Trương, Nguyễn, Hoàng, Trần tại Bến Lội Đền Bốn Miếu có Bằng Xếp Hạng di tích cấp tỉnh thành phố Lăng mộ Nhà thờ Thượng tướng quân Trương Hy Trọng và Khu Giang Sơn Bến Lội tại Quyết định số 5062/QĐ-UBND ngày 27-12-2019 của Ủy Ban Nhân Dân tỉnh Quảng Bình (hình 5).

Theo cố nhà giáo Hoàng Hữu Sam tại bài viết “Qua một ngôi đình suy nghĩ về người xưa” đăng trên Tạp chí Nhật Lệ năm 2001 (tài liệu dẫn kèm theo) thì tại ngôi đình Làng Minh Lệ ngày nay từ thời xa xưa đã có những đôi câu đối cổ (hiện nay vẫn còn ở lưu tại đình làng) đó là: Minh Lễ chương danh đình dĩ cố / Thiệp tân tích sử thủy trường thanh;. Sơn cao thủy tú phong quang vô hạn hảo / Địa linh nhân kiệt hoằng thạc xuất nhân trung; Cách trí lương phương thiên khái văn minh tân vận hội / Trác thành để trụ được chung linh khí cửu Giang Sơn Cố nhà giáo Hoàng Hữu Xứng là người làng đã diễn dịch ý tứ của những câu này sang tiếng Việt để hổ trợ cho người em trai là cố nhà giáo Hoàng Hữu Sam cùng những người làng tâm huyết tận tâm xin thủ tục công nhận và tu bổ lại đình làng. Những câu diễn dịch ý Thầy như sau Minh Lễ là một mảnh đất vô cùng đẹp đẽ, Địa linh sản sinh ra những người con kiệt xuất cho đất nước và quê hương; Phong cảnh núi sông cao đẹp vô cùng/ Đất linh thiêng sinh ra những con người hào kiệt, thật là vĩ đại xứng trời mây; Mở rộng tầm hiểu biết, trời mở vận hội mới là vận hội văn minh / Gọt dủa cho thành công, đất hun đúc nên khí thiêng của giang sơn cũ. Cố nhà giáo Hoàng Hữu Xứng giảng dạy ở Trường Đại học Ngoại ngữ Hà Nội – ĐHQGHN Trường ULIS (University of Languages and International Studies)là một trong những trường đại học uy tín hàng đầu tại Việt Nam cũng như trong khu vực Đông Nam Á. Hệ thống cơ sở vật chất khang trang, đội ngũ giảng viên chuyên môn cao, chương trình đào tạo tiên tiến.

Cố nhà giáo Hoàng Hữu Đản, nhà văn hóa tầm vóc quốc tế là em trai thứ của thầy Hoàng Hữu Xứng. Thầy Hoàng Hữu Đản là một trong số rất ít người ở Việt Nam và Quốc tế đạt được thành quả rực rỡ cả trên hai lĩnh vực dịch thuật (văn chương, tư tưởng) và sáng tác văn học (nổi bật nhất là kịch nói Vụ án vườn Lệ Chi rung động văn chương Việt). Thầy Hoàng Hữu Đản được Nhà nước Pháp hai lần trao tặng huân chương Cành cọ Hàn lâm (Palmes Académiques) hạng ba và hạng nhì cho ông vào năm 2000 và 2008 do những cống hiến trong việc phát triển tiếng Pháp và đẩy mạnh sự giao lưu văn hoá giữa hai nước Pháp – Việt Nam.

Cố nhà giáo Hoàng Hữu Sam là em trai của hai thầy Hoàng Hữu Xứng, Hoàng Hữu Đản, là thầy dạy văn sử đầu tiên cho lớp học trường làng chúng tôi có PGS. TS Trần Bình, PGS.TS Trương Minh Dục, GS Trần Ngọc Vương, Nhà báo Kiên Giang và Nông nghiệp Việt Nam Hoàng Thiên Diễn. Thầy cùng nhiều người tâm huyết tại địa phương đã tận tâm bảo tồn tôn tạo di tích lịch sử văn hóa Đình Minh Lệ (Bằng Công nhân Di tích lịch sử Văn hóa Di tích được xếp cấp Quốc gia theo Quyết định số 1430 QĐ/BT ngày 12 tháng 10 năm 1993 của Bộ Văn hóa Thông tin) và khu di sản Bến Lội Đền Bốn Miếu (Bằng Xếp Hạng di tích cấp tỉnh thành phố Lăng mộ Nhà thờ Thượng tướng quân Trương Hy Trọng và Khu Giang Sơn Bến Lội tại Quyết định số 5062/QĐ-UBND ngày 27-12-2019 của Ủy Ban Nhân Dân tỉnh Quảng Bình). Trong bao nhiêu chuyện đời, tôi nhớ nhất lời thầy về bằng chứng máu xương bao đồi bồi đắp cho địa danh này. Đó là ngôi đền thiêng trong lòng dân, điển cố văn chương và di sản văn hóa cần bảo tồn và phát triển. Bài dưới đây về QUA MỘT NGÔI ĐÌNH SUY NGHĨ VỀ NGƯỜI XƯA do thầy đăng năm 2001 ở Tạp chí Nhật Lệ. Trang văn thành di sản của ba người thầy lớn mà trong dòng họ, mà thầy vừa là Thầy vừa là cậu ở Làng Minh Lệ quê tôi…

Tài liệu dẫn

QUA MỘT NGÔI ĐÌNH SUY NGHĨ VỀ NGƯỜI XƯA
Bút ký Hoàng Hữu Sam

“Qua đình ngã nón trông đình. Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu”. Ngày nay, qua đình Minh Lễ, xã Quảng Minh – Quảng Trạch, các trai tân gái lịch không còn nhìn thấy, như xưa kia, đây là nơi hò hẹn, nơi gửi gắm tâm tình cho nhau trước khi đi đến xây dựng cuộc sống vợ chồng “Bách niên giai lão” trên mảnh đất truyền thống đầy huyền thoại này.

Đình Minh Lễ được xây dựng từ thế kỷ XIX, là nơi thờ vị Thành Hoàng làng cùng các vị Thần tổ của bốn Họ trong làng, là nơi sinh hoạt văn hóa, hội hè, đình đám và bàn công việc làng. Đình được trùng tân vào năm Bảo Đại nhị niên.Trải qua nhiều biến cố thăng trầm của lịch sử đất nước và quê hương trong một thời gian quá dài, nhất là hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Đình làng Minh Lễ đã “ Trơ gan cùng tuế nguyệt” với những bức tường đổ nát nằm trong những lùm cây hoang dại và um tùm. Cũng chính trong hoang tàn đổ nát ấy mà Đình Minh Lễ trở thành nơi hội họp bí mật của cán bộ cách mạng trong xã, nơi thu giấu vũ khí đánh giặc ngoại xâm, nơi rèn luyện ý chí quật cường của những người con quê hương căm thù chế độ cũ, nơi vang lên tiếng mõ đình inh ỏi sáng ngày 23 tháng 8 năm 1945 để toàn dân cướp chính quyền và bầu lên Ủy ban Hành chính lâm thời đầu tiên của xã Minh Lễ.

Xuất phát từ ý thức muốn bảo vệ lấy những gì là di tích văn hóa lịch sử của quê hương, một số con em của làng có tâm huyết với mảnh đất quê nhà đã làm đơn gửi lên Sở Văn hóa – Thông tin tỉnh xin trùng tu lại ngôi đình. Được sự động viên, giúp đỡ của chính quyền địa phương và của Sở Văn hóa -Thông tin, đơn xin trùng tu đình làng Minh Lễ được chấp nhận. Năm 1993 Đình Minh Lễ được Bộ Văn hóa – thông tin ra quyết định công nhận Di tích Văn hóa – Lịch sử của xã Quảng Minh. Qua hai đợt Đình Minh Lễ đã được trùng tu lại đẹp đẽ, khang trang, đứng sừng sững giữa bầu trời xanh của một miền quê đất nước. Ở đây, nhờ trí nhớ hoàn hảo của ông Hoàng Hữu Xứng mà tôi đã viết lại tất cả các bức hoành phi và câu đối – đều được ghi lại hầu như theo đúng nguyên tác thư pháp xưa.

Đình làng Minh Lễ vẫn giữ được thư pháp tuyệt vời của hai ông Tôn Thất Mai, Hoàng Tinh Sà (thân sinh tác giả- NBT) – Hai người được triều Vua nhà Nguyễn mời vào kinh đô viết sắc bằng cho toàn quốc -được nhân dân làng Minh Lễ mời viết giúp những bức hoành phi và câu đối cho Đình làng. Với các yếu tố: kiến trúc, hoa văn, bề dày lịch sử, giá trị tinh thần biểu hiện qua nội dung các bức hoành phi và câu đối, nên Đình làng Minh Lễ mới được công nhận Di tích Văn hóa – Lịch sử. Tất cả đó tạo nên niềm tự hào chính đáng của nhân dân làng Minh Lễ từ trước tới nay.*

Vậy chúng ta hãy nghe các cụ xưa đã nói những gì qua các bức hoành phi và câu đối ở Đình? *

Thoạt đầu, bước tới cổng Đình, chúng ta bắt gặp ngay đôi câu đối ở hai cột trụ cổng bằng chữ Nho đại tự mà đứng xa hàng năm mét vẫn có thể nhìn đọc được: Tiền hướng Linh Giang thông đại hải / Hậu liên Ngùi Lĩnh tiếp cao sơn. Câu đối đã nói lên vị trí to rộng giữa một khoảng trời đất bao la: mặt trước hướng về sông Gianh (Linh Giang) để thông ra biển cả. Mặt sau liền với núi Ngùi (Ngùi Lĩnh ) và tiếp đến núi cao của dãy Trường Sơn hùng vĩ. Ở cổng phụ cạnh cổng chính, có đôi câu đối đã đem chúng ta trở về với cội nguồn làng quê: Làng Minh Lễ ngày xưa được gọi là Bến Lội – nơi hợp lưu của dòng Rào Nan với một nhánh nhỏ là Rào Đá, do phù sa của Rào Đá tuôn ra mạnh nên chỗ hợp lưu ấy bị cạn lại mới gọi Bến Lội – người ta có thể lội qua được – đó là: Minh Lễ chương danh đình dĩ cố /Thiệp tân tích sử thủy trường thanh.*Giang sơn Bến Lội – Minh Lễ còn là một mảnh đất vô cùng đẹp đẽ, một địa linh đã sản sinh ra những người con kiệt xuất cho đất nước và quê hương: Sơn cao thủy tú phong quang vô hạn hảo / Địa linh nhân kiệt hoằng thạc xuất nhân trung (Phong cảnh núi sông cao đẹp vô cùng. Đất linh thiêng sinh ra những con người hào kiệt, thật là vĩ đại ngang trời mây) *

Các cụ còn làm cho con cháu thấy được niềm vui, lòng tin tưởng quê hương ngày càng đổi mới, ngày càng hướng tới văn minh: Cách trí lương phương thiên khái văn minh tân vận hội / Trác thành để trụ được chung linh khí cửu Giang Sơn (Mở rộng tầm hiểu biết, trời mở vận hội mới là vận hội văn minh / Gọt dủa cho thành công, đất hun đúc nên khí thiêng của giang sơn cũ). *Được sống trên mảnh đất địa linh nhân kiệt, nhân dân đã thông qua các cụ xưa đã ca ngợi quê hương và biết ơn vị Thành Hoàng đã “Mở mang văn nghiệp, võ công” (Bố võ tuyên văn – một câu trong Sắc phong). Đồng thời phải biết kính trọng và tôn thờ các vị Thần linh đó vừa có công lớn, vừa tăng thêm sức mạnh của núi sông: Tại kỳ thượng tại kỳ tả hữu /Tý nhĩ thọ tỷ nhĩ xí xương ( Kính thờ thần như thần thánh đứng ở trên (bàn thờ) và cả ở hai bên tả hữu (chúng ta). Cầu mong cho được sống lâu và được vẻ vang rực rỡ).Hoặc: Hân yết đại danh thùy vũ trụ / Hiên ngang chính khí tráng sơn hà (Tiếng tăm lừng lẫy hòa trong vũ trụ Chính khí hiên ngang tăng thêm sức mạnh của núi sông)* Đặc biệt, đây là những di huấn, những sự nhắc nhở các thế hệ sau phải tuân thủ theo lễ nghĩa, đồng thời cũng phải luôn luôn nhớ đến tên làng đã đi vào lịch sử, đã có từ thời nhà Trần (thế kỷ thứ XIII).* Bức hoành phi ở giữa:Hội đồng hữu dịch ( Đình làng là nơi hội họp của làng, mà có hội họp thì có trao đổi diễn dịch (như có thảo luận) cho sáng ra những điều lễ nghĩa) Câu này cũng gần nghĩa như chữ Minh Lễ là tên làng, nên các cụ đặt ở gian giữa Đình*

Bức hoành phi bên phải: Tự sự khổng minh ( Việc tế tự phải nghiêm túc như ánh sáng xuyên qua một lỗ nhỏ từ trên mái nhà xuống, nghĩa là rất thành kính)* Bức hoành phi bên trái: Gia hội hợp lễ (Tổ chức các cuộc họp, lễ hội phải đúng theo lễ nghĩa). Ở đây có một vấn đề rất tế nhị nhưng cũng rất quan trọng là: để bảo vệ lấy tên làng mãi mãi đến muôn đời sau, các cụ đã thông qua các bức hoành phi để kín đáo dùng những chữ ghép lại thành tên làng:Lấy chữ “Minh” ở bức hoành phi bên phải ghép với chữ “Lễ” ở bức hoành phi bên trái ghép lại thành Minh Lễ là tên làng đã có từ xưa)* Để chắc chắn hơn nữa, các cụ lại dùng một câu đối ở mặt tiền chính giữa để giữ lấy tên làng: Xa thư cộng đạo văn minh xiển / Hương hỏa thiên thu điển lễ tồn (Những nền nếp đều thống nhất quy về một mối, làm cho ánh sáng văn minh thêm chói lọi. Việc hương khói (thờ phụng) hàng năm vẫn theo điển lễ vẫn còn ( không sai chạy)). Cũng như các bức hoành phi trên, tại câu đối này, lấy chữ thứ 6 của vế 1 ( Minh) ghép với chữ thứ 6 của vế 2 ( Lễ) thành tên làng Minh Lễ.

Ở đây với một trình độ Hán học uyên thâm, các cụ đã sử dụng những từ nguyên rất chính xác để nhắc nhở hậu thế. Xa thư: Xa đồng quỹ,thư đồng văn: Xe thì khoảng cách giữa hai bánh bằng nhau, sách thì viết một thứ chữ. Cho nên ta càng rõ thêm: Giang sơn thống nhất về một mối, nền văn minh sáng tỏ ra. Hương khói ngàn năm cúng tế theo điển lễ vẫn còn.

Vì có tên làng nên hai câu này cũng được viết ở chính giữa mặt tiền của Đình. Kính quý thần khả vị tri hỉ / Bảo hữu dân thượng hữu chế tai (Biết kính quý Thần, có thể nói là thông minh, đã là biết vậy /.Bảo vệ cho người dân lành còn là trách nhiệm (quy chế, chế độ) nữa. Bảo vệ dân đen mà còn hạn chế nữa hay sao !)

Trên đây chỉ xin trích dịch một số nội dung trong các bức hoành phi và câu đối ở Đình làng Minh Lễ từ xa xưa. Giới thiệu một số nội dung các bức hoành phi và câu đối ở Đình làng, người viết bài này chỉ mong đem đến một phần nào những suy nghĩ và ước mong của người xưa đã gửi gắm vào những bức hoành phi và câu đối, để mong quê hương – làng Minh Lễ mãi mãi trường tồn cùng núi sông đất Việt.

Mặc dù đã cố gắng với nhiều công sức, song trình độ có hạn, kính mong được sự góp ý của quý vị độc giả, nhất là các vị con em xã nhà.

Thượng tuần tháng Nhâm Dần, năm Nhâm Ngọ.
H.H.S (Tạp chí Nhật Lệ năm 2001)

LÀNG MINH LỆ QUA THƯ TỊCH
Trương Minh Dục

Ngày 24 tháng 4 theo Âm lịch hàng năm là ngày giỗ của Trung lang Thượng quân Trương Hy Trọng- Thành hoàng làng Minh Lệ. * Ảnh: 1&3: Lăng Thành hoàng Ảnh 4: Bằng xếp hạng Di tích cấp tỉnh, thành phố theo Quyết định số 5062/QĐ-UBND ngày 27-12-2019 của UBND tỉnh Quảng Bình cho: Lăng mộ, nhà thờ Trung lang Thượng tướng quân Trương Hy Trọng và khu Giang sơn Bến Lội. Ảnh 2&5: Cúng Ngài tại Đình làng

Nguồn:
Trương Minh Dục ngày 17 Tháng 5 

LÀNG MINH LỆ QUA THƯ TỊCH
Trương Minh Dục


Trong quá trình hình thành và phát triển, do yêu cầu quản lý phát triển xã hội, một đất nước, hay một địa phương tên gọi có thay đổi tùy theo các chế độ chính trị, các vương triều và cả theo tập quán dân gian. Làng Minh Lệ hiện nay của tôi cũng không phải là ngoại lệ. Thời gian gần đây, nhiều anh em yêu quê hương tranh luận về tên làng Minh Lễ hay Minh Lệ?. Tranh luận là tốt, để hiểu hơn về quá trình hình thành và phát triển của quê hương. Bỡi lẽ, ai cũng yêu quê hương, nhưng hiểu đầy đủ, sâu sắc về quê hương thì chưa có điều kiện đầy đủ về tư liệu và thời gian. Trong mùa Covid-19, tôi dành thời gian đọc lại những thư tịch cổ, đặng cung cấp cho những ai quan tâm đến quá trình hình thành và phát triển của Làng.

*

Làng Minh Lệ hiện nay được hình thành là kết quả của chính sách di dân khai phá vùng đất Bố Chính dưới thời Lê Thánh Tông sau thắng lợi bình Chiêm năm 1471. Trong sách “Ô châu cận lục” của Dương Văn An, được viết năm 1552, ấn hành năm 1555, cho biết, châu Bố Chính (gồm vùng đất Bố Trạch, Quảng Trạch, Tuyên Hoá và Minh Hoá ngày nay) có 68 xã (nhưng trong liệt kê là 69), trong đó có xã Thị Lễ (xã lúc ấy là đơn vị hành chính thấp nhất). Nhưng trong thư tịch về đình làng Vĩnh Phước đề cập đến 5 thôn của xã Thị Lễ lúc bấy giờ là: An Phước, An Lộc, An Hoà, An Lễ, An Trường. Trong sách “Phủ biên tạp lục” được viết năm 1776, Lê Quý Đôn chỉ đề cập đến các địa danh từ nam sông GXem tiếp >>

  Dạy và học 9 tháng 12(10-12-2021)

DẠY VÀ HỌC 9 THÁNG 12
Hoàng Kim
CNM365 Tình yêu cuộc sốngGiấc mơ lành yêu thương; Đối thoại với Thiền sư; Hoàng Trung Trực đời lính; Hương sen vùng Đồng Tháp; Thung lũng Great Rift Valley, miền bắc Tanzania (hình) Ngày 9 tháng 12 năm 1961, Tanzania giành được độc lập từ Anh Quốc sau khi hợp nhất Tanganyika với các đảo Zanzibar và Pemba. Tanzania là quốc gia ở Đông Phi, phía Bắc giáp Uganda (hồ Victoria làm thành một phần biên giới) và Kenya, Nam giáp Mozambique và Malawi, Đông giáp Ấn Độ Dương, Tây giáp Rwanda, Burundi và Cộng hòa Dân chủ Congo. Thung lũng Great Rift Valley, bắc Tanzania có các hồ Tanganyika và hồ Malawi, là nơi tiếp nối cao nguyên miền Trung ít màu mỡ địa hình đặc trưng của Tanzania với độ cao trung bình 1.200 m so mặt biển. Tanzania có vùng đông bắc là miền núi, nơi có đỉnh Kilimanjaro (5.895 m) điểm cao nhất châu Phi; đông nam là  hồ Tanganyika và hồ Victoria; miền trung là các cao nguyên rộng lớn, với đồng bằng và vùng đất trồng trọt. Bờ biển phía đông nóng và ẩm ướt, ít bằng phẳng và nhiều đá ngầm. Các vùng rừng thưa và thảo nguyên Tanzania có nhiều động vật hoang dã. Tanzania có nhiều công viên sinh thái rộng và rất đẹp, trong đó nổi tiếng là công viên quốc gia Serengeti ở phía nam.  Ngày 9 tháng 12 năm 2002 là ngày mất của Tố Hữu (sinh năm 1920), nhà thơ và Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Việt Nam. Tố Hữu tên thật là Nguyễn Kim Thành quê gốc ở làng Phù Lai, nay thuộc xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông là một nhà thơ tiêu biểu của thơ cách mạng Việt Nam, đồng thời là một chính trị gia. Ông đã từng giữ các chức vụ quan trọng trong hệ thống chính trị của Việt Nam như Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Phó Chủ tịch thứ Nhất Hội đồng Bộ trưởng nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam;  Ngày 9 tháng 12 năm 1971,  Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất gia nhập Liên Hiệp Quốc. Bài viết chọn lọc ngày 9 tháng 12: Giấc mơ lành yêu thương; Đối thoại với Thiền sư; Hoàng Trung Trực đời lính; Hương sen vùng Đồng Tháp; Nguyễn Du thời Tây Sơn; Nghe ‘Khúc hát hái sen’; Ngẫm phim hay Chu Phỉ; Ông Hồ Sáu Đồng Nai; Nông lịch tiết đại tuyết; Lời Thầy dặn thung dung; Lời thương; Đỗ Phủ thương đọc lại; Đặng Dung thơ Cảm hoài; Đến với bài thơ hay; Lên Việt Bắc điểm hẹn; Lên Trúc Lâm Yên Tử; Chuyện đồng dao cho em; Đêm Yên Tử, Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/ http://fa.hcmuaf.edu/vn/hoangkimlong xem  tiếp: https://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-9-thang-12/;

GIẤC MƠ LÀNH YÊU THƯƠNG
Hoàng Kim

nhắm mắt lại đi em
để thấy rõ giấc mơ hạnh phúc
trời thanh thản xanh
đêm nồng nàn thở
ta có nhau trong cuộc đời này
nghe hương tinh khôi đọng mật
quyến rũ em và khát khao anh
mùi ngây ngất đằm sâu nỗi nhớ
một tiếng chuông ngân
thon thả đầu ghềnh

nhắm mắt lại đi em
hạnh phúc đâu chỉ là đích đến
hạnh phúc là con đường trãi nghiệm
vỗ về, chờ đợi, nhớ thương

nhắm mắt lại đi em
trong giấc mơ của anh
có em và rừng thiêng cổ tích
có suối nước trong veo như ngọc
có vườn trúc và ngôi nhà tranh
có một đàn trẻ thơ tung tăng
heo gà chó mèo ngựa trâu
nhởn nhơ trên đồng cỏ
tươi xanh
nhắm mắt lại đi em,
tận hưởng thú an lành.

Nhắm mắt lại đi em
Giấc ngủ ngoan
giấc mơ hạnh phúc
Em mãi bên anh,
Đồng hành với anh
Bài ca yêu thương
Bài ca hạnh phúc
Giấc mơ lành yêu thương

Nhắm mắt lại đi em
Giấc mơ cuộc đời
giấc mơ hạnh phúc
ngôi nhà tâm thức
Giấc mơ lành yêu thương
Có cánh cửa khép hờ
Có bãi cỏ xanh non.
Đất nước cây và hoa
Một khu vườn tĩnh lặng.
Chim sóc chó mèo gà
luôn quấn quýt sớm hôm.
Ban mai ửng
nghe chim trời gọi cửa.
Hoàng hôn buông
trăng gió nhẹ lay màn.
Ta
về với ruộng đồng
Vui giấc mơ hạnh phúc
Vui một giấc mơ con
Hoa LúaHoa NgườiHoa Đất 
Giấc mơ lành yêu thương.

https://hoangkimlong.wordpress.com/category/giac-mo-lanh-yeu-thuong/


ĐỐI THOẠI VỚI THIỀN SƯ
Hoàng Kim


Vui việc thiện lắng nghe kinh
Ngắm hoa mai nở giữ mình thảnh thơi
Mới hay mọi việc trên đời
Thung dung phúc hậu là nơi tìm về.

Vu Lan năm nay muộn
Tháng nhuận ngày vắn dài
Trời đất gió Bắc thổi
Vần vũ mây gió hoài

Nắng mưa chuyện của trời
An nhiên vui khỏe sống
Thung dung ngày tháng rộng
Mai sớm thành rừng thôi

ĐỐI THOẠI VỚI THIỀN SƯ
Hoàng Trung Trực

Vất bỏ ngoài tai mọi chuyện đời
Lòng không vướng bận dạ an thôi
Ráng vun đạo đức tròn nhân nghĩa
Huệ trí bùng khai tỏa sáng ngời

Lòng lộng đêm nghe tiếng mõ kinh
Bao nhiêu ham muốn bỗng an bình
Tâm tư trãi rộng ngàn thương mến
Mong cả nhân loài giữ đức tin.

Thượng Đế kỳ ba gíáo đô đời
Vô minh cố chấp tại con người
Thánh Tiên tùy hạnh tùy công đức
Ngôi vị thiêng liêng tạo bởi Người.

Vững trụ đức tin đạo chí thành
Vô cầu vô niệm bả công danh
Sớm hôm tu luyện rèn thân chí
Đạo cốt tình thương, đức mới thành

VUI BƯỚC TỚI THẢNH THƠI
Hoàng Kim

Chân trần bước tới thảnh thơi
Trăng rằm cổ tích nhớ lời của Anh:

“Cảnh mãi theo người được đâu em
Hết khổ hết cay hết vận hèn
Nghiệp sáng đèn giời đang chỉ rõ
Rồi đây cay đắng chẳng buồn chen”.
(Hoàng Ngọc Dộ)

Đến chốn thung dung
Sống giữa thiên nhiên
Về với ruộng đồng
Tổ ấm Rồng Tiên
Trở lại với mình.
Bước tới thảnh thơi
Trăng rằm cổ tích
Giấc mơ hạnh phúc.

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là ta-ve-song-giua-thien-nhien.jpg

VUI ĐẾN CHỐN THUNG DUNG
Hoàng Kim

Thăm người ngọc nơi xa vùng tỉnh lặng
Chốn ấy non xanh người đã chào đời
Nơi
sỏi đá giữa miền thiêng hoa cỏ
Thiên nhiên an lành,
bước tới thảnh thơi.

Sống giữa đời vui giấc mơ hạnh phúc
Cổ tích đời thường đằm thắm yêu thương
Con cái quây quần thung dung tự tại
Minh triết cuộc đời phúc hậu an nhiên.

Xuân Hạ Thu Đông bốn mùa luân chuyển
Say chân quê
ngày xuân đọc Trạng Trình
Ngày ra ruộng đêm thì đọc sách
Ngọc cho đời giữ trọn niềm tin.

(*) Nhạc Trịnh

Emve

VUI SỐNG GIỮA THIÊN NHIÊN
Hoàng Kim

Người rất muốn đi về trong tịch lặng
Quẳng lại sau lưng nhân thế muộn phiền
Ta đến chốn thung dung tìm
hoa lúa
Rong chơi đường trần sống giữa thiên nhiên.

Tâm thanh thản buồn vui cùng nhân thế
Đời Đạo thịnh suy sương sớm đầu cành
Lòng hiền dịu và trái tim nhẹ nhõm
Kho báu chính mình phúc hậu an nhiên.

Trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt (*)
Trăng rằm xuân lồng lộng bóng tri âm
Người tri kỷ cùng ta và năm tháng.
Giác Tâm
ta về còn trọn niềm tin.

TA VỀ VỚI ĐỒNG XUÂN
Hoàng Kim

Người khôn về chốn đông người
Cái nhìn thì mỏng cái cười thì nông
Ta vui về với ruộng đồng
Để gieo tục ngữ để trồng dân ca.

Thỏa thuê cùng với cỏ hoa
Thung dung đèn sách, nhẫn nha dọn vườn
Mặc ai tính thiệt so hơn
Bát cơm gạo mới vẫn thơm láng giềng

Thiên nhiên là thú thần tiên
Chân quê là chốn bình yên đời mình
Bạn hiền bia miệng anh linh
Thảnh thơi hưởng trọn ân tình thế gian.

Nước trong ngập ánh trăng vàng
Ta ra cởi bỏ nhọc nhằn âu lo
Lợi danh một thực mười hư
Trăm điều ước vọng chỉ phù du thôi.

Thung dung thanh thản cuộc đời
Tình quê bồi đắp về nơi sâu đằm
Ta vui hạnh phúc trăm năm
Chọn tìm giống tốt đêm nằm chiêm bao.

TA VỀ TRỜI ĐẤT HỒNG LAM
Hoàng Kim

Ta về trời đất Hồng Lam
Bâng khuâng bước dưới trăng vàng lộng soi
Ngực trần chạm tới thảnh thơi
Nghe lưng thấu đến bồi hồi đất quen.

Linh miêu chốn Tổ Rồng Tiên
Quấn quanh trao gửi nổi niềm Thái Sơn
Hỡi ai là kẻ phi thường
Đỉnh chung dâng nén tâm hương nhớ Người.



MÌNH VỀ VỚI CHÍNH MÌNH
Hoàng Kim

Mình về với chính mình thôi
Ở nơi bếp núc nói lời yêu thương
Hành trình của chính linh hồn
Giấc mơ hạnh phúc, con đường tình yêu.

Thênh thênh đồng rộng trời chiều
Nụ cười mãn nguyện bao điều ước mong
Dẫu rằng xuân đến tự xuân
Vượt qua đông lạnh đã dần sương tan.

Lời nguyền cùng với nước non
Hiếu trung trọn nghĩa lòng son vẹn tình
Yêu thương phúc hậu hi sinh
Đường xuân chung lối hương linh muôn đời.

CHÙA GIÁNG GIỮA ĐỒNG XUÂN
Hoàng Kim


Nơi cổ tự mây lành che xóm vắng
Viên Minh xưa chùa Giáng ở đây rồi
Bụt thư thái chim rừng nghe giảng đạo
Trời trong lành gió núi lắng xôn xao.

Nhớ Pháp Chủ người hiền Thích Phổ Tuệ
Viên ngọc lành tính sáng gửi tin yêu:
“Mưa thuận gió hòa chăm bón đúng
Nhân tươi quả tốt được thu nhiều”

Thương hạt ngọc trắng ngần vui Bạch Ngọc
Phước nhân duyên thơm thảo học làm người
“Thơm hương lúa ngậm đòng chăm bón đúng
Mưa thuận gió hòa nhân quả tốt tươi”

Ngát hương sen lồng lộng bóng trúc mai
Đồng xuân đất lành trời xanh bát ngát
Hoa Đất, Hoa Người tổ tiên phước đức
Con biết ơn Người hiếu thảo ghi ơn …

Những trang đời lắng đọng
TĨNH THỨC HOA SEN TRẮNG
Hoa sen trắng
Nhà văn Triết gia Ấn độ Osho


Tổ sư Bồ đề đạt ma đến với một chiếc giầy;

Triết gia Osho nổi tiếng người Ấn độ nói: Tôi cực lạc vì tên của Tổ sư Bồ đề đạt ma đã làm cho tôi phiêu diêu. Đã từng có nhiều chư phật trên thế giới, nhưng Tổ sư Bồ đề đạt ma sừng sững như đỉnh Everest. Cách hiện hữu của ông ấy, cách sống, và cách diễn đạt chân lí đơn giản là của ông ấy; nó là vô song.

Trong các chùa ở Miền tây thường bên cạnh thờ tượng Đức Phật, có thờ tượng của Tổ sư Bồ đề đạt ma. Tượng Tổ sư dễ nhận biết. Gương mặt một người hung dữ, vai đeo gậy. Trên gậy có chỉ một chiếc giày.Tổ sư Bồ đề đạt ma đã du hành từ Ấn Độ sang Trung Quốc để truyền bá thông điệp của Đức Phật, người thầy của mình, mặc dầu họ sống cách nhau một nghìn năm.

*

Khi Tổ sư Bồ đề đạt ma đến Trung Quốc, Vũ Đế ra đón ông ấy ở biên ải. Mọi ngưỡi nghĩ rằng một chứng ngộ lớn đang tới! Và tất nhiên Vũ Đế đã tưởng tượng Tổ sư có nét gì đó giống như Đức Phật: rất hoà nhã, duyên dáng, vương giả. Tuy nhiên khi ông ta thấy Bồ đề đạt ma thì ông đã bị choáng. Tổ sư Bồ đề đạt ma trông rất thô thiển. Không chỉ thế, ông ấy còn có vẻ rất ngớ ngẩn. Ông ấy đến cây gậy đeo trên vai chỉ có một chiếc giầy.Vũ Đế bối rối. Ông ta đã tới cùng với cả đoàn triều đình với các hoàng hậu quí phi. Họ sẽ nghĩ gì khi ta ra đón một loại người như thế này? Ông cố gắng vì lịch sự bỏ qua điều đó. Và ông đã không muốn hỏi “Sao ông lại đến nước chúng tôi chỉ với một chiếc giầy?

Nhưng Tổ sư Bồ đề đạt ma đã không để Vũ Đế yên. Ông ấy nói: -Đừng cố bỏ qua nó. Hãy hỏi và thẳng thắn ngay từ chính lúc đầu đi. Ta đã đọc được câu hỏi trong đầu ông rồi.Vũ Đế đâm ra lúng túng; sau cùng ông nói:-Vâng, ông đúng, câu hỏi này đã nảy sinh trong ta: Sao ông đến mà chỉ mang một chiếc giày?

Tổ sư Bồ đề đạt ma nói, -Để mọi thứ vào cảnh quan đúng như từ chính lúc đầu. Ta là người vô lí! Ông phải hiểu điều đó từ chính lúc bắt đầu. Ta không muốn tạo ra bất kì rắc rối nào về sau. Hoặc ông chấp nhận ta như ta vậy hoặc ông đơn giản nói rằng ông không thể chấp nhận được ta. Và ta sẽ rời khỏi vương quốc của ông. Ta sẽ đi lên núi. Ta sẽ đợi ở đó đến khi người của ta đến với ta. Vũ Đế lúng túng. Ông đã mang theo nhiều câu hỏi khi đến đón Tổ sư. Nhưng ông băn khoăn có nên đưa chúng ra hay không? Ông nghi ngai câu trả lời là lố bịch. Nhưng Tổ sư Bồ đề đạt ma một mức khăng khăng:-Ông hãy nên hỏi những câu ông đã mang tới đây.

Vũ Đế gượng gạo hỏi:-Câu hỏi đầu: Ta đã làm được nhiều phước đức…. Tổ sư Bồ đề đạt ma nhìn sâu vào trong đôi mắt của Vũ Đế. Một cơn lạnh toát chạy dọc sống lưng nhà vua. Ông nói:-Toàn những điều vô nghĩa! Làm sao ông có thể làm được nhiều phước đức ? Ông còn chưa nhận biết phước đức được hình thành từ nhận biết . Mà ông ngụ ý phước đức nào? Làm sao ông có thể tạo ra được phước đức? Phước đức chỉ được tạo ra từ Đức Phật.

Vũ Đế ngại ngần:-Việc ta nói làm nhiều phước đức. Ta ngụ ý rằng ta đã làm nhiều đến chùa, nhiều điện thờ cho Phật. Ta đã làm nhiều đạo tràng cho các khất sĩ Phật tử, các tín đồ, và tì kheo. Ta đã thu xếp cho hàng nghìn học sĩ để dịch kinh sách Phật sang tiếng Trung Quốc. Ta đã tiêu tốn hàng triệu đồng bạc cho việc phục vụ Đức Phật. Nhiều triệu khất sĩ xin ăn mọi ngày từ cung điện này nọ này trên khắp nước.

Và Tổ sư Bồ đề đạt ma cười. Vũ Đế chưa từng bao giờ nghe thấy tiếng cười như thế. Tiếng cười bụng có thể làm rung chuyển cả núi. Tổ sư cười sằng sặc và nói:-Ông đã hành động một cách ngu xuẩn. Mọi nỗ lực của ông đều đã là cực kì phí hoài. Sẽ không tạo ra kết quả nào từ nó cả. Đừng cố, và đừng tưởng tượng rằng ông sẽ được lên cõi trời thứ bẩy như các khất sĩ Phật giáo đã nói cho ông. Họ chỉ khai thác ông thôi.

Đây là chiến lược khai thác những người ngu như ông. Họ khai thác lòng tham của ông về thế giới bên kia, Họ vẽ cho ông những hứa hẹn lớn. Và lời hứa của họ không thể chứng minh là sai được vì không ai quay trở về từ thế giới bên kia để nói liệu những lời hứa đó có được hoàn thành hay không. Ông đã bị họ lừa rồi. Không có cái gì sẽ xảy ra từ điều mà ông nghĩ là việc làm phước đức. Thực ra, ông sẽ rơi vào địa ngục thứ bẩy, vì một người sống với những ham muốn sai như thế, người sống có ham muốn như thế, đều sẽ rơi vào địa ngục.

Vũ Đế e ngại. Ông cố gắng lái câu chuyện sang một chủ đề khác: -Vậy có cái gì linh thiêng hay không? Tổ sư Bồ đề đạt ma nói, -Không có cái gì linh thiêng, cũng như không có cái gì là báng bổ. Linh thiêng và báng bổ, đều là thái độ của tâm trí, của định kiến. Mọi việc đều đơn giản như chúng vậy. Không cái gì sai và không cái gì đúng, không cái gì tội lỗi và không cái gì phước đức. Vũ Đế buồn bực:-Ông thật quá thể đối với ta và người của ta. Sau đó, Tổ sư Bồ đề đạt ma nói lời tạm biệt, quay lưng lại và đi lên núi.

Trong chín năm trên núi ông ấy ngồi quay mặt vào tường. Mọi người đến với ông bởi vì đã được nghe, biết về cuộc đối thoại này. Dù khoảng cách sống giữa Tổ sư và Đức Phật trong hơn một nghìn năm, nhưng về trung tâm Tổ Sư vẫn ở cùng Đức Phật. Tổ sư nói điều tinh tuý của Đức Phật – tất nhiên theo cách riêng của ông ấy, theo phong cách của ông ấy, Ngay cả Phật cũng sẽ thấy cách trình bày này đó là kì lạ.

Đức Phật là người văn hoá, phức tạp, và duyên dáng. Còn Tổ sư Bồ đề đạt ma chính là cái đối lập trong cách diễn đạt của Đức Phật. Tổ sư không là người mà là con sư tử. Tổ sư không nói, mà ông ấy gầm lên. Tổ sư không có cái duyên dáng mà Đức Phật có. Cái mà ông ấy có là sự thô thiển, dữ dằn. Không thanh nhã như kim cương; Tổ sư hệt như vĩa quặng: thô ráp tuyệt đối , không có một sự đánh bóng. Và đó là cái đẹp của ông ấy. Đức Phật có cái đẹp rất nữ tính, lịch sự, mảnh mai. Còn Tổ sư Bồ đề đạt ma có cái đẹp riêng . Cái đẹp của một tảng đá – mạnh mẽ, nam tính, không thể phá huỷ được, cái đẹp của một sức mạnh lớn lao.

Đức Phật toả sức mạnh, nhưng sức mạnh của Đức Phật rất im lặng, như tiếng thì thào, như làn gió mát. Còn Tổ sư Bồ đề đạt ma là cơn bão, sấm rền và chớp giật. Đức Phật đến cửa nhà bạn nhẹ nhàng không một tiếng động, bạn thậm chí sẽ không nghe thấy tiếng bước chân của ông ấy. Còn Tổ sư Bồ đề đạt ma, khi ông ấy đến nhà bạn, ông ấy sẽ làm rung chuyển cả ngôi nhà từ tận móng của nó. Đức Phật sẽ không lay bạn dậy ngay cả khi bạn đang ngủ. Còn Tổ sư Bồ đề đạt ma? Ông ấy sẽ dựng bạn dậy từ trong nấm mồ! Ông ấy đánh mạnh, ông ấy là chiếc búa.

Tổ sư là chính cái đối lập của Đức Phật trong cách diễn đạt, nhưng thông điệp của ông ấy với Đức Phật là một. Tổ sư cúi mình trước Đức Phật là thầy của mình. Tổ sư chưa bao giờ nói “Đây là thông điệp của ta”. Tổ sư đơn giản nói:-Điều này thuộc về chư phật, chư phật cổ đại. Ta chỉ là sứ giả. Không cái gì là của ta, bởi vì ta không có. Ta như cây trúc hồng được chư phật chọn để làm chiếc sáo cho họ. Họ hát: ta đơn giản để cho họ hát qua ta.

PHÁP TRẦN, QUAY ĐẦU LÀ BỜ
Thích Thanh Từ (Sư Ông Trúc Lâm)

Trong nhà thiền thường nói, khi ngộ đạo rồi mắt thấy như mù, tai nghe như điếc. Như mù nhưng không phải mù, như điếc nhưng không phải điếc. Giả sử chúng ta đi chợ, nghe người ta xôn xao đủ thứ, nhưng mình không dính, không chú ý. Khi về người nhà hỏi: “Bữa nay đi chợ thấy cái gì?” Mình nói: “Không thấy gì hết”. Nhưng sự thật mình có thấy không? Có thấy nhưng không dính thành ra như không thấy. Còn nếu ta để tâm vào việc gì thì khi được hỏi, mình liền trả lời: “Thấy thế này, thế kia”. Đó là ta đã tích lũy vào pháp trần trong tâm rồi.

Cho nên việc tu có nhiều điểm rất hay mà chúng ta không biết. Như ra đường bị ai nói xúc phạm tới danh dự mình, về nhà ít nhất ta cũng kể lại với người thân nghe. Kể một người nghe mình cũng chưa vừa lòng, phải kể cho người này người kia nghe chừng một trăm lần, như vậy mình đã thuộc lòng trong ký ức sâu quá rồi. Vì vậy khi ngồi thiền nó trồi lên, bỏ được một lát nó trồi lên nữa. Đó là vì chúng ta đã ghi nhớ quá sâu đậm.

Giống như lúc còn bé đi học, mỗi khi muốn thuộc bài, mình phải đọc tới đọc lui nhiều lần mới thuộc. Đem vô sâu là do ôn tới ôn lui nhiều lần. Lỡ nhớ rồi, khi muốn quên cũng phải tập bỏ thường xuyên mới quên được, không có cách nào khác hơn. Vậy mà vừa có chuyện buồn, chuyện giận là chúng ta đem ra kể liền. Gặp ai kể nấy, kể hoài như vậy quên sao được. Khi ngồi thiền nó trồi lên lại than: “Khổ quá! Con tu khó”. Khó là tại ai? Tại mình chứ tại ai, tích lũy nhiều thì nó trồi lên nhiều.

Bây giờ chúng ta thấy chỉ thấy, không thèm quan tâm chú ý gì cả. Thấy tất cả mà tâm không giữ, không dính thì tu dễ không khó. Nếu tu là tìm cái gì ở đâu xa thì khó, đằng này nó đã sẵn nơi mình rồi, chỉ quay lại là hiện tiền. Chúng ta không thấy được cái chân thật là do pháp trần đầy cứng bên trong, nên quay lại thấy toàn tạp nhạp.

Những giờ ngồi thiền là những giờ quay lại, mình thấy pháp trần lăng xăng lộn xộn nên nói thấy loạn tưởng nhiều quá. Thấy loạn tưởng nhiều là tu tiến nhiều. Vì ngày xưa, mỗi khi chúng dấy lên mình chạy theo nên không thấy chúng, bây giờ chúng dấy lên mình biết liền bỏ, đó là tu tiến. Tuy nó còn nhưng mình đã làm chủ được chút chút. Hồi xưa nó dẫn mình chạy theo hoàn toàn, bây giờ nó trồi lên mình từ chối không theo, đó là tiến rõ ràng. Nhưng nhiều khi Phật tử thấy nó rồi sợ, tu gì mà vọng tưởng quá chừng. Sự thật có tiến, tiến từng bước, chứ không phải không tiến.

Bước tiến tiếp theo là ngoài giờ ngồi thiền, khi tiếp xúc với mọi cảnh mọi vật, chúng ta thấy biết rõ ràng nhưng bỏ qua, không chú tâm, đó là ta tu trong mọi lúc mọi nơi. Không phải tay lần chuỗi, thân tọa thiền mới tu. Lần chuỗi tọa thiền mà ai động tới liền la hét là không phải tu. Người không tỏ vẻ tu hành gì hết, nhưng đi đứng tự nhiên thoải mái, ai nói gì thì nói, bỏ qua không để lòng, ấy mới thật là chân tu.

Nhiều khi chúng ta như điên khùng với nhau. Thí dụ mình tưởng mình thông minh, sáng suốt, nhưng ai vừa nói “Chị ngu quá!”, mình liền la đông đổng lên, để nói rằng ta không ngu. Nhưng thật ra như vậy là đã chứng tỏ mình đang ngu. Nếu không ngu, ta chỉ cười, nói: “Phải, tôi ngu” Nói vậy còn gì nữa để la, thì đâu có khổ. Vậy mà ai nói mình ngu liền cự lộn, rồi đủ thứ chuyện thưa kiện … có khổ không? Thế là cả hai đàng đều khùng điên với nhau hết.

Những chuyện hết sức nhỏ như vậy, nhưng mình không biết tu, nên cứ tích lũy trong tâm thành ra sanh bệnh. Bây giờ muốn bỏ, chúng ta phải gỡ lần những thứ đó, từ từ ngồi thiền sẽ được nhẹ nhàng yên ổn. Ai nói gì mình cũng cười. Đức Phật ngày xưa bị Bà la môn theo sau mắng chửi, Ngài im lặng không nói, không nhận, thế mà Bà la môn phải chịu phép, không dám mắng chửi nữa, khỏe khoắn làm sao.

Phật là bậc giác ngộ nên thấy người mê Ngài thương, không phản đối, không chống cự gì cả nhưng lại nhiếp phục được họ. Còn chúng ta bây giờ nghe nói một câu không vừa lòng liền phản đối, chống cự, rốt cuộc càng thêm lớn chuyện. Như vậy ta cùng những người mê kia, không hơn không kém, phải không? Mình là người tỉnh thì phải hơn kẻ mê. Họ nói bậy mình chỉ cười thôi thì không xảy ra chuyện gì hết. Như vậy có khỏe không ?

Cho nên người biết tu xả bỏ hết những gì không quan trọng. Quan trọng là đừng để sáu trần lôi dẫn đi, phải quay về với cái chân thật của chính mình. Cái chân thật ấy ai cũng có nhưng vì vọng tưởng che lấp nên mình không nhận ra. Cho nên Thiền sư Nam Tuyền Phổ Nguyện nói, người tu thiền như con ngỗng chúa uống sữa chừa nước lại. Câu nói nghe muốn bể cả đầu! Làm sao mà uống sữa chừa nước được? Hai thứ ấy hòa lẫn nhau, lọc thế nào ?

Những câu như vậy, tôi cũng mất nhiều năm lắm mới thấy rõ ý nghĩa của nó. Cái gì là sữa?. Cái gì là nước ? Vọng tâm và chân tâm nơi mình hòa lẫn nhau, không phải một cũng không phải hai. Vậy làm sao để lọc chân tâm ra khỏi vọng tâm? Ở đây, chúng ta chỉ cần khéo một chút là thấy liền. Cái biết trong sáng hiện tiền đó là sữa, còn cái biết lăng xăng lộn xộn là nước. Cái biết lăng xăng lộn xộn thì chúng ta không theo, chỉ sống với cái biết yên tĩnh, trong sáng. Đó là mình đã loại nước, uống sữa. Được thế ta là ngỗng chúa.

Những giây phút yên tĩnh, chúng ta ngồi chơi không nghĩ gì hết. Lúc đó tai vẫn nghe, mắt vẫn thấy mà không nghĩ suy điều chi. Như vậy cái biết đó mình đã có sẵn, nhưng vừa dấy nghĩ cái này cái nọ liền quên mất cái biết hằng hữu. Bây giờ chỉ cần không chạy theo các thứ xao động thì nó hiện tiền. Nếu chúng ta đừng đuổi theo những gì mắt thấy, tai nghe, mũi ngửi, lưỡi nếm … ăn cứ ăn uống cứ uống, làm tất cả việc mà đừng dính, nếu không phải Phật thì ít nhất mình cũng là Bồ tát con rồi.

Vì vậy không dính với sáu trần là biết quay đầu, còn dính với sáu trần là đã lao đi trong sanh tử, không có gì khó khăn hết. Trong nhà thiền có câu chuyện của anh hàng thịt, khi nghe một câu nói của vị Thiền sư, liền tỉnh ngộ và làm bài kệ:
Tạc nhật dạ xoa tâm
Kim triêu Bồ tát diện
Dạ xoa dữ Bồ tát
Bất cách nhất điều tuyến.
Dịch:
Hôm qua tâm dạ xoa
Bữa nay mặt Bồ tát
Dạ xoa và Bồ tát
Không cách một đường tơ.

Bồ tát và Dạ xoa chỉ cách nhau ở một cái nhìn. Nhìn ra là mê, xoay lại là giác, dễ như trở bàn tay, không có gì ngăn cản hết. Vậy mà chúng ta làm không nổi, cứ ì ạch hoài. Thiền đặc biệt ở chỗ đó, nhưng vẫn phù hợp với những gì Phật dạy ngày xưa. Tôi sẽ dẫn kinh để chứng tỏ điều này.

Trong kinh A Hàm kể lại, một hôm, sau thời tọa thiền trong rừng, Đức Phật xả thiền ngồi chơi tự tại. Chợt Ngài thấy có một con rùa bò về phía mình, phía sau con dã can đuổi theo định cắn đuôi con rùa, con rùa liền rút đuôi vào trong mai. Dã can chụp lấy chân, con rùa liền rút chân vào trong mai. Cứ như vậy dã can chụp cắn tứ tung, rùa cũng rút hết các bộ phận vào trong mai. Con dã can chụp hoài không được bèn bỏ đi.

Kết thúc câu chuyện, Phật nói: “Người tu cũng thế, nếu biết giữ sáu căn không cho chạy theo sáu trần thì không có ma vương nào bắt được”. Còn nếu chạy theo sáu trần bị nó cắn đứt đầu đứt cổ. Chuyện thật là hay.

Thêm một câu chuyện nữa. Phật kể trong một đàn khỉ, có con khỉ nhỏ đi sau đàn thấy mấy con lớn đi trước ăn nhiều trái cây ngon, còn mình thiệt thòi quá. Nó bèn tách đàn, đi một mình để được ăn ngon. Khi thấy miếng mồi ngon, nó liền đưa tay chụp, không ngờ đó là cái bẫy nhựa, nên tay nó bị dính nhựa. Nó liền đưa tay kia gỡ nên tay kia bị dính luôn. Con khỉ liền lấy chân phải quào, chân phải dính; lấy chân trái quào, chân dính luôn. Nó quật cái đuôi để gỡ, đuôi cũng dính. Cuối cùng còn cái miệng, nó liền đưa miệng cạp, thế là miệng dính luôn. Như vậy tổng cộng sáu bộ phận đều dính nhựa hết. Gã thợ săn chỉ cần tới lượm con khỉ bỏ vô giỏ là xong.

Phật nói: “Cũng vậy, nếu người nào sáu căn dính với sáu trần, cũng như con khỉ kia để sáu bộ phận dính với nhựa, người đó sẽ bị ma vương dẫn đi dễ dàng, không nghi ngờ”. Như vậy Phật dạy chúng ta tu như thế nào? Là giữ sáu căn đừng cho dính mắc với sáu trần. Đây là một lẽ thật chứ không phải tưởng tượng. Đó là tôi đã dẫn trong kinh A Hàm.

Đến kinh Kim Cang, Lục Tổ ngộ được từ câu: “Bất ưng trụ sắc sanh tâm, bất ưng trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp sanh tâm; ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”, tức là không dính mắc vào các trần mà sanh tâm Bồ đề. Tâm Bồ đề là tâm thanh tịnh, không dính mắc thì tâm Bồ đề hiện tiền. Còn dấy niệm là tâm sanh diệt. Sau khi ngộ rồi, Lục Tổ thốt lên: “Đâu ngờ tâm mình xưa nay thanh tịnh!. Vì thanh tịnh nên không sanh diệt, còn loạn tưởng là tâm sanh diệt. Ngay đó Ngũ Tổ truyền tâm ấn và trao y bát cho ngài.

Sự tu chẳng có gì lạ hết. Phật Tổ không hai đường, chỉ vì phương tiện truyền bá khác nhau thôi. Thấy như vậy, hiểu như vậy, chúng ta mới nhận ra việc tu không phải chuyện quanh co, khó khăn, mà trái lại rất đơn giản. Ngài Lâm Tế nói: “Đâu ngờ Phật pháp của Hoàng Bá rất ít”, nghĩa là rất đơn giản. Cho nên trọng tâm của việc tu là nghe và hiểu được ý Phật dạy, rồi ứng dụng thực hành. Đó mới là người biết tu.

Thơ Thiền Thích Nhất Hạnh
CẦU HIỂU, CẦU THƯƠNG
Thích Nhất Hạnh (Sư Ông Làng Mai)


Lắng lòng nghe tiếng gọi quê hương
Sông núi trông ra đẹp lạ thường
Về tới quê xưa tìm gXem tiếp >>

  Dạy và học 8 tháng 12(08-12-2021)

DẠY VÀ HỌC 8 THÁNG 12
Hoàng Kim
CNM365 Tình yêu cuộc sốngNguyễn Du thời Tây Sơn; Nghe ‘Khúc hát hái sen’; Ông Hồ Sáu Đồng Nai; Nông lịch tiết đại tuyết; Lời Thầy dặn thung dung; Lời thương; Đỗ Phủ thương đọc lại; Đặng Dung thơ Cảm hoài; Hoàng Trung Trực đời lính; Đối thoại với Thiền sư; Đến với bài thơ hay; Lên Việt Bắc điểm hẹn; Lên Trúc Lâm Yên Tử; Chuyện đồng dao cho em; Đêm Yên Tử, Ngày 8 tháng 12 là ngày Thích Ca thành đạo (Phật giáo Nhật Bản) (Rōhatsu, 臘八) cũng là ngày tuyết dày ở các vùng lạnh trong 24 tiết khí nông lịch. Ngày 8 tháng 12 năm 757, Đỗ Phủ về kinh thành Trường An làm quan trong triều vua Đường Huyền Tông sau loạn An Sử.  Đỗ Phủ cùng với Lý Bạch là hai nhà thơ vĩ đại nhất Trung Quốc thời nhà Đường. Đỗ Phủ được các nhà phê bình Trung Quốc gọi là Thi thánhThi sử do đức độ cao thượng, tài thơ văn tuyệt vời. Tầm vóc Đỗ Phủ như Victor Hugo, Shakespeare. Cuộc đời Đỗ Phủ là tấm gương phản chiếu đất nước Trung Hoa thời loạn khi đời sống nhân dân tột cùng điêu đứng vì thường xuyên biến động. Bài thơ nổi tiếng của Đỗ Phủ ‘Xem người đẹp múa kiếm’ gợi cho người Việt Nam nhớ bài thơ bi tráng ‘Thuật hoài’ đêm thanh mài kiếm của Đặng Dung. Thơ Đỗ Phủ ảnh hưởng sâu sắc tới văn hóa cổ điển Trung Quốc và văn học hiện đại Nhật Bản. Khoảng 1500 bài thơ Đỗ Phủ được bảo tồn trong bộ sưu tập thơ Đỗ Phủ. Thơ ông nổi tiếng vì phong cách đơn giản và thanh lịch đặc sắc bậc nhất trong thơ cổ điển Trung Quốc. Cụ Hồ Chí Minh trong Di chúc đã có trích thơ Đỗ Phủ. Ngày 8 tháng 12 năm 1980 là ngày mất John Lennon ca sĩ nhạc sĩ và nhà hoạt động hòa bình đặc biệt nổi tiếng người Anh sinh năm 1940, người được ngưỡng mộ nhất trong lịch sử âm nhạc thế giới. John Lennon với Paul McCartney là  bộ đôi sáng tác vĩ đại nhất của thế kỷ 20. Ngày 8 tháng 12 năm 1978  cũng là ngày mất của Golda Meir, Thủ tướng Israel sinh năm 1898, chính trị gia người Israel sinh tại Đế quốc Nga. Bà là người phụ nữ đầu tiên của Israrel và người phụ nữ thứ ba trên thế giới giữ chức vụ Thủ tướng Israel ngày 17 tháng 3 năm 1969, sau khi giữ chức Bộ trưởng Lao động và Bộ trưởng Ngoại giao. Bà  được miêu tả là “người giỏi nhất trong chính phủ “có “ý chí mạnh mẽ, nói chuyện thẳng thắn, người của dân Do Thái”; Bài viết chọn lọc ngày 8 tháng 12: Nguyễn Du thời Tây Sơn; Nghe ‘Khúc hát hái sen’; Ông Hồ Sáu Đồng Nai; Nông lịch tiết đại tuyết; Lời Thầy dặn thung dung; Lời thương; Đỗ Phủ thương đọc lại; Đặng Dung thơ Cảm hoài; Hoàng Trung Trực đời lính; Đối thoại với Thiền sư; Đến với bài thơ hay; Lên Việt Bắc điểm hẹn; Lên Trúc Lâm Yên Tử; Chuyện đồng dao cho em; Đêm Yên Tử, Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-8-thang-12/;

Nguyễn Du trăng huyền thoại
NGUYỄN DU THỜI TÂY SƠN
Hoàng Kim


Mười lăm năm tuổi thơ
Mười lăm năm lưu lạc
Thời Hồng Sơn Liệp Hộ
Tình hiếu thật phân minh.

Nguyễn Du thời Tây Sơn (1766-1802) có bốn sự kiện nổi bật, mà sử liệu ngày nay đã hoàn toàn sáng tỏ, đã có đầy đủ chứng cứ sự thật sát thực. 1) Quang Trung phá quân Thanh 2) Nguyễn Vương bình Gia Định; 3) Nguyễn Du đền Trung Liệt; 4) Nam Hải và Hồng Sơn, Quang Trung phá quân Thanh năm 1789; Nguyễn Vương bình Gia Định chiếm trọn phần đất của Đông Định Vương Nguyễn Lữ cũng ngay trong năm ấy. Nguyễn Du xây đền Trung Liệt cho Lê Quýnh và các trung thần vào năm 1793 và đền thờ này đã hoàn thành khoảng đầu năm 1795. Về phần vua Lê Chiêu Thống, ông này qua đời tại Bắc Kinh năm 1793 nhưng tro cốt của ông được đưa về Việt Nam năm 1804 và chôn ở Thanh Hóa quê hương của tổ tiên ông (Cương mục quyển XI .VII trang 48a, trích dẫn từ Chính sử triều Nguyễn và dẫn theo Lê Thành Khôi ‘Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến giữa thế kỷ 20’ trang 386).. Nguyễn Du giai đoạn 1787- 1796 chủ yếu sống tại Thăng Long, làm Nam Hải Điếu đồ (Người đi câu ở biển Nam), chăm chú theo dõi thời vận, tỏ chính kiến bằng việc xây dựng Trung Liệt từ ở 124 Thụy Khuê Thăng Long, và sau đó Nguyễn Du giai đoạn 1797-1802 đã lựa chọn đối sách làm Hồng Sơn Liệp Hộ (Người đi săn ở núi Hồng), sống chủ yếu ở Nghệ Tĩnh (chính sử, dã sử và giai thoại đến nay vẫn chưa xác định rõ ông gặp vua Gia Long ở Hải Dương, hay ở Nghệ Tĩnh, xem tư liệu Nguyễn Du niên biểu luận trong Nguyễn Du trăng huyền thoại của Hoàng Kim trích đăng ở cuối bài.Nguyễn Du bình sinh và hành trạng ra sao trong thời Tây Sơn (1766-1802)? Cụ ở ẩn hay cụ làm một người con dấn thân trung hiếu như lời trong Truyện Kiều “để lời thệ hải minh sơn/ Làm con trước phải đền ơn sinh thành”?. Khảo luận nghiên cứu lịch sử này của chúng tôi đưa ra sáu chứng cứ sử liệu và địa chí văn hóa để cho thấy rằng cụ Nguyễn Du không phải làm người ở ẩn thời Tây Sơn mà Cụ thực sự làm người con trung hiếu dấn thân vì đại nghĩa vì nước vì nhà theo quan niệm đạo làm Người của Cụ. Hẳn Cụ đồng quan điểm với danh sĩ Nguyễn Thiếp, khi Cụ đã trực tiếp chứng kiến dã tâm cướp nước ta của nhà Đại Thanh qua hành động việc làm thực tế của Tôn Sĩ Nghị, phù hợp với chứng cứ giá trị văn bản sử liệu nhiều nguồn đã được lưu trữ và khẳng định, nhưng Cụ không chịu ra phò nhà Tây Sơn vì chứng kiến rõ cảnh nồi da xáo thịt trong quan hệ anh em và mức độ lạm sát người dân thường, bất chấp mọi thủ đoạn trong chiến tranh. Cụ là vàng lầm trong cát của thời thế nhiễu loạn. Sáu chứng cứ sự thật lịch sử Nguyễn Du thời Tây Sơn kết luận của bài này, đó là 1) Cụ Nguyễn Du và gia đình cụ Nguyễn Du đã chịu rất nhiều nghịch cảnh trước biến động dữ dội của đất nước và thời thế trong mười lăm năm tuổi thơ (1766-1780) 2) Cụ Nguyễn Du làm một người con trung hiếu dấn thân giang hồ mười lăm năm lưu lạc (1781- 1796), 3) Cụ Nguyễn Du thể hiện một danh sĩ tinh hoa, tầm nhìn sâu sắc mẫu mực về ứng xử, dự đoán và dự báo tài tình minh triết sáng suốt về thời cuộc. Cụ không phải tỏ lời cảm khái như cụ Nguyễn Thiếp “Đã trót lên đèo phải xuống đèo”(thơ cụ Nguyễn Thiếp). Cách xử lý tình huống cụ thể và mẫu mực tinh hoa của cụ Nguyễn Du là làm người câu cá ở biển Nam (Nam Hải điếu đồ 1787-1796) người đi săn ở núi Hồng (Hồng Sơn Liệp Hộ 1797- 1802) lựa chọn thế ứng xử phù hợp của kẻ sĩ trước thời vận, 4) Cụ Nguyễn Du tỏ bản lĩnh và thái độ yêu ghét thật phân minh khi trực tiếp xây dựng đền Trung Liệt ờ 124 Thụy Khuê Hà Nội khi cuộc chiến Nhà Nguyễn và Nhà Tây Sơn còn chưa phân định sự thắng thua; 5) Cụ Nguyễn Du đã giúp người anh là Nguyễn Nể, tránh được mối họa diệt tộc, để không tiếp tục dính líu sâu vào nhà Tây Sơn khi triều đại này đã lộ rõ những yếu điểm sẽ dẫn tới sự suy vong và sụp đổ nguy hại của một triều đại, hệ lụy kéo theo cho gia đình và bản thân; 6). Cụ Nguyễn Du chấp nhận sự hợp tác hiệu quả nhất với Nhà Nguyễn để “dĩ công vi thượng” tốt nhất cho đất nước và con người Việt Nam, xử thế của Cụ thật phân minh của một kẻ sĩ tinh hoa. Cụ Nguyễn Du với thủ pháp ngoại giao xuất sắc, ngôn ngữ điêu luyện, sự kiện ngoại giao mẫu mực “Bắc hành” và “Truyện Kiều “Kỳ Lân Mộ” “Viếng Liễu Hạ Huệ Mộ”, “Đối tửu”, đã đạt tới sự kết hợp lịch sử văn hóa tuyệt vời, chạm thấu tim người, đã làm cho vua nhà Đại Thanh tôn trọng Việt Nam hơn, đưa đến sự giao hảo tốt Việt Trung, phương lược ngoại giao xuất chúng đã giúp hai nước tránh được thế đối đầu. Sáu bằng chứng này đủ cho thấy cụ Nguyễn Du là đấng danh sĩ tinh hoa, anh hùng kỳ tài lỗi lạc Việt Nam mà không chỉ là đại thi hào danh nhân văn hóa thế giới.”Khen cho con mắt tinh đời / Anh hùng đoán giữ trần ai mới già” “Chọc trời khuấy nước mặc dầu / Dọc ngang nào biết trên đầu có ai”. Nguyễn Du trăng huyền thoại
https://hoangkimlong.wordpress.com/category/nguyen-du-trang-huyen-thoai/

Hình thế nước Đại Việt đàng Trong đàng Ngoài năm 1760. Bản đồ vẽ bởi công ty Cóvens e Mortier, Amsterdam (hình trên) và Hình thế nước Đại Việt đàng Trong đàng Ngoài năm 1788 trước mùa xuân Kỷ Dậu năm 1790 (vẽ theo sử liệu và bản đồ Trần Trọng Kim) đã cho thấy Nguyễn Du cuộc đời và thời thế. Diễn biến thời cuộc từ khi Nguyễn Du sinh ra năm 1766 đến khị Triều đại Tây Sơn sụp đổ năm 1802 qua minh chứng tại Nguyễn Du niên biểu luận

NGUYỄN DU MỘT TỔNG LUẬN

1. Nguyễn Du không chỉ là nhà thơ lớn, danh nhân văn hóa thế giới mà còn là danh sĩ tinh hoa, đấng anh hùng hào kiệt minh sư hiền tài lỗi lạc.

2. Nguyễn Du rất mực nhân đạo và minh triết, ông nổi bật hơn tất cả những chính khách và danh nhân cùng thời. Nguyễn Du vượt lên vinh nhục bản thân giữa thời nhiễu loạn, vàng lầm trong cát để trao lại ngọc cho đời. “Nguyễn Du là người rất mực nhân đạo trong một thời đại ít nhân đạo” (Joocjo Budaren nhà văn Pháp). Ông chí thiện, nhân đạo, minh triết, mẫu hình con người văn hóa tương lai. Kiều Nguyễn Du là bài học lớn về tâm tình hồn Việt. Truyện Kiều của Nguyễn Du đã thấm sâu vào hồn Việt và lan tỏa khắp thế giới.

3. Nguyễn Du quê hương và dòng họ cho thấy gia tộc họ Nguyễn Tiên Điền là dòng họ lớn đại quý tộc có thế lực mạnh “Triều đình riêng một góc trời/ Gồm hai văn võ, rạch đôi sơn hà”. Vị thế gia tộc Nguyễn Tiên Điền đến mức nhà Lê, họ Trịnh, nhà Tây Sơn, nhà Nguyễn đều tìm mọi cách liên kết, lôi kéo, mua chuộc, khống chế hoặc ra tay tàn độc để trấn phản.

4. Nguyễn Du niên biểu luận, cuộc đời và thời thế là bức tranh bi tráng của một bậc anh hùng hào kiệt nhân hậu, trọng nghĩa và tận lực vì lý tưởng. Nguyễn Du đã phải gánh chịu quá nhiều chuyện thương tâm và khổ đau cùng cực cho chính ông và gia đình ông bởi biến thiên của thời vận”Bắt phong trần phải phong trần.Cho thanh cao mới được phần thanh cao“. Nguyễn Du mười lăm năm tuổi thơ (1765-1780) mẹ mất sớm, ông có thiên tư thông tuệ, văn võ song toàn, văn tài nổi danh tam trường, võ quan giữ tước vị cao nơi trọng yếu; người thân gia đình ông giữ địa vị cao nhất trong triều Lê Trịnh và có nhiều người thân tín quản lý phần lớn những nơi trọng địa của Bắc Hà. Nguyễn Du mười lăm năm lưu lạc (1781- 1796) Thời Hồng Sơn Liệp Hộ (1797-1802) Nlà giai đoạn đất nước nhiễu loạn Lê bại Trịnh vong, nội chiến, tranh đoạt và ngoại xâm. Nguyễn Du và gia đình ông đã chịu nhiều tổn thất nhưng ông kiên gan bền chí, tận tụy hết lòng vì nhà Lê “Bên tình bên hiếu bên nào nặng hơn. Để lời thệ hải minh sơn. Làm con trước phải đền ơn sinh thành“. Nguyễn Du thời Nhà Nguyễn (1802- 1820) ra làm quan triều Nguyễn giữ các chức vụ từ tri huyên, cai bạ, cần chánh điện đại hoc sĩ, chánh sứ đến hữu tham tri bộ lễ. Ông là nhà quản lý giỏi yêu nước thương dân, Nguyễn Du để lại kiệt tác Truyện Kiều là di sản muôn đời, kiệt tác thơ chữ Hán có Bắc hành tạp lục 132 bài, Nam trung tạp ngâm 16 bài và Thanh Hiên thi tập 78 bài, là phần sâu kín trong tâm trạng Nguyễn Du, tỏa sáng tầm vóc và bản lĩnh của một anh hùng quốc sĩ tinh hoa, chạm thấu những vấn đề sâu sắc nhất của tình yêu thương con người và nhân loại. Đặc biệt “Bắc Hành tạp lục” là kiệt tác sử thi và tuyên ngôn ngoại giao nhân nghĩa  làm rạng danh nước Việt.

5. Minh triết ứng xử của Nguyễn Du là bậc hiền tài trước ngã ba đường đời là phải chí thiện và thuận theo tự nhiên “Tùy cơ, tùy vận, tùy thiên mệnh, tùy thời, tùy thế, lại tùy nghi” Nguyễn Du ký thác tâm sự vào Truyện Kiều là ẩn ngữ ước vọng đời người, tâm tình và tình yêu cuộc sống “Thiện căn cốt ở lòng ta, Chữ tâm kia mới thành ba chữ tài” .

6. Truyện Kiều có tầm ảnh hưởng rất sâu rộng đã trở thành hồn Việt, và là tác phẩm văn học cổ điển Việt Nam được dịch ra hơn 20 thứ tiếng và trên 73 bản dịch. Giá trị tác phẩm Kiệt tác Truyện Kiều của Nguyễn Du có sự tương đồng với kiệt tác Hồng Lâu Mộng của Tào Tuyết Cần.nhưng khác chiều kích văn hóa giáo dục và giá trị tác phẩm.

7. Nhân cách, tâm thế của con người Nguyễn Du đặt trong mối tương quan với Nguyễn Huệ và Nguyễn Ánh của thời đại Hậu Lê Trịnh – nhà Tây Sơn – đầu triều Nguyễn; khi so sánh với Tào Tuyết Cần là văn nhân tài tử của thời đại cuối nhà Minh đến đầu và giữa nhà Thanh thì vừa có sự tương đồng vừa có sự dị biệt to lớn.

8. Gia tộc của Nguyễn Quỳnh – Nguyễn Thiếp – Nguyễn Du tương đồng với gia tộc của Tào Tỷ – Tào Dần – Tào Tuyết Cần nhưng nền tảng đạo đức văn hóa khác nhau  Nhấn mạnh điều này để thấy sự cần thiết nghiên cứu liên ngành lịch sử, văn hóa, con người tác gia, bởi điều đó chi phối rất sâu sắc đến giá trị của kiệt tác.

9. Nguyễn Du danh si tinh hoa là tấm gương soi sáng thời đại Nguyễn Du

QUÊ HƯƠNG VÀ DÒNG HỌ

Nguyễn Du tự Tố Như, hiệu Thanh Hiên, biệt hiệu Nam Hải Điếu Đồ (kẻ đi câu ở biển Nam) lại có hiệu Hồng Sơn Liệp Hộ (người đi săn ở núi Hồng). Nguyễn Du sinh 1766, tại làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, Nghệ An (theo gia phả của họ Nguyễn Tiên Điền thì Nguyễn Du sinh tại Tiên Điền chứ không phải sinh tại Hà Nội). Nguyễn Du thi Hương tại Sơn Nam năm 1783 và chỉ đậu Tam Trường. Ông có được bổ sung chức quan tại Thường Tín, nhưng cáo ốm không nhậm chức. Khi Tây Sơn ra Bắc. Thận Quân Công có ép ra phục vụ, nhưng Nguyễn Du và nhiều chí sĩ thời bấy giờ cho rằng Tây Sơn là giặc, nên từ chối, bị nhốt hai tháng rồi thả ra. họ Nguyễn Tiên Điền quê hương Nghệ Tĩnh nhưng sống nhiều nơi “Hồng Lam vô gia huynh đệ tán”, mẹ họ Trần đất Kinh Bắc, tổ tiên Sơn Nam, khởi nghiệp Thái Nguyên, nhiều năm lưu lạc giang hồ ở châu thổ sông Hồng, vùng núi phía Bắc, Nam Trung Quốc,và Nghệ Tĩnh, nhiều năm làm quan ở Quảng Bình và kinh đô Huế. Nguyễn Du là danh sĩ tinh hoa, tính tình khoan hòa điềm tĩnh, đi nhiều, học rộng, là nhà thơ nổi tiếng thời Lê mạt, Nguyễn sơ ở Việt Nam.

Cha của Nguyễn Du là Nguyễn Nghiễm (1708 – 1775), sinh ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh, tên tự Hy Di, hiệu Nghi Hiên, có biệt hiệu là Hồng Ngự cư sĩ, đậu Nhị giáp tiến sĩ , làm quan đến chức Đại tư đồ (Tể tướng) kiêm Trung thư giám, Tổng tài Quốc sử giám, tước Thượng thư bộ Hộ, Xuân Quận công triều Lê.

Mẹ là bà Trần Thị Tần, sinh ngày 24 tháng 8 năm 1740, mất ngày 27 tháng 8 năm 1778, con gái một người thuộc hạ của Nguyễn Nhiễm làm chức Câu kê lo việc kế toán, quản gia cho cụ Nguyễn Nghiễm. Quê mẹ Nguyễn Du ở làng Hoa Thiều, xã Minh Đạo, huyện Tiên Du (Đông Ngàn), xứ Kinh Bắc, nay thuộc tỉnh Bắc Ninh. Bà Trần Thị Tần là vợ thứ ba của Nguyễn Nghiễm, bà kém chồng 32 tuổi, sinh được năm con, bốn trai và một gái.

Nguyễn Nghiễm có tám vợ và 21 người con. Vợ chánh thất là bà Đặng Thị Dương, sinh mẫu của Nguyễn Khản (1734-1786); bà hai là Đặng Thị Thuyết, sinh mẫu của Nguyễn Điều (1740-1786), bà là em ruột của bà chánh thất Đặng Thị Dương; bà ba là Trần Thị Tần, sinh mẫu của Nguyễn Trụ (1757-1775, con trai thứ 3), Nguyễn Nễ (1761-1805, con trai thứ 6), Nguyễn Thị Diên, Nguyễn Du (1765- 1820, con trai thứ 7, nên tục gọi là cậu Chiêu Bảy), Nguyễn Ức (1867-1823, con trai thứ 8); bà tư là Nguyễn Thị Xuyên, quê ở xã Hoàng Mai, Yên Dũng, Kinh Bắc, sinh mẫu của Nguyễn Quýnh (1759- 1791, con trai thứ 4), bà năm là Nguyễn Thị Xuân, quê xã Tiêu Sơn, huyện Yên Phong, xứ Kinh Bắc, sinh mẫu của Nguyễn Trừ (1760 -1809, con trai thứ 5) và Nguyễn Nghi (1773- 1845, con trai thứ 10); bà sáu là Phạm Thị Diễm, quê xã Hải Lộ, huyện Nam Chân, xứ Sơn Nam, sinh mẫu của Nguyễn Lạng (1768- 1817), con trai thứ 9), bà bảy là Hồ Thị Ngạn, người xã Hoa Viên, huyện Nghi Xuân, sinh mẫu của Nguyễn Nhưng (1763-1824), con trai thứ 11; bà tám là Hoàng Thị Thược, người xã Đan Hải, Nghi Xuân, sinh mẫu của Nguyễn Tốn (1767- 1812), con trai thứ 12 (Trích theo đúng gia phả, bản dịch của cụ Giải nguyên Lê Thước dịch từ năm 1962).

Đền thờ Nguyễn Nghiễm ở thôn Bảo Kê, xã Tiên Điền. Đền có 3 tấm biển lớn, một khắc 4 chữ “Phúc lý vĩnh tuy” (Phúc ấm lâu dài) do tự tay chúa Trịnh viết. Một tấm khắc 4 chữ: “Dịch tế thư hương” (dòng thư hương đời nối đời) do Đức Bảo sứ thần nhà Thanh đề tặng. Một biển khắc 4 chữ “Quang tiền du hậu” (Rạng rỡ thế hệ trước, phúc ấm ở đời sau) do Tô Kính người Viễn Đông đề tặng. Đền còn có đôi câu đối: Lưỡng triều danh Tể Tướng. Nhất thế đại nho sư (Nho sư cả nước vang danh hiệu. Tể tướng hai triều rạng tiếng tăm). Danh sĩ La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp, người được Nguyễn Huệ tôn làm thầy, là học trò của Nguyễn Nhiễm, đã viết bài tán Phú Đức nói về thầy học của mình. Nguyễn Nhiễm khi còn sống đặt ruộng cúng và xây sẵn đền thờ ở mặt sông. Sau khi ông mất, triều đình phong “Thượng Đẳng Tôn Thần”, Huân Du Đô Hiến Đại Vương, hàng năm Quốc gia làm tế lễ. Lại giao cho 4 xã chăm sóc hương khói. Ngày sinh, ngày giỗ của ông có cả xã Uy Viễn cùng tế lễ.

Tổ tiên của Nguyễn Du gốc ở làng Canh Hoạch, huyện Thanh Oai, trấn Sơn Nam (nay thuộc Hà Nội), sau di cư vào Hà Tĩnh, có truyền thống khoa bảng nổi danh ở làng Tiên Điền thời Lê mạt. Trước ông bảy thế hệ, viễn tổ họ Nguyễn Tiên Điền là Nam Dương hầu Nguyễn Nhiệm, con trai Nguyễn Miễn và là cháu Nguyễn Quyện, gọi Nguyễn Quyện bằng bác ruột, thời Lê Trung hưng có dự mưu phục lại nhà Mạc, bị thua trận chạy về phương Nam giấu hẵn tung tích đến sinh cơ lập nghiệp ở Tiền Điền Nghi Xuân. (Nguyễn Miễn là con của Trạng nguyên Nguyễn Thiến, hậu duệ người em của Nguyễn Phi Khanh). Nguyễn Trãi và Nguyễn Du cùng dòng họ và chung một ông tổ.

Ông nội của Nguyễn Du là Nguyễn Quỳnh. Ông có 5 vợ và 9 con (6 trai, 3 gái). Trong số 6 người con trai thì có 3 người con đậu đại khoa và làm quan to là Nguyễn Huệ , Nguyễn Nghiễm và Nguyễn Trọng. Ông Nguyễn Quỳnh là người hay đọc sách, tinh thông lý số, giỏi kinh dịch, … Ông chuyên tâm dạy con cái học hành, có soạn ba bộ sách bàn về Kinh Dịch với những việc chiêm nghiệm được trong đời. Ông có trồng ba cây cổ thụ, một cây Muỗm (Xoài), một cây Bồ Lỗ (Cây Nóng), một cây Rói, để sau này con cái thành đạt về thăm cha có chỗ buộc ngựa. Những cây cổ thụ đó, nay vẫn còn, trừ cây Rói bị bão đổ năm 1976. Nguyễn Quỳnh giỏi y thuật từ khi còn trẻ nghe nói có gặp một người Trung Quốc là Ngô Cảnh Phượng (dòng dõi Ngô Cảnh Loan- một nhà địa lý nổi tiếng đời Tống)am hiểu địa lý, gặp nạn, ông đưa về nuôi. Ngô Cảnh Phượng cảm phục ân đức đã truyền cho bí quyết về phong thủy. Họ Nguyễn Tiên Điền thịnh đức, nếp nhà di huấn nối đời làm thuốc và dạy học, nếu có làm quan biết giữ tiết tháo, đức độ, thanh thận cần.

Vợ chính thất của Nguyễn Du họ Đoàn là con thứ sáu của Đoàn Công, Hoàng giáp Phó Đô ngự sử Quỳnh Châu bá người Quỳnh Côi, Hải An (xưa thuộc Sơn Nam, nay thuộc Thái Bình). Theo gia phả của họ Nguyễn Tiên Điền thì ông bà sinh con trai tên Nguyễn Tứ tự là Hạo Như có văn học, Nguyễn Ngũ giỏi võ, Nguyễn Thuyến giỏi văn nhưng không tham gia chính sự. Năm Quý Dậu (1813), bà theo ông đi sứ phương Bắc, về nước được vài năm bị bệnh mất. Bà sinh được một gái gả cho Tú tài Ngô Cảnh Trân, người ở Trảo Nha, Thạch Hà.

Một trong những người yêu thương nhất của Nguyễn Du là Hồ Phi Mai (Hồ Xuân Hương) bà chúa thơ nôm, tác giả của Lưu Hương ký, quê ở Quỳnh Đôi, có quan hệ mật thiết với họ Hồ nhà Tây Sơn. Hồ Xuân Hương cũng là tác giả của những tác phẩm thơ nổi tiếng: Bánh trôi nước, Kẽm Trống, Nhớ người cũ, viết gửi Cần Chánh Học Sĩ Nguyễn Hầu, Khóc ông phủ Vĩnh Tường, Khóc Tổng Cóc, Làm lẽ, Tự tình, Mời trầu, Đề đền Sầm Nghi Đống, Đèo Ba Dội, Hang Cắc Cớ, Cái quạt, Đánh đu, Thiếu nữ ngủ ngày, Không chồng mà chửa, Chùa Quán Sứ,  Sư hổ mang, Sư bị ong châm, Quan thị, Mắng học trò dốt … bài nào cũng thực thông minh, hóm hỉnh, vừa sâu sắc vừa cận nhân tình. Hồ Xuân Hương là một phụ nữ đặc biệt tài hoa nhưng bất hạnh. Bà có tới ba đời chồng là Tổng Cóc, Tri phủ Vĩnh Tường và Tham hiệp trấn Yên Quảng Trần Phúc Hiển, người  bị kết án năm 1816 và bị xử tử năm 1818.

Gia tộc Nguyễn Du có nhiều người giỏi và giữ những vị trí trọng yếu của thời cuộc: cha là Nguyễn Nhiễm làm Tể tướng hai triều Lê; chức quan trước khi cáo lão về trí sĩ là thượng thư bộ Hộ, Đại Tư đồ, Tham tụng, tặng tiệp dinh Tả tướng, tước Xuân Quận công, anh cùng cha khác mẹ là Nguyễn Khản làm Tể tướng, Tham tụng, Thượng thư bộ Lại kiêm trấn thủ Thái Nguyên, Hưng Hóa triều Lê; cha nuôi là quan trấn thủ Thái Nguyên Quản Vũ Hầu Nguyễn Đăng Tiến, tướng tâm phúc của Nguyễn Nhiễm; cha vợ là Hoàng giáp Phó Đô ngự sử Quỳnh Châu bá Đoàn Nguyễn Thục; anh cùng mẹ là Nguyễn Nễ đứng đầu ngoại giao của cả ba triều Lê, Tây Sơn, Nguyễn (Nguyễn Nễ từng trãi Cai đội quân Nhất Phấn giữ phủ chúa Trịnh, Hiệp tán quân vụ nhà Lê, Tả Phụng nghi bộ Binh, Hiệp tán quân vụ trấn Quy Nhơn, Chánh sứ, Tả đồng nghị trung thư sảnh trấn Nghệ An nhà Tây Sơn, phụ tá Tổng trấn Bắc thành nhà Nguyễn); anh ruột là Nguyễn Điều làm trấn thủ Sơn Tây của triều Lê; anh vợ là Đoàn Nguyễn Tuấn làm Thị Lang bộ Lại nhà Tây Sơn; anh rể là tiến sĩ Vũ Trinh làm Hữu Tham tri bộ Hình, thầy dạy Nguyễn Văn Thuyên, con của Tổng trấn Bắc thành Nguyễn Văn Thành.

Điểm đáng lưu ý là Nguyễn Du cũng là chú vợ của vua Gia Long Nguyễn Phúc Ánh. Cuốn gia phả cung cấp về cụ Nguyễn Trừ, anh trai thứ năm của Nguyễn Du : “Ông tên húy là Trừ, …, con bà trắc thất Nguyễn Thị Xuân, người xã Tiêu Sơn, huyện Yên Phong , Bắc Ninh và vẫn lưu ở quê mẹ. Năm Giáp Tý (1804) đổi làm Tri phủ Nam Sách. Ngày 8 tháng Giêng năm Gia Long thứ 8 (22 tháng 2 năm 1809) ông mang bệnh và mất ở đây, thọ 50 tuổi, đem về táng ở Tiêu Sơn (quê mẹ). Vợ kế thất là Tống Thị Thiếu sinh được 4 con trai Đại, Trù (làm tri phủ Vĩnh Tường), Hồng, Hiệp, có con gái là Thị Uyên được tuyển làm cung tần của vua Gia Long”. Vậy Nguyễn Trù là bố vợ của vua Gia Long.và Nguyễn Du là chú vợ của vua

Nguyễn Du rất được quý trọng của nhiều danh sĩ đương thời. Văn chương của ông đặc biệt lưu truyền sâu rộng trong lòng dân. Ông giao thiệp rộng với nhiều tướng văn võ của triều Lê như Hoàng Ngũ Phúc, Nguyễn Hữu Chỉnh, với danh thần nhà Tây Sơn như La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp, Ngô Thì Nhậm, Trần Văn Kỷ, Phan Huy Ích, Ngô Văn Sở, Thận Quận công, với danh thần nhà Nguyễn như Nguyễn Văn Thành, Đặng Trần Thường, Trịnh Hoài Đức, Ngô Nhân Tĩnh, Phạm Văn Hưng, Nguyễn Công Trứ, Trương Đăng Quế, Nguyễn Văn Giai…

Nguyễn Du mất ở Kinh Đô Huế ngày 10 tháng tám năm Canh Thìn (ngày 16 tháng 9 năm 1820), an táng tại cánh đồng Bào Đá, xã An Ninh, huyện Phong Điền. Năm Giáp Thân (1824), hài cốt của cụ được cải táng đưa về quê nhà ở Đồng Ngang thuộc giáp cũ của bản xã (có bút phê) ở thôn Thuận Mỹ, làng Tiên Điền, Hà Tĩnh. Những năm sau đó dời đến táng cạnh đền thờ Nguyễn Trọng và lại cải táng đến xứ Đồng Cùng, giữa một vùng cát rộng. Mộ cụ Nguyễn Du qua nhiều trùng tu, ngày một tôn nghiêm hơn.

Nguyễn Du cuộc đời được chia làm ba giai đoạn: 1) Nguyễn Du mười lăm năm tuổi thơ (1766- 1780); 2) Nguyễn Du mười lăm năm lưu lạc (1781-1796), trong đó có Nguyễn Du mười năm gió bụi 1781- 1790, Nguyễn Du câu cá ở biển Nam (Nam Hải Điếu Đồ 1791- 1796); Nguyễn Du đi săn ở núi Hồng (Hồng Sơn Liệp Hộ 1797 -1801); 3) Nguyễn Du làm quan đi sứ và viết sách (1802- 1820), bao gồm Nguyễn Du làm quan tri huyện, cai bạ, cần chánh điện đại hoc sĩ, chánh sứ đi sứ nhà Thanh, Nguyễn Du thơ chữ Hán  (1802 – 1813); Nguyễn Du và Truyện Kiều (Ông viết sau khi đi sứ thành công 1813-1814, viết trên đường về Việt Nam, và ông được nghỉ phép về quê sáu tháng, Ông đã hoàn thiện Truyện Kiều và ba tập thơ chữ Hán “Bắc hành tạp lục” 132 bài, “Nam trung tạp ngâm” 16 bài và “Thanh Hiên thi tập” 78 bài. Nguyễn Du vào nhậm chức Hữu Tham tri Bộ Lễ và chết ở Huế 1820.

Nguyễn Du di cảo thơ lưu hành qua những câu thơ lưu lạc trong dân gian trên gốm sứ Giang Tây, qua di sản thơ chữ Hán, thơ Truyện Kiều bản kiểm duyệt hiệu đính của triều Nguyễn (bản Kinh) và bản Phường chữ Hán Nôm có lưu dấu hai bài Tựa đầu Truyện Thúy Kiều ( Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim biên khảo theo bản khắc in cuối triều Nguyễn) lộ thêm một chút cuộc đời và hành trạng Nguyễn Du

MƯỜI LĂM NĂM TUỔI THƠ

Năm Ất Dậu (1765), Nguyễn Du sinh ngày 23 tháng 11

(nhằm ngày 3 tháng 1 năm 1766) lúc Nguyễn Nghiễm 58 tuổi, bà Trần Thị Tần 26 tuổi. Nguyễn Du được gọi là cậu Chiêu Bảy. Năm ấy cũng là năm Vũ Vương mất, Trương Phúc Loan chuyên quyền. Họ Nguyễn làm chúa trong Nam từ thời ông Nguyễn Hoàng trở đi, phía bắc khi mềm khi cứng khéo ngăn không cho họ Trịnh vượt tam tuyến Hoành Sơn Linh Giang Lũy Thầy, phía nam đánh lấy đất Chiêm Thành và đất Chân Lạp, truyền đến đời Vũ Vương thì định triều nghi, lập cung điện ở đất Phú Xuân, phong cho Nguyễn Phúc Hiệu người con thứ 9 làm thế tử. Bây giờ thế tử đã mất rồi, con thế tử là Nguyễn Phúc Dương hãy còn nhỏ mà con trưởng của Vũ Vương cũng mất rồi. Vũ Vương lập di chiếu cho người con thứ hai là hoàng tử Cốn lên nối ngôi nhưng quyền thần Trương Phúc Loan đổi di chiếu lập người con thứ 16 của Vũ Vương, mới có 12 tuổi tên là Nguyễn Phúc Thuần lên làm chúa, gọi là Định Vương. Nguyễn Phúc Ánh là con của hoàng tử Cốn. Nguyễn Phúc Ánh sinh ngày Kỷ Dậu tháng Giêng năm Nhâm Ngọ (1762) lớn hơn Nguyễn Du ba tuổi. Trương Phúc Loan là người tham lam, làm nhiều điều tàn ác nên đàng Trong ai cũng oán giận, bởi thế phía nam nhà Tây Sơn dấy binh ở Quy Nhơn, phía bắc quân Trịnh vào lấy Phú Xuân, làm cho cơ nghiệp họ Nguyễn xiêu đổ.

Năm Đinh Hợi (1767), Nguyễn Du hai tuổi.

Nguyễn Nghiễm được thăng Thái tử Thái bảo, hàm tòng nhất phẩm, tước Xuân Quận công. Lúc này Trịnh Doanh mất, con là Trịnh Sâm lên làm chúa. Lê Duy Mật đem quân về đánh Hương Sơn và Thanh Chương rồi rút về Trấn Ninh. Trịnh Sâm cho người đưa thư sang vỗ về không được, mới quyết ý dùng binh để dứt mối loạn. Cũng năm ấy (1767) nước Miến Điện sang đánh Xiêm La (Thái Lan ngày nay) bắt vua nước ấy và các con vua mang về Miến Điện. Hai người con khác của vua Xiêm La một người chạy sang Chân Lạp, một người chạy sang Hà Tiên. Trịnh Quốc Anh (Taksin) một tướng Thái gốc Hoa người Triều Châu tỉnh Quảng Đông khởi binh chống quân Miến Điện giành lại độc lập, tự lập làm vua Xiêm La và dời đô về Thonburi, bên bờ sông Chao Phraya, đối diện với Bangkok. (Nguyên nước Xiêm La vốn là một vương quốc Phật giáo tên là Xích Thổ (Sukhothai) ở miền Bắc Thái Lan, dần thay thế vai trò của Đế chế Khmer (Chân Lạp) đang tàn lụi vào thế kỷ 13 – thế kỷ 15. Năm 1283 người Thái có chữ viết. Sau đó người Thái mở rộng lãnh thổ xuống phía nam, và năm 1350 chuyển kinh đô xuống Ayuthaya, phía bắc Bangkok 70 km. Năm 1431, quân Xiêm cướp phá Angkor của Chân Lạp. Nhiều bảo vật và trang phục của văn hóa Hindu đã được họ đem về Ayutthaya, lễ nghi và cách ăn mặc của người Khmer được dung nhập vào thượng tầng văn hóa Xiêm. Trong khoảng 400 năm, từ thế kỷ 14 đến thế kỷ 18, giữa người Thái và người Miến Điện láng giềng luôn xảy ra các cuộc chiến tranh và kinh đô Ayuthaya bị huỷ diệt ở thế kỷ 18. Người Hoa sau biến cố Minh Thanh cũng ngày một nhiều ở đất Xiêm La; xem tiếp
Nguyễn Du niên biểu luậnhttps://hoangkimlong.wordpress.com/category/nguyen-du-nien-bieu-luan/

Năm Nhâm Tuất (1802). Nguyễn Du 37 tuổi.

Mùa xuân năm 1802, quân nhà Nguyễn qua sông Gianh tiến đánh, hạ được đồn Tâm Hiệu thuộc châu Bố Chính. Quân Tây Sơn tan vỡ, chạy về doanh Hà Trung trong hạt Kỳ Anh. Tháng 5 năm này, Nguyễn Ánh hạ chiếu đổi niên hiệu làm năm đầu niên hiệu Gia Long. Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng sau khi hạ được thành Quy Nhơn liền đem quân về đánh Phú Xuân. Khi Diệu đem quân ra khỏi địa giới Quy Nhơn thì bị tướng của nhà Nguyễn là Đắc Lộc hầu chặn lại. Quân của Trần Quang Diệu đánh phá nửa ngày nhưng không thể hạ được với vô số người chết và bị thương. Diệu đành đem quân theo đường núi vào Ai Lao, định ra Nghệ An. Được tin, Nguyễn Ánh lập tức cắt đặt các tướng, thống lĩnh các đạo quân thuỷ bộ, hẹn ngày kéo ra Bắc. Ngày 28 tháng 5, thuỷ quân của nhà Nguyễn tới cửa biển Đan Nhai thuộc Nghệ An, tiến đánh và phá được đồn Quần Mộc. Quân bộ cũng tiến đến phía nam sông Thanh Long rồi vượt sang bờ phía Bắc. Hai mặt thuỷ bộ đều tiến công, quân Tây Sơn bỏ chạy tán loạn. Quân nhà Nguyễn bèn xông lên cướp kho thóc Kỳ Lân. Trấn thủ của nhà Tây Sơn là Nguyễn Văn Thận cùng với hiệp trấn Nguyễn Triêm, thống lĩnh Nguyễn Văn Đại, thiếu uý Đặng Văn Đằng bỏ thành chạy ra miền Bắc. Đến đồn Tiên Lý, Nguyễn Triêm tự thắt cổ; còn Nguyễn Văn Thận chạy ra trấn Thanh Hoa. Quân nhà Nguyễn lấy được thành Nghệ An. Trần Quang Diệu ở Quỳ Hợp xuống đến địa phận Hương Sơn thì nghe tin Nghệ An đã thất thủ, bèn đến Thanh Chương, qua sông Thanh Long,  rồi chạy ra trấn Thanh Hoa. Tướng sĩ đi theo Diệu dần dần tản mát mỗi người một nơi. Quân nhà Nguyễn đuổi kịp, bắt sống được Diệu. Tháng 6, quân nhà Nguyễn tiến đánh thành Thanh Hoa. Em vua Quang Toản là đốc trấn Nguyễn Quang Bàn cùng Nguyễn Văn Thận, Đặng Văn Đằng đều đầu hàng. Ngày 18, Nguyễn Ánh tiến ra Thăng Long, quân Tây Sơn hoàn toàn tan vỡ. Nguyễn Quang Toản bỏ thành cùng với em là Nguyễn Quang Thùy và đô đốc Tú qua sông Nhĩ Hà chạy về hướng bắc. Sau đó, Quang Thùy và vợ chồng Tú đều tự thắt cổ. Còn vua cùng các bề tôi đều bị thổ hào Kinh Bắc bắt được đóng cũi giao nộp cho Nguyễn Ánh. Quan lại của nhà Tây Sơn ở các trấn hoặc trốn, hoặc hàng, không ai dám chống lại. Vua Gia Long vài tháng sau về lại Phú Xuân, sửa lễ cáo miếu dâng tù, đem Nguyễn Quang Toản ra dùng cực hình giết chết, rồi bố cáo cho khắp cả nước đều biết. Quang Toản cùng những người con khác của anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ đều bị Gia Long sai dùng cực hình 5 voi xé xác. Nguyễn Huệ, Nguyễn Nhạc cũng bị trả thù rất dã man: Mồ mả bị khai quật, hài cốt bị giã nát vứt đi; đầu lâu của Nhạc, Huệ, Toản và mộc chủ của vợ chồng Nguyễn Huệ đều bị giam ở nhà Đồ Ngoại, sau lại đưa vào cấm cố vĩnh viễn trong ngục thất (Nơi ấy, nay thuộc địa điểm
Trường Đại học Nông Lâm Huế). Quang Toản khi bị hành hình, mới 19 tuổi. Triều đại Tây Sơn chấm dứt.


NGUYỄN DU TRĂNG HUYỀN THOẠI
Hoàng Kim
(
Kim Notes lắng ghi chú)

Nguyễn Du thơ chữ Hán
Kiếm bút thấu tim Người,
Đấng danh sĩ tinh hoa,
Nguyễn Du khinh Thành Tổ,
Bậc thánh viếng đức Hòa

Nguyễn Du tư liệu quý
Linh Nhạc thương người hiền,
Trung Liệt đền thờ cổ,
“Bang giao tập” Việt Trung,
Nguyễn Du niên biểu luận

Nguyễn Du Hồ Xuân Hương
“Đối tửu” thơ bi tráng,
“Tỏ ý” lệ vương đầy,
Ba trăm năm thoáng chốc,
Mại hạc vầng trăng soi.

Nguyễn Du Nguyễn Công Trứ
Uy Viễn “Vịnh Thúy Kiều”,
Tố Như “Đọc Tiểu Thanh”,
Bến Giang Đình ẩn ngữ,
Thời biến nhớ người xưa.

Nguyễn Du thời Tây Sơn
Mười lăm năm tuổi thơ,
Mười lăm năm lưu lạc,
Thời Hồng Sơn Liệp Hộ,
Tình hiếu thật phân minh

Nguyễn Du làm Ngư Tiều
Câu cá và đi săn,
Ẩn ngữ giữa đời thường,
Nguyễn Du ức gia huynh,
Hành Lạc Từ bi tráng

Nguyễn Du thời nhà Nguyễn
Mười tám năm làm quan,
Ch&iacXem tiếp >>

  Dạy và học 7 tháng 12(07-12-2021)


DẠY VÀ HỌC 7 THÁNG 12
Hoàng Kim
CNM365 Tình yêu cuộc sốngĐường xuân theo chân Bác; Lên Trúc Lâm Yên Tử; Chuyện đồng dao cho em; Đêm Yên Tử, Hoàng Trung Trực đời lính; Đối thoại với Thiền sư; Ông Hồ Sáu Đồng Nai; Sắn Việt Nam ngày nay; Ngô Việt Nam ngày nay; Ngày 7 tháng 12 năm 1258 nhằm ngày 11 tháng 11 năm Mậu Ngọ, là ngày sinh của Trần Nhân Tông tức Trần Khâm vị vua Trần thứ ba (sau vua cha Trần Thánh Tông và trước vua Trần Anh Tông). Người là vị vua Phật tổ sư Trúc Lâm nổi tiếng anh minh trong lịch sử Việt Nam. Với 50 năm cuộc đời, vua Phật Trần Nhân Tông đã kịp làm được ít nhất năm việc lớn hiếm thấy và khó ai bì kịp ở mọi dân tộc và mọi thời đại: 1) Minh quân lỗi lạc, làm vua 15 năm (1278 – 1293) trực tiếp lãnh đạo cuộc kháng chiến hai lần đánh thắng quân Nguyên Mông là đội quân xâm lược hùng mạnh nhất thời đó; 2) Tổ sư thiền phái Trúc Lâm và Thái Thượng Hoàng 15 năm (1294-1306) là vua Phật Việt Nam. 3) Nhà văn hóa và nhà thơ kiệt xuất với kiệt tác thơ Thiền Trần Nhân Tông và thắng tích Trúc Lâm Yên Tử; 4) Người thầy chiến lược vĩ đại muôn đời của kế sách một chữ “đồng” “vua tôi đồng lòng, toàn dân đồng sức”, nhược thắng cường, yếu thắng mạnh, nước nhỏ thắng nước lớn, sự nghiệp mở nước và thống nhất non sông Việt bằng vương đạo, thuận thời, thuận người . 5) Nhà trị loạn kỳ tài đã hưng thịnh nhà Trần và cứu nguy cho nước Việt ở thời khắc quyết định, biến nguy thành an, biến những điều không thể thành có thể; Ngày 7 tháng 12 năm 1972, các phi hành gia trên phi thuyền Apollo 17 trên đường tới Mặt Trăng lần đầu tiên chụp  rõ mặt sáng của “Viên bi xanh“ Trái Đất. Ngày 7 tháng 12 năm 1995, tàu vũ trụ Galileo đã đến Sao Mộc sau hơn 6 năm từ khi được phóng bởi Tàu con thoi Atlantis trong Sứ mệnh STS-34. Bài viết chọn lọc ngày 7 tháng 12: Đường xuân theo chân Bác; Lên Trúc Lâm Yên Tử; Chuyện đồng dao cho em; Đêm Yên Tử, Hoàng Trung Trực đời lính; Đối thoại với Thiền sư; Ông Hồ Sáu Đồng Nai; Sắn Việt Nam ngày nay; Ngô Việt Nam ngày nay; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/ http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-7-thang-12/

ĐƯỜNG XUÂN THEO CHÂN BÁC
Hoàng Kim

Đường xuân nhớ thơ hay
Chợt gặp mai đầu suối
Sớm Đông trên đồng rộng
Nhớ Người mùa Giáng sinh”

https://hoangkimlong.wordpress.com/category/chot-gap-mai-dau-suoi/
https://hoangkimvn.wordpress.com/tag/nho-nguoi-mua-giang-sinh

Duong xuan 2

“Những gì tốt đẹp nhất phải được cảm nhận bằng trái tim”. Helen Keller đã nói vậy.  ‘Đường xuân’ là những điều tốt đẹp nhất mà tôi cảm nhận được bằng trái tim, trong đêm lạnh ở Việt Bắc nhớ Người. Nghiên cứu lịch sử là để nhận diện đúng dòng chủ lưu của vận hội mới. Tùy cơ, tùy vận, tùy thiên mệnh, tùy thời, tùy thế, lại tùy nghi. Dĩ bất biến ứng vạn biến, nhằm góp phần xây dựng đất nước phát triển mạnh mẽ, bền vững.

Về Việt Bắc, tôi thấm cái lạnh thấu xương của thời giao mùa trong chuyến khảo sát tạo hạt sắn lai tại chợ Đồn Bắc Kạn, Yên Lãng núi Hồng. Tôi ra Đông Bắc năm trước, đã thấm cái rét cắt da của đêm thiêng Yên Tử khi nửa đêm khởi hành từ chùa Hoa Yên đi bộ lên chùa Đồng. Đêm lạnh tôi chứng ngộ được đức lớn của Trần Nhân Tông khi Người dấn thân từ bỏ ngôi vua lúc 35 tuổi lên tu hành thiền trên Trúc Lâm Yên Tử trải mười lăm năm để hội tụ các Thiền phái giáo hội Phật giáo đời Trần về một mối.

Tôi cũng thấu hiểu, kính trọng và ngưỡng ngộ nhân cách lớn của chủ tịch Hồ Chí Minh trải mười lăm năm gian khổ ở chiến khu Việt Bắc với sáu năm gầy dựng Việt Minh (1941- 1945) và chín năm lãnh đạo chính phủ kháng chiến chống thực dân Pháp (1946-1954).

Những người trải tuổi cao, có đức hi sinh chịu khổ làm việc thiện mới thấu hiểu minh triết dấn thân và bình sinh của Người.

Duong xuan 1

CHỢT GẶP MAI ĐẦU SUỐI

Nghìn dặm tìm anh chẳng gặp anh
Đường về vó ngựa dẫm mây xanh
Qua đèo chợt gặp mai đầu suối
Đóa đóa vàng tươi xuân thắm cành”. T

ôi biết bài thơ “Qua đèo chợt gặp mai đầu suối” của Bác Hồ đăng trên báo khoảng năm 1970 do một chuyện ngẫu nhiên tình cờ nên nhớ mãi. Bài thơ kỳ lạ vì ẩn chứa nhiều triết lý sâu sắc không dễ thấy, vì nó là thơ của Bác Hồ mà ít thấy sách báo nào nhắc đến cho đến xuân 2013 đã trãi hơn sáu mươi ba năm.

Thuở ấy, tôi mới mười bảy tuổi, đã cùng người anh trai ra thăm đèo Ngang. Chúng tôi vừa đi xe đạp vừa đi bộ từ chân núi lên đến đỉnh đèo. Gần cột mốc địa giới hai tỉnh trên đỉnh đường xuyên sơn, cạnh khe suối ven đỉnh dốc sườn đèo có cây mai rừng rất đẹp. Chúng tôi đang thưởng ngoạn thì chợt gặp xe của bộ trưởng Xuân Thủy và xe của ông Nguyễn Tư Thoan bí thư tỉnh ủy Quảng Bình vừa tới. Họ đã xuống xe ngắm nhìn trời, biển, hoa, núi và bộ trưởng Xuân Thuỷ bình bài thơ trên.

Bộ trưởng Xuân Thủy là nhà ngoại giao có kiến thức rộng, bạn thơ của Hồ Chí Minh, giỏi dịch thơ chữ Hán. Ông cũng là người đã dịch bài thơ “Nguyên tiêu” nổi tiếng, nên khi tôi tình cờ được nghe lời bình phẩm trực tiếp của ông về bài thơ trên thì tôi đã nhớ rất lâu. Tôi cũng hiểu nghĩa rõ ràng cụm từ “Trung Nam Hải” từ dịp ấy.

Ba mươi năm sau, khi anh Gia Dũng sưu tầm, tuyển chọn và giới thiệu bài thơ “Tìm bạn không gặp” trong tập thơ “Ngàn năm thương nhớ” tuyển thơ một nghìn năm Thăng Long, Hà Nội. Bài thơ “Tầm hữu vị ngộ” của Bác do nhà Hán học nổi tiếng Phan Văn Các diễn nghĩa và dịch thơ. Nội dung tuy vẫn thế nhưng bản dịch mới, lời dịch sát nghĩa chữ Hán hơn so với bản tự dịch thoáng ý của chính Bác lại có khác MỘT chữ so với bài mà tôi được đọc và nghe bình trước đây. Đó là từ “nghìn dặm” được thay bằng từ “trăm dặm” (“bách lý tầm quân vị ngộ quân” thay vì “thiên lý tầm quân vị ngộ quân”). Bản dịch mới có lời ghi chú, nghe nói là của Bác. Bài thơ viết năm 1950 nhưng xuất xứ và cảm xúc thực sự của Người khi thăng hoa bài thơ nổi tiếng này thì nay vẫn còn để ngỏ.

Bác ra nước ngoài từ đầu năm 1950 đến đầu tháng Tư mới về nước theo hồi ức “Chiến đấu trong vòng vây” của đại tướng Võ Nguyên Giáp. Bác lúc đó đã sáu mươi tuổi, bí mật đi đến Bắc Kinh gặp chủ tịch Đảng Cộng sản Trung Quốc Mao Trạch Đông rồi đi luôn sang Matxcơva gặp đồng chí Stalin. Bác cũng đi tìm gặp đại tướng Trần Canh khi chuẩn bị chiến dịch Biên giới. Trong cơn lốc của các sự kiện, Bác khẳng định: “Tổng phản công của ta sẽ là một giai đoạn lâu dài. Rồi đây, có sự chi viện của Liên Xô và Trung Quốc về vật chất, vũ khí, trang bị, ta sẽ đỡ khó khăn hơn, nhưng giành được thắng lợi là phải do sức nỗ lực của chính bản thân ta quyết định”.

“Nghìn dặm” hay “trăm dặm”? “gặp bạn” hay “không gặp”? hoặc “gặp nhưng không gặp về cách làm”? Ngữ nghĩa của câu thơ “Bách lý tầm quân vị ngộ quân” khác hẳn với “thiên lý tầm quân vị ngộ quân”, đó là sự gặp gỡ một minh quân, một minh chủ, một chủ thuyết chứ không đơn giản là “Tìm bạn không gặp”. Dường như Bác đang đề cập một vấn đề rất lớn của định hướng chiến lược đối ngoại “phải biết tranh thủ thời cơ, tận dụng sự ủng hộ và chi viện quốc tế nhưng giành được thắng lợi là phải dựa vào sức mình là chính” . Nhiều sự kiện lịch sử hiện tại đã được giải mã nhưng còn nhiều ẩn ý sâu sắc trong thơ Bác cần được tiếp tục tìm hiểu, khám phá thêm. Những năm tháng khó khăn của cách mạng Việt Nam “chiến đấu trong vòng vây”; Những tổn thất và sai lầm trong cải cách ruộng đất do sự thúc ép từ phía Liên Xô và sự vận dụng không phù hợp kinh nghiệm của Trung Quốc; Quan hệ của nước nhỏ đối với các nước lớn. Nhiều điều tinh tế ẩn chứa trong thơ Bác.

Ý tứ trong bài thơ của Bác rất gần với với một bài thơ cổ của Trung Quốc thời nhà Tống: “Tận nhật tầm xuân bất kiến xuân/Mang hài đạp phá lãnh đầu vân/ Quy lai khước phá mai hoa hạ/ Xuân tại chi đầu vị thập phân”. Bài thơ tả một ni cô mang hài trèo đèo vượt núi cực khổ tìm xuân suốt ngày mà vẫn chẳng gặp xuân. Đến khi trở về mới thấy xuân đang hiện trên những cành mai trong vườn nhà.

Bác Hồ cũng vượt vòng vây phong tỏa, chịu nhiều gian khổ suốt bốn tháng ròng để tìm sự ủng hộ quốc tế cho cách mạng Việt Nam đang “chiến đấu trong vòng vây”. Trên đường về, qua đèo, Bác chợt gặp cây mai đầu suối và Bác đã ngộ ra được những vấn đề sâu sắc của phương pháp cách mạng. Đối diện với mặt trời đỏ “đông phương hồng, mặt trời lên” là mặt TRĂNG hiền hoà (rằm xuân lồng lộng trăng soi) và gốc MAI vàng cổ thụ bên SUỐI nguồn tươi mát (bên suối một nhành mai). Trăng, suối, hoa mai là những cụm từ quan trọng trong thơ Bác. Nó là triết lý ứng xử tuyệt vời của một nước nhỏ đối với các nước lớn trong quan hệ quốc tế phức tạp. Trời càng sáng, trăng càng trong, nước càng mát, mai càng nở rộ.

Ngày cuối đông, hiểu sâu thêm một bài thơ hay của Bác và góp thêm một tản văn về trăng, suối nguồn, hoa mai. Học minh triết trong quan điểm chiến lược của Bác “dựa vào sức mình là chính đồng thời tranh thủ thời cơ và sự ủng hộ quốc tế”. Trăng, suối nguồn, hoa mai là biểu tượng và đối sách quốc gia mà Bác nhắn gửi. Đó là phong thái thung dung, điềm tĩnh, bản lĩnh gan góc bất khuất, dám giành độc lập, giữ độc lập tự do để mưu cầu hạnh phúc cho dân, đám đánh và biết đánh thắng.

TÂM HỒN BÌNH DỊ CHÍ ANH MINH

“Bình sinh đầu ngẩng tới trời xanh
Khuất núi hồn THƠM quyện đất lành
Anh hùng HỒ dễ nên nghiệp ấy?
Tâm hồn bình dị CHÍ anh MINH”.

Bài thơ tứ tuyệt này được thêu trên bức trướng do năm nhà cách mạng lão thành Nga gửi đến tang lễ Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Anh Phan Chí Thắng đã gửi cho tôi tư liệu quý trên đây cuối tháng ba năm 2008 với lời nhắn:

Gửi Hoàng Kim. Cách đây mấy ngày, trong một cuộc tiếp xúc nhiều người, tôi vô tình được nói chuyện với anh H. – cháu nội người đỗ đầu khoa Hội cùng năm với cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc. Dì ruột của anh H lấy anh cả của ông Lê Đức Thọ. Anh H. kể là được nghe trực tiếp từ ông Lê Đức Thọ về bài tứ tuyệt được thêu trên trướng do 5 nhà cách mạng lão thành Nga gửi đến tang lễ Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chỉ nghe một lần mà anh H. thuộc lòng cho đến bây giờ, thật xứng danh cháu nội cụ Hội Nguyên. Tôi xin chép lại vào đây để Hoàng Kim tham khảo.

Có vài điểm thắc mắc: 1. Làm sao mà các nhà cách mạng Nga lại làm được thơ tứ tuyệt? Hay là họ nhờ ai đó làm giúp theo ý họ? 2. Các chữ viết hoa trong bài tứ tuyệt được thêu chữ hoa, nghĩa là có dụng ý. Ba chữ là lấy từ trong “Hồ Chí Minh”. Còn chữ “Thơm” có phải đó cũng là tên hoạt động của Bác Hồ trong thời gian công tác cùng với 5 nhà cách mạng Nga kia? Hay là một tên gọi khác của Bác mà rất ít người biết? Sơ bộ như thế đã, các nhà nghiên cứu sẽ tìm câu trả lời.

Điếu văn của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam do đồng chí Lê Duẩn, Bí thư thứ nhất, đọc tại Lễ truy điệu trọng thể Hồ Chủ tịch, ngày 9 tháng 9 năm 1969” đã nhận định về Bác: “Hồ Chủ Tịch là người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta, là người xây dựng nền Cộng hoà Dân chủ Việt Nam và Mặt trận Dân tộc Thống Nhất, là người cha thân yêu của các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam. Người là linh hồn, là ngọn cờ chói lọi, lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đoàn kết một lòng, chiến đấu anh dũng, viết nên những trang sử vẻ vang nhất của Tổ quốc ta. Dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta đã sinh ra Hồ Chủ Tịch, người anh hùng dân tộc vĩ đại, và chính Người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta và non sông đất nước ta”.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp tâm đắc: “Thế giới còn đổi thay nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh sẽ sống mãi”. Hồ Chí Minh là con người bình dị và quang minh lỗi lạc với tám chữ tâm niệm Bác đã mẫu mực thực hành suốt đời đó là “cần kiệm liêm chính, chí công vô tư”.

Giáo sư Trần Văn Giàu đúc kết bảy phẩm chất cơ bản của Bác Hồ được con dân nước Việt và thế giới ngợi ca đối với “Nhân cách lớn của chủ tịch Hồ Chí Minh”: 1) Ưu tiên đạo đức; 2) Tận tụy quên mình; 3) Kiên trì bất khuất; 4) Khiêm tốn giản dị; 5) Hài hòa kết hợp; 6) Thương, quý người, nâng đỡ con người, thấu tình đạt lý; 7) Yêu thiên nhiên hòa hợp với thiên nhiên“.

Lệ thần Trần Trọng Kim có tác phẩm Một Cơn Gió Bụi và Lê Mai có bài viết Chủ tịch Nước Hồ Chí Minh góp thêm tư liệu quý chân thực về trí tuệ bậc Thầy “anh hùng hồ dễ nên nghiệp ấy”.

“Tâm hồn bình dị chí anh minh” và “Bình sinh đầu ngẩng tới trời xanh” là hai câu thơ khái quát được nhân cách, bản lĩnh và tầm vóc của chủ tịch Hồ Chí Mính. Người chủ của bài thơ hay này phải là người hiểu được bình sinh của Bác đủ nhân trí dũng dám đánh và biết đánh thắng địch mạnh, dám đối diện mặt trời đỏ, hiểu được bản chất nhân văn của một tâm hồn bình dị chí anh minh và sành văn chương, khéo khái quát được thần thái của Bác trong vỏn vẹn bốn câu thơ.

Manh mối đầu tiên trong logic của “thần thám Địch Nhân Kiệt” là vậy. Tôi ngờ rằng đây chỉ có thể là thơ của chính Bác, cũng có thể là thơ của ông Lê Đức Thọ đã khéo léo dàn dựng một cách tài tình. Ông Trường Chinh Sóng Hồng và Xuân Thủy cũng giỏi thơ, ông Phạm Văn Đồng giỏi văn chương nhưng không thể là tác giả. Ông Lê Đức Thọ là có thể vì bình sinh ông ưa làm Trần Thủ Độ, ông có chí lãnh tụ, từng muốn làm tổng bí thư, mưu sâu kế hiểm từng làm liệt vị tướng Giáp, khéo xuất hiện như các vị tướng cầm quân trong các chiến dịch lớn Mậu Thân, Hồ Chí Minh và chiến tranh biên giới Tây Nam, khéo lộ diện trong ngoại giao đánh đàm hai tay trường kỳ với Mỹ Thiệu tại Paris, ông là người sắp xếp nhân sự, cũng thích làm thơ và khéo dựng chuyện sâu xa…

Giải mã câu chuyện do chính ông nêu ra kỳ bí như xem phim Võ Tắc Thiên cần đi từ chính những người trong cuộc biết rõ. Ngày xuân lưu lại điều này trong DẠY VÀ HỌC, DANH NHÂN VIỆT để tiếp tục nghiên cứu. Nhiều sự thật lịch sử cần đủ thông tin, đúng người, đúng việc, đúng liều lượng và đúng thời điểm. Tôi viết “Đường xuân theo chân Bác” năm ra Bắc và ngày này mỗi năm, ngày tiết trời rét mùa đông lại đọc lại, để thấm thía hơn.

Bình sinh đầu ngẩng tới trời xanh! Hồ Chí Minh nghe nói cũng có thơ viết ở đền Trần trong đó có câu “Tôi bác xưa nay vẫn anh hùng” tự cho mình nối tiếp công việc tiền nhân của Trần Hưng Đạo. Người cũng đã dùng cụm từ “kẻ phi thường” thay cho cụm từ “bậc phi thường” khi nói về thân thế và sự quyền biến của Nguyễn Huệ và Lý Công Uẩn trong hai câu “Nguyễn Huệ là kẻ phi thường” và “Công Uẩn là kẻ phi thường” tại tác phẩm Lịch sử nước ta (Hồ Chí Minh tuyển tập tập 1, trang 596, 598), mặc dù Bác biết rất rõ cụm từ “bậc phi thường” vì Bác là bậc Thầy về chữ nghĩa và rất cẩn trọng ngôn ngữ nhưng Người vẫn viết vậy. Bác coi trọng lịch sử, đánh giá công bằng mà không rơi vào sự giáo điều mê tín bất cứ ai.

Báo cáo của Việt Nam gửi Quốc tế Cộng sản ngày 12 tháng 7 năm 1940 do Hồ Chí Minh sọạn thảo là cẩm nang đón trước thời cơ “nghìn năm có một” của Tổng khởi nghĩa tháng 8 và Tuyên ngôn Độc lập ngày 2 tháng 9 năm 1945. Tài liệu tổng hợp, phân tích, đánh giá đầy đủ, toàn diện tình hình, sâu sắc hiếm thấy nhưng cực kỳ súc tích chỉ vắn tắt 12 trang. Đó là một trong số những thí dụ rõ nhất về thiên tài kiệt xuất của Hồ Chí Minh dám chớp thời cơ giành chính quyền và biết thắng. Hãy nghe Hồ Chí Minh phân tích tình thế và đưa ra mưu lược hành động thật quả quyết:

“Tóm lại, những điều kiện khách quan cho phép chúng tôi có hi vọng thành công. Song, lực lượng chủ quan- lực lượng của Đảng còn quá yếu. Như trên đã nói, một đảng mới mười tuổi lại trãi qua hai lần khủng bố lớn, số cán bộ có kinh nghiệm đấu tranh hiện còn đang rên xiết trong tù ngục, khiến đảng viên và quần chúng như “rắn mất đầu” không thể tận dụng cơ hội tốt “nghìn năm có một”. Chúng tôi liệu có khả năng làm thay đổi hoàn cảnh đó, khắc phục khó khăn đó, giúp Đảng hoàn thành sứ mạng lịch sử của nó hay không? Có. Chúng tôi nhất định không thể từ trong đánh ra. Chúng tôi chỉ có cách từ ngoài đánh vào. Nếu chúng tôi có được: 1) Tự do hành động ở biên giới; 2) Một ít súng đạn; 3) Một chút kinh phí; 4) Vài vị cố vấn thì chúng tôi nhất định có thể lập ra và phát triển một căn cứ địa chống Pháp, chống Nhật – đó là hi vọng thấp nhất. Nếu chúng tôi có thể mở rộng Mặt trận thống nhất các dân tộc bị áp bức, có thể lợi dụng mâu thuận giữa các nước đế quốc thì tiền đồ tươi sáng là có thể nhìn thấy được. Tôi rất hi vọng các đồng chí giúp tôi nhanh chóng giải quyết vấn đề này. 12.7.40.” (Hồ Chí Minh Toàn tập t. 3 tr. 162-174).

Ngày nay nhìn lại, càng đọc càng thấm thía nhiều điều sâu sắc. Đầu xuân này chúng ta hãy nghe Lê Mai kể lại một trích đoạn trong “Chủ tịch Nước Hồ Chí Minh”:

Quốc Hội nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, vào ngày 9. 11. 1946, đã thông qua bản Hiến pháp đầu tiên mà sự tiến bộ, mẫu mực, dân chủ của nó cho đến nay – không những làm chúng ta mà còn làm cả thế giới thán phục. Trong bản Hiến pháp dân chủ ấy, ngoài việc thiết kế một thiết chế chính trị mẫu mực, đã quy định quyền hạn của Chủ tịch Nước rất rõ ràng, đó là người thay mặt cho nước, giữ quyền Tổng chỉ huy quân đội toàn quốc, chỉ định hoặc cách chức các tướng soái trong lục quân, hải quân, không quân, ký sắc lệnh bổ nhiệm Thủ tướng, ban bố các đạo luật, đặc xá, ký hiệp ước với các nước, tuyên chiến hay đình chiến …

Hồ Chí Minh là Chủ tịch đầu tiên của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.

Dĩ nhiên, dấu ấn của Hồ Chí Minh hết sức đậm nét trong bản Hiến pháp đầu tiên. Sự thông minh xuất chúng, hiểu nhiều, biết rộng của Hồ Chí Minh đã làm Võ Nguyên Giáp – một người tài ba, một cộng sự rất gần gũi Hồ Chí Minh kinh ngạc. Ông kể, gần như làm bất cứ việc gì, ông đều thấy Hồ Chí Minh đã tiên liệu, suy nghĩ vấn đề đó từ rất lâu rồi. Bản Tuyên ngôn độc lập, bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa chỉ là vài dẫn chứng sinh động.

Đối với những tình huống đột xuất thì sao? Những ứng phó của Chủ tịch nước Cộng hòa non trẻ, trong tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, thù trong, giặc ngoài đầy rẫy càng làm chúng ta khâm phục.

Ngay sau cái Tết Bính Tuất năm 1946 – Tết độc lập đầu tiên sau tám mươi năm trời nô lệ, Hồ Chí Minh đã có một cuộc nói chuyện dài với tướng Raun Xalăng. Xalăng – một sỹ quan Pháp, người đã từng ăn cơm lam chấm mắm ngóe miền thượng nguồn, ăn mắm tôm vắt chanh ở miền xuôi của VN. Tướng Xalăng đang rất hung hăng, điều này dễ hiểu, vì bấy giờ, Pháp ỷ vào sức mạnh nên coi thường Chính phủ Hồ Chí Minh. Nhưng, ông ta có vẻ bối rối khi hiện ra trước mắt mình là một nhà hiền triết phương Đông với phong thái ung dung tự tại tỏa ra từ đôi mắt sáng, chòm râu thưa, mái tóc pha sương, nước da dãi dầu mưa nắng, một cốt cách thanh cao khắc khổ ẩn tàng sức mạnh siêu quần được dấu kín trong bộ quần áo kaki cổ đứng không cài cúc.

– Mời tướng quân xơi nước.

Tướng Xalăng nâng chén nước lên theo lời mời của Hồ Chí Minh và nói:

– Thưa ngài Hồ Chí Minh…

Lập tức, Hồ Chí Minh ngắt lời ông ta:

– Tôi đã mời “tướng quân” xơi nước chứ tôi không mời “ngài” Raun Xalăng…

Raun Xalăng mất chủ động, lúng túng xin lỗi, mặc dù dụng ý của ông ta rất rõ ràng: không công nhận chức Chủ tịch của Hồ Chí Minh, cũng tức là không công nhận nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.

Sau những lời xã giao, thăm hỏi, trao đổi về tình hình chung, bỗng Raun Xalăng chuyển câu chuyện. Ông ta nói:

– Chủ tịch thử nghĩ xem, nên để chúng tôi khôi phục trật tự ở nước này, vì chúng tôi đủ lực lượng và rất nhiều phương tiện. Theo ý tôi, nếu được như vậy đất nước này sẽ biết ơn Chủ tịch, vì Chủ tịch là người đứng đầu Chính phủ có uy tín tuyệt đối với nhân dân. Nếu Chủ tịch để chúng tôi đưa quân vào đây không gặp trở ngại nào thì đó là sự chứng minh trước thế giới Chủ tịch biết kiềm chế quân đội của mình và điều đó thể hiện uy quyền của Chủ tịch là vô song.

Phải công nhận lời nói của Xalăng rất khôn khéo mà hiểm độc. Hồ Chí Minh bình thản chế thêm nước trà vào chén mời Xalăng:

– Tướng quân uống nước đi. Hút tiếp một hơi thuốc lá thơm, giọng nói trầm hùng của Hồ Chí Minh phắt căng lên:

– Tôi không thể làm như lời tướng quân, nếu làm như vậy, tôi sẽ là kẻ phản quốc. Tướng quân nên nhớ rằng, chúng tôi yêu nước Pháp, nhưng không muốn làm nô lệ. Nước Pháp có binh hùng, có nhiều tướng giỏi, nhiều vũ khí tối tân. Một Pháp có thể giết 10 VN, 10 VN có thể chỉ diệt được một Pháp nhưng toàn dân VN đều một lòng kháng chiến chống Pháp.

– Chúng tôi rất mạnh. Cuộc đổ bộ của chúng tôi đã sẵn sàng. Vì sao Chủ tịch không chịu thừa nhận điều hiển nhiên ấy?

Giọng Hồ Chí Minh như có lửa:

– Nếu quân Pháp lại đổ bộ đến đây, chúng tôi không chặn đứng được ngay, nhưng sẽ đổ máu, những người dân Pháp sẽ bị chết. Đó là điều bất hạnh cho cả hai bên. Chúng tôi không bao giờ mong điều đó xảy ra. Nhưng chúng tôi không chịu làm nô lệ một lần nữa.

Chữ “THƠM” và chữ “HỒ” trong bài thơ tứ tuyệt giúp ta liên tưởng Nguyễn Huệ (Hồ THƠM) và Nguyễn Ái Quốc (HỒ Chí Minh). Cụ Hồ Sĩ Tạo (ông nội ruột của Hồ Chí Minh) với cụ Hồ Phi Phúc (cha của Nguyễn Huệ) là quan hệ dòng tộc.

Có giả thuyết cho rằng tổ tiên nhà Tây Sơn vốn họ Hồ ở làng Hương Cái, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Họ theo chân chúa Nguyễn vào lập nghiệp miền Nam khi chúa Nguyễn vượt Lũy Thầy đánh ra đất Lê – Trịnh tới Nghệ An (năm 1655). Ông cố của Nguyễn Huệ tên là Hồ Phi Long (vào giúp việc cho nhà họ Đinh ở thôn Bằng Chân, huyện Tuy Viễn, tức An Nhơn) cưới vợ họ Đinh và sinh được một trai tên là Hồ Phi Tiễn. Hồ Phi Tiễn không theo việc nông mà bỏ đi buôn trầu ở ấp Tây Sơn, cưới vợ và định cư tại đó. Vợ của Hồ Phi Tiễn là Nguyễn Thị Đồng, con gái duy nhất của một phú thương đất Phú Lạc, do đó họ đổi họ của con cái mình từ họ Hồ sang họ Nguyễn của mẹ. Người con là Nguyễn Phi Phúc cũng chuyên nghề buôn trầu và làm ăn phát đạt. Nguyễn Phi Phúc có 8 người con, trong đó có ba người con trai: Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ.

Nguyễn Huệ sinh năm 1753 còn có tên là Hồ Thơm hay Quang Bình, Văn Huệ. Cụ Hồ rất coi trọng lịch sử nên sự liên hệ giữa câu chuyện có thật trên đây và bài thơ có thể là một giả thuyết. Chữ “Thơm” cũng có thể là tên hoạt động của Bác Hồ trong thời gian công tác cùng với 5 nhà cách mạng Nga kia, hay là một tên gọi khác của Bác hoặc cũng có thể là người yêu thương của Bác như vĩa than núi Hồng của tình yêu Yên Lãng.

Duong xuan 3

VỀ VIỆT BẮC ĐÊM LẠNH NHỚ BÁC

“Tháng giêng rét đài, tháng hai rét lộc, tháng ba rét nàng Bân”. Rét đài là đợt rét cho cây trổ hoa; rét lộc là đợt rét khi cây nẩy mầm non; rét nàng Bân là đợt rét muộn nàng Bân may áo lạnh cho chồng. Tôi về Việt Bắc tháng giêng rét đài lúc trời rét đậm, vận nước vần vũ với cái lạnh thấm thía đến thấu xương của thời giao mùa. Tôi đi mang mang giữa vùng núi cao mà lòng bâng khuâng nhớ kỹ niệm cũ. Nơi đây là tuổi trẻ của tôi. Nay về Việt Bắc khi tôi trạc tuổi Bác của các năm đầu gian khổ kháng chiến, đêm lạnh nhớ Bác và thương sự dấn thân vì nước của Người.

Việt Bắc gồm sáu tỉnh: Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên (gọi tắt là Cao – Bắc – Lạng – Hà- Tuyên Thái). Đó là căn cứ địa đầu não của Đảng Lao Động Việt Nam trong thời trước khởi nghĩa (1941-1945) và là nơi trú đóng của chính phủ Việt Minh thời kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 – 1954).

Cao Bằng có hang Pác Bó (Cốc Bó) tiếng Tày nghĩa là “đầu nguồn” được chủ tịch Hồ Chí Minh chọn làm nơi ở khi Bác về nước lãnh đạo khởi nghĩa giành chính quyền. Trước cửa hang có một con suối lớn chảy ngầm từ trong núi đá ra, nguồn của con suối là bên phía Bắc của ngọn núi này và thuộc lãnh thổ Trung Quốc. Bác Hồ đã đặt tên suối Pác Bó là suối Lê Nin và ngọn núi cao kia là núi Các Mác.

Trong chiến tranh biên giới Việt-Trung năm 1979, quân Trung Quốc đã cho nổ mìn phá hoại hang Cốc Pó định cắt đứt mạch nguồn này nhưng núi cao, suối lớn, mạch vững nên chỉ có thể chặn không có thể hủy. Người đời sau sẽ bàn sâu hơn về đúng sai của mỗi bên nhưng thời Mao Trạch Đông và Hồ Chí Minh rõ ràng là tình bạn hữu nghị tin cậy và không hề xẩy ra sự cố nào.

Ngày nay hang Cốc Pó đã được khôi phục một phần để phục vụ khách tham quan. Cao Bằng là đất đầu nguồn của dòng Bách Việt (bộ tẩu) đi về phương Nam “tẩu vi thượng sách”, né địch mạnh để dựng nghiệp lớn. Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491–1585) là nhà tiên tri, nhà giáo, nhà thơ triết lý, nhà văn hoá lớn của thời Lê – Mạc. Lúc nhà Mạc sắp mất sai người đến hỏi ông. Ông khuyên vua tôi nhà Mạc “Cao Bằng tuy thiển, khả diên sổ thể” (Cao Bằng tuy nhỏ, nhưng có thể giữ được). Nhà Mạc theo lời ông và giữ được đất Cao Bằng gần 80 năm nữa.

Bắc Kạn là tỉnh vùng núi cao, có địa hình phức tạp, cơ sở vật chất và kinh tế chưa phát triển, nơi “Việt Bắc cho ta vay địa thế”(1), có hồ Ba Bể một trong 20 hồ nước ngọt đặc biệt của thế giới cần được bảo vệ và nằm trong vườn quốc gia Ba Bể, được công nhận là khu du lịch quốc gia Việt Nam và Vườn di sản ASEAN. Đó cũng là nơi có căn cứ địa cách mạng ATK Chợ Đồn nổi tiếng, một trong những khu căn cứ của Hồ Chí Minh và các cán bộ cấp cao của Đảng Lao Động Việt Nam cùng các nhân sĩ trong chính phủ kháng chiến của cụ Hồ, nơi mà hồn thiêng của cụ Phán Men Ứng Hòe Nguyễn Văn Tố, Chủ tịch Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa bị giặc Pháp giết hại ở rừng thiêng Việt Bắc đến nay vẫn chưa tìm được xác (2).

Lạng Sơn là cửa ngõ quan trọng bậc nhất của phía Bắc, nơi hiện có hai cửa khẩu quốc tế, bốn cửa khẩu quốc gia và bảy chợ biên giới Việt Trung, nơi đồi núi chiếm hơn 80% diện tích cả tỉnh và có nhiều thắng cảnh nổi tiếng Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa/ có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh, nơi có nhiều dòng sông, ấn tượng nhất là sông Thương, sông Kỳ Cùng, qua sông Thương gửi về bến nhớ tôi nhiều năm đóng quân với bao kỷ niệm (3).

Tuyên Quang có khu di tích văn hóa, lịch sử và sinh thái Quốc gia Tân Trào, Địa bàn chính tại xã Tân Trào trong thung lũng nhỏ ở Đông Bắc huyện Sơn Dương được bao bọc bởi núi Hồng ở phía Đông, núi Thoa, ngòi Thia ở phía Nam, núi Bòng ở phía Tây. Đây là tâm điểm của thủ đô kháng chiến chín năm, địa chỉ đến của những chuyến du lịch về nguồn. Đất và người Tuyên Quang có rất nhiều điều cần nghiên cứu luận bàn.

Thái Nguyên là tỉnh trọng điểm phía Bắc Hà Nội về quốc phòng – kinh tế – xã hội và đào tạo nguồn nhân lực. Đây là vùng đất địa linh của tam giác châu giữa lòng của vòng cung Đông Triều, trường thành chắn Bắc Đây là vùng thiên nhiên trong lành, suối nguồn tươi trẻ, lưu dấu tích anh hùng, mỹ nhân trong vầng trăng, bóng nước giữa rừng Hồ trên núi. nơi có núi Cốc, sông Công, hồ núi Cốc, vịnh Hạ Long trên núi, với diện tích mặt hồ khoảng 25 km2.

Đền Hồ Chí Minh trên rừng Yên Lãng, đỉnh đèo De dưới là mỏ than núi Hồng giữ ngọn lửa thiêng, vùng huyền thoại chuyện tình yêu thương mà tôi đang hết lòng lưu giữ huyền thoại cũ và mới. Đảo Cái lưu những cổ vật đặc biệt quý hiếm về Chùa Vàng và đền bà chúa Thượng Ngàn nổi tiếng.

Hà Giang là một thuộc vùng Đông Bắc Việt Nam. Phía Đông giáp tỉnh Cao Bằng, phía Tây giáp tỉnh Yên Bái và Lào Cai, phía Nam giáp tỉnh Tuyên Quang, phía Bắc, Hà Giang giáp châu tự trị dân tộc Choang và Miêu Văn Sơn thuộc tỉnh Vân Nam và địa cấp thị Bách Sắc thuộc tỉnh Quảng Tây của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Tôi muốn nhấn mạnh điều này để thấy chủ tịch Hồ Chí Minh tinh tế đến ngần nào khi xác định Việt Bắc trong địa giới hành chính với tư cách là một là một cấp hành chính. Hà Giang nằm ở cực Bắc của Việt Nam, tỉnh này có nhiều ngọn núi đá cao và sông suối. Địa hình của tỉnh Hà Giang khá phức tạp, có thể chia làm 3 vùng. Vùng cao núi đá phía bắc nằm sát chí tuyến bắc, có độ dốc khá lớn, thung lũng và sông suối bị chia cắt nhiều. Nằm trong vùng khí hậu cận nhiệt đới ẩm nhưng do địa hình cao nên khí hậu Hà Giang mang nhiều sắc thái ôn đới. Vùng cao núi đất phía tây thuộc khối núi thượng nguồn sông Chảy, sườn núi dốc, đèo cao, thung lũng và lòng suối hẹp.Vùng thấp trong tỉnh gồm vùng đồi núi, thung lũng sông Lô và Thành phố Hà Giang. Hà Giang có nhiều núi non hùng vĩ, có đỉnh Tây Côn Lĩnh (2419 m) là cao nhất làm ta nhớ đến bài thơ của Hồ Chí Minh “Bồi hồi dạo bước Tây Phong Lĩnh/trông lại trời Nam nhớ bạn xưa”.

Sáu tỉnh Cao Bắc Lạng Hà Tuyên Thái là bài học lớn nhưng tiếc chưa có tác phẩm địa chí lịch sử văn hóa Việt Bắc nào xứng tầm với vùng này.

Liên khu Việt Bắc thời kháng chiến chống thực dân Pháp gồm 17 tỉnh: Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Lào Cai, Yên Bái, Sơn La, Lai Châu, Bắc Giang, Bắc Ninh, Phúc Yên, Vĩnh Yên, Phú Thọ, Quảng Yên, Hải Ninh, Đặc khu Hồng Gai và huyện Mai Đà của tỉnh Hòa Bình. Liên khu Việt Bắc là địa thế chiến lược lui có thể thủ, tiến có thể công, là vùng đất địa linh nhân kiệt. Tam giác châu Bắc Bộ tâm điểm Hà Nội được bảo vệ bởi hai dãy núi: Đông Bắc là dải Tam Đảo với 99 ngọn Nham Biền chạy xuống Đông Triều có non thiêng Trúc Lâm Yên Tử oai trấn Đông Bắc; Tây Nam là dải Tản Viên nối 99 ngọn núi hùng vĩ chạy dọc sông Đáy tới Ninh Bình kết nối Trường Sơn xương sống của đất Việt tại vùng Thần Phù- Nga SơnXem tiếp >>

  Dạy và học 6 tháng 12(06-12-2021)


DẠY VÀ HỌC 6 THÁNG 12
Hoàng Kim
CNM365 Tình yêu cuộc sống Sông Kỳ Lộ Phú Yên; Tre Rồng sông Kỳ Lộ; Chọn giống sắn kháng CMD; Đường xuân;Mưa bóng mây nắng đầy; Vườn nhà sớm mai nay; Ngô Việt Nam ngày nay; Vietnamese Maize Today; Có một ngày như thế; Cánh cò bay trong mơ, Ngọc Phương Nam ngày mới; Xanh một trời hi vọng; Thương câu thơ lưu lạc; Cát đá đất miền Trung; Châu Mỹ chuyện không quên; Chuyện cổ tích người lớn; Lửa đèn vầng trăng soi; Đèo Ngang thăm thẳm nhớ; Chuyện cổ tích người lớn; Lửa đèn vầng trăng soi; Ngày 6 tháng 12 năm 1768, Ấn bản bách khoa toàn thư tiếng Anh Encyclopædia Britannica lần đầu tiên được Công ty Bách khoa toàn thư tiếng Anh biên soạn và xuất bản tổng hợp bằng bộ sách, DVD, Internet. Công ty này thuê khoảng 100 nhà biên soạn và nhận bài viết từ hơn 4.000 nhà chuyên môn để liên tục cập nhật và phát triển bách khoa thư. Tác phẩm này được coi là  bách khoa thư có thẩm quyền nhất. Wikipedia hiện nay là khá cạnh tranh vì Wikipedia có tỷ lệ lỗi sai là 3.86 lỗi trên mỗi bài, so với Britannica là 2.92 lỗi trên mỗi bài theo nghiên cứu của Nature vào năm 2005, trong khi giá bộ bách khoa thư là khá đắt tiền và phải luôn cập nhật. Bách khoa thư Việt Nam tạo cơ sở dữ liệu thông tin, bảo tồn và phát triển đã nghiên cứu kinh nghiệm này. Ngày 6 tháng 12 năm 1837 là ngày sinh của Trương Vĩnh Ký, mất năm 1898, là nhà văn, nhà ngôn ngữ học, nhà giáo dục học, khảo cứu văn hóa tiêu biểu của Việt Nam. Ông có tri thức uyên bác, am tường và có cống hiến lớn trên  lĩnh vực văn hóa cổ kim Đông Tây, nên đương thời ông được giới học thuật Châu Âu liệt vào 18 nhà bác học nổi tiếng nhất trên thế giới. Trương Vĩnh Ký biết và sử dụng thông thạo 27 ngoại ngữ, nên ông trở thành nhà bác học biết nhiều thứ tiếng nhất ở Việt Nam, và đứng vào hàng những người biết nhiều ngoại ngữ bậc nhất trên thế giới. Ông để lại hơn 100 tác phẩm về văn học, lịch sử, địa lý, từ điển và dịch thuật, Riêng đối với nền báo chí Quốc ngữ Việt Nam, ông được coi là “ông tổ nghề báo Việt Nam”, bởi chính ông là người sáng lập và là Tổng biên tập Gia Định báo tờ báo quốc ngữ đầu tiên của Việt Nam. Ngày 6 tháng 12 năm 1973, Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc thông qua nghị quyết thành lập Đại học Liên Hiệp Quốc tại Tokyo, Nhật Bản để “nghiên cứu sự sống, phát triển và hạnh phúc con người, là những vấn đề toàn cầu quan trọng, sự quan tâm của Liên Hiệp Quốc và các cơ quan”. Tổng Thư ký U Thant khởi xướng thành lập học viện này năm 1969; Bài chọn lọc ngày 6 tháng 12: Sông Kỳ Lộ Phú Yên; Tre Rồng sông Kỳ Lộ; Chọn giống sắn kháng CMD; Đường xuân;Mưa bóng mây nắng đầy; Vườn nhà sớm mai nay; Ngô Việt Nam ngày nay; Vietnamese Maize Today; Có một ngày như thế; Cánh cò bay trong mơ, Ngọc Phương Nam ngày mới; Xanh một trời hi vọng; Thương câu thơ lưu lạc; Cát đá đất miền Trung; Châu Mỹ chuyện không quên; Chuyện cổ tích người lớn; Lửa đèn vầng trăng soi; Đèo Ngang thăm thẳm nhớ; Chuyện cổ tích người lớn; Lửa đèn vầng trăng soi; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlong365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-6-thang-12;

SÔNG KỲ LỘ PHÚ YÊN
Hoàng Kim

Sông Kỳ Lộ Phú Yên
Dài trăm hai cây số
Từ Biển Hồ Gia Lai
Thượng nguồn sông Bà Đài
Sông La Hiên Cà Tơn
Bến Phú Giang, Phú Hải
Phú Mỡ huyện Đồng Xuân
Thôn Kỳ Lộ Cây Dừng
Tre Rồng sông Kỳ Lộ
Huyền thoại vua Chí Lới
Vực Ông nối thác Dài

Xuôi dòng sông Kỳ Lộ
Lẫy lừng chuyện suối Cối
Tới
suối Mun Phú Mỡ
Suối nước nóng Cây Vừng
Thấu vùng đất hoang sơ
Chợ Kỳ Lộ nổi tiếng
Người Kinh Chăm Ba Na
Xưa mỗi tháng chín phiên
Nay ngày thường vẫn họp

Sông Cái thác Rọ Heo
Vùng Hòn Ông vua Lới
Suối nước nóng Triêm Đức
Thôn Thạnh Đức Xuân Quang
Sông Trà Bương sông Con
Tiếp nước sông Kỳ Lộ
Chốn Lương Sơn Tá Quốc
Lương Văn Chánh thành hoàng
Sông Cô tới La Hai
Sông Cái hòa tiếp nước

Đồng Xuân cầu La Hai
Hợp thủy sông Kỳ Lộ
Tới Mỹ Long chia nhánh
Một ra vịnh Xuân Đài
Một vào đầm Ô Loan
Suối Đá xã An Hiệp
Chảy ra đầm Ô Loan
Suối Đá Đen An Phú
Chảy ra biển Long Thủy.

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là bc23e-lahai.jpg
Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là 9656a-46400358.jpg

Sông Kỳ Lộ Phú Yên
Lắng đọng nhiều chuyện quý
Ngọc Phương Nam ngày mới
Giống sắn tốt Phú Yên
Lúa siêu xanh Phú Yên
Báu vật nơi đất Việt
A Na bà chúa Ngọc
Châu Văn Tiếp Phú Yên
Cao Biền trong sử Việt
Ông Rhodes chữ tiếng Việt

Sông Kỳ Lộ Phú Yên
Chuyện đồng dao cho em
Con đường xanh yêu thương
Cuối dòng sông là biển

https://hoangkimlong.wordpress.com/category/song-ky-lo-phu-yen/

TRE RỒNG SÔNG KỲ LỘ
Hoàng Kim

Trúc Lâm Yên Tử một rừng tre
Nghê Việt tùy thời biến hóa ghê …
Tre xanh, tre bạc, tre măng ngọt …
Đất thấp trời cao biến hóa … RỒNG

(*) Tre Rồng sông Kỳ Lộ là giống tre xanh Trúc Lâm quý, măng ngon, cây chắc thẳng dài , ít pheo, trồng đa dụng có hiệu quả kinh tế, Bài thơ này họa đối thơ cậu
Cương Hoàng Gia cùng với Huỳnh Đường4 người khác.Thông tin Tre Rồng sông Kỳ Lộ với bài Sông Kỳ Lộ Phú Yên các bài liên quan lưu tại Chuyện cổ tích người lớnhttp://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/catrgory/chao-ngay-moi-5-thang-12/; và https://cnm365.wordpress.com/catrgory/chao-ngay-moi-6-thang-12/;

RỒNG TRE
Hoàng Gia Cương

9 giờ Gặp ảnh đề thơ:

Một gốc tre khô cũng hóa rồng
Cũng râu, cũng vuốt, cũng đuôi cong …
Rồng bay, rồng lượn, rồng khoe mẽ …
Tấm tắc người khen thế mới … LONG!

5/12/2020
(ảnh st)

CÁ CHÉP MUỐN HÓA RỒNG
Huỳnh Hồng

Phận Cá chép cũng muốn hóa rồng.
Trải qua vạn kiếp vẫn đợi mong.
Gồng mình đau đớn chờ lột xác.
Sao thấy thân mình mãi long đong.

CHỌN GIỐNG SẮN KHÁNG BỆNH CMD
Nguyễn Thị Trúc Mai, Hoàng Kim, Hoàng Long và đồng sự
Selection of cassava varieties resistant to CMD

Ở Việt Nam, giống sắn KM419 và KM440 đến nay là phổ biến nhất, sau cả áp lực nặng của bệnh khảm lá CMD và bệnh chổi rồng CWBD.
https://youtu.be/XDM6i8vLHcIhttps://youtu.be/kjWwyW0hkbU chúng tôi khuyên nông dân nên trồng các loại giống sạch bệnh KM568, KM535, KM419, KM440, KM94, KM140, KM98-1, HN5, HLS14 để khảo nghiệm DUS và VCU. Sắn Việt Nam bảo tồn và phát triển bền vững: xem thêm https://hoangkimlong.wordpress.com/category/chon-giong-san-khang-cmd/

In  Vietnam, up to now, cassava varieties KM419 and KM440 are popular,  after even CMD and CWBD, https://youtu.be/XDM6i8vLHcI and https://youtu.be/kjWwyW0hkbU planting clean KM568, KM535, KM419, KM440, KM94, KM140, KM98-1, HN5, HLS14 for DUS and VCU trials remains our advice to farmer at this stage.  Cassava conservation and sustainable development in Vietnam: https://youtu.be/XMHEa-KewEk; https://youtu.be/5l9xPES76fU;

Bệnh virus khảm lá CMD từ ban đầu Tây Ninh (2017) lan rộng trên 15 tỉnh thành Việt Nam (2018) là thách thức của các nhà khoa học. “V/v sử dụng giống sắn KM419 trong sản xuất” đã được Bộ NNPTNT xác định tại công văn chỉ đạo của Bộ Nông nghiệp Phát triển Nông thôn, Cục Bảo vệ Thực vật số 1068/ BVTV ngày 3 tháng 5 năm 2019. Giống sắn KM419 có năng suất tinh bột cao nhất và diện tích trồng phổ biến nhất Việt Nam. Giống sắn KM419 chống chịu trung bình bệnh CMD và bệnh chổi rồng (CWBD), trong điều kiện áp lực 2 bệnh này ở Việt Nam hiện nay là rất cao. Sự cần thiết cấp bách lai tạo KM419 đưa thêm gen kháng bệnh của giống C39, KM440 (KM94 đột biến); KM397 vào giống sắn ưu tú này .

Giống sắn KM419 bìa trái thấp cây, tán gọn, cọng đỏ, chống chịu trung bình với bệnh CMD và CWBD , và các dòng sắn lai ít bệnh CMD và CWBD, so với HLS 11 giữa, cao cây, cọng xanh, nhiễm nặng bệnh CMD

Giải pháp chọn giống sắn Việt Nam tiếp nối hiệu quả là sử dụng giống sắn KM419 năng suất tinh bột cao sạch bệnh tiếp tục lai tạo với các giống sắn kháng bệnh CMD đã có. Bài viết CHỌN GIỐNG SẮN VIỆT NAM đúc kết tóm tắt thông tin đã có và định hướng cho sự nổ lực Trúc Mai, Hoang Long, BM Nguyễn, Nguyen Van Nam, Nhan Pham, Hung Nguyenviet, Hoàng Kim, Jonathan Newby … đang lai hữu tính và bồi dục nâng cao tính kháng cho các giống sắn KM419, KM440, KM397, tốt nhất hiện nay

Chúng tôi khuyên nông dân nên trồng các loại giống sạch bệnh KM568, KM535, KM419, KM440, KM94, KM140, KM98-1, HN5, HLS14 (và hai giống sắn CR24-16 và TMEB419 nếu có) để khảo nghiệm DUS và VCU. Sắn Việt Nam bảo tồn và phát triển bền vững: xem thêm https://hoangkimlong.wordpress.com/category/chon-giong-san-khang-cmd/

Sắn Việt Nam ngày nay, đều có gen kháng CMD của giống sắn C39 từ CIAT, cũng là gia đình của CR24-16 với các giống sắn KM419, KM440, KM568, KM535, KM534, KM536, KM537, KM440, KM397. TS Hoàng Kim đã tới CIAT năm 2003 để làm việc với Hernan Ceballos và Martin về chọn giống sắn DH. Việt Nam năm 2003 đã nhập nội giống sắn từ CIAT, có giống C39, và có đủ hồ sơ nhập giống sắn của CIAT với giấy phép của MARD. Vì vậy, dòng C39 mà Việt Nam đang hiện có ngày nay, tuyển chọn từ năm 2003 (*). “Nhóm Hoàng Kim” từ đó đến nay đã liên tục làm việc Bảo tồn và phát triển sắn, gồm: Giống sắn chủ lực KM419, trước đó, cũng là tác giả của các giống sắn phổ biến trước đó tại Việt Nam KM140, KM98-5, KM98-1, KM94 (tên gốc KU50), SM937-26. (*) Thông tin này bài chi tiết tại (*) Hoang Kim, Nguyen Phuong, Hoang Long, Tran Cong Khanh, Hernan Ceballos, Rod Lefroy, Keith Fahrney, Tin Maung Aye and Reinhardt Howeler 2010. Recent progress in cassava breeding and the selection of improved cultivars CIAT. In: A New Furture for Cassava in Asia: Its Use as Food, Feed and Fuel to Benefit the Poor. 8th Asian Cassava Research Workshop October 20 – 24, 2008 in Vientiane, Lao PDR. papers 223 – 233

Greetings from HoangKimVietnam
From: Hoàng Kim hoangkimvietnam1953@gmail.com; hoangkim.vietnam@gmail.com
To: Martin Fregene <mfregene@gmail.com>

Dear Professor Martin Fregene

Greetings from Hoang Kim Vietnam, VNCP replies to your letter. Wishing you and your family a happy and healthy Christmas in the coming time. Hoang Kim and family are healthy. I am retired, but I am still continuing to research cassava at VNCP in collaboration with Dr. Nguyen Thi Truc Mai, DARD Phu Yen and Dr. Hoang Long, NLU. The topic is “Study on selection of cassava varieties with high starch yield, resistant to major pests and diseases (CMD, CWBD) suitable for production conditions in Phu Yen province and surrounding areas”. I saw it on Twitter. at the link to the tweet
https://twitter.com/cassdiseaseasia/status/1460897971063570433?s=21  about the two cassava varieties CR24-16 and TMEB419 and DNRTV’s video http://dnrtv.org.vn/tin-tuc- n107515/benh-kham-la-mi.html , talk about cassava variety TMEB419, and video by TNRTV https://youtu.be/QCo_eFohvpQ

We have not participated in the development of these two cassava varieties, because there are not two varieties of cassava yet, and we do not know the self-published documents in Vietnam on fresh tuber yield, starch content and stable starch yield. Determination of cassava variety TMEB419 in Vietnam in comparison with original data from IITA goseed cassava, https://iitagoseed.com/goseed-cassava/, which is self-published in Africa. Hoang Kim would like to answer Martin Fregene on the question “How can they be acceptable to farmers in Vietnam”?: You need to have data published on experimental results of DUS and VCU in Vietnam, approved by MARD accepted, about two varieties of cassava CR24-16 and TMEB419, according to the national standards of Vietnam. In Vietnam, cassava varieties KM419 and KM440 are by far the most popular, after both the severe pressure of CMD and CWBD. https://youtu.be/XDM6i8vLHcI and https://youtu.be/kjWwyW0hkbU we advise farmers to plant disease-free varieties KM568, KM535, KM419, KM440, KM94, KM140, KM98-1, HN5, HLS14 (and two cassava varieties CR24-16 and TMEB419 if available) for DUS and VCU testing. Vietnamese cassava conservation and sustainable development: see more https://hoangkimlong.wordpress.com/category/chon-giong-san-khang-cmd/

Today’s Vietnamese cassava all have CMD resistance gene of C39 cassava variety from CIAT, also family of CR24-16, with cassava varieties KM419, KM440, KM568, KM535, KM534, KM536, KM537, KM440, KM397. As you know, I went to CIAT in 2003 to work with Hernan Ceballos and Martin on DH cassava breeding. Vietnam in 2003 imported cassava varieties from CIAT, has C39 variety, and has enough records to import cassava varieties from CIAT with MARD’s license. So I know very well the performance of the C39 series I have today, sifting from 2003 (*). Since then, “Hoang Kim team” and I have been continuously working on the conservation and development of cassava, including: The main cassava variety KM419, also the author of the previously popular cassava varieties in Vietnam KM140, KM98- 5, KM98-1, KM94 (original name KU50), SM937-26. Thank you for this important informative link.

My warm greetings to your family.
Best regards, Hoang Kim

CHỌN GIỐNG SẮN KHÁNG CWBD
Nguyễn Bạch Mai, Hoàng Kim, Nguyễn Thị Trúc Mai, Hoàng Long, Nguyễn Văn Phu
Selection of cassava varieties resistant to CWBD *

Chọn giống sắn kháng CWBD. “Ở Việt Nam, giải pháp chủ yếu ngăn chặn lây lan CWBD là phòng trừ tổng hợp: sử dụng giống sắn KM419, KM440, KM397, KM98-1, ít nhiễm bệnh hơn so với KM94 và dùng nguồn giống sạch bệnh; vệ sinh đồng ruộng tiêu hủy nguồn bệnh kịp thời; diệt rầy lá, rầy thân, nhện đỏ, rệp sáp và các loại côn trùng lây lan bệnh; cần chăm sóc sắn tốt, bón phân và làm cỏ 3 lần để tăng sức đề kháng cho cây, bố trí mùa vụ thích hợp để hạn chế dịch hại; tiêu hủy nguồn bệnh kịp thời khi bệnh xuất hiện; xem thêm http://cayluongthuc.blogspot.com/2012/07/muoi-ky-thuat-tham-canh-san.htmlhttps://hoangkimlong.wordpress.com/category/chon-giong-san-khang-cmd/ Trò chuyện với Hoàng Kim https://hoangkimlong.wordpress.com/category/tro-chuyen-voi-hoang-kim/ (*)

Selection of cassava varieties resistant to CWBD. In Vietnam, the main solution to prevent the spread of CWBD is integrated control: using cassava varieties KM419, KM397, KM440, … less infected than KM94 and using disease-free seed sources; field sanitation to destroy disease sources in a timely manner; kill leafhoppers, stem planthoppers, red spiders, mealybugs and other disease-spreading insects; it is necessary to take good care of cassava, fertilize and weed 3 times to increase the resistance of the plants, arrange appropriate seasons to limit pests; promptly destroy the source of the disease when the disease appears; see more http://cayluongthuc.blogspot.com/2012/07/muoi-ky-thuat-tham-canh-san.html and https://hoangkimlong.wordpress.com/category/chon-giong-san-khang-cmd/ Conversations with Hoang Kim https://hoangkimlong.wordpress.com/category/tro-chuyen-voi-hoang-kim/https://www.youtube.com/embed/0MVPGxOpoPY?version=3&rel=1&showsearch=0&showinfo=1&iv_load_policy=1&fs=1&hl=vi&autohide=2&wmode=transparent

CAVAC Cách chọn thân cây sắn để trồng (Video hướng dẫn về bệnh khảm trên cây sắn)https://youtu.be/0MVPGxOpoPY Video của Australian Embassy, Cambodia 18 8 2021 đã viết. “Bạn có biết sắn là cây trồng lớn thứ hai của Campuchia và mang lại sinh kế cho hơn 90.000 hộ gia đình, đóng góp hàng trăm triệu đô la cho nền kinh tế? Điều này cũng có nghĩa là sâu bệnh có thể có tác động tàn phá. Australia thông qua chương trình Chuỗi Giá trị Nông nghiệp Campuchia-Australia (CAVAC) và Trung tâm Nông nghiệp Nhiệt đới Quốc tế (CIAT) đang làm việc với Bộ Nông nghiệp, Lâm nghiệp và Thủy sản để ngăn chặn sự lây lan của bệnh Chổi rồng (CWBD), một mối đe dọa lớn đối với cây sắn. Bệnh CWBD làm giảm hàm lượng tinh bột và sản lượng sắn 80%). Australian Embassy, Cambodia 18 tháng 8 lúc 13:05 “Eradicating Disease from Cambodia’s Cash Crop (ភាសាខ្មែរនៅខាងក្រោម) Did you know cassava is Cambodia’s second biggest crop and provides a livelihood for more… than 90,000 households, contributing hundreds of millions of dollars to the economy? This also means that pests and diseases can have a devastating impact. Australia through the Cambodia-Australia Agricultural Value Chain (CAVAC) program and the International Centre for Tropical Agriculture (CIAT) is working with the Ministry of Agriculture, Forestry and Fisheries to stop the spread of Cassava Witches’ Broom Disease, a major threat to cassava that reduces its starch content and yields by 80%” Australian Embassy, Cambodia said. https://www.youtube.com/embed/-MA3hDJezAg?version=3&rel=1&showsearch=0&showinfo=1&iv_load_policy=1&fs=1&hl=vi&autohide=2&wmode=transparent

*

Chọn giống sắn kháng CWBD Ở Việt Nam, giải pháp chủ yếu ngăn chặn lây lan CWBD và CMD là phòng trừ tổng hợp: sử dụng giống sắn KM419, KM440,KM397, KM98-1 ít nhiễm bệnh hơn so với KM94 và dùng nguồn giống sạch bệnh; vệ sinh đồng ruộng tiêu hủy nguồn bệnh kịp thời; diệt rầy lá, rầy thân, nhện đỏ, rệp sáp và các loại côn trùng lây lan bệnh; cần chăm sóc sắn tốt, bón phân và làm cỏ 3 lần để tăng sức đề kháng cho cây, bố trí mùa vụ thích hợp để hạn chế dịch hại; tiêu hủy nguồn bệnh kịp thời khi bệnh xuất hiện; xem thêm
http://cayluongthuc.blogspot.com/2012/07/muoi-ky-thuat-tham-canh-san.html

Selection of cassava varieties resistant to CWBD. In Vietnam, the main solution to prevent the spread of CWBD is integrated control: using cassava varieties KM419, KM440, KM397, KM98-1 less infected than KM94 and using disease-free seed sources; field sanitation to destroy disease sources in a timely manner; kill leafhoppers, stem planthoppers, red spiders, mealybugs and other disease-spreading insects; it is necessary to take good care of cassava, fertilize and weed 3 times to increase the resistance of the plants, arrange appropriate seasons to limit pests; promptly destroy the source of the disease when the disease appears; (Cassava in Vietnam: Conservation and Sustainable Development
https://hoangkimlong.wordpress.com/category/tro-chuyen-voi-hoang-kim/ )

Chọn giống sắn kháng CMDhttps://hoangkimlong.wordpress.com/category/chon-giong-san-khang-cmd/

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là km98-1-cassava-breeding-in-viet-nam-1.jpg

(**) Bệnh virus khảm lá CMD từ ban đầu Tây Ninh (2017) lan rộng trên 15 tỉnh thành Việt Nam (2018-2020), là thách thức của các nhà khoa học. “V/v sử dụng giống sắn KM419 trong sản xuất” đã được Bộ NNPTNT xác định (5/2019) vì KM419 có năng suất tinh bột cao nhất hiện nay ở Việt Nam với diện tích trồng phổ biến nhất hiện nay (với KM94) tại Việt Nam và Campuchia. KM419 mẫn cảm trung bình với bệnh CMD với bệnh chổi rồng (CWBD) hơn là các giống sắn mới khác trong điều kiện áp lực 2 bệnh này ở Việt Nam hiện nay là rất cao.

Giải pháp chọn giống sắn Việt Nam tiếp nối hiệu quả là sử dụng giống sắn KM419 năng suất tinh bột cao sạch bệnh tiếp tục lai tạo với các giống sắn kháng bệnh CMD đã có. Bài viết CHỌN GIỐNG SẮN VIỆT NAM đúc kết tóm tắt thông tin đã có và định hướng cho sự nổ lực Trúc Mai, Hoang Long, BM Nguyễn, Nguyen Van Nam, Nhan Pham, Hung Nguyenviet, Hoàng Kim, Jonathan Newby … đang lai hữu tính và bồi dục nâng cao tính kháng cho các giống sắn KM419, KM440, KM397, tốt nhất hiện nay

Nguồn gen sắn kháng CMD
Jonathan Newby với Ed Sarobol và 3 người khác ngày 15 tháng 8 năm 2020 đã thông tin: tại Giải pháp bền vững bệnh hại sắn ở Đông Nam Á Webinar Series: No 1: Các hàng sắn ở Tây Ninh minh chứng phát huy được sức mạnh của di truyền học (hình). “Giữ niềm tin: Tiến bộ trong việc phát triển các loại chống CMD khả thi thương mại cho châu Á”. Bài thuyết trình https://cassavadiseasesolutionsasia.net/webinar-series/ từ buổi hội thảo sáng nay có thể được tải xuống tại đây và đã được tích hợp tại đây Vietnamese cassava todayhttps://hoangkimlong.wordpress.com/category/vietnamese-cassava-today/; Xem tiếp >>

  Dạy và học 5 tháng 12(05-12-2021)

DẠY VÀ HỌC 5 THÁNG 12
Hoàng Kim
CNM365 Tình yêu cuộc sốngNgô Việt Nam ngày nay; Vietnamese Maize Today; Có một ngày như thế; Cánh cò bay trong mơ, Chọn giống sắn kháng CMD; Ngọc Phương Nam ngày mới; Xanh một trời hi vọng; Thương câu thơ lưu lạc; Cát đá đất miền Trung; Tre Rồng sông Kỳ Lộ;Châu Mỹ chuyện không quên; Chuyện cổ tích người lớn; Lửa đèn vầng trăng soi; Đèo Ngang thăm thẳm nhớ; Ngày kỷ niệm Colombo tìm ra châu Mỹ năm 1492. Ngày tưởng nhớ đại tướng Lê Trọng Tấn danh tướng lỗi lạc Quân đội Nhân dân Việt Nam mất năm 1986.  Ngày tưởng nhớ Nelson Mandela mất năm 2013. Ngày 5 tháng 12 năm 1492 là ngày kỷ niệm Colombo tìm ra châu Mỹ nhân chuyến đi đầu tiên của ông là người châu Âu đầu tiên đã đặt chân lên đảo Hispaniola châu Mỹ. Cristoforo Colombo sinh khoảng năm 1451 mất ngày 20 tháng 5 năm 1506, là một nhà hàng hải người Ý và là đô đốc của Hoàng đế Castilla, mà những chuyến vượt Đại Tây Dương của ông đã mở ra những cuộc thám hiểm Châu Mỹ cũng như quá trình thực dân hoá của Châu Âu. Ngày Colombo năm 1492  thường được kỷ niệm tại toàn thể Châu Mỹ, Tây Ban Nha và Ý, mặc dù thực tế trước năm 1492 đã có những ghi chép về  sự tiếp xúc xuyên Đại Tây Dương của Châu Âu nhưng chuyến đi năm 1492 của Colombo như một thời điểm “tìm ra châu Mỹ” và ông tới lục địa này kỹ hơn trong chuyến thám hiểm thứ ba năm 1498  Ngày 5 tháng 12 năm 1986 là ngày mất của Lê Trọng Tấn là Đại tướng Quân đội Nhân dân Việt Nam, sinh năm 1914. Ông từng là Viện trưởng Học viện Quân sự Cao cấp, Tổng tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Phó tư lệnh Quân giải phóng miền Nam. Lê Trọng Tấn được coi là một trong những vị tướng đánh trận giỏi nhất Việt Nam. Ông luôn được tin cậy giao các nhiệm vụ hệ trọng trên chiến trường, là Tư lệnh của các chiến dịch lớn nhất, quan trọng nhất như Bình Giã, Đồng Xoài, Bàu Bàng-Dầu Tiếng, Đường 9 Nam Lào, Trị Thiên Huế 1972. Ông nổi tiếng là con người tài năng, cương trực, quyết đoán “trí dũng nhân chính liêm trung”. Ông được Đại tướng Võ Nguyên Giáp coi là “người chỉ huy kiên cường, lỗi lạc, người bạn chiến đấu chí thiết” ” một trong những vị tướng giỏi nhất Việt Nam qua các thời đại”. Thượng tướng Hoàng Minh Thảo trong cuộc phỏng vấn xếp hạng tướng lĩnh Việt Nam hiện đại đã đánh giá: “Tất nhiên đầu tiên là Đại tướng Võ Nguyên Giáp, thứ hai là tướng Lê Trọng TấnNgày 5 tháng 12 năm 2013 là ngày mất Nelson Mandela, sinh năm 1918 là Tổng thống Nam Phi, người đoạt giải Nobel. Nelson Mandela trước khi trở thành tổng thống đã là nhà hoạt động chống chủ nghĩa phân biệt chủng tộc apartheid đặc biệt nổi tiếng và là người đứng đầu phái vũ trang của Đảng Đại hội Dân tộc Phi (ANC). Nelson Mandela năm 1962 bị bắt giữ và bị buộc tội phá hoại chính trị cùng các tội khác, và ông bị tuyên án tù chung thân. Mandela đã trải qua 27 năm trong lao tù, phần lớn thời gian là ở tại Đảo Robben. Sau khi được trả tự do vào ngày 11 tháng 2 năm 1990, Mandela đã lãnh đạo đảng của ông trong cuộc thương nghị để tiến tới một nền dân chủ đa sắc tộc vào năm 1994. Nelson Mandela trong nhiệm kỳ tổng thống của mình từ năm 1994 đến 1999 đã thường ưu tiên cho vấn đề hòa giải dân tộc. Tại Nam Phi, Mandela còn được biết tới với tên gọi Madiba, một tước hiệu danh dự mà bộ lạc của ông thường trao cho những già làng. Mandela đã nhận hơn 250 giải thưởng trong hơn bốn thập niên, bao gồm Giải Nobel Hòa bình năm 1993; Bài chọn lọc ngày 5 tháng 12:Có một ngày như thế; Cánh cò bay trong mơ, Chọn giống sắn kháng CMD; Ngọc Phương Nam ngày mới; Xanh một trời hi vọng; Thương câu thơ lưu lạc; Châu Mỹ chuyện không quên; Chuyện cổ tích người lớn; Lửa đèn vầng trăng soi; Đèo Ngang thăm thẳm nhớ; Thông tin tại http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-5-thang-12/;

Ngô Việt Nam ngày nay
NHỚ BẠN MÙA GIÁNG SINH
Hoàng Kim

Học Viện Nông nghiệp Việt Nam Kỷ yếu Hội thảo Ngô 4 12 2021 thông tin cập nhật tại đây https://sachhoithao.blogspot.com/2021/12/2021-nguon-gen-ngo-va-phat-trien-giong.html . Sự kiện Ngô Việt Nam đồng thời với CIMMYT Tweet https://youtu.be/BJQjNFNxo18 “Xem video mới nhất của chúng tôi: “Thực tế 100% các giống trong hệ thống truyền thống là từ CIMMYT.” Trong 55 năm (1966-2021), trung tâm cải tiến ngô và lúa mì quốc tế (CIMMYT) đã làm việc để hoàn thành một sứ mệnh, đó là nghiên cứu về tác động. Để vượt qua những thách thức phức tạp về môi trường – xã hội mà tương lai nông nghiệp phải đối mặt,CIMMYT làm việc với các đối tác hàng ngày để đảm bảo khoa học ngô và lúa mì tiếp tục cải thiện sinh kế”. Bạn tốt khó tìm, khó bỏ lại, và không thể quên lãng. Ngô Việt Nam ngày nay đang ngày càng hội nhập sâu rộng vào chuỗi lương thực phẩm, thức ăn gia súc và sinh kế Việt. Lời chào từ #hoangkimlong #CLTVN đến gia đình Cây Lương Thực Việt Nam, CIMMYT, IRRI, CIAT, CIP, …. và quý thầy bạn. Chúc mừng mùa giáng sinh an lành và năm mới hạnh phúc xem tiếp http://hoangkimvn.wordpress.com/tag/ngo-viet-nam-ngay-nay/

Tài liệu hội nghị Học Viện Nông nghiệp Việt Nam Kỷ yếu Hội thảo Ngô 4 12 2021 đề nghị liên hệ Ban Tổ Chức. Thông tin cập nhật tại đây https://sachhoithao.blogspot.com/2021/12/2021-nguon-gen-ngo-va-phat-trien-giong.html. Liên hệ TS Hoàng Long 0906540559 để được hổ trợ và có bản sao PDF với các bài báo cáo trực tiếp trực tuyến của các tác giả trình bày tại hội nghị trong hệ thống Chuyển đổi số nông nghiệp#CLTVNCây Lương thực Việt Nam#hoangkimlongCNM365https://hoangkimlong.wordpress.com/category/cay-luong-thuc-viet-nam/

CIMMYT TƯƠI RÓI KỶ NIỆM
Hoàng Kim


CIMMYT
https://www.cimmyt.org/ là một tổ chức Quốc tế nghiên cứu về Ngô và Lúa mì để giúp đỡ các chương trình nghiên cứu và phát triển ngô, lúa mì, cao lương ở các nước đang phát triển. CIMMYT là một trong 13 Viện và Trung tâm Nghiên cứu Quốc tế thuộc CGIAR (Ủy Ban Tư Vấn Nghiên Cứu Nông Nghiệp Quốc Tế) được thiết lập bởi FAO với Ngân hàng Thế giới và UNDP.

Nội dung hoạt động của CIMMYT bao gồm: 1) Duy trì và cải tiến nguồn gen; 2) Chọn giống và nghiên cứu đẩy mạnh sản xuất ngô, lúa mì; 3) Huấn luyện ; 4) Tư vấn nông nghiệp; 5) Dịch vụ thông tin. Huấn luyện là một hoạt động chính tại CIMMYT, nhóm lớn nhất là đào tạo theo khung chương trình, bao gồm huấn luyện về ngô (nghiên cứu nông học và sản xuất ngô, chọn tạo giống ngô, kỹ thuật phòng thí nghiệm chọn tạo giống ngô chất lượng cao), huấn luyện về lúa mì (nghiên cứu nông học và sản xuất lúa mì, chọn tạo giống lúa mì, kỹ thuật hạt giống cây cốc); huấn luyện quản lý Trung tâm trạm trại nông nghiệp; huấn luyện kinh tế nông nghiệp, định hướng trên các hoạt động nghiên cứu và chuyển giao tiến bộ kỹ thuật về ngô và lúa mì. CIMMYT có các chương trình huấn luyện tiến sĩ, thạc sĩ, cộng tác viên, khách thăm, và sự huấn luyện cho các nước theo yêu cầu của chương trình Quốc gia.

CIMMYT có trụ sở chính 80 ha đặt ở El Batan nơi trung tâm của hầu hết các chương trình CIMMYT. El Batan cách thủ đô Mexicô 45 km về phía Tây Bắc có cao độ là 2.240m so với mặt biển. Cơ sở vật chất của CIMMYT ở El Batan bao gồm: khu trụ sở văn phòng và huấn luyện; thư viện và cung cấp thông tin; các phòng thí nghiệm và nhà kính nhà lưới; khu bảo quản và sơ chế hạt giống; khu trạm trại thí nghiệm thực nghiệm (CIMMYT có 5 trạm trại thí nghiệm 4 trực thuộc CIMMYT 1 trực thuộc Viện Nghiên cứu Quốc gia Mexico; khu nhà ở nhà khách và dịch vụ đời sống cho nhân viên và học viên. Theo tài liệu của CIMMYT khoảng 60% tài chính được đầu tư cho nghiên cứu trực tiếp, 10% đầu tư cho nghiên cứu hổ trợ, 14% đầu tư cho huấn luyện, 6% cho duy trì quỷ gen, 3% cho dịch vụ thông tin và 7% cho quản lý hành chính. Việt Nam CIMMYT hợp tác từ năm 1980.

Mexico, Oragon, CIANO, Norman Borlaug, thầy bạn tôi ở nơi ấy, CIMMYT tươi rói kỷ niệm.

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là chau-my-chuyen-khong-quen-3-1.jpg
Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là chau-my-chuyen-khong-quen-7.jpg
Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là con-duong-di-san-lewis-vc3a0-clark-3.jpg

CHÂU MỸ CHUYỆN KHÔNG QUÊN
Hoàng Kim
Tôi đã nhiều lần tới châu Mỹ, tới cả Trung Mỹ, Bắc Mỹ và Nam Mỹ. Đó là kinh nghiệm sống quý giá cho sự nghiên cứu và giảng dạy khoa học cây trồng, đặc biệt là cây lương thực. Tôi nhớ thầy Norman Boulaug và nhiều thầy bạn ở nơi ấy, nhớ đất. nhớ người. Tôi có thói quen chép lại ghi chú ngắn và ghi hình về kỷ niệm sau mỗi chuyến đi, lần này mới có dịp hệ thống lại. “Châu Mỹ chuyện không quên” lắng đọng trong lòng tôi những ký ức sâu sắc về công việc chuyên môn khoa học cây trồng, cây lương thực yêu thích, kết nối với đất nước, con người, bạn hữu, và nền văn hóa châu Mỹ. Tôi kể từ chuyến đi Mỹ lần đầu tiên năm 1988, cho tới nhiều lần về sau lắng đọng chuỗi trãi nghiệm thân thương với thầy bạn ở bên kia bờ đại dương. Ba nơi chính của châu Mỹ mà tôi may mắn được tới, đó là vùng vật liệu di truyền ở ba trung tâm khởi nguyên cây trồng toàn cầu của chúng tại Châu Mỹ gồm Trung tâm ngô và lúa mì quốc tế CIMMYT ở Mê hi cô. Trung tâm khoai lang và khoai tây quốc tế CIP ở Peru. Trung tâm Quốc tế Nông nghiệp Nhiệt đới CIAT về sắn, đậu thực phẩm, lúa gạo châu Mỹ ở Côlômbia. Những điểm đến này tương tự như Viện Nông nghiệp Nhiệt đời Quốc tế IITA ở Nigeria châu Phí, Viện Nghiên cứu Cây trồng Quốc tế cho vùng Nhiệt đới Bán khô cằn ICRISAT ở Ấn Độ, và Viện Lúa quốc tế IRRI ở Philippines. Những chốn ấy cũng thật thân thuộc với tôi. Tại đấy sách chuyên khảo cây trồng, tạp chí, trang web, video thật phong phú, sâu sắc và thật đáng ao ước. Cũng từ đấy mà tôi may mắn được đi thăm thú rộng ra các vùng lân cận theo điều kiện và hoàn cảnh của mỗi chuyến đi.

“Châu Mỹ chuyện không quên” là các bài học tình yêu cuộc sống trãi nghiệm cá nhân của các chuyến đi thực tế, với mục đích cung cấp các điểm nhấn tư liệu nông nghiệp sinh thái về cây lương thực châu Mỹ cho bạn đọc. Tác phẩm gồm 36 đường dẫn, tựa đề thơ ngũ ngôn, để dễ đọc dễ nhớ, ảnh chi tiết bấm link.

Mục đích sau cùng của DẠY VÀ HỌC là thấu suốt bản chất sự vật, có lời giải đúng và LÀM được việc.
Lời Thầy dặn thung dung.

Châu Mỹ chuyện không quên
Hoàng Kim

Niềm tin và nghị lực
Về lại mái trường xưa
Hưng Lộc nôi yêu thương
Năm tháng ở trời Âu

Vòng qua Tây Bán Cầu
CIMMYT tươi rói kỷ niệm
Mexico ấn tượng lắng đọng
Lời Thầy dặn không quên

Ấn tượng Borlaug và Hemingway
Con đường di sản Lewis Clark
Sóng yêu thương vỗ mãi
Đối thoại nền văn hóa

Truyện George Washington
Minh triết Thomas Jefferson
Mark Twain nhà văn Mỹ
Đi để hiểu quê hương

500 năm nông nghiệp Brazil
Ngọc lục bảo Paulo Coelho
Rio phố núi và biển
Kiệt tác của tâm hồn

Giấc mơ thiêng cùng Goethe
Chuyện Henry Ford lên Trời
Bài đồng dao huyền thoại
Bảo tồn và phát triển

Sắn Việt Nam và Kawano
Sắn Việt Nam và Howeler
Một ngày với Hernán Ceballos
CIAT Colombia thật ấn tượng
Martin Fregenexa mà gần

Châu Mỹ chuyện không quên
CIP Peru và khoai Việt
Nam Mỹ trong mắt tôi
Nhiều bạn tôi ở đấy

Machu Picchu di sản thế giới
Mark Zuckerberg và Facebook
Lời vàng Albert Einstein
Bill Gates học để làm

Thomas Edison một huyền thoại
Toni Morrison nhà văn Mỹ
Walt Disney bạn trẻ thơ
Lúa Việt tới Châu Mỹ.

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là chau-my-chuyen-khong-quen-2-1.jpg

MEXICO ẤN TƯỢNG LẮNG ĐỌNG
Hoàng Kim

Nhớ xưa leo đỉnh đèo Ngang
Để nay xuôi ngược dọc ngang xứ người
Mê xi cô tựa cổng trời (*)
Đường xuôi về biển bồi hồi nhớ quê

Oregon thác uy nghi
Trập trùng đường hiểm tưởng về Hải Vân
Phải đi muôn dặm xa gần
Lên cao đỉnh núi rộng tầm mắt xa

Em về thưa với mẹ cha
Rằng anh còn bận đường xa chưa về
Trăm quê dẫu ngỡ là quê
Tuy say đất lạ vẫn mê xứ mình

Đã từng ly biệt tử sinh
Gừng cay muối mặn để thành quê hương
Đã từng gian khổ chiến trường
Ngọt bùi nhớ bát cơm thường trộn khoai

Anh đi núi rộng sông dài
Bởi đâu trông cảnh nhớ người hỡi em
Bởi đâu bạn lạ hóa quen
Nâng hòn đất lại nghĩ miền quê ta

Anh về sẽ nối đường qua
Cánh thư chắp mối để xa nên gần
Cây ngay sẽ tỏa bóng tròn
Cây càng sâu rễ cành càng xum xuê

(*) Thủ đô Mê xi cô ở độ cao trên 2000m so với mặt biển;

Lang thang như đám mây trời. Tôi theo dấu chân cụ Hữu Ngọc lắng đọng những bài học tình yêu cuộc sống. Tìm hiểu đất nước và con người Mexico, chúng ta tìm về bốn câu hỏi là bốn yếu tố chính: Đất nước (đất đai và thức ăn); Con người (tộc người, ngôn ngữ, văn hóa); Môi trường sống (khí hậu, danh thắng, vấn đề chung); Chế độ và Kinh tế hiện trạng. “Mexico ấn tượng lắng đọng” là phần tiếp nối của bài viết Châu Mỹ chuyện không quên

Hợp chủng quốc Mê-hi-cô gọi tắt Mexico là một nước cộng hòa liên bang ở Bắc Mỹ có diện tích gần 2 triệu km², xếp thứ 14 trên thế giới và dân số khoảng 123,16 triệu người, xếp thứ 12 trên thế giới, so Việt Nam dân số khoảng 95,26 triệu người, xếp thứ 15, số liệu ước lượng tháng 7 năm 2016 theo The World Factbook. México là nước nói tiếng Tây Ban Nha nhiều nhất ở châu Mỹ và Thế giới. Đất nước này bị đô hộ bởi  thực dân Tây Ban Nha từ thế kỷ thứ 16 và được công nhận là một quốc gia độc lập chính thức năm 1821. Mexico có 31 bang và thành phố thủ đô Mê-hi-cô thuộc liên bang là một trong những khu đô thị đông dân nhất thế giới. Tìm hiểu đất nước và con người Mexico, chúng ta tìm về bốn câu hỏi là bốn yếu tố chính: Đất nước (đất đai và thức ăn); Con người (tộc người, ngôn ngữ, văn hóa); Môi trường sống (khí hậu, danh thắng, vấn đề chung); Chế độ và  Kinh tế hiện trạng.

México có tên gọi bắt nguồn từ tên kinh đô cổ của dân tộc Mexica, nền văn minh Aztec trong lịch sử. Theo kinh thư Mendoza là một cuốn sách kể về lịch sử của người Aztec và ngày nay xuất hiện trên quốc kỳ và quốc huy của México, có một vị thần đã chỉ cho người dân của bộ tộc này địa điểm xây dựng kinh đô tại nơi có một con đại bàng mang trong miệng một con rắn và đậu xuống cành cây xương rồng ở địa điểm gần hồ Texcoco. Nơi đây sau đó, người Aztec đã xây dựng nên một thành phố rộng lớn, đó là Trung tâm lịch sử của thành phố México ngày nay (hình trên), di sản thế giới được UNESCO công nhận năm 1987. Ngôn ngữ chính thức của México là tiếng Tây Ban Nha và 62 ngôn ngữ bản địa được quyền bình đẳng theo hiến pháp. Tại Mexico có số lượng người nói tiếng Tây Ban Nha cao nhất thế giới. Mexico xếp vào châu Mỹ latinh dù Mexico ở Bắc Mỹ, lý do chủ yếu bởi yếu tố ngôn ngữ, văn hóa, tộc người, và lịch sử. Nếu như tiếng Anh là ngôn ngữ chính ở nước Mỹ, tiếng Bồ Đào Nha là ngôn ngữ chính ở Brazil , tiếng Pháp và tiếng Anh là ngôn ngữ chính ở Canada thì ở hầu hết các nước Nam Mỹ và vùng Caribe đều sử dụng tiếng Tây Ban Nha làm ngôn ngữ chính. Nói cách khác, tiếng Tây Ban Nha là thông dụng nhất của phần lớn các nước châu Mỹ Latinh. Tại Mexico, tôn giáo chính là Công giáo Roma chiếm khoảng 87,9% theo điều tra nhân khẩu năm 2000, mặc dù số lượng người đi lễ nhà thờ hàng tuần chỉ khoảng 46%;  người dân México theo đạo Tin lành ít hơn với khoảng 5,2%, số còn lại theo một số tôn giáo khác.

Đất nước México là nơi ra đời hai nền văn minh lớn của châu Mỹ là Aztec và Maya.  Mexico có thiên nhiên đa dạng và nền văn hóa đa sắc tộc, có lẽ đặc sắc nhất châu Mỹ của sự giao thoa nhiều nền văn hóa mà chủ đạo là nền văn hóa bản địa truyền thống đã biến đổi với nền văn hóa Tây Ban Nha đã Mỹ Latinh hóa. Sự pha trộn với khối văn hóa Mỹ Anh , Brazil Bồ Đào Nha, Canada Pháp ngữ đã làm cho México là ột quốc gia là một quốc gia đa chủng tộc sử dụng như ngôn ngữ ở đất nước Thuy Sĩ mà người dân ở đó có thể hiểu dễ dàng ba đến bốn thứ tiếng. Nhóm sắc tộc chiếm tỉ lệ cao nhất tại México là người lai giữa người da trắng và người da đỏ ước tính từ 60-75%. Nhóm sắc tộc chiếm tỉ lệ 12 – 30% dân số là  người da đỏ bản địa.  Nhóm sắc tộc chiếm tỉ lệ 9 – 25 % là người da trắng đến từ Tây Ban Nha, Mỹ, Canada, Pháp, Ý, Bồ Đào Nha, Đức,  Ba Lan,  Nga,…, người da vàng đến từ Trung Quốc, Hàn Quốc, Philippines, Nhật Bản, Thổ Nhĩ Kỳ … và người da đen đến từ châu Phi với tỷ lệ ít hơn.

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là sauthangocimmyt7.jpg

Đất nước México địa hình chủ yếu là đồi núi và hệ thống khí hậu quá đa dạng, nên việc đầu tư sản xuất thâm canh quy mô lớn ở México khó hơn nhiều so với nước Mỹ, Canada và Nam Mỹ. Người México bản địa bữa ăn truyền thống chủ yếu ngô làm lương thực chính, kết hợp với các loài rau đậu, ớt, cà chua, lúa mì. México là nơi ra đời có nhiều loại bánh ngô có nhân thịt hoặc trộn rau, bánh ngô phomat, bánh ngô cay, thực phẩm đồ uống phổ biến là sữa ngô và rượu tequila được chế từ lá cây Agave Azul Tequilana, một loài thực vật bản địa ở Mexico, có độ cồn từ 38–40%, cá biệt có loại có độ cồn lên tới 43–46%. Ngày nay việc sử dụng gạo cũng rất phổ biến tai México để làm lương thực, ngoài ra còn có thịt bò, thịt lợn, thịt gà, rượu nho, tỏi,  đu đủ, dứa, ớt cay, khoai lang, đậu, lạc, chocolate …Con người mang ẩm thực quê hương mình đi khắp hành tinh nên một đất nước đa sắc tộc như Mexico có nền ẩm thực rất đa dạng. México cũng có thị trường âm nhạc lớn nhất châu Mỹ Latinh và xuất khẩu âm nhạc rộng khắp Trung Mỹ, Nam Mỹ, châu Âu (đặc biệt là Tây Ban Nha) và nhiều nước trên thế giới .

México hiện nay là nền kinh tế lớn thứ 11 trên thế giới và có thu nhập bình quân đầu người thuộc nhóm trung bình cao. Kinh tế México có mối liên hệ chặt chẽ với Canada và Mỹ nhờ Hiệp định Thương mại Tự do Bắc Mỹ. México là thành viên của nhiều tổ chức quốc tế khác như Liên Hiệp Quốc, Tổ chức Thương mại Thế giới và có vai trò quan trọng trong khu vực Mỹ Latinh, là nước Mỹ Latinh duy nhất nằm trong Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế.  Vấn nạn chủ yếu của México là sự phân hóa giàu nghèo, tỷ lệ nghèo đói cao, bất bình đẳng thu nhập, tình trạng bạo lực, buôn bán ma túy phổ biến tại nhiều vùng, sự khủng hoảng trong quan hệ ngoại giao giữa México với các nước tham gia khai thác tài nguyên tại đây, sự di cư rất cao từ nước Mexico sang Mỹ vì chênh lệch nhiều về đời sống.

Danh sách di sản thế giới tại Mexico có tổng cộng 34 di sản được UNESCO công nhận, trong đó có 27 di sản văn hóa, 6 di sản tự nhiên và 1 di sản hỗn hợp.

Chùm ảnh dưới đây là những là một thoáng Mexico nhớ lại và suy ngẫm.

Teotihuacan disanthegioi Mexico


Ấn tượng hơn cả là Teotihuacan thành phố thời tiền Colombo, di sản thế giới 1987, ở México.

Monte Alban kimtuthap Mexico


Monte Alban kim tự tháp cổ trung tâm của nền
văn minh Zapotec,  di sản thế giới năm 1987 ở tiểu bang Oaxaca  phía nam Mexico.

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là dat-nuoc-mexico-an-tuong-lang-dong.jpg
Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là dat-nuoc-mexico-an-tuong-lang-dong-2.jpg

Đại học Tự trị Quốc gia México (Universidad Nacional Autónoma de México, tên viết tắt UNAM) là trường đại học lớn nhất ở khu vực Mỹ Latinh nằm tại thành phố thủ đô México, di sản thế giới 2007.

Châu Mỹ chuyện không quên Học để làm CIMMYT CIAT CIP tươi rói kỷ niệm lắng đọng ký ức sâu sắc về khoa học cây trồng, cây lương thực, đất nước, con người, bạn hữu, nền văn hóa châu Mỹ. Tác phẩm này của Hoàng Kim bao gồm 40 ghi chú nhỏ (Notes) được sắp xếp hệ thống có đường links. Bao gồm: Châu Mỹ chuyện không quên/ /Niềm tin và nghị lực/ Về lại mái trường xưa /Hưng Lộc nôi yêu thương/ Năm tháng ở trời Âu/ Vòng qua Tây Bán Cầu / CIMMYT tươi rói kỷ niệm/ Mexico ấn tượng lắng đọng/ Lời Thầy dặn không quên / Borlaug và Hemingway/ Con đường di sản LewisClark/ Sóng yêu thương vỗ mãi/ Đối thoại nền văn hóa/ Truyện George Washington/ Minh triết Thomas JeffersonXem tiếp >>

  Dạy và học 4 tháng 12(04-12-2021)


 

thayduongthanhlienvabotlasan

 

DẠY VÀ HỌC 4 THÁNG 12
Hoàng Kim
CNM365 Tình yêu cuộc sốngSắn Việt Nam ngày nayVietnamese cassava today; Nhớ bạn mùa Giáng sinh; Học Viện Nông nghiệp Việt Nam Kỷ yếu Hội thảo Ngô 4 12 2021; Nước Lào một suy ngẫm; Thầy Dương Thanh Liêm; Thầy Luật lúa OMCS OM; Chuyện thầy Phan Huy Lê;  Người mù điếc huyền thoại;  Ngôi sao mai chân trời; Chuyện sao Kim kỳ thú; Sự chậm rãi minh triết; Lào hoa trắng nắng Mekong; Ngày 4 tháng 12 hàng năm được coi là ngày môi trường ở Thái Lan.  Băng Cốc là thủ đô Thái Lan cũng là trung tâm chính trị, thương mại, công nghiệp văn hóa và thành phố lớn nhất nước này. Vương quốc Thái Lan là một quốc gia quân chủ lập hiến nằm ở vùng Đông Nam Á, phía bắc giáp Lào và Myanma, phía đông giáp Lào và Campuchia, phía nam giáp vịnh Thái Lan và Malaysia, phía tây giáp Myanma và biển Andaman. Lãnh hải Thái Lan phía đông nam giáp với lãnh hải Việt Nam ở vịnh Thái Lan, tây nam giáp lãnh hải Indonesia và Ấn Độ ở biển Andaman. Thái Lan có diện tích 513.000 km2 lớn thứ 50 trên thế giới và dân số khoảng 67 triệu người đông thứ 20 trên thế giới. Khoảng 75% dân số là dân tộc Thái, 14% là người gốc Hoa và 3% là người Mã Lai, phần còn lại là những nhóm dân tộc thiểu số như Môn, Khmer và các bộ tộc khác. Ngôn ngữ chính thức là tiếng Thái. Vua Thái Lan hiện tại là Bhumibol Adulyadej lên ngôi từ năm 1946, là vị nguyên thủ quốc gia tại vị lâu nhất trên thế giới và vị vua trị vì lâu nhất trong lịch sử Thái Lan. Vua Thái Lan theo nghi thức là nguyên thủ, tổng tư lệnh quân đội và nhà lãnh đạo tinh thần Phật giáo của đất nước. Ngày 4 tháng 12 năm 2007 là ngày mất của Phạm Tiến Duật, nhà thơ Việt Nam sinh năm 1941. Ông được tôn vinh là “nhà thơ lớn nhất thời chống Mỹ” “cây săng lẻ của rừng già” “con chim lửa của Trường Sơn huyền thoại”, thơ ông “có sức mạnh của một sư đoàn”; Ngày 4 tháng 12 năm 1872 là ngày Đây là bí ẩn hàng hải được coi là lớn nhất mọi thời đại về con tàu “ma” Mary Celeste của Hoa Kỳ được tàu Dei Gratia của Anh Quốc phát hiện ở Đại Tây Dương, không có người và dường như đã bị bỏ không, thiếu một thuyền cứu sinh, mặc dù thời tiết lúc đó tốt và thủy thủ đoàn là những người đi biển rất có kinh nghiệm và năng lực. Tàu Mary Celeste đã ở trên biển một tháng cho tới lúc đó và có thức ăn, nước uống đầy đủ trên boong cho thủy thủ đoàn hơn 6 tháng . Hàng hóa trên tàu gần như không hề bị hư hại gì và những vật dụng cá nhân của hành khách và thuỷ thủ đoàn vẫn ở nguyên vị trí, bao gồm cả những vật có giá trị. vẫn trong điều kiện đáp ứng tốt cho một cuộc hành trình trên biển và vẫn đang căng buồm hướng về phía eo Gibraltar. Từ ngày 4 tháng 12 năm 1872 cho tới nay chưa ai nhìn thấy hoặc nghe được bất cứ tin tức gì từ thuỷ thủ đoàn. Bài chọn lọc ngày 4 tháng 12: Sắn Việt Nam ngày nay;Vietnamese cassava today; Nhớ bạn mùa Giáng sinh; Học Viện Nông nghiệp Việt Nam Kỷ yếu Hội thảo Ngô 4 12 2021; Nước Lào một suy ngẫm; Thầy Dương Thanh Liêm; Thầy Luật lúa OMCS OM; Chuyện thầy Phan Huy Lê;  Người mù điếc huyền thoại;  Ngôi sao mai chân trời; Chuyện sao Kim kỳ thú; Sự chậm rãi minh triết; Lào hoa trắng nắng Mekong; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.comhttp://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-4-thang-12/;

Sắn Việt Nam ngày nay
NHỚ BẠN MÙA GIÁNG SINH
Hoàng Kim

Bạn tốt khó tìm, khó bỏ lại và không thể quên lãng. Cách mạng sắn Việt Nam  The cassava revolution in Vietnamhttps://youtu.be/81aJ5-cGp28 là câu chuyện thành công. Sắn Việt Nam ngày nay, https://hoangkimlong.wordpress.com/category/vietnamese-cassava-today/ sự cấp thiết phải Bảo tồn và phát triển sắn bền vững.  Lời chào từ HoangKim Vietnam VNCP đến Howeler, Martin với các bạn CIAT, ACIAR “Establishing sustainable solutions to cassava diseases in mainland Southeast Asia”. Chúc mừng Giáng sinh an lành và Năm mới hạnh phúc

 

 

Tiến sĩ Reinhardt Howeler quý mến,
Kính chào người Thầy và bạn lớn của nông dân trồng sắn châu Á. Ảnh 1 Hội thảo sắn toàn cầu ở Việt Nam năm 2000, có mặt người vợ yêu quý của Reinhardt Howeler và giáo sư Phạm Văn Biên, Viện trưởng Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam. Nay bà đã mất. Hãy cho chúng tôi chia buồn muộn tới bạn. Tôi và VNCP lạc email bạn. Ảnh này là sự ghi ơn thầm lặng trong lòng chúng tôi. Ảnh 2 Tiến sĩ Reinhardt Howeler Tiến sĩ Kazuo Kawano nhận giải thưởng của nhà nước Việt Nam, được trao tặng bởi ông Nguyễn Giới, thứ trưởng MARD, và giáo sư Phạm Văn Biên, Viện trưởng IAS, ngày 4/3/1997. Ảnh 3 là bảy sách sắn CIAT Việt Nam, cuối thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21, ghi nhận những đóng góp nổi bật của các bạn. Ảnh 4 là Luis Eduardo Barona và  Hoàng Kim với giống sắn C39 ở CIAT năm 2003 trong sự hợp tác với  Hernan Ceballos và Martin Fregene. Ảnh 5 là giống sắn chủ lực KM419 của Sắn Việt Nam ngày nay.

Các bạn luôn trong lòng chúng tôi. Chúng tôi luôn nhớ và ghi ơn các bạn.

Lời chào nồng nhiệt của tôi đến bạn.

Trân trọng Hoàng Kim

 

 

long-time no hear
From: Howeler, Reinhardt (CIAT-Emeritus)
r.howeler@cgiar.org
To: Hoàng Kim hoangkimvietnam1953@gmail.com

Hello Dr. Kim:

I hope you saw the letter I wrote to you on June 26 this year, informing you that my wife of 53 years, Jane, had passed away after a long and painful disability due to a disinformation of her spine.  She was 81 years old. Let me know if you did not get this letter.

I am not sure whether you are retired yet or not, but I am sure you have remained busy writing and organizing activities about cassava.  For the past ten years I have been busy taking care of my wife, day and night, so I did not have time for much else.  Now that she is no longer alive, I am home alone, although I have some company from a Mexican man who has rented a room in our house. It also means that I have more time to other things, besides walking, bicycling and swimming every day to stay healthy. I am now 79 years old.  Currently, I am organizing a box full of old photos.  I came across some photos about an award Dr. Kawano and myself received from the Minister of Agriculture of Vietnam.  This was during one of our Workshops in Ho Chi Minh City, but I forgot the exact dates, or even the year. Some of the photos show that the workshop was held from March 4-6, 199…..  If you can tell me the year this happened I would much appreciate it, so I can date the photos and put them in a photo book.  This was one of the highlights of my long cassava career, which has left me with many good memories. 

Looking forward to hear from you.  I hope you and your family are doing well and remain healthy.

With best regards.  Reinhardt

Xin chào tiến sĩ Kim:

Tôi hy vọng bạn đã nhìn thấy bức thư tôi viết cho bạn vào ngày 26 tháng 6 năm nay, thông báo với bạn rằng người vợ 53 năm chung sống của tôi, Jane, đã qua đời sau một thời gian dài và đau đớn vì khuyết tật cột sống của cô ấy. Bà đã 81 tuổi. Hãy cho tôi biết nếu bạn không nhận được thư này.

Tôi không chắc là bạn đã nghỉ hưu hay chưa, nhưng tôi chắc rằng bạn vẫn bận rộn với việc viết và tổ chức các hoạt động về sắn. Cả chục năm nay tôi bận bịu chăm sóc vợ cả ngày lẫn đêm nên tôi không có thời gian cho việc khác. Bây giờ cô ấy không còn sống nữa, tôi ở nhà một mình, mặc dù tôi có một số công ty từ một người đàn ông Mexico đã thuê một phòng trong nhà của chúng tôi. Điều đó cũng có nghĩa là tôi có nhiều thời gian hơn cho những việc khác, ngoài việc đi bộ, đi xe đạp và bơi lội mỗi ngày để giữ gìn sức khỏe. Bây giờ tôi đã 79 tuổi. Hiện tại, tôi đang tổ chức một hộp đầy những bức ảnh cũ. Tôi đã xem qua một số bức ảnh về giải thưởng mà Tiến sĩ Kawano và bản thân tôi đã nhận được từ Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp Việt Nam. Đây là trong một trong những Hội thảo của chúng tôi tại Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng tôi đã quên ngày tháng chính xác, hoặc thậm chí cả năm. Một số hình ảnh cho thấy hội thảo được tổ chức từ ngày 4-6 / 3/199… .. Nếu bạn có thể cho tôi biết năm mà điều này xảy ra thì tôi rất cảm kích, vì vậy tôi có thể xác định niên đại của các bức ảnh và đưa vào sách ảnh. Đây là một trong những điểm sáng trong sự nghiệp trồng sắn lâu đời của tôi, nó đã để lại cho tôi rất nhiều kỷ niệm đẹp.

Mong được nghe từ bạn. Tôi hy vọng bạn và gia đình của bạn đang làm việc tốt và vẫn khỏe mạnh. Trân trọng kính chào. Reinhardt

 

 

Greetings from HoangKimVietnam
From: Hoàng Kim hoangkimvietnam1953@gmail.com; hoangkim.vietnam@gmail.com
To: Howeler, Reinhardt (CIAT-Emeritus)
r.howeler@cgiar.org

Vietnamese cassava today
Miss you Christmas season
Hoang Kim


Good friends are hard to find, hard to leave behind and impossible to forget. The cassava revolution in Vietnam
https://youtu.be/81aJ5-cGp28  is a success story. Vietnamese cassava today, https://hoangkimlong.wordpress.com/category/vietnamese-cassava-today/  the urgency to preserve and develop cassava sustainably. Greetings from HoangKim Vietnam VNCP to Howeler, Martin and friends CIAT, ACIAR “Establishing sustainable solutions to cassava diseases in mainland Southeast Asia”. Merry Christmas and Happy New Year.

Dear Dr. Reinhardt Howeler,

Hello teacher and great friend of Asian cassava farmers. Photo 1 The Global Cassava Workshop in Vietnam in 2000, with the beloved wife of Reinhardt Howeler, and Professor Pham Van Bien, Director of the Southern Institute of Agricultural Science and Technology, seated in the front row on the left. Now she is gone. Please give us belated condolences to you. I and VNCP lost your email. The photo is a silent gratitude in our hearts. Photo 2 Dr. Reinhardt Howeler and Dr. Kazuo Kawano receives the State Prize of Vietnam, presented by Mr. Nguyen Gioi, Deputy Minister of MARD, and Professor Pham Van Bien, Director of IAS, on 4/3/1997. Photo 3 is seven books on CIAT Vietnam, late 20th century and early 21st century, recognizing your outstanding contributions. Photo 4 is Luis Eduardo Barona and Hoang Kim with cassava variety C39 at CIAT in 2003 in collaboration with Hernan Ceballos and Martin Fregene. Photo 5 is the main cassava variety KM419 of Vietnam’s cassava today.

You are always in our hearts. We will always remember and thank you.

My warm greetings to you.
Best regards, Hoang Kim

Giáo sư Martin Fregene quý mến

Lời chào từ Hoàng Kim Việt Nam, VNCP phúc đáp thư bạn. Chúc bạn và gia đình vui khỏe, hạnh phúc trong Giáng sinh sắp diễn ra. Hoàng Kim và gia đình khỏe. Mình đã nghỉ hưu, nhưng tôi vẫn đang tiếp tục nghiên cứu về sắn ở VNCP phối hợp với TS Nguyễn Thị Trúc Mai, DARD Phú Yên và TS Hoàng Long, NLU. Chủ đề là “Nghiên cứu tuyển chọn giống sắn năng suất tinh bột cao, kháng được sâu bệnh hại chính (CMD, CWBD) phù hợp với điều kiện sản xuất tại tỉnh Phú Yên và các vùng phụ cận.

Tôi đã thấy trên Twitter tại đường dẫn đến dòng tweet
https://twitter.com/cassdiseaseasia/status/1460897971063570433?s=21  về hai giống sắn CR24-16 và TMEB419 và video của DNRTV http://dnrtv.org.vn/tin-tuc-n107515/benh-kham-la-mi.html , nói về giống sắn TMEB419,  và video của TNRTV https://youtu.be/QCo_eFohvpQ

Chúng tôi chưa tham gia vào việc phát triển hai giống sắn này, vì chưa có hai giống sắn ấy, và chưa biết rõ tài liệu tự công bố ở Việt Nam về năng suất củ tươi, hàm lượng tinh bột và năng suất tinh bột ổn định của giống sắn TMEB419 ở Việt Nam trong sự so sánh với số liệu gốc của  IITA goseed cassava, https://iitagoseed.com/goseed-cassava/ , là tài liệu tự công bố ở châu Phi. Hoàng Kim xin trả lời Martin Fregene về câu hỏi “Làm thế nào để họ chấp nhận được đối với nông dân ở Việt Nam”?: Bạn cần phải có số liệu công bố kết quả thực nghiệm DUS và VCU tại Việt Nam, được MARD chấp nhận, về hai giống sắn CR24-16 và TMEB419, theo quy chuẩn quốc gia Việt Nam.

Sắn Việt Nam ngày nay, đều có gen kháng CMD của giống sắn C39 từ CIAT, cũng là gia đình của CR24-16 với các giống sắn KM419, KM440, KM568, KM535, KM534, KM536, KM537, KM440, KM397. Như bạn đã biết, tôi tới CIAT năm 2003 để làm việc với Hernan Ceballos và Martin về chọn giống sắn DH. Việt Nam năm 2003 đã nhập nội giống sắn từ CIAT, có giống C39, và có đủ hồ sơ nhập giống sắn của CIAT với giấy phép của MARD. Vì vậy, tôi biết rất rõ hiệu suất của dòng C39 mà tôi đang hiện có ngày nay, tuyển chọn từ năm 2003 (*). Tôi và “nhóm Hoàng Kim” từ đó đến nay đã liên tục làm việc Bảo tồn và phát triển sắn, gồm: Giống sắn chủ lực KM419, cũng là tác giả của các giống sắn phổ biến trước đó tại Việt Nam KM140, KM98-5, KM98-1, KM94 (tên gốc KU50), SM937-26. Ở Việt Nam, giống sắn KM419 và KM440 đến nay là phổ biến nhất, sau cả áp lực nặng của bệnh khảm lá CMD và bệnh chổi rồng CWBD. https://youtu.be/XDM6i8vLHcIhttps://youtu.be/kjWwyW0hkbU chúng tôi khuyên nông dân nên trồng các loại giống sạch bệnh KM568, KM535, KM419, KM440, KM94, KM140, KM98-1, HN5, HLS14 (và hai giống sắn CR24-16 và TMEB419 nếu có) để khảo nghiệm DUS và VCU. Sắn Việt Nam bảo tồn và phát triển bền vững: xem thêm https://hoangkimlong.wordpress.com/category/chon-giong-san-khang-cmd/

Cảm ơn bạn vì sự liên kết thông tin quan trọng này. Lời chào nồng nhiệt của tôi đến gia đình bạn. Trân trọng Hoàng Kim

(*) Hoang Kim, Nguyen Phuong, Hoang Long, Tran Cong Khanh, Hernan Ceballos, Rod Lefroy, Keith Fahrney, Tin Maung Aye and Reinhardt Howeler 2010. Recent progress in cassava breeding and the selection of improved cultivars CIAT. In: A New Furture for Cassava in Asia: Its Use as Food, Feed and Fuel to Benefit the Poor. 8th Asian Cassava Research Workshop October 20 – 24, 2008 in Vientiane, Lao PDR. papers 223 – 233

Greetings from Martin Fregene
From: Martin Fregene <mfregene@gmail.com>
To: Hoàng Kim hoangkimvietnam1953@gmail.com

Dear Hoang Kim

This is Martin Fregene saying hello after a long time! How are you and your family?  Are you still in cassava research or you have retired and moved to a private sector company?  I saw on Twitter this tweet about two varieties recently released in Vietnam CR24-16 and TMEB419, see the link to the tweet below. Were you involved in the development of these varieties?  Do you know the fresh root yield, starch yield and starch yield stability of the two varieties?  How acceptable are they to farmers?
https://twitter.com/cassdiseaseasia/status/1460897971063570433?s=21
As you know I left CIAT to the US and now working at the African Development Bank in Abidjan. But I was involved in the production of C18, one of the parents of CR24-16, and even the progeny while at CIAT as part of the CMD molecular breeding program. So I am interested in the performance of the CR24-16 line. Thanks for any information you can provide and I look forward to hearing from you soon. 

My warm regards to your family. 

Sincerely 
Martin

GiadinhNN

 

Greetings from HoangKimVietnam
From: Hoàng Kim hoangkimvietnam1953@gmail.com; hoangkim.vietnam@gmail.com
To: Martin Fregene <mfregene@gmail.com>

Dear Professor Martin Fregene

Greetings from Hoang Kim Vietnam, VNCP replies to your letter. Wishing you and your family a happy and healthy Christmas in the coming time. Hoang Kim and family are healthy. I am retired, but I am still continuing to research cassava at VNCP in collaboration with Dr. Nguyen Thi Truc Mai, DARD Phu Yen and Dr. Hoang Long, NLU. The topic is “Study on selection of cassava varieties with high starch yield, resistant to major pests and diseases (CMD, CWBD) suitable for production conditions in Phu Yen province and surrounding areas”. I saw it on Twitter. at the link to the tweet
https://twitter.com/cassdiseaseasia/status/1460897971063570433?s=21  about the two cassava varieties CR24-16 and TMEB419 and DNRTV’s video http://dnrtv.org.vn/tin-tuc- n107515/benh-kham-la-mi.html , talk about cassava variety TMEB419, and video by TNRTV https://youtu.be/QCo_eFohvpQ

We have not participated in the development of these two cassava varieties, because there are not two varieties of cassava yet, and we do not know the self-published documents in Vietnam on fresh tuber yield, starch content and stable starch yield. Determination of cassava variety TMEB419 in Vietnam in comparison with original data from IITA goseed cassava, https://iitagoseed.com/goseed-cassava/, which is self-published in Africa. Hoang Kim would like to answer Martin Fregene on the question “How can they be acceptable to farmers in Vietnam”?: You need to have data published on experimental results of DUS and VCU in Vietnam, approved by MARD accepted, about two varieties of cassava CR24-16 and TMEB419, according to the national standards of Vietnam. In Vietnam, cassava varieties KM419 and KM440 are by far the most popular, after both the severe pressure of CMD and CWBD. https://youtu.be/XDM6i8vLHcI and https://youtu.be/kjWwyW0hkbU we advise farmers to plant disease-free varieties KM568, KM535, KM419, KM440, KM94, KM140, KM98-1, HN5, HLS14 (and two cassava varieties CR24-16 and TMEB419 if available) for DUS and VCU testing. Vietnamese cassava conservation and sustainable development: see more https://hoangkimlong.wordpress.com/category/chon-giong-san-khang-cmd/

Today’s Vietnamese cassava all have CMD resistance gene of C39 cassava variety from CIAT, also family of CR24-16, with cassava varieties KM419, KM440, KM568, KM535, KM534, KM536, KM537, KM440, KM397. As you know, I went to CIAT in 2003 to work with Hernan Ceballos and Martin on DH cassava breeding. Vietnam in 2003 imported cassava varieties from CIAT, has C39 variety, and has enough records to import cassava varieties from CIAT with MARD’s license. So I know very well the performance of the C39 series I have today, sifting from 2003 (*). Since then, “Hoang Kim team” and I have been continuously working on the conservation and development of cassava, including: The main cassava variety KM419, also the author of the previously popular cassava varieties in Vietnam KM140, KM98- 5, KM98-1, KM94 (original name KU50), SM937-26. Thank you for this important informative link.

My warm greetings to your family.
Best regards, Hoang Kim

 

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là chon-giong-san-viet-nam.jpg

 

SẮN VIỆT NAM NGÀY NAY: BẢO TỒN VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
Vietnamese cassava today: conservation and sustainable development
Nguyen Thi Truc Mai, Hoang Kim, Hoang Long, et al. (*)
Selection of cassava varieties resistant to CMD
https://hoangkimlong.wordpress.com/category/chon-giong-san-khang-cmd/

Ở Việt Nam, giống sắn KM419 và KM440 đến nay là phổ biến nhất, sau cả áp lực nặng của bệnh khảm lá CMD và bệnh chổi rồng CWBD. https://youtu.be/XDM6i8vLHcIhttps://youtu.be/kjWwyW0hkbU chúng tôi khuyên nông dân nên trồng các loại giống sạch bệnh KM568, KM535, KM419, KM440, KM94, KM140, KM98-1, HN5, HLS14 để khảo nghiệm DUS và VCU. Sắn Việt Nam bảo tồn và phát triển bền vững: xem thêm https://hoangkimlong.wordpress.com/category/chon-giong-san-khang-cmd/

In  Vietnam, up to now, cassava varieties KM419 and KM440 are popular,  after even CMD and CWBD,
https://youtu.be/XDM6i8vLHcI and https://youtu.be/kjWwyW0hkbU planting clean KM568, KM535, KM419, KM440, KM94, KM140, KM98-1, HN5, HLS14 for DUS and VCU trials remains our advice to farmer at this stage.  Cassava conservation and sustainable development in Vietnam: https://youtu.be/XMHEa-KewEk; https://youtu.be/5l9xPES76fU;

 

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là su-that-tot-hon-ngan-loi-noi-3.jpg

 

Bệnh virus khảm lá CMD từ ban đầu Tây Ninh (2017) lan rộng trên 15 tỉnh thành Việt Nam (2018) là thách thức của các nhà khoa học. “V/v sử dụng giống sắn KM419 trong sản xuất” đã được Bộ NNPTNT xác định tại công văn chỉ đạo của Bộ Nông nghiệp Phát triển Nông thôn, Cục Bảo vệ Thực vật số 1068/ BVTV ngày 3 tháng 5 năm 2019. Giống sắn KM419 có năng suất tinh bột cao nhất và diện tích trồng phổ biến nhất Việt Nam. Giống sắn KM419 chống chịu trung bình bệnh CMD và bệnh chổi rồng (CWBD), trong điều kiện áp lực 2 bệnh này ở Việt Nam hiện nay là rất cao. Sự cần thiết cấp bách lai tạo KM419 đưa thêm gen kháng bệnh của giống C39, KM440 (KM94 đột biến); KM397 vào giống sắn ưu tú này .

 

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là km419-it-benh-cmd-hls11nang.jpg
Giống sắn KM419 bìa trái thấp cây, tán gọn, cọng đỏ, chống chịu trung bình với bệnh CMD và CWBD , và các dòng sắn lai ít bệnh CMD và CWBD, so với HLS 11 giữa, cao cây, cọng xanh, nhiễm nặng bệnh CMD
Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là chon-giong-san-khang-benh-cmd-1.jpg

 

Giải pháp chọn giống sắn Việt Nam tiếp nối hiệu quả là sử dụng giống sắn KM419 năng suất tinh bột cao sạch bệnh tiếp tục lai tạo với các giống sắn kháng bệnh CMD đã có. Bài viết CHỌN GIỐNG SẮN VIỆT NAM đúc kết tóm tắt thông tin đã có và định hướng cho sự nổ lực Trúc Mai, Hoang Long, BM Nguyễn, Nguyen Van Nam, Nhan Pham, Hung Nguyenviet, Hoàng Kim, Jonathan Newby … đang lai hữu tính và bồi dục nâng cao tính kháng cho các giống sắn KM419, KM440, KM397, tốt nhất hiện nay

 

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là hls11-nhiem-cmd-va-km419.jpg
Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là c39-chau-myi-chuyen-khong-quen.jpg
Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là cach-mang-san-viet-nam.jpg

 

Chúng tôi khuyên nông dân nên trồng các loại giống sạch bệnh KM568, KM535, KM419, KM440, KM94, KM140, KM98-1, HN5, HLS14 để khảo nghiệm DUS và VCU , bảo tồn và phát triển những giống sắn tốt nhất có năng suất cao và ít sâu bệnh.

 

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là km419-in-ninh-thuan.jpg
Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là km98-1-cassava-breeding-in-viet-nam-1.jpg
Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là km98-1-cassava-breeding-in-viet-nam-4.jpg
Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là giong-san-km94-va-km419.jpg

 

CHỌN GIỐNG SẮN KHÁNG CWBD
Nguyễn Bạch Mai, Hoàng Kim, Nguyễn Thị Trúc Mai, Hoàng Long, Nguyễn Văn Phu
Selection of cassava varieties resistant to CWBD *

Chọn giống sắn kháng CWBD. “Ở Việt Nam, giải pháp chủ yếu ngăn chặn lây lan CWBD là phòng trừ tổng hợp: sử dụng giống sắn KM419, KM440, KM397, KM98-1, ít nhiễm bệnh hơn so với KM94 và dùng nguồn giống sạch bệnh; vệ sinh đồng ruộng tiêu hủy nguồn bệnh kịp thời; diệt rầy lá, rầy thân, nhện đỏ, rệp sáp và các loại côn trùng lây lan bệnh; cần chăm sóc sắn tốt, bón phân và làm cỏ 3 lần để tăng sức đề kháng cho cây, bố trí mùa vụ thích hợp để hạn chế dịch hại; tiêu hủy nguồn bệnh kịp thời khi bệnh xuất hiện; xem thêm http://cayluongthuc.blogspot.com/2012/07/muoi-ky-thuat-tham-canh-san.htmlhttps://hoangkimlong.wordpress.com/category/chon-giong-san-khang-cmd/ Trò chuyện với Hoàng Kim https://hoangkimlong.wordpress.com/category/tro-chuyen-voi-hoang-kim/ (*)

Selection of cassava varieties resistant to CWBD. In Vietnam, the main solution to prevent the spread of CWBD is integrated control: using cassava varieties KM419, KM397, KM440, … less infected than KM94 and using disease-free seed sources; field sanitation to destroy disease sources in a timely manner; kill leafhoppers, stem planthoppers, red spiders, mealybugs and other disease-spreading insects; it is necessary to take good care of cassava, fertilize and weed 3 times to increase the resistance of the plants, arrange appropriate seasons to limit pests; promptly destroy the source of the disease when the disease appears; see more http://cayluongthuc.blogspot.com/2012/07/muoi-ky-thuat-tham-canh-san.html and https://hoangkimlong.wordpress.com/category/chon-giong-san-khang-cmd/ Conversations with Hoang Kim https://hoangkimlong.wordpress.com/category/tro-chuyen-voi-hoang-kim/https://www.youtube.com/embed/0MVPGxOpoPY?version=3&rel=1&showsearch=0&showinfo=1&iv_load_policy=1&fs=1&hl=vi&autohide=2&wmode=transparent

CAVAC Cách chọn thân cây sắn để trồng (Video hướng dẫn về bệnh khảm trên cây sắn)https://youtu.be/0MVPGxOpoPY Video của Australian Embassy, Cambodia 18 8 2021 đã viết. “Bạn có biết sắn là cây trồng lớn thứ hai của Campuchia và mang lại sinh kế cho hơn 90.000 hộ gia đình, đóng góp hàng trăm triệu đô la cho nền kinh tế? Điều này cũng có nghĩa là sâu bệnh có thể có tác động tàn phá. Australia thông qua chương trình Chuỗi Giá trị Nông nghiệp Campuchia-Australia (CAVAC) và Trung tâm Nông nghiệp Nhiệt đới Quốc tế (CIAT) đang làm việc với Bộ Nông nghiệp, Lâm nghiệp và Thủy sản để ngăn chặn sự lây lan của bệnh Chổi rồng (CWBD), một mối đe dọa lớn đối với cây sắn. Bệnh CWBD làm giảm hàm lượng tinh bột và sản lượng sắn 80%). Xem tiếp >>

  Dạy và học 3 tháng 12(03-12-2021)

DẠY VÀ HỌC 3 THÁNG 12
Hoàng Kim
CNM365 Tình yêu cuộc sốngNước Lào một suy ngẫm; Thầy Dương Thanh Liêm; Thầy Luật lúa OMCS OM; Chuyện thầy Phan Huy Lê;  Người mù điếc huyền thoạiNgôi sao mai chân trời; Chuyện sao Kim kỳ thú; Sự chậm rãi minh triết; Lào hoa trắng nắng Mekong; Ngày 3 tháng 12 năm 1973, Tàu vũ trụ Pioneer 10 của Hoa Kỳ gửi về những hình ảnh cận cảnh đầu tiên của sao Mộc là hành tinh khí khổng lồ lớn nhất trong Hệ Mặt Trời. Thái Dương hệ có Mặt Trời ở trung tâm với 8 hành tinh có quỹ đạo gần tròn và mặt phẳng quỹ đạo gần trùng khít với nhau gọi là mặt phẳng hoàng đạo. Bốn hành tinh nhỏ vòng trong gồm Sao Thủy, Sao Kim, Trái Đất và Sao Hỏa là các hành tinh đá do chúng có thành phần chủ yếu từ đá và kim loại. Bốn hành tinh khí khổng lồ vòng ngoài  là các hành tinh băng đá khổng lồ có hai hành tinh lớn nhất là Sao Mộc và Sao Thổ thành phần chủ yếu là heli và hiđrô; hai hành tinh nằm ngoài cùng là Sao Thiên Vương và Sao Hải Vương có thành phần chính từ băng, nước, amoniac và mêtan, Có sáu vệ tinh được gọi là “Mặt Trăng” theo tên gọi của Mặt Trăng của Trái Đất và ba hành tinh lùn có các vệ tinh tự nhiên quay quanh. Khi nhìn từ Trái Đất thì Mặt Trăng, Sao Kim, sao Mộc là ba vì tinh tú sáng nhất trên bầu trời. Sao Hỏa tuy sáng gần bằng Sao Mộc nhưng chỉ khi Sao Hỏa ở những vị trí xung đối trên quỹ đạo của nó với Trái Đất. Sao Mộc có khối lượng bằng một phần nghìn Mặt Trời nhưng bằng hai lần rưỡi tổng khối lượng của tất cả các hành tinh khác trong Hệ Mặt Trời cộng lại. Sao Mộc được các nhà thiên văn học cổ đại gắn với thần thoại và niềm tin tôn giáo trong nhiều nền văn hóa. Sao Mộc  là  hành “mộc” của năm nguyên tố cơ bản và năm trạng thái Kim, Mộc,Thủy, Hỏa,Thổ trong ngũ hành phương Đông Ngày 3 tháng 12 là Người khuyết tật Quốc tế (International Day of Disabled Persons); Bài chọn lọc ngày 3 tháng 12. Nước Lào một suy ngẫm; Thầy Dương Thanh Liêm; Thầy Luật lúa OMCS OM; Chuyện thầy Phan Huy Lê;  Người mù điếc huyền thoạiNgôi sao mai chân trời; Chuyện sao Kim kỳ thú; Sự chậm rãi minh triết; Lào hoa trắng nắng Mekong; Ma Văn Kháng trong tôi; Đồng xuân lưu dấu hiền; Đào Duy Từ còn mãi; Chuyện đồng dao cho em; Tìm về đức Nhân Tông; Về với vùng cát đá; Đại Lãnh nhạn quay về; Nhà Trần trong sử Việt; Thầy tôi sao sáng giữa trời; Sông Kỳ Lộ Phú Yên; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlong và  https://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-3-thang-12/;

NƯỚC LÀO MỘT SUY NGẪM
Hoàng Kim

Hoa Chămpa là sắc hoa sứ trắng thanh khiết mà người Lào rất mến chuộng. Nắng vàng rực rỡ trên sông Mekong (golden light in Mekong River) tạo nên vẻ đẹp kỳ ảo của Viên Chăn. Uống bia Lào, ăn mực và nhâm nhi cà phê Việt, ngắm màu nắng chiều dát vàng trên sông Mekong gần Tháp Vàng bên này bờ sông mà bờ sông bên kia là Thái Lan, lắng nghe nhịp sống chậm rãi và yên bình.. Hoa Chămpa nắng Mekong.là đặc trưng tinh túy nhất của Lào, như Căm pu chia là
Angkor nụ cười suy ngẫm. Trước đây mười năm tôi dùng “Tháp vàng hoa trắng nắng Mekong” để diễn đạt biểu tượng về Lào nhưng sau nghĩ lại Chămpa rõ hơn là ‘hoa trắng’ và biểu tượng Chùa Tháp dường như không phải chỉ thuộc về Lào mà thuộc về một không gian rộng lớn hơn gồm thêm cả Myanmar, Thái Lan, Căm pu chia, Sri Lanka, vùng Nam Bộ Việt Nam và một số nước khác nữa.Bài viết này được ghi chép lần đầu sau Hội nghị Nghiên cứu Sắn Quốc tế lần thứ Tám (8th Asian Cassava Research Workshop) tổ chức tại Viên Chăn. Tôi sau đó nhiều lần tới Lào nay hiệu đính bổ sung và nối dài thêm .

LÀO HOA CHĂMPA NẮNG MEKONG

Lào hoa Chămpa nắng Mekong
Ấn tượng Viên Chăn thật lạ lùng
Nơi đâu hối hả, đây trầm lắng
Một vùng đất Phật ở ven sông.

Nhớ thuở Nguyễn công gây nghiệp lớn
Ai Lao thường mở lối đi về
Trung Hưng thành tựu nhờ chung sức
Núi thẳm, lòng dân đã chở che.

Dân Việt ngàn năm xuôi lấn biển
Tựa lưng vào núi hướng về Nam
Thoáng chốc nghìn năm nhìn trở lại
Lào hoa Chămpa nắng Mekong.

DatnuocLao6

ĐÂT NƯỚC LÀO NGÀY NAY

Nước Cộng hòa Dân chủ Nhân Dân Lào hình thành năm 1975, nay nhìn lại lịch sử nội chiến và sự thành lập: Nội chiến Lào là cuộc chiến tranh thường được tính bắt đầu từ cuối năm 1953 và kết thúc tháng 12 năm 1975, theo các tài liệu truyền thông phương Tây. Tại Lào và Việt Nam thì lịch sử cuộc chiến được tính thời gian từ 1954 sau Hội nghị Giơnevơ tới khi Pathet Lào giải phóng Viên Chăn. Tuy nhiên cuộc chiến này không liên tục, có thời gian ngưng chiến, và chỉ liên tục từ năm 1964 đến 1973 là năm Hiệp định Viên Chăn ký kết. Lực lượng Pathet Lào từ ngay từ năm 1958 khi chiến tranh thực sự bùng nổ đã nhận được sự giúp đỡ hậu thuẫn của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Sự giúp đỡ này càng về sau,ngày càng tăng. Đây là cuộc chiến giữa lực lượng Pathet Lào được Việt Nam Dân chủ Cộng hòa hỗ trợ và chính phủ hoàng gia Lào được Mỹ bảo trợ rõ nét từ năm 1962. Sự tham gia của các lực lượng quân đội của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Mỹ và Việt Nam Cộng hòa trong cuộc chiến này nhằm mục tiêu giành quyền kiểm soát dải đất hẹp trên lãnh thổ Lào mà quân đội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa dùng làm khu vực hành lang tiếp viện cho quân giải phóng miền Nam. Quân Pathet Lào đã chiến thắng năm 1975 giải phóng Viên Chăn và đã lập nên Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào

thapvanghoatrangnangmekong

Đánh giá khái quát những chính sách kinh tế xã hội quan trọng nhất ở Lào.

Cộng Hòa Dân chủ Nhân Dân Lào suốt 45 năm qua (1975-2020) tên nước không hề đổi; Đảng Nhân dân Cách mạng Lào vẫn giữ nguyên tên đảng, không đổi tên, nhưng thể chế chính trị và kinh tế thì Lào đang quyết tâm đổi mới hòa nhập với kinh tế thị trường.theo xu thế mới; Lịch sử văn hóa Lào cũng được bảo tồn và phát triển hệ thống với bài học từng thời kỳ. Chủ tịch nước, chủ tịch đảng của Lào là một . Nước Lào vẫn tiếp tục xây đập thủy điện Sayabouri và còn có kế hoạch xây dựng hệ thống đường sắt đường bộ liên Á kết nối Trung Quốc, Lào,Thái Lan, Myanmar, Việt Nam và ra biển. Chính sách đối ngoại của Lào là nhất quán kết nối chặt chẽ với Việt Nam nhưng chính sách kinh tế độc lập không lệ thuộc đang có nhiều vấn đề tương quan đổi khác. Dự án xây dựng thủy điện Xayaburi theo thiết kế có công suất đạt 1.260 MW/năm giúp Lào nguồn thu siêu lợi khoảng 1 tỉ USD xuất khẩu điện sang Thái Lan và Việt Nam trong khi Lào chỉ có 6,3 triệu dân với tổng thu nhập quốc dân chỉ hơn 6 tỉ USD (năm 2010). Số tiền bán điện này hàng năm đối với Lào là nguồn thu rất lớn. Tuy vậy, việc xây dựng thủy điện Xayaburi trong hệ thống 16 đập chặn dòng sông Mekong từ thượng nguồn cho tới vùng trung lưu của dòng sông Mekong đã và đang làm cho cạn kiệt nguồn nước, làm giảm nghiêm trọng phù sa về Nam Bộ, làm hàng triệu hectar trồng lúa bị nhiễm mặn và khô hạn, cá tôm bị suy giảm, làm thay đổi mạnh mẽ điều kiện sống, an sinh xã hội sinh kế của người dân phí dưới của hệ thống đập nước thuộc lưu vực sông Mekong.

Nước Lào không còn …chậm

là nhận xét của nhà báo Hiệu Minh nói về không gian kinh tế văn hóa Đông Dương hiện nay đang thay đổi trong xu hướng toàn cầu hóa. Tôi đồng tình nhận xét ấy và tâm đắc đọc lại bài thơ của chính mình “Lào hoa Chămpa nắng Mekong” suy ngẫm thấm thía câu chuyện lịch sử “Dân Việt nghìn năm xuôi lấn biển. Tựa lưng vào núi hướng về Nam, thoáng chốc ngàn năm nhìn trở lại. Tháp vàng, hoa trắng, nắng Mekong“.

Đi xa để lại nghĩ về gần

là suy ngẫm của nhà văn hóa Nguyên Ngọc. Cụ viết: “Sáng sớm ở Luang Prabang của nước Lào, khoảng từ 5h, không gì hay bằng ra đường và ngắm các nhà sư đi khất thực…Lạ thay là một dân tộc, là những con người, suốt đời, suốt ngày nào cũng vậy, mỗi buổi sáng lại dậy thật sớm, dọn mình thật thanh khiết rồi ra ngồi lặng lẽ và cung kính bên đường để chờ làm công việc hẳn là tự nguyện nhất trong những công việc ở đời. Mở đầu một ngày sống như vậy thì thật khó làm điều ác trong ngày. Và một chút nhận xét nữa: ở đây người ta sống chậm. Không quan tâm, không ham hố tốc độ. Hình như giữa sự thâm trầm của tu, chùa, sư và sự thanh thản của cuộc sống hằng ngày chẳng có mấy khoảng cách“…

“Ở Lào khó tìm thấy kịch”

nhà báo
Nguyễn Quang Vinh viết:”Ở Lào khó tìm thấy kịch.Không chỉ là tôi, những người tôi quen biết sống ở Lào lâu, đều nói, khó để nhìn thấy người Lào cãi cọ, trợn mắt phùng má, cào cấu, đánh lộn….hình như là không có. Người Lào nếu giận nhau thì im lặng ra về, vì nếu cự cãi, gây lộn, họ sẽ không bao giờ còn nhìn mặt nhau cho tới hết đời. Phật cũng dạy cho họ đức sống khiêm nhường, buông xả, bao dung và nhân hậu. Người Lào thích nhậu, chủ yếu là uống bia, phụ nữ đàn ông đều uống, nhưng họ nhậu rất chậm, từ từ, không ép nhau, không zô trăm phần trăm phần triếc, không kích, không khích nhau uống, không ép, không dồn, ngồi, nói chuyện, từ từ uống, từ từ chuyện trò, từ từ say, chầm chậm như thế.” ” Tôi không dám nói tôi đã hiểu nhiều về nước bạn Lào yêu dấu, nhưng tôi chắc rằng, nếu tôi ở Lào, tôi cũng chỉ làm được những bài thơ đẹp, chỉ có thể viết ra được những trang văn đẹp và tinh khôi, khó để viết thành kịch, khó để tạo ra kịch tính trong tác phẩm, khó để xây dựng được những nhân vật gọi là “phản diện”, chỉ có thể là sống vui, sống khỏe, sống yêu thương và say đắm trong bước nhảy của Lăm Vông..Có một dòng chảy văn hóa Phật giáo âm thầm trong huyết thống nhiều thế hệ của người Lào, tinh khiết, trong trẻo, không pha tạp, không hỗn mang, không náo loạn, thế mà hun đúc cho dân tộc một bản sắc văn hóa vững như đá, chảy dài theo ngàn thế hệ.”

DatnuocLao2

LÚA VÀ SẮN Ở LÀO

Lúa và sắn ở Lào có một vị trí quan trọng.  Khái quát về lịch sử và điều kiện sinh thái. Lào là một đất nước miền núi ở trung tâm bán đảo Đông Nam Á. Nước Lào có nguồn gốc lịch sử văn hoá từ Vương quốc Lan Xang (Vạn Tượng, Triệu Voi) được vua Lào Phà Ngừm khai sáng năm 1354. Vương quốc Lan Xang sau thời kỳ thịnh vương đến năm 1695 đã rơi vào khủng hoảng bởi tranh giành nội bộ và năm 1707 bị chia ba thành Vương quốc Luang Phrabang ở phía bắc, Vương quốc Viêng Chăn ở trung tâm, Vương quốc Champasak ở phía nam. Năm 1893, Pháp bảo hộ Liên bang Đông Dương đã hợp nhất ba vương quốc này thành lãnh thổ Lào. Sau khi Nhật chiếm đóng, Lào giành độc lập song người Pháp đã áp đặt lại quyền cai trị cho đến khi Lào được tự trị vào năm 1949. Lào độc lập vào năm 1953 với chính thể quân chủ lập hiến. Lào xẩy ra nội chiến trường kỳ kết thúc vào năm 1975 với phong trào Pathet Lào do Đảng Nhân dân Cách mạng Lào lãnh đạo đã lập nên chính thể hiện nay. Lào có điều kiện sinh thái tương tự vùng miền Trung và Tây Nguyên Việt Nam với khí hậu nhiệt đới gió mùa, mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10,mùa khô mát từ tháng 11 đến tháng 2, mùa khô nóng từ tháng 3 đến tháng 4. Lượng mưa hàng năm từ 1350mm đến 3700mm. Tổng diện tích đất đai Lào 23.080.000 ha trong đó đất nông nghiệp: 1.959.000 ha (8,5%), đất trồng trọt khoảng 1.000.000 ha (4.3%) đất dốc có độ dốc trên 30% chiếm 54%, đất dốc có độ dốc trên 8% chiếm 8%.  Lào là nước có mức sống người dân nghèo hơn so với Việt Nam và Cămpuchia.  Nông nghiệp Lào chiếm 40% GDP, ngành công nghiệp chiếm 35% (chủ yếu là khai thác mỏ gổ và thủy điện) Dịch vụ 25% (chủ yếu là kinh doanh du lịch). 80% người dân tham gia các hoạt động nông nghiệp với hầu hết là nông dân sản xuất nhỏ.

DatnuocLao1

Lúa là cây trồng chính trong mùa mưa, đặc biệt là ở các nơi đất thấp dọc lưu vực sông Mêkông. Lúa nương, sắn, khoai lang, rau, ngô, cà phê, cao su, mía, thuốc lá, bông, chè, đậu phộng, là những cây trồng quan trọng đối với nhiều nông hộ ở vùng cao. Chiến lược quốc gia là thu hút đầu tư trong và ngoài nước tham gia vào sản xuất, tiếp thị và chế biến nhằm mục đích tối đa hóa sự tham gia của người nông dân và gia đình, ưu tiên cao su, mía đường, lâm nghiệp, cà phê, sắn, ngô, sử dụng cạnh tranh cho đất, khai thác mỏ, thủy điện, phát triển “chiến lược quốc gia về xoá đói và giảm nghèo” (gồm 47 huyện ưu tiên rất nghèo và 25 huyện nghèo .

Tôi lần đầu tham gia đào tạo và tập huấn ở Lào cùng với tiến sĩ Reinhardt Howeler về “phương pháp FPR chuyển giao tiến bộ kỹ thuật canh tác sắn” năm 2001, lần kế tiếp  họp lúa sắn ở thủ đô Viên Chăn với tiến sĩ Nguyễn Văn Ngãi, một lần khác tham gia hội thảo sắn châu Á năm 2008 với tiến sĩ Rod Lefroy, giám đốc vùng sắn châu Á của CIAT, giáo sư Trần Ngọc Ngoạn, thạc sĩ Nguyễn Thị Phương Loan, tiến sĩ Nguyễn Thị Hoa Lý, tiến sĩ Nguyễn Hữu Hỷ và tiến sĩ Nguyễn Phương. Sau đó tôi cũng có ba lần tham gia học tập trao đổi, đánh giá khảo sát hiệu quả đầu tư với các tổ chức Quốc tế và với nhóm chuyên gia  Hernan Ceballos CIAT, Keith Fahrney CIAT- Lào,  Vinayaka Hegde CTCRI, Ấn Độ, Bernardo Ospina,CLAYUCA, Colombia, Tin Maung Aye CIAT- Lào,  Tian Yinong GSCRI, Trung Quốc . Nhiều báo cáo power point, tài liệu làm việc và những câu chuyện lúa sắn chưa dịp kể.

Nước Lào một suy ngẫm, Lào hoa trắng nắng Mekong; Lúa sắn Cămpuchia và Lào; lắng đọng một ấn tượng.

Hoàng Kim.

Tài liệu dẫn

LÚA SẮN CAMPUCHIA VÀ LÀO
Hoàng Kim

Lúa sắn Campuchia và Lào là điểm nhấn thú vị thật đáng suy ngẫm. Campuchia và Lào tôi đã đến thật nhiều lần, kể từ năm 1972 trong chuyện kể
Câu cá bên dòng Sêrêpôk cho tới sau này được giảng dạy và nghiên cứu, dự hội thảo, du lịch sinh thái, giúp các chủ trang trại canh tác lúa sắn. Tôi có nhiều bạn ở nơi ấy. Hoàng Long con trai tôi cùng Nguyễn Văn Phu nay đang ở bộ môn Cây Lương thực Rau Hoa Quả Khoa Nông học Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh vừa tham gia Giúp bà con cải thiện vụ mùa tại Champasak trong mùa hè xanh năm 2019 tại Lào https://www.facebook.com/watch/?v=845140395871560

Việt Nam Lào Cămpuchia chúng ta chung nôi bán đảo Đông Dương, chung một vận mệnh mật thiết của sự kết nối đất nước và con người. Nước lấy dân làm gốc, dân lấy ăn làm trời, quốc gia lấy bình an trung tín làm nền tảng hợp tác tin cậy. “Muốn bình sao chẳng lấy an. Muốn nhân sao lại bắt dân ghê mình” Điểm tin lúa sắn Việt Nam Lào Campuchia hàng vụ, hàng năm giúp cung cấp một góc nhìn thú vị ba dân tộc anh em cùng một vận mệnh “ba cây chụm lại nên hòn núi cao” “cùng chung lưng đấu cật’ trên cùng một bán đảo Đông Dương. Chủ đề này luôn làm tươi mới trên nền tảng thông tin chủ đề bảo tồn và phát triển.

Theo Hin Pisei, báo Phnom Penh Post ngày 6 tháng 5 năm 2021 | 14:22 ICT, “Xuất khẩu sắn Campuchia trong tháng 1 đến tháng 4 năm 2021 cao hơn tốc độ của năm 2020”. Tổng cục Nông nghiệp Campuchia tại báo cáo ngày 29/12/2020 cho hay Tổng diện tích sắn Campuchia năm 2020 là 656.668 ha, sản lượng đạt hơn 12 triệu tấn mỗi năm, hay hơn 18 tấn / ha, theo nguồn Heng Chivoan. Campuchia trong 4 tháng đầu năm 2021, đã xuất khẩu hơn 1,5 triệu tấn sản phẩm sắn sang thị trường quốc tế tăng so với 1,3 triệu tấn của cùng kỳ năm ngoái, theo số liệu của Bộ Nông nghiệp, Lâm nghiệp và Thủy sản. Phân tích theo danh mục sản phẩm sắn xuất khẩu thì vương quốc Campuchia đã xuất khẩu 1.177.003 tấn sắn lát khô (tăng 25,46% so với cùng kỳ năm ngoái), 307.750 tấn sắn củ tươi (giảm 6,98%), 13.284 tấn tinh bột sắn (tăng 42,83%) và 3.122 tấn viên làm thức ăn gia súc (giảm 34,26%). Bộ Nông nghiệp, Lâm nghiệp và Thủy sản Campuchia cũng báo cáo rằng phần lớn hàng xuất khẩu sắn là đến Thái Lan, Việt Nam, Trung Quốc, Ý và Hà Lan. Giám đốc Sở Thương mại tỉnh Battambang, Kim Hout, nói với báo Phnom Penh Post vào ngày 6 tháng 5 rằng mùa thu hoạch sắn đã khép lại vào cuối tháng 3 và sản lượng ở tỉnh này tăng nhẹ so với vụ năm ngoái. “Năm nay, nông dân trồng sắn đã có lãi cả về số lượng và giá cả, và nhu cầu thị trường tăng mạnh hơn so với năm 2020”, ông nói và cho biết thêm rằng giá của vụ này đã tăng đáng kể so với năm ngoái. Theo Huot, khoảng 80% sắn trồng ở tỉnh Battambang được thương nhân mua và bán lại ở Thái Lan mỗi năm, trong khi các công ty địa phương mua phần còn lại để xay thành thức ăn chăn nuôi. Chan Muoy, chủ một silo ở quận Sampov Loun, phía tây bắc của tỉnh Battambang, lưu ý rằng đợt tăng giá năm nay được thúc đẩy bởi nhu cầu cao từ Thái Lan và Trung Quốc. Bà cho biết: “Nhu cầu đối với các sản phẩm sắn từ nước ngoài đã tăng đáng kể trong năm nay do sắn là nguyên liệu quan trọng để sản xuất lương thực, thực phẩm ở tất cả các nước, đặc biệt là tinh bột sắn. Theo Muoy, sắn sẽ tăng giá rõ rệt trong năm nay, với giá bán buôn củ tươi với giá 330-370 riel (0,08-0,09 USD) / kg, tăng từ 220-260 riel vào năm 2020 và sắn lát với giá 715-800 riel , tăng từ 520-650 riel. Sắn là một trong những cây nông công nghiệp hàng đầu của Campuchia. Năm 2020, Campuchia chính thức công bố “Chính sách quốc gia về sắn 2020- 2025″ nhằm đẩy mạnh sản xuất và thương mại hóa nó để xuất khẩu. Trước đó, Bộ trưởng Bộ Thương mại Pan Sorasak cho biết sắn là mặt hàng xuất khẩu chính, đóng góp 3-4% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) mỗi năm. Một báo cáo ngày 29 tháng 12 năm 2020 của Tổng cục Nông nghiệp Campuchia đã nhấn mạnh sắn nước này có tiềm năng xuất khẩu cao, ngoài gạo”.

Đối chiếu thông tin thị trường sắn từ Việt Nam,
Xuất khẩu sắn tăng mạnh trong 4 tháng Xuất khẩu sắn và các sản phẩm làm từ sắn ước tính đạt giá trị 443 triệu USD trong 4 tháng đầu năm, tăng 23,9% so với cùng kỳ năm trước, theo Cơ quan Phát triển Thị trường và Chế biến Nông sản.VNS/VNA. TTXVN Thứ sáu, ngày 14/5/2021 19:33.

Xuất khẩu sắn Việt Nam tăng mạnh trong 4 tháng đầu năm 2021. (Ảnh: nhandan.com.vn). Trung Quốc là người mua lớn nhất, nhập khẩu sắn để chế biến thức ăn chăn nuôi và ethanol. Giá xuất khẩu dự kiến ​​vẫn ở mức cao do nguồn cung giảm và nhu cầu cao từ Trung Quốc. Tại thị trường trong nước, giá sắn lên tới 3.400 đồng một kg, cao nhất trong nhiều năm, điều này đã khuyến khích nông dân chăm sóc sắn tốt hơn. Ông Nguyễn Đình Xuân, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh Tây Ninh, nơi có diện tích trồng sắn lớn nhất cả nước, cho biết với giá hiện tại, nông dân có thể lãi trên 70 triệu đồng (3.030 USD) mỗi ha mỗi vụ. Năm ngoái, tỉnh đã thu hoạch hơn 3,7 triệu tấn, ông nói. Trong vụ trồng 2020-21 có 33.340 ha được gieo trồng..Tây Ninh có 65 nhà máy chế biến tinh bột sắn với tổng công suất 6,4 triệu tấn củ / năm. Ông Xuân cho biết thêm, do nguồn cung sắn trong nước không đáp ứng đủ nhu cầu nên họ phải nhập khẩu từ Campuchia hoặc mua từ các tỉnh khác. Tại tỉnh Gia Lai, năm nay sắn tươi có giá cao. Chẳng hạn, Nhà máy Tinh bột sắn Gia Lai thu mua từ nông dân với giá 3.100 đồng một kg, cao hơn 1.000 đồng so với cùng kỳ năm trước.

So sánh bức tranh nông sản lúa sắn Việt Nam, Campuchia và Lào trong trong các năm trước thì Việt Nam năm 2016 có diện tích canh tác lúa là 7.783.113 ha, năng suất lúa 5,58 tấn/ ha, sản lượng 43,43 triệu tấn; diện tích sắn 579.898 ha, năng suất sắn 19,04 tấn/ha, sản lượng sắn 11,04 triệu tấn. Campuchia năm 2016 diện tích canh tác lúa là 2.866.973 ha, năng suất 3,42 tấn/ ha, sản lượng 9,82 triệu tấn; diện tích sắn 387.636 ha, năng suất 26,33 tấn/ha, sản lượng 10,20 triệu tấn. Lào năm 2016 diện tích canh tác lúa là 973.327 ha, năng suất 4,26 tấn/ ha, sản lượng 4,14 triệu tấn; diện tích sắn 94.726 ha, năng suất 32,68 tấn/ ha, sản lượng 3,09 triệu tấn. Đối chiếu với số liệu thống kê của năm 2014 thì Việt Nam có diện tích canh tác lúa là 7.816,476 ha, năng suất lúa 5,75 tấn/ ha, sản lượng 44,97 triệu tấn; diện tích sắn 552.760 ha, năng suất sắn 18,47 tấn/ha, sản lượng sắn 10,20 triệu tấn. Campuchia năm 2014 diện tích lúa là 2.856.703 ha, năng suất 3,26 tấn/ ha, sản lượng 9,32 triệu tấn; diện tích sắn 257.845 ha, năng suất 25,78 tấn/ha, sản lượng 8,58 triệu tấn. Lào năm 2014 diện tích canh tác lúa là 957.836 ha, năng suất 4,17 tấn/ ha, sản lượng 4,00 triệu tấn; diện tích sắn 60.475 ha, năng suất 26,95 tấn/ha, sản lượng 1,63 triệu tấn.

Video
Lao Farmer Network thật thú vị . Hình ảnh sắn Lào ngày 10 tháng 7 năm 2019 tại https://www.facebook.com/laofarmernetwork/videos/619900718642916 Bức tranh nông sản được đúc kết, bảo tồn để cùng học hỏi trao đổi. Lúa sắn Việt Nam, Lào, Cămpuchia với các điển hình tiên tiến trong nghiên cứu chuyển giao tiến bộ kỹ thuật canh tác và sản xuất. chế biến, tiêu thụ trong tầm nhìn hệ thống kinh tế văn hóa xã hội là điểm nhấn của bài viết này .

LÚA SẮN CĂMPUCHIA

Lúa, sắn Cămpuchia, chúng ta có thể dạy và học gì với nông dân? Tôi lưu lại đây một điểm nhấn hợp tác lúa sắn với nông nghiệp Căm pu chia để có dịp quay lại viết sâu hơn, kể câu chuyện tiếp nối các câu chuyện Hợp tác Bảo tồn và Phát triển. Đất nước Angkor nụ cười suy ngẫm .

Câu chuyện này tôi đã kể với Sango Mahanty giáo sư và chuyên gia kinh tế nổi tiếng của Trường Đại học Úc. Tôi kết luận về sự trãi nghiệm và suy ngẫm của tôi với đất nước này.“Tiềm năng hợp tác nghiên cứu phát triển lúa sắn Việt Nam Căm pu-chia là rất to lớn. Điều này không chỉ đối với cây lúa, cây sắn mà với tất cả các lĩnh vực hợp tác về chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội, nông lâm ngư nghiệp, điện, nước, du lịch và thương mại, đời sống dân sinh cũng đều như vậy. Nhưng chúng ta không được ăn vào tiềm năng. Hãy nghĩ đến một sự hợp tác thân thiện, bền vững, khai mở được tiềm năng to lớn của hai dân tộc để cùng có lợi, cùng phát triển”.

Sự thay đổi xã hội, môi trường dọc biên giới Campuchia Việt Nam là thật nhanh chóng. Một thí dụ nhỏ về cây sắn. Nhìn lại số liệu sắn Campuchia đầu năm 2011 khi tôi sang khảo sát bên đó thì năm 2010 Campuchia có tổng diện tích sắn là 20.230 ha, đạt sản lượng thu hoạch 4,24 triệu tấn, năng suất sắn củ tươi bình quân là 20,99 tấn/ ha. So với Việt Nam cùng kỳ (năm 2010) có tổng diện tích sắn là 498.000 ha, đạt sản lượng thu hoạch 8,59 triệu tấn, năng suất sắn củ tươi bình quân là 17,26 tấn/ ha. (FAOSTAT 2015). Tốc độ phát triển sắn Campuchia những năm gần đây nhanh hơn sắn Việt Nam. Lý do vì: doanh nghiệp Việt Nam và Cămpuchia tổ chức trồng sắn kinh doanh tại những vùng đất dọc biên giới, nơi trồng sắn hầu hết là rừng mới khai phá đất tốt; Sư tổ chức canh tác phần lớn theo kiểu sản xuất kinh doanh khép kín để bán củ tươi về Việt Nam hoặc chế biến tại chỗ. Giống sắn Campuchia do các thương lái Việt Nam chuyển sang buôn bán cây giống để thu mua củ tươi, nên theo rất sát nhưng tiến bộ giống sắn mới nhất của Việt Nam. Hiện tại tổng diện tích sắn trồng của Cămpuchia có trên 90% được trồng là ba giống sắn tốt nhất KM419 ( khoảng 60%), KM98-5 (khoảng 10%) và KM94 (khoảng 20%) . Mười biện pháp kỹ thuật canh tác sắn thích hợp bền vững theo kinh nghiệm đúc kết của Việt Nam và CIAT được bạn ứng dụng nhanh và tốt trong sản xuất.

Đến đất nước Cămpuchia nhiều lần trong các chuyến khảo sát sản xuất thị trường sắn, cũng như giúp các doanh nghiệp Việt Nam, Cămpuchia và các bạn quốc tế canh tác sắn tại Cămpuchia. tôi thường thích mang theo tài liệu “Du lịch Cămpuchia” và cuốn sách  “Hồi ký Sihanouk: Những lãnh tụ thế giới mà tôi từng biết”  (dịch từ Nguyên tác Sihanouk Reminisces World Leaders I Have Known). Qua cửa khẩu Hoa Lư và các cửa khẩu khác dọc biên giới Việt _Cămpuchia, tôi chứng kiến nhiều lần những hàng xe tải lớn chở sắn nối đuôi nhau mút tầm mặt, gợi mở bao điều muốn nói về một tiềm năng hợp tác to lớn. Tôi khuyên Sango nên tìm lại những người sản xuất và kinh doanh lúa sắn Angkor là bạn cũ của tôi ở bên ấy. Họ sẽ giúp Sango và Bảo Chinh khám phá những điều mới mẻ trong nghiên cứu phát triển lúa sắn, những biến đổi xã hội và môi trường nhanh chóng dọc theo biên giới Campuchia-Việt Nam. Luật nhân quả và những minh triết sâu sắc của cuộc sống sẽ khai mở cho chúng ta nhiều điều để dạy và học.

Cămpuchia đất rừng bạt ngàn, phần lớn là đất xám khá bằng phẳng, khó thoát nước. Dân cư thưa thớt. Trẻ em nghèo ít học khá phổ biến ở vùng sâu vùng xa.

Những giống sắn phổ biến ở Căm pu chia là KM94, KM98-5  nhập từ Việt Nam. Giống sắn mới triển vọng KM419 (BKA900 x KM 98-5 lai tạo tại Việt Nam) và KM325 (nguồn gốc SC5 x SC5 lai tạo tại Việt Nam) cũng đã được trồng nhiều nơi khá rộng rãi.

Chị Soc Chia thôn Tờ Rôn, nhà cách Snua 15 km, chồng trước đi lính nay chủ yếu đi xẻ cây, có tám con, năm đứa đi học , trường xa 4-5 km có đất mì 4 ha, đất lúa 1 ha , nuôi 5 bò và một số gà vịt. Nhà chở nước uống xa đến 5 km.

Hộ ông Seng San trồng 4 ha sắn KM98-5 và KM94 làm thuê cho ông Kim Ren ở Snua, đầu tư giống mới, xịt phân bón qua lá, chưa dùng phân chuống và NPK.

Sắn KM94 trồng luống từ cuối tháng 10 nay sinh trưởng khá tốt, nếu bón phân đúng cách và sạch cỏ có thể đạt trên 30 tấn củ tươi/ha do đất mới khai phá còn giàu dinh dưỡng.

Cây giống sắn KM94 bảo quản tự nhiên gần rẫy từ tháng 11 để trồng lại đầu tháng 5 năm sau. (Ở Kampong Cham, Karatie và Mondulkiri những vùng trồng sắn chính của Căm pu chia cũng có hai vụ chính trồng sắn tương tự như Tây Ninh và Bình Phước của Việt Nam).

Tiềm năng phát triển sắn thật lớn từ Kam Pong Cham đến Karatia đến Sen Monorom. Giống chủ lực nay là KM94, KM419, KM98-5, KM325 những giống sắn tốt từ Việt Nam. Lòng chúng tôi xúc động tự hào vì cống hiến của các nhà khoa học Việt Nam qua hệ thống doanh nhân của hai nước đã làm giàu cho nhiều người dân và góp phần mang lại thịnh vượng chung cho cộng đồng Việt Miên Lào.

Anh Phạm Anh Tuấn (Tổng Giám đốc Công ty TNHH Nhiên liệu Sinh học Phương Đông, cô Nguyễn Thị Mỵ, Tổng Giám đốc HAMICO đều tâm đắc với sự đánh giá và trao đổi của tôi: “Tiềm năng hợp tác nghiên cứu phát triển sắn Việt Nam – Căm pu-chia là rất to lớn, Điều này không chỉ đối với cây sắn mà với tất cả các lĩnh vực hợp tác về chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội, nông lâm ngư nghiệp, điện, du lịch và thương mại, đời sống dân sinh cũng đều như vậy. Nhưng không được ăn vào tiềm năng. Hãy nghĩ đến một sự hợp tác thân thiện, bền vững,  khai mở được tiềm năng to lớn của hai dân tộc để cùng có lợi, cùng phát triển …

Tôi đã có ít nhất tám lần đến Angkor, nhưng lần nào cũng chỉ kịp lưu lại một ít hình ảnh và ghi chép ngắn mà chưa kịp biên tập. Đất nước Angkor, nụ cười suy ngẫm Thăm quần thể kiến trúc Angkor, bơi thuyền trên Biển Hồ và đi dạo ban mai ở Phnôm Pênh, nơi hợp lưu của sông Mekong và sông Tonlé Sap là ba việc thú vị nếu bạn chỉ có thời gian ngắn du lịch Campuchia.

Bạn nếu sang làm việc dài ngày thì nên dành thì giờ tìm hiểu sự chuyển biến kinh tế, xã hội, môi trường dọc theo biên giới Việt Miên Lào hoặc xuôi dòng Mekong bạn sẽ có rất nhiều điều kỳ thú. Lúa Cămpuchia đoạt chất lượng gạo ngon cao giá nhất hiện nay.Cây sắn Cămpuchia chuyển đổi sản lượng từ bốn triệu tấn năm 2010 tăng gấp đôi lên tám triệu tấn năm 2013, và vượt sản lượng năng suất Việt Nam từ năm 2016  chỉ sau sáu năm. Tôi không ngạc nhiên vì biết rõ những gì đã xảy ra và vì sao như vậy, nhưng thật khó lý giải. Nhiều năm giúp bạn trồng lúa sắn, đi trên đất nước Angkor, tôi hiểu mình đang đối thoại với một nền văn hóa lớn. Angkor nụ cười suy ngẫm. Lúa sắn Angkor.

Đền Banteay Srei thờ thần Shiva được thánh hóa ngày 22 tháng 4 năm 967 tại khu vực Angkor thuộc Campuchia ngày nay. Ngày huyền thoại này gợi cho tôi trở về ký ức lúa sắn Angkor.

Đền Banteay Srei thờ nữ thần Thánh Mẫu Shiva tại tọa độ 13,59 độ vĩ bắc,103,96 độ kinh đông, nằm gần đồi Phnom Dei, cách 25 km về phía đông bắc của nhóm các đền  Angkor Thom của các kinh đô cổ đại .Đền Thành Mẫu Banteay Srei gợi sự đồng văn với Đạo Mẫu Việt Nam trong tư duy triết học Phương Đông của dịch lý truyền nhân mà người chồng nếu bị hủy diệt thì người vợ chính là nguồn gốc để truyền nhân, “còn da lông mọc, còn chồi nãy cây” vì người Mẹ là gốc sinh tồn của muôn loài, mà có dịp tôi sẽ bàn sâu hơn với bạn trong một chuyên khảo khác.


Shiva là là một vị thần quan trọng của Ấn Độ giáo một trong năm hình thức nguyên sơ của Thượng đế. Shiva là hiện thân của sáng tạo và sự khởi đầu cái mới, đại diện cho sự hủy diệt cái cũ để phát triển. Shiva hợp chung cùng Trimurti, Vishnu  thành ba vị thần sáng tạo, bảo quản và tiêu hủy. Shiva được xem như vô hạn, siêu việt, bất biến và vô tướng vô hình vừa nhân từ vừa kinh sợ,  được mô tả như là một vị thần toàn trí, bảo trợ của yoga và nghệ thuật. Shiva sống khổ hạnh trên núi Kailash với vợ và hai con nhưng ở khía cạnh kinh sợ, Shiva thường được mô tả như một ác thần hay chém giết.  Shiva có các biểu tượng chính là có con mắt thứ ba trên trán, con rắn Vasuki quanh cổ, trăng lưỡi liềm trang hoàng, sông thánh Ganga (Sông Hằng) chảy từ mái tóc rối bù của mình, với vũ khí là đinh ba (Trishula) và nhạc cụ là một loại trống lắc (damaru). Thần Shiva thường được thờ cúng dưới hình thức Shiva linga. Trong các ảnh tượng, thần được thể hiện trong trạng thái thiền định sâu hoặc đang múa điệu Tandava trên Maya.

Đền Banteay Srei là viên ngọc quý của nghệ thuật Khme được xây chủ yếu bằng đá sa thạch đỏ và chất pha màu đặc biệt được lưu dấu trên các bức điêu khắc trang trí tỉ mỉ trên tường đạt hình thức cực kỳ tinh xảo của tiêu chuẩn đặc biệt cao của các công trình Angkor cho ngôi đền đặc biệt nổi tiếng.Ngôi đền là là bức tranh tuyệt tác về nghệ thuật điêu khắc trên đá ong và sa thạch đỏ. Bản thân ngôi đền được xem là tuyệt đỉnh của nghệ thuật trên đá với những bức phù điêu hoa văn tinh tế và đặc biệt khéo léo đến từng chi tiết nhỏ. Ngôi đền ban đầu thờ thần Shiva, trong khi đó ngôi đền phía Bắc lại thờ thần Vishnu, với nhiều bí mật lâu đài cổ, và các câu chuyện cổ xưa cần được khám phá. Tôi đến đây đã mấy lần nhưng nhiều sâu sắc vẫn chưa thấu tỏ.

Lúa Angkor, sắn Angkor và Du lịch sinh thái là ba ấn tượng yêu thích nhất về đất nước Angkor;. xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/lua-san-campuchia-va-lao/

Đi xa để lại nghĩ về gần
Nguyên Ngọc

DẠY VÀ HOC. Sáng sớm ở Luang Prabang của nước Lào, khoảng từ 5h, không gì hay bằng ra đường và ngắm các nhà sư đi khất thực…Lạ thay là một dân tộc, là những con người, suốt đời, suốt ngày nào cũng vậy, mỗi buổi sáng lại dậy thật sớm, dọn mình thật thanh khiết rồi ra ngồi lặng lẽ và cung kính bên đường để chờ làm công việc hẳn là tự nguyện nhất trong những công việc ở đời. Mở đầu một ngày sống như vậy thì thật khó làm điều ác trong ngày. Và một chút nhận xét nữa: ở đây người ta sống chậm. Không quan tâm, không ham hố tốc độ.Xem tiếp >>

  Dạy và học 2 tháng 12(02-12-2021)


DẠY VÀ HỌC 2 THÁNG 12
Hoàng Kim
CNM365 Tình yêu cuộc sốngSự chậm rãi minh triết; Ma Văn Kháng trong tôi; Lào hoa trắng nắng Mekong; Đồng xuân lưu dấu hiền; Đào Duy Từ còn mãi; Chuyện đồng dao cho em; Tìm về đức Nhân Tông; Về với vùng cát đá; Đại Lãnh nhạn quay về; Nhà Trần trong sử Việt; Thầy tôi sao sáng giữa trời; Sông Kỳ Lộ Phú Yên; Ngày 2 tháng 12 năm 1845, Nam Kỳ chính thức thuộc Việt Nam sau khi kết thúc chiến tranh Việt Xiêm và hòa ước quốc tế được ký: Campuchia chịu bảo hộ của Việt Nam lẫn Thái Lan. Chiến tranh Việt Xiêm (1841-1845) là cuộc chiến giữa nước Xiêm La dưới thời Rama III và Đại Nam thời Thiệu Trị, diễn ra trên lãnh thổ Campuchia vùng phía Đông Nam Biển Hồ và Nam Kỳ Nam Bộ Việt Nam. Cuộc chiến được chia làm 2 phần chính diễn ra chủ yếu vào các năm 1842 và 1845. Phần đầu cuộc chiến xảy ra năm Nhâm Dần (1842) bao gồm nhiều trận lớn nhỏ, phần lớn đã xảy ra ở Kiên Giang và An Giang thuộc miền Nam Việt Nam. Theo Bản Triều Bạn Nghịch Liệt Truyện thì đây là cuộc chiến tranh giữ nước quan trọng của người Việt, phải huy động đến năm ngàn quân và súng lớn do những tướng giỏi chỉ huy. Hòa ước quốc tế giữa ba quốc gia, đại diện cho Đại Nam là Nguyễn Tri Phương và Doãn Uẩn, đại diện Cao Miên là vua Ang Duong, đại diện Xiêm La là Chao Phraya Bodin Decha. Hòa ước quy định phần lãnh thổ Nam Kỳ Lục tỉnh chính thức thuộc chủ quyền Việt Nam, và Campuchia chịu sự bảo hộ song phương của cả Việt Nam lẫn Thái Lan. Sự bảo hộ song phương Việt Nam và Thái Lan lên Campuchia chấm dứt, đối với Việt Nam khi Pháp bắt đầu xâm chiếm Việt Nam từ các tỉnh Nam Kỳ năm 1862-1867 và chính thức trong Hòa ước Giáp Tuất năm 1874, đối với Thái Lan khi Pháp ký hiệp ước bảo hộ Campuchia năm 1863. Ngày 2 tháng 12 năm 1975, Pathet Lào chiếm được thủ đô Viêng Chăn, Quốc vương Savang Vatthana thoái vị, Vương quốc Lào chấm dứt tồn tại, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào ra đời. Quốc khánh Lào. Ngày 2 tháng 12 năm 1953 là ngày mất của Trần Trọng Kim, học giả và chính trị gia người Việt Nam (sinh năm 1883). Trần Trọng Kim là một học giả danh tiếng, nhà giáo dục, nhà nghiên cứu sử học, văn học, tôn giáo Việt Nam, bút hiệu Lệ Thần, thủ tướng của Đế quốc Việt Nam (1945) và là thủ tướng đầu tiên của Việt Nam. Ông là tác giả của tác phẩm Việt Nam sử lược. Trần Trọng Kim là một nhân vật quan trọng mà nhiều vấn đề lịch sử Việt Nam hiện đại nếu không nghiên cứu kỹ về ông thì không thể hiểu rõ. Ngày 2 tháng 12 năm 1804 là lễ đăng quang của Napoléon Bonaparte làm hoàng đế Pháp tại Nhà thờ Đức Bà Paris; Bài chọn lọc ngày 2 tháng 12: Sự chậm rãi minh triết; Ma Văn Kháng trong tôi; Lào hoa trắng nắng Mekong; Đồng xuân lưu dấu hiền; Đào Duy Từ còn mãi; Chuyện đồng dao cho em; Tìm về đức Nhân Tông; Về với vùng cát đá; Đại Lãnh nhạn quay về; Nhà Trần trong sử Việt; Thầy tôi sao sáng giữa trời; Sông Kỳ Lộ Phú Yên; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-2-thang-12/

SỰ CHẬM RÃI MINH TRIẾT
Hoàng Kim


Chậm rãi học cô đọng
Giản dị văn là người
Lời ngắn mà gợi nhiều
Nói ít nhưng ngân vang .

Đi bộ trong đêm thiêng
Sự chậm rãi minh triết
Tỉnh thức cùng tháng năm
Việt Nam con đường xanh

Cây Lương thực Việt Nam
Ngày mới Ngọc cho đời
Tháng mười hai thong thả
Lặng ngắm nhìn đường xuân

Vườn xưa lại tuyết sương
Vui đi dưới mặt trời

xem tiếp 7 đường dẫn tại
http://hoangkimlong.wordpress.com/category/su-cham-rai-minh-triet/

TỈNH THỨC
Hoàng Kim

thiên hà trong vắt khuya
chuyển mùa
tự nhiên tỉnh
ta ngắm trời ngắm biển
chòm sao em
vầng sáng anh
dưới vòm trời lấp lánh
khoảnh khắc thời gian
thăm thẳm
một tầm nhìn.

VIỆT NAM CON ĐƯỜNG XANH
Vietnam Green Road
Hoàng
Kim

Dạy học nghề làm vườn
Suy tư sông Dương Tử
Trung Quốc một suy ngẫm
Việt Nam con đường xanh


https://hoangkimlong.wordpress.com/category/viet-nam-con-duong-xanh/

CÂY LƯƠNG THỰC VIỆT NAM
Hoàng Kim, Hoàng Long (chủ biên) và đồng sự
http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlong

Bài viết mới (đọc thêm, ngoài giáo trình, bài giảng)

CÂY LƯƠNG THỰC VIỆT NAM

Cây Lương thực Việt Nam#CLTVN chủ yếu có lúa ngô, sắn, khoai. Ẩm thực Việt, nguồn thức ăn đồ uống Việt (Food & Drink) bao gồm gạo ngô, sắn, khoai, cây đậu đỗ thực phẩm, rau hoa quả, thịt, cá, … Dạy và học cây lương thực ngày nay ngày càng đòi hỏi sự hiểu biết chuyên sâu và có sự kết nối liên ngành, nâng cao sự liên kết hiệu quả sản xuất chế biến cung ứng tiêu thụ sản phẩm thành chuỗi giá trị ngành hàng. Mục tiêu nhằm.nâng cao giá trị chất lượng cuộc sống của người dân, tỏa sáng Việt Nam đất nước con người ra Thế giới về giống cây lương thực Việt, thương hiệu Việt, hiệu sách Việt, sinh thái nông nghiệp, ẩm thực, ngôn ngữ, lịch sử văn hóa Việt Nam.

Một số sản phẩm Cây Lương thực Việt Nam thương hiệu Nông Lâm được nghiên cứu phát triển, trồng phổ biến trong sản xuất những năm qua, là lời biết ơn chân thành của các tác giả với Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh nhân kỷ niệm 65 năm ngày thành lập (19/11/1955-19/11/2020), Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Việt Nam đường tới IAS 100 năm (1925-2025) với thầy bạn và đông đảo nông dân. Bài viết này giới thiệu một số đúc kết tư liệu liên quan.dạy và học Cây Lương thực Việt Nam giúp bạn đọc tiện theo dõi. Cây Lương thực Việt Nam#CLTVN

#CLTVN

CHUYỂN ĐỔI SỐ NÔNG NGHIỆP
Tin nổi bật quan tâmBảo tồn và phát triển sắnGiống sắn chủ lực KM419https://www.facebook.com/TrucMa…/posts/5134183749930863…

Trúc Mai cùng với Van Quyen Mai29 người khác. 2 giờ  Thông tin ngày 18/11/2021: “Với mong muốn góp phần phát triển cây sắn bền vững, bảo vệ kết quả sản xuất người trồng sắn, hiện nay Trúc Mai đang thực hiện chuyển giao số lượng lớn giống sắn KM419 (còn gọi là Siêu bột, Cút lùn, Tai đỏ) và KM94 và hỗ trợ kỹ thuật MIỄN PHÍ. Quy cách giống: 20 cây/bó; độ dài tối thiểu 1,2m/cây, cây giống khỏe, HOÀN TOÀN SẠCH BỆNH (có thể giữ lá cây giống để kiểm tra bệnh khảm + các loại sâu bệnh khác).Địa điểm nhận giống: huyện Đồng Xuân, Phú Yên.Liên hệ Ts sắn TRÚC MAI: 0979872618. Đừng ngại thời tiết và giới tính 😊❤.Giống sắn KM419 cây thấp gọn, dễ trồng dày, thân xanh thẳng, nhặt mắt, không phân cành, lá già xanh đậm, đọt non màu xanh, cọng xanh tím, số củ 8-12, củ to và đồng đều, dạng củ đẹp, thịt củ màu trắng, chịu hạn tốt.” Thông tin tích hợp tại #CLTVN xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/cltvn/

HK20

#CLTVN

 

HOÀNG LONG DẠY VÀ HỌC
Cây Lương thực Việt Nam
E-Learning VNUHCM
https://elearning-vnuhcm.vn/course/view.php?id=63;
E_Learning NLU
Trường tôi nôi yêu thươnghttps://youtu.be/bsZo5e779EA
https://el.hcmuaf.edu.vn/mod/page/view.php?id=4250&forceview=1https://hoangkimvn.wordpress.com/2021/10/9/hoang-long-day-va-hoc/ https://hoangkimlong.wordpress.com/category/cay-luong-thuc-viet-nam/

Bảo tồn và phát triển sắn
Cách mạng sắn Việt Nam
Chọn giống sắn Việt Nam
Chọn giống sắn kháng CMD
Bạch Mai sắn Tây Nguyên
Giống sắn KM419 và KM440
Mười kỹ thuật thâm canh sắn
Sắn Việt bảo tồn phát triển
Sắn Việt Nam ngày nay
Vietnamese cassava today
Sắn Việt Lúa Siêu Xanh
Sắn Việt Nam bài học quý
Sắn Việt Nam sách chọn
Sắn Việt Nam và Howeler
Sắn Việt Nam và Kawano
Sắn Việt và Sắn Thái
Quản lý bền vững sắn châu Á
Cassava and Vietnam: Now and Then

Lúa siêu xanh Việt Nam
Giống lúa siêu xanh GSR65
Giống lúa siêu xanh GSR90
Gạo Việt và thương hiệu
Hồ Quang Cua gạo ST
Cơm Niêu Vàng Gạo Đông A
Con đường lúa gạo Việt
Chuyện cô Trâm lúa lai
Chuyện thầy Hoan lúa lai
Lúa C4 và lúa cao cây
Lúa sắn Cămpuchia và Lào
Lúa sắn Việt Châu Phi
Lúa Việt tới Châu Mỹ

Giống ngô lai VN 25-99
Giống lạc HL25 Việt Ấn

Giống khoai lang Việt Nam
Giống khoai lang HL518
Giống khoai lang HL491
Giống khoai Hoàng Long
Giống khoai lang HL4
Giống khoai Bí Đà Lạt

Việt Nam con đường xanh
Việt Nam tổ quốc tôi
Vườn Quốc gia Việt Nam
Nông nghiệp công nghệ cao
Nông nghiệp sinh thái Việt
Nông nghiệp Việt trăm năm
IAS đường tới trăm năm
Viện Lúa Sao Thần Nông
Hoàng Thành đến Trúc Lâm
Ngày Hạnh Phúc của em
Có một ngày như thế

Thầy bạn là lộc xuân
Thầy bạn trong đời tôi
Sóc Trăng Lương Định Của
Thầy Quyền thâm canh lúa
Borlaug và Hemingway
Thầy Luật lúa OMCS OM
Thầy Tuấn kinh tế hộ
Thầy Tuấn trong lòng tôi
Thầy Vũ trong lòng tôi
Thầy lúa xuân Việt Nam
Thầy Ngoạn Hồ Núi Cốc
Thầy bạn Vĩ Dạ xưa
Thầy Dương Thanh Liêm
Thầy Hiếu Đêm Giáng Sinh
Phạm Trung Nghĩa Viện Lúa
Phạm Quang Khánh Hoa Đất
Phạm Văn Bên Cỏ May

24 tiết khí nông lịch
Nông lịch tiết Lập Xuân
Nông lịch tiết Vũ Thủy
Nông lịch tiết Kinh Trập
Nông lịch tiết Xuân Phân
Nông lịch tiết Thanh Minh
Nông lịch tiết Cốc vũ
Nông lịch tiết Lập Hạ
Nông lịch tiết Tiểu Mãn
Nông lịch tiết Mang Chủng
Nông lịch tiết Hạ Chí
Nông lịch tiết Tiểu Thử
Nông lịch tiết Đại Thử
Nông lịch tiết Lập Thu
Nông lịch Tiết Xử Thử
Nông lịch tiết Bạch Lộ
Nông lịch tiết Thu Phân
Nông lịch tiết Hàn Lộ
Nông lịch tiết Sương Giáng
Nông lịch tiết Lập Đông
Nông lịch tiết Tiểu tuyết
Nông lịch tiết Đại tuyết
Nông lịch tiết giữa Đông
Nông lịch Tiết Tiểu Hàn
Nông lịch tiết Đại Hàn

Food Crops Ngọc Phương Nam
Nhà sách Hoàng Gia

Video Cây Lương thực chọn lọc :

Cây Lương thực Việt Nam Chuyển đổi số nông nghiệp, Học không bao giờ muộnCách mạng sắn Việt Namhttps://youtu.be/81aJ5-cGp28; Mười kỹ thuật thâm canh sắn : Cassava in Vietnam Save and Grow 1Daklak; Cassava in Vietnam: Save and Grow 2Daklak; Cassava in Vietnam: Save and Grow 3Daklak; Giống sắn KM410 và KM440 ở Phú Yên https://youtu.be/XDM6i8vLHcI; Giống sắn KM419, KM440 ở Đăk Lăk https://youtu.be/EVz0lIJv2N4; Giống sắn KM419, KM440 ở Tây Ninh https://youtu.be/XMHEa-KewEk; Xem tiếp >>

  Dạy và học 1 tháng 12(01-12-2021)

 

 

 

DẠY VÀ HỌC 1 THÁNG 12
Hoàng Kim
CNM365 Tình yêu cuộc sốngTìm về đức Nhân Tông; Chuyện đồng dao cho em; Đêm Yên Tử; Về với vùng cát đá; Đại Lãnh nhạn quay về; Nhà Trần trong sử Việt; Thầy tôi sao sáng giữa trời; Sông Kỳ Lộ Phú Yên; Đồng xuân lưu dấu hiền; Ngày 1 tháng 12 năm 1370 nhằm ngày 13 tháng 11 âm lịch, Trần Nghệ Tông (Trần Phủ) lên ngôi hoàng đế. Ông là vị vua hiền ôn hòa nhưng thiếu minh mẫn trong dùng người. Nhà Trần trượt dốc từ sau khi Trần Dụ Tông chết trân, thế suy vong đã không thể gượng dậy được nữa. Thời Nghệ Tông là giai đoạn biến loạn và nhiều mơ hồ trong sử Việt. Hồ Quý Ly chiếm ngôi vua. Nhà Trần trong sử Việt kéo dài 175 năm (1225- 1400) với 13 đời hoàng đế, lưu dấu nhiều bài học quý cho đời sau . Ngày 1 tháng 12 năm 1896, là ngày sinh của tướng Nga Georgi Zhukov, (mất năm 1974) người xếp đầu bảng trong các tướng lĩnh nổi danhnhất thế giới ở Chiến tranh thế giới thứ hai. Ngày 1 tháng 12 năm 1886 là ngày sinh Chu Đức (mất năm 1976), là danh tướng lỗi lạc của Trung Quốc, người trọn đời không tách rời Mao Trạch Đông, trở thành huyền thoại quân sự Chu Mao của Trung Hoa và Thế giới. Năm 1 tháng 12 năm 1973 ngày Tân Ghi Niê (Papua New Guinea) giành được quyền tự chủ từ Úc. Tân Ghi Niê là quốc gia ở nằm vào phía Tây Nam Thái Bình Dương của châu Đại Dương, gồm phía Đông của đảo Tân Ghi-Niê và nhiều đảo xa bờ biển. Thủ đô là Port Moresby, Papua New Guinea có khoảng 5 triệu dân, là một trong những nước nông thôn nhất, nhiều dân tộc nhất với hơn 850 ngôn ngữ thổ dân và ít được thám hiểm nhất trên thế giới, không chỉ về địa lý mà còn về văn hóa, và nhiều loài động thực vật quý hiếm. Ngày 1 tháng 12 năm 2018 là ngày mất của thầy Dương Thanh Liêm, nguyên hiệu trưởng Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh Bài chọn lọc ngày 1 tháng 12: Tìm về đức Nhân Tông; Chuyện đồng dao cho em; Đêm Yên Tử; Về với vùng cát đá; Đại Lãnh nhạn quay về; Nhà Trần trong sử Việt; Thầy tôi sao sáng giữa trời; Sông Kỳ Lộ Phú Yên;; Đồng xuân lưu dấu hiền; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/https://hoangkimvn.wordpress.com; http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-1-thang-12/;

TÌM VỀ ĐỨC NHÂN TÔNG
“Kinh Dịch xem chơi, yêu tính sáng yêu hơn châu báu.
Sách Nhàn đọc giấu, trọng lòng rồi trọng nữa hoàng kim…”
(Trần Nhân Tông 1258-1308) …
Hoàng Kim

Người ơi con đến đây tìm
Non thiêng Yên Tử như tranh họa đồ
Núi cao trùng điệp nhấp nhô
Đất trời bảng lãng chuông chùa Hoa Yên

Thầy còn dạo bước cõi tiên
Con ươm mầm sống xanh thêm ruộng vườn
Mang cây lộc trúc về Nam
Ken dày phên giậu ở miền xa xôi

Cư trần lạc đạo, Người ơi
Tùy duyên vui đạo sống đời thung dung
Hành trang Thượng sĩ Tuệ Trung
Kỳ Lân thiền viện cành vươn ra ngoài

An Kỳ Sinh trấn giữa trời
Thơ Thiền lưu dấu muôn đời nước non

 

 

NGUYÊN SOÁI G.K. ZHUKOV
Từ anh hùng huyền thoại đến người vô hình

Nguyễn Tử Siêm, FB 30 tháng 6 , 2021, lúc 04:42

Nếu ai qua Moskva, đều có thể thấy Zhukov được coi là người anh hùng lớn nhất nước Nga trong mọi thời đại. Hơn cả Kutuzov (người đã đánh bại Napoleon nhưng đã đốt Moskva), Zhukov đã thắng Nhật tại Khalgin-Gol năm 1939 (lần đầu tiên Nhật thua Nga trong lịch sử); cứu Moskva năm 1941 (lúc đó Đức chỉ còn cách 30Km); đã thắng Stalingrad năm 1943; thắng trận Kursk năm 1943 (trận chiến thiết giáp lớn nhất trong lịch sử loài người) và thắng trận Berlin năm 1945 dẫn đến kết thúc CTTG II. Ông là sỹ quan duy nhất được 4 lần huân chương anh hùng LX. Tuy với công trạng như vây, nhưng sau chiến tranh, Zhukov có một cuộc đời bi kịch.

Từ năm 1946 đến năm 1953, ông về làm tư lệnh các vùng miền núi. Đây là một cách mà Stalin hạ bệ ông sau một loạt các “tố cáo” bịa đặt lạm quyền từ các tướng lĩnh (trong tố cáo có cả vụ mang hai toa xe lửa đồ chiến lợi phẩm chiến tranh về làm của riêng).

Sau khi Stalin chết, từ năm 1953 đến 1957, ông là bộ trưởng bộ quốc phòng LX (Zhukov phe bồ câu trong vụ khởi nghĩa Budapest năm 1956…) và là người đã cứu phe Khrushchev (tổng bí thư) khỏi một vụ đảo chính năm 1957.

Tuy nhiên, để “cảm ơn” ông, Khrushchev hạ bệ Zhukov lần nữa năm 1957 và cho ông vào danh sách người “vô hình” Liên Xô. Từ 1957 đến năm 1963, tên ông còn không được nhắc đến mỗi lần kỷ niệm chiến thắng. Ông bị tước hết chức danh, quân hàm và bị cấm không được mặc quân phục. Với một quân nhân, còn gì nhục hơn.

Từ năm 1963 đến năm 1974, năm ông chết, Zhukov được phục hồi phần nào chức danh và quân hàm dưới thời Brejnev. LX lâm vào cảnh kinh tế yếu kém, thua Mỹ nhiều mặt (thua lớn nhất là vụ lên mặt trăng..) nên Brejnev cần lôi ra hình ảnh người sỹ quan cộng sản anh hùng và vĩ đại Zhukov để kích động lòng yêu nước và kêu gọi đoàn kết. Tuy nhiên, Zhukov vẫn nằm trong danh sách bị quản thúc.

Quyển sách “Hồi tưởng và Suy nghĩ” – nhật ký cuộc đời của ông mãi mới được duyệt, sau khi phải bổ sung một chi tiết nhỏ trong trận Stalingrad: “Zhukov, trước khi triển khai kế hoạch tấn công, đã bàn với Brejnev và Brejnev đã giúp ông chỉnh sửa kế hoạch, nhờ đó thành đại thắng”. Hài hước là lúc đó, Leonid Brejnev mới là đại tá chính ủy 1 sư đoàn, còn Zhukov là nguyên soái phó tổng tư lệnh toàn bộ Hồng Quân…

Zhukov thực sự được vinh danh sau khi ông chết năm 1974. Tượng của ông ở ngay đường vào quảng trường đỏ. Ông là một trong số hiếm hoi người được vinh danh cả ở phía NATO: theo sách của trường quân sự WestPoint (Mỹ), Zhukov là một trong những vị tướng chỉ huy lớn nhất trong mọi thời đại.

Ông vẫn sống trong lòng người:

+ Năm 1974, Zhukov từ trần. Joseph Brodsky, là người Do thái Nga bất đồng chính kiến và bị đuổi khỏi LX, nhận Giải Nobel văn học, đã viết một bài thơ ca ngợi Zhukov. Khi người ta hỏi ông tại sao ca ngợi một tướng cộng sản và cánh tay của Stalin, ông trả lời: chúng ta còn sống tới hôm nay nhờ vào Zukov.

+ Năm 1999, trong một cuộc biểu diễn kỷ niệm chiến thắng tại Moskva, khi được thông báo là trong số người nghe có con gái của nguyên soái Zhukov, tất cả đã tự động đứng lên vỗ tay, kể cả các nhạc sỹ trên sân khấu…

Ảnh: Nguyên soái G. Zhukov (ngựa trắng, vinh quang tột đỉnh) dẫn đầu cuộc duỵệt binh mừng chiến thắng.Nguồn: Trích từ “Stalingrad”. David Glantz. (theo Hoài niệm Liên Xô)

 

 

CHUYỆN ĐỒNG DAO CHO EM
Hoàng Kim


Đồng dao là chuyện tháng năm
Lời ru của mẹ
Trăng rằm thảnh thơi
Biết tìm bạn quý mà chơi
Học ăn học nói làm người siêng năng

Hiểu nhàn biết đủ thời an
Thung dung minh triết thanh nhàn thảnh thơi
Người sung sướng biết sống vui
Những người hiếu hạnh được đời yêu thương.

 

 

Việc chính là học làm người
Khắc sâu nhân nghĩa nhớ đời đừng quên
Hiếu trung phải học đầu tiên
Đừng tham tưởng bở mà quên ân tình.

Đừng tưởng cứ đẹp là tiên
Cứ trên là sáng cứ tiền là xong
Đừng tưởng không nói là câm
Không nghe tưởng điếc không trông tưởng mù

Đừng tưởng cứ trọc là sư
Cứ vâng là chịu cứ ừ là ngoan
Đừng tưởng có của là sang
Cứ im lặng tưởng là vàng nguyên cây.

Đừng tưởng cứ uống là say
Tai trâu đàn gẩy lời hay ham bàn
Đừng tưởng giàu hết gian tham
Không thời chẳng vận lạm bàn chuyện dân

Đừng tưởng cứ mới là tân
Cứ hứa là chắc cứ ân là tình
Đừng tưởng cứ thấp là khinh
Cứ chùa là tĩnh cứ đình là to.

Đừng tưởng già hết hồ đồ
Cứ trẻ là chẳng âu lo buồn phiền
Đừng tưởng cứ quyết là nên
Cứ mạnh là thắng cứ mềm là thua.

Đừng tưởng đã dấm là chua
Sấm rền là sẽ có mưa ngập trời
Đừng tưởng vui chỉ có cười
Buồn thì ủ rũ chỉ ngồi khóc than

Đừng tưởng cứ lớn là khôn
Cứ bé là dại cứ hôn là chồng
Đừng tưởng bịa có thành không
Nhìn gà hóa cuốc lẫn ông với thằng

Lúc vui tham bát bỏ mâm
Đến khi hoạn nạn tần mần bỏ đi
Đừng tưởng không nhất thì nhì
Phò thịnh sung sướng giúp suy nghèo hèn

Gặp trăng thì vội quên đèn
Hám tiền quên nghĩa đỏ đen lạc đường
Đừng tưởng giàu hết cô đơn
Cao sang hết ốm gian tham hết nghèo.

Đừng tưởng cứ núi là cao
Cứ sông là chảy, cứ ao là tù
Đừng tưởng cứ dưới là ngu
Tham giành là được thấy tu tưởng hiền.

Đừng tưởng cứ thấp là hèn
Cứ sang là trọng cứ tiền là xong
Đừng tưởng quan chức là rồng
Dân thường thấp cổ thì không biết gì.

 

 

Đời người lúc thịnh lúc suy
Lúc khỏe lúc yếu lúc đi lúc dừng
Đắng cay chua ngọt đã từng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau.

Ở đời nhân nghĩa làm đầu
Thủy chung sau trước tình sâu nghĩa bền
Học làm người việc đầu tiên
Hiếu trung phúc hậu đừng quên nối vần

“Lênh đênh qua cửa Thần Phù
Khéo tu thì nổi , vụng tu thì chìm”
“Người trồng cây hạnh mà chơi
Ta trồng cây đức để đời mai sau”
.

 

 

ĐÊM YÊN TỬ
Hoàng Kim


Nhà thơ Trần Đăng Khoa khuyến khích tôi viết về Đêm Yên Tử. Tôi cũng tự nhận thấy, đây là một trong những trãi nghiệm quý giá nhất đời mình nhưng mãi đến nay mới tỉnh thức được đôi điều. Hôm trước tôi đã phác thảo bài này trong “Sách Nhàn đọc dấu câu có câu không” và phác thảo Đêm Yên Tử trên facebook Notes. Nay nhân đọc “Gai và Hoa” (1) của Thu Nguyệt và họa vần “Dịu dàng hoa cỏ” (
Thu Nguyệt VN) , một tấm lòng nhân hậu và cây bút vàng rất được yêu thích một thời ở báo Tuổi trẻ và nay “tu tại tâm” làm những công việc mẫu mực thầm lặng hoa cỏ đời thường Tâm Minh giáo dưỡng trẻ thơ. Tôi xin chép về đây Đêm Yên Tử để trò chuyện cùng thầy bạn.

@Hoàng Kim Cám ơn bác đã yêu quý cậu Khoa. Nhưng chuyện đã qua lâu rồi, chúng ta hãy để cậu “yên giấc ngàn thư”, vì cu cậu cũng đã xong phận sự. Tôi chỉ tò mò, sao bác lên Yên Tử giữa đêm? Bác lại có nhiều vốn liếng về Yên Tử và Trần Nhân Tông, giá bác làm thơ hay viết bút ký, tùy bút về Đêm Yên Tử thì hay biết mấy. Đặc biệt là không khí Yên Tử. Đã có nhiều bài thơ, ca khúc rất hay viết về vùng đất này. Thêm một tấm lòng và góc nhìn nữa của Hoàng Kim cũng sẽ làm cho Yên Tử phong phú thêm đấy. ( * Phản hồi từ:
TRẦN ĐĂNG KHOA [Bạn đọc] http://Blogtiengviet.net/Lão Khoa 30.09.11@07:28)

Cảm ơn Trần Đăng Khoa đã khuyến khích mình viết về Yên Tử. Hôm trước Bùi Anh Tấn, tác giả của cuốn sách Đàm đạo về Điếu Ngự Giác Hoàng (Trần Nhân Tông) 405 trang, được nhiều người yêu thích, cũng đã khuyến khích mình như ý của Khoa . Mình sẽ cố gắng và rất mong được sư góp ý thẩm định của các bạn.

ĐÊM YÊN TỬ NGHĨ VỀ CÔN SƠN

Tôi viết cảm nhận này trực tiếp trên trang mạng của Khoa . Ý nghĩ chảy nhanh ra đầu bút. Tôi đang đánh máy bài thơ Em kể chuyện này chưa kịp lưu thì cảm nhận của Khoa hiện ra: “@Hoang Kim. Cám ơn bác đã cho tôi những tư liệu rất hay về nhà thơ Xuân Diệu. Động tác và tính cách là rất chuẩn. Xuân Diệu đúng như vậy. Hy vọng dịp nào chúng ta gặp nhau. Chúc bác thành công trong sự nghiệp Dạy và Học”.

Hãy khoan, Khoa ơi để mình kể bạn nghe chuyện Đêm Yên Tử nghĩ về Côn Sơn nhé. Mình ám ảnh chuyện này quá. Chuyện này ví như: Sự ghi ơn người khai sinh chữ quốc ngữ; Nguyễn Du đâu chỉ đại thi hào; Hồ Chí Minh rất ít trích dẫn; Bác có nhầm lẫn kẻ phi thường; Qua đèo chợt gặp mai đầu suối, Tâm linh đọc lại và suy ngẫm … Đó đều là những bí ẩn lịch sử cần người minh triết để thấu hiểu để trao lại… Mình nếu như không viết được vào ô cảm nhận này, vào chính thời điểm này thì hình như ít người hiểu thấu. Đêm Côn Sơn của Khoa là đêm lạ lùng !

Đêm Yên Tử nghĩ về Côn Sơn là đêm thiêng kỳ lạ. “Tỉnh thức giữa đêm thiêng Yên Tử. Để thấm hiểu đức Nhân Tông. Ta thành tâm đi bộ . Lên tận đỉnh chùa Đồng. Tâm sáng Ức Trai trong tựa ngọc.” Hình như bí ần của Nhân Tông và Nguyễn Trãi đã mách Khoa ở Đêm Côn Sơn và đã gợi cho mình nhìn thấy một chút dấu hiệu nhận biết để mách cho Khoa và chính mình ghi lại. Thơ văn Lý Trần, Lê, Mạc, đặc biệt là các tác gia Trần Nhân Tông, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan, Đào Duy Từ, Nguyễn Du đều cần những chuyên luận kỹ.

Năm trước khi “Chân dung và đối thoại” vừa mới ra lò. Mình nhớ cái chi tiết của Khoa khi nói về Đêm Côn Sơn trong đó có bốn câu:

“Ngoài thềm rơi cái lá đa.
Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng.
Mờ mờ ông bụt ngồi nghiêm.
Nghĩ gì ông vẫn ngồi yên lưng đền”.

Khoa viết rằng Xuân Diệu khen Khoa nghe tinh, có giác quan tinh tế, và Xuân Diệu đã thay một chữ “nghĩ” cho chữ “sợ”mà ông Bụt hóa thành cơ thể sống, đã thành sự sống. Sự thẩm thơ tinh tưởng của Xuân Diệu là vậy. Ông chỉ thay đổi một chữ mà bài thơ biến đổi cả thần thái. Chữ “nghĩ “ này hay tương tự chữ “đi” trong câu thơ “Trái đất ba phần tư nước mắt/ Đi như giọt lệ giữa không trung” làm đổi thần thái câu thơ “Trôi như giọt lệ giữa không trung” mà Khoa đã bình luận. Mình muốn bình thêm cái ý “thần đồng” nghĩa là “tuổi nhi đồng mà làm được những điều như có thần mách bảo”. Khoa né tránh bình luận chuyện này và viết “bây giờ thì y đã già và dứt khoát không phải là kẻ đắc đạo, vậy mà y vẫn phải còng lưng , ý ạch vác cái cây thánh giá ở lứa tuổi trẻ con.” Thực ra, phải nhìn nhận rằng Khoa có những câu thơ rất quý và rất lạ , lúc trẻ con mà đã viết được những câu “thần đồng” như trên mà người lớn không thể viết nổi.

Mình đã có cảm giác thật kỳ lạ khi một mình lúc ba giờ khuya ngồi ở dưới chân Bụt Trần Nhân Tông nơi vòm đá hang cọp phía sau chùa Bảo Sái gần đỉnh chùa Đồng. Nơi đó và giờ đó là lúc Trần Nhân Tông mất. Người từ chùa Hoa Yên lúc nữa đêm đã nhờ Bảo Sái – một danh tướng cận vệ và đại đệ tử thân tín – cõng Người lên đây. Bảy trăm năm sau, giữa đêm thiêng Yên Tử, ngồi một mình trong đêm lạnh, đúng nơi và đúng vào khoảng ba giờ khuya lúc đức Nhân Tông mất, mình lắng nghe tiếng lá cây gạo trên 700 tuổi rơi rất mỏng lúc canh khuya. Bóng của Phật Nhân Tông mờ mờ ngồi nghiêm ngồi yên bình thản lưng đền. Lúc đó vụt hiện trong đầu mình bài kệ “Cư trần lạc đạo” của đức Nhân Tông và bài thơ Yên Tử “đề Yên Tử sơn, Hoa Yên Tự” của Nguyễn Trãi văng vẳng trong thinh không thăm thẳm vô cùng.

Bài thơ chiêu tuyết Nguyễn Trãi “đêm Côn Sơn” của Khoa chính hợp với sự kiện này. Tôi phục Khoa quá! Khoa ơi, hãy tin tôi đi. Những câu thơ thần đồng sức người không viết được. Khoa đã may mắn chạm được mạch tâm linh dân tộc, như tiếng đàn bầu ngân lên từ ruột trúc, mới viết được những câu thơ hay và lạ đến thế. Khoa ngẫm xem những câu thơ sau đây của Nguyễn Trãi tả Bình minh trên Yên Tử thật đúng là thần bút: “Non thiêng Yên Tử, đỉnh kỳ phong. Trời mới ban mai đã rạng hồng. Vũ trụ mắt soi ngoài biển cả. Nói cười lồng lộng giữa không trung.” Nguyễn Trãi viết thơ trên đỉnh Yên Tử lúc ban mai. Vậy Người leo núi từ khi nào? Đi từ hôm trước hay đi từ lúc nửa đêm như đức Nhân Tông? E chỉ có Yên Tử trả lời.

LÊN NON THIÊNG YÊN TỬ

Tỉnh thức giữa đêm thiêng Yên Tử
Để thấm hiểu đức Nhân Tông
Ta thành tâm đi bộ
Lên tận đỉnh chùa Đồng
Tâm sáng Ức Trai trong tựa ngọc

“Yên sơn sơn thượng tối cao phong
Tài ngũ canh sơ nhật chính hồng
Vũ trụ nhãn cùng thương hải ngoại
Tiếu đàm nhân tại bích vân trung
Ủng môn ngọc sóc sâm thiên mẫu
Quải ngọc châu lưu lạc bán không
Nhân miếu đương niên di tích tại
Bạch hào quang lý đổ trùng đồng” (1)

Non thiêng Yên Tử đỉnh kỳ phong
Trời mới ban mai đã rạng hồng
Vũ trụ mắt soi ngoài biển cả
Nói cười lồng lộng giữa không trung
Giáo ngọc quanh nhà giăng vạn khoảnh
Cỏ cây chen đá rũ tầng không
Nhân Tông bảo tháp còn lưu dấu
Mắt sáng hào quang tỏa ánh đồng. (2)

* Non thiêng Yên Tử
Nghìn năm Thăng Long, Đông Đô, Hà Nôi
Bảy trăm năm đức Nhân Tông
Non sông bao cảnh đổi
Kế sách một chữ Đồng
Lồng lộng gương trời buổi sớm
Trong ngần, thăm thẳm, mênh mông …

(1) Thơ Nguyễn Trải
(2) Bản dịch thơ
Hoàng Kim

Nửa đêm, ngày Mồng một tháng Mười một năm Mậu Thân (1308), sao sáng đầy trời, Trúc Lâm hỏi: “Bây giờ là mấy giờ?”. Bảo Sát thưa: “Giờ Tý”. Trúc Lâm đưa tay ra hiệu mở cửa sổ nhìn ra ngoài và nói: “Đến giờ ta đi rồi vậy”. Bảo Sát hỏi: “Tôn sư đi đâu bây giờ?”. Trúc Lâm nói: “Mọi pháp đều không sinh. Mọi pháp đều không diệt. Nếu hiểu được như thế. Chư Phật thường hiện tiền. Chẳng đi cũng chẳng lại”. ( trước đó) sách “Tam tổ thực lục”, bản dịch, Tư liệu Viện Khảo cổ học, ký hiệu D 687, trang 12 ghi: “Ngày 18 ngài lại đi bộ đến chùa Tú Lâm ở ngọn núi Kỳ Đặc, Ngài thấy rức đầu. Ngài gọi hai vị tì kheo là Tử Danh và Hoàn Trung lại bảo: ta muốn lên núi Ngoạ Vân mà chân không thể đi được thì phải làm thế nào? Hai vị tỳ kheo bạch rằng hai đệ tử chúng tôi có thể đỡ đại đức lên được. Khi lên đến núi, ngài cảm ơn hai vị tỷ kheo và bảo các ngươi xuống núi tu hành, đừng lấy sự sinh tử làm nhàm sự. Ngày 19 ngài sai thị giả Pháp Không lên am Tử Tiêu ở núi Yên Tử giục Bảo Sát đến ngay núi Ngoạ Vân….. Ngày 21, Bảo Sát đến núi Ngoạ Vân, Ngài thấy Bảo Sát đến mỉm cười nói rằng ta sắp đi đây, sao ngươi đến muộn thế?” Sách Đại Việt sử ký toàn thư, bản dịch, Nhà Xuất Bản Văn hoá Thông tin, 2004, trang 570 chép “Mùa đông tháng 11, … ngày mồng 3, thượng hoàng (Trần Nhân Tông) băng ở Am Ngoạ Vân Núi Yên Tử”.

TRÚC LÂM YÊN TỬ VÀ NGHÊ VIỆT

“Thầy còn dạo bước cõi tiên. Con ươm mầm sống xanh thêm ruộng vườn. Mang cây lộc trúc về Nam ken dày phên giậu ở miền xa xôi”. Tôi ngưỡng vọng đức Nhân Tông nên mang Trúc Lâm về trồng ở đất phương Nam và cảm khái viết bài thơ Ngọc phương Nam (Am Ngọa Vân) đối họa với Thuyền độc mộc.

Am Ngoạ Vân (hay Chùa Ngoạ Vân) nay thuộc thôn Tây Sơn, xã Bình Khê huyện Đông Triều, Quảng Ninh. Chùa nằm ở sườn Nam của ngọn núi cao thuộc dãy núi Yên Tử, núi có tên chữ là Bảo Đài Sơn hay núi Vảy Rồng hoặc Vây Rồng như cách gọi của nhân dân địa phương ngày nay. Chùa nằm ở độ cao khoảng 600m so với mặt nước biển. Đó là những kết quả, tư liệu và bằng chứng khoa học thu được qua quá trình điều tra, khảo sát của Nguyễn Vân Anh ở Viện Khảo cổ học, với tư cách là người trực tiếp tham gia cuộc điều tra nghiên cứu quần thể di tích Ngoạ Vân và Hồ Thiên, xã Bình Khê, Đông Triều Quảng Ninh.

Thuyền độc mộc, Ngọc phương Nam

Thuyền độc mộc
Trịnh Tuyên

Quên tên cây
làm thuyền
Tận cùng nỗi cô đơn-
độc mộc! Khoét hết ruột
Chỉ để một lần ngược thác
bất chấp đời
lênh đênh…

Ngọc phương Nam
Hoàng Kim

Hứng mật đời
thành thơ
Việc nghìn năm hữu lý
Trạng Trình Đến trúc lâm
Đạt năm việc lớn hoàng thành
Đất trời xanh
Yên Tử …

Vị Thiền sư Trúc Lâm Yên Tử hỏi và tôi trả lời: “- Người đi đâu tối qua? – Con trở về tự thân. – Người thấy gì đêm thiêng? – Con ngộ khi ngày mới. – Đêm Yên Tử là bài học lớn – Tình yêu cuộc sống thật kỳ diệu. Nghê Việt là rồng thiêng ẩn ngữ. Sách Nhàn đọc dấu lúc có lúc không”. YênTử là hình ảnh không lời. Trúc Lâm Yên Tử là tìm lại chính mình.

Đọc lại và suy ngẫm “Sách nhàn đọc dấu câu CÓ câu KHÔNG”. Thời nhà Tùy, sách vở chưa có dấu chấm câu. Bình thường vì không có dấu chấm nên một câu văn thường xuất hiện nhiều loại nghĩa khác nhau. Trịnh Ngôn Khánh đọc Luận Ngữ đành sắp xếp lại đặt dấu câu vào trong đó. “Soán Đường là sách mới của tác giả Canh Tân trên trang đọc truyện online. Sống trong thời loạn thế, thân thế khó bề phân biệt. Trong lòng ta không hướng tới phú quý nhưng không biết vì sao phú quý lại liên tục xuất hiện. Đây là một câu chuyện một người hiện đại xuyên Việt về Tùy Đường“. Hoàng Kim đọc chơi trang sách, chợt dưng lại nhớ về đời Trần và đức Nhân Tông “Đường Trần ta lại rong chơi. Vui thêm chút nữa, buồn thôi lại về“. “Sách nhàn đọc dấu câu CÓ câu KHÔNG”, “giấu” hay là “dấu” đây?

Hữu cú vô cú -有句無句- của Trần Nhân Tông
Nguyên văn chữ Hán phiên âm Hán Việt

有句無句,Hữu cú vô cú,
藤枯樹倒。Đằng khô thụ đảo.
幾個衲僧,Kỷ cá nạp tăng,
撞頭嗑腦。Chàng đầu hạp não,
有句無句,Hữu cú vô cú,
體露金風。Thể lộ kim phong.
兢伽沙數,Căng già sa số.
犯刃傷鋒。Phạm nhẫn thương phong.
有句無句,Hữu cú vô cú
立宗立旨。Lập tông lập chỉ.
打瓦鑽龜,Đả ngõa toàn quy,
登山涉水。Đăng sơn thiệp thủy.
有句無句,Hữu cú vô cú,
非有非無。Phi hữu phi vô.
刻舟求劍,Khắc chu cầu kiếm,
索驥按圖。Sách ký án đồ.
有句無句,Hữu cú vô cú,
互不回互。Hỗ bất hồi hỗ.
笠雪鞋花,Lạp tuyết hài hoa,
守株待兔。Thủ chu đãi thố.
有句無句,Hữu cú vô cú,
自古自今。Tự cổ tự kim.
執指忘月,Chấp chỉ vong nguyệt,
平地陸沉。Bình địa lục trầm.
有句無句,Hữu cú vô cú,
如是如是。Như thị như thị.
八字打開,Bát tự đả khai,
全無巴鼻。Toàn vô ba tị.
有句無句,Hữu cú vô cú,
顧左顧右。Cố tả cố hữu.
阿刺刺地,A thích thích địa,
鬧聒聒地。Náo quát quát địa.
有句無句,Hữu cú vô cú,
忉忉怛怛。Điêu điêu đát đát.
截斷葛藤,Tiệt đoạn cát đằng,
彼此快活。Bỉ thử khoái hoạt.
—-
DỊCH NGHĨA
Câu hữu câu vô,
Như cây đổ, dây leo héo khô.
Mấy gã thầy tăng,
Đập đầu mẻ trán.
Câu hữu câu vô,
Như thân thể lộ ra trước gió thu.
Vô số cát sông Hằng,
Phạm vào kiếm, bị thương vì mũi nhọn.
Câu hữu câu vô,
Lập công phái, ý chỉ.
Cũng là dùi rùa, đập ngói,
Trèo núi lội sông.
Câu hữu câu vô,
Chẳng phải hữu, chẳng phải vô,
Khác nào anh chàng khắc mạn thuyền mò gươm,
Theo tranh vẽ đi tìm ngựa ký.
Câu hữu câu vô,
Tác động qua lại với nhau.
Nón tuyết giày hoa,
Ôm gốc cây đợi thỏ.
Câu hữu câu vô,
Từ xưa đến nay,
Chỉ chấp ngón tay mà quên vầng trăng,
Thế là chết đuối trên đất bằng.
Câu hữu câu vô,
Như thế như thế!
Tám chữ mở ra rồi,
Hoàn toàn không còn điều gì lớn nữa.
Câu hữu câu vô,
Quay bên phải, ngoái bên trái.
Thuyết lý ầm ĩ,
Ồn ào tranh cãi.
Câu hữu câu vô,
Khiến người rầu rĩ.
Cắt đứt mọi duyên quấn quýt như dây leo,
Thì hữu và vô đều hoàn toàn thông suốt.
Nguồn:
Wikisource

TÌM VỀ ĐỨC NHÂN TÔNG

Kinh Dịch xem chơi, yêu tính sáng yêu hơn châu báu.
Sách Nhàn đọc giấu, trọng lòng rồi trọng nữa hoàng kim…
(Trần Nhân Tông)

Người ơi con đến đây tìm
Non thiêng Yên Tử như tranh họa đồ
Núi cao trùng điệp nhấp nhô
Trời xuân bảng lãng chuông chùa Hoa Yên

Thầy còn dạo bước cõi tiên
Con ươm mầm sống xanh thêm ruộng vườn
Mang cây lộc trúc về Nam
Ken dày phên giậu ở miền xa xôi

Cư trần lạc đạo Người ơi
Tùy duyên vui đạo sống đời thung dung
Hành trang Thượng sĩ Tuệ Trung
Kỳ Lân thiền viện cành vươn ra ngoài

An Kỳ Sinh trấn giữa trời
Thơ Thiền lưu dấu muôn đời nước non …

Nghê Việt là biểu tượng rồng ẩn, một trong những sáng tạo đỉnh cao của văn hóa Việt. “Sách Nhàn đọc dấu câu có câu không” ẩn hiện như tiềm long, một trong chín đứa con của rồng (long sinh cửu tử) theo thời mà biến hóa.

Bài viết và ảnh của Huỳnh Thiệu Phong Mấy vấn đề về nguồn gốc, đặc điểm của biểu tượng “Nghê” trong văn hóa Việt Nam đã nhận xét: “Nghê” chính là một sáng tạo nghệ thuật đỉnh cao, phản ánh rõ nét nhân sinh quan của người Việt trong những giai đoạn lịch sử của dân tộc“. Tôi rất đồng tình. Nghê là linh vật rồng ẩn thuần Việt trong “chín đứa con của rồng” (Long sinh cửu tử) và được phổ biến rộng trong dân gian thời Trần và được đúc kết bởi tác phẩm ““Tiềm Xác Loại Thư” của Trần Nhân Tích. Toan Nghê là linh vật có sức mạnh phi thường giống như sư tử, như mèo thần, thích nghỉ ngơi, điềm tĩnh, chăm chú chọn cơ hội, nhưng khi ra tay thì cực kỳ mau lẹ, dũng mãnh và hiệu quả. Kim Nghê là linh vật giống như kỳ lân, trâu ngựa thần, có tài nuốt lửa nhả khói, nội lực thâm hậu, nhanh mạnh lạ lùng, dùng để cưỡi đưa chủ nhanh đến đích. Nghê Dân Gian là linh vật gác cổng giữ nhà hiền lành, tin cẩn như chó nhà và hung dữ, nguy hiểm, tinh khôn như chó sói. Nghê Thường là linh vật ngây dại như trẻ thơ, nhởn nhơ như nai rừng, tin yêu như thục nữ nhưng vô cùng quý hiếm.

Đêm Yên Tử, rừng trúc thăm thẳm huyền thoại, vững chãi cây tre Việt Nam ngoan cường, như Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn chi đồ năm 1363, bức họa Phật Hoàng Trần Nhân Tông do Trần Giám Như vẽ, trôi nổi trong nhân gian, như Nghê Việt ẩn tàng sức mạnh văn hóa Việt.

THU NGUYỆT GAI VÀ HOA

“Ngồi buồn làm phát chơi ngông Lôi ra một chậu xương rồng, đếm gai. Đếm qua đếm lại đếm hoài. Vẫn dư ra một cái gai là mình! Cái gai tuy mập mà xinh (?). Cho nên thiên hạ tưởng mình là hoa. Thật ra thật ra thật ra. Tận cùng bản chất nó là cái gai! Ủa mà gai có gì sai. Không gai sao cái đám này có hoa! . Hahaha…”

HOÀNG KIM HOA VÀ ONG

Hahaha… Thật ra thật ra thật ra. Tận cùng bản chất nó là không gai. Có không mọi chuyên ở đời. Dịu dàng hoa cỏ là nơi tìm về. Đêm Yên Tử lắng tai nghe. Mỏng như chiếc lá nghiêng về thinh không. Ẩn sau một đám xương rồng, Tìm đi tìm lại em không thấy mình. Thoắt rồi hiện trước em xinh, Gai đâu chẳng thấy, chỉ mình là ta. Hahaha …, Hahaha…”

Hoàng Kim mời các bạn đọc “Đêm Yên Tử” đã bổ sung và hiệu đính: “Lần nhỡ ấy xuýt đi xa, chơi cùng bạn quý la đà khói sương, mới hay mưa nắng vô thường mây che nắng sớm còn vương cõi trời. Thung dung bước tới thảnh thơi, An nhiên thế sự về nơi thanh nhàn. Trời đất vạn vật phong quang, trọn đời vui giữa nhân gian ân tình !… (* Thơ Hoàng Kim); Trời đất vạn vật phong quang là trích lời và ảnh của VDAT **: “… Thiên – Địa – Vạn Vật. Mới rồi, có “người” đã trao cho anh chìa khóa thứ nhất: Vạn vật, để anh tự khai sáng mình và anh cần khai thông kinh mạch lạc trong tối thiểu là 3 năm. Anh phải tích cực rèn luyện hơn nữa, sẽ có người trao cho anh cái chìa khoa thứ hai. Sau khi tu luyện mình hết chặng thứ hai, khi ấy anh sẽ thấy bài thơ này là chìa khóa thứ 3 đi vào giác ngộ…”; Mời bạn đọc tiếp bài “Minh triết sống phúc hậuXem tiếp >>

  Dạy và học 30 tháng 11(30-11-2021)


DẠY VÀ HỌC 30 THÁNG 11
Hoàng Kim
CNM365 Tình yêu cuộc sốngSông Kỳ Lộ Phú Yên; Châu Văn Tiếp Phú Yên, Đường về đất nở hoa; Thương nhớ Biển Hồ trà; Nhà tôi chim làm tổ; Cuối dòng sông là biển; Nam tiến của người Việt; Dạo chơi non nước Việt; Đại Lãnh nhạn quay về; Nhớ cây thông mùa đông; Bản Giốc và Ka Long; Dinh Thống Nhất và Vườn Tao Đàn; Chợt gặp mai đầu suối; Qua sông Thương gửi về bến nhớ; Thăm nhà cũ của Darwin; Cao Biền trong sử Việt; Vui bước tới thảnh thơi; Mark Twain đại văn hào Mỹ (hình). Ngày 30 tháng 11 năm 1835 là ngày sinh Mark Twain (tên thật là Samuel Langhorne Clemens mất ngày 21 tháng 4 năm 1910), Ông sinh ra vào chính ngày sao chổi Halley xuất hiện năm 1835 và mất đúng vào lần sao chổi xuất hiện lần sau năm 1910. Mark Twain đến nay vẫn được coi là ngôi sao sáng nhất trong giới những người cầm bút trên văn đàn Mỹ. Ông giống như vì tinh tú sao chổi Halley rực sáng trên bầu trời Florida khi ông sinh và mất. “Mark Twain đã làm thay đổi cách nghe nhìn của người Mỹ, ông chính là một Lincoln trong văn học”. Mark Twain đã cống hiến cho nền văn hóa Mỹ một thứ văn học tinh tế và đầy chất hài hước. Ngày 30 tháng 11 năm 1967 là ngày Đảng Nhân dân Pakistan được Zulfikar Ali Bhutto thành lập, với tín điều của đảng: “Hồi giáo là niềm tin của chúng ta; dân chủ là đường lối chính trị; chủ nghĩa xã hội là đường lối kinh tế; tất cả quyền lực thuộc về nhân dân”. Đảng Nhân dân Pakistan được xem là tự do hơn các chính đảng khác ở Pakistan và nổi tiếng vì đấu tranh cho các vấn đề như quyền phụ nữ, quyền của người nghèo và người bị áp bức. Ngày 30 tháng 11 năm 1982 là ngày ca sĩ người Mỹ Michael Jackson phát hành album Thriller là album bán chạy nhất thế giới. Michael Joseph Jackson sinh ngày 29 tháng 8 năm 1958 mất ngày 25 tháng 6 năm 2009 là một ca sĩ, nhạc sĩ, vũ công, doanh nhân và nhà từ thiện nổi tiếng người Mỹ. Ông được mệnh danh là “Vua nhạc pop” (King of pop), là “Nhân vật giải trí thành công nhất mọi thời đại” theo sách kỷ lục Guinness. Michael Jackson đã trở thành một trong những cái tên phổ biến nhất nền văn hóa nghệ thuật toàn cầu trong hơn bốn thập kỷ qua, được mệnh danh là người đàn ông được nhắc đến nhiều nhất hành tinh. Album Thriller đã đưa Jackson trở thành một trong những ngôi sao nhạc pop xuất sắc nhất cuối thế kỷ 20; .Bài chọn lọc ngày 30 tháng 11:  Sông Kỳ Lộ Phú Yên; Châu Văn Tiếp Phú Yên, Đường về đất nở hoa; Thương nhớ Biển Hồ trà; Nhà tôi chim làm tổ; Cuối dòng sông là biển; Nam tiến của người Việt; Dạo chơi non nước Việt; Đại Lãnh nhạn quay về; Nhớ cây thông mùa đông; Bản Giốc và Ka Long; Dinh Thống Nhất và Vườn Tao Đàn; Chợt gặp mai đầu suối; Qua sông Thương gửi về bến nhớ; Thăm nhà cũ của Darwin; Cao Biền trong sử Việt; Vui bước tới thảnh thơi;; Thông tin tại http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-30-thang-11/;

SÔNG KỲ LỘ PHÚ YÊN
Hoàng Kim

Sông Kỳ Lộ Phú Yên
Dài trăm hai cây số
Từ Biển Hồ Gia Lai
Thượng nguồn sông Bà Đài
Sông La Hiên Cà Tơn
Bến Phú Giang, Phú Hải
Phú Mỡ huyện Đồng Xuân
Thôn Kỳ Lộ Cây Dừng
Huyền thoại vua Chí Lới
Vực Ông nối thác Dài

Xuôi dòng sông Kỳ Lộ
Lẫy lừng chuyện suối Cối
Tới
suối Mun Phú Mỡ
Suối nước nóng Cây Vừng
Thấu vùng đất hoang sơ
Chợ Kỳ Lộ nổi tiếng
Người Kinh Chăm Ba Na
Xưa mỗi tháng chín phiên
Nay ngày thường vẫn họp

Sông Cái thác Rọ Heo
Vùng Hòn Ông vua Lới
Suối nước nóng Triêm Đức
Thôn Thạnh Đức Xuân Quang
Sông Trà Bương sông Con
Tiếp nước sông Kỳ Lộ
Chốn Lương Sơn Tá Quốc
Lương Văn Chánh thành hoàng
Sông Cô tới La Hai
Sông Cái hòa tiếp nước

Cầu La Hai Đồng Xuân
Sông Kỳ Lộ ra biển
Tới Mỹ Long chia nhánh
Một ra vịnh Xuân Đài
Một vào đầm Ô Loan
Suối Đá xã An Hiệp
Chảy ra đầm Ô Loan
Suối Đá Đen An Phú
Chảy ra biển Long Thủy.

Sông Kỳ Lộ Phú Yên
Lắng đọng nhiều chuyện quý
Ngọc Phương Nam ngày mới
Giống sắn tốt Phú Yên
Lúa siêu xanh Phú Yên
Báu vật nơi đất Việt
A Na bà chúa Ngọc
Châu Văn Tiếp Phú Yên
Cao Biền trong sử Việt
Ông Rhodes chữ tiếng Việt

CHÂU VĂN TIẾP PHÚ YÊN
Hoàng Kim


Tùng Châu, Châu Đức vẹn trước sau
Đào Công, Châu Công thật anh hào
Văn xây thành lũy thầy Nội Tán
Võ dựng cơ đồ trí Lược Thao
Ngọa Long chặn địch ba phòng tuyến
Lương Sơn tá quốc cứu binh trào
Đồng Xuân hưng thịnh dày công đức
Ân nghĩa cho đời quý biết bao !

Đất Phú Trời Yên không chỉ là nơi lưu dấu bản tiếng Việt đầu tiên của Ông Alexandre de Rhodes chữ tiếng Việt, chỉ dấu muôn đời của dân tộc Việt tại nhà thờ Mằng Lăng, mà còn là nơi Lương Văn Chánh thành hoàng dựng nghiệp thiên thu. Phú Yên cũng là đất Lương Sơn Tá Quốc lưu dấu bậc khai quốc công thần nhà Nguyễn Châu Văn Tiếp ở Phú Yên.

Nghiên cứu lịch sử nhà Nguyễn tra cứu theo niên biểu ‘Nguyễn Du những sự thật mới biết‘, tôi nhiều lần gặp hình bóng Châu Văn Tiếp Đồng Xuân, Phú Yên. Ông là danh tướng được vua Gia Long Nguyễn Phúc Ánh phong tặng Đệ nhất đẳng khai quốc công thần, hàm Tả Quân Đô Đốc Chưởng Phủ Sự, tước Quận công, sau gia phong Lâm Thao Quận công. Châu Văn Tiếp cũng được người đời xưng tụng là một trong Tam hùng Gia Định (cùng với Võ Tánh và Nguyễn Huỳnh Đức).

Vua Gia Long Nguyễn Phúc Ánh nếu không có Châu Văn Tiếp thì hầu như không thể phục hưng được cơ nghiệp nhà Nguyễn. Công nghiệp lừng lẫy và bi tráng của Châu Văn Tiếp có nhiều điều uẩn khúc lịch sử tương tự ‘Nguyễn Du những sự thật mới biết‘ nếu chúng ta không nghiên cứu kỹ về ông thì không thể hiểu sâu sắc thời Lê –Trịnh – Nguyễn – Tây Sơn.

CHÂU VĂN TIẾP LƯƠNG SƠN TÁ QUỐC

Châu Văn Tiếp (1738-1784) là người Đồng Xuân Phú Yên, danh tướng Việt Nam cuối thế kỷ 18 thời Nguyễn Ánh. Châu Văn Tiếp tên tộc là Châu Doãn Ngạnh sinh năm Mậu Ngọ năm 1738 (?) mất ngày 30 tháng 11 năm 1784 lúc 46 tuổi, sinh quán tại huyện Phù Ly phủ Hoài Nhơn nay là Phù Mỹ thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định, nhưng cư ngụ ở làng Vân Hòa, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên. Gia đình ông chuyên nghề buôn bán, chủ yếu là buôn ngựa, nhưng có học vấn.

Ông Châu Văn Tiếp có người anh cả là Châu Doãn Chữ, ba em là Châu Doãn Chấn, Châu Doãn Húc và em gái Châu Thị Đậu tục gọi Châu Muội Nương. Năm anh em đều rất giỏi võ nghệ, đặc biệt là Châu Văn Tiếp và Châu Thị Đậu. Sau này khi Lê Văn Quân người Định Tường ra phò tá Châu Văn Tiếp “Lương Sơn tá quốc’ ở núi Tà Lương thì ông Châu Văn Tiếp đã mến trọng hiền tài gả Châu Muội Nương cho Lê Văn Quân thành vợ chồng. Hai ông Châu Văn Tiếp, Lê Văn Quân đều là tướng giỏi kiệt xuất của Nguyễn Vương nối tiếp nhau làm Tả Quân Đô Đốc Chưởng Phủ Sự, tước Quận Công. Lê Văn Quân mất năm Tân Hợi 1791. Vợ chồng bà giúp chúa Nguyễn rất tận lực. Bà lúc xông trận dũng cảm thiện chiến chẳng kém gì các anh trai và chồng, thường được người đương thời so sánh với danh tướng Tây Sơn Bùi Thị Xuân. Bà những ngày theo Nguyễn Phúc Ánh sang Vọng Các, chính bà đã hai lần cầm binh đánh thắng quân Miến Điện và Đồ Bà theo lời yêu cầu tiếp viện của vua Xiêm, khiến người Xiêm rất thán phục. Châu Văn Tiếp thông thạo tiếng Chân Lạp, Xiêm La, có sức mạnh, võ nghệ, biệt tài sử dụng đại đao. Ông theo nghề buôn bán ngựa, nên có dịp đi đó đây. Nhờ vậy, ông quen biết hầu hết những người vương tướng của nhà Tây Sơn, như Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ, Võ Văn Dũng, Trần Quang Diệu, Võ Ðình Tú … Song người ông thân thiết nhất là Lý Văn Bửu vì cùng nghề.

Nguyễn Nhạc cùng hai em là Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ cất binh khởi nghĩa vào năm 1771 lấy lý do là chống lại sự áp bức của quyền thần Trương Phúc Loan và ủng hộ hoàng tôn Nguyễn Phúc Dương. Nguyễn Nhạc biết tài Châu Văn Tiếp, nên từ đầu đã cho người đến mời tham gia. Khi đó, bốn anh em Châu Văn Tiếp đã chiêu tập dân quân đến chiếm giữ núi Tà Lương (còn gọi là núi Trà Lang thuộc Phú Yên). Nguyễn Nhạc cử người đến mời lần nữa. Châu Văn Tiếp bày tỏ chính kiến của mình là không muốn thay ngôi chúa Nguyễn, mà chỉ muốn tôn phù hoàng tôn Nguyễn Phúc Dương, muốn diệt trừ những tham quan, những quyền thần và Nguyễn Nhạc đã đồng ý.

Châu Văn Tiếp chọn thờ chúa Nguyễn cũng có tâm sự riêng như Nguyễn Du chọn nghĩa phù Lê đều có lý do riêng. Năm Ất Dậu (1765), Nguyễn Du sinh ngày 23 tháng 11 (nhằm ngày 3 tháng 1 năm 1766) lúc Nguyễn Nghiễm 58 tuổi, bà Trần Thị Tần 26 tuổi. Nguyễn Du được gọi là cậu Chiêu Bảy. Năm ấy cũng là năm Vũ Vương mất, Trương Phúc Loan chuyên quyền. Trước đó, từ ông Nguyễn Hoàng trở đi, họ Nguyễn làm chúa trong Nam, phía bắc chống nhau với họ Trịnh, phía nam đánh lấy đất Chiêm Thành và đất Chân Lạp, truyền đến đời Vũ Vương thì định triều nghi, lập cung điện ở đất Phú Xuân, phong cho Nguyễn Phúc Hiệu người con thứ 9 làm thế tử. Bây giờ thế tử đã mất rồi, con thế tử là Nguyễn Phúc Dương hãy còn nhỏ mà con trưởng của Vũ Vương cũng mất rồi. Vũ Vương lập di chiếu cho người con thứ hai là hoàng tử Cốn (là cha của Nguyễn Phúc Ánh) lên nối ngôi nhưng quyền thần Trương Phúc Loan đổi di chiếu lập người con thứ 16 của Vũ Vương, mới có 12 tuổi tên là Nguyễn Phúc Thuần lên làm chúa, gọi là Định Vương.

Nguyễn Phúc Ánh sinh ngày Kỷ Dậu tháng Giêng năm Nhâm Ngọ (1762) lớn hơn Nguyễn Du ba tuổi và nhỏ hơn Châu Văn Tiếp 24 tuổi. Trương Phúc Loan là người tham lam, làm nhiều điều tàn ác nên trong nước ai ai cũng oán giận, bởi thế phía nam nhà Tây Sơn dấy binh ở Quy Nhơn, phía bắc quân Trịnh vào lấy Phú Xuân, làm cho cơ nghiệp họ Nguyễn xiêu đổ. Khi ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ dấy binh ở Tây Sơn chống chúa Nguyễn vào năm 1771 thì Nguyễn Ánh 9 tuổi. Đến năm 1775, khi chúa Nguyễn bị quân Lê-Trịnh do Hoàng Ngũ Phúc chỉ huy và quân Tây Sơn đánh kẹp từ hai mặt. Năm ấy, chúa Nguyễn chạy vào Quảng Nam lập cháu là Nguyễn Phúc Dương làm Đông Cung để lo việc chống trả. Quân Tây Sơn ở Quy Nhơn kéo ra đánh chiếm Quảng Nam. Chúa Nguyễn Định Vương liệu không chống cự nổi nên cùng cháu là Nguyễn Ánh chạy vào Gia Định, chỉ để Đông Cung ở lại Quảng Nam chống giữ.

Nguyễn Nhạc biết Đông Cung yếu thế và muốn mượn tiếng nhà Nguyễn để thu phục lòng người mến trọng nhà Nguyễn nên sai người rước Đông Cung về Hội An. Họ Trịnh vượt đèo Hải Vân, đẩy lui quân Tây Sơn do Tập Đình làm tiên phong, Lý Tài làm tướng trung quân. Nguyễn Nhạc xét tội Tập Đình thua trận định giết. Tập Đình vội trốn về Quảng Đông và bị giết. Nguyễn Nhạc đưa Đông Cung về Quy Nhơn. Tống Phước Hiệp ở phía nam nhân lúc Nguyễn Nhạc thua trận đã tiến quân chiếm lại Phú Yên. Tống Phước Hiệp cho Bạch Doãn Triều và cai đội Thạc đến đòi Nguyễn Nhạc trả Đông Cung cho nhà Nguyễn. Nguyễn Nhạc theo kế Nguyễn Huệ giả vờ ưng thuận, một mặt mượn lệnh Đông Cung phủ dụ Tống Phước Hiệp và Châu Văn Tiếp đem tướng sĩ năm dinh về theo phò Đông Cung, mặt khác lại cho người mang vàng bạc châu báu đến dâng Hoàng Ngũ Phúc xin nộp ba phủ Quảng Ngãi, Quy Nhơn, Phú Yên để xin cho Nguyễn Nhạc được làm tướng tiên phong đánh Gia Định. Hoàng Ngũ Phúc viết khải văn dâng lên chúa Trịnh Sâm phong tướng hiệu cho Nguyễn Nhạc. Trịnh Sâm sai Nguyễn Hữu Chỉnh mang sắc chỉ, cờ, ấn kiếm của vua Lê đến ban cho Nguyễn Nhạc.

Tống Phước Hiệp do mắc lừa không đề phòng nên bị Nguyễn Huệ đánh bại. Lý Tài được nhà Tây Sơn cử làm tướng trấn thủ Phú Yên. Hoàng Ngũ Phúc nghe tin thắng của Nguyễn Huệ đã lập tức tung quân đánh chiếm Quảng Ngãi và trình lên chúa Trịnh Sâm sắc phong cho Nguyễn Huệ làm tướng tiên phong. Tuy vậy, quân Trịnh bị hao tổn nặng bởi trận dịch khủng khiếp nên phải quay lại Phú Xuân. Hoàng Ngũ Phúc ốm chết ngay trên dọc đường khi chưa tới Phú Xuân. Nguyễn Nhạc lợi dụng sự rút quân Trịnh để chiếm lại Quảng Nam. Nhà Tây Sơn tạm yên mặt bắc đã tập trung tấn công nhằm dứt điểm hiểm họa từ nhà Nguyễn đang trốn tránh ở phía Nam.

Châu Văn Tiếp khi đưa quân đến Quy Nhơn thì hay tin Hoàng tôn Nguyễn Phúc Dương đã ngầm trốn nhà Tây Sơn vào Gia Định cùng Nguyễn Phúc Thuần, sau khi Nguyễn Nhạc dùng chước gả con gái cho Hoàng tôn Nguyễn Phúc Dương nhưng mưu kế không thành. Châu Văn Tiếp liền rút quân về núi cũ ở Đồng Xuân, dựng cờ Lương Sơn tá quốc (quân giỏi ở núi rừng lo giúp nước) liên thủ với tướng Tống Phước Hiệp đang đóng quân ở dinh Long Hồ ở Vân Phong (nay thuộc tỉnh Khánh Hòa), để đối đầu với Tây Sơn.

Địa danh đối trận giành giật quyết liệt giữa nhà Nguyễn với nhà Tây Sơn tại Phú Yên là quân Nguyễn chặn trục tiến quân của quân Tây Sơn theo đường thượng đạo từ Quy Nhơn tấn công vào Đồng Xuân (thị trấn La Hai ngày nay) và theo đường thiên lý Bắc Nam ven biển (Quốc lộ 1 ngày nay) , phối hợp đường biển tấn công vào vùng ngã ba Chí Thạnh , thành cũ An Thổ Trấn Biên gần vịnh Xuân Đài và đầm Ô Loan. Trong điểm huyết chiến khác là vùng dọc đường thượng đạo Vân Hòa, thị trấn Hai Riêng huyện Sông Hinh và ven biển là thị xã Tuy Hòa đến Bắc Vân Phong ngày nay.

CHÂU VĂN TIẾP PHỤC HƯNG NHÀ NGUYỄN

Tây Sơn đánh gắt, quân chúa Nguyễn mất miền Trung dần rút về khu vực Gia Định và lân cận. Trong thời gian ở Gia Định, nội bộ quân chúa Nguyễn xảy ra tranh chấp giữa phe ủng hộ Nguyễn Phúc Thuần của Đỗ Thanh Nhơn và phe ủng hộ Nguyễn Phúc Dương của Lý Tài, còn Nguyễn Ánh trú tại Ba Giồng với quân Đông Sơn.

Đầu năm 1777, Nguyễn Huệ tiến đánh Gia Định, Tống Phúc Hiệp lui về tiếp cứu, giao cho Châu Văn Tiếp giữ Phú Yên, Bình Thuận. Giữa năm 1777, Thái Thượng Vương Nguyễn Phúc Thuần, Tân Chính Vương Nguyễn Phúc Dương cùng vài người anh em ruột của Nguyễn Ánh và nhiều người khác trong gia tộc chúa Nguyễn bị Nguyễn Huệ bắt giết hết. Nguyễn Ánh trốn thoát.

Nguyễn Ánh trốn ở Rạch Giá sau đó lén sang Hà Tiên rồi ra đảo Thổ Châu) . Sau khi quân lùng bắt của Tây Sơn rút đi Đỗ Thanh Nhơn lấy lại Gia Định, Nguyễn Phúc Ánh được tướng sĩ rước về tôn làm Đại nguyên súy, Nhiếp quốc chính rồi xưng vương tại Sài Côn (Sài Gòn) vào năm Canh Tý (1780).

Năm Tân Sửu (1781), Châu Văn Tiếp khởi quân vào tiếp cứu liên kết với hai đạo quân khác để đánh Bình Khang nhưng đã bị trấn thủ quân Tây Sơn Nguyễn Văn Lộc chặn đánh phải về lại núi Tà Lương. Đạo quân do Tôn Thất Dụ từ Bình Thuận tiến ra cũng bị trấn thủ quân Tây Sơn Lê Văn Hưng đem tượng binh chặn đánh làm cho tan vỡ. Đạo thủy quân của Tống Phước Thiêm thì không thể xuất phát được vì quân Đông Sơn đang khởi loạn ở Gia Định, do chủ tướng của họ là Đỗ Thanh Nhơn bị Nguyễn Phúc Ánh mưu hại.

Cũng năm 1781, Nguyễn Ánh sau sự biến Đông Sơn, phải vất vả đối phó với nội tình tan rã ở Gia Định. Tháng 10 năm đó, vua nước Xiêm La (Thái Lan) là Trịnh Quốc Anh (Taksin) sai hai anh em tướng Chất Tri (Chakkri) sang đánh Chân Lạp. Nguyễn Vương sai Nguyễn Hữu Thụy và Hồ Văn Lân sang cứu, trong khi hai quân đang chống nhau thì ở Vọng Các (Băng Cốc) vua Xiêm bắt giam vợ con của hai anh em Chất Tri. Hai anh em tướng Chất Tri (Chakkri) bèn giao kết với Nguyễn Hữu Thụy rồi đem quân về giết Trình Quốc Anh (Taksin) và tự lập làm vua Xiêm La, xưng là Phật Vương (Rama1). Họ Chakkri làm vua cho đến ngày nay và các vua đều xưng là Rama. Vua Rama I chọn Bangkok (hay “Thành phố của các thiên thần”) làm kinh đô.

Tháng 3 năm Nhâm Dần (1782), nhân cơ hội nội bộ nhà Nguyễn đang rạn nứt, Nguyễn Huệ cùng Nguyễn Nhạc mang quân thủy bộ tiến vào Nam. Hai bên đụng độ dữ dội ở sông Ngã Bảy cửa Cần Giờ. Nguyễn Phúc Ánh thua trận lại phải bỏ chạy ra đảo Phú Quốc. Châu Văn Tiếp một lần nữa lại dẫn đạo quân Lương Sơn vào tiếp cứu. Khi ấy, Nguyễn Huệ và Nguyễn Nhạc đã rút quân về, nên quân Lương Sơn đánh đuổi được tướng Tây Sơn là Đỗ Nhàn Trập. Châu Văn Tiếp sau khi lấy lại được Gia Định đã đón Nguyễn Phúc Ánh về Sài Côn. Nhờ đại công này, ông được phong Ngoại tả Chưởng dinh.

CHÂU VĂN TIẾP CÔNG THẦN NHÀ NGUYỄN

Tháng 2 năm Quý Mão (1783), Nguyễn Nhạc lại sai Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ, Lê Văn Hưng, Trương Văn Đa mang quân vào Nam. Châu Văn Tiếp dùng hỏa công nhưng bị trở gió nên thua trận. Chúa Nguyễn phải chạy xuống Ba Giồng (Định Tường), còn Châu Văn Tiếp phải men theo đường núi qua Cao Miên rồi qua Xiêm cầu viện.

Nước Xiêm lúc bấy giờ ở dưới triều vua Chất Tri đương lúc thịnh vượng và đang nuôi tham vọng nuốt Cao Miên và Gia Ðịnh để mở rộng cõi bờ. Cho nên khi nghe Châu Văn Tiếp, một bề tôi thân tín của chúa Nguyễn, người đã có công cứu vua Xiêm năm 1781, đến cầu cứu nên vua Xiêm liền đồng ý. Châu Văn Tiếp được vua Xiêm hứa hẹn, gởi ngay mật thư báo tin cho Nguyễn Phúc Ánh.

Tháng Hai năm Giáp Thìn (1784), sau khi hội đàm với tướng Xiêm tại Cà Mau, chúa Nguyễn sang Vọng Các hội kiến với vua Xiêm và được tiếp đãi trọng thể, hứa giúp đỡ, chúa Nguyễn đã tổ chức lại lực lượng gồm các quân tướng đi theo và nhóm người Việt lưu vong tại Xiêm, cả thảy trên dưới nghìn người, cử Châu Văn Tiếp làm Bình Tây đại đô đốc, Mạc Tử Sanh (con Mạc Thiên Tứ) làm Tham tướng, để dẫn quân Xiêm về nước đánh nhau với quân Tây Sơn… Tháng 7 năm 1784, vua Xiêm La đã cử hai người cháu cũng là hai viên tướng cao cấp là Chiêu Tăng và Chiêu Sương, đem 2 vạn quân thủy cùng 300 chiến thuyền vượt vịnh Xiêm La, qua ngả Kiên Giang, sang giúp. Đạo bộ binh gồm khoảng 3 vạn quân, do các tướng Lục Côn, Sa Uyển, Chiêu Thùy Biện (một cựu thần Chân Lạp thân Xiêm) chỉ huy, băng qua đất Chân Lạp, rồi tràn vào nước Việt qua ngả An Giang.

Ngày 13 tháng 10 năm Giáp Thìn (tức 25 tháng 11 năm 1784), Châu Văn Tiếp giáp chiến với quân Tây Sơn. Ngô Giáp Đậu kể: Chu Văn Tiếp dẫn thủy binh tiến đánh quân Tây Sơn ở sông Măng Thít (thuộc địa phận Long Hồ, nay là Vĩnh Long) Chưởng cơ Bảo (Chưởng tiền Bảo) ra sức chống cự. Chu Văn Tiếp nhảy lên thuyền địch, bị quân Tây Sơn đâm trọng thương. Thế Tổ (Nguyễn Phúc Ánh) phất cờ ra lệnh cho quân đánh gấp vào, chém được Chưởng cơ Bảo…Chu Văn Tiếp không bao lâu cũng qua đời vì vết thương quá nặng…, hưởng dương 46 tuổi.

Nguyễn Phúc Ánh rất thương tiếc phúc tướng Châu Văn Tiếp: “Trong vòng mười năm lại đây, Tiếp với ta cùng chung hoạn nạn. Nay giữa đường Tiếp bỏ ta mà đi, chưa biết ai có thể thay ta nắm giữ việc quân?…”.[7] Nguyễn Vương dạy lấy ván thuyền ghép thành hòm, dùng nhung phục khấn liệm, rồi cho chôn tạm tại làng An Hội, Cồn Cái Nhum (Tam Bình, Vĩnh Long). Về sau, thâu phục được Gia Định, Nguyễn Phúc Ánh cho cải táng tại xã Hắc Lăng, huyện Phước An, thuộc dinh Trấn Biên (nay thuộc tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu).

Nguyễn Phúc Ánh năm 1802, lên ngôi vua lấy niên hiệu là Gia Long, truy phong Châu Văn Tiếp là Tả quân đô đốc, tước Quận công và cho lập đền thờ ở Hắc Lăng (nay thuộc xã Tam Phước, thị trấn Long Đất, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu). Châu Văn Tiếp năm Giáp Tý (1804), thời vua Gia Long được thờ nơi đền Hiển Trung (Sài Gòn). Đến năm Gia Long thứ 6 (1807), Châu Văn Tiếp được liệt hàng Đệ nhất đẳng khai quốc công thần và được thờ tại Trung Hưng Công Thần miếu (Huế).

Năm 1831 thời vua Minh Mạng, Châu Văn Tiếp được truy phong Lâm Thao Quận công.

Năm 1850, thời vua Tự Đức năm thứ ba, nhà vua cho xây dựng lại đền ở Hắc Lăng, Năm 1851, khởi công xây đền mới cách nơi cũ khoảng 500m. Năm 1920, nhân dân trong tỉnh Bà Rịa tự tổ chức quyên góp và tái thiết đền với quy mô lớn. Theo Sổ tay hành hương đất phương Nam, dưới thời Pháp thuộc, các đền thờ công thần triều Nguyễn đều được đổi tên thành đình làng; cũng chính vì thế đền thờ ông Tiếp trở thành đình Hắc Lăng. Hiện nơi đình vẫn thờ chiếc ngai do Gia Long ban thưởng, khuôn biển có khắc bốn chữ thếp vàng: Lâm Thao Quận Công cùng nhiều sắc phong của các vua Nguyễn…[8]

Năm 1855, thời vua Tự Đức năm thứ 8, Khâm mạng đại thần Nguyễn Tri Phương đi kinh lược Nam Kỳ có đến viếng đền Châu Quận Công ở Măng Thít (nay thuộc xã Tân Long Hội, huyện Măng Thít) và có làm thơ điếu, hiện vẫn còn lưu giữ ở đền thờ.

Châu Văn Tiếp mất không có con trai, cháu ngoại là Nguyễn Văn Hóa, con của Châu Thị Đậu, nhận phần phụng tự.

Đặng Đức Siêu vâng lệnh vua Gia Long làm bài “Văn tế Châu Văn Tiếp” khi cải táng ông vào khoảng cuối năm 1803. Nội dung như sau:

“Vạc Hạ Võ mùi canh còn lạt, lòng những tưởng cậy sức diêm mai;
Tiệc trung hưng cuộc rượu đang gầy, trời nỡ khiến lìa tay khúc nhiệt.

Phong quan nầy ai chẳng ngậm ngùi;
Cơ hội ấy nghĩ càng thương tiếc.

Nhớ tướng quân xưa:
Ngọc non Côn cấu khí tinh thành;
Vàng sông Lệ đúc lòng trung liệt.

Trong thành Mãng mong lòng bội ám, gói theo kiềm sương lạnh trời Tây;
Dưới cờ Lưu quyết chí đầu minh, gương trượng nghĩa bóng ngời nước Việt.

Nghìn dặm trải lá gan Dự Nhượng, nghĩa vì quân đất võ trời gầy;
Trăm trận phơi đùm mật Tử Long, oai dẹp loạn sương sầu nắng thiết.

Trong khuôn cứu nắm quyền ngoại tả, chống giềng trời, cầm mối nước, son nhuộm tấm lòng;
Ngoài chiến chinh đeo ấn tướng quân, tru đảng nguỵ, diệt loài gian, máu dầm mũi bạc.

Đường thượng đạo ải non lần lựa, qua sông Lào, lên đất Sóc, một mình triều triệu gánh giang san;
Nẻo chiền cần sông núi gian nan, tìm chúa cũ, mượn binh Xiêm, tám cõi nhơn nhơn oai tích lịch.

Lướt sóng khua chèo Tổ Địch, đàm trung nguyên rửa sạch bợn trần ai;
Xây vai dựa gác Tử Nghi, niệm thiên địa chi dung loài tiếm thiết.

Lừng lẫy quyết lấy đầu tặc tử, danh tôi còn ngõ được vuông tròn;
Rủi ro khôn dẹp máy binh cơ, sao tướng đã bóng đà lờ lệch.

Hội mây rồng nửa phút lỡ làng.
Duyên tôi chúa trăm năm cách biệt.

Trời Thuận Hoá chằm nhạn còn xao xác, tưởng cậy người cứu chúng lầm than;
Thành Quy Nhơn tiếng cáo chửa được an, không có người hầu ai đánh dẹp.

Dân đang trông, binh đang mến, trời đất sao phụ kẻ huân lao;
Trong chưa trị, ngoài chưa an, thời vận khiến hại người hào kiệt.

Đài hoa tượng đành rành còn để dấu, tưởng hình dung lòng bắt rã rời;
Bố tấu công chồng lớp hãy ghi tên, mến công nghiệp luỵ tuông lác đác.

Ngày muôn một tưởng còn điêu bái, thân thì tạm gởi chốn long quang;
Mối ba quân nay đã tóm thâu, quan quách ngõ táng an mã hiệp.

Hỡi ơi! Thương thay!
Phục duy thượng hưởng!”

Gia Định tam hùng được chính sử triều Nguyễn gọi đối với Châu Văn Tiếp (1738-1784), Võ Tánh (?-1801) Nguyễn Huỳnh Đức (1748-1819) , thay vì vẫn thường truyền tụng trong dân gian là Châu Văn Tiếp (1738-1784), Võ Tánh (?-1801) Đỗ Thành Nhơn (?-1781) , lý do vì Đỗ Thành Nhơn bị coi là thờ vua không trung hậu (vua Gia Long giết) với bài vè lưu lại như sau:
– Nghe anh làu thông lịch sử,
Em xin hỏi thử đất Nam trung;
Hỏi ai “Gia Định tam hùng”?
Mà ai trọn nghĩa thuỷ chung một lòng.
– Ông Tiếp ông Tánh cùng ông Huỳnh Đức
Ba ông hết sức phò nước một lòng
Nổi danh Gia Định tam hùng…

Long Giang Đỗ Phong Thuần người đời sau có thơ khen Châu Văn Tiếp, theo “Đất Phú Trời Yên” Trần Sĩ Huệ 2018 :

“Phò đức Cao Hoàng vẹn trước sau
Cụ Châu Văn Tiếp thật anh hào
Văn hay khuông tế thời nguy biến
Võ giỏi tung hoành trí lược thao
Mấy lượt qua Xiêm tìm chúa cũ
Nhiều phen chống địch cứu binh trào
Ra quân chưa thắng thân đà thác
Để khách anh hùng thảm xiết bao”

Châu Đức là nơi phần mộ của cụ Châu Văn Tiếp (ảnh). Hoàng Kim duyên may được về đất Tùng Châu xưa thắp hương cho Cụ Đào Duy Từ còn mãi với non sông, lại được cùng thầy bạn Mai Văn Quyền, Nguyễn Minh Hiếu, Nguyễn Thị Trúc Mai, Huien Trần Huệ Hoa khảo sát điền dã và tiếp xúc các tư liệu quý của Đào tộc Việt Nam, Châu tộc Việt Nam để lưu lại tư liệu nghiên cứu lịch sử này với bài họa vần cụ Long Giang Đỗ Phong Thuần và cảm khái về cuộc đời sự nghiệp của hai cụ Đào Công Châu Công

Bài viết mới trên CNM365 Tình yêu cuộc sống
DẠY VÀ HỌC
http://hoangkimvn.wordpress.com
CNM365, ngày mới nhất bấm vào đây cập nhật mỗi ngày

Video yêu thích
Nong Lam University
Kỷ niệm 65 năm Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh
Bài học quý giá biết chăm sóc sức khỏe
Secret Garden, Bí mật vườn thiêng 
KimYouTube

Trở về trang chính
Hoàng Kim Long, Ngọc Phương Nam, Thung dung, Dạy và Học, Việt Nam Học, Cây Lương thực Việt Nam, Tình yêu Cuộc sống, CNM365; Kim on LinkedIn, Kim on Facebook, Kim on Twitter

Xem tiếp >>

  Dạy và học 29 tháng 11(28-11-2021)

DẠY VÀ HỌC 29 THÁNG 11
Hoàng Kim
CNM365 Tình yêu cuộc sốngĐường về đất nở hoa; Thương nhớ Biển Hồ trà; Nhà tôi chim làm tổ; Cuối dòng sông là biển; Nam tiến của người Việt; Dạo chơi non nước Việt; Đại Lãnh nhạn quay về; Một gia đình yêu thương; Ta về trời đất Hồng Lam; Thơ Tứ tuyệt Hoàng Kim; Nhớ cây thông mùa đông; Bản Giốc và Ka Long; Công viên Tao Đàn HCM; Dạy học nghề làm vườn; Chợt gặp mai đầu suối; Thế giới trong mắt ai; Qua sông Thương bến nhớ; Cao Biền trong sử Việt; Chín điều lành hạnh phúc; Vui bước tới thảnh thơi; Thăm nhà cũ của Darwin; Châu Văn Tiếp Phú Yên; Lên Việt Bắc điểm hẹn; Suối Cheonggye chảy qua trung tâm thành phố Seoul, photo by Svdmolen (hình). Ngày 29 tháng 11 năm 1394, Hán Thành chính thức đổi tên thành Seoul do bởi quốc vương Triều Tiên Lý Thành Quế thiên đô từ Khai Kinh đến Hán Dương. Suối Cheonggye (Thanh Khê Xuyên) là một dòng suối đẹp dài 5,8 km chảy qua trung tâm thành phố Seoul, đổ vào sông Jungnangcheon, cuối cùng hợp lưu với sông Hán, đề án phục hồi dòng suối này do  Lee Myung-bak thị trưởng Seoul khởi xướng vào tháng 7 năm 2003 sau này ông là tổng thống Hàn Quốc. Ngày 29 tháng 11 năm 1945, nước Cộng hòa Liên bang Xã hội chủ nghĩa Nam Tư được thành lập dưới sự lãnh đạo của Josip Broz Tito gồm sáu nước liên bang  Bosna và Hercegovina, Croatia, Macedonia, Montenegro, Slovenia và Serbia. Trong Serbia có hai tỉnh tự trị là Vojvodina, Kosovo và Metohija. Cộng hòa Nam Tư ban đầu đứng về khối phía đông lúc khởi đầu Chiến tranh Lạnh, nhưng sau đó theo đuổi chính sách trung lập, và là thành viên sáng lập Phong trào không liên kết, sau chia rẽ Tito-Stalin năm 1948. Tổng thống Tito chết năm 1980, dẫn đến sự chia rẽ khiến cho nhà nước Nam Tư sụp đổ giải thể vào năm 1992 khởi đầu Chiến tranh Nam Tư; Bài chọn lọc ngày 29 tháng 11: Đường về đất nở hoa; Thương nhớ Biển Hồ trà; Nhà tôi chim làm tổ; Cuối dòng sông là biển; Nam tiến của người Việt; Dạo chơi non nước Việt; Đại Lãnh nhạn quay về; Một gia đình yêu thương; Ta về trời đất Hồng Lam; Thơ Tứ tuyệt Hoàng Kim; Nhớ cây thông mùa đông; Bản Giốc và Ka Long; Công viên Tao Đàn HCM; Dạy học nghề làm vườn; Chợt gặp mai đầu suối; Thế giới trong mắt ai; Qua sông Thương bến nhớ; Cao Biền trong sử Việt; Chín điều lành hạnh phúc; Vui bước tới thảnh thơi; Thăm nhà cũ của Darwin; Châu Văn Tiếp Phú Yên; Lên Việt Bắc điểm hẹn;Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-29-thang-11/ ;

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là loi-cu-ta-ve-dat-no-hoa.jpg

ĐƯỜNG VÊ ĐẤT NỞ HOA
Hoàng Kim

Viện đón ngày vui của chúng ta,
Thêm sáu hiền tài cất tiếng oa,
Cụ Phan xưa tài thơ ơn mẹ,
Thầy Đào nay giỏi nối công cha.
Đất lành lối đến người phúc hậu
Trời khiến đường về đất nở hoa
Thầy Quyền Phú Mỹ Hưng nhà mới
Đức độ người thân thích đến nhà.

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là cau-chuyen-anh-thang-11-3.jpg

Ngày 20 tháng 11 năm 2019, PGS TS. Đào Thế Anh Phó Giám đốc Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam đã cùng tiến sĩ Lê Quý Kha tổ chức Ngày Nhà Giáo Việt Nam và trao bằng cho sáu tân tiến sĩ của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam (4 khoa học cây trồng, 2 khoa học chăn nuôi. Sau khi dự lễ PGS TS. Đào Thế Anh đã cùng TS Hoàng Kim tới thăm vợ chồng giáo sư Mai Văn Quyền là người thân của cố GS Đào Thế Tuấn. “An nhiên phúc hậu thời thanh thản Lối cũ ta về đất nở hoa”

ThayHieu Que Choa nay thanh Noi

THẦY HIẾU NAY THÀNH NỘI
Hoàng Kim


Hơn chín mươi lăm triệu dân ta,
Nay lại vừa thêm một tiếng oa ,
Chúc cháu an lành vui lòng mẹ,
Mừng nhà thịnh vượng thỏa chí cha.
Đất Huế thanh trà thơm ngot trái
Trời Nam giống tốt lộc đầy hoa.
Thầy Hiếu quê choa nay thành nội
Phúc hậu đời thương phước đến nhà.

Ngày 29 tháng 11 năm 2017 thầy Nguyễn Minh Hiếu (
Hieu Nguyenminh​) là ‘Thượng thư bộ Học’ (Hiệu trưởng Đại học Nông Lâm Huế), nhà ở thành Nội, nay làm ông nội, một nhà làm Thầy Hiếu quê choa nay thành nội lúc 9g53 ngày 29 tháng 11 năm 2017 đúng thời điểm 9g53 lúc thầy Hiếu đăng FB ‘khoe’ được làm ông nội thì Dân số Việt Nam là 95929429 người, theo thống kê https://danso.org/viet-nam/

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là phan-boi-chau-tho-mung.jpg

THU VỀ QUẾ NỞ HOA
Phan Bội Châu

Hai mươi lăm triệu giống dòng ta,
Hôm trước nghe thêm một tiếng oa,
Mừng chị em mình vừa đáng mẹ,
Mong thằng bé nọ khéo in cha.
Gió đưa nam tới sen đầy hột,
Trời khiến thu về quế nở hoa.
Sinh tụ mười năm mong thế mãi,
Ấy nhà là nước, nước là nhà.

(*) Bài thơ cụ Phan Bội Châu chúc mừng cụ Đào Duy Anh, chúc phúc GS Đào Thế Tuấn là thân sinh của PGS TS. Đào Thế Anh (
The Anh Dao). Cụ Phan tiên đoán tương lai của ông không chỉ sẽ theo được mà còn làm rạng rỡ thêm truyền thống gia đình, nguyên vận Cụ Phan tài thơ viết lời chúc mừng và ơn người mẹ của giáo sư Đào Thế Tuấn. Bài thơ của Cụ Phan và những sự kiến mới gợi cảm hứng cho Hoàng Kim viết hai bài thơ trên.

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là toi-thuong-bien-ho-tra.jpg

QUÊ TÔI BIỂN HỒ TRÀ
Thích Giác Tâm


Tôi yêu sương sớm nơi này
Với làn gió nhẹ khẽ lay giấc nồng
Nhớ tịch lặng chốn cửa Không
Nhớ tình mẹ giữa mênh mông đồi trà
Nhớ núi lửa Chư Đăng Ya
Hàng thông trăm tuổi mù sa sáng chiều
Dã Quỳ thân phận liêu xiêu
Khi lên tuyệt đỉnh, khi nhiều lãng quên
Núi cao sông rộng êm đềm
Một lần đến lòng bỗng mềm nhớ nhung.

Ngày 27.11.2019
(Chùa Bửu Minh, Nghĩa Hưng, Chư Păh, Gia Lai)
Ảnh: Công Ngô.

THƯƠNG NHỚ BIỂN HỒ TRÀ
Hoàng Kim

Tôi thương chốn ấy vô cùng
Có người thân quý giữa vùng núi sông
Thương ai thánh thiện trong lòng
Thương điều phúc hậu thiền tông trau mình
Thương cha thương mẹ hiếu sinh
Bình an trăm tuổi nghĩa tình sắt son
Sương mai nắng sớm trăng non
Gió rừng mây núi phật môn ân tình
Trà Biển Hồ
Chua Buu Minh
Cao tăng bạn cũ chốn thiêng ta về

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là tra-bien-ho.jpg

TRÀ BIỂN HỒ
Hoàng Kim


Thương trà Biển Hồ
Chua Buu Minh
Sương che mờ sáng
Biển ẩn thâm xanh
Chẳng giấu được Tháp Hiền

Nhớ Trà Tân Cương
Cụ Phùng Cung
“Quất mãi nước sôi
Trà đau nát bã
Không đổi giọng Tân Cương”

Người hiền dân tin
Đất lành chim đậu
Trần Huyền Trang
Tháp Đại Nhạn
Thăm thẳm một góc nhìn.

Một đời người
Một ngôi chùa
Một Biển Hồ
Một bóng nắng
Một dát vàng
Gần trần nhưng thoát tục

Hai đôi mắt
Hai bầu sữa
Hai Nam Bắc
Hai sớm hôm
Hai tung hoàng
Xa lòng mà một ý

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là chim-phc6b0e1bba3ng-ve1bb81-lc3a0m-te1bb95.jpg

NHÀ TÔI CHIM LÀM TỔ
Hoàng Kim

Thích quá đi.
Nhà tôi có chim về làm tổ
Cây bồ đề cuối vườn
Cò đêm về trắng xóa.

Gốc me cho con
Xanh non màu lá
Ong đi rồi về
Sóc từng đàn nhởn nhơ.

Cây sơ ri ba mẹ trồng
Lúc con tuổi còn thơ
Nay như hai mâm xôi
Tròn đầy trước ngõ.

Cây mai Bác trồng
Bốn mùa hoa thương nhớ
Trúc xanh từ non thiêng Yên Tử
Trúc vàng ân nghĩa Đào Công.

Em ơi!
Hôm nay trên cây lộc vừng
Chim phượng về làm tồ
Mẹ dạy con tập bay
Sao mà đẹp thế !

Đá vàng trao hậu thế
Người hiền noi tiếng thơm …

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là hoa-mai.jpg

KHU VƯỜN THIÊNG CỔ TÍCH
Hoàng Kim

Anh đưa lối em vào
Khu vườn thiêng cổ tích
Nơi trời đất giao hòa
Ong làm mật yêu hoa
Lá non đùa nắng mới

Nhạc đồng xuân thung dung
Đắm say hòa quyện
Ban mai mù sương sớm
Trời xanh trong như ngọc
Nơi cá nước chim trời
Vui với thú an nhiên…

Nơi khoảng lặng đất trời
Khu cổ tích vườn thiêng
Gốc mai vàng trước ngõ
Giấc mơ lành yêu thương

Bồ đề ra lộc non

Cây bồ đề nhà tôi ra lá non

songdongnai

CUỐI DÒNG SÔNG LÀ BIỂN
Hoàng Kim

Hôm nay tôi nhận được thư của một bạn sinh viên đã ra Trường. Bạn ấy đọc Facebook và thích các bài viết CNM365Tình yêu cuộc sống của tôi. Bạn ấy hiểu Dạy và học ngày nay không chỉ trao truyền tri thúc mà còn thắp lên ngọn lửa. Bạn ấy thấu hiểu lời bài giảng mà chúng tôi luôn nhắc đi nhắc lại: “Mục đích sau cùng của dạy và học là thấu hiểu bản chất sự vật, có lời giải đúng và làm được việc” “Cái gốc của sự học là học làm người”. Bạn ấy hỏi như sau: “Thưa thầy! Con là Vương, lớp Nông học 14 Ninh Thuận. Con may mắn được biết thầy qua những bài giảng hay của Bộ môn Cây Lương thực Rau Hoa Quả. Con xin lỗi vì những kiến thức thầy truyền dạy con đã quên đi ít nhiều. Nhưng cái con vẫn còn nhớ và vẫn còn cảm nhận được mỗi khi con suy nghĩ và bắt gặp hình ảnh của thầy trên Facebook đó là thầy cho con cảm giác an lành, gần gũi và ấm áp nữa. Con đã đi làm nhưng vẫn băn khoăn về định hướng tương lai của mình. Con không rõ sứ mệnh cuộc đời con là gì? Con không biết là mình phải tự suy nghĩ về cái sứ mệnh đó hay phải trải qua các sự kiện trong đời rồi mình mới nhận ra sứ mệnh đó. Con cũng muốn được biết Con người sinh ra trên đời này để làm gì? Có phải họ sinh ra để rồi chết đi hay còn ý nghĩa nào khác nữa. Con biết thầy rất bận nhưng rất mong được thầy giải đáp. Nếu thầy chưa có thời gian thì con sẽ chờ để được thầy giải đáp ạ! Con mong thầy có nhiều sức khoẻ!” . Tôi đã trả lời “Tuyệt vời Dép Chính Chủ (là nick name của bạn ấy) Thầy sẽ sớm trả lời. Ý nghĩa cuộc sống, mời bạn đọc Minh triết sống phúc hậu, CNM365Tình yêu cuộc sống

Cuối dòng sông là biển đó là câu chuyện ẩn ngữ riêng chung, là câu chuyện dài cho những ai thích nhìn lại ý nghĩa cuộc đời, những giá trị di sản lắng đọng, nhìn lại sự được mất thành bại trong đời mình, tìm về giá trị đích thực của năm tháng đi qua chỉ tình yêu còn lại, tìm về cội nguồn lịch sử văn hóa dân tộc. Chúng ta đã đến lúc công tâm nhìn lại những giá trị lịch sử văn hóa di sản: 1. Phục sinh giữa tối sáng; 2. Dạo chơi non nước Việt; 3. Đi như một dòng sông; 4. Nam tiến của Người Việt. 5. Đoàn tụ đất phường Nam. Minh triết đời người là yêu thương; Cuối một dòng sông là cửa biển Niềm tin thắp lên nghị lực Yêu thương mở cửa thiên đường’. (thơ Hoàng Kim). Tôi đã đọc ‘Phục sinh’ và ‘Đường sống’ của Lev Tonstoy giữa hai vùng tối sáng, khi cuộc đời được trãi nghiệm qua các thời khắc sinh tử hiểm nghèo, đi trong vùng tối và lần tìm ra lối sáng minh triết. Ta chợt chứng ngộ thấu hiểu giá trị của các lời khuyên khôn ngoan tại nhiều cuộc đời danh nhân và và nhiều tác phẩm lớn. ‘Phục sinh’ ,‘Đường sống’ của Lev Tonstoy là sách đúc kết kiểu đó, khó đọc nhưng thật tuyệt vời. Cuối dòng sông là biển.

Văn Miếu Trấn Biên là nôi hội tụ gần sông Đồng Nai nơi cù lao Phố Biên Hòa. Đó là một điểm hẹn phục sinh của người Việt trên hành trình Nam tiến. Lớp sinh viên khóa 2 Trồng trọt, Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh chúng tôi đã về nơi đây dâng hương ghi ơn những người mở đường sống cho dân tộc Việt, tạo dựng nên nơi này.

Đời tôi xuôi phương Nam, thuận theo tự nhiên, lắng đọng ân tình đặc biệt của 5 lớp bạn hữu lớp trồng trọt khóa 4, lớp trồng trọt khóa 10 của Trường Đại học Nông nghiệp 2 Hà Bắc (đó cũng là Trường Đại học Nông Lâm Huế và Đại học Nông Lâm Bắc Giang ngày nay), với ba lớp 2a, 2b, 2c khóa 2 Trồng trọt của Trường Đại học Nông nghiệp 4 là Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh hiện tại. Tôi đã đi như một dòng sông; cuốn theo chiều gió; theo con đường dân tộc đang đi; Nam tiến của Người Việt. Sự trãi nghiệm hạnh phúc cá nhân thực ra nằm trong số phận đường sống của dân tộc. Cuối dòng sông là biển. Đó là giá trị lắng đọng

PHỤC SINH GIỮA TỐI SÁNG

Phục sinh là tiểu thuyết sau cùng của Lev Tonstoy, xuất bản năm 1899, thể hiện cô đọng đầy đủ, hệ thống nhất ước vọng, lòng nhiệt tâm, triết lý đạo đức của Tonstoy. Sách kể câu chuyện của Tolstoy một vị quý tộc tìm cách chuộc lại lỗi lầm phạm phải của mình từ nhiều năm trước và gửi gắm những ước muốn, quan điểm sống mới tình yêu cuộc sống. Maksim Gorky từng kể rằng Tolstoy đã bật khóc ngay trước mặt Gorky và Chekhov khi đọc phần kết của tác phẩm này. Tonstoy sau tác phẩm lớn Phục sinh đã chuyển hẳn nguồn năng lượng dồi dào cuối đời mình cho mảng truyện cổ tích và truyện ngụ ngôn kể cho trẻ em. Một số truyện ngụ ngôn của ông phỏng theo ngụ ngôn Ê dốp và từ truyện Hindu. Một tiểu thuyết ngắn khác, Hadji Murat, được xuất bản đồng thời vào năm 1912. Khoảng 20 năm cuối ông dành sức cho 365 suy niệm mỗi ngày.

Bá tước Lev Tolstoy.có tầm ảnh hưởng sâu rộng toàn cầu về văn chương và chính luận là điều không ai có thể nghi ngờ. “Chiến tranh và hòa bình” tác phẩm đỉnh cao của ông là đỉnh cao của trí tuệ con người, tiểu thuyết sử thi vĩ đại đưa Lev Tolstoy vào trái tim của nhân loại và  được yêu mến ở khắp mọi nơi trên thế giới. Tác phẩm “Chiến tranh và hòa bình được bình chọn là kiệt tác trong sách “Một trăm kiệt tác“ của hai nhà văn Nga nổi tiếng I.A.A-Bra- mốp và V.N. Đê-min do Nhà xuất bản Vê tre Liên bang Nga phát hành năm 1999, Nhà xuất bản Thế Giới Việt Nam phát hành sách này năm 2001 với tựa đề “Những kiệt tác của nhân loại“, dịch giả là Tôn Quang Tính, Tống Thị Việt Bắc và Trần Minh Tâm. “Chiến tranh và hòa bình” cũng được xây dựng thành bộ phim cùng tên do đạo diễn là Sergey Fedorovich Bondarchuk, công chiếu lần đầu năm 1965 và được phát hành ngày 28 tháng 4 năm 1968 tại Hoa Kỳ. Phim đoại giải thưởng Oscar phim nói tiếng nước ngoài xuất sắc nhất năm 1968 và danh tiếng mọi thời đại.

Lev Tolstoy sinh ngày 9 tháng 9 năm 1828, mất ngày  20 tháng 11 năm 1910, với kiệt tác “Chiến tranh và hoà bình” và “Anna Karenina” là đỉnh cao của sử thi và tiểu thuyết hiện thực cuộc sống Nga, được mệnh danh là tiểu thuyết gia vĩ đại nhất trong tất cả các nhà viết tiểu thuyết, con sư tử chúa tể sơn lâm trên đại ngàn văn chương Nga. Lev Tonstoy không chỉ là nhà văn kiệt xuất mà còn là một minh sư, một nhà tư tưởng vĩ đại và một bậc hiền minh, nhà đạo đức có tiếng với tư tưởng chống lại cái ác thể hiện xuyên suốt trong tác phẩm “Vương quốc Chúa Trời trong bạn” (tiếng Anh: The Kingdom of God Is Within You), đã ảnh hưởng tới những hình tượng của thế kỷ 20 như Mahatma Gandhi và Martin Luther King. Lev Tonstoy là người theo chủ nghĩa hoà bình, nhà cải cách giáo dục, người ăn chay, người theo chủ nghĩa vô chính phủ tín đồ Cơ Đốc, nhà tư tưởng đạo đức, và là một thành viên có ảnh hưởng của gia đình Tolstoy.

Lev Tonstoy khởi đầu những cột mốc lớn trong chặng đường tư tưởng của mình bằng bộ ba cuốn tiểu thuyết tự truyện xuất bản đầu tiên năm 1852 -1856 gồm “Thời thơ ấu”, “Thời niên thiếu”, và “Thời tuổi trẻ”  sau đó đến các kiệt tác “Chiến tranh và Hòa bình, Anna Karenina, Phục sinh, Đường sống, sách cổ tích ngụ ngôn cho trẻ em, người lớn và cuối cùng là suy niệm mỗi ngày. Đó là một kho tàng trí tuệ minh triết vĩ đại của một bậc Thầy. Tôi lắng nghe một lời nói thăm thẳm từ nhận thức của đạo Bụt:  “Ngươi theo tay ta chỉ. Kia là mặt trăng. Nên nhớ: Ngón tay ta không là mặt trăng”.

Lev Tonstoy ngay trang đầu Phục sinh chép lời Luca, VI, 40. “Học trò không hơn được Thầy; nhưng học trò nào tu hành trọn đạo thì tất sẽ được như Thầy”. Kia là mặt trăng. Đức Nhân Tông viết “Hãy quay về với tự thân chứ không tìm ở đâu khác“. Phục sinh. Lên Yên tử

Tôi bừng tỉnh ngộ.

xem tiếp
Cuối dòng sông là biển

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là tai-sao-nam-tu.jpg

CHUYỆN NAM TƯ TẠI SAO?
Hoàng Kim

Nam Tư bị xé nát gần đây. Chuyện Nam Tư tại sao? Lịch sử chiến tranh thế giới thứ hai theo quốc gia như thế nào?. Nam Tư trong tương quan chính tri của một thế giới biến động. Đó là một uẩn khúc lịch sử, một câu chuyện dài đau đớn và bài học lớn về chủ quyền quốc gia, độc lập và thống nhất Tổ quốc.

Tại sao Nam Tư hợp rồi tan?

Nam Tư dưới sự lãnh đạo của Josip Broz Tito đã chuyển từ Vương quốc Nam Tư thành chính thể cộng hòa liên bang Cộng hòa Liên bang Xã hội chủ nghĩa Nam Tư đứng đầu khối phía đông vào lúc bắt đầu Chiến tranh Lạnh. Tuy nhiên sau chia rẽ Tito-Stalin năm 1948 thì liên bang này đã theo đuổi một chính sách trung lập, và trở thành một trong những thành viên sáng lập của Phong trào không liên kết. Sau cái chết của Tito năm 1980, sự chia rẽ giữa các dân tộc trong các nước cộng hòa thành viên, tiếp theo là các cuộc đàm phán bất thành giữa các nước cộng hòa kèm theo sự công nhận độc lập của một số quốc gia châu Âu năm 1991 đã  khiến cho nhà nước Nam Tư bắt đầu sụp đổ và khởi đầu Chiến tranh Nam Tư.

Đọc lại các cuộc đối thoại của Stalin và Josip Broz Tito. Họ đều là những nhân vật lịch sử lưu lại những dấu ấn khó phai mờ, và sự thiếu vắng họ đều dẫn đến kết cục thay đổi. Tại sao Nam Tư hợp rồi tan? Tại sao Serbia lại như hiện nay? Nghiên cứu lịch sử sẽ tìm ra câu trả lời này.

So sánh Nam Tư Mông Cổ

Chép lại một phần chuyện vỉa hè tư liệu “đối thoại của Stalin và Tưởng Kinh Quốc về Mông Cổ” đọc ở “Điếu Ngư Đài Quốc Sự Phong Vân”, lược bớt lời bình. Ghi chú thêm về
Nam Tư để thấu hiểu tình hình hiện tại. “Hoạ phúc hữu môi phi nhất nhật, Anh hùng di hận kỉ thiên niên”. Họa phúc có nguồn, đâu bỗng chốc? Anh hùng để hận dễ gì nguôi ? (Quan hải- Nguyễn Trãi). Đọc lại và suy ngẫm.

Chuyện rằng: “… Tưởng Kinh Quốc bí mật gặp Stalin, cố gắng đấu lý. Hôm sau Tống Tử Văn gửi điện cho Tưởng Giới Thạch, báo cáo tình hình hội đàm và đề nghị Tưởng xem xét mấy phương án như sau:

Thứ nhất, Trung Quốc ký hiệp định liên minh với Liên Xô, cho phép Liên Xô đóng quân tại Mông Cổ; thứ hai, để Ngoại Mông Cổ thực hiện “tự trị cao độ”; thứ ba, Ngoại Mông Cổ có quyền tự chủ về quân sự, nội chính và ngoại giao, nhưng không có tính chất là một nước cộng hòa liên bang Xô Viết.

Người Mỹ rất quan tâm tới cuộc đàm phán Trung Quốc-Liên Xô. Tổng thống Truman bảo Bộ trưởng Ngoại giao Byrnes chuyển tới Chính phủ Trung Quốc ý kiến như sau: “Chưa thảo luận cách giải thích về địa vị của Ngoại Mông Cổ trong hiệp định Yalta; Chính phủ Mỹ cho rằng tuy về pháp lý thì chủ quyền Ngoại Mông Cổ vẫn thuộc Trung Quốc, nhưng trên thực tế chủ quyền ấy chưa được hành xử.”

Tống Tử Văn nắm lấy lời văn “phải duy trì hiện trạng của Ngoại Mông Cổ” trong hiệp định Yalta để đấu lý. Ông kiên trì nói hiện trạng đó tức là chủ quyền của Ngoại Mông Cổ vẫn thuộc về Trung Quốc. Còn Stalin thì nói rõ Liên Xô yêu cầu Trung Quốc thừa nhận Ngoại Mông Cổ độc lập. Hai cách nói này tuy diễn tả cùng một sự thật nhưng ảnh hưởng thì lại khác nhau xa.

Dĩ nhiên Tưởng Giới Thạch hiểu rõ sự hơn thiệt trong đó. Thấy trên bàn đàm phán đã tạm thời bất đồng, Tưởng Giới Thạch bèn điện cho Tưởng Kinh Quốc, bảo Quốc lấy danh nghĩa cá nhân gặp riêng Stalin.

Tưởng Kinh Quốc nhớ lại:

Khi gặp nhau tại nhà riêng của Stalin, lúc đó tôi có nói: “Người Trung Quốc chúng tôi kiên trì kháng chiến chống Nhật là để thu hồi lãnh thổ đã bị mất. Hiện giờ Nhật còn chưa thua mà [chúng tôi] đã cắt nhượng một vùng đất rộng như Ngoại Mông Cổ thì cuộc kháng chiến của chúng tôi còn có ý nghĩa gì? Quốc dân Trung Quốc nhất định sẽ chửi chúng tôi là đồ bán nước.”

Vì đã là chỗ gặp riêng nên Stalin cũng bớt dùng các lời lẽ ngoại giao mà nói thẳng thừng với Tưởng Kinh Quốc: “Ông nói rất có lý, nhưng có điều ông cần biết rằng hôm nay không phải là tôi cầu xin ông mà là ông đến xin tôi giúp. Nếu các ông có đủ sức đánh bại người Nhật thì dĩ nhiên tôi sẽ không nói gì. Nhưng các ông không đủ sức thì những lời vừa rồi ông nói là vô ích.”

Tưởng Kinh Quốc nói: “Ngài chẳng cần lo ngại Ngoại Mông Cổ đe dọa sự an toàn của Liên Xô. Sau khi Nhật thua trận, nước Nhật sẽ không còn ngoi dậy được nữa. Chỉ Trung Quốc mới có thể tấn công Liên Xô từ Ngoại Mông Cổ, nhưng bây giờ hai nước chúng ta có thể liên minh với nhau, Trung Quốc bảo đảm ít nhất hữu hảo với Liên Xô trong ba chục năm. Ngài cũng biết đấy, cứ cho là Trung Quốc muốn đánh Liên Xô thì cũng chẳng có sức mà đánh.”

Stalin lắc đầu: “Ông nhầm rồi. Thứ nhất, cứ cho là Nhật thua thì dân tộc ấy cũng không bị tiêu diệt. Nếu người Mỹ tiếp quản nước Nhật thì không quá 5 năm sau Nhật sẽ bò dậy.”

Tưởng Kinh Quốc nói xen vào: “Nếu Liên Xô tiếp quản nước Nhật thì sao?”

“Tôi tiếp quản ấy à, cũng chẳng qua lui lại thêm 5 năm thôi.” Stalin nói tiếp: “Thứ hai, hiện nay Trung Quốc không đủ sức đánh chúng tôi, nhưng chỉ cần Trung Quốc thống nhất thì các ông sẽ tiến nhanh hơn bất cứ nước nào. ÔNG NÓI LIÊN MINH VỚI NHAU, BÂY GIỜ VÌ TÔI KHÔNG COI ÔNG LÀ NHÀ NGOẠI GIAO NÊN TÔI NÓI THẬT VỚI ÔNG NHÉ: HIỆP ƯỚC LÀ THỨ KHÔNG ĐÁNG TIN ĐÂU”.

Tưởng Kinh Quốc không biết nói gì nữa.

Stalin nói tiếp: “Còn có nguyên nhân thứ ba, cứ cho là Nhật và Trung Quốc không đủ sức qua Ngoại Mông Cổ đánh Liên Xô, điều đó không có nghĩa là không có những lực lượng khác tấn công Liên Xô.”

“Mỹ chăng?” Tưởng Kinh Quốc hỏi.

Xem tiếp >>

  Dạy và học 28 tháng 11(28-11-2021)


DẠY VÀ HỌC 28 THÁNG 11
Hoàng Kim
CNM365 Tình yêu cuộc sốngNam tiến của người Việt; Dạo chơi non nước Việt; Đại Lãnh nhạn quay về; Cuối dòng sông là biển; Một gia đình yêu thương; Ta về trời đất Hồng Lam; Thơ Tứ tuyệt Hoàng Kim; Nhớ cây thông mùa đông; Bản Giốc và Ka Long; Công viên Tao Đàn HCM; Dạy học nghề làm vườn; Chợt gặp mai đầu suối; Thế giới trong mắt ai; Qua sông Thương bến nhớ; Cao Biền trong sử Việt; Chín điều lành hạnh phúc; Vui bước tới thảnh thơi; Thăm nhà cũ của Darwin; Châu Văn Tiếp Phú Yên; Lên Việt Bắc điểm hẹn; Núi Đá Bia ở Đèo Cả, Phú Yên là ngọn núi cao nhất trong khối núi Đại Lãnh (hình).  Ngày 28 tháng 11 năm 1470 nhằm ngày 6 tháng 11 âm lịch năm Canh Dần, vua Lê Thánh Tông  hạ chiếu lệnh xuất quân đánh Chiêm Thành tuyên đọc trước 26 vạn quân.Kết quả kinh đô Chà Bàn (Vijaya) của người Chăm thất thủ. Lãnh thổ Đại Việt sau lần Nam tiến năm ấy đã mở rộng từ đèo Hải Vân tới bắc Phú Yên. Tháng 6 năm 1471, vua Lê Thánh Tông, đã sáp nhập lãnh thổ Chiêm Thành Chăm Pa vào Đại Việt, lập thành thừa tuyên Quảng Nam và vệ Thăng Hoa, bình định Việt hóa dân chúng người Chăm.  Ngày 28 tháng 11 năm 1912 là ngày Albania  tuyên bố độc lập thoát khỏi Đế quốc Ottoman. Nước Albania có bờ biển Adriatic phía tây và bờ biển Ionian ở tây nam, biên giới với Montenegro ở phía bắc, Serbia ở phía đông bắc, Cộng hoà Macedonia ở phía đông, Hy Lạp ở phía nam. Albania là quốc gia duy nhất ở Châu Âu bảo vệ và che chở cho toàn bộ dân cư Do Thái người nước mình và nước ngoài trong cuộc diệt chủng người Do Thái của Thế chiến II. Albania hiện nay ưu tiên hội nhập châu Âu và phát triển quan hệ với Mỹ, Thổ Nhĩ Kỳ, Italia và Hy Lạp, chú trọng quan hệ với các nước láng giềng và các nước châu Á như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Malaysia; Ngày 28 tháng 11 là ngày kỷ niệm thành lập ngành Lâm nghiệp Việt Nam; Bài chọn lọc ngày 28 tháng 11: Nam tiến của người Việt; Dạo chơi non nước Việt; Đại Lãnh nhạn quay về; Cuối dòng sông là biển; Một gia đình yêu thương; Ta về trời đất Hồng Lam; Thơ Tứ tuyệt Hoàng Kim; Nhớ cây thông mùa đông; Bản Giốc và Ka Long; Công viên Tao Đàn HCM; Dạy học nghề làm vườn; Chợt gặp mai đầu suối; Thế giới trong mắt ai; Qua sông Thương bến nhớ; Cao Biền trong sử Việt; Chín điều lành hạnh phúc; Vui bước tới thảnh thơi; Thăm nhà cũ của Darwin; Châu Văn Tiếp Phú Yên; Lên Việt Bắc điểm hẹn; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcm.uaf.edu.vn/hoangkimlong:https://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-28-thang-11/

NAM TIẾN CỦA NGƯỜI VIỆT
Hoàng Kim, Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long

Nam tiến là xu thế tự nhiên, tất yếu của lịch sử người Việt. Bản đồ đất nước Việt Nam qua các đời và bài viết dưới đây là một tóm tắt dẫn liệu toàn cảnh lịch sử Nam tiến của người Việt từ thời Lý cho đến nay. Hành trình Nam tiến kéo dài trên 700 năm từ thế kỷ 11 đến giữa thế kỷ 18, nâng diện tích lãnh thổ từ ban đầu độc lập (năm 938; xem thêm (Đá Đứng chốn sông thiêng, Cao Biền trong sử Việt) cho đến nay lãnh thổ Việt Nam hình thành và tồn tại với tổng diện tích gấp 3 lần (sông Sài Gòn, ảnh HK).

Tác phẩm”Nỗi niềm Biển Đông”của nhà văn Nguyên Ngọc dẫn lời của giáo sư Đào Duy Anh là một khái quát gọn nhất và rõ nhất về hai phân kỳ Lịch sử Việt Nam; nguồn gốc và động lực Nam Tiến:

Mở đầu cuốn Việt Nam văn hóa sử cương, cụ Đào Duy Anh viết: “Khắp một vùng trung châu Bắc Việt, không mẩu đất nào là không có dấu vết thảm đảm kinh dinh của tổ tiên ta để giành quyền sống với vạn vật; suốt một dải Trung Việt vào đến trung châu Nam Việt, không một khúc đường nào là không nhắc lại sự nghiệp gian nan tiến thủ của tổ tiên ta để mở rộng hy vọng cho tương lai.” Thật ngắn gọn, thật súc tich, vị học giả cao kiến đã đúc kết chặt chẽ và cực kỳ chính xác hai chặng đường lớn mấy thiên niên kỷ của dân tộc; và chỉ bằng mấy chữ cô đọng, chỉ ra không thể rõ hơn nữa đặc điểm cơ bản của mỗi chặng, có ý nghĩa không chỉ để nhìn nhận quá khứ, mà còn để suy nghĩ về hôm nay và ngày mai – những suy nghĩ, lạ thay, dường như đang càng ngày càng trở nên nóng bỏng, cấp thiết hơn.

Chặng thứ nhất, tổ tiên ta, từ những rừng núi chật hẹp phía bắc và tây bắc, quyết chí lao xuống chiếm lĩnh hai vùng châu thổ lớn sông Hồng và sông Mã, mênh mông và vô cùng hoang vu, toàn bùn lầy chưa kịp sánh đặc, “thảm đảm kinh dinh để giành quyền sống với vạn vật” – mấy chữ mới thống thiết làm sao – hơn một nghìn năm vật lộn dai dẳng giành giật với sóng nước, với bùn lầy, với bão tố, với thuồng luồng, cá sấu … để từng ngày, từng đêm, từng giờ, vắt khô từng tấc đất, cắm xuống đấy một cây vẹt, một cây mắm, rồi một cây đước, ngày này qua ngày khác, tháng này qua tháng khác, năm  này qua năm khác, trăm năm này qua trăm năm khác, khi đất đã được vắt khô, được rửa mặn và ứng đặc, cắm xuống đấy một cây tạo bóng mát, rồi một cây ăn quả, một cây lúa, một mảnh lúa, rồi một đồng lúa …, tạo nên chỗ đứng chân cho từng con người, từng đôi lứa, từng gia đình, rồi từng cộng đồng, từng xóm mạc, từng làng, từng tổng, từng huyện, …cho đến toàn dân tộc, toàn xã hội, lập nên nửa phần là gốc cội của giang sơn ta ngày nay. Và hẳn còn phải nói thêm điều này nữa, cuộc thảm đạm kinh dinh vật lộn với thiên nhiên ấy lại còn phải cọng thêm cuộc vật lộn cũng dai dẳng, quyết liệt, không hề kém can trường và thông minh, để sáng tạo, định hình và gìn giữ một bản sắc Việt riêng giữa trăm Việt, là một Việt độc đáo và đặc sắc, không bị hòa tan bởi một thế lực hung hản, khổng lồ, luôn muốn xóa bỏ và hòa tan tất cả …   Hơn một thiên niên kỷ thiết lập và trụ vững, tạo nên nền tảng vững bền, để bước sang chặng thứ hai.

Chặng thứ hai, như cụ Đào Duy Anh đã đúc kết cũng thật ngắn gọn và chính xác, “gian nan tiến thủ để mở rộng hy vọng cho tương lai”.  Trên gốc cội ấy rồi, đi về đâu? Chỉ còn một con đường duy nhất: Về Nam. Có lẽ cũng phải nói rõ điều này: trước hết, khi đã đứng chân được trên châu thổ sông Hồng sông Mã rồi, kháng cự vô cùng dũng cảm và thông minh suốt một nghìn năm để vẫn là một Việt đặc sắc không gì đồng hóa được rồi, thì mối uy hiếp bị thôn tính đến từ phương bắc vẫn thường xuyên và mãi mãi thường trực. Không nối dài được giang sơn cho đến tận Cà Mau và Hà Tiên thì không thể nào bắc cự. Ở bước đường chiến lược này của dân tộc có cả hai khía cạnh đều hết sức trọng yếu. Khía cạnh thứ nhất: phải tạo được một hậu phương thật sâu thì mới đủ sức và đủ thế linh hoạt để kháng cự với mưu đồ thôn tính thường trực kia. Lịch sử suốt từ Đinh Lê Lý Trần Lê, và cả cuộc chiến tuyệt vời của Nguyễn Huệ đã chứng minh càng về sau càng rõ điều đó. Chỉ xin nhắc lại một sự kiện nghe có thể lạ: chỉ vừa chấm dứt được 1000 năm bắc thuộc bằng trận đại thắng của Ngô Quyền, thì Lê Hoàn đã có trận đánh sâu về phương nam đến tận Indrapura tức Đồng Dương, nam sông Thu Bồn của Quảng Nam. Đủ biết cha ông ta đã tính toán sớm và sâu về vai trò của phương Nam trong thế trận tất yếu phải đứng vững lâu dài của dân tộc trước phương bắc như thế nào.

 Khía cạnh thứ hai, vừa gắn chặt với khía cạnh thứ nhất, vừa là một “bước tiến thủ” mới “mở rộng hy vọng cho tương lai”, như cách nói sâu sắc của cụ Đào Duy Anh. Bởi có một triết lý thấu suốt: chỉ có thể giữ bằng cách mở, giữ để mà mở, mở để mà giữ. Phải mở rộng hy vọng cho tương lai thì mới có thể tồn tại. Tồn tại bao giờ cũng có nghĩa là phát triển. Đi về Nam là phát triển. Là mở. Không chỉ mở đất đai. Càng quan trọng hơn nhiều là mở tầm nhìn. Có thể nói, suốt một thiên niên kỷ trước, do cuộc thảm đảm kinh dinh để giành dật sự sống với vạn vật  còn quá vật vã gian nan, mà người Việt chủ yếu mới cắm cúi nhìn xuống đất, giành thêm được một một mẩu đất là thêm được một mẩu sống còn. Bây giờ đã khác. Đã có 1000 năm lịch sử để chuẩn bị, đã có thời gian và vô số thử thách để tạo được một bản lĩnh, đã có trước mặt một không gian thoáng đảng để không chỉ nhìn xa mãi về nam, mà là nhìn ra bốn hướng. Nhìn ra biển. Phát hiện ra biển, biển một bên và ta một bên, mà lâu nay ta chưa có thể toàn tâm chú ý đến. Hay thay và cũng tuyệt thay, đi về Nam, người Việt lại cũng đồng thời nhìn ra biển, nhận ra biển, nhận ra không gian sống mới, không gian sinh tồn và phát triển mới mệnh mông của mình. Hôm nay tôi được ban tổ chức tọa đàm giao cho đề tài có tên là “nổi niềm Biển Đông”. Tôi xin nói rằng chính bằng việc đi về nam, trên con đường đi ngày càng xa về nam mà trong tâm tình Việt đã có được nổi niềm biển, nổi niềm Biển Đông. Cũng không phải ngẫu nhiên mà từ đó, nghĩa là từ đầu thiên niên kỷ thứ hai, với nổi niềm biển ngày càng thấm sâu trong máu Việt, cha ông ta, người dân Việt, và các Nhà nước Việt liên tục, đã rất sớm khẳng định chủ quyền Việt Nam trên các hải đảo và thểm lục địa “.

Nam Tien cua nguoi Viet 2


Nam Tiến của người Việt từ thời tự chủ đến nay được chia làm ba giai đoạn chính:

Giai đoạn 1 từ năm 1009 khởi đầu nhà Lý  cho đến năm 1525 khởi đầu nhà Mạc, trãi Đinh, Tiền Lê, Nhà Lý, Nhà Trần (1226-1400), Nhà Hồ (1400- 1407),  Nhà Lê sơ (1428-1527). Cương vực nước Đại Việt là bản đồ màu xanh đến ranh giới đèo Ngang hoặc sông Gianh ranh giới Hà Tĩnh và Quảng Bình ngày nay. Giải đất các đồng bằng nhỏ ven biển Nam Trung Bộ suốt thời kỳ này là sự giành đi chiếm lại của Đại Việt và Chiêm Thành.Đây là giai đoạn đầu mới giành được độc lập tự chủ, lãnh thổ Đại Việt bao gồm khu vực đồng bằng châu thổ sông Hồng, các đồng bằng nhỏ ven biển Bắc Trung Bộ. Sông Gianh là cực nam của đất nước.

Giai đoạn 2 từ năm 1526 khởi đầu nhà Mạc của nước Đại Việt đến năm 1693 kết thúc việc sáp nhập Chiêm Thành vào Đại Việt và đến năm 1816 sáp nhập hoàn toàn Chân Lạp, Tây Nguyên với các hải đảo vào lãnh thổ của nước Đại Nam thời Minh Mệnh nhà Nguyễn để có ranh giới cương vực như hiện nay. Thời kỳ này trãi từ Nhà Mạc (1527- 1592), Nhà Lê trung hưng (1533-1789), Trịnh-Nguyễn phân tranh,  nhà Tây Sơn (1778- 1802) Chiến tranh Tây Sơn–Chúa Nguyễn (1789-1802) Việt Nam thời Nhà Nguyễn (1804-1839). Bản đồ cương vực màu  xanh gồm khu vực đồng bằng châu thổ sông Hồng, các đồng bằng nhỏ ven biển Bắc Trung Bộ thuộc Đằng Ngoài, cương vực màu vàng từ địa đầu Quảng Bình đến đèo Cù Mông tỉnh Phú Yên, bao gồm các đồng bằng nhỏ ven biển Nam Trung Bộ, Tây Nguyên  thuộc Đàng Trong, Từ năm 1693 cho đến năm 1839 lãnh thổ Việt Nam lần lượt bao gồm  Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long với các hải đảo .

Giai đoạn 3 từ năm 1839 cho đến nay, bao gồm:  Đại Nam thời Nhà Nguyễn (1839- 1945); Thời Pháp thuộc Liên bang Đông Dương (nhập chung với Lào, Campuchia, Quảng Châu Loan 1887 -1945); Giai đoạn từ năm 1945 đến nay (Đế quốc Việt Nam: tháng 4 năm 1945 – tháng 8 năm 1945 dưới thời chính phủ Trần Trọng Kim; Việt Nam Dân chủ Cộng hòa: từ 2 tháng 9 năm 1945 đến 2 tháng 7 năm 1976; Quốc gia Việt Nam: dựng lên từ 1949 đến 1955 với quốc trưởng Bảo Đại bởi chính quyền Pháp; Việt Nam Cộng hòa: tồn tại với danh nghĩa kế tục Quốc gia Việt Nam từ 1955 đến 30 tháng 4 năm 1975 tại miền Nam; Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam sau là Cộng hoà Miền Nam Việt Nam: từ 8 tháng 6 năm 1960 đến 2 tháng 7 năm 1976; Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam: từ ngày 2 tháng 7 năm 1976 đến nay).

Đặc trưng cương vực giai đoạn 1 là Sông Giang làm cực Nam của Đằng Ngoài khi chân chúa Nguyễn Hoàng sáng nghiệp đất Đằng Trong. Năm 1558, chúa Nguyễn Hoàng đã cùng với con em vùng đất Thanh Nghệ vào trấn nhậm ở đất Thuận Hóa Quảng Nam, lấy Hoành Sơn, Linh Giang và Luỹ Thầy sau này làm trường thành chắn Bắc. Nguyễn Hoàng đã có những chính sách hiệu quả để phát triển vùng đất Đằng Trong mở rộng lãnh thổ về phương Nam. Các hậu duệ của Nguyễn Hoàng tiếp tục chính sách  bắc cự nhà Trịnh, nam mở mang đất, đến năm 1693 thì sáp nhập toàn bộ đất đai Chiêm Thành vào Đại Việt.

Đặc trưng cương vực giai đoạn 2 là Núi  Đại Lãnh và núi đá Bia tỉnh Phú Yên là chỉ dấu quan trọng Nam tiến của người Việt từ thế kỷ 11 đến cuối thế kỷ 17. Lê Hoàn năm 982 đem quân đánh Chiêm Thành mở đất phương Nam là lần xuất chinh sớm nhất của Đại Việt, và năm 1693 là năm cuối cùng toàn bộ phần đất Chiêm Thành ở Phú Yên sáp nhập hoàn toàn vào Đại Việt.

Vua Lê Thánh Tông năm 1471 khi vua thân chinh cầm quân tấn công Chiêm Thành  tương truyền đã dừng tại chân núi đá Bia và cho quân lính trèo lên khắc ghi rõ cương vực Đại Việt. Thời Nhà Nguyễn, đến năm 1816 thì sáp nhập toàn bộ đất đai Chân Lạp, Tây Nguyên và các hải đảo vào lãnh thổ Đại Nam. Kể từ lần xuất chinh đầu tiên của Lê Hoàn từ năm 982 đến năm 1693 trãi 711 năm qua nhiều triều đại, hai vùng đất Đại Việt Chiêm Thành mới quy về một mối. Người Việt đã đi như một dòng sông lớn xuôi về biển, có khi hiền hòa có khi hung dữ, với ba lần hôn phối một lần thời Trần (Huyền Trân Công Chúa) và hai lần thời Nguyễn (Ngọc Khoa Công Chúa và Ngọc Vạn Công Chúa), với chín lần chiến tranh lớn  nhỏ đã hòa máu huyết người Việt với người Chiêm để bước qua lời nguyền núi đá Bia ở núi Phú Yên thực hiện công cuộc “gian nan tiến thủ để mở rộng hy vọng cho tương lai”, cho đến năm 1834 thành nước Đại Nam và sau trở thành nước Việt Nam như ngày nay.

Đặc trưng cương vực giai đoạn 3 là vị thế nước Việt Nam độc lập toàn vẹn ngày nay. Chủ tịch Hồ Chí Minh người đặt nền móng cho một nước Việt Nam mới đã kiên quyết khôn khéo nhanh tay giành được chính quyền và lập nên nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, bởi Pháp bại Nhật hàng vua Bảo Đại thoái vị. Bác nói và làm những điều rất hợp lòng dân: “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một; sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý ấy không bao giờ thay đổi”. “Nay, tôi chỉ có một tin tưởng vào Dân tộc độc lập. Nếu (tôi) cần có đảng phái thì sẽ là Đảng dân tộc Việt Nam. Đảng đó sẽ chỉ có một mục đích làm cho dân tộc ta hoàn toàn độc lập. Đảng viên của đảng đó sẽ là tất cả quốc dân Việt Nam, trừ những kẻ phản quốc và những kẻ tham ô ra ngoài.

CHỐN TỔ CỦA NGƯỜI VIỆT

Việt Nam nôi người Việt là vùng đất Rồng Tiên Văn Lang và Việt Thường xưa. Đất Rồng là Tam giác châu Bắc Bộ, chốn tổ nghề lúa Việt Nam và Thế giới; non Tiên là đất Việt Thường.

Vùng tam giác châu Bắc Bộ với ba đỉnh Việt Trì, Ninh Bình, Quảng Ninh, có trọng tâm là Hoàng Thành Thăng Long, thủ đô Hà Nội ngày nay. Hoàng Thành Thăng Long Hà Nội với Hưng Yên, Cổ Loa là địa danh nghiên cứu lịch sử văn hóa dân tộc Việt đặc biệt quan trọng . Giáo sư Trần Quốc Vượng tại lời tựa sách “Địa chí văn hóa dân gian Ninh Bình” do Trương Đình Tuyển chủ biên (Nhà Xuất bản Thế Giới, Hà Nội, xuất bản năm 2004, 678 trang) đã trích dẫn Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi nói về địa thế hiểm yếu của non sông Việt:

Từng nghe:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác

Đỉnh thứ nhất của tam giác châu Bắc Bộ ở đỉnh Tản Viên của dãy núi Ba Vì ở Việt Trì thuộc tỉnh Phú Thọ, nằm ở tả ngạn sông Hồng, bên kia là huyện Ba Vì, Hà Nội. Việt Trì là thành phố địa chính trị văn hóa lịch sử Việt Nam, nơi có kinh đô Văn Lang, kinh đô đầu tiên của người Việt, quê hương đất tổ vua Hùng, cửa ngõ vùng Tây Bắc, đầu mối giao thông nối giữa các tỉnh trung du và miền núi phía bắc với thủ đô Hà Nội và các tỉnh đồng bằng Bắc bộ, nằm trên hành lang kinh tế Hải Phòng – Hà Nội – Côn Minh (Trung Quốc). Việt Trì cũng là thành phố ngã ba sông nơi hợp lưu của sông Thao, sông Lô, sông Đà thành sông Hồng.

Đỉnh thứ hai của tam giác châu Bắc Bộ ở núi Yên Tử thuộc tỉnh Quảng Ninh nơi có Quần thể di tích danh thắng Yên Tử ở Bắc Giang và Quảng Ninh. Đây là quần thể danh thắng đặc biệt nổi tiếng liên tỉnh đầu tiên ở Việt Nam được đệ trình Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hiệp quốc UNESCO xem xét, công nhận là Di sản thế giới. Việt Trì nối với Quảng Ninh là dải Tam Đảo nối 99 ngọn Nham Biền với dãy núi vòng cung Đông Triều tạo nên thế hiểm “trường thành chắn Bắc”, bề dày núi non hiểm trở khoảng 400 km núi đá che chắn mặt Bắc của thủ đô Hà Nội non sông Việt.

Đỉnh thứ ba của tam giác châu huyền thoại Bắc Bộ ở núi Mây Bạc của Dãy núi Tam Điệp thuộc khu vực Tam Điệp–Tràng An của ba tỉnh  Hòa Bình, Ninh Bình và Thanh Hóa. Dãy núi Tam Điệp là dải núi cuối cùng của dãy núi Ba Vì từ đỉnh tam giác châu Tản Viên, Việt Trì rồi 99 ngọn chạy dọc sông Đáy, sông Hoàng Long mà tới vùng Thần Phù Nga Sơn đâm ra gần sát biển theo hướng Tây Bắc Đông Nam. Đây cũng là vùng quần thể di sản thế giới Tràng An nơi có chùa Bái Đính là quần thể chùa có nhiều kỷ lục châu Á và Việt Nam được xác lập như chùa có tượng Phật bằng đồng dát vàng lớn nhất châu Á, chùa có hành lang La Hán dài nhất châu Á, chùa có tượng Di lặc bằng đồng lớn nhất Đông Nam Á

Sông Hoàng Long
Hoàng Kim

Sông Hoàng Long sông Hoàng Long
Nguồn nước yêu thương chảy giữa lòng
Bái Đính, Tràng An nôi người Việt
Cao Sơn thăm thẳm đức Minh Không.

Dãy núi Tam Điệp, sông Hoàng Long và khu vực Tam Điệp Tràng An là nôi loài người Việt cổ thuộc nền văn hóa Tràng An thời kỳ đồ đá cũ và một số hang động ở Tam Điệp có di chỉ cư trú của con người thời văn hóa Hòa Bình. Vùng đất này là chốn tổ của nghề lúa châu Á và Thế Giới. Dãy núi Tam Điệp , sông Hoàng Long cắt ngang vùng đồng bằng duyên hải thành hai phần châu thổ sông Hồng và sông Mã nên nó được xem là ranh giới giữa miền Bắc và miền Trung. Dãy núi Tam Điệp là bức tường thành thiên nhiên lợi hại ngăn cách hai vùng Ninh Bình Thanh Hoá và án ngữ các đường thuỷ bộ từ Bắc vào Nam, đường bộ qua đèo Tam Điệp, đường thuỷ qua cửa Thần Phù. Dãy núi Tam Điệp chứa đựng nhiều giá trị địa chính trị, lịch sử, văn hóa với vai trò là nôi người Việt tiền sử, với những danh thắng và phòng tuyến quân sự rất nổi tiếng như cửa Thần Phù, phòng tuyến Tam Điệp, rừng Cúc Phương, hồ Yên Quang, hồ Đồng Chương, hồ Yên Thắng, núi Cao Sơn, động Người Xưa, hang Con Moong,…

Dãy núi Tam Điệp nối liền với Dãy núi Trường Sơn (trong tiếng Lào là Phu Luông) là dãy núi dài nhất Việt Nam và Lào, dài khoảng 1.100 km. Dãy núi Trường Sơn tiếp nối với dãy núi Ba Vì và Dãy núi Tam Điệp , bắt đầu từ thượng nguồn sông Cả trên đất Lào giáp Nghệ An tới tận cực nam Trung Bộ. Nó bao gồm toàn bộ các dãy núi nhỏ hơn ở Bắc Trung Bộ và các khối núi, cao nguyên Nam Trung Bộ, xếp thành hình cánh cung lớn mà mặt lồi quay ra Biển Đông. Trường Sơn được chia thành Trường Sơn Bắc và Trường Sơn Nam, ngăn cách bởi đèo Hải Vân và núi Bạch Mã. Dãy núi Trường Sơn là xương sống để nối liến hình thế Bắc Nam liền một giải.

DẠO CHƠI NON NƯỚC VIỆT
Hoàng Kim

Anh và em,
chúng mình cùng nhau
dạo chơi non nước Việt.

Anh đưa em vào miền cổ tích
nơi Lạc Long Quân và Âu Cơ
sinh ra đồng bào mình trong bọc trứng,
thăm đền Hùng Phú Thọ
ở Nghĩa Lĩnh, Việt Trì,
về Thăng Long – Đông Đô – Hà Nội,
thủ đô Việt Nam,
hồn thiêng sông núi tụ về.

“Khắp vùng đồng bằng sông Hồng,
vùng núi và trung du phía Bắc,
không mẫu đất nào không lưu dấu tổ tiên
để giành quyền sống với vạn vật.

Suốt dọc các vùng
từ duyên hải Bắc Trung Bộ,
đến duyên hải Nam Trung Bộ,
Tây Nguyên,
Đông Nam Bộ,
Đồng Bằng Sông Cửu Long,
là sự nghiệp gian nan tiến thủ của tổ tiên
để mở rộng hy vọng tương lai dân tộc” (1)

Tổ Quốc bốn nghìn năm
giang sơn gấm vóc
biết bao nơi lòng ta thầm ước
một lần đến thăm.

Anh đưa em lên Phù Vân
giữa bạt ngàn Yên Tử
nơi “vũ trụ mắt soi ngoài biển cả” (2)
đến Hạ Long,
Hương Sơn,
Phong Nha,
Huế,
Hải Vân,
Non nước,
Hội An,
Thiên Ấn,
Hoài Nhơn,
Nha Trang,
Đà Lạt.

Về tổ ấm chúng mình
Ngọc phương Nam.
Tình yêu muôn đời:
Non nước Việt Nam.

1) Đào Duy Anh
2) Nguyễn Trãi  

ĐẠI LÃNH NHẠN QUAY VỀ
Hoàng Kim

Núi Đá Bia thiên nhãn phương nam
Biển Vũng Rô mắt thần tịnh hải
Tháp Nhạn người Nam lưu đất Phú
Mằng Lăng chữ Việt dấu trời Yên
Xuân Đài thành cổ ghềnh Đá Đĩa
Sông Ba sông Cái núi Cù Mông
Vạn kiếp tình yêu người gửi lại
Ngàn năm Đại Lãnh nhạn quay về


Tháp Nhạn

Vũng Rô Đại Lãnh

Alexande de Rhores (1593-1660) “người khai sinh chữ quốc ngữ” lưu dấu chữ tiếng Việt đầu tiên tại nhà thờ Mằng Lăng, Phú Yên.

Biển Tuy Hòa

Bài viết mới trên CNM365 Tình yêu cuộc sống
DẠY VÀ HỌC
https://hoangkimvn.wordpress.com
CNM365bấm vào đây cập nhật mỗi ngày

Video yêu thích
Nong Lam University
A New Day
https://youtu.be/SN5c-m45fxs
Mùa xuân đầu tiên (Văn Cao) -Thanh Thúy
Ban Mai; Chỉ tình yêu ở lại
KimYouTube

Trở về trang chính
Hoàng Kim Long, Ngọc Phương Nam, Thung dung, Dạy và Học, Việt Nam Học, Cây Lương thực Việt Nam, CNM365Tình yêu Cuộc sống, Kim on LinkedIn, Kim on Facebook, Kim on Twitter

Xem tiếp >>

  Dạy và học 27 tháng 11(27-11-2021)


DẠY VÀ HỌC 27 THÁNG 11
Hoàng Kim

CNM365 Tình yêu cuộc sốngNhớ cây thông mùa đông; Bản Giốc và Ka Long; Công viên Tao Đàn HCM; Dạy học nghề làm vườn; Chợt gặp mai đầu suối; Thế giới trong mắt ai; Qua sông Thương bến nhớ; Cao Biền trong sử Việt; Chín điều lành hạnh phúc; Vui bước tới thảnh thơi; Thăm nhà cũ của Darwin; Châu Văn Tiếp Phú Yên; Lên Việt Bắc điểm hẹn; Ngày 27 tháng 11 năm 25,  Hán Quang Vũ Đế Lưu Tú định đô triều đại Đông Hán tại thành Lạc Dương. Lưu Tú là người được sử gia Trung Quốc ca ngợi đã góp phần thúc đẩy lịch sử Trung Quốc phát triển. Thế nhưng Lưu Tú lại là người bị sử Việt phê phán vì đã để cho thái thú Tô Định quận Giao Chỉ giết hại Thi Sách là thủ lĩnh người Việt. Trưng Trắc vợ Thi Sách đã cùng em là Trưng Nhị kêu gọi nhân dân nổi dậy khởi nghĩa, đánh đuổi Tô Định, và tự lập làm Trưng Vương ở Giao Chỉ. Năm 42, Lưu Tú sai Mã Viện Phục Ba tướng quân mang 2 vạn quân đi đánh Trưng Vương. Sang năm 43, Mã Viện dẹp được phong trào khởi nghĩa. Hai chị em Trưng Vương nhảy xuống sông tự tử vì không chịu khuất phục. Hai Bà Trưng là nữ vương anh hùng dân tộc đầu tiên trong lịch sử Việt Nam. Ngày 27 tháng 11 năm 1940 là ngày sinh Lý Tiểu Long, người  Hoa có quốc tịch Mỹ (mất năm 1973) diễn viên võ thuật nổi tiếng sáng lập võ phái Triệt quyền đạo; Bài chọn lọc ngày 27 tháng 11: Nhớ cây thông mùa đông; Bản Giốc và Ka Long; Công viên Tao Đàn HCM; Dạy học nghề làm vườn; Chợt gặp mai đầu suối; Thế giới trong mắt ai; Qua sông Thương bến nhớ; Cao Biền trong sử Việt; Chín điều lành hạnh phúc; Vui bước tới thảnh thơi; Thăm nhà cũ của Darwin; Châu Văn Tiếp Phú Yên; Lên Việt Bắc điểm hẹn;Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/ http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-27-thang-11/;

HoangKim2017

NHỚ CÂY THÔNG MÙA ĐÔNG
Hoàng Kim

Xuân Hạ Thu Đông vốn phẳng sòng
Bốn mùa chẳng thể thiếu mùa đông
Tam Đảo non xanh hai cánh rộng
Cửu Long nước biếc một chữ đồng
Trẻ ham tâm đức nên cố gắng
Già mong phúc hậu phải biết chùng
Thung dung nếm trãi mùa đông lạnh
Sông núi trúc mai với lão tùng

NÔNG LỊCH TIẾT TIỂU TUYẾT
Hoàng Kim


Tuyết rơi trên Vạn Lý
Trường Thành bao đổi thay
Ngưa già thương đồng cỏ
Đại bàng nhớ trời mây.

Ngược gió đi không nản
Rừng thông tuyết phủ dày
Ngọa Long cương đâu nhỉ
Đầy trời hoa tuyết bay.

ĐÊM LẠNH NHỚ ĐÀO CÔNG
Hoàng Kim

Sớm mai trời lạnh giá
Đêm lạnh nhớ Đào Công
Chuyển mùa trời chưa ấm
Tuyết sương thương người hiền

Đêm trắng và Bình Minh.
Thung dung chào ngày mới.
Phúc hậu sống an nhiên.
Đông qua rồi xuân tới.

Ngược gió đi không nản.
Rừng thông tuyết phủ dày.
Ngọa Long cương đâu nhỉ.
Đầy trời hoa tuyết bay …

24 TIẾT KHÍ NÔNG LỊCH
Hoàng Kim


Mong em đừng quên “
nhất thì nhì thục
Kinh nghiệm ông cha dạy mãi không cùng
Em học để làm 24
tiết khí
Mộc mạc hát vần
bài học đầu tiên.

Đất cảm trời thương lòng người gắn bó
Dẫu khó vạn lần khéo liệu cũng xong
Mùa xuân tới tự tiết xuân sẽ đến
Bởi biết rằng năm tháng đó là em.

6 tháng Một bắt đầu rét nhẹ
20 tháng Một
trời lạnh cắt da
4 tháng Hai là ngày
xuân mới
20 tháng Hai
Thiên Địa Nhân hòa...

Đồng dao cho em khuyên em đừng tưởng
Câu chuyện mùa xuân
thêm cho mồng Ba
Trải
Cốc Vũ qua ngày Hạ Chí
Đại Thử rồi Sương Giáng thành hoa..

6 tháng Năm là ngày Hè đến (lập hạ)
22 tháng Năm mưa nhỏ, vào mùa (
tiểu mãn)
5 tháng Sáu ngày Tua Rua mọc (
mang chủng)
21 tháng Sáu là chính giữa Hè. (
hạ chí)

7 tháng Bảy là ngày nắng nhẹ (tiểu thử)
23 tháng Bảy là tiết nóng oi (
đại thử).
7 tháng Tám chớm thu rồi đó (
lập thu)
23 tháng 8 trời đất mây mưa. (
mưa ngâu)

Qua Xử Thử đến tiết trời Bạch Lộ
Sau
Mưa Ngâu đến Nắng nhạt đấy em.
Tiết
Thu Phân khoảng 23 tháng 9
Đối lịch nhà nông em nhớ đừng quên..

Tiết Hàn Lộ nghĩa là trời mát mẻ
Kế tiếp theo là
Sương Giáng (sương mù)
23 tháng 10 mù sa dày đặc
Thuyền cỏ mượn tên” nhớ chuyện Khổng Minh.

Ngày 7 tháng 11 là tiết Lập đông
23 tháng 11 là ngày
Tiểu tuyết
8 tháng 12 là ngày
đại tuyết
22 tháng 12 là
chính giữa đông.

Khuyên em đừng quên nhất thì nhì thục
Di sản Việt Nam học mãi không cùng
Mình học để làm 24 tiết khí
Mộc mạc hát vần bài học đầu tiên.

Mùa vụ trồng cây, kinh nghiệm nghề nông
Xin em đừng quên điều ông bà dạy
Xuân Hạ Thu Đông hai bốn tiết khí
Khoa học thiên văn ẩn ngữ đời người.

Đất cảm trời thương, lòng người gắn bó
Dẫu khó vạn lần khéo liệu cũng xong
Mùa xuân tới tự tiết xuân sẽ đến
Bởi biết rằng
năm tháng đó là em.

6 tháng Một bắt đầu rét nhẹ
20 tháng Một
trời lạnh cắt da
4 tháng Hai là ngày
xuân mới20 tháng Hai Thiên Địa Nhân hòa...

Đất cảm trời thương, lòng người gắn bó
Dẫu khó vạn lần khéo liệu cũng xong
Em đừng ngại mùa Xuân rồi lâu đến
Bởi biết rằng
năm tháng đó là em.

Hoàng Kim học để làm ở Ấn Độ

SỚM ĐÔNG
Hoàng Kim

Sớm Đông
Trời tạnh mây quang
Vươn vai
Đón nắng
Mặc cơn gió lùa

‘Vấn vương’ * câu hẹn ngày qua
Đông tàn
Ủ mộng
Xuân sang nõn cành …

SỚM ĐÔNG
Hoàng Kim
Đêm lạnh đông tàn chậm nắng lên
Nghe hơi sương giá buốt bên thềm
Em đi làm sớm trời đang ngủ
Giữ ấm xin đừng vội để quên.

Chùm sáu bài thơ ‘Nhớ cây thông mùa đông’ ‘Nông lịch tiết tiểu tuyết’ ‘Đêm lạnh nhớ Đào Công’ ’24 tiết khí nông lịch’, ‘ Sớm đông’ tôi đã bảo tồn trên CNM365 và yêu thích đọc lại. Bài thơ ‘Nhớ cây thông mùa đông’ được tiếp nối họa vần bài thơ “Vịnh mùa Đông” của cụ Nguyễn Công Trứ, với các bạn Quế Hằng, Nguyễn Vạn An, Phan Lan Hoa trước đây. Nay xin trân trọng chép tặng cụ Đỗ Hoàng Phong, cậu Hoàng Gia Cương, cụ Hồ Văn Thiện, anh Đào Ngọc Hòa, anh Hoàng Đình Quang, anh Nguyễn Quốc Toàn, anh Lê Quang Vinh, anh Hoàng Đại Nhân, em Nguyễn Hoài Nhơn, Nguyễn Trọng Tùng, Nguyễn Bạch Mai, Hoàng Long , Trúc Mai, …. để cùng vui đối họa
https://hoangkimlong.wordpress.com/category/som-dong/.

‘Vịnh mùa Đông’ và ‘Cây thông’ là hai bài ngôn chí đặc sắc nhất của cụ Hy Văn Uy Viễn Tướng Công Nguyễn Công Trứ “ra tướng võ, vào tướng văn” tỏ ý với vua Minh Mệnh và các vị quan cao cấp cùng thời như Trương Đăng Quế, Hà Tôn Quyền, Nguyễn Văn Siêu, Nguyễn Quý Tân,… đó là lời giải thích vì sao ông Nguyễn Công Trứ được vua Minh Mệnh tin dùng.

“Nghĩ lại thì trời vốn cũng sòng
Chẳng vì giá rét bỏ mùa đông”

Triều Nguyễn thời đó đang như mùa đông lạnh giá, vua Gia Long mới lập quốc, lòng người chưa quy về một mối, triều chính chưa ổn định, lòng người ly tán, số quan lại mới trổi dậy ham vơ vét, còn người công chính như Nguyễn Du thì không muốn hợp tác vì không được triều Nguyễn thực lòng tin dùng.

Vua Gia Long mất, vua Minh Mệnh nối ngôi, việc thiết lập nhà nước kỷ cương rất cần những mẫu người kiêu dũng, dấn thân như Nguyễn Công Trứ.   VỊNH MÙA ĐÔNG Nguyễn Công Trứ   Nghĩ lại thì trời vốn cũng sòng, Chẳng vì rét mướt bỏ mùa đông. Mây về ngàn Hống đen như mực, Gió lọt rèm thưa lạnh tựa đồng. Cảo mực hơi may ngòi bút rít, Phím loan cưỡi nhuộm sợi tơ chùng. Bốn mùa ví những xuân đi cả, Góc núi ai hay sức lão tùng.   CÂY THÔNG Nguyễn Công Trứ   “Ngồi buồn mà trách ông xanh. Khi vui muốn khóc buồn tênh lại cười. Kiếp sau xin chớ làm người. Làm cây thông đứng giữa trời mà reo. Giữa trời vách đá cheo leo. Ai mà chịu rét thì trèo với thông“   Chính sử triều Nguyễn chép: Nguyễn Công Trứ (1778-1858) tên tục là Củng, tự là Tồn Chất, hiệu là Ngộ Trai, biệt hiệu là Hy Văn là một nhà quân sự, nhà kinh tế và nhà thơ lỗi lạc trong lịch sử Việt Nam cận đại. Năm 1841, Minh Mạng lâm bệnh nặng. Lúc lâm chung, ông gọi quan đại thần Trương Đăng Quế đến bên giường dụ rằng:” Hoàng tử Trường Khánh công lấy về ngôi thứ là hàng trưởng, lấy về đức, về tuổi nên nối ngôi lớn. Ngươi nên hết lòng giúp sức rập, hễ việc gì chưa hợp lẽ, ngươi nên lấy lời nói của ta mà can gián. Ngươi trông mặt ta, nên ghi nhớ lấy.“- Minh Mạng. Sau đó, ông cầm tay con trưởng là Trường Khánh Công Nguyễn Phúc Miên Tông trối trăng: “Trương Đăng Quế thờ ta đến 21 năm, trọn đạo làm tôi, một lòng công trung, bày mưu dưới trướng, ra sức giúp việc ngoài biên, thực là một người công thần kỳ cựu của triều đình. Ngươi nên đãi ngộ một cách ưu hậu, hễ nói thì phải nghe, bày mưu kế gì thì phải theo, ngày sau có thể được thờ vào nhà thế thất.” “Hà Tôn Quyền giỏi mưu kế, Hoàng Tế Mỹ giỏi văn chương, Nguyễn Công Trứ giỏi chiến trận, trong triều không nên để vắng ba người ấy”.   Toàn cảnh đất nước trong buổi đầu gian nan được Nguyễn Công Trứ tóm tắt trong bốn câu: “Mây về ngàn Hống đen như mực,/ Gió lọt rèm thưa lạnh tựa đồng./Cảo mực hơi may ngòi bút rít,/ Phím loan cửi nhuộm sợi tơ chùng.” Trong điều kiện ấy, Nguyễn Công Trứ đã đánh giá vua Minh Mệnh “Nghĩ lại thì trời vốn cũng sòng,… Bốn mùa ví những xuân đi cả,/Góc núi ai hay sức lão tùng.” không như là trường hợp “Thánh nhân bất đắc dĩ dụng QUYỀN”. “Vịnh mùa đông” “Cây thông” là những bài thơ ngôn chí đặc sắc nhất của ông.

BẢN GIỐC VÀ KA LONG
Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim

Bản Giốc và Ka Long là ngọn thác và dòng sông biên giới Trung Việt. Thác Bản Giốc là thác nước hùng vĩ đẹp nhất Việt Nam tại xã Ðàm Thủy, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng.Sông Ka Long (tên gọi Việt) hoặc Sông Bắc Luân (tên gọi Trung) là sông chảy ở vùng biên giới giữa thành phố Móng Cái tỉnh Quảng Ninh, Việt Nam và thành phố Đông Hưng thuộc địa cấp thị Phòng Thành Cảng, Khu tự trị dân tộc Choang tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc. Tuy nhiên theo các bản đồ của Việt Nam thì quan niệm về dòng chảy của sông Ka Long và sông Bắc Luân không hoàn toàn trùng khớp với quan niệm về sông Bắc Luân của Trung Quốc. Thác Bản Giốc và sông Ka Long là nơi lưu dấu gợi nhớ những câu chuyên sâu sắc đời người không thể quên: Người vịn trời xanh chấp sói rừng; Chợt gặp mai đầu suối; Qua sông Thương gửi về bến nhớ; Cao Biền trong sử Việt; Câu cá bên dòng Sêrêpôk; Tư liệu này là điểm nhấn để đọc và suy ngẫm.

“Một thác nước tự nhiên, đẹp hùng vĩ bậc nhất thế giới nằm ở giữa ranh giới hai quốc gia, chứa đựng trong đó nhiều tiềm năng tài nguyên về thủy điện, du lịch. Một khu vực cửa sông tàu thuyền hai bên đi lại dễ dàng, giao thương thuận lợi. Tất cả những tiềm năng này đang chờ đợi sự đầu tư, hợp tác cùng khai thác”, theo VOV 27.11. 2015.

Sông Ka Long và sông Bắc Luân

Sông Ka Long theo bản đồ của Việt Nam xuất bản, bắt nguồn từ rìa bắc xã Quảng Đức, Hải Hà 21°36′36″B 107°41′2″Đ, phía tây cửa khẩu Bắc Phong Sinh cỡ 5 km, chảy uốn lượn về hướng đông đông bắc. Đoạn sông này dài cỡ 16 km. Sông KaLong đến “bãi Chắn Coóng Pha” ở bản Thán Phún xã Hải Sơn, Móng Cái 21°39′34″B 107°48′24″Đ, thì hợp lưu với Sông Bắc Luân bên Trung Quốc và đổi hướng chảy về đông, sau đó đông nam đến nội thị của thành phố Móng Cái. Toàn bộ đoạn sông nói trên là ranh giới tự nhiên cho đường biên giới Việt – Trung. Sông Kalong đến ranh giới phường Ka Long và Trần Phú ở thành phố Móng Cái thì sông chia thành hai nhánh 21°32′13″B 107°57′58″Đ: 1) Dòng Ka Long chảy trong đất Việt theo hướng Nam xuyên qua thành phố Móng Cái ra biển ở nơi giáp ranh giữa xã Hải Xuân và xã Vạn Ninh. 2) Chi lưu là dòng sông Bắc Luân chảy theo hướng đông, tiếp tục là đường biên giới Việt – Trung, đi qua rìa phía đông bắc phường Hải Hòa, dọc theo rạch Tục Lãm và đổ ra biển Đông ở cửa Bắc Luân. Sông Bắc Luân (Bei Lun He, Bắc Luân hà) phía Trung Quốc thì bắt nguồn từ núi Thập Vạn Đại Sơn 21°45′3″B 107°45′31″Đ ở Phòng Thành, Trung Quốc, chảy theo hướng đông nam tới vùng “bãi Chắn Coóng Pha”. Từ đây sông là ranh giới tự nhiên cho đường biên giới Việt – Trung đến cửa Bắc Luân. Sông có tổng chiều dài 109 km, trong đó đoạn tạo thành biên giới Việt Nam-Trung Quốc là 60 km.

Sông Ka Long là sông Bắc Luân Việt Nam phần chảy trong lãnh thổ Việt Nam và  biên giới Việt Trung. Dòng sông này cũng có chốn hợp lưu và có một phần chảy ở nước ngoài là sông Bắc Luân. Câu chuyện này cũng giống như dòng sông Sesan với dòng sông Mekong, đều có chốn hợp lưu, có một phần ở nước ngoài, và có nơi tự do chảy toàn trong lãnh thổ Việt Nam. Từ Mekong nhớ Neva, năm trước khi thăm lại Srepok, điểm hợp lưu quan trọng nhất của sông Mekong ở ngã ba Đông Dương, trong lần chuyển giao tiến bộ kỹ thuật canh tác sắn Tây Nguyên,  tôi liên tưởng và suy ngẫm về các dòng sông đất nước. Nay sông Kalong và sông Bắc Luân cũng là một câu chuyên tương tự.

Wikipedia tiếng Việt trích dẫn tư liệu Đại Nam nhất thống chí chépː “Sông Ninh Dương ở cách châu Vạn Ninh 1 dặm về phía tây. Nguồn (của sông này) từ các xã Thượng Lai và Mông Sơn tổng Bát Trang chảy về đông 37 dặm ven theo địa giới nước Thanh (đến ngã ba). Rồi chuyển (dòng) chảy sang phía đông 7 dặm, đổ ra cửa Lạch. Một nhánh chảy về phía nam 5 dặm đến xã Ninh Dương, lại chia làm 2 chiː một chi chảy về phía đông làm sông Trà Cổ, một chi chảy về tây nam 1 dặm đến đông nam núi Hữu Hàn chảy 10 dặm đổ ra cửa Đại… Ải Thác Mang ở xã Vạn Xuân, cách châu Vạn Ninh 2 dặm về phía bắc, giáp đồn phủ Đông Hưng của nước Thanh. Phàm hai nước có công văn đều do ải này giao đệ. (Đường bộ) đi đến tỉnh thành mất 8 ngày“.


Khu vực cửa sông Bắc Luân năm 1888. Công ước năm 1887 giữa Pháp và nhà Thanh lấy cửa sông này làm đường biên giới. Sông Palong nay bắc qua nhánh Ka Long chảy trong thành phố Móng Cái có 2 cầu là cầu Ka Long và cầu Hòa Bình, bắc qua nhánh Bắc Luân chảy dọc biên giới hiện có cầu Bắc Luân nối hai cửa khẩu quốc tế Móng Cái của Việt Nam và cửa khẩu Bắc Luân của Trung Quốc.

Ngày 13/09/2017 hai nước đã cùng khánh thành cầu Bắc Luân 2 Việt – Trung, là cây cầu thứ 2 nối giữa 2 thành phố cũng như 2 quốc gia, cũng là cây cầu dạng vòm lớn nhất Việt Nam. Đi qua cầu Bắc Luân 2 về đêm nhớ về Hoành Mô, Tiên Yên, Móng Cái kỷ niệm một thời của thuở xưa ‘Qua sông Thương gửi về bến nhớ‘ với bao kỷ niệm.

Thác Bản Giốc

Thác Bản Giốc là thác nước đẹp hiếm thấy tại xã Ðàm Thủy, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng, trên các trang mạng Trung Quốc gọi là cặp thác Đức Thiên – Bản Ước là một nhóm thác nước nằm trên sông Quây Sơn tại biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc. Nếu nhìn từ phía dưới chân thác, phần thác bên trái và nửa phía tây của thác bên phải thuộc chủ quyền của Việt Nam tại xã Đàm Thủy, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng; nửa phía đông của thác bên phải thuộc chủ quyền của Trung Quốc tại thôn Đức Thiên, trấn Thạc Long, huyện Đại Tân, thành phố Sùng Tả của khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây. Thác nước này cách huyện lỵ Trùng Khánh khoảng 20 km về phía đông bắc, cách thủ phủ Nam Ninh của Quảng Tây khoảng 208 km.

Sông Quy Xuân theo cách gọi của phần dòng sông tại Việt Nam, còn tên chung của cả dòng sông theo tiếng Trung gọi là Quây Sơn,  Quy Xuân hà,  归春河, Guīchūn Hé, là một dòng sông quốc tế. Sông Quây Sơn có chiều dài 89 km với diện tích lưu vực là 1.160 km², độ cao trung bình của sông là 556 m. Sông chảy phần lớn trên địa bàn tỉnh Quảng Tây của Trung Quốc và có chiều dài khoảng trên 20 km tại tỉnh Cao Bằng của Việt Nam. Theo Bách khoa toàn thư Việt Nam sông Quy Xuân tại Việt Nam có một chi lưu là suối Cạn và sông có tổng chiều dài 38 km với diện tích lưu vực là 370 km2  hoặc theo Bộ Tài nguyên và Môi trường Việt Nam thì sông Quy Xuân phần chảy trong nội địa Việt Nam có tổng chiều dài 49 km với diện tích lưu vực 475 km² .

Sông Quy Xuân  bắt nguồn từ các khe suối tại huyện Tĩnh Tây, thành phố Bách Sắc của Quảng Tây, Trung Quốc sau đó chảy xuôi về phía nam hoàn toàn trong lãnh thổ Việt Nam tại xã Ngọc Côn của huyện Trùng Khánh thuộc tỉnh Cao Bằng, tiếp tục chảy theo hướng đông nam cho đến cực nam của xã Đình Phong rồi  chuyển hướng đông-đông bắc đến xã Đàm Thủy sông chuyển hướng đông nam và chảy đến khu vực thác Bản Giốc  tại xã Đàm Thủy (Việt Nam) với đối ngạn là  thôn Đức Thiên, trấn Thạc Long, huyện Đại Tân của thành phố Sùng Tả (Trung Quốc). Đường biên giới Việt Nam-Trung Quốc đi từ mốc 53 (cũ) lên cồn Pò Thoong giữa sông rồi đến điểm giữa của mặt thác chính của thác Bản Giốc. Sau đó sông Quy Xuân trở thành đường biên giới tự nhiên giữa Việt Nam (huyện Hạ Lang) và Trung Quốc (huyện Đại Tân). Đến xã Minh Long, Hạ Lang thì sông Quây Sơn chuyển sang hướng tây và chảy đến xã Lý Quốc, Hạ Lang  và đến trấn Thạc Long, thì sông chảy hoàn toàn trong lãnh thổ Trung Quốc. Sông Quy Xuân sau khi chảy vào lãnh thổ Trung Quốc, vẫn có hướng chính là hướng tây rồi nhập vào sông Hắc Thủy ở Thạc Long và sau đó lại nhập vào Tả Giang rồi đổ ra biển Đông tại vùng Châu Giang. Vì tính chất dòng chảy như vậy nên ở Trung Quốc sông được ca ngợi là “sông yêu nước” vì sự quấn quýt trở về. Sông Quy Xuân có thác Bản Giốc Việt Nam và cặp thác Đức Thiên – Bản Ước Trung Quốc được bình chọn và đánh giá là một trong các thác đẹp nhất Trung Quốc và Việt Nam.

Quảng Ninh và Cao Bằng là một phần đời tôi ở đó. Về Việt Bắc đêm lạnh nhớ Bác tôi đã kể ký ức về Thác Bản Giốc và sông Ka Long.“Việt Nam Trung Hoa núi liền núi sông liền sông”, đây là một thí dụ điển hình.

HoitruongThongNhat

CÔNG VIÊN TAO ĐÀN HCM
Hoàng Kim


Dinh Thống Nhất và Vườn Tao Đàn thành phố Hồ Chí Minh là quần thể danh thắng đặc biệt tiêu biểu về di sản lịch sử, địa lý, chính trị, văn hóa, kiến trúc của Sài Gòn Gia Định xưa và thành phố Hồ Chí Minh ngày nay.

Dinh Thống Nhất

Dinh Thống Nhất nguyên là Dinh Độc Lập trước năm 1975, là di tích quốc gia đặc biệt được Chính phủ Việt Nam đặc cách xếp hạng. Tiền thân Dinh Độc lập là Dinh Thống đốc Nam Kỳ, do kiến trúc sư người Pháp Hermite thiết kế năm 1868. Sau khi dinh cũ nhiều lần bị ném bom, hư hại, san bằng và Dinh Độc Lập được xây mới năm 1962, thực hiện theo thiết kế của kiến trúc sư khôi nguyên La Mã Ngô Viết Thụ và đã khánh thành năm 1966 . Dinh Độc Lập cao 26 m, rộng 4.500 m2, với 100 phòng gồm 3 tầng chính và một sân thượng cho máy bay trực thăng đáp, hệ thống hầm ngầm kiên cố. Địa danh này chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử thăng trầm của thành phố từng được ví là Hòn ngọc phương Đông. Trưa 30/4/1975, xe tăng của quân giải phóng miền Nam đã húc đổ cánh cửa sắt Dinh Độc lập, đánh dấu thời khắc lịch sử của Sài Gòn. Quá trình chuyển giao và tiếp nhận chính thể mới cũng diễn ra tại đây. Sau 1975, Dinh Độc Lập đổi tên thành Dinh Thống Nhất, ngày nay trở thành địa điểm tham quan lịch sử của du khách khi đến với Sài Gòn. Quần thể Dinh Độc lập, vườn Tào Đàn và Hồ Con Rùa là vùng đất địa linh nổi bật nhất của dấu ấn hòn ngọc phương Đông.

Dinh Độc Lập với kiến trúc chữ T là chữ cái đầu của chữ THỤ (trong chữ THIÊN THỤ”. Đó là bốn kế lớn chấn hưng đất nước “vua sáng, kinh tế, nông nghiệp, nội chính” qua bốn công trình chính liên hoàn: chữ T dinh Độc Lập, chữ H chợ Đà Lạt, chữ U Trường Đại học Nông nghiệp Sài Gòn và dấu nặng (.) là Hồ Con Rùa.Biểu tượng Dinh Độc lập (hình chữ T) với ý nghĩa đất nước muốn giàu mạnh, thì trước hết người lãnh đạo đất nước phải là “bậc minh quân hiền tài”, trọng “quân đức, dân tâm, học pháp”, biết “chăm lo sức dân để lập đại kế sâu rễ bền gốc” bảo tồn và phát triển bền vững năng lực Quốc gia.

Biểu tượng Chợ Đà Lạt (hình chữ H) với ý nghĩa trọng tâm của nổ lực quốc gia là phải phát triển kinh tế (phi thương bất phú), mở mang giao thương, chấn hưng nghiệp cũ, phát triển nghề mới, khuyến học dạy dân, “Nên thợ, nên thầy nhờ có học/ No ăn, no mặc bởi hay làm” (Nguyễn Trãi), “chú trọng mậu dịch buôn bán, lấy việc thông thương an toàn làm chữ Nghĩa (Nguyễn Hoàng), chú trọng lao động để dân giàu nước mạnh.

Biểu tượng Trường Đại Học Nông Nghiệp Sài Gòn (hình chữ U) với ý nghĩa là phải chấn hưng giáo dục đại học, phát triển khoa học công nghệ, đặc biệt là giáo dục phát triển nông nghiệp để nâng cao thu nhập, sinh kế, việc làm và an sinh xã hội, nâng cao chất lượng và giá trị nông sản (dĩ nông vi bản) vì quá nữa người Việt làm nghề nông.

Và sau cùng là biểu tượng Hồ Con Rùa (hình dấu (.) nặng) với ý nghĩa là nội chính an dân, thượng tôn pháp luật,  kỷ cương phép nước, giữ vững bờ cõi, bảo tồn nguyên khí, thương yêu dân chúng an vui lạc nghiệp, “biết thương yêu dân, luyện tập binh sĩ để xây dựng cơ nghiệp muôn đời” (Lời chúa Nguyễn Hoàng dặn chúa Nguyễn Phúc Nguyên),

Vườn Tao Đàn

Đền Hùng tại chính mặt sau Dinh Thống Nhất của Vườn Tao Đàn “lá phổi xanh thành phố”. Trong Vườn Tao Đàn có Đền Hùng, Giếng Ngọc đền Hùng, đền Mẫu Phương Nam, vườn đá tiếng Việt, hồ sen đền Hùng, vườn hoa và cây xanh Tao Đàn. Quần thể danh thắng Dinh Thống Nhất, Vườn Tao Đàn, Hồ Con Rùa “mắt ngọc của đầu rồng” trở thành vùng sử thi huyền thoại. Đền Hùng tại vườn Tao Đàn thành phố Hồ Chí Minh là biểu tượng khát vọng đất nước Việt Nam thống nhất, hòa hợp dân tộc, không chấp nhận chia rẽ “chia để trị” đã thấm vào máu thịt của con dân Việt. “Nam Bộ là thịt của thịt Việt Nam là máu của máu Việt Nam. Sông có thể cạn, núi có thể mòn nhưng chân lý đó không bao giờ thay đổi” (Hồ Chí Minh). Dinh Thống Nhất vì thế đã thay cho tên gọi Dinh Độc Lập và  Dinh Thống đốc Nam Kỳ trước đó.

Mẫu Phương Nam ở Vườn Tao Đàn trong quần thể Đền Hùng cùng với mXem tiếp >>

  Dạy và học 26 tháng 11(26-11-2021)


DẠY VÀ HỌC 26 THÁNG 11
Hoàng Kim
CNM365 Tình yêu cuộc sốngGiếng Ngọc vườn Tao Đàn; Vui bước tới thảnh thơi; Tiệp Khắc kỷ niệm một thời; Praha Goethe và lâu đài cổ; Châu Văn Tiếp Phú Yên; Chuyện thầy Tôn Thất Trình; Sao Kim kỳ thú; Thăm nhà cũ của Darwin; Về Trường để nhớ thương; Câu chuyện ảnh tháng 11; Lên Tây Bắc điểm hẹn; Sự chậm rãi minh triết; Mông Cổ Quảng trường  Sukhbaatar nổi tiếng ở thủ đô Ulan Bator (Ulaanbaatar) (hình). Ngày 26 tháng 11 năm 1924 Nước Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ  thành lập, do Đảng Nhân dân Cách mạng Mông Cổ cầm quyền và luôn duy trì mối quan hệ mật thiết với Liên Xô suốt từ đó đền năm 1992. Sau khi Liên Xô sụp đổ thì Cách mạng Dân chủ Mông Cổ 1990 và bản hiến pháp mới năm 1992 đưa nước này chuyển sang cộng hòa nghị viện và kinh tế thị trường  với chính sách ngoại giao và quốc phòng được xác định: “Duy trì quan hệ thân thiện cân bằng với Nga và Trung Quốc phải là ưu tiên hàng đầu trong hoạt động đối ngoại của Mông Cổ, và thúc đẩy tất cả các hoạt động hợp tác láng giềng thân thiết”. Ngày 26 tháng 11 năm 1942 Bộ phim Casablanca tình cảm tâm lý xã hội đặc sắc của Mỹ đã đoạt giải Phim hay nhất và ba giải Oscar. Phim này do đạo diễn Michael Curtiz với sự tham gia của hai ngôi sao hàng đầu Hollywood là Humphrey Bogart và Ingrid Bergman cùng các diễn viên nổi tiếng khác, phim  thường xuyên được xếp hạng phim hay nhất trong lịch sử sau hơn 60 năm từ ngày công chiếu lần đầu.  Ngày 26 tháng 11 năm 1942  ngày sinh Đặng Thùy Trâm, bác sĩ, liệt sĩ trong Chiến tranh Việt Nam, hy sinh ngày 22 tháng 6 năm 1970 tại Quảng Ngãi  được Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam trao tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân năm 2006; Bài viết chọn lọc ngày 26 tháng 11: Giếng Ngọc vườn Tao Đàn; Vui bước tới thảnh thơi; Tiệp Khắc kỷ niệm một thời; Praha Goethe và lâu đài cổ; Châu Văn Tiếp Phú Yên; Chuyện thầy Tôn Thất Trình; Sao Kim kỳ thú; Thăm nhà cũ của Darwin; Về Trường để nhớ thương; Câu chuyện ảnh tháng 11; Lên Tây Bắc điểm hẹn; Sự chậm rãi minh triết; Thầy Luật lúa OMCS OM; Nôi ví dặm ân tình; Sự chậm rãi minh triết; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-26-thang-11/

GIẾNG NGỌC VƯỜN TAO ĐÀN
Hoàng Kim
Dạo chơi giếng Ngọc vườn Tao Đàn nhớ lời thơ Nguyễn Trãi: ‘Nên thợ nên thầy nhờ có học dư ăn dư mặc bởi hay làm’. Văn là đẹp, chương là sáng. Ngôn ngữ sáng đẹp, thấm thía, xúc động, ám ảnh.  Lưu ít ảnh ghi chú mùa Covid19, đọc lại và suy ngẫm

Bài đọc thêm
TƯỚNG TẠI TÂM SINH, TƯỚNG TÙY TÂM TÍNH

Cổ nhân giảng: “Tướng do tâm sinh”. Kỳ thực, tướng ở đây không chỉ là “tướng mạo” mà còn là hoàn cảnh xung quanh của một người. Nếu một người mà trong lòng luôn vui vẻ và tràn đầy ý nghĩ tích cực thì hoàn cảnh liền lập tức chuyển biến thành tốt. Trái lại, nếu một người mà trong lòng luôn chứa đựng ý nghĩ tiêu cực thì hoàn cảnh xung quanh của người ấy cũng trở nên không tốt, rất nhiều mâu thuẫn sẽ nối gót nhau mà đến. (xem tiếp…)

Emve

VUI BƯỚC TỚI THẢNH THƠI
Hoàng Kim

Thăm người ngọc nơi xa, vùng tỉnh lặng,
Chốn ấy đồng xanh, người đã chào đời.
Nơi
sỏi đá, giữa miền thiêng hoa cỏ,
Thiên nhiên an lành,
bước tới thảnh thơi.

Sống giữa đời vui, giấc mơ hạnh phúc,
Cổ tích đời thường đằm thắm yêu thương.
Con cái quây quần thung dung tự tại,
Minh triết cuộc đời phúc hậu an nhiên.

Xuân Hạ Thu Đông, bốn mùa luân chuyển
Say chân quê
ngày xuân đọc Trạng Trình
Ngày ra ruộng, đêm thì đọc sách.
Ngọc cho đời, giữ trọn niềm tin.

*

Chân trần bước tới thảnh thơi
Trăng rằm cổ tích nhớ lời của Anh:

“Cảnh mãi theo người được đâu em
Hết khổ hết cay hết vận hèn
Nghiệp sáng đèn giời đang chỉ rõ
Rồi đây cay đắng chẳng buồn chen”.
(Khát vọng, Hoàng Ngọc Dộ)

Về với ruộng đồng
Đến chốn thung dung
Sống giữa thiên nhiên
Giấc mơ hạnh phúc

Minh triết cuộc rong chơi
Đường trần đi không mỏi
Lắng nghe cuộc sống gọi
Việt Nam con đường xanh

Ngắm vầng trăng cổ tích
Vui bước tới thảnh thơi
Mình về thăm nhau thôi
Giấc mơ lành yêu thương

SỰ CAO QUÝ THẦM LẶNG

Sự cao quý thầm lặng
Niềm vui đón trăng rằm
Phước Huệ trang nghiêm quá
Ai làm Ngốc Phương Nam

Dạy suốt đời không mỏi
Học và làm luôn vui
Tâm sáng lòng bồ tát
Việc tốt ngọc cho đời

Công đức chào ngày mới
Vui bước tới thảnh thơi

TIỆP KHẮC KỶ NIỆM MỘT THỜI
Hoàng Kim

Tôi có năm tháng ở Trường Đại Học Nông nghiệp Praha, Tiệp Khắc năm 1986 và may mắn được đến thăm nhiều địa danh lịch sử, văn hóa, khoa học cây trồng, du lịch sinh thái của nước bạn. Trong lòng tôi lắng đọng Tiệp Khắc kỷ niệm một thời nghiên cứu phát triển đậu rồng hợp tác Việt Tiệp, với những tên người, tên đất yêu thương. Tiệp Khắc là bài học lịch sử quý giá cho những ai biết trân trọng chân lý và sự thật, yêu tự do và máu xương của nền độc lập, thống nhất Tổ Quốc. Praha thủ đô Tiệp Khắc là “Thành phố vàng” mà trung tâm của thành phố đã được UNESCO công nhận là Di sản thế giới năm 1992. Lâu đài Praha là lâu đài cổ lớn nhất trên thế giới theo sách Kỷ lục Guinness. Praha nằm bên sông Vltava ở miền trung Bohemia. Ngày 28 tháng 9 năm 1992 là ngày lập quốc tại Cộng hòa Séc nhưng phải đến ngày 1 tháng 1 năm 1993, nước Tiệp Khắc mới chính thức giải tán trong hòa bình theo các quá trình trong nghị viện và lãnh thổ Tiệp Khắc trở thành Cộng hòa Séc và Slovakia.

TIỆP KHẮC ĐẤT NƯỚC CON NGƯỜI

Đại học Karlova ở Praha (Univerzita Karlova) được Karel IV thành lập năm 1348 là trung tâm học vấn châu Âu. Đại học Karlova cùng với lâu đài Praha và cầu Karl là những di sản văn hóa nổi tiếng thế giới của Cộng hòa Séc.

Cộng hòa Séc xếp hạng 30/177 quốc gia về Chỉ số Phát triển Con người (xem Danh sách các quốc gia theo thứ tự về Chỉ số phát triển con người); xếp hạng 5/168 quốc gia về chỉ số tự do báo chí (Nhà báo không biên giới); xếp hạng 37/157 quốc gia về chỉ số tự do kinh tế; xếp thứ 35/180 quốc gia về thu nhập bình quân đầu người (xem Danh sách quốc gia theo GDP (PPP) bình quân đầu người năm 2008
); xếp thứ 40/180 quốc gia về GDP (xem Danh sách quốc gia theo GDP danh nghĩa năm 2008). Tiệp Khắc đất và người có nhiều chuyện đáng suy ngẫm. Đại học Nông nghiệp Praha, Viện Di truyền Menden với tôi là những năm tháng không quên. Những thành phố xanh tuyệt vời Brno,Bratislava, Plzen, … là những điểm du lịch đáng nhớ. Tôi nợ Tiệp Khắc kỷ niệm một thời suốt trên ba mươi năm, chuyện bây giờ mới kể…

Tiệp Khắc trái tim văn hóa châu Âu

Theo sự chọn lọc và tổng hợp thông tin của Bách khoa Toàn thư Mở Wikipedia, Tiệp Khắc Czechoslovakia là trái tim văn hóa châu Âu nhưng lịch sử Tiệp Khắc từ thời tiền sử đến cộng hòa Séc là cả một chuỗi biến động. Tiệp Khắc trong khẩu ngữ thường gọi tắt là Tiệp, tiếng Séc gọi là Československo, tiếng Slovak gọi là Česko-Slovensko, trước 1990 gọi là Československo, tiếng Đức là Tschechoslowakei. Tên gọi luôn thay đổi qua nhiều thời kỳ đã cho thấy lịch sử Tiệp Khắc nằm ở nơi trung tâm của các cuộc tranh chấp và giành giật dữ dội bậc nhất trong lịch sử nhân loại.

Tiệp Khắc và Bỉ được ví như hai buồng tim của châu Âu. Bạn hãy nhìn vị trí của Cộng hòa Séc (xanh lá đậm) trong Liên minh châu Âu (xanh lá nhạt) và trong khu vực châu Âu (xanh lá nhạt và xám đậm). Người Tiệp vượt lên thăng trầm lịch sử và sự tranh đoạt, tan rồi hợp, hợp rồi tan. Họ có hai câu ngạn ngữ nổi tiếng và đó cũng là tuyên ngôn lập quốc “Sự thực trên hết” (tiếng Séc: Pravda vítězí  1918–1990; tiếng Latinh: Veritas Vincit  1990– 1992), “Chân lý luôn chiến thắng” (tiếng Séc“Pravda vítězí”). Bài Quốc ca của Cộng hòa Séc hiện tại “Quê hương tôi nơi đâu?” (Kde domov můj?– tiếng Séc). Chân lý và sự thật lịch sử là suối nguồn của sự nhận thức.

Cộng hòa Séc hiện nay là một nước Trung Âu  không giáp biển. Cộng hòa Séc giáp Ba Lan về phía bắc, giáp Đức về phía tây, giáp Áo về phía nam và giáp Slovakia về phía đông. Thủ đô Praha là thành phố lớn nhất nước với 1,3 triệu dân. Cộng hòa Séc có dân số hiện khoảng 10,3 -11,0 triệu người (Cộng hòa Slovakia hiện khoảng 6,0 triệu người).   Cộng hòa Séc là một quốc gia đa đảng theo chế độ cộng hòa đại nghị. Tổng thống là người đứng đầu nhà nước, còn thủ tướng là người đứng đầu chính phủ. Quốc hội có hai viện gồm thượng viện và hạ viện. Cộng hòa Séc đã gia nhập NATO vào năm 1999 và trở thành một thành viên của Liên minh Châu Âu từ năm 2004. Ngày 21 tháng 12 năm 2007, Cộng hòa Séc đã thông qua Hiệp ước Schengen, tạo điều kiện thuận lợi cho việc đi lại và du lịch vào nước này. Ngoài ra, Cộng hòa Séc hiện nay cũng là thành viên của các tổ chức OECD, OSCE, Ủy hội châu Âu và Khối Visegrád.

Lãnh thổ Cộng hòa Séc, ngày nay bao gồm các vùng đất đã từng tồn tại trong lịch sử là Bohemia, Moravia và một phần Silesia. Séc trở thành một bộ phận của Đế quốc Áo và Đế quốc Áo-Hung trong nhiều thế kỉ cho đến năm 1918, khi Séc cùng với Slovakia tuyên bố thành lập nước Tiệp Khắc. Trong Thế chiến thứ hai, Tiệp Khắc bị phát xít Đức chiếm đóng. Sau đó, nước này trở thành một quốc gia xã hội chủ nghĩa cho đến năm 1989 khi cuộc Cách mạng Nhung yên bình diễn ra, đưa đất nước trở về tiến trình dân chủ. Ngày 1 tháng 1 năm 1993, một cuộc li khai ôn hòa đã diễn ra, Tiệp Khắc lại tách thành hai quốc gia độc lập là Séc và Slovakia.

 

Lịch sử cộng hòa Séc

Cộng hòa Séc có tên gọi cũ trong tiếng Anh là “Bohemia”, được biến đổi từ tiếng Latinh “Boiohaemum”, có nghĩa là “quê hương của người Boii”. Tên gọi Séc hiện tại được lấy từ tên Čechy, chuyển hóa từ cách phát âm cũ Cžechy của Ba Lan. Các nhà khảo cổ đã tìm thấy bằng chứng của người tiền sử sống tại vùng đất này khoảng thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên.  Các bộ tộc Celt, Boii đã đến Séc định cư, sau đó, đến thế kỷ 1, các bộ tộc Marcomanni và Quani tại vùng đất thuộc Đức cũng đến đấy sinh sống. Những bộ lạc người Đức trong giai đoạn di cư khoảng cuối thế kỷ thứ 2 đến thứ 5, đã rời Séc di cư rộng ra các vùng đất phía Đông và phía Tây.

Người Slav từ vùng Biển Đen–Karpat định cư tại Séc do các cuộc tấn công dữ dội từ vùng Siberia và các bộ lạc Đông Âu tại Hung, Avar, Bulgar và Magyar. Đến thế kỷ 6 họ  di cư tới các vùng đất ở phía Nam như Bohemia, Moravia và một số vùng đất mà ngày nay thuộc về lãnh thổ nước Áo.

Đầu thế kỷ 7, thương gia Samo đến từ vùng Francia đã lãnh đạo người Slav để chống lại tộc người Avar;  năm 623, ông trở thành thủ lĩnh đầu tiên của vương quốc Slav là liên minh của các bộ lạc lớn mạnh. Sau triều đại Samo, người Moravia và Nitra đã thành lập vương quốc mới.

Năm 833, Mojmir I của Moravia đã tấn công và sát nhập vương quốc Nitra, lập ra Đại Moravia (Velká Morava). Vua Rastislav (846-870) là người cháu của Mojmir I được ông nhường ngôi cho năm 846. Vua Rastislav đã mời hai nhà truyền giáo Cyril và Methodius đến Đại Moravia để truyền bá đạo Thiên chúa và họ đã giúp xây dựng bảng ký tự Cyril chữ cái của người Slav.

Đại Moravia mở rộng nhất dưới thời vua Svatopluk I  với lãnh thổ trải dài bao gồm Hungary, Ba Lan, Áo, Đức, Serbia, Slovenia, Croatia và Ukraina. Về sau, những cuộc chiến tranh liên miên với Đế chế Frank đã làm cho Đại Moravia suy yếu và những người Hungary xâm lược đã khiến đất nước này tan rã vào đầu thế kỉ thứ 10.

Thời Trung cổ, năm 995, Vua Premyslid, thành viên của bộ tộc Séc đã thống nhất các vương triều Séc khác và thành lập vương quốc Bohemia hùng mạnh. Đầu thế kỉ 11, vương quốc Bohemia đã chinh phục Đại Moravia và giao cho một trong những người con trai của vua Bohemia cai trị. Vào năm 1306, dòng họ Premyslid không có người kế vị. Sau nhiều cuộc chiến tranh giành quyền lực đẫm máu, dòng họ Luxemburg đã đoạt được ngôi vua Bohemia.

Karel IV (1342-1378), còn gọi là Charles trong tiếng Anh và tiếng Pháp, Karl trong tiếng Đức, là vị vua thứ hai của triều đại Luxemburg đã đưa đất nước Bohemia trở nên hùng mạnh. Karel IV là quốc trưởng của toàn Đế quốc La Mã Thần thánh và các vương quốc phụ cận. Bản đồ đế quốc La Mã Thần Thánh dưới triều Hoàng đế Karl IV thật rộng lớn. Năm 1344, Karel IV nâng chức Giám mục của thành phố Praha lên thành Tổng Giám mục đồng thời kiềm chế quyền lực của các quý tộc Séc. Ông cũng đã chuyển Bohemia và Moravia trở thành các quận hành chính, sáp nhập Brandenburg (năm 1415), Lusatia (năm 1635), Silesia (năm 1742) vào quyền kiểm soát của Séc. Karel IV đã xây dựng thủ đô Praha với những công trình tiêu biểu như lâu đài Praha, cầu Karl và Đại học Karlova (Univerzita Karlova) thành lập năm 1348, đưa Praha thành trung tâm học vấn và trái tim văn hóa châu Âu. Thủ đô Praha  là “Thành phố vàng” nằm bên sông Vltava ở miền trung Bohemia, trung tâm kinh tế, văn hoá và chính trị của Cộng hòa Séc. Lâu đài Praha là lâu đài cổ lớn nhất thế giới theo sách kỷ lục Guinness, được UNESCO công nhận Di sản thế giới năm 1992. Thắng cảnh cầu Karl ở thủ đô Praha của Cộng hòa Séc. Cầu Karl, lâu đài Praha và Đại học Karlova trở thành những biểu tượng bền vững của thủ đô Praha.

Thời kỳ thuộc triều đại Habsburg. Vào thế kỉ 15, một cuộc chiến tranh tôn giáo đẫm máu đã diễn ra tại Séc, lịch sử gọi là cuộc Chiến tranh Hussite. Đất nước Séc suy yếu và đến năm 1526, Séc đã bị sát nhập vào đế chế Habsburg, người Séc bắt đầu bị đồng hóa. Tiếng Séc bị cấm sử dụng và tiếng Đức trở thành ngôn ngữ chính thức ở Séc. Năm 1618, người Bohemia đã nổi dậy chống lại triều đình Habsburg. Họ đã chọn Frederick Palatinate lên ngôi, nhưng đến ngày 6 tháng 11 năm 1620, quân đội Séc bị đánh bại tại Trận Núi Trắng. Cuộc Chiến tranh Ba Mươi Năm (1618-1648) đã phá hủy phần lớn những làng mạc, thành phố của Bohemia. Đến thời nữ hoàng Maria Theresa và con trai bà, vua Joseph II, những người chịu ảnh hưởng của Thời đại Khai sáng, tình hình Bohemia bắt đầu có những chuyển biến. Tuy chính sách đồng hóa vẫn không thay đổi, nhưng tình hình xã hội, giáo dục đã được cải thiện cho người Séc. Vào thế kỉ 19, chủ nghĩa bành trướng của Pháp dưới thời vua Napoleon I đã kích thích tinh thần phục hưng dân tộc của người Séc. Tầng lớp trí thức mới đã đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc phục hưng và phát triển ngôn ngữ dân tộc. Tháng 2 năm 1848, cuộc Cách mạng tháng 2 ở Pháp đã làm bùng nổ một cao trào cách mạng tư sản lan khắp châu Âu. Vào ngày 12 tháng 6 năm 1848, khởi nghĩa của những người dân chủ cấp tiến và được sự hưởng ứng nhiệt liệt của nhân dân đã bùng nổ tại Praha, nhưng đến ngày 17 tháng 6, cuộc khởi nghĩa bị dập tắt. Năm 1867, nhà nước quân chủ lưỡng hợp Áo-Hung được thành lập, trong đó Séc nằm trong tầm ảnh hưởng của nước Áo. Vào những năm cuối cùng của đế chế Áo-Hung, tình hình giữa người Séc và người Đức ở Bohemia ngày càng trở nên căng thẳng. Mối quan hệ xấu đi giữa các dân tộc trong đế chế đã đẩy nhanh sự sụp đổ của quốc gia này. Năm 1900, Tomáš Masaryk, người sau này trở thành tổng thống Tiệp Khắc đã thành lập Đảng Tiến bộ Séc. Ý tưởng về một quốc gia kết hợp giữa hai dân tộc Séc và Slovakia bắt đầu được hình thành.

Sau khi Thế chiến thứ nhất kết thúc cùng với sự sụp đổ của Đế chế Áo-Hung, ngày 28 tháng 10 năm 1918, Cộng hòa Tiệp Khắc (bao gồm Séc và Slovakia ngày nay) tuyên bố độc lập. Hiệp ước St. Germain được ký kết vào tháng 9 năm 1919 đã chính thức công nhận nền cộng hòa mới của Tiệp Khắc. Sau đó, Ruthenia cũng được sát nhập vào Tiệp Khắc vào tháng 6 năm 1920. Quốc gia Tiệp Khắc mới thành lập có dân số khoảng 13,5 triệu người, thừa hưởng tới 70-80% các cơ sở công nghiệp của Áo-Hung. Lúc đó Tiệp Khắc là một trong mười nước công nghiệp hóa nhất thế giới.

Trước chiến tranh thế giới thứ hai, chính quyền phát xít ở Đức bắt đầu đe dọa tiến hành xâm lược Trung Âu. Sau khi sáp nhập nước Áo vào lãnh thổ Đức, Tiệp Khắc trở thành mục tiêu tiếp theo của phát xít Đức. Tháng 4 năm 1938, Đức nêu yêu sách đòi vùng đất Sudentenland của Tiệp Khắc. Ngày 29 tháng 9 năm 1938, Hiệp ước München được ký kết. Anh, Pháp vì không muốn chiến tranh với Đức đã quyết định vứt bỏ liên minh quân sự với Tiệp Khắc. Và hậu quả là đến ngày 16 tháng 3 năm 1939, toàn bộ lãnh thổ Tiệp Khắc đã bị Đức chiếm đóng. Trong những năm Thế chiến thứ hai, khoảng 390.000 người dân thành thị, trong đó có 83.000 người Do Thái đã bị giết hại hoặc bị hành quyết. Hàng trăm ngàn người đã bị đưa vào các nhà tù và các trại tập trung để làm công việc khổ sai. Chiến tranh kết thúc vào ngày 9 tháng 5 năm 1945 với việc cuộc khởi nghĩa Praha lật đổ ách thống trị của phát xít Đức thành công và quân đội Liên Xô và Mỹ tiến vào Tiệp Khắc.

Từ năm 1945-1946, hầu như toàn bộ người Đức thiểu số (khoảng 2,7 triệu người) đã bị trục xuất khỏi Tiệp Khắc sang Đức và Áo. Sau Thế chiến thứ hai, Đảng Cộng sản Tiệp Khắc nhanh chóng phát triển do sự thất vọng của người Tiệp Khắc đối với phương Tây vì đã vứt bỏ họ trong Hiệp ước München và do ảnh hưởng ngày càng mạnh của Liên Xô. Trong cuộc bẩu cử năm 1946, Đảng Cộng sản đã giành được tỉ lệ phiếu 38%, trở thành chính đảng lớn nhất và chính thức cầm quyền từ tháng 2 năm 1948. Sau đó, Đảng Cộng sản Tiệp Khắc đã xây dựng một chính quyền toàn cộng sản. Sau khi nắm quyền, Đảng Cộng sản Tiệp Khắc đã quốc hữu hóa các ngành kinh tế, xây dựng một nền kinh tế kế hoạch. Kinh tế tăng trưởng nhanh trong thập niên 1950 và thập niên 1960, sau đó bắt đầu giảm sút từ thập niên 1970 và rơi vào khủng hoảng trầm trọng. Chính quyền cộng sản trở nên thiếu dân chủ. Năm 1968, phong trào Mùa Xuân Praha bùng nổ đòi mở rộng tự do dân chủ và thực hiện đa nguyên chính trị, song sau đó bị quân đội Liên Xô đàn áp và dập tắt. Tháng 11 năm 1989, cuộc Cách mạng Nhung lụa diễn ra trong hòa bình, đưa đất nước Tiệp Khắc trở lại quá trình dân chủ.

Ngày 1 tháng 1 năm 1993, Tiệp Khắc diễn ra cuộc “chia li trong hòa bình”. Hai dân tộc Séc và Slovakia tách ra, thành lập hai quốc gia mới là Cộng hòa Séc và Cộng hòa Slovakia.  Cộng hòa Séc từ sau khi lại trở thành một quốc gia độc lập năm 1993, Quốc hội Cộng hòa Séc đã quyết định giữ nguyên lá cờ của Liên bang Tiệp Khắc cũ làm là cờ của Cộng hòa Séc. Cùng năm đó, nước này gia nhập Liên Hiệp Quốc. Đến năm 1995, Cộng hòa Séc trở thành một thành viên của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) và Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Ngày 12 tháng 3 năm 1999, Cộng hòa Séc gia nhập NATO. Vào năm 2004, cùng với 9 quốc gia Đông Âu và Nam Âu khác, Cộng hòa Séc đã trở thành một thành viên của Liên minh Châu Âu. Kinh tế Cộng hòa Séc đi theo nền kinh tế thị trường và đang trên đà phát triển mạnh, song cũng vẫn phải đối mặt với nhiều mạo hiểm và thách thức to lớn.

Chính trị kinh tế cộng hòa Séc

Chính trị Cộng hòa Séc. Theo hiến pháp, Séc là một quốc gia đa đảng theo chế độ dân chủ nghị viện, tổng thống là người đứng đầu nhà nước còn thủ tướng là người điều hành chính phủ. Tổng thống Cộng hòa Séc được bầu bởi Quốc hội với nhiệm kỳ 5 năm. Theo Hiến pháp, một tổng thống không được phép nắm quá hai nhiệm kỳ liên tiếp. Tổng thống có vai trò chủ yếu về mặt nghi thức song ông cũng có thể dừng thông qua một đạo luật hoặc giải tán quốc hội trong những trường hợp đặc biệt.

Tổng thống hiện nay của Cộng hòa Séc là ông Václav Klaus. Mới đây Cộng hòa Séc đã thông qua bộ luật mới về việc bầu cử tổng thống trực tiếp, tức là tổng thống sẽ được người dân bầu ra chứ không do Quốc hội bầu như trước nữa.

Thủ tướng Cộng hòa Séc là người đứng đầu chính phủ. Thủ tướng nắm trong tay nhiều quyền lực lớn như quyết định các vấn đề đối nội và đối ngoại, triệu tập quốc hội và chọn ra các bộ trưởng của chính phủ. Thủ tướng hiện nay của Cộng hòa Séc là ông Petr Nečas.

Quốc hội của Cộng hòa Séc được tổ chức theo mô hình lưỡng viện, bao gồm hạ viện và thượng viện. Hạ viện gồm 200 ghế còn thượng viện gồm 81 ghế. Tại Cộng hòa Séc có 14 khu vực bầu cử tương ứng với 14 khu vực hành chính của cả nước.

14 khu vực hành chính gồm thành phố thủ đô Praha và 13 vùng địa phương (bảng kèm). Ở Praha, quyền lực được thi hành bởi Thị trưởng Praha và Hội đồng Thành phố. Ở 13 vùng còn lại có hội đồng địa phương được bầu chọn qua bầu cử và người lãnh đạo riêng. Mỗi khu vực nói trên của Cộng hòa Séc được coi là một vùng cấp ba của Liên minh châu Âu. Trong khi đó, toàn bộ lãnh thổ Cộng hòa Séc được coi là một vùng cấp hai của Liên minh châu Âu. (Xem Các vùng của Liên minh châu Âu)

Tòa án Hiến pháp (hay Tòa án Lập pháp) của Cộng hòa Séc gồm có 15 thành viên và có nhiệm kỳ 10 năm. Các thành viên của Tòa án Hiến pháp được chỉ định bởi tổng thống và được thông qua bởi thượng viện.

Cộng hòa Séc là nước đa đảng với sự tham gia của nhiều đảng phái. Hai đảng có ảnh hưởng lớn nhất ở Cộng hòa Séc là Đảng Dân chủ Công dân và Đảng Xã hội Dân chủ Séc.

Quân đội Séc gồm có lục quân, không quân và lực lượng hậu cần đặc biệt. Quân đội Séc ngày nay là một phần của Quân đội Tiệp Khắc trước kia, vốn là một trụ cột quan trọng của Hiệp ước Warsaw cho đến tận năm 1989. Kể từ khi gia nhập NATO vào ngày 12 tháng 3 năm 1999, lực lượng quân đội Séc đã có những sự thay đổi đáng kể về nhiều mặt. Tuy số lượng binh lính giảm xuống còn khoảng 67.000 người nhưng về mặt chất lượng lại được nâng cao và trình độ tổ chức chuyên nghiệp hơn. Năm 2004, chế độ nghĩa vụ quân sự bắt buộc bị giải thể. Lực lượng quân đội Séc ngoài nhiệm vụ phòng thủ, bảo vệ đất nước còn tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên Hiệp Quốc tại Iraq, Afghanistan, Bosna và Hercegovina, Kosovo.

Kinh tế Cộng hòa Séc là nền kinh tế dịch vụ – công nghiệp phát triển được đánh giá là một trong những nền kinh tế mới trỗi dậy ở Đông Âu đạt sự ổn định và thịnh vượng nhất trong số các nước thời kỳ hậu cộng sản ở châu Âu.

Đồng tiền chính thức hiện nay của Cộng hòa Séc là đồng koruna. Trong tiếng Séc, từ koruna có nghĩa là “vương miện”. Đồng tiền này chính thức được sử dụng từ ngày 18 tháng 2 năm 1993 sau khi Cộng hòa Séc và Slovakia tách khỏi Tiệp Khắc. Ký hiệu trong giao dịch quốc tế của đồng koruna Séc theo ISO 4217 là CZK. Đồng tiền koruna của Cộng hòa Séc bắt đầu tham gia các tỷ giá hối đoái từ năm 1995 và được thả nổi kể từ năm 1999. Trong năm 2007, chỉ số lạm phát của đồng tiền này là 2,4% và đã được duy trì ổn định trong suốt nhiều năm qua. Cộng hòa Séc có kế hoạch gia nhập khu vực sử dụng đồng tiền chung châu Âu (euro) vào năm 2012 nhưng sau đó đã tuyên bố hoãn lại. Đầu năm 2008, Ngân hàng Quốc gia Séc tuyên bố sẽ lùi thời hạn gia nhập khu vực đồng tiền chung đến năm 2019.

Dịch vụ là lĩnh vực đóng góp nhiều nhất trong nền kinh tế, chiếm 57,3% GDP. Các ngành ngân hàng, công nghệ thông tin, viễn thông là những động lực năng động của nền kinh tế Séc và thu hút nhiều vốn đầu tư nước ngoài. Thương mại là một hoạt động kinh tế quan trọng với các đối tác thương mại chủ yếu là Cộng hòa Liên bang Đức, Slovakia, Áo, Ba Lan… Du lịch cũng là một thế mạnh của Cộng hòa Séc đóng góp tới 5,5% GNP của nước này. Thủ đô Praha thường là lựa chọn hàng đầu của du khách với rất nhiều các công trình văn hóa, lịch sử nổi tiếng. Những khu du lịch spa nổi tiếng như Karlovy Vary thường là điểm đến được yêu thích vào các kỳ nghỉ. Những lễ hội âm nhạc hay bia của Cộng hòa Séc cũng góp phần làm đất nước này trở thành một địa điểm du lịch hấp dẫn.

Công nghiệp chiếm tỉ trọng 39,3% trong nền kinh tế. Cộng hòa Séc vốn là một nước có sẵn những cơ sở công nghiệp từ thế kỉ 19, có nhiều điều kiện thuận lợi phát triển. Các ngành công nghiệp chính của nước này là luyện kim, công nghiệp nặng và máy xây dựng, sắt và thép, gia công kim loại, hóa chất, điện tử,  sợi dệt, kính, rượu bia, sứ, gốm, dược phẩm, sản xuất máy móc, thiết bị điện tử, phương tiện giao thông, thiết bị vận tải, dệt may, chất hóa học, dược phẩm, chế biến lương thực thực phẩm… Bên cạnh đó, Cộng hòa Séc rất nổi tiếng với ngành công nghiệp sản xuất đồ gốm sứ và pha lê.

Nông nghiệp chỉ chiếm 3,4% GDP trong cơ cấu kinh tế của Cộng hòa Séc. Nông nghiệp Cộng hòa Séc không có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển. Các loại cây trồng chủ yếu của nước này là lúa mì, khoai tây, củ cải đường, cây hublông…

Năng lượng: Cộng hòa Séc nhìn chung là một nước nghèo tài nguyên về năng lượng, ngoại trừ một ít dầu mỏ và khí gas ở miền nam Moravia. Hiện nay nước này đang hạn chế dần việc sử dụng than làm chất đốt vì vì sản sinh ra nhiều khí nhà kính gây ô nhiễm môi trường. Năng lượng nguyên tử chiếm 30% tổng nhu cầu năng lượng hiện nay ở Cộng hòa Séc, và dự kiến có thể tăng lên 40% trong những năm tới. Khí gas tự nhiên được nhập khẩu từ nước ngoài và là một khoản chi tiêu lớn của Cộng hòa Séc. Gas được nhập từ tập đoàn Gazprom của Nga qua các đường ống trung chuyển ở Ukraina và nhập từ các công ty của Na Uy, được vận chuyển qua Đức. Sản lượng điện năm 2005 đạt 77,38 tỷ Kwh và ngoài đáp ứng tiêu thụ trong nước, Cộng hòa Séc xuất khẩu gần 25 tỷ Kwh điện năng.

Giao thông: Cộng hòa Séc là trái tim của châu Âu nên có mạng lưới giao thông dày đặc và khá phát triển. Đường sắt có tổng chiều dài 16.053 km (năm 2005) và mật độ đường sắt cao nhất trong Liên minh châu Âu: 120 km trên 1.000 km vuông. Hàng năm đường sắt nước này chuyên chở khoảng 178 triệu hành khách và 100 triệu mét khối hàng hóa. Công ty “Đường sắt Séc” chiếm 99% tổng hành khách vận chuyển bằng đường sắt. Đường bộ của Cộng hòa Séc có trên 6.174 km đường quốc lộ cao tốc hạng nhất (giới hạn tốc độ 130 km/h) nối thủ đô và các thành phố chính như Brno, Plzen, Pripram… và hòa vào hệ thống đường cao tốc châu Âu tạo thành xương sống của hệ thống đường bộ nước này. Đường bộ cấp thấp hơn có tổng chiều dài 48.778 km. Về đường hàng không, Cộng hòa Séc có khoảng 60 sân bay công cộng trong đó lớn nhất là Sân bay quốc tế Pragua hàng năm đón khoảng 11 triệu lượt khách. Hãng hàng không quốc gia là Czech Airlines có đường bay đến những thành phố lớn ở châu Âu, Bắc Mỹ, Châu Á, Trung Đông và Bắc Phi. Đường sông chủ yếu tập trung ở ba con sông chính là Labe, Vltava và Berounka với tổng chiều dài khoảng 300 km. Vận tải thủy chiếm từ 2 đến 5% lượng hàng hóa xuất nhập khẩu và có vai trò quan trọng trong thương mại với Đức, Bỉ và Hà Lan, ngoài ra nó cũng phục vụ cho du lịch. Giao thông công cộng ở các thành phố lớn cũng khá thuận tiện với các phương tiện chủ yếu là xe bus, tàu điện, ngoài ra thủ đô Prague bắt đầu có tàu điện ngầm từ ngày 9 tháng 5 năm 1974, chiều dài đường tàu điện ngầm khoảng 54 km.

Thông tin và truyền thông: Cộng hòa Séc có trên 3,2 triệu thuê bao cố định (2005) và trên 12 triệu thuê bao di động (2006). Số người sử dụng điện thoại di động tăng mạnh từ giữa thập niên 1990 và đến nay đạt 120 thuê bao trên 100 người. Hệ thống thông tin nội địa đã được nâng cấp thiết bị ADSL để tạo điều kiện thuận lợi cho sử dụng Internet và 93% dung lượng trao đổi dưới dạng kỹ thuật số. Để phục vụ viễn thông quốc tế, Cộng hòa Séc có 6 vệ tinh: 2 Intersputnik, 1 Intelsat, 1 Eutelsat, 1 Inmarsat và 1 Globalstar. Cộng hòa Séc có 4 đài truyền hình ở phạm vi toàn quốc và trên 20 đài khu vực trong đó Czech Television, TV Nova và Prima TV là những hãng lớn nhất. Cộng hòa Séc là nước Đông Âu đầu tiên cho phép tư nhân phát sóng truyền hình năm 1994. Nước này cũng có 7 đài phát thanh toàn quốc, 76 đài phát thanh địa phương. Internet khá phát triển với những nhà cung cấp dịch vụ chính là Seznam, Centrum, Atlas, iDnes, Volny và Tiscali.

Văn hóa giáo dục cộng hòa Séc

Ngôn ngữ văn hóa: Văn học Séc bắt nguồn từ thế kỉ 8 sau công nguyên dưới thời Đại Moravia. Hai anh em Cyril và Methodius đã được vương triều Byzantine cử tới Đại Moravia để truyền b&aaXem tiếp >>

  Dạy và học 25 tháng 11(25-11-2021)

DẠY VÀ HỌC 25 THÁNG 11
Hoàng Kim
CNM365 Tình yêu cuộc sốngThầy Luật lúa OMCS OM; Nôi ví dặm ân tình; Câu chuyện ảnh tháng 11; Lên Việt Bắc điểm hẹn;Thăm nhà cũ của Darwin; Sự chậm rãi minh triết; Châu Văn Tiếp Phú Yên; Tiệp Khắc kỷ niệm một thời; Praha Goethe và lâu đài cổ; Chuyện thầy Tôn Thất Trình; Sao Kim kỳ thú; Về Trường để nhớ thương; Quảng trường Wenceslas ở Praha di sản văn hóa thế giới nổi tiếng (hình). Ngày 25 tháng 11 năm 1992 Hội đồng Liên bang bỏ phiếu quyết định chia tách Tiệp Khắc thành Cộng hòa Séc và Cộng hòa Slovakia.  Ngày 25 tháng 11 năm 1784 Châu Văn Tiếp tử thương tại trận thủy chiến ở Măng Thít  giữa thủy quân Xiêm  Nguyễn với thủy quân Tây Sơn. Châu Văn Tiếp người Đồng Xuân Phú Yên là danh tướng Việt Nam cuối thế kỷ 18 một trong Tam hùng Gia Định dưới thời Nguyễn Ánh. Mang Thít là một huyện thuộc tỉnh Vĩnh Long  miền Tây Nam Bộ nơi có sông Mang Thít là thủy lộ quan trọng ở Đồng bằng Sông Cửu Long và nơi nuôi cá bè cho năng suất rất cao cũng là huyện sản xuất nhiều lúa gạo và trái cây ngon. Ngày 25 tháng 11 năm 1887 là ngày sinh Nikolai Ivanovich Vavilov, (mất năm 1943) nhà di truyền học nổi tiếng người Nga và Liên Xô, được biết đến nhiều nhất vì đã nhận dạng ra các trung tâm nguồn gốc của các loại cây trồng. Ông dành trọn cuộc đời mình cho việc nghiên cứu và cải thiện lúa mì, ngô và các loại cây lương thực khác, góp phần vào việc cải thiện và tăng năng suất các giống cây trồng; xem tiếp Bài viết chọn lọc ngày 25 tháng 11: Thầy Luật lúa OMCS OM; Nôi ví dặm ân tình; Câu chuyện ảnh tháng 11; Lên Việt Bắc điểm hẹn;Thăm nhà cũ của Darwin; Sự chậm rãi minh triết; Châu Văn Tiếp Phú Yên; Tiệp Khắc kỷ niệm một thời; Praha Goethe và lâu đài cổ; Chuyện thầy Tôn Thất Trình; Sao Kim kỳ thú; Về Trường để nhớ thương; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-25-thang-11/;

vienluathambacgiap

THẦY LUẬT LÚA OMCS OM
Hoàng Kim

Giáo sư Nguyễn Văn Luật, anh hùng lao động là tác giả chính của cụm công trình đoạt Giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học công nghệ 10 nhà khoa học được nhận năm 2000. Tập thể Viện Lúa là anh hùng lao động thời kỳ đổi mới năm 2000, đến năm 2014 Viện Lúa phát huy truyền thống và được nhận Huân chương Độc Lập hạng Nhất cao quý nhất của Việt Nam. Thầy là một người lính và danh tướng lỗi lạc của mặt trận nông nghiệp Điện Biên Nam Bộ. Trong câu chuyện đời thường của giáo sư Luật có ba câu chuyện tiếu lâm, học mà vui, vui mà học. Đó là “Ôm em và ôm em cực sướng”, “Nuôi heo trồng so đũa nuôi dê”, “Thầy Luật bạn và thơ”.. Chuyện được tình tự kể như dưới đây. https://hoangkimlong.wordpress.com/category/thay-luat-lua-omcs-om/

Thầy Nguyễn Văn Luật (phải) là giáo sư tiến sĩ anh hùng lao động, cựu Viện trưởng Viện Lúa ĐBSCL, tác giả chính của OMCS OM trên đồng lúa mới với kỹ sư Hồ Quang Cua (trái) anh hùng lao động, tác giả chính thương hiệu gạo thơm Sóc Trăng nổi tiếng Việt Nam .

Thế hệ chúng tôi may mắn được kết nối với những người Thầy trí thức lớn, những bạn nhà nông tâm huyết, trí tuệ, gắn bó suốt đời với nông dân đồng nghiệp, sinh viên cây lương thực và nghề nông.Khi nói đến họ là nói đến một đội ngũ thầm lặng dấn thân cho hạt ngọc Việt và sự đi tới không ngưng nghỉ của Việt Nam con đường xanh, tỏa sáng nhân cách và trí tuệ Việt. “Con đường lúa gạo Việt Nam” là chuỗi giá trị sản phẩm kết nối những thế hệ vàng nông nghiệp Việt Nam làm rạng danh Tổ Quốc. Đó là Lương Định Của lúa ViệtThầy Tuấn kinh tế hộ; Thầy Luật lúa OMCS OM; Thầy Quyền thâm canh lúa; Những người Việt lỗi lạc ở FAO; Chuyện cô Trâm lúa lai; Chuyện thầy Hoan lúa lai; Hồ Quang Cua gạo thơm Sóc Trăng; Thầy nghề nông chiến sĩ. Hôm nay chúng tôi tự hào giới thiệu một góc nhìn ‘Thầy Luật lúa OMCS OM’ người Thầy đã lưu dấu nhiều ấn tượng sâu xa trong cây lúa Việt Nam và vùng lúa Nam Bộ. Câu chuyện này là sự nối dài tỏa rộng thêm “Con đường lúa gạo Việt Nam” từ Đại Ngãi Long Phú Sóc Trăng quê hương của nhà bác học nông dân anh hùng lao động Lương Định Của, người thầy nghề lúa, đến Viện Lúa Ô Môn, nôi khai sinh thương hiệu OM và OMCS nổi tiếng đến làng OM, cầu OM, cầu Nhót Hà Nội quê hương của thầy Luật.

Giáo sư Nguyễn Văn Luật là tác giả chính của thương hiệu lúa giống OMCS OM, đến nay trong thương hiệu OM lúa giống đã có trên 166 giống lúa của nhiều tác giả Viện Lúa được Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn công nhận, mà phần lớn đều mang tên OM. GS Nguyễn Văn Luật cũng là tác giả chủ biên của bộ sách đồ sộ gần 1.500 trang “Cây lúa Việt Nam thế kỷ 20” ba tập do Nhà Xuất Bản Nông nghiệp, Hà Nội. xuất bản năm 2001, 2002, 2003 mà bất cứ chuyên gia nông nghiệp Việt Nam nào khi soát xét cây lúa Việt Nam của một thời và ‘Việt Nam chốn tổ của nghề lúa’ đều không thể bỏ qua. Bài học lớn hơn hết, sâu đậm hơn hết là bài học tập hợp và phát huy được năng lực của một đội ngũ chuyên gia tuyệt vời đầy tài năng và một đội ngũ các lãnh đạo qua các thời kỳ thật tâm huyết. Bài học cao quý của sự đoàn kết một lòng hoàn thành tốt nhiệm vụ của các thế hệ cán bộ viên chức người lao động Viện Lúa, sự quan tâm của Đảng, Chính phủ và các cấp lãnh đạo Trung ương, địa phương và doanh nghiệp, sự cộng hưởng, giúp đỡ và liên kết thật tuyệt vời của thầy cô, bạn hữu, đồng nghiệp bạn nhà nông cùng với đông đảo nông dân từ khắp mọi miền đất nước.

ÔM EM VÀ ÔM EM CỰC SƯỚNG

Thủ tướng Chính phủ Võ Văn Kiệt thời đó cũng như Thủ tướng Phạm Văn Đồng tiền nhiệm đều ham làm lúa, thăm lúa vì … dân đói. Thủ tướng Chính phủ Võ Văn Kiệt thăm Viện Lúa giữa năm 1997 và hỏi Viện trưởng Nguyễn Văn Luật: ‘Vì sao anh đặt tên lúa giống là OM và OMCS?’

Giáo sư Nguyễn Văn Luật trả lời: “Thưa Thủ tướng, để tỏ lòng biết ơn lãnh đạo và nhân dân địa phương tạo điều kiện cho Viện hoạt động, chúng tôi lấy tên huyện Ô Môn của địa phương làm tên của giống lúa do Viện tạo chọn”.

Trong không khí vui vẻ, nhiều người đã bổ sung những ý kiến tốt đẹp. Chủ tịch tỉnh Ba Xinh cười nói OM nghĩa là Ôm Em, một phóng viên ngồi ở vòng ngoài nói xen vào OMCS nghĩa là Ôm Em Cực Sướng, đoàn tháp tùng có một cán bộ ở Hà Nội nói là địa danh quê của Viện trưởng là làng OM, cầu OM cầu Nhót Hà Nội, nên OM cũng có nghĩa là làng OM, cầu OM.Thủ tướng tóm tắt ; Vậy OM là O EM, O BẾ EM !

Ngài Ngài đại sứ Ấn Độ có lần đến thăm Viện biết chuyện có bổ xung: dân Ấn Độ chúng tôi khi phát âm Ô Ô ÔM ÔM… , hai tay chắp lại, là để tỏ lòng thành kính cầu phúc!

Có một chuyện vui liên quan là giáo sư Luật một lần đi với cố nhà báo Nhật Ninh, gặp anh xe ôm dọc đường gọi là “anh hai ôm em”..! và chuyện này đã đăng báo Nhân Dân mà tác giả là Nhật Ninh!

OM và OMCS là những câu chuyện như suối nguồn tươi trẻ thao thiết chảy giữa vùng quê Nam Bộ và xuống nông thôn càng có thêm nhiều huyền thoại thú vị.

Nghe nói có một lần cố đại tướng Võ Nguyên Giáp khi đang làm Phó Thủ Tướng phụ trách Khoa học Kỹ thuật và Chương trình Kế họach hóa Gia đình, trong một chuyến thăm một đơn vị rất thành công ở miền Tây, bác Văn đã hỏi về bài học kinh nghiệm thành công. Vị giám đốc đơn vị vui vẻ trình bày: Em có bốn bài học thấm thía nhất: một là o bế dân, được lòng dân nên được tất cả; hai là o bế địa phương, mất lòng thổ địa thì chẳng thể anh hùng; ba là o bế hiền tài và các vị cao minh, sự nghiệp phát triển được là nhờ họ; bốn là o bế em, thuận vợ thuận chồng tát biển đông cũng cạn.

Thầy Viện trưởng khác của tôi kể chuyện là cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt nói vậy không là nói vui mà thực sự chính cụ đã trãi nghiệm sâu sắc về sự O bế Em thành công, mà chính mối tình này làm ông còn một người con Phan Thanh Nam sinh ngày ngày 25 tháng 2 năm 1952, người đã thay mặt gia đình đọc lời cảm tạ trong lễ tang của ông. Mẹ của Nam là bà Hồ Thị Minh, chủ bút đầu tiên của tờ Phụ nữ cứu quốc Nam bộ. Cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt có người vợ đầu cùng hai người con út, một trai một gái, đã thiệt mạng khi quân đội Hoa Kỳ bắn chìm tàu Thuận Phong trong một cuộc càn quét qua chiến khu Củ Chi và người con trai đầu của ông là Phan Chí Dũng đã hi sinh ngày 29 tháng 4 năm 1972 tại Sóc Trăng trong một lần đi trinh sát. Câu chuyện đời thường và lời cụ Kiệt thật thấm thía. Đó là một sự trãi nghiệm.

OM hay ÔM, O hay Ô, chữ nào hay hơn? Hóa ra hai chữ đều hay. “Om mầm nên nõn lá” việc lặt lá mai và cái lạnh giá mùa đông là sự om mầm để cây nẩy lộc xuân. Con đường lúa gạo Việt Nam, Viện Lúa 40 năm xây dựng phát triển có nhiều những dâng hiến lặng lẽ mà giáo sư Luật là một trong những con người ấy.

Trong bài “Thầy bạn là lộc xuân của cuộc đời” tôi có kể về giáo sư Bùi Chí Bửu tâm sự với tôi: Anh Bổng (Bùi Bá Bổng) và mình đều rất thích bài thơ này của Sơn Nam :

Trong khói sóng mênh mông
Có bóng người vô danh
Từ bên này sông Tiền
Qua bên kia sông Hậu
Tay ôm đàn độc huyền
Điệu thơ Lục Vân Tiên
Với câu chữ
Kiến nghĩa bất vi vô dõng giả
Từ Cà Mau Rạch Giá
Dựng chòi đốt lửa giữa rừng thiêng
Muỗi vắt nhiều hơn cỏ
Chướng khí mờ như sương
Thân chưa là lính thú
Sao không về cố hương ?

Nhớ Thầy Luật lúa OM và OMCS là nhớ thầy Hai Lúa ‘anh hai ôm em’ trong số những dâng hiến lặng lẽ đó.

“NUÔI HEO, TRỒNG SO ĐŨA, NUÔI DÊ”

Ông Nguyễn Khôi phó Vụ trưởng Vụ Dân tộc Văn phòng Quốc hội có bài thơ ‘Giáo sư Lúa’ tặng GSTS Nguyễn Văn Luật.

GIÁO SƯ LÚA

Trai Hà Nội đi Nông Lâm buổi ấy
Bạn bè cười cày đường nhựa được chăng?
Rồi ở Viện suốt đời vì cây lúa
Đem sông Hồng vào với Cửu Long.

Đất Ô Môn đồng chua cỏ lác,
Ôi Cần Thơ đất rộng Tây Đô
Xứ Nam Bộ hai mùa mưa nắng,
Kết 20 triệu tấn lúa ước mơ …

Anh Kỹ sư rồi thành ông Tiến sĩ,
Vị Giáo sư lội ruộng suốt ngày.
Lại nhớ thời Hải Dương – Ô Mễ
Làm bèo dâu, cấy thẳng mê say.

Nay lúa vượt 25 triệu tấn,
Ôi Việt Nam, sức sống diệu kỳ.
Sông Hồng với Cửu Long hòa sóng,
Bạn bè đùa ‘ông Tiến sĩ nhà quê”.

Mùi hạnh phúc đượm bao sương mấy nắng,
Trai Hà Thành đen nhẽm ngỡ nông dân.
Cũng xởi lởi như Bác Hai Nam Bộ
Viết vần thơ ca ngợi ruộng đồng.

Tôi xin giải thích thêm bài thơ của cụ Nguyễn Khôi về 25 triệu tấn lúa này là 25 triệu tấn lúa mà toàn quốc Việt Nam đạt được năm 1995. Viện Lúa 40 năm xây dựng phát triển đã góp phần đưa sản lượng lúa ở ĐBSCL từ khoảng 4 triệu tấn/ năm 1977 vượt trên 25 triệu tấn/ năm 2016, tăng hơn gấp 6 lần, và điều kì diệu là  25 triệu tấn lúa trên năm tại ĐBSCL năm 2016 bằng toàn bộ sản lượng lúa Việt Nam năm 1995.   Chùm thơ cuối của tác giả Nguyễn Khôi thật thấm thía: “Mùi hạnh phúc đượm bao sương mấy nắng,/ Trai Hà Thành đen nhẽm ngỡ nông dân/ Cũng xởi lởi như Bác Hai Nam Bộ/ Viết vần thơ ca ngợi ruộng đồng”.

Trong những câu chuyện tiếu lâm cười vui một thời có chuyện Viện Lúa Viện Dê Viện Trưởng Dê mà tôi tần ngần không dám đặt tên này mà kể chệch đi một chút là “nuôi heo, trồng so đũa, nuôi dê”. Hồi đó, cán bộ công nhân viên của các Viện nghiên cứu và Trung tâm Nông nghiệp đều quá vất vả và thiếu thốn. Hầu như nhà nào cũng nuôi heo,  phải tăng gia sản xuất mới có đồng gia đồng vào, vợ đẻ con bệnh không lo bằng heo đẻ, heo bệnh. Cán bộ công nhân ra đồng làm ruộng, vui vè chuyện trò thì thường đầu tiên là kể chuyện vợ chồng con cái, kế đến là việc nuôi heo, trồng so đũa, nuôi dê thật hợp với Viện Lúa, sau đó là đến chuyện tiếu lâm nam nữ.

Giáo sư Luật kể rằng một hôm ông đi qua dãy nhà lá trên đoạn đê cụt trong Viện chợt nghe tiếng ục ịch, sột soạt, hổn hển, ông dừng lại nghe và dòm qua cửa sổ mở thì hóa ra đó là tiếng động của hai cô kế toán trường trung cấp Xuân Mai về Viện đang vuốt ve … hai con lợn trắng hồng độ 45 – 50 kg. Cô Hinh nhanh nhẩu tự giới thiệu đây là nhà ở của Hồng heo, Hồng Hinh, Hồng Hay ! Hai cô này đến nay đã thành bà nội bà ngoại, nhà cửa khang trang, con cháu học hành thành đạt, nhưng chắc vẫn nhớ một thời gian khó đã dành nơi tốt nhất cho heo ở.

Nhiều gia đình ở Viện lúa thuở đó đều trồng so đũa và nuôi dê sữa. Nhà giáo sư Viện trưởng cũng nuôi vài con heo và một con dê Bách Thảo mỗi sáng vắt được đến 5 – 6 lít sữa, dư dùng. Lộc, Thành và Thu Hiền là con của giáo sư Luật sáng sáng thay nhau đi bỏ sữa cho các nhà cần và đi học về là vác câu liêm lấy lá so đũa để nuôi dê. Viện Lúa hồi đó, đất nền nhà và đường sá trụ sở mới được tôn lên từ đất ruộng chua phèn nên rất ít cây phát triển được, ngoại trừ rau muống dại, chuối, mía, và trồng so đũa để lấy hoa nấu canh, thân cây đục lỗ cấy nấm mèo (mộc nhĩ), lấy lá nuôi dê.

Viện Lúa ĐBSCL một thời không chỉ vang danh lúa mới OM, OMCS mà còn vang danh là Viện Dê, Viện Trưởng Dê. Bộ trưởng Nguyễn Công Tạn, Bí thư Tỉnh Ủy Tám Thanh và các cán bộ đi cùng khi đến tham quan Viện Lúa, ngoài việc thăm đồng đều không quên đến thăm các mô hình trồng so đũa  – nuôi dê, cũng như sau thăm mô hình con cá con tôm ôm cây lúa ‘canh tác bền vững trong vuông’. Một số gia đình kỹ sư giỏi nuôi dê như gia đình kỹ sư Bình Thủy có thêm tên gọi thân mật Bình dê, tương tự như nhiều cặp vợ chồng của Bổng Hòa lúa, Bửu Lang lúa quen thuộc với nông dân miền Tây.

Tôi có một kỷ niệm vui với Viện Lúa là trồng sắn ngô xen thêm đậu xanh, lạc, đậu rồng và tôi khuân về từ Viện Lúa hai con dê Bách Thảo để làm mô hình kinh tế hộ gia đình. Các con tôi Nguyên Long còn quá bé, thuở đó vợ chồng đều bận rộn suốt ngày mà dê Bách Thảo phá quá, gặm cỏ và cây cối rất miệt mài. Tôi có sáng kiến buộc hai con dê lại với nhau và treo bao cỏ trên gác bếp cao để dê rút cỏ ăn dần. Thế nhưng một hôm một con leo lên cao rút cỏ, con ở dưới giật kéo làm con ở trên ngã vật xuống và bị … ‘chấn thương sọ não’ như anh em trong cơ quan nói vui. Chúng tôi mua hai can rượu và xẻ thịt dê gõ kẽng ‘báo động’ mời anh em về liên hoan và chia thịt dê cho mọi nhà. Câu chuyện ‘mổ dê đãi tiệc’ nghe thật hoành tráng và nhớ quá một thời.

Đến Long Phú, Sóc Trăng bạn sẽ gặp con đường Trường Khánh - Đại Ngãi nối vựa lúa chất lượng ngon và năng suất cao nhất nước.

Con đường lúa gạo Việt Nam đang tỏa rộng nhiều vùng đất nước, kết nối lớp lớp những dâng hiến lặng lẽ tôn vinh hạt ngọc Việt. Cây lúa Việt Nam nửa thế kỷ nhìn lại (1977 – 2017) có tốc độ tăng năng suất vượt 1,73 lần so với thế giới. Thành tựu này có cống hiến hiệu quả của nhà bác học nông dân Lương Định Của ở chặng đường đầu của nước Việt Nam mới và lớp lớp những tài danh nông nghiệp Việt trong đó có giáo sư tiến sĩ Nguyễn Văn Luật anh hùng lao động, Bác Hai Nam Bộ, ‘anh Hai ôm em’  là một điểm đến đặc biệt ấn tượng .

THẦY LUẬT BẠN VÀ THƠ

Giáo sư Lê Văn Tố nhắn trên Facebook: “Tôi kính nể hai người anh hùng chân chính này và vinh dự được đàm đao với hai anh hùng tại nhà. Nói đến nông sản mà không nói đến công nghệ sau thu hoạch là việt vị nên sau khi thành lập cơ sở nghiên cứu theo đề nghị của GS Luật, tôi đã viết phần này”. Câu chuyện của thầy Tố, tôi chỉ lưu được một chút nhỏ trong bài Chuyện đời giáo sư Lê Văn Tố và mong thầy trao đổi thêm đôi lời về lĩnh vực chuyên sâu đầy thách thức và cơ hội này đối với lớp trẻ.

Giáo sư Trịnh Xuân Vũ người thầy đại thụ sinh học và sinh lý thực vật, hôm chấm luận văn thạc sĩ mới đây, đã kể chuyện và bàn luận với chúng tôi về sự vào cuộc của các đại gia kinh tài cho Nông sản Việt, chuyện quen và lạ mà anh Nam Sinh Đoàn đã bàn. Giáo sư Nguyễn Thơ góp vui: “Đi họp với các Cụ ớn nhất là các Cụ mang thơ đến tặng. Một hội nghề nghiệp đã đùa “Xin mọi người hãy để giày dép và thơ ở ngoài”.Thế nhưng ‘thầy Luật bạn và thơ Lúa mới’ là không hề cũ và không thể quên. Nhớ và quên là hai mặt của nhận thức, minh triết của đời thường. Văn hóa là gì còn lắng đọng khi người ta đã quên đi tất cả.

Tôi may mắn trong số những người bạn vong niên của thầy Luật “Em Hoàng Kim nhớ nhất là lúc lần đầu đi cùng thầy Van Quyen Mai về Ô Môn và về Cần Thơ cùng thầy Nguyễn Văn Luật, thầy Võ Tòng Xuân (là thân phụ của thầy giáo Võ-Tòng Anh) những người đã cùng cố giáo sư viện sĩ Đào Thế Tuấn chung sức xây dựng Chương trình Hệ thống Canh tác Việt Nam là điểm sáng một thời Nông Nghiệp Việt Nam (mà thầy Phạm Văn Hiền của Nong Lam University in Ho Chi Minh city, Nong Hoc Web nay đã phát triển thành giáo trình tâm đắc). Một số thầy ở Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam thuộc Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam đùa là nhóm thầy Van Quyen Mai và chúng tôi là về Cần Thơ Ô Môn để làm “lô đối chứng”.Nhưng chính nhờ sự giao lưu học tập ấy (về cách tập hợp dấn thân của tập thể Viện Lúa đạo quân tiên phong của Điện Biên Nam Bộ) để rồi chúng ta đã tiếp nối làm nên cuộc Cách mạng sắn ở Việt NamHoa Lúa; Hoa Đất , Hoa Người …Thật biết ơn quý Thầy khoa học nông nghiệp đầu ngành, biết ơn Viện Lúa xây dựng và phát triển

Giáo sư tiến sĩ Nguyễn Văn Luật anh hùng lao động, Bác Hai Nam Bộ, ‘anh Hai ôm em’  là một điểm đến đặc biệt ấn tượng .

Hoàng Kim chép lưu lại bài thơ ‘Thăm bạn Ô Môn’ của PTS Nguyễn Hữu Ước, Viện trưởng Viện Mía Đường, tại Ô Môn đêm 14 12 1992 cùng bài thơ “Giáo sư Lúa” của ông Nguyễn Khôi là Phó Vụ trưởng Vụ Dân tộc Văn phòng Quốc hội (đã trích dẫn trong bài “Thầy Luật lúa OMCS OM” phần hai) và bốn bài thơ đầu, giữa và cuối tập thơ “Lúa mới” của giáo sư Nguyễn Văn Luật

THĂM BẠN Ô MÔN
Nguyễn Hữu Ước
Thân mến tặng GSTS Nguyễn Văn Luật
và các bạn Viện Lúa ĐBSCL Ô Môn

Ô Môn ơi thế là đã đến
Bao chờ trông nay mới thỏa lòng
Trời Cần Thơ dạt dào gió nắng
Lúa ngập đồng gợn sóng mênh mông …

Giống lai nào bình chọn – tay em
Vần thơ nào dưới trăng anh viết?
Để ta say màu xanh mái tóc
Say con diều nghiêng cánh gọi trăng.

Chất dẻo thơm hạt gạo “Ô Môn”
Những chắt lọc công trình trí tuệ
Nuôi cuộc đời năng mưa vất vả
Xây niềm tin đi tới tương lai.

Gặp đây rồi – Vui quá đêm nay
Ly rượu nồng ấm tình bầu bạn
Không còn cách sông Tiền, sông Hậu
Trái tim ta làm nhịp nối bờ xa …

HOA NGỌC TRÂM
Luat Nguyen

Ngọc Trâm trong trắng thơm lâu
Chẳng khoe sắc thắm, chẳng sầu gió mưa
Trông hoa nhớ mẹ năm xưa
Hoa thanh tao ấy bây giờ còn đây.
11. 1983
Lúa mới, Nguyễn Văn Luật 1997 (bài đầu).

NHÀ NÔNG HỌC
Luat Nguyen

Là nhà nông học của nghề nông
Như những nhà thơ của ruộng đồng
Chữ tâm trong anh đầy sức sống
Tình anh như biển lúa mênh mông.
1961

TRÊN SÂN CHIM BẠC LIÊU
Luat Nguyen
Tặng ngài TLS Ấn Độ N.Dayakar

Anh với tôi trên đài quan sát
Canh rừng xanh, giữ biển Thái
Bình
Đàn cò mang nắng bình minh
Ngao du kết bạn tâm tình khắp nơi
1991
Lúa mới, Nguyễn Văn Luật 1997 (bài giữa).

XUÂN
Luat Nguyen

Xuân thời gian, xuân bất tái lai
Hương sắc tình xuân đâu có phai
Sức xuân trong anh từ em đến
Viết bản tình ca -tha thiết – không lời.
22 2 1997
Lúa mới, Nguyễn Văn Luật 1997 (bài cuối)

CHỒI TƠ
Luat Nguyen

Tình em sưởi ấm mùa xuân trẻ!
Mang nắng chan hòa nhuộm sắc hoa!
Anh muốn gom mưa từ bốn bể!
Để em tưới mát những chồi tơ!

Thầy
Luat Nguyen nhắn ngày 24 11 2021 “Xin đóng góp với trang mạng của TS Hoàng Kim bài thơ Chồi tơ tôi làm tặng cố bà xã tôi hồi được Nhà nước phong tạng Nhà Giáo ưu tú” xem tiếp tại https://hoangkimlong.wordpress.com/category/thay-luat-lua-omcs-om/.

Tôi dừng lâu trước bài thơ xúc động của anh Nguyễn Hữu Ước viết tại Ô Môn đêm 14 12 1992. Anh Ước thăm Ô Môn chậm hơn nhiều so với chúng tôi, không được làm “lô đối chứng” hoạt động chung chương trình lúa và hệ thống canh tác kết nối từ rất sớm với Viện Lúa Ô Môn.. Giáo sư Vũ Công Hậu nói “Được làm đối chứng là tốt lắm đấy cậu ạ. Cậu phải tâm huyết lắm mới tạo được sự đột phá. Cậu thay đổi thói quen ưa thích và thị trường tiêu dùng của người dân, đặc biệt là đối với lão nông tri điền, để chọn được một giống tốt thực sự trong sản xuất là thật khó. Làm việc thật và bước đi hàng đầu là điều không dễ dàng. Người ta nhiều khi phải ‘né’ đối chứng thật tốt ‘nước sông không phạm nước giếng” đấy cậu ạ. Giáo sư Vũ Công Hậu và anh Nguyễn Huy Ước ngày nay đều là người thiên cổ nhưng những sự quý mến, trân trọng công sức của một thế hệ vàng tâm huyết và lời tâm tình thật đáng quý.

DẠY VÀ HỌC không chỉ là trao truyền kiến thức mà còn thắp lên ngọn lửa. Chừng nào mỗi chúng ta chưa ứa nước mắt thấm hiểu sự nhọc nhằn của người nông dân một nắng hai sương làm ra hạt gạo. Chừng nào những giá trị lao động khoa học cao quý, liên tục, âm thầm chưa mang lại đủ niềm vui cho bữa ăn của người dân nghèo. Chừng đó chúng ta sẽ còn phải DẠY VÀ HỌC. Cái gốc của sự học là HỌC LÀM NGƯỜI.

Các sâu sắc của sự học làm người là noi theo gương sáng (mặt tốt) của những bậc thầy minh triết, phúc hậu, tận tâm với Người với Đời. Sức lan tỏa của một người Thầy là tình yêu thương con người, sức tập hợp và cảm hóa. Thầy Nguyễn Văn Luật trở thành nhân vật lịch sử của em để đón nhận mọi sự khen chê của đời thường, nhưng riêng em luôn nhớ về Thầy với những điều cảm phục ngưỡng mộ”.

Thầy Luật lúa OMCS OM một thời sôi nổi

Hoàng Kim

CÂU CHUYỆN ẢNH THÁNG 11
Hoàng Kim

Thăm nhà cũ của Darwin
Về Trường để nhớ thương
Chuyện thầy Tôn Thất Trình
Xem tiếp >>

  Dạy và học 24 tháng 11(24-11-2021)


DẠY VÀ HỌC 24 THÁNG 11
Hoàng Kim
CNM365 Tình yêu cuộc sốngVề Trường để nhớ thương; Chuyện thầy Tôn Thất Trình; Một gia đình yêu thương; Sao Kim kỳ thú; Thăm nhà cũ của Darwin; Nguyễn Du trăng huyền thoại, Ngày 24 tháng 11 năm 1639, Sao Kim lướt qua Mặt Trời được quan sát và xác nhận bởi Jeremiah Horrocks và William Crabtree sau khi Horrocks dự đoán sự kiện này. Sao Kim Thái Bạch Kim Tinh là sao Hôm sao Mai trong Thái Dương hệ (hình).. Ngày 24 tháng 11 năm 1859 cuốn sách ‘Nguồn gốc các loài’ của nhà tự nhiên học người Anh Charles Darwin được xuất bản lần đầu tiên và được bán hết trong vòng một ngày. Sách cho rằng những sinh vật tiến hóa từ từ theo thuyết chọn lọc tự nhiên. Ngày 24 tháng 11 năm 1974 Bộ xương họ người sống khoảng 3,2 triệu năm trước đây tại chây Phi trong vùng lõm Afar ở Ethiopia thuộc loài Australopithecus afarensis đã tuyệt chủng được Donald Johanson và các nhà cổ nhân chủng học khám phá và đặt tên là “Lucy” theo bài hát “Lucy in the Sky with Diamonds” của The Beatles; Bài viết chọn lọc ngày 24 tháng 11: Về Trường để nhớ thương; Chuyện thầy Tôn Thất Trình; Một gia đình yêu thương; Sao Kim kỳ thú; Thăm nhà cũ của Darwin; Nguyễn Du trăng huyền thoại, Đào Duy Từ còn mãi; Đồng xuân lưu dấu hiền; Nhớ Người; Nông lịch tiết Tiểu tuyết; 24 tiết khí nông lịch; Tỉnh thức; CNM365; #hoangkimlong; #CLTVN; #Thungdung; Có lớp sinh viên như thế; Nguyễn Hiến Lê sao sáng; Sớm đông nhớ Trạng Trình; Nông nghiệp Việt trăm năm; Thầy Dương Thanh Liêm; Thầy tôi sao sáng giữa trời; Hoa Mai với Thiền sư; Trường tôi nôi yêu thương; Kỷ yếu khoa Nông học kỷ niệm 65 năm thành lập Khoa; Một niềm tin thắp lửa; Thầy bạn là lộc xuân; Thầy bạn trong đời tôi; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-24-thang-11/;

VỀ TRƯỜNG ĐỂ NHỚ THƯƠNG
Hoàng Kim


Đại học Nông Lâm thật thích
Bạn thầy vui thật là vui
Sân Trường giảng đường ấm áp
Đường xuân phơi phới tuyệt vời

Hình như mọi người trẻ lại
Hình như người ấy đẹp hơn
Hình như tre già măng mọc
Nắng mai soi giữa tâm hồn.

Thầy bạn trong ngoài thiện nguyện
Về Trường chia sẻ động viên
Trang sách trang đời lắng đọng
Yêu thương bao cuộc đời hiền

Thầy bạn ngày vui hẹn gặp
Lời thương mong ước bình an
Tình khúc Nông Lâm ngày mới
Sức xuân Tự nguyện Lên đàng

Bài đăng trên Kỷ Yếu 65 năm Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh trang 146

Thầy bạn trong đời tôi

Ngày Nhà Giáo Việt Nam ở Trường tôi năm 2020 có nhiều chuyện vui và thật cảm động. Anh Đoàn Nhật Châu cùng với các anh chị Bùi Đức Hàn, LS Nguyen Huu Duc, Thanhminh Nguyen, Huỳnh Hồng , Hung Huynh; Tuấn Lê; Xuyen Ho; Tuan Nguyen,… với nhiều anh chi khác, đa số là từ khóa 15 U70 của Cựu SV Nông Nghiệp ( Đại Gia Đình NÔNG LÂM MỤC SÚC ), những lớp cựu sinh viên ngay trước ngày Việt Nam thống nhất, mà ngày nay phần lớn làm thầy cô và chuyên gia trên nhiều lĩnh vực. Họ cùng nhau về Trường và lưu dấu video Cựu sinh viên Khóa 15 (1973) THAM DỰ KỶ NIỆM 65 NĂM KHOA NÔNG HỌC https://www.facebook.com/chau.doannhat/posts/3550807504980087 của anh Đoàn Nhật Châu và bạn hữu. Video thật tuyệt vời !

KỶ YẾU 65 NĂM TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINHhttps://kyyeunonglam.blogspot.com/2020/11/ky-yeu-65-nam-truong-ai-hoc-nong-lam.html.

KỶ YẾU KHOA NÔNG HỌC 65 năm thành lập Khoa mời vào đường link để xem chi tiết https://kyyeunonghoc.blogspot.com/2020/11/ky-yeu-ky-niem-65-nam-thanh-lap-khoa.html

Chuyện thầy Tôn Thất Trình là ghi chép nhỏ của Hoàng Kim về thầy Tôn Thất Trình, chuyện ngoài chính sử chưa có trong kỷ yếu. Đây là những ghi chép cá nhân, chỉ có ít trích đoạn đã lưu tại kỷ yếu 55 năm khoa Nông học thuở trước Tôi cảm phục, tâm đắc về nhân cách, trí tuệ, sự dạy và học của Thầy nên lưu lại Điều này là sự học Lê Quý Đôn tinh hoa chép lại những ghi chú nhỏ (Notes) không nỡ quên này. (xem tiếp…)

Về Trường để nhớ thương
Trường tôi nôi yêu thương
Thầy bạn trong đời tôi

Chuyện thầy Tôn Thất Trình là ghi chép nhỏ của Hoàng Kim về thầy Tôn Thất Trình, chuyện ngoài chính sử chưa có trong kỷ yếu. Đây là những ghi chép cá nhân, chỉ có ít trích đoạn đã lưu tại kỷ yếu 55 năm khoa Nông học thuở trước Tôi cảm phục, tâm đắc về nhân cách, trí tuệ, sự dạy và học của Thầy nên lưu lại Điều này là sự học Lê Quý Đôn tinh hoa chép lại những ghi chú nhỏ (Notes) không nỡ quên này. .

CHUYỆN THẦY TÔN THẤT TRÌNH
Hoàng Kim

Tôi noi theo dấu chân những thầy tôn kính Lương Định Của, Mai Văn Quyền con đường lúa gạo Việt Nam để làm nhà khoa học xanh. Thật may mắn cho tôi trong mươi năm cuối được về lại Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh dạy học, trọn con đường nhà khoa học xanh người thầy chiến sĩ. “Bao năm Trường Viện là nhà. Sắn khoai ngô lúa đều là thịt xương. Một đời người một rừng cây. Thầy ươm giống tốt để mai thành rừng”. Trường Đại Học Nông Lâm là nôi trưởng thành của tôi từ khi là sinh viên nông học, ra đi khoác áo lính cho sự thống nhất toàn vẹn Tổ Quốc, sau về làm nhà nghiên cứu nông học gần ba mươi năm và cuối cùng trở thành người thầy nghề nông. Thật hết sức thân thương khi mỗi ngày, tôi được gần gũi chiếc bàn kỷ vật thầy Tôn Thất Trình và gian phòng của Thầy với môn học Cây Lương thực. Di sản thầm lặng này đã giúp tôi cơ hội cao quý kể lại câu chuyện cổ tích cho người lớn, một tia sáng của Trường tôi. Bài này tiếp nối bài “Thầy bạn là lộc xuân“.

Tôi chưa được học thầy Trình nhưng cuộc đời, việc làm, trang sách của thầy ám ảnh tôi đến lạ. Thầy Tôn Thất Trình trong mắt tôi là người “sống nhân cách, dạy từ xa và chăm viết sách”.Trong bài “Thầy bạn là lộc xuân“ tôi đã giới thiệu đôi nét về thầy Tôn Thất Trình, nay xin được chép lại ở đây để bạn đọc khỏi mất công lục lại

ĐÔI NÉT VỀ THẦY TRÌNH

Giáo sư Tôn Thất Trình sinh ngày 27 tháng 9 năm 1931 ở huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên (Huế), thuộc hoàng tộc nhà Nguyễn Phước, hiện hưu trí tại Irvine, California, Hoa Kỳ Thầy đã có nhiều đóng góp thiết thưc, hiệu quả cho nông nghiệp, giáo dục, kinh tế Việt Nam. Thầy làm giám đốc Trường Cao Đẳng Nông Lâm Súc Sài Gòn theo bổ nhiệm của GS. Phạm Hoàng Hộ, tổng trưởng giáo dục đương thời chỉ sau bác sỹ Đặng Quan Điện vài tháng. Giáo sư Tôn Thất Trình đã hai lần làm Tổng Trưởng Bộ Canh Nông và Cải Cách Điền Địa năm 1967 và 1973, nguyên chánh chuyên viên,  tổng thư ký Ủy Ban Lúa Gạo Quốc Tế của FAO (Rome).

Thành tựu nổi bật của giáo sư trên lĩnh vực nông nghiệp bao gồm việc chỉ đạo phát triển đại trà năm 1967-1973 lúa Thần Nông (IR8…) nguồn gốc IRRI mang lại chuyển biến mới cho nghề lúa Việt Nam; Giáo sư trong những năm làm việc ở FAO đã giúp đỡ Bộ Nông nghiệp Việt Nam phát triển các giống lúa thuần thấp cây, ngắn ngày nguồn gốc IRRI cho các tỉnh phìa Bắc; giúp phát triển  lúa lai, đẩy mạnh các chưong trình cao su tiểu điền, mía, bông vải, đay, đậu phộng , dừa, chuối, nuôi cá bè ở Châu Đốc An Giang, nuôi tôm ở Bạc Liêu, Sóc Trăng, nuôi cá măng ở Bình Định, nuôi tôm càng xanh ở ruộng nước ngọt, trồng phi lao chống cát bay, trồng bạch đàn xen cây họ đậu phủ xanh đất trống đồi trọc, trồng lại thông hai lá, ba lá ở Huế và ở Đà Lạt,  nuôi heo lai ba dòng nhiều nạc,  nuôi dê sữa , bò sữa, trồng rau, hoa, cây cảnh. Trong lĩnh vực giáo dục, giáo sư đã trực tiếp giảng dạy, đào tạo nhiều khóa học viên cao đẳng, đại học, biên soạn nhiều sách.  Giáo sư có nhiều kinh nghiệm và  đóng góp trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại và quan hệ quốc tế với Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản, Mỹ, Pháp…

Tôi học gián tiếp Thầy qua sách báo và internet. Giáo trình nông học sau ngày Việt Nam thống nhất thật thiếu thốn. Những sách Sinh lý Thực vật, Nông học Đại cương, Di truyền học, Khoa học Bệnh cây , Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam … do tập thể hoặc chuyên gia đầu ngành phía Bắc biên soạn thời đó hiếm và quý như vàng. Cái khó khác cho thầy trò chúng tôi là thiếu kinh nghiệm thực tiễn của đồng ruộng phương Nam. Những bộ sách của thầy Trình như Cải Thiện Trồng Lúa 1965-66 (hai lần tái bản), Nông Học Đại Cương 1967 (ba lần tái bản), Mía Đường 1972 (hai lần tái bản), Cây Ăn Trái Có Triển Vọng 1995 (ba lần tái bản), Cây Ăn Trái Cho Vùng Cao 2004, … cùng với sách của các thầy Nguyễn Hiến Lê, Trần Văn Giàu, Phạm Hoàng Hộ, Lương Định Của, Lê Văn Căn, Vũ Công Hậu, Vũ Tuyên Hoàng, Đường Hồng Dật, Nguyễn Văn Luật, Võ Tòng Xuân, Mai Văn Quyền, Thái Công Tụng, Chu Phạm Ngọc Sơn, Phạm Thành Hổ … đã bổ khuyết rất nhiều cho sự học hỏi và thực tế đồng ruộng của chúng tôi. Sau này khi đã ra nước ngoài, thầy Trình cũng viết rất nhiều những bài báo khoa học kỹ thuật, khuyến học trên các báo nước ngoài, báo Việt Nam và blog The Gift.

Điều tôi thầm phục Thầy là nhân cách kẻ sĩ vượt lên cái khó của hoàn cảnh để phụng sự đất nước. Lúa Thần Nông áp dụng ở miền Nam sớm hơn miền Bắc gần một thập kỷ. Sự giúp đỡ liên tục và hiệu quả của FAO sau ngày Việt Nam thống nhất có công lớn của thầy Trình và anh Nguyễn Văn Đạt làm chánh chuyên gia của FAO. Blog The Gift là nơi lưu trữ những “tâm tình” của gíáo sư dành cho Việt Nam, đăng các bài chọn lọc của Thầy từ năm 2005 sau khi về hưu. Đa số các bài viết trên blog của giáo sư về Phát triển Nông nghiệp, Kinh Tế Việt Nam, Khoa học và Đời sống  trong chiều hướng khuyến khích sự hiếu học của lớp trẻ. Nhân cách và tầm nhìn của Thầy đối với tương lai và vận mệnh của đất nước đã đưa đến những đóng góp hiệu quả của Thầy kết nối giữa quá khứ và hiện tại, tạo niềm tin tương lai, hòa giải và hòa hợp dân tộc”.

‘Thầy Trình với thầy Của’, ‘Chiếc bàn của thầy Trình’, ‘FAO Trình Đạt Ngưu Bổng’, ‘Thầy Trình với lúa cá’, ‘Thầy Trình với The Gift’ là những mẫu chuyện chiêm nghiệm mà tôi thích trích dẫn và kể tại Các lớp học trên đồng .

THẦY TRÌNH VỚI THẦY CỦA

Chuyện này gợi cho tôi nhiều suy tư: Thầy Trình quý trọng thầy Của và thầy Của tìm đến ngay thầy Trình sau ngày Việt Nam thống nhất. Thầy Trình ra đi vì không thể ở lại nhưng sự ứng xử của thầy sau ngày ra đi là một bài học lớn. Thầy Của mất thật sớm, ngay cuối năm 1975, lúc Thầy mới 55 tuổi, còn rất nhiều khả năng cống hiến và chưa được hưởng không khí hoà bình bao lâu. Cuộc đời, số phận, nhân cách và cống hiến của hai người Thầy nghề nông vượt lên khen chê và lắng đọng một di sản.

Tôi đã có chùm 9 bài viết về thầy Lương Định Của, bao gồm: Lương Định Của con đường lúa gạo, Lương Định Của cuộc đời và sự nghiệp;Lương Định Của quê hương và dòng họ;  Lương Định Của những năm tháng tuổi trẻ;Lương Định Của luồng gió từ Hà Nội; Lương Định Của nhà bác học nông dân;  Lương Định Của chính khách giữa lòng dân;Thầy bạn và học trò Lương Định Của;  Ông bà Của cổ tích giũa đời thường. 9 bài này sau này đúc kết thành Sóc Trăng Lương Định Của Trong số các bài trên thì bài viết Lương Định Của luồng gió từ Hà Nội; liên quan thật nhiều chuyện thầy Trình và thầy Của, mà nay tôi muốn trích dẫn đôi điều về tình bạn ấy.

Chuyện kể rằng năm 1952, giáo sư Lương Định Của lúc ấy đã đạt được học vị bác sĩ ở Nhật Bản. Đó là một danh vị thực chất cao quý thời đó mà sau này ông kiên quyết từ chối mọi danh xưng tiến sĩ mà người đời khoác cho.  Thầy Lương Định Của đạt được học vị cao, có công ăn việc làm,  vẫn nghĩ tới việc về nước phục vụ, kịp trước khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi hoàn toàn. Luồng gió từ Hà Nội đã thôi thúc ông hướng về Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đang tạo lập. Ông từ chối các cơ hội đi Mỹ, IRRI để tìm cách về nước tham gia kháng chiến nhưng “Đường về Việt Bắc xa xôi lắm!”. Sau nhiều nỗ lực móc nối, chờ đợi, xoay đường này cách khác, Ông đã đưa cả gia đình về Sài Gòn, làm việc một thời gian ngắn ở Viện Khảo cứu Nông nghiệp Sài Gòn, Bộ Canh Nông (nay là Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam), sau đó quá cảnh bưng biền và đầu năm 1954 cả nhà cùng lên một chuyến tàu tập kết ra Bắc

Nhà báo Phan Quang kể câu chuyện Kỷ niệm đời thường về nhà khoa học Lương Định Của đã cho hay: “Hồi còn là sinh viên, ông đã cùng nhiều lưu học sinh Nhật và nước ngoài trong đó có Đặng Văn Ngữ, tham gia các cuộc biểu tình tuần hành phản đối thực dân Pháp xâm lược Việt Nam. Theo như ông còn nhớ, ít nhất có bốn cuộc lớn, ba lần ở Tokyo, và một lần ở Kyoto. Hoạt động chống chiến tranh Việt Nam có thuận lợi là Đảng Cộng sản Nhật Bản hết lòng ủng hộ cuộc chiến đấu của nhân dân ta. Nhiều Việt kiều ở Nhật nhờ thông qua Đảng Cộng sản Nhật Bản hoặc các tổ chức nhân dân do Đảng lãnh đạo mà giữ được mối liên hệ liên tục với phong trào kháng chiến trong nước.

Qua sự giới thiệu của một người bạn, một mặt Lương Định Của tiếp xúc với các nghị sĩ tiến bộ trong Quốc hội Nhật, nhờ giúp đỡ tạo điều kiện cho ông sớm được trở về vùng tự do nước Việt Nam. Thượng Nghị sĩ Kazami được các bạn Nhật cử đứng ra lo liệu việc này. Mặt khác, Lương viết thư gửi Đại sứ quán ta ở Bắc Kinh bày tỏ mong muốn của mình, và chẳng bao lâu sau nhận được thư Đại sứ trả lời đã chuyển nguyện vọng của ông về nhà. Theo sự hướng dẫn của ông Kazami, mùa hè 1952 Lương Định Của xin thôi việc ở Kyoto, lên thủ đô Tokyo chờ ngày về nước.

Ông xin việc làm ở Sở Nghiên cứu Khoa học Nông nghiệp Trung ương của Nhật Bản để có thể thu nhập trong thời gian chờ đợi. Đầu những năm 50, sau chiến thắng biên giới, tình hình nước ta rất sôi động. Đảng Lao động Việt Nam đảm nhiệm công khai sứ mệnh lịch sử lãnh đạo toàn dân kháng chiến. Mặt trận Liên Việt thành lập, giương cao ngọn cờ đại đoàn kết. Các vùng tự do được giữ vững. Chiến tranh nhân dân phát triển mạnh ở vùng sau lưng địch.

Thực dân Pháp ý thức rõ, tiến hành phá hoại kinh tế, gây nạn đói kém, cắt nguồn hậu cần của Quân đội Nhân dân Việt Nam là một mặt trận có ý nghĩa chiến lược đối với thành bại của chúng trong chiến tranh.Thông tri của tướng De Linarès, tư lệnh chiến trường Bắc Bộ gửi các cấp dưới đề ngày 14-3-1951 hướng dẫn cụ thể như sau:

“… Về phá hoại, có hai cách thực tế có thể áp dụng: a) làm ướt thóc hoặc bắt dân phải để thóc lúa ngoài trời trong mùa mưa ẩm. Tuy nhiên, để chắc chắn hạt gạo sẽ thối hẳn, phải dấp nước cho ướt thóc trong thời gian bốn mươi tám giờ. Ngoài ra, để cho sự phá hoại bảo đảm hiệu quả chắc chắn của nó, trong thời gian ấy, phải canh giữ không để cho dân chúng đến lọc lấy phần thóc còn tốt mang đi cất giấu; b) những kho thóc quan trọng nào phát hiện được, cho tưới xăng hoặc dầu nặng vào…” .

Tháng Chín năm 1952, ông Kazami báo cho Lương Định Của biết, có một tàu buôn Nhật Bản sắp sang Hồng Công rồi từ đó đến thành phố Thiên Tân của Trung Quốc. Ông đề nghị Lương đáp chuyến tàu ấy. Vào được Trung Quốc rồi thì rất dễ dàng về Việt Bắc vì biên giới Việt Trung đã thông, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cùng Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã kiến lập quan hệ ngoại giao; giữa hai nước có tình hữu nghị sâu sắc. Ông nói đã nhờ Hội Hoa kiều tại Nhật Bản làm các thủ tục cần thiết cho gia đình Lương nhập cảnh Trung Quốc, ông cũng đã có liên hệ để thông báo với Chính phủ Việt Nam về chuyện này.

Lương Định Của vào Hồng Công, đến biên giới Cửu Long trình giấy giới thiệu của Hội Hoa kiều tại Nhật Bản. Biên phòng Trung Quốc cho biết chưa nhận được chỉ thị. Các bạn khuyên Lương nên trở lại Hồng Công lấy visa nhập cảnh. Hành lý có thể cho chuyển trước sang biên giới, đưa về thành phố Quảng Châu. Vài hôm nữa gia đình Lương đến thì có thể vào Trung Quốc, đến thẳng Quảng Châu luôn.

Trở lại khách sạn, Lương tìm cách liên hệ với Đại sứ quán ta ở Bắc Kinh, vừa gọi điện thoại vừa gửi thư song chờ mãi không thấy hồi âm. Tiền túi cạn dần: phòng trọ khách sạn rất đắt. Hàng ngày bà Của xuống phố mua bánh mì cho cả nhà ăn. Lúc này mới thấy hết bản lĩnh của người phụ nữ ấy. Ông lo cuống lên, bà chỉ cười: “Không sao, để tính xem”. Về đến Việt Nam ông thú thật với bạn bè, nếu không có bà thì với hai đứa con nhỏ, ông chẳng biết đường nào xoay xở trong những ngày quá cảnh Hồng Công. Thái độ bình tĩnh và đầy thông cảm của bà có tác dụng trấn an ông.

Sau một tuần chờ đợi trong lo âu, xuất hiện một người lạ mặt ăn mặc sang trọng. Ông nói: nếu Lương có giấy giới thiệu của Ngân hàng Trung Hoa thì ông có thể giúp cho qua biên giới. Lương Định Của chẳng có giấy tờ gì khác ngoài thư giới thiệu của Hội Hoa kiều tại Nhật Bản. Người lạ mặt khuyên, nếu vậy thì nên theo ông về Macao, ở nhờ nhà con trai ông một thời gian, chờ xin phép nhập cảnh.

Hồng Công là điểm quá cảnh, khách không được phép ở lại lâu. Lương Định Của hết sức phân vân. Người này ông chưa từng quen biết. Trong túi ông lại không có tiền, trừ gói hạt giống dưa. Đến áo quần thay hằng ngày cũng không có đủ vì các valy đã gửi hết vào Trung Quốc rồi.

Ông quyết định hẵng trở về Sài Gòn, rồi tìm cách ra vùng tự do sau. Ông đánh điện cho một người bạn ở Sài Gòn, báo tin mình đang trên đường về nước, đến Hồng Công thì mất hết đồ đạc, nhờ bạn đặt mua vé máy bay cho hai người lớn hai trẻ con, và cho vay tạm hai nghìn USD.

Ngay chiều hôm ấy, nhận được ngân khoản người bạn gửi đến thông qua một ngân hàng lớn. Có tiền, có vé trong tay, ông còn nấn ná lại thành phố này ba tuần nữa, hy vọng có tin tức Đại sứ quán ta tại Bắc Kinh. Cuối cùng hết hạn quá cảnh mới đáp máy bay về Sài Gòn.

Chính quyền Sài Gòn nồng nhiệt đón bác sĩ nông học Lương Định Của du học từ Nhật Bản về. Bộ trưởng Nông Lâm mời ông đến cơ quan, mở rượu whisky chúc mừng, và ngỏ ý mời ông làm thứ trưởng. Lương tìm cách thoái thác khéo. Ông khiêm tốn nói mình xa đất nước đã lâu, xin cho làm việc hợp đồng một thời gian để quen thêm thung thổ và bạn bè, rồi mới dám chính thức nhận nhiệm vụ.”

“Gia đình ông sống cùng gia đình người em trong ngôi nhà ở Đa Cao. Em gái ông có chồng đi kháng chiến, thỉnh thoảng lại kiếm cớ vắng nhà. Ông biết chị ra bưng thăm chồng. Một hôm, vào ngày chủ nhật, ông đang ngồi chơi trước cửa thì thấy một người ăn vận có vẻ như vừa từ nông thôn ra, đi thẳng vào nhà sau nói chuyện với cô em gái. Khách về, Lương hỏi ai vậy, cô em trả lời: “Người ta muốn mời anh ra vùng kháng chiến đấy”. – Vậy em trả lời họ thế nào? Cô em cười: “Em nói, anh vợ con tùm lum thế kia thì làm sao đi kháng chiến được”. Lương Định Của lặng im, vì dự định từ Nhật Bản về thẳng miền Bắc không thành, ông không hề hé răng cho ai biết.

Hiệp định Genève về Đông Dương (1954) được ký kết. Trong giới trí thức Sài Gòn lại một lần nữa xôn xao – tuy thầm lặng – về việc ra đi hay ở lại. Nơi cơ quan Lương làm việc có một chị tên là B., em gái một bác sĩ nha khoa vốn là bạn của ông sau này cũng tập kết ra Bắc và cùng gặp lại nhau tại Hà Nội, có lần hỏi giọng nửa đùa nửa thật: “Nè, Chính phủ Việt Minh kêu gọi trí thức ra Bắc đấy, anh có đi không?”.

Lương nghiêm trang trả lời ông muốn đi. Chị B. bắt liên lạc, bố trí kế hoạch cho ông rời Sài Gòn. Chờ đợi một thời gian khá lâu mới có hồi âm. Lương Định Của nói với các em, ông muốn cho gia đình đi nghỉ mát ở Ô Cấp (Cap Saint Jacques – Vũng Tàu ngày nay) mấy hôm. Nửa đường, theo mật hiệu “cứ theo người có chửa mà đi”, ông đổi xe, đổi hướng, theo người phụ nữ ấy về thành phố Mỹ Tho. Từ đấy lại đổi xe khác, có người khác đón ra bưng biền.

Lương Định Của được nhà lãnh đạo Phạm Hùng tiếp ngay khi vừa đến cứ. Anh Bảy trò chuyện thân tình, và cho ông một bộ quần áo bà ba. Năm 1954, qua liên lạc biệt động, gia đình giáo sư gửi thư xin phép đi tập kết. Anh Hồng Việt kể lại: “Từ Sài Gòn, theo biệt động đưa về Cần Thơ, xuống căn cứ Cà Mau và đi tàu Ba Lan ra Sầm Sơn, Thanh Hoá. Ấn tượng đầu tiên là hưởng luôn một trận gió mùa đông bắc. Nhưng ngày hôm sau là 1.1.1955, gia đình được chứng kiến ngày lễ tưng bừng”.

Luồng gió từ Hà Nội là bước ngoặt của nhà nông học Lương Định Của.

Theo hồi ức của thầy Phan Gia Tân, giảng viên Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh, thì sau ngày Việt Nam thống nhất 30.4.1975, giáo sư Lương Định Của đã đi tìm Giáo sư Tôn Thất Trình ở Trường Đại học Nông nghiệp Sài Gòn (nay là Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh). Thầy Của tiếc không gặp được thầy Trình vì thầy đã ra đi trước đó.

Tấm lòng tri ngộ của họ là dấu ấn “biết mình, biết người” của hai trí thức lớn…

CHIẾC BÀN CỦA THẦY TRÌNH

Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh có di sản biểu tượng là tòa nhà chữ U (nay gọi là tòa nhà Phượng Vĩ) do kiến trúc sư Ngô Viết Thụ thiết kế. Trong tòa nhà chữ U này có chiếc bàn của thầy Tôn Thất Trình ở lầu 1 tại Phòng Cây Lương thực Rau Hoa Quả thuộc Khoa Nông học. Đây cũng là phòng cuối nối liền gần gũi nhất với khu Thư Viện (cũ). Tầng dưới của Thư Viện là Hội Trường Lớn. Góc phải đầu nhà chữ U nay còn bảng đồng lưu danh Kiến Trúc Sư Ngô Viết Thu là Khôi Nguyên La Mã.

Viện Khảo cứu Nông Lâm Đông Dương được thành lập ngày 2 tháng 4 năm 1925 tại Sài Gòn là Viện nghiên cứu khoa học nông lâm nghiệp đầu tiên và duy nhất tại Đông Dương, nay là Viện Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam là nơi thầy Tôn Thất Trình có nhiều năm làm việc ở đấy. Thầy Trình đã tham gia dự án thực hiện hợp tác nghiên cứu lúa với Đài Loan giai đoạn 1950-1957, gồm các ông Trương Văn Hiếu, Phạm Huy Lân, Tôn Thất Trình, Trần Thiện Tín, Trần Bình Cư, Đoàn Kim Quan. Hai tác giả Bùi Minh Lương, Tôn Thất Trình, Tổng Nha Canh Nông đã biên soạn sách “Đất Nông nghiệp Việt Nam” – Bắc Kontum (1959) rất công phu.

Thầy Tôn Thất Trình làm Hiệu Trưởng Trường Cao Đẳng Nông Lâm Súc Sài Gòn từ năm 1964 đến năm 1968. Trước thầy Trình là thầy Đặng Quan Điện (1962-1964). Tiền thân Trường Cao Đẳng Nông Lâm Súc Sài Gòn là Trường Quốc Gia Nông Lâm Mục Blao Bảo Lộc (1955-1962), Hiệu trưởng đầu tiên là thầy Vũ Ngọc Tân (1955-1958),và thầy Phan Lương Báu (1958-1962). Trường Cao Đẳng Nông Lâm Súc Sài Gòn sau này được thay thế bằng Trung tâm Quốc gia Nông nghiệp Sài Gòn (1968-1972), Học Viện Quốc Gia Nông nghiệp Sài Gòn (1972-1974) và  trở thành Trường Đại học Nông nghiệp trực thuộc Viện Đại Học Bách Khoa Thủ Đức (1974 -1975)  do thầy Lê Văn Ký làm Hiệu trưởng (1974-1975).

Giáo sư Tôn Thất Trình vẫn trực tiếp giảng dạy môn cây lương thực cho dù hai lần Thầy làm Tổng Trưởng Bộ Canh Nông và Cải Cách Điền Địa năm 1967 và 1973, tên Trường thay đổi nhiều lần và xã hội quá nhiều biến động. Chiếc bàn to quá khổ (dài 1,8m rộng 1,2m, gỗ tốt, chắc, nặng, nằm ở phòng cuối góc bên phải của khối nhà. Cái bàn này có lẽ vì quá to và nặng, không dễ mang ra khỏi cửa, phòng lại là góc khuất làm việc dạy học của người thầy “full professer” (giáo sư) Hiệu trưởng đầu tiên, mà phòng không phải ở tâm điểm chính diện phong thủy, nên nơi này và chiếc bàn này 40 năm qua có lẽ vì vậy mà rất ít thay đổi chỉ mấy lần tách nhập Bộ môn.

Chuyện tôi được may mắn về phòng này và được nghe kể lại là một câu chuyện dài …

THẦY TRÌNH NGÀY RA ĐI

Khi thời cơ lịch sử thống nhất Việt Nam xuất hiện, ngày 7 tháng 4 năm 1975, Đại tướng Võ Nguyên Giáp từ Tổng Hành Dinh Hà Nội đã phát đi mệnh lệnh tác chiến nổi tiếng đến toàn mặt trận “Thần tốc, thần tốc hơn nữa; táo bạo, táo bạo hơn nữa; tranh thủ từng phút, từng giờ; xốc tới mặt trận; giải phóng miền Nam. Quyết chiến và toàn thắng!”. Năm cánh quân lớn của lực lượng giải phóng đã nhanh chóng áp sát gần thành phố. Ngày 29 tháng 4 năm 1975 Chiến dịch Gió lốc (Cuộc hành quân Frequent Wind) Những người Mỹ cuối cùng rút khỏi Việt Nam. Cũng ngày này, Quân đội Nhân dân Việt Nam đánh chiếm đảo Trường Sa từ Quân lực Việt Nam Cộng hòa, hoàn thành tiếp quản các đảo thuộc quần đảo Trường Sa do Việt Nam Cộng hòa chiếm giữ. Sài Gòn trước ngày thất thủ hoảng loạn cực độ.  Trừ một số quan chức và tướng lĩnh cao cấp có điều kiện và thế lực đã kiếm cớ rời đi trước đó. Số còn lại hoang mang tính toán. Nhiều người bỏ nhiệm sở lánh lo việc riêXem tiếp >>

  Dạy và học 23 tháng 11(22-11-2021)


 

 

DẠY VÀ HỌC 23 THÁNG 11
Hoàng Kim
CNM365 Tình yêu cuộc sốngĐào Duy Từ còn mãi; Đồng xuân lưu dấu hiền; Nhớ Người; Nông lịch tiết Tiểu tuyết; 24 tiết khí nông lịch; Tỉnh thức; CNM365; #hoangkimlong; #CLTVN; #Thungdung; Có lớp sinh viên như thế; Thầy Dương Thanh Liêm; Thầy tôi sao sáng giữa trời; Nguyễn Hiến Lê sao sáng; Sớm đông nhớ Trạng Trình; Nông nghiệp Việt trăm năm; Hoa Mai với Thiền sư; Trường tôi nôi yêu thương; Kỷ yếu khoa Nông học kỷ niệm 65 năm thành lập Khoa; Về Trường để nhớ thương; Một niềm tin thắp lửa; Thầy bạn là lộc xuân; Thầy bạn trong đời tôi; Đào Duy Từ (1572–1634) là bậc kỳ tài chính trị quân sự lỗi lạc và danh nhân văn hóa kiệt xuất, công thần số một của nhà Nguyễn, Đào Duy Từ làm Thái Sư Hoằng Quốc Công, cố vấn chính trị quân sự cao cấp của chúa Nguyễn Phúc Nguyên, Ông bắt đầu thi thố tài năng từ năm 53 tuổi đến năm 62 tuổi thì mất nhưng trong 9 năm ngắn ngủi ấy (1625- 1634) ông đã kịp làm nên năm kỳ tích phi thường: 1) Giữ vững cơ nghiệp của chúa Nguyễn ở Đàng Trong chống cự thành công với họ Trịnh Đàng Ngoài; 2) Xây dựng được một định chế chính quyền rất được lòng dân, đặt nền móng vững chắc cho nhà Nguyễn lưu truyền được chín đời chúa, mười ba đời vua, sửa sang chính trị, quan chế, thi cử, võ bị, thuế khóa, nội trị, ngoại giao, các thời vua nhà Nguyễn đều khâm phục, kính trọng và tôn làm Thầy; 3) Mở đất phương Nam làm cho Nam Việt thời ấy trở nên phồn thịnh hơn, người đông lên, đất rộng ra. 4) Sách binh pháp “Hổ trướng khu cơ” là một trong hai binh thư Việt Nam cổ đại nổi tiếng (cuốn kia là Binh thư yếu lược của danh tướng Trần Quốc Tuấn); Nhã nhạc cung đình Huế, vũ khúc tuồng Sơn Hậu là những kiệt tác và di sản văn hóa vô giá, với giai thoại ca dao, thơ văn truyền đời trong tâm thức dân tộc; 5) Đào Duy Từ là người Thầy đức độ, tài năng, bậc kỳ tài muôn thuở, người khai sinh một dòng họ lớn với nhiều hiền tài và di sản còn mãi với non sông Việt. Cụ Đào Duy Từ có lăng mộ tại trại Tùng Châu xưa, nay là thôn Phụng Du, xã Hoài Hảo, Đền thờ Đào Duy Từ tại thôn Cự Tài 1, xã Hoài Phú, huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định. Đào Duy Từ mất ngày 17 tháng 10 âm lịch năm Mậu Tuất (1634) giỗ ông vào ngày 16/10 âm lịch, khoảng tiết Tiểu tuyết 22 – 23/11. Ngày 23 tháng 11 là ngày tiểu tuyết, một trong 24 tiết khí nông lịch. Ngày 23 tháng 11 năm 1922 là ngày sinh của Võ Văn Kiệt, (mất năm 2008) là cựu Thủ tướng Việt Nam. Ông tên thật là Phan Văn Hòa, bí danh Sáu Dân, Chín Dũng, làm Thủ tướng nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam từ ngày 8 tháng 8 năm 1991 cho đến ngày 25 tháng 9 năm 1997. Ngày 23 tháng 11 năm 1871 là ngày mất Nguyễn Trường Tộ, chí sĩ, danh sĩ, kiến trúc sư và là nhà cải cách xã hội Việt Nam ở thế kỷ 19 (sinh năm 1828). Ông nổi tiếng với 58 bản điều trần đề xuất canh tân đất nước liên tiếp gửi lên triều đình Huế, và hai câu thơ viết trước lúc mất năm 41 tuổi, có thể do bị đầu độc “Một kiếp sa chân muôn kiếp hận / Ngoảnh đầu cơ nghiệp ấy trăm năm”; Bài chọn lọc ngày 23 tháng 11: Đào Duy Từ còn mãi; Đồng xuân lưu dấu hiền; Nhớ Người; Nông lịch tiết Tiểu tuyết; 24 tiết khí nông lịch; Tỉnh thức; CNM365; #hoangkimlong; #CLTVN; #Thungdung; Có lớp sinh viên như thế; Thầy Dương Thanh Liêm; Thầy tôi sao sáng giữa trời; Nguyễn Hiến Lê sao sáng; Sớm đông nhớ Trạng Trình; Nông nghiệp Việt trăm năm; Hoa Mai với Thiền sư; Trường tôi nôi yêu thương; Kỷ yếu khoa Nông học kỷ niệm 65 năm thành lập Khoa; Về Trường để nhớ thương; Một niềm tin thắp lửa; Thầy bạn là lộc xuân; Thầy bạn trong đời tôi; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-23-thang-11/.

 

 

CNM365 TÌNH YÊU CUỘC SỐNG
Hoàng Kim

Ta vui hòa nhịp thời gian
Thung dung nhàn giữa gian nan đời thường.

 

 

#cnm365http://cnm365.wordpress.com
CHÀO NGÀY MỚI
#hoangkimlong
https://hoangkimlong.wordpress.com/category/#hoangkimlong

“Chín năm làm một Điện Biên
Nên vành hoa đỏ, nên thiên sử vàng”.
(Hoan hô chiến sĩ Điện Biên, thơ Tố Hữu)

 

 

#hoangkimlong
HOA MAI VỚI THIỀN SƯ
Hoàng Kim
Long

Giấc mơ lành yêu thương
Gốc mai vàng trước ngõ
Chim Phượng về làm tổ
Ngày xuân đọc Trạng Trình

 

 

LÊN TRÚC LÂM YÊN TỬ
Hoàng Kim

Tỉnh thức giữa đêm thiêng Yên Tử
Để thấu hiểu đức Nhân Tông
Ta thành tâm đi bộ
Lên tận đỉnh chùa Đồng
Tâm sáng Ức Trai trong tựa ngọc
 
“Yên sơn sơn thượng tối cao phong
Tài ngũ canh sơ nhật chính hồng
Vũ trụ nhãn cùng thương hải ngoại
Tiếu đàm nhân tại bích vân trung
Ủng môn ngọc sóc sâm thiên mẫu
Quải ngọc châu lưu lạc bán không
Nhân miếu đương niên di tích tại
Bạch hào quang lý đổ trùng đồng” (1)
 

Non thiêng Yên Tử đỉnh kỳ phong
Trời mới ban mai đã rạng hồng
Vũ trụ mắt soi ngoài biển cả
Nói cười lồng lộng giữa không trung
Giáo trúc quanh chùa giăng nghìn mẫu
Cỏ cây chen đá rũ tầng không
Nhân Tông bảo tháp còn lưu dấu
Mắt sáng hào quang tỏa ánh đồng (2)  

Non thiêng Yên Tử
Nghìn năm Thăng Long, Đông Đô, Hà Nôi
Bảy trăm năm đức Nhân Tông
Non sông bao cảnh đổi
Kế sách một chữ Đồng
Lồng lộng gương trời buổi sớm
Trong ngần, thăm thẳm, mênh mông ….  

1) Thơ Nguyễn Trãi
2) Bản dịch thơ Nguyễn Trãi của Hoàng Kim  

 

 

CNM365 TÌNH YÊU CUỘC SỐNG
Hoàng Kim


Tình yêu cuộc sống mãi vĩnh hằng
Tự do hạnh phúc thấu đời chăng?
Ba sinh duyên nợ âu thành phận
Thiên thu tình nghĩa ấy cát đằng
Hoàng Thành chí thiện trời linh cảm
Trúc Lâm phước đức đất tan băng
Ba vạn sáu lăm ngàn thanh thản
Năm tháng an nhiên ước ít nhằng.

(
Vui đi dưới mặt trời, ảnh và họa thơ HH).

 

 

CNM365 MỘT NĂM NHÌN LẠI
https://cnm365.wordpress.com
Run away with me

Chuyên mục

  • Chào ngày mới 1 tháng 1
  • Chào ngày mới 1 tháng 10
  • Chào ngày mới 1 tháng 11
  • Chào ngày mới 1 tháng 12
  • Chào ngày mới 1 tháng 2
  • Chào ngày mới 1 tháng 3
  • Chào ngày mới 1 tháng 4
  • Chào ngày mới 1 tháng 5
  • Chào ngày mới 1 tháng 6
  • Chào ngày mới 1 tháng 7
  • Chào ngày mới 1 tháng 8
  • Chào ngày mới 1 tháng 9
  • Chào ngày mới 10 tháng 1
  • Chào ngày mới 10 tháng 10
  • Chào ngày mới 10 tháng 11
  • Chào ngày mới 10 tháng 12
  • Chào ngày mới 10 tháng 2
  • Chào ngày mới 10 tháng 3
  • Chào ngày mới 10 tháng 4
  • Chào ngày mới 10 tháng 5
  • Chào ngày mới 10 tháng 6
  • Chào ngày mới 10 tháng 7
  • Chào ngày mới 10 tháng 8
  • Chào ngày mới 10 tháng 9
  • Chào ngày mới 11 tháng 1
  • Chào ngày mới 11 tháng 10
  • Chào ngày mới 11 tháng 11
  • Chào ngày mới 11 tháng 12
  • Chào ngày mới 11 tháng 2
  • Chào ngày mới 11 tháng 3
  • Chào ngày mới 11 tháng 4
  • Chào ngày mới 11 tháng 5
  • Chào ngày mới 11 tháng 6
  • Chào ngày mới 11 tháng 7
  • Chào ngày mới 11 tháng 8
  • Chào ngày mới 11 tháng 9
  • Chào ngày mới 12 tháng 1
  • Chào ngày mới 12 tháng 10
  • Chào ngày mới 12 tháng 11
  • Chào ngày mới 12 tháng 12
  • Chào ngày mới 12 tháng 2
  • Chào ngày mới 12 tháng 3
  • Chào ngày mới 12 tháng 4
  • Chào ngày mới 12 tháng 5
  • Chào ngày mới 12 tháng 6
  • Chào ngày mới 12 tháng 7
  • Chào ngày mới 12 tháng 8
  • Chào ngày mới 12 tháng 9
  • Chào ngày mới 13 tháng 1
  • Chào ngày mới 13 tháng 10
  • Chào ngày mới 13 tháng 11
  • Chào ngày mới 13 tháng 12
  • Chào ngày mới 13 tháng 2
  • Chào ngày mới 13 tháng 3
  • Chào ngày mới 13 tháng 4
  • Chào ngày mới 13 tháng 5
  • Chào ngày mới 13 tháng 6
  • Chào ngày mới 13 tháng 7
  • Chào ngày mới 13 tháng 8
  • Chào ngày mới 13 tháng 9
  • Chào ngày mới 14 tháng 1
  • Chào ngày mới 14 tháng 10
  • Chào ngày mới 14 tháng 11
  • Chào ngày mới 14 tháng 12
  • Chào ngày mới 14 tháng 2
  • Chào ngày mới 14 tháng 3
  • Chào ngày mới 14 tháng 4
  • Chào ngày mới 14 tháng 5
  • Chào ngày mới 14 tháng 6
  • Chào ngày mới 14 tháng 7
  • Chào ngày mới 14 tháng 8
  • Chào ngày mới 14 tháng 9
  • Chào ngày mới 15 tháng 1
  • Chào ngày mới 15 tháng 10
  • Chào ngày mới 15 tháng 11
  • Chào ngày mới 15 tháng 12
  • Chào ngày mới 15 tháng 2
  • Chào ngày mới 15 tháng 3
  • Chào ngày mới 15 tháng 4
  • Chào ngày mới 15 tháng 5
  • Chào ngày mới 15 tháng 6
  • Chào ngày mới 15 tháng 7
  • Chào ngày mới 15 tháng 8
  • Chào ngày mới 15 tháng 9
  • Chào ngày mới 16 tháng 1
  • Chào ngày mới 16 tháng 10
  • Chào ngày mới 16 tháng 11
  • Chào ngày mới 16 tháng 12
  • Chào ngày mới 16 tháng 2
  • Chào ngày mới 16 tháng 3
  • Chào ngày mới 16 tháng 4
  • Chào ngày mới 16 tháng 5
  • Chào ngày mới 16 tháng 6
  • Chào ngày mới 16 tháng 7
  • Chào ngày mới 16 tháng 8
  • Chào ngày mới 16 tháng 8.
  • Chào ngày mới 16 tháng 9
  • Chào ngày mới 17 tháng 1
  • Chào ngày mới 17 tháng 10
  • Chào ngày mới 17 tháng 11
  • Chào ngày mới 17 tháng 12
  • Chào ngày mới 17 tháng 2
  • Chào ngày mới 17 tháng 3
  • Chào ngày mới 17 tháng 4
  • Chào ngày mới 17 tháng 5
  • Chào ngày mới 17 tháng 6
  • Chào ngày mới 17 tháng 7
  • Chào ngày mới 17 tháng 8
  • Chào ngày mới 17 tháng 9
  • Chào ngày mới 18 tháng 1
  • Chào ngày mới 18 tháng 10
  • Chào ngày mới 18 tháng 11
  • Chào ngày mới 18 tháng 12
  • Chào ngày mới 18 tháng 2
  • Chào ngày mới 18 tháng 3
  • Chào ngày mới 18 tháng 4
  • Chào ngày mới 18 tháng 5
  • Chào ngày mới 18 tháng 6
  • Chào ngày mới 18 tháng 7
  • Chào ngày mới 18 tháng 8
  • Chào ngày mới 18 tháng 9
  • Chào ngày mới 19 tháng 1
  • Chào ngày mới 19 tháng 10
  • Chào ngày mới 19 tháng 11
  • Chào ngày mới 19 tháng 12
  • Chào ngày mới 19 tháng 2
  • Chào ngày mới 19 tháng 3
  • Chào ngày mới 19 tháng 4
  • Chào ngày mới 19 tháng 5
  • Chào ngày mới 19 tháng 6
  • Chào ngày mới 19 tháng 7
  • Chào ngày mới 19 tháng 8
  • Chào ngày mới 19 tháng 9
  • Chào ngày mới 2 tháng 1
  • Chào ngày mới 2 tháng 10
  • Chào ngày mới 2 tháng 11
  • Chào ngày mới 2 tháng 12
  • Chào ngày mới 2 tháng 2
  • Chào ngày mới 2 tháng 3
  • Chào ngày mới 2 tháng 4
  • Chào ngày mới 2 tháng 5
  • Chào ngày mới 2 tháng 6
  • Chào ngày mới 2 tháng 7
  • Chào ngày mới 2 tháng 8
  • Chào ngày mới 2 tháng 9
  • Chào ngày mới 20 tháng 1
  • Chào ngày mới 20 tháng 10
  • Chào ngày mới 20 tháng 11
  • Chào ngày mới 20 tháng 12
  • Chào ngày mới 20 tháng 2
  • Chào ngày mới 20 tháng 3
  • Chào ngày mới 20 tháng 4
  • Chào ngày mới 20 tháng 5
  • Chào ngày mới 20 tháng 6
  • Chào ngày mới 20 tháng 7
  • Chào ngày mới 20 tháng 8
  • Chào ngày mới 20 tháng 9
  • Chào ngày mới 21 tháng 1
  • Chào ngày mới 21 tháng 10
  • Chào ngày mới 21 tháng 11
  • Chào ngày mới 21 tháng 12
  • Chào ngày mới 21 tháng 2
  • Xem tiếp >>

      Dạy và học 22 tháng 11(22-11-2021)

    DẠY VÀ HỌC 22 THÁNG 11
    Hoàng Kim
    CNM365 Tình yêu cuộc sống#hoangkimlong; #CLTVN; #Thungdung; Thầy Dương Thanh Liêm; Thầy tôi sao sáng giữa trời; Nguyễn Hiến Lê sao sáng; Sớm đông nhớ Trạng Trình; Nông nghiệp Việt trăm năm; Hoa Mai với Thiền sư; Trường tôi nôi yêu thương; Kỷ yếu khoa Nông học kỷ niệm 65 năm thành lập Khoa; Về Trường để nhớ thương; Một niềm tin thắp lửa; Thầy bạn là lộc xuân; Thầy bạn trong đời tôi; Ngày độc lập của Liban từ Pháp. Ngày 22 tháng 11 năm 1943, Liban tuyên bố độc lập Liban là đất nước đa dạng tôn giáo nhất Trung Đông, Thánh đường Kitô giáo và Hồi giáo bên cạnh nhau (hình). Liban từng là ngã ba đường giữa các nền văn minh trong nhiều thiên niên kỷ, vì vậy không ngạc nhiên khi một đất nước nhỏ lại sở hữu một nền văn hóa giàu có và mạnh mẽ đến như vậy. Số lượng lớn các nhóm sắc tộc, tôn giáo ở Liban khiến nước này có một nền văn hóa ẩm thực, âm nhạc và các truyền thống văn học cũng như lễ hội rất lớn, đa dạng; đất nước ẩn tàng nhiều cơ hội và hiểm họa. Ngày 22 tháng 11 năm 1943, Chiến tranh Thái Bình Dương, Tổng thống Hoa Kỳ Franklin D. Roosevelt, Thủ tướng Anh Quốc Winston Churchill, và nhà lãnh đạo Trung Quốc Tưởng Giới Thạch tụ họp tại Cairo, Ai Cập, tức Hội nghị Cairo. nhằm thảo luận cách đánh bại Nhật Bản,  Ngày 22 tháng 11 năm 2005, Angela Merkel trở thành nữ Thủ tướng Đức đầu tiên. Bài viết chọn lọc ngày 22 tháng 11: ề Trường để nhớ thương; Một niềm tin thắp lửa; Thầy bạn là lộc xuân; Thầy bạn trong đời tôi; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/ http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-22-thang-11/

    #hoangkimlong
    HOA MAI VỚI THIỀN SƯ
    Hoàng Kim
    Long

    Giấc mơ lành yêu thương
    Gốc mai vàng trước ngõ
    Chim Phượng về làm tổ
    Ngày xuân đọc Trạng Trình

    LÊN TRÚC LÂM YÊN TỬ
    Hoàng Kim

    Tỉnh thức giữa đêm thiêng Yên Tử
    Để thấu hiểu đức Nhân Tông
    Ta thành tâm đi bộ
    Lên tận đỉnh chùa Đồng
    Tâm sáng Ức Trai trong tựa ngọc
     
    “Yên sơn sơn thượng tối cao phong
    Tài ngũ canh sơ nhật chính hồng
    Vũ trụ nhãn cùng thương hải ngoại
    Tiếu đàm nhân tại bích vân trung
    Ủng môn ngọc sóc sâm thiên mẫu
    Quải ngọc châu lưu lạc bán không
    Nhân miếu đương niên di tích tại
    Bạch hào quang lý đổ trùng đồng” (1)
     

    Non thiêng Yên Tử đỉnh kỳ phong
    Trời mới ban mai đã rạng hồng
    Vũ trụ mắt soi ngoài biển cả
    Nói cười lồng lộng giữa không trung
    Giáo trúc quanh chùa giăng nghìn mẫu
    Cỏ cây chen đá rũ tầng không
    Nhân Tông bảo tháp còn lưu dấu
    Mắt sáng hào quang tỏa ánh đồng (2)  

    Non thiêng Yên Tử
    Nghìn năm Thăng Long, Đông Đô, Hà Nôi
    Bảy trăm năm đức Nhân Tông
    Non sông bao cảnh đổi
    Kế sách một chữ Đồng
    Lồng lộng gương trời buổi sớm
    Trong ngần, thăm thẳm, mênh mông ….  

    1) Thơ Nguyễn Trãi
    2) Bản dịch thơ Nguyễn Trãi của Hoàng Kim  

    TÌNH YÊU CUỘC SỐNG
    #HoangKimLong

    #dayvahoc
    #vietnamhoc
    #CLTVN
    #cnm365
    #Thungdung

    Mục đích sau cùng của DẠY VÀ HỌC là năm vững bản chất sự vật,
    có lời giải đúng, và LÀM được việc (
    #HoangKimLong)

    Chuyên mục

    • #CLTVN
    • #Thungdung
    • ……
    • 24 tiết khí nông lịch
    • 500 năm nông nghiệp Brazil
    • A Na bà chúa Ngọc
    • A Na Bình Minh An
    • Ai Cập bạn tôi ở đấy
    • Ai chợp mắt Tam Đảo
    • Ai tỏ Ngọc Quan Âm
    • Ai thương núi nhớ biển
    • An nhiên nơi tĩnh lặng
    • An Viên Ngọc Quan Âm
    • An Viên Phước Hoàng Gia
    • An vui cụ Trạng Trình
    • Angkor nụ cười suy ngẫm
    • Anh đi về tâm bão
    • Ân tình đất phương Nam
    • Ông bà và con cháu
    • Ông Bảy Nhị An Giang
    • Ông già với các con
    • Ông Hồ Sáu Đồng Nai
    • Ông Rhodes chữ tiếng Việt
    • Ông và cháu
    • Ấn Độ địa chỉ xanh
    • Ức Trai tâm tựa Ngọc
    • Ba trăm năm thoáng chốc
    • Ban mai chào ngày mới
    • Ban mai lặng lẽ sáng
    • Ban mai trên sông Son
    • Ban Mai Đình Minh Lệ
    • Ban mai đứng trước biển
    • Bang giao tập Việt Trung
    • Bay lên nào Hải Âu
    • Bà và cháu
    • Bà Đen
    • Bài ca nhịp thời gian
    • Bài ca Trường Quảng Trạch
    • Bài ca yêu thương
    • Bài học lớn muôn đời
    • Bài học Phủ Khai Phong
    • Bài học tự thắng mình
    • Bài thơ Viên đá Thời gian
    • Bài đồng dao huyền thoại
    • Bác học Phan Huy Chú
    • Báu vật nơi đất Việt
    • Bên suối một nhành mai
    • Bình Minh An Ngày Mới
    • Bình sinh Mao Trạch Đông
    • Bình sinh Tập Cận Bình
    • Bóng hạc chốn xa xôi
    • Bạch Mai sắn Tây Nguyên
    • Bạn Tây Nguyên về thăm
    • Bản Giốc và Ka Long
    • Bảo tồn và phát triển
    • Bảo tồn và phát triển sắn
    • Bảy bài học cuộc sống
    • Bảy Núi Thiên Cấm Sơn
    • Bảy Nhị kênh ông Kiệt và tôi
    • Bến Lội Đền Bốn Miếu
    • Beethoven và thư gửi Elise
    • Biết câu có câu không
    • Biết mình và biết người
    • Biển Hồ Chùa Bửu Minh
    • Biển nhớ Trịnh Công Sơn
    • Bill Gates học để làm
    • Borlaug và Hemingway
    • Ca dao Việt “Cày đồng”
    • Cao Biền trong sử Việt
    • Càu hiếu nối bờ thương
    • Cách mạng sắn Việt Nam
    • Cánh cò bay trong mơ
    • Cát đá đất miền Trung
    • Câu cá bên dòng Sêrêpôk
    • Câu chuyện ảnh tháng 11
    • Câu chuyện ảnh tháng 12
    • Câu chuyện ảnh tháng Ba
    • Câu chuyện ảnh tháng Bảy
    • Câu chuyện ảnh tháng Chín
    • Câu chuyện ảnh tháng Hai
    • Câu chuyện ảnh tháng Một
    • Câu chuyện ảnh tháng Mười
    • Câu chuyện ảnh tháng Năm
    • Câu chuyện ảnh tháng Sáu
    • Câu chuyện ảnh tháng Tám
    • Câu chuyện ảnh tháng Tư
    • Cây Lương thực Việt Nam
    • Cây đời mãi xanh tươi
    • Có ba dòng văn chương
    • Có lớp sinh viên như thế
    • Có một ngày như thế
    • Cầu Minh Lệ Rào Nan
    • Cầu Trời nối Mẹ Cha xưa
    • Cẩn trọng giữ sức khỏe
    • Cha con Hiến Từ Thái Hậu
    • Champasak ngã ba biên giới
    • Châu Mỹ chuyện không quên
    • Châu Văn Tiếp Phú Yên
    • Chín điều lành hạnh phúc
    • Chính Ngọ đoán Kinh Dịch
    • Chùa Bửu Minh Biển Hồ
    • Chùa Một Cột Hà Nội
    • Chùa Ráng giữa đồng xuân
    • Chỉ tình yêu ở lại
    • Chọn giống sắn kháng CMD
    • Chọn giống sắn kháng CWBD
    • Chọn giống sắn Việt Nam
    • Chốn vườn thiêng cổ tích
    • Chớm Đông
    • Chớm Đông trên đồng rộng
    • Chợt gặp mai đầu suối
    • Chiêm Lưu Huy sách hay
    • Chiếu đất ở Thái An
    • Chim Phượng về làm tổ
    • Chung sức trên đường xuân
    • Chuyển đổi số nông nghiệp
    • Chuyển đổi số Quốc gia
    • Chuyện bây giờ mới kể
    • Chuyện cô Trâm lúa lai
    • Chuyện cổ tích người lớn
    • Chuyện Henry Ford lên Trời
    • Chuyện ngày sinh của Thủy
    • Chuyện Rowling Harry Potter
    • Chuyện sao Kim kỳ thú
    • Chuyện sao Mai và Biển
    • Chuyện thầy Hoan lúa lai
    • Chuyện thầy Lê Quý Kha
    • Chuyện thầy Lê Văn Tố
    • Chuyện thầy Li Li Nghệ
    • Chuyện thầy Ngô Kế Sương
    • Chuyện thầy Nguyễn Tử Siêm
    • Chuyện thầy Phan Huy Lê
    • Chuyện thầy Tôn Thất Trình
    • Chuyện thầy Trần Hồng Uy
    • Chuyện thầy Trần Văn Khê
    • Chuyện về vua Hàm Nghi
    • Chuyện vua hề Sác lô
    • Chuyện đồng dao cho em
    • Chuyện đời không thể quên
    • Chuyện đời ngày hạnh phúc
    • Chuyện đời Phan Chí Thắng
    • Chương mục tiêu quốc gia
    • CIAT Colombia thật ấn tượng
    • CIMMYT tươi rói kỷ niệm
    • CIP Peru và khoai Việt
    • CNM365 Tình yêu cuộc sống
    • Con nguyện làm Hoa Lúa
    • Con suối nguồn hạnh phúc
    • Con đường di sản LewisClark
    • Con đường Hồ Chí Minh
    • Con đường lúa gạo Việt
    • Con đường tơ lụa mới
    • Con đường xanh yêu thương
    • Cuối dòng sông là biển
    • Cuộc đời phúc lưu hương
    • Dám đánh và quyết thắng
    • Dân tộc và Tôn giáo
    • Dạo chơi non nước Việt
    • Dạy học nghề làm vườn
    • Dạy và học ngày mới
    • Dạy và học để làm
    • Dấu xưa thầy bạn quý
    • Dẻo thơm hạt ngọc Việt
    • Di sản thế giới tại Việt Nam
    • Du lịch sinh thái Việt
    • Em ơi can đảm lên
    • Gõ ban mai vào phím
    • Gạo Việt và thương hiệu
    • Gặp bạn ở quê nhà
    • Gặp bạn giữa đồng xuân
    • Gốc mai vàng trước ngõ
    • Ghana bờ biển vàng
    • Giác ngộ là tỉnh thức
    • Giấc mơ lai khoai lang
    • Giấc mơ lành yêu thương
    • Giấc mơ thiêng cùng Goethe
    • Giếng Ngọc vườn Tao Đàn
    • Giống khoai Bí Đà Lạt
    • Giống khoai Hoàng Long
    • Giống khoai lang HL4
    • Giống khoai lang HL491
    • Giống khoai lang HL518
    • Giống khoai lang Việt Nam
    • Giống lúa siêu xanh GSR65
    • Giống lúa siêu xanh GSR90
    • Giống lạc HL25 Việt Ấn
    • Giống ngô lai VN 25-99
    • Giống sắn chủ lực KM419
    • Giống sắn KM140 VIFOTEC
    • Giống sắn KM419 và KM440
    • Giữ trong sáng Tiếng Việt
    • Hãy để tôi đọc lại
    • Hình như
    • Hải Như thơ về Người
    • Hẹn uống rượu ngắm trăng
    • Học không bao giờ muộn
    • Học lắng nghe cuộc sống
    • Học để làm ở Ấn Độ
    • Hồ Khẩu trên Hoàng Hà
    • Hồ Quang Cua gạo ST
    • Hồ Văn Thiện bóng chiều
    • Hồ Xuân Hương góc khuất
    • Hồ Xuân Hương đời thơ
    • Hữu Loan thơ Hoa Lúa
    • Hữu Ngọc văn hóa Việt
    • Hector Malot trong gia đình
    • Hiểu sách Nhàn đọc giấu
    • Hoa Bình Minh Hoa Lúa
    • Hoa Lúa giữa Đồng Xuân
    • Hoa lộc vừng ngày mới
    • Hoa Mai thơ Thiệu Ung
    • Hoa Mai trong Tết Việt
    • Hoa Mai với Thiền sư
    • Hoa và Ong Hoa Người
    • Hoa Xuân Vườn Tao Đàn
    • Hoa Đất của quê hương
    • Hoa Đất thương lời hiền
    • Hoang Kim Long Hoang Gia
    • Hoàng Gia Cương thơ hiền
    • Hoàng Kim chuyện đời tôi
    • Hoàng Kim thơ cho con
    • Hoàng Long cây lương thực
    • Hoàng Long thơ về Mẹ
    • Hoàng Ngọc Dộ khát vọng
    • Hoàng Tố Nguyên Lộc Trời
    • Hoàng Thành nền Đại La
    • Hoàng Thành ngọc cho đời
    • Hoàng Thành đến Trúc Lâm
    • Hoàng Trung Trực đời lính
    • Hoàng Đình Quang bạn tôi
    • Hoành Sơn với Linh Giang
    • Xem tiếp >>

        Dạy và học 21 tháng 11(21-11-2021)


      DẠY VÀ HỌC 21 THÁNG 11
      Hoàng Kim
      CNM365 Tình yêu cuộc sống#Thungdung; Thầy Dương Thanh Liêm; Thầy tôi sao sáng giữa trời; Nguyễn Hiến Lê sao sáng; Sớm đông nhớ Trạng Trình; Nông nghiệp Việt trăm năm; Hoa Mai với Thiền sư; Trường tôi nôi yêu thương; Kỷ yếu khoa Nông học kỷ niệm 65 năm thành lập Khoa; Về Trường để nhớ thương; Một niềm tin thắp lửa; Thầy bạn là lộc xuân; Thầy bạn trong đời tôi; Ngày 21/ 11/ 2021 là ngày giỗ năm thứ ba của PGS.TS Dương Thanh Liêm, nguyên Hiệu Trưởng Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh; Ngày 20/ 11/ 2021 là ngày giỗ đầu, tưởng nhớ GS Nguyễn Anh Tuấn nhà giáo ưu tú, nguyên Hiệu trưởng Trường Đại học Cần Thơ đã từ trần lúc 17g30 ngày 17/11/2020, nhằm ngày 3 tháng 10 Canh Tý, hưởng thọ 67 tuổi. Giáo sư đã được tổ chức tang lễ tại nhà riêng số 95/12, đường Mậu Thân, phường Xuân Khánh, quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ. Giáo sư Nguyễn Anh Tuấn sinh ngày 18 tháng 10 năm 1955 tại Phú Yên, tốt nghiệp đại học ngành thủy sản tại Trường Đại học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh, tốt nghiệp thạc sĩ năm 1986 tại Học viện Công nghệ Châu Á (AIT) và tốt nghiệp tiến sĩ năm 2001 tại Đại học Auburn, Hoa Kỳ với ngành nuôi trồng thủy sản; Giáo sư Hiệu trưởng Nguyễn Anh Tuấn lãnh đạo Trường Đại học Cần Thơ nhiệm kỳ 2006-2012, đã tiến hành mở rộng quy mô đào tạo, đa dạng hóa loại hình và hình thức đào tạo, mở rộng và đẩy mạnh đào tạo sau đại học, đào tạo các ngành nghề phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa, đào tạo ngoại ngữ và đào tạo cán bộ nguồn,… Sự đổi mới nổi bật từ nhiệm kỳ của GS.TS. Nguyễn Anh Tuấn là triển khai áp dụng học chế tín chỉ triệt để đối với tất cả các ngành và khóa đào tạo (từ năm học 2007-2008) và thực hiện cải tiến nhiều lần về tổ chức, chương trình, nội dung và mục tiêu đào tạo cho phù hợp với nhu cầu chuyên môn của thực tiễn sản xuất theo từng loại ngành nghề ở Đồng bằng sông Cửu Long và cả nước; tiếp tục đẩy nhanh và ứng dụng hiệu quả công nghệ thông tin trong hoạt động quản lý và đào tạo của Trường; có giải pháp hợp lý đẩy mạnh công tác phát triển đội ngũ cán bộ giảng dạy, đáng chú ý là công tác học hàm của cán bộ; Ngày 21 tháng 11 năm 1009,  Lý Công Uẩn lên ngôi Hoàng đế Đại Cồ Việt, lập ra triều Lý, Việt Nam. Tượng vua Lý Thái Tổ ở thủ đô Hà Nội (hình) . Ngày 21 tháng 11 năm 1694, ngày sinh Voltaire, đại văn hào và triết gia người Pháp (mất năm 1778). Voltaire là nhân vật danh tiếng, bạn của vua Friedrich II Đại Đế nước Phổ, một vị đại danh tướng thời đó. Voltaire là người có chính kiến, thường chỉ trích, châm biếm thế tục, Giáo hội và Nhà nước Pháp thời đó, nên phần lớn đời ông sống trong đày ải. Ngày 21 tháng 11 năm 1811, ngày sinh Tăng Quốc Phiên, nhân vật chính trị , quân sự, văn chương hiển hách thời nhà Thanh và cũng gây nhiều tranh nghị trong lịch sử (mất năm 1872); Bài viết chọn lọc ngày 21 tháng 11: #Thungdung; Thầy Dương Thanh Liêm; Thầy tôi sao sáng giữa trời; Nguyễn Hiến Lê sao sáng; Sớm đông nhớ Trạng Trình; Nông nghiệp Việt trăm năm; Hoa Mai với Thiền sư; Trường tôi nôi yêu thương; Kỷ yếu khoa Nông học kỷ niệm 65 năm thành lập Khoa; Về Trường để nhớ thương; Một niềm tin thắp lửa; Thầy bạn là lộc xuân; Thầy bạn trong đời tôi; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-21-thang-11/;

      THUNG DUNG
      Hoàng Kim

      Biết đủ thời nhàn sống thảnh thơi
      Con em và cháu vững tay rồi
      Đời không lo nghĩ lòng thanh thản
      Minh triết mỗi ngày dạy học vui..

      VUI TRỌN ĐỜI THUNG DUNG
      Hoàng Kim họa thơ Trần Duy Quý


      Nắng thu rơi cuối mùa
      Trần Duy Quý


      “Mùa thu xanh ngát tầng không
      Mùa thu đánh thức từng bông lúa vàng
      Ao thu trong vắt giữa làng
      Để cho hương cốm ngập tràn quê tôi
      Tình thu chớ vội người ơi
      Còn vương chút nắng thu rơi cuối mùa”

      Vui trọn đời thung dung
      Hoàng Kim


      Chớm đông còn níu tình thu
      Thênh thênh đồng rộng nắng thưa cuối trời
      Thông reo ngàn Hống người ơi
      Truyện Kiều lắng đọng những lời nước non
      Tình thiên thu khúc tri âm
      An nhiên thanh thản đường trần thảnh thơi

      Mãi mê đồng rộng sông dài
      Cùng anh cùng bạn trọn đời Thung dung.
      Tảo mai nhớ đức Nhân Tông
      Sớm Đông Tỉnh thức Nhớ ông Trạng Trình

      (*) Ảnh Hoa Lúa
      trong bài “HOA LÚA GIỮA ĐỒNG XUÂN”; (**) Thung dung. Tảo mai nhớ đức Nhân Tông, Sớm Đông, Tỉnh thức, Nhớ ông Trạng Trình là tên của năm đường dẫn tại thơ THUNG DUNG Hoàng Kim
      https://hoangkimlong.wordpress.com/category/hoa-lua-giua-dong-xuan/ và https://hoangkimlong.wordpress.com/category/thungdung/

      xem tiếp 418 bài thơ Thung dung https://hoangkimlong.wordpress.com/category/thung-dung

      24 tiết khí nông lịch
      A Na bà chúa Ngọc
      A Na Bình Minh An
      Ai chợp mắt Tam Đảo
      Ai tỏ Ngọc Quan Âm
      Ai thương núi nhớ biển
      An nhiên nơi tĩnh lặng
      An Viên Ngọc Quan Âm
      An vui cụ Trạng Trình
      Anh đi về tâm bão
      Ân tình đất phương Nam
      Ông bà và con cháu
      Ông và cháu
      Ức Trai tâm tựa Ngọc
      Ba trăm năm thoáng chốc
      Ban mai chào ngày mới
      Ban mai lặng lẽ sáng
      Ban mai trên sông Son
      Ban Mai Đình Minh Lệ
      Ban mai đứng trước biển
      Bay lên nào Hải Âu
      Bà và cháu
      Bài ca nhịp thời gian
      Bài ca Trường Quảng Trạch
      Bài ca yêu thương
      Bài học lớn muôn đời
      Bài học Phủ Khai Phong
      Bài học tự thắng mình
      Bài thơ Viên đá Thời gian
      Bài đồng dao huyền thoại
      Báu vật nơi đất Việt
      Bên suối một nhành mai
      Bình Minh An Ngày Mới
      Bóng hạc chốn xa xôi
      Bến Lội Đền Bốn Miếu
      Bảy bài học cuộc sống
      Bảy Núi Thiên Cấm Sơn
      Bảy Nhị kênh ông Kiệt và tôi
      Biết mình và biết người
      Biển Hồ Chùa Bửu Minh
      Biển nhớ Trịnh Công Sơn
      Borlaug và Hemingway
      Cao Biền trong sử Việt
      Càu hiếu nối bờ thương
      Cánh cò bay trong mơ
      Cát đá đất miền Trung
      Câu cá bên dòng Sêrêpôk
      Cây đời mãi xanh tươi
      Có một ngày như thế
      Cầu Trời nối Mẹ Cha xưa
      Champasak ngã ba biên giới
      Châu Mỹ chuyện không quên
      Châu Văn Tiếp Phú Yên
      Chín điều lành hạnh phúc
      Chính Ngọ đoán Kinh Dịch
      Chùa Giáng giữa đồng xuân
      Chùa Một Cột Hà Nội
      Chỉ tình yêu ở lại
      Chớm Đông trên đồng rộng
      Chợt gặp mai đầu suối
      Chiêm Lưu Huy sách hay
      Chiếu đất ở Thái An
      Chim Phượng về làm tổ
      Chung sức trên đường xuân
      Chuyển đổi số nông nghiệp
      Chuyện sao Kim sao Thủy
      Chuyện sao Mai và Biển
      Chuyện đồng dao cho em
      Chuyện đời không thể quên
      Chuyện đời ngày hạnh phúc
      Chuyện đời Phan Chí Thắng
      CIMMYT tươi rói kỷ niệm
      Con nguyện làm Hoa Lúa
      Con suối nguồn hạnh phúc
      Con đường xanh yêu thương
      Cuối dòng sông là biển
      Cuộc đời phúc lưu hương
      Dạo chơi non nước Việt
      Dạy và học để làm
      Dấu xưa thầy bạn quý
      Em ơi can đảm lên
      Gõ ban mai vào phím
      Gặp bạn giữa đồng xuân
      Giấc mơ lành yêu thương
      Giấc mơ thiêng cùng Goethe
      Hình như
      Hải Như thơ về Người
      Học không bao giờ muộn
      Hẹn uống rượu ngắm trăng
      Hồ Ba Bể Bắc Kạn
      Hồ Văn Thiện bóng chiều
      Hồ Xuân Hương góc khuất
      Hồ Xuân Hương đời thơ
      Hoa Bình Minh Hoa Lúa
      Hoa Lúa giữa Đồng Xuân
      Hoa lộc vừng ngày mới
      Hoa Mai với Thiền sư
      Hoa và Ong Hoa Người
      Hoa Xuân Vườn Tao Đàn
      Hoa Đất của quê hương
      Hoa Đất thương lời hiền
      Hoang Kim Long Hoang Gia
      Hoàng Gia Cương thơ hiền
      Hoàng Kim chuyện đời tôi
      Hoàng Kim thơ cho con
      Hoàng Long cây lương thực
      Hoàng Long thơ về Mẹ
      Hoàng Ngọc Dộ khát vọng
      Hoàng Tố Nguyên Lộc Trời
      Hoàng Thành ngọc cho đời
      Hoàng Thành đến Trúc Lâm
      Hoàng Trung Trực đời lính
      Hoàng Đình Quang bạn tôi
      Hoành Sơn và Linh Giang
      Huỳnh Mai như là có nhau
      Huyền Trang tháp Đại Nhạn
      Hương Huế nhớ Thầy Cô
      Hương lúa giữa đồng xuân
      Kênh ông Kiệt giữa lòng dân
      Kế sách một chữ Đồng
      Khát khao xanh
      Khoảng lặng tâm hồn
      Kiệt tác của tâm hồn
      Lao động và nghỉ ngơi
      Làng Minh Lệ quê tôi
      Lâm Chiêu Đồng hương quê
      Lão Mai Đinh Đình Chiến
      Lên Thái Sơn hướng Phật
      Lên Trúc Lâm Yên Tử
      Lên Việt Bắc điểm hẹn
      Lên đỉnh Thiên Môn Sơn
      Lộc xuân
      Lộc xuân Mẹ và Em
      Lời khuyên thói quen tốt
      Lời Thầy dặn thung dung
      Lời Thầy luôn theo em
      Lời thề trên sông Hóa
      Lời thương
      Lời thương cùng tháng năm
      Lửa đèn vầng trăng soi
      Linh Giang sông quê hương
      Linh Giang Đình Minh Lệ
      Mai Hạc vầng trăng soi
      Mai Khoa Thu Hà Nội
      Mai vàng bền mưa nắng
      Martin Fregene xa mà gần
      Mây lành Phổ Đà Sơn
      Mình về thăm nhau thôi
      Mùa Thu trong thi ca
      Mẫu phương Nam Tao Đàn
      Mẹ tắm mát đời con
      Mỏ than Hồng giữ lửa
      Một gia đình yêu thương
      Một niềm tin thắp lửa
      Một niềm vui ngày mới
      Một vùng trời nhân văn
      Mừng bạn hiền ngày mới
      Mừng Cậu tròn trăm tuổi
      Mexico ấn tượng lắng đọng
      Mưa
      Mưa bóng mây nắng đầy
      Mưa Ngâu rằm Vu Lan
      Mưa tháng Năm nhớ bạn
      Mưa xuân trong mắt ai
      Nắm chặt tay anh đi em
      Nắng ban mai ngày mới
      Nắng gió lành thuốc quýXem tiếp >>

        Dạy và học 20 tháng 11(20-11-2021)


      DẠY VÀ HỌC 20 THÁNG 11
      Hoàng Kim
      CNM365 Tình yêu cuộc sốngSớm đông nhớ Trạng Trình; Nông nghiệp Việt trăm năm; Hoa Mai với Thiền sư; Trường tôi nôi yêu thương; Kỷ yếu khoa Nông học kỷ niệm 65 năm thành lập Khoa; Về Trường để nhớ thương; Một niềm tin thắp lửa; Thầy bạn là lộc xuân; Thầy bạn trong đời tôi; Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam hướng tới kỷ niệm 100 năm ngày thành lập (1925-2025); chúc mừng ngày Nhà Giáo Việt Nam; Lời tri ân Viện Trường quý thầy cô người thân bà con nông dân và bạn hữu nhân Ngày Nhà giáo Việt Nam: “Bao năm Trường Viện là nhà. Lúa ngô khoai sắn đều là thịt xương. Một đời người một rừng cây. Thầy ươm giống tốt để mai thành rừng”. Hình ảnh và bài viết tại Kỷ yếu 65 năm Trường Đại học Nông Lâm TP Hồ Chí Minh, Khoa Nông học hình ảnh tại Kỷ yếu Khoa Nông học 65 năm ngày thành lập Khoa https://kyyeunonghoc.blogspot.com/2020/11/ky-yeu-ky-niem-65-nam-thanh-lap-khoa.html Bài viết chọn lọc ngày 20 tháng 11: Nông nghiệp Việt trăm năm; Trường tôi nôi yêu thương; Kỷ yếu khoa Nông học kỷ niệm 65 năm thành lập Khoa; Về Trường để nhớ thương; Một niềm tin thắp lửa; Thầy bạn là lộc xuân; Thầy bạn trong đời tôi; Thông tin tại http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-20-thang-11/;

      20 11 2021 đêm rằm toàn quốc cầu quốc thái dân an, trăng khuya rất sáng, gần sớm trời mưa nhuần,
      sáng nay mai nở rộ. Ảnh tư liệu Hoàng Kim.

      SỚM ĐÔNG NHỚ TRẠNG TRÌNH
      Hoàng Kim


      Mai vàng nắng sớm đón đông sang
      Trăng sáng mưa nhuần đợi xuân hồng
      Thiền Sư Lão Nông Tăng phước hậu
      Nhà giáo phúc lưu hương đức công
      “Tiền hướng Linh Giang thông đại hải”
      “Hậu liên Ngũ Lĩnh tiếp cao sơn”
      “Tổ tiên công đức muôn đời thịnh”
      “Con cháu thảo hiền vạn kiếp vinh”
      “Tự sự khổng minh” tâm nhân quả
      “Gia hội hợp lễ” trí viên minh
      “Xưa nay trời đất vô cùng ý”
      Tỉnh thức nhân sinh tỏ chút tình.

      Mình về với chính mình

      xem tiếp: http://hoangkimlong.wordpress.com/category/som-dong-nho-trang-trinh/

      NÔNG NGHIỆP VIỆT TRĂM NĂM
      Hoàng Kim

      Chúc mừng Ngày Nhà Giáo Việt Nam. “Bao năm Trường Viện là nhà. Lúa ngô khoai sắn đều là thịt xương. Một đời người một rừng cây. Thầy ươm giống tốt để mai thành rừng”. Nông nghiệp Việt trăm năm là chủ đề lớn. Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam hướng tới kỷ niệm 100 năm ngày thành lập (1925-2025); Bài viết này chọn lọc một ít thông tin nhàn đàm về Nông nghiệp Việt trăm năm nhân ngày 20 tháng 11
      Nông nghiệp Việt trăm năm; Trường tôi nôi yêu thương; Kỷ yếu khoa Nông học kỷ niệm 65 năm thành lập Khoa; Về Trường để nhớ thương; Một niềm tin thắp lửa; Thầy bạn là lộc xuân; Thầy bạn trong đời tôi; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.comhttp://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-20-thang-11/;

      Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam (IAS) từ cuối năm 2015 cho đến đầu năm 2025 đang chuyển đổi mạnh mẽ trong xu thế hội nhập và phát triển. Viện đang cấu trúc lại hệ thống để hài hòa hơn các Bộ môn Bảo vệ Thực vật; Công nghệ Sinh học; Chọn tạo giống cây trồng; Nông học; Cây Công Nghiệp để vừa xử lý tốt hơn các vấn đền đề vùng miền vừa đáp ứng tốt hơn những đề tài trọng điểm quốc gia theo chuỗi giá trị hàng hóa chuyên cây, chuyên con và tổng hợp quốc gia mà Viện có thế mạnh như Điều, Sắn, Cây Lương thực Rau Hoa Quả, Nông nghiệp hữu cơ, Nông nghiệp đô thị, Đào tạo và huấn luyện nguồn lực, xây dựng phòng hợp tác nghiên cứu chung và trao đổi chuyên gia quốc tế trong chỉnh thể Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam.

      Nông nghiệp Việt 100 năm (1925-2025) bảo tồn và phát triển chúng ta sẽ lắng đọng các bài học lý luận và thực tiễn đúc kết chuỗi hệ thống lịch sử địa lý sinh thái kinh tê xã hội tầm nhìn dài hạn 100 năm Bài học lớn của IAS Kỷ yếu khoa học giai đoạn 1975-2015, lắng đọng bài học mới nhất của 65 năm Kỷ yếu Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh (19/11/ 1955 – 19/11/ 2020) và bài học lớn 75 năm ngành Quản lý đất đai Việt Nam (3.10 1945- 3 10 2020). Đó là những thực tiễn và lý luận Việt được đúc kết quý giá. Khi tham khảo tổng quan bảo tồn và phát triển 500 năm nông nghiệp Brazil Đất và Thức ăn (Land and Food 500 years of Agriculture in Brazil).một tài liệu quý và chùm ảnh tư liệu chọn lọc của Brazil cho thấy. Brazil có Embrapa
      www.embrapa.br. là tập đoàn nghiên cứu và phát triển nông nghiệp lâu năm và khá hoàn hảo để đảm bảo các giải pháp khoa học và biến đổi phát triển bền vững. Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam hiện nay là nợi có đúc kết kinh nghiệm dầy dặn của Nông nghiệp Việt IAS 100 nam (1925-2025) lại tích hợp nhiều kinh nghiệm quý của các nước, các chuyên gia FAO và UNDP, Embrapa,…Nông nghiệp Việt 100 năm (1925-2025) bảo tồn và phát triển nhằm đúc kết và suy ngẫm bài học lý luận và thực tiễn hiệu quả cho sự phát triển

      Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam đã đúc kết tốt 90 năm nông nghiệp miền Nam lịch sử phát triển (1925-2015) và đang trên đường tới ‘100 năm nông nghiệp Việt Nam’ (1925-2025). Công tác chuẩn bị cho ngày tổng kết và lễ hội quan trọng này này vào năm 2025 đang được chuẩn bị từ hiện nay.

      90 năm Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam, sự nhìn lại bản tóm tắt nông nghiệp 90 năm (1925-2015) thật khá thú vị: Tác giả Bùi Chí Bửu, Trần Thị Kim Nương, Nguyễn Hồng Vi, Nguyễn Đỗ Hoàng Việt, Nguyễn Hiếu Hạnh, Đinh Thị Lam, Trần Triệu Quân, Võ Minh Thư, Đỗ Thị Nhạn, Lê Thị Ngọc, Trần Duy Việt Cường, Nguyễn Đức Hoàng Lan, Trần Thị Kim Cúc, Nguyễn Thị Kim Thoa, Đinh Thị Hương, Trần Văn Tưởng, Phan Trung Hiếu, Hồ Thị Minh Hợp, Đào Huy Đức* (*Chủ biên chịu trách nhiệm tổng hợp).

      Khoa học nông nghiệp là một tổng thể của kiến thức thực nghiệm, lý thuyết và thực tế về nông nghiệp, nông dân, nông thôn do các nhà nghiên cứu phát triển với các phương pháp khoa học, trong đó đặc biệt là sự quan sát, giải thích, và dự báo những hiện tượng của nông nghiệp. Việt Nam là đất nước “dĩ nông vi bản”, do đó nông nghiệp của chúng ta gắn liền với lịch sử phát triển của đất nước. Viện đã không ngừng phát triển trong chặng đường lịch sử 90 năm. Viện đã cùng đồng hành với nông dân Việt Nam, người mà lịch sử Việt Nam phải tri ân sâu đậm. Chính họ là lực lựơng đông đảo đã làm cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân thành công; đồng thời đã đóng góp xuất sắc trong thời kỳ đổi mới, xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa, với nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, tạo nên những đột phá liên tục làm tiền đề cho công nghiệp và dịch vụ phát triển như ngày nay. Sự kiện 02 triệu người chết đói năm 1945 luôn nhắc người Việt Nam rằng, không có độc lập dân tộc, không có khoa học công nghệ, sẽ không có ổn định lương thực cho dù ruộng đất phì nhiêu của Đồng bằng Sông Cửu Long có tiềm năng vô cùng to lớn.

      Lịch sử của Viện cũng là lịch sử của quan hệ hợp tác mật thiết với các tổ chức nông dân, với lãnh đạo địa phương, với các Viện nghiên cứu trực thuộc VAAS và các Trường, Viện khác, với các tổ chức quốc tế. Khoa học nông nghiệp không thể đứng riêng một mình. Khoa học nông nghiệp phải xem xét cẩn thận các yếu tố kinh tế, môi trường, chính trị; trong đó có thị trường, năng lượng sinh học, thương mại hóa toàn cầu. Đặc biệt, nông nghiệp phải nhấn mạnh đến chất lượng nông sản và an toàn lương thực, thực phẩm, khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới.

      Lịch sử đang đặt ra cho Viện những thách thức mới trong điều kiện Việt Nam hội nhập quốc tế sâu rộng, hàng rào thuế quan được dỡ bỏ, thay vào đó là rào cản kỹ thuật đối với nông sản trên thương trường quốc tế. Thách thức do bùng nổ dân số, thiếu đất nông nghiệp, thiếu tài nguyên nước ngọt, biến đổi khí hậu với diễn biến thời tiết cực đoan, thu nhập nông dân còn thấp là những nhiệm vụ vô cùng khó khăn, nhưng rất vinh quang của Viện, đang mong đợi sự năng động và thông minh của thế hệ trẻ.”

      Lịch sử của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam được chia là hai phân kỳ : Từ ngày thành lập Viện 1925 đến năm 1975, và từ năm 1975 đến năm 2018.

      Từ năm 1925 đến năm 1975 những nhân vật lịch sử tiêu biểu của Viện trong thời kỳ này là GS.TS. Auguste Chavalier (1873-1956) Người thành lập Viện Khảo cứu Khoa học Đông Dương, năm 1918;  Yves Henry (1875-1966) Người thành lập Viện Khảo cứu Nông Lâm Đông Dương, năm 1925;  GS. Tôn Thất Trình, GS. Thái Công Tụng, GS. Lương Định Của, … là những người có ảnh hưởng nhiều đến Viện trong giai đoạn này

      Từ năm 1975 đến năm 2018 Viện trãi qua 5 đời Viện trưởng GS Trần Thế Thông, GS Phạm Văn Biên, GS Bùi Chí Bửu, TS Ngô Quang Vinh và TS Trần Thanh Hùng.  Tôi lưu lại một số bức ảnh tư liệu kỷ niệm một thời của tôi với những sự kiện chính không quên.

      Viện IAS từ năm 1975 đến năm 2015 là một Viện nông nghiệp lớn đa ngành, duy nhất trong lĩnh vực nông nghiệp ở Việt Nam. Đó là tầm nhìn phù hợp điều kiện thực tế thời đó. Viện có một đội ngũ cán bộ khoa học nông nghiệp hùng hậu, có trình độ chuyên môn cao, thế hệ đầu tiên của giai đoạn hai mươi lăm năm đầu tiên sau ngày Việt Nam thống nhất (1975 – 2000)  gồm các chuyên gia như:  Giáo sư Trần Thế Thông, Giáo sư Vũ Công Hậu, Giáo sư Lê Văn Căn, Giáo sư Mai Văn Quyền, Giáo sư Trương Công Tín, Giáo sư Dương Hồng Hiên, Giáo sư Phạm Văn Biên, … là những đầu đàn trong khoa học nông nghiệp.

      Viện có sự cộng tác của nhiều chuyên gia lỗi lạc quốc tế đã đến làm việc ở Viện như: GSTS. Norman Bourlaug (CIMMYT), GS.TS. Kazuo Kawano, TS. Reinhardt Howeler, GS.TS. Hernan Ceballos, TS. Rod Lefroy, (CIAT),  GS.TS. Peter Vanderzaag, TS. Enrique Chujoy, TS. Il Gin Mok, TS. Zhang Dapheng (CIP), GS.TS. Wiliam Dar, TS. Gowda (ICRISAT), GSTS.  V. R. Carangal (IRRI), TS. Magdalena Buresova , GSTS. Pavel Popisil (Tiệp), VIR, AVRDC,  …

      Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là ias-nlu-ngay-nha-giao.jpg
      Hình ảnh IAS họp mặt truyền thống 20 11 2020
      Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là nlu-65-nam.jpg
      Hình ảnh Khoa Nông học NLU họp mặt truyền thống 20 11 2020

      Thật đáng tự hào về một khối trí tuệ lớn những cánh chim đầu đàn nêu trên của các Viện Trường. Chúng ta còn nợ những chuyên khảo sâu các đúc kết trầm tích lịch sử, văn hóa, sinh học  của vùng đất này để đáp ứng tốt hơn cho các vấn đề nông dân, nông nghiệp, nông thôn, đời sống và  an sinh xã hộiđể vận dụng soi tỏ “Niên biểu lịch sử Việt Nam“, ”Nông nghiệp Việt trăm năm bảo tồn và phát triển (1925-2025)” nhằm tìm thấy trong góc khuất lịch sử dòng chủ lưu tiến hóa của nông nghiệp, giáo dục, văn hóa Việt Nam.

      Chúc mừng Ngày Nhà Giáo Việt Nam.Chúc mừng và cảm ơn những tình cảm quý mến thân thiết của thầy bạn để giúp luôn chúng ta luôn ấm áp yêu thương và cố gắng . Thật xúc động nói lên những lời từ đáy lòng. “Bao năm Trường Viện là nhà. Lúa ngô khoai sắn đều là thịt xương. Một đời người một rừng cây. Thầy ươm giống tốt để mai thành rừng”. Thật tự hào Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam hướng tới Nông nghiệp Việt 100 năm bảo tồn và phát triển (1925-2025); với hình ảnh chúc mừng ngày Nhà Giáo Việt Nam; Bài viết chọn lọc ngày 20 tháng 11: Nông nghiệp Việt trăm năm bảo tồn và phát triển;
      Trường tôi nôi yêu thương; Kỷ yếu khoa Nông học kỷ niệm 65 năm thành lập Khoa; Về Trường để nhớ thương; Một niềm tin thắp lửa; Thầy bạn là lộc xuân; Thầy bạn trong đời tôi; Thông tin tại http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-20-thang-11/;.

      Họp mặt tất niên ngày 15 tháng 1 năm 2020 ảnh Minh Hương17 tháng 1 · cùng với Nguyễn Thanh Thủy, Thanhminh Nguyen, Tran Nu Thanh, Cuộc Đời, Nguyen Quy Hung, Tin TruongHoàng Kim

      Kết nối và phát triển, tách nhập tái cấu trúc là những chuyển động không ngưng nghỉ của Nông nghiệp Việt trăm năm qua. Thăm nhà cũ của Darwin, Tôi may mắn được dạo chơi Down House ngôi nhà cũ của nhà tự nhiên học người Anh Charles Darwin và gia đình ông để có giây phút lặng ngắm khu vườn riêng di sản nhỏ bé của ông. Chính tại nơi này Darwin đã làm việc về thuyết tiến hóa bởi chọn lọc tự nhiên và nhiều thí nghiệm khác. “Nguồn gốc các loài” của Charles Darwin xuất bản lần đầu tiên ngày 24 tháng 11 năm 1859 là ấn phẩm khoa học tiêu biểu và là tác phẩm nòng cốt của ngành sinh học tiến hóa, chứng minh rằng mọi loài đều tiến hóa theo thời gian từ những tổ tiên chung qua quá trình chọn lọc tự nhiên. Hiện nay học thuyết tiến hóa của Darwin vừa được tôn vinh vừa bị phê phán dữ dội. Vượt qua mọi khen chê của nhân loại và thời đại biến đổi, triết lý của Charles Darwin thật sâu sắc.“Thích nghi để tồn tại” “Mọi loài đều tiến hóa theo thời gian từ những tổ tiên chung qua quá trình chọn lọc tự nhiên“, bài học tình yêu cuộc sống đắt giá của tự nhiên, mỗi người, cộng đồng dân tộc và nhân loại.


      Đôi mắt Darwin soi thấu nguồn gốc các loài. “Kẻ sống sót không phải là kẻ mạnh nhất hay thông minh nhất, mà là kẻ thích nghi tốt nhất” Charles Darwin đã nói vậy: “It is not the strongest of the species that survives, nor the most intelligent that survives. It is the one that is most adaptable to change” Bảo tồn và phát triển bền vững, thích nghi để tồn tại là câu chuyện lớn của mỗi người và nhân loại, là lời nhắc của quá khứ hiện tại và tương lai cho nhân loại và chính cộng đồng người dân Việt Nam để không bao giờ được phép quên lãng. Thích nghi để tồn tại mới là người thắng sau cùng. Cân bằng hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế, bảo vệ môi trường, tiến bộ và công bằng an sinh xã hội, giữ vững độc lập thống nhất chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia là những vấn đề trọng yếu trong chính sách kinh tế xã hội tự nhiên và an sinh.Thăm ngôi nhà cũ của Darwin là tìm đến tư duy mạch lạc của một trí tuệ lớn Tôi thật may mắn và biết ơn Viện Trường có một thời gian cùng làm việc với nhiều thầy bạn để học hỏi và chiêm nghiệm cuộc sống Chung sức là một câu chuyện riêng chung nhiều thông tin nhớ mãi một thời.

      CHUNG SỨC
      Võ Tòng Xuân,
      Hoàng Kim
      Nhớ giáo sư
      Phạm Văn Biên

      Chung sức bao năm một chặng đường
      Cuộc đời nhìn lại phúc lưu hương
      Ngô khoai chẳng phụ dày công Viện
      Lúa sắn chuyên tâm mến nghĩa Trường
      Dạy học tinh hoa giàu trí tuệ
      Chuyển giao chuyên nghiệp khiếu văn chương
      Người chọn vãng sanh vui một cõi
      Ai theo cực lạc đức muôn phương

      Liên vận bài
      TIỄN ĐƯA
      Tố Hữu
      (Tặng bạn thơ Th.)

      Đưa tiễn anh đi mấy dặm đường
      Nặng tình đồng chí lại đồng hương!
      Đã hay đâu cũng say tiền tuyến
      Mà vẫn bâng khuâng mộng chiến trường!
      Dẫu một cây chông trừ giặc Mỹ
      Hơn nghìn trang giấy luận văn chương
      Đi đi, non nước chờ anh đó!
      Tiền tuyến cần thêm? Có hậu phương…

      Cảm ơn PGS TS Huỳnh Thanh Hùng Trưởng Ban Biên tập 65 NĂM KỶ YẾU TRƯỜNG Đại Học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh, một tổng kết giá trị được yêu thích đúc kết đầu tiên . với thông tin kỷ yếu tôi sẽ cố gắng sớm cập nhật ở Trường tôi nôi yêu thương.

      Cảm ơn GS.TS Bùi Cách Tuyến, nguyên Hiệu trưởng NLU (1998-2007) với bài viết Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh HỒI TƯỞNG VỀ GIAI ĐOẠN CẤT CÁNH (1998-2007) và TS Nguyễn Đình Bông, nguyên phó Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Quản lý Đất đại (ngày nay là Bộ Tài nguyên Môi trường) với bài viết QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI VIỆT NAM, chọn chép lại ngày này để tiện theo dõi

      Kính lắng nghe sự chỉ giáo của quý Thầy bạn.

      TS. Hoàng Kim
      Cựu giảng viên chính Cây Lương thực, Khoa Nông học (2006-2014)
      Nguyên Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Thực Nghiệm Nông nghiệp Hưng Lộc (1994-2004), Trưởng Ban Quản lý Các Dự Án (2004-2006) Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam

      TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM TP. HCM:
      HỒI TƯỞNG VỀ GIAI ĐOẠN CẤT CÁNH (1998 – 2007)
      GS.TS. Bùi Cách Tuyến
      Nguyên Hiệu trưởng


      Năm tôi vào trường (1973), Trung Tâm Quốc Gia Nông Nghiệp (thuộc Viện đại học Bách Khoa Thủ Đức, hiện nay là Trường đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh sau nhiều lần đổi tên) tuyển 200 sinh viên (100 Canh Nông, 50 Thủy Lâm, 50 Chăn nuôi Thú Y), trong đó có 10% dành riêng cho đồng bào sắc tộc và 10% dành riêng cho các trường Trung học Nông Lâm Súc tại các tỉnh. Thi vào không chỉ là học sinh phổ thông mà còn có những người đã học xong năm thứ nhất Đại học Khoa học Sài Gòn (đậu các chứng chỉ Toán Đại cương (MG); Toán, Lý, Hóa (MPC); Lý, Hoá, Vạn vật (SPCN). Đến năm 1974 trường mở thêm ngành Thủy sản do cố GS. Ngô Bá Thành làm trưởng ngành, lấy học viên từ các ngành khác chuyển qua. Chuyên ngành Công thôn và chuyên ngành Chế biến lấy sinh viên chủ yếu từ ngành Canh nông.

      Cho đến năm học 1998 – 1999, Trường đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh chỉ đào tạo 10 ngành trong 6 Khoa: (1) khoa Nông học (Nông học, Quản lý Đất đai); (2) khoa Lâm (Lâm nghiệp và Chế biến Lâm sản); (3) khoa Chăn nuôi Thú y (Chăn nuôi và Thú y); (4) khoa Cơ khí Công nghệ (Cơ khí Nông nghiệp, Bảo quản Chế biến Nông sản Thực phẩm); (5) khoa Kinh tế Nông nghiệp (Kinh tế Nông nghiệp); và (6) khoa Thủy sản (Thủy sản).

      Từ năm 2001, số ngành tuyển sinh tăng dần: năm học 2001-2002: (18 ngành); 2002-2003 (21 ngành); 2003 – 2004 (23 ngành); 2004 -2005 (29 ngành); 2005 – 2006 (36 ngành); 2006 – 2007 (42 ngành); 2007 – 2008 (43 ngành). Số người đến thi/số người đăng ký thi dự thi tăng dần theo từng năm. Cao nhất là năm 2007 có 57.536 người đến thi trên tổng số 74.686 người đăng ký, tổng số chỉ tiêu được giao là 3.600 sinh viên.

      Là một trường nông nghiệp đóng trên địa bàn thành phố lớn nên nhu cầu phát triển lên đa ngành là rất cần thiết. Việc mở rộng quy mô đào tạo đã có nhiều đại học trên thế giới thực hiện thành công. Trong khu vực Châu Á có các đại học như Kasesart (Thái Lan), UPM (Malaysia), IPB (Indonesia)… đều khởi đầu từ trường nông nghiệp sau chuyển lên đa ngành và mở thêm nhiều phân hiệu. Ban Giám hiệu thời kỳ 1998 – 2007 đã thống nhất kế hoạch đưa trường lên đa ngành và mở thêm các phân hiệu ở Gia Lai và Ninh Thuận. Tỉnh Lâm Đồng, Bình Thuận và Phú Yên cũng muốn có phân hiệu nhưng vì nhiều lý do khác nhau nên chỉ hình thành 2 phân hiệu tại Gia Lai và Ninh Thuận. Phân hiệu Gia Lai nhờ sự ủng hộ mạnh mẽ của lãnh đạo tỉnh nên có quyết định thành lập trước theo QĐ số 2539/QĐ-BGD ĐT ngày 22/5/2006 và Phân hiệu Ninh Thuận thành lập sau theo QĐ số 699/TTg ngày 18/5/2010 (trong nhiệm kỳ Thầy Trịnh Trường Giang 2007-2012). Để có thể tiếp tục mở rộng ngành đào tạo, Ban Giám hiệu đã chủ trương đổi tên trường (theo tên địa phương hoặc danh nhân. Bộ trưởng Nguyễn Thiện Nhân đã đồng ý với chủ trương này).

      Trong suốt quá trình hình thành và phát triển, nhà trường luôn quan tâm đến việc nâng cao chất lượng giảng dạy, học tập nhằm cung cấp cho xã hội nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng nhu cầu xây dựng và phát triển đất nước. Việc chuyển đổi phương thức đào tạo từ niên chế sang học chế tín chỉ (HCTC) cũng để nhằm góp phần nâng cao chất lượng đào tạo; vì vậy, trường đã chủ động chuẩn bị các điều kiện cần thiết để chuyển đổi. Với quy mô đào tạo lớn, lãnh đạo Nhà trường ý thức được rằng việc thay đổi quy trình đào tạo từ niên chế sang HCTC có ảnh hưởng đến toàn bộ công tác giảng dạy, quản lý của nhà trường. Do đó, Nhà trường đã thận trọng và từng bước thực hiện việc chuyển đổi đào tạo theo HCTC. Với quá trình bàn thảo, xây dựng định hướng, xây dựng đề án, xây dựng quy trình quản lý, soạn thảo những quy định có liên quan, cài đặt các chương trình máy tính phục vụ cho việc vận hành, chuẩn bị cơ sở vật chất, triển khai tập huấn đội giảng viên, ngũ cố vấn học tập… chương trình đào tạo theo phương thức tích lũy tín chỉ đã được áp dụng đầu tiên cho khóa tuyển sinh đại học chính qui năm 2008.

      Công tác đào tạo, nâng cao trình độ chuyên môn cho cán bộ công chức, viên chức ở các địa phương (đào tạo tại chức, nay là vừa làm vừa học) trong khu vực cũng đã được triển khai thành công. Cụ thể trong 5 năm từ 2003 đến 2007 đã tuyển sinh đào tạo cho 9.412 sinh viên các ngành Nông học, Lâm nghiệp, Quản lý đất đai, Thú Y, Chăn nuôi, Thủy sản, Kinh tế nông nghiệp… cho các địa phương từ Bình Định đến Cà Mau.

      Đến năm 2006, Trường đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh có 12 Khoa (tăng thêm 6 Khoa), 5 Bộ môn độc lập trực thuộc Ban Giám Hiệu: 1) bộ môn Mác-Lênin; 2) bộ môn Công nghệ Sinh học (để hình thành khoa Công nghệ Sinh học hoặc khoa Khoa học Sự sống về sau); bộ môn Sư phạm Kỹ thuật (để hình thành khoa Sư phạm về sau); 3) bộ môn Công nghệ Hóa học (để hình thành khoa Hóa học sau này); bộ môn Cảnh quan và Kỹ thuật Hoa viên (để hình thành khoa đào tạo chuyên về Thiết kế Cảnh quan, Quản lý Lâm viên [national park], Quản lý Hoa viên và Du lịch Sinh thái sau này). Viện Nghiên cứu Công nghệ Sinh học và Môi trường được thành lập để làm hạt nhân cho một đại học định hướng nghiên cứu về sau theo Quyết định thành lập số 797/ĐHNL-TCCB ngày 6/6/2006 của Hiệu trưởng Trường đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh trên cơ sở sáp nhập Trung Tâm Phân tích Thí nghiệm Hóa Sinh với Trung Tâm Công nghệ Sinh học và Trung Tâm Công nghệ và Quản lý Môi trường và Tài nguyên.

      Trường đã lập Dự án Quy hoạch tổng thể (theo Kế hoạch Chiến lược) cho việc xây dựng trường dài hạn và được Bộ Giáo dục và Đào tạo phê duyệt, trong đó có Dự án riêng cho Viện Nghiên cứu Công nghệ Sinh học và Môi trường (bao gồm 5 nhà lớn theo hình lá của một cây rừng phổ biến ở Đông Nam bộ là Dầu Con rái (𝐷𝑖𝑝𝑡𝑒𝑟𝑜𝑐𝑎𝑟𝑝𝑢𝑠 𝑎𝑙𝑎𝑡𝑢𝑠). Đến nay chỉ có hai nhà được xây dựng.

      Để đào tạo nhiều ngành cần phải có phòng thí nghiệm và giảng viên tương ứng. Trường đã xây dựng & trình các dự án và nhờ sự ủng hộ của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Khoa học và Công nghệ để hình thành các phòng thí nghiệm chuyên đề. Các Phòng Thí nghiệm trong Dự án Tăng cường năng lực do Bộ Giáo dục và Đào tạo phê duyệt và Bộ Khoa học và Công nghệ cấp kinh phí: (1) Dự án Phòng Thí nghiệm Rau quả (đặt ở khoa Công nghệ Thực phẩm); (2) Dự án Phòng Thí nghiệm Công nghệ Ô tô (đặt ở khoa Cơ khí Công nghệ); (3) Dự án Dự án Phòng Thí nghiệm Giấy và Bột giấy (đặt ở khoa Lâm nghiệp); (4) Dự án Phòng Thí nghiệm Phôi (đặt ở Viện Nghiên cứu Công nghệ Sinh học và Môi trường). Trường đã xin một khu thực nghiệm rộng nhiều trăm ha cho các khoa Lâm nghiệp, Nông học và một số đơn vị khác tại tỉnh Bình Phước (về sau trả lại địa phương vì dân lấn chiếm quá nhiều).

      Song song với việc hình thành các Phòng thí nghiệm là việc thành lập các Khoa, Viện, Trung Tâm mới và các Bộ môn độc lập (dự kiến là tiền thân của các Khoa sau này). Các ngành mới mở cần có sự ủng hộ từ bên ngoài để phát triển, do đó tôi đã liên lạc GS.TS. Bạch Hưng Khang (lúc đó là Viện trưởng Viện Công nghệ Thông tin thuộc Trung Tâm Khoa học và Công nghệ Quốc gia [TTKH&CNQG], nay là Viện Hàn Lâm Khoa học Việt Nam) xin một tiến sỹ về làm trưởng khoa Công nghệ Thông tin mới thành lập. Trong khi chờ đợi, GS.TS. Hồ Sỹ Thoảng, lúc đó là Viện trưởng Viện Hóa, giới thiệu tiến sỹ Nguyễn Công Vũ đang làm việc ở Đại học Khoa học Tự nhiên TP. Hồ Chí Minh về làm Trưởng Khoa. Tôi cũng đã liên lạc GS.TS. Phan Thị Tươi, lúc đó là Hiệu trưởng Đại học Bách Khoa TP. Hồ Chí Minh để có sự hỗ trợ cho ngành Công nghệ Thông tin. Cô Tươi rất ủng hộ chủ trương này và cho rằng công nghệ thông tin rất cần thiết để phục vụ phát triển nông nghiệp (như thực tế hiện nay đã minh chứng). Đối với ngành Công nghệ Sinh học, tôi đã liên lạc với Viện Công nghệ Sinh học [TTKH&CNQG] để có sự ủng hộ về chủ trương và chuyên môn. Thời đó GS.TS. Nông Văn Hải (Viện trưởng) và GS.TS. Quyền Đình Thi (Phó Viện trưởng) và nhiều cán bộ khác của Viện đã vào huấn luyện cho cán bộ nghiên cứu của Viện Công nghệ Sinh học và Công nghệ Môi trường. Mặt khác tôi cũng gởi cán bộ nghiên cứu sang học kỹ thuật phòng thí nghiệm ở bộ môn Công nghệ sinh học của Đại học Khoa học Tự nhiên TP. Hồ Chí Minh. Đối với ngành Cơ khí công nghệ, tôi và Ban Chủ nhiệm khoa Cơ khí Công nghệ chủ trương kết nối với (1) Hãng xe Mercedes (thời đó Cô Nguyễn Thị Hồng Ngọc, cựu sinh viên khóa 1 khoa Cơ khí Công nghệ, Trường đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh, là Phó Tổng Giám Đốc hãng xe Mercedes) và (2) Công ty SAMCO (có Thầy Cường, nguyên giảng viên khoa Cơ khí Công nghệ và Anh Hồng Anh, cựu sinh viên khóa 4 khoa Cơ khí Công nghệ, Trường đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh) giúp sinh viên ngành Công nghệ Ô tô đến thực tập.

      Đối với ngành Công nghệ Giấy và Bột giấy qua sự giới thiệu của Cô Đào Thị Gọn (bộ môn Quản lý Đất Xem tiếp >>

        Dạy và học 19 tháng 11(19-11-2021)


      DẠY VÀ HỌC 19 THÁNG 11
      Hoàng Kim
      CNM365 Tình yêu cuộc sốngTrường tôi nôi yêu thươnghttps://youtu.be/bsZo5e779EA; Một niềm tin thắp lửa; #CLTVN; Câu chuyện ảnh tháng 11; Đêm nay là Trăng rằm; Chuyển đổi số nông nghiệp; Tin nổi bật quan tâm; Thế giới trong mắt ai; Kỷ yếu khoa Nông học kỷ niệm 65 năm thành lập Khoa; Về Trường để nhớ thương; Thầy bạn là lộc xuân; Thầy bạn trong đời tôi; Ngày 19 tháng 11 năm 1955, Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh, một trong những trung tâm đào tạo và nghiên cứu lớn nhất về nông lâm ngư nghiệp của Việt Nam, có tiền thân là Trường Quốc gia Nông Lâm Mục Bảo Lộc, được thành lập. Ngày 19 tháng 11 năm 1863, Tổng thống Hoa Kỳ Abraham Lincoln đọc bài Diễn văn Gettysburg đặc biệt nổi tiếng trong lễ thánh hiến nghĩa địa quân đội Nội chiến Hoa Kỳ tại Gettysburg, Pennsylvania. Đây là một trong những bài diễn văn vĩ đại nhất và được trích dẫn nhiều nhất trong lịch sử  Hoa Kỳ. Ngày 19 tháng 11 năm 1917, ngày sinh Indira Gandhi là thủ tướng thứ ba của Ấn Độ, (mất năm1984), một trong những chính khách nổi bật nhất, là con gái của thủ tướng đầu tiên, Jawaharlal Nehru, và là mẹ của một thủ tướng khác, Rajiv Gandhi, Bà không có quan hệ họ hàng gì với Mahatma Gandhi nhưng có tính cách nổi bật theo gương của vị thánh nhân lỗi lạc này. Bài viết chọn lọc ngày 19 tháng 11:Trường tôi nôi yêu thươnghttps://youtu.be/bsZo5e779EA; Một niềm tin thắp lửa; #CLTVN; Câu chuyện ảnh tháng 11; Đêm nay là Trăng rằm; Chuyển đổi số nông nghiệp; Tin nổi bật quan tâm; Thế giới trong mắt ai; Kỷ yếu khoa Nông học kỷ niệm 65 năm thành lập Khoa; Về Trường để nhớ thương; Thầy bạn là lộc xuân; Thầy bạn trong đời tôi; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlong https://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-19-thang-11/

      Hội Cựu Giáo Chức UAF NLU thông báo: Trân trọng kính mời Quý Thầy, Cô tham dự Lễ Kỷ niệm Ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11, và 66 năm ngày thành lập Trường (19/ 11/ 1955 – 19/ 11/ 2021). Thời gian: 8 giờ 30, ngày 19/11/2021 Hình thức: online qua Microsoft Teams Link truy cập: https://go.hcmuaf.edu.vn/NgayNhaGiaoVietNam Quý Thầy, Cô cần hỗ trợ kỹ thuật xin liên hệ Phòng Thông tin – Truyền thông (Anh Lê Việt Thanh, sđt 0987171129). Trân trọng kính chào quý Thầy, Cô. xem tiếp https://www.tuoitrenonglam.com/2019/11/tuoi-tre-nong-lam-to-chuc-le-ky-niem-37.html và Video www.facebook.com/watch/?v=1441938182649272

       

      Về Trường để nhớ thương
      (Dư âm những niềm vui cũ, hình ảnh và cảm nhận được trân trọng bảo tồn và phát triển)

       

       

      CÂU CHUYỆN ẢNH THÁNG 11
      Hoàng Kim

      Trường tôi nôi yêu thương
      Về Trường để nhớ thương
      Vui bước tới thảnh thơi
      Dạy và học ngày mới

      Cây Lương thực Việt Nam
      Hoa Lúa giữa Đồng Xuân
      Sắn Việt Nam ngày nay
      CNM365 Tình yêu cuộc sống

      Thăm nhà cũ của Darwin
      Nguyễn Du trăng huyền thoại
      Sóc Trăng Lương Định Của
      Chuyện thầy Tôn Thất Trình

      Thầy bạn trong đời tôi
      Thầy nghề nông chiến sĩ
      Việt Nam con đường xanh
      Một niềm tin thắp lửa

      Nhớ kỷ niệm một thời
      Mình về với chính mình

      Câu chuyện ảnh tháng 11 tại 14 đường dẫn https://hoangkimlong.wordpress.com/category/day-va-hoc-ngay-moi

       

       

      VỀ TRƯỜNG ĐỂ NHỚ THƯƠNG
      Hoàng Kim


      Đại học Nông Lâm thật thích
      Bạn thầy vui thật là vui
      Sân Trường giảng đường ấm áp
      Đường xuân phơi phới tuyệt vời

      Hình như mọi người trẻ lại
      Hình như người ấy đẹp hơn
      Hình như tre già măng mọc
      Nắng mai soi giữa tâm hồn.

      Thầy bạn trong ngoài thiện nguyện
      Về Trường chia sẻ động viên
      Trang sách trang đời lắng đọng
      Yêu thương bao cuộc đời hiền

      Thầy bạn ngày vui hẹn gặp
      Lời thương mong ước bình an
      Tình khúc Nông Lâm ngày mới
      Sức xuân Tự nguyện Lên đàng

       

      xem Video Gia đình Nông nghiệp Đoàn Nhật Châu Toàn cảnh Liên khoá NLMS gặp nhau tại nhà hàng Đoàn Viên ( công viên Tao Đàn ) ngày 06/12/2020 https://www.facebook.com/groups/116240288833267/permalink/1127332901057329/

       

      Đại học Nông Lâm trước giờ G ngày 19/11

       

       

      KỶ YẾU KHOA NÔNG HỌC 65 năm thành lập Khoa mời vào đường link để xem chi tiết https://kyyeunonghoc.blogspot.com/2020/11/ky-yeu-ky-niem-65-nam-thanh-lap-khoa.html

       

       

      MỘT NIỀM TIN THẮP LỬA
      Hoàng Kim

      Nhìn đàn em ngời niềm vui rạng rỡ.
      Chợt thấy lòng rưng rưng.
      Công việc nghề nông cực mà hạnh phúc.
      Cố lên em nổ lực không ngừng !

      Hột mồ hôi lắng vào hạt gạo.
      Câu ca ông bà theo suốt tháng năm.
      Thêm bữa cơm ngon cho người lao động.
      Nâng chén cơm thơm, qúy trọng người trồng.

      Em ơi hãy học làm ruộng giỏi.
      Nghề nông thời nào cũng quý kỹ năng.
      Người dân khá hơn là niềm ao ước
      Công việc này giao lại cho em.

      Có một mùa Vu Lan hạnh phúc
      Ơn mẹ cha lam lũ sớm hôm
      Thương con vạc gọi sao mai dậy sớm
      Một niềm tin thắp lửa giữa tâm hồn.

      Bước tiếp bước giữa trường đời gian khó
      HỌC ĐỂ LÀM người lao động siêng năng
      Rèn nhân cách vượt lên bao cám dỗ
      Đức và Tài tử tế giữa Nhân Dân.

       

       

      Chúc mừng các em sinh viên! Chúc mừng Thầy Huỳnh Thanh Hùng,Thầy Trần Đình Lý và quý Thầy Cô trong buổi Lễ Tốt Nghiệp trang trọng. Nhìn đàn em ngời niềm vui rạng rỡ. Chợt thấy lòng rưng rưng. Công việc nghề nông cực mà hạnh phúc. Cố lên em nổ lực không ngừng ! Hột mồ hôi lắng vào hạt gạo. Câu ca ông bà theo suốt tháng năm.Thêm bữa cơm ngon cho người lao động. Nâng chén cơm thơm, qúy trọng người trồng

       

       

      xem tiếp Về Trường để nhớ thương

       

       

      Về Trường để nhớ thương
      (Dư âm những niềm vui cũ, hình ảnh và cảm nhận được trân trọng bảo tồn và phát triển)

      Lời biết ơn sâu sắc

      Thầy bạn là lộc xuân
      Thầy bạn trong đời tôi
      Một niềm tin thắp lửa
      Về Trường để nhớ thương

       

       

      Bài viết mới trên #CLTVN; CNM365 Tình yêu cuộc sống
      DẠY VÀ HỌC
      https://hoangkimvn.wordpress.com
      CNM365, ngày mới nhất bấm vào đây   cập nhật mỗi ngày

      Video nhạc tuyển
      Bài học quý giá biết chăm sóc sức khỏe
      Secret Garden – Bí mật vườn thiêng 
      KimYouTube

       

       

      Trở về trang chính
      Hoàng Kim Long, Ngọc Phương NamThung dungDạy và Học, Việt Nam Học, Cây Lương thực Việt Nam, Tình yêu Cuộc sống, CNM365; Kim on LinkedIn Kim on Facebook Kim on Twitter

      Xem tiếp >>

        Dạy và học 18 tháng 11(18-11-2021)

      DẠY VÀ HỌC 18 THÁNG 11
      Hoàng Kim
      CNM365 Tình yêu cuộc sốngDạy và học ngày mới; Đêm mai là trăng rằm; Chuyển đổi số nông nghiệp; Tin nổi bật quan tâm; Thế giới trong mắt ai; Thầy Quyền thâm canh lúa; Em ơi can đảm lên; Lời Thầy luôn theo em; CIMMYT tươi rói kỷ niệm; Mexico ấn tượng lắng đọng, Đối thoại nền văn hóa. Minh triết sống phúc hậu; Thủ đô Mexico là một thành phố toàn cầu, một trong những trung tâm tài chính quan trọng nhất Bắc Mỹ, đô thị lớn nhất nước Mexico và châu Mỹ, là trung tâm của một vùng đô thị lớn thứ ba thế giới về quy mô dân số, sau vùng đô thị Tokyo và Seoul. Ngày 18 tháng 11 năm 1824, Thủ đô Mexico được Quốc hội Mexico quyết định là một khu vực liên bang, thuộc quyền hạn quản lý của liên bang. Ngày 18 tháng 11 năm 1067, sách Tư trị thông giám  do tác giả Tư Mã Quang dâng lên được vua Tống Thần Tông ban tên Thông chí biên niên sử, là sách đặc biệt nổi tiếng, mà  Mao Trạch Đông khi ở đỉnh cao quyền lực đã luôn không rời tay để học về thuật đế vương, nhằm tìm trong sự rối loạn của lịch sử những quy luật và mưu lược kinh bang tế thế.Ngày 18 tháng 11 năm 1959, phim sử thi Ben-Hur được công chiếu tại New York, phim đoạt được 11 giải Oscar, trong đó có Giải Oscar cho phim xuất sắc nhất, là phim tốn kém nhất cho đến đương thời; Bài viết chọn lọc ngày 18 tháng 11: Dạy và học ngày mới; Đêm mai là trăng rằm; Chuyển đổi số nông nghiệp; Tin nổi bật quan tâm; Thế giới trong mắt ai; Thầy Quyền thâm canh lúa; Em ơi can đảm lên; Lời Thầy luôn theo em; CIMMYT tươi rói kỷ niệm; Mexico ấn tượng lắng đọng, Đối thoại nền văn hóa. Minh triết sống phúc hậu; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-18-thang-11/;

      Hội Cựu Giáo Chức UAF NLU thông báo: Trân trọng kính mời Quý Thầy, Cô tham dự Lễ Kỷ niệm Ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11, và 66 năm ngày thành lập Trường (19/ 11/ 1955 – 19/ 11/ 2021). Thời gian: 8 giờ 30, ngày 19/11/2021 Hình thức: online qua Microsoft Teams Link truy cập: https://go.hcmuaf.edu.vn/NgayNhaGiaoVietNam Quý Thầy, Cô cần hỗ trợ kỹ thuật xin liên hệ Phòng Thông tin – Truyền thông (Anh Lê Việt Thanh, sđt 0987171129). Trân trọng kính chào quý Thầy, Cô.

      DẠY VÀ HỌC NGÀY MỚI
      Hoàng Kim


      Bao năm Trường Viện là nhà
      Sắn khoai ngô lúa đều là thịt xương
      Một đời người một rừng cây
      Thầy ươm giống tốt để mai thành rừng.

      Cảm ơn FB đã bảo tồn và phát triển thông tin
      Dạy và học ngày mới những tình cảm và hình ảnh không quên http://hoangkimlong.wordpress.com/category/day-va-hoc-ngay-moi/

      ĐÊM MAI LÀ TRĂNG RẰM
      Hoàng Kim

      Trăng sáng lung linh trăng sáng quá
      Đất trời lồng lộng một màu trăng
      Dẫu đêm khuya vắng người quên ngắm
      Trăng vẫn là trăng, trăng vẫn rằm.

      xem tiếp:
      http://hoangkimlong.wordpress.com/category/dem-mai-la-trang-ram

      CHUYỂN ĐỔI SỐ NÔNG NGHIỆP
      Hoàng Kim


      Đồng bộ hóa dữ liệu
      Có lợi cho người dân
      Chuyển đổi số Quốc gia
      Chuyển đổi số nông nghiệp

      Minh bạch rõ thông tin
      Ban mai lặng lẽ sáng.

      xem tiếp
      Tin nổi bật quan tâm 16/11/2021 VAAS News. Hội thảo Quốc gia Nông nghiệp sinh thái – Phương pháp tiếp cận chuyển đổi bền vững và tích hợp đa giá trị đối với hệ thống nông nghiệp và thực phẩm Việt Nam, mời đọc tin chính tích hợp tại đây https://vaas.vn/vi/hop-tac-quoc-te/hoi-thao-quoc-gia-nong-nghiep-sinh-thai-phuong-phap-tiep-can-chuyen-doi-ben-vung-va?fbclid=IwAR2vvxVQClXTn8QYc0AUk1sdYOG6iBwt_9qZdrozcRje6VtIPmsjfiYAIJo

      TIN NÔNG NGHIỆP TUYỂN CHỌN
      Cây Lương thực Việt Nam#CLTVN

      17/11/2021 VAAS News. Khai thác ‘mỏ vàng’ chất thải, phụ phẩm nông nghiệp; 16/11/2021 VAAS News Chuyển đổi số ngành nông nghiệp nên bắt đầu từ đâu?; 11/11/2021 VAAS News Ứng dụng khoa học công nghệ tạo sức bật cho nông nghiệp bền vững; 9/11/2021 VAAS NEWS Thành tựu trong điều tra, phân loại, lập bản đồ đất và đánh giá đất đai;

      TIN NỔI BẬT QUAN TÂM
      Hoàng Kim

      COVID-19 Thế giớiViệt Nam; Thế sự bàn cờ vây; Chuyển đổi số Quốc gia; Lúa cao cây Trung Quốc; Lúa siêu xanh Hòa Bình; Bill Gates học để làm; Tin nổi bật quan tâm; đọc tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/tin-noi-bat-quan-tam/

      Hình ảnh này chưa có thuộc tính alt; tên tệp của nó là vietnamtoquoctoi.jpg

      Thế giới trong mắt ai
      VIỆT NAM VÀ THẾ GIỚI
      Hoàng Kim

      “Đi đâu cũng không bằng Tổ quốc mình. Nói gì, làm gì cũng không bằng dạy, học và làm cho đồng bào đất nước mình. Đi khắp quê người để hiểu đất quê hương. Mục đích sau cùng của dạy và học là thấu suốt bản chất sự vật, có lời giải đúng và làm được việc. Dạy và học thực tiễn trên chính Tổ quốc mình”. Đêm trắng và bình minh Hoàng Kim lời tâm đắc

      “Dĩ bất biến ứng vạn biến”. Đường lối cách mạng của nước Việt Nam ngày nay thích hợp bền vững trong tình hình mới, thời đại mới, đã được Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đúc kết tinh hoa tại bài viết: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” xác định rõ đường lối, quan điểm, tầm nhìn chiến lược, cương lĩnh và kế hoạch hành động: “Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức; Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; Bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội; Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hoá, đa dạng hoá, hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế (in đậm để nhấn mạnh HK); Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp với sức mạnh thời đại; Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện“.

      Việt Nam thông tin khái quát thu thập thông tin cập nhật Việt Nam với Thế giới

      VIỆT NAM THÔNG TIN KHÁI QUÁT
      Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim

      Việt Nam thông tin khái quát tiếp nối bài Thông tin nhanh về Việt Nam thuộc nội dung VIỆT NAM HỌC Tổng quan văn hoá và kinh tế xã hội Việt Nam là tập tài liệu giảng dạy nghiên cứu Việt Nam Học: người Việt, tiếng Việt, nông nghiệp Việt Nam, văn hóa, kinh tế, xã hội, du lịch sinh thái. Mục đích tập tài liệu này nhằm đúc kết kiến thức nền Việt Nam Học, giúp việc tìm hiểu đất nước con người Việt Nam “vốn xưng nền văn hiến đã lâu; núi sông bờ cõi đã chia, phong tục Bắc Nam cũng khác” (Nguyễn Trãi, 1428) với phẩm chất văn hóa thân thiện, tốt đẹp.Việt Nam thông tin khái quát được đúc kết cập nhật theo
      Wikipedia tiếng Việt và các nguồn trích dẫn chính thực có liên quan tới ngày 30 tháng 6 năm.2021. Thông tin nhanh về Việt Nam và một số bài đọc thêm có liên quan lưu ở cuối trang này
      xem tiếp
      https://hoangkimlong.wordpress.com/category/viet-nam-thong-tin-khai-quat/

      BÌNH AN TRONG TAY BẠN
      Hoàng Kim và Hoàng Long

      Tôi ưa chí thiện hiệu quả
      https://www.facebook.com/SadhgurutiengViet/videos/272895614464798/

      THẾ GIỚI TRONG MẮT AI
      Hoàng Kim và Hoàng Long

      Thế sự bàn cờ vâyhttps://hoangkimlong.wordpress.com/category/the-su-ban-co-vay/
      https://www.facebook.com/MatThan.Official/videos/223059606523973/; Tin quốc tế nóng nhất Tin thế giới tổng hợp mới nhất FBNC; https://youtu.be/Wf7kE1iXi0Yhttps://youtu.be/Rw2Wodgd-iI; https://youtu.be/3dzcvdypEIU ;

      Ơn Thầy

      ƠN THẦY
      Hoàng Kim
      kính tặng thầy Mai Văn Quyền và quý Thầy Cô


      Cha ngày xưa nuôi con đi học.
      Một nắng hai sương trên những luống cày,
      Trán tư lự, cha thường suy nghĩ, 
      Phải dạy con mình như thế nào đây?

      Cha mất sớm, bom thù rung mặt đất,
      Cái chết giằng cha ra khỏi tay con,
      Mắt cha lắng bao niềm ao ước,
      Vẫn lo cho con đến phút cuối cùng.

      Giặc giết cha, cha chưa kịp thấy,
      Tương lai con đi, sự nghiệp con làm.
      Cha có biết, luống cày cha bỏ dỡ,
      Cha ngã xuống rồi trao lại tay con.

      Trên luống cày này, đường cày con vững.
      Bởi có dáng Thầy thay bóng cha xưa.
      Hiểu mảnh đất máu đào cha nhuộm đỏ.
      Thôi thúc tim con học tập phút giờ .

      NHỚ THẦY CÔ
      Hoàng Kim

      “Đúc gan sắt để dời non lấp bể
      Xối máu nóng rửa vết nhơ nô lệ”
      Văn Sử là Người, Thầy Cô thắp lửa thiêng
      Khoa Tịnh Diệu Vinh mãi mãi vững bền.

      Thầy Cô đó thanh thản cùng con cháu
      Nén hương thơm thành kính ơn Người
      Thầy đón Cô về là ngày giỗ Bác (*)
      Xa mà gần thương nhớ mãi Cô ơi !

      Tài sản Thầy Cô gia đình hạnh phúc
      Phúc hậu tận tâm minh triết an nhiên
      Đời thanh thản sống vui sống khỏe
      Trăng rằm xuân thế giới người hiền.

      (*) Thầy Nguyễn Khoa Tịnh bài thơ “Em ơi em can đảm bước chân lên“ . Cô Diệu Vinh và người thân trước mộ cụ Phan. Ngày của Cô (21 tháng 7al) là ngày giỗ Bác Hồ, 31.8.2018 Lời của Thầy theo mãi bước em đi

      EM ƠI CAN ĐẢM LÊN
      Nguyễn Khoa Tịnh

      Thầy ước mong em noi gương Quốc Tuấn

      Đọc thơ em, tim tôi thắt lại
      Lòng nghẹn ngào, nước mắt chảy rưng rưng
      Nửa xót xa nhưng nửa lại vui mừng
      Xót xa vì đời em còn thơ dại
      Mới tuổi thơ mà cuộc đời đầy khổ ải
      Mới biết cười đã phải sống mồ côi
      Như chiếc thuyền giữa biển tự trôi
      Như chiếc lá bay về nơi vô định
      “Bụng đói” viết ra thơ em vịnh:

      “Cơm ngày một bữa sắn trộn khoai
      Có biết lòng ta bấy hỡi ai?
      Vơi vơi lòng dạ, cồn cào bụng
      Kể chi no đói, mặc ngày dài”

      Phải!
      Kể chi no đói mặc ngày dài
      Rất tự hào là thơ em sung sức
      Rất tự hào là em tôi đầy nghị lực
      Đã hiển lộ mình qua “Cái chảo rang”

      “Trung dũng ai bằng cái chảo rang
      Lửa to mới biết sáp hay vàng
      Xào nấu chiên kho đều vẹn cả
      Chua cay mặn ngọt giữ an toàn
      Ném tung chẳng vỡ như nồi đất
      Quăng bừa xó bếp vẫn nằm ngang
      Tốt đẹp đâu cần danh tiếng hão
      Bạn cùng lửa đỏ, nóng chang chang”

      Phải!
      Lửa to mới biết sáp hay vàng!
      Em hãy là vàng,
      Mặc ai chọn sáp!
      Tôi vui sướng cùng em
      Yêu giấc “Ngủ đồng
      Hiên ngang khí phách:

      “Sách truyền sướng nhất chức Quận công
      Ta sướng khi ra ngủ giữa đồng
      Lồng lộng trời hè muôn làn gió
      Đêm thanh sao sang mát thu không
      Nằm ngữa ung dung như khanh tướng
      Lấy mấy vần thơ tỏ nỗi lòng
      Tinh tú bao quanh hồn thời đại
      Ngủ đồng khoan khoái ngắm gương trong”

      Tôi biết chí em khi “Qua đèo Ngang
      Ung dung xướng họa với người anh hùng
      Đã làm quân thù khiếp sợ:

      “Ta đi qua đèo Ngang
      Cũng gặp Người trèo qua núi hiểm
      Đỉnh dốc chênh vênh
      Xe mù bụi cuốn
      Có lẽ thiên nhiên đã định bao giờ
      Một dãy Hoành Sơn bát ngát trận đồ
      Điệp điệp núi cao
      Trùng trùng rừng thẳm.
      Người thấy
      Súng gác trời xanh
      Gió lùa biển lớn
      Nông dân rộn rịp đường vui
      Thanh Quan nàng nhẽ có hay
      Cảnh mới đã thay cảnh cũ.
      Ta hay
      Máu chồng đất đỏ
      Mây cuốn dặm khơi
      Nhân công giọt giọt mồ hôi
      Hưng Đạo thầy ơi có biết
      Người nay nối chí người xưa

      Tới đây
      Nước biếc non xanh
      Biển rộng gió đùa khuấy nước
      Đi nữa
      Đèo sâu vực thẳm
      Núi cao mây giỡn chọc trời
      Nhớ thù nhà, luống thẹn làm trai
      Thương dân nước, thà sinh phận gái
      “Hoành Sơn cổ lũy”
      Hỏi đâu dấu tích phân tranh?
      Chỉ thấy non sông
      Lốc cuốn, bốn phương sấm động.
      Người vì việc nước ra đi
      Ta muốn cứu dân nên thăm trận thế
      Điều không hẹn mà xui gặp mặt
      Vô danh lại gặp hữu danh
      Cuộc đời dài ắt còn sẽ gặp nhau
      Nay hội ngộ giữa đỉnh cao trời đất
      Anh em ta ngự trên xe đạp
      Còn Người thì lại đáp com măng
      Đường xuyên sơn
      Anh hùng gặp anh hùng
      Nhìn sóng biển Đông
      Như ao trời dưới núi.

      Xin kính chào
      Bậc anh hùng tiền bối
      Ta ngưỡng mộ Người
      Và tỏ chí với non sông
      Mẹ hiền ơi!
      Tổ Quốc ơi!
      Xin tiếp bước anh hùng!”

      Hãy cố lên em!
      Noi gương danh nhân mà lập chí
      Ta với em
      Mình hãy kết thành đôi tri kỷ!
      Đất Quảng Trạch này đâu kém Nam Dương
      Tôi tự hào bài “Tỏ chí” của em:

      “Quốc Tuấn ngày xưa chí vững bền
      Thù nhà, nợ nước chẳng hề quên
      Đến bữa quên ăn, đêm quên ngủ
      Thương dân, yêu nước quyết báo đền
      Văn hay thu phục muôn người Việt
      Võ giỏi kinh hồn lũ tướng Nguyên
      Mươi năm sau nữa ơi ông Tuấn
      Nối chí ông, nay cháu tiến lên!”

      Tôi thương mến em
      Đã chịu khó luyện rèn
      Biết HỌC LÀM NGƯỜI !
      Học làm con hiếu thảo.
      Mười lăm tuổi đã “Tập làm thầy giáo

      “Vui gì hơn buổi đầu làm thầy giáo
      Của lớp vở lòng đất mẹ yêu thương
      Trưa nắng luyến các em cùng đến lớp
      Giọng líu lo như chim hót ven đường.

      Đứng trước các em tuổi nhỏ đáng yêu
      Mà đã tưởng tới bao nhiêu người lớn
      Nghe em đọc giọng thanh thanh dễ mến

      Mà đã nghe đất nước xuyến xao mình!”|
      Tổ Quốc đang chờ em phía trước.
      Em ơi em, can đảm bước chân lên!

      LỜI THẦY LUÔN THEO EM
      Hoàng Kim
      tưởng nhớ thầy Nguyễn Khoa Tịnh

      Thầy thung dung bước lên bục giảng
      Buổi học cuối cùng “Tổng kết sử Việt Nam”
      Tiếng Thầy ấm trong từng lời nói
      Như muốn truyền cho các em
      Tất cả những niềm tin.

      Đôi mắt sáng lướt nhìn toàn bộ lớp
      Thầy có dừng trên khuôn mặt nào không ?
      Thầy có tin trong lớp còn ngồi học
      Có những em nung nấu chí anh hùng.

      Các em hiểu những gì
      Trong tim óc người Thầy
      Mái tóc đà điểm bạc
      Em biết Thầy tâm huyết rất nhiều
      Trên mười năm dạy học
      Vẫn canh cánh trong lòng
      Luôn tìm kiếm những người
      Có chí lớn
      và tấm lòng yêu nước
      thương dân.

      Mười năm
      Thức đo thời gian
      Dài như cả nỗi đau chia cắt
      Sương bạc thời gian phôi pha mái tóc
      Câu chuyện mười năm Đông Quan dạy học
      Hẳn nhiều đêm rồi
      Thầy nhớ Ức Trai xưa?

      Mười năm
      Trang lòng, trang thơ
      Nhớ tráng sĩ Đặng Dung đêm thanh mài kiếm
      Ôi câu thơ năm nào
      giữa lòng Thầy xao xuyến
      “Anh hùng lỡ vận ngẫm càng cay”

      Mười năm
      Dằng dặc thời gian
      Đo lòng Thầy nhớ miền Nam tha thiết
      Em tin trong lòng Thầy
      Luôn âm ỉ cháy lửa lòng yêu nước
      Thầy có tin rằng trong lớp
      Có người trò nghèo
      Chí nối Ức Trai xưa.

      “Dẫu đất này khi thịnh khi suy
      Song hào kiệt đời nào cũng có”

      Thầy giảng Đại cáo bình Ngô
      Liên hệ chuyện chân chúa Nguyễn Hoàng
      âm thầm tìm kiếm Đào Duy Từ …
      cũng như chuyện “Tam cố thảo lư”
      anh em Lưu Bị
      vượt núi thẳm, mưa tuyết, đường xa
      ba lần đến Long Trung
      tìm kiếm Khổng Minh Gia Cát
      tuổi chỉ đáng bằng tuổi con mình
      nhưng trọng dụng kỳ tài
      đã tôn làm quân sư cùng lo việc nước…

      Thầy kể chuyện Đào Duy Từ xưa
      Bậc khai quốc công thần nhà Nguyễn
      dựng nghiệp nhọc nhằn, người hiền lắm nạn
      cha mẹ chết oan, chiếc lá giữa dòng…
      Đào Duy Từ còn mãi với non sông:
      Người có công nghiệp lẫy lừng chẳng kém Ngọa Long
      Định Bắc, thu Nam, công đầu Nam tiến.
      Người tổ chức phòng ngự chiều sâu
      Hoành Sơn, Linh Giang, Lũy Thầy
      minh chúa, quân giỏi, tướng tài, ba tầng thủ hiểm
      Người xây dựng nên định chế đàng Trong
      một chính quyền rất được lòng dân
      nức tiếng một thời.
      Người viết nên kiệt tác Hổ trướng khu cơ,
      tuồng Sơn Hậu, nhã nhạc cung đình
      là di sản muôn đời.
      Trí tuệ bậc thầy, danh thơm vạn thuở …

      Thầy giảng về bài học lịch sử Việt Nam
      những người con trung hiếu
      tận tụy quên mình vì dân vì nước
      hẳn lòng Thầy cháy bỏng khát khao
      vượng khí non sông khí thiêng hun đúc
      Đất Quảng Trạch này đâu kém Nam Dương
      Có nông phu ham học, chăm làm
      Mà thao lược chuyển xoay thời vận.

      Ôi sử sách cổ kim bao nhiêu gương sáng
      Học sử ai người biết sử để noi?

      “Lịch sử dân tộc mình
      Những năm bảy mươi
      Các em sẽ là người viết tiếp
      Điểm theo thời gian
      Truyền thống ông cha xưa
      Oanh liệt vô cùng”

      Tiếng Thầy thiết tha
      Truyền nguồn cảm xúc
      Các em uống từng lời
      Lắng nghe từng chữ
      Lời tâm huyết thấm sâu vào lòng em:
      “Nung gan sắt để dời non lấp bể
      Xối máu nóng rửa vết nhơ nô lệ”
      Em đã tìm được trong Thầy
      Một người anh
      Một người đồng chí
      Em vững tin trong sự nghiệp cứu dân
      Hẳn có lòng Thầy luôn ở bên em!

      Thầy nói nhiều về Việt Nam thân yêu
      Dựng nước gian nan, người dân còn khổ
      Mắt Thầy thiết tha quá chừng
      Làm em mãi nhớ
      Thầy truyền cho chúng em niềm tin
      Đạo làm người, lòng yêu nước
      Em càng thấm thía vô cùng
      Vì sao những người có tâm huyết ngày xưa
      Những Chu Văn An, Nguyễn Bỉnh Khiêm,
      Nguyễn Thiếp, Phan Châu Trinh, …
      Đều yêu nghề dạy học.

      Tổ Quốc cần, gọi em về phía trước
      “Em ơi em, can đảm bước chân lên!”
      Em sẽ khắc trong lòng
      Những lời dạy đầu tiên!

      Lời Thầy luôn theo em.

      Lê Quang Vinh cùng với Ma Thi Len8 người khác.18 Tháng 11, 2017 ·

      HAI BÀI THƠ – MỘT TẤM LÒNG
      Lời dẫn của
      Lê Quang Vinh

      Tôi là lứa học trò gần như “đầu đời’’ của cụ Nguyễn Khoa Tịnh. Ông dạy môn Lịch sử hai năm tôi học ở lớp 8C và lớp 9B (các năm 1964 – 1966, tại Trường Cấp 3 Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình). Tôi nhớ, hồi ấy Thầy giáo chưa… “làm thơ”; hoặc có làm nhưng không thấy đọc cho học trò nghe bao giờ.

      Tôi hơn Hoàng Kim (FB “Hoàng Kim“) 6 tuổi. Em là lứa lớp sau tôi mấy khóa. Nhưng hai anh em may mắn, đều được thụ giáo (chịu sự dạy bảo) của thầy Nguyễn Khoa Tịnh.

      Như đã “bật mí” tại lời dẫn của tôi trong bài “MỘT BÀI THƠ HAY CỦA NGƯỜI CON TRAI LÀNG MINH LỆ – TIẾN SĨ NÔNG HỌC HOÀNG KIM” (Lê Quang Vinh): “Chàng trai này từ nhỏ tên “Hoàng Minh Kim”, đã ham đọc sách và làm thơ; cứ tưởng sau này sẽ theo nghiệp… văn chương”.

      Có lẽ thế, nên khi vừa vào học Cấp 3 Bắc Quảng Trạch, Hoàng Kim đã viết mấy bài thơ về thế giới quanh em; hoặc hoàn cảnh riêng của cá nhân mình… Em không thể ngờ được rằng, các bài thơ vô tư, hồn nhiên đó; lại có thể lọt ngay vào đôi “mắt xanh” của người thầy dạy Sử này. Đấy là “duyên thơ” của cả hai thầy trò.

      Bài thơ “Em ơi em, can đảm bước chân lên” của cụ Nguyễn Khoa Tịnh chính là “họa lại” (tổng hợp, khuếch tán, nhân lên tình ý) từ cảm hứng đột nhiên khi đọc được thơ cậu học trò nhỏ của mình, gồm 6 bài thơ: “Bụng đói”, “Cái chảo rang”, “Ngủ đồng”, “Qua đèo Ngang”, “Tỏ chí”, “Tập làm thầy giáo”.

      Điều thú vị là, trong bài thơ “Em ơi em, can đảm bước chân lên”, Ông giáo dùng nguyên văn nhiều câu thơ, đoạn thơ và cả bài thơ của Hoàng Kim – thủ pháp rất hiếm khi phải dùng tới hoặc khá “tối kỵ” trong sáng tạo nghệ thuật. Thế mà Thầy lại cố ý, dụng công vô cùng, để biến nó thành những câu thơ, đoạn thơ thống nhất, nhuần nhị trong cả bài thơ một cách hợp lý; khiến chất liệu thơ cùng giọng điệu, cấu tứ hòa quện nhau như… rút từ ruột gan của “chính mình’’ ra.

      Cụ Nguyễn Khoa Tịnh làm điều này một cách khéo léo qua những câu thơ “bình luận” thơ trò, để “kết dính” chúng với nhau. Qua các câu thơ “bình luận” ấy, nâng tầm “thi liệu” đang được sử dụng trong bài thơ mình.

      Đọc xong bài thơ, nếu không thật “chú ý”, khó lòng mà nhận ra đâu là… “thơ thầy”, đâu là… “thơ trò”. Đấy cũng là một “sự chơi” độc đáo của các bậc thi gia xưa…

      (1/ “Bụng đói”: cả bài 4 câu “tứ tuyệt”.
      2/ “Cái chảo rang”: cả bài 8 câu “thất ngôn”.
      3/ “Ngủ đồng”: cả bài 8 câu “thất ngôn”.
      4/ “Qua đèo Ngang”: cả bài 51 câu thể thơ “tự do”.
      5/ “Tỏ chí”: Cả bài 8 câu thất ngôn.
      6/ “Tập làm thầy giáo” cả bài 8 câu “bát ngôn”.).

      Chắc chắn khi Hoàng Kim nhận lại được bài thơ đầy ân tình của Thầy – hẳn đã vô cùng sung sướng, cảm động. Đó chính là nguồn hứng khởi lay động tâm hồn, trái tim người học trò còn rất bé nhỏ này; để rồi sáng tạo nên bài thơ mới lắng đọng hơn, sâu sắc hơn, lý trí hơn: “LỜI CỦA THẦY THEO MÃI BƯỚC EM ĐI”.

      Nhân ngày Nhà giáo Việt Nam, LQV xin gửi đến bạn đọc hai bài thơ – thực chất là cùng một tấm lòng yêu thương (“Tất cả vì học trò thân yêu” của người thầy và đạo lý “Tôn sư trọng đạo” của cậu học trò); nó thực sự thấm đẫm tình thầy trò của cụ Nguyễn Khoa Tịnh và người học trò xưa của ông – nay đã là Nhà nông học, Tiến sĩ Hoàng Kim – đúng như kỳ vọng cùng tiên đoán của mình.

      Hà Nội, 16 giờ 04′ – ngày 18/11/2017

      LQV,

      KimCIMMYT1

      CIMMYT TƯƠI RÓI KỶ NIỆM
      Hoàng Kim

      Nhớ xưa leo đỉnh đèo Ngang
      Để nay xuôi ngược dọc ngang xứ người
      Mê xi cô tựa cổng trời (*)
      Đường xuôi về biển bồi hồi nhớ qu&eciXem tiếp >>

        Dạy và học 17 tháng 11(17-11-2021)

       

       

      Thác nước Victoria châu Phi trên sông Zambezi, nằmbiên giới Zambia và Zimbabwe

       

       

      DẠY VÀ HỌC 17 THÁNG 11
      Hoàng Kim
      CNM365 Tình yêu cuộc sống Minh triết sống phúc hậu; Thầy bạn là lộc xuânKho báu đỉnh Tuyết Sơn; Cây Lương thực Việt Nam; Hoa Lúa giữa Đồng Xuân; Con đường lúa gạo Việt; Có một ngày như thế; Về miền Tây yêu thương; Một niềm tin thắp lửa; Thế giới trong mắt ai; Vầng đá chốn đại ngàn; Đất Quảng hồn sông núi; Nhớ kỷ niệm một thời; Thác nước Victoria di sản kỳ quan thiên nhiên thế giới(hình) do UNESCO công nhận năm 1989 trên sông Zambezi, nằm giữa biên giới Zambia và Zimbabwe tại miền nam châu Phi. Thác nước này được xem là một trong những thác nước lớn nhất và đẹp nhất thế giới được giới thiệu bởi  David Livingstone, nhà truyền giáo và thám hiểm người Scotland châu Âu vào ngày 16 tháng 11 năm 1855.  Ngày 17 tháng 11 năm 1950, Đạt Lai Lạt Ma14 Tenzin Gyatso chính thức xử lý sự vụ chính trị và tôn giáo ở tuổi 15. Đạt Lai Lạt Ma14 là nhà lãnh đạo tôn giáo nổi tiếng thế giới, được coi là một trong ba thánh nhân người châu Á của thế kỷ thứ 20 cùng với cố thi hào Rabindranath Tagore (1861–1941) và Mahātma Gandhi (1869–1948) người Ấn Độ . Ngày 17 tháng 11 năm 1869 ở Ai Cập kênh đào Suez nối Địa Trung Hải với Vịnh đỏ đã được khai thông; Bài viết chọn lọc ngày 17 tháng 11: Minh triết sống phúc hậu; Thầy bạn là lộc xuânKho báu đỉnh Tuyết Sơn; Cây Lương thực Việt Nam; Hoa Lúa; Con đường lúa gạo Việt; Có một ngày như thế; Về miền Tây yêu thương; Một niềm tin thắp lửa; Thông tin tại:  https://hoangkimvn.wordpress.comhttp://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-17-thang-11/;

       

       

       

       

      CÂY LƯƠNG THỰC VIỆT NAM

      Cây Lương thực Việt Nam#CLTVN chủ yếu có lúa ngô, sắn, khoai. Ẩm thực Việt, nguồn thức ăn đồ uống Việt (Food & Drink) bao gồm gạo ngô, sắn, khoai, cây đậu đỗ thực phẩm, rau hoa quả, thịt, cá, … Dạy và học cây lương thực ngày nay ngày càng đòi hỏi sự hiểu biết chuyên sâu và có sự kết nối liên ngành, nâng cao sự liên kết hiệu quả sản xuất chế biến cung ứng tiêu thụ sản phẩm thành chuỗi giá trị ngành hàng. Mục tiêu nhằm.nâng cao giá trị chất lượng cuộc sống của người dân, tỏa sáng Việt Nam đất nước con người ra Thế giới về giống cây lương thực Việt, thương hiệu Việt, hiệu sách Việt, sinh thái nông nghiệp, ẩm thực, ngôn ngữ, lịch sử văn hóa Việt Nam.

       

       

       

       

      Một số sản phẩm Cây Lương thực Việt Nam thương hiệu Nông Lâm được nghiên cứu phát triển, trồng phổ biến trong sản xuất những năm qua, là lời biết ơn chân thành của các tác giả với Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh nhân kỷ niệm 65 năm ngày thành lập (19/11/1955-19/11/2020), Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Việt Nam đường tới IAS 100 năm (1925-2025) với thầy bạn và đông đảo nông dân. Bài viết này giới thiệu một số đúc kết tư liệu liên quan.dạy và học Cây Lương thực Việt Nam giúp bạn đọc tiện theo dõi.

       

       

       

       

      MINH TRIẾT SỐNG PHÚC HẬU
      Hoàng Kim


      Bản chất cuộc sống là hạnh phúc và đau khổ, vui vẻ và phiền muộn, sự thiếu hoàn thiện và vô thường. Minh triết của đời người hạnh phúc là biết sống thung dung, phúc hậu, thanh thản, an nhiên tự tại, nhận ra kho báu vô giá của chính mình, không lo âu, không phiền muộn, sống với tinh thần dịu hiền và trái tim nhẹ nhõm.

      Bài giảng đầu tiên của Phật

      Tứ Diệu đế, Sự khổ: Nguyên nhân, Kết quả và Giải pháp, là bài giảng đầu tiên của Phật (Thích ca Mầu ni Siddhartha Gamtama), nhà hiền triết phương đông cổ đại. Người là hoàng tử Ấn Độ, đã có vợ con xinh đẹp nhưng trăn trở trước sự đau khổ, thiếu hoàn thiện và vô thường (Dukkha) của đời người mà Phật đã xuất gia vào năm hai mươi chín tuổi để đi tìm sự giác ngộ. Người đã dấn thân suốt sáu năm trời, tự mình đi tìm kiếm những vị hiền triết nổi tiếng khắp mọi nơi trong vùng để học hỏi và thực hành những phương pháp khác nhau nhưng vẫn chưa đạt ngộ. Cho đến một buổi chiều ngồi dưới gốc bồ đề, thốt nhiên Người giác ngộ chân lý mầu nhiệm lúc ba mươi lăm tuổi. Sau đó, Người đã có bài giảng đầu tiên cho năm người bạn tu hành. Mười năm sau, Phật thuyết pháp cho mọi hạng người và đến 80 tuổi thì mất ở Kusinara (Uttar Pradesh ngày nay). Học thuyết Phật giáo hiện có trên 500 triệu người noi theo.

      Bài giảng đầu tiên của Phật là thấu hiểu sự khổ (dukkha), nguyên nhân (samudaya), kết quả (nirodha) và giải pháp (magga). Tôn giáo được đức Phật đề xuất là vụ nổ Big Bang trong nhận thức, san bằng mọi định kiến và khác hẵn với tất cả các tôn giáo khác trước đó hoặc cùng thời trong lịch sử Ấn Độ cũng như trong lịch sử nhân loại. Phật giáo chủ trương bình đẳng giai cấp, bình đẳng giữa con người có máu cùng đỏ, nước mắt cùng mặn, hết thảy các pháp là vô ngã. Mục đích là vô ngã là sự chấm dứt đau khổ và phiền muộn để đạt sự chứng ngộ bất tử, Niết bàn.

      Kinh Phật với triết lý vô ngã: Chân lý là suối nguồn, chứ không phải là con người thần thánh hoặc chân lý tuyệt đối. Vị trí độc đáo của Phật giáo là một học thuyết mang đầy đủ tính cách mạng tư tưởng và cách mạng xã hội. Tiến sĩ triết học Walpola Rahula là giáo sư Trường Đại học Tổng hợp Ceylan (Pháp) đã tìm tòi văn bản cổ và giới thiệu tài liệu nghiêm túc, đáng tin cậy này (Lời Phật dạy. Lê Diên biên dịch).

       

       

       

       

      Trúc Lâm Yên Tử, Trần Nhân Tông

      Trần Nhân Tông (Trần Khâm 1258- 1308) là vua Phật đời Trân (sau vua cha Trần Thánh Tông và trước vua Trần Anh Tông). Người là tổ sư Trúc Lâm Yên Tử, nhà chiến lược kỳ tài, nhà văn hóa kiệt xuất, nhà thơ lớn và Con Người Hoàn Hảo của dân tộc Việt Nam. Người đã viết: Cư trần lạc đạo, triêt lý nhân sinh rất nổi tiếng “Ở đời vui đạo, mặc tùy duyên/ Hễ đói thì ăn, mệt ngủ liền/ Kho báu trong nhà thôi tìm kiếm/ Vô tâm đối cảnh hỏi chi thiền.”

      Trần Nhân Tông với 50 năm cuộc đời đã kịp làm được năm việc lớn không ai sánh kịp trong mọi thời đại của tất cả các dân tộc trên toàn thế giới: Minh quân lỗi lạc, làm vua 15 năm (1278 – 1293) trực tiếp lãnh đạo cuộc kháng chiến hai lần đánh thắng quân Nguyên Mông là đội quân xâm lược hùng mạnh nhất thế giới của thời đó; Vua Phật Việt Nam, tổ sư thiền phái Trúc Lâm Yên Tử và Thái Thượng Hoàng 15 năm (1294-1306). Nhà văn hóa và nhà thơ kiệt xuất với thắng tích Trúc Lâm Yên Tử và kiệt tác Trần Nhân Tông còn mãi với thời gian, hoàn thành sư mệnh của bậc chuyển pháp luân, mang sự sống trường tồn vươt qua cái chết; Người Thầy của chiến lược vĩ đại yếu chống mạnh, ít địch nhiều bằng thế đánh tất thắng “vua tôi đồng lòng, toàn dân đồng sức”tạo lập sự nghiệp mở nước và thống nhất non sông Việt, mở đất phương Nam bằng vương đạo, thuận thời, thuận người; Con người hoàn hảo, đạo đức trí tuệ, kỳ tài trị loạn, đã hưng thịnh nhà Trần và cứu nguy cho nước Việt tại thời khắc đặc biêt hiểm nghèo, chuyển nguy thành an, biến những điều không thể thành có thể.

      Giáo sư sử học Trần Văn Giàu nhận định: “… chưa tìm thấy lịch sử nước nào có một người đặc biệt như Trần Nhân Tông ở Việt Nam. Tại nước Tàu lúc bấy giờ Triều đình nhà Tống rất hùng mạnh nhưng quân Nguyên Mông đã tràn xuống đánh thắng thần tốc, đến nỗi vua quan nhà Tống phải chạy ra biển và nhảy xuống biển tự vẫn. Tại Tây Á, Trung Á và một phần châu Âu cũng thua thảm hại, đến nỗi Giáo hoàng La Mã cũng lên tiếng sợ hãi. Trong lúc ấy Việt Nam so với phương Bắc thì quá nhỏ bé và quá nghèo yếu, thế mà Người dám không cho Nguyên Mông mượn đường xâm lược Chiêm Thành. Lại còn đánh bại ba lần Nguyên Mông xâm lược. Sau khi thắng giặc, Người lại lên núi sống. Người dám nghĩ, dám làm những việc không ai dám nghĩ chứ đừng nói đến làm”

      Phật giáo Khoa học và Việt Nam

      Nhà bác học Anhstanh, cha đẻ của Thuyết tương đối, đã nhận định: “Nếu có một tôn giáo nào đương đầu với các nhu cầu của khoa học hiện đại thì đó là Phật giáo. Phật giáo không cần xét lại quan điểm của mình để cập nhật hóa với những khám phá mới của khoa học. Phật giáo không cần phải từ bỏ quan điểm của mình để xu hướng theo khoa học, vì Phật giáo bao hàm cả khoa học cũng như vượt qua khoa học” . “Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo toàn cầu, vượt lên trên mọi thần linh, giáo điều và thần học. Tôn giáo ấy phải bao quát cả phương diện tự nhiên lẫn siêu nhiên, đặt trên căn bản của ý thức đạo lý, phát xuất từ kinh nghiệm tổng thể gồm mọi lĩnh vực trên trong cái nhất thể đầy đủ ý nghĩa. Phật giáo sẽ đáp ứng được các điều kiện đó” . “Khoa học mà thiếu tôn giáo là khập khiễng. Tôn giáo mà không có khoa học thì mù quáng” . Cả ba câu này đều được trích từ Những câu nói nổi tiếng của Anhstanh (Collected famous quotes from Albert), và được dẫn lại trong bài Minh triết sống thung dung phúc hậu của Hoàng Kim

      Khoa học và thực tiễn giúp ta tìm hiểu những phương pháp thực tế để thể hiện ước mơ, mục đích sống của mình nhằm sống yêu thương, hạnh phúc,vui khỏe và có ích. Đọc rất kỹ lại Ki tô giáo, Hồi giáo,Do Thái giáo,Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo, … và chiêm nghiệm thực tiễn , tôi thấm thía câu kinh Phật với triết lý vô ngã: Chân lý là suối nguồn chứ không phải là con người thần thánh hay chân lý tuyệt đối. Trúc Lâm Yên Tử Trần Nhân Tông có minh triết: Hãy quay về tự thân chứ không tìm ở đâu khác. Luật Hấp Dẫn, Thuyết Tương đối, Thành tựu Khoa học và Thực tiễn giúp ta khai mở nguồn năng lượng vô tận của chính bản thân con người và thiên nhiên. Đó là ba ngọn núi cao vọi của trí tuệ, là túi khôn của nhân loại. Bí mật Tâm linh (The Meta Secret) giúp ta khám phá sâu sắc các quy luật của vũ trụ liên quan đến Luật Hấp Dẫn đầy quyền năng. Những lời tiên tri của các nhà thông thái ẩn chứa trong Kinh Vệ đà, Lời Phật dạy, Kinh Dịch, Kinh Thánh, Kinh Koran …, cũng như xuyên suốt cuộc đời của những con người vĩ đại trên thế giới đã được nghiên cứu, giải mã dưới ánh sáng khoa học; Bí mật Tâm linh là sự khai mở những nguồn năng lượng vô tận của chính bản thân mỗi con người đối với đồng loại, các loài vật và thiên nhiên. Suối nguồn chân lý trong di sản văn hóa, lịch sử, giáo dục, kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao của mỗi dân tộc và nhân loại lưu giữ nhiều điều sâu sắc cần đọc lại và suy ngẫm.Qua đèo chợt gặp mai đầu suối. Gốc mai vàng trước ngõ.

      Việt Nam là chốn tâm thức thăm thẳm của đạo Bụt (Phật giáo) trãi suốt hàng nghìn năm. Lịch sử Phật giáo Việt Nam theo sách Thiền Uyển tập anh xác nhận là đạo Phật được truyền trực tiếp từ Ấn Độ theo đường biển vào Việt Nam, gồm Giao Chỉ ở phía bắc và Chăm pa ở phía nam, khoảng thế kỉ thứ ba đến thế kỉ thứ hai trước Công nguyên, chứ không phải từ Trung Hoa như một số quan niệm trước đây. Phật giáo đồng hành chung thủy, lâu bền với dân tộc Việt, dẫu trãi nhiều biến cố nhưng được dẫn dắt bởi những nhà dẫn đạo sáng suốt và các đấng minh vương, lương tướng chuộng nhân ái của các thời nên biết thể hiện sự tốt đạo, đẹp đời. Việt Nam là nước biết tiếp thu, chắt lọc tri thức tinh hoa của nhân loại, chuộng sự học, đồng thời biết quay về với tự thân tổng kết thực tiễn, chứ không tìm ở đâu khác.

      Phật giáo, Khoa học và Việt Nam là ba học hỏi và nhận thức căn bản của tôi.

      Bản chất cuộc sống là hạnh phúc và đau khổ, vui vẻ và phiền muộn, sự thiếu hoàn thiện và vô thường. Minh triết của đời người hạnh phúc là biết sống thung dung, phúc hậu, thanh thản, an nhiên tự tại, nhận ra kho báu vô giá của chính mình, không lo âu, không phiền muộn, sống với tinh thần dịu hiền và trái tim nhẹ nhõm.

       

       

       

       

      THẦY BẠN LÀ LỘC XUÂN
      Hoàng Kim

      “Lấy anh em biết ăn gì …” (1)
      “Lộc sắn thì chát, lộc si thì già” (2)
      Cà phê, khoai nướng và hoa
      Hoa Người, Hoa Đất, mình là cây xanh.

      Thân chúc sức khỏe hạnh phúc những Thầy bạn là lộc xuân của HK nhân tuần Ngày Nhà giáo Việt Nam. Ghi chú: 1) Hoàng Đình Quang bạn tôi 2) Can Ha . Đọc tiếp tại Thầy bạn là lộc xuân tại đây http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-17-thang-11/

       

       

      DinhTuyetSon

       

       

      KHO BÁU ĐỈNH TUYẾT SƠN
      Hoàng Kim

      Bí mật kho báu trên đỉnh Tuyết Sơn bài của Hoàng Kim được chú ý trên trang Nghiên cứu lịch sử ngày 1.8. 2016. Những hé lộ về bí mật kho báu trên núi Tuyết đã giúp tư liệu đánh giá ba vấn đề lớn tồn nghi trong lịch sử: 1) Ngoại giao thời vua Càn Long với nhà Tây Sơn. 2) Lý Tự Thành và kho báu nhà Minh. 3) Vì sao Trung Quốc quyết không cho Tây Tạng tự trị?.

      Tuyết Sơn phi hồ là bộ tiểu thuyết đầu tiên trong 14 bộ tiểu thuyết nổi tiếng của nhà văn Kim Dung, một trong ba văn hào được nhiều người đọc nhất của Trung Quốc đương đại. Kim Dung, Vương Mông, Mạc Ngôn bạn thích ai? câu hỏi này thuộc về sự đánh giá của bạn. Nhưng dẫu bạn thích ai thì Kim Dung vẫn là một trong những ngọn Tuyết Sơn hùng vĩ của nền văn học Trung Hoa và thế giới. Vượt lên mọi sự khen chê, Tuyết Sơn phi hồ là một trong những đỉnh cao văn chương Trung Hoa và Thế Giới được nhiều nhà văn tài năng ao ước chinh phục và đã được chuyển thể nghệ thuật điện ảnh.

      Đỉnh Everest và truyện Tuyết Sơn phi hồ

      Đỉnh Everest (còn gọi là đỉnh Chomolungma) là nóc nhà cao vọi của thế giới. Đây là đỉnh núi cao nhất Trái Đất với độ cao 8848 mét so với mực nước biển. Đỉnh Everest thuộc biên giới giữa Nepal và Tây Tạng (Trung Quốc) là nơi được nhiều người leo núi mơ ước khám phá. Đỉnh Everest được Andrew Scott Waugh, người Anh, tổng trưởng quan trắc của Ấn Độ đặt tên tiếng Anh là Everest. Ông viết: …”Tôi được Ngài đại tá George Everest quan cấp trên và là người tiền nhiệm đáng kính của tôi, dạy rằng cần đặt cho mỗi đối tượng địa lý bằng tên địa phương hoặc tên riêng thổ ngữ xứ đó. Ngọn núi này có lẽ là ngọn núi cao nhất thế giới, nhưng không có tên địa phương hoặc tên riêng thổ ngữ nào mà chúng tôi biết đến, mà nếu như được biết đến, thì cũng không biết là đến khi nào mới chắc chắn trước khi chúng tôi được cho phép đi xuyên qua Nepal… Tạm thời tôi xin mạn phép đặt tên… một cái tên mà sẽ được biết đến giữa các công dân và trở thành một từ thông dụng giữa các quốc gia văn minh.

      Đỉnh Everest tiếng Tây Tạng gọi  là Chomolangma  (Thánh mẫu của vũ trụ), tiếng Trung Quốc gọi là Thánh Mẫu Phong “đỉnh núi của Thánh mẫu” do phiên âm từ tiếng Tây Tạng. Đỉnh Everest tiếng Nepan dịch nghĩa được gọi là “trán trời”.

      Bạn có thể tìm thấy danh sách những người lên đến đỉnh của nóc nhà thế giới Edmund Hillary và Tenzing Norgay trở thành những người đầu tiên lên đến đỉnh Everest ngày 29 tháng 5 năm 1953,  Junko Tabei người Nhật là phụ nữ đầu tiên trên đỉnh núi vào 16 tháng 5 năm 1975; Erik Weihenmayer là người mù đầu tiên leo tới đỉnh của Everest ngày 25 tháng 5 năm 2001. Trước ngày 29 tháng 5 năm 1953 và từ ngày đó đến nay đã có nhiều người mạo hiểm chinh phục đỉnh núi Tuyết nhưng nhiều người không trở về.

      Mai Lý tuyết sơn (Meili Xue Shan) là dãy núi ở Khu tự trị dân tộc Tạng Địch Khánh, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc. Đỉnh Kawagebo cao 6.740 mét, trên dãy núi trùng điệp này, nằm ở huyên lỵ Đức Khâm, của biên giới Tây Tạng, Địch Khánh và gần biên giới với Myanma . Đỉnh núi Kawagebo tuy thấp hơn đỉnh Everest nhưng cho đến nay vẫn chưa có ai leo đến tới đỉnh mà không thiệt mạng, do hiểm trở với sáu ngọn núi cao hơn 6000 m tuyết phủ vĩnh cữu.

      Tuyết Sơn phi hồ  (Flying Fox of Snowy Mountain) là bộ tiểu thuyết võ hiệp đầu tay của Kim Dung  đăng trên Minh báo năm1959,  Phi hồ ngoại truyện được viết năm 1960 (sau Tuyết Sơn Phi Hồ một năm) kể về điển tích võ học tinh hoa của Hồ Phỉ nhân vật chính truyện. Tuyết Sơn phi hồ là bộ sách đầu tiên và Lộc Đỉnh Ký là bộ sách cuối cùng tâm đắc nhất của Kim Dung. Ông nói rằng ông gửi gắm những điều vi diệu tâm đắc nhất của ông vào hai bộ sách khai tập và kết thúc này. Tôi e rằng những người đọc và hiểu hết những điều thâm hậu của ông là không nhiều.

      Tuyết Sơn phi hồ  kể lại câu chuyện tranh giành bảo đao Thiên Long của Sấm Vương  Lý Tự Thành  vào năm Càn Long thứ 48 thời nhà Thanh, thực chất là sự tranh giành kho báu trên đỉnh núi Tuyết.

      Nguồn gốc câu chuyện khởi đầu khi Lý Tự Thành thất bại ở Bắc Kinh phải rút về núi Cửu Cung và bị vây. Ông cùng bốn cận vệ thân tín, võ công cao cường là Hồ, Miêu, Phạm, Điền chôn giấu kho báu trên Ngọc Bút Sơn của đỉnh núi Tuyết, bí mật chìa khóa kho báu giấu ở thanh bảo đao Thiên Long và cây trâm của Ngọc Lan. Sau khi ba người Miêu, Phạm, Điền phá vây đi cầu viện binh trở về thì  Lý Tự Thành mất tích, người họ Hồ, ngoại hiệu Phi thiên hồ ly, đã trá hàng Ngô Tam Quế để mưu cứu Lý Tự Thành, nhưng bị ba người em hiểu lầm và ám hại. Ông cam chịu chết mà không chống trả.

      Câu chuyện ân oán giữa con cháu họ kéo dài đến năm 48 thời Càn Long nhà Thanh  với Phúc Khang An. Nhân vật võ lâm lẫy lừng danh tiếng Miêu Nhân Phụng “đi khắp thiên hạ không có ai địch thủ” đã chấp nhận quyết đấu với Tuyết Sơn Phi Hồ ngoại hiệu của  Hồ Phỉ trẻ tuổi tài cao danh chấn Tuyết Sơn. Câu chuyện về họ là một khúc ca bi tráng với một thiên tình sử cảm động.

      Năm 2007, một đoạn trích trong tác phẩm này đã được đưa vào chương trình sách giáo khoa môn ngữ văn tại Trung Quốc, thay thế AQ chính truyện, đã gây nên nhiều dư luận rất khác nhau.
      MaotrennuiTuyet

      Trung Quốc đang muốn vẽ lại biểu tượng người Trung Hoa mới thay thế  AQ.

      Hình tượng Mao Trạch Đông thời trẻ nay sừng sững trên núi Tuyết khiến người ta liên tưởng trận đấu sinh tử của Hồ Phỉ tuổi trẻ anh hùng nghĩa hiệp và nhân ái trên đỉnh Tuyết Sơn. Mao Trạch Đông có bài thơ Tuyết – Thẩm Viên Xuân – mô tả về núi sông hùng vĩ , đánh giá về hào kiệt các thời của đất nước Trung Hoa và bài thơ Côn Lôn – Niệm Nô Kiều – chính là ngầm ý nói về sự hùng vĩ của Tuyết Sơn và hùng tâm tráng khí cách mạng của ông cải tạo Trung Hoa và Thế Giới

      TUYẾT
      Mao Trạch Đông

      Cõi bắc xinh thay
      Nghìn dặm băng dày
      Vạn dặm tuyết gieo
      Ngắm Trường Thành bát ngát
      Trong, ngoài trắng dải
      Đại Hà trên, dưới
      Bỗng sóng ngừng reo
      Núi: rắn bạc vờn
      Gò: voi sáp ruổi
      Muốn thách trời ai kẻ thấp cao
      Khi trời hửng
      Ánh hồng lồng ánh bạc
      Rất đỗi yêu kiều

      Non sông xinh đẹp dường bao
      Khiến vô số anh hùng cúi rạp theo
      Tiếc Tần hoàng, Hán Vũ
      Kém phần văn vẻ
      Đường tông, Tống tổ
      Thiếu mực phong tao
      Khét tiếng một thời
      Thành Cát Tư Hãn
      Chỉ biết giương cung bắn ó, diều
      Xưa đã khuất
      Nhìn trời nay hẳn thấy
      Nhân vật phong lưu.

      (bản dịch của Hoàng Trung Thông, Nam Trân)

      Nguyên văn chữ Hán
























      Xem tiếp >>

        Dạy và học 16 tháng 11(16-11-2021)


      DẠY VÀ HỌC 16 THÁNG 11
      Hoàng Kim
      CNM365 Tình yêu cuộc sốngCon đường Hồ Chí Minh; Cây Lương thực Việt Nam; #CLTVN; Hoa Lúa giữa Đồng Xuân; Con đường lúa gạo Việt; Có một ngày như thế; Về miền Tây yêu thương; Một niềm tin thắp lửa; Kiệt tác của tâm hồn; 500 năm nông nghiệp Brazil;Ngọc lục bảo Paulo Coelho; Chốn vườn thiêng cổ tích; Praha Goethe và lâu đài cổ; Ngày 16 tháng 11 năm 1945 là ngày thành lập Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hiệp Quốc (UNESCO). Ngày 16 tháng 11 năm 1994 Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển bắt đầu có hiệu lực sau 12 năm từ khi bắt đầu được ký kết. Ngày 16 tháng 11 năm 1892 ngày sinh Quách Mạt Nhược, người Lạc Sơn, Tứ Xuyên là nhà văn Trung Quốc (mất năm 1978), nhà thơ, nhà sử học danh tiếng, nhà soạn kịch, nhà hoạt động xã hội Trung Quốc. Ông từng làm hiệu trưởng Trường nghệ thuật mang tên Lỗ Tấn; Bài viết chọn lọc ngày 16 tháng 11: Con đường Hồ Chí Minh; Cây Lương thực Việt Nam; #CLTVN; Hoa Lúa giữa Đồng Xuân; Con đường lúa gạo Việt; Có một ngày như thế; Về miền Tây yêu thương; Một niềm tin thắp lửa; Kiệt tác của tâm hồn; 500 năm nông nghiệp Brazil;Ngọc lục bảo Paulo Coelho; Chốn vườn thiêng cổ tích; Praha Goethe và lâu đài cổ; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-16-thang-11/;

      CON ĐƯỜNG HỒ CHÍ MINH
      Hoàng Kim

      Vầng đá chốn đại ngàn
      Rượu cần nơi bản vắng
      Câu cá bên dòng Sêrêpôk
      Tắm tiên Chư Yang Sin

      Đến với Tây Nguyên mới
      Con đường Hồ Chí Minh

      xem tiếp
      Minh triết Hồ Chí Minhhttps://hoangkimlong.wordpress.com/category/minh-triet-ho-chi-minh/ Thơ viết ngày đại đoàn kết dân tộc. Nhớ lời dặn của Bác. Con đường Hồ Chí Minhhttps://hoangkimlong.wordpress.com/category/con-duong-ho-chi-minh/

      QUẢNG BÌNH VỚI TRƯỜNG SƠN
      Hoàng Kim

      Quảng Bình đất và người
      Quê Mẹ vùng di sản
      Hoành Sơn với Linh Giang
      Cao Biền trong sử Việt

      Quảng Bình với Trường Sơn
      Linh Giang sông quê hương
      Con đường Hồ Chí Minh
      Nam tiến của người Việt

      Linh Giang Đình Minh Lệ
      Đá Đứng chốn sông thiêng
      Bến Lội Đền Bốn Miếu
      Nguồn Son nối Phong Nha

      Đào Duy Từ còn mãi
      Huế có Thiên Thụ Sơn
      Lời dặn của Thánh Trần
      Ta về với Linh Giang

      xem tiếp 16 đường dẫn Quảng Bình với Trường Sơn, câu chuyện vàng kỳ thú, tôi còn nợ chưa xong https://hoangkimlong.wordpress.com/category/quang-binh-voi-truong-son/Con đường Hồ Chí Minh https://hoangkimlong.wordpress.com/category/con-duong-ho-chi-minh/

      CÂY LƯƠNG THỰC VIỆT NAM

      Một số sản phẩm Cây Lương thực Việt Nam thương hiệu Nông Lâm được nghiên cứu phát triển, trồng phổ biến trong sản xuất những năm qua, là lời biết ơn chân thành của các tác giả với Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh nhân kỷ niệm 65 năm ngày thành lập (19/11/1955-19/11/2020), Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Việt Nam đường tới IAS 100 năm (1925-2025) với thầy bạn và đông đảo nông dân. Bài viết này giới thiệu một số đúc kết tư liệu liên quan.dạy và học Cây Lương thực Việt Nam giúp bạn đọc tiện theo dõi.

      Cây Lương thực Việt Nam chủ yếu có lúa ngô, sắn, khoai. Cây đậu đỗ thực phẩm và rau hoa quả cũng là ẩm thực Việt, nguồn thức ăn đồ uống Việt (Food & Drink), chất lượng cuộc sống Việt. Dạy và học cây lương thực ngày càng đòi hỏi sự hiểu biết chuyên sâu và có sự kết nối liên ngành, nâng cao sự liên kết hiệu quả sản xuất chế biến cung ứng tiêu thụ sản phẩm thành chuỗi giá trị ngành hàng. Mục tiêu nhằm.nâng cao giá trị chất lượng cuộc sống người dân, khoa học nghệ thuật ẩm thực văn hóa Việt, tỏa sáng đất nước con người Việt Nam ra Thế giới về giống cây lương thực Việt, thương hiệu Việt, hiệu sách Việt, bồi đắp tỏa sáng đất nước con người Việt Nam về sinh thái nông nghiệp, ẩm thực, ngôn ngữ, lịch sử văn hóa.

      HOA LÚA

      Bao năm Trường Viện là nhà
      Lúa ngô khoai sắn đều là thịt xương
      Một đời người một rừng cây
      Thầy ươm giống tốt để mai thành rừng.

      Con thăm Thầy lên non thiêng Yên Tử
      Về đất lành chùa Giáng giữa đồng xuân
      Thơm hương lúa ngậm đòng chăm bón đúng
      Ngát gương sen lồng lộng bóng trúc mai

      Biết ơn Thầy trọn đời thương hạt gạo
      Bưng bát cơm đầy, quý giọt mồ hôi
      Con xin được theo Người làm Hoa Lúa
      Hoa quê hương hạt ngọc trắng ngần.

      Lẫn với cỏ không tranh đua hương vị
      Không màng ngôi ngự trị các loài hoa
      Hoa Lúa đượm hồn quê dung dị
      Quên sắc hương để lộng lẫy Hoa Người ” (*)

      Con nguyện ước nối đời theo hạt gạo
      Chén cơm ngon thơm bếp lửa gia đình
      Thầy Trò cùng chung tay làm việc thiện
      Sống trọn tình với giấc mơ xanh.

      (*) Trích dẫn thơ Dương Phượng Toại

      CON ĐƯỜNG LÚA GẠO VIỆT

      Việt Nam là chốn tổ của nghề lúa. Giáo sư tiến sỹ, anh hùng lao động Nguyễn Văn Luật, nguyên Viện trưởng Viện Lúa Đồng Bằng Sông Cửu Long,  tác giả chính của cụm công trình ‘Nghiên cứu và phát triển lúa gạo’ đoạt giải thưởng Hồ Chí Minh, đã có hai bài viết quan trọng giới thiệu về “Lịch sử cây lúa Việt Nam” và “Cải tiến giống lúa cho sản xuất lúa gạo tại Việt Nam”. Giáo sư đã đưa ra các bằng chứng và dẫn liệu ‘Việt Nam là chốn tổ của nghề lúa’ và ‘các tiến bộ của giống lúa Việt Nam những năm đầu thế kỷ 21’. Hai bộ sách: Nguyễn Văn Luật (chủ biên), xuất bản lần đầu năm 2001, 2002, 2003 Cây lúa Việt Nam thế kỷ 20, ba tập Nhà Xuất Bản Nông nghiệp, Hà Nội, 1.347 trang, và Nguyễn Thị Lang, Bùi Chí Bửu 2011. Khoa học về cây lúa, di truyền và chọn giống. Nhà Xuất bản Nông Nghiệp, 623 trang đã đúc kết về những tiến bộ này.

      Con đường lúa gạo Việt” là chùm bài ghi chép lược thuật về các dâng hiến lặng lẽ của các nhà nông học, nhà giáo và nông dân giỏi nghề nông. Họ gắn bó cuộc đời với nông dân, nông nghiệp, nông thôn, và những sinh viên, học viên nghề nông để làm ra những hạt gạo ngon hơn, tốt hơn cho bát cơm của người dân. Tập tài liệu nhỏ này mục đích nhằm kể lại những mẫu chuyện đời thường nghề nông cho các em sinh viên đọc thêm ngoài giờ học chính.

      Thầy Norman Borlaug nhà khoa học xanh, cha đẻ của cuộc cách mạng xanh được tặng giải Nobel và thế giới tôn vinh là nhà bác học số một nhân loại trong cuộc chiến chống nghèo đói, đã có lời dặn thật thấm thía: “Đời người tối thiểu phải ăn, kế đến là học tập, công việc, nhà ở, quần áo và chăm sóc sức khỏe. Quanh ta còn nhiều mảnh đời bất hạnh. Hiểm họa nghèo đói vẫn bùng phát bất cứ lúc nào. Hãy luôn nhớ điều đó”; “Hãy vươn tới những vì sao. Cho dù không chạm được vào nó, nhưng nếu cố gắng hết sức, ít ra, chúng ta cũng chạm được những hạt bụi của ngôi sao”; “Việc chính đời người chỉ ít thôi. Chuyên tâm đừng bận chuyện trời ơi. Phúc hậu suốt đời làm việc thiện. Di sản muôn năm mãi sáng ngời”.

      Dạy học không chỉ trao truyền tri thức, kỹ năng nghề nghiệp mà còn trao truyền ngọn lửa. Chừng nào mỗi chúng ta chưa ứa nước mắt thấm hiểu sự nhọc nhằn của người nông dân một nắng hai sương làm ra hạt gạo. Chừng nào những giá trị lao động khoa học cao quý, liên tục, âm thầm chưa mang lại đủ niềm vui cho bữa ăn của người dân nghèo. Chừng đó chúng ta sẽ còn phải DẠY VÀ HỌC. Cái gốc của sự học là HỌC LÀM NGƯỜI.

      Nam Bộ Việt Nam là quê hương nhà bác học nông dân Lương Định Của, nơi con đường lúa gạo Việt Nam khởi phát và tỏa rộng, mở đầu cho chùm bài viết này. Về miền TâySao anh chưa về lại miền Tây. Nơi một góc đời anh ở đó. Sóc Trăng Cần Thơ sông Tiền Sông Hậu. Tên đất tên người chín nhớ mười thương. Anh có về Bảy Núi Cửu Long. Nắng đồng bằng miên man bao nỗi nhớ. Kênh ông Kiệt thương mùa mưa lũ. Anh có về nơi ấy với em không? (thơ Hoàng Kim)”. Chùm bài viết Việt Nam con đường xanh, Lúa siêu xanh Việt Nam; Con đường lúa gạo Việt; Cách mạng sắn Việt Nam; Chọn giống sắn Việt Nam; Giống khoai lang Việt Nam tôn vinh Cây Lương thực Việt Nam, gồm nhiều mẫu tin ngắn (Notes) cập nhật . .

      #CLTVN
      ANGKOR NỤ CƯỜI SUY NGẪM
      Hoàng Kim


      Kameda Akiko, Hoàng Kim, bác Dung nông dân và Nguyễn Phương với giống sắn KM419 tại Quảng Sơn, Ninh Sơn, Ninh Thuận năm 2011 (ảnh Hoàng Kim #CLTVN).

      Một thí dụ nhỏ về cây sắn. Năm 2009 khi những giống sắn tốt nhất của Việt Nam như KM140, KM985 được xác nhận thì sản xuất sắn của Campuchia vùng biên giới đã chủ yếu sản xuất và kinh doanh những sản phẩm sắn củ tươi của những giống tốt này. Năm 2011 khi giống sắn KM419 được nổi bật tại Đồng Nai, Tây Ninh và Ninh Thuận thì Kameda Akiko, Minh Ngọc Đông Bắc, Lý Thanh Bình,  … đã nhanh chóng tìm mua giống sắn tốt này từ Việt Nam để phát triển thành nhiều vùng sắn chủ lực ở Campuchia tại  Kratie, Sen Monorom, Kampong Cham …

      Tốc độ phát triển sắn Campuchia những năm gần đây nhanh hơn sắn Việt Nam. Giống sắn Campuchia theo rất sát nhưng tiến bộ giống sắn mới nhất của Việt Nam và hiện nay uớc 90% diện tích sắn Campuchia là giống sắn KM419, KM98-5 và KM94.

      Angkor nụ cười suy ngẫmMột đế quốc Khmer bị biến mất một cách bí ẩn. Một triều đại vươn tới cực thịnh sau đó bị suy tàn và hồi sinh. Một di sản thế giới bị khỏa lấp bởi lớp lớp bụi thời gian, nay được hé lộ với “nụ cười Angkor”. Một vị vua giỏi thuật đế vương, nghệ thuật giữ thăng bằng chính trị “đi trên dây” và sâu sắc về văn hóa, đó chính là Quốc vương Norodom Sihanouk. Ông là người có công lớn trong việc bảo tồn và tái hiện di sản đặc sắc này. Di sản Angkor và nhân vật lịch sử Norodom Sihanouk, là báu vật xứng đáng cho ta tìm tòi và cảm nhận.” (Hoàng Kim)

      Căm pu chia đang vượt lên rất nhanh về Chuyển đổi số nông nghiệp sắn lúa Chọn giống sắn kháng CMD; Lúa sắn Cămpuchia và Lào; Bài học gì cho Việt Nam? Angkor nụ cười suy ngẫmhttps://hoangkimlong.wordpress.com/category/#CLTVN

      HOÀNG LONG DẠY VÀ HỌC
      Cây Lương thực Việt Nam
      E-Learning VNUHCM
      https://elearning-vnuhcm.vn/course/view.php?id=63;
      E_Learning NLU
      Trường tôi nôi yêu thươnghttps://youtu.be/bsZo5e779EA
      https://el.hcmuaf.edu.vn/mod/page/view.php?id=4250&forceview=1https://hoangkimvn.wordpress.com/2021/10/9/hoang-long-day-va-hoc/ https://hoangkimlong.wordpress.com/category/cay-luong-thuc-viet-nam/

      Tổng quan Chương trình đào tạo giảng viên
      về phương pháp và công cụ dạy học trực tuyến

      Danh sách cán bộ, giảng viên tham gia chương trình File

      Cách thức truy cập và sử dụng hệ thống đào tạo trực tuyến ĐHQG-HCM File

      Diễn đàn nhóm giáo viên hướng dẫn Forum

      KIỂM SOÁT

      Danh sách những việc cần làm trong toàn bộ chương trình Checklist

      [Đọc] Giới thiệu và hướng dẫn thực hiện bài tập giải quyết tình huống File

      [Khảo sát] Lập nhóm làm việc phối hợp Questionnaire

      [Tham khảo] Thang điểm đánh giá bài tập giải quyết tình huống File

      [Xem] Giải thích thang điểm đánh giá bài tập giải quyết tình huống Page

       [Đánh giá chéo] Bài tập giải quyết tình huống
      You do not belong to HCMUSSH

      [Học đồng bộ] Phòng họp trực tuyến hàng tuần BigBlueButton[Học đồng bộ] Phòng họp thay thế Attendance[Xem lại] Bản ghi hình các cuộc họp đồng bộ hàng tuần [02/10/2021] Page

      Khởi động

      [Học] Chuyên đề 2 – DC3. “Tổ chức hoạt động dạy học trực tuyến” URL[Học] Chuyên đề 3 – DC4. “Kiểm tra đánh giá trong dạy học trực tuyến” URL[Học] Chuyên đề 4 – DC5. “Thiết kế khoá học trực tuyến tiêu chuẩn hoá” URL

      Vượt rào

      Tiếp sức

      Tăng tốc[Tham khảo] Sử dụng tài nguyên đồ hoạ trong dạy học và nghiên cứu URL

      [Tham khảo] Thiết kế khuôn mẫu đồ hoạ cho các phân đoạn bài giảng video [Tham khảo] Sử dụng tài nguyên đồ hoạ trong dạy học và nghiên cứu[Tham khảo] Tạo bài giảng video bằng PowerPoint URL[Tham khảo] Tạo bài giảng video bằng OBS Studio URL[Tham khảo] Ví dụ thang điểm đánh giá khoá học trực tuyến theo phương thức hỗn hợp File

      [Thực hành] Sử dụng Hot Potatoes biên soạn bài tập tương tác và quản lí ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm URL[Tham khảo] Hướng dẫn sử dụng các công cụ đánh giá trên Moodle URL

      Về đích

      [Thực hành] Nhập bài tập Hot Potatoes vào Moodle URL[Thực hành] Tạo đề kiểm tra trắc nghiệm với Quiz trong Moodle URL

      Tổng kết

      • Phiếu đánh giá chương trình Questionnaire

        Phiếu thu thập thông tin phản hồi đánh giá về chương trình. Nhằm ghi nhận các ý kiến phản hồi về toàn bộ chương trình cũng như các khoá học chuyên đề để cải tiến những điểm chưa ổn về sau, xin quý thầy cô vui lòng dành chút thời gian trả lời một số câu hỏi dưới đây. Toàn bộ kết quả trả lời đều được ẩn danh để đảm bảo tính khách quan cao nhất khi quý thầy cô trả lời, cũng như khi BTC phân tích, tổng hợp dữ liệu thu được.
        Thời gian trả lời: từ ngày 20/12/2021 đến hết ngày 31/12/2021.xem tiếp tại
        https://elearning-vnuhcm.vn/course/view.php?id=63

      E_Learning NLU Trường tôi nôi yêu thươnghttps://youtu.be/bsZo5e779EA
      https://el.hcmuaf.edu.vn/mod/page/view.php?id=4250&forceview=1#CLTVN
      Bài học Cây Lương Thực (đọc thêm ngoài bài giảng)

      CÂY LƯƠNG THỰC VIỆT NAM
      Hoàng Kim, Hoàng Long (chủ biên) và đồng sự
      http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlong

      #CLTVN
      Bảo tồn và phát triển sắn
      Cách mạng sắn Việt Nam
      Chọn giống sắn Việt Nam
      Chọn giống sắn kháng CMD
      Bạch Mai sắn Tây Nguyên
      Giống sắn KM419 và KM440
      Mười kỹ thuật thâm canh sắn
      Sắn Việt Nam ngày nay
      Vietnamese cassava today
      Sắn Việt bảo tồn phát triển
      Sắn Việt Lúa Siêu Xanh
      Sắn Việt Nam bài học quý
      Sắn Việt Nam sách chọn
      Sắn Việt Nam và Howeler
      Sắn Việt Nam và Kawano
      Sắn Việt và Sắn Thái
      Quản lý bền vững sắn châu Á
      Cassava and Vietnam: Now and Then

      Lúa siêu xanh ViệXem tiếp >>

        Dạy và học 15 tháng 11(15-11-2021)

      DẠY VÀ HỌC 15 THÁNG 11
      Hoàng Kim
      CNM365 Tình yêu cuộc sốngMột niềm tin thắp lửa; Kiệt tác của tâm hồn; 500 năm nông nghiệp Brazil; Ngọc lục bảo Paulo Coelho; Praha Goethe và lâu đài cổ; Chốn vườn thiêng cổ tích; Hoa Lúa giữa Đồng XuânTiệp Khắc kỷ niệm một thời; Làng Minh Lệ quê tôi; Ta về với Linh Giang; Linh Giang sông quê hương; Nguyễn Du trăng huyền thoại; Ngày 15 tháng 11 năm 1889 Ngày Tuyên ngôn cộng hòa tại Brasil. São Paulo, trung tâm tài chính lớn nhất Brasil (hình). Brazil là quốc gia lớn thứ năm trên thế giới với diện tích 8,515,767 km2, dân số hơn 190 triệu người. Brasil là vùng nói tiếng Bồ Đào Nha lớn nhất trên thế giới và duy nhất ở châu Mỹ; Ngày 15 tháng 11 năm 2005 Không gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên được UNESCO công nhận là Kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể của nhân loại. Ngày 15 tháng 11 năm 1923, ngày sinh Văn Cao, nhạc sĩ nổi tiếng, tác giả quốc ca Việt Nam; Bài viết chọn lọc ngày 15 tháng 11: Một niềm tin thắp lửa; Kiệt tác của tâm hồn; 500 năm nông nghiệp Brazil; Ngọc lục bảo Paulo Coelho; Praha Goethe và lâu đài cổ; Chốn vườn thiêng cổ tích; Hoa Lúa giữa Đồng XuânTiệp Khắc kỷ niệm một thời; Làng Minh Lệ quê tôi; Ta về với Linh Giang; Linh Giang sông quê hương; Nguyễn Du trăng huyền thoại; Thông tin tại :https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlong; xem tiếp:  https://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-15-thang-11/

      Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là mot-niem-tin-thap-lua-giua-tam-hon-1.jpg

      MỘT NIỀM TIN THẮP LỬA
      Hoàng Kim

      Nhìn đàn em ngời niềm vui rạng rỡ.
      Chợt thấy lòng rưng rưng.
      Công việc nghề nông cực mà hạnh phúc.
      Cố lên em nổ lực không ngừng !

      Hột mồ hôi lắng vào hạt gạo.
      Câu ca ông bà theo suốt tháng năm.
      Thêm bữa cơm ngon cho người lao động.
      Nâng chén cơm thơm, qúy trọng người trồng.

      Em ơi hãy học làm ruộng giỏi.
      Nghề nông thời nào cũng quý kỹ năng.
      Người dân khá hơn là niềm ao ước
      Công việc này giao lại cho em.

      Có một mùa Vu Lan hạnh phúc
      Ơn mẹ cha lam lũ sớm hôm
      Thương con vạc gọi sao mai dậy sớm
      Một niềm tin thắp lửa giữa tâm hồn.

      Bước tiếp bước giữa trường đời gian khó
      HỌC ĐỂ LÀM người lao động siêng năng
      Rèn nhân cách vượt lên bao cám dỗ
      Đức và Tài tử tế giữa Nhân Dân.

      Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là cong-viec-nay-giao-lai-cho-em.jpg

      Chúc mừng các em sinh viên! Chúc mừng Thầy Huỳnh Thanh Hùng,Thầy Trần Đình Lý và quý Thầy Cô trong buổi Lễ Tốt Nghiệp trang trọng. Nhìn đàn em ngời niềm vui rạng rỡ. Chợt thấy lòng rưng rưng. Công việc nghề nông cực mà hạnh phúc. Cố lên em nổ lực không ngừng ! Hột mồ hôi lắng vào hạt gạo. Câu ca ông bà theo suốt tháng năm.Thêm bữa cơm ngon cho người lao động. Nâng chén cơm thơm, qúy trọng người trồng

      KIỆT TÁC CỦA TÂM HỒN
      Hoàng Kim

      tôi may mắn được trãi nghiệm ở Brazil bốn danh thắng và kiệt tác: 1) Rio de Janeiro thành phố núi và biển, một trong bảy kỳ quan thế giới mới nổi tiếng rất xinh đẹp; 2) Thác nước Iguaçu giữa Brazil và Achentina; 3)
      Ngọc lục bảo Paulo Coelho, “O Alquimista” cuốn sách bán trên 65 triệu bản, lượng phát hành chỉ sau kinh Thánh, mang thông điệp nhân văn “Hãy sống trọn vẹn ước mơ của mình” tiếng nói yêu thương con người và khai mở tâm linh vũ trụ; 4) 500 năm nông nghiệp Brazil, “Land and Food 500 years of Agriculture in Brazil” cuốn sách cẩm nang nghề nghiệp đặc biệt quý giá do các bạn Brazil tặng, giúp chỉ dấu quan trọng của sự nhận thức và phương pháp luận học tập nghiên cứu giảng dạy nông nghiệp sinh thái để chuyển giao tiến bộ kỹ thuật định hướng tầm nhìn tốt hơn.

      Rio de Janeiro thành phố núi và biển

      Trong tháng 5 và tháng 6 năm 2003, tôi được khảo sát một số nước trọng điểm sắn ở châu Phi và châu Mỹ, trong đó có Brazil và Colombia và tham dự Hội thảo sắn CIAT ở Colombia “Phát triển của một giao thức cho các thế hệ sắn đơn bội kép và sử dụng chúng trong chọn giống” (The Development of a Protocol for the Generation of Cassava Doubled-Haploids and their Use in Breeding). Dịp may này đã giúp tôi được làm việc với nhiều người bạn tốt tại EMBRAPA (Empresa Brasileira de Pesquisa Agropecuária) – CNPMF, Brazil và được chiêm ngưỡng Rio de Janeiro thành phố núi và biển, Di sản thế giới UNESCO, một trong bảy kỳ quan thế giới mới nổi tiếng xinh đẹp và quyến rũ; được thăm và làm ở một số nơi và thác nước  Iguazu nằm trên sông Iguazu thuộc hai vườn quốc gia Brazil (bang Paraná) và Achentina (tỉnh Misiones) một thắng cảnh cực kỳ tuyệt đẹp.

      Rio de Janeiro thành phố đẹp giữa núi và biển được khám phá lần đầu tiên ngày  1 tháng 1 năm 1502 do một đoàn thám hiểm của Bồ Đào Nha trở thành những người châu Âu tìm đến vùng đất mới Rio, nay là thành phố Rio de Janeiro tại Brasil, Di sản thế giới được công nhận bởi UNESCO, một trong bảy kỳ quan thế giới mới. Tượng Chúa Cứu Thế tại Rio de Janeiro của Brasil đã cùng với Vạn Lý Trường Thành, Đấu trường La Mã, Chichén Itzá , Machu Picchu,  Petra, Taj Mahal, làm thành  bảy kiệt tác kiến trúc nghệ thuật mới của văn minh nhân loại do mạng lưới toàn cầu bình chọn, bên cạnh Bảy kỳ quan thế giới cổ đại

      Rio de Janeiro là thành phố ở phía nam của Brasil với diện tích 1260 km² và dân số 5,6 triệu người nhưng toàn vùng đô thị Rio de Janeiro có dân số lên đến 11,6 triệu người.  Rio đã từng là thủ đô của Brasil giai đoạn 1763-1960 và thuộc Đế quốc Bồ Đào Nha từ 1808- 1821. Thành phố kỳ diệu này nổi tiếng với phong cảnh tự nhiên, nhạc samba và các lễ hội carnival, các loại hình âm nhạc khác và các  bãi biển. Sân bay quốc tế Galeão – Antônio Carlos Jobim kết nối Rio de Janeiro với nhiều chuyến bay quốc tế với các thành phố khắp trên thế giới và các tuyến điểm nội địa của Brasil. Thành phố Rio de Janeiro có  nhiệt độ ôn hòa. Nhiệt độ trung bình năm khoảng 22 °C đến 26 °C. Do vị trí địa lý gần biển, gió thay đổi hướng thường xuyên, nên thành phố  thường hứng các đợt lạnh từ Nam Cực vào mùa thu và mùa đông. Hầu hết mùa hè thường có mưa rào gây lũ và lở đất. Các vùng núi có lượng mưa lớn hơn vì núi chắn luồng gió ẩm thổi đến từ Đại Tây Dương. Rio thuộc vùng khí hậu savan nhiệt đới rất gần với ranh giới khí hậu nhiệt đới gió mùa và thường đặc trưng bởi mùa mưa kéo dài từ tháng 12 đến tháng 3 năm sau, nhiệt độ mùa hè trên 27°C giống điều kiện mùa hè ở Nam Bộ Việt Nam.

      Thác nước Iguaçu giữa Brazil và Achentina

      Thác nước Iguazu được bảo vệ bởi hai vườn quốc gia là vườn quốc gia Iguaçu của Brazil và vườn quốc gia Iguazú của Argentina. Cả hai vườn quốc gia này lần lượt được UNESCO công nhận là di sản thế giới vào năm 1984 và 1986. Đây cũng là một trong những khu vực bảo tồn rừng lớn nhất ở Nam Mỹ. Thác nước Iguaçu nổi tiếng thế giới Ngày 11 tháng 11 năm 2011, thác nước Iguazu đã được công bố là một trong bảy kỳ quan thiên nhiên của tổ chức Bảy kỳ quan thế giới mới (NOWC) Thác nước  Iguazu cũng thường được so sánh với thác nước Victoria ở châu Phi, cũng là thác nước nổi tiếng ngăn cách Zambia và Zimbabwe. Thác Iguazu rộng hơn, nhưng bởi vì nó được chia thành khoảng 275 thác nước nhỏ bởi các đảo nhỏ nên thác Victoria là “bức màn lớn nhất” của các thác nước trên thế giới, với chiều rộng trải dài hơn 1.600 m và cao 100 m. Địa hình của Brasil phân bố rất đa dạng và phức tạp. Đất đai Brazil phần lớn giống đất đai vùng duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên. Tôi có nhiều hình ảnh đẹp chụp cùng các bạn EMBRAPA, thong thả sẽ hiến tặng bạn đọc.

      Ngọc lục bảo Paulo Coelho

      Ngày xưa có một người thợ đá thử 999.999 viên đá, đến viên đá cuối cùng đã tìm được một viên ngọc lục bảo quý giá vô ngần. Paulo Coelho là ngọc lục bảo của đất nước Brazil. Tác phẩm của ông “O Alquimista” là kiệt tác của tâm hồn. Tiểu thuyết này được dịch ra 56 thứ tiếng, bán chạy chỉ sau kinh Thánh, đến năm 2008 đã bán được hơn 65 triệu bản trên toàn thế giới. Cuốn sách với tựa đề tiếng Anh là “The Alchemist” do Alan R. Clarke chuyển ngữ, và bản tiếng Việt có tựa đề là “Nhà giả kim” do Lê Chu Cầu dịch, Công ty Văn hóa Truyền thông Nhã Nam và Nhà Xuất bản Văn hóa in và phát hành.  Điều gì đã làm cho nhà văn Brazil này được đọc nhiều nhất thế giới như vậy?

      Bạn vào Google+ có thể nhanh chóng tìm thấy trang Paulo Coelho với ghi chú: Làm việc tại escritor; Đã theo học Santo Inacio, Rio de Janeiro; Hiện sống tại Genebra, Confederação Suíça; 2.125.931 người theo dõi và 89.976.943 lượt xem. Bạn cũng vào trang FaceBook và thấy Paulo Coelho với trên 27,897,938 người thích.

      Paulo Coelho
      sinh ngày 24 tháng 8 năm 1947 là tiểu thuyết gia nổi tiếng người Brasil. Ông sinh tại Rio de Janeiro, bố ông là kỹ sư Pedro Queima de Coelho de Souza (đã mất năm 2011) mẹ là Lygia Coelho. Paulo Coelho có một em gái tên là Sonia Coelho. Ông vào học trường luật ở Rio de Janeiro, nhưng đã bỏ học năm 1970 để du lịch qua Mexico, Peru, Bolivia, Chile, châu Âu và Bắc Phi. Sau đó, ông trở về Brasil viết tiểu thuyết và cộng tác với một số nhạc sĩ như Raul Seixas soạn lời cho nhạc pop và nhạc dân tộc Brasil. Ông kết hôn với Christina Oiticica, sinh ngày 23 tháng 11 năm 1951 là một họa sĩ sinh ra và lớn lên tại thành phố Rio de Janeiro, Brasil, sau này trở thành một danh họa của trường phái sơn dầu nghệ thuật đất và sinh thái. Bà có phòng tranh riêng tại hơn sáu mươi phòng trưng bày trong hai mươi quốc gia. Vợ chồng của Paulo Coelho và Christina hiện định cư tại Rio de Janeiro  của Brasil, vừa có nhà riêng tại Tarbes ở Pháp.

      Paulo Coelho sống khỏe bằng nghề viết văn. Ông là tác giả viết sách  tiếng Bồ Đào Nha bán chạy nhất mọi thời đại. Những sách của ông bán chạy nhất tại Brasil, Anh, Hoa Kỳ, Pháp, Đức, Canada, Ý, Israel, Hy Lạp. … Sách của ông đã được dịch ra 56 thứ tiếng và bán ra hơn 86 triệu bản của trên 150 nước. Ông đã nhận được nhiều giải thưởng của các nước và tổ chức quốc tế, trong đó có nhiều giải thưởng rất danh tiếng.

      O Alquimista
      là kiệt tác của tâm hồn, với tựa đề tiếng Anh là “The Alchemist” do Alan R. Clarke dịch, có lẽ là tiểu thuyết danh giá và thành công nhất của Paulo Coelho. Sách đến năm 2008 đã bán được hơn 65 triệu bản trên thế giới và được dịch ra 56 thứ tiếng, trong đó có bản có tiếng Việt với tựa đề là Nhà giả kim. Tác phẩm này được dựng thành phim do Lawrence Fishburne sản xuất, vì diễn viên này rất hâm mộ Paulo Coelho. Trong danh sách những người mến mộ tác phẩm khắp thế giới có cả cựu tổng thống Mỹ Bill Clinton.

      Điều gì đã làm cho tác phẩm này được nhiều người yêu mến đến vậy?

      Tôi có ba điều tâm đắc nói về tác phẩm.

      Thứ nhất. O Alquimista là kiệt tác của tâm hồn, mang thông điệp nhân văn “Hãy sống trọn vẹn ước mơ của mình!” tiếng nói yêu thương con người và khai mở tâm linh vũ trụ. Trước đây Goethe với sử thi Faust, Nỗi đau của chàng Werther đã nói lên những khát vọng ước mơ vươn tới của con người. Paulo Coelho qua câu chuyện sử thi về một cậu bé chăn cừu chí thiện và khát khao đi đến tận cùng của ước mơ. Cậu thích chăn cừu để được đi đó đây, vui thú với thiên nhiên và lao động hồn hậu, nghị lực, cẩn trọng, trí tuệ và cố gắng không ngừng.

      Thứ hai. Văn của Paulo Coelho giản dị, trong sáng, minh triết, sáng sủa lạ lùng, rất giàu chất thơ và nhạc. Bản gốc O Alquimista tiếng Brazil theo lời của những người bạn của tôi ở EMBRAPA họ rất tự hào giới thiệu và ngưỡng mộ là Paulo Coelho viết văn Brazil rất hay. Về bản tiếng Anh cũng vậy được rất nhiều người thích. Bản tiếng Việt do Lê Chu Cầu dịch Công ty Văn hóa Truyền thông Nhã Nam và Nhà Xuất bản Văn hóa in và phát hành tôi say mê đọc thật thích thú. Văn chương đích thực của Paulo Coelho đã vượt qua được rào cản ngôn ngữ. Điều đó rõ ràng là chất lượng ngôn ngữ hàng đầu.

      Thứ ba. Paulo Coelho thấu hiểu và hoạt dụng những bí nhiệm của cuộc Đại Hóa. Đoạn trích kinh Thánh Tân Ước, Lukas 10: 38-42, ở đầu sách; Phần “Vào truyện” nói về sự tích hoa Thủy tiên ở đầu sách và phần Phụ lục kể câu chuyện về Thánh nữ và Chúa Hài Đồng ở cuối sách đã chứng tỏ sự huyền diệu của kiệt tác. Paulo Coelho thật khéo kể chuyện. Lối dẫn truyện của ông hay ám ảnh.

      Paulo Coelho thấu hiểu và hoạt dụng những bí nhiệm của cuộc Đại Hóa“. Đề từ Kinh Thánh Tân Ước, Lukas 10: 38-42, Vào truyện Sự tích hoa Thủy tiên ở đầu sách và Chuyện Thánh nữ và Chúa Hài Đồng ở cuối sách là sự huyền diệu của kiệt tác. Các bạn sinh viên đừng bao giờ coi thường PHẦN ĐẦU và  PHỤ LỤC cuối luận văn. Những phần này dễ lơ đểnh bỏ qua nhưng thường là phần tinh tế của một kiệt tác. Một số nhà khoa học và nhà văn không thành công là khi sản phẩm khoa học và tác phẩm chưa đến được đông đảo tận tay của người tiêu dùng. Kho báu chính mình là ở chỗ đó. Nguyên bản O Alquimista gốc tiếng Bồ Đào Nha có phần đề từ, vào truyện và phụ lục mà bản dịch sách tiếng Anh đã “lược bỏ ” nhưng dịch giả Lê Chu Cầu đã “thêm vào” trở lại đúng nguyên tác trong bản dịch tiếng Việt. Đó là một trong ba điều mà tôi chợt ngộ được về trí tuệ bậc Thầy của một nhà văn lớn. Paulo Coelho thật khéo kể chuyện thấu hiểu và hoạt dụng những bí nhiệm của cuộc Đại Hóa mà những nhà văn tài giỏi đôi khi lơ đểnh bỏ qua. Tôi sẽ chép lại đầy đủ nguyên văn ba đoạn trích TUYỆT HAY này trong bài viết “Trí tuệ bậc Thầy” nhưng trước hết xin trích dẫn những lời đề từ tuyệt hay làm người đọc chú ý hơn đối với tác phẩm

      * Hẹn gặp ở Samarra” của John O’Hara

      Thần chết nói:

      Có một thương gia ở thành Baghda sai một đầy tớ ra chợ mua thức ăn về để dành. Một lúc sau người đầy tớ quay về, mặt mày tái mét, toàn thân run lẩy bẩy. Hắn nói: “Thưa ông chủ, đúng lúc tôi vào chợ thì một bà già trong đám đông xô phải tôi. Khi quay lại nhìn, tôi thấy đó chính là Thần chết. Bà ta nhìn tôi, làm một cử chỉ đe dọa. Cầu xin ông chủ cho tôi mượn con ngựa của ông, tôi sẽ mau chóng chạy khỏi thành phố này để trốn thoát số phận. Tôi sẽ đến Samarra, Thần chết sẽ không thể tìm thấy tôi ở đấy”. Thương gia cho tên đầy tớ mượn con ngựa của mình. Người đầy tớ nhảy ngay lên lưng ngựa, đạp mạnh đinh thúc ngựa, người và ngựa phóng đi hết tốc lực. Sau đó người chủ đi ra chợ nhìn thấy ta trong đám đông, bèn đến gần và nói: “Này, sao ngươi lại đe dọa đứa con ở của ta khi ngươi gặp nó sáng nay?”. “Ta đâu có làm cử chỉ đe dọa gì”, ta đáp, “ta chỉ ngạc nhiên khi gặp hắn ở Baghda bởi vì ta hẹn gặp hắn tối nay ở Samarra kia mà”. -W- Somerset Maugham

      Bay trên tổ chim cúc cu của Kenn Keyse  

      Tặng Vico Lowell, người đã bảo tôi rằng loài rồng không hề có, nhưng rồi lại đưa tôi đến hang ổ của chúng. “Ai đi đâu ai về đâu/ Ai bay trên tổ vượt đầu cúc cu”

      *  “Mặt trời nhà Scozta” của Gaudé

      Một chiều
      chúng tôi đi dọc một con đồi,
      thầm lặng.
      Trong bóng tối
      hoàng hôn dần tắt,
      em họ tôi
      chàng hộ pháp
      vận toàn đồ trắng,
      bước chân bình thản,
      gương mặt đồng hun,
      lặng lẽ.

      Im lặng
      là đức tính của chúng tôi.
      Cụ tổ chúng tôi xưa
      ắt là cô đơn lắm
      – một vĩ nhân giữa bầy đàn ngu xuẩn
      hay một người điên bất hạnh –
      nên mới truyền dạy chúng tôi
      một im lặng nhường này.

      CESARE PAVESE, “I mari del Sud” trong Lavorare stanca
      * “Hoàng tử bé” của Saint – Exupéry do Bùi Giáng dịch,
      ông thêm vào lời đề từ của chính ông.

      Bích câu đâu nữa bóng chàng Uyên
      Sông núi thô sơ bặt tiếng Huyền
      Có lẽ hồn ta không đẹp nữa
      Nét thần thôi họa bức thiên duyên.

      Đề từ “Nhà giả kim” của Paulo Coelho

      Kính tặng J, người đã thấu hiểu và hoạt dụng những bí nhiệm của cuộc Đại Hóa.

      Chúa Jesu và các môn đệ tiếp tục đi, đến một làng nọ. Một cô gái tên Marta rước người vào nhà. Em gái cô là Maria ngồi dưới chân Người nghe giảng dạy, còn Marta thì bận rộn lo tiếp đãi Người. Rồi cô phàn nàn rằng: “Chúa không thấy em con để một mình con làm hết mọi việc sao? Xin Chúa hãy bảo nó phụ con với!”. Chúa mới bảo cô: “Marta ơi, Marta. Con bận rộn, lo lắng nhiều việc quá. Nhưng chỉ có một việc thật cần thiết thôi và Maria đã chọn phần việc ấy thì không ai truất phần của em con được.”

      Thánh Kinh Tân Ước, Lukas 10:38-42

      *

      Thật may mắn khi gặp được kiệt tác của tâm hồn khai mở hạnh phúc lòng ta tỉnh lặng và yêu thương hơn. Thiên nhiên, Tình yêu, Tình bạn, Việc tốt, Nhà ở, Sách hay, Hoa đẹp và Thú cưng, Niềm vui Khoa học Nghệ thuật là tám cánh cửa niềm vui đời người. Sách hay là bí quyết trường thọ, trí tuệ túi khôn nhân loại, cội nguồn tri thức, kỳ quan thế giới, bổ rẻ hiệu quả, mọi lúc mọi nơi mọi lứa tuổi. Đọc lại và suy ngẫm. Bao kiệt tác thấm thía, dễ tiếp nhận, dễ kiếm là sách hay.

      500 NĂM NÔNG NGHIỆP BRAZIL
      Hoàng Kim
      .
      Tôi kể về một thoáng Brazil đất nước con người và  500 năm nông nghiệp Brazil. Các chính khách chuyên gia hàng đầu Brazil đã soi lại 500 năm nông nghiệp Brazil trong sự hòa quyện với lịch sử đất nước và thương mại. Họ đã lần tìm trong những biến động của lịch sử vùng đất với các yếu tố nguồn lực căn bản Đất đai và Thức ăn (Land and Food) để bảo tồn và phát triển.

      Vùng đất mới Rio của Brazil lần đầu tiên được khám phá vào ngày 1 tháng 1 năm 1502 do một đoàn thám hiểm Bồ Đào Nha. Họ trở thành những người châu Âu đầu tiên tìm đến nơi này, hệt như cậu bé chăn cừu tìm thấy ốc đảo sa mạc trong hành trình tìm kho báu ở Kim Tự Tháp mà Paulo Coelho đã kể trong “O Alquimista” là kiệt tác của tâm hồn mà tôi đã viết ở Ngọc lục bảo Paulo Coelho. Thành phố Rio de Janeiro là thành phố đẹp giữa núi và biển, di sản thế giới được công nhận bởi UNESCO, một trong bảy kỳ quan thế giới mới.

      Science that transforms your life

      Embrapa là tập đoàn nghiên cứu và phát triển nông nghiệp Brazil lâu năm và khá hoàn hảo để đảm bảo các giải pháp khoa học và biến đổi phát triển bền vững. Trang web của chính họ là www.embrapa.br. Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam hiện nay có đúc kết kinh nghiệm của Embrapa khi tái cấu trúc theo sự tư vấn của các chuyên giao FAO và UNDP. Trong những bài học lớn của đất nước này có Đất và Thức ăn, 500 năm nông nghiệp Brazil (Land and Food 500 years of Agriculture in Brazil).

      Brazil đất nước và con người

      Brazil khái lược bốn yếu tố chính: Đất nước (đất đai và thức ăn); Con người (tộc người, ngôn ngữ, văn hóa); Môi trường sống (khí hậu, danh thắng, vấn đề chung); Chế độ và  Kinh tế hiện trạng.

      Nước Cộng hòa Liên bang Brasil gọi tắt Brasil  là quốc gia lớn nhất Nam Mỹ, với tổng diện tích 8.516.000 km², dân số 200,4 triệu người (năm 2013), lớn thứ năm trên thế giới về diện tích và dân số. Brazil là vùng nói tiếng Bồ Đào Nha duy nhất ở châu Mỹ và lớn nhất trên thế giới. Thủ đô của Brazil tại Brasilia, đơn vị tiền tệ là Real Brazil. Tổng thống đương nhiệm là bà Dilma Vana Rousseff sinh ngày 14 tháng 12, 1947. Bà là nhà kinh tế, chính khách lỗi lạc thuộc Đảng Công nhân, đắc cử chức tổng thống Brasil từ năm 2010 và là người phụ nữ đầu tiên thắng cử tổng thống Brasil. Vị trí Brazil trong chỉ mục xếp hạng quốc tế:

      • Xếp thứ 5 trên thế giới về dân số (Xem Danh sách các nước theo số dân).
      • Xếp thứ 5 trên thế giới về diện tích (Xem Danh sách các nước theo diện tích).
      • Xếp thứ 70/177 quốc gia về chỉ số phát triển con người (Xem Danh sách các quốc gia theo thứ tự về Chỉ số phát triển con người).
      • Xếp thứ 10 thế giới về GDP (theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF).
      • Xếp thứ 111/157 quốc gia về mức độ tự do kinh tế.
      • Xếp thứ 70/163 quốc gia về Chỉ số nhận thức tham nhũng.

      VietnamBrazil

      Brazil ở cách Việt Nam một biển rộng Thái Bình Dương và có nhiều tương đồng so với Trung Quốc. Việt Nam soi vào Trung Quốc quá khứ và soi vào Brazil hiện tại sẽ chứng ngộ nhiều điều sâu sắc của sự bảo tồn và phát triển. Brazil là một trong bốn nước nền kinh tế mới nổi BRIC (Brazil, Russia, India, China) đang ở giai đoạn phát triển kinh tế và quy mô tương đồng. Brazil có khí hậu trải dài trên năm dạng khí hậu khác nhau: xích đạo, nhiệt đới, nhiệt đới khô, núi cao và cận nhiệt đới. Hơn một nửa nước Brazil có điều kiện sinh thái tương đồng và gần giống khí hậu thủy thổ của Việt Nam.

      Brazil là một nước cộng hòa liên bang được hình thành bởi liên hiệp của quận liên bang gồm 26 bang và 5.564 khu tự quản. Brasil tiếp giáp với 11 nước và vùng lãnh thổ Nam Mỹ: phía bắc giáp với Venezuela, Guyana, Suriname và Guyane thuộc Pháp; phía tây bắc giáp Colombia, phía tây giáp Bolivia và Peru, phía tây nam giáp Argentina và Paraguay, phía nam giáp  Uruguay, phía đông Brazil giáp Đại Tây Dương với đường bờ biển dài 7.491 km.

      Môi trường tự nhiên Brasil được coi là quê hương của môi trường tự nhiên hoang dã phong phú, có nhiều tài nguyên tự nhiên ở các khu được bảo tồn. Brasil là quốc gia có diện tích lớn thứ năm trên thế giới, chỉ đứng sau Nga, Canada, Mỹ và Trung Quốc. Brasil là một trong những nước có nhiều hệ thống sông lớn nhất trên thế giới. Nước này có tổng cộng 8 bồn địa lớn, nước của các con sông đi qua các bồn địa này để thoát ra Đại Tây Dương. Sông Amazon là con sông lớn nhất thế giới tính theo dung lượng nước với lưu vực rộng lớn và màu mỡ đã tạo điều kiện cho những cánh rừng mưa nhiệt đới hùng vĩ phát triển cùng với một hệ thống sinh vật phong phú. Kế đến là  hệ thống sông Paraná và phụ lưu của nó.

      ThacnuocIguazu

      Sông Iguaçu nơi có thác nước Iguaçu nổi tiếng thế giới nằm giữa Brazil và Achentina. Bên cạnh đó còn có các sông Negro, São Francisco, Xingu, Madeira và Tapajos. Một số hòn đảo và đảo san hô trên Đại Tây Dương như Fernando de Noronha, Đảo san hô Rocas, Saint Peter và Paul Rocks, và Trindade và Martim Vaz cũng thuộc chủ quyền của Brasil. Địa hình của Brasil phân bố rất đa dạng và phức tạp.

      Người Brasil hiện nay có tổ tiên khá đa dạng, gồm người da đỏ Châu Mỹ (chủ yếu là người Tupi và Guarani), người Châu Âu (chủ yếu là Bồ Đào Nha, Ý, Đức, Tây Ban Nha) và người Châu Phi (chủ yếu là Bantu và Yorùbá), với một số cộng đồng thiểu số Châu Á (chủ yếu là Nhật Bản), Liban, và Ả Rập Syria. Miền nam Brasil với đa số dân là con cháu người Âu còn ở phía đông nam và trung tây Brasil số lượng người da trắng tương đương người Phi và những người Brasil đa chủng khác. Đông bắc Brasil có đa số dân là con cháu người Bồ Đào Nha và Châu Phi, trong khi miền bắc Brasil có số lượng hậu duệ người da đỏ Châu Mỹ lớn nhất nước. Cơ cấu dân nhập cư Brasil có 79 triệu người Châu Phi và người đa chủng; 13 triệu người Ả Rập, chủ yếu từ Syria và Liban ở Đông Địa Trung Hải; 1,6 triệu người Châu Á, chủ yếu từ Nhật Bản; Những nhóm người đa chủng đông đảo nhất là người thuộc bán đảo Iberia, Ý và người Đức ở Trung Âu. Các nhóm thiểu số gồm người Slav (đa số là người Ba Lan, Ukraina và Nga). Những nhóm nhỏ hơn gồm người Armenia, người Phần Lan, người Pháp, người Hy Lạp, người Hungary, người Romania, người Anh và người Ireland. Trong số các nhóm thiểu số còn có 200.000 người Do Thái, chủ yếu là Ashkenazi. Theo hiến pháp năm 1988 của Brasil, phân biệt chủng tộc là một tội không được bảo lãnh và buộc phải ngồi tù. Đạo luật này được thi hành rất chặt chẽ. Người Brasil ngày nay phần lớn là người da trắng có tổ tiên gốc là người Bồ Đào Nha nhiều nhất vì nước này là thuộc địa của đế chế Bồ Đào Nha từ thế kỷ 16 đến thế kỉ 18 và tỷ lệ người Bồ Đào Nha và người Ý nhập cư khá cao  trong thế kỷ 19 và thế kỉ 20. Những khu định cư Bồ Đào Nha bắt đầu xuất hiện tại Brasil sau năm 1532 và cho tới nay người Bồ Đào Nha vẫn là những người Châu Âu duy nhất thực hiện thành công chính sách thực dân ở nước này và nền văn hóa Brasil chủ yếu dựa trên văn hoá Bồ Đào Nha. Các nước Châu Âu khác như Hà Lan và người Pháp cũng đã từng tìm cách thực dân hóa Brasil trong thế kỷ 17 nhưng không thành công. Người da đỏ bản xứ Brasil (khoảng 3-5 triệu người) phần lớn đã bị tiêu diệt hay đồng hóa bởi người Bồ Đào Nha. Những cuộc hôn nhân lai chủng giữa người Bồ Đào Nha và những người Brasil bản xứ từ thời kỳ đầu thực dân hoá Brasil, đến nay Brasil có gần một triệu người dân bản xứ và người lai bản xứ, chiếm gần  1% dân số nước này. Cộng đồng dân cư lớn thứ hai ở Brasil là người da đen, con cháu của những người nô lệ Châu Phi bị bắt tới đây từ thế kỷ 16 tới thế kỷ 19. Người da đen châu Phi có trên ba triệu người Angola, Nigeria, Benin, Togo, Ghana, Côte d’Ivoire và São Tomé e Príncipe đã bị bán qua Brasil cho tới khi chế độ buôn bán nô lệ chấm dứt vào năm 1850. Những người Châu Phi này sau đó đã lai tạp với người Bồ Đào Nha, trở thành một bộ phận dân cư lai khá lớn tại Brasil. Những nhóm người da trắng và da vàng của Châu Âu và châu Á tơi đây bắt đầu từ thế kỷ 19 với sự khuyến khích của chính phủ Brasil để thay thế nguồn nhân lực và lao động cũ là các cộng đồng nhân công và nô lệ. Người lai giữa các chủng tộc tạo nên một bản sắc đa chủng tộc đa văn hóa mà yếu tố chủ đạo là văn hóa ngôn ngữ Bồ Đào Nha.

      Ngôn ngữ chính thức duy nhất tại Brasil là tiếng Bồ Đào Nha. Toàn bộ dân chúng sử dụng thứ tiếng này làm ngôn ngữ duy nhất được sử dụng trong các trường học, trên các phương tiện truyền thông, trong kinh doanh và mọi mục đích hành chính. Tiếng Bồ Đào Nha trở thành sinh tử phù đặc trưng riêng quốc gia ở Brasil và đã  phát triển độc lập với tiếng mẹ đẻ và trải qua ít sự thay đổi ngữ âm hơn so với tiếng Bồ Đào Nha gốc, vì thế nó thường được gọi là ngôn ngữ gốc “Camões”, vốn đã tồn tại ở thế kỷ 16, tương tự như thứ ngôn ngữ ở phía nam Brasil ngày nay, chứ không phải như ngôn ngữ nước Bồ Đào Nha hiện tại đã bị châu Âu pha tạp. Tiếng Bồ Đào Nha ở Brasil có ảnh hưởng rất lớn tới các ngôn ngữ da đỏ Châu Mỹ và ngôn ngữ Châu Phi. Những phương ngữ Bồ Đào Nha tại Brazil có nhiều khác biệt lớn với nhau về âm điệu, từ vựng và chính tả. Nhiều ngôn ngữ bản xứ được sử dụng hàng ngày trong các cộng đồng thổ dân. Hiện nay việc dạy các ngôn ngữ bản xứ đang được khuyến khích. Một số ngôn ngữ khác được con cháu những người nhập cư sử dụng, họ thường có khả năng nói cả hai thứ tiếng, tại các cộng đồng nông nghiệp ở phía nam Brasil. Tiếng Anh là một phần trong chương trình giảng dạy của các trường cao học, nhưng ít người Brasil thực sự thông thạo ngôn ngữ này. Đa số những người sử dụng tiếng Bồ Đào Nha đều có thể hiểu tiếng Tây Ban Nha ở mức độ này hay mức độ khác vì sự tương đồng giữa hai ngôn ngữ cùng hệ Latinh.

      Tôn giáo chủ yếu tại Brasil là Công giáo Rôma. Brasil là nước có cộng đồng người theo đạo Công giáo lớn nhất trên thế giới. tiếp đến là đạo Tin lành, Hồi giáo, Phật giáo. Cơ cấu tôn giáo của người dân Brasil như sau (theo cuộc điều tra của IBGE) 64,6% dân số theo Công giáo; 22,2% dân số theo Đạo Tin lành; 8,0% dân số tự cho mình là người theo Thuyết bất khả tri hay Thuyết vô thần; 2,0% dân số theo Thuyết thông linh; 2,7% dân số là thành viên của các tôn giáo khác. Một số tôn giáo đó là Mormon (227.000 tín đồ), Nhân chứng Jehovah (1.393.000 tín đồ), Phật giáo (244.000 tín đồ), Do Thái giáo (107.000 tín đồ), và Hồi giáo (35.000 tín đồ); 0,3% dân số theo các tôn giáo truyền thống Châu Phi như Candomblé, Macumba và Umbanda; 0,1% không biết; Một số người theo tôn giáo pha trộn giữa các tôn giáo khác nhau, như Công giáo, Candomblé, và tổng hợp các tôn giáo truyền thống Châu Phi.

      Chế độ chính trị ở Brasil được chia thành các nhánh lập pháp, hành pháp và tư pháp. Hoạt động của các nhánh này diễn ra độc lập với nhau và đồng thời được kiểm tra và điều chỉnh cân bằng sao cho thích hợp. Nhánh hành pháp và lập pháp được tổ chức ở cả 4 thực thể chính trị, trong khi nhánh tư pháp chỉ được tổ chức ở cấp Liên bang và bang. Theo hiến pháp, Brasil là một quốc gia theo thể chế cộng hòa liên bang, được tạo lập dựa trên 4 thực thể chính trị là Liên bang, bang, các chính quyền thành phố tự trị và quận liên bang. Không có sự phân cấp cụ thể nào về quyền lực giữa các thực thể chính trị này. Nhánh hành pháp được thực thi bởi chính phủ, trong khi nhánh lập pháp được thực thi bởi cả chính phủ và hai viện của quốc hội Brasil. Nhánh tư pháp hoạt động riêng rẽ với hai nhánh trên. Về nhánh hành pháp, người đứng đầu nhà nước là tổng thống Brasil có nhiệm kỳ 4 năm và được phép nắm tối đa 2 nhiệm kỳ. Đương kim tổng thống hiện nay của nước này là bà Dilma Rousseff, đắc cử tháng 10 năm 2010. Tổng thống có quyền chỉ định thủ tướng liên bang, có vai trò hỗ trợ cho tổng thống trong việc điều hành đất nước. Về nhánh lập pháp, Quốc hội của Brasil được chia làm 2 viện: thượng viện và hạ viện. Thượng viện Liên bang Brasil gồm có 81 ghế, phân bố đều mỗi 3 ghế cho 26 bang và quận liên bang (thủ đô) và cXem tiếp >>

        Dạy và học 14 tháng 11(14-11-2021)


      DẠY VÀ HỌC 14 THÁNG 11
      Hoàng Kim
      CNM365 Tình yêu cuộc sốngTiệp Khắc kỷ niệm một thời;Praha Goethe và lâu đài cổ;Làng Minh Lệ quê tôi; Ta về với Linh Giang; Linh Giang sông quê hương; Praha là thủ đô và thành phố lớn nhất của Tiệp Khắc (hình lâu đài cổ di sản thế giới ở Praha). Ngày 14 tháng 11 năm 1918, Tiệp Khắc trở thành nước cộng hòa, sau đó phân chia trong hòa bình thành Cộng hòa SécSlovakia ngày 1 tháng 1 năm 1993. Cộng hòa Séc hiện nay kế thừa Tiệp Khắc về mặt pháp lý. Ngày 14 tháng 11 năm 1889 là ngày sinh Jawaharlal Nehru nhà chính trị  và  thủ tướng đầu tiên của Ấn Độ. (mất năm 1964). Ông là một trong những nhân vật trung tâm chính trị của Ấn Độ cho phần lớn thế kỷ 20; Ngày 14 tháng 11 hàng năm là ngày Thế giới nâng cao nhận thức về bệnh tiểu đường. Bài viết chọn lọc ngày 14 tháng 11: Tiệp Khắc kỷ niệm một thời;Praha Goethe và lâu đài cổ;Làng Minh Lệ quê tôi; Ta về với Linh Giang; Linh Giang sông quê hương; Con đường lúa gạo Việt; Hồ Quang Cua gạo ST; Sắn Việt Nam ngày nay; Myanmar đất nước chùa tháp; Vui đi dưới mặt trời; Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay, Thầy bạn trong đời tôi; Thông tin tại:https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf,edu.vn/hoangkimlong và:  https://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-14-thang-11/

      TIỆP KHẮC KỶ NIỆM MỘT THỜI
      Hoàng Kim

      Tôi có năm tháng ở Trường Đại Học Nông nghiệp Praha, Tiệp Khắc năm 1986 và may mắn được đến thăm nhiều địa danh lịch sử, văn hóa, khoa học cây trồng, du lịch của nước bạn. Trong lòng tôi lắng đọng Tiệp Khắc kỷ niệm một thời nghiên cứu phát triển đậu rồng hợp tác Việt Tiệp, với những tên người, tên đất yêu thương. Tiệp Khắc là bài học lịch sử quý giá cho bất cứ ai biết trân trọng chân lý, yêu sự thật, tự do, độc lập, thống nhất Tổ Quốc. Praha thủ đô Tiệp Khắc là “Thành phố vàng” mà trung tâm của thành phố được UNESCO công nhận là Di sản thế giới năm 1992. Lâu đài Praha là lâu đài cổ lớn nhất trên thế giới theo sách Kỷ lục Guinness. Praha nằm bên sông Vltava ở miền trung Bohemia.Ngày 28 tháng 9 năm 1992 là ngày lập quốc tại Cộng hòa Séc nhưng phải đến ngày 1 tháng 1 năm 1993, nước Tiệp Khắc mới chính thức giải tán trong hòa bình theo các quá trình trong nghị viện và lãnh thổ Tiệp Khắc trở thành Cộng hòa Séc và Slovakia.

      TIỆP KHẮC ĐẤT NƯỚC CON NGƯỜI

      Đại học Karlova ở Praha (Univerzita Karlova) được Karel IV thành lập năm 1348 là trung tâm học vấn châu Âu. Đại học Karlova cùng với lâu đài Praha và cầu Karl là những di sản văn hóa nổi tiếng thế giới của Cộng hòa Séc.

      Cộng hòa Séc xếp hạng 30/177 quốc gia về Chỉ số Phát triển Con người (xem Danh sách các quốc gia theo thứ tự về Chỉ số phát triển con người); xếp hạng 5/168 quốc gia về chỉ số tự do báo chí (Nhà báo không biên giới); xếp hạng 37/157 quốc gia về chỉ số tự do kinh tế; xếp thứ 35/180 quốc gia về thu nhập bình quân đầu người (xem Danh sách quốc gia theo GDP (PPP) bình quân đầu người năm 2008
      ); xếp thứ 40/180 quốc gia về GDP (xem Danh sách quốc gia theo GDP danh nghĩa năm 2008). Tiệp Khắc đất và người có nhiều chuyện đáng suy ngẫm. Đại học Nông nghiệp Praha, Viện Di truyền Menden với tôi là những năm tháng không quên. Những thành phố xanh tuyệt vời Brno,Bratislava, Plzen, … là những điểm du lịch đáng nhớ. Tôi nợ Tiệp Khắc kỷ niệm một thời suốt trên ba mươi năm, chuyện bây giờ mới kể…

      Tiệp Khắc trái tim văn hóa châu Âu

      Theo sự chọn lọc và tổng hợp thông tin của Bách khoa Toàn thư Mở Wikipedia, Tiệp Khắc Czechoslovakia là trái tim văn hóa châu Âu nhưng lịch sử Tiệp Khắc từ thời tiền sử đến cộng hòa Séc là cả một chuỗi biến động. Tiệp Khắc trong khẩu ngữ thường gọi tắt là Tiệp, tiếng Séc gọi là Československo, tiếng Slovak gọi là Česko-Slovensko, trước 1990 gọi là Československo, tiếng Đức là Tschechoslowakei. Tên gọi luôn thay đổi qua nhiều thời kỳ đã cho thấy lịch sử Tiệp Khắc nằm ở nơi trung tâm của các cuộc tranh chấp và giành giật dữ dội bậc nhất trong lịch sử nhân loại.

      Tiệp Khắc và Bỉ được ví như hai buồng tim của châu Âu. Bạn hãy nhìn vị trí của Cộng hòa Séc (xanh lá đậm) trong Liên minh châu Âu (xanh lá nhạt) và trong khu vực châu Âu (xanh lá nhạt và xám đậm). Người Tiệp vượt lên thăng trầm lịch sử và sự tranh đoạt, tan rồi hợp, hợp rồi tan. Họ có hai câu ngạn ngữ nổi tiếng và đó cũng là tuyên ngôn lập quốc “Sự thực trên hết” (tiếng Séc: Pravda vítězí  1918–1990; tiếng Latinh: Veritas Vincit  1990– 1992), “Chân lý luôn chiến thắng” (tiếng Séc“Pravda vítězí”). Bài Quốc ca của Cộng hòa Séc hiện tại “Quê hương tôi nơi đâu?” (Kde domov můj?– tiếng Séc). Chân lý và sự thật lịch sử là suối nguồn của sự nhận thức.

      Cộng hòa Séc hiện nay là một nước Trung Âu  không giáp biển. Cộng hòa Séc giáp Ba Lan về phía bắc, giáp Đức về phía tây, giáp Áo về phía nam và giáp Slovakia về phía đông. Thủ đô Praha là thành phố lớn nhất nước với 1,3 triệu dân. Cộng hòa Séc có dân số hiện khoảng 10,3 -11,0 triệu người (Cộng hòa Slovakia hiện khoảng 6,0 triệu người).   Cộng hòa Séc là một quốc gia đa đảng theo chế độ cộng hòa đại nghị. Tổng thống là người đứng đầu nhà nước, còn thủ tướng là người đứng đầu chính phủ. Quốc hội có hai viện gồm thượng viện và hạ viện. Cộng hòa Séc đã gia nhập NATO vào năm 1999 và trở thành một thành viên của Liên minh Châu Âu từ năm 2004. Ngày 21 tháng 12 năm 2007, Cộng hòa Séc đã thông qua Hiệp ước Schengen, tạo điều kiện thuận lợi cho việc đi lại và du lịch vào nước này. Ngoài ra, Cộng hòa Séc hiện nay cũng là thành viên của các tổ chức OECD, OSCE, Ủy hội châu Âu và Khối Visegrád.

      Lãnh thổ Cộng hòa Séc, ngày nay bao gồm các vùng đất đã từng tồn tại trong lịch sử là Bohemia, Moravia và một phần Silesia. Séc trở thành một bộ phận của Đế quốc Áo và Đế quốc Áo-Hung trong nhiều thế kỉ cho đến năm 1918, khi Séc cùng với Slovakia tuyên bố thành lập nước Tiệp Khắc. Trong Thế chiến thứ hai, Tiệp Khắc bị phát xít Đức chiếm đóng. Sau đó, nước này trở thành một quốc gia xã hội chủ nghĩa cho đến năm 1989 khi cuộc Cách mạng Nhung yên bình diễn ra, đưa đất nước trở về tiến trình dân chủ. Ngày 1 tháng 1 năm 1993, một cuộc li khai ôn hòa đã diễn ra, Tiệp Khắc lại tách thành hai quốc gia độc lập là Séc và Slovakia.

       

      Lịch sử cộng hòa Séc

      Cộng hòa Séc có tên gọi cũ trong tiếng Anh là “Bohemia”, được biến đổi từ tiếng Latinh “Boiohaemum”, có nghĩa là “quê hương của người Boii”. Tên gọi Séc hiện tại được lấy từ tên Čechy, chuyển hóa từ cách phát âm cũ Cžechy của Ba Lan. Các nhà khảo cổ đã tìm thấy bằng chứng của người tiền sử sống tại vùng đất này khoảng thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên.  Các bộ tộc Celt, Boii đã đến Séc định cư, sau đó, đến thế kỷ 1, các bộ tộc Marcomanni và Quani tại vùng đất thuộc Đức cũng đến đấy sinh sống. Những bộ lạc người Đức trong giai đoạn di cư khoảng cuối thế kỷ thứ 2 đến thứ 5, đã rời Séc di cư rộng ra các vùng đất phía Đông và phía Tây.

      Người Slav từ vùng Biển Đen–Karpat định cư tại Séc do các cuộc tấn công dữ dội từ vùng Siberia và các bộ lạc Đông Âu tại Hung, Avar, Bulgar và Magyar. Đến thế kỷ 6 họ  di cư tới các vùng đất ở phía Nam như Bohemia, Moravia và một số vùng đất mà ngày nay thuộc về lãnh thổ nước Áo.

      Đầu thế kỷ 7, thương gia Samo đến từ vùng Francia đã lãnh đạo người Slav để chống lại tộc người Avar;  năm 623, ông trở thành thủ lĩnh đầu tiên của vương quốc Slav là liên minh của các bộ lạc lớn mạnh. Sau triều đại Samo, người Moravia và Nitra đã thành lập vương quốc mới.

      Năm 833, Mojmir I của Moravia đã tấn công và sát nhập vương quốc Nitra, lập ra Đại Moravia (Velká Morava). Vua Rastislav (846-870) là người cháu của Mojmir I được ông nhường ngôi cho năm 846. Vua Rastislav đã mời hai nhà truyền giáo Cyril và Methodius đến Đại Moravia để truyền bá đạo Thiên chúa và họ đã giúp xây dựng bảng ký tự Cyril chữ cái của người Slav.

      Đại Moravia mở rộng nhất dưới thời vua Svatopluk I  với lãnh thổ trải dài bao gồm Hungary, Ba Lan, Áo, Đức, Serbia, Slovenia, Croatia và Ukraina. Về sau, những cuộc chiến tranh liên miên với Đế chế Frank đã làm cho Đại Moravia suy yếu và những người Hungary xâm lược đã khiến đất nước này tan rã vào đầu thế kỉ thứ 10.

      Thời Trung cổ, năm 995, Vua Premyslid, thành viên của bộ tộc Séc đã thống nhất các vương triều Séc khác và thành lập vương quốc Bohemia hùng mạnh. Đầu thế kỉ 11, vương quốc Bohemia đã chinh phục Đại Moravia và giao cho một trong những người con trai của vua Bohemia cai trị. Vào năm 1306, dòng họ Premyslid không có người kế vị. Sau nhiều cuộc chiến tranh giành quyền lực đẫm máu, dòng họ Luxemburg đã đoạt được ngôi vua Bohemia.

      Karel IV (1342-1378), còn gọi là Charles trong tiếng Anh và tiếng Pháp, Karl trong tiếng Đức, là vị vua thứ hai của triều đại Luxemburg đã đưa đất nước Bohemia trở nên hùng mạnh. Karel IV là quốc trưởng của toàn Đế quốc La Mã Thần thánh và các vương quốc phụ cận. Bản đồ đế quốc La Mã Thần Thánh dưới triều Hoàng đế Karl IV thật rộng lớn. Năm 1344, Karel IV nâng chức Giám mục của thành phố Praha lên thành Tổng Giám mục đồng thời kiềm chế quyền lực của các quý tộc Séc. Ông cũng đã chuyển Bohemia và Moravia trở thành các quận hành chính, sáp nhập Brandenburg (năm 1415), Lusatia (năm 1635), Silesia (năm 1742) vào quyền kiểm soát của Séc. Karel IV đã xây dựng thủ đô Praha với những công trình tiêu biểu như lâu đài Praha, cầu Karl và Đại học Karlova (Univerzita Karlova) thành lập năm 1348, đưa Praha thành trung tâm học vấn và trái tim văn hóa châu Âu. Thủ đô Praha  là “Thành phố vàng” nằm bên sông Vltava ở miền trung Bohemia, trung tâm kinh tế, văn hoá và chính trị của Cộng hòa Séc. Lâu đài Praha là lâu đài cổ lớn nhất thế giới theo sách kỷ lục Guinness, được UNESCO công nhận Di sản thế giới năm 1992. Thắng cảnh cầu Karl ở thủ đô Praha của Cộng hòa Séc. Cầu Karl, lâu đài Praha và Đại học Karlova trở thành những biểu tượng bền vững của thủ đô Praha.

      Thời kỳ thuộc triều đại Habsburg. Vào thế kỉ 15, một cuộc chiến tranh tôn giáo đẫm máu đã diễn ra tại Séc, lịch sử gọi là cuộc Chiến tranh Hussite. Đất nước Séc suy yếu và đến năm 1526, Séc đã bị sát nhập vào đế chế Habsburg, người Séc bắt đầu bị đồng hóa. Tiếng Séc bị cấm sử dụng và tiếng Đức trở thành ngôn ngữ chính thức ở Séc. Năm 1618, người Bohemia đã nổi dậy chống lại triều đình Habsburg. Họ đã chọn Frederick Palatinate lên ngôi, nhưng đến ngày 6 tháng 11 năm 1620, quân đội Séc bị đánh bại tại Trận Núi Trắng. Cuộc Chiến tranh Ba Mươi Năm (1618-1648) đã phá hủy phần lớn những làng mạc, thành phố của Bohemia. Đến thời nữ hoàng Maria Theresa và con trai bà, vua Joseph II, những người chịu ảnh hưởng của Thời đại Khai sáng, tình hình Bohemia bắt đầu có những chuyển biến. Tuy chính sách đồng hóa vẫn không thay đổi, nhưng tình hình xã hội, giáo dục đã được cải thiện cho người Séc. Vào thế kỉ 19, chủ nghĩa bành trướng của Pháp dưới thời vua Napoleon I đã kích thích tinh thần phục hưng dân tộc của người Séc. Tầng lớp trí thức mới đã đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc phục hưng và phát triển ngôn ngữ dân tộc. Tháng 2 năm 1848, cuộc Cách mạng tháng 2 ở Pháp đã làm bùng nổ một cao trào cách mạng tư sản lan khắp châu Âu. Vào ngày 12 tháng 6 năm 1848, khởi nghĩa của những người dân chủ cấp tiến và được sự hưởng ứng nhiệt liệt của nhân dân đã bùng nổ tại Praha, nhưng đến ngày 17 tháng 6, cuộc khởi nghĩa bị dập tắt. Năm 1867, nhà nước quân chủ lưỡng hợp Áo-Hung được thành lập, trong đó Séc nằm trong tầm ảnh hưởng của nước Áo. Vào những năm cuối cùng của đế chế Áo-Hung, tình hình giữa người Séc và người Đức ở Bohemia ngày càng trở nên căng thẳng. Mối quan hệ xấu đi giữa các dân tộc trong đế chế đã đẩy nhanh sự sụp đổ của quốc gia này. Năm 1900, Tomáš Masaryk, người sau này trở thành tổng thống Tiệp Khắc đã thành lập Đảng Tiến bộ Séc. Ý tưởng về một quốc gia kết hợp giữa hai dân tộc Séc và Slovakia bắt đầu được hình thành.

      Sau khi Thế chiến thứ nhất kết thúc cùng với sự sụp đổ của Đế chế Áo-Hung, ngày 28 tháng 10 năm 1918, Cộng hòa Tiệp Khắc (bao gồm Séc và Slovakia ngày nay) tuyên bố độc lập. Hiệp ước St. Germain được ký kết vào tháng 9 năm 1919 đã chính thức công nhận nền cộng hòa mới của Tiệp Khắc. Sau đó, Ruthenia cũng được sát nhập vào Tiệp Khắc vào tháng 6 năm 1920. Quốc gia Tiệp Khắc mới thành lập có dân số khoảng 13,5 triệu người, thừa hưởng tới 70-80% các cơ sở công nghiệp của Áo-Hung. Lúc đó Tiệp Khắc là một trong mười nước công nghiệp hóa nhất thế giới.

      Trước chiến tranh thế giới thứ hai, chính quyền phát xít ở Đức bắt đầu đe dọa tiến hành xâm lược Trung Âu. Sau khi sáp nhập nước Áo vào lãnh thổ Đức, Tiệp Khắc trở thành mục tiêu tiếp theo của phát xít Đức. Tháng 4 năm 1938, Đức nêu yêu sách đòi vùng đất Sudentenland của Tiệp Khắc. Ngày 29 tháng 9 năm 1938, Hiệp ước München được ký kết. Anh, Pháp vì không muốn chiến tranh với Đức đã quyết định vứt bỏ liên minh quân sự với Tiệp Khắc. Và hậu quả là đến ngày 16 tháng 3 năm 1939, toàn bộ lãnh thổ Tiệp Khắc đã bị Đức chiếm đóng. Trong những năm Thế chiến thứ hai, khoảng 390.000 người dân thành thị, trong đó có 83.000 người Do Thái đã bị giết hại hoặc bị hành quyết. Hàng trăm ngàn người đã bị đưa vào các nhà tù và các trại tập trung để làm công việc khổ sai. Chiến tranh kết thúc vào ngày 9 tháng 5 năm 1945 với việc cuộc khởi nghĩa Praha lật đổ ách thống trị của phát xít Đức thành công và quân đội Liên Xô và Mỹ tiến vào Tiệp Khắc.

      Từ năm 1945-1946, hầu như toàn bộ người Đức thiểu số (khoảng 2,7 triệu người) đã bị trục xuất khỏi Tiệp Khắc sang Đức và Áo. Sau Thế chiến thứ hai, Đảng Cộng sản Tiệp Khắc nhanh chóng phát triển do sự thất vọng của người Tiệp Khắc đối với phương Tây vì đã vứt bỏ họ trong Hiệp ước München và do ảnh hưởng ngày càng mạnh của Liên Xô. Trong cuộc bẩu cử năm 1946, Đảng Cộng sản đã giành được tỉ lệ phiếu 38%, trở thành chính đảng lớn nhất và chính thức cầm quyền từ tháng 2 năm 1948. Sau đó, Đảng Cộng sản Tiệp Khắc đã xây dựng một chính quyền toàn cộng sản. Sau khi nắm quyền, Đảng Cộng sản Tiệp Khắc đã quốc hữu hóa các ngành kinh tế, xây dựng một nền kinh tế kế hoạch. Kinh tế tăng trưởng nhanh trong thập niên 1950 và thập niên 1960, sau đó bắt đầu giảm sút từ thập niên 1970 và rơi vào khủng hoảng trầm trọng. Chính quyền cộng sản trở nên thiếu dân chủ. Năm 1968, phong trào Mùa Xuân Praha bùng nổ đòi mở rộng tự do dân chủ và thực hiện đa nguyên chính trị, song sau đó bị quân đội Liên Xô đàn áp và dập tắt. Tháng 11 năm 1989, cuộc Cách mạng Nhung lụa diễn ra trong hòa bình, đưa đất nước Tiệp Khắc trở lại quá trình dân chủ.

      Ngày 1 tháng 1 năm 1993, Tiệp Khắc diễn ra cuộc “chia li trong hòa bình”. Hai dân tộc Séc và Slovakia tách ra, thành lập hai quốc gia mới là Cộng hòa Séc và Cộng hòa Slovakia.  Cộng hòa Séc từ sau khi lại trở thành một quốc gia độc lập năm 1993, Quốc hội Cộng hòa Séc đã quyết định giữ nguyên lá cờ của Liên bang Tiệp Khắc cũ làm là cờ của Cộng hòa Séc. Cùng năm đó, nước này gia nhập Liên Hiệp Quốc. Đến năm 1995, Cộng hòa Séc trở thành một thành viên của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) và Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Ngày 12 tháng 3 năm 1999, Cộng hòa Séc gia nhập NATO. Vào năm 2004, cùng với 9 quốc gia Đông Âu và Nam Âu khác, Cộng hòa Séc đã trở thành một thành viên của Liên minh Châu Âu. Kinh tế Cộng hòa Séc đi theo nền kinh tế thị trường và đang trên đà phát triển mạnh, song cũng vẫn phải đối mặt với nhiều mạo hiểm và thách thức to lớn.

      Chính trị kinh tế cộng hòa Séc

      Chính trị Cộng hòa Séc. Theo hiến pháp, Séc là một quốc gia đa đảng theo chế độ dân chủ nghị viện, tổng thống là người đứng đầu nhà nước còn thủ tướng là người điều hành chính phủ. Tổng thống Cộng hòa Séc được bầu bởi Quốc hội với nhiệm kỳ 5 năm. Theo Hiến pháp, một tổng thống không được phép nắm quá hai nhiệm kỳ liên tiếp. Tổng thống có vai trò chủ yếu về mặt nghi thức song ông cũng có thể dừng thông qua một đạo luật hoặc giải tán quốc hội trong những trường hợp đặc biệt.

      Tổng thống hiện nay của Cộng hòa Séc là ông Václav Klaus. Mới đây Cộng hòa Séc đã thông qua bộ luật mới về việc bầu cử tổng thống trực tiếp, tức là tổng thống sẽ được người dân bầu ra chứ không do Quốc hội bầu như trước nữa.

      Thủ tướng Cộng hòa Séc là người đứng đầu chính phủ. Thủ tướng nắm trong tay nhiều quyền lực lớn như quyết định các vấn đề đối nội và đối ngoại, triệu tập quốc hội và chọn ra các bộ trưởng của chính phủ. Thủ tướng hiện nay của Cộng hòa Séc là ông Petr Nečas.

      Quốc hội của Cộng hòa Séc được tổ chức theo mô hình lưỡng viện, bao gồm hạ viện và thượng viện. Hạ viện gồm 200 ghế còn thượng viện gồm 81 ghế. Tại Cộng hòa Séc có 14 khu vực bầu cử tương ứng với 14 khu vực hành chính của cả nước.

      14 khu vực hành chính gồm thành phố thủ đô Praha và 13 vùng địa phương (bảng kèm). Ở Praha, quyền lực được thi hành bởi Thị trưởng Praha và Hội đồng Thành phố. Ở 13 vùng còn lại có hội đồng địa phương được bầu chọn qua bầu cử và người lãnh đạo riêng. Mỗi khu vực nói trên của Cộng hòa Séc được coi là một vùng cấp ba của Liên minh châu Âu. Trong khi đó, toàn bộ lãnh thổ Cộng hòa Séc được coi là một vùng cấp hai của Liên minh châu Âu. (Xem Các vùng của Liên minh châu Âu)

      Tòa án Hiến pháp (hay Tòa án Lập pháp) của Cộng hòa Séc gồm có 15 thành viên và có nhiệm kỳ 10 năm. Các thành viên của Tòa án Hiến pháp được chỉ định bởi tổng thống và được thông qua bởi thượng viện.

      Cộng hòa Séc là nước đa đảng với sự tham gia của nhiều đảng phái. Hai đảng có ảnh hưởng lớn nhất ở Cộng hòa Séc là Đảng Dân chủ Công dân và Đảng Xã hội Dân chủ Séc.

      Quân đội Séc gồm có lục quân, không quân và lực lượng hậu cần đặc biệt. Quân đội Séc ngày nay là một phần của Quân đội Tiệp Khắc trước kia, vốn là một trụ cột quan trọng của Hiệp ước Warsaw cho đến tận năm 1989. Kể từ khi gia nhập NATO vào ngày 12 tháng 3 năm 1999, lực lượng quân đội Séc đã có những sự thay đổi đáng kể về nhiều mặt. Tuy số lượng binh lính giảm xuống còn khoảng 67.000 người nhưng về mặt chất lượng lại được nâng cao và trình độ tổ chức chuyên nghiệp hơn. Năm 2004, chế độ nghĩa vụ quân sự bắt buộc bị giải thể. Lực lượng quân đội Séc ngoài nhiệm vụ phòng thủ, bảo vệ đất nước còn tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên Hiệp Quốc tại Iraq, Afghanistan, Bosna và Hercegovina, Kosovo.

      Kinh tế Cộng hòa Séc là nền kinh tế dịch vụ – công nghiệp phát triển được đánh giá là một trong những nền kinh tế mới trỗi dậy ở Đông Âu đạt sự ổn định và thịnh vượng nhất trong số các nước thời kỳ hậu cộng sản ở châu Âu.

      Đồng tiền chính thức hiện nay của Cộng hòa Séc là đồng koruna. Trong tiếng Séc, từ koruna có nghĩa là “vương miện”. Đồng tiền này chính thức được sử dụng từ ngày 18 tháng 2 năm 1993 sau khi Cộng hòa Séc và Slovakia tách khỏi Tiệp Khắc. Ký hiệu trong giao dịch quốc tế của đồng koruna Séc theo ISO 4217 là CZK. Đồng tiền koruna của Cộng hòa Séc bắt đầu tham gia các tỷ giá hối đoái từ năm 1995 và được thả nổi kể từ năm 1999. Trong năm 2007, chỉ số lạm phát của đồng tiền này là 2,4% và đã được duy trì ổn định trong suốt nhiều năm qua. Cộng hòa Séc có kế hoạch gia nhập khu vực sử dụng đồng tiền chung châu Âu (euro) vào năm 2012 nhưng sau đó đã tuyên bố hoãn lại. Đầu năm 2008, Ngân hàng Quốc gia Séc tuyên bố sẽ lùi thời hạn gia nhập khu vực đồng tiền chung đến năm 2019.

      Dịch vụ là lĩnh vực đóng góp nhiều nhất trong nền kinh tế, chiếm 57,3% GDP. Các ngành ngân hàng, công nghệ thông tin, viễn thông là những động lực năng động của nền kinh tế Séc và thu hút nhiều vốn đầu tư nước ngoài. Thương mại là một hoạt động kinh tế quan trọng với các đối tác thương mại chủ yếu là Cộng hòa Liên bang Đức, Slovakia, Áo, Ba Lan… Du lịch cũng là một thế mạnh của Cộng hòa Séc đóng góp tới 5,5% GNP của nước này. Thủ đô Praha thường là lựa chọn hàng đầu của du khách với rất nhiều các công trình văn hóa, lịch sử nổi tiếng. Những khu du lịch spa nổi tiếng như Karlovy Vary thường là điểm đến được yêu thích vào các kỳ nghỉ. Những lễ hội âm nhạc hay bia của Cộng hòa Séc cũng góp phần làm đất nước này trở thành một địa điểm du lịch hấp dẫn.

      Công nghiệp chiếm tỉ trọng 39,3% trong nền kinh tế. Cộng hòa Séc vốn là một nước có sẵn những cơ sở công nghiệp từ thế kỉ 19, có nhiều điều kiện thuận lợi phát triển. Các ngành công nghiệp chính của nước này là luyện kim, công nghiệp nặng và máy xây dựng, sắt và thép, gia công kim loại, hóa chất, điện tử,  sợi dệt, kính, rượu bia, sứ, gốm, dược phẩm, sản xuất máy móc, thiết bị điện tử, phương tiện giao thông, thiết bị vận tải, dệt may, chất hóa học, dược phẩm, chế biến lương thực thực phẩm… Bên cạnh đó, Cộng hòa Séc rất nổi tiếng với ngành công nghiệp sản xuất đồ gốm sứ và pha lê.

      Nông nghiệp chỉ chiếm 3,4% GDP trong cơ cấu kinh tế của Cộng hòa Séc. Nông nghiệp Cộng hòa Séc không có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển. Các loại cây trồng chủ yếu của nước này là lúa mì, khoai tây, củ cải đường, cây hublông…

      Năng lượng: Cộng hòa Séc nhìn chung là một nước nghèo tài nguyên về năng lượng, ngoại trừ một ít dầu mỏ và khí gas ở miền nam Moravia. Hiện nay nước này đang hạn chế dần việc sử dụng than làm chất đốt vì vì sản sinh ra nhiều khí nhà kính gây ô nhiễm môi trường. Năng lượng nguyên tử chiếm 30% tổng nhu cầu năng lượng hiện nay ở Cộng hòa Séc, và dự kiến có thể tăng lên 40% trong những năm tới. Khí gas tự nhiên được nhập khẩu từ nước ngoài và là một khoản chi tiêu lớn của Cộng hòa Séc. Gas được nhập từ tập đoàn Gazprom của Nga qua các đường ống trung chuyển ở Ukraina và nhập từ các công ty của Na Uy, được vận chuyển qua Đức. Sản lượng điện năm 2005 đạt 77,38 tỷ Kwh và ngoài đáp ứng tiêu thụ trong nước, Cộng hòa Séc xuất khẩu gần 25 tỷ Kwh điện năng.

      Giao thông: Cộng hòa Séc là trái tim của châu Âu nên có mạng lưới giao thông dày đặc và khá phát triển. Đường sắt có tổng chiều dài 16.053 km (năm 2005) và mật độ đường sắt cao nhất trong Liên minh châu Âu: 120 km trên 1.000 km vuông. Hàng năm đường sắt nước này chuyên chở khoảng 178 triệu hành khách và 100 triệu mét khối hàng hóa. Công ty “Đường sắt Séc” chiếm 99% tổng hành khách vận chuyển bằng đường sắt. Đường bộ của Cộng hòa Séc có trên 6.174 km đường quốc lộ cao tốc hạng nhất (giới hạn tốc độ 130 km/h) nối thủ đô và các thành phố chính như Brno, Plzen, Pripram… và hòa vào hệ thống đường cao tốc châu Âu tạo thành xương sống của hệ thống đường bộ nước này. Đường bộ cấp thấp hơn có tổng chiều dài 48.778 km. Về đường hàng không, Cộng hòa Séc có khoảng 60 sân bay công cộng trong đó lớn nhất là Sân bay quốc tế Pragua hàng năm đón khoảng 11 triệu lượt khách. Hãng hàng không quốc gia là Czech Airlines có đường bay đến những thành phố lớn ở châu Âu, Bắc Mỹ, Châu Á, Trung Đông và Bắc Phi. Đường sông chủ yếu tập trung ở ba con sông chính là Labe, Vltava và Berounka với tổng chiều dài khoảng 300 km. Vận tải thủy chiếm từ 2 đến 5% lượng hàng hóa xuất nhập khẩu và có vai trò quan trọng trong thương mại với Đức, Bỉ và Hà Lan, ngoài ra nó cũng phục vụ cho du lịch. Giao thông công cộng ở các thành phố lớn cũng khá thuận tiện với các phương tiện chủ yếu là xe bus, tàu điện, ngoài ra thủ đô Prague bắt đầu có tàu điện ngầm từ ngày 9 tháng 5 năm 1974, chiều dài đường tàu điện ngầm khoảng 54 km.

      Thông tin và truyền thông: Cộng hòa Séc có trên 3,2 triệu thuê bao cố định (2005) và trên 12 triệu thuê bao di động (2006). Số người sử dụng điện thoại di động tăng mạnh từ giữa thập niên 1990 và đến nay đạt 120 thuê bao trên 100 người. Hệ thống thông tin nội địa đã được nâng cấp thiết bị ADSL để tạo điều kiện thuận lợi cho sử dụng Internet và 93% dung lượng trao đổi dưới dạng kỹ thuật số. Để phục vụ viễn thông quốc tế, Cộng hòa Séc có 6 vệ tinh: 2 Intersputnik, 1 Intelsat, 1 Eutelsat, 1 Inmarsat và 1 Globalstar. Cộng hòa Séc có 4 đài truyền hình ở phạm vi toàn quốc và trên 20 đài khu vực trong đó Czech Television, TV Nova và Prima TV là những hãng lớn nhất. Cộng hòa Séc là nước Đông Âu đầu tiên cho phép tư nhân phát sóng truyền hình năm 1994. Nước này cũng có 7 đài phát thanh toàn quốc, 76 đài phát thanh địa phương. Internet khá phát triển với những nhà cung cấp dịch vụ chính là Seznam, Centrum, Atlas, iDnes, Volny và Tiscali.

      Văn hóa giáo dục cộng hòa Séc

      Ngôn ngữ văn hóa: Văn học Séc bắt nguồn từ thế kỉ 8 sau công nguyên dưới thời Đại Moravia. Hai anh em Cyril và Methodius đã được vương triều Byzantine cử tới Đại Moravia để truyền bá Đạo Thiên chúa, đồng thời sáng lập ra ngôn ngữ viết Slav đầu tiên: tiếng Slavonic cổ viết trên bảng chữ cái Glogotic, tiền thân của bảng ký tự Cyril sau này. Sau khi Đại Moravia sụp đổ và được thay thế bởi vương triều Bohemia vào thế kỉ 9, tiếng Latin đã dần lấn lướt tiếng Slavonic cổ để trở thành ngôn ngữ chính thức trong nền văn học Séc. Bên cạnh đó, tiếng Đức cũng trở thành một ngôn ngữ có tầm ảnh hưởng lớn tại vùng đất này cho đến tận cuối thế kỉ 19. Vào thế kỉ 13, dưới triều đại Premyslid của Bohemia, nền văn học Séc đã có những thay đổi đáng chú ý. Những nhà thống trị ở Bohemia bắt đầu tách họ ra khỏi nền văn học Tây Âu lúc đó nói chung và cố gắng xây dựng một nền văn học dân tộc riêng của người Séc. Thời kỳ này văn học Séc được chia làm hai thể loại chính là huyền thoại và sử thi về các anh hùng. Văn xuôi cũng bắt đầu xuất hiện trong thời gian này. Hai tác phẩm đáng chú ý xuất hiện trong giai đoạn này là cuốn từ điển Séc-Latin và bộ sử biên niên đầu tiên viết bằng tiếng Séc: sử biên niên Dalimil.

      Văn học trong thời kỳ chiến tranh tôn giáo Hussite, thường được dùng để tranh luận và đả kích giữa các nhóm tôn giáo với nhau. Sự phân hóa rõ rệt thể hiện trên phương diện ngôn ngữ là tiếng Latin được dùng bởi những người theo đạo Thiên chúa, còn tiếng Séc được dùng bởi những người theo đạo Tin lành. Trận Núi Trắng năm 1620 với thất bại của những người Tin lành đã khiến nền văn học viết bằng tiếng Séc bị ảnh hưởng. Những chính sách đồng hóa dưới thời Đế chế Áo và Đế chế Áo-Hung càng làm cho tiếng Séc có nguy cơ biến mất. Tuy nhiên Thời kỳ Khai sáng trong Đế chế Áo-Hung đã lại tạo điều kiện cho tiếng Séc có cơ hội phát triển, cùng với đó là cả một nền văn học Séc mới. Từ đó đến nay, nền văn học Séc đã trải qua nhiều thăng trầm, biến động và sản sinh ra những tác gia lớn. Franz Kafka, nhà văn gốc Do Thái nổi tiếng của Cộng hòa Séc với những tác phẩm viết bằng tiếng Đức, ông được coi là người khơi nguồn cho văn học phi thực ở châu Âu. Năm 1984, Jaroslav Seifert đã trở thành công dân Cộng hòa Séc đầu tiên (lúc đó là Tiệp Khắc) đoạt giải thưởng Nobel về Văn học.

      Văn hóa tâm linh là một trong những yếu tố cần lưu ý: Cộng Hòa Séc, cùng với Estonia, là một trong những nước có tỉ lệ người không tín ngưỡng cao nhất thế giới, mặc dù người dân Séc từ xưa đã luôn có thái độ khoan dung đối với tôn giáo. Theo thống kê năm 2001, 59% dân số Cộng hòa Séc không theo một tôn giáo nào (một tỉ lệ khá lớn nếu so sánh với các nước láng giềng như Đức và Ba Lan), 26,8% theo Công giáo,  2,1% theo đạo Tin Lành. Trong vòng 10 năm (1991-2001), số  người không có tín ngưỡng tăng gần 2 triệu người, khoảng 19,1 %.

      Âm nhạc: Tại Cộng hòa Séc, giao hưởng và nhạc kịch có một sư liên hệ mật thiết với các vũ khúc dân gian truyền thống của Bohemia và Moravia. Một trong những thể loại nhạc độc đáo và đặc trưng nhất của xứ Bohemia là Polka, một loại nhạc nhảy có tiết tấu nhanh và vui nhộn được hình thành vào giữa thế kỉ 19. Nhạc Polka (tiếng Séc có nghĩa là “cô gái Ba Lan”) đã nhanh chóng trở nên thịnh hành không chỉ ở châu Âu mà còn trên khắp thế giới, đồng thời nó cũng trở thành chất liệu để viết giao hưởng của hai nhạc sĩ nổi tiếng người Áo là Johann Strauss I và Johann Strauss II. Nhạc dân gian Moravia được chơi với nhiều loại nhạc cụ như đại hồ cầm, kèn clarinet và violong. Nhạc Moravia thường biểu hiện những ảnh hưởng từ nước ngoài, đặc biệt là từ România và Ba Lan. Ngày nay, các hình thức âm nhạc hiện đại như pop, rock and roll đang ngày càng trở nên phổ biến. Các bài hát nổi tiếng trong tiếng Anh nhiều khi được người Séc đặt lại lời theo tiếng Séc và kết hợp với một vài phong cách truyền thống của họ.

      Lễ hội: Cộng hóa Séc có hai ngày quốc khánh (tức ngày độc lập). Ngày 1 tháng 1 năm 1993 là ngày Cộng hòa Séc tách ra từ Liên bang Tiệp Khắc để trở thành một quốc gia độc lập. Còn ngày quốc khánh thứ hai là 28 tháng 10 năm 1918, ngày mà nhân dân hai nước Séc và Slovakia cùng nhau thành lập Liên bang Tiệp Khắc sau sự sụp đổ của Đế chế Áo-Hung. Giống với nhiều quốc gia châu Âu khác, Cộng hòa Séc cũng tổ chức những ngày lễ quan trọng của Kitô giáo như Lễ Phục sinh, Lễ Giáng sinh. Vào đêm vọng Lễ Giáng Sinh 24 tháng 12, tất cả các thành phố lớn của Cộng hòa Séc đều được trang hoàng lộng lẫy. Ngày tiếp theo là ngày Giáng Sinh 25 tháng 12. Tiếp đó ngày 26 tháng 12 được gọi là ngày Thánh Stêphanô, được coi như ngày Giáng sinh thứ hai của Cộng hòa Séc. Bên cạnh đó, Cộng hòa Séc còn là điểm đến của nhiều lễ hội văn hóa quốc tế. Lễ hội Âm nhạc Quốc tế Praha được tổ chức vào mùa xuân hàng năm thu hút rất nhiều các dàn nhạc giao hưởng từ khắp nơi trên thế giới. Bên cạnh đó còn có Liên hoan Phim Quốc tế được tổ chức tại thành phố Karlovy Vary hay các lễ hội bia được tổ chức tại nhiều miền khác nhau của đất nước này.

      Ẩm thực: Cộng hòa Séc có ảnh hưởng lớn đến các nền ẩm thực tại khu vực Trung Âu và bản thân nó cũng chịu ảnh hưởng của các nền ẩm thực khác. Nhiều món ăn phổ biến trong khu vực có nguồn gốc và xuất xứ từ đất nước này. Đa phần các món ăn chính của Cộng hòa Séc đều có thịt, gồm thịt lợn, thịt bò và thịt gà. Do không phải một quốc gia giáp biển nên cá là một món ăn hiếm gặp tại nước này, chủ yếu được dùng nhiều vào dịp Giáng sinh. Thịt heo hầm với bánh mỳ hấp và dưa cải muối được coi là một trong những món ăn phổ biến nhất của Cộng hòa Séc. Dưa cải muối trong món ăn này có hai cách chế biến khác nhau. Nó được chế biến chua hơn tại Bohemia và ngọt hơn tại Moravia. Thịt bò hầm nấu với sữa cũng là một món ăn thịt khá phổ biến. Món ăn này gồm những miếng thịt bò hầm chấm với nước sốt đặc từ sữa, được kèm theo bởi bánh mỳ hấp, một thìa mứt quả và một lát chanh. Một số món ăn nhẹ tiêu biểu cho ẩm thực Séc là món bánh kếp rán được làm từ hỗn hợp khoai tây, bột mì, sữa kèm theo một số gia vị rồi đem rán. Bên cạnh đó, pho mát cũng là một món ăn được ưa chuộng với nhiều chủng loại đa dạng. Món bánh mỳ hấp có nhân mứt hoa quả xay nghiền được làm từ bột khoai tây nhào trộn và bộc mứt nghiền trái cây, sau đó đem luộc và được dùng với bơ, đường và pho mát. Có rất nhiều loại bánh bao hoa quả khác nhau được chế biến cùng nhiều loại trái cây đa dạng như dâu tây, đào, anh đào, mơ, mận… Những món ăn này không chỉ đơn thuần được coi như món tráng miệng mà đôi khi được xem là một món ăn chính trong bữa ăn. Trong dịp lễ Giáng sinh, món bánh vánočka sẽ được làm cùng với rất nhiều bánh quy và kẹo ngọt. Cộng hòa Séc còn là một quốc gia nổi tiếng về bia. Nghề làm bia tại Cộng hòa Séc đã có lịch sử lâu đời từ hàng trăm năm nay và được làm chủ yếu từ hoa của cây hublông. Một trong những loại bia nổi tiếng nhất nước này là bia Plzeň, được làm tại thành phố Plzeň  ở xứ Bohemia.

      Thể thao là một phần không thể thiếu trong cuộc sống tinh thần của người dân Cộng hòa Séc. Hai môn thể thao phổ biến và giành được nhiều sự hâm mộ nhất tại nước này là bóng đá và hockey trên băng. Bên cạnh đó, các môn thể thao như bóng rổ, bóng chuyền, bóng ném, điền kinh… cũng rất phổ biến. Hockey trên băng là một môn thế mạnh của Cộng hòa Séc. Nước này đã từng 1 lần đoạt huy chương vàng tại Thế vận hội Mùa đông 1998 và 5 lần vô địch giải hockey trên băng toàn thế giới. Bóng đá cũng là một môn thể thao ưa chuộng tại nước này. Trước kia khi còn nằm trong Liên bang Tiệp Khắc, đội tuyển bóng đá quốc gia Tiệp Khắc đã từng hai lần đoạt ngôi vị á quân thế giới (World Cup). Còn hiện nay, đội tuyển bóng đá quốc gia Cộng hòa Séc đã từng đạt ngôi á quân tại Euro 1996. Nước này cũng có tên trong dach sách 16 đội tuyển tham dự vòng chung kết Euro 2008 sắp tới tại Áo và Thụy Sĩ.Xem tiếp >>

        Dạy và học 13 tháng 11(13-11-2021)


      Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là st25-gao-ngon-viet-nam.jpg

      DẠY VÀ HỌC 13 THÁNG 11
      Hoàng Kim
      CNM365 Tình yêu cuộc sốngCon đường lúa gạo Việt; Hồ Quang Cua gạo ST; Sắn Việt Nam ngày nay; Myanmar đất nước chùa tháp; Vui đi dưới mặt trời; Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay, Thầy bạn trong đời tôi; Ngày 13 tháng 11 năm 2019, Gạo ST25 của Việt Nam đã đoạt giải nhất trong hội thi gạo ngon quốc tế (World’s Best Rice 2019) tổ chức tại Khách sạn Makati Shangri-La, Manila, Philippines từ 10-13 tháng 11 năm 2019 Ngày 13 tháng 11 năm 2010  Aung San Suu Kyi được nhà cầm quyền Myanma trả tự do sau 21 năm giam cầm tại gia. Bà là chủ tịch Đảng Liên minh Quốc gia vì Dân chủ (NLD), là chính trị gia lãnh tụ phe Đối lập của người Myanmar, một trong những tù nhân chính trị được biết đến nhất trên thế giới. Trong cuộc bầu cử phổ thông năm 1990, NLD giảnh  81% (392 trên 485) ghế trong nghị viện, 59% tổng số phiếu bầu nhưng bà Aung San Suu Kyi  đã bị chính quyền quân sự quản thúc tại gia trước khi cuộc bầu cử diễn ra và chưa bao giờ được nhậm chức thủ tướng. Bà chịu sự quản thúc tại gia của chính quyền quân sự trong gần 15 năm của tổng số 21 năm quản chế cho đến khi được thả vào tháng 11 năm 2010. Bà Aung San Suu Kyi nay là Cố vấn nhà nước Myanmar. Ngày 13 tháng 11 năm 1874 ngày sinh Winston Churchill (mất năm 1965) là Thủ tướng Anh, chính trị gia, người lính, nhà báo, tác giả và họa sĩ. Ông được coi là một trong những nhà lãnh đạo quan trọng nhất trong lịch sử Anh và lịch sử thế giới thời Thế chiến thứ hai, là thủ tướng Anh duy nhất nhận giải Nobel Văn học và là người đầu tiên được công nhận là Công dân danh dự Hoa Kỳ. Bài viết chọn lọc ngày 13 tháng 11:Con đường lúa gạo Việt; Hồ Quang Cua gạo ST; Sắn Việt Nam ngày nay; Myanmar đất nước chùa tháp; Vui đi dưới mặt trời; Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay, Thầy bạn trong đời tôi; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-13-thang-11/

      HỒ QUANG CUA GẠO ST
      Hoàng Kim

      Gạo thơm Sóc Trăng ST25, ST 24 và chuỗi giá trị gạo ngon Việt của kỹ sư Hồ Quang Cua anh hùng lao động với các đồng sự TS Trần Tấn Phương, Th S Nguyễn Thị Thu Hương và Doanh nghiệp Lúa giống Hồ Quang Trí, tỉnh Sóc Trăng là điểm sáng nổi nông sản Việt trong những năm gần đây. ST25 Gạo ngon Việt đã đoạt giải nhất trong hội thi gạo ngon quốc tế (World’s Best Rice 2019) tổ chức tại Khách sạn Makati Shangri-La, Manila, Philippines từ 10-13 tháng 11 năm 2019. Bài viết này gồm ba nội dung: 1) Hồ Quang Cua gạo ST (lược khảo) 2) Con đường lúa gạo Việt; 3) Thầy bạn trong đời tôi (Hoàng Kim notes: Ấn tượng người anh hùng lúa ST hạt ngọc Việt) .

      Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là st25-gao-ngon-viet-nam-1.jpg

      World’s Best Rice 2019, Manila, Philippines, 10-13 tháng 11 năm 2019 là sự kiện địa điểm thời gian lên ngôi ST25 gạo ngon Việt. Trước đó gạo thơm Sóc Trăng ST24 đã vinh dự đoạt giải nhất cuộc thi Gạo ngon Việt Nam lần đầu tiên được tổ chức tại thành phố Hồ Chí Minh, ngày 4 tháng 11 năm 2019. Gạo thơm Sóc Trăng ST24 của Việt Nam từ năm 2017 đã tỏa sáng Hạt ngọc Việt được vinh danh với gạo Thái Lan và gạo Campuchia trong Top 3 Gạo ngon nhất thế giới. Sóc Trăng đất và người, địa chỉ xanh Hạt ngọc Việt, Gương sáng gạo ngon Việt đi ra thế giới . Bài viết Hồ Quang Cua gạo ST là chỉ dấu địa lý văn hóa du lịch sinh thái Việt Con đường lúa gạo Việt; Cây Lương thực Việt Nam, Thầy bạn trong đời tôi

      Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là ho-quang-cua-gao-thom-soc-trang-3.jpg

      GẠO ST ĐẶC SẢN VIỆT

      Hình ảnh trên là kỷ sư anh hùng lao động Hồ Quang Cua (trái) với giáo sư anh hùng lao động Võ Tòng Xuân (giữa) và ‘người hiền hương sen Đồng Tháp’ Nguyễn Phước Tuyên trước ruộng giống lúa đặc sản duy trì 30 dòng gốc úa ST trong đó có giống lúa ST24.

      Gạo ST24 là gạo ngon Việt Nam đặc sản đạt chuẩn hạt dài, trắng trong, cơm dẻo vừa và có hương thơm mùi lá dứa, chống chịu tốt với ngoại cảnh, thời gian sinh trưởng ngắn ngày (95-105 ngày) so với gạo Thái rất dài ngày (khoảng 150 ngày). Gạo thơm Sóc Trăng ST24 lọt vào “Top 3 Gạo ngon nhất thế giới” là hành trình 25 năm dày công nghiên cứu và phát triển “vượt lên chính mình” của 24 giống lúa gạo thơm Sóc Trăng do kỹ sư Hồ Quang Cua và đồng sự dày công nghiên cứu lai tạo. Lúa thơm Sóc Trăng được hình thành mang đậm dấu ấn giữa Giáo sư tiến sĩ anh hùng lao động Võ Tòng Xuân, người mang giống lúa KDM, một giống lúa thơm từ nước ngoài, về tặng cho tỉnh Sóc Trăng, và kỹ sư anh hùng lao động Hồ Quang Cua. Quá trình gian nan tạo dòng, chon lọc dòng và đưa gao ngon Việt Nam ra thế giới là một câu chuyện dài. Anh Hồ Quang Cua nhớ lại: “Năm 1993, UBND tỉnh Sóc Trăng, lúc đó ngân sách còn thiếu trước hụt sau, đã xuất ngân sách mua trữ trên 600 tấn lúa giống KDM để đầu tư cho sản xuất”.

      Cuối năm 2017, Hội nghị Quốc tế lần 9 về Thương mại Gạo tổ chức tại Ma Cao Trung Quốc. GS.TS Võ Tòng Xuân và kỷ sư Hồ Quang Cua tham dự hội nghị này. Giáo sư Võ Tòng Xuân đã không khỏi xúc động lấy máy tính đánh bản tin về cộng tác với tờ báo Việt Nam: “Gạo ST24 của Việt Nam đã được vinh danh với gạo Thái Lan và gạo Campuchia trong Top 3 Gạo ngon nhất thế giới”. TS Trần Tấn Phương, Giám đốc Công ty Giống Cây trồng tỉnh Sóc Trăng cho biết đối với Hội nghị quốc tế về thương mại gạo, hội đồng giám khảo chỉ bình chọn và vinh danh những loại gạo ngon nhất, đạt các tiêu chuẩn của gạo ngon thế giới. Vì vậy, gạo ST24 lọt vào Top 3 gạo ngon nhất thế giới không chỉ là vinh dự, mà còn là cơ hội rất lớn để gạo ST24 nói riêng và các giống ST khác của Sóc Trăng tiếp cận được với phân khúc thị trường cao cấp, giá cao của thế giới.

      Cuối tháng 6 năm 2018, gạo Việt Nam xuất khẩu liên tục trúng thầu xuất khẩu ở nhiều nước với giá gạo trắng 5% tấm xuất khẩu của Việt Nam đã đạt 450 USD/tấn, cao hơn so với giá gạo Thái Lan là 435 USD và Ấn Độ là 410 USD. Việt Nam đã nộp hồ sơ đăng ký thương hiệu nhãn hiệu quốc tế và bộ tiêu chuẩn sang hệ thống Madrid, điều mà Thái Lan đã làm với gạo thơm Hom Mali của họ từ năm 1955. Gạo Việt trong đó có gạo thơm Sóc Trăng đã phát triển rộng hơn tại các thị trường trong và ngoài nước. Liên tiếp trong các vu lúa đông xuân vừa qua, gạo thơm Sóc Trăng đạt giá trị xuất khẩu cao kỷ lục khoảng 700 USD/tấn (cao hơn gạo thường khoảng 200-300 USD/tấn).và giá bán buôn cao trên thị trường nội địa. Nông dân sản xuất giống lúa này được bảo hiểm hợp đồng tiêu thụ sản xuất lúa trong khi chi phí đầu vào thấp, ít sâu bệnh, quy trình canh tác hữu cơ ít sử dụng phân bón hơn so với sự thâm canh các giống lúa cao sản nên người trồng lúa có thể đạt lợi nhuận trên 60%. Sóc Trăng đã hoàn thiện các quy trình sản xuất gạo thơm Sóc Trăng gắn với chỉ dẫn địa lý, đăng ký sở hữu bản quyền. Đó là việc làm có ý nghĩa rất quan trong. .Tỉnh Sóc Trăng đã hỗ trợ nông dân trồng lúa được cấp chứng nhận GlobalGAP cho 52 ha lúa thơm ST của hai hợp tác xã tại huyện Mỹ Xuyên và thị xã Ngã Năm; một hợp tác xã của huyện Châu Thành được cấp chứng nhận VietGAP với diện tích sản xuất 61ha và 41ha tại huyện Kế Sách. Doanh nghiệp tư nhân lúa giống Hồ Quang Trí cũng đã triển khai sản xuất lúa ST theo quy trình hữu cơ với diện tích gần 59 ha.

      Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là hc3b4-quang-cua-nguyen-van-luat.jpg

      Kỷ sư anh hùng lao động Hồ Quang Cua và giáo sư tiến sĩ anh hùng lao động Nguyễn Văn Luật (ảnh tư liệu Hoàng Kim).

      Sóc Trăng là đột phá điển hình sản xuất gạo thơm Việt Nam với thành tựu gạo ST24 lọt vào Top 3 gạo ngon nhất thế giới. Sóc Trăng là nơi gặp gỡ của lúa vùng thâm canh với lúa vùng mặn làm nên hương ương vị đặc sản đậm đà của hạt gạo ngon, Sóc Trăng cũng là nơi gặp gỡ của những người anh hùng ruộng đồng, là Điện Biên Phủ nghề lúa Việt Nam. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã nhanh chóng đón nhận thành tựu giá trị gạo thơm Sóc Trăng xuất khẩu để làm mục tiêu “nâng cấp giá trị hạt gạo Việt” Theo TS.Trần Ngọc Thạch, Viện trưởng Viện Lúa Đồng bằng sông Cửu Long thì cơ cấu giống lúa của ĐBSCL đã chuyển dịch mạnh mẽ theo hướng ưu tiên giống chất lượng cao. Vụ Đông Xuân 2018/2019, gạo chất lượng cao ĐBSCL chiếm khoảng 32% trong cơ cấu giống, gạo thơm gạo đặc sản 31-32%, gạo chất lượng trung bình chiếm 17%, gạo nếp 9 – 10%, còn lại là các loại gạo khác. Cho nên việc xuất khẩu gạo năm 2018 đã mang lại kết quả khả quan, giá gạo Việt đã cao hơn gạo Thái 15-20 USD/tấn. Ngành lúa gạo Việt Nam được tái cơ cấu theo hướng cải tiến chuỗi giá trị lúa gạo thích hợp cho mỗi vùng sinh thái, trong đó tăng cường sử dụng giống tốt, giống chất lượng cao phù hợp với vùng sinh thái kết hợp với quy trình thâm canh tốt, ứng dụng khoa học công nghệ, cơ giới hóa để giảm chi phí sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng, khả năng cạnh tranh của sản phẩm, tiếp tục sử dụng các giống có khả năng chống chịu tốt với hạn, mặn, ngập để thích ứng với biến đổi khí hậu, chuyển đổi một phần diện tích đất lúa kém hiệu quả sang nuôi trồng thủy sản hoặc mục đích khác. Video Hồ Quang Cua gạo ST trong
      Chương trình VTV1 Giai điệu tự hào 27/10/2019 :

      Đến Long Phú, Sóc Trăng bạn sẽ gặp con đường Trường Khánh - Đại Ngãi nối vựa lúa chất lượng ngon và năng suất cao nhất nước.

      CON ĐƯỜNG LÚA GẠO VIỆT

      Việt Nam là chốn tổ của nghề lúa. Giáo sư tiến sỹ, anh hùng lao động Nguyễn Văn Luật, nguyên Viện trưởng Viện Lúa Đồng Bằng Sông Cửu Long,  tác giả chính của cụm công trình ‘Nghiên cứu và phát triển lúa gạo’ đoạt giải thưởng Hồ Chí Minh, đã có hai bài viết quan trọng giới thiệu về “Lịch sử cây lúa Việt Nam” và “Cải tiến giống lúa cho sản xuất lúa gạo tại Việt Nam”. Giáo sư đã đưa ra các bằng chứng và dẫn liệu ‘Việt Nam là chốn tổ của nghề lúa’ và ‘các tiến bộ của giống lúa Việt Nam những năm đầu thế kỷ 21’. Bộ sách:GS Nguyễn Văn Luật chủ biên 2003 “Cây lúa Việt Nam thế kỷ 20”, ba tập Nhà Xuất Bản Nông nghiệp, Hà Nội, 1.347 trang, xuất bản ba năm 2001, 2002, 2003 Bộ sách GS Nguyễn Thị Lang, GS Bùi Chí Bửu 2011. Khoa học về cây lúa, di truyền và chọn giống, Nhà Xuất bản Nông Nghiệp, 623 trang, đã đúc kết về những tiến bộ này .

      Con đường lúa gạo Việt là dòng chính Việt Nam con đường xanh gồm chùm bài viết về dạy và học Cây Lương thực Việt Nam. Chuỗi địa chỉ xanh Cây Lương thực Việt Nam gồm Sóc Trăng Lương Định Của; Thầy Tuấn kinh tế hộ; Thầy Luật lúa OMCS OM; Thầy lúa xuân Việt Nam; Thầy Quyền thâm canh lúa; Chuyện thầy Tôn Thất Trình; Chuyện cô Trâm lúa lai; Chuyện thầy Hoan lúa lai, Thầy nghề nông chiến sĩ; Phạm Trung Nghĩa nhà khoa học xanh; Thầy bạn là lộc xuân; Thầy bạn trong đời tôi; danh sách Con đường lúa gạo Việt ngày một nối dài thêm tỏa rộng nhiều vùng đất nước…

      Thầy Norman Borlaug nhà khoa học xanh, cha đẻ của cuộc cách mạng xanh được tặng giải Nobel và thế giới tôn vinh là nhà bác học số một của nhân loại trong  cuộc chiến chống nghèo đói, đã có dặn thật thấm thía: “ Đời người tối thiểu phải ăn, kế đến là học tập, công việc, nhà ở, quần áo và chăm sóc sức khỏe. Quanh ta còn nhiều mảnh đời bất hạnh. Hiểm họa nghèo đói vẫn bùng phát bất cứ lúc nào. Hãy luôn nhớ điều đó”; “Hãy vươn tới những vì sao. Cho dù không chạm được vào nó, nhưng nếu cố gắng hết sức, ít ra, chúng ta cũng chạm được những hạt bụi của ngôi sao”; “Việc chính đời người chỉ ít thôi. Chuyên tâm đừng bận chuyện trời ơi. Phúc hậu suốt đời làm việc thiện. Di sản muôn năm mãi sáng ngời”.

      Nam Bộ Việt Nam, nôi quê hương của nhà bác học nông dân Lương Định Của, là nơi khởi phát và tỏa rộng con đường lúa gạo Việt Nam.
      Về miền Tây là đi về hướng đột phá chính của lúa gạo Việt, nơi mở đầu cho chùm bài viết này.“Sao anh chưa về lại miền Tây. Nơi một góc đời anh ở đó. Cần Thơ Sóc Trăng sông Tiền Sông Hậu. Tên đất tên người chín nhớ mười thương. Anh có về Bảy Núi Cửu Long. Nắng đồng bằng miên man bao nỗi nhớ. Kênh ông Kiệt thương mùa mưa lũ. Anh có về nơi ấy với em không?” (thơ Hoàng Kim).

      Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là loc-troi-lang-le-sang-1.jpg

      Lộc Trời lặng lẽ sáng. An Giang Tập đoàn Lộc Trời là điểm sáng gạo Việt ngày nay cùng Viện Lúa ĐBSCL vàThái Bình Seed tiếp tục là những điển hình thi đua yêu nước của sự bảo tồn và phát triển thương hiệu gạo Việt. Cây Lương thực Việt Nam điểm thông tin chọn lọc của PGS TS Dương Văn Chín : ” Viện Nghiên cứu Nông nghiệp Lộc Trời thuộc Tập đoàn Lộc Trời An Giang có nhiệm vụ: (i) Tư vấn cho Ban điều hành Tập đoàn Lộc Trời về các lãnh vực liên quan đến khoa học công nghệ (ii) Nghiên cứu chọn tạo ra các giống cây trồng mới độc quyền của Lộc Trời hoặc mua bản quyền giống, (iii) Nghiên cứu dinh dưỡng cây trồng, (iv) Nghiên cứu dịch hại và các biện pháp phòng trừ, (v) Nghiên cứu về chế biên lương thực thực phẩm, (vi) Nghiên cứu về kinh tế nông nghiệp, hợp tác hóa và phát triển nông thôn, (vii) Xây dựng các loại qui trình kỹ thuật, (viii) Đào tạo nguồn nhận lực . Về những thành tựu trong nghiên cứu khoa học của Tập đoàn Lộc Trời , cho đến thời điểm hiện tại, các nhà di truyền chọn giống trong Tập đoàn đã lai tạo chọn lọc ra được những giống lúa mới độc quyền, đã được Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn công nhận chính thức, đó là các giống: Lộc Trời 1, Lộc Trời 2, Lộc Trời 3, Lộc Trời 4, Lộc Trời 5. Ngoài ra, có những giống được trồng diện rộng đại trà để sản xuất gạo thương hiệu như: Lộc Trời 88 (Gạo trắng Hạt Ngọc Trời Bắc Đẩu và gạo mầm Vibigaba), giống Lộc Trời 18 (gạo Hạt Ngọc Trời Tiên Nữ), giống Lộc Trời 28 (gạo Hạt Ngọc Trời Thiên Vương). Lộc Trời 28 từng đạt giải nhất trong cuộc đấu xảo quốc tế tổ chức tại Trung Quốc vào tháng 11 năm 2018. Ngoài ra, chúng ta có những sáng kiến trong việc tạo ra các sản phẩm phân bón, hiện nay đang kinh doanh như Đạm Gold chứa vi sinh Mychorhizae giúp phân giải lân trong đất, Đạm Black bọc humalite, phân hữu cơ Vian, v.v… Chúng ta đã viết và ban hành nội bộ các loại qui trình trồng lúa, như qui trình thông thường, qui trình cho sản xuất lúa có gạo đi châu Âu, châu Mỹ, Nhật Bản, thực nghiệm áp dụng bộ tiêu chí sản xuất lúa gạo bền vững SRP đạt điểm tuyệt đối là 100. Trong thời gian sắp tới, Viện NCNN Lộc Trời sẽ thực hiện một số nội dung quan trọng, đó là (i) Lai tạo chọn lọc ra các giống lúa mới độc quyền, mua bản quyền các giống lúa đặc sắc từ các Viện, Trường (ii) Khảo nghiệm so sánh các giống rau màu ưu việt để mua bản quyền kinh doanh (iii) Viết các loại qui trình kỹ thuật cho những loài cây trồng có giá trị kinh tế cao, thông qua Hội đồng khoa học Viện để phổ biến rộng rãi (iv) Khảo nghiệm các loại phân bón và nông dược, hóa học và sinh học để góp phần gia tăng các loại vật tư nông nghiệp với tên thương mại chính thức của Tập đoàn (v) Nghiên cứu cơ giới hóa nông nghiệp, nhất là ứng dụng công nghệ cao sử dụng máy bay drone cho phun thuốc, giro hạt, bón phân, nghiên cứu chế biến nông sản, nâng cao giá trị giá tăng (vi) Hợp tác với các Trường Đại học để đào tạo nguồn nhân lực đại học và sau đại học”. Tập đoàn. Lộc Trời An Giang hiện là mô hình tốt tổ chức hoạt động theo chuỗi, điển hình nhất là chuỗi giá trị lúa gạo. Lộc Trời có năng lực tự lai tạo chọn lọc ra được các giống lúa mới độc quyền của riêng mình, có hệ thống nhân giống hoàn chỉnh, có đội ngũ chuyển giao khoa học kỹ thuật cho nông dân là Lực lượng Ba Cùng, có các nhà máy chế biến lúa gạo, tiêu thụ sản phẩm cho nông dân, phục vụ cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu”.

      GaoThomSocTrang

      THẦY BẠN TRONG ĐỜI TÔI

      Kỷ sư anh hùng lao động Hồ Quang Cua là một điểm sáng Hoàng Kim Notes
      Thầy bạn trong đời tôi . Bài học quý Lê Quý Đôn tinh hoa giúp tôi kinh nghiệm để lập thư mục này cho chính mình về những người mình hằng yêu quý ngưỡng mộ. Cụ Lê Quý Đôn viết Kiến văn tiểu lục (12 quyển), là những ghi chú nhỏ của Lê Quý Đôn (mà tiếng Anh ngày nay gọi là Notes) . Đó là Lê Quý Đôn tận mắt nhìn thấy, tai nghe, hoặc đọc được, và ông thật sự tâm đắc lưu ngay lại điều không nỡ quên này. Lê Quý Đôn chức quan thật trọng trách và bận rộn như Phó Thủ Tướng Chính phủ ngày nay (chứ không phải đơn giản và chuyên việc như tôi và nhiều bạn !) Tập bút ký này của Lê Quý Đôn thật sự quan trọng và quý giá nói về lịch sử và văn hóa Việt Nam từ đời Trần đến đời Lê. Kiến văn tiểu lục là tác phẩm lớn, được chiêm nghiệm, biên soạn thật công phu và nghiêm cẩn, phản ánh trình độ học vấn uyên bác của Lê Quý Đôn. Sách đề cập tới nhiều lĩnh vực thuộc chế độ các vương triều Lý, Trần, từ thành quách, núi sông, đường xá, thuế má, phong tục tập quán, sản vật, mỏ đồng, mỏ bạc và cách khai thác, cho tới các lĩnh vực như thơ văn, sách vở, vớí nhiều lĩnh vực phong phú.

      Nhà văn, nhà báo Huỳnh Kim năm 2013 đã có bài viết ấn tượng
      Gạo thơm ST ra thế giới viết về kỹ sư Hồ Quang Cua, tác giả nhãn hiệu Gạo thơm Sóc Trăng ST “Thái Lan làm được sao mình không làm? ” “ST ra thế giới nông dân và doanh nghiệp cùng có lợi“. Những trăn trở của anh Hồ Quang Cua và những người tâm huyết “chọn tìm giống tốt đêm nằm chiêm bao” cũng là trăn trở của hàng triệu nông dân Việt Nam.

      ST5

      Làm gì để nâng cao giá trị canh tác, giá trị sử dụng và hiệu quả kinh tế để hạt ngọc Việt đi ra thế giới ? Từ nghiên cứu chọn tạo giống tốt, hoàn thiện quy trình kỹ thuật thâm canh, đến phục tráng, thực nghiệm, nhân giống gốc, xây dựng cánh đồng mẫu lớn, đến tổ chức hệ thống sản xuất chế biến kinh doanh khép kín là  một chuỗi công việc to lớn để có được chén cơm ngon

      LuaSocTrang

      Anh Hồ Quang Cua (thứ nhất bên trái) cùng anh Bùi Bá Bổng, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp & PTNT (thứ hai từ bên phải), trong hội thảo đầu bờ trên cánh đồng mẫu lớn. Chúng tôi may mắn cùng dấn thân theo học thầy Sóc Trăng Lương Định Của, học theo anh Hồ Quang Cua để tiếp nối công việc của anh và thực hiện đề tài Chọn tạo giống lúa hướng đến thích ứng với biến đổi khí hậu từ nguồn gen siêu lúa xanh (GSR) và đặc sản Sóc Trăng (ST). Tôi biết ơn anh Hồ Quang Cua vì tấm lòng của anh đối với nông dân, đối với cây lúa, đối với nghề nông  và những kỹ năng cuộc sống quý giá mà anh đã thân thiết trao đổi, gợi mở,…

      ST Tim

      Tôi nhớ đến anh là nhớ đến gạo thơm Sóc Trăng và ngược lại. Ra bến xe đò về thành phố, hỏi đến ông Cua gạo thơm Sóc Trăng là hầu như ai cũng biết và họ hồ hởi khoe ông Cua và gạo trắng, gạo ngon, … rượu ngon Sóc Trăng và nếp cẩm. Chợt dưng tôi thấu hiểu những ông Bụt đời thường, những ông Bụt của đất, của nước, của hạt ngọc phương Nam. Trăn trở về Lúa Gạo Việt Nam chiến lược chọn tạo giống, Năm 2013, tôi viết thư trao đổi với anh Lê Huy Hàm, Viện trưởng Viện Di truyền Nông nghiệp. Anh tán đồng với phương pháp “đưa thêm các nguồn gen quý vào những giống lúa vốn đã rất phổ biến và nổi tiếng trong sản xuất” như cách chúng ta đã làm trong tạo chọn và phát triển các giống khoai lang HL518 (Nhật đỏ), HL491 (Nhật tím) công nhận giống năm 1997 thành vùng giống sản xuất lớn, thâm canh cao ở Bình Minh, Vĩnh Long năm 2007, đưa năng suất khoai lang từ 9,00 tấn lên 29,8 tấn trên phạm vi toàn tỉnh; Giống sắn KM98-5, KM419 tạo giống cũng theo cách trên và nay đã thành vùng giống sắn sản xuất lớn ở Tây Ninh, đưa năng suất sắn từ 8,5- 12,5 tấn /ha của giống sắn địa phương lên 17,0- 27,0 tấn/ha và nay toàn tỉnh đạt năng suất 30,0 tấn/ha, cá biệt những nông hộ sản xuất giỏi đạt 50,0 – 65,0 tấn/ha trên diện rộng, chủ lực là giống sắn mới KM419 chiếm trên 50% diện tích sắn và các giống KM94, KM98-5… Đối với cây lúa, thuở ấy chúng tôi cũng thao thức việc đưa thêm nguồn gen quý siêu xanh, năng suất siêu cao, chất lượng ngon, chống chịu hạn mặn vào giống lúa “hoa hậu” OM6976 của nhóm tác giả Nguyễn Thị Cúc Hòa, Phạm Trung Nghĩa và cộng sự Viện Lúa Đồng Bằng Sông Cửu Long, để chọn tạo và phát triển dòng OM6976-41 (GSR89), hoặc sau này là những giống lúa GSR65, GSR90 .

      Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là b1d57-om6976-4128gsr8929.jpg

      Anh Lê Huy Hàm đồng tình và trao đổi nhiều thông tin định hướng chọn tạo giống lúa (như đã nêu ở bài trên). Anh viết: “Kính gửi anh Kim. Cám ơn anh đã giới thiệu về các giống lúa mới có tiềm năng ứng phó với biến đổi khí hậu. Điều này tôi rất quan tâm. Hiện nay chúng tôi đi theo hướng là không tạo ra giống lúa mới mà chỉ cải tạo giống cũ. Lý do vì chúng ta đã tạo ra quá nhiều giống lúa mới, nông dân hoa mặt không còn biết phân biệt giống nào tốt, giống nào xấu nữa (Không như sắn và khoai lang, số giống chọn tạo không nhiều nhưng rất bền trong sản xuất – HK). Nhiều giống lúa cũng làm cho việc xây dựng thương hiệu giống và thương hiệu gạo khó khăn, là một trong các nguyên nhân làm gạo Việt Nam có giá thấp trên thị trường. Vì vậy hiện nay tôi đang nâng cao tinh chịu mặn và tình chịu ngập của các giống đại trà lúa miền Bắc và miền Nam bằng việc đưa gen Saltol (chịu mặn) và gen Sub1 (chịu ngập) vào các giống lúa đại trà của Việt Nam. Mức chịu mặn giai đoạn mạ hiện nay đã đạt 5-6 ‰, chiu ngập 10-15 ngày, sau khi nước rút lại mọc lại. Chúng ta có thể cùng nhau thử nghiệm các giống này tại Sóc Trăng. Anh làm cầu nối với tỉnh thì rất tốt. Chúng ta cùng nhau tìm kinh phí. Chúng tôi hy vọng rằng bằng cách này, chúng ta sẽ không tao ra các giống mới mà chỉ cải thiện các giống đã chấp nhận rộng rãi ở các đặc tính chịu mặn, chịu ngập, kháng rầy, đạo ôn, khô văn, bạc lá… và cuối cùng tạo ra Multiple tolerant rice varieties hay super rice. Đây là đặc tính cần để ứng phó với biến đổi khí hậu. Chúng tôi cũng sẵn sàng tham gia với kế hoạch của anh về SGR(Green Super Rice – Siêu lúa xanh)ở tỉnh Sóc Trăng, Phú Yên và Gia Lai. Anh móc nối, có thể chúng ta sẽ tổ chức gặp nhau Viện Di truyền – Đại học Nông Lâm hoặc tại các tỉnh trên. Chúng tôi có thể lại tạo để chuyển thêm gen saltol vào SGR để tăng tính chịu mặn, đánh giá ở góc độ phân tử, sau đó anh cùng với Sóc Trăng, Phú Yên , Gia Lai và các nơi đánh giá tại địa Phương. Anh suy nghĩ nhé. Chúc anh khỏe, Lê Huy Hàm

      ST5 nhân giống

      Con đường lúa gạo Việt Nam có thật nhiều những nhà khoa học tâm huyết, tài năng và tận tụy với nghề nông với hạt ngọc Việt, như: Lương Định Của, Tôn Thất Trình, Bùi Huy Đáp, Nguyễn Văn Luật, Võ Tòng Xuân, Vũ Tuyên Hoàng, Mai Văn Quyền, Trần Văn Đạt, Bùi Bá Bổng, Bùi Chí Bửu, Nguyễn Công Tạn, Phan Phải, Nguyễn Thị Trâm, Trần Đình Long, Trần Mạnh Báo, Trần Duy Quý, Nguyễn Thị Tuyết Minh, Lê Huy Hàm, Tạ Minh Sơn, Nguyễn Trí Hoàn, Phạm Văn Ro, Nguyễn Thị Cúc Hòa, Nguyễn Thị Lang, Đỗ Khắc Thịnh, Nguyễn Văn Hoan, Mai Thành Phụng, Dương Văn Chín, Trần Như Nguyện, Nguyễn Ngọc Đệ, Nguyễn Gia Quốc, Phan Hùng Diêu, Nguyễn Minh Chánh, Phạm Trung Nghĩa, Nguyễn Thi Lan, Nguyễn Thành Phước, Nguyễn Thị Bắp, … Họ đã đóng góp to lớn trong chọn tạo giống lúa, góp phần làm nên diện mạo “Cây lúa Việt Nam thế kỷ 20”. Nhưng tôi xin được viết chậm lại để có thời gian thong thả hơn. Sự cần thiết phải đi thẳng vào những vấn đề nóng hổi, cấp bách của thực tiễn sản xuất đang đòi hỏi: “Làm gì để phát triển khoa học công nghệ mới LÚA SIÊU XANH VIỆT NAM tạo được đột phá cho hạt ngọc Việt?“. Chúng ta hãy bắt đầu từ anh Hồ Quang Cua gạo ST, từ vùng đất quê hương Long Phú, Đại Ngãi (Đại Nghĩa theo cách gọi của tiếng miền Nam), đi trên con đường lúa gạo Trường Khánh, Đại Nghĩa của dân tộc Việt, nơi sinh thành của nhà bác học cây lúa Lương Định Của. Chúng ta cũng bắt đầu bằng ý kiến thảo luận của giáo sư Lê Huy Hàm, chuyên gia về di truyền chọn giống lúa. Hoàng Kim hiểu ý anh Hàm “Chọn giống lúa là đừng ham tạo ra nhiều giống mà cần tuyển chọn kỹ để có giống lúa ưu tú phổ biến thành thương hiệu nổi bật, đứng vững trong sản xuất“. Mời bạn hãy đọc “Gạo thơm Sóc Trăng ra thế giới” của Huỳnh Kim. Bài viết ngắn nhưng nhiều thông tin lắm. Đất nước cần có nhiều Hồ Quang Cua gạo ST “gạo thơm Sóc Trăng” hơn nữa cho bà con nông dân và cho sản xuất được nhờ.

      Chọn giống lúa siêu xanh nhìn lại chặng đường chí năm qua (2011-2018) và đọc lại thư từ năm 2013, nghỉ lại chặng đường dấn thân nhọc nhằn cho hạt ngọc Việt và chuỗi công việc tiếp nối của các thế hệ kế tiếp nhau, tôi cảm giác như gặp lại Sơn Nam: ” … Năm tháng đã trôi qua/ Ray rứt mãi đời ta/ Nắng mưa miền cố thổ/ Phong sương mấy độ qua đường phố/ Hạt bụi nghiêng mình nhớ đất quê “. Năm tháng sẽ qua đi, chỉ những thành quả thiết thực cho sinh kế và chất lượng cuộc sống của người dân là thực sự lắng đọng di sản. .Đất Nước cần nhiều những nhà khoa học dấn thân, cần cù, phúc hậu, trí tuệ chọn tạo giống lúa, cây lương thực ngon hơn, tốt hơn cho người dân, nghiên cứu các biện pháp kỹ thuật thâm canh tổng hợp, các giải pháp khoa học công nghệ để người dân lao động bớt nhọc nhằn hơn, giảm rủi ro và tổn thất sau thu hoạch.

      Chừng nào mỗi chúng ta chưa ứa nước mắt thấm hiểu sự nhọc nhằn của người nông dân một nắng hai sương làm ra hạt gạo. Chừng nào những giá trị lao động khoa học cao quý, liên tục, âm thầm chưa mang lại đủ niềm vui cho bữa ăn của người dân nghèo. Chừng đó chúng ta sẽ còn phải DẠY VÀ HỌC. Cái gốc của sự học là HỌC LÀM NGƯỜI.

      Hoàng Kim

      Đọc lại tài liệu dẫn
      Bài viết của Huỳnh Kim đăng trên báo Thanh Niên năm 2013:
      http://www.thanhnien.com.vn/pages/20131007/gao-thom-st-ra-the-gioi.aspx 

      GẠO ST RA THẾ GIỚI
      Huỳnh Kim
      Cục Sở hữu trí tuệ đã chứng nhận nhãn hiệu “Gạo thơm Sóc Trăng” từ cuối năm 2011 cho dòng sản phẩm gạo thơm mang tên ST. Người xây đắp cho thương hiệu này, kỹ sư Hồ Quang Cua, nay đang mong muốn nâng ST lên thành thương hiệu gạo Việt Nam trên thương trường thế giới.


      Kỹ sư Hồ Quang Cua – Ảnh: H.Kim

      Thái Lan làm được sao mình không làm?

      Tốt nghiệp kỹ sư trồng trọt Trường ĐH Cần Thơ năm 1978, anh Hồ Quang Cua  trở về quê nhà Sóc Trăng, làm việc tại Phòng Nông nghiệp huyện Mỹ Xuyên, sau đó được đề bạt làm Phó Giám đốc Sở NN-PTNT tỉnh Sóc Trăng. Đến nay, anh đã cùng nhóm cộng sự đi qua chặng đường hơn 20 năm xây dựng thương hiệu gạo thơm ST.

      Từ năm 1991, Hồ Quang Cua đã tham gia nhóm nghiên cứu của Viện Lúa ĐBSCL và ĐH Cần Thơ lo sưu tập, thử nghiệm các giống lúa thơm cổ truyền của Việt Nam, Thái Lan và Đài Loan. Được làm việc cùng các nhà khoa học đầu đàn như GS Võ Tòng Xuân, GS Nguyễn Văn Luật, rồi ra nước ngoài học, anh bắt đầu có ý tưởng làm lúa thơm cao cấp cho Việt Nam, trước hết là cho tỉnh Sóc Trăng.

      Dạo đó, anh phát hiện giống lúa thơm nổi tiếng Khao Dawk Mali 105 của Thái Lan là do một cán bộ ở huyện chọn tạo; vậy mà những năm 1992 – 1997, mỗi năm Thái Lan thu gần 1 tỉ USD nhờ xuất khẩu hơn một triệu tấn gạo này. “Họ làm được sao mình lại không làm, trong khi đến cuối thế kỷ 20 mình đã xuất khẩu gạo ổn định và lo được an ninh lương thực rồi?” – Hồ Quang Cua tự vấn rồi cùng nhóm cộng sự và bà con nông dân ở huyện lao vào công việc bất kể ngày đêm. Trong bước đi đầu tiên kéo dài nhiều năm ấy, các anh đã rút ra 3 kết luận hình thành nên cây lúa thơm tương lai: 1/ Quá trình biến dị, lúa có thể cho ra giống mới có phẩm chất cao hoặc dùng làm nguồn lai tạo tiếp; 2/ Việt Nam đất chật người đông, cây lúa thơm phải là cây cải tiến có năng suất cao chứ không thể như Thái Lan, Ấn Độ sử dụng cây lúa mùa cổ truyền năng suất thấp; 3/ Phải đào tạo nhân lực để hình thành đội ngũ nghiên cứu.

      Lúc đầu, ít người tán thành những nhận định mới này, nhưng rồi được Bộ Nông nghiệp và lãnh đạo tỉnh Sóc Trăng khích lệ, dần dần bảy giống lúa thơm bố mẹ được lai tạo, trong đó có gien giống Khao Dawk Mali, giống Tám Xoan ở phía bắc và giống Tào Hương của Sóc Trăng. Tới năm 2013 này, đã có 21 giống ST. Riêng ST20, cho hạt gạo thon dài, cơm mềm dẻo, thơm hương dứa và hương cốm.

      Từ năm 2009, đã có gần 25.000 ha lúa thơm ST được trồng tại Sóc Trăng và hàng vạn héc ta nữa được các tỉnh ven biển khác ở ĐBSCL trồng. Ngoài việc trồng lúa hai vụ, các anh còn giúp nông dân trồng lúa thơm theo các mô hình hành tím – lúa và tôm – lúa. Ông Trà Diên ở xã Viên Bình, huyện Trần Đề, nơi đang làm 2.500 ha lúa ST5, nóXem tiếp >>

        Dạy và học 12 tháng 11(12-11-2021)

       

       

       

       

      DẠY VÀ HỌC 12 THÁNG 11
      Hoàng Kim
      CNM365 Tình yêu cuộc sống Sông Donau gần Viên, nơi lắng đọng các câu chuyện lịch sử. Bạch Mai sắn Tây Nguyên; Thơ viết bên thác Iguazu; Nhớ kỷ niệm một thời; Giấc mơ thiêng cùng Goethe; Giấc mơ lành yêu thương, Nguyễn Du trăng huyền thoại; Hồ Quang Cua gạo ST; Thầy bạn là lộc xuân; Thầy bạn trong đời tôi; Tô Đông Pha Tây Hồ; Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay; Lên Việt Bắc điểm hẹn; Áo kỷ niệm ngày Độc lậpNgày 12 tháng 11 năm 1919 nước Áo được thành lập từ Đồng Minh, nhiều phần của nước Áo ngày nay là của Vương quốc Frank của Karl Đại đế, trãi lịch sử lâu dài thành Đế quốc Áo (1804–1867) rồi thành Đế quốc Áo Hung (1867- 1918) đứng đầu trong Liên minh Đức, lại bị tan rã sau khi các vấn đế dân tộc bùng phát công khai qua Vụ ám sát thái tử Áo-Hung ở Sarajevo, Chiến tranh thế giới lần thứ nhất bùng nổ năm 1914 dẫn đến chấm dứt nền quân chủ năm 1918; Nước Áo bị thu nhỏ 30% chính quốc và mất toàn bộ thuộc địa Á Âu Phi. Sau khi phục hổi Đế chế thứ ba Đức quốc xã đã gây ra Chiến tranh thế giới lần thứ hai nhằm chia lại ranh giới quốc gia và tầm ảnh hưởng thế giới. Chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ ngày 1 tháng 9 năm 1939 kết thúc ngày 2 tháng 9 năm 1945, khối Đồng Minh chiến thắng, Đức bị chia làm bốn, sau hình thành Tây Đức Đông Đức và hợp nhất thành nước Đức ngày nay.  Ngày 12 tháng 11 năm 1866, ngày sinh Tôn Trung Sơn là nhà cách mạng dân chủ Trung Quốc, người lãnh đạo cuộc cách mạng Tân Hợi năm 1911 lật đổ triều đại Mãn Thanh, được người Trung Hoa gọi là “Quốc phụ Trung Hoa” (ông mất năm 1925). Ngày 12 tháng 11 năm 1948, ngày sinh Đặng Trần Thu Hà, giáo sư tiến sĩ âm nhạc,nhà giáo Nhân dân, nghệ sĩ Nhân dân, nghệ sĩ dương cầm Việt Nam; Bà sinh tại Praha (Tiệp Khắc), nhưng quê nội tại làng Đông Thái, Hà Tĩnh. Bà là con gái đầu lòng của nghệ sĩ ưu tú, nhà giáo nhân dân Thái Thị Liên và nhà cách mạng Trần Ngọc Danh (em ruột Tổng bí thư Trần Phú), là chị cùng mẹ khác cha với nghệ sĩ nhân dân Đặng Thái Sơn. Hiện nay bà là phu nhân của Nghệ sĩ nhân dân Trung Kiên. Năm 1951, bà theo bố mẹ về sống tại chiến khu Việt Bắc. Năm 1969, bà được tuyển chọn đi du học đại học ngành âm nhạc tại Kiev trong 6 năm. Sau 8 năm về nước làm việc, năm 1984 bà Hà lại được trở lại Liên Xô làm nghiên cứu sinh và nhận bằng Tiến sĩ Âm nhạc tại Nhạc viện Tchaikovski, Moskva.Ở Việt Nam bà giảng dạy tại khoa Piano, Nhạc viện Hà Nội và trưởng khoa, giám đốc Nhạc viện; Bài viết chọn lọc ngày 12 tháng 11: Bạch Mai sắn Tây Nguyên; Thơ viết bên thác Iguazu; Nhớ kỷ niệm một thời; Giấc mơ thiêng cùng Goethe; Giấc mơ lành yêu thương, Nguyễn Du trăng huyền thoại; Hồ Quang Cua gạo ST; Thầy bạn là lộc xuân; Thầy bạn trong đời tôi; Tô Đông Pha Tây Hồ; Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay; Lên Việt Bắc điểm hẹn Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-12-thang-11/ 

      BẠCH MAI SẮN TÂY NGUYÊN
      Hoàng Kim

      Bạch Mai sắn Tây Nguyênhttps://hoangkimlong.wordpress.com/category/bach-mai-san-tay-nguyen/. Hoàng Kim chúc mừng BM Nguyễn sắn Tây Nguyên bảo tồn và phát triển bền vững. Một điển hình nghiên cứu (key study)

      Chúng tôi lần trước đến với Tây Nguyên việc chính là Nguyễn Bạch Mai và luận án sắn Tây Nguyên, trong chuỗi sự kiện Đến với Tây Nguyên mới
      https://hoangkimlong.wordpress.com/category/den-voi-tay-nguyen-moi/https://hoangkimlong.wordpress.com/category/co-mot-ngay-nhu-the/.

      Chúng tôi may mắn lần đó đã gặp nhiều bạn quý, có cả những nhân vật lớn của Học viện Nông nghiệp Việt Nam, cựu Hiệu trưởng GS.TS. NGND. Trần Đức Viên (2007 – 2014), tân Hiệu trưởng GS.TS. Nguyễn Thị Lan (2015 – nay) người đoạt Giải thưởng Kovalevskaia 2018, TS. Lê Ngọc Báu Liên hiệp các hội KHKT tỉnh Đắk Lắk với nhiều người khác, có cả chuyện hay “Kim Thiếp Vũ Môn Trần Gia Ninh” và các chuyện thú vi khác, tôi chưa kịp chép lại. BM Nguyễn ngày nay đang tiếp tục dấn bước trên con đường sắn Tây Nguyên bảo tồn và phát triển bền vững, trong mạng lưới:
      Bảo tồn và phát triển sắnhttps://hoangkimlong.wordpress.com/category/bao-ton-va-phat-trien-san/

      Giống sắn KM419 chủ lực sản xuất thương mại đang được tích hợp gen kháng bệnh CMD của C39 * với các giống sắn lai triển vọng KM419, KM397, KM440. Đề tài này đang được liên kết, để Sắn Việt Nam bảo tồn và phát triển bền vững. Các giống sắn tốt thương hiệu Việt Nam và quy trình “
      Mười kỹ thuật thâm canh sắn (10T)” https://hoangkimlong.wordpress.com/category/muoi-ky-thuat-tham-canh-san/ .

      Bài học sắn Việt Nam tương tự như bài học lúa Việt Nam “
      Hồ Quang Cua gạo SThttps://hoangkimlong.wordpress.com/category/ho-quang-cua-gao-st/ (Commercial key cassava variety KM419 is being integrated with C39’s CMD resistance gene * with promising hybrids of KM419, KM397, and KM440. This topic is being linked, for Vietnam cassava conservation and sustainable development. Good cassava varieties with Vietnamese brand and the “Ten cassava intensive farming techniques 10T”Vietnamese cassava lesson is similar to Vietnamese rice lesson “Ho Quang Cua, Soc Trang ST24 fragrant rice”- with Hoàng Kim, Hoang Long, Trúc Mai, BM Nguyễn, Hung Nguyenviet, Nguyễn Minh Cường, Nhạn Phạm, Jonathan Newby, Quyen Mai Van, Trần Ngọc Ngoạn)

       

       

       

       

      TÀI LIỆU TRÍCH DẪN

      BM Nguyễn cùng với Jonathan Newby.10 tháng 11, 2019  · Được mùa VÀO NGÀY NÀY 2 năm trước; Hoàng Kim cùng với Luat NguyenCua Ho Quang. 11 tháng 11, 2019  · Đã chia sẻ với Công khai

      HỒ QUANG CUA GẠO ST
      Hoàng Kim

      Gạo thơm Sóc Trăng ST25, ST 24 và chuỗi giá trị gạo ngon Việt của kỹ sư Hồ Quang Cua anh hùng lao động với các đồng sự TS Trần Tấn Phương, Th S Nguyễn Thị Thu Hương và Doanh nghiệp Lúa giống Hồ Quang Trí, tỉnh Sóc Trăng là điểm sáng nổi nông sản Việt trong những năm gần đây. ST25 Gạo ngon Việt đã đoạt giải nhất trong hội thi gạo ngon quốc tế (World’s Best Rice 2019) tổ chức tại Khách sạn Makati Shangri-La, Manila, Philippines từ 10-13 tháng 11 năm 2019. Bài viết này gồm ba nội dung: 1) Hồ Quang Cua gạo ST (lược khảo) 2) Con đường lúa gạo Việt; 3) Thầy bạn trong đời tôi (Hoàng Kim notes: Ấn tượng người anh hùng lúa ST hạt ngọc Việt) .  Xem thêm Hồ Quang Cua gạo SThttps://hoangkimlong.wordpress.com/2021/11/11/ho-quang-cua-gao-st/

      CHỌN GIỐNG SẮN KHÁNG CWBD
      Nguyễn Bạch Mai, Hoàng Kim, Nguyễn Thị Trúc Mai, Hoàng Long, Nguyễn Văn Phu Selection of cassava varieties resistant to CWBD **

      Chọn giống sắn kháng CWBD Ở Việt Nam, giải pháp chủ yếu ngăn chặn lây lan CWBD là phòng trừ tổng hợp: sử dụng giống sắn KM419, KM440,KM397, KM98-1 ít nhiễm bệnh hơn so với KM94 và dùng nguồn giống sạch bệnh; vệ sinh đồng ruộng tiêu hủy nguồn bệnh kịp thời; diệt rầy lá, rầy thân, nhện đỏ, rệp sáp và các loại côn trùng lây lan bệnh; cần chăm sóc sắn tốt, bón phân và làm cỏ 3 lần để tăng sức đề kháng cho cây, bố trí mùa vụ thích hợp để hạn chế dịch hại; tiêu hủy nguồn bệnh kịp thời khi bệnh xuất hiện; xem tiếp
      Bạch Mai sắn Tây Nguyênhttps://hoangkimlong.wordpress.com/category/bach-mai-san-tay-nguyen/http://cayluongthuc.blogspot.com/2012/07/muoi-ky-thuat-tham-canh-san.html” và https://hoangkimlong.wordpress.com/category/chon-giong-san-khang-cmd/ Trò chuyện với Hoàng Kim https://hoangkimlong.wordpress.com/category/tro-chuyen-voi-hoang-kim/ (*)

      Selection of cassava varieties resistant to CWBD. In Vietnam, the main solution to prevent the spread of CWBD is integrated control: using cassava varieties KM419, KM440, KM397, KM98-1 less infected than KM94 and using disease-free seed sources; field sanitation to destroy disease sources in a timely manner; kill leafhoppers, stem planthoppers, red spiders, mealybugs and other disease-spreading insects; it is necessary to take good care of cassava, fertilize and weed 3 times to increase the resistance of the plants, arrange appropriate seasons to limit pests; promptly destroy the source of the disease when the disease appears; see more
      http://cayluongthuc.blogspot.com/2012/07/muoi-ky-thuat-tham-canh-san.html” and https://hoangkimlong.wordpress.com/category/chon-giong-san-khang-cmd/ Conversations with Hoang Kim https://hoangkimlong.wordpress.com/category/tro-chuyen-voi-hoang-kim/https://www.youtube.com/embed/0MVPGxOpoPY?version=3&rel=1&showsearch=0&showinfo=1&iv_load_policy=1&fs=1&hl=vi&autohide=2&wmode=transparentCAVAC Cách chọn thân cây sắn để trồng (Video hướng dẫn về bệnh khảm trên cây sắn)https://youtu.be/0MVPGxOpoPY Video của Australian Embassy, Cambodia 18 8 2021 đã viết. “Bạn có biết sắn là cây trồng lớn thứ hai của Campuchia và mang lại sinh kế cho hơn 90.000 hộ gia đình, đóng góp hàng trăm triệu đô la cho nền kinh tế? Điều này cũng có nghĩa là sâu bệnh có thể có tác động tàn phá. Australia thông qua chương trình Chuỗi Giá trị Nông nghiệp Campuchia-Australia (CAVAC) và Trung tâm Nông nghiệp Nhiệt đới Quốc tế (CIAT) đang làm việc với Bộ Nông nghiệp, Lâm nghiệp và Thủy sản để ngăn chặn sự lây lan của bệnh Chổi rồng (CWBD), một mối đe dọa lớn đối với cây sắn. Bệnh CWBD làm giảm hàm lượng tinh bột và sản lượng sắn 80%). Australian Embassy, Cambodia 18 tháng 8 lúc 13:05 “Eradicating Disease from Cambodia’s Cash Crop (ភាសាខ្មែរនៅខាងក្រោម) Did you know cassava is Cambodia’s second biggest crop and provides a livelihood for more… than 90,000 households, contributing hundreds of millions of dollars to the economy? This also means that pests and diseases can have a devastating impact. Australia through the Cambodia-Australia Agricultural Value Chain (CAVAC) program and the International Centre for Tropical Agriculture (CIAT) is working with the Ministry of Agriculture, Forestry and Fisheries to stop the spread of Cassava Witches’ Broom Disease, a major threat to cassava that reduces its starch content and yields by 80%” Australian Embassy, Cambodia said.

      **

      Chọn giống sắn kháng CWBD Ở Việt Nam, giải pháp chủ yếu ngăn chặn lây lan CWBD và CMD là phòng trừ tổng hợp: sử dụng giống sắn KM419, KM440,KM397, KM98-1 ít nhiễm bệnh hơn so với KM94 và dùng nguồn giống sạch bệnh; vệ sinh đồng ruộng tiêu hủy nguồn bệnh kịp thời; diệt rầy lá, rầy thân, nhện đỏ, rệp sáp và các loại côn trùng lây lan bệnh; cần chăm sóc sắn tốt, bón phân và làm cỏ 3 lần để tăng sức đề kháng cho cây, bố trí mùa vụ thích hợp để hạn chế dịch hại; tiêu hủy nguồn bệnh kịp thời khi bệnh xuất hiện; xem thêm
      http://cayluongthuc.blogspot.com/2012/07/muoi-ky-thuat-tham-canh-san.html

      Selection of cassava varieties resistant to CWBD. In Vietnam, the main solution to prevent the spread of CWBD is integrated control: using cassava varieties KM419, KM440, KM397, KM98-1 less infected than KM94 and using disease-free seed sources; field sanitation to destroy disease sources in a timely manner; kill leafhoppers, stem planthoppers, red spiders, mealybugs and other disease-spreading insects; it is necessary to take good care of cassava, fertilize and weed 3 times to increase the resistance of the plants, arrange appropriate seasons to limit pests; promptly destroy the source of the disease when the disease appears; (Hoang Kim and the Team, said. Conversations with Hoang Kim
      https://hoangkimlong.wordpress.com/category/tro-chuyen-voi-hoang-kim/ )

      CHỌN GIỐNG SẮN KHÁNG CMD
      Nguyễn Thị Trúc Mai, Hoàng Kim, Hoàng Long, và đồng sự
      Selection of cassava varieties resistant to CMD (*)

      Ở Việt Nam, giống sắn KM419 và KM440 đến nay là phổ biến nhất, sau cả áp lực nặng của bệnh khảm lá CMD và bệnh chổi rồng CWBD.
      https://youtu.be/XDM6i8vLHcIhttps://youtu.be/kjWwyW0hkbU chúng tôi khuyên nông dân nên trồng các loại giống sạch bệnh KM568, KM535, KM419, KM440, KM94, KM140, KM98-1, HN5, HLS14 để khảo nghiệm DUS và VCU. Sắn Việt Nam bảo tồn và phát triển bền vững: xem thêm https://hoangkimlong.wordpress.com/category/chon-giong-san-khang-cmd/

      In  Vietnam, up to now, cassava varieties KM419 and KM440 are popular,  after even CMD and CWBD, https://youtu.be/XDM6i8vLHcI and https://youtu.be/kjWwyW0hkbU planting clean KM568, KM535, KM419, KM440, KM94, KM140, KM98-1, HN5, HLS14 for DUS and VCU trials remains our advice to farmer at this stage.  Cassava conservation and sustainable development in Vietnam: https://youtu.be/XMHEa-KewEk; https://youtu.be/5l9xPES76fU;

      *

      Bệnh virus khảm lá CMD từ ban đầu Tây Ninh (2017) lan rộng trên 15 tỉnh thành Việt Nam (2018) là thách thức của các nhà khoa học. “V/v sử dụng giống sắn KM419 trong sản xuất” đã được Bộ NNPTNT xác định tại công văn chỉ đạo của Bộ Nông nghiệp Phát triển Nông thôn, Cục Bảo vệ Thực vật số 1068/ BVTV ngày 3 tháng 5 năm 2019. Giống sắn KM419 có năng suất tinh bột cao nhất và diện tích trồng phổ biến nhất hiện nay ở Việt Nam. Giống sắn KM419 chống chịu trung bình bệnh CMD và bệnh chổi rồng (CWBD), trong điều kiện áp lực hai bệnh này ở Việt Nam là rất cao. Sự cần thiết cấp bách lai tạo KM419 đưa thêm gen kháng bệnh của giống C39, KM440 (KM94 đột biến); KM397 vào giống sắn ưu tú này .

       

      giống sắn KM419 bìa trái thấp cây, tán gọn, cọng đỏ, chống chịu trung bình với bệnh CMD và CWBD , và các dòng sắn lai ít bệnh CMD và CWBD, so với HLS 11 giữa, cao cây, cọng xanh, nhiễm nặng bệnh CMD

      Chọn giống sắn Việt Nam giải pháp tiếp nối hiệu quả là sử dụng giống sắn KM419 năng suất tinh bột cao sạch bệnh tiếp tục lai tạo với các giống sắn kháng bệnh CMD đã có. Bài viết Chọn giống sắn kháng CMD kết nối Chọn giống sắn kháng CWBDChọn giống sắn Việt Nam đúc kết tóm tắt thông tin đã có và định hướng cho sự nổ lực Trúc Mai, Hoang Long, BM Nguyễn, Nguyen Van Nam, Nhan Pham, Hung Nguyenviet, Hoàng Kim, Jonathan Newby … đang lai hữu tính và bồi dục nâng cao tính kháng cho các giống sắn KM419, KM440, KM397, tốt nhất hiện nay

       

       

      Chúng tôi khuyên nông dân nên trồng các loại giống sạch bệnh KM568, KM535, KM419, KM440, KM94, KM140, KM98-1, HN5, HLS14 để khảo nghiệm DUS và VCU , bảo tồn và phát triển những giống sắn tốt nhất có năng suất cao và ít sâu bệnh.

      Chọn giống sắn kháng CMDhttps://hoangkimlong.wordpress.com/category/chon-giong-san-khang-cmd/

       

       

       

       

      Giống sắn KM419 và KM440; Casava in Vietnam: Save and Grow, PhuYenhttps://youtu.be/XDM6i8vLHcI

      CÂY LƯƠNG THỰC VIỆT NAM
      Hoàng Kim, Hoàng Long (chủ biên) và đồng sự
      http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlong

      Bài viết mới (đọc thêm, ngoài giáo trình, bài giảng)

      Bảo tồn và phát triển sắn
      Cách mạng sắn Việt Nam
      Chọn giống sắn Việt Nam
      Chọn giống sắn kháng CMD
      Chọn giống sắn kháng CWBD
      Bạch Mai sắn Tây Nguyên
      Giống sắn KM419 và KM440
      Mười kỹ thuật thâm canh sắn
      Sắn Việt bảo tồn phát triển
      Sắn Việt Lúa Siêu Xanh
      Sắn Việt Nam bài học quý
      Sắn Việt Nam sách chọn
      Sắn Việt Nam và Howeler
      Sắn Việt Nam và Kawano
      Sắn Việt và Sắn Thái
      Quản lý bền vững sắn châu Á
      Cassava and Vietnam: Now and Then

      Lúa siêu xanh Việt Nam
      Giống lúa siêu xanh GSR65
      Giống lúa siêu xanh GSR90
      Gạo Việt và thương hiệu
      Hồ Quang Cua gạo ST
      Cơm Niêu Vàng Gạo Đông A
      Con đường lúa gạo Việt
      Chuyện cô Trâm lúa lai
      Chuyện thầy Hoan lúa lai
      Lúa C4 và lúa cao cây
      Lúa sắn Cămpuchia và Lào
      Lúa sắn Việt Châu Phi
      Lúa Việt tới Châu Mỹ

      Giống ngô lai VN 25-99
      Giống lạc HL25 Việt Ấn


      Giống khoai lang Việt Nam
      Giống khoai lang HL518
      Giống khoai lang HL491
      Giống khoai Hoàng Long
      Giống khoai lang HL4
      Giống khoai Bí Đà Lạt

      Việt Nam con đường xanh
      Việt Nam tổ quốc tôi
      Vườn Quốc gia Việt Nam
      Nông nghiệp công nghệ cao
      Nông nghiệp sinh thái Việt
      Nông nghiệp Việt trăm năm
      IAS đường tới trăm năm
      Viện Lúa Sao Thần Nông
      Hoàng Thành đến Trúc Lâm
      Ngày Hạnh Phúc của em
      Có một ngày như thế

      Thầy bạn là lộc xuân
      Thầy bạn trong đời tôi
      Trường tôi nôi yêu thương
      IAS đường tới trăm năm
      Sóc Trăng Lương Định Của
      Thầy lúa Bùi Bá Bổng
      Thầy Quyền thâm canh lúa
      Thầy nghề nông chiến sĩ
      Thầy Norman Borlaug
      Thầy Luật lúa OMCS OM
      Thầy Tuấn kinh tế hộ
      Thầy Tuấn trong lòng tôi
      Thầy Vũ trong lòng tôi
      Thầy lúa xuân Việt Nam
      Thầy Ngoạn Hồ Núi Cốc
      Thầy bạn Vĩ Dạ xưa
      Thầy là nắng tháng Ba
      Thầy Dương Thanh Liêm
      Thầy Hiếu Đêm Giáng Sinh
      Thầy Nguyễn Hoàng Phương
      Thầy Nguyễn Lân Dũng
      Thầy nhạc Trần Văn Khê
      Thầy ơi
      Thắp đèn lên đi em
      Thầy Tuệ Trung Thượng Sĩ
      Ngày xuân đọc Trạng Trình
      Nguyễn Du trăng huyền thoại
      Lê Quý Đôn tinh hoa
      Trần Công Khanh ngày mới
      Phạm Trung Nghĩa Viện Lúa
      Phạm Quang Khánh Hoa Đất
      Phạm Văn Bên Cỏ May

      24 tiết khí nông lịch
      Nông lịch tiết Lập Xuân
      Nông lịch tiết Vũ Thủy
      Nông lịch tiết Kinh Trập
      Nông lịch tiết Xuân Phân
      Nông lịch tiết Thanh Minh
      Nông lịch tiết Cốc vũ
      Nông lịch tiết Lập Hạ
      Nông lịch tiết Tiểu Mãn
      Nông lịch tiết Mang Chủng
      Nông lịch tiết Hạ Chí
      Nông lịch tiết Tiểu Thử
      Nông lịch tiết Đại Thử
      Nông lịch tiết Lập Thu
      Nông lịch Tiết Xử Thử
      Nông lịch tiết Bạch Lộ
      Nông lịch tiết Thu Phân
      Nông lịch tiết Hàn Lộ
      Nông lịch Tiết Sương Giáng
      Nông lịch tiết Lập Đông
      Nông lịch tiết Tiểu tuyết
      Nông lịch tiết Đại tuyết
      Nông lịch tiết giữa Đông
      Nông lịch Tiết Tiểu Hàn
      Nông lịch tiết Đại Hàn

      Xem tiếp >>

        Dạy và học 11 tháng 11(11-11-2021)

      DẠY VÀ HỌC 11 THÁNG 11
      Hoàng Kim
      CNM365 Tình yêu cuộc sốngHồ Quang Cua gạo ST; Nhớ kỷ niệm một thời;Thầy bạn là lộc xuân;Thầy bạn trong đời tôi; Tô Đông Pha Tây Hồ; Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay; Lên Việt Bắc điểm hẹn; Ngày 11 tháng 11 năm 1796, ngày sinh Phan Thanh Giản (hình), danh sĩ, đại thần nổi tiếng liêm chính triều Nguyễn thờ ba đời vua, mất năm 1867 do tự tử, mang tiếng xấu nhục nhã “Phan Lâm mãi quốc, triều đình khí dân” (Phan Lâm bán nước, triều đình bỏ dân) vì đã giúp vua thực hiện quyết sách tranh thủ thời gian lực lượng điều kiện trấn phản nổi loạn Bắc Hà mà nhượng địa Nam Bộ cho Pháp sau này không thể chuộc lại. Pháp đã lợi dụng để lấn tới nên từ năm 1867 Nam Kỳ Lục tỉnh bị nhà Nguyễn cắt nhượng cho Pháp, trở thành lãnh thổ đầu tiên Pháp chiếm được trong quá trình Pháp xâm lược Đại Nam. Trong thời kỳ này, Pháp thôn tính Việt Nam, Campuchia và Lào. Mất chủ quyền, Việt Nam bị chia cắt thành 3 xứ riêng biệt với ba cơ cấu hành chính riêng: xứ thuộc địa Nam Kỳ và hai xứ bảo hộ Bắc và Trung Kỳ. Cao Miên (Campuchia), Ai Lao cũng chịu sự cai trị của Pháp, và nhượng địa Quảng Châu Loan tiếp theo bị gom vào Liên bang Đông Dương. Cho đến ngày 2 tháng 9 năm 1945 Việt Nam mới giành lại được độc lập. Ngày 11 tháng 11 năm 1821 là ngày sinh Fyodor Mikhailovich Dostoevsky, đại văn hào Nga, với Lev Tolstoy, là hai nhà văn Nga vĩ đại của thế kỷ 19. Các tác phẩm của Dostoevsky như ‘Anh em nhà Karamazov’ hay ‘Tội ác và hình phạt’ là kiệt tác của nhân loại được giới phê bình đánh giá rất cao. Ngày 11 tháng 11 năm 1940 là ngày mất Hàn Mặc Tử, nhà thơ nổi tiếng, khởi đầu cho dòng thơ lãng mạn hiện đại Việt Nam. Hàn Mặc Tử nổi tiếng với những tác phẩm Gái quê (1936), Đau thương (1938), Xuân như ý, Thượng thanh khí, Cẩm châu duyên (1939), Duyên kỳ ngộ (1939), Quần tiên hội (1940), “Hàn Mặc Tử như một ngôi sao chổi xoẹt qua bầu trời Việt Nam với cái đuôi chói lòa rực rỡ của mình” (Chế Lan Viên, bạn thơ Hàn Mặc Tử tưởng nhớ); Bài viết chọn lọc ngày 11 tháng 11: Hồ Quang Cua gạo ST; Nhớ kỷ niệm một thời;Thầy bạn là lộc xuân;Thầy bạn trong đời tôi; Tô Đông Pha Tây Hồ; Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay; Lên Việt Bắc điểm hẹn; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlong/ và https://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-11-thang-11/ 

      Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là st25-gao-ngon-viet-nam.jpg

      HỒ QUANG CUA GẠO ST
      Hoàng Kim

      Gạo thơm Sóc Trăng ST25, ST 24 và chuỗi giá trị gạo ngon Việt của kỹ sư Hồ Quang Cua anh hùng lao động với các đồng sự TS Trần Tấn Phương, Th S Nguyễn Thị Thu Hương và Doanh nghiệp Lúa giống Hồ Quang Trí, tỉnh Sóc Trăng là điểm sáng nổi nông sản Việt trong những năm gần đây. ST25 Gạo ngon Việt đã đoạt giải nhất trong hội thi gạo ngon quốc tế (World’s Best Rice 2019) tổ chức tại Khách sạn Makati Shangri-La, Manila, Philippines từ 10-13 tháng 11 năm 2019. Bài viết này gồm ba nội dung: 1) Hồ Quang Cua gạo ST (lược khảo) 2) Con đường lúa gạo Việt; 3) Thầy bạn trong đời tôi (Hoàng Kim notes: Ấn tượng người anh hùng lúa ST hạt ngọc Việt) .

      Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là st25-gao-ngon-viet-nam-1.jpg

      World’s Best Rice 2019, Manila, Philippines, 10-13 tháng 11 năm 2019 là sự kiện địa điểm thời gian lên ngôi ST25 gạo ngon Việt. Trước đó gạo thơm Sóc Trăng ST24 đã vinh dự đoạt giải nhất cuộc thi Gạo ngon Việt Nam lần đầu tiên được tổ chức tại thành phố Hồ Chí Minh, ngày 4 tháng 11 năm 2019. Gạo thơm Sóc Trăng ST24 của Việt Nam từ năm 2017 đã tỏa sáng Hạt ngọc Việt được vinh danh với gạo Thái Lan và gạo Campuchia trong Top 3 Gạo ngon nhất thế giới. Sóc Trăng đất và người, địa chỉ xanh Hạt ngọc Việt, Gương sáng gạo ngon Việt đi ra thế giới . Bài viết Hồ Quang Cua gạo ST là chỉ dấu địa lý văn hóa du lịch sinh thái Việt Con đường lúa gạo Việt; Cây Lương thực Việt Nam, Thầy bạn trong đời tôi

      Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là ho-quang-cua-gao-thom-soc-trang-3.jpg

      GẠO ST ĐẶC SẢN VIỆT

      Hình ảnh trên là kỷ sư anh hùng lao động Hồ Quang Cua (trái) với giáo sư anh hùng lao động Võ Tòng Xuân (giữa) và ‘người hiền hương sen Đồng Tháp’ Nguyễn Phước Tuyên trước ruộng giống lúa đặc sản duy trì 30 dòng gốc úa ST trong đó có giống lúa ST24.

      Gạo ST24 là gạo ngon Việt Nam đặc sản đạt chuẩn hạt dài, trắng trong, cơm dẻo vừa và có hương thơm mùi lá dứa, chống chịu tốt với ngoại cảnh, thời gian sinh trưởng ngắn ngày (95-105 ngày) so với gạo Thái rất dài ngày (khoảng 150 ngày). Gạo thơm Sóc Trăng ST24 lọt vào “Top 3 Gạo ngon nhất thế giới” là hành trình 25 năm dày công nghiên cứu và phát triển “vượt lên chính mình” của 24 giống lúa gạo thơm Sóc Trăng do kỹ sư Hồ Quang Cua và đồng sự dày công nghiên cứu lai tạo. Lúa thơm Sóc Trăng được hình thành mang đậm dấu ấn giữa Giáo sư tiến sĩ anh hùng lao động Võ Tòng Xuân, người mang giống lúa KDM, một giống lúa thơm từ nước ngoài, về tặng cho tỉnh Sóc Trăng, và kỹ sư anh hùng lao động Hồ Quang Cua. Quá trình gian nan tạo dòng, chon lọc dòng và đưa gao ngon Việt Nam ra thế giới là một câu chuyện dài. Anh Hồ Quang Cua nhớ lại: “Năm 1993, UBND tỉnh Sóc Trăng, lúc đó ngân sách còn thiếu trước hụt sau, đã xuất ngân sách mua trữ trên 600 tấn lúa giống KDM để đầu tư cho sản xuất”.

      Cuối năm 2017, Hội nghị Quốc tế lần 9 về Thương mại Gạo tổ chức tại Ma Cao Trung Quốc. GS.TS Võ Tòng Xuân và kỷ sư Hồ Quang Cua tham dự hội nghị này. Giáo sư Võ Tòng Xuân đã không khỏi xúc động lấy máy tính đánh bản tin về cộng tác với tờ báo Việt Nam: “Gạo ST24 của Việt Nam đã được vinh danh với gạo Thái Lan và gạo Campuchia trong Top 3 Gạo ngon nhất thế giới”. TS Trần Tấn Phương, Giám đốc Công ty Giống Cây trồng tỉnh Sóc Trăng cho biết đối với Hội nghị quốc tế về thương mại gạo, hội đồng giám khảo chỉ bình chọn và vinh danh những loại gạo ngon nhất, đạt các tiêu chuẩn của gạo ngon thế giới. Vì vậy, gạo ST24 lọt vào Top 3 gạo ngon nhất thế giới không chỉ là vinh dự, mà còn là cơ hội rất lớn để gạo ST24 nói riêng và các giống ST khác của Sóc Trăng tiếp cận được với phân khúc thị trường cao cấp, giá cao của thế giới.

      Cuối tháng 6 năm 2018, gạo Việt Nam xuất khẩu liên tục trúng thầu xuất khẩu ở nhiều nước với giá gạo trắng 5% tấm xuất khẩu của Việt Nam đã đạt 450 USD/tấn, cao hơn so với giá gạo Thái Lan là 435 USD và Ấn Độ là 410 USD. Việt Nam đã nộp hồ sơ đăng ký thương hiệu nhãn hiệu quốc tế và bộ tiêu chuẩn sang hệ thống Madrid, điều mà Thái Lan đã làm với gạo thơm Hom Mali của họ từ năm 1955. Gạo Việt trong đó có gạo thơm Sóc Trăng đã phát triển rộng hơn tại các thị trường trong và ngoài nước. Liên tiếp trong các vu lúa đông xuân vừa qua, gạo thơm Sóc Trăng đạt giá trị xuất khẩu cao kỷ lục khoảng 700 USD/tấn (cao hơn gạo thường khoảng 200-300 USD/tấn).và giá bán buôn cao trên thị trường nội địa. Nông dân sản xuất giống lúa này được bảo hiểm hợp đồng tiêu thụ sản xuất lúa trong khi chi phí đầu vào thấp, ít sâu bệnh, quy trình canh tác hữu cơ ít sử dụng phân bón hơn so với sự thâm canh các giống lúa cao sản nên người trồng lúa có thể đạt lợi nhuận trên 60%. Sóc Trăng đã hoàn thiện các quy trình sản xuất gạo thơm Sóc Trăng gắn với chỉ dẫn địa lý, đăng ký sở hữu bản quyền. Đó là việc làm có ý nghĩa rất quan trong. .Tỉnh Sóc Trăng đã hỗ trợ nông dân trồng lúa được cấp chứng nhận GlobalGAP cho 52 ha lúa thơm ST của hai hợp tác xã tại huyện Mỹ Xuyên và thị xã Ngã Năm; một hợp tác xã của huyện Châu Thành được cấp chứng nhận VietGAP với diện tích sản xuất 61ha và 41ha tại huyện Kế Sách. Doanh nghiệp tư nhân lúa giống Hồ Quang Trí cũng đã triển khai sản xuất lúa ST theo quy trình hữu cơ với diện tích gần 59 ha.

      Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là hc3b4-quang-cua-nguyen-van-luat.jpg

      Kỷ sư anh hùng lao động Hồ Quang Cua và giáo sư tiến sĩ anh hùng lao động Nguyễn Văn Luật (ảnh tư liệu Hoàng Kim).

      Sóc Trăng là đột phá điển hình sản xuất gạo thơm Việt Nam với thành tựu gạo ST24 lọt vào Top 3 gạo ngon nhất thế giới. Sóc Trăng là nơi gặp gỡ của lúa vùng thâm canh với lúa vùng mặn làm nên hương ương vị đặc sản đậm đà của hạt gạo ngon, Sóc Trăng cũng là nơi gặp gỡ của những người anh hùng ruộng đồng, là Điện Biên Phủ nghề lúa Việt Nam. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã nhanh chóng đón nhận thành tựu giá trị gạo thơm Sóc Trăng xuất khẩu để làm mục tiêu “nâng cấp giá trị hạt gạo Việt” Theo TS.Trần Ngọc Thạch, Viện trưởng Viện Lúa Đồng bằng sông Cửu Long thì cơ cấu giống lúa của ĐBSCL đã chuyển dịch mạnh mẽ theo hướng ưu tiên giống chất lượng cao. Vụ Đông Xuân 2018/2019, gạo chất lượng cao ĐBSCL chiếm khoảng 32% trong cơ cấu giống, gạo thơm gạo đặc sản 31-32%, gạo chất lượng trung bình chiếm 17%, gạo nếp 9 – 10%, còn lại là các loại gạo khác. Cho nên việc xuất khẩu gạo năm 2018 đã mang lại kết quả khả quan, giá gạo Việt đã cao hơn gạo Thái 15-20 USD/tấn. Ngành lúa gạo Việt Nam được tái cơ cấu theo hướng cải tiến chuỗi giá trị lúa gạo thích hợp cho mỗi vùng sinh thái, trong đó tăng cường sử dụng giống tốt, giống chất lượng cao phù hợp với vùng sinh thái kết hợp với quy trình thâm canh tốt, ứng dụng khoa học công nghệ, cơ giới hóa để giảm chi phí sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng, khả năng cạnh tranh của sản phẩm, tiếp tục sử dụng các giống có khả năng chống chịu tốt với hạn, mặn, ngập để thích ứng với biến đổi khí hậu, chuyển đổi một phần diện tích đất lúa kém hiệu quả sang nuôi trồng thủy sản hoặc mục đích khác. Video Hồ Quang Cua gạo ST trong
      Chương trình VTV1 Giai điệu tự hào 27/10/2019 : https://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-11-thang-11/

      Đến Long Phú, Sóc Trăng bạn sẽ gặp con đường Trường Khánh - Đại Ngãi nối vựa lúa chất lượng ngon và năng suất cao nhất nước.

      CON ĐƯỜNG LÚA GẠO VIỆT

      Việt Nam là chốn tổ của nghề lúa. Giáo sư tiến sỹ, anh hùng lao động Nguyễn Văn Luật, nguyên Viện trưởng Viện Lúa Đồng Bằng Sông Cửu Long,  tác giả chính của cụm công trình ‘Nghiên cứu và phát triển lúa gạo’ đoạt giải thưởng Hồ Chí Minh, đã có hai bài viết quan trọng giới thiệu về “Lịch sử cây lúa Việt Nam” và “Cải tiến giống lúa cho sản xuất lúa gạo tại Việt Nam”. Giáo sư đã đưa ra các bằng chứng và dẫn liệu ‘Việt Nam là chốn tổ của nghề lúa’ và ‘các tiến bộ của giống lúa Việt Nam những năm đầu thế kỷ 21’. Bộ sách:GS Nguyễn Văn Luật chủ biên 2003 “Cây lúa Việt Nam thế kỷ 20”, ba tập Nhà Xuất Bản Nông nghiệp, Hà Nội, 1.347 trang, xuất bản ba năm 2001, 2002, 2003 Bộ sách GS Nguyễn Thị Lang, GS Bùi Chí Bửu 2011. Khoa học về cây lúa, di truyền và chọn giống, Nhà Xuất bản Nông Nghiệp, 623 trang, đã đúc kết về những tiến bộ này .

      Con đường lúa gạo Việt là dòng chính Việt Nam con đường xanh gồm chùm bài viết về dạy và học Cây Lương thực Việt Nam. Chuỗi địa chỉ xanh Cây Lương thực Việt Nam gồm Sóc Trăng Lương Định Của; Thầy Tuấn kinh tế hộ; Thầy Luật lúa OMCS OM; Thầy lúa xuân Việt Nam; Thầy Quyền thâm canh lúa; Chuyện thầy Tôn Thất Trình; Chuyện cô Trâm lúa lai; Chuyện thầy Hoan lúa lai, Thầy nghề nông chiến sĩ; Phạm Trung Nghĩa nhà khoa học xanh; Thầy bạn là lộc xuân; Thầy bạn trong đời tôi; danh sách Con đường lúa gạo Việt ngày một nối dài thêm tỏa rộng nhiều vùng đất nước…

      Thầy Norman Borlaug nhà khoa học xanh, cha đẻ của cuộc cách mạng xanh được tặng giải Nobel và thế giới tôn vinh là nhà bác học số một của nhân loại trong  cuộc chiến chống nghèo đói, đã có dặn thật thấm thía: “ Đời người tối thiểu phải ăn, kế đến là học tập, công việc, nhà ở, quần áo và chăm sóc sức khỏe. Quanh ta còn nhiều mảnh đời bất hạnh. Hiểm họa nghèo đói vẫn bùng phát bất cứ lúc nào. Hãy luôn nhớ điều đó”; “Hãy vươn tới những vì sao. Cho dù không chạm được vào nó, nhưng nếu cố gắng hết sức, ít ra, chúng ta cũng chạm được những hạt bụi của ngôi sao”; “Việc chính đời người chỉ ít thôi. Chuyên tâm đừng bận chuyện trời ơi. Phúc hậu suốt đời làm việc thiện. Di sản muôn năm mãi sáng ngời”.

      Nam Bộ Việt Nam, nôi quê hương của nhà bác học nông dân Lương Định Của, là nơi khởi phát và tỏa rộng con đường lúa gạo Việt Nam.
      Về miền Tây là đi về hướng đột phá chính của lúa gạo Việt, nơi mở đầu cho chùm bài viết này.“Sao anh chưa về lại miền Tây. Nơi một góc đời anh ở đó. Cần Thơ Sóc Trăng sông Tiền Sông Hậu. Tên đất tên người chín nhớ mười thương. Anh có về Bảy Núi Cửu Long. Nắng đồng bằng miên man bao nỗi nhớ. Kênh ông Kiệt thương mùa mưa lũ. Anh có về nơi ấy với em không?” (thơ Hoàng Kim).

      Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là loc-troi-lang-le-sang-1.jpg

      Lộc Trời lặng lẽ sáng. An Giang Tập đoàn Lộc Trời là điểm sáng gạo Việt ngày nay cùng Viện Lúa ĐBSCL vàThái Bình Seed tiếp tục là những điển hình thi đua yêu nước của sự bảo tồn và phát triển thương hiệu gạo Việt. Cây Lương thực Việt Nam điểm thông tin chọn lọc của PGS TS Dương Văn Chín : ” Viện Nghiên cứu Nông nghiệp Lộc Trời thuộc Tập đoàn Lộc Trời An Giang có nhiệm vụ: (i) Tư vấn cho Ban điều hành Tập đoàn Lộc Trời về các lãnh vực liên quan đến khoa học công nghệ (ii) Nghiên cứu chọn tạo ra các giống cây trồng mới độc quyền của Lộc Trời hoặc mua bản quyền giống, (iii) Nghiên cứu dinh dưỡng cây trồng, (iv) Nghiên cứu dịch hại và các biện pháp phòng trừ, (v) Nghiên cứu về chế biên lương thực thực phẩm, (vi) Nghiên cứu về kinh tế nông nghiệp, hợp tác hóa và phát triển nông thôn, (vii) Xây dựng các loại qui trình kỹ thuật, (viii) Đào tạo nguồn nhận lực . Về những thành tựu trong nghiên cứu khoa học của Tập đoàn Lộc Trời , cho đến thời điểm hiện tại, các nhà di truyền chọn giống trong Tập đoàn đã lai tạo chọn lọc ra được những giống lúa mới độc quyền, đã được Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn công nhận chính thức, đó là các giống: Lộc Trời 1, Lộc Trời 2, Lộc Trời 3, Lộc Trời 4, Lộc Trời 5. Ngoài ra, có những giống được trồng diện rộng đại trà để sản xuất gạo thương hiệu như: Lộc Trời 88 (Gạo trắng Hạt Ngọc Trời Bắc Đẩu và gạo mầm Vibigaba), giống Lộc Trời 18 (gạo Hạt Ngọc Trời Tiên Nữ), giống Lộc Trời 28 (gạo Hạt Ngọc Trời Thiên Vương). Lộc Trời 28 từng đạt giải nhất trong cuộc đấu xảo quốc tế tổ chức tại Trung Quốc vào tháng 11 năm 2018. Ngoài ra, chúng ta có những sáng kiến trong việc tạo ra các sản phẩm phân bón, hiện nay đang kinh doanh như Đạm Gold chứa vi sinh Mychorhizae giúp phân giải lân trong đất, Đạm Black bọc humalite, phân hữu cơ Vian, v.v… Chúng ta đã viết và ban hành nội bộ các loại qui trình trồng lúa, như qui trình thông thường, qui trình cho sản xuất lúa có gạo đi châu Âu, châu Mỹ, Nhật Bản, thực nghiệm áp dụng bộ tiêu chí sản xuất lúa gạo bền vững SRP đạt điểm tuyệt đối là 100. Trong thời gian sắp tới, Viện NCNN Lộc Trời sẽ thực hiện một số nội dung quan trọng, đó là (i) Lai tạo chọn lọc ra các giống lúa mới độc quyền, mua bản quyền các giống lúa đặc sắc từ các Viện, Trường (ii) Khảo nghiệm so sánh các giống rau màu ưu việt để mua bản quyền kinh doanh (iii) Viết các loại qui trình kỹ thuật cho những loài cây trồng có giá trị kinh tế cao, thông qua Hội đồng khoa học Viện để phổ biến rộng rãi (iv) Khảo nghiệm các loại phân bón và nông dược, hóa học và sinh học để góp phần gia tăng các loại vật tư nông nghiệp với tên thương mại chính thức của Tập đoàn (v) Nghiên cứu cơ giới hóa nông nghiệp, nhất là ứng dụng công nghệ cao sử dụng máy bay drone cho phun thuốc, giro hạt, bón phân, nghiên cứu chế biến nông sản, nâng cao giá trị giá tăng (vi) Hợp tác với các Trường Đại học để đào tạo nguồn nhân lực đại học và sau đại học”. Tập đoàn. Lộc Trời An Giang hiện là mô hình tốt tổ chức hoạt động theo chuỗi, điển hình nhất là chuỗi giá trị lúa gạo. Lộc Trời có năng lực tự lai tạo chọn lọc ra được các giống lúa mới độc quyền của riêng mình, có hệ thống nhân giống hoàn chỉnh, có đội ngũ chuyển giao khoa học kỹ thuật cho nông dân là Lực lượng Ba Cùng, có các nhà máy chế biến lúa gạo, tiêu thụ sản phẩm cho nông dân, phục vụ cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu”.

      GaoThomSocTrang

      THẦY BẠN TRONG ĐỜI TÔI

      Kỷ sư anh hùng lao động Hồ Quang Cua là một điểm sáng Hoàng Kim Notes
      Thầy bạn trong đời tôi . Bài học quý Lê Quý Đôn tinh hoa giúp tôi kinh nghiệm để lập thư mục này cho chính mình về những người mình hằng yêu quý ngưỡng mộ. Cụ Lê Quý Đôn viết Kiến văn tiểu lục (12 quyển), là những ghi chú nhỏ của Lê Quý Đôn (mà tiếng Anh ngày nay gọi là Notes) . Đó là Lê Quý Đôn tận mắt nhìn thấy, tai nghe, hoặc đọc được, và ông thật sự tâm đắc lưu ngay lại điều không nỡ quên này. Lê Quý Đôn chức quan thật trọng trách và bận rộn như Phó Thủ Tướng Chính phủ ngày nay (chứ không phải đơn giản và chuyên việc như tôi và nhiều bạn !) Tập bút ký này của Lê Quý Đôn thật sự quan trọng và quý giá nói về lịch sử và văn hóa Việt Nam từ đời Trần đến đời Lê. Kiến văn tiểu lục là tác phẩm lớn, được chiêm nghiệm, biên soạn thật công phu và nghiêm cẩn, phản ánh trình độ học vấn uyên bác của Lê Quý Đôn. Sách đề cập tới nhiều lĩnh vực thuộc chế độ các vương triều Lý, Trần, từ thành quách, núi sông, đường xá, thuế má, phong tục tập quán, sản vật, mỏ đồng, mỏ bạc và cách khai thác, cho tới các lĩnh vực như thơ văn, sách vở, vớí nhiều lĩnh vực phong phú.

      Nhà văn, nhà báo Huỳnh Kim năm 2013 đã có bài viết ấn tượng
      Gạo thơm ST ra thế giới viết về kỹ sư Hồ Quang Cua, tác giả nhãn hiệu Gạo thơm Sóc Trăng ST “Thái Lan làm được sao mình không làm? ” “ST ra thế giới nông dân và doanh nghiệp cùng có lợi“. Những trăn trở của anh Hồ Quang Cua và những người tâm huyết “chọn tìm giống tốt đêm nằm chiêm bao” cũng là trăn trở của hàng triệu nông dân Việt Nam.

      ST5

      Làm gì để nâng cao giá trị canh tác, giá trị sử dụng và hiệu quả kinh tế để hạt ngọc Việt đi ra thế giới ? Từ nghiên cứu chọn tạo giống tốt, hoàn thiện quy trình kỹ thuật thâm canh, đến phục tráng, thực nghiệm, nhân giống gốc, xây dựng cánh đồng mẫu lớn, đến tổ chức hệ thống sản xuất chế biến kinh doanh khép kín là  một chuỗi công việc to lớn để có được chén cơm ngon

      LuaSocTrang

      Anh Hồ Quang Cua (thứ nhất bên trái) cùng anh Bùi Bá Bổng, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp & PTNT (thứ hai từ bên phải), trong hội thảo đầu bờ trên cánh đồng mẫu lớn. Chúng tôi may mắn cùng dấn thân theo học thầy Sóc Trăng Lương Định Của, học theo anh Hồ Quang Cua để tiếp nối công việc của anh và thực hiện đề tài Chọn tạo giống lúa hướng đến thích ứng với biến đổi khí hậu từ nguồn gen siêu lúa xanh (GSR) và đặc sản Sóc Trăng (ST). Tôi biết ơn anh Hồ Quang Cua vì tấm lòng của anh đối với nông dân, đối với cây lúa, đối với nghề nông  và những kỹ năng cuộc sống quý giá mà anh đã thân thiết trao đổi, gợi mở,…

      ST Tim

      Tôi nhớ đến anh là nhớ đến gạo thơm Sóc Trăng và ngược lại. Ra bến xe đò về thành phố, hỏi đến ông Cua gạo thơm Sóc Trăng là hầu như ai cũng biết và họ hồ hởi khoe ông Cua và gạo trắng, gạo ngon, … rượu ngon Sóc Trăng và nếp cẩm. Chợt dưng tôi thấu hiểu những ông Bụt đời thường, những ông Bụt của đất, của nước, của hạt ngọc phương Nam. Trăn trở về Lúa Gạo Việt Nam chiến lược chọn tạo giống, Năm 2013, tôi viết thư trao đổi với anh Lê Huy Hàm, Viện trưởng Viện Di truyền Nông nghiệp. Anh tán đồng với phương pháp “đưa thêm các nguồn gen quý vào những giống lúa vốn đã rất phổ biến và nổi tiếng trong sản xuất” như cách chúng ta đã làm trong tạo chọn và phát triển các giống khoai lang HL518 (Nhật đỏ), HL491 (Nhật tím) công nhận giống năm 1997 thành vùng giống sản xuất lớn, thâm canh cao ở Bình Minh, Vĩnh Long năm 2007, đưa năng suất khoai lang từ 9,00 tấn lên 29,8 tấn trên phạm vi toàn tỉnh; Giống sắn KM98-5, KM419 tạo giống cũng theo cách trên và nay đã thành vùng giống sắn sản xuất lớn ở Tây Ninh, đưa năng suất sắn từ 8,5- 12,5 tấn /ha của giống sắn địa phương lên 17,0- 27,0 tấn/ha và nay toàn tỉnh đạt năng suất 30,0 tấn/ha, cá biệt những nông hộ sản xuất giỏi đạt 50,0 – 65,0 tấn/ha trên diện rộng, chủ lực là giống sắn mới KM419 chiếm trên 50% diện tích sắn và các giống KM94, KM98-5… Đối với cây lúa, thuở ấy chúng tôi cũng thao thức việc đưa thêm nguồn gen quý siêu xanh, năng suất siêu cao, chất lượng ngon, chống chịu hạn mặn vào giống lúa “hoa hậu” OM6976 của nhóm tác giả Nguyễn Thị Cúc Hòa, Phạm Trung Nghĩa và cộng sự Viện Lúa Đồng Bằng Sông Cửu Long, để chọn tạo và phát triển dòng OM6976-41 (GSR89), hoặc sau này là những giống lúa GSR65, GSR90 .

      Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là b1d57-om6976-4128gsr8929.jpg

      Anh Lê Huy Hàm đồng tình và trao đổi nhiều thông tin định hướng chọn tạo giống lúa (như đã nêu ở bài trên). Anh viết: “Kính gửi anh Kim. Cám ơn anh đã giới thiệu về các giống lúa mới có tiềm năng ứng phó với biến đổi khí hậu. Điều này tôi rất quan tâm. Hiện nay chúng tôi đi theo hướng là không tạo ra giống lúa mới mà chỉ cải tạo giống cũ. Lý do vì chúng ta đã tạo ra quá nhiều giống lúa mới, nông dân hoa mặt không còn biết phân biệt giống nào tốt, giống nào xấu nữa (Không như sắn và khoai lang, số giống chọn tạo không nhiều nhưng rất bền trong sản xuất – HK). Nhiều giống lúa cũng làm cho việc xây dựng thương hiệu giống và thương hiệu gạo khó khăn, là một trong các nguyên nhân làm gạo Việt Nam có giá thấp trên thị trường. Vì vậy hiện nay tôi đang nâng cao tinh chịu mặn và tình chịu ngập của các giống đại trà lúa miền Bắc và miền Nam bằng việc đưa gen Saltol (chịu mặn) và gen Sub1 (chịu ngập) vào các giống lúa đại trà của Việt Nam. Mức chịu mặn giai đoạn mạ hiện nay đã đạt 5-6 ‰, chiu ngập 10-15 ngày, sau khi nước rút lại mọc lại. Chúng ta có thể cùng nhau thử nghiệm các giống này tại Sóc Trăng. Anh làm cầu nối với tỉnh thì rất tốt. Chúng ta cùng nhau tìm kinh phí. Chúng tôi hy vọng rằng bằng cách này, chúng ta sẽ không tao ra các giống mới mà chỉ cải thiện các giống đã chấp nhận rộng rãi ở các đặc tính chịu mặn, chịu ngập, kháng rầy, đạo ôn, khô văn, bạc lá… và cuối cùng tạo ra Multiple tolerant rice varieties hay super rice. Đây là đặc tính cần để ứng phó với biến đổi khí hậu. Chúng tôi cũng sẵn sàng tham gia với kế hoạch của anh về SGR(Green Super Rice – Siêu lúa xanh)ở tỉnh Sóc Trăng, Phú Yên và Gia Lai. Anh móc nối, có thể chúng ta sẽ tổ chức gặp nhau Viện Di truyền – Đại học Nông Lâm hoặc tại các tỉnh trên. Chúng tôi có thể lại tạo để chuyển thêm gen saltol vào SGR để tăng tính chịu mặn, đánh giá ở góc độ phân tử, sau đó anh cùng với Sóc Trăng, Phú Yên , Gia Lai và các nơi đánh giá tại địa Phương. Anh suy nghĩ nhé. Chúc anh khỏe, Lê Huy Hàm

      ST5 nhân giống

      Con đường lúa gạo Việt Nam có thật nhiều những nhà khoa học tâm huyết, tài năng và tận tụy với nghề nông với hạt ngọc Việt, như: Lương Định Của, Tôn Thất Trình, Bùi Huy Đáp, Nguyễn Văn Luật, Võ Tòng Xuân, Vũ Tuyên Hoàng, Mai Văn Quyền, Trần Văn Đạt, Bùi Bá Bổng, Bùi Chí Bửu, Nguyễn Công Tạn, Phan Phải, Nguyễn Thị Trâm, Trần Đình Long, Trần Mạnh Báo, Trần Duy Quý, Nguyễn Thị Tuyết Minh, Lê Huy Hàm, Tạ Minh Sơn, Nguyễn Trí Hoàn, Phạm Văn Ro, Nguyễn Thị Cúc Hòa, Nguyễn Thị Lang, Đỗ Khắc Thịnh, Nguyễn Văn Hoan, Mai Thành Phụng, Dương Văn Chín, Trần Như Nguyện, Nguyễn Ngọc Đệ, Nguyễn Gia Quốc, Phan Hùng Diêu, Nguyễn Minh Chánh, Phạm Trung Nghĩa, Nguyễn Thi Lan, Nguyễn Thành Phước, Nguyễn Thị Bắp, … Họ đã đóng góp to lớn trong chọn tạo giống lúa, góp phần làm nên diện mạo “Cây lúa Việt Nam thế kỷ 20”. Nhưng tôi xin được viết chậm lại để có thời gian thong thả hơn. Sự cần thiết phải đi thẳng vào những vấn đề nóng hổi, cấp bách của thực tiễn sản xuất đang đòi hỏi: “Làm gì để phát triển khoa học công nghệ mới LÚA SIÊU XANH VIỆT NAM tạo được đột phá cho hạt ngọc Việt?“. Chúng ta hãy bắt đầu từ anh Hồ Quang Cua gạo ST, từ vùng đất quê hương Long Phú, Đại Ngãi (Đại Nghĩa theo cách gọi của tiếng miền Nam), đi trên con đường lúa gạo Trường Khánh, Đại Nghĩa của dân tộc Việt, nơi sinh thành của nhà bác học cây lúa Lương Định Của. Chúng ta cũng bắt đầu bằng ý kiến thảo luận của giáo sư Lê Huy Hàm, chuyên gia về di truyền chọn giống lúa. Hoàng Kim hiểu ý anh Hàm “Chọn giống lúa là đừng ham tạo ra nhiều giống mà cần tuyển chọn kỹ để có giống lúa ưu tú phổ biến thành thương hiệu nổi bật, đứng vững trong sản xuất“. Mời bạn hãy đọc “Gạo thơm Sóc Trăng ra thế giới” của Huỳnh Kim. Bài viết ngắn nhưng nhiều thông tin lắm. Đất nước cần có nhiều Hồ Quang Cua gạo ST “gạo thơm Sóc Trăng” hơn nữa cho bà con nông dân và cho sản xuất được nhờ.

      Chọn giống lúa siêu xanh nhìn lại chặng đường chí năm qua (2011-2018) và đọc lại thư từ năm 2013, nghỉ lại chặng đường dấn thân nhọc nhằn cho hạt ngọc Việt và chuỗi công việc tiếp nối của các thế hệ kế tiếp nhau, tôi cảm giác như gặp lại Sơn Nam: ” … Năm tháng đã trôi qua/ Ray rứt mãi đời ta/ Nắng mưa miền cố thổ/ Phong sương mấy độ qua đường phố/ Hạt bụi nghiêng mình nhớ đất quê “. Năm tháng sẽ qua đi, chỉ những thành quả thiết thực cho sinh kế và chất lượng cuộc sống của người dân là thực sự lắng đọng di sản. .Đất Nước cần nhiều những nhà khoa học dấn thân, cần cù, phúc hậu, trí tuệ chọn tạo giống lúa, cây lương thực ngon hơn, tốt hơn cho người dân, nghiên cứu các biện pháp kỹ thuật thâm canh tổng hợp, các giải pháp khoa học công nghệ để người dân lao động bớt nhọc nhằn hơn, giảm rủi ro và tổn thất sau thu hoạch.

      Chừng nào mỗi chúng ta chưa ứa nước mắt thấm hiểu sự nhọc nhằn của người nông dân một nắng hai sương làm ra hạt gạo. Chừng nào những giá trị lao động khoa học cao quý, liên tục, âm thầm chưa mang lại đủ niềm vui cho bữa ăn của người dân nghèo. Chừng đó chúng ta sẽ còn phải DẠY VÀ HỌC. Cái gốc của sự học là HỌC LÀM NGƯỜI.

      Hoàng Kim

      Đọc lại tài liệu dẫn
      Bài viết của Huỳnh Kim đăng trên báo Thanh Niên năm 2013:
      http://www.thanhnien.com.vn/pages/20131007/gao-thom-st-ra-the-gioi.aspx 

      GẠO ST RA THẾ GIỚI
      Huỳnh Kim

      Cục Sở hữu trí tuệ đã chứng nhận nhãn hiệu “Gạo thơm Sóc Trăng” từ cuối năm 2011 cho dòng sản phẩm gạo thơm mang tên ST. Người xây đắp cho thương hiệu này, kỹ sư Hồ Quang Cua, nay đang mong muốn nâng ST lên thành thương hiệu gạo Việt Nam trên thương trường thế giới.


      Kỹ sư Hồ Quang Cua – Ảnh: H.Kim

      Thái Lan làm được sao mình không làm?

      Tốt nghiệp kỹ sư trồng trọt Trường ĐH Cần Thơ năm 1978, anh Hồ Quang Cua  trở về quê nhà Sóc Trăng, làm việc tại Phòng Nông nghiệp huyện Mỹ Xuyên, sau đó được đề bạt làm Phó Giám đốc Sở NN-PTNT tỉnh Sóc Trăng. Đến nay, anh đã cùng nhóm cộng sự đi qua chặng đường hơn 20 năm xây dựng thương hiệu gạo thơm ST.

      Từ năm 1991, Hồ Quang Cua đã tham gia nhóm nghiên cứu của Viện Lúa ĐBSCL và ĐH Cần Thơ lo sưu tập, thử nghiệm các giống lúa thơm cổ truyền của Việt Nam, Thái Lan và Đài Loan. Được làm việc cùng các nhà khoa học đầu đàn như GS Võ Tòng Xuân, GS Nguyễn Văn Luật, rồi ra nước ngoài học, anh bắt đầu có ý tưởng làm lúa thơm cao cấp cho Việt Nam, trước hết là cho tỉnh Sóc Trăng.

      Dạo đó, anh phát hiện giống lúa thơm nổi tiếng Khao Dawk Mali 105 của Thái Lan là do một cán bộ ở huyện chọn tạo; vậy mà những năm 1992 – 1997, mỗi năm Thái Lan thu gần 1 tỉ USD nhờ xuất khẩu hơn một triệu tấn gạo này. “Họ làm được sao mình lại không làm, trong khi đến cuối thế kỷ 20 mình đã xXem tiếp >>

        Dạy và học 10 tháng 11(10-11-2021)


      Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là 1-mot-niem-tin-thap-lua-1a.jpg

      DẠY VÀ HỌC 10 THÁNG 11
      Hoàng Kim

      CNM365 Tình yêu cuộc sống. Việt Nam con đường xanh; Thổ Nhĩ Kỳ ngày nayTô Đông Pha Tây Hồ; Thầy bạn trong đời tôi; Thầy bạn là lộc xuân; Lên Việt Bắc điểm hẹnBan mai chào ngày mới; Thầy Nguyễn Lân Dũng; Mình về thăm nhau thôi; Chớm Đông trên đồng rộng; Ngày 10 tháng 11 năm 1838 là ngày mất của Atatürk là vị Tổng thống đầu tiên, nhà cách mạng, quốc phụ của Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ. Mustafa Kemal Atatürk sinh ngày 19 tháng 5 năm 1881 là thống soái siêu việt của Thổ Nhĩ Kỳ trong cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất  Ông lãnh đạo Phong trào Dân tộc Thổ Nhĩ Kỳ đấu tranh giành lại độc lập cho đất nước. Sau khi thành lập chính phủ lâm thời tại Ankara, ông đã đánh bại lực lượng Đồng Minh. khai sinh nước Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ. Ông là Tổng thống đầu tiên từ năm 1923 cho đến khi ông qua đời vào năm 1938. Tư tưởng thế tục và dân tộc, chính sách và lý thuyết của ông đã trở thành chủ thuyết Kemalism với khẩu hiệu nổi tiếng “hòa bình trong mỗi gia đình, hòa bình trên toàn thế giới” giúp đất nướcThổ Nhĩ Kỳ kế tục hiệu quả đế quốc Ottoman và trổi dậy mạnh mẽ là cường quốc khu vực có vai trò trong NATO vị trí chủ lực hiện nay ở Trung Đông. Ngày 10 tháng 11 năm 1038, thủ lĩnh tộc Đảng Hạng là Lý Nguyên Hạo lên ngôi hoàng đế lập nước Tây Hạ, thoát ly triều Tống. Người Đảng Hạng vốn ở Tứ Xuyên đến thời Đường thì di cư tới Thiểm Bắc. Tây Hạ với Tống và Liêu từ đó hình thành cục diện thế chân vạc ba nước gần hai trăm năm. Nước Tây Hạ bị Mông Cổ tiêu diệt vào năm 1227. Ngày 10 tháng 11 năm 1983, hệ điều hành Microsoft Windows dựa trên giao diện người dùng đồ họạ được phát triển và phân phối lần đầu tiên bởi Microsoft, sau này trở thành hệ điều hành phổ biến nhất trên thế giới đến năm 2015. Bài viết chọn lọc ngày 10 tháng 11: Việt Nam con đường xanh; Thổ Nhĩ Kỳ ngày nayTô Đông Pha Tây Hồ; Thầy bạn trong đời tôi; Thầy bạn là lộc xuân; Lên Việt Bắc điểm hẹnBan mai chào ngày mới; Thầy Nguyễn Lân Dũng; Mình về thăm nhau thôi; Chớm Đông trên đồng rộng; .Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-10-thang-11/

      VIỆT NAM CON ĐƯỜNG XANH
      Hoàng Kim


      Tương lai Việt Nam nằm trong nông nghiệp. Định hướng quan trọng hơn tốc độ.
      Tin nổi bật quan tâm; Đọc lại và suy ngẫm; Việt Nam tâm thế mới; Việt Nam sáng tạo KHCN; Việt Nam con đường xanhhttps://hoangkimlong.wordpress.com/category/viet-nam-con-duong-xanh/

      TIN NỔI BẬT QUAN TÂM

      Nghị định 57/2018 / ND-CP Thủ tướng Việt Nam khẳng định tầm nhìn, cơ chế, chính sách mới nhằm khuyến khích đầu tư vào nông nghiệp và nông thôn Theo đó, trục sản phẩm chính nhắm đến các sản phẩm chính quốc gia. Chuỗi giá trị sản phẩm chính ở cấp tỉnh cần đủ lớn, liên kết các vùng nguyên liệu thô với thương hiệu, ứng dụng nông nghiệp công nghệ cao và đào tạo nguồn lực. Hội nghị trực tuyến toàn quốc và triển lãm Việt Nam Tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đã định hướng chiến lược chuyển đổi: “Nền nông nghiệp Việt Nam cần chuyển mạnh sang sản xuất hàng hóa cạnh tranh quốc tế”.
      Câu hỏi của Thủ tướng: Chúng ta đứng top 15 nước về nông nghiệp được không? “Thành tích thì chúng ta hoan nghênh, nhưng lạc hậu, chậm hơn nông nghiệp một số nước trong khu vực, nhất là so sánh với Thái Lan thì phải suy nghĩ rất nhiều. Campuchia xây dựng thương hiệu còn tốt hơn chúng ta”. Nghịch lý: Top đầu thế giới nhưng được hưởng phần ít nhất. (Báo VietNamNet điện tử, ảnh và trich dẫn kèm theo). xem tiếp Tin nổi bật quan tâmhttps://hoangkimlong.wordpress.com/category/tin-noi-bat-quan-tam/

      ĐỌC LẠI VÀ SUY NGẪM

      Chủ tịch Hồ Chí Minh với nước Việt Nam mới . Chủ tịch Hồ Chí Minh có những câu nói thật thấm thía: “Nay, tôi chỉ có một tin tưởng vào Dân tộc độc lập. Nếu (tôi) cần có đảng phái thì sẽ là Đảng dân tộc Việt Nam. Đảng đó sẽ chỉ có một mục đích làm cho dân tộc ta hoàn toàn độc lập. Đảng viên của đảng đó sẽ là tất cả quốc dân Việt Nam, trừ những kẻ phản quốc và những kẻ tham ô ra ngoài”. “Tôi tuyệt nhiên không ham muốn công danh phú quý chút nào. Bây giờ phải gánh chức Chủ tịch là vì đồng bào ủy thác thì tôi phải gắng sức làm, cũng như một người lính vâng mệnh lệnh của quốc dân ra trước mặt trận. Bao giờ đồng bào cho tôi lui, thì tôi rất vui lòng lui. Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ǎn áo mặc, ai cũng được học hành. Riêng phần tôi thì làm một cái nhà nho nhỏ, nơi có non xanh, nước biếc để câu cá, trồng hoa, sớm chiều làm bạn với các cụ già hái củi, em trẻ chǎn trâu, không dính líu gì với vòng danh lợi.“. Chủ tịch Hồ Chí Minh thời trẻ tuy khâm phục Đề Thám, Phan Châu Trinh, Phan Bội Châu nhưng không hoàn toàn tán thành cách làm của một người nào cả. Theo quan điểm của ông, Phan Châu Trinh chỉ yêu cầu người Pháp thực hiện cải cách, điều đó chẳng khác nào “xin giặc rủ lòng thương”, còn Phan Bội Châu thì hy vọng Đế quốc Nhật Bản giúp đỡ để chống Pháp, điều đó nguy hiểm chẳng khác nào “đuổi hổ cửa trước, rước báo cửa sau”. Nguyễn Tất Thành thấy rõ là cần quyết định con đường đi của riêng mình; Chủ tịch Hồ Chí Minh trước khi đoàn đàm phán Hội nghị Pari lên đường, đã căn dặn phái đoàn: đừng để nước Mỹ bẽ bàng, đừng xúc phạm nhân dân Mỹ vì Việt Nam chỉ chiến đấu với giới cầm quyền hiếu chiến của Mỹ, về nguyên tắc quyết không nhượng bộ song về phương pháp thì “dĩ bất biến, ứng vạn biến”;
      Di chúc của Hồ Chí Minh là một di sản quốc bảo vô giá để Xây đựng một nước Việt Nam hoà bình thống nhất độc lập dân chủ và giàu mạnh“Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng nghĩa lý gì”

      Dân tộc Việt Nam trong mắt của cựu ngoại trưởng Mỹ Henry Kissinger: Việt Nam là một quốc gia đặc biệt, một dân tộc đặc biệt, vì vậy cựu ngoại trưởng Mỹ Henry Kissinger trong một buổi nói chuyện tại nhà riêng với tổng thống Mỹ Donald Trump năm 2018, đã nói với tổng thống Mỹ là “Nước Mỹ nên có một mối quan hệ đặc biệt đối với Việt Nam, không nên lôi kéo để gần gũi họ, mà nên tôn trọng quyền tự quyết của họ, tạo niềm tin và sự tôn trọng với họ. Henry Kissinger nhận xét: ” Dân tộc Việt có tinh thần cảnh giác rất cao độ đối với những nước lớn, họ sợ gần gũi rồi lôi kéo mua chuộc làm mất an ninh quốc gia họ, ngay như Trung Quốc ở ngay bên cạnh nhưng trong suốt cuộc chiến tranh với Mỹ họ vẫn đề phòng mọi hành động của Trung Quốc do vậy mà năm 1978 tại Campuchia và biên giới phía Bắc1979 họ đã không bị động bất ngờ. Nước Mỹ không nên tạo mối ác cảm thù địch với họ, vì như chúng ta biết có những thời điểm trong chiến tranh và hậu chiến tranh Việt Nam cảm tưởng như dân tộc này đã bị cô lập bỏ rơi nhưng ý chí và nghị lực của họ không bao giờ cạn, nếu những dân tộc khác mà bị gần một nghìn năm đô hộ Bắc thuộc như dân tộc Việt Nam chắc đã bị xoá tên trên bản đồ từ lâu nhưng với họ (Việt Nam) vẫn giữ được bản sắc văn hoá dân tộc và không bao giờ quên nhiệm vụ giành lại độc lập cho dân tộc, vì vậy việc coi họ là kẻ thù nhiều khi lại không có lợi cho nước Mỹ. Với dân tộc này chúng ta nên tôn trọng quyền tự quyết của họ, tạo niềm tin và sự tôn trọng với họ, bởi họ là một thế lực rất đáng gờm trong những quốc gia Đông Nam Á và Châu Á trong tương lai rất gần. Với vị thế và đường lối ngoại giao đặc thù như Việt Nam họ không liên kết liên minh tạo phe phái gây bất lợi cho chúng ta, họ là lá cờ đầu trong việc xoá bỏ chế độ thuộc địa trên thế giới, vì vậy đối với nhiều quốc gia, Việt Nam vẫn là hình mẫu giải phóng và độc lập dân tộc. Họ có tiếng nói và niềm tin nhất định trên hầu hết các quốc gia thân thiện hay không thân thiện với chúng ta, các quốc gia hợp tác và quan hệ với họ cảm thấy yên tâm hơn nhiều khi quan hệ với chính chúng ta. Sự đánh giá của chính khách lão luyện cựu ngoại trưởng Mỹ Henry Kissinger là điều rất đáng suy ngẫm;.xem tiếp Đọc lại và suy ngẫmhttps://hoangkimlong.wordpress.com/category/doc-lai-va-suy-ngam/

      VIỆT NAM CON ĐƯỜNG XANH

      Đúc kết tích hợp các bài viết tuyển chọn:
      Việt Nam tâm thế mới; Việt Nam sáng tạo KHCN; xem tiếp tại Việt Nam con đường xanhhttps://hoangkimlong.wordpress.com/category/viet-nam-con-duong-xanh/

      Tài liệu dẫn

      Câu hỏi của Thủ tướng: Chúng ta đứng top 15 nước về nông nghiệp được không?
      Nguồn:
      Báo Viet Nam Net by Bảo Phương Thu Trà (2018)

      “Thành tích thì chúng ta hoan nghênh, nhưng lạc hậu, chậm hơn nông nghiệp một số nước trong khu vực, nhất là so sánh với Thái Lan thì phải suy nghĩ rất nhiều. Campuchia xây dựng thương hiệu còn tốt hơn chúng ta”. Đó là chia sẻ của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc tại Hội nghị trực tuyến toàn quốc và triển lãm quốc gia Tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn vào sáng 27/11/2018.

       

      Campuchia xây dựng thương hiệu tốt hơn Việt Nam

      Sau 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 khóa X về “tam nông”, nền nông nghiệp đã chuyển mạnh sang sản xuất hàng hóa cạnh tranh quốc tế. Cơ cấu sản xuất từng ngành được điều chỉnh, chuyển đổi theo hướng phát huy lợi thế của mỗi địa phương và cả nước gắn với nhu cầu thị trường. Giá trị sản xuất trên 1 đơn vị diện tích tăng lên, năm 2017 đạt 90,1 triệu đồng/ha đất trồng trọt.

      Một số loại nông sản khẳng định được vị thế và khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới. Xuất khẩu nông lâm thủy sản năm 2017 đạt 36,5 tỷ USD, tăng 2,2 lần so với năm 2008. GDP ngành nông nghiệp năm 2017 đạt 2,66%, quy mô GDP của ngành tăng gấp 1,25 lần so với năm 2008; công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn phát triển nhanh; 7,2 triệu lao động ở nông thôn được đào tạo nghề; tính đến tháng 6-2018 có 3.346 xã đạt chuẩn nông thôn mới,… Thu nhập bình quân đầu người/năm ở nông thôn đã tăng 3,49 lần, từ 9,15 triệu đồng năm 2008 lên 32 triệu đồng năm 2017.

      Phát hiểu tại Hội nghị, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nhận định, thời gian qua Việt Nam đã đạt những thành tựu lớn trong nông nghiệp. Từ nước nhập nông sản đến nay nông sản Việt Nam có mặt trên 180 quốc gia, vùng lãnh thổ, đứng thứ 2 ở Đông Nam Á, đứng thứ 15 trên thế giới. Song, ở hội nghị này Thủ tướng sẽ nói nhiều hơn về những mặt còn hạn chế để chúng ta biết và khắc phục trong thời gian tới.

      Thủ tướng Chính phủ chỉ ra rằng, đầu tư cho nông nghiệp còn khá thấp, số doanh nghiệp trực tiếp đầu tư sản xuất nông nghiệp chỉ chiếm khoảng 1% tổng số doanh nghiệp, trong đó nhiều doanh nghiệp quy mô nhỏ và siêu nhỏ.

      Huy động vốn, tiếp cận vốn các dịch vụ tín dụng ở ngân hàng còn nhiều hạn chế, chi phí vốn còn cao, còn 1/2 số hộ gia đình nông thôn không thể tiếp cận được dịch vụ ngân hàng chính thức, đây là nguyên nhân tình trạng tín dụng đen xuất hiện nhiều ở các làng quê Việt Nam. Thủ tướng đề nghị các ngân hàng phải xuống tận nông thôn để cho người dân vay vốn, hỗ trợ sản xuất dịch vụ ở nông thôn.

      Thủ tướng cũng nhận định việc áp dụng việc áp dụng tiến bộ khoa học trong nông nghiệp còn yếu, giá thành sản phẩm cao, tỷ lệ chế biến nông sản còn khiêm tốn nên nông sản nước ta chủ yếu xuất khẩu dưới dạng thô, dẫn tới giá trị gia tăng thấp, chưa hiệu quả. Trong khi đó, cơ cấu sản xuất còn manh mún, quy mô chưa lớn. Việt Nam đang có quy mô trang trại nhỏ trên thế giới. Tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn còn chậm. Tỷ lệ lao động chưa qua đào tạo còn nhiều, “chưa hiểu thị trường trước khi gieo hạt xuống đất”.

      Xây dựng thương hiệu nông sản mới bước đầu được chú trọng với khoảng 15% sản phẩm có thương hiệu. Một số thương hiệu nông sản nổi tiếng của nước ta còn bị mất, ví như thương hiệu nước mắm Phú Quốc đã thuộc về nước ngoài.“Thành tích thì chúng ta hoan nghênh, nhưng lạc hậu, chậm hơn nông nghiệp một số nước trong khu vực, nhất là so sánh với Thái Lan thì phải suy nghĩ rất nhiều. Campuchia xây dựng thương hiệu còn tốt hơn chúng ta”, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nói.

       

      Trong thập kỷ tới… Việt Nam đứng ở đâu?

      Từ những phân tích trên, Thủ tướng nhấn mạnh, việc giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, trước hết phải khơi dậy tinh thần yêu nước, tự chủ, tự lực, tự cường vươn lên của nông dân. “Chúng ta đang nói tập trung làm nông nghiệp, nông thôn mà nông dân chúng ta có tinh thần ỷ lại thì không bao giờ thành công”, Thủ tướng nói. 

      Cần khắc phục tinh thần tự ti, ỷ lại, chờ đợi của một bộ phận nông dân. Vì vậy, thời gian tới, Đảng, Nhà nước ta phải cùng với nông dân, sống trong lòng nông dân để làm cuộc cách mạng mới trong nông nghiệp và nông thôn. Cần phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước. Kinh nghiệm rút ra là, theo Thủ tướng, ở đâu cấp ủy, người đứng đầu quan tâm sâu sắc, chỉ đạo quyết liệt thì ở đó, nông nghiệp, nông thôn sẽ phát triển mạnh mẽ, diện mạo nông thôn mới khởi sắc. Đời sống vật chất và tinh thần của người dân được nâng cao.

      “Trong thập kỷ tới hay một vài thập kỷ ngắn tới đây, Việt Nam đứng ở đâu? Chúng ta đứng trong top 15 nước về nông nghiệp được không?”, người đứng đầu Chỉnh phủ đặt câu hỏi.

      Theo Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, phải chuyển từ tư duy nông nghiệp đơn thuần sang kinh tế nông nghiệp và hội nhập sâu rộng. Đồng thời, việc nhận diện thật rõ cơ hội và thách thức trong bối cảnh và tình hình mới để đề xuất định hướng chiến lược rất quan trọng.

      “Thế giới đang chuyển mình, châu Á đang cạnh tranh từ bán buôn đến bán lẻ, chúng ta phải đặt ra lợi thế so sánh để có thể thành công”. Thủ tướng yêu cầu, phải sớm khắc phục tồn tại, yếu kém trong phát triển nông nghiệp, nông thôn hiện nay. Thành tựu của cách mạng 4.0 phải áp dụng mạnh mẽ vào nông nghiệp như thanh toán điện tử qua điện thoại thông minh, khi mà gần 70% số dân dùng điện thoại thông minh.

      Cần khắc phục cho được sản xuất nhỏ lẻ, mạnh mún. Tiếp tục rà soát, hoàn thiện các cơ chế, chính sách, quy định pháp luật để tháo gỡ cho nhà đầu tư, doanh nghiệp, hợp tác xã (HTX), hộ nông dân khi đầu tư làm ăn trong nông nghiệp. Trong đó, cải cách hành chính, tạo môi trường đầu tư kinh doanh mạnh mẽ hơn nữa. 

      Thủ tướng cũng yêu cầu phải đặt vấn đề thị trường trước khi sản xuất để hạn chế tối đa tình trạng được mùa mất giá. Thay đổi tư duy, cách làm; sản xuất nông nghiệp phải xuất phát từ nhu cầu thực tế sản xuất, gắn chặt với yêu cầu thị trường, đảm bảo chất lượng, an toàn thực phẩm, truy xuất được nguồn gốc.

      Thủ tướng đề nghị Ban Kinh tế Trung ương, Bộ NN-PTNT chủ trì nghiên cứu, tiếp thu các ý kiến tại Hội nghị để cùng Ban Chỉ đạo tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết 26 hoàn thiện báo cáo tổng kết, đồng thời chủ động xây dựng dự thảo Nghị quyết về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện các chủ trương, giải pháp về phát triển nông nghiệp, nông thôn và nông dân đến năm 2020, giai đoạn tới năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, trình Bộ Chính trị xem xét trong tháng 12/ 2018.

      Nghịch lý: Top đầu thế giới nhưng được hưởng phần ít nhất
      Nguồn:
      Báo Viet Nam Net by Bảo Phương Thu Trà

      Nông dân Nhật Bản bán một quả xoài được 4.000 Yên (khoảng 850.000 đồng), người nông dân được hưởng lợi lớn nhất. Trong khi ở Việt Nam nhiều loại nông sản xuất khẩu đứng top 1 thế giới nhưng giá trị đem lại rất thấp và nông dân luôn là người được hưởng lợi ít nhất. Lá thư cảnh báo của Đại sứ quán Nhật gửi lãnh đạo TP.Hồ Chí Minh

       

      Xuất khẩu nhiều nhưng giá trị thấp

      Tại hội nghị trực tuyến toàn quốc và triển lãm quốc gia Tổng kết 10 năm thực hiện nghị quyết Trung ương 7 khoá X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn diễn ra chiềuy 26/11, đại diện Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn (IPSARD) cho biết, xuất khẩu nông sản của Việt Nam đã tăng trưởng mạnh trong vòng 10 năm qua. Kim ngạch xuất khẩu nông lâm thuỷ sản tăng từ 16,484 tỷ USD năm 2009 lên mức 36,37 tỷ năm 2017.

      Đáng chú ý, trong gia đoạn từ 2008-2017, Việt Nam luôn là nước xuất siêu nông sản với mức xuất siêu bình quân 8 tỷ USD/năm. Song, theo IPSARD, mặc dù xuất khẩu có sự tăng trưởng mạnh, nhưng nông lâm thuỷ sản xuất khẩu chủ yếu dưới dạng thô, tươi hoặc qua sơ chế, xuất khẩu chế biến sâu chiếm tỷ lệ rất thấp. Theo đó, một số mặt hàng nông lâm thuỷ sản của Việt Nam xuất khẩu đứng top đầu thế giới, song giá trị thấp.

      Cụ thể, hạt tiêu Việt xuất khẩu xếp thứ hạng số 1 thế giới nhưng giá trị xuất khẩu chỉ đứng thứ 8; hạt điều cũng đứng thứ nhất thế giới, giá trị đứng thứ 6; gạo, cà phê đứng trong nhóm thứ 2 nhưng giá trị xuất khẩu chỉ đứng thứ 10.

      Đại diện IPSARD nhận định, là một trong những nước dẫn đầu thế giới về xuất khẩu nông sản, tuy nhiên có đến hơn 80% lượng nông sản của Việt Nam chưa xây được xây dựng thương hiệu, chưa có logo, nhãn mác,… Điều này là bất lợi lớn, làm giảm sức cạnh tranh của các loại nông sản trên thị trường, gây thiệt hại lớn cho ngành nông nghiệp.

      IPSARD dẫn số liệu thống kê của Cục Sở hữu công nghiệp (Bộ KH&CN), trong hơn 90.000 thương hiệu hàng hoá được đăng ký bảo hộ tại Việt Nam, mới có khoảng 15% là của các doanh nghiệp trong nước và có đến 80% hàng nông sản của nước ta được bán ra thị trường thế giới thông qua các thương hiệu nước ngoài.

      Điểm yếu nữa là nông sản Việt đã tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu nhưng mới chỉ dừng lại ở việc cung cấp đầu vào dưới dạng nông sản thô, trong khi giá trị gia tăng đối với hàng nông sản lại chủ yếu do khâu chế biến, bao gói và hoạt động thương mại. Nguyên nhân của tình trạng này là công nghệ trước và sau thu hoạch còn lạc hậu, việc tham gia chuỗi từ khâu sản xuất, chế biến đến marketing, phân phối và tiêu thụ còn hạn chế…

      “Vấn đề là nông sản Việt chưa có một đơn vị cá nhân hay cơ quan chủ quản nào đứng ra để có thể xây dựng thương hiệu dưới 1 cái tên riêng nào đó của Việt Nam. Ngoại trừ ngành lúa gạo, năm 2018, Bộ NN-PTNT đang chủ trì xây dựng thương hiệu gạo quốc gia”, vị này cho hay.

      Thực tế, năm 2017, Bộ trưởng Bộ NN-PTNT Nguyễn Xuân Cường cũng từng thừa nhận 10 mặt hàng xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam hiện nay mới chỉ là xuất khẩu dưới dạng thô hoặc sơ chế đơn giản. Nguyên nhân lớn nhất chính là khâu chế biến, thương mại, tổ chức sản xuất và xây dựng thương hiệu yếu.

      Ví như, tại Hưng Yên và Bắc Giang có hai loại quả chủ lực là nhãn và vải thiều. Hai loại quả này có giá trị xuất khẩu mõi năm khoảng 2.000-5.000 tỷ đồng. Song, do tính mùa vụ, chỉ chín trong vòng một tháng nên nhiều lúc vào chính vụ xảy ra tình trạng phải bán tống bán tháo. Trong khi đó, nếu chế biến sau thu hoạch thì có thể để được cả năm, Bộ trưởng dẫn chứng.

      Trong khi đó, các chuyên gia trong ngành nhận định, vì yếu kém trong khâu chế biến sau thu hoạch nên dù xuất khẩu đứng top đầu thế giới nhưng giá trị đem lại thấp và người nông dân được hưởng lợn rất ít nếu không muốn nói đến là vẫn còn nghèo.

       

      Bài học từ Nhật Bản bán quả xoài 850.000 đồng/quả

      Trái ngược với cảnh bán tống bán tháo hay được mùa thì mất của của nông sản Việt, chia sẻ tại hội nghị trực tuyến – chuyên đề “Thúc đẩy ứng dụng khoa học, công nghệ trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn”, ông Hiroshi Matsuura – Bí thư thứ nhất Đại sứ quán Nhật Bản tại Việt Nam, cho rằng cần tạo ra giá trị gia tăng cho nông sản, nâng cao lợi nhuận cho người nông dân.

      Ông dẫn chứng, ở Nhật Bản, nông dân bán một quả xoài với giá 4.000 Yên (khoảng 850.000 đồng). Thế nhưng, để có được mức giá thành cao như vậy, xoài ở Nhật được trồng theo một tiêu chuẩn khắt khe, trái trên cây rất to và chỉ thu hoạch sau khi quả đã chín ở trên cây, tuyệt đối không thu hoạch lúc xanh non. Sau thu hoạch, trái xoài được bọc trong lớp lưới xốp, đóng trong hộp để đảm bảo trong quá trình vận chuyển đến nơi tiêu thụ không bị thối hỏng.

      “Tại Việt Nam ai sẽ mua xoài giá cao? Là những người có tiền ở thành phố. Vậy làm sao vận chuyển đến tay người tiêu dùng”, vị đại sứ Nhật đặt câu hỏi và cho biết, cần đầu tư về hạ thầng vận chuyển, đảm bảo nơi bán hàng, bởi điều này sẽ quyết định đến chất lượng hàng hoá. Song, theo ông vấn đề quan trọng hơn để nông dân có được lợi nhuận lớn thì nông dân phải hoàn thiện cơ sở vật chất cho việc trữ hàng.

      Ông cho hay, ở Nhật Bản táo chỉ có theo mùa, nhưng sau khi thu hoạch nông dân cho táo vào bảo quản trong kho trữ lạnh của mình theo công nghệ CA (phương pháp giúp hạn chế hô hấp khiến trái cây tươi lâu), từ đó đưa ra thị trường một lượng vừa phải, giữ được giá sản phẩm và người Nhật cũng được ăn táo quanh năm.

      Ở Việt Nam có quả vải rất ngon, nhưng chỉ bán tươi lúc vào vụ nên giá trị chưa cao, lúc hết mùa muốn được ăn vải tươi cũng không thể. Nếu có thể áp dụng cách làm như nông dân Nhật với quả vải hay những loại quả khác thì sẽ tạo ra lợi nhuận cao cho nông dân vì họ điều tiết được giá cả thị trường.

      Nhưng theo ông, người nông dân chỉ được hưởng lợi lớn nếu họ có cơ sở trữ lạnh vì từ sản xuất sẽ qua khâu trữ lạnh và đến thị trường, tức sẽ bớt được khâu trung gian. Còn nếu cơ sở trữ lạnh do bên thua mua nắm giữ thì lợi nhuận cao nhất sẽ thuộc về bên thua mua chứ không phải người nông dân. Khi ấy, nông dân sẽ khó cải thiện được cuộc sống của mình.

      8,6 triệu hộ nông dân Việt lạc lối trên thị trường tỷ dân

      Viet Nam Net. 08/07/2019 09:50:02 (GMT +7) CPTPP. và EVFTA chiếm 35% giao dịch thương mại toàn cầu, thị trường rộng lớn gần 1 tỷ người. Theo đó, 8,6 triệu hộ nông dân Việt sản xuất manh mún sẽ phải cạnh tranh với các cường quốc có đất đai rộng mênh mông, trình độ canh tác cao. (ảnh VNN: Các chuyên gia cho rằng sản xuất nông nghiệp của Việt Nam còn manh mún nhỏ lẻ) Câu hỏi của Thủ tướng: Chúng ta đứng top 15 nước về nông nghiệp được không? Nông nghiệp thăng tiến, nông dân vẫn lắc lư dễ ngã Đưa nông nghiệp sản xuất theo hướng công nghiệp

      Nông dân Việt đấu với nông dân các cường quốc

      Tại Hội nghị Cơ hội và thách thức đối với nông nghiệp Việt Nam khi tham gia các hiệp định thương mại tự do vừa diễn ra cuối tháng 6, các chuyên gia trong ngành nhận định, tham gia Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Liên minh châu Âu (EVFTA) sẽ là cơ hội để mở rộng thị trường cho nông sản Việt, song cũng có nhiều thách thức và rủi ro.

      Chia sẻ về vấn đề trên, đại diện tỉnh Đồng Tháp thừa nhận xu thế hội nhập thế giới “sâu và rộng” đang mở ra cơ hội rất lớn cho các nước đang phát triển như Việt Nam. Qua đó, có thể tận dụng tối đa nguồn lực đầu tư nước ngoài, tiếp thu các nền tảng khoa học – công nghệ, quy trình sản xuất tiên tiến, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế đất nước.

      Các hiệp định thương mại tự do song phương lẫn đa phương được ký kết thời gian qua là tiền đề quan trọng, giúp sản phẩm hàng hoá của doanh nghiệp vươn ra biển lớn, cạnh tranh cùng các nước nếu tận dụng tốt cơ hội này.

      Song, vị lãnh đạo này cũng thừa nhận, năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp tại tỉnh Đồng Tháp còn hạn chế. Trong khi đó, việc liên kết sản xuất và tiêu thụ được quan tâm nhưng tính chặt chẽ chưa cao. Đặc biệt, sản xuất của nông dân còn mang tính tự phát, chất lượng sản phẩm hạn chế so với nhu cầu của thị trường. Ngoài ra, cơ sở hạ tầng logistics còn kém, cơ sở hạ tầng giao thông chưa theo kịp sự phát triển của nền kinh tế nên việc huy động vốn đầu tư, nhất là khu vực FDI còn nhiều khó khăn.

      Đồng quan điểm, lãnh đạo Sở NN-PTNT tỉnh Cần Thơ cũng lo ngại, thách thức lớn nhất khi tham gia các hiệp định thương mại là nền nông nghiệp ở nước ta còn dựa trên nông hộ là chủ yếu, với quy mô sản xuất nhỏ, manh mún và phân tán, năng lực sản xuất còn hạn chế, sức cạnh tranh thấp, không đảm bảo nguồn cung với số lượng lớn.

      Bên cạnh đó, chúng ta còn phải chịu áp lực cạnh tranh từ hàng hoá nhập khẩu tại thị trường nội địa, từ các hàng rào phi thuê quan của các nước nhập khẩu…

      Đề cập tới vấn đề này, Bộ trưởng Bộ NN-PTNT Nguyễn Xuân Cường cho rằng chúng ta phải nhận diện rõ đâu là cơ hội.

      Ông cho biết, tổng GDP của 2 thị trường CPTPP và EVFTA chiếm hơn 30% GDP toàn cầu, tổng giao dịch thương mại khoảng 35% thương mại toàn cầu, thị trường có dân số tới gần 1 tỷ người. Đây là cơ hội nhưng ngược lại cũng rất nhiều thách thức và rủi ro mà không nỗ lực thì chúng ta sẽ đánh mất cơ hội và mất ngay thị trường sân nhà Việt Nam.

      “Khi mở cửa, chúng ta phải chấp nhận cuộc chơi kể cả có những điều kiện mà chưa bằng các nước bạn”. Bộ trưởng dẫn chứng, ở những quốc gia như Canada, Úc, New Zealand,… có tiềm năng phát triển nông nghiệp hàng hóa rất tốt. Chúng ta phải chấp nhận sự cạnh tranh bình đẳng”.

      Bộ trưởng Cường cũng thừa nhân, khi tham gia các hiệp định, ngành nông nghiệp có rất nhiều vấn đề đáng lo lắng. Chẳng hạn, sản xuất manh mún nhỏ lẻ, có tới 8,6 triệu hộ, 10 triệu ha đất canh tác mà phải đi cạnh tranh với những cường quốc có tài nguyên đất rộng mênh mông, sản xuất nông sản hàng hoá theo quy mô trang trại lớn, trình độ canh tác ở mức cao, chất lượng sản phẩm đồng đều ở mức cao và đặc biệt có khả năng cung cấp nguồn hàng lớn.

      Thêm vào đó, vấn đề biến đổi khí hậu, thời gian hội nhập ngắn, phải cạnh tranh với những nước có bề dày kinh tế cũng là một trở ngại lớn mà nông nghiệp Việt Nam phải đối diện trong thời gian tới.

      Vận động nông dân vào hợp tác xã, bắt tay doanh nghiệp

      Để khắc phục được những điểm yếu trên, giúp nông sản Việt Nam cạnh tranh được với nông sản của các nước lớn, Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường cho rằng, giải pháp duy nhất buộc phải làm là vận động nông dân tham gia vào các hợp tác xã kiểu mới hay bắt tay liên kết cùng với các doanh nghiệp trong ngành làm hàng hoá ở quy mô lớn, theo chuỗi.

      Thực tế hiện nay, có nhiều mô hình hợp tác xã đem lại thành công, nông dân tăng thu nhập khi liên kết với doanh nghiệp trong sản xuất và bao tiêu sản phẩm. Nhờ đó, sản phẩm của họ đã xuất khẩu được sang những thị trường khó tính nhất thế giới.

      Phó Chủ tịch Hội Nông dân Việt Nam Nguyễn Xuân Định cũng nhìn nhận, để người nông dân chủ động thích ứng với những thời cơ cũng như thách thức mà các hiệp định thương mại tự do mang lại, các ngành chức năng cần tăng cường thông tin cho các doanh nghiệp và nông dân. Nâng cao trình độ, kỹ năng sản xuất, tuân thủ các quy định về thực hành sản xuất nông nghiệp trong sử dụng đầu vào, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm.

      Bên cạnh đó, tập trung vào những nông dân có năng lực, có nguyện vọng gắn bó lâu dài với nông nghiệp để hình thành đội ngũ nông dân chuyên nghiệp. Tạo cơ chế hình thành và phát triển các hợp tác xã kiểu mới, huy động sự tham gia của hộ sản xuất và nông dân, tạo cơ chế đất đai, nâng cao năng lực lập kế hoạch sản xuất và quản trị của lãnh đạo hợp tác xã, ông chia sẻ.

      Theo đại diện Vụ Thị trường trong nước (Bộ Công Thương), nền nông nghiệp nước ta chủ yếu sản xuất manh mún, nhỏ lẻ. Những mối liên kết còn lỏng lẻo, đặc biệt là mối liên kết giữa doanh nghiệp và nông dân để tạo ra các chuỗi giá trị nông sản hàng hóa lớn còn hạn chế. Chính các yếu tố này đã làm cho nền nông nghiệp Việt Nam rất dễ bị tổn thương và kém sức cạnh tranh.

      Trong bối cảnh đó, chuỗi giá trị (doanh nghiệp – hợp tác xã – hộ nông dân) có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong sản xuất nông nghiệp và nếu chúng ta không xây dựng thành công chuỗi giá trị sẽ khó cạnh tranh, đủ năng lực đưa các sản phẩm trong nước ra thị trường quốc tế.

      Tâm An

      Việt Nam con đường xanh, Hoàng Kim bài viết đầy đủ và tài liệu dẫn, xem tiếp tại https://hoangkimlong.wordpress.com/category/viet-nam-con-duong-xanh/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkim

      THỔ NHĨ KỲ NGÀY NAY
      Hoàng Kim
      Tôi giữ lại một kỷ niệm nhỏ về Thổ Nhĩ Kỳ tình bạn, đất Xem tiếp >>

        Dạy và học 9 tháng 11(09-11-2021)


       

       

      DẠY VÀ HỌC 9 THÁNG 11
      Hoàng Kim
      CNM365 Tình yêu cuộc sốngViệt Nam sáng tạo KHCN; Angkor nụ cười suy ngẫm; Chớm Đông trên đồng rộng; Lên Việt Bắc điểm hẹn Con đường lúa gạo Việt; Tô Đông Pha Tây Hồ. Ngày 9 tháng 11 năm 1953, Campuchia tuyên bố độc lập do Pháp trao trả lại chủ quyền trong Chiến tranh Đông Dương; thái tử Norodom Sihanouk hồi hương sau một thời gian lưu vong tại Thái Lan; Năm 1960, thái tử Norodom Sihanouk lên làm Quốc trưởng chứ không làm vua sau khi vua cha mất và thi hành chính sách trung lập. Ngày 9 tháng 11 năm 1818  ngày sinh Ivan Sergeyevich Turgenev, Đại văn hào Nga. Tiểu thuyết Cha và con (Отцы и Дети) của ông được coi là một trong những tác phẩm lớn nhất của Nga thế kỉ 19, thường được so sánh với các tác phẩm của hai nhà văn lớn cùng thời là Lev Tolstoy và Fyodor Dostoevsky. Ngày 9 tháng 11 năm 1997, ngày mất Nguyễn Xiển, nhà khoa học, chính khách Việt Nam. Ông từng giữ chức vụ Tổng Thư ký Đảng Xã hội Việt Nam (1956–1988) và Phó Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội Việt Nam (từ năm 1960 đến 1987). Bài viết chọn lọc ngày 9 tháng 11: Việt Nam sáng tạo KHCN; Angkor nụ cười suy ngẫm;; Chớm Đông trên đồng rộng; Lên Việt Bắc điểm hẹn Con đường lúa gạo Việt; Tô Đông Pha Tây Hồ. Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-9-thang-11/;

       

       

      VIỆT NAM SÁNG TẠO KHCN
      Hoàng Kim

      Trưa nay, lắng nghe truyền hình trực tiếp trên VTV1. Ý kiến phát biểu thật tốt ! Chúc mừng Hiệu trưởng GS.TS. Nguyễn Thị Lan đã đề cập ba vấn đề Việt Nam con đường xanh, thật nóng hổi tính thời sự: 1) Cần quan tâm đặc biệt lĩnh vực nông nghiệp, là trụ đỡ của nền kinh tế Việt Nam, trong và sau dịch Covid19, chú trọng giống, logistic; chuỗi cung ứng sản xuất, chế biến, tiêu thụ; và lĩnh vực quản lý tài chính. 2) Cần có chương trình hành động và giải pháp đột phá theo tinh thần Nghị quyết 52 của Bộ Chính Trị và .Nghị quyết 50 của Chính Phủ 3) Thể chế hóa Mô hình doanh nghiệp khởi nguồn công nghệ Việt Nam là một khâu đột phá để đưa nhanh và vững chắc sáng tạo và công nghệ vào thực tiễn sản xuất.

       

       

      Chủ đề này từ thuở Đến với Tây Nguyên mớihttps://hoangkimlong.wordpress.com/category/den-voi-tay-nguyen-moi-2/ Câu chuyện của chúng tôi lần ấy là luận án tiến sĩ của Nguyễn Bạch Mai và sắn Tây Nguyên.với những trao đổi về cách chuyển giao TBKT thành công gắn với doanh nghiệp KHCN. Chúng tôi may gặp bạn cố hương và gặp cả những nhân vật lớn của Học viện Nông nghiệp Việt Nam cựu Hiệu trưởng GS.TS. NGND. Trần Đức Viên (2007 – 2014), tân Hiệu trưởng GS.TS. Nguyễn Thị Lan (2015 – nay) người đoạt Giải thưởng Kovalevskaia 2018, TS. Lê Ngọc Báu Liên hiệp các hội KHKT tỉnh Đắk Lắk, với nhiều người khác, với thật chuyện hay, tôi chưa kịp chép lại.

      Bài viết “
      Việt Nam sáng tạo KHCN” là mục từ đúc kết các thông tin: 1) Nghị quyết 52 của Bộ Chính Trị, .2) Nghị quyết 50 của Chính Phủ .3) Bài tổng quan “Doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ Việt Nam thực trạng và giải pháp phát triển, cùng với hai trường hợp nghiên cứu điển hình trong nông nghệp (key study) 4) Chuyện cô Trâm lúa lạ và 5) Bảo tồn phát triển sắn. Mục đích giúp việc học tập và nghiên cứu mô hình chuyển giao tiến bộ kỹ thuật nông nghiệp.

      Hoàng Kim

      Những văn kiện quan trọng, liên quan đến bài viết

      Nghị quyết 52-NQ/TW của Bộ Chính TrịNghị quyết 52-NQ/TW năm 2019 về chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư do Bộ Chinh trị ban hành Ngày 13/01/2020, Ban Tuyên giáo Trung ương ban hành Hướng dẫn 116-HD/BTGTW triển khai thực hiện Nghị quyết 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ Tư (4.0). https://thuvienphapluat.vn/tintuc/tag?keyword=Ngh%E1%BB%8B%20quy%E1%BA%BFt%2052-NQ/TW

      Nghị quyết số 50/NQ-CP của Chính phủ
      May 20, 2021 — Nghị quyết số 50/NQ-CP của Chính phủ : Về Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII …
      50/NQ-CP – Thư Viện Pháp Luậthttps://thuvienphapluat.vn/van-ban/bo-may-hanh-chinh/nghi-quyet-50-nq-cp-2021-thuc-hien-nghi-quyet-dai-hoi-dai-bieu-toan-quoc-lan-thu-xiii-cua-dang-474838.aspx?v=d

      DOANH NGHIỆP KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ VIỆT NAM:
      THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN


      TS. Nguyễn Vân Anh
      Sở KH&CN Bà Rịa – Vũng Tàu
      Nguyễn Hồng Hà
      Vụ Phát triển KH&CN Địa phương, Bộ KH&CN
      ThS. Lê Vũ Toàn
      Trường Quản lý KH&CN, Bộ KH&CN

      Nguồn: JSTPM Tập 3, Số 3, 2014

      Tóm tắt:
      Phát triển doanh nghiệp khoa học và công nghệ (KH&CN) là một trong những nhiệm vụ quan trọng được Đảng và Nhà nước ta đặt ra và quyết tâm triển khai thực hiện. Tuy nhiên,tính đến thời điểm hiện nay, việc phát triển doanh nghiệp KH&CN ở nước ta còn gặp không ít khó khăn, vướng mắc. Bài viết nêu tổng quan tình hình phát triển doanh nghiệp KH&CN trong bối cảnh hiện nay, từ đó đề xuất giải pháp nhằm thúc đẩy sự hình thành và phát triển của loại hình doanh nghiệp đặc thù này ở nước ta trong thời gian tới. Từ khóa: Doanh nghiệp KH&CN; Doanh nghiệp spin-off; Doanh nghiệp start-up.

      Mã số: 14082501

      1. Khái niệm và điều kiện cấp giấy chứng nhận doanh nghiệp khoa học và công nghệ

      Doanh nghiệp KH&CN xuất hiện trên thế giới từ khoảng giữa Thế kỷ XX, xuất phát từ mô hình spin-off (doanh nghiệp khởi nguồn) và start-up (doanh nghiệp khởi nghiệp) được hình thành ở các nước công nghiệp phát triển. Doanh nghiệp spin-off được khởi nguồn từ trường đại học (tách ra hoạt động độc lập từ các trường đại học) và các cá nhân tạo ra các tài sản KH&CN tham gia vào quá trình quản lý của doanh nghiệp mới hình thành. Doanh nghiệp start-up chỉ sự khởi nghiệp của một doanh nghiệp mới hình thành trên nền tảng kết quả KH&CN [34, 35]. Mặc dù có sự khác nhau giữa doanh nghiệp spin-off và start-up, nhưng giữa chúng đều có đặc điểm chung là: (1) Khởi đầu một doanh nghiệp mới dựa trên kết quả KH&CN; (2) Doanh nghiệp có khả năng thực hiện đổi mới và thương mại hóa các kết quả KH&CN để sản xuất các loại sản phẩm mà người tiêu dùng có nhu cầu.

      Để khuyến khích các doanh nghiệp spin-off, start-up phát triển, chính phủ các quốc gia trên thế giới đều có những chính sách hỗ trợ phát triển, như khuyến khích thành lập các Vườn ươm công nghệ, các trung tâm chuyển giao công nghệ, văn phòng cấp phép sử dụng quyền sở hữu trí tuệ, thành lập các quỹ đầu tư mạo hiểm, quỹ đầu tư thiên thần (angel fund) – quỹ đầu tư cá nhân,… [32, 34, 35] để hỗ trợ các doanh nghiệp KH&CN hình thànhvà phát triển.

      Theo số liệu của Hiệp hội các trường đại học quản lý công nghệ Mỹ (AUTM), trong giai đoạn 1980-2000, Mỹ có 3.376 doanh nghiệp KH&CN (spin off) tại các trường đại học. Tốc độ gia tăng ngày càng mạnh mẽ trong những năm gần đây. Tại Anh, có 1.307 doanh nghiệp KH&CN tại các trường đại học trong năm 2007, bổ sung 219 doanh nghiệp KH&CN từ 163 trường đại học trong năm 2008. Tốc độ tăng hàng năm khoảng 70 doanh nghiệp KH&CN từ 102 trường đại học tại Vương quốc Anh [33].

      Tại Việt Nam, thuật ngữ doanh nghiệp KH&CN được đề cập lần đầu tiên vào năm 1980, trong kết luận của Hội nghị lần thứ VI Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX: “Từng bước chuyển các tổ chức KH&CN thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ sang cơ chế tự trang trải kinh phí, hoạt động theo cơ chế doanh nghiệp” [5]. Nhiệm vụ trên được cụ thể hóa trong Nghị định số 115/2005/NĐ-CP ngày 05/9/2005 của Chính phủ (Nghị định 115) quy định cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức KH&CN công lập: “Các tổ chức KH&CN có thể lựa chọn hình thức chuyển đổi thành doanh nghiệp KH&CN” (Điều 4, Nghị định 115). Chính phủ ban hành Nghị định số 80/2007/NĐ-CP ngày 19/5/2007 (Nghị định 80) và Nghị định số 96/2010/NĐ-CP ngày 20/9/2010 (Nghị định 96), trong đó có điều khoản nêu rõ khái niệm doanh nghiệp KH&CN:

      “Doanh nghiệp KH&CN là doanh nghiệp do tổ chức, cá nhân Việt Nam; tổ chức, cá nhân nước ngoài có quyền sở hữu hoặc sử dụng hợp pháp các kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ (R&D) thành lập, tổ chức quản lý và hoạt động theo quy định của Luật Doanh nghiệp và Luật KH&CN. Hoạt động chính của doanh nghiệp là thực hiện sản xuất, kinh doanh các loại sản phẩm hàng hóa hình thành từ kết quả R&D do doanh nghiệp được quyền sở hữu hoặc sử dụng hợp pháp; thực hiện các nhiệm vụ KH&CN.

      Doanh nghiệp KH&CN thực hiện sản xuất, kinh doanh và thực hiện các dịch vụ khác theo quy định của pháp luật” (Điều 1.2, Điều 2, Nghị định 80; Điều 2, Nghị định 96). Năm 2013, quy định về doanh nghiệp KH&CN được đề cập trong văn bản quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý cao hơn, đó là Luật KH&CN [1]. Tuy nhiên, hiện nay Luật KH&CN chưa thể áp dụng toàn diện vì còn thiếu văn bản hướng dẫn thi hành.

      Điều kiện để công nhận doanh nghiệp KH&CN được quy định cụ thể tạiThông tư liên tịch số 17/2012/TTLT-BKHCN-BTC-BNV của liên Bộ KH&CN, Bộ Tài chính và Bộ Nội vụ ban hành ngày 10/9/2012 (Thông tư 17): “Đối tượng thành lập doanh nghiệp KH&CN hoàn thành việc ươm tạo và làm chủ công nghệ từ kết quả KH&CN được sở hữu, sử dụng hợp pháp hoặc sở hữu hợp pháp công nghệ để trực tiếp sản xuất thuộc các lĩnh vực: 68 Doanh nghiệp khoa học và công nghệ Việt Nam:|

      …(1) Công nghệ thông tin – truyền thông, đặc biệt là công nghệ phần mềm tin học; (2) Công nghệ sinh học, đặc biệt là công nghệ sinh học phục vụ nông nghiệp, thủy sản, y tế; (3) Công nghệ tự động hóa; (4) Công nghệ vật liệu mới, đặc biệt là công nghệ nano; (5) Công nghệ bảo vệ môi trường; (6) Công nghệ năng lượng mới; (7) Công nghệ vũ trụ và một số công nghệ khác do Bộ KH&CN quy định; chuyển giao công nghệ hoặc trực tiếp sản xuất trên cơ sở công nghệ đã ươm tạo và làm chủ hay sở hữu hợp pháp công nghệ theo quy định của pháp luật theo các lĩnh vực đã nói ở trên” (Điều 1.2, Thông tư 17). Như vậy quan điểm về doanh nghiệp KH&CN được quy định bởi pháp luật Việt Nam tương đối phù hợp quan điểm về doanh nghiệp KH&CN hiện nay trên thế giới. Sự phù hợp được đánh giá mang tính chất “tương đối” vì cùng thống nhất ở những điểm sau: (1) Mô hình tổ chức đều phải là doanh nghiệp; (2) Doanh nghiệp đó có khả năng thực hiện đổi mới; (3) Sản xuất, kinh doanh dựa trên kết quả KH&CN. Tuy nhiên, quan điểm của thế giới về doanh nghiệp KH&CN, là doanh nghiệp phải “thành lập mới (khởi nguồn, khởi nghiệp)”, còn tại Việt Nam, yếu tố này không được đề cập. Quan điểm này là phù hợp với điều kiện và bối cảnh thực tế tại Việt Nam. Bởi việc hình thành các doanh nghiệp mới từ kết quả KH&CN gặp rất nhiều rủi ro, đòi hỏi người quản lý, điều hành doanh nghiệp vừa phải có kiến thức quản lý, kinh nghiệm thực tiễn điều hành doanh nghiệp, vừa phải có kiến thức khác liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ, kiến thức chuyên môn kỹ thuật để tiếp nhận và đưa công nghệ mới vào vận hành khai thác, mang lại lợi nhuận cho doanh nghiệp. Tại các nước tiên tiến trên thế giới, có cả hệ thống trợ giúp ươm tạo công nghệ (vốn, kỹ thuật, quản lý, thương mại,…) để hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp (spin-off), khởi nguồn (start-up) phát triển. Trong khi đó, tại Việt Nam, các doanh nghiệp KH&CN hầu như đều đang tự xoay xở, phải dựa rất nhiều và tiềm lực của các doanh nghiệp thực tế đang hoạt động, để hỗ trợ tốt cho các kết quả KH&CN được ứng dụng vào thực tiễn.

      Trong thời điểm hiện nay, với các văn bản quy phạm pháp luật có giá trị áp dụng hiện tại (Nghị định 80, Nghị định 96; Thông tư 06, Thông tư 17), chúng ta thấy rằng: phạm vi “khái niệm doanh nghiệp KH&CN” rộng hơn “điều kiện thành lập doanh nghiệp KH&CN”. Sự “rộng” hơn này liên quan đến thuật ngữ “kết quả KH&CN”. Điều kiện cấp giấy chứng nhận doanh nghiệp KH&CN nêu tại Điều 1.2, Thông tư 17 chỉ chấp nhận “kết quả KH&CN” của 7 lĩnh vực: (1) Công nghệ thông tin – truyền thông; (2) Công nghệ sinh học; (3) Công nghệ tự động hóa; (4) Công nghệ vật liệu mới; (5) Công nghệ bảo vệ môi trường; (6) Công nghệ năng lượng mới; (7) Công nghệ vũ trụ và một số công nghệ khác do Bộ KH&CN quy định. Như vậy, sự hạn chế này đã tước đi cơ hội được cấp giấy chứng nhận doanh nghiệp KH&CN của các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp khác có “kết quả KH&CN” nằm ngoài 7 lĩnh vực nêu trên. Chẳng hạn như tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, một cá nhân đã tự đầu tư nghiên cứu sáng tạo ra “xe lu ruộng muối”. Giải pháp “xe lu ruộng muối” có tính mới, tính sáng tạo, khả năng ứng dụng rất cao. Giải pháp này đã đạt giải nhất hội thi sáng tạo kỹ thuật của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu năm 2013. Chủ sở hữu của giải pháp này đã thành lập doanh nghiệp và sản xuất “xe lu ruộng muối” để cung cấp cho các diêm dân trong và ngoài Tỉnh. Tuy nhiên, giải pháp “xe lu ruộng muối “ của doanh nghiệp mới thành lập là kết quả R&D thuộc lĩnh vực cơ khí, nên chưa đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận doanh nghiệp KH&CN theo quy định hiện hành. Đối chiếu với quy định mới về doanh nghiệp KH&CN của Luật KH&CN năm 2013 (Điều 58.1, 58.2), thấy rằng sự hạn chế trên đã được khắc phục. Đây là một điểm mới, tiến bộ của Luật KH&CN. Nhưng với quy định doanh nghiệp KH&CN phải đáp ứng điều kiện: “Doanh thu từ việc sản xuất, kinh doanh sản phẩm, hàng hoá hình thành từ kết quả R&D đạt tỷ lệ theo quy định” (Điều 58.2.c, Luật KH&CN năm 2013) sẽ lại hình thành một rào cản mới đối với các doanh nghiệp mong muốn đứng vào hàng ngũ doanh nghiệp KH&CN được Nhà nước thừa nhận, nhất là các doanh nghiệp thành lập mới, được hình thành từ kết quả R&D. Theo quan điểm của tác giả, không nên đưa điều kiện “doanh thu kết quả R&D đạt tỷ lệ theo quy định” vào điều kiện cấp giấy chứng nhận doanh nghiệp KH&CN, nên đưa điều khoản này về quy định hưởng ưu đãi thuế như Thông tư Liên tịch số 06/2008/TTLT-BKHCN-BTC-BNV ngày 18/6/2008, Thông tư 17 hiện hành. Bởi quá trình kinh doanh, không phải bao giờ doanh nghiệp cũng đảm bảo doanh thu như mong muốn, nhất là sản phẩm mới hình thành bao giờ cũng tiềm ẩn những rủi ro, phải mất một thời gian mới được thị trường đón nhận rộng rãi. Một số sản phẩm mới, phải được cơ quan quản lý chức năng ban hành tiêu chuẩn, quy chuẩn chuyên ngành phù hợp mới được phép lưu hành.

      2. Thực trạng về doanh nghiệp khoa học và công nghệ
      2.1. Thực trạng


      Số lượng các doanh nghiệp KH&CN được công bố tại Việt Nam hiện nay đang trong tình trạng chưa thống nhất, có sự chênh lệch rất lớn liên quan đến các khái niệm “doanh nghiệp KH&CN”, “doanh nghiệp được cấp giấy chứng nhận doanh nghiệp KH&CN”. Cụ thể: tác giả Phạm Văn Diễn [27] cho rằng “Đến năm 2011, Việt Nam có khoảng 2.000 doanh nghiệp KH&CN”; Phạm Đức Nghiệm [28]: “Đến tháng 10/2013, Việt Nam có khoảng 2.000 doanh nghiệp hoạt động theo mô hình doanh nghiệp KH&CN”; Trần Văn Đích [30]: “Đến năm 2013, cả nước hiện có khoảng 2.000 doanh nghiệp theo mô hình doanh nghiệp KH&CN trong lĩnh vực công nghệ thông tin, giống cây – con, công nghệ chế biến sau thu hoạch, cơ khí tự động hóa, điện tử, tin học, y tế dược,… Cho đến nay, đã công nhận được 123 doanh nghiệp KH&CN và khoảng 40 hồ sơ đăng ký đã hoàn thiện và đang chờ cấp”; Theo Phạm Hồng Quất [29]: “Đến nay (2014), các Sở KH&CN các địa phương đã cấp trên 100 giấy chứng nhận doanh nghiệp KH&CN và đang thẩm định hàng trăm hồ sơ của các doanh nghiệp”. Còn theo con số chính thức trong báo cáo của Bộ KH&C năm 2013 [15]: “Tính đến hết tháng 6/2013, có trên 65 doanh nghiệp được cấp giấy chứng nhận doanh nghiệp KH&CN”. Một trong những nguyên nhân của việc có sự chênh lệch các con số này, liên quan đến sự chưa đồng nhất giữa “khái niệm doanh nghiệp KH&CN” và “điều kiện cấp giấy chứng nhận doanh nghiệp KH&CN” mà bài viết đã đề cập ở trên. Biết rằng, quy định hiện nay về điều kiện cấp giấy chứng nhận doanh nghiệp KH&CN là chưa phù hợp, nhưng việc công bố các con số quá lớn đi kèm với các thuật ngữ “doanh nghiệp KH&CN”, hay “doanh nghiệp hoạt động theo mô hình doanh nghiệp KH&CN” so với con số thực cấp giấy chứng nhận doanh nghiệp KH&CN như vậy, có điều gì đó chưa ổn, vì khó kiểm chứng, sẽ mang đến cách hiểu hết sức “tù mù”, thiếu độ tin cậy. Nhất là tình hình báo cáo thống kê KH&CN Việt Nam đang có những bất ổn về mặt số liệu. Không phải năm nào Việt Nam cũng có thể tổ chức điều tra tất cả các doanh nghiệp trong cả nước chỉ để xác định doanh nghiệp KH&CN. Mặt khác, là người tham gia trực tiếp công tác quản lý nhà nước liên quan đến doanh nghiệp KH&CN tại địa phương, tác giả thấy rằng, hàng năm, các Sở KH&CN chỉ thực hiện báo cáo con số thống kê về số lượng doanh nghiệp được cấp giấy chứng nhận doanh nghiệp KH&CN và số lượng hồ sơ đang xem xét cấp giấy chứng nhận doanh nghiệp KH&CN, chưa từng tham gia thực hiện báo cáo thống kê “doanh nghiệp hoạt động theo mô hình doanh nghiệp KH&CN” từ bất cứ cơ quan chuyên môn nào của Bộ KH&CN. Do vậy, con số “2.000 doanh nghiệp hoạt động theo mô hình doanh nghiệp KH&CN”, mà các tác giả [28, 30] công bố chắc chắn sẽ chưa đầy đủ, vì ít nhất chưa có số liệu thống kê từ tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

      Hiện nay, cơ quan chuyên môn quản lý nhà nước liên quan đến doanh nghiệp KH&CN tại Bộ KH&CN do rất nhiều đơn vị phụ trách: Cục Phát triển thị trường và doanh nghiệp KH&CN; Vụ Phát triển KH&CN địa phương; Ban quản lý khu công nghệ cao Hòa Lạc; Vụ Công nghệ cao; Văn phòng Chứng nhận hoạt động công nghệ cao; Vụ Tổ chức cán bộ (triển khai Chương trình hỗ trợ phát triển doanh nghiệp KH&CN theo Quyết định số 592/QĐ-TTg ngày 22/5/2012 về việc phê duyệt Chương trình hỗ trợ phát triển doanh nghiệp KH&CN và tổ chức KH&CN công lập thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm). Tuy nhiên, Cục Phát triển Thị trường và doanh nghiệp KH&CN (sau đây gọi tắt là Cục) là cơ quan quản lý nhà nước về phát triển thị trường công nghệ và hỗ trợ hình thành, phát triển doanh nghiệp KH&CN lại không trực tiếp tham gia cấp phép thành lập các doanh nghiệp KH&CN, mà chỉ tổng hợp số liệu doanh nghiệp được cấp giấychứng nhận doanh nghiệp KH&CN từ các Sở KH&CN địa phương. Theo quan điểm của tác giả bài viết, doanh nghiệp sẽ lập tức làm thủ tục để được cấp giấy chứng nhận doanh nghiệp KH&CN, nếu xét thấy điều đó có lợi,làm gia tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Mặt khác, số liệu thống kê phải có khả năng kiểm chứng. Trong điều kiện bối cảnh số liệu thống kê
      KH&CN hiện nay tại Việt Nam, kể từ đây bài viết sẽ đề cập về “doanh nghiệp KH&CN” hiểu theo theo góc độ “doanh nghiệp được cấp giấy chứng nhận doanh nghiệp KH&CN”. Mặt khác, nếu như doanh nghiệp được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận với hình thức có giá trị tương đương với việc cấp giấy chứng nhận doanh nghiệp KH&CN (thỏa mãn điều kiện được cấp giấy chứng nhận doanh nghiệp KH&CN) thì sẽ được coi là doanh nghiệp KH&CN. Như vậy, sẽ có một câu hỏi cần thiết đặt ra là: “Phải chăng hiện nay (tháng 9/2014), chúng ta mới có 123 doanh nghiệp KH&CN và năm 2009 là năm đầu tiên Việt Nam có doanh nghiệp KH&CN?” [30].

      Để giải đáp câu hỏi này, ngược trở lại thời điểm lần đầu tiên Việt Nam hình thành và đưa vào hoạt động Khu công viên phần mềm Quang Trung tại Thành phố Hồ Chí Minh (2001), và các văn bản pháp lý liên quan đến KH&CN, chúng ta sẽ thấy rằng, con số doanh nghiệp KH&CN tại Việt Nam sẽ lớn hơn và thời gian ra đời sớm hơn con số được công bố [30] rất nhiều. Điều này liên quan đến khái niệm công nghệ cao và Luật Công nghệ cao của Việt Nam. Khi trao đổi về vấn đề này, tác giả nhận được nhiều ý kiến khác nhau từ giới quản lý KH&CN (bao gồm cả trung ương và địa phương).

      Tác giả bài viết cho rằng, cần thiết phải bổ sung số lượng các doanh nghiệp công nghệ cao (CNC) tại các khu CNC (trong đó bao gồm khu CNC, khu nông nghiệp CNC, khu công nghệ thông tin tập trung hay công viên phần mềm) theo quy định của Luật CNC [2], Luật Công nghệ thông tin [3]; doanh nghiệp thành lập mới từ dự án đầu tư sản xuất sản phẩm CNC, doanh nghiệp CNC nằm ngoài các khu CNC do Bộ KH&CN cấp giấy chứng nhận theo quy định của Thông tư số 32/2011/TT-BKHCN ngày 15/11/2011 (Thông tư 32), vào số liệu thống kê doanh nghiệp KH&CN. Bởi các lý do sau: (1) “CNC” là một loại hình công nghệ đặc thù, nhưng khái niệm này hoàn toàn nằm trong tập hợp thuộc khái niệm “KH&CN” nói chung; (2) Khu CNC là “Nơi tập trung, liên kết hoạt động R&D, ứng dụng CNC; ươm tạo CNC, ươm tạo doanh nghiệp CNC; đào tạo nhân lực CNC; sản xuất và kinh doanh sản phẩm CNC, cung ứng dịch vụ CNC” (Điều 31.1, Luật CNC); (3) “Doanh nghiệp CNC là doanh nghiệp sản xuất sản phẩm CNC, cung ứng dịch vụ CNC, có hoạt động R&D CNC” (Điều 3.4, Luật CNC); (4) Dự án CNC là dự án có một trong những điều kiện cần phải thỏa mãn “Sử dụng kết quả R&D để đổi mới công nghệ, đổi mới và nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm góp phần hiện đại hóa hoặc hình thành ngành sản xuất, dịch vụ mới tại Việt Nam” (Điều 2.1.b, Thông tư số 32/2011/TT-BKHCN ngày 15/11/2011). Theo quy định tại Quyết định số 49/2010/QĐ-TTg ngày 19/7/2010 của Thủ tướng Chính phủ, các lĩnh vực CNC, sản phẩm CNC được ưu tiên phát triển hiện nay đều thuộc 7 lĩnh vực mà Thông tư 17 quy định.

      Với các quy định của pháp luật như đã đề cập thì doanh nghiệp CNC (trong và ngoài khu CNC), doanh nghiệp thành lập mới từ dự án đầu tư sản xuất sản phẩm CNC đáp ứng đầy đủ các điều kiện quy định đối với doanh nghiệp KH&CN. Quan điểm này cũng phù hợp với quan điểm của một số tác giả trong nước như: Nguyễn Quân, 2006 [21]; Vũ Cao Đàm, 2006 [23]; Nguyễn Thị Minh Nga, 2006 [24]; Bạch Tân Sinh, 2005 [22], 2006 [17]; Nguyễn Văn Phú, 2006 [26]; Nguyễn Thị Minh Nga, Hoàng Văn Tuyên, 2006 [25]; Hoàng Văn Tuyên, 2005 [18],… về việc coi các doanh nghiệp CNC, doanh nghiệp thuộc các khu CNC – công viên KH&CN là các doanh nghiệp KH&CN

      Từ những luận giải ở trên cho thấy, các doanh nghiệp KH&CN là các doanh nghiệp không chỉ do các Sở KH&CN cấp giấy chứng nhận (doanh nghiệp KH&CN) mà còn tồn tại ở các hình thức khác là: (1) Được Bộ KH&CN cấp giấy chứng nhận (doanh nghiệp CNC, doanh nghiệp thành lập mới từ dự án đầu tư sản xuất sản phẩm CNC – nằm ngoài các khu CNC); (2) Được các khu CNC cấp phép cho vào hoạt động trong các khu CNC. Việc các doanh nghiệp hoạt động trong các khu CNC không làm thủ tục xin chứng nhận là doanh nghiệp KH&CN (tại các Sở KH&CN) hay doanh nghiệp CNC (Bộ KH&CN) vì doanh nghiệp đã được hưởng các ưu đãi từ các khu CNC, và ưu đãi khuyến khích đầu tư theo Luật Đầu tư, Luật CNC và các luật khác liên quan..

      Như vậy, ngoài 123 doanh nghiệp KH&CN như công bố hiện nay [30], phải được kể tới trên 400 doanh nghiệp CNC đang hoạt động tại các khu CNC hiện nay của Việt Nam (Khu công viên phần mềm Quang Trung Thành phố Hồ Chí Minh, Khu nông nghiệp CNC thành phố Hồ Chí Minh, Khu CNC Thành phố Hồ Chí Minh, Khu CNC Hòa Lạc,… theo quy định của Luật CNC, Luật Công nghệ thông tin; trên 20 doanh nghiệp được Bộ KH&CN cấp giấy chứng nhận doanh nghiệp CNC, doanh nghiệp thành lập mới từ dự án đầu tư sản xuất sản phẩm CNC – nằm ngoài các khu công nghiệp theo quy định của Thông tư 32. Theo thống kê của tác giả, hiện nay tổng cộng có trên 500 doanh nghiệp.

      Cơ sở để hình thành các doanh nghiệp KH&CN là: (1) Tự đầu tư nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ (R&D), hoặc phối hợp với các viện nghiên cứu, trường đại học hợp tác nghiên cứu (ví dụ: Công ty Cổ phần Giống cây trồng Quảng Ninh, Tổng Công ty Giống cây trồng Thái Bình, Công ty Cổ phần Giống cây trồng Trung ương, Công ty Cổ phần Thoát nước đô thị BUSADCO,…); (2) Tiếp nhận chuyển giao công nghệ mới từ nước ngoài để làm chủ công nghệ (Công ty Cổ phần Công nghệ Việt – Séc); (3) Thực hiện đầu tư vào Việt Nam theo Luật Đầu tư, Luật CNC, Luật Công nghệ thông tin hiện nay của Việt Nam.

      Các doanh nghiệp KH&CN được hình thành chủ yếu từ 2 thành phố lớn là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, nơi tập trung tiềm lực KH&CN mạnh của cả nước với hệ thống nhiều trường đại học, viện nghiên cứu và các khu CNC… Các doanh nghiệp KH&CN trong nước hiện nay chủ yếu có quy mô vừa và nhỏ, hoạt động trong nhiều lĩnh vực khác nhau thuộc nhóm các ngành, lĩnh vực theo quy định hiện hành. Các doanh nghiệp KH&CN đều quan tâm đến việc xác lập và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với các kết quả KH&CN và sản phẩm được tạo ra (ví dụ: Công ty TNHH Một thành viên Thương mại – Sản xuất – Xuất nhập khẩu Ngân Hà được cấp 12 bằng độc quyền kiểu dáng công nghiệp phạm vi bảo hộ trong nước và quốc tế; Công ty KH&CN An Sinh Xanh được cấp 8 bằng độc quyền sáng chế trong nước và quốc tế; Tổng Công ty Giống cây trồng Thái Bình đăng ký bảo hộ 15 giống cây trồng và hơn 30 nhãn hiệu).

      Theo báo cáo của Bộ KH&CN năm 20131 [15]: “Doanh thu bình quân của doanh nghiệp KH&CN là 59,8 tỷ đồng, lợi nhuận bình quân là 6,4 tỷ đồng.Bình quân thu nhập của cán bộ trong doanh nghiệp KH&CN là 5 triệu đồng/tháng, chưa kể một số doanh nghiệp có kết quả sản xuất, kinh doanh tốt thì thu nhập của cán bộ, nhân viên bình quân đạt trên 10 triệu đồng/tháng… Sản phẩm của nhiều doanh nghiệp KH&CN được thị trường trong và ngoài nước đánh giá cao. Một số doanh nghiệp KH&CN có sản phẩm được xuất khẩu chiếm 75-80% tổng sản lượng ra thị trường nước ngoài, được các tổ chức chứng nhận chất lượng quốc tế có uy tín cấp chứng chỉ công nhận có đủ điều kiện xuất khẩu hàng hóa sang các thị trường khó tính như châu Âu…”.

      2.2. Ươm tạo công nghệ, ươm tạo doanh nghiệp khoa học và công nghệ

      Một trong những chiếc nôi để tạo nên các doanh nghiệp KH&CN là các vườn ươm doanh nghiệp KH&CN (Vườn ươm). Vườn ươm công nghệ phần mềm của Trung tâm công nghệ phần mềm thuộc Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh là Vườn ươm doanh nghiệp KH&CN đầu tiên xuất hiện ởViệt Nam vào năm 2002. Tiếp sau đó là Vườn ươm CRC (2004) thuộc Trung tâm Nghiên cứu Tư vấn và Quản lý thuộc Trường Đại học Bách khoa Hà Nội. Tuy nhiên, cho đến nay, vì nhiều lý do chủ quan và khách quan, cả hai Vườn ươm này đều không còn tồn tại. Ở nước ta, hiện chỉ có 11 Vườn ươm đang hoạt động, được hình thành từ năm 2007 trở lại đây. Cũng như các doanh nghiệp KH&CN, cơ bản các Vườn ươm tập trung tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Các Vườn ươm hình thành tại Việt Nam đều nhận được tài trợ từ một trong những nguồn của Chính phủ hay tổ chức quốc tế. Ví dụ như: Bộ KH&CN, Sở KH&CN thành phố Hồ Chí Minh, Ngân hàng thế giới, Microsoft, Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID), Qualcomm và Hewlett-Packard, InWent (Cộng hòa Liên bang Đức),… Các cơ quan, tổ chức trong và ngoài nước hỗ trợ cả kinh phí cũng như kinhnghiệm xây dựng và vận hành các Vườn ươm.

      Các Vườn ươm là nơi có điều kiện thuận lợi về cơ sở hạ tầng kỹ thuật và cung cấp dịch vụ để các doanh nghiệp KH&CN được hình thành và phát triển. Các Vườn ươm hình thành, là một trong những địa chỉ hỗ trợ các nhà khoa học, các chủ sở hữu sáng chế làm quen với công việc kinh doanh để phát triển sản phẩm của chính mình, góp phần giải quyết những bất cập, yếu kém của các doanh nghiệp KH&CN khởi sự. Một số Vườn ươm cũng đã thành công trong việc hoàn thiện, thương mại hóa công nghệ góp phần nâng cao thương hiệu công nghệ Việt Nam. Nhiều công nghệ tại các Vườn ươm đã được thương mại hóa trên quy mô nhỏ và bước đầu tiếp cận thị trường như: Hệ thống tìm kiếm trực tuyến IZOMI, phần mềm EDOVE 2.0 quản lý và điều hành taxi, trường học trực tuyến, súp cao đạm (Vườn ươm CNC Hòa Lạc, Hà Nội); Nola – nước ép trái cây các loại, rau mầm của doanh nghiệp Phương Thành, Biome – cơ khí nông nghiệp, phân bón vi sinh của doanh nghiệp Nông Lâm Tiến (Vườn ươm Nông Lâm thuộc Trường Đại học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh)…

      3. Một số rào cản đối với hình thành và phát triển doanh nghiệp khoa học và công nghệ tại Việt Nam

      Theo một số kết quả nghiên cứu, tại Hà Lan cứ 100 doanh nghiệp thì có từ 5 – 8 doanh nghiệp KH&CN (tương đương từ 5% – 8%) [31]. Trường đại học Stanford của Mỹ hiện có 1.000 doanh nghiệp KH&CN (spin-offs). Trung bình mỗi doanh nghiệp KH&CN của trường có 20 nhân viên.Tổng doanh thu của các doanh nghiệp KH&CN là 100 tỷ USD, xấp xỉ một nửa số doanh thu của Thung lũng Silicon của Mỹ [36]. Theo lý thuyết, mỗi bằng độc quyền sáng chế/ giải pháp hữu ích có thể chuyển giao quyền sử dụng cho nhiều đối tượng khác nhau để có thể hình thành các doanh nghiệp KH&CN. Trong khi đó, hiện nay tại Việt Nam có khoảng 421 trường đại học/ cao đẳng [19]. Cả nước có 375.000 doanh nghiệp đang hoạt động [20]. Tổng số bằng độc quyền sáng chế/ giải pháp hữu ích đã được cấp tại Việt Nam từ năm 1981 đến 2013 là 23.388 [16], nhưng chúng ta chỉ có trên 500 doanh nghiệp KH&CN. Như vậy, trong thời gian qua, mặc dù Nhà nước đã ban hành các văn bản, chính sách tạo điều kiện cho các doanh ghiệp KH&CN phát triển, như: các ưu đãi liên quan đến thuế, phí, lệ phí, tín dụng, sử dụng các dịch vụ KH&CN ( Xem thêm: Nguyễn Vân Anh (2013), “Một số cơ chế, chính sách hiện nay đối với doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ”, tạp chí Thông tin Khoa học Chính trị – Hành chính, Trung tâm Thông tin Khoa học, Học viện Chínhtrị – Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, số 1 năm 2013.) nhưng đến nay, số lượng doanh nghiệp KH&CN, vườn ươm doanh nghiệp KH&CN của chúng ta còn quá ít so với tiềm năng phát triển. Chất lượng, dịch vụ tại các Vườn ươm hiện có còn hạn chế nên chưa thúc đẩy tạo điều kiện cho các doanh nghiệp KH&CN hình thành và phát triển. Thực trạng này là do một số rào cản chủyếu sau:

      Một là, pháp luật liên quan đến doanh nghiệp KH&CN tại Việt Nam chưa đồng bộ với các Luật trong một số lĩnh vực có liên quan (ví dụ như Luật Đất đai), dẫn tới việc doanh nghiệp KH&CN chưa được hưởng ưu đãi theo quy định. Cụ thể, nhiều doanh nghiệp KH&CN chưa được hưởng những ưu đãi liên quan đến quyền sử dụng đất, được thuê đất, cơ sở hạ tầng với mức giá thấp nhất theo khung giá của Nhà nước tại địa phương nơi doanh nghiệp KH&CN thuê, đặc biệt đối với các doanh nghiệp KH&CN nằm ngoài các khu CNC. Bên cạnh đó, chính sách thuế của Nhà nước đối với một số ngành, lĩnh vực hiện còn một số điểm chưa hợp lý đối với việc khuyến khích phát triển doanh nghiệp KH&CN. Ví dụ, trong việc quy định áp dụng mức thuế nhập nguyên liệu cao hơn mức thuế sản phẩm nhập khẩu của một số mặt hàng mà đại đa số các doanh nghiệp tại Việt Nam chưa sản xuất được, khiến cho sản phẩm mà doanh nghiệp KH&CN đầu tư nghiên cứu và thực hiện sản xuất trong nước (chịu mức thuế cao do nhập nguyên liệu)phải cạnh tranh không bình đẳng với sản phẩm nhập khẩu (được áp dụng mức thuế suất rất thấp, thậm chí là 0%).

      Hai là, thiếu các văn bản hướng dẫn triển khai thực hiện các cơ chế, chính sách trong ngành, khiến các nội dung ưu đãi cũng chưa thể triển khai trong thực tiễn. Ví dụ, quy định liên quan đến kinh phí, hồ sơ để xác nhận đánh giá các kết quả KH&CN do doanh nghiệp tự đầu tư cho hoạt động R&D;việc xây dựng, áp dụng tiêu chuẩn, quy chuẩn của các vật liệu mới, công nghệ mới,.
      ..
      Ba là, thị trường vốn ở nước ta chưa phát triển, đặc biệt là việc hình thành và thu hút vốn đầu tư mạo hiểm. Thị trường chứng khoán mới chỉ xuất hiện giao dịch cổ phiếu của doanh nghiệp mà chưa có cổ phiếu công nghệ như các quốc gia phát triển, nên không huy động được vốn để đầu tư cho ươm tạo công nghệ và ươm tạo doanh nghiệp KH&CN.

      Bốn là, Chương trình hỗ trợ phát triển doanh nghiệp KH&CN [8] được ban hành cách đây đã hai năm, nhưng đến nay, Chương trình mới bắt đầu khởi động, vì phải chờ văn bản hướng dẫn. Bên cạnh đó, nội dung Chương trìnhcó một số điểm không phù hợp với nhu cầu và thực tiễn của hầu hết các địa phương, đặc biệt là các quy định liên quan đến hỗ trợ ươm tạo doanhnghiệp KH&CN.

      Năm là, các doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, khả năng tự đổi mới hạn chế trong khi Nhà nước chưa có cơ chế, chính sách hiệu quả, tạo sự gắn kết giữa viện nghiên cứu, trường đại học và doanh nghiệp, giúp các doanh nghiệp tiếp nhận các kết quả KH&CN mới để hình thành các doanh nghiệp KH&CN. Qua đó, cũng giúp các nhà khoa học có kinh phí đầu tư cho hoạt động R&D.

      Sáu là, việc thực thi Luật Sở hữu trí tuệ tại nhiều địa phương chưa nghiêm túc, tình trạng vi phạm quyền sở hữu trí tuệ vẫn diễn ra tại nhiều nơi. Điều này cũng làm hạn chế việc thu hút đầu tư cho R&D tại Việt Nam. Hơn nữa, Luật KH&CN đưa ra quy định mới về doanh nghiệp KH&CN chưa phù hợp như đã phân tích, trong khi chưa ban hành văn bản hướng dẫn thi hành, vô tình hình thành nên một rào cản mới đối với việc hình thành và phát triển
      doanh nghiệp KH&CN trong thời điểm hiện nay.

      Bảy là, hiện nay Bộ KH&CN có quá nhiều cơ quan thực hiện chức năng quản lý nhà nước về doanh nghiệp KH&CN, nhưng lại chưa có các biện pháp quyết liệt nhằm phát triển hệ thống doanh nghiệp KH&CN. Theo Nghị định 115, một trong những hướng phát triển cần thực hiện là chuyển đổi các tổ chức KH&CN công lập sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm,hoặc chuyển sang thành lập các doanh nghiệp KH&CN, song việc thực hiện chuyển đổi này diễn ra rất chậm và không được kiểm soát. Mặt khác, các Vườn ươm doanh nghiệp KH&CN đang trong tình trạng thiếu nguồn chuyên gia tư vấn chuyên nghiệp, nên chưa hỗ trợ kịp thời cho các “hạt giống” nảy mầm và phát triển.

      4. Một số giải pháp phát triển

      Để khắc phục các rào cản nhằm phát triển doanh nghiệp KH&CN ở Việt Nam, một số gợi ý chính sách được đề xuất, khuyến nghị như sau:

      Thứ nhất, cần rà soát hệ thống luật pháp để hoàn thiện cơ chế, chính sách tạo sự đồng bộ, đảm bảo tính thực thi, nhằm khuyến khích các doanh nghiệp KH&CN hình thành và phát triển. Sớm ban hành văn bản liên quan đến các quy định về kinh phí, hồ sơ để xác nhận các kết quả KH&CN do doanh nghiệp tự đầu tư cho hoạt động R&D. Đây là một trong những điều kiện cần thiết để công nhận doanh nghiệp KH&CN.

      Thứ hai, rà soát tổ chức lại hệ thống đơn vị quản lý nhà nước về doanh nghiệp KH&CN tại Bộ KH&CN, phân định chức năng nhiệm vụ cho rõ ràng và phù hợp. Đồng thời, thiết lập tổ chức đầu mối ở trung ương và địa phương với các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, đảm bảo đủ điều kiện và năng lực giải quyết kịp thời những khó khăn, vướng mắc cho các doanh nghiệp KH&CN. Tổ chức đầu mối cần đẩy nhanh tiến độ thực hiện chuyển đổi các tổ chức KH&CN công lập sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm,hoặc chuyển sang thành lập các doanh nghiệp KH&CN theo quy định của Thủ tướng Chính phủ. Ngoài ra, tổ chức đầu mối này còn giữ vai trò tích cực trong việc tạo ra các kết nối giữa doanh nghiệp, viện nghiên cứu/ trường đại học để hỗ trợ cho quá trình đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp. Mặt khác, cần thiết phải có những nhìn nhận, đánh giá chính xác, khách quan về số lượng doanh nghiệp KH&CN hiện có để có giải pháp pháXem tiếp >>

        Dạy và học 8 tháng 11(08-11-2021)


      DẠY VÀ HỌC 8 THÁNG 11
      Hoàng Kim
      CNM365 Tình yêu cuộc sốngLên Trúc Lâm Yên Tử; Vườn Quốc gia Việt Nam; Du lịch sinh thái Việt; Tìm về đức Nhân Tông; Trúc Lâm Trần Nhân Tông; Chớm Đông trên đồng rộng; Thơ dâng theo dấu Tagore; Nông lịch tiết Lập Đông;Đời đừng thiếu mùa Đông; Sớm Đông; Nhớ cây thông mùa Đông; Đêm lạnh nhớ Đào Công; Ngày 8 tháng 11 năm 1278, Thái tử Trần Khâm lên ngôi Hoàng đế nhà Trần hiệu là Trần Nhân Tông. Vua Phật Trần Nhân Tông (1258- 1308)  là một trong những vị vua anh minh nhất của lịch sử Việt Nam. Người là vua Trần thứ ba (sau vua ông Trần Thái Tông, vua cha Trần Thánh Tông và trước vua Trần Anh Tông). Với 50 năm cuộc đời, vua Phật Trần Nhân Tông đã kịp làm được ít nhất năm việc lớn hiếm thấy và khó ai bì kịp ở mọi dân tộc và mọi thời đại: 1) Minh quân lỗi lạc, làm vua 15 năm (1278 – 1293) trực tiếp lãnh đạo cuộc kháng chiến hai lần đánh thắng quân Nguyên Mông là đội quân xâm lược hùng mạnh nhất thế giới thời đó; 2) Tổ sư thiền phái Trúc Lâm và Thái Thượng Hoàng 15 năm (1294-1306) là vua Phật Việt Nam. 3) Nhà văn hóa và nhà thơ kiệt xuất với kiệt tác thơ Thiền Trần Nhân Tông và thắng tích Trúc Lâm Yên Tử; 4) Người thầy chiến lược vĩ đại muôn đời của kế sách một chữ “đồng” “vua tôi đồng lòng, toàn dân đồng sức”, nhược thắng cường, yếu thắng mạnh, nước nhỏ thắng nước lớn, sự nghiệp mở nước và thống nhất non sông Việt bằng vương đạo, thuận thời, thuận người . 5) Nhà trị loạn kỳ tài đã hưng thịnh nhà Trần và cứu nguy cho nước Việt ở thời khắc quyết định, biến nguy thành an, biến những điều không thể thành có thể. Ngày 8 tháng 11 năm 1900, ngày sinh Margaret Mitchell (mất năm 1949), nhà văn nổi tiếng người Mỹ, tác giả kiệt tác nổi tiếng thế giới “Cuốn theo chiều gió” (Gone With the Wind) là kịch bản của bộ phim Mỹ “Cuốn theo chiều gió” thuộc thể loại phim chính kịch-lãng mạn-sử thi, xuất bản năm 1936. Phim được sản xuất bởi David O.Selznick, đạo diễn Victor Fleming và kịch bản gốc Sidney Howard Ra mắt năm 1939, Gone With the Wind vẫn chứng tỏ sức sống lâu bền trong lòng khán giả khi dẫn đầu danh sách 100 bộ phim thành công nhất mọi thời đại về doanh thu tại Mỹ. Bộ phim đoạt 9 giải Oscar vừa được bình chọn là bộ phim có nhiều khán giả nhất mọi thời đại trong lịch sử chiếu bóng Anh Quốc. Kể từ khi được phát hành năm 1939, “Cuốn theo chiều gió” đã mang lại trên 3.4 tỷ đô la. Ngày 8 tháng 11 năm 2011, ngày mất Phạm Song, (sinh năm 1931) giáo sư, cựu Bộ trưởng Bộ Y tế Việt Nam; Viện sĩ Viện hàn lâm Y học Liên bang Nga; Giải thưởng Hồ Chí Minh, Thầy thuốc nhân dân, Huân chương kháng chiến chống Mỹ hạng nhất; Năm 2006, ông được Viện Tiểu sử Hoa Kỳ tặng danh hiệu Nhà khoa học tiêu biểu của năm do cống hiến trọn đời cho y học; Bài viết chọn lọc ngày 8 tháng 11:Lên Trúc Lâm Yên Tử; Vườn Quốc gia Việt Nam; Du lịch sinh thái Việt; Tìm về đức Nhân Tông; Trúc Lâm Trần Nhân Tông; Chớm Đông trên đồng rộng; Thơ dâng theo dấu Tagore; Một niềm tin thắp lửa; Gạo Việt và thương hiệu;Thích nghi để tồn tại; Thăm nhà cũ của Darwin; Nông lịch tiết Lập Đông;Đời đừng thiếu mùa Đông; Sớm Đông; Nhớ cây thông mùa Đông; Đêm lạnh nhớ Đào Công; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.comhttp://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-8-thang-11/

      LÊN TRÚC LÂM YÊN TỬ
      Hoàng Kim

      Tỉnh thức giữa đêm thiêng Yên Tử
      Để thấu hiểu đức Nhân Tông
      Ta thành tâm đi bộ
      Lên tận đỉnh chùa Đồng
      Tâm sáng Ức Trai trong tựa ngọc
       
      “Yên sơn sơn thượng tối cao phong
      Tài ngũ canh sơ nhật chính hồng
      Vũ trụ nhãn cùng thương hải ngoại
      Tiếu đàm nhân tại bích vân trung
      Ủng môn ngọc sóc sâm thiên mẫu
      Quải ngọc châu lưu lạc bán không
      Nhân miếu đương niên di tích tại
      Bạch hào quang lý đổ trùng đồng” (1)
       

      Non thiêng Yên Tử đỉnh kỳ phong
      Trời mới ban mai đã rạng hồng
      Vũ trụ mắt soi ngoài biển cả
      Nói cười lồng lộng giữa không trung
      Giáo trúc quanh chùa giăng nghìn mẫu
      Cỏ cây chen đá rũ tầng không
      Nhân Tông bảo tháp còn lưu dấu
      Mắt sáng hào quang tỏa ánh đồng (2)  

      Non thiêng Yên Tử
      Nghìn năm Thăng Long, Đông Đô, Hà Nôi
      Bảy trăm năm đức Nhân Tông
      Non sông bao cảnh đổi
      Kế sách một chữ Đồng
      Lồng lộng gương trời buổi sớm
      Trong ngần, thăm thẳm, mênh mông ….  

      1) Thơ Nguyễn Trãi
      2) Bản dịch thơ Nguyễn Trãi của Hoàng Kim  

      TRÚC LÂM TRẦN NHÂN TÔNG
      Hoàng Kim

      Trần Nhân Tông (1258-1308)  là một trong những vị vua anh minh nhất của lịch sử Việt Nam. Người tên thật là Trần Khâm, vua Trần thứ ba (sau vua cha Trần Thánh Tông và trước vua Trần Anh Tông). Với 50 năm cuộc đời, vua Phật Trần Nhân Tông đã kịp làm được ít nhất năm việc lớn hiếm thấy và khó ai bì kịp ở mọi dân tộc và mọi thời đại: 1) Minh quân lỗi lạc, làm vua 15 năm (1278 – 1293) trực tiếp lãnh đạo cuộc kháng chiến hai lần đánh thắng quân Nguyên Mông là đội quân xâm lược hùng mạnh nhất thời đó; 2) Tổ sư thiền phái Trúc Lâm và Thái Thượng Hoàng 15 năm (1294-1306) là vua Phật Việt Nam. 3) Nhà văn hóa và nhà thơ kiệt xuất với kiệt tác thơ Thiền Trần Nhân Tông và thắng tích Trúc Lâm Yên Tử; 4) Người thầy chiến lược vĩ đại muôn đời của kế sách một chữ “đồng” “vua tôi đồng lòng, toàn dân đồng sức”, nhược thắng cường, yếu thắng mạnh, nước nhỏ thắng nước lớn, sự nghiệp mở nước và thống nhất non sông Việt bằng vương đạo, thuận thời, thuận người . 5) Nhà trị loạn kỳ tài đã hưng thịnh nhà Trần và cứu nguy cho nước Việt ở thời khắc quyết định, biến nguy thành an, biến những điều không thể thành có thể.

      Kiệt tác thơ thiền đức Nhân Tông là đỉnh cao thơ Thiền thời Trần:

      Cư trần lạc đạo phú
      Đại Lãm Thần Quang tự
      Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca
      Đăng Bảo Đài sơn
      Đề Cổ Châu hương thôn tự
      Đề Phổ Minh tự thủy tạ
      Động Thiên hồ thượng
      Họa Kiều Nguyên Lãng vận
      Hữu cú vô cú
      Khuê oán
      Lạng Châu vãn cảnh
      Mai
      Nguyệt
      Nhị nguyệt thập nhất nhật dạ
      Quỹ Trương Hiển Khanh xuân bính
      Sơn phòng mạn hứng
      I
      II
      Sư đệ vấn đáp
      Tán Tuệ Trung thượng sĩ
      Tảo mai
      I
      II
      Tặng Bắc sứ Lý Tư Diễn
      Tây chinh đạo trung (tái chinh Ai Lao)
      Thiên Trường phủ
      Thiên Trường vãn vọng
      Tống Bắc sứ Lý Trọng Tân, Tiêu Phương Nhai
      Tống Bắc sứ Ma Hợp, Kiều Nguyên Lãng
      Trúc nô minh
      Tức sự
      I
      II
      Vũ Lâm thu vãn
      Xuân cảnh
      Xuân hiểu
      Xuân nhật yết Chiêu Lăng
      Xuân vãn

      Lên non thiêng Yên Tử, khảo sát điền dã những chứng tích lịch sử văn hóa lưu dấu mãi với thời gian. “Soi sáng lại chính mình là phận sự gốc, chẳng từ nơi khác mà được.” (Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc.). Đức Nhân Tông viết về sự đạt ngộ với người thầy là Tuệ Trung Thượng Sĩ . “Nghe xong, tôi thông suốt được đường vào, bèn vén áo thờ Ngài làm thầy”. “Soi sáng lại chính mình” chứ không tìm kho báu ở đâu khác là trí tuệ siêu việt của vua Phật Trúc Lâm Yên Tử Trần Nhân Tông.

      ;

      Kinh Dịch xem chơi, yêu tính sáng yêu hơn châu báu.
      Sách Nhàn đọc giấu, trọng lòng rồi trọng nữa hoàng kim…

      Trần Nhân Tông

      TÌM VỀ ĐỨC NHÂN TÔNG
      Hoàng Kim


      Người ơi con đến đây tìm
      Non thiêng Yên Tử như tranh họa đồ
      Núi cao trùng điệp nhấp nhô
      Trời xuân bảng lãng chuông chùa Hoa Yên

      Thầy còn dạo bước cõi tiên
      Con ươm mầm sống xanh thêm ruộng vườn
      Mang cây lộc trúc về Nam
      Ken dày phên giậu ở miền xa xôi

      Cư trần lạc đạo, Người ơi
      Tùy duyên vui đạo sống đời thung dung
      Hành trang Thượng sĩ Tuệ Trung
      Kỳ Lân thiền viện cành vươn ra ngoài

      An Kỳ Sinh trấn giữa trời
      Thơ Thiền lưu dấu muôn đời nước non …

      LÊN TRÚC LÂM YÊN TỬ
      Hoàng Kim


      Lên non thiêng Yên Tử
      Đêm trắng và bình minh
      Khi nhớ miền đất thiêng
      Lại thương vùng trời thẳm

      Đi đường thấu non cao
      Tầm nhìn ôm biển rộng
      Thương Nhân Tông Bảo Sái
      Đỉnh mây vờn Trúc Lâm

      Dạo chơi non nước Việt
      Non xanh bên bạn hiền
      Thung dung cùng cây cỏ
      Xuống núi thăm người quen.

      “Soi sáng lại chính mình là phận sự gốc, chẳng từ nơi khác mà được.” (Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc.) Nghe xong, tôi thông suốt được đường vào, bèn vén áo thờ Ngài làm thầy”. Lời của đức Nhân Tông viết về sự đạt ngộ và Tuệ Trung Thượng Sĩ

      “Soi sáng lại chính mình”. Hãy là chính mình chứ không tìm kho báu ở đâu khác.

      Ôi  Lời Người đã giác ngộ cho Con.

      Đêm Yên Tử bình minh ngày mới

      Hoàng Kim

      VƯỜN QUỐC GIA VIỆT NAM
      Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim

      Việt Nam tổ quốc tôi tự hào có 33 di sản nổi tiếng Vườn Quốc gia ở Việt Nam trải rộng khắp các vùng sinh thái. Ở vùng núi và trung du phía Bắc có Tam Đảo, Hoàng Liên, Ba Bể, Du Già – Cao nguyên đá Đồng Văn, Phia Oắc – Phia Đén, Bái Tử Long, Xuân Sơn, Quần thể di tích và danh thắng Yên Tử; Ở vùng đồng bằng sông Hồng có Ba Vì, Cúc Phương Cát Bà, Xuân Thủy; Ở vùng ven biển bắc Trung Bộ có Phong Nha – Kẻ Bàng, Bến En, Pù Mát, Vũ Quang ; Ở vùng ven biển nam Trung Bộ có  Bạch Mã, Núi Chúa,  Phước Bình ; Ở vùng Tây Nguyên có Chư Yang Sin, Bidoup Núi Bà, Chư Mom Ray,  Kon Ka Kinh, Yok Đôn; Ở vùng Đông Nam Bộ có Cát Tiên, Lò Gò-Xa Mát, Bù Gia Mập,  Côn Đảo; ở vùng Tây Nam Bộ có Mũi Cà Mau,  Phú Quốc,  Tràm Chim, U Minh Hạ,  U Minh Thượng. Việt Nam có vườn quốc gia đầu tiên là vườn quốc gia Cúc Phương thuộc địa bàn 3 tỉnh Ninh Bình, Thanh Hóa, Hòa Bình là Vườn Quốc gia đầu tiên được công nhận năm 1966. Hai quần thể di tích và danh thắng mới nhất được công nhận là Cao nguyên đá Đồng Văn (Du Già) một cao nguyên đá trải rộng trên bốn huyện Quản Bạ, Yên Minh, Đồng Văn, Mèo Vạc của tỉnh Hà Giang, quy mô diện tích 15.006 ha được công nhận năm 2015 và Khu bảo tồn thiên nhiên Phia Oắc – Phia Đén là khu rừng đặc dụng quy mô diện tích 10.245,6 ha nằm trên địa bàn 5 xã của huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng, được công nhận năm 2018. Tổng diện tích của  32 vườn quốc gia ở Việt Nam tính đến cuối năm 2018 khoảng 10.455,74 km² (trong đó có 620,10 km² là mặt biển), chiếm khoảng 3% diện tích lãnh thổ đất liền. Riêng Quần thể di tích và danh thắng Yên Tử là khu di tích lịch sử văn hóa thiên nhiên đặc biệt gắn liền với sự ra đời, hình thành và phát triển của thiền phái Trúc Lâm Việt Nam được kỳ vọng là di sản thế giới liên tỉnh Bắc Giang, Hải Dương và Quảng Ninh đầu tiên ở Việt Nam đã lập hồ sơ trình UNESCO công nhận nhưng tạm thời dừng lại vì những lý do đặc biệt liên quan đến sự bảo đảm an ninh và phát triển bền vững quốc gia.

      Vuon Quoc Gia Viet Nam 33 di san

      Bản đồ vị trí Vườn Quốc gia Việt Nam và tóm tắt thông tin những nơi đó.

      THIÊN NHIÊN LÀ BÀ MẸ CUỘC SỐNG

      Bạn đã đến được những nơi nào trong số 33 di sản Vườn Quốc gia Việt Nam quý giá này? Cuộc đời có những thứ giàu hơn tiền bạc. Sức khỏe, thiên nhiên an lành và thời gian trãi nghiệm là giao điểm của tình yêu cuộc sống. Nhiều bí ẩn huyền thoại trong rừng thiêng cổ tích cần được khám phá.  Đến với thiên nhiên, chúng ta được tắm mình trong nguồn năng lượng vô tận của trời xanh, cây xanh, gió mát và không khí  an lành.

      Vườn Quốc gia ở Việt Nam là những quà tặng vô giá trên quê hương Việt Nam yêu dấu mà chúng ta may mắn được thừa hưởng. 33 di sản quý giá này của đất nước là những điểm nhấn bảo tồn thiên nhiên, chủ yếu là rừng và di sản lịch sử văn hóa,  là những điểm đến du lịch đáng ao ước của cả đời người. “Hồn Tổ quốc ngự giữa rừng sâu thẳm. Rừng điêu tàn là Tổ Quốc suy vong !” thầy Lê Văn Ký của chúng tôi đã viết vậy.

      CatTien

      Ngắm di vật cổ ở Nam Cát Tiên, đối thoại với lịch sử văn hóa của một vùng đất, ta sẽ hiểu được tường tận nhiều điều. Vườn Quốc gia Việt Nam là một pho sách mở cần được khám phá, khai mở, bảo tồn và phát triển. Đó là một nguồn năng lượng dồi dào và mạch viết vô tận. Đặc biệt là khi kết nối hòa quyện được những di sản vô giá của dân tộc với các di sản lịch sử địa lý văn hóa du lịch của toàn thế giới.

      33 DI SẢN VƯỜN QUỐC GIA Ở VIỆT NAM

      Sau đây là giới thiệu tóm tắt về 33 di sản Vườn Quốc gia Việt Nam. Phần này được trích dẫn và  cập nhật theo thông tin mới đúc kết và bổ sung thêm của Wikipedia Tiếng Việt.

      01TamDao

      Vườn quốc gia Tam Đảo là một vườn quốc gia của Việt Nam, nằm trọn trên dãy núi Tam Đảo, một dãy núi lớn dài trên 80 km, rộng 10–15 km chạy theo hướng Tây Bắc Đông Nam. Vườn trải rộng trên ba tỉnh Vĩnh Phúc (huyện Tam Đảo), Thái Nguyên (huyện Đại Từ) và Tuyên Quang (huyện Sơn Dương), cách Hà Nội khoảng 75 km về phía Bắc.Tọa độ địa lý của Vườn quốc gia Tam Đảo: 21°21′-21°42′ vĩ Bắc và 105°23′-105°44′ kinh Đông. Ngày 6 tháng 3 năm 1986, Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định số 136/TTg về việc phê duyệt “Dự án khả thi đầu tư xây dựng Vườn quốc gia Tam Đảo”. Ngày 15 tháng 5 năm 1996 Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã có quyết định số 601 NN-TCCB/QĐ về việc thành lập Vườn quốc gia Tam Đảo trực thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn.

      02HoangLien

      Vườn quốc gia Hoàng Liên là một vườn quốc gia Việt Nam được thành lập năm 2002, nằm ở độ cao từ 1.000-3000m so với mặt biển trên dãy Hoàng Liên Sơn thuộc địa bàn các huyện Than Uyên, Phong Thổ tỉnh Lai Châu và Sa Pa của tỉnh Lào Cai. Tọa độ địa lý của vườn từ 22°07′-22°23′ độ vĩ Bắc và 103°00′-104°00′ độ kinh Đông. Trước khi được công nhận là vườn quốc gia, khu vực này là một khu bảo tồn thiên nhiên mang tên Khu Bảo tồn Thiên nhiên Hoàng Liên – Sa Pa từ năm 1996. Vườn quốc gia Hoàng Liên được thành lập theo Quyết định số 90/2002/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 12 tháng 7 năm 2002, về việc chuyển Khu Bảo tồn thiên nhiên Hoàng Liên-Sa Pa thành Vườn quốc gia Hoàng Liên. Vườn quốc gia Hoàng Liên được chọn là một Trung tâm đa dạng của các loài thực vật trong Chương trình bảo tồn các loàì thực vật của Hiệp hội Bảo vệ Thiên nhiên Thế giới (IUCN). Vườn cũng được Quỹ môi trường toàn cầu được xếp vào loại A, cao cấp nhất về giá trị đa dạng sinh học của Việt Nam. Năm 2006, Vườn quốc gia Hoàng Liên được công nhận là Vườn di sản ASEAN.

      03VQGBaBe

      Vườn quốc gia Ba Bể là một vườn quốc gia, rừng đặc dụng, khu du lịch sinh thái của Việt Nam, nằm trên địa phận tỉnh Bắc Kạn, với trung tâm là hồ Ba Bể. Vườn quốc gia Ba Bể được thành lập theo Quyết định số 83/TTg ngày 10 tháng 11 năm năm 1992 của Thủ tướng Chính phủ. Vườn quốc gia Ba Bể nằm trên địa bàn 5 xã Nam Mẫu, Khang Ninh, Cao Thương, Quảng Khê, Cao Trĩ thuộc huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn, có tọa độ là 105°36′55″ kinh đông, 22°24′19″ vĩ bắc. Vườn quốc gia này Hà Nội 250 km về phía bắc, thuộc địa bàn huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn và cách thành phố Bắc Kạn 50 km. Vườn quốc gia Ba Bể là một điểm du lịch sinh thái lý tưởng với phong cảnh kỳ thú và sự đa dạng sinh học. Năm 2004, Ba Bể đã được công nhận là một di sản thiên nhiên của ASEAN. Trước đó, đây từng là Khu danh lam thắng cảnh và Di tích lịch sử, là Khu rừng cấm hồ Ba Bể. Vườn Quốc gia Ba Bể được thành lập theo quyết định số 83/TTg ngày 10/11/1992 của Chính phủ với diện tích 7.610 ha, trong đó có 3.226 ha là phân khu bảo vệ nghiêm ngặt và hơn 300 ha diện tích mặt hồ. Những nghiên cứu khoa học khẳng định đây là khu vực giàu có về đa dạng sinh học, có nhiều nét đặc trưng của hệ sinh thái điển hình rừng thường xanh trên núi đá vôi và hồ trên núi, rừng thường xanh đất thấp. Trung tâm của vườn là hồ Ba Bể với chiều dài tới 8 km và chiều rộng 800 m, nằm trên độ cao 178 m, là “hồ tự nhiên trên núi có ý nghĩa đặc biệt quan trọng ở Việt Nam”. Nằm trên vùng núi đá vôi, vốn có rất nhiều hang động caxtơ….mà hồ vẫn tồn tại với cảnh đẹp mê người là điều diệu kì, hấp dẫn mà thiên nhiên ban tặng. Vườn Quốc gia Ba Bể có 1.281 loài thực vật thuộc 162 họ, 672 chi, trong đó có nhiều loài thực vật quý hiếm có giá trị được ghi vào Sách Đỏ của Việt Nam và Thế giới.

      04VQGBaiTuLong


      Vườn quốc gia Bái Tử Long là một khu bảo tồn sinh quyển cấp quốc gia tại khu vực vịnh Bái Tử Long huyện Vân Đồn tỉnh Quảng Ninh Việt Nam. Vườn được thành lập theo quyết định 85/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, ngày 1 tháng 6 năm 2001. Vườn quốc gia Bái Tử Long nằm trong vùng có tọa độ địa lý là: 20°55’05” ÷ 21°15’10” vĩ độ Bắc và 107°30’10” ÷ 107°46’20” kinh độ Đông. Diện tích tự nhiên của vườn bao gồm diện tích đất đai của tất cả các đảo nằm trong khu vực tọa độ trên, kèm theo các vùng biển vùng quanh các đảo này với bề rộng 1 km tính từ đường bờ biển các đảo đó, tổng diện tích là 15.783 ha. Các đảo thuộc vườn quốc gia bao gồm: Ba Mùn, Trà Ngọ Lớn, Trà Ngọ Nhỏ, Sậu Nam, Sậu Động, Đông Ma, Hòn Chính, Lò Hố, Máng Hà Nam, Máng Hà Bắc, Di To, Chầy Cháy, Đá Ẩy, Soi Nhụ,…, và các đảo nhỏ trong vùng tọa độ nêu trên.

      05VQGXuanSon


      Vườn quốc gia Xuân Sơn là một vườn quốc gia nằm trên địa bàn huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ. Vườn quốc gia Xuân Sơn với kiểu địa hình núi đá vôi đặc trưng, được chuyển từ khu bảo tồn thiên nhiên Xuân Sơn thành vườn quốc gia theo Quyết định của Thủ tướng chính phủ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam số 49/2002/QĐ-TTg ngày 17 tháng 4 năm 2002. Vườn quốc gia Xuân Sơn nằm ở huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ, cách thành phố Việt Trì 80 km, Hà Nội 120 km, có tọa độ địa lý: Từ 21°03′ đến 21°12′ vĩ bắc và từ 104°51′ đến 105°01′ kinh đông, phạm vi ranh giới được xác định: Phía Đông giáp các xã Tân Phú, Minh Đài, Long Cốc, huyện Tân Sơn. Phía Tây giáp huyện Phù Yên (tỉnh Sơn La), huyện Đà Bắc (tỉnh Hoà Bình). Phía Nam giáp huyện Đà Bắc (tỉnh Hoà Bình). Phía Bắc giáp xã Thu Cúc, huyện Tân Sơn. Vườn quốc gia Xuân Sơn nằm trên hệ thống núi đá vôi có độ cao từ 700 đến 1.300 m. Trong khu vực có rất nhiều Xem tiếp >>

        Dạy và học 7 tháng 11(07-11-2021)

       

      DẠY VÀ HỌC 7 THÁNG 11
      Hoàng Kim
      CNM365 Tình yêu cuộc sống. Nông lịch tiết Lập Đông;Đời đừng thiếu mùa Đông; Sớm Đông; Nhớ cây thông mùa Đông; Đêm lạnh nhớ Đào Công; Ngày 7 tháng 11 năm 1426, Quân Lam Sơn giành thắng lợi trước quân Minh trong trận Tốt Động–Chúc Động diễn ra tại Đông Quan, nay thuộc Hà Nội, Việt Nam. Ngày 7 tháng 11 năm 1867 ngày sinh  Marie Curie, nhà vật lý, hóa học người Pháp gốc Ba Lan. Bà nổi tiếng về việc nghiên cứu tiên phong về tính phóng xạ và là người đầu tiên vinh dự nhận được hai Giải Nobel trong hai lĩnh vực vật lý và hóa học. Marie Curie là giảng viên đại học nữ đầu tiên tại Đại học Paris (Sorbonne), và vào năm 1995 thi thể của bà được mai táng tại điện Panthéon ở Paris vì những đóng góp to lớn cho nhân loại. Ngày 7 tháng 11 năm 1968 ngày mất  Phạm Ngọc Thạch, Bác sĩ, tác giả Việt Nam (sinh năm 1909). Ông là một Nhà khoa học y khoa Việt Nam, Giáo sư tiến sĩ khoa học, nguyên Bộ trưởng Bộ Y tế trong chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ông được Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh năm 1997 vì các cống hiến trong lĩnh vực khoa học; Bài viết chọn lọc ngày 7 tháng 11: Nông lịch tiết Lập Đông; Đời đừng thiếu mùa Đông; Sớm Đông; Nhớ cây thông mùa Đông; Đêm lạnh nhớ Đào Công; Mai tới tiết Lập Đông; Phan Thanh Kiếm bạn tôi; Vui bước tới thảnh thơi; Sự cao quý thầm lặng; Đối thoại với Thiền sư; Đọc Lục Bát Xứ Nghệ; Nhớ nốt lặng bên đời; Đỗ Phủ thương đọc lại; Thác nước giữa lòng Người; Sớm Thu thơ giữa lòng; Nguyễn Du trăng huyền thoại; 500 năm nông nghiệp Brazil; Du lịch sinh thái Việt; Kho báu đỉnh Tuyết Sơn; Đến với bài thơ hay; Nguồn Son nối Phong Nha; Việt Nam tổ quốc tôi; Mái trường bên dòng Gianh; Chùa Một Cột Hà Nội; Nguyễn Trãi Dục Thúy Sơn; Nguyễn Du tâm hồn Việt; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/ và  http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-7-thang-11/;

       

       

      NÔNG LỊCH TIẾT LẬP ĐÔNG
      Hoàng Kim

      Đêm lạnh đông về chậm nắng lên
      Nghe hơi sương giá buốt bên thềm
      Em đi làm sớm trời đang ngủ
      Giữ ấm xin đừng vội để quên.

       

       

      Khuyên em đừng quên nhất thì nhì thục
      Di sản Việt Nam học mãi không cùng
      Mình học để làm hai bốn tiết khí
      Mộc mạc hát vần bài học đầu tiên.

      Đất cảm trời thương lòng người gắn bó
      Dẫu khó vạn lần khéo liệu cũng xong
      Mùa xuân tới tự tiết xuân sẽ đến
      Bởi biết rằng năm tháng đó là em.

      6 tháng Một bắt đầu rét nhẹ
      21 tháng Một trời lạnh cắt da
      4 tháng Hai ngày xuân mới đến
      20 tháng Hai Thiên Địa Nhân hòa.

      Đồng dao cho em khuyên em đừng tưởng
      Câu chuyện mùa xuân
      thêm cho mồng Ba
      Trải Cốc Vũ qua ngày Hạ Chí
      Đại Thử rồi Sương Giáng thành hoa.

      6 tháng Năm là ngày Hè đến
      22 tháng Năm mưa nhỏ, vào mùa
      5 tháng Sáu ngày Tua Rua mọc
      21 tháng Sáu là chính giữa Hè.

      7 tháng Bảy là ngày nắng nhẹ
      23 tháng Bảy là tiết nóng oi
      7 tháng Tám chớm thu rồi đó
      23 tháng 8 trời đất mây mưa.

      Qua Xử Thử đến tiết trời Bạch Lộ
      Sau Mưa Ngâu đến Nắng nhạt đấy em.
      Tiết Thu Phân khoảng 23 tháng 9
      Đối lịch nhà nông em nhớ đừng quên.

      Tiết Hàn Lộ nghĩa là trời mát mẻ
      Kế tiếp theo là Sương Giáng (sương mù)
      23 tháng 10 mù sa dày đặc
      Thuyền cỏ mượn tên nhớ chuyện Khổng Minh.

      Ngày 7 tháng 11 là tiết lập đông
      23 tháng 11 là ngày tiểu tuyết
      8 tháng 12 là ngày đại tuyết
      22 tháng 12 là chính giữa đông.

      *

      Khuyên em đừng quên nhất thì nhì thục
      Di sản Việt Nam học mãi không cùng
      Mình học để làm 24 tiết khí
      Mộc mạc hát vần bài học đầu tiên.

      Mùa vụ trồng cây, kinh nghiệm nghề nông
      Xin em đừng quên điều ông bà dạy
      Xuân Hạ Thu Đông hai bốn tiết khí
      Khoa học thiên văn ẩn ngữ đời người.

      Đất cảm trời thương, lòng người gắn bó
      Dẫu khó vạn lần khéo liệu cũng xong
      Mùa xuân tới tự tiết xuân sẽ đến
      Bởi biết rằng
      năm tháng đó là em.


      ĐỜI KHÔNG THIẾU MỘT MÙA ĐÔNG
      Hoàng Kim


      Đồng Xuân khoảng lặng tâm hồn
      Thái Dương kiệt tác thời gian mãi còn.
      Đời không
      thiếu một mùa đông (*)
      Đồng tâm khai mở đường xuân ân tình

      “Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông. Đất có bốn phương, Đông, Tây, Nam, Bắc. Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính. Thiếu một mùa, thì không thành trời. Thiếu một phương, thì không thành đất Thiếu một đức, thì không thành người”[1] Lời Chủ tịch Hồ Chí Minh

      —–
      (*)
      THIẾU MỘT MÙA ĐÔNG
      Nguyễn Duệ Mai

      Ta đã vẽ được mùa xuân
      Bằng những sắc xanh hy vọng
      Có đàn Én chao cánh mỏng
      Cây non hé búp yên bình

      Ta đã vẽ được mùa hạ
      Đôi lằn nắng lửa mưa giông
      Đỏ chói ngang trời tia chớp
      Bão tan đất lại mềm lòng

      Ta đã vẽ được mùa thu
      Thấp đằm sắc vàng của nắng
      Thầm lặng từng làn mây trắng
      Du miên theo ký ức về…

      Nhưng chưa vẽ được mùa đông
      Tô màu gì cho gió bấc?
      Hay là mông lung ánh mắt?
      Hay là bôi xám toàn khung?

      Bởi không vẽ được mùa đông
      Nên vòng luân hồi còn khuyết

      Làm sao tu cho trọn kiếp
      Khi còn thiếu một mùa đông?!

       

       

      NGÀY MỚI LỜI YÊU THƯƠNG
      Hoàng Kim

      Khoác thêm tấm áo trời se lạnh
      Đông tàn xuân đến đó rồi em
      Phúc hậu mỗi ngày chăm việc thiện
      Yêu thương xa cách hóa gần thêm

      New day words of love

      Wearing sweater when it’s rather cold.
      Winter comes to an end ,and early Spring is coming.
      Everyday, we care good deeds kindly.
      Distant love turn out to be close together.

       

       

      NHỚ CÂY THÔNG MÙA ĐÔNG
      Hoàng Kim

      Xuân Hạ Thu Đông vốn phẳng sòng
      Bốn mùa chẳng thể thiếu mùa đông
      Tam Đảo non xanh hai cánh rộng
      Cửu Long nước biếc một chữ đồng
      Trẻ ham tâm đức nên cố gắng
      Già mong phúc hậu phải biết chùng
      Thung dung nếm trãi mùa đông lạnh
      Sông núi trúc mai với lão tùng

      Bài thơ ‘Nhớ cây thông mùa đông’ của Hoàng Kim và tấm ảnh này do anh Hà Hữu Tiến chụp trong ngày chúng tôi thăm đàn Nam Giao Huế. Bài thơ này là sự họa vần bài thơ “Vịnh mùa Đông” của cụ Nguyễn Công Trứ lưu lại một kỷ niêm không nỡ quên về sự đùa vui họa thơ cùng các bạn Quế Hằng, Nguyễn Vạn An, Phan Lan Hoa Nay xin trân trọng chép lại để tặng người thân, thầy bạn; xem tiếp tập thơ tại
      https://hoangkimlong.wordpress.com/category/thung-dung/

      ‘Vịnh mùa Đông’ và ‘Cây thông’ là hai bài ngôn chí đặc sắc nhất của cụ Hy Văn Uy Viễn Tướng Công Nguyễn Công Trứ “ra tướng võ, vào tướng văn” tỏ ý với vua Minh Mệnh và các vị quan cao cấp cùng thời như Trương Đăng Quế, Hà Tôn Quyền, Nguyễn Văn Siêu, Nguyễn Quý Tân,… Ông Nguyễn Công Trứ ngầm tỏ ý cho mọi người biết vì sao ông được vua Minh Mệnh tin dùng

      “Nghĩ lại thì trời vốn cũng sòng
      Chẳng vì giá rét bỏ mùa đông”

      Triều Nguyễn thời đó đang như mùa đông lạnh giá, vua Gia Long mất, vua Minh Mệnh nối ngôi, lòng người chưa quy về một mối, triều chính chưa ổn định, lòng người ly tán, số quan lại mới trổi dậy ham vơ vét, còn người công chính như Nguyễn Du thì không muốn hợp tác vì không tin được triều Nguyễn thực lòng tin dùng.

      Vua Minh Mệnh hùng tâm tráng chí muốn thiết lập nhà nước kỷ cương rất cần mẫu người kiêu dũng, dấn thân như thơ Nguyễn Công Trứ.”Vịnh mùa đông”: Nghĩ lại thì trời vốn cũng sòng, Chẳng vì rét mướt bỏ mùa đông. Mây về ngàn Hống đen như mực, Gió lọt rèm thưa lạnh tựa đồng. Cảo mực hơi may ngòi bút rít, Phím loan cưỡi nhuộm sợi tơ chùng. Bốn mùa ví những xuân đi cả, Góc núi ai hay sức lão tùng. “Cây thông” “Ngồi buồn mà trách ông xanh. Khi vui muốn khóc buồn tênh lại cười. Kiếp sau xin chớ làm người. Làm cây thông đứng giữa trời mà reo. Giữa trời vách đá cheo leo. Ai mà chịu rét thì trèo với thông“

      Chính sử triều Nguyễn chép: Nguyễn Công Trứ (1778-1858) tên tục là Củng, tự là Tồn Chất, hiệu là Ngộ Trai, biệt hiệu là Hy Văn là một nhà quân sự, nhà kinh tế và nhà thơ lỗi lạc trong lịch sử Việt Nam cận đại. Năm 1841, Minh Mạng lâm bệnh nặng. Lúc lâm chung, ông gọi quan đại thần Trương Đăng Quế đến bên giường dụ rằng:” Hoàng tử Trường Khánh Công lấy về ngôi thứ là hàng trưởng, lấy về đức, về tuổi nên nối ngôi lớn. Ngươi nên hết lòng giúp sức rập, hễ việc gì chưa hợp lẽ, ngươi nên lấy lời nói của ta mà can gián. Ngươi trông mặt ta, nên ghi nhớ lấy.“- Minh Mạng. Sau đó, ông cầm tay con trưởng là Trường Khánh Công Nguyễn Phúc Miên Tông trối trăng: “Trương Đăng Quế thờ ta đến 21 năm, trọn đạo làm tôi, một lòng công trung, bày mưu dưới trướng, ra sức giúp việc ngoài biên, thực là một người công thần kỳ cựu của triều đình. Ngươi nên đãi ngộ một cách ưu hậu, hễ nói thì phải nghe, bày mưu kế gì thì phải theo, ngày sau có thể được thờ vào nhà thế thất.” “Hà Tôn Quyền giỏi mưu kế, Hoàng Tế Mỹ giỏi văn chương, Nguyễn Công Trứ giỏi chiến trận, trong triều không nên để vắng ba người ấy”.

      Nguyễn Công Trứ tóm tắt toàn cảnh thế nước trong buổi ấy trong bốn câu: “Mây về ngàn Hống đen như mực,/ Gió lọt rèm thưa lạnh tựa đồng./Cảo mực hơi may ngòi bút rít,/ Phím loan cửi nhuộm sợi tơ chùng.”. Nguyễn Công Trứ đã đánh giá vua Minh Mệnh “Nghĩ lại thì trời vốn cũng sòng,… Bốn mùa ví những xuân đi cả,/Góc núi ai hay sức lão tùng.” không như là trường hợp “Thánh nhân bất đắc dĩ dụng QUYỀN”. “Vịnh mùa đông” “Cây thông” là những bài thơ ngôn chí đặc sắc nhất của ông.

      Nhà giáo nhà văn Nguyễn Thế Quang viết tiểu thuyết lịch sử “Thông reo ngàn hống” tiếp nối tác phẩm Nguyễn Du” cung cấp thêm một góc nhìn để hiểu hai cụ Nguyễn. Chúng ta cũng thích thú đón nhận những chia sẻ rất hay đời thường của nhiều quý Cụ, quý Cô, anh chị em và bạn đọc.

      “CÃI” CỤ NGUYỄN CÔNG TRỨ
      Quế Hằng


      Lão trời thực chất cũng không sòng
      Chốn ấm như hè chốn giá đông
      Mạn bắc tê lòng cây trắng núi
      Phương nam mát mặt cỏ xanh đồng
      Kẻ cày khô họng còn quần lửng
      Người ngủ ấm lưng lại áo chùng
      Được cái om mầm nên nõn lá
      Qua sương đâu chỉ có riêng tùng

      CỤ VÀ CÔ !
      Nguyễn Vạn An


      Cô Hằng, cụ Trứ cũng một sòng,
      Xướng họa rù rì giữa lạnh đông
      Người xưa sang sảng ra thơ ngọc
      Kẻ hậu chăm chiu rót chén đồng
      Vung thơ Cụ nhúng ngòi mực cạn
      Nâng đàn Cô vặn sợi giây chùng
      Bốn mùa cứ tưởng là xuân cả
      Sao dám trăng son họa lão tùng?

      “CÃI” CỤ TRỨ VÀ CÔ HẰNG
      Phan Lan Hoa


      Vô – Hữu ở đời ai thấu chăng?
      Mẹ hiền đau đẻ rõ ràng rang
      Cớ sao lại bảo trời sinh phận
      Người bảo công bằng, kẻ vãn than.
      Vũ trụ bao la luôn dịch chuyển
      Luân hồi mưa nắng đủ quanh năm
      Sang hèn tính cách gieo nên cả
      Muốn tới mùa xuân tự bước chân.
      *
      Luận mãi làm chi cái Phẳng-Sòng”
      Đạo trời nói mấy cũng không xong
      Nhan Hồi tự giải oan trò Khổng
      Vô sự, vô vi tự đáy lòng.

      Thầy giáo Nguyễn Thế Quang viết: “Hoàng Kim thân quý. Những ngày kỷ niệm đầy ý nghĩ này, rất mừng khi gặp Hoàng Kim. Rất xúc động khi đọc được những vần thơ chân thành đầy tình yêu thương chung thủy của bạn với Miền Đông. Rất vui khi bạn đã nói được với con những tâm tình, truyền cho con những điều tốt đẹp qua những lời thơ và những tấm ảnh. Rất mừng khi cùng được gặp gỡ những người bạn của Hoàng Kim – những người mà nhìn qua ảnh, mình cảm nhận được đó là những con người trung hậu mà phóng khoáng với một đời sống tình cảm phong phú mà đẹp. Có được những người bạn tâm giao như vậy là quý ! Thông reo ngàn Hống có nhiều điều thú vị. Cảm ơn cụ Hy Văn có một cuộc đời quá phong phú, hào hoa mà lỗi lạc để cho mình có thể có những trang viết đẹp. Mong Hoàng Kim và bạn bè đọc và đồng cảm, cùng chia sẻ nhé. Có gì Email cho mình: thequangcuc.na@gmail.com Nguyễn Thế Quang”

      Nhà văn Hoàng Gia Cương viết “Văn muốn đạt tài hoa, tâm cần sáng, tứ cần sâu, năng gạn đục khơi trong văn mới tuyệt. Nghệ mong nên tuyệt tác, trí phải minh, công phải trọng, biết tầm sư học đạo nghệ càng tinh“.

      Xem thêm:

      Cặp đôi trác dị Minh Mệnh Nguyễn Công Trứ
      Nguyễn Văn Định
      VHNA 26 9 2016

       

      Còn một câu hỏi treo lên trong giới nghiên cứu là tại sao trong điều kiện đại thiết chế chuyên chế đang đi vào giai đoạn phát triển đỉnh cao của nó, lại xuất hiện kiểu phong lưu danh sĩ, tự do cá nhân và cá tính Nguyễn Công Trứ nở rộ như vậy ở ngoài lăng miếu. Đương nhiên, khía cạnh tài hoa, tài tử của Nguyễn Công Trứ là điều kiện không thế thiếu, nhưng nếu chỉ có yếu tố tài tử của ông thì chưa đủ, phải chăng, nó còn cần đến một điều kiện khác mở từ phía khác nữa, đó là vai trò, đặc biệt là vai trò của người đứng đầu thiết chế đối với sự ra đời tự do cá nhân, văn hóa cá tính[1]xuất hiện.Chúng tôi sẽ chứng minh rằng, sự xuất hiện của trường hợp đặc biệt Nguyễn Công Trứ không thể thiếu được sự “dung túng” của người đứng đầu nhà Nguyễn, người quan trọng nhất tạo ra trường hợp Nguyễn Công Trứ không ai khác chính là hoàng đế Minh Mệnh. Chính Minh Mệnh và cái nhìn độc đáo của ông đối với hạn chế của hệ thống khoa cử và từ đó thiết lập chế độ biệt nhưỡng người trác dị là tiền đề xuất hiện những kiểu ngườitrác dị, cá tính như Nguyễn Công Trứ. Và đương nhiên, phải có những cá nhân xuất chúng như Nguyễn Công Trứ có thể chia sẻ, tương tác và nắm bắt được thời cơ đặc biệt này để thể hiện tự do cá nhân và khẳng định cá tính trong lịch sử. Họ hình thành cặp đôi đặc biệt, chúng tôi định danh là cặp đôi trác dị[2].

      1. Minh Mệnh và lịch sử đánh giá Minh Mênh trong ứng xử với Nguyễn Công Trứ

      Theo Việt Nam sử lược Trần Trọng Kim, “Tháng giêng năm Canh thìn (1820) hoàng thái tử húy là Đảm lên ngôi, đặt niên hiệu là Minh Mệnh. Vua Tháng tổ là một ông vua có tư chất minh mẫn, có tính hiếu đọc và lại hay làm; phàm có việc gì, ngài cũng xem xét đến, và có châu phê rồi mới được thi hành”[3]

      Trước nay, trong mối quan hệ giữa Minh Mệnh và Nguyễn Công Trứ, có xu hướng chung đánh giá Minh Mệnh là ông vua chuyên chế hà khắc, xuống tay nhiều tình huống khá nặng với Nguyễn Công Trứ. Tuy nhiên, cũng có cái nhìn mang tính trung dung hơn và khách quan hơn. Trong số nhiều đánh giá về mối quan hệ này, điển hình cho cái nhìn thứ nhất là Phạm Thế Ngũ và nhà Nghiên cứu Lê Thước. Điển hình cho cái nhìn thứ hai là tác giả Việt Nam sử lược,Trần Trọng Kim.

      Trong Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, tập 2, phần về Nguyễn Công Trứ, Phạm Thế Ngũ nhật xét về quan hệ Minh Mệnh với Nguyễn Công Trứ như sau: “Tư cách của một ông vua biết thủ đoạn dùng người, đánh, vuốt, thăng, giáng, lung lạc tinh thần người ta bằng đủ phương cách. Đối với Nguyễn Công Trứ, khi tín cẩn trọng dụng, cho tiền, cho quà, săn sóc, rỉ tai, khi nghiêm khắc trừng phạt, truất giáng đáo để”.[4]

      Nhà Nghiên cứu Lê Thước cũng có nhận xét tương tự: “Tuy nhiên ấy là một cái thủ đoạn điên đảo hào kiệt, chứ kì thực thì nhà vua thấy cụ có tài cao đức trọng, ai cũng kính phục, không muốn để cái thanh thế cụ lớn lên quá, sợ khó giá ngự về sau; vì thế cho nên đã lấy ân mà cất lên, lại phải dùng oai mà ức xuống. Nhưng ân thì thường chỉ là ân mọn, mà oai thì toàn là oai lớn”.[5]

      Nhà nghiên cứu Lê Thước còn kể: “Tháng 10 năm Minh Mệnh 7, bổ tham hiệp Thanh Hóa. Đi đến Hải Lăng (Quảng Trị) thì bị bệnh. Vua được tin xuống chỉ rằng: “Nay nghe Nguyễn Công Trứ đi đường chẳng may bị bệnh, chẳng hay đã lành chưa, lòng trẫm luống những bất an. Đặc phái một tên thị vệ đem theo viên ngự y, lập tức bắt trảm đi tới nơi điều trị, vụ được lành. Còn Nguyễn Công Trứ thì cứ an tâm mà uống thuốc bất kỳ một hai tháng, khi nào trong mình được thập phần khang kiện mới được ra đi chớ nên kíp vội, giờ mùa đông lạnh lẽo, nếu đau yếu lại, ấy là phụ các lòng quyến cố của Trẫm. Khâm thử[6]. Theo Phạm Thế Ngũ, nó là thủ đoạn rỉ tai mà thôi.

      Người có đánh giá tương đối khách quan hơn cả là Trần Trọng Kim, trong Việt Nam sử lược ông viết: “Vua Thánh Tổ là một ông vua chuyên chế, tất thế nào cũng có nhiều điều sai lầm và có nhiều điều tàn ác, nhưng xét cho kỹ, thì thật ngài cũng có lòng vì nước lắm. Trong lo sửa sang mọi việc, làm thành ra nền nếp chỉnh tề, ngoài , đánh Xiêm dẹp Lào, làm cho nước không đến nỗi kém hèn. Vậy cứ bình tĩnh mà xét, thì dẫu ngài không được là ông anh quân nữa thì cũng không phải là ông vua tầm thường; cứ xem công việc của ngài làm thì hiểu rõ”.[7]

      Như vậy, cả ba nhà nghiên cứu đều nhận xét Minh Mệnh là ông vua chuyên chế hà khắc, đối xử với Nguyễn Công Trứ ân mọn oai lớn, sợ Nguyễn Công Trứ uy danh vang dội nên một mặt bổ dùng nhưng một mặt phải ra oai để kìm kẹp. Nói chung, tất cả những nhận xét trên đây đều không sai nhưng có lẽ nó chưa đủ. Tôi rất thích một nhận xét của Trần Trọng Kim, “dẫu ngài không được là ông anh quân nữa thì cũng không phải là ông vua tầm thường”. Chúng tôi cho rằng, vượt lên trên cả hà khắc và tầm vóc, Minh Mệnh là một ông vuatrác dị một từ mà ông rất thích dùng để nói về những người đặc biệt xuất chúng. Chúng tôi sẽ chứng minh tính chất trác dị của Minh Mệnh qua việc ứng xử với Nguyễn Công Trứ. Tức là chúng tôi sẽ không đọc Nguyễn Công Trứ và Minh Mệnh như các tiền bối đã làm, chúng tôi thử áp dụng những tiêu chí của ông vua trác dị (đặc biệt xuất sắc, lạ thường) để soi chiếu vào ứng xử của Minh Mệnh với Nguyễn Công Trứ và cũng nhìn ngược lại Nguyễn Công Trứ đã hô ứng với ông vua trác dị này như thế nào. Sự hô ứng của ông vua trác dị và một phong lưu danh sĩ trác dị, kết thành cặp đôi trác dị lừng danh trong lịch sử. Và chính tính chất trác dị của Minh Mệnh, đặc biệt là trác dị trong việc tìm kiếm, đào tạo và tưởng thưởng cho người trác dị, Minh Mệnh đã đóng vai trò là người mở đường chongườikiểu Trứxuất hiện và phát tiết thời Nguyễn, mà ở đó Nguyễn Công Trứ là trường hợp tiêu biểu nhất.

      2. Tư tưởng của Minh Mệnh về khoa cử, về tìm kiếm người trác dị và chế độ tưởng thưởng người trác dị và đặc biệt là tư tưởng về việc tìm kiếm, đào tạo, phát hiện người tài bằng con đường phi khoa cử – cơ chế mở đường người trác dị, những cá tính xuất hiện, đăng đàn và phát tiết.

      Chính cái nhìn khác biệt của Minh Mệnh là cơ sở để cho những nhóm người được tuyển chọn chính thống hoặc cả nhóm phi chính thống có cơ hội được xuất hiện và phát triển. Những người có cá tính, khát vọng tự do cá nhân kiểu Trứ có cơ hội phát triển và thăng hoa. Theo chúng tôi, nó là yếu tố quan trọng nhất giúp Minh Mệnh có thể tuyển chọn được nhiều cá tính độc đáo. Cùng với đó là một cơ chế tưởng thưởng, khuyến khích đặc biệt, cả những ứng xử đặc biệt và đầy ngẫu hứng xuất hiện. Trong đó, sử dụng, tưởng thưởng và cả giáng cách với Nguyễn Công Trứ là sự ảnh xạ rõ nét nhất của tư tưởng khác thường của Minh Mệnh.

      Một cái nhìn sắc sảo vào hạn chế của hệ thống khoa cử

      Là người mang trọng trách kiện toàn thiết chế trong nước và mở rộng bờ cõi, Minh Mệnh quan tâm đặc biệt đến khía cạnh làm sao và bằng cách nào tìm kiếm được người tài năng, đặc biệt là tìm kiếm được người trác dị. Từ cái nhìn như vậy, ông đã nhìn trúng hạn chế cốt tử của hệ thống khoa cử: không những không tìm kiếm được người tài mà còn làm cho nhân tài mỗi ngày kém đi: “Lâu nay khoa cử làm cho người ta sai lầm. Trẫm nghĩ văn chương vốn không có quy củ nhất định, mà nay những văn cử nghiệp chỉ câu nệ cái hủ sáo, khoe khoang lẫn với nhau, biệt lập mỗi nhà một lối,  nhân phẩm cao hay thấp tự đó, khoa tràng lấy hay bỏ cũng do tự đó. Học như thế thì trách nào nhân tài chẳng mỗi ngày mỗi kém đi. Song tập tục đã quen rồi, khó đổi ngay được, về sau nên dần dần đổi lại”.[8]

      Có thể Minh Mệnh không thật thiện cảm với khoa cử và có thể hiểu ông cũng không có cái nhìn ưu ái với những người thành đạt từ khoa cử. Vậy, tập tục đã quen, sau dần đổi lại, Minh Mệnh đã hướng trọng tâm tìm kiếm người tài của mình theo một hướng phi chính thống, tìm kiếm người tài không thông qua con đường khoa cử và đây là trọng tâm trong tìm kiếm người tài của ông.Phải chăng như chính Mênh Mệnh nói: Quốc gia ta xây dựng nền tảng ở Phương Nam[9] là cội nguồn của một sự thoát ra khỏi văn chương khoa cử trong đào tạo người tài như vậy.

      Tìm kiếm người tài phi khoa cử

      Lật giở Minh Mệnh chính yếu thiên cầu hiềnkiến quan, chúng ta sẽ bắt gặp dày đặc những chỉ dụ của Minh Mệnh về cách thức tìm kiếm người không qua con đường khoa cử. Năm Minh Mệnh thứ mười sáu, quyển 4, Minh Mệnh chính yếu, “Vua xuống dụ rằng:“Cầu cho nước trị bình thì lấy nhân tài làm trước tiên. Nay trẫm ra lệnh phải đề cử người mình biết, là muốn mở rộng đường lối cử người hiền tài. Nếu biết đích người ấy quả thực có tiếng hiền tài, có chính trị giỏi, hoặc là nhân phẩm ngay thẳng đứng đắn, là có thể cho ra ứng cử, có phải trẫm bắt phải quen biết mật thiết mới am hiểu cái tài cái nết của con người đâu, sao mà trịnh trọng quá như vậy. Phương chi quan có kẻ cao người thấp, mà phận sự làm bầy tôi như nhau, hà tất phải chậm chạp đề cử sau người ta. Nay chuẩn cho phải lựa chọn mà cử cho nhanh, hoặc hai ba người cử một người cũng được.”[10]

      Rõ ràng, thái độ ông rất quyết liệt và yêu cầu phải làm gấp. Không chỉ dừng lại ở đó, ông còn luôn đau đáu, lo lắng những người tài đi ở ẩn không chịu ra giúp triều đình. Minh Mệnh năm thứ mười sau, “vua xuống dụ cho thị thần rằng: “Trong nước có người hiền tại thì công trị bình được rực rỡ, cũng như núi sông có ngọc châu thì mới có ánh sáng, nhưng người hiền tài sinh ra chỉ muốn gặp được vua. Có kẻ dấu tên ẩn kín là tự vua không biết dùng thôi. Trẫm từ khi lên ngôi đến nay, hạ chiếu cầu hiền đến hai ba lần, tất là kẻ sĩ có tài đức không còn đi ẩn nữa, nếu được người hiền tài mà dùng thì đường lối trị bình trong nước mới có được[11].

      Đặc biệt, Minh Mệnh còn nghĩ đến cả những người tài vì không quen với sự bó buộc của trường quy mà thi không đỗ, hoặc vì hạn ngạch mà không tuyển được bằng con đường khoa cử…Tức là Minh Mệnh đã nghĩ đến những trường hơp đặc biệt, những trường hợp này vì tự do, vì cá tính mà không theo quy củ nên không thi hoặc thi không đỗ. Ông đã xót xa và nghĩ đến họ: “Vua xuống dụ cho Nội các rằng: “hiện nay trong nước thái bình là đường chính của sĩ tử khoa mục, đã mở khoa tuyển chọn rồi, ngoài ra lại có cống hiến người hằng năm, bổ làm giám sinh và tú tài để sung vào giáo chức. Sự trừ súc lấy nhân tài làm trước nên lại nghĩ đến kẻ ở cửa sài nhà tranh, có người vốn theo nghề học muốn do khoa cử tiến thân, lại vì trường quy bó buộc, không khỏi lao đao nơi trường thi. Cũng có kẻ học tập biết viết, biết tính, muốn vào các nhà làm, thì lại bị lệ ngạch hạn chế, rồi đến phải chìm đắm nơi đồng ruộng, hạng người này không phải ít[12].

      Ông nhìn ra những loại người tài mà không đi bằng hoặc không qua con đường khoa cử rất nhiều. Sự nhấn mạnh nhiều lần loại người này chứng tỏ ông có sự lưu tâm, đặc biệt chú trọng và coi trọng loại người này, nó như là một sự ám ảnh thường trực nơi ông.

      Ông luôn đau đáu tìm cách có được người tài, nhưng ông cũng luôn băn khoăn suy nghĩ làm thế nào để có thể tìm kiếm được người tài thông qua tiến cử một cách thực chất, vì ông lo vàng thau lẫn lộn: “Trẫm muốn gấp dùng người tài, mà vẫn lo khó biết người, khoa đạo thường chầu ở hai bên, tiến cử cũng đã khả quan nhưng người hiền tài hay không chưa hay biết tường tận được. Muốn thử bằng lời nói, thì kẻ khéo biện luận thường nói quá sự thực, mà kẻ thành thực chất phác thường lại vụng lời nói, bằng vào đấy mà dùng hay bỏ, liệu không sai được chăng? Ngươi nên xét ai có thể dùng được thì đề cử lên”.[13]

      “Người làm việc quan là do năng lực của anh ta”

      Minh Mệnh nói rất rõ rằng, làm quan được xuất phát từ chính năng lực của anh ta. “Vua xuống dụ rằng:“Lập thành chính trị cần được người giỏi, mà sự cầu nhân tài không chỉ một cách nào. Kinh Thư nói: “Cử người làm được việc quan là do năng lực của anh”, đó là nói tiến người hiền lên vua dùng là chức vụ của kẻ đại thần vậy. Trẫm từ khi lên chấp chính đến nay, bên văn thì thi cử, bên võ thì tuyển chọn, lần lượt cử hành, đường lối cất nhắc nhân tài không phải là không mở rộng.Nhưng lại nghĩ đến người có tài năng hoặc còn chìm đắm ở những chức bên dưới, mà chưa xuất hiện được”. Bèn hạ lệnh ở kinh, bên văn thì thượng thư cử người khả kham làm hiệp trấn, tham tri cử người khả kham làm tham hiệp, thị lang cử người khả kham làm tri phủ, lang trung cử người khả kham làm tri huyện, huyện thừa. Bên võ thì chưởng doanh cử người khả kham làm vệ úy, đô thống thống chế cử người khả kham làm phó vệ úy quản cơ, thân binh, cấm binh, quản vệ cử người khả kham làm phó quản cơ, thành thủ úy, mỗi hạng một người. Người được cửXem tiếp >>

        Dạy và học 6 tháng 11(06-11-2021)

      CHÀO NGÀY MỚI 6 THÁNG 11
      Hoàng Kim
      CNM365 Tình yêu cuộc sốngMai tới tiết Lập Đông; Phan Thanh Kiếm bạn tôi; Vui bước tới thảnh thơi; Sự cao quý thầm lặng; Đối thoại với Thiền sư; Ngày 6 tháng 11 năm 1860, “Người giải phóng vĩ đại Abraham Lincoln trở thành ứng cử viên đầu tiên của Đảng Cộng hòa giành chiến thắng trong một cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ. Ông là Tổng thống thứ 16 của Hoa Kỳ từ tháng 3 năm 1861 cho đến khi bị ám sát vào tháng 4 năm 1865. Lincoln thành công trong nỗ lực lãnh đạo đất nước vượt qua cuộc khủng hoảng hiến pháp, quân sự, và đạo đức – cuộc Nội chiến Mỹ – duy trì chính quyền Liên bang, đồng thời chấm dứt chế độ nô lệ, và hiện đại hóa nền kinh tế, tài chính của đất nước. Ngày 6 tháng 11 năm 1962 Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc thông qua Nghị quyết 1761 chỉ trích chính sách kỳ thị chủng tộc Apartheid của Nam Phi và kêu gọi toàn bộ các thành viên Liên Hiệp Quốc ngưng các quan hệ quân sự và kinh tế với quốc gia này.  Ngày 6 tháng 11 năm 1963, Chiến tranh Việt Nam: tướng chỉ huy đảo chính Dương Văn Minh lên nắm quyền lãnh đạo Việt Nam Cộng hòa sau vụ đảo chính ngày 1 tháng 11 và hành quyết Ngô Đình Diệm; Bài viết chọn lọc ngày 6 tháng 11: Mai tới tiết Lập Đông; Phan Thanh Kiếm bạn tôi; Vui bước tới thảnh thơi; Sự cao quý thầm lặng; Đối thoại với Thiền sư; Đọc Lục Bát Xứ Nghệ; Nhớ nốt lặng bên đời; Đỗ Phủ thương đọc lại; Thác nước giữa lòng Người; Sớm Thu thơ giữa lòng; Nguyễn Du trăng huyền thoại; 500 năm nông nghiệp Brazil; Du lịch sinh thái Việt; Kho báu đỉnh Tuyết Sơn; Đến với bài thơ hay; Nguồn Son nối Phong Nha; Việt Nam tổ quốc tôi; Mái trường bên dòng Gianh; Chùa Một Cột Hà Nội; Nguyễn Trãi Dục Thúy Sơn; Nguyễn Du tâm hồn Việt; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/ http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-6-thang-11/;

      MAI TỚI TIẾT LẬP ĐÔNG
      Hoàng Kim

      Nắng thật trong và trời thật xanh
      Ta đi về chốn an lành tháng năm
      Ngày mai tới Tiết Lập Đông
      Thung dung vẹn kiếp khép vòng càn khôn


      ĐỜI KHÔNG THIẾU MỘT MÙA ĐÔNG
      Hoàng Kim


      Đồng Xuân khoảng lặng tâm hồn
      Thái Dương kiệt tác thời gian mãi còn.
      Đời không
      thiếu một mùa đông (*)
      Đồng tâm khai mở đường xuân ân tình

      —–
      (*)
      THIẾU MỘT MÙA ĐÔNG
      Nguyễn Duệ Mai

      Ta đã vẽ được mùa xuân
      Bằng những sắc xanh hy vọng
      Có đàn Én chao cánh mỏng
      Cây non hé búp yên bình

      Ta đã vẽ được mùa hạ
      Đôi lằn nắng lửa mưa giông
      Đỏ chói ngang trời tia chớp
      Bão tan đất lại mềm lòng

      Ta đã vẽ được mùa thu
      Thấp đằm sắc vàng của nắng
      Thầm lặng từng làn mây trắng
      Du miên theo ký ức về…

      Nhưng chưa vẽ được mùa đông
      Tô màu gì cho gió bấc?
      Hay là mông lung ánh mắt?
      Hay là bôi xám toàn khung?

      Bởi không vẽ được mùa đông
      Nên vòng luân hồi còn khuyết

      Làm sao tu cho trọn kiếp
      Khi còn thiếu một mùa đông?!

      LÊN TRÚC LÂM YÊN TỬ
      “Tận nhân lực tri thiên mệnh” bài học lớn
      Hoàng Kim
      xem tiếp
      https://hoangkimlong.wordpress.com/category/len-truc-lam-yen-tu/

      THẦY BẠN TRONG ĐỜI TÔI
      Phan Thanh Kiếm bạn tôi
      Hoàng Kim

      chia sẻ với quý thầy bạn và các em sinh viên bài viết cảm động ‘Con đường dẫn tôi đến làm Thầy’ của PGS.TS Phan Thanh Kiếm (
      Phan Kiếm). Thầy Kiếm là một người thầy tận tâm chuyên dạy Di truyền Thực vật, Chọn giống Cây trồng và Công nghệ Hạt giống ở Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh, đã hướng dẫn thành công nhiều sinh viên và học viên sau đại học, biên soạn 5 sách giáo trình và chuyên khảo cẩm nang nghề nông được nhiều người đọc. Thầy Kiếm thật sâu sắc trong tổng kết thực tiễn với lời văn khoa học giản dị mạch lạc và chính xác. Tôi nói với anh Hinh Lâm Quang ” Mình trích dẫn trong bài viết “Nguyễn Khải ngọc cho đời”: “Trên cuộc đời không có bước đường cùng, chỉ có những ranh giới, điều cốt yếu là phải vượt qua được những ranh giới ấy”.“Tôi viết vậy thì tôi tồn tại! Viết văn không chỉ do nhu cầu kiếm sống, viết văn cũng không chỉ do những bức xúc khôn khuây của cá nhân, mà viết còn là mong muốn được trao trở về với cái vô hạn”. Anh Phan Kiếm có năng khiếu trao lại những di sản tử tế ấy. Tôi sẽ chép lại bài viết xuất sắc tâm huyết này của anh Phan Kiếm trong ngày mới hôm nay https://hoangkimlong.wordpress.com/category/phan-thanh-kiem-ban-toi/

      CON ĐƯỜNG DẪN TÔI ĐẾN LÀM THẦY

      “Trên con đường ấy, tôi đã nhận được sự giúp đỡ sẻ chia của nhiều người”
      Phan Thanh Kiếm

      Hồi còn học Đại học, có thầy lãnh đạo Khoa có nhã ý muốn giữ tôi lại trường để làm cán bộ giảng dạy. Tôi cảm ơn thầy và từ chối với lý do “chất giọng miền Trung mà lại quá đặc biệt” của tôi sẽ không thể giúp tôi làm tốt vai trò ấy. Sau khi tốt nghiệp (1975), tôi về công tác tại Viện Nghiên cứu cây công nghiệp, cây ăn quả và cây làm thuốc thuộc Bộ Nông nghiệp đóng tại Phú Thọ và được phân công về Bộ môn nghiên cứu mía. Mấy tháng sau tôi được điều động vào làm việc tại Trung tâm Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam Trung bộ đóng tại Ninh Thuận (nay là Viện Nghiên cứu Bông và Phát triển Nông nghiệp Nha Hố).

      Sau vài năm công tác, Trung tâm có mở một Trường bổ túc văn hóa ban đêm để dạy cho cán bộ công nhân viên và bà con lân cận. Tôi được phân công chủ nhiệm lớp 12, dạy môn toán cho các lớp 11, 12 và nhận phụ đạo môn toán cho vài ba người đã tốt nghiệp cấp 3, có nguyện vọng đi dự thi Đại học. Tuy giảng dạy không lương nhưng tôi cảm thấy vui vì học viên thường xuyên đến lớp đầy đủ, không khí học tập nghiêm túc, có sổ điểm danh, có bài kiểm tra 15 – 20 phút và thi hết môn học đàng hoàng. Tôi còn nhớ, có một buổi, Giám đốc Trung tâm đột nhiên đến “dự giờ”. Gọi là dự giờ chứ thực ra giám đốc đi kiểm tra tình hình học tập và trước khi về phòng làm việc ông ghé vào đứng nghe tôi giảng. Nghe một lúc lâu, ông nói: “giảng thế mà thi không đậu thì tại học trò dốt thôi”. Nói rồi ông lặng lẽ bước ra. Chỉ một câu nói ấy, nó không chỉ thúc giục học viên phải tích cực học tập mà còn động viên tôi rất nhiều. Và, theo thời khóa biểu, với chiếc xe đạp cọc cạch tôi vẫn lên lớp đều đặn. Tôi đã trở thành “thầy nghiệp dư” từ hồi đó.

      Trải qua những năm tháng học tập và công tác, tôi đã học được nhiều điều. Chẳng hạn, đi thi nghiên cứu sinh đương nhiên là phải học kiến thức để thi cho đậu. Vì nếu không làm được điều đó thì ngoài việc tốn kém tiền bạc bản thân, hổ mặt với bạn bè thì vấn đề tiến thân lại lâm vào khốn khó. Vì những lẽ đó mà buộc phải học. Nhưng đằng sau cái học kiến thức ấy, có một cái học khác mà tôi “ngấm ngầm”để ý để học ở các thầy, đó là học cách truyền đạt. Tôi rất ấn tượng với phương pháp dạy toán của thầy Nguyễn Đình Hiền, cách dạy môn sinh lý thực vật của thầy Nguyễn Quang Thạch, Đại học nông nghiệp I, Hà Nội. Sau đó, tôi đã bắt chước thầy Hiền để “truyền đạt” môn xác suất thống kê cho một vài bạn chuẩn bị đi thi nghiên cứu sinh và thường tổ chức các buổi “dạy” toán thống kê và phương pháp thí nghiệm cho cán bộ nghiên cứu của Trung tâm. Tuy nhiên cho mãi tới bây giờ bài học về phương pháp giảng dạy ấy tôi vẫn còn học và sẽ phải còn học mãi.

      Trong thời gian nghiên cứu sinh ở Liên Xô, tôi đã được thầy hướng dẫn cho đến dự giờ giảng của thầy, sau đó phải tập thuyết trình cho thầy xem. Rồi thầy giao cho tôi phụ trách công việc nghiên cứu và đóng góp ý kiến cho báo cáo đề tài của hai nghiên cứu sinh. Những công việc mà thầy tôi đã tập cho tôi là những bài học lớn giúp tôi rất nhiều sau này, đặc biệt là tình thương của thầy đối với học trò.

      Trong thời gian làm công tác quản lý doanh nghiệp tại Công ty bông Việt Nam, nhờ sự tài trợ của FAO, công ty đã tổ chức được mấy khóa dạy về quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) cho bông theo phương pháp mới: phương pháp học kết hợp với hành, phương pháp suy luận, phương pháp hoạt động theo nhóm. Mỗi khóa học kéo dài trong suốt vụ bông. Với trách nhiệm là người quản lý, rất may mắn, tôi đã có dịp để học tập.

      Đầu những năm 2000, nhiều người khuyên tôi nên tham gia “thỉnh giảng” ở một số trường. Khi đó chưa “thoáng” như bây giờ, một mặt do cấp trên không cho phép, vả lại tôi rất sợ mang tiếng “chân trong, chân ngoài” nên mặc dù rất muốn thử sức nhưng không thể thực hiện được. Thế rồi, khi Nhà nước có chủ trương cổ phần hóa các doanh nghiệp, các đơn vị thành viên của công ty bông Việt Nam lần lượt ra “ăn riêng”, tôi mới nảy ra ý định muốn chuyển hẳn về trường nào đó để dạy học. Tôi được giáo sư Nguyễn Thơ “đặt vấn đề” với thầy hiệu trưởng Bùi Cách Tuyến để “xin việc”. Vì đã luống tuổi, vào tuổi 53, tôi rất ngại sẽ làm khó cho thầy Tuyến, nhưng tôi đã may mắn: nguyện vọng của tôi đã được chấp nhận khá nhanh chóng.

      Tôi còn nhớ như in cái “ngày nói dối”, ngày 1 tháng 4 năm 2005, ngày mà tôi đến trường với công việc mới. Tất cả đều còn xa lạ đối với tôi. Hình ảnh các “cháu” sinh viên ngồi học rải rác ở bậc cầu thang lên xuống để lại cho tôi ấn tượng mạnh nhất. Sau này tôi mới biết các em đang ôn lại bài trước giờ thi. Tôi hết sức xúc động không phải vì tôi nhớ lại hình ảnh hơn 30 năm trước của mình. Hồi đó là thời chiến, nhà chúng tôi học là nhà nền đất, vách trát đất, làm sao có được hình ảnh giống như bây giờ để mà nhớ. Tôi xúc động vì trên những khuôn mặt chăm chú ấy chứa đầy nghị lực và cả những âu lo. Tôi thầm hỏi: trong số các em ngồi ở đây có bao nhiêu em gia đình có đủ điều kiện chăm lo sức khỏe để các em có sức mà học. Chắc chắn là không nhiều. Đa số các em, bố mẹ còn rất vất vã, số tiền bố mẹ cho, các em phải chi cho cho nhiều việc nên ăn uống chắc chắn là còn kham khổ, lấy sức đâu để học. Nghĩ thế, rồi tôi nhìn các em, có gì đó trào dâng trong tôi.

      Ngày mới về trường, tôi biết có nhiều người để ý. Có một số người đến hỏi thăm, giúp đỡ, nhưng tôi nghĩ, chắc là có nhiều người đặt câu hỏi: Ông ấy già thế, từ doanh nghiệp về, chẳng biết trình độ thế nào, có dạy được không?. Nghĩ thế nên tôi càng phải cố gắng. Tôi được thầy Trưởng khoa Lê Quang Hưng tin tưởng, động viên và giúp đỡ rất nhiều. Thầy đã phân công cho tôi dạy môn Chọn giống cây trồng đúng theo chuyên ngành của tôi và phụ trách bộ môn Di truyền – Giống. Cuối năm đó (2005) tôi có quyết định chính thức bổ nhiệm Trưởng bộ môn của Hiệu trưởng. Lúc tôi về, năm học 2004-2005 chuẩn bị kết thúc, 4 tháng nữa (giữa tháng 8) là bắt đầu học kỳ I năm học mới 2005-2006 nên tôi phải chuẩn bị ngay bài giảng và phải trình giảng trước khoa trước khi lên lớp cho sinh viên. Thực sự tôi không lo về vốn kiến thức, chỉ lo “diễn xuất” thế nào cho ra tư thế người thầy, cách trình bày thế nào cho sinh viên dễ hiểu.

      Thế rồi sau một thời gian ngắn tôi đã soạn xong bài giảng và bắt tay viết lại giáo trình. Thầy trưởng khoa cho biết tôi sẽ trình giảng vào chiều ngày 29/8 tại phòng làm việc của Bộ môn, có sự tham dự của Chủ tịch công đoàn Khoa, các giảng viên trong khoa. Trước đó mấy ngày, tôi nhờ cô Trần Thị Thiên An, giảng viên Bộ môn bảo vệ thực vật đóng hai vai: vừa làm hội đồng, vừa làm “sinh viên” cho tôi giảng thử. Tôi chọn bài: “Mô hình toán di truyền” vừa mới lại vừa khó đối với sinh viên để trình bày. Nghe xong, cô An “phán”: Tốt đấy. Tôi mừng nhưng vẫn nghi đó là lời nhận xét “chiếu cố” nên tôi kiểm tra lại sự tiếp nhận kiến thức của cô “sinh viên bất đắc dĩ” này và tôi đã nhận được sự khích lệ khi cô “sinh viên” đó đã nắm được nội dung bài giảng của tôi. Vì chưa an tâm, nhân dịp cô Từ Bích Thủy – Trưởng bộ môn của tôi đã nghĩ hưu đến thăm Khoa, tôi tranh thủ giảng thử cho cô nghe và cũng được cô “duyệt”. Sau buổi trình giảng trước khoa, trong biên bản được ký bởi Trưởng khoa, Chủ tịch công đoàn và Thư ký, hội đồng thống nhất kết luận: “Đạt yêu cầu cao, đủ sức giảng dạy cho Đại học và Cao học”. Tôi biết trong lời nhận xét ấy có phần động viên khích lệ nhưng nó đã giúp tôi tự tin khi bước vào “trận mới”. Đến giờ tôi vẫn còn lưu giữ biên bản ấy như là một lời nhắc nhở: hãy làm cho tốt để không phụ lòng của mọi người.

      Đầu tháng 9/2005, tôi đã thực sự đứng trên bục giảng với tư cách người thầy và sau đó tham gia giảng dạy Cao học ở một vài trường. DH03NH (khóa 29) là lớp đầu tiên mà tôi đứng lớp. Em Hảo, người Tây Ninh, sinh năm 1982 làm lớp trưởng, em Liên, người Thái Bình, sinh năm 1982 làm lớp phó, em Ngà, người Bình Thuận, sinh năm 1985 làm bí thư Đoàn. Tôi điểm mặt và nhớ tên hầu hết các em: em Thuận, em Thành, 3 em Như, em Linh, em Truyền, 3 em Thảo, em Hằng, em Hồng, em Yến và nhiều em nữa. Tất cả các em đều tích cực học tâp, nhiều em học khá giỏi và gây ấn tượng rất tốt đối với tôi. Tất cả các em đã tạo dựng niềm tin đầu tiên, tiếp bước cho tôi tiếp tục sự nghiệp của mình. Lớp này tôi được phân công hướng dẫn các em: Nguyễn Thị Liên, Dương Thị Hồng, Trần Thành và Nguyễn Quốc Thịnh làm đề tài tốt nghiệp. Trong số các em tốt nghiệp năm ấy (2007), tôi biết có một số đã hoàn thành chương trình cao học, một số đang học, một số đã chuyển ngành và trong số đó có em đã lấy được bằng cao học ngành khác, vài em đã trở thành đồng nghiệp và dạy chuyên ngành của tôi ở trường khác. Nhiều em còn liên hệ với tôi, trong đó một số em tôi được may mắn tiếp tục hướng dẫn làm đề tài Cao học. Không biết có bao nhiêu em lớp ấy còn nhớ đến những ngày lên lớp của tôi, nhưng tôi, tôi nhớ các em nhiều lắm.

      Thế rồi, theo thời gian, có bao nhiêu chuyện vui buồn đã đến rồi đi, nhưng tôi tự xác định cho mình rằng, bất luận trong hoàn cảnh nào, khi đứng trên bục giảng tôi phải làm tốt 3 vai trò: Làm thầy của học trò, làm bạn của học trò và còn phải làm cha chú của học trò nữa. Để làm tốt 3 vai trò ấy tôi tâm niệm phải thực hiện thật tốt 6 chữ: “Tận tụy”(để làm thầy), “cởi mở”(để làm bạn), “động viên” (để làm cha chú). Tôi đã từng chung vui với thành quả của học trò, đã từng chia buồn với học trò khi thành quả “xuất sắc” kia lẽ ra đáng có mà đã không đến do “xui xẻo”. Lúc đó, ít nhiều tôi thấy mình có lỗi. Tôi nghĩ rằng ai cũng có những ưu điểm và cả những khuyết điểm, được khen ngợi và bị chê trách. Với tôi khen chê đều là những bài học. Tôi rất thích câu nói của Tuân Tử: “Người chê ta mà chê phải là thầy ta, người khen ta mà khen phải là bạn ta, những kẻ vuốt ve, nịnh bợ ta chính là kẻ thù của ta”.

      Bây giờ, nhìn lại con đường dẫn tôi tới làm thầy, tuy có chậm, những thành quả mà tôi “gặt hái” được còn ít so với nhiều người nhưng tôi trân trọng những thành quả đó. Đi trên con đường ấy, tôi đã nhận được sự giúp đỡ, động viên và sẻ chia của nhiều người. Nhân ngày 20/11, tôi nhớ đến họ và thầm cảm ơn họ.

      Tháng 11/2010
      P.T.K

      Cảm tưởng

      Thầy ơi, vậy là thầy đứng lớp của chúng em là lớp đầu tiên hả thầy? Thầy là một người thầy rất đặc biệt trong tâm trí của em và chắc chắn là của các thế hệ học trò sau này nữa. Có một điều mà em biết chắc đó là sau 4 năm đã ra trường không có bạn nào NH29 có thể quên được thầy. Thầy mãi mãi ở trong lòng chúng em và tất cả các thế hệ học trò đã may mắn được học. Em chúc thầy thành công hơn nữa trong sự nghiệp của mình. Em chào thầy ạ!
      Dương Thị Hồng

      Kiếm Kim bạn cùng lớp

      SỚM THU THƠ GIỮA LÒNG
      Hoàng Kim

      Thanh thản an vui dạo dọn vườn
      Vui thầy mừng bạn ngát thêm hương
      Đường xuân nhàn hạ phai mưa nắng
      Tâm sáng an lành trãi gió sương
      Thoắt đó vườn thơm nhiều quả ngọt
      Mới hay nhà phước lắm con đường
      An nhiên vô sự là tiên cảnh
      Sớm thu mai nở nắng thu vương.(*)

      (*) Thơ nương vần thơ “Vườn Thu” cậu Hoàng Thanh Luận

      SỚM THU
      Hoàng Kim

      Ngâm nga một chút
      Bài thơ thật hiền
      Nhớ con, nhớ cháu
      Huế mùa bình yên.

      Thanh Bình giỏi quá!
      Anh
      Vinh thật tài!
      Sớm Thu nắng ấm
      Trong lành mắt ai.

      xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/som-thu-tho-giua-long/

      THU
      Tác giả: Phan Thị Thanh Bình

      Thu về quyến rũ
      Em vội vàng chi
      Ngắm thu một chút
      Nghe thu thầm thì

      Heo may gọi lá
      Quyện vào gót chân
      Nhắc em khe khẽ
      Đông đang đến gần

      Nắng vàng trải mật
      Hoa sữa thơm nồng
      Em quay quắt nhớ
      Một thời mắt trong…

      PTTB

      Kim Hoàng
      Thơ hay ảnh đẹp Nguyên Hùng
      Bình an ngày mới, vui cùng SỚM THU

      ĐỌC LỤC BÁT XỨ NGHỆ
      Hoàng Kim


      Thơ Lục Bát Xứ Nghệ
      Sang trọng và Hào hoa
      Lời hẹn tình quê vẹn
      Đàn Đá thương Bến Xưa

      Đọc Lục Bát Xứ Nghệ
      Nhớ nốt lặng bên đời
      Đỗ Phủ thương đọc lại
      Thác nước giữa lòng Người

      Sớm Thu thơ giữa lòng

      xem tiếp 5 đường dẫn tại
      http://hoangkimlong.wordpress.com/category/doc-luc-bat-xu-nghe/

      SỚM THU THƠ GIỮA LÒNG
      Hoàng Kim

      1

      Tỉnh thức ban mai đã sớm thu
      Sương đêm giữ ngọc ướt cành tơ
      Ai ơi gieo đậu vừa rồi đấy
      Lộc biếc me xanh chín đợi chờ.

      2

      Sớm thu trên đồng rộng
      Em cười trời đất nghiêng
      Lúa ngậm đòng con gái
      Em đang thì làm duyên.

      Sớm thu trên đồng rộng
      Cây đời xanh thật xanh
      Lúa siêu xanh tỏa rộng
      Hương lúa thơm mông mênh.

      Sớm thu trên đồng rộng
      Trời đất đẹp lạ lùng
      Bản nhạc vui an lành
      Ơi đồng xanh yêu dấu…

      3

      Chớm thu Thu mưa Thu vịnh
      Thu buồn Thu hứng Thu sơn
      Chiều thu Tiếng thu Thu tứ
      Đêm thu Thu ẩm Thu ca

      4

      Thu vàng Giọt mưa thu
      Nắng thu Thơ gửi mùa thu
      Thư tình gửi mùa thu
      Sớm thu thơ giữa lòng

      5

      Thích thơ hay bạn quý
      Yêu sương mai đầu cành
      Bình minh chào ngày mới
      Vườn nhà bừng nắng lên

      Cà phê vui bầu bạn
      Trung thu bánh tình thân
      Phố núi cao thu sớm
      Gia an nguyên lộc gần.

      6
      SỚM THU
      Hoàng Kim

      Sáng nay vui với trẻ
      thơ.
      Buổi chiều
      ướm thử giày xưa giật mình.
      Thơ hay đẹp cả lời bình
      Mai vàng, mây thắm, lung linh sắc màu

      https://hoangkimlong.wordpress.com/category/som-thu-tho-giua-long/

      Sớm thu thơ giữa lòng gồm các bài thơ của tác giả đăng rãi rác nhiều năm lưu chung với 19 bài thơ tinh tuyển chọn lọc “Mùa thu trong thi ca” gồm: Chớm thu Hoàng Gia Cương; Thu mưa Đỗ Phủ; Thu mưa Nguyễn Hoài Nhơn; Thu vịnh Nguyễn Khuyến; Thu buồn Đỗ Phủ; Thu hứng Đỗ Phủ; Thu sơn Bạch Cư Dị; Chiều thu Nguyễn Bính; Tiếng thu Lưu Trọng Lư; Thu tứ Bạch Cư Dị; Đêm thu Trần Đăng Khoa; Đêm thu Quách Tấn; Thu ẩm Nguyễn Khuyến; Thu ca Chanson d’automne (Paul Verlaine);Thu vàng Alexxandr Puskin; Thu vàng Thu Bồn; Giọt mưa thu Thái Lượng; Nắng thu Nam Trân; Thơ gửi mùa thu Nguyễn Hoài Nhơn; Thư tình gửi mùa thu, nhạc Phan Huỳnh Điểu phổ thơ Xuân Quỳnh.

      CHỚM THU
      Hoàng Gia Cương

      Ban mai rười rượi – thu vừa chớm
      Gió lạc vườn ai bỡn trái hồng
      Khóm trúc dáng chừng đang độ lớn
      Ngỡ ngàng lối ngõ đẫm hơi sương!

      Mây bông lặng vén rèm che mỏng
      Để nắng non nghiêng liếc trộm vườn
      Hàng cúc xốn xang gờn gợn sóng …
      Hình như trời đất biếc xanh hơn!

      Qua bao giông bão bao mưa lũ
      Đất lại hồi sinh lại mượt mà
      Chấp chới cánh diều loang loáng đỏ
      Cố giữ tầm cao, níu khoảng xa!

      1998
      [1] Chớm thu, Hoàng Gia Cương THEO DÒNG THỜI GIAN
      Thơ tuyển chọn 2013. NXB Văn Học Hà Nội, tr.101

      VƯỜN THU
      Hoàng Thanh Luận

      Nhỏ nhỏ con con một mảnh vườn
      Bầu trời xanh ngắt đượm mùi hương
      Phong lam một nhánh đang khoe sắc
      Gốc bưởi nhiều cành trĩu nặng sương
      Sớm sớm chim về vui hội mới
      Chiều chiều ong đến rộn gia đường
      Môi trường sinh thái ru nhè nhẹ
      Cảnh ấy người đây cứ vấn vương

      THU MƯA
      Đỗ Phủ
      Dịch thơ Khương Hữu Dụng

      Hết gió liền mưa bời bời thu,
      Tám hướng tứ bề mây mịt mù.
      Ngựa lại trâu qua thấy loáng thoáng,
      Vị trong Kinh đục trông xô bồ.
      Lúa ngâm nứt mông ngô nếp thối,
      Nhà nông già trẻ ai dám nói.
      Trong thành đấu gạo so áo chăn,
      Hơn thiệt kể gì miễn được đổi.

      Nguồn: Thơ Đỗ Phủ, Hoàng Trung Thông, NXB Văn học, 1962

      THU MƯA
      Nguyễn Hoài Nhơn

      Thu về vườn lá chớm xanh
      Ngõ cũ mưa đưa gọi nhớ
      Ai người hạnh phúc bất thành
      Ai người tình yêu dang dở?

      Mưa rây tận cùng ướt lạnh
      Thấm tháp gì tôi mưa ơi
      Úp mặt vào tay cóng buốt
      Đi hoang xa, vắng cõi người

      Nỗi quê nửa đời thao thức
      Hạt mưa tha hương phương nào
      Ta như đất và…như cỏ
      Như chẳng còn ta nữa sao ?

      Chiếc lá ngập ngừng xoay, rớt
      Mùa đi ai nỡ giữ mùa
      Em về hòan nguyên hòai ước
      Hãy giữ giùm tôi thu mưa.

      THU VỊNH
      Nguyễn Khuyến

      Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao,
      Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu.
      Nước biếc trông như tầng khói phủ,
      Song thưa để mặc bóng trăng vào.
      Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái,
      Một tiếng trên không ngỗng nước nào?
      Nhân hứng cũng vừa toan cất bút,
      Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào.

      Rút từ Quốc văn tùng ký (AB.383), Nam âm thảo (VHv.2381), Quế Sơn thi tập (A.469). Tiêu đề trong Nam âm thảo chép là Mùa thu ngồi mát ngâm thơ.. Ông Đà: tức Đào Tiềm, tự Uyên Minh, từ quan về ở ẩn đời nhà Tấn, nổi tiếng thanh cao.

      Nguồn:
      1. Thơ văn Nguyễn Khuyến, NXB Văn học, 1971 (tái bản 1979)
      2. Nguyễn Khuyến – Tác phẩm, Nguyễn Văn Huyền chủ biên, NXB Khoa học xã hội, 1984
      3. Thi hào Nguyễn Khuyến: đời và thơ, Nguyễn Huệ Chi chủ biên, NXB Giáo dục, 1994

      THU BUỒN
      Đỗ Phủ
      Dịch thơ
      Phan Ngọc

      Gió bụi nổi vạn dặm,
      Giặc giã đang hoành hành.
      Nhà xa gửi thư lắm,
      Thư đến, khách buồn tênh.
      Chim bay, cao buồn ngắm,
      Già lưu lạc theo người.
      Bụng muốn đến Tam Giáp,
      Về hai kinh chịu thôi.

      Nguồn: Phan Ngọc, Đỗ Phủ – Nhà thơ thánh với hơn một ngàn bài thơ, NXB Văn hoá thông tin, 2001

      THU HỨNG 1
      Đỗ Phủ
      Dịch thơ
      Thích Quảng Sự


      Thê lương sương phủ ủ rừng phong
      Vu Giáp Vu Sơn ảm đạm buồn.
      Ải tiếp gió mây hòa đất lạnh
      Sóng đùa sông nước hợp trời tung.
      Hai mùa cúc nở còn vương lệ
      Một chiếc thuyền tình mãi sắt son.
      Đan áo nơi nơi cho giá rét
      Giục chày thành Bạch mỗi chiều buông.

      THU HỨNG 4
      Đỗ Phủ
      Dịch thơ
      Trương Việt Linh

      Nghe nói Trường An rối cuộc cờ
      Trăm năm thế sự não lòng chưa
      Lâu đài khanh tướng thay người mới
      Áo mũ công hầu khác thưở xưa
      Xe ngựa xứ tây tin rộn đến
      Cõi bờ đất bắc trống vang đưa
      Cá rồng quạnh quẽ sông thu lạnh
      Nước cũ mơ màng chuyện gió mưa

      THU SƠN (Núi thu)
      Bạch Cư Dị
      Dịch thơ
      Trương Việt Linh

      Ốm lâu,trong bụng cũng lười
      Sáng nay lên núi dạo chơi một lần
      Núi thu mây cảnh lạnh lùng
      Xanh xao cũng tựa mặt mình như in
      Dây xanh dựa bước dễ vin
      Trắng tinh gối đá ta nằm ta chơi
      Trải lòng thoả dạ mừng vui
      Cuối ngày nhưng chửa muốn lui về nhà
      Trăm năm trong cõi người ta
      Cái thân nhăng nhít đáng là chi đâu
      Chuyện xưa khéo nghĩ bạc đầu
      Một ngày có được mấy hồi thảnh thơi
      Lưới trần khi gỡ ra rồi
      Về đây khép cửa nghỉ ngơi thanh nhàn

      CHIỀU THU
      Nguyễn Bính

      Thăm thẳm trời xanh lộng đáy hồ,
      Mùi hoa thiên lý thoảng chiều thu.
      Con cò bay lả trong câu hát,
      Giấc trẻ say dài nhịp võng ru.

      Lá thấp cành cao gió đuổi nhau,
      Góc vườn rụng vội chiếc mo cau.
      Trái na mở mắt, nhìn ngơ ngác,
      Đàn kiến trường chinh tự thủa nào.

      Lúa trổ đòng tơ, ngậm cốm non,
      Lá dài vươn sắc lưỡi gươm con.
      Tiếng chim mách lẻo cây hồng chín,
      Điểm nhạt da trời những chấm son.

      Hai cánh chia quân chiếm mặt gò,
      Bê con đùa mẹ bú chưa no.
      Cờ lau súng sậy giam chân địch,
      Trận Điện Biên này lại thắng to.

      Sông đỏ phù sa, nước lớn rồi,
      Nhà bè khói bếp lững lờ trôi.
      Đường mòn rộn bước chân về chợ,
      Vú sữa đẫy căng mặt yếm sồi.

      Thong thả trăng non dựng cuối làng,
      Giữa nhà cây lá bóng xiên ngang.
      Chiều con, cặm cụi đôi ngày phép,
      Ngồi bẻ đèn sao, phXem tiếp >>

        Dạy và học 5 tháng 11(05-11-2021)


      DẠY VÀ HỌC 5 THÁNG 11
      Hoàng Kim
      CNM365 Tình yêu cuộc sống500 năm nông nghiệp Brazil; Đỗ Phủ thương đọc lại; Đỗ Hoàng Phong chiều xuân; Chuyện cổ tích người lớn; Du lịch sinh thái Việt; Kho báu đỉnh Tuyết Sơn; Đến với bài thơ hay; Nguồn Son nối Phong Nha; Việt Nam tổ quốc tôi; Mái trường bên dòng Gianh; Chùa Một Cột Hà Nội; Nguyễn Trãi Dục Thúy Sơn; Nguyễn Du tâm hồn Việt; Ngày 5 tháng 11 năm 1879 là ngày mất James Clerk Maxwell (sinh ngày 13 tháng 6 năm 1831), James Clerk Maxwell là nhà vật lý học người Scotland.có ảnh hưởng lớn nhất đến vật lý học thế kỷ 20, mở ra lối đi cho vật lý hiện đại, đặt cơ sở cho thuyết tương đối hẹp và cơ học lượng tử, bức xạ điện từ, bắc cầu nối điện học, từ học, và ánh sáng như là biểu hiện của cùng một hiện tượng. Ông đóng góp khoa học chỉ xếp sau Isaac Newton và Albert Einstein  Phương trình Maxwell của trường điện từ đã được gọi là “lần thống nhất vĩ đại thứ hai trong vật lý” sau lần thống nhất bởi Isaac Newton. Ngày 5 tháng 11 năm 1138, Lý Anh Tông tức hoàng thái tử Thiên Tộ lên ngôi hoàng đế triều Lý khi mới ba tuổi. Lý Anh Tông trị vì được 36 năm, là vị vua đời thứ 5 sau Lý Thái Tổ, Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông. Đỗ Anh Vũ là người nhiếp chính. Ngày 5 tháng 11 năm 2007 Trung Quốc đưa tàu không gian không người lái Hằng Nga 1 lần đầu tiên đi vào quỹ đạo Mặt Trăng. Bài viết chọn lọc ngày 5 tháng 11: 500 năm nông nghiệp Brazil; Đỗ Phủ thương đọc lại; Đỗ Hoàng Phong chiều xuân; Chuyện cổ tích người lớn; Du lịch sinh thái Việt; Kho báu đỉnh Tuyết Sơn; Đến với bài thơ hay; Nguồn Son nối Phong Nha; Việt Nam tổ quốc tôi; Mái trường bên dòng Gianh; Đến với bài thơ hay; Chùa Một Cột Hà Nội; Nguyễn Trãi Dục Thúy Sơn; Nguyễn Du tâm hồn Việt; Nguyễn Du trăng huyền thoại; Nguyễn Du tư liệu quý; Ta về trời đất Hồng Lam; Những cuốn sách tôi yêu; Nguyễn Trãi kiệt tác thơ văn; Đến với Tây Nguyên mới; Nguyễn Du làm Ngư Tiều; Nguyễn Ngọc Tư sầu riêng; Nhớ thầy Nguyễn Quốc Toàn; Dạy học nghề làm vườn; Hãy để tôi đọc lại; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlong và: https://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-5-thang-11

      500 NĂM NÔNG NGHIỆP BRAZIL
      Hoàng Kim
      .

      Tôi kể về một thoáng Brazil đất nước con người và  500 năm nông nghiệp Brazil. Các chính khách chuyên gia hàng đầu Brazil đã soi lại 500 năm nông nghiệp Brazil trong sự hòa quyện với lịch sử đất nước và thương mại. Họ đã lần tìm trong những biến động của lịch sử vùng đất với các yếu tố nguồn lực căn bản Đất đai và Thức ăn (Land and Food) để bảo tồn và phát triển.

      Vùng đất mới Rio của Brazil lần đầu tiên được khám phá vào ngày 1 tháng 1 năm 1502 do một đoàn thám hiểm Bồ Đào Nha. Họ trở thành những người châu Âu đầu tiên tìm đến nơi này, hệt như cậu bé chăn cừu tìm thấy ốc đảo sa mạc trong hành trình tìm kho báu ở Kim Tự Tháp mà Paulo Coelho đã kể trong “O Alquimista” là kiệt tác của tâm hồn mà tôi đã viết ở Ngọc lục bảo Paulo Coelho. Thành phố Rio de Janeiro là thành phố đẹp giữa núi và biển, di sản thế giới được công nhận bởi UNESCO, một trong bảy kỳ quan thế giới mới.

      Embrapa là tập đoàn nghiên cứu và phát triển nông nghiệp Brazil lâu năm và khá hoàn hảo để đảm bảo các giải pháp khoa học và biến đổi phát triển bền vững. Trang web của chính họ là www.embrapa.br. Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam hiện nay có đúc kết kinh nghiệm của Embrapa khi tái cấu trúc theo sự tư vấn của các chuyên giao FAO và UNDP. Trong những bài học lớn của đất nước này có Đất và Thức ăn, 500 năm nông nghiệp Brazil (Land and Food 500 years of Agriculture in Brazil).

      Brazil đất nước và con người

      Brazil khái lược bốn yếu tố chính: Đất nước (đất đai và thức ăn); Con người (tộc người, ngôn ngữ, văn hóa); Môi trường sống (khí hậu, danh thắng, vấn đề chung); Chế độ và  Kinh tế hiện trạng.

      Nước Cộng hòa Liên bang Brasil gọi tắt Brasil  là quốc gia lớn nhất Nam Mỹ, với tổng diện tích 8.516.000 km², dân số 200,4 triệu người (năm 2013), lớn thứ năm trên thế giới về diện tích và dân số. Brazil là vùng nói tiếng Bồ Đào Nha duy nhất ở châu Mỹ và lớn nhất trên thế giới. Thủ đô của Brazil tại Brasilia, đơn vị tiền tệ là Real Brazil. Tổng thống đương nhiệm là bà Dilma Vana Rousseff sinh ngày 14 tháng 12, 1947. Bà là nhà kinh tế, chính khách lỗi lạc thuộc Đảng Công nhân, đắc cử chức tổng thống Brasil từ năm 2010 và là người phụ nữ đầu tiên thắng cử tổng thống Brasil. Vị trí Brazil trong chỉ mục xếp hạng quốc tế:

      • Xếp thứ 5 trên thế giới về dân số (Xem Danh sách các nước theo số dân).
      • Xếp thứ 5 trên thế giới về diện tích (Xem Danh sách các nước theo diện tích).
      • Xếp thứ 70/177 quốc gia về chỉ số phát triển con người (Xem Danh sách các quốc gia theo thứ tự về Chỉ số phát triển con người).
      • Xếp thứ 10 thế giới về GDP (theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF).
      • Xếp thứ 111/157 quốc gia về mức độ tự do kinh tế.
      • Xếp thứ 70/163 quốc gia về Chỉ số nhận thức tham nhũng.

      VietnamBrazilBrazil ở cách Việt Nam một biển rộng Thái Bình Dương và có nhiều tương đồng so với Trung Quốc. Việt Nam soi vào Trung Quốc quá khứ và soi vào Brazil hiện tại sẽ chứng ngộ nhiều điều sâu sắc của sự bảo tồn và phát triển. Brazil là một trong bốn nước nền kinh tế mới nổi BRIC (Brazil, Russia, India, China) đang ở giai đoạn phát triển kinh tế và quy mô tương đồng. Brazil có khí hậu trải dài trên năm dạng khí hậu khác nhau: xích đạo, nhiệt đới, nhiệt đới khô, núi cao và cận nhiệt đới. Hơn một nửa nước Brazil có điều kiện sinh thái tương đồng và gần giống khí hậu thủy thổ của Việt Nam.

      Brazil là một nước cộng hòa liên bang được hình thành bởi liên hiệp của quận liên bang gồm 26 bang và 5.564 khu tự quản. Brasil tiếp giáp với 11 nước và vùng lãnh thổ Nam Mỹ: phía bắc giáp với Venezuela, Guyana, Suriname và Guyane thuộc Pháp; phía tây bắc giáp Colombia, phía tây giáp Bolivia và Peru, phía tây nam giáp Argentina và Paraguay, phía nam giáp  Uruguay, phía đông Brazil giáp Đại Tây Dương với đường bờ biển dài 7.491 km.

      Môi trường tự nhiên Brasil được coi là quê hương của môi trường tự nhiên hoang dã phong phú, có nhiều tài nguyên tự nhiên ở các khu được bảo tồn. Brasil là quốc gia có diện tích lớn thứ năm trên thế giới, chỉ đứng sau Nga, Canada, Mỹ và Trung Quốc. Brasil là một trong những nước có nhiều hệ thống sông lớn nhất trên thế giới. Nước này có tổng cộng 8 bồn địa lớn, nước của các con sông đi qua các bồn địa này để thoát ra Đại Tây Dương. Sông Amazon là con sông lớn nhất thế giới tính theo dung lượng nước với lưu vực rộng lớn và màu mỡ đã tạo điều kiện cho những cánh rừng mưa nhiệt đới hùng vĩ phát triển cùng với một hệ thống sinh vật phong phú. Kế đến là  hệ thống sông Paraná và phụ lưu của nó.

      Sông Iguaçu nơi có thác nước Iguaçu nổi tiếng thế giới nằm giữa Brazil và Achentina. Bên cạnh đó còn có các sông Negro, São Francisco, Xingu, Madeira và Tapajos. Một số hòn đảo và đảo san hô trên Đại Tây Dương như Fernando de Noronha, Đảo san hô Rocas, Saint Peter và Paul Rocks, và Trindade và Martim Vaz cũng thuộc chủ quyền của Brasil. Địa hình của Brasil phân bố rất đa dạng và phức tạp.

      Người Brasil hiện nay có tổ tiên khá đa dạng, gồm người da đỏ Châu Mỹ (chủ yếu là người Tupi và Guarani), người Châu Âu (chủ yếu là Bồ Đào Nha, Ý, Đức, Tây Ban Nha) và người Châu Phi (chủ yếu là Bantu và Yorùbá), với một số cộng đồng thiểu số Châu Á (chủ yếu là Nhật Bản), Liban, và Ả Rập Syria. Miền nam Brasil với đa số dân là con cháu người Âu còn ở phía đông nam và trung tây Brasil số lượng người da trắng tương đương người Phi và những người Brasil đa chủng khác. Đông bắc Brasil có đa số dân là con cháu người Bồ Đào Nha và Châu Phi, trong khi miền bắc Brasil có số lượng hậu duệ người da đỏ Châu Mỹ lớn nhất nước. Cơ cấu dân nhập cư Brasil có 79 triệu người Châu Phi và người đa chủng; 13 triệu người Ả Rập, chủ yếu từ Syria và Liban ở Đông Địa Trung Hải; 1,6 triệu người Châu Á, chủ yếu từ Nhật Bản; Những nhóm người đa chủng đông đảo nhất là người thuộc bán đảo Iberia, Ý và người Đức ở Trung Âu. Các nhóm thiểu số gồm người Slav (đa số là người Ba Lan, Ukraina và Nga). Những nhóm nhỏ hơn gồm người Armenia, người Phần Lan, người Pháp, người Hy Lạp, người Hungary, người Romania, người Anh và người Ireland. Trong số các nhóm thiểu số còn có 200.000 người Do Thái, chủ yếu là Ashkenazi. Theo hiến pháp năm 1988 của Brasil, phân biệt chủng tộc là một tội không được bảo lãnh và buộc phải ngồi tù. Đạo luật này được thi hành rất chặt chẽ. Người Brasil ngày nay phần lớn là người da trắng có tổ tiên gốc là người Bồ Đào Nha nhiều nhất vì nước này là thuộc địa của đế chế Bồ Đào Nha từ thế kỷ 16 đến thế kỉ 18 và tỷ lệ người Bồ Đào Nha và người Ý nhập cư khá cao  trong thế kỷ 19 và thế kỉ 20. Những khu định cư Bồ Đào Nha bắt đầu xuất hiện tại Brasil sau năm 1532 và cho tới nay người Bồ Đào Nha vẫn là những người Châu Âu duy nhất thực hiện thành công chính sách thực dân ở nước này và nền văn hóa Brasil chủ yếu dựa trên văn hoá Bồ Đào Nha. Các nước Châu Âu khác như Hà Lan và người Pháp cũng đã từng tìm cách thực dân hóa Brasil trong thế kỷ 17 nhưng không thành công. Người da đỏ bản xứ Brasil (khoảng 3-5 triệu người) phần lớn đã bị tiêu diệt hay đồng hóa bởi người Bồ Đào Nha. Những cuộc hôn nhân lai chủng giữa người Bồ Đào Nha và những người Brasil bản xứ từ thời kỳ đầu thực dân hoá Brasil, đến nay Brasil có gần một triệu người dân bản xứ và người lai bản xứ, chiếm gần  1% dân số nước này. Cộng đồng dân cư lớn thứ hai ở Brasil là người da đen, con cháu của những người nô lệ Châu Phi bị bắt tới đây từ thế kỷ 16 tới thế kỷ 19. Người da đen châu Phi có trên ba triệu người Angola, Nigeria, Benin, Togo, Ghana, Côte d’Ivoire và São Tomé e Príncipe đã bị bán qua Brasil cho tới khi chế độ buôn bán nô lệ chấm dứt vào năm 1850. Những người Châu Phi này sau đó đã lai tạp với người Bồ Đào Nha, trở thành một bộ phận dân cư lai khá lớn tại Brasil. Những nhóm người da trắng và da vàng của Châu Âu và châu Á tơi đây bắt đầu từ thế kỷ 19 với sự khuyến khích của chính phủ Brasil để thay thế nguồn nhân lực và lao động cũ là các cộng đồng nhân công và nô lệ. Người lai giữa các chủng tộc tạo nên một bản sắc đa chủng tộc đa văn hóa mà yếu tố chủ đạo là văn hóa ngôn ngữ Bồ Đào Nha.

      Ngôn ngữ chính thức duy nhất tại Brasil là tiếng Bồ Đào Nha. Toàn bộ dân chúng sử dụng thứ tiếng này làm ngôn ngữ duy nhất được sử dụng trong các trường học, trên các phương tiện truyền thông, trong kinh doanh và mọi mục đích hành chính. Tiếng Bồ Đào Nha trở thành sinh tử phù đặc trưng riêng quốc gia ở Brasil và đã  phát triển độc lập với tiếng mẹ đẻ và trải qua ít sự thay đổi ngữ âm hơn so với tiếng Bồ Đào Nha gốc, vì thế nó thường được gọi là ngôn ngữ gốc “Camões”, vốn đã tồn tại ở thế kỷ 16, tương tự như thứ ngôn ngữ ở phía nam Brasil ngày nay, chứ không phải như ngôn ngữ nước Bồ Đào Nha hiện tại đã bị châu Âu pha tạp. Tiếng Bồ Đào Nha ở Brasil có ảnh hưởng rất lớn tới các ngôn ngữ da đỏ Châu Mỹ và ngôn ngữ Châu Phi. Những phương ngữ Bồ Đào Nha tại Brazil có nhiều khác biệt lớn với nhau về âm điệu, từ vựng và chính tả. Nhiều ngôn ngữ bản xứ được sử dụng hàng ngày trong các cộng đồng thổ dân. Hiện nay việc dạy các ngôn ngữ bản xứ đang được khuyến khích. Một số ngôn ngữ khác được con cháu những người nhập cư sử dụng, họ thường có khả năng nói cả hai thứ tiếng, tại các cộng đồng nông nghiệp ở phía nam Brasil. Tiếng Anh là một phần trong chương trình giảng dạy của các trường cao học, nhưng ít người Brasil thực sự thông thạo ngôn ngữ này. Đa số những người sử dụng tiếng Bồ Đào Nha đều có thể hiểu tiếng Tây Ban Nha ở mức độ này hay mức độ khác vì sự tương đồng giữa hai ngôn ngữ cùng hệ Latinh.

      Tôn giáo chủ yếu tại Brasil là Công giáo Rôma. Brasil là nước có cộng đồng người theo đạo Công giáo lớn nhất trên thế giới. tiếp đến là đạo Tin lành, Hồi giáo, Phật giáo. Cơ cấu tôn giáo của người dân Brasil như sau (theo cuộc điều tra của IBGE) 64,6% dân số theo Công giáo; 22,2% dân số theo Đạo Tin lành; 8,0% dân số tự cho mình là người theo Thuyết bất khả tri hay Thuyết vô thần; 2,0% dân số theo Thuyết thông linh; 2,7% dân số là thành viên của các tôn giáo khác. Một số tôn giáo đó là Mormon (227.000 tín đồ), Nhân chứng Jehovah (1.393.000 tín đồ), Phật giáo (244.000 tín đồ), Do Thái giáo (107.000 tín đồ), và Hồi giáo (35.000 tín đồ); 0,3% dân số theo các tôn giáo truyền thống Châu Phi như Candomblé, Macumba và Umbanda; 0,1% không biết; Một số người theo tôn giáo pha trộn giữa các tôn giáo khác nhau, như Công giáo, Candomblé, và tổng hợp các tôn giáo truyền thống Châu Phi.

      Chế độ chính trị ở Brasil được chia thành các nhánh lập pháp, hành pháp và tư pháp. Hoạt động của các nhánh này diễn ra độc lập với nhau và đồng thời được kiểm tra và điều chỉnh cân bằng sao cho thích hợp. Nhánh hành pháp và lập pháp được tổ chức ở cả 4 thực thể chính trị, trong khi nhánh tư pháp chỉ được tổ chức ở cấp Liên bang và bang. Theo hiến pháp, Brasil là một quốc gia theo thể chế cộng hòa liên bang, được tạo lập dựa trên 4 thực thể chính trị là Liên bang, bang, các chính quyền thành phố tự trị và quận liên bang. Không có sự phân cấp cụ thể nào về quyền lực giữa các thực thể chính trị này. Nhánh hành pháp được thực thi bởi chính phủ, trong khi nhánh lập pháp được thực thi bởi cả chính phủ và hai viện của quốc hội Brasil. Nhánh tư pháp hoạt động riêng rẽ với hai nhánh trên. Về nhánh hành pháp, người đứng đầu nhà nước là tổng thống Brasil có nhiệm kỳ 4 năm và được phép nắm tối đa 2 nhiệm kỳ. Đương kim tổng thống hiện nay của nước này là bà Dilma Rousseff, đắc cử tháng 10 năm 2010. Tổng thống có quyền chỉ định thủ tướng liên bang, có vai trò hỗ trợ cho tổng thống trong việc điều hành đất nước. Về nhánh lập pháp, Quốc hội của Brasil được chia làm 2 viện: thượng viện và hạ viện. Thượng viện Liên bang Brasil gồm có 81 ghế, phân bố đều mỗi 3 ghế cho 26 bang và quận liên bang (thủ đô) và có nhiệm kỳ 8 năm. Hạ viện có tổng cộng 513 ghế, được bầu cử theo nhiệm kỳ 4 năm và phân bố theo tỉ lệ bang. Một trong những nguyên tắc chính trị của nền cộng hòa là hệ thống đa đảng, như một sự đảm bảo về tự do chính trị. Hiện nay có tổng cộng 15 đảng chính trị lớn nhỏ có ghế trong Quốc hội Brasil. Bốn đảng lớn nhất hiện nay là Đảng Công nhân Brasil (PT), Đảng Dân chủ Xã hội Brasil (PSDB), Đảng Vận động Dân chủ Brasil (PMDB) và Đảng Dân chủ (tiền thân là Đảng Mặt trận Tự do – PFL). Luật pháp của Brasil dựa trên luật La Mã – Germania truyền thống. Hiến pháp Liên bang, được thông qua vào ngày 5 tháng 10 năm 1988 là bộ luật cơ bản nhất của Brasil. Tất cả những quyết định của nhánh lập pháp và tòa án đều phải dựa trên Hiến pháp Brasil. Các bang của Brasil đều có hiến pháp riêng của bang mình, nhưng không được trái với Hiến pháp Liên bang. Các chính quyền thành phố và quận liên bang không có hiến pháp riêng mà có bộ luật của riêng mình, gọi là luật cơ bản. Quyền lực pháp lý được thực thi bởi nhánh tư pháp, mặc dù trong một số trường hợp đặc biệt Hiến pháp Brasil cũng cho phép Thượng viện Liên bang thông qua những quyết định về mặt luật pháp. Cơ quan quyền lực cao nhất trong ngành tư pháp của Brasil là Tòa án Liên bang Tối cao. Tuy nhiên hệ thống tư pháp của Brasil bị chỉ trích làm việc kém hiệu quả trong vài thập kỉ qua trong việc thực hiện nốt các bước cuối của việc xét xử. Các vụ kiện cáo thường mất tới vài năm để giải quyết và đi đến phán quyết cuối cùng.

      Brasil phát triển chính sách ngoại giao độc lập song song với phát triển kinh tế. Những năm gần đây, Brasil ngày càng tăng cường quan hệ với các nước Mỹ Latinh láng giềng, đồng thời đóng vai trò quan trọng trong các sứ mệnh của Liên Hiệp Quốc. Chính sách ngoại giao của Brasil là có quan điểm hòa bình trong các vấn đề tranh chấp quốc tế và không can thiệp vào tình hình nước khác. Brasil là thành viên của nhiều tổ chức quốc tế như Liên Hiệp Quốc, Tổ chức Thương mại Thế giới và Khối Thị trường chung Nam Mỹ … Brasil thiết lập quan hệ ngoại giao với Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày 8 tháng 5 năm 1989.  Quân đội Brasil bao gồm 3 bộ phận chính là lục quân, hải quân và không quân. Lực lượng cảnh sát được coi là một nhánh của quân đội trong hiến pháp nhưng nằm dưới sự chỉ huy của mỗi bang. Brasil là quốc gia có lực lượng quân đội lớn nhất Mỹ Latinh, với tổng quân số là 28,7 vạn quân nhân vào năm 2006. Tổng thống Brasil cũng là tổng chỉ huy quân đội của nước này. Chi phí cho quân sự của Brasil năm 2006 ước tính đạt khoảng 2,6% GDP. Brasil có chế độ nghĩa vụ quân sự dành cho nam giới tuổi từ 21-45, kéo dài trong khoảng 9 đến 12 tháng, còn tự nguyện thì tuổi từ 17-45. Tuy nhiên, với một nước có dân số lớn như Brasil thì đa phần nam giới nước này không phải gọi nhập ngũ. Brasil là nước đầu tiên tại Nam Mỹ chấp nhận phụ nữ phục vụ trong quân ngũ vào thập niên 1980. Vai trò chủ yếu của quân đội Brasil là bảo vệ chủ quyền quốc gia và tham gia vào các chiến dịch gìn giữ hòa bình của Liên Hiệp Quốc tại nước ngoài. Brasil là quốc gia dẫn đầu khu vực Mỹ Latinh về chính trị và kinh tế. Tuy nhiên, những bất ổn về kinh tế và xã hội trong lòng Brasil đã ngăn cản nước này tiến lên trở thành một cường quốc có ảnh hưởng lớn trên thế giới.

      Kinh tế Brasil là nền kinh tế lớn thứ tám trên thế giới dựa trên GDP danh nghĩa và xếp thứ bảy dựa trên GDP sức mua tương đương. Brasil là một trong những nền kinh tế phát triển nhanh nhất thế giới. Cải cách kinh tế đã đem lại cho đất nước sự công nhận mới của quốc tế. Brasil là thành viên sáng lập của Liên Hiệp Quốc, G20, CPLP, Liên minh Latin, Tổ chức các bang Ibero-Mỹ, Mercosul và Liên minh các Quốc gia Nam Mỹ và là một trong bốn nước BRIC, biểu tượng của sự chuyển dịch quyền lực kinh tế thế giới từ nhóm nước G7 sang các nước đang phát triển mà ước đoán đến năm 2027 các nền kinh tế BRIC sẽ vượt qua nhóm G7. Brasil có nền kinh tế đa dạng ở mức thu nhập trung bình cao với mức độ phát triển rất khác nhau. Cơ cấu kinh tế của Brazil là: công nghiệp đa dạng,  nông nghiệp, dịch vụ,  gia công và khai mỏ.  Brasil có nguồn lao động dồi dào và GDP vượt xa nhiều quốc gia Mỹ Latinh khác. Brasil hiện nay đã mở rộng sự hiện diện của mình trong nền kinh tế thế giới với các sản phẩm xuất khẩu chính gồm: 1) nhóm sản phẩm của công nghiệp đa dạng (máy bay, xe ô tô, quặng sắt, thép, thiết bị điện tử. .); 2) nhóm sản phẩm nông sản và nông sản chế biến (cà phê,  đậu nành, nước cam,… ) nhóm sản phẩm gia công, tiểu thủ công và mỹ nghệ (dệt may, giày dép …). Brazil có đa số các ngành công nghiệp lớn của nằm ở phía nam và phía đông nam, còn vùng đông bắc là vùng nghèo nhất ở Brasil, nhưng hiện đang thu hút được nhiều đầu tư nước ngoài. Brasil có lĩnh vực công nghiệp phát triển nhất Mỹ Latinh gồm các ngành công nghiệp đa dạng sản xuất ô tô, thép, hóa dầu tới máy tính, máy bay và các sản phẩm tiêu dùng.  Các công ty Brasil và các công ty đa quốc gia đầu tư mạnh vào công nghệ và thiết bị mới, một phần lớn trong số đó được nhập khẩu từ các công ty Bắc Mỹ nhờ nền kinh tế phát triển khá ổn định và kế hoạch Real. Brasil cũng sở hữu một nền công nghiệp dịch vụ đa dạng và có chất lượng cao. Những năm đầu thập niên 1990, lĩnh vực ngân hàng chiếm tới 16% GDP. Công nghiệp dịch vụ tài chính nước này, dù trải qua một quá trình tái cơ cấu rộng lớn, đã cung cấp tiền vốn cho nhiều công ty trong nước sản xuất ra các loại hàng hóa phong phú, lôi cuốn nhiều nhà đầu tư nước ngoài mới, kể cả các công ty tài chính lớn của Mỹ. Thị trường chứng khoán São Paulo và Rio de Janeiro đang trải qua quá trình hợp nhất. Brasil là nền kinh tế mới nổi, các vấn nạn chính cản trở sự phát triển là tham nhũng, nghèo đói, mù chữ.

      500 năm nông nghiệp Brazil

      Các chính khách chuyên gia hàng đầu Brazil đã soi lại 500 năm nông nghiệp trong sự hòa quyện với lịch sử đất nước và thương mại. Họ đã lần tìm trong những rối loạn và biến động của lịch sử đất nước các yếu tố nguồn lực căn bản Đất đai và Thức ăn (Land and Food) để bảo tồn và phát triển. Gắn lịch sử các ngành hàng chính của đất nước với đất đai và thức ăn cùng với lịch sử và văn hóa của một vùng đất để thấu hiểu tâm linh vũ trụ và lòng người. Chúng ta đang đối thoại với nông nghiệp Brazil một trang sách mở. Tôi giật mình tự hỏi Việt Nam các vua chúa, tổng thống, chính khách và chuyên gia các triều đại đã thực sự coi trọng tựa đề sách này chưa?

      Brasil là quốc gia có tài nguyên môi trường và độ đa dạng sinh học cao nhất thế giới, hơn hẳn so với mọi quốc gia khác. Bắc Brasil là những vùng đất thấp được che phủ bởi rừng Amazon. Nam Brazil có địa hình chủ yếu là đồi núi với nhiều dãy núi cao vùng bờ biển giáp Đại Tây Dương. Đỉnh núi cao nhất Brasil là đỉnh Pico da Neblina, cao 3.014 m thuộc cao nguyên Guiana. Nước này có số lượng động vật có vú nhiều nhất trên thế giới, đứng thứ nhì về tổng số các loài lưỡng cư và bướm, thứ ba thế giới về các loài chim và thứ năm thế giới về các loại bò sát. Rừng nhiệt đới Amazon là ngôi nhà của nhiều loài thực vật và động vật độc đáo tại Brasil. Về thực vật, ở Brasil người ta đã phát hiện được hơn 55.000 loài, xếp thứ nhất trên thế giới và 30% trong số đó là những loài thực vật đặc hữu của Brasil. Khu vực Rừng Đại Tây Dương là nơi tập trung rất nhiều các loài thực vật khác nhau, bao gồm các loài nhiệt đới, cận nhiệt đới và rừng ngập mặn. Vùng Pantanal là một vùng đất ẩm và là nhà của khoảng 3500 loài thực vật trong khi Cerrado là một trong những vùng savan đa dạng nhất trên thế giới. Về động vật, Brasil nổi tiếng với các loài báo jaguar, báo sư tử, thú ăn kiến, cá piranha, loài trăn khổng lồ anaconda… và rất nhiều các loài linh trưởng, chim và côn trùng khác chỉ có tại đất nước này. Tuy nhiên trong những thập kỉ gần đây, sự phát triển kinh tế và gia tăng dân số quá mức đang có nguy cơ gây ảnh hưởng đến môi trường tự nhiên của Brasil. Sự phá rừng lấy gỗ và đất canh tác, bao gồm cả hợp pháp và bất hợp pháp đang tàn phá những khu rừng lớn tại nước này, đe dọa gây ra những thảm họa nghiêm trọng về môi trường. Từ năm 2002 đến năm 2006, rừng Amazon đã bị mất đi một phần diện tích xấp xỉ nước Áo. Dự kiến đến năm 2020, ít nhất 50% các loài sinh vật tại Brasil sẽ đứng trước bờ vực tuyệt chủng. Chính phủ Brasil trước tình hình này, đã ban hành nhiều chính sách nhằm bảo về môi trường. Một mạng lưới các khu vực bảo vệ đã được thiết lập trên diện tích hơn 2 triệu km² (khoảng một phần tư diện tích Brasil) để bảo vệ những vùng rừng và các hệ sinh thái tại nước này. Dẫu vậy việc bảo vệ môi trường tại Brasil cũng gặp nhiều khó khăn.

      Lịch sử Brasil khái lược được chia làm hai thời kỳ: Thời kỳ tiền Colombo và thời kỳ hậu Colombo.

      Thời kỳ tiền Colombo. Con người cổ Brazil theo hóa thách khảo cổ đã có ít nhất 8000 năm. Ai là người đầu tiên đến Brasil vẫn còn là điều tranh cãi. Một số nhà khảo cổ học cho rằng những thợ săn châu Á di cư qua eo biển Bering qua Alaska, xuống châu Mỹ rồi đến Brasil là những cư dân đầu tiên. Một số nhà khảo cổ khác lại cho rằng người châu Úc và châu Phi là những cư dân cổ hơn tại Brasil. Trong khi người da đỏ bản địa hiển nhiên là đã có từ trước ở Brasil nhưng tộc người vùng này theo di chỉ là những cư dân  du mục săn bắn, đánh bắt cá và trồng trọt, họ không có chữ viết và không có những dấu vết công trình kiến trúc quy mô gửi lại hậu thế cho nên việc tìm hiểu về họ rất khó khăn.

      Brasilthodan
      Thổ dân Brasil – tranh của Jean-Baptiste Debret Thuộc địa Brasil 1509. Người châu Âu khi tìm ra Brasil thì cho rằng mật độ thổ dân ở Brasil rất thấp, dân số chỉ có khoảng một triệu người nhưng chưa thể hoàn toàn tin vì đây là sử liệu của phía “người da trắng Bồ Đào Nha” và có tàn sát người da đỏ của suốt thời kỳ đầu . Ngày nay, thổ dân da đỏ ở Brasil một phần bị lai với các chủng tộc khác hoặc sống nguyên thủy trong những rừng Amazon. Người da đỏ ở phía tây dãy núi Andes thì phát triển những quốc gia thành thị có nền văn hóa cao hơn, tiêu biểu như Đế chế Inca ở Peru.

      Thời kỳ hậu Colombo tại Brazil được tính từ khi  Brasil được khám phá bởi nhà thám hiểm Pedro Álvares Cabral người Bồ Đào Nha vào ngày 22 tháng 4 năm 1500. Một cách vắn tắt, lịch sử Brazil từ thế kỷ 15 cho đến ngày nay được chia thành sáu phân kỳ: 1) Thuộc địa Brasil;  2) Đế chế Brasil; 3) Nền Cộng hòa cũ (1889-1930);  4) Chủ nghĩa dân túy và sự phát triển (1930-1964); 5) Chế độ độc tài quân sự (1964-1985); 6) Brasil từ năm 1985 đến nay. Câu chuyện này đã được kể ởTừ Điển Bách Khoa Mở Wikipedia tiếng Việt, tiếng Anh và tiếng Bồ Đào Nha mục từ Brazil.

      1) Thuộc địa Brasil của Bồ Đào Nha.  Người Bồ Đào Nha thời kỳ đầu khai thác thuộc địa Brazil quan tâm nhất là cây vang (trong tiếng Bồ Đào Nha là Pau-Brasil), một loại cây cung cấp nhựa để làm phẩm nhuộm màu đỏ trong may mặc. Tên gọi Brasil bắt nguồn từ tên của mặt hàng xuất khẩu chủ lực này.  Hoạt động thương mại chính đầu tiên của người Bồ Đào Nha là tổ chức trồng trọt và buôn bán với Trung Quốc, Ấn Độ Indonesia là những nước cần nhiều phẩm nhuộm vải may mặc này.  Người Pháp và Hà Lan cũng muốn lập thuộc địa tại Brasil song cuối cùng đều thất bại trước người Bồ Đào Nha. Sang thế kỉ 17, mía đường dần thay thế cây vang để trở thành mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Brasil. Các quý tộc và chủ đất người Bồ Đào Nha đã lập ra các đồn điền trồng mía rộng lớn và bắt hàng triệu người da đen từ châu Phi sang làm nô lệ làm việc trên các đồn điền này. Người da đen bị đối xử rất khắc nghiệt nên họ đã nhiều lần nổi dậy đấu tranh, mà tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa năm 1835 tại Salvador, Bahia song không thành công.

      2) Thời kỳ đế chế Bồ Đào Nha tại Brazil. Năm 1808, hoàng gia Bồ Đào Nha cùng chính phủ đã di cư đến thủ đô lúc bấy giờ của Brasil là Rio de Janeiro. Đây là sự di cư xuyên lục địa của một hoàng tộc duy nhất trong lịch sử để trốn chạy khỏi sự truy quét của quân đội Napoléon . Năm 1815, vua João VI của Bồ Đào Nha tuyên bố Brasil là một vương quốc hợp nhất với Bồ Đào Nha và Algarve (nay là miền nam Bồ Đào Nha). Brasil từ đó, quyền nhiếp chính vẫn nằm trong tay của Bồ Đào Nha nhưng danh nghĩa thì không còn là một thuộc địa nữa. Năm 1821, con trai ông là Pedro lên nối ngôi vua Brasil khi vua cha João VI trở về Bồ Đào Nha. Ngày 7 tháng 9 năm 1822, Pedro đã tuyên bố thành lập Đế chế Brasil độc lập khi phong trào đấu tranh của người dân Brasil dâng cao đói hỏi ly khai khỏi Bồ Đào Nha “Độc lập hay là Chết”. Vua Pedro tự phong làm Hoàng đế Pedro I của Brasil và thường được biết đến với tên gọi Dom Pedro. Hoàng đế Pedro I trở về Bồ Đào Nha vào năm 1831 do những bất đồng với các chính trị gia Brasil. Con trai ông là vua Pedro II lên ngôi năm 1840 khi mới 14 tuổi sau 9 năm chế độ nhiếp chính. Pedro II đã xây dựng một chế độ quân chủ gần giống nghị viện kéo dài đến năm 1889 khi ông bị phế truất trong một cuộc đảo chính để thành lập nước cộng hòa. Vua Pedro II trước khi kết thúc thời gian cai trị của mình, đã xóa bỏ chế độ chiếm hữu nô lệ tại Brasil vào năm 1888. Đây cũng chính là nguyên nhân khiến ông bị giới chủ nô căm ghét và loại bỏ khỏi ngai vàng.

      3) Nền Cộng hòa cũ (1889-1930)đã phế truất vua và bầu Tổng thống. Vua Pedro II bị phế truất vào ngày 15 tháng 11 năm 1889 trong một cuộc đảo chính quân sự của những người cộng hòa. Tướng Deodero de Fonseca, người lãnh đạo cuộc đảo chính đã trở thành tổng thống trên thực tế đầu tiên của Brasil. Tên của đất nước được đổi thành Cộng hòa Hợp chúng quốc Brasil (đến năm 1967 thì đổi lại thành Cộng hòa Liên bang Brasil như ngày nay). Trong khoảng thời gian từ năm 1889 đến năm 1930, Brasil là một quốc gia với chính phủ theo thể chế dân chủ lập hiến, với chức tổng thống luân phiên giữa hai bang lớn là São Paulo và Minas Gerais. Cuối thế kỉ 19, cũng là thời kỳ lên ngôi của cây cà phê trở thành mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Brasil thay cho mía đường. Việc buôn bán cà phê với nước ngoài đã làm nên sự thịnh vượng của Brasil về mặt kinh tế, đồng thời cũng thu hút một số lượng đáng kể người nhập cư đến từ các quốc gia châu Âu, chủ yếu là Italia và Đức. Dân số tăng lên cùng với nguồn nhân công dồi dào đã cho phép đất nước Brasil phát triển các ngành công nghiệp và mở rộng lãnh thổ vào sâu hơn trong lục địa. Thời kỳ này, với tên gọi là “Nền Cộng hòa cũ” kết thúc năm 1930 do cuộc đảo chính quân sự mà sau đó Getúlio Vargas lên chức tổng thống.

      4) Chủ nghĩa dân túy và sự phát triển (1930-1964) Getúlio Vargas lên nắm quyền sau cuộc đảo chính của giới quân sự năm 1930. Tổng thống Getúlio Vargas đã cai trị Brasil  như một nhà độc tài xen kẽ với những thời kỳ dân chủ  trong suốt hai nhiệm kỳ 1930-1934 và 1937-1945. Chính phủ Brasil sau những năm 1930 vẫn hướng trọng tâm vào các dự án phát triển nông nghiệp, công nghiệp và mở mang vùng lãnh thổ nội địa rộng lớn của Brasil và tiếp tục thành công trong việc tạn dụng sức mạnh nông nghiệp làm giá đở kinh tế cho sự phát triển lành mạnh ít nợ nần.  Tổng thống Getúlio Vargas tiếp tục được bầu làm tổng thống Brasil trong khoảng thời gian 1951-1954. Getúlio Vargas đã có những ý tưởng mới về nền chính trị của Brasil để thúc đẩy hơn nữa sự phát triển đất nước. Ông hiểu rằng trong bối cảnh nền công nghiệp đang phát triển mạnh tại Brasil lúc bấy giờ, những người công nhân sẽ trở thành một thế lực chính trị đông đảo tại đây, kèm theo một hình thức quyền lực chính trị mới – chủ nghĩa dân túy. Nắm bắt được điều đó, tổng thống Vargas đã kiểm soát nền chính trị của Brasil một cách tương đối ổn định trong vòng 15 năm đến khi ông tự tử vào năm 1954. Sau hai giai đoạn độc tài dưới thời tổng thống Getúlio Vargas, nhìn chung chế độ dân chủ đã chiếm ưu thế tại Brasil trong khoảng thời gian 1945-1964. Một trong những sự kiện quan trọng diễn ra trong thời kỳ này là thủ đô của Brasil được chuyển từ thành phố Rio de Janeiro sang thành phố Brasilia.

      5) Chế độ độc tài quân sự (1964-1985).  Xu hướng phát triển ổn định bền vững bị chỉ trích và phản đối mạnh mẽ của các lý thuyết gia và tướng lĩnh tham vọng muốn đẩy nhanh tiến trình tăng trưởng nóng kinh tế. Những khủng hoảng về mặt kinh tế, xã hội đã dẫn tới cuộc đảo chính của giới quân sự vào năm 1964. Cuộc đảo chính đã nhận được sự giúp đỡ của một số chính trị gia quan trọng, ví dụ như José de Magalhães Pinto, thống đốc bang Minas Gerais và nhận được sự hậu thuẫn của chính phủ Mỹ. Rốt cuộc, sau đảo chính, một chính phủ độc tài quân sự được thiết lập tại Brasil trong v&ogrXem tiếp >>

        Dạy và học 4 tháng 11(04-11-2021)


       

       

      DẠY VÀ HỌC 4 THÁNG 11
      Hoàng Kim

      CNM365 Tình yêu cuộc sốngViệt Nam tổ quốc tôi; Du lịch sinh thái Việt; Kho báu đỉnh Tuyết Sơn; Nguồn Son nối Phong Nha; Mái trường bên dòng Gianh; Đến với bài thơ hay; Chùa Một Cột Hà Nội; Nguyễn Trãi Dục Thúy Sơn; Nguyễn Du tâm hồn Việt; Nguyễn Du trăng huyền thoại; Nguyễn Du tư liệu quý; Ta về trời đất Hồng Lam; Những cuốn sách tôi yêu; Nguyễn Trãi kiệt tác thơ văn; Đến với Tây Nguyên mới; Nguyễn Du làm Ngư Tiều; Nguyễn Ngọc Tư sầu riêng; Nhớ thầy Nguyễn Quốc Toàn; Dạy học nghề làm vườn; Hãy để tôi đọc lại; Việt Nam có diện tích 331.698 km², bao gồm khoảng 327.480 km² đất liền và hơn 4.500 km² biển nội thủy, với hơn 2.800 hòn đảo, bãi đá ngầm lớn nhỏ, gần và xa bờ, bao gồm cả Trường Sa và Hoàng Sa mà Việt Nam tuyên bố chủ quyền, có vùng nội thủy, lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa được Chính phủ Việt Nam xác định gần gấp ba lần diện tích đất liền khoảng trên 1 triệu km²; Ngày 4 tháng 11 năm 2002, Tuyên bố về ứng xử các bên ở Biển Đông được ký kết giữa Trung Quốc và các nước thành viên ASEAN tại Phnom Penh. Ngày 4 tháng 11 năm 2008, Barack Obama giành thắng lợi trong kỳ Bầu cử tổng thống, trở thành người Mỹ gốc Phi đầu tiên thắng cử chức vụ này; Ngày 4 tháng 11 năm 2020 Bầu cử tổng thống Mỹ; Bài viết chọn lọc ngày 4 tháng 11 Việt Nam tổ quốc tôi; Du lịch sinh thái Việt; Kho báu đỉnh Tuyết Sơn; Nguồn Son nối Phong Nha; Mái trường bên dòng Gianh; Đến với bài thơ hay; Chùa Một Cột Hà Nội; Nguyễn Trãi Dục Thúy Sơn; Nguyễn Du tâm hồn Việt; Nguyễn Du trăng huyền thoại; Nguyễn Du tư liệu quý; Ta về trời đất Hồng Lam; Những cuốn sách tôi yêu; Nguyễn Trãi kiệt tác thơ văn; Đến với Tây Nguyên mới; Nguyễn Du làm Ngư Tiều; Nguyễn Ngọc Tư sầu riêng; Nhớ thầy Nguyễn Quốc Toàn; Dạy học nghề làm vườn; Hãy để tôi đọc lại; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-4-thang-11/

       

       

      DU LỊCH SINH THÁI VIỆT
      Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim


      Học tiếng Trung và tiếng Việt 学中越文 Tổng quan về Kinh tế Xã hội và Văn hóa Việt Nam 越南社会经济和文化概述 là tập tài liệu giảng dạy và nghiên cứu về du lịch sinh thái Việt, Mục đích nhằm giúp sự giao lưu Việt Nam Trung Quốc về ngôn ngữ văn hóa nông nghiệp và kinh tế xã hội Việc này thật cấp thiết cho một nền tảng học vấn ‘Việt Nam Học’ giản dị, cô đọng. Việt Nam đất nước con người là đất nước tốt đẹp, với con người Việt có phẩm chất văn hóa thân thiện, văn hiến. Người Việt, tiếng Việt, nông nghiệp Việt là ba di sản vô giá của dân tộc Việt luôn được bảo tồn và phát triển.

      Bài này trong hệ thống VIỆT NAM ĐẤT NƯỚC CON NGƯỜI

      Việt Nam tổ quốc tôi
      Việt Nam tâm thế mới
      Việt Nam dư địa chí
      Việt Nam con đường xanh
      Việt Nam thông tin khái quát
      Việt Nam đất nước con người

      Nông nghiệp sinh thái Việt
      Di sản thế giới tại Việt Nam
      Du lịch sinh thái Việt
      Vườn Quốc gia Việt Nam
      Nông nghiệp công nghệ cao
      Nông nghiệp Việt trăm năm
      Ngôn ngữ văn hóa Việt
      Dạo chơi non nước Việt

      Nông nghiệp là một trong ba ngành kinh tế Việt Nam:1) Nông lâm thủy sản; 2) Công nghiệp, bao gồm: khai thác khoáng sản, công nghiệp chế biến, công nghiệp vật liệu xây dựng, sản xuất phân phối khí, điện, nước,…; 3) Thương mại, dịch vụ, tài chính, du lịch, văn hóa, giáo dục, y tế. Tỷ lệ phần trăm các ngành này đóng góp vào tổng GDP, ước tính năm 2015 là: Nông nghiệp 17.4% Công nghiệp 38.8% Dịch vụ 43.7%.

      Nội dung bài Du lịch sinh thái Việt có 7 ý chính: 1) Nông nghiệp là nền tảng của kinh tế Việt Nam. 2) Bảy vùng sinh thái nông nghiệp Việt Nam; 3) Đặc điểm bảy vùng sinh thái nông nghiệp Việt Nam; 4) Hiện trạng tầm nhìn lao động nông nghiệp Việt Nam;  5) Du lịch sinh thái nông nghiệp Việt Nam; 6) Nông nghiệp Việt Nam ngày nay. 7) Việt Nam điểm đến yêu thích của bạn http://hoangkimlong.wordpress.com/category/nong-nghiep-sinh-thai-viet/

      I. Nông nghiệp là nền tảng của kinh tế Việt Nam

      1.1 Người Việt trọng nông 
      Thành ngữ Việt Nam: “dĩ nông vi bản” (lấy nghề nông làm gốc). Nông nghiệp là nền tảng của kinh tế Việt Nam vì đất nước là môi trường sống, thức ăn là căn bản của đời sống con người. Việt Nam là chốn tổ của nền văn minh lúa nước với các di tích khảo cổ về người tiền sử và các nền văn hóa Hòa Bình, Bắc Sơn gần 10.000 năm trước Công nguyên đã chứng tỏ sự xuất hiện của nông nghiệp và chăn nuôi. Nông nghiệp Việt Nam ngày nay đang vượt ra khỏi sản xuất nông nghiệp truyền thống không chỉ tạo ra lương thực thực phẩm cho con người (food) thức ăn cho các con vật (feed) mà còn là nguyên liệu của các ngành công nghiệp may mặc, sợi dệt, chất đốt, cây cảnh và sinh vật cảnh, chất hóa học, cơ giới hóa nông nghiệp,  sinh hóa học nông nghiệp. các loại phân bón, thuốc trừ sâu, diệt cỏ.

      1.2 Ba di sản lớn nhất  Việt Nam
      Người Việt, Tiếng Việt và Nông nghiệp Việt Nam là Ba di sản lớn nhất  Việt Nam cần bảo tồn và phát triển.Việt Nam là đất nước của 54 dân tộc (và 1 nhóm “người nước ngoài”, trong
      Danh mục các dân tộc Việt Nam, theo Quyết định số 421, ngày 2/3/1979 Tổng cục Thống kê).

      Người Việt chủ yếu là dân tộc Kinh (chiếm 86,2 % dân số) sinh sống trên khắp toàn thể nước Việt Nam và một số nước khác nhưng đông nhất vẫn là các vùng đồng bằng và thành thị trong nước. Người Kinh sống rải rác trên khắp lãnh thổ Việt Nam, nhưng tập trung nhiều nhất ở các đồng bằng và châu thổ các con sông. 53 dân tộc Việt Nam thiểu số còn lại sinh sống chủ yếu ở miền núi và trung du, trải dài từ Bắc vào Nam; hầu hết trong số họ sống xen kẽ nhau, điển hình là cộng đổng dân tộc thiểu số ở phía Bắc và Bắc Trung Bộ. Các dân tộc thiểu số đông dân và có số lượng dao động trên dưới một triệu người gồm Tày, Thái, Mường, Khmer, H’Mông,  Nùng, Hoa, người Dao, Gia Rai, Ê Đê, Chăm, Sán Dìu, Ra Glai,  Đa số các dân tộc này sống ở miền núi và vùng sâu vùng xa ở miền Bắc, Tây Nguyên, miền Trung và đồng bằng sông Cửu Long. Các dân tộc dân số ít nhất chỉ trên 300 người như Brâu, Ơ đu và Rơ Măm.  Các dân tộc thiểu số có trình độ phát triển không đồng đều. Ở Trung du và miền núi phía Bắc, các cư dân ở vùng thấp như Mường, Thái, Tày, Nùng sinh sống chủ yếu bằng canh tác lúa nước và nương rẫy, chăn nuôi gia súc và gia cầm, có một phần hái lượm, săn bắn, có nghề thủ công khá tinh xảo. Các dân tộc thiểu số ở phía Nam sống biệt lập hơn. Các dân tộc thiểu số ởTây Nguyên phần lớn sống theo tổ chức buôn-làng, kiếm sống dựa vào thiên nhiên mang tính tự cung tự cấp. Người dân tộc Chăm, Hoa và Khmer sống ở vùng duyên hải miền Trung và Nam Bộ có trình độ phát triển cao hơn, tạo thành những cụm dân cư xen kẽ với người Kinh.  Tất cả các nhóm dân tộc đều có nền văn hóa riêng biệt và độc đáo. Tín ngưỡng và tôn giáo của các dân tộc cũng khác biệt.

      Tiếng Việt là ngôn ngữ chính tiếng nói theo nhóm Việt-Mường Ngôn ngữ Việt gồm 8 nhóm tiếng nói: Việt-Mường; Tày-Thái; Dao-Hmông; Tạng-Miến; Hán; Môn-Khmer; Mã Lai-Đa đảo: hỗn hợp Nam Á, khác).

      Nông nghiệp Việt Nam là môi trường sống và nôi văn hóa Việt. Người Việt bản địa là chủ nhân của nền văn hóa thời đồ đá tại Việt Nam từ 7.000 -20.000 năm trước. Người Việt là chủ nhân của tiếng Việt và nền văn minh lúa nước, chốn tổ của nghề trồng lúa nước trên thế giới. Các dân tộc Việt khác với cộng đồng ít người hơn có nguồn gốc thiên di từ Tây Tạng, Hoa Nam,… di cư đến Việt Nam sau thời kỳ đồ đá muộn.

      1.3. Nông nghiệp Việt Nam là sớm nhất, căn bản nhất, giá đỡ của kinh tế Việt
      Quá trình hình thành dân tộc và nông nghiệp Việt Nam theo các tài liệu phổ biến trong thế kỷ XX thì có thể chia thành ba giai đoạn:

      1. Vào thời kỳ đồ đá giữa khoảng 20.000-10.000 năm trước, có một bộ phận thuộc Đại chủng Á, sống ở tiểu lục địa Ấn Độ di cư về phía đông, tới vùng ngày nay là Đông Dương thì dừng lại. Tại đây, bộ phận của Đại chủng Á kết hợp với bộ phận của Đại chủng Úc bản địa và kết quả là sự ra đời của chủng Cổ Mã Lai.
      2. Cuối thời kỳ đồ đá mới, đầu thời kỳ đồ đồng khoảng 5.000 năm trước, chủng Cổ Mã Lai tiếp xúc thường xuyên với Đại chủng Á từ phía bắc tràn xuống,  hình thành chủng Nam Á
      3. Chủng Nam Á tại khu vực bắc Việt Nam và nam Trung Quốc (từ sông Dương Tử trở xuống) mà cổ thư Việt Nam và Trung Hoa gọi là Bách Việt. Ban đầu, họ nói một số thứ tiếng như: Môn-Khmer, Việt-Mường, Tày-Thái, H’Mông-Dao,… Sau này quá trình chia tách này tiếp tục để hình thành nên các dân tộc và các ngôn ngữ như ngày nay. Phía nam Việt Nam, dọc theo dải Trường Sơn, trong khi đó, vẫn là địa bàn cư trú của người Cổ Mã Lai. Theo thời gian họ chuyển biến thành chủng Nam Đảo. Đó là tổ tiên của các dân tộc thuộc nhóm Chăm. Người Việt theo truyền thuyết dân tộc Kinh là con cháu của một thần rồng tên là Lạc Long Quân và một vị tiên tên là Âu Cơ. Hai người này lấy nhau và đẻ ra một bọc 100 trứng và nở ra 100 người con. Những người con sinh ra cùng một bọc gọi là “cùng bọc” (hay còn gọi là đồng bào) và “đồng bào” là cách gọi của người Việt để nói rằng tất cả người Việt Nam đều cùng có chung một nguồn gốc. Về nhân chủng học, có ba luồng quan điểm về nguồn gốc của người Việt. Các nhà nghiên cứu văn hóa lịch sử khảo cổ học Việt Nam với dẫn liệu trống đồng và nỏ thần, các di chỉ khảo cổ tin rằng người Việt đầu tiên có gốc bản địa . Một số học giả khác thì truy nguyên nguồn gốc và cho rằng tộc iệt khởi đầu dần dần Một số học giả tin rằng người Việt đầu tiên dần dần chuyển từ quần đảo Indonesia thông qua bán đảo Mã Lai và Thái Lan cho đến khi họ định cư trên các cạnh của sông Hồng ở Đồng bằng Bắc Bộ bằng cách lần theo con đường của các công cụ đá từ cuối Thế Pleistocen (600,000-12,000 trước Công nguyên), trên Java, Malaysia, Thái Lan và phía bắc Miến Điện. Những công cụ bằng đá được cho là các công cụ con người đầu tiên được sử dụng trong khu vực Đông Nam Á. Các nhà khảo cổ tin rằng vào thời điểm này Hy Mã Lạp Sơn, một dãy núi ở miền bắc Miến Điện và Trung Quốc, tạo ra một rào cản băng giá cô lập người dân Đông Nam Á. Một số khác cho rằng người Việt đầu tiên vốn là một bộ tộc gốc Mông Cổ ở Tây Tạng, di cư xuống phía nam từ thời đồ đá cũ. Nhóm dân tộc này định cư tại vùng Bắc Bộ, thượng nguồn sông Hồng ngày nay và tạo nên nền văn minh Đông Sơn. Nhóm bộ tộc này cũng có sự tương đồng rất lớn về nhân chủng, văn hóa với các tộc người ở phía Nam Trung Quốc, mà sử Trung Quốc còn gọi là cộng đồng Bách Việt.

      Tiếng Việt là ngôn ngữ của người Việt (người Kinh) và là ngôn ngữ chính thức tại Việt Nam. Đây là tiếng mẹ đẻ của khoảng 85% dân cư Việt Nam, cùng với hơn bốn triệu người Việt hải ngoại. Tiếng Việt còn là ngôn ngữ thứ hai của các dân tộc thiểu số tại Việt Nam. Mặc dù tiếng Việt có một số từ vựng vay mượn từ tiếng Hán và trước đây dùng chữ Nôm, một hệ chữ dựa trên chữ Hán để viết nhưng tiếng Việt được coi là một trong số các ngôn ngữ thuộc ngữ hệ Nam Á có số người nói nhiều nhất (nhiều hơn một số lần so với các ngôn ngữ khác cùng hệ cộng lại) có nguồn gốc với ngôn ngữ Nam Á về mặt từ vựng kết hợp với ngôn ngữ Tày-Thái về mặt thanh điệu. Ngày nay, tiếng Việt dùng bảng chữ cái Latinh, gọi là chữ Quốc ngữ (do Alexandre de Rhodes sáng lập), cùng các dấu thanh để viết.  Tiếng Việt trong quá trình phát triển đã tiếp thu và đồng hoá nhiều từ Hán thành từ Hán-Việt, và tiếp thu một số lượng khá lớn các từ khoa học kỹ thuật của các ngôn ngữ Pháp, Nga, Anh từ đầu thế kỷ 20 đến nay.

       

       


      Người
      Việt, tiếng Việt và ngữ hệ Nam Á (Hoàng Tố Nguyên và ctv. 2018).
      Ngữ hệ Nam Á là một tổng hợp bao gồm khoảng 168 ngôn ngữ tại miền nam của châu Á, tập trung tại Đông Nam Á và rải rác tại Ấn Độ cùng Bangladesh. Ngôn ngữ có nhiều người dùng nhất trong hệ thống này là tiếng Việt, với trên 80 triệu người, sau đó là tiếng Khmer, với khoảng 16 triệu người. Trong các ngôn ngữ của ngữ hệ Nam Á  thì  tiếng Việt, tiếng Khmer và tiếng Môn là có lịch sử được ghi chép lại lâu dài và tiếng Việt là ngôn ngữ chính thức tại Việt Nam.

      Nông nghiệp Việt Nam gắn liền với Lịch sử Việt Nam. Người Việt tiền sử sinh sống tại đất Việt thì đã có hàng vạn năm trước công nguyên, còn tính từ khi cơ cấu nhà nước được hình thành thì khoảng từ năm 2879 TCN đến nay (năm 2018) là 4897 năm (gần 5000 năm) Tại Việt Nam các nhà khảo cổ đã tìm thấy các di tích chứng minh loài người đã từng sống từ nền văn hóa Tràng An, Ngườm, Sơn Vi và Soi Nhụ thời kỳ Đồ đá cũ. Trong nền văn hóa Hòa Bình, văn hóa Bắc Sơn thời kỳ Đồ đá mới; văn hóa Phùng Nguyên ở xã Kinh Kệ huyện Lâm Thao tỉnh Phú Thọ thuộc sơ kỳ thời đại đồ đồng, cuối thời đại đồ đá mới, cách đây chừng 4.000 năm đến 3.500 năm; Văn hóa Đồng ĐậuVăn hóa Gò Mun ở thời đại đồ đồng, cách đây khoảng 3000 năm, di chỉ tại khu di tích Đồng Đậu ở thị trấn Yên Lạc, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc, người tiền sử tại vùng này đã phát triển chăn nuôi, nông nghiệp, đặc biệt là kỹ thuật trồng lúa nước.Văn hóa Đông Sơn, Văn hóa Sa Huỳnh, và Văn hóa Óc Eo khoảng 1200 TCN, cách ngày nay 3218 năm, đã có sự phát triển của kỹ thuật trồng lúa nước và đúc đồ đồng trong khu vực sông Mã và đồng bằng sông Hồng đã dẫn đến sự phát triển của nền văn hóa Đông Sơn, nổi bật với các trống đồng. Các vũ khí, dụng cụ và trống đồng được khai quật của văn hóa Đông Sơn minh chứng cho việc kỹ thuật đúc đồ đồng bắt nguồn từ đây, nhiều mỏ đồng nhỏ xưa đã được khai quật ở miền Bắc Việt Nam. Ở đây các nhà khảo cổ đã tìm thấy quan tài và lọ chôn hình thuyền, nhà sàn, và bằng chứng về phong tục ăn trầu và nhuộm răng đen. Những người Việt tiền sử trên vùng đồng bằng sông Hồng đã trồng lúa, trồng trọt và đắp đê chống nước lụt đã tạo nên nền văn minh lúa nước và văn hóa làng xã.

       

       

      Nhà nước Văn Lang của các vua Hùng người Việt đã xuất hiện nhà nước đầu tiên trên miền Bắc Việt Nam ngày nay vào thời kỳ đồ sắt, vào khoảng thế kỷ VII TCN với truyền thuyết Con Rồng cháu Tiên mà người Việt Nam tự hào truyền miệng từ đời này qua đời khác.

      Nông nghiệp Việt Nam là căn bản nhất, giá đỡ của kinh tế Việt, hiển nhiên đến mức mọi người dân Việt đều hiểu, không cần phải phân tích.

      II. Bảy vùng sinh thái nông nghiệp Việt Nam

      Nông nghiệp Việt Nam liên quan chặt chẽ với bảy vùng sinh thái nông nghiệp:

      1. Vùng núi và trung du phía Bắc, có tiểu vùng Tây Bắc gồm 4 tỉnhLai Châu, Điện Biên, Sơn La, Hoà Bình., với tiểu vùng Đông Bắc: gồm 11 tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Quảng Ninh, Bắc Giang, Lào Cai, Yên Bái, Hà Giang, Tuyên Quang, Phú Thọ.
      2. Vùng đồng bằng sông Hồng: gồm 11 tỉnh Hải Phòng, Hải Dương, Bắc Ninh, Hưng Yên, Hà Nội, Hà Tây, Thái Bình, Nam Định, Hà Nam, Ninh Bình, Vĩnh Phúc.
      3. Vùng Bắc Trung bộ: gồm 6 tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên – Huế.
      4. Vùng Nam Trung bộ: gồm 6 tỉnh Đà Nẵng,Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà.
      5. Vùng Tây Nguyên: gồm 5 tỉnh Lâm Đồng, Đắk Nông, Đắc Lắc, Gia Lai, Kon Tum.
      6. Vùng Đông Nam bộ: gồm 8 tỉnh Đồng Nai, Bình Dương, Bình Phước, Tây Ninh, Thành phố Hồ Chí Minh, Ninh Thuận, Bình Thuận, Bà rịa – Vũng Tàu.
      7. Vùng Tây Nam bộ: gồm 13 tỉnh Long An, Bến Tre, Đồng Tháp, Sóc Trăng, Vĩnh Long, Cần Thơ, Hậu Giang, Tiền Giang, Bạc Liêu, Cà Mau, Kiên Giang, An Giang, Trà Vinh.

       

       

      III. Đặc điểm bảy vùng sinh thái nông nghiệp Việt Nam

      1. Vùng núi và trung du phía Bắc có đặc điểm sinhXem tiếp >>

          Dạy và học 3 tháng 11(03-11-2021)


        DẠY VÀ HỌC 3 THÁNG 11
        Hoàng Kim
        CNM365 Tình yêu cuộc sốngChùa Một Cột Hà Nội; Nguyễn Trãi Dục Thúy Sơn; Nguyễn Du tâm hồn Việt; Nguyễn Du trăng huyền thoại; Nguyễn Du tư liệu quý; Ta về trời đất Hồng Lam; Những cuốn sách tôi yêu; Nguyễn Trãi kiệt tác thơ văn; Đến với Tây Nguyên mới; Nguyễn Du làm Ngư Tiều; Nguyễn Ngọc Tư sầu riêng; Nhớ thầy Nguyễn Quốc Toàn; Dạy học nghề làm vườn; Hãy để tôi đọc lại; Ngày 3 tháng 11 năm 1054, Thái tử Lý Nhật Tôn lên ngôi, hiệu là Lý Thánh Tông, Hoàng đế thứ 3 Nhà Lý, Việt Nam. Ông nổi tiếng là một minh quân đức độ, tận tụy công việc, thương dân như con, đối xử tốt với tù nhân. Công lao của ông là đặt quốc hiệu Đại Việt, xây dựng Văn Miếu, phá Tống (1060), bình Chiêm (1069), lấy được ba châu của Chiêm Thành. Ngày 3 tháng 11 năm 1054, ngày mất Lý Thái Tông, Hoàng đế thứ 2 Nhà Lý, Việt Nam (sinh năm 1000). Ông là vị hoàng đế tài giỏi, nhân hậu, thời đại thịnh vượng của Nhà Lý trao truyền cho đời sau. Ngày 3 tháng 11 năm 1967, bắt đầu Trận Đắk Tô tại Kon Tum trong Chiến tranh Việt Nam; Bài viết chọn lọc ngày 3 tháng 11: Chùa Một Cột Hà Nội; Nguyễn Trãi Dục Thúy Sơn; Nguyễn Du tâm hồn Việt; Nguyễn Du trăng huyền thoại; Nguyễn Du tư liệu quý; Ta về trời đất Hồng Lam; Những cuốn sách tôi yêu; Nguyễn Trãi kiệt tác thơ văn; Đến với Tây Nguyên mới; Nguyễn Du làm Ngư Tiều; Nguyễn Ngọc Tư sầu riêng; Nhớ thầy Nguyễn Quốc Toàn; Dạy học nghề làm vườn; Hãy để tôi đọc lại; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-3-thang-11/

        CHÙA MỘT CỘT HÀ NỘI
        Hoàng Kim

        Chuông chùa tiếng vọng thời gian
        Trăng rằm cổ tích chứa chan nghĩa tình
        Thung dung tìm đến an lành
        Gương trời hồn Việt tinh anh giống nòi.

        Đường trần bước tới thảnh thơi
        Về nơi tịch lặng nghe hơi thở thiền
        Cúi đầu trước đấng thiêng liêng
        Ngàn năm tích cũ hóa duyên cầu Người

        An nhiên minh triết giữa đời
        Bình yên cao quý mọi thời nước non
        Ân tình tiếng mẹ ru con
        Giấc mơ hạnh phúc lòng son đá vàng.

        Chuông chùa tiếng vọng thời gian
        Trăng rằm cổ tích chứa chan nghĩa tình …

        Video yêu thích
        https://www.youtube.com/embed/AqQQO4BJM3Y?version=3&rel=1&showsearch=0&showinfo=1&iv_load_policy=1&fs=1&hl=vi&autohide=2&wmode=transparent

        Chùa Một Cột Hà Nội, Việt Nam
        Vietnam Travel TV xuất bản 19 thg 4, 2015

        Khám phá Hà Nội | Chùa Một Cột. Khi nói tới Hà Nội, nhiều người nghĩ tới Hồ Gươm, đền Ngọc Sơn với cây cầu Thê Húc, hồ Tây lộng gió, hay Văn Miếu Quốc Tử Giám với truyền thống hiếu học. Song chùa Một Cột mới là biểu tượng được nhiều người nhắc đến mỗi khi hình dung về Hà Nội.Chùa Một Cột trở thành biểu tượng từ nhiều chất liệu khác nhau từ tranh vẽ trên giấy, trạm khắc tranh đồng đến những đồ lưu niệm bằng gỗ, đá, tranh thêu …và đặc biệt hơn là trở thành một biểu tượng trong đồng tiền xu Việt Nam. Sự độc đáo của kiến trúc chùa Một Cột là toàn bộ ngôi chùa được đặt trên một cột đá trong hồ nước được coi là biểu tượng của thủ đô Hà Nội ngàn năm văn hiến. Một ngôi chùa tưởng như rất nhỏ bé mong manh, có lẽ cả thế giới chỉ Việt Nam mới có ngôi chùa kiến trúc siêu nhỏ như vậy nhưng giá trị văn hóa, lịch sử vô cùng to lớn, lại trường tồn cùng dân tộc. Một ngôi chùa giữa hồ nước chỉ đủ chỗ cho mấy bát hương, một pho tượng, không tường hào, không tháp chuông, không cổng tam quan nhưng vẫn uy nghiêm trong tâm linh dân tộc, là hình ảnh đặc trưng của thủ đô, vững vàng trong dòng thời gian bất tận. Bộ phim ” Chùa Một Cột, biểu tượng của thủ đô” giúp chúng ta hiểu rõ hơn.
        https://www.youtube.com/embed/GGo8QrsDoaM?version=3&rel=1&showsearch=0&showinfo=1&iv_load_policy=1&fs=1&hl=vi&autohide=2&wmode=transparent

        Ký ức Hà Nội

        NGUYỄN TRÃI DỤC THÚY SƠN
        Hoàng Kim

        Qua Non Nước Ninh Bình
        Nhớ thơ hay Nguyễn Trãi
        Người hiền in bóng núi
        Hoàng Long sông giữa lòng:

        “Cửa biển có non tiên
        Năm xưa thường lại qua
        Hoa sen nổi trên nước
        Cảnh tiên rơi cõi trần


        Bóng tháp xanh trâm ngọc
        Tóc mây biếc nước lồng
        Nhớ hoài Trương Thiếu Bảo
        Bia cổ hoa rêu phong”


        Dục Thuý sơn
        Nguyễn Trãi

        Hải khẩu hữu tiên san,
        Niên tiền lũ vãng hoàn.
        Liên hoa phù thuỷ thượng,
        Tiên cảnh truỵ nhân gian.


        Tháp ảnh, trâm thanh ngọc,
        Ba quang kính thuý hoàn.
        Hữu hoài Trương Thiếu Bảo (*),
        Bi khắc tiển hoa ban.

        (*) Trương Hán Siêu “Phú sông Bạch Đằng” đã thuật lại cuộc chiến sông Bạch Đằng nơi voi chiến sa lầy rơi nước mắt và lời thề trên sông Hóa 1288 của Hưng Đạo Vương. Lời thơ hào hùng bi tráng: “Thuyền bè muôn đội, tinh kỳ phấp phới/ Hùng dũng sáu quân, giáo gươm sáng chói/ Trận đánh được thua chửa phân/ Chiến lũy bắc nam đối chọi/ Tất Liệt thế cường, Lưu Cung chước dối/ Những tưởng gieo roi một lần/ Quét sạch Nam bang bốn cõi/ Trời cũng chiều người/ Hung đồ hết lối!”

        Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải viết: ‘Thái bình tu nổ lực/ Vạn cổ thử giang san”.

        (**) Dục Thuý sơn 浴翠山 • Núi Dục Thuý nguyên văn chữ Hán (Nguồn: Thi Viện) Thơ » Việt Nam » Hậu Lê, Mạc, Trịnh-Nguyễn » Nguyễn Trãi » Ức Trai thi tập » Thơ làm sau khi thành công và làm quan ở triều

        浴翠山

        海口有仙山,
        年前屢往還。
        蓮花浮水上,
        仙景墜塵間。
        塔影針青玉,
        波光鏡翠鬟。
        有懷張少保,
        碑刻蘚花斑。


        (***) Lương Hữu Khánh danh nhân Việt làm bài thơ (Nho Tăng đồng chu) “Cùng qua một chuyến đò”, nghe nói tại bến đò nơi này
        http://thovanhoangkim.blogspot.com/2014/10/luong-huu-khanh-danh-nhan-viet.html .

        CÙNG QUA MỘT CHUYẾN ĐÒ
        Lương Hữu Khánh


        Một hòm kinh sử, níp kim cương.
        Người, tớ cùng qua một chuyến dương.
        Đám hội đàn chay người đủng đỉnh.
        Sân Trình cửa Khổng tớ nghênh ngang.
        Sao người chẳng nhớ lời Hàn Dũ.
        Đây tớ còn căm chuyện Thủy Hoàng.
        Một chốc lên bờ đà tiễn biệt.
        Người thì lên Phật, tớ nên sang.

        Đây là bài thơ “Nho Tăng đồng chu” rất nổi tiếng của Lương Hữu Khánh, hiện đã có nhiều bản dịch về bài thơ này nhưng dịch lý và ý tứ bản gốc thật sâu sắc, cần đọc lại và suy ngẫm (Linh Giang, ảnh HK chỉ dùng để minh họa). Lương Hữu Khánh Thượng thư Bộ Lễ thời Lê Trung hưng, con của Tả Thị lang Bộ Lại Bảng nhãn Lương Đắc Bằng, nhà dịch lý thông tuệ thầy học của Nguyễn Bỉnh Khiêm , người làng Lạch Triều, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Lương Hữu Khánh là học trò của Nguyễn Bỉnh Khiêm, được vợ chồng thầy học biệt đãi như con đẻ cho ở trong nhà. Ông đã yêu con gái lớn của Trạng Trình. Do cha của ông có những uẩn khúc với triều đình và đã qua đời, mẹ là thiếp làm nghề buôn bán sinh ông ở Thăng Long, đường khoa cử và lập gia đình của ông trắc trở. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã tùy duyên mà gả con gái cho Phó Vệ uý Hầu tước Phạm Dao. Lương Hữu Khánh đã buồn rầu bỏ thi Đình của nhà Mạc để về Thanh Hóa khởi nghiệp trung hưng nhà Lê. Lương Hữu Khánh tính tình cương trực, thanh liêm, giản dị, an nhiên, nếp sống thanh cao, hào sảng, nối được chí hướng của cha, luôn gìn giữ truyền thống gia phong, tôn trọng đạo đức. Lương Hữu Khánh là nhân vật trọng yếu của triều đình nhà Lê. Ông đã cùng với chúa Trịnh Tùng, vị tiết chế tài năng, có tầm nhìn xa rộng và Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan, nhà quân sư tài danh và ngoại giao lỗi lạc, đã nối được chí hướng của thầy học Nguyễn Bỉnh Khiêm, lấy yêu dân và vận nước làm trọng, để nỗ lực tôn phù vua sáng, thay đổi được cục diện chiến tranh Lê-Mạc kéo dài.

        Hoàng Kim
        (Nguyễn Trãi Dục Thúy Sơn , bài đã đăng trên Wikipedia tiếng Việt bản đầu tiên,
        Lương Hữu Khánh, sau này đã có nhiều chỉnh lý) — cùng với
        Nguyễn Tử Siêm.

        Nguyễn Du trăng huyền thoại
        NGUYỄN DU NIÊN BIỂU LUẬN
        Hoàng Kim

        bàn luận với
        Phan Lan Hoa về hành trạng Nguyễn Du. Tôi giới thiệu chùm chuyên luận gồm Nguyễn Du thơ chữ Hán; Nguyễn Du tư liệu quý;Nguyễn Du niên biểu luận; Nguyễn Du Hồ Xuân Hương; Nguyễn Du Nguyễn Công Trứ; Nguyễn Du thời Tây Sơn;’ Nguyễn Du làm Ngư Tiều; Nguyễn Du thời nhà Nguyễn; Nguyễn Du tiếng tri âm; Nguyễn Du trăng huyền thoại; với sự bàn luận chi tiết từng đề mục và theo sát từng năm của Nguyễn Du niên biểu luận với sự tâm đắc khách quan, trường kỳ, hệ thống, toàn diện, để soi tỏ sự thật.. Nguyễn Du không chỉ là nhà thơ lớn, danh nhân văn hóa thế giới mà thật sự là danh sĩ tinh hoa, minh sư, hiền tài lỗi lạc, vượt lên vinh nhục bản thân giữa thời nhiễu loạn, vàng lầm trong cát để trao lại ngọc cho đời. “Nguyễn Du là người rất mực nhân đạo trong một thời đại ít nhân đạo” nhà văn Pháp Joocjo Budaren đã nói vậy. Nguyễn Du chí thiện, nhân đạo, minh triết, mẫu hình con người văn hóa tương lai. Truyện Kiều của Nguyễn Du đã thấm sâu vào hồn Việt và lan tỏa khắp thế giới. Kiều Nguyễn Du là bài học tâm tình hồn Việt. Nguyễn Du với chứng cứ là sách “Bắc hành” và “Truyện Thúy Kiều” đã được minh chứng trong chính sử Đại Nam chính biên liệt truyện, mục Nguyễn Du Quyển 20, tập 2, trang 400/716 trang, với bằng chứng thứ hai là Minh Mệnh ngự phê tổng thuyết “Truyện Thúy Kiều” năm 1830, đủ bằng cớ không thể chối cãi ông là tác giả của HAI SÁCH NGOẠI GIAO LỊCH SỬ VĂN HÓA NÀY. Nguyễn Du trăng huyền thoại Đi săn ở núi Hồng Thời Hồng Sơn Liệp Hộ ẩn ngữ giữa đời thường là một phần trong chuyên khảo đó. Linh Nhạc Phật Ý thiền sư tại Tổ Đình ngôi chùa cổ ở Thủ Đức, người đã cứu thoát Nguyễn Vương trong giấc mơ lạ “Nguyễn Du nửa đêm đọc lại”. Cụ đã khuyên tôi phải dành thời gian soát xét rất kỹ lập hồ sơ “Nguyễn Du niên biểu luận” cuộc đời và thời thế Nguyễn Du theo từng năm , trước khi đi sâu tìm hiểu và bàn luận bất cứ điều gì về Nguyễn Du. Theo lý giải của Cụ, là có lần tìm theo đúng dấu vết hàng năm của Nguyễn Du, theo đúng thời thế đã xảy ra và chi phối những sự kiện trọng yếu ấy, thì mới có thể hiểu đúng sự thật và huyền thoại về bình sinh và hành trạng Nguyễn Du. Khi xác minh được những sự kiện chính tại đàng Trong, đàng Ngoài và các nước liên quan trong mối quan hệ của gia tộc Nguyễn Du với phép quy chiếu lấy chính Nguyễn Du làm trung tâm thì thông tin ấy sẽ thực sự có ích để bổ sung các dẫn liệu về lịch sử, văn hóa, con người cho bối cảnh hình thành kiệt tác Truyện Kiều, giúp thấu hiểu ẩn ngữ “300 năm nữa chốc mòng biết ai thiên ha khóc cùng Tố Như”.

        Thông tin
        Nguyễn Du trăng huyền thoại tại https://hoangkimlong.wordpress.com/category/nguyen-du-trang-huyen-thoai/ Tác phẩm này bao gồm chín bài, mục lục như sau: 1 Nguyễn Du thơ chữ Hán Kiếm bút thấu tim Người, Đấng danh sĩ tinh hoa, Nguyễn Du khinh Thành Tổ, Bậc thánh viếng đức Hòa 2 Nguyễn Du tư liệu quý Linh Nhạc thương người hiền, Trung Liệt đền thờ cổ, “Bang giao tập” Việt Trung, Nguyễn Du niên biểu luận 3 Nguyễn Du Hồ Xuân Hương “Đối tửu” thơ bi tráng, “Tỏ ý” lệ vương đầy, Ba trăm năm thoáng chốc, Mại hạc vầng trăng soi. 4 Nguyễn Du Nguyễn Công Trứ Uy Viễn “Vịnh Thúy Kiều”, Tố Như “Đọc Tiểu Thanh”, Bến Giang Đình ẩn ngữ, Thời biến nhớ người xưa. 5 Nguyễn Du thời Tây Sơn Mười lăm năm tuổi thơ, Mười lăm năm lưu lạc, Thời Hồng Sơn Liệp Hộ, Tình hiếu thật phân minh 6 Nguyễn Du làm Ngư Tiều Câu cá và đi săn, Ẩn ngữ giữa đời thường, Nguyễn Du ức gia huynh, Hành Lạc Từ bi tráng 7 Nguyễn Du thời nhà Nguyễn Mười tám năm làm quan, Chính sử và Bài tựa, Gia phả với luận bàn. Bắc hành và Truyện Kiều 8 Nguyễn Du tiếng tri âm Hồ Xuân Hương là ai, Kiều Nguyễn luận anh hùng, Thời Nam Hải Điếu Đồ, Thời Hồng Sơn Liệp Hộ 9 Nguyễn Du trăng huyền thoạiĐi thuyền trên Trường Giang,Tâm tình và Hồn Việt, Tấm gương soi thời đại. Mai Hạc vầng trăng soi,

        Mục từ NGUYỄN DU trong Bách Khoa Thư Việt Nam (BKTVN) ngày nay do Phó Thủ Tướng Vũ Đức Đam và Hội đồng biên tập BKTVN chủ trì biên soạn. Wikipedia Tiếng Việt là Từ Điển Bách Khoa Mở cũng đều chủ trương có 3-5 câu Tổng thuyết ngắn về mỗi nhân vật lịch sử cần viết, để tiếp tục làm sáng tỏ cho sự đánh giá tiếp theo và giúp bạn đọc dễ theo dõi không làm mất thì giờ. Phó giáo sư Đào Thế Anh và giáo sư Nguyễn Tử Siêm là tân và cựu Trưởng ban của BKTVN tập 9 Nông nghiệp và Thủy lợi hẳn đồng tình với cách nghĩ như vậy chứ ạ. Bởi nghiên cứu địa lý học lịch sử và danh nhân văn hóa thì phương pháp tiếp cận cũng là phương pháp nghiên cứu khoa học liên ngành. Hoàng Kim đồng tình với o Phan Lan Hoa là “Chỉ khi đúc kết rồi viết cảm tưởng sau chưa muộn ạ” nhưng tôi phải nêu trước những ý này để tránh lan man dài dòng và tránh sự hiểu lầm cho tác giả bài viết là tôi tuyệt nhiên không muốn tranh cãi với ai cả, mà chỉ duy nhất quan tâm soi thấu sự thật lịch sử mà thôi.

        Phan Lan Hoa bạn tiếp tục viết đi, người đọc kỹ, soi kỹ như bạn là thật quý hiếm lắm đấy. Thầy giáo Nhà văn Nguyễn Thế Quang người viết sách tiểu thuyết lịch sử Nguyễn Du ngày 1 tháng 11 năm 2020 đã viết bài ” Một số vấn đề tồn tại của văn bản Truyện Kiều” đã chỉ ra thực trạng “Những người quan tâm đến điều này trước đây đã tìm được câu trả lời trong Đại Nam chính biên liệt truyện do Quốc Sử quán Triều Nguyễn biên soạn, ở quyển 20 (truyện các quan mục XVII), phần Nguyễn Du ghi rõ: “Du trường ư thi, vưu thiện quốc âm, Thanh sứ hoàn dĩ Bắc hành thi tập cập Thúy Kiều hành thế” (Du rất giỏi về thơ và thơ quốc âm rất hay, khi sang sứ nước Thanh về có tập thơ Bắc hành và truyện Thúy Kiều ra đời). Rõ ràng đây là sự khẳng định của tổ chức quản lý nhà nước cao nhất của Nguyễn Du. Nhiều người tin vào điều đó. Thế nhưng từ năm 1943, học giả Đào Duy Anh bắt đầu đặt lại vấn đề Nguyễn Du viết Đoạn trường tân thanh vào lúc nào đăng trên tạp chí Tri Tân số 96, ngày 20/5/1943. Từ đó đến nay có nhiều người tìm các dấu hiệu từ văn bản Truyện Kiều nêu lên nhiều giả thuyết dự đoán Nguyễn Du sáng tác Truyện Kiều ở những thời điểm khác nhau mà ngày càng không thống nhất, càng rối thêm. Hoàng Kim thì tin rằng cụ Đào Duy Anh là rất cẩn trọng khoa học nhưng khối thông tin Nhà Nguyễn đang giải mã với sự thật lịch sử ngày một rõ hơn giúp chúng ta xác nhận rõ hơn các chứng cứ sự thật mà thời trước chưa thể sáng tỏ. Và, PGS TS Nguyễn Hữu Sơn, Viện Văn học cũng có bài viết “Tiếp nhận Truyện Kiều thời Đổi mới” khuyến khích một góc nhìn đa chiều, tiếp tục khai thác sâu hơn các chứng cứ sự thật http://tuyengiao.vn/van-hoa-xa-hoi/van-hoa/tiep-nhan-truyen-kieu-thoi-doi-moi…

        Phan Lan Hoa đọc bài HÀNH LẠC TỪ NGUYỄN DU mà thấu hiểu cái cô đơn ngược lường của nữ sĩ. Bạn đừng buồn . Người đọc nhiều người biết lắng nghe và nhận biết. Mình dường như thấy rằng trong tứ thơ này Nguyễn Du có đối thoại với Ngô Thì Nhậm. Thời điểm này Ngô Thì Nhậm đã rời bỏ Nhà Tây Sơn để tu Phật. Mời bạn đọc bình luận của mình với Ngô Thì Nhậm ở góc nhìn Nguyễn Du niên biểu luận (dưới ý này) HÀNH LẠC TỪ Nguyễn Du Trên núi có hoa đào tươi đẹp như tấm lụa đỏ,sáng sớm còn đùa giỡn với màu xuân đẹp,chiều tối đã nằm giữa bùn lầy.Hoa đẹp không được trăm ngày, người sống lâu mấy ai trăm tuổi, chuyện đời lắm đổi thay, kiếp phù sinh nên cứ vui chơi.Trên tiệc có gái đẹp như hoa, trong vò có rượu quý như nổi sóng vàng, tiếng thúy quản, tiếng ngọc tiêu (tiếng kèn, tiếng sáo) khi mau khi chậm,được dịp hát to cứ hát to.Người không thấy ông Vương Nhung cầm thẻ ngà, ngày nào cũng tính toán mà trong bụng vẫn thấy chưa đủ. Đài Tam công cũng đổ, cây mận ngon cũng chết, bạc vàng tiêu tan cho người khác hưởng.Lại không thấy ông Phùng Đạo lúc về già phú quý xiết bao, trải mấy triều vua không rời gối khanh tướng, thế mà miếng đỉnh chung rốt cuộc vẫn không, nghìn năm chỉ lưu lại bài Trường Lạc Tự. Phú quý trước mắt không khác gì phù vân, người nay chỉ biết cười người xưa,người chết mồ mả đã ngổn ngang, người sau vẫn bôn tẩu rộn ràng? Xưa nay kẻ hiền người ngu cũng chỉ trơ lại một nấm đất, không ai vượt qua cửa ải sống chết, khuyên anh nên uống rượu rồi vui chơi, kìa trong cửa sổ phía tây, bóng mặt trời đã xế. Chú thích: Vương Nhung: một trong Trúc Lâm thất hiền đời Tấn, nhà giàu ruộng vườn khắp các châu, nhưng lại là tay biển lận, ngày nào cũng cầm bàn tính, thẻ ngà trong tay để tính toán, trong nhà có cây mận rất ngon, bán quả sợ người ta được giống, nền dùi nát hột đi rồi mới bán. Phùng Đạo, người đời Ngũ Đạo, tính chất phác văn chương hay, làm khanh tướng dưới bốn triều Đường, Tấn.. tự đặt hiệu là Trường Lạc lão có làm bài Trường Lão lạc tứ tự kể chuyện mình thờ bốn họ, sáu ông vua. Đọc bài thơ Hành Lạc Từ của Nguyễn Du chúng ta tìm lại được cái an vui thanh thản triết lý Á Đông của nhà nho ngày xưa.

        Phan Lan Hoa đọc vụ án năm Canh Thìn 1780 và bài Ngắm dấu chân thời gian của Hoàng Kim với nhận định : “Ngô Thì Nhậm thời Tây Sơn là nhân vật lịch sử gây ra nhiều tranh luận, nhưng cho dù khen hay chê thì Ngô Thì Nhậm dấu chân thời gian vẫn bền vững là một mưu thần lỗi lạc và nhà ngoại giao xuất chúng của Nguyễn Huệ. Ngô Thì Nhậm có công lớn trong việc tổ chức cai trị Bắc Hà và ngoại giao thời Tây Sơn đã đánh lui và chế thắng nhà Thanh dòm ngó, chia rẽ, lợi dụng tranh đoạt nước Đại Việt lúc ấy. Ngô Thì Nhậm tự Hi Doãn, hiệu Ðạt Hiên, pháp danh Hải Lượng thiền sư, sinh ngày 25 tháng 10 năm 1746, nhằm ngày 11 tháng 9 năm Bính Dần, người làng Tả Thanh Oai, nay thuộc huyện Thanh Trì Hà Nội. Ngô Thì Nhậm sinh trưởng trong một gia đình đại trí thức ở chốn Bắc Hà, cha của ông là Ngô Thì Sĩ. Hai cha con của ông đều là quan đại thần giữ trọng trách lớn được tin dùng đặc biệt của chúa Trịnh Sâm và nhà Hậu Lê. Do sự tranh đoạt không đội trời chung giữa chúa Trịnh Sâm và thái tử Lê Duy Vĩ gây nên sự chia rẽ và nội loạn đặc biệt sâu sắc của triều đình Lê Trịnh mà sau vụ án Canh Tý 1780, Nguyễn Khắc Tuân, Nguyễn Phương Ðỉnh, Chu Xuân Hán bị khép án tử hình, Nguyễn Khản (anh Nguyễn Du) cũng bị khép trọng tội.Nghi án lớn nhất của Ngô Thì Nhậm liên quan trực tiếp đến vụ án năm Canh Tý 1780. Trịnh Tông là con trai trưởng của Tĩnh Đô vương Trịnh Sâm âm mưu đảo chính diệt trừ phe Ðặng Thị Huệ và Quận Huy, lúc Trịnh Sâm bị bệnh nặng. Trịnh Tông biết rõ cha định phế trưởng lập thứ là Trịnh Cán con trai Ðặng Thị Huệ lên ngôi chúa nên đã liên kết với thầy học là Nguyễn Khản trấn thủ Sơn Tây, Nguyễn Khắc Tuân trấn thủ Kinh Bắc, và một số quan lại khác tại triều như Nguyễn Phương Ðỉnh, Chu Xuân Hán… xuất tiền mua vũ khí, chiêu mộ binh mã, chờ Trịnh Sâm chết là khởi sự. Bất ngờ Trịnh Sâm khỏi bệnh và âm mưu bị bại lộ. Sâm đích thân đàn áp những người tham dự vào âm mưu đảo chính. Sau vụ đàn áp đẫm máu này, Ngô Thì Nhậm được thăng chức làm Công bộ Hữu thị lang.Vụ án năm Canh Tý 1780 khiến giới sĩ phu Bắc Hà cho rằng Ngô Thì Nhậm cùng Nguyễn Huy Bá tố cáo âm mưu đảo chính cho Trịnh Sâm biết, nhờ thế sau khi đàn áp, Sâm thưởng công cho Ngô Thì Nhậm bằng chức tước cao trọng. Sách ”Việt sử thông giám cương mục” của triều Nguyễn viết: “Ngô Thì Sĩ bị nhục nhã vì đứa con bất hiếu nên đã uống thuốc độc tự tử. Ngô Thì Nhậm “sát tứ phụ nhi thị lang” (giết bốn cha để được chức Thị lang). Bốn cha là chỉ Ngô Thì Sĩ tự tử và ba người bạn vong niên của cha là Nguyễn Khản, Nguyễn Phương Ðĩnh và Nguyễn Khắc Tuân bị giết.Sách Nghệ An ký của Bùi Dương Lịch cũng khẳng định như vậy. Sách “Hoàng Lê Nhất Thống Chí” và “Ngô gia thế phả” của dòng họ Ngô Thì biên soạn thì Ngô Thì Nhậm hoàn toàn không liên can vào vụ án, Cha ông là Ngô Thì Sĩ không hề buồn phiền về ông mà trái lại rất tự hào về ông. Ngô Thì Nhậm sở dĩ được chúa Trịnh Sâm thăng chức chỉ vì Ngô Thì Nhậm bị Quận Huy ganh ghét, nên đã sàm tấu làm ông phải mắc oan tai tiếng với đời.

        Theo nghiên cứu và trích dẫn của Nguyễn Mộng Giác thì những tài liệu lịch sử khác, độc lập hơn, như “Hậu Lê Thời Sự Kỷ Lược”, “Lịch Triều Tạp Kỷ” tuy ghi nhận dư luận đương thời nhưng cũng không hề nói Ngô Thì Nhậm có liên quan tố cáo vụ đảo chính. Cũng theo Nguyễn Mộng Giác thì có hay không, cho đến ngày nay tuy còn là một nghi vấn, nhưng việc xét công tội của Ngô Thì Nhậm thì không là vấn đề quan trọng nữa. Ngô Thì Nhậm tham dự vào trò chơi chính trị thì phải gánh lấy những hậu quả của các âm mưu tranh giành quyền bính. Oan hay ưng, không thành vấn đề. Sau loạn kiêu binh, ông đã phải trả giá cho trò chơi quyền bính này, phải trốn nấp suốt sáu năm trong nhục nhã, khổ cực.”Ngô Thì Nhậm từ quan quy ẩn về quê vợ Thái Bình cho đến năm 1778, đến lúc Nguyễn Huệ ra Bắc lần thứ hai giết Vũ Văn Nhậm và xuống chiếu tìm quan lại cũ của cựu triều Hậu Lê để giao trọng trách cai trị Bắc Hà. Ngô Thì Nhậm chấp nhận ra phò tá Nguyễn Huệ. Cựu thần nhà Lê phân hóa cao độ, kẻ theo vua Lê, kẻ theo Nguyễn Ánh, người theo Tây Sơn. Nguyễn Du không ra làm quan mà mười lăm năm lưu lạc và sau về làm “Nam Hải điếu đồ”.(Người câu cá ở biển Nam). Ngô Thì Nhậm lập công đầu cho nhà Tây Sơn trong việc cai trị Bắc Hà và ngoại giao với nhà Thanh. Vua Càn Long và Phúc Khang An có kế sách tinh vi, sâu sắc. Ngoại giao thời Tây Sơn với nhà Thanh được giải mã một phần qua các chuyên luận Bí mật kho báu trên đỉnh Tuyết Sơn và Nguyễn Du 255 năm nhìn lại của Hoàng Kim.Ngô Thì Nhậm cuối năm Mậu Thân 1788 khi 29 vạn quân Thanh kéo sang Đại Việt, do mẹ vua Lê Chiêu Thống cầu viện, ông đã đề ra kế sách cho quân Tây Sơn phòng thủ Bắc Hà là bỏ thành Thăng Long lui binh về giữ phòng tuyến Tam Điệp – Biện Sơn (Ninh Bình) để nuôi khí kiêu của địch, dụ địch vào sâu giúp Nguyễn Huệ ra quân thần tốc xuất kỳ bất ý dụng binh thiên tài làm nên chiến thắng xuân Kỷ Dậu năm 1790 của nhà Tây Sơn. Ngô Thì Nhậm sau chiến thắng vang dội này đã được vua Quang Trung giao cho trọng trách Binh bộ Thượng thư chủ trì các chính sách ngoại giao với nhà Thanh. Ông cũng là người đứng đầu một trong những sứ bộ ngoại giao sang Trung Hoa. Từ năm 1792, sau khi vua Quang Trung bị mất đột ngột, ông không còn được tin dùng nữa, đã cáo quan quay về nghiên cứu Phật học.Năm 1802 vua Gia Long tiêu diệt nhà Tây Sơn. Năm 1803, Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích, Nguyễn Thế Lịch và một số sĩ phu Bắc Hà vốn ăn lộc nhà Lê nhưng theo triều Tây Sơn đã bị bắt điệu tới Văn Miếu nọc đánh bằng roi. Đặng Trần Thường là Binh bộ Bắc thành, sau là Binh bộ Thượng thư của triều Nguyễn, do có tư thù với Ngô Thì Nhậm nên đã cho người tẩm thuốc độc vào roi để đánh đòn. Đặng Trần Thường cũng ra một vế câu đối hiễm hóc và kiêu hãnh: “Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai”. Ngô Thì Nhậm khẳng khái đáp: “Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế”.Vế ra của câu đối thật hiểm hóc vì có 5 chữ ai nói lên sự xuất chúng kiêu hãnh của bậc hào kiệt thành công và có chữ trần, tên đệm của Đặng Trần Thường. Vế đối của người trả lời cũng thật tài tình vì có 5 chữ thế, nói lên hoàn cảnh và khí phách của người anh hùng thất thế vẫn hiên ngang khí tiết và có chữ thời, tên đệm của Ngô Thời Nhiệm. Lạ thay và hay thay thời biến từ Thì sang Thời.Ngô Thì Nhậm cũng đọc bốn câu thơ dự báo: “Ai tai Đặng Trần Thường – Chân như yến xử đường – Vi Ương cung cố sự – Diệc nhĩ thị thu trường”. (Thương thay Đặng Trần Thường, Tổ yến nhà xử đường, Vị Ương cung chuyện cũ, Tránh sao kiếp tai ương). Ngô Thì Nhậm khi về nhà bị hộc máu mà chết, Bia đá Văn Miếu từng vinh danh tiến sĩ tên ông năm Cảnh Hưng 36 (1775) cũng bị đục bỏ với tội danh bất trung, bất hiếu. Đặng Trần Thường sau cũng chết thảm vì triều Nguyền hành tội ông dám lưu danh công thần Viêm Quận Công Hoàng Ngũ Phúc danh tướng chúa Trịnh nhưng tử thù với nhà Nguyễn, triều Nguyễn đúng như tiên đoán tài tình của Ngô Thì Nhậm.Ngô Thì Nhậm dấu chân thời gian cũng như Bí mật kho báu trên đỉnh Tuyết Sơn và Nguyễn Du 255 năm nhìn lại, lưu giấu một chặng đường lịch sử và văn chương Việt.

        Lê Quýnh và 23 trung thần thời Hậu Lê được Nguyễn Du và em trai trân trọng lập đền thờ tại Trung Liệt Hà Nội ở 124 Thụy Khuê là một chỉ dấu địa lý quan trọng về nhận thức luận đối với Nguyễn Du. Tiến sĩ Phạm Quý Thích rõ dấu hiệu của người nghiên cứu, bàn luận Truyện Kiều đầu tiên. Đó là những chứng cứ lịch sử văn hóa “chứng minh đường vòng” cho nguồn gốc Truyện Kiều sách chữ Hán Nôm và quốc âm đều là của Nguyễn Du., Chất liệu sáng tác với tỷ lệ lớn là đất Việt, người Việt nhưng tỷ lệ ít hơn về bối cảnh và một ít nhân vật từ bên ngoài là không phủ nhận (phải mượn danh nghĩa đó để thuận tình thuận lý và lập luận chặt chẽ, không bị trả thù).

        Đề tựa bản Truyện Thúy Kiều của cụ Bùi Kỷ trong sách “Truyện Thúy Kiều” do Bùi Kỷ Trần Trọng Kim hiệu khảo là một chỉ dấu quan trọng thứ ba , về bình sinh hành trạng Nguyễn Du (chứng cứ quan trọng thứ 3 này là sau 2 văn bản chính thức của chính sử Nhà nước Nhà Nguyễn về 2 sách Nguyễn Du với Minh Mệnh tổng thuyết, do Quốc sử Quán Nhà Nguyễn biên soạn). Vì giá trị học thuật quan trọng của Bài tựa của cụ Bùi Kỷ mà HK chép nguyên văn để mọi người cùng đọc. Cụ Bùi Kỷ viết: Quyển truyện Thúy Kiều này là một quyển sách kiệt-tác làm bằng quốc-âm ta. Người trong nước từ kẻ ngu-phu ngu-phụ cho chí người có văn-học, ai cũng biết, ai cũng đọc, mà ai cũng chịu là hay. Một quyển sách có giá-trị như thế, mà chỉ hiềm vì các bản in ra, có nhiều bản không giống nhau, rồi có người lại tự ý mình đem chữa đi, chữa lại, thành ra càng ngày càng sai-lầm nhiều thêm ra. Mới đây những bản in bằng quốc-ngữ, tuy có dễ đọc và dễ xem hơn trước, nhưng chưa thấy có bản in nào thật chính đáng, những điều sai lầm vẫn còn như các bản chữ Nôm cũ, mà chữ Quốc ngữ viết lại không được đúng, và những lời giải-thích cũng không kỹ càng lắm. Chúng tôi thấy vậy, mới nhặt nhạnh các bản cũ, rồi so sánh với các bản mới để hiệu chính lại cho gần được nguyên văn. Chúng tôi lại hết sức tìm tòi đủ các điển tích mà giải thích cho rõ ràng, để ai xem cũng hiểu, không phải ngờ điều gì nữa.HiXem tiếp >>

          Dạy và học 2 tháng 11(01-11-2021)

        DẠY VÀ HỌC 2 THÁNG 11
        Hoàng Kim
        CNM365 Tình yêu cuộc sốngTa về trời đất Hồng Lam; Những cuốn sách tôi yêu; Nguyễn Du làm Ngư Tiều; Nguyễn Ngọc Tư sầu riêng; Nhớ thầy Nguyễn Quốc Toàn; Nguyễn Trãi kiệt tác thơ văn; Nguyễn Trãi Dục Thúy Sơn; Đến với Tây Nguyên mới; Dạy học nghề làm vườn; Hãy để tôi đọc lại; Nguyễn Minh Không Bái Đính; Nguyễn Du trăng huyền thoại; Nguyễn Du tư liệu quý; Vào Tràng An Bái Đính; Sông Hoàng Long chảy hoài; Nghiên cứu Kinh Dược Sư; Nợ duyên; Bài thơ Viên đá Thời gian; Núi Hồng Lĩnh danh thắng Nghệ Tĩnh, thuộc Thị xã Thiên Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. Núi Hồng Lĩnh cùng với sông Lam, được xem là biểu tượng hồn thiêng sông núi của xứ Nghệ, từng được xếp vào danh sách 21 danh thắng của nước Nam. Núi Hồng Lĩnh là nơi Nguyễn Du làm Hồng Sơn Liệp Hộ. Ngày 2 tháng 11 năm 1802, ngày mất Vũ Văn Dũng, danh tướng triều Tây Sơn trong lịch sử Việt Nam bị xử tử. Ngày 2 tháng 11 năm 1963, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm và người em trai, cố vấn Ngô Đình Nhu bị sát hại trong cuộc đảo chính; Bài viết chọn lọc ngày 2 tháng 11: Ta về trời đất Hồng Lam; Những cuốn sách tôi yêu; Nguyễn Du làm Ngư Tiều; Nguyễn Ngọc Tư sầu riêng; Nhớ thầy Nguyễn Quốc Toàn; Nguyễn Trãi kiệt tác thơ văn; Nguyễn Trãi Dục Thúy Sơn; Đến với Tây Nguyên mới; Dạy học nghề làm vườn; Hãy để tôi đọc lại; Nguyễn Minh Không Bái Đính; Nguyễn Du trăng huyền thoại; Nguyễn Du tư liệu quý; Vào Tràng An Bái Đính; Sông Hoàng Long chảy hoài; Nghiên cứu Kinh Dược Sư; Nợ duyên; Bài thơ Viên đá Thời gian; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.comhttp://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-2-thang-11;

        TA VỀ TRỜI ĐẤT HỒNG LAM
        Hoàng Kim

        Ta về trời đất Hồng Lam
        Thung dung dạo bước trăng vàng lộng soi
        Đường trần tới chốn thảnh thơi
        Hồng Sơn Liệp Hộ bồi hồi đất quen.

        Linh miêu chốn Tổ Rồng Tiên
        Quấn quanh trao gửi nổi niềm Thái Sơn
        Hỡi ai là kẻ phi thường
        Đỉnh chung dâng nén tâm hương nhớ Người…

        NHỮNG CUỐN SÁCH TÔI YÊU
        Hoàng
        Kim

        Quốc Công đạo làm tướng
        Tiết Chế đức dụng nhân
        Vạn Kiếp binh thư truyền
        Biết mình và biết người

        Yên Tử Trần Nhân Tông
        Hiểu ‘sách nhàn đọc giấu
        Ân tình Đất Phương Nam
        Hoa Đất thương lời hiền

        Ngày xuân đọc Trạng Trình
        Nguyễn Du trăng huyền thoại *
        Đào Duy Từ còn mãi
        Việt Nam con đường xanh

        Cây Lương thực Việt Nam
        Ngày mới Ngọc cho đời

        Xem tiếp
        https://hoangkimlong.wordpress.com/category/nhung-cuon-sach-toi-yeu

        * Bài đọc thêm: Nguyễn Du làm Ngư Tiều mục 6 trong Nguyễn Du trăng huyền thoại

        nguyendu9

        NGUYỄN DU LÀM NGƯ TIỀU
        Hoàng Kim

        Ẩn ngữ giữa đời thường
        Câu cá và đi săn
        Nguyễn Du “ức gia huynh”
        “Hành Lạc Từ” bi tráng

        Nguyễn Du làm Ngư Tiều câu cá và đi săn mười năm 1791-1802. Thời thế buộc ông phải làm vậy và ông tâm tính vậy. Bài viết này đúc kết thông tin Nguyễn Du trăng huyền thoại tìm hiểu Nguyễn Du thời thế và hành trạng trong những năm ấy; để hiểu rõ hơn văn chương ông, xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/nguyen-du-lam-ngu-tieu/

        ẨN NGỮ GIỮA ĐỜI THƯỜNG

        Thiền sư Linh Nhạc Phật Ý tại Tổ Đình Phước Tường Thủ Đức trong giấc mơ lạ Nguyễn Du nửa đêm đọc lại đã khuyên tôi lập “Nguyễn Du niên biểu luận” để tìm hiểu về Người. Theo vị Thiền sư này thì dấu vết chứng cứ sự thật hàng năm của Nguyễn Du là chỉ dấu tin cậy nhất về những sự kiện trọng yếu trong thời ông. Điều này chi phối quyết định và gợi ý sâu sắc nhất cách xử thế của Nguyễn Du. Sự thật về Nguyễn Du và Truyện Kiều cần có sự kiện chính yếu này của thời thế đàng Trong và đàng Ngoài cùng với các nước liên quan mới soi tỏ cuộc đời Nguyễn Du và gia tộc Nguyễn Du. Đó là phương pháp khoa học liên ngành tổng hợp với hệ thống thông tin bổ ích để hiểu đúng ẩn ngữ Truyện Kiều, về giá trị lịch sử, văn hóa, con người và bối cảnh hình thành kiệt tác”Truyện Kiều”.

        Niên biểu cuộc đời Nguyễn Du chia làm hai thời:
        Nguyễn Du thời Tây Sơn (1765-1802), với Nguyễn Du thời nhà Nguyễn (1797- 1820), Trong Nguyễn Du thời Tây Sơn chia làm hai kỳ Nguyễn Du mười lăm năm tuổi thơ (1765- 1780),  Nguyễn Du mười lăm năm lưu lạc (1781- 1796). Giai đoạn mười lăm năm lưu lạc của Nguyễn Du có “Năm năm hùng cứ một phương hải tần”, “Gồm hai văn võ, rạch đôi sơn hà”, “Dọc ngang nào biết trên đầu có ai” (1781- 1786), Nguyễn Du mười năm gió bụi (1787- 1796) có năm năm Nguyễn Du làm Nam Hải Điếu Đồ (1792-1796) “Khen cho con mắt tinh đời. Anh hùng đoán giữa trần ai mới già” và “Năm năm Hồng Sơn Liệp Hộ” (1796-1802) “Bạc đầu tráng sĩ ngẩng trời than / Dựng nghiệp, mưu sinh thảy lỡ làng”. Nguyễn Du đã có mười lăm năm lưu lạc khớp đúng với truyện Kiều và khớp đúng mười lăm năm “bảy nổi ba chìm với nước non” như thơ của nữ sĩ Hồ Xuân Hương .Nguyễn Du thời nhà Nguyễn (1797- 1820) mười tám năm làm quan, ông đạt chính tích thật rõ ràng, được chính sử triều Nguyễn với Truyện Kiều và Bắc Hành lưu dấu “Thiện căn cốt ở lòng ta. Chữ tâm lia mới bằng ba chữ tài”; “Có tài mà cậy chi tài. Chữ tài liền với chữ tai một vần”;”Bắt phong trần phải phong trần Cho thanh cao mới được phần thanh cao”. Nguyễn Du đọc lại và suy ngẫm.

        Nguyễn Du thời Tây Sơn (1766-1802) có bốn sự kiện chính nổi bật: 1) Quang Trung đại phá quân Thanh năm Kỷ Dậu 1789; 2) Nguyễn Vương bình Gia Định nhờ lợi dụng tình thế ngay đúng năm ấy; 3) Nguyễn Du xây đền cổ Trung Liệt cho nhà Hậu Lê tại Thăng Long và tu bổ phần mộ tổ tiên Họ Nguyễn Tiên Điền từ năm 1793 đến 1795 (Thời điểm 1792- 1793 là lúc ba vị vua Nguyễn Huệ, Nguyễn Nhạc, Lê Chiêu Thống đều mất; Nguyễn Du xây đền Trung Liệt cho các trung thần nghĩa sĩ thời hậu Lê đã thực hiện từ năm 1793 vã hoàn thành khoảng đầu năm 1795. Vua Lê Chiêu Thống qua đời tại Bắc Kinh năm 1793 nhưng tro cốt của ông được đưa về Việt Nam năm 1804 và chôn ở Thanh Hóa quê hương của tổ tiên ông Cương mục quyển XI .VII trang 48a, trích dẫn từ Chính sử triều Nguyễn; và theo Lê Thành Khôi ‘Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến giữa thế kỷ 20’, trang 386); 4) Nguyễn Du làm Ngư Tiều Nam Hải Điếu Đồ (1791-1796) và Hồng Sơn Liệp Hộ (1797- 1802) Thời Nguyễn Du làm Hồng Sơn Liệp Hộ (Người đi săn ở núi Hồng), Nguyễn Du sống chủ yếu ở Nghệ Tĩnh. Thông tin chi tiết tại Nguyễn Du niên biểu luận, Nguyễn Du thời Tây Sơn

        Nguyễn Du thời Nhà Nguyễn (1802-1820):có sáu sự kiện chính nổi bật: 1) Nguyễn Du gặp vua Gia Long năm 1802 khi vua Gia Long ra Bắc và Nguyễn Du được bổ nhiệm ngay làm quan tri huyện Phù Dung (1802) sau đó được thăng chức tri phủ Thường Tín (1803-1804) làm cai bạ Quảng Bình (1808-1811); 2) Nguyễn Du làm quan nhà Nguyễn chính tích rất rõ ràng được lưu trong Chính sử Nhà Nguyễn, 3) Nguyễn Du được thăng Đông Các học sĩ, hàm ngũ phẩm, tước Du Đức hầu, ông vào nhậm chức Cần chánh điện Đại học sĩ, chức vụ dâng sách cho vua Gia Long đọc mỗi ngày. (1805- 1807), 4) Nguyễn Du làm quan Chánh sứ đi sứ nhà Thanh (1813-1814); 5) Nguyễn Du sau khi đi sứ nhà Thanh thành công trở về được nghỉ phép ở quê sáu tháng, Trong thời gian này, Nguyễn Du đã hoàn thiện tập thơ Truyện Kiều chữ Nôm và Bắc Hành chữ Hán dâng vua (gồm “Bắc hành tạp lục” 132 bài, “Nam trung tạp ngâm” 16 bài “Thanh Hiên thi tập” 78 bài). 6) Nguyễn Du vào Huế nhậm chức Hữu Tham tri Bộ Lễ (1815-1820) và chết ở Huế năm 1820. Thông tin chi tiết tại Nguyễn Du niên biểu luận, Nguyễn Du thời nhà Nguyễn .

        Bạn đọc để dễ theo dõi, không mất thì giờ xem lại mục trước Tôi chép thêm ba bản đồ và minh chứng cứ liệu về thời Tây Sơn và thời Nhà Nguyễn với trích lục Nguyễn Du một tổng luận, Nguyễn Du quê hương và dòng họ.
        Nguyễn Du niên biểu luận; Nguyễn Du trăng huyền thoại

        Sử liệu Việt Nam gần đây mới khai thác hệ thống khối tư liệu chính thống thời Nguyễn, một trong những “khối tư liệu quý hơn vàng ròng” Di sản thế giới tại Việt Nam . Trích yếu mục 21 của tài liệu dẫn này: ” Mộc bản triều Nguyễn là di sản tư liệu của Việt Nam được Uỷ ban tư vấn quốc tế (IAC) thuộc UNESCO công nhận là di sản tư liệu thế giới vào ngày 31/7/2009. Đây là một loại hình tài liệu đặc biệt quý hiếm không chỉ ở Việt Nam mà còn hiếm có trên toàn thế giới. Mộc bản triều Nguyễn là những văn bản chữ Hán – Nôm được khắc trên gỗ để in các loại sách lưu hành tại Việt Nam vào thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX. Mộc bản triều Nguyễn hiện còn lưu giữ được 34.619 tấm trong đó bao gồm cả những ván khắc in thu được ở Văn Miếu Quốc Tử Giám Hà Nội đua vào Huế lưu trữ. Tài liệu được khắc trên mộc bản rất tinh xảo và sắc nét với nội dung ghi lại các sự kiện lịch sử, các cuộc tiểu trừ giặc giã, công danh sự nghiệp của các bậc quân vương. Đồng thời nhân bản các bộ luật, các quy định về chuẩn mực xã hội để phổ biến bắt buộc mọi thần dân phải tuân thủ. Tất cả các bản thảo nói trên đều phải qua sự ngự lãm và phê duyệt bằng bút tích của Hoàng đế trước khi chuyển giao cho những nghệ nhân tài hoa trong ngự xưởng của cung đình khắc lên các loại gỗ quý như gỗ thị, nha đồng… Tài liệu Mộc bản triều Nguyễn là những bản khắc in các tác phẩm chính văn, chính sử được hình thành trong quá trình hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước và cuộc đời, hoạt động của những nhân vật lịch sử có ảnh hưởng lớn tới những biến cố xã hội cũng như tiến trình lịch sử của một dân tộc, của một đất nước. Hiện nay những tài liệu này rất hiếm có trên thế giới. Nó đặc biệt có giá trị trong việc nghiên cứu lịch sử văn hóa Việt Nam nói riêng và thể giới nói chung”: Mời quý bạn đọc chùm bài Nguyễn Du trăng huyền thoại, Nguyễn Du tư liệu quý, Nguyễn Du thơ chữ Hán; Nguyễn Du thời Tây Sơn; Nguyễn Du Hồ Xuân Hương của Hoàng Kim soi thấu một số góc khuất lịch sử văn hóa..

        Hình thế nước Đại Việt đàng Trong đàng Ngoài năm 1760. Bản đồ vẽ bởi công ty Cóvens e Mortier, Amsterdam (hình trên) và Hình thế nước Đại Việt đàng Trong đàng Ngoài năm 1788 trước mùa xuân Kỷ Dậu năm 1790 (vẽ theo sử liệu và bản đồ Trần Trọng Kim) đã cho thấy Nguyễn Du cuộc đời và thời thế. Diễn biến thời cuộc từ khi Nguyễn Du sinh ra năm 1766 đến khị Triều đại Tây Sơn sụp đổ năm 1802 qua minh chứng tại Nguyễn Du niên biểu luận

        Nguyễn Du một tổng luận

        1. Nguyễn Du không chỉ là nhà thơ lớn, danh nhân văn hóa thế giới mà còn là danh sĩ tinh hoa, đấng anh hùng hào kiệt minh sư hiền tài lỗi lạc.

        2. Nguyễn Du quê hương và dòng họ cho thấy gia tộc Nguyễn Tiên Điền là dòng họ lớn đại quý tộc, thể hiện qua câu Kiều: “Triều đình riêng một góc trời/ Gồm hai văn võ, rạch đôi sơn hà.” Họ Nguyễn Tiên Điền có thế lực mạnh đến mức nhà Lê, họ Trịnh, nhà Tây Sơn, nhà Nguyễn đều tìm mọi cách liên kết, lôi kéo, mua chuộc, khống chế hoặc ra tay tàn độc để trấn phản. Nguyễn Du rất mực nhân đạo và minh triết, ông nổi bật hơn tất cả những chính khách và danh nhân cùng thời. “Nguyễn Du là người rất mực nhân đạo trong một thời đại ít nhân đạo” (Joocjo Budaren nhà văn Pháp). Nguyễn Du vượt lên vinh nhục bản thân giữa thời nhiễu loạn, vàng lầm trong cát để trao lại ngọc cho đời. Ông chí thiện, nhân đạo, minh triết, mẫu hình con người văn hóa tương lai. Kiều Nguyễn Du là bài học lớn về tâm tình hồn Việt. Truyện Kiều của Nguyễn Du đã thấm sâu vào hồn Việt và lan tỏa khắp thế giới.

        3.Nguyễn Du cuộc đời và thời thế là bức tranh bi tráng của một bậc anh hùng hào kiệt nhân hậu, trọng nghĩa và tận lực vì lý tưởng. Nguyễn Du đã phải gánh chịu quá nhiều chuyện thương tâm và khổ đau cùng cực cho gia đình ông do biến thái của thời cuộc ”Bắt phong trần phải phong trần.Cho thanh cao mới được phần thanh cao“. Nguyễn Du mười lăm năm tuổi thơ (1765-1780) mẹ mất sớm, ông có thiên tư thông tuệ, văn võ song toàn, văn tài nổi danh tam trường, võ quan giữ tước vị cao nơi trọng yếu; người thân gia đình ông giữ địa vị cao nhất trong triều Lê Trịnh và có nhiều người thân tín quản lý phần lớn những nơi trọng địa của Bắc Hà. Nguyễn Du mười lăm năm lưu lạc (1781-1796) là giai đoạn đất nước nhiễu loạn Lê bại Trịnh vong, nội chiến, tranh đoạt và ngoại xâm. Nguyễn Du và gia đình ông đã chịu nhiều tổn thất nhưng ông kiên gan bền chí tận tụy hết lòng vì nghĩa. Nguyễn Du hai mươi ba năm cuối đời (1802- 1820) ra làm quan triều Nguyễn giữ các chức vụ từ tri huyên, cai bạ, cần chánh điện đại hoc sĩ, chánh sứ đến hữu tham tri bộ lễ. Ông là nhà quản lý giỏi yêu nước thương dân. Nguyễn Du viết thơ chữ Hán Bắc Hành tạp lục là kiệt tác sử thi và tuyên ngôn ngoại giao nhân nghĩa  làm rạng danh nước Việt. Ông để lại kiệt tác Truyện Kiều là di sản muôn đời.

        4. Minh triết ứng xử của bậc hiền tài trước ngã ba đường, ngã ba sông đời, là chí thiện và thuận theo tự nhiên “Tùy cơ, tùy vận, tùy thiên mệnh, tùy thời, tùy thế, lại tùy nghi” Nguyễn Du ký thác tâm sự vào Truyện Kiều là ẩn ngữ ước vọng đời người, tâm tình và tình yêu cuộc sống “Thiện căn cốt ở lòng ta, Chữ tâm kia mới thành ba chữ tài

        5. Truyện Kiều kế thừa và phát triển tác phẩm Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân nhưng Truyện Kiều có tầm ảnh hưởng sâu rộng hơn nguyên tác, trở thành hồn Việt, và là tác phẩm văn học cổ điển Việt Nam được dịch ra hơn 20 thứ tiếng. Hồng Lâu Mộng cũng là kiệt tác chịu ảnh hưởng sâu sắc nhất của tác phẩm Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân nhưng khác chiều kích văn hóa giáo dục và giá trị tác phẩm.

        6. Nhân cách, tâm thế của con người Nguyễn Du đặt trong mối tương quan với Nguyễn Huệ và Nguyễn Ánh của thời đại Hậu Lê Trịnh – nhà Tây Sơn – đầu triều Nguyễn; khi so sánh với Tào Tuyết Cần là văn nhân tài tử của thời đại cuối nhà Minh đến đầu và giữa nhà Thanh thì vừa có sự tương đồng vừa có sự dị biệt to lớn.

        7. Kiệt tác Truyện Kiều của Nguyễn Du có sự tương đồng với kiệt tác Hồng Lâu Mộng của Tào Tuyết Cần. Gia tộc của Nguyễn Quỳnh – Nguyễn Thiếp – Nguyễn Du tương đồng với gia tộc của Tào Tỷ – Tào Dần – Tào Tuyết Cần nhưng nền tảng đạo đức văn hóa khác nhau  Nhấn mạnh điều này để thấy sự cần thiết nghiên cứu liên ngành lịch sử, văn hóa, con người tác gia, bởi điều đó chi phối rất sâu sắc đến giá trị của kiệt tác.

        8.Tác phẩm
        Nguyễn Du trăng huyền thoại gồm chín bài liên hoàn, mục lục như sau:1 Nguyễn Du thơ chữ Hán Kiếm bút thấu tim Người, Đấng danh sĩ tinh hoa, Nguyễn Du khinh Thành Tổ, Bậc thánh viếng đức Hòa 2 Nguyễn Du tư liệu quý Linh Nhạc thương người hiền, Trung Liệt đền thờ cổ, “Bang giao tập” Việt Trung, Nguyễn Du niên biểu luận 3 Nguyễn Du Hồ Xuân Hương “Đối tửu” thơ bi tráng, “Tỏ ý” lệ vương đầy, Ba trăm năm thoáng chốc, Mại hạc vầng trăng soi. 4 Nguyễn Du Nguyễn Công Trứ Uy Viễn “Vịnh Thúy Kiều”, Tố Như “Đọc Tiểu Thanh”, Bến Giang Đình ẩn ngữ, Thời biến nhớ người xưa. 5 Nguyễn Du thời Tây Sơn Mười lăm năm tuổi thơ, Mười lăm năm lưu lạc, Thời Hồng Sơn Liệp Hộ, Tình hiếu thật phân minh 6 Nguyễn Du làm Ngư Tiều Câu cá và đi săn, Ẩn ngữ giữa đời thường, Nguyễn Du ức gia huynh, Hành Lạc Từ bi tráng 7 Nguyễn Du thời nhà Nguyễn Mười tám năm làm quan, Chính sử và Bài tựa, Gia phả với luận bàn. Bắc hành và Truyện Kiều 8 Nguyễn Du tiếng tri âm Hồ Xuân Hương là ai, Kiều Nguyễn luận anh hùng, Thời Nam Hải Điếu Đồ, Thời Hồng Sơn Liệp Hộ 9 Nguyễn Du trăng huyền thoạiĐi thuyền trên Trường Giang,Tâm tình và Hồn Việt, Tấm gương soi thời đại. Mai Hạc vầng trăng soi,

        9. Nguyễn Du danh si tinh hoa là tấm gương soi sáng thời đại Nguyễn Du

        Quê hương và dòng họ

        Nguyễn Du tự Tố Như, hiệu Thanh Hiên, biệt hiệu Nam Hải Điếu Đồ (kẻ đi câu ở biển Nam) lại có hiệu Hồng Sơn Liệp Hộ (người đi săn ở núi Hồng). Nguyễn Du sinh 1766, tại làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, Nghệ An (theo gia phả của họ Nguyễn Tiên Điền thì Nguyễn Du sinh tại Tiên Điền chứ không phải sinh tại Hà Nội). Nguyễn Du thi Hương tại Sơn Nam năm 1783 và chỉ đậu Tam Trường. Ông có được bổ sung chức quan tại Thường Tín, nhưng cáo ốm không nhậm chức. Khi Tây Sơn ra Bắc. Thận Quân Công có ép ra phục vụ, nhưng Nguyễn Du và nhiều chí sĩ thời bấy giờ cho rằng Tây Sơn là giặc, nên từ chối, bị nhốt hai tháng rồi thả ra. họ Nguyễn Tiên Điền quê hương Nghệ Tĩnh nhưng sống nhiều nơi “Hồng Lam vô gia huynh đệ tán”, mẹ họ Trần đất Kinh Bắc, tổ tiên Sơn Nam, khởi nghiệp Thái Nguyên, nhiều năm lưu lạc giang hồ ở châu thổ sông Hồng, vùng núi phía Bắc, Nam Trung Quốc,và Nghệ Tĩnh, nhiều năm làm quan ở Quảng Bình và kinh đô Huế. Nguyễn Du là danh sĩ tinh hoa, tính tình khoan hòa điềm tĩnh, đi nhiều, học rộng, là nhà thơ nổi tiếng thời Lê mạt, Nguyễn sơ ở Việt Nam.

        Cha của Nguyễn Du là Nguyễn Nghiễm (1708 – 1775), sinh ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh, tên tự Hy Di, hiệu Nghi Hiên, có biệt hiệu là Hồng Ngự cư sĩ, đậu Nhị giáp tiến sĩ , làm quan đến chức Đại tư đồ (Tể tướng) kiêm Trung thư giám, Tổng tài Quốc sử giám, tước Thượng thư bộ Hộ, Xuân Quận công triều Lê.

        Mẹ là bà Trần Thị Tần, sinh ngày 24 tháng 8 năm 1740, mất ngày 27 tháng 8 năm 1778, con gái một người thuộc hạ của Nguyễn Nhiễm làm chức Câu kê lo việc kế toán, quản gia cho cụ Nguyễn Nghiễm. Quê mẹ Nguyễn Du ở làng Hoa Thiều, xã Minh Đạo, huyện Tiên Du (Đông Ngàn), xứ Kinh Bắc, nay thuộc tỉnh Bắc Ninh. Bà Trần Thị Tần là vợ thứ ba của Nguyễn Nghiễm, bà kém chồng 32 tuổi, sinh được năm con, bốn trai và một gái.

        Nguyễn Nghiễm có tám vợ và 21 người con. Vợ chánh thất là bà Đặng Thị Dương, sinh mẫu của Nguyễn Khản (1734-1786); bà hai là Đặng Thị Thuyết, sinh mẫu của Nguyễn Điều (1740-1786), bà là em ruột của bà chánh thất Đặng Thị Dương; bà ba là Trần Thị Tần, sinh mẫu của Nguyễn Trụ (1757-1775, con trai thứ 3), Nguyễn Nễ (1761-1805, con trai thứ 6), Nguyễn Thị Diên, Nguyễn Du (1765- 1820, con trai thứ 7, nên tục gọi là cậu Chiêu Bảy), Nguyễn Ức (1867-1823, con trai thứ 8); bà tư là Nguyễn Thị Xuyên, quê ở xã Hoàng Mai, Yên Dũng, Kinh Bắc, sinh mẫu của Nguyễn Quýnh (1759- 1791, con trai thứ 4), bà năm là Nguyễn Thị Xuân, quê xã Tiêu Sơn, huyện Yên Phong, xứ Kinh Bắc, sinh mẫu của Nguyễn Trừ (1760 -1809, con trai thứ 5) và Nguyễn Nghi (1773- 1845, con trai thứ 10); bà sáu là Phạm Thị Diễm, quê xã Hải Lộ, huyện Nam Chân, xứ Sơn Nam, sinh mẫu của Nguyễn Lạng (1768- 1817), con trai thứ 9), bà bảy là Hồ Thị Ngạn, người xã Hoa Viên, huyện Nghi Xuân, sinh mẫu của Nguyễn Nhưng (1763-1824), con trai thứ 11; bà tám là Hoàng Thị Thược, người xã Đan Hải, Nghi Xuân, sinh mẫu của Nguyễn Tốn (1767- 1812), con trai thứ 12 (Trích theo đúng gia phả, bản dịch của cụ Giải nguyên Lê Thước dịch từ năm 1962).

        Đền thờ Nguyễn Nghiễm ở thôn Bảo Kê, xã Tiên Điền. Đền có 3 tấm biển lớn, một khắc 4 chữ “Phúc lý vĩnh tuy” (Phúc ấm lâu dài) do tự tay chúa Trịnh viết. Một tấm khắc 4 chữ: “Dịch tế thư hương” (dòng thư hương đời nối đời) do Đức Bảo sứ thần nhà Thanh đề tặng. Một biển khắc 4 chữ “Quang tiền du hậu” (Rạng rỡ thế hệ trước, phúc ấm ở đời sau) do Tô Kính người Viễn Đông đề tặng. Đền còn có đôi câu đối: Lưỡng triều danh Tể Tướng. Nhất thế đại nho sư (Nho sư cả nước vang danh hiệu. Tể tướng hai triều rạng tiếng tăm). Danh sĩ La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp, người được Nguyễn Huệ tôn làm thầy, là học trò của Nguyễn Nhiễm, đã viết bài tán Phú Đức nói về thầy học của mình. Nguyễn Nhiễm khi còn sống đặt ruộng cúng và xây sẵn đền thờ ở mặt sông. Sau khi ông mất, triều đình phong “Thượng Đẳng Tôn Thần”, Huân Du Đô Hiến Đại Vương, hàng năm Quốc gia làm tế lễ. Lại giao cho 4 xã chăm sóc hương khói. Ngày sinh, ngày giỗ của ông có cả xã Uy Viễn cùng tế lễ.

        Tổ tiên của Nguyễn Du gốc ở làng Canh Hoạch, huyện Thanh Oai, trấn Sơn Nam (nay thuộc Hà Nội), sau di cư vào Hà Tĩnh, có truyền thống khoa bảng nổi danh ở làng Tiên Điền thời Lê mạt. Trước ông bảy thế hệ, viễn tổ họ Nguyễn Tiên Điền là Nam Dương hầu Nguyễn Nhiệm, con trai Nguyễn Miễn và là cháu Nguyễn Quyện, gọi Nguyễn Quyện bằng bác ruột, thời Lê Trung hưng có dự mưu phục lại nhà Mạc, bị thua trận chạy về phương Nam giấu hẵn tung tích đến sinh cơ lập nghiệp ở Tiền Điền Nghi Xuân. (Nguyễn Miễn là con của Trạng nguyên Nguyễn Thiến, hậu duệ người em của Nguyễn Phi Khanh). Nguyễn Trãi và Nguyễn Du cùng dòng họ và chung một ông tổ.

        Ông nội của Nguyễn Du là Nguyễn Quỳnh. Ông có 5 vợ và 9 con (6 trai, 3 gái). Trong số 6 người con trai thì có 3 người con đậu đại khoa và làm quan to là Nguyễn Huệ , Nguyễn Nghiễm và Nguyễn Trọng. Ông Nguyễn Quỳnh là người hay đọc sách, tinh thông lý số, giỏi kinh dịch, … Ông chuyên tâm dạy con cái học hành, có soạn ba bộ sách bàn về Kinh Dịch với những việc chiêm nghiệm được trong đời. Ông có trồng ba cây cổ thụ, một cây Muỗm (Xoài), một cây Bồ Lỗ (Cây Nóng), một cây Rói, để sau này con cái thành đạt về thăm cha có chỗ buộc ngựa. Những cây cổ thụ đó, nay vẫn còn, trừ cây Rói bị bão đổ năm 1976. Nguyễn Quỳnh giỏi y thuật từ khi còn trẻ nghe nói có gặp một người Trung Quốc là Ngô Cảnh Phượng (dòng dõi Ngô Cảnh Loan- một nhà địa lý nổi tiếng đời Tống)am hiểu địa lý, gặp nạn, ông đưa về nuôi. Ngô Cảnh Phượng cảm phục ân đức đã truyền cho bí quyết về phong thủy. Họ Nguyễn Tiên Điền thịnh đức, nếp nhà di huấn nối đời làm thuốc và dạy học, nếu có làm quan biết giữ tiết tháo, đức độ, thanh thận cần.

        Vợ chính thất của Nguyễn Du họ Đoàn là con thứ sáu của Đoàn Công, Hoàng giáp Phó Đô ngự sử Quỳnh Châu bá người Quỳnh Côi, Hải An (xưa thuộc Sơn Nam, nay thuộc Thái Bình). Theo gia phả của họ Nguyễn Tiên Điền thì ông bà sinh con trai tên Nguyễn Tứ tự là Hạo Như có văn học, Nguyễn Ngũ giỏi võ, Nguyễn Thuyến giỏi văn nhưng không tham gia chính sự. Năm Quý Dậu (1813), bà theo ông đi sứ phương Bắc, về nước được vài năm bị bệnh mất. Bà sinh được một gái gả cho Tú tài Ngô Cảnh Trân, người ở Trảo Nha, Thạch Hà.

        Một trong những người yêu thương nhất của Nguyễn Du là Hồ Phi Mai (Hồ Xuân Hương) bà chúa thơ nôm, tác giả của Lưu Hương ký, quê ở Quỳnh Đôi, có quan hệ mật thiết với họ Hồ nhà Tây Sơn. Hồ Xuân Hương cũng là tác giả của những tác phẩm thơ nổi tiếng: Bánh trôi nước, Kẽm Trống, Nhớ người cũ, viết gửi Cần Chánh Học Sĩ Nguyễn Hầu, Khóc ông phủ Vĩnh Tường, Khóc Tổng Cóc, Làm lẽ, Tự tình, Mời trầu, Đề đền Sầm Nghi Đống, Đèo Ba Dội, Hang Cắc Cớ, Cái quạt, Đánh đu, Thiếu nữ ngủ ngày, Không chồng mà chửa, Chùa Quán Sứ,  Sư hổ mang, Sư bị ong châm, Quan thị, Mắng học trò dốt … bài nào cũng thực thông minh, hóm hỉnh, vừa sâu sắc vừa cận nhân tình. Hồ Xuân Hương là một phụ nữ đặc biệt tài hoa nhưng bất hạnh. Bà có tới ba đời chồng là Tổng Cóc, Tri phủ Vĩnh Tường và Tham hiệp trấn Yên Quảng Trần Phúc Hiển, người  bị kết án năm 1816 và bị xử tử năm 1818.

        Gia tộc Nguyễn Du có nhiều người giỏi và giữ những vị trí trọng yếu của thời cuộc: cha là Nguyễn Xem tiếp >>

          Dạy và học 1 tháng 11(01-11-2021)


        DẠY VÀ HỌC 1 THÁNG 11
        Hoàng Kim
        CNM365 Tình yêu cuộc sốngNguyễn Trãi kiệt tác thơ văn; Nguyễn Trãi Dục Thúy Sơn; Đến với Tây Nguyên mới; Dạy học nghề làm vườn; Hãy để tôi đọc lại; Nguyễn Minh Không Bái Đính; Nguyễn Du trăng huyền thoại; Nguyễn Du tư liệu quý; Vào Tràng An Bái Đính; Sông Hoàng Long chảy hoài; Nghiên cứu Kinh Dược Sư; Nợ duyên; Bài thơ Viên đá Thời gian; Ngày 1 tháng 11 năm 1459 (ngày 7 tháng 10 năm Đinh Sửu) Lê Nghi Dân đã tự lập làm hoàng đế triều Lê sơ, sau khi binh biến sát hại vua Lê Nhân Tông. Lê Nghi Dân là con trưởng, trước kia từng được lập Hoàng thái tử, sau đó bị phế truất làm phiên vương do mẹ là Dương phi bị thất sủng và bị giáng làm thứ nhân. Em trai của ông là Lê Nhân Tông (Lê Bang Cơ) lên ngôi vua lúc mới 1 tuổi, nên trong 10 năm đầu thời ông, mẹ ông là thái hậu Nguyễn Thị Anh nắm quyền trị nước. Vụ trọng án này là mắt xích trọng yếu soi thấu vụ án oan khuất Lệ Chi Viên mà Nguyễn Thái hậu đã chủ động ra tay ám hại vua Lê Thái Tông và đổ tội cho Nguyễn Trãi, tru di ba họ nhà ông, để Lê Nhân Tông đang là Thái tử được lên thay. Ngày 1 tháng 11 năm 1604, Vở kịch Othello của William Shakespeare, nhà thơ văn và nhà viết kịch vĩ đại nhất nước Anh, được công diễn lần đầu tiên tại cung Whitehall ở Luân Đôn, vương quốc Anh. Ngày 1 tháng 11 năm  1894  Sa hoàng Nga Nikolai bắt đầu trị vì, sau khi vua cha Aleksandr qua đời, ông là vị Sa hoàng cuối cùng trong lịch sử Nga; Bài viết chọn lọc 1 tháng 11: Nguyễn Trãi kiệt tác thơ văn; Nguyễn Trãi Dục Thúy Sơn; Đến với Tây Nguyên mới; Dạy học nghề làm vườn; Hãy để tôi đọc lại; Nguyễn Minh Không Bái Đính; Nguyễn Du trăng huyền thoại; Nguyễn Du tư liệu quý; Vào Tràng An Bái Đính; Sông Hoàng Long chảy hoài; Nghiên cứu Kinh Dược Sư; Nợ duyên; Bài thơ Viên đá Thời gian; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-1-thang-11/;

        NGUYỄN TRÃI KIỆT TÁC THƠ VĂN
        Hoàng Kim

        Nguyễn Trãi đã có nhiều tôn vinh nhưng như giáo sư Phan Huy Lê nhận xét trong bài “Nguyễn Trãi – 560 năm sau vụ án Lệ chi viên“: ”Cho đến nay, sử học còn mang một món nợ đối với lịch sử, đối với Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ là chưa khám phá và đưa ra ánh sáng những con người cùng với những âm mưu và hành động lợi dụng việc từ trần đột ngột của vua Lê Thái Tông ở Lệ Chi Viên để vu oan giá hoạ dựng nên vụ án kết liễu thảm khốc cuộc đời của một anh hùng vĩ đại, một nữ sĩ tài hoa, liên luỵ đến gia đình ba họ. Với tình trạng tư liệu quá ít ỏi lại bị chính sử che đậy một cách có dụng ý, thì quả thật khó hi vọng tìm ra đủ chứng cứ để phá vụ án bí hiểm này. Nhưng lịch sử cũng rất công bằng. Với thời gian và những công trình nghiên cứu của nhiều thế hệ các nhà sử học, nhà văn học, nhà tư tưởng, nhà văn hoá…, lịch sử càng ngày càng làm sáng rõ và nâng cao nhận thức về con người và sự nghiệp của Nguyễn Trãi, về những công lao, cống hiến, những giá trị đích thực của ông trong lịch sử cứu nước và dựng nước, lịch sử văn hoá của dân tộc”. Dẫu vậy, trong tất cả những tư liệu lịch sử để lại thì tư liệu sáng giá nhất, rõ rệt nhất, sâu sắc nhất để minh oan cho Người lại chính là Những kiệt tác thơ văn Nguyễn Trãi, “Họa phúc có nguồn đâu bổng chốc, Anh hùng để hận mãi nghìn năm” “Số khó lọt vành âu bởi mệnh.Văn chưa tàn lụi cũng do trời “. Bài thơ thần “Yên Tử “của Nguyễn Trãi “Non thiêng Yên Tử đỉnh kỳ phong. Trời mới ban mai đã rạng hồng. Vũ trụ mắt soi ngoài biển cả. Nói cười lồng lộng giữa không trung…” (thơ Nguyễn Trãi trên Yên Tử, hình ảnh và cẩn dịch Hoàng Kim). Những kiệt tác thơ văn Nguyễn Trãi lưu bài “Yên Tử” “Ngôn chí,” “Quan hải”, “Oan than” của Người kèm cảm nhận “Trời ban tối biết về đâu?” của Vũ Bình Lục.

        Nguyễn Trãi là bậc anh hùng dân tộc, nhà chính trị kiệt xuất và danh nhân văn hóa lỗi lạc của dân tộc Việt, Nguyễn Trãi hiệu là Ức Trai, người làng Nhị Khê, huyện Thượng Phúc nay là huyện Thường Tín, Hà Nội, sinh năm 1380 , mất năm 1442,. cha là Nguyễn Phi Khanh, nguyên quán làng Chi Ngại , huyện Phương So8n (Chí Linh, Hải Dương) mẹ là Trần Thị Thái, con gái của Trần Nguyên Đán. Nguyễn Trãi thi đỗ Thái học sinh (tiến sĩ) năm 1400, cha con đều từng làm quan dưới triều Hồ. Sau khi Việt Nam bị rơi vào sự cai trị của nhà Minh, Nguyễn Trãi tham gia vào cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo. Ông trở thành mưu sĩ bày tính mưu kế về mọi mặt chính trị, quân sự, ngoại giao của nghĩa quân Lam Sơn. Ông là khai quốc công thần của nhà Hậu Lê, được ban quốc tính, năm 1428 viết Bình Ngô đại cáo thiên cổ hùng văn, năm 1433 ông đã viết văn bia Vĩnh Lăng nổi tiếng khi Lê Lợi mất,.Tuy nhiên, năm 1442, toàn thể gia đình Nguyễn Trãi bị tru di tam tộc trong vụ án Lệ Chi Viên. Năm 1464, vua Lê Thánh Tông xuống chiếu giải oan cho ông. Ức Trai tâm thượng quang Khuê tảo (Lòng Ức Trai sáng như sao Khuê).

        Dưới đây là năm bài thơ trong Những kiệt tác thơ văn Nguyễn Trãi và cảm nhận “Trời ban tối biết về đâu?” của Vũ Bình Lục

        YÊN TỬ

        Nguyên văn chữ Hán

        題 安子山花煙寺

        安山山上最高峰,
        纔五更初日正紅。
        宇宙眼窮滄海外,
        笑談人在碧雲中。
        擁門玉槊森千畝,
        掛石珠流落半空。
        仁廟當年遺跡在,
        白毫光裏睹重瞳。

        Ðề Yên Tử sơn Hoa Yên tự

        Yên Sơn sơn thượng tối cao phong
        Tài ngũ canh sơ nhật chính hồng
        Vũ trụ nhãn cùng thương hải ngoại
        Tiếu đàm nhân tại bích vân trung
        Ủng môn ngọc sóc sâm thiên mẫu
        Quải thạch châu lưu lạc bán không
        Nhân miếu đương niên di tích tại
        Bạch hào quang lý đổ trùng đồng.

        YÊN TỬ

        Đề chùa Hoa Yên, núi Yên Tử
        Nguyễn Trãi

        Non thiêng Yên Tử đỉnh kỳ phong
        Trời mới ban mai đã rạng hồng
        Vũ trụ mắt soi ngoài biển cả
        Nói cười lồng lộng giữa không trung
        Giáo trúc quanh chùa giăng nghìn mẫu
        Cỏ cây chen đá rũ tầng không
        Nhân Tông bảo tháp còn lưu dấu
        Mắt sáng hào quang tỏa ánh đồng

        (Bản dịch của Hoàng Kim)

        Trên dải Yên Sơn đỉnh tuyệt vời
        Đầu canh năm đã sáng trưng rồi
        Mắt ngoài biển cả ôm trời đất
        Người giữa mây xanh vẳng nói cười
        Giáo ngọc quanh nhà giăng vạn khoảnh
        D4i châu treo đá rũ lưng trời
        Nhân Tông còn miếu thời nao đó
        Thấy rõ đôi ngươi giữa ánh ngời (1)

        (1) Tương truyền vua Trần Nhân Tông mắt có hai con ngươi
        (Bản dịch của Khương Hữu Dụng)

        Trên núi Yên Tử chòm cao nhất
        Vừa mới canh năm đã sáng trời
        Tầm mắt bao trùm nơi biển tận
        Từng mây nghe thoảng tiếng ai cười
        Rừng vươn giáo dựng tre nghìn mẫu
        Đá rũ rèm buông nhũ nửa vời
        Miếu cổ Nhân Tông hằng để dấu
        Mắt còn trắng tỏa ánh đôi ngươi.

        (Bản dịch của Lê Cao Phan)

        Trên non Yên Tử chòm cao nhất,
        Trời mới canh năm đã sáng tinh.
        Vũ trụ mắt đưa ngoài biển cả,
        Nói cười người ở giữa mây xanh.
        Muôn hàng giáo ngọc tre gài cửa,
        Bao dãi tua châu đá rủ mành.
        Dấu cũ Nhân tôn còn vẫn đấy,
        Trùng đồng thấy giữa áng quang minh.

        (Bản dịch của nhóm Đào Duy Anh)
        Nguồn: Nguyễn Trãi toàn tập, Đào Duy Anh,
        NXB Khoa học xã hội, 1976

        Trên non Yên Tử ngọn cao nhất
        Chỉ mới canh năm sáng đỏ trời!
        Ngoài vũ trụ xanh màu biển thẳm
        Giữa mây biếc rộn tiếng người cười.
        Cửa cài ngọc dựng, ken nghìn mẫu
        Đá rũ châu rơi, rớt nửa vời!
        Miếu cổ Nhân Tông di tích đó
        Đôi mày sáng trắng rực hai ngươi!

        (Bản dịch của Lâm Trung Phú)

        NGÔN CHÍ

        Am trúc, hiên mai ngày tháng qua
        Thị phi nào đến chốn yên hà
        Cơm ăn dù có dưa muối
        Áo mặc nài chi gấm là
        Nước dưỡng cho thanh, trì thưởng nguyệt
        Đất cày ngõ ải luống ương hoa
        Trong khi hứng động bề đêm tuyết
        Ngâm được câu thần dững dưng ca

        Tà dương bóng ngả thuở giang lâu
        Thế giới đông nên ngọc một bầu
        Tuyết sóc treo cây điểm phấn
        Cõi đông giãi nguyệt in câu.
        Khói chìm thuỷ quốc quyên phẳng
        Nhạn triện hư không gió thâu
        Thuyền mọn còn chèo chẳng khứng đỗ
        Trời ban tối biết về đâu?

        QUAN HẢI

        Nguyên văn chữ Hán

        樁木重重海浪前
        沉江鐵鎖亦徒然
        覆舟始信民猶水
        恃險難憑命在天
        禍福有媒非一日
        英雄遺恨幾千年
        乾坤今古無窮意
        卻在滄浪遠樹烟

        Thung mộc trùng trùng hải lãng tiền
        Trầm giang thiết tỏa diệt đồ nhiên
        Phúc chu thủy tín dân do thủy
        Thị hiểm nan bằng mệnh tại thiên.
        Họa phúc hữu môi phi nhất nhật
        Anh hùng [3] di hận kỷ thiên niên.
        Càn khôn kim cổ vô cùng ý,
        Khước tại thương lang viễn thụ yên.

        Dịch nghĩa : NGẮM BIỂN

        Cọc gỗ lớp lớp trồng trước sóng biển
        Xích sắt ngầm dưới sông cũng vậy thôi.
        Thuyền bị lật mới tin rằng dân là như nước
        Cậy đất hiểm cũng khó dựa, mệnh là ở trời.
        Họa phúc có manh mối không phải một ngày
        Anh hùng để mối hận mấy nghìn năm sau.
        Lẽ của trời đất và xưa nay, thực là vô cùng
        Vẫn là ở chỗ sắc nước bát ngát, cây khói xa vời

        CỬA BIỂN

        Lớp lớp cọc ngăn giữa sóng nhồi
        Thêm ngầm dây sắt – uổng công thôi !
        Lật thuyền, thấm thía dân như nước
        Cậy hiểm, mong manh : mệnh ở trời
        Hoạ phúc có nguồn, đâu bỗng chốc?
        Anh hùng để hận, dễ gì nguôi?
        Xưa nay trời đất vô cùng ý
        Nơi sóng xanh cây khói tuyệt vời

        (Bản dịch của HƯỞNG TRIỀU)

        OAN THÁN

        Nguyên văn chữ Hán

        浮俗升沉五十年
        故山泉石負情緣
        虛名實禍殊堪笑
        眾謗孤忠絕可憐
        數有難逃知有命
        大如未喪也關天
        獄中牘背空遭辱
        金闕何由達寸箋

        Phù tục thăng trầm ngũ thập niên ;
        Cố sơn tuyền thạch phụ tình duyên.
        Hư danh thực họa thù kham tiếu ;
        Chúng báng cô trung tuyệt khả liên.
        Số hữu nan đào tri thị mệnh ;
        Văn như vị táng dã quan thiên.
        Ngục trung độc bối [1] không tao nhục ;
        Kim khuyết hà do đạt thốn tiên ?

        Dịch nghĩa THAN NỔI OAN

        Nổi chìm trong phù tục đã năm chục năm,
        Đành phụ tình duyên với khe và đá của núi cũ.
        Danh hư mà họa thực, rất đáng buồn cười ;
        Lắm kẻ ghét một mình trung, rất đáng thương hại.
        Khó trốn được số mình, biết là vì mệnh ;
        Tư văn như chưa bỏ, cũng bởi ở trời.
        Trong ngục viết ở lưng tờ, khi không bị nhục ;
        Cửa khuyết vàng làm thế nào mà đạt được tờ giấy lên ?

        Dịch Thơ: THAN NỔI OAN:

        Biển tục thăng trầm nữa cuộc đời
        Non xưa suối đá phụ duyên rồi
        Trung côi , ghét lắm, bao đau xót
        Họa thực, danh hư , khéo tức cười
        Số khó lọt vành âu bởi mệnh
        Văn chưa tàn lụi cũng do trời
        Trong lao độc bối cam mang nhục
        Cửa khuyết làm sao tỏ khúc nhôi?

        Bản dịch của Thạch Cam

        Năm mươi năm thế tục bình bồng
        Khe núi lòng cam bội ước chung
        Cười nạn hư danh, trò thực họa
        Thương phường báng bổ kẻ cô trung
        Mạng đà định số, làm sao thoát
        Trời chửa mất văn, vẫn được dùng
        Lao ngục đau nhìn lưng mảnh giấy
        Oan tình khó đạt tới hoàng cung.

        Bản dịch của Lê Cao Phan

        TRỜI BAN TỐI, BIẾT VỀ ĐÂU?

        Vũ Bình Lục

        (Về bài thơ NGÔN CHÍ – SỐ13 của Nguyễn Trãi)

        Tà dương bóng ngả thuở giang lâu
        Thế giới đông nên ngọc một bầu
        Tuyết sóc treo cây điểm phấn
        Cõi đông giãi nguyệt in câu.
        Khói chìm thuỷ quốc quyên phẳng
        Nhạn triện hư không gió thâu
        Thuyền mọn còn chèo chẳng khứng đỗ
        Trời ban tối biết về đâu?

        Nguyễn Trãi sống cách chúng ta khoảng sáu trăm năm. Riêng nói về thơ Nôm, dẫu thất lạc sau thảm hoạ tru di năm 1442, cũng còn được hơn 250 bài. Có thể nói, Nguyễn Trãi đã dựng lên một tượng đài sừng sững bằng thơ, mà trước hết là thơ viết bằng ngôn ngữ dân tộc-Thơ Nôm. Chùm thơ “Ngôn chí” có rất nhiều bài hay, đọc kỹ, nghiền ngẫm kỹ mới thấy cái hay, bởi chữ Nôm cách nay sáu trăm năm, rất nhiều từ nay không còn dùng nữa, hoặc rất ít dùng. Phải tra cứu một số từ, một số điển tích, mới dần sáng tỏ một hồn thơ lớn, lớn nhất, trong lịch sử thơ ca Việt Nam!

        Đây là bài Ngôn chí số 13, do những người biên soạn sách Tuyển tập thơ văn Nguyễn Trãi sắp xếp.

        Hai câu đầu: Tà dương bóng ngả thuở giang lâu
        Thế giới đông nên ngọc một bầu

        Hai câu thơ đơn thuần chỉ là tả cảnh, đặc tả một buổi chiều, mà gam màu chủ đạo là màu vàng thẫm rất quen mà huyễn hoặc. Bóng chiều tà đã ngả, đang quấn lấy một ngôi lầu ở bên sông, hay đang trùm lên ngôi lầu bên sông một màu vàng thẫm. Nhưng có điều cần lưu ý, đây là ngôi lầu giành cho đàn bà con gái thuộc tầng lớp quý tộc giàu sang, trong một không gian rộng lớn và yên tĩnh, rất yên tĩnh. Câu tiếp theo mới thật diễm lệ: Thế giới đông nên ngọc một bầu. Vậy thế giới đông là gì? Theo điển dẫn, đông chính là khí tốt, khí thiêng của thế giới, của vũ trụ đông đặc lại mà thành phong cảnh đẹp như ngọc. Thế đấy! Còn như Bầu, cũng theo điển sách Đạo gia, kể rằng Trương Thân thường treo một quả bầu rất lớn, hoá làm trời đất, ở trong cũng có mặt trời mặt trăng, đêm chui vào đó mà ngủ, gọi là trời bầu, hay bầu trời cũng vậy…Quả là một bức tranh được vẽ bằng ngôn ngữ, rất xưa, tinh khiết và tráng lệ, dường như đã đạt đến mức cổ điển!

        Đấy là hai câu thất ngôn. Hai câu tiếp theo, lại là lục ngôn, vẫn tiếp tục tả cảnh:
        Tuyết sóc treo cây điểm phấn
        Cõi đông giải nguyệt in câu.

        Tuyết sóc, nghĩa là tuyết ở phương bắc (sóc) chả biết gieo xuống từ bao giờ, mà còn giăng mắc trên những cành cây như những bông hoa trắng muốt, như điểm phấn cho cây, trang trí làm đẹp cho cây. Có người bảo nước ta làm gì có tuyết, chỉ là ước lệ cho đẹp văn chương mà thôi. Nhưng họ nhầm đấy! Các tỉnh phía Bắc nước ta như Lào Cai, Hà Giang và chắc là còn một số nơi khác nữa ngày nay vẫn có tuyết, nhiều nữa kia. Vậy thì sao thơ văn ngày xưa các cụ ta nói đến tuyết, con cháu lại hàm hồ bác bỏ? Cách đây mấy trăm năm, sao lại không thể không có tuyết mà các cụ phải đi mượn của người? Phía bắc là tuyết, là hoa tuyết điểm phấn cho cây, thì Cõi đông giải nguyệt in câu. Phương đông in một giải lụa trăng vàng óng. Thế là cả một không gian rực rỡ sắc màu. Màu trắng của tuyết hoa tương ánh cùng màu vàng của ánh nguyệt in bóng nước, của chiều tà vàng thẫm, tạo một bức tranh vừa rộng vừa sâu, gợi một khoảnh khắc giao thoa hỗn mang rất nhiều tâm trạng.

        Hai câu tiếp theo, vẫn cấu trúc bằng lục ngôn:
        Khói chìm thuỷ quốc quyên phẳng
        Nhạn triện hư không gió thâu

        Bây giờ là sương khói trong chiều muộn. Cúi xuống nhìn dòng nước, thấy khói chiều in xuống mặt nước trong veo phẳng lặng. Quyên, từ cổ là mặt nước trong, do đó quyên phẳng nghĩa là mặt nước trong phẳng lặng, như thể nhìn rõ khói chiều đang chìm dưới đáy nước. Rõ là nước lộn trời, vàng gieo đáy nước, “Long lanh đáy nước in trời / Thành xây khói biếc, non phơi bóng vàng”. Có lẽ Nguyễn Du mấy trăm năm sau đã tiếp thu tinh thần của câu thơ Nguyễn Trãi mà sáng tạo lại trong Truyện Kiều câu thơ trên, khi mà tiếng Việt đã đạt đến độ nhuần nhuyễn và trang nhã chăng? Còn trên trời thì đàn chim nhạn đang xếp hình chữ triện mà mỏi mệt bay về rừng tìm chốn ngủ. Và gió nhẹ, thổi rỗng cả trời…

        Cảnh chỉ là điểm xuyết, mà gợi nên bức tranh đủ sắc màu, rất sống động, và tiếp đó, nó như thể đang chuyển động dần về phía đêm tối, về phía lụi tàn.

        Hai câu cuối, tác giả viết:
        Thuyền mọn còn chèo chẳng khứng đỗ
        Trời ban tối ước về đâu?

        Con thuyền nhỏ nhoi (Thuyền mọn) của Tiên sinh, hay con thuyền của một vị khách nào đó, vẫn còn đang mải miết chèo trên sông, như chẳng muốn dừng lại. Trong nhập nhoạng bóng tà, con thuyền mọn như càng nhỏ bé hơn, chưa muốn, hay chưa tìm được nơi đỗ lại mà nghỉ ngơi, hay bởi vì Trời ban tối, ước về đâu, biết về đâu? Câu bảy thất ngôn, dàn trải thêm, biểu hiện sự buông thả, lửng lơ, phân vân… Câu tám bỗng đột ngột thu lại lục ngôn, như một sự dồn nén tâm sự.

        Có bao nhiêu phần trăm sự thực trong bức tranh chiều tà bên sông lộng lẫy mà buồn? Có lẽ cũng chẳng nên đặt vấn đề cân đong cụ thể, bởi thơ nhìn chung là sản phẩm sáng tạo của trí tưởng tượng, thực và ảo hoà trộn đan xen. Hai câu kết của bài thơ xem ra mới thật sự là tâm điểm của bài thơ. Phải chăng, con thuyền mọn kia, chính là hình ảnh Ức Trai Tiên sinh, như con thuyền nhỏ bé ấy, đang một mình đi tìm bến đỗ, mà chưa tìm thấy nơi đâu là bến là bờ? Từ cái ngôn chí này, có thể ước đoán Ức Trai viết bài thơ này vào thời điểm quân Minh đang đô hộ nước ta, Ức Trai đang bị giam lỏng ở thành Đông Quan, chưa tìm được minh chủ mà đem tài giúp nước? Cũng có thể đây là thời điểm Nguyễn Trãi bị thất sủng, về ở ẩn tại Côn Sơn, trong hoàn cảnh chính sự trong nước đang rất đen tối, nhất là ở nơi triều chính. Nguyễn Trãi từ tin tưởng, đến nghi ngờ và thất vọng trước thực tại đau lòng: Biết bao trung thần bị hãm hại, còn lũ gian thần hiểm ác nổi lên như ong, nhũng lọan cả triều đình. Làm sao mà không bi quan cho được khi mà Trời ban tối, biết về đâu?

        *

        Lên non thiêng Yên Tử, tôi thành tâm đi bộ từ chùa Hoa Yên lúc nửa đêm để lên thấu đỉnh chùa Đồng lúc ban mai.Nguyễn Trãi bài thơ thần trên trang sách mở, lồng lộng giữa nền trời bình minh trên đỉnh cao phong Yên Tử. Tôi chợt tỉnh thức, thấm thía, thấu hiểu sự nhọc nhằn của đức Nhân Tông hội tụ minh triết Việt. Nguyễn Trãi kiệt tác thơ văn.”xưa nay trời đất vô cùng ý. Nơi sóng xanh cây khói tuyệt vời”.

        NGUYỄN TRÃI DỤC THÚY SƠN
        Hoàng Kim

        Qua Non Nước Ninh Bình
        Nhớ thơ hay Nguyễn Trãi
        Người hiền in bóng núi
        Hoàng Long sông giữa lòng:

        “Cửa biển có non tiên
        Năm xưa thường lại qua
        Hoa sen nổi trên nước
        Cảnh tiên rơi cõi trần


        Bóng tháp xanh trâm ngọc
        Tóc mây biếc nước lồng
        Nhớ hoài Trương Thiếu Bảo
        Bia cổ hoa rêu phong”


        Dục Thuý sơn
        Nguyễn Trãi

        Hải khẩu hữu tiên san,
        Niên tiền lũ vãng hoàn.
        Liên hoa phù thuỷ thượng,
        Tiên cảnh truỵ nhân gian.


        Tháp ảnh, trâm thanh ngọc,
        Ba quang kính thuý hoàn.
        Hữu hoài Trương Thiếu Bảo (*),
        Bi khắc tiển hoa ban.

        (*) Trương Hán Siêu “Phú sông Bạch Đằng” đã thuật lại cuộc chiến sông Bạch Đằng nơi voi chiến sa lầy rơi nước mắt và lời thề trên sông Hóa 1288 của Hưng Đạo Vương. Lời thơ hào hùng bi tráng: “Thuyền bè muôn đội, tinh kỳ phấp phới/ Hùng dũng sáu quân, giáo gươm sáng chói/ Trận đánh được thua chửa phân/ Chiến lũy bắc nam đối chọi/ Tất Liệt thế cường, Lưu Cung chước dối/ Những tưởng gieo roi một lần/ Quét sạch Nam bang bốn cõi/ Trời cũng chiều người/ Hung đồ hết lối!”

        Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải viết: ‘Thái bình tu nổ lực/ Vạn cổ thử giang san”.

        (**) Dục Thuý sơn 浴翠山 • Núi Dục Thuý nguyên văn chữ Hán (Nguồn: Thi Viện) Thơ » Việt Nam » Hậu Lê, Mạc, Trịnh-Nguyễn » Nguyễn Trãi » Ức Trai thi tập » Thơ làm sau khi thành công và làm quan ở triều

        浴翠山

        海口有仙山,
        年前屢往還。
        蓮花浮水上,
        仙景墜塵間。
        塔影針青玉,
        波光鏡翠鬟。
        有懷張少保,
        碑刻蘚花斑。


        (***) Lương Hữu Khánh danh nhân Việt làm bài thơ (Nho Tăng đồng chu) “Cùng qua một chuyến đò”, nghe nói tại bến đò nơi này
        http://thovanhoangkim.blogspot.com/2014/10/luong-huu-khanh-danh-nhan-viet.html .

        CÙNG QUA MỘT CHUYẾN ĐÒ
        Lương Hữu Khánh


        Một hòm kinh sử, níp kim cương.
        Người, tớ cùng qua một chuyến dương.
        Đám hội đàn chay người đủng đỉnh.
        Sân Trình cửa Khổng tớ nghênh ngang.
        Sao người chẳng nhớ lời Hàn Dũ.
        Đây tớ còn căm chuyện Thủy Hoàng.
        Một chốc lên bờ đà tiễn biệt.
        Người thì lên Phật, tớ nên sang.

        Đây là bài thơ “Nho Tăng đồng chu” rất nổi tiếng của Lương Hữu Khánh, hiện đã có nhiều bản dịch về bài thơ này nhưng dịch lý và ý tứ bản gốc thật sâu sắc, cần đọc lại và suy ngẫm (Linh Giang, ảnh HK chỉ dùng để minh họa). Lương Hữu Khánh Thượng thư Bộ Lễ thời Lê Trung hưng, con của Tả Thị lang Bộ Lại Bảng nhãn Lương Đắc Bằng, nhà dịch lý thông tuệ thầy học của Nguyễn Bỉnh Khiêm , người làng Lạch Triều, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Lương Hữu Khánh là học trò của Nguyễn Bỉnh Khiêm, được vợ chồng thầy học biệt đãi như con đẻ cho ở trong nhà. Ông đã yêu con gái lớn của Trạng Trình. Do cha của ông có những uẩn khúc với triều đình và đã qua đời, mẹ là thiếp làm nghề buôn bán sinh ông ở Thăng Long, đường khoa cử và lập gia đình của ông trắc trở. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã tùy duyên mà gả con gái cho Phó Vệ uý Hầu tước Phạm Dao. Lương Hữu Khánh đã buồn rầu bỏ thi Đình của nhà Mạc để về Thanh Hóa khởi nghiệp trung hưng nhà Lê. Lương Hữu Khánh tính tình cương trực, thanh liêm, giản dị, an nhiên, nếp sống thanh cao, hào sảng, nối được chí hướng của cha, luôn gìn giữ truyền thống gia phong, tôn trọng đạo đức. Lương Hữu Khánh là nhân vật trọng yếu của triều đình nhà Lê. Ông đã cùng với chúa Trịnh Tùng, vị tiết chế tài năng, có tầm nhìn xa rộng và Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan, nhà quân sư tài danh và ngoại giao lỗi lạc, đã nối được chí hướng của thầy học Nguyễn Bỉnh Khiêm, lấy yêu dân và vận nước làm trọng, để nỗ lực tôn phù vua sáng, thay đổi được cục diện chiến tranh Lê-Mạc kéo dài. xem tiếp
        https://hoangkimlong.wordpress.com/category/nguyen-trai-duc-thuy-son/

        ĐẾN VỚI TÂY NGUYÊN MỚI
        Hoàng Kim

        Đến với Tây Nguyên mới
        Thăm lại chiến trường xưa
        Đất khoai sắn nuôi người
        Sử thi vùng huyền thoại.

        Vầng đá chốn đại ngàn
        Rượu cần nơi bản vắng
        Câu cá bên dòng Sêrêpôk
        Tắm tiên Chư Jang Sin

        Thương Kim Thiết Vũ Môn
        Nhớ người hiền một thuở
        Hồ Lắk Đình Lạc Giao
        Biển Hồ Chùa Bửu Minh

        Nước rừng và sự sống
        Chuyện đời không thể quên
        Cây Lương thực bạn hiền
        Lớp học vui ngày mới

        Ai ẩn nơi phố núi
        Ai tỏ Ngọc Quan Âm
        Ai hiện chốn non xanh
        Mây trắng trời thăm thẳm
        Nước biếc đất an lành

        Soi bóng mình đáy nước
        Sáng bình minh giữa đời
        Thung dung làm việc thiện
        Vui bước tới thảnh thơi

        Đến với Tây Nguyên mới
        Bao chuyện đời không quên
        xem tiếp
        https://hoangkimlong.wordpress.com/category/den-voi-tay-nguyen-moi-2/

        LÝ BẠCH THƠ TRĂNG SÁNG
        Hoàng Kim

        Thi Tiên Lý Bạch “Tĩnh dạ tứ” thật tuyệt vời !

        TĨNH DẠ TỨ 靜夜思
        Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh

        Lý Bạch
        Đầu giường ánh trăng rọi,
        Mặt đất như phủ sương.
        Ngẩng đầu nhìn trăng sáng,
        Cúi đầu nhớ cố hương.”

        (Bản dịch của Nam Trân)

        *

        Ngắm vầng trăng cổ tích
        Ngắm dấu chân thời gian
        Lý Bạch thơ trăng sáng
        Nguyễn Trãi Dục Thúy Sơn,

        Trần Tử Ngang thơ Người
        Trần Khánh Dư “Bán than”
        Phạm Ngũ Lão Thuật Hoài,
        Mạnh Hạo Nhiên xuân hiểu

        Đặng Dung thơ Cảm hoài
        Đỗ Phủ thơ mưa lành
        Ca dao Việt “Cày đồng”
        Mãn Giác thơ “Hoa Mai”

        Tứ quý hoa bốn mùa
        Tự do ngời tâm đức
        Chỉ tình yêu ở lại
        Văn chương ngọc cho đời

        xem tiếp 16 đường dẫn https://hoangkimlong.wordpress.com/category/ly-bach-tho-trang-sang/

        Nguyên tác Tĩnh dạ tứ Lý Bạch, dịch nghĩa và một số bản dịch chọn lọc

        ĐỖ PHỦ THƠ MƯA LÀNH
        Hoàng Kim

         

        Thi Thánh Đỗ Phủ hay nhất là thơ mưa lành, sánh với thi Tiên Lý Bạch thơ trăng tuyệt vời !

        Xuân dạ hỉ vũ 春夜喜雨 •
        Đêm xuân mừng mưa
        Đỗ Phủ

        Trời tốt, mưa lành tới
        Đang xuân chợt nhẹ rơi
        Vào đêm theo với gió
        Êm tiếng mát cho đời
        Đường nội làn mây ám
        Thuyền sông ánh lửa ngời
        Sớm trông miền đỏ thắm
        Hoa nở Cẩm Thành tươi

        Bản dịch của
        Lê Nguyễn Lưu
        Nguồn: Đường thi tuyển dịch, NXB Thuận Hoá, 1997″

        ĐỖ PHỦ THƯƠNG ĐỌC LẠI
        Hoàng Kim

        Văn chương lưu muôn đời
        Bậc thầy gương vạn thuở
        Thi thánh và thi sử
        Đỗ Phủ Đặng Dung ơi

        Dụng kiếm dưới trăng soi
        Hùng tâm thiên cổ lụy
        Bậc danh sĩ tinh hoa
        Bút thần hơn kiếm ý

        ‘Lều tranh nát gió thu’
        ‘Bát trận đồ’ ‘Xuân vọng’
        Đỗ Phủ thương đọc lại
        Sao Mai soi tỏ lòng.

        xem tiếp Đỗ Phủ thương đọc lại
        Xem tiếp >>

          Dạy và học 31 tháng 10(30-10-2021)

        DẠY VÀ HỌC 31 THÁNG 10
        Hoàng Kim
        CNM365 Tình yêu cuộc sốngNguyễn Du trăng huyền thoại; Nguyễn Du tư liệu quý; Mạnh Hạo Nhiên xuân hiểu; Vào Tràng An Bái Đính; Sông Hoàng Long chảy hoài; Nợ duyên; Nghiên cứu Kinh Dược Sư; Nguyễn Minh Không Bái Đính; Đêm trắng và bình minh; Kim Dung trong ngày mới; Trần Tử Ngang thơ Người; Trần Khánh Dư “Bán than”; Vạn Kiếp binh thư truyền; Ngẫm thơ ngoài ngàn năm; Ca dao Việt “Cày đồng”; Mãn Giác thơ “Hoa Mai”; Tiếng Việt lung linh sáng; Thơ Việt ngoài ngàn năm; Ngày 31 tháng 10 năm 1138, ngày mất Lý Thần Tông, Hoàng đế thứ năm của nhà Lý, Việt Nam liên quan tới  thiền sư Nguyễn Minh Không huyền thoại Bái Đính và Kinh Dược Sư. Ngày 31 tháng 10 năm 1941, tượng điêu khắc bốn tổng thống Mỹ George Washington, Thomas Jefferson, Theodore Roosevelt và Abraham Lincoln, biểu trưng cho lịch sử 130 năm đầu tiên của nước Mỹ được hoàn thành tại núi Rushmore, Nam Dakota  sau 14 năm xây dựng. Ngày 31 tháng 10 năm 1517, Martin Luther nhà cải cách tôn giáo nổi tiếng, nhà thần học người Đức, đã  treo chín mươi lăm luận đề trên cửa Nhà thờ Lâu đài Wittenberg, nay thuộc Đức,  khởi đầu phong trào Kháng cách của tân giáo Tin Lành (là một trong ba nhánh chính của Cơ Đốc giáo, cùng với Công giáo Rôma và Chính Thống giáo Đông phương);  Bài viết chọn lọc 31 tháng 10: Nguyễn Du trăng huyền thoại; Nguyễn Du tư liệu quý; Mạnh Hạo Nhiên xuân hiểu; Vào Tràng An Bái Đính; Sông Hoàng Long chảy hoài; Nợ duyên; Nghiên cứu Kinh Dược Sư; Nguyễn Minh Không Bái Đính; Đêm trắng và bình minh; Kim Dung trong ngày mới; Trần Tử Ngang thơ Người; Trần Khánh Dư “Bán than”; Vạn Kiếp binh thư truyền; Ngẫm thơ ngoài ngàn năm; Ca dao Việt “Cày đồng”; Mãn Giác thơ “Hoa Mai”; Tiếng Việt lung linh sáng; Thơ Việt ngoài ngàn năm; Thông tin tại http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-31-thang-10/; 

        NGUYỄN DU TRĂNG HUYỀN THOẠI
        Hoàng Kim

        Vị thiền sư Linh Nhạc Phật Ý tại Tổ Đình chùa cổ Thủ Đức trong giấc mơ lạ
        Nguyễn Du nửa đêm đọc lại đã khuyên tôi viết Nguyễn Du trăng huyền thoại bằng cách lập “Nguyễn Du niên biểu luận” cuộc đời và thời thế Nguyễn Du để tìm hiểu về Người. Theo vị Thiền sư này thì dấu vết chứng cứ sự thật hàng năm của Nguyễn Du là chỉ dấu đáng tin cậy của thời ấy về những sự kiện trọng yếu của thời thế đã gợi ý chi phối thế xuất xử của Nguyễn Du bình sinh và hành trạng, để hậu thế chúng ta có thể hiểu đúng sự thật và huyền thoại về ông. Những sự kiện chính tại đàng Trong và đàng Ngoài với các nước liên quan trong hệ quy chiếu lấy chính Nguyễn Du và gia tộc của ông làm trung tâm sẽ là dẫn liệu thông tin thực sự có ích để thấu hiểu chính xác ẩn ngữ Truyện Kiều, lịch sử, văn hóa, con người, bối cảnh hình thành kiệt tác “300 năm nữa chốc mòng Biết ai thiên ha khóc cùng Tố Như” xem tiếp http://hoangkimlong.wordpress,com/category/nguyen-du-trang-huyen thoại

        Tác phẩm bao gồm chín bài, mục lục như sau: 1
        Nguyễn Du thơ chữ Hán Kiếm bút thấu tim Người, Đấng danh sĩ tinh hoa, Nguyễn Du khinh Thành Tổ, Bậc thánh viếng đức Hòa 2 Nguyễn Du tư liệu quý Linh Nhạc thương người hiền, Trung Liệt đền thờ cổ, “Bang giao tập” Việt Trung, Nguyễn Du niên biểu luận 3 Nguyễn Du Hồ Xuân Hương “Đối tửu” thơ bi tráng, “Tỏ ý” lệ vương đầy, Ba trăm năm thoáng chốc, Mại hạc vầng trăng soi. 4 Nguyễn Du Nguyễn Công Trứ Uy Viễn “Vịnh Thúy Kiều”, Tố Như “Đọc Tiểu Thanh”, Bến Giang Đình ẩn ngữ, Thời biến nhớ người xưa. 5 Nguyễn Du thời Tây Sơn Mười lăm năm tuổi thơ, Mười lăm năm lưu lạc, Thời Hồng Sơn Liệp Hộ, Tình hiếu thật phân minh 6 Nguyễn Du làm Ngư Tiều Câu cá và đi săn, Ẩn ngữ giữa đời thường, Nguyễn Du ức gia huynh, Hành Lạc Từ bi tráng 7 Nguyễn Du thời nhà Nguyễn Mười tám năm làm quan, Chính sử và Bài tựa, Gia phả với luận bàn. Bắc hành và Truyện Kiều 8 Nguyễn Du tiếng tri âm Hồ Xuân Hương là ai, Kiều Nguyễn luận anh hùng, Thời Nam Hải Điếu Đồ, Thời Hồng Sơn Liệp Hộ 9 Nguyễn Du trăng huyền thoạiĐi thuyền trên Trường Giang,Tâm tình và Hồn Việt, Tấm gương soi thời đại. Mai Hạc vầng trăng soi,

        Tôi viết
        Nguyễn Du trăng huyền thoại cho những ai vốn thích Nguyễn Du và Truyện Kiều nhưng chỉ có sách Truyện Kiều và một ít bộ sách quý có liên quan mà chưa thể có thời gian đào sâu tìm hiểu về bộ kiệt tác văn chương Việt kỳ lạ này với những ẩn ngữ thời thế cuộc đời Nguyễn Du lắng đọng vào trang sách. Bạn đọc để đỡ tốn công, tôi xin có ít lời hướng dẫn cách đọc chùm 9 bài này như sau. Đầu tiên bạn nên đọc bảng Mục lục chín bài viết này và xác định mình cần đọc bài nào trong chín bài viết ấy sau đó bấm thẳng vào đường dẫn có tại trang ấy liên kết với chín bài; Thứ hai mời bạn đọc ngay bài bảy mục 2 va 3 đó là Chính sử và Bài tựa/ Gia phả với luận bàn. Muốn hiểu thêm Nguyễn Du trăng huyền thoại cần tìm đọc những sách và tác giả giới thiệu trong bài này và có sự định kỳ cập nhậti. Thứ ba Nguyễn Du là danh sĩ tinh hoa Việt Nam thời nhà Nguyễn Tổng luận Nguyễn Du và Truyện Kiều là sự suy ngẫm lắng đọng.

        Nguyễn Du là danh sĩ tinh hoa Việt Nam thời nhà Nguyễn, là minh sư hiền tài lỗi lạc, là nhà thơ lớn danh nhân văn hóa thế giới, là một hình mẫu con người Việt Nam thuộc về văn hóa tương lai, là một tấm gương trong về phép ứng xử chí thiện, nhân đạo, minh triết giữa thời nhiễu loạn. Ông là tác giả của.Truyện Kiều và Bắc hành tạp lục bài học tâm tình Việt đã thấm sâu vào hồn Việt và lan tỏa khắp thế giới. Nguyễn Du sinh ngày 3 tháng 1 năm 1766, nhằm ngày 23 tháng 11 năm Ất Dậu, tại phường Bích Câu, ở Thăng Long, Hà Nội, mất ngày 16 tháng 9 năm 1820 nhằm ngày 10 tháng tám năm Canh Thìn.

        Tổng luận Nguyễn Du và Truyện Kiều tóm tắt như sau

        1. Nguyễn Du không chỉ là nhà thơ lớn, danh nhân văn hóa thế giới mà còn là danh sĩ tinh hoa, đấng anh hùng hào kiệt minh sư hiền tài lỗi lạc.

        2. Nguyễn Du rất mực nhân đạo và minh triết, ông nổi bật hơn tất cả những chính khách và danh nhân cùng thời. Nguyễn Du vượt lên vinh nhục bản thân giữa thời nhiễu loạn, vàng lầm trong cát để trao lại ngọc cho đời. “Nguyễn Du là người rất mực nhân đạo trong một thời đại ít nhân đạo” (Joocjo Budaren nhà văn Pháp). Ông chí thiện, nhân đạo, minh triết, mẫu hình con người văn hóa tương lai. Kiều Nguyễn Du là bài học lớn về tâm tình hồn Việt. Truyện Kiều của Nguyễn Du đã thấm sâu vào hồn Việt và lan tỏa khắp thế giới.

        3. Nguyễn Du quê hương và dòng họ cho thấy gia tộc họ Nguyễn Tiên Điền là dòng họ lớn đại quý tộc có thế lực mạnh “Triều đình riêng một góc trời/ Gồm hai văn võ, rạch đôi sơn hà”. Vị thế gia tộc Nguyễn Tiên Điền đến mức nhà Lê, họ Trịnh, nhà Tây Sơn, nhà Nguyễn đều tìm mọi cách liên kết, lôi kéo, mua chuộc, khống chế hoặc ra tay tàn độc để trấn phản. Nguyễn Du để lại kiệt tác Truyện Kiều là di sản muôn đời, kiệt tác Bắc hành tạp lục 132 bài, Nam trung tạp ngâm 16 bài và Thanh Hiên thi tập 78 bài, là phần sâu kín trong tâm trạng Nguyễn Du, tỏa sáng tầm vóc và bản lĩnh của một anh hùng quốc sĩ tinh hoa, chạm thấu những vấn đề sâu sắc nhất của tình yêu thương con người và nhân loại. Đặc biệt “Bắc Hành tạp lục” và Truyện Kiều là hai kiệt tác SÁCH NGOẠI GIAO NGUYỄN DU sử thi và tuyên ngôn ngoại giao nhân nghĩa làm rạng danh nước Việt được ghi trong chính sử nhà Nguyễn và và ngự chế Minh Mệnh tổng thuyết

        4. Nguyễn Du niên biểu luận, cuộc đời và thời thế là bức tranh bi tráng của một bậc anh hùng hào kiệt nhân hậu, trọng nghĩa và tận lực vì lý tưởng. Nguyễn Du đã phải gánh chịu quá nhiều chuyện thương tâm và khổ đau cùng cực cho chính ông và gia đình ông bởi biến thiên của thời vận”Bắt phong trần phải phong trần.Cho thanh cao mới được phần thanh cao“. Nguyễn Du mười lăm năm tuổi thơ (1765-1780) mẹ mất sớm, ông có thiên tư thông tuệ, văn võ song toàn, văn tài nổi danh tam trường, võ quan giữ tước vị cao nơi trọng yếu; người thân gia đình ông giữ địa vị cao nhất trong triều Lê Trịnh và có nhiều người thân tín quản lý phần lớn những nơi trọng địa của Bắc Hà. Nguyễn Du mười lăm năm lưu lạc (1781- 1796) Thời Hồng Sơn Liệp Hộ (1797-1802) là giai đoạn đất nước nhiễu loạn Lê bại Trịnh vong, nội chiến, tranh đoạt và ngoại xâm. Nguyễn Du và gia đình ông đã chịu nhiều tổn thất nhưng ông kiên gan bền chí, tận tụy hết lòng vì nhà Lê “Bên tình bên hiếu bên nào nặng hơn. Để lời thệ hải minh sơn. Làm con trước phải đền ơn sinh thành“. Nguyễn Du thời Nhà Nguyễn (1802- 1820) ra làm quan triều Nguyễn giữ các chức vụ từ tri huyên, cai bạ, cần chánh điện đại hoc sĩ, chánh sứ đến hữu tham tri bộ lễ. Ông là nhà quản lý giỏi yêu nước thương dân, Nguyễn Du để lại Truyện Kiều và “Bắc Hành tạp lục” không chỉ là kiệt tác sử thi và tuyên ngôn ngoại giao nhân nghĩa  làm rạng danh nước Việt mà còn là di sản lịch sử văn hóa mẫu mực của dân tộc Việt.

        5. Minh triết ứng xử của Nguyễn Du là bậc hiền tài trước ngã ba đường đời là phải chí thiện và thuận theo tự nhiên “Tùy cơ, tùy vận, tùy thiên mệnh, tùy thời, tùy thế, lại tùy nghi” Nguyễn Du ký thác tâm sự vào Truyện Kiều là ẩn ngữ ước vọng đời người, tâm tình và tình yêu cuộc sống “Thiện căn cốt ở lòng ta, Chữ tâm kia mới thành ba chữ tài” .

        6. Truyện Kiều có tầm ảnh hưởng rất sâu rộng đã trở thành hồn Việt, và là tác phẩm văn học cổ điển Việt Nam được dịch ra hơn 20 thứ tiếng và trên 73 bản dịch. Giá trị tác phẩm Kiệt tác Truyện Kiều của Nguyễn Du có sự tương đồng với kiệt tác Hồng Lâu Mộng của Tào Tuyết Cần.nhưng khác chiều kích văn hóa giáo dục và giá trị tác phẩm.

        7. Nhân cách, tâm thế của con người Nguyễn Du đặt trong mối tương quan với Nguyễn Huệ và Nguyễn Ánh của thời đại Hậu Lê Trịnh – nhà Tây Sơn – đầu triều Nguyễn; khi so sánh với Tào Tuyết Cần là văn nhân tài tử của thời đại cuối nhà Minh đến đầu và giữa nhà Thanh thì vừa có sự tương đồng vừa có sự dị biệt to lớn.

        8. Gia tộc của Nguyễn Quỳnh – Nguyễn Thiếp – Nguyễn Du tương đồng với gia tộc của Tào Tỷ – Tào Dần – Tào Tuyết Cần nhưng nền tảng đạo đức văn hóa khác nhau  Nhấn mạnh điều này để thấy sự cần thiết nghiên cứu liên ngành lịch sử, văn hóa, con người tác gia, bởi điều đó chi phối rất sâu sắc đến giá trị của kiệt tác.

        9. Nguyễn Du trăng huyền thoại gồm tư liệu 540 trang, là vầng trăng huyền thoại soi sáng thời đại Nguyễn Du. (Mục lục của chuyên luận này gồm 9 bài như đã trình bày ở phần trên)

        Tài liệu tham khảo chính

        1. Nguyễn Du tiểu sử trong sách Đại Nam liệt truyện chính biên sơ tập Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn, người dịch Đỗ Mộng Khương, người hiệu đính Hoa Bằng, Viện Sử học Việt Nam, Nhà Xuất bản Thuận Hóa, Huế 2006, trang 400 /716 Tập 2

        Nguyễn Du

        Người huyện Nghi Xuân, trấn Hà Tĩnh, là con Xuân Quận Công đời Lê Nguyễn Nhiễm, và là em Tham tụng Nguyễn Khản; Du là con nhà tướng, có văn tài sẵn khí tiết, không chịu theo giặc. Gia Long sơ, bổ làm Tri phủ Thường Tín, rồi vì ốm xin cáo từ;Năm thứ 5, triệu bổ Đông các học sĩ; Năm thứ 8 ra làm Cai bạ Quảng Bình, trị dân có chính tích; Năm thứ 12, thăng Cần chính điện học sĩ, sung Chánh sứ sang nước Thanh tuế cống, đến khi về thăng Hữu tham tri bộ Lễ

        Minh Mạng năm thứ 1, lại có mệnh đi sứ, chưa đi thì chết. Thánh Tổ Nhân Hoàng đế rất tiếc, cho 20 lạng bạc, hai cây gấm tàu, khi đưa quan về cho thêm 300 quan tiền. Du là người ngạo nghễ tự phụ, mà bề ngoài tỏ ra kính cẩn, mỗi khi vào yết kiến có vẻ sợ hãi như không nói được. Vua thường bảo rằng: Nhà nước dùng người, chỉ cần người hiền, vốn không phân biệt Nam Bắc, ngươi cùng với Ngô Vị đã được đối đãi hậu, làm quan đến Á khanh, nên biết thì phải nói để hết chức phận, khá nên do dự rụt rè chỉ cốt vâng dạ làm gì”.

        Du rất giỏi về thơ, làm thơ quốc âm rất hay, khi sang sứ nước Thanh về, có tập thơ “Bắc hành” và truyện “Thúy Kiều”lưu hành ở đời. Du trước vì gia thế làm quan nhà Lê, gặp loạn Tây Sơn không có chí lại ra giúp đời nữa, còn tự ý đi chơi săn bắn núi Hồng Sơn, 99 ngọn vết chân hầu khắp. Khi bị lệnh triệu không thể từ được mới ra làm quan, thường phải chịu khuất với cấp trên, lấy làm uất ức bất đắc chí . Đến khi bệnh kịch, không chịu uống thuốc, sai người nhà mở duỗi chân tay, nói đã lạnh cả, Du bảo rằng: “Tốt”, nói xong thì chết, không nói một câu nào đến việc sau khi chết. Du có hai em là Thảng và Sóc đều có tài nghệ hiển đạt. Thảng chữ viết chân phương, có tiếng viết tốt, lúc đầu sung vào viện Hàn lâm, khoảng năm Minh Mạng thăng thị lang bộ Công           

        2. Bài tựa của Bùi Kỷ trong sách Nguyễn Du Truyện Thúy Kiều, Bùi Kỷ Trần Trọng Kim hiệu khảo Nhà xuất bản Tân Việt 1968.

        Quyển truyện Thúy Kiều này là một quyển sách kiệt-tác làm bằng quốc-âm ta. Người trong nước từ kẻ ngu-phu ngu-phụ cho chí người có văn-học, ai cũng biết, ai cũng đọc, mà ai cũng chịu là hay. Một quyển sách có giá-trị như thế, mà chỉ hiềm vì các bản in ra, có nhiều bản không giống nhau, rồi có người lại tự ý mình đem chữa đi, chữa lại, thành ra càng ngày càng sai-lầm nhiều thêm ra. Mới đây những bản in bằng quốc-ngữ, tuy có dễ đọc và dễ xem hơn trước, nhưng chưa thấy có bản in nào thật chính đáng, những điều sai lầm vẫn còn như các bản chữ Nôm cũ, mà chữ Quốc ngữ viết lại không được đúng, và những lời giải-thích cũng không kỹ càng lắm. Chúng tôi thấy vậy, mới nhặt nhạnh các bản cũ, rồi so sánh với các bản mới để hiệu chính lại cho gần được nguyên văn. Chúng tôi lại hết sức tìm tòi đủ các điển tích mà giải thích cho rõ ràng, để ai xem cũng hiểu, không phải ngờ điều gì nữa.

        Hiện nay tập nguyên văn của tácgiả làm ra thì không tìm thấy nữa, chỉ có hai bản khác nhau ít nhiều, là bản Phường, in ở phố hàng Gai, Hà Nội, và bản Kinh của vua Dực Tông bản Triều đã chữa lại.

        Bản Phường là bản của ông Phạm Quí Thích đem khắc in ra trước hết cả. Ông hiệu là Lập Trai, người làng Huê Đường (nay đổi là làng Lương Đường) phủ Bình Giang, tỉnh Hải Dương, đỗ tiến sĩ về cuối đời Lê, cùng với tác-giả là bạn đồng thanh đồng khí, cho nên khi quyển truyện này làm xong thì tác giả đưa cho ông xem. Chắc cũng có sửa-đổi lại một vài câu, nhưng xem lời văn thì chỗ nào cũng một giọng cả. Vậy nên chúng tôi thiết tưởng rằng lấy bản Phường làm cốt, thì có lẽ không sai lầm là mấy. Còn những chỗ mà bản Kinh đổi khác đi, hoặc những câu mà về sau người ta sửa lại, thì chúng tôi phụ lục cả ở dưới, để độc giả có thể xem mà cân nhắc hơn kém. Lại có một vài chữ người ta muốn đổi đi, nhưng không đúng với các bản Nôm cũ, thì chúng tôi cũng thích xuống dưới, chứ không tự tiện mà đổi nguyên-văn đi. Chủ-ý của chúng tôi là muốn giữ cho đúng như các bản cũ, chứ không muốn làm cho hay hơn.

        Truyện Thúy Kiều này nguyên lúc đầu tác giả nhan đề là “ĐOẠN-TRƯỜNG TÂN-THANH” 斷腸新聲.  Sau nghe đâu ông Phạm Quí Thích đổi lại là “KIM VÂN KIỀU TÂN-TRUYỆN “金雲翹新傳. Nhưng vì trong truyện chỉ có Thúy Kiều là vai chính, còn Kim Trọng và Thúy Vân là vai phụ cả. Nếu đề như vậy, thì e không hợp lẽ. Vả chăng tục thường gọi là Truyện Kiều, thì chi bằng ta cứ theo thói thường mà nhan đề là Truyện Thúy Kiều, rồi ở dưới đề thêm tên cũ ĐOẠN TRƯỜNG TÂN THANH”, gọi là để tỏ cái ý tồn cổ. Song đấy là nói về phần hình-thức ở bề ngoài, còn về phần tinh thần văn chương trong truyện Thúy Kiều, thì sau này chúng tôi sẽ đem ý kiến riêng mà bày tỏ ra đây, họa may có bổ ích được điều gì chăng. Vậy trước hết xin lược thuật cái tiểu sử của tác giả để độc giả hiểu rõ tác giả là người thế nào.

        Tác-giả húy là Du 攸, tự là Tố-Như 素如, hiệu là Thanh-Hiên 清軒, biệt hiệu là Hồng-Sơn Liệp-hộ 鴻山獵戶, quán tại làng Tiên-Điền, huyện Nghi-Xuân, tỉnh Hà-Tĩnh, con thứ bảy ông Hoàng-giáp Xuân-Quận-công Nguyễn Nghiễm, làm thủ-tướng Lê-triều. Bác ruột là ông Nguyễn Huệ cùng anh là ông Nguyễn Khản đều đỗ tiến-sĩ, làm quan đồng thời. Ông Nguyễn Khản làm đến Lại-bộ Thượng-thư, sung chức Tham-tụng. Còn người anh thứ hai là Điều-nhạc-hầu, húy là Điều, làm Trấn-thủ Sơn-Tây. Cả nhà, cha con, chú bác, anh em, đều là người khoa-giáp, làm quan to đời nhà Lê. Tố-Như tiên-sinh là con bà trắc-thất, người huyện Đông-Ngạn, tỉnh Bắc-Ninh, tên là Thấn 殯. Bà sinh được bốn người con trai tên là Trụ 伷, Nệ 儞, Du 攸 (tức là tiên-sinh) và Ức 億. Tiên-sinh sinh vào ngày nào, thì nay ta không rõ, chỉ biết vào năm ất-dậu là năm Cảnh-Hưng thứ 26 (1765), nghĩa là vào đời Lê-mạt.

        Xem gia-thế nhà tiên sinh, thì tiên sinh là dòng dõi một nhà thế phiệt trâm anh đệ nhất trong nước lúc bấy giờ. Không rõ tiên sinh thụ nghiệp ai, có lẽ là học tập phụ huynh trong nhà. Tiên sinh thuở còn trẻ thiên tư dĩnh ngộ, năm 19 tuổi đã đỗ ba trường, tức là đỗ tú tài. Tiên sinh là người có khí tiết, gặp khi trong nước có biến, nhà Nguyễn Tây Sơn dấy lên, nhà Lê bại vong, tiên sinh đã nhiều phen lo toan sự khôi phục, nhưng vì sự không thành, bỏ về quê ở, lấy sự chơi bời săn bắn làm vui thú. Trong vùng chín mươi chín ngọn núi Hồng Lĩnh không có chỗ nào là chỗ tiên sinh không đi đến. Phải thời quốc phá gia vong, tiên-sinh đã toan bỏ việc đời ra ngoài tai, đem cái thân thế mà vui với non sông. Ấy là cái chí của tiên sinh đã định như thế, nhưng đến khi vua Thế Tổ Cao Hoàng bản Triều đã thống-nhất được giang sơn, có ý muốn thu phục lòng người miền Bắc, xuống chiếu trưng triệu những nhà dòng dõi cựu thần nhà Lê ra lục dụng. Tiên sinh phải triệu ra làm quan, hai ba lần từ chối không được. Năm Gia Long nguyên-niên (1802), tiên sinh phải ra làm tri huyện huyện Phù Dực, (nay thuộc tỉnh Thái-Bình). Được ít lâu bổ đi Tri phủ Thường Tín. Sau tiên-sinh cáo bệnh xin về. Đến năm Gia Long thứ năm (1806) lại phải triệu vào Kinh thụ chức Đông các học sĩ. Năm thứ tám (1809) bổ ra làm Cai Bạ (tức là Bố chính) Quảng-Bình. Năm thứ 12 (1813) thăng lên làm Cần chính điện học sĩ, sung chức chánh sứ sang cống Tàu. Đến khi về, được thăng Lễ bộ Hữu tham tri. Năm Minh Mệnh nguyên niên (1820) lại có chỉ sai tiên sinh đi sứ Tàu lần nữa, nhưng chưa kịp đi thì phải bệnh mất.

        3. Gia phả họ Nguyễn ở Tiên Điền trang 73-81. (có ba trang tiếng Việt và 6 trang tiếng Hán Nôm). Trong sách Lê Xuân Lít 2005. “200 năm nghiên cứu bàn luận truyện Kiều” Nhà Xuất Bản Giáo Dục ,1995 trang

        Gia phả họ Nguyễn ở Tiên Điền
        Thanh Hiên Công – Con thứ Bảy (Nguyễn Du)
        Nguồn: Lê Xuân Lít 2005. Hai trăm năm nghiên cứu bàn luận Truyện Kiều Nhà Xuất bản Giáo Dục, 1995 trang ‘Tôi tin rằng các độc giả sẽ tìm thấy trong tập sách này tất cả những kết quả tiêu biểu nhất mà giới nghiên cứu và phê bình văn học đã thu được trong thời gian hai trăm năm kể từ khi Truyện Kiều ra đời’ (GS Cao Xuân Hạo); Gia phả cụ Nguyễn Du ở trang 73-81 của sách này, gồm 3 trang bản dịch tiếng Việt và 6 trang bản Hán Nôm; Nguyễn Thị Thanh Xuân (dịch) Tài liệu lưu trữ tại Viện Hán Nôm.

        Công tên húy là Du , lúc nhỏ húy Du, tự Tố Như, hiệu Thanh Hiên, sinh năm Ất Dậu (1765) do bà Liệt phu nhân họ Trần sinh ra. Ba tuổi được phong ấm Hoằng Tín đại trung thành môn vệ úy xuất thân Thu Nhạc công. Ông dung mạo khôi ngô, lúc nhỏ Việp Quận công trông thấy lấy làm lạ ban cho bảo kiếm. Năm lên sáu , sách vở đọc qua một lượt là nhớ. Năm Quý Mão (1783) 19 tuổi dự khoa thi Hương ở trường Sơn Nam đỗ Tam trường. Xưa kia môn hạ của Trung Cẩn công là Hà Mỗ làm Chánh Thủ hiệu quân Hùng hậu ở Thái Nguyên , già rồi không có con muốn xin ông làm hậu tự. Trung Cẩn công đồng ý. Khi Hà Mỗ mất thì ông được tập chức của Hà Mỗ. Năm Kỷ dậu (1789) vua Lê chạy sang phương Bắc ông theo hộ giá không kịp, bèn trở về quê vợ, nương nhờ anh vợ là Đoàn Khắc Tuấn (Bàn gia phả chép nhầm. Phải là Đoàn Nguyễn Tuấn mới đúng, Người dịch NTTX viết), người Hải An, Quỳnh Côi, Sơn Nam là con Hoàng giáp Phó đô ngự sử Quỳnh Châu bá Đoàn Nguyễn Thục; (Đoàn Nguyễn Tuấn) tuổi trẻ lãnh giải nguyên kỳ thi Hương, nổi tiếng văn chương, làm quan đến Lại bộ Tả thị lang thời Tây Sơn, tước Hải Phái hầu; (Nguyễn Du) tập hợp hào mục để mưu đồ báo quốc, nhưng chí không đạt được , bèn quay về quê hương, yên vui với sơn thủy, tự đặt hiệu là Hồng Sơn Liệp Hộ, lại hiệu là Nam Hải Điếu Đồ. Mùa đông năm Bính Thìn (1796) toan đi Gia Định , nhưng việc bị tiết lộ, bị tướng trấn thủ là Thận Quận công bắt giữ. Lòng trung nghĩa của ông khích phát thành thơ, có câu rằng: “Hán mạt nhất thời vô nghĩa sĩ. Chu sơ tam kỷ hữu ngoan dân”. Lại có câu: “Đản đắc kỳ tây thánh nhân xuất, Bá Di tuy tử bất vi nhân”. Thận Quận công vốn quen thân với Quế Hiên công là anh ruột của ông nên chỉ bắt giữ vài tháng rồi thả ông về. Mùa hạ năm Nhâm Tuất (1802) tháng sáu, Cao hoàng đế đến Nghệ An , ông đáp lời triệu ra yết kiến vua, phụng mệnh xuất thủ hạ hộ giá ra Bắc. Mùa thu tháng tám , được nhậm chức Tri huyện huyện Phù Dung (thuộc phủ Mục Bình, Khoái Châu, Sơn Nam) Tháng mười một thăng Tri phủ phủ Thường Tín (thuộc xứ Sơn Nam) Mùa đông năm Quý Hợi (1803), (Y sao trang đầu, còn nữa …)

        (tiếp theo) sứ giả nhà Thanh đến sắc phong, ông phụng mệnh cùng đi với Tri phủ Thượng Hồng là Lý Trần Chuyên, Tri phủ Thiên Trường là Ngô Nguyễn Viên, Tri phủ Tiên Hưng là Trần Lưu, đến trấn Nam Quan nghênh tiếp, thơ từ tiễn tặng lúc sứ thần trở về đều do ông soạn thảo. Mùa thu năm Giáp Tý (1804) vì bị bệnh xin từ chức về quê, được hơn một tháng lại có lệnh triệu lên kinh. Mùa xuân năm Đinh Sửu (1805) tháng giêng thăng Đông Các học sĩ, tước Du Đức hầu. Tháng chín mùa thu năm Đinh Mão (1807) được lệnh làm giám khảo trường thi Hương ở Hải Dương . Tháng tám mùa thu năm Mậu Thìn (1808), xin phép nghỉ về quê , được vua ban một trăm quan tiền, một trăm phương thóc. Mùa hạ năm Kỷ Tỵ (1809) tháng tư, được vua chuẩn ban Cai bạ doanh Quảng Bình. Các việc công trong hạt như bình dân , kiện tựng, tiền lương, thuế má … cho phép phối hợp với lưu thủ, ký lục trong hạt bàn bạc rồi thi hành. (Nước ta thoạt đầu đặt Quảng Nam, Quảng Đức, Quảng Trị, Quảng Bình là Trực Lệ, mỗi doanh có một viên lưu thủ , một viên ký lu5ccu4ng như chức trấn thủ, hiệp trấn, tham hiệp… của các trấn. Nay các doanh trấn đều cải là tỉnh: Quảng Đức doanh đổi thành Thừa Thiên phủ tỉnh, đặt chức Bố chánh, Án sát. Còn chức Phủ doãn , Phủ thừa của phủ Thừa Thiên trước đều bãi bỏ. ).

        Ông làm quan được bốn năm , vi chính giản dị, không cầu tiếng tăm, sĩ dân đều tin yêu. mùa thu năm Nhâm Thân (1812) tháng chín, xin nghỉ phép về quê 2 tháng xây phần mộ của Quế Hiên công (Nguyễn Đề) . Tháng 12 được chiếu lệnh triệu đến kinh. Mùa xuân năm Quý Dậu (1813) tháng hai, thăng Cần chánh điện học si4ro62i được vua ban chức Chánh sứ tuế cống bộ, cùng với Phó sứ là Lại bộ Thiêm sự Đàm Ân hầu, Phong Đăng hầu cùng đi sứ phương Bắc. Mùa hạ năm Giáp Tuất (1814) tháng tư (năm đó có trước tác tập Bắc hành tạp lục) trở về nước ông đến kinh phụng mệnh. Tháng sáu được đồng ý cho nghỉ phép sáu tháng. Tháng 12 đến kinh. Mùa hạ tháng 5 năm Ất Hợi (1815) vì được văn giai tấu cử nên được thăng Lễ bộ Hữu Tham Tri. Mùa thu tháng 8 năm Ất Mão (1819) được cử làm Đề điệu trường thi Hương ở Quảng Nam , ông cố khước từ nên được miễn. Năm Canh Thìn (1820) vua Minh Mệnh Nhân hoàng đế lên ngôi, ngự bút viết thư riêng cử ông làm Chánh sứ cầu phong bộ. Chưa kịp đi thì bị bệnh , mất tại kinh đô ngày 10 tháng tám (16.9.1820) là ngày 10 tháng tám năm Canh Thìn niên hiệu Minh Mệnh , hưởng thọ 56 tuổi. Được tin vua thương xót , ban cho thụy là Trung Thanh, cho ân tuất. Lại cho thêm 24 lạng bạc, 2 tấm gấm màu, 30 cân nến sáp, 300 cân dầu. Hoàng mẫu, hoàng đệ cùng các văn quan đều đến phúng điếu. Câu đối liễn của các quan ở kinh có những câu: “Nhất đại tài hoa, vi sứ vi khanh, sinh bất thiêm; bách niên sự nghiệp, tại gia tại quốc, tử do vinh”. Lại có câu: “Nhất viện cầm tôn nhân ký khứ, đại gia văn tự thế không truyền” (Y sao trang hai, còn nữa…)

        (tiếp theo và hết) Giờ phút lâm chung , em ruột ông là Thiêm sự Sóc Nhạc hầu và cháu là Hàn lâm viện Thắng Đức bá đều có mặt ở kinh . Lễ an táng được tiến hành ngay trong tháng đó, mộ tại cánh đồng Bào Đá, xã An Ninh, huyện Quảng Điền. Mùa hạ năm Giáp Thân (1824) con trai thứ là Ngũ đến kinh xin đem về quê quy táng. Vua ban cho 300 quan tiền công và cho dời mộ về địa phận xứ Đồng Ngang thuộc giáp cũ của bản xã (có bút phê). Ông học rộng, nhớ nhiều, sở trường về thơ. Trong số được mệnh danh là “An Nam ngũ tuyệt” thì ông và người cháu là Nam Thúc đã chiếm hai ngôi rồi. Khi ở Huế những lúc rãnh việc công , ông thường tập hợp văn sĩ và học trò như Trương Đăng Quế, Nguyễn Đăng Giai, phần lớn là các danh thần. Tác phẩm của ông có Thanh Hiên tiền hậu tập, Nam trung tạp ngâm, Bắc hành tạp lụcLê Quý kỷ sự (?) (bắt đầu từ năm Đinh Dậu niên hiệu Cảnh Hưng(1777) kết thúc năm Chiêu Thống Kỷ Dậu (1789) trước sau 13 năm). Về những kiệt tác bằng Quốc âm thì đây đó có lưu truyền, nhưng Đoạn trường tân thanh thì được khắp nước truyền tụng. Còn đến như cầm , kỳ, thư, họa… không món nào không tinh diệu. Lại thông binh pháp, giỏi võ nghệ, tính người khiêm tốn, tuy ở ngôi vị á khanh nhưng thanh bạch như hàn sĩ. Nhân hoàng đế khi duyệt thơ văn của ông, thấy trong tập thơ Bắc sứ có bài đề Hoài Âm hầu từ có câu : “Thối thực, giãi y nan bội đức. Tàng cung, phanh cẩu diệc cam tâm” thường khen ngợi lòng trung nghĩa , muốn trọng dụng ông nhưng ông đã mất. Nếu như họ Nguyễn người Bắc mà còn thì trẫm phong cho chức Hiệp biện. Quan Lễ bộ Thượng thư Hưng Nhượng hầu thường nói với mọi người rằng: Khó mà có được một người đối với đồng sự thành kính động lòng người đến như thế.

        Vợ chính họ Đoàn người Quỳnh Côi, Hải An (xưa thuộc Sơn Nam, nay thuộc Thái Bình) là con thứ sáu của Đoàn công, Hoàng giáp Phó Đô ngự sử Quỳnh Châu bá, bà sinh con trai tên Tứ tự là Hạo Như có văn học. Năm Quý Dậu (1813) , bà theo ông đi sứ phương Bắc, về nước được vài năm bị bệnh mất; bà sinh được một gái , gã cho Tú tài Ngô Cảnh Trân , người ở Trảo Nha, Thạch Hà.

        Nguyễn Thị Thanh Xuân (dịch)
        (Tài liệu lưu trữ tại Viện Hán Nôm)

        Hoàng Kim7 tháng 11, 2016, 2018

        NGUYỄN DU NIÊN BIỂU LUẬN
        Hoàng Kim

        Nguyễn Du những sự thật mới biết soi sáng nhiều góc khuất lịch sử. Với những phát hiện mới về cuộc đời và thời thế Nguyễn Du được chính ông dùng nhân cách và kiệt tác của mình để trao lại ngọc quý cho đời,

        <Xem tiếp >>

          Dạy và học 30 tháng 10(30-10-2021)


        DẠY VÀ HỌC 30 THÁNG 10

        Hoàng Kim
        CNM365 Tình yêu cuộc sốngĐêm trắng và bình minh; Kim Dung trong ngày mới; Trần Tử Ngang thơ Người; Trần Khánh Dư “Bán than”; Vạn Kiếp binh thư truyền; Ngẫm thơ ngoài ngàn năm; Ca dao Việt “Cày đồng”; Mãn Giác thơ “Hoa Mai”; Tiếng Việt lung linh sáng; Thơ Việt ngoài ngàn năm; Đậu Quốc Anh khiêm  nhường; Mười kỹ thuật thâm canh sắn; Đồng xuân lưu dấu hiền; Bảy bài học cuộc sống; Bill Gates học để làm; Thăng Long Lý Thái Tổ; Hoàng Thành nền Đại La; Trường tôi nôi yêu thương; Tháp Bút viết trời xanh; Champasak ngã ba biên giới; Nguyễn Du trăng huyền thoại; Nguyễn Du tư liệu quý; Ngày 30 tháng 10 năm 1821 là ngày sinh Fyodor Dostoevsky, Nhà văn Nga. Cùng với Lev Tolstoy, Dostoevsky được xem là một trong hai nhà văn Nga vĩ đại thế kỷ 19. Các tác phẩm của ông, như Anh em nhà Karamazov hay Tội ác và hình phạt đã khai thác tâm lí con người trong bối cảnh chính trị, xã hội và tinh thần của xã hội Nga thế kỷ 19. Ông được giới phê bình đánh giá rất cao, phần lớn xem ông là người sáng lập hay là người báo trước cho chủ nghĩa hiện sinh thế kỷ 20. Ngày 30 tháng 10 năm 2018 là ngày mất Tra Lương Dung (Louis Cha Leung-yung) thường được biết đến với tên bút danh quen thuộc là Kim Dung (Jin Yong). Ông là một tiểu thuyết gia và nhà viết tiểu thuyết Trung Hoa, đồng sáng lập Minh Báo là tờ báo hàng ngày của Hồng Kông từ năm 1959 và là tổng biên tập đầu tiên của tờ báo này. Ông là nhà văn nổi tiếng nhất Hồng Kông và Trung Quốc, danh tiếng chấn động khắp châu Á và thế giới. Kim Dung những kiệt tác lắng đọng nổi tiếng nhất là Thiên long bát bộ, Lộc Đỉnh ký, Tuyết Sơn phi hồ, Hiệp khách hành, Tiếu ngạo giang hồ, Anh hùng xạ điêu, Ỷ Thiên Đồ Long ký, Thần Điêu đại hiệp, Thư kiếm ân cừu lục, Bích huyết kiếm. Ngày 30 tháng 10 năm 1973, Cầu Bosphorus tại Istanbul hoàn thành, trở thành cây cầu thứ hai kết nối châu Á và châu Âu qua eo biển Bosphore thuộc Thổ Nhĩ Kỳ; Bài chọn lọc ngày 30 tháng 10: Đêm trắng và bình minh; Kim Dung trong ngày mới; Trần Tử Ngang thơ Người; Trần Khánh Dư “Bán than”; Vạn Kiếp binh thư truyền; Ngẫm thơ ngoài ngàn năm; Ca dao Việt “Cày đồng”; Mãn Giác thơ “Hoa Mai”; Tiếng Việt lung linh sáng; Thơ Việt ngoài ngàn năm; Đậu Quốc Anh khiêm  nhường; Mười kỹ thuật thâm canh sắn; Đồng xuân lưu dấu hiền; Bảy bài học cuộc sống; Bill Gates học để làm; Thăng Long Lý Thái Tổ; Hoàng Thành nền Đại La; Trường tôi nôi yêu thương; Tháp Bút viết trời xanh; Champasak ngã ba biên giới; Nguyễn Du trăng huyền thoại; Nguyễn Du tư liệu quý; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-30-thang-10/

        DenGent

        ĐÊM TRẮNG VÀ BÌNH MINH
        Hoàng Kim

        Nhà văn Nga Dostoievski viết “Những đêm trắng” với sự sâu sắc lạ lùng mà tôi khi được trãi nghiệm mới thấu hiểu. Ông trò chuyện về du lịch mà thực ra đang nói về nhân tình thế thái, về những đêm trắng và ảo ảnh bình minh phương Bắc...” (Hoàng Kim)

        Mời bạn thưởng thức món quà  “Đêm trắng và bình minh”, câu chuyện về Ghent thành phố khoa học công nghệ; Sắn quà tặng thế giới người nghèo; Đêm trắng và bình minh phương Bắc. Nhà văn Nga Dostoievski viết “Những đêm trắng” với sự sâu sắc lạ lùng mà tôi khi được trãi nghiệm mới thấu hiểu. Ông trò chuyện về du lịch mà thực ra đang nói về nhân tình thế thái, về những đêm trắng và ảo ảnh bình minh phương Bắc. Bạn hãy ngắm nắng ấm và vườn cây trong bức ảnh lúc 7 giờ chiều chụp tiến sĩ Claude Fauquet với tôi. Ông là Chủ tịch Hội thảo Sắn Toàn cầu, Tổng Giám đốc của Viện Nghiên cứu Khoa học lừng danh ở Mỹ, người đã dành cho tôi sự ưu ái mời dự Hội thảo và đọc báo cáo. Bạn cũng hãy xem tiếp phóng sự ảnh chụp lúc gần nửa đêm mà ánh sáng vẫn đẹp lạ thường để đồng cảm cùng tôi về đêm trắng và bình minh. Bắc Âu là vùng đất lành có triết lý nhân sinh lành mạnh, chất lượng cuộc sống khá cao và những mô hình giáo dục tiên tiến nổi tiếng thế giới. Đi khắp quê người để hiểu đất quê hương. Mục đích sau cùng của dạy và học là thấu suốt bản chất sự vật, có lời giải đúng và làm được việc. Dạy và học thực tiễn trên chính Tổ quốc mình.

        Gentdemtrang

        Ghent thành phố khoa học công nghệ

        Tôi phải trả 400 đô la Mỹ cho bài học lãng phí đầu tiên đi xe taxi ở Ghent, thành phố khoa học và công nghệ sinh học (City of Science and Biotechnology) tại Bỉ vì đã không tận dụng phương tiện công cộng. Thất bại đáng tiếc này xẩy ra khi tôi vận dụng lặp lại kinh nghiệm thành công trước đó của mình tại thủ đô Luân Đôn “thành phố sương mù” ở Vương quốc Anh, tại thủ đô Helsinki thành phố di sản “Con gái của Baltic” đẹp nhất Bắc Âu ở Phần Lan và tại Roma “thủ đô của các bảo tàng nổi tiếng thế giới” ở Ý.

        Sự khôn vặt của tôi là kiểu của Hai Lúa người Việt. Tôi tính mình chỉ cần bỏ ra một vài trăm đô thuê taxi “không thèm đi tàu điện ngầm vì chẳng chụp ảnh và thăm thú được gì cả”. So với tiền của chuyến bay xa xôi từ Việt Nam sang Bắc Âu cao ngất ngưỡng do phía bạn chi trả thì số tiền mình tự bỏ ra trả thêm cho việc học là rất hời. Bạn tính nhé. Giá của một tour du lịch trọn gói từ thành phố Hồ Chí Minh đến thủ đô Helsinki (Phần Lan) thăm cố đô Turku (thành phố cổ nhất của Phần Lan được xây dựng từ năm 1280, cũng là cửa khẩu thông thương quan trọng nhất giữa Phần Lan và Thuỵ Điển) và trở về thành phố Hồ Chí Minh trong 5 ngày 4 đêm chí ít là 53,70 triệu đồng. Giá tour của máy bay khứ hồi đi Anh hoặc đi Ý cũng tương tự, cao hoặc thấp hơn một chút. Đó là tài sản lớn của những nghề lương thiện và những người chân lấm tay bùn muốn mở cửa nhìn ra thế giới. Do vậy, ở nhiều lần đi trước tôi đã quyết ý tự chi thêm một vài trăm đô khi có điều kiện để thăm được một số địa danh lịch sử văn hóa mà tôi ngưỡng mộ, để e rằng sau này mình hiếm có dịp quay trở lại.

        Nhờ thế tôi đã đến được cung điện Buckingham, đại học Oxford, Bảo tàng Nam Kensington, Nhà thờ Thánh Paul (ở Anh), thăm toà nhà Quốc hội City Hall và Parliament House, đến Phủ Chủ tịch The Presidential Palace, biểu tượng Railroad Station, ghé nhà thờ Uspenski ở trung tâm thủ đô Helsinki, thăm ông già Noel tại Santa Claus, 96930 Artic Circle, Finland cách thành phố Rovaniemi khoảng 8km xứ sở Lapland (ở Phần Lan). Tôi cũng chụp nhiều ảnh ở Đấu trường La Mã và Khải hoàn môn Arco di Costantino. Đài phun nước Trevi, một trong những đài phun nước nổi tiếng nhất thế giới. Đài tưởng niệm liệt sĩ Vittorio Emanuele II. Bảo tàng Vatican (tại thủ đô Roma của Ý) và các địa danh khắp bốn biển, bốn châu của nhiều lần khác …

        Ghent có hệ thống giao thông công cộng giá hợp lý phát triển rất cao nên kinh nghiệm đi taxi trước đó của tôi trở thành nguyên nhân lãng phí. Giống như Tiệp Khắc (Czech Slovakia cũ), hầu hết mọi người đi học, đi làm đều bằng phương tiện công cộng, có chuyện cần kíp mới đi taxi, rất hiếm thấy Honda. Giá taxi ở Ghent cao gấp nhiều lần so với giá taxi ở Việt Nam và cũng cao hơn nhiều so với giá taxi ở Anh, Pháp, Mỹ, Nhật là những nơi giàu có và thành phố có tiếng đắt đỏ. Mô hình tổ chức giao thông thành phố hiện đại và hiệu quả ở Ghent đã được nghiên cứu học tập của nhiều nước và thành phố. Ngoài xa kia, đường phố rộng rãi, thỉnh thoảng mới thấy một chiếc xe ô tô chạy qua. Bạn thấy những cô gái và ông bà già dẫn chó đi dạo. Những đôi thanh niên đi xe đạp nhởn nhơ trò chuyện như không còn ai khác ngoài họ ở trên đời. Bạn tinh ý còn thấy trong tấm hình chụp tại cổng vào trường đại học, trên thảm cỏ xa xa có một cặp uyên ương đang sưởi nắng và … tự nhiên yêu đương.

        Ghent là thành phố khoa học và công nghệ sinh học nổi tiếng. Đây là thành phố lớn nhất của tỉnh Đông Flanders và trong thời Trung cổ đã từng là một trong những thành phố lớn nhất và giàu nhất của Bắc Âu. Ngày nay Ghent là thành phố có diện tích 1205 km2 và tổng dân số 594.582 người kể từ ngày 1 tháng Giêng năm 2008 đứng thứ 4 đông dân nhất ở Bỉ. Ghent là viên ngọc ẩn ở Bỉ tuy it nổi tiếng hơn so với thành phố chị em của nó là Antwerp và Bruges, nhưng Ghent lại là một thành phố năng động, xinh đẹp về khoa học, nghệ thuật, lịch sử và văn hóa. Hàng năm có mười ngày “Ghent Festival” được tổ chức với khoảng hai triệu du khách tham dự.

        Ghent được UNESCO công nhận là Di sản thế giới năm 1998 và 1999. Các điểm nhấn nổi bật là kiến trúc hiện đại của những tòa nhà trường đại học Henry Van de Velde và một số công trình liền kề. Louis Roelandt, kiến trúc sư nổi tiếng nhất của Ghent thế kỷ XIX đã xây dựng hệ thống các trường đại học, khu hội nghị, nhà hát opera và tòa thị chính. Bảo tàng quan trọng nhất ở Ghent là Bảo tàng Mỹ thuật Voor Schone Kunsten với các bức tranh nổi tiếng của Hieronymus Bosch, Peter Paul Rubens, kiệt tác của Victor Horta và Le Corbusier, Huis van Alijn. Nhà thờ Saint Bavo lâu đài Gravensteen và kiến trúc lộng lẫy của bến cảng Graslei cũ là những nơi thật đáng chiêm ngưỡng. Đó là sự pha trộn tốt đẹp giữa sự phát triển thoải mái của cuộc sống và lịch sử, mà không phải là một thành phố bảo tàng. Giở lại những trang sử của Ghent năm 1775, các bằng chứng khảo cổ cho thấy sự hiện diện của con người trong khu vực hợp lưu của Scheldt và Lys trong thời kỳ đồ đá và đồ sắt. Hầu hết các nhà sử học tin rằng tên cũ của Ghent có nguồn gốc từ ‘Ganda’ có nghĩa là hợp lưu có từ thời La Mã. Khoảng năm 650, Saint Amand thành lập hai tu viện tại Ghent đó là Saint Peter Abbey và Saint Bavo Abbey. Khoảng năm 800, Louis Pious con trai của Charlemagne đã bổ nhiệm Einhard, người viết tiểu sử của Charlemagne, làm trụ trì của cả hai tu viện. Trong những năm 851 đến 879, thành phố bị tấn công và cướp phá hai lần sau đó được phục hồi và phát triển rực rỡ từ thế kỷ 11. Cho đến thế kỷ 13, Ghent là thành phố lớn nhất ở châu Âu sau Paris, lớn hơn Luân Đôn và Mạc Tư Khoa. Thời Trung Cổ, Ghent là một trong những thành phố quan trọng nhất châu Âu đối với ngành công nghiệp len và dệt may. Vào năm 1500, Charles V, Hoàng đế La Mã và vua Tây Ban Nha đã được sinh ra ở Ghent. Sau nhiều thăng trầm của lịch sử và sự tàn phá của các cuộc chiến tranh Ghent kết thúc vai trò của một trung tâm địa chính trị quân sự quan trọng quốc tế và trở thành một thành phố bị chiếm đóng, bị giành giật giữa các thế lực. Sau khi trận chiến Waterloo, Ghent trở thành một phần của Vương quốc Anh và Hà Lan suốt 15 năm. Lạ kỳ thay, chính trong giai đoạn tổn thương nghiêm trọng này, Ghent thành lập trường đại học cho riêng mình năm 1817 để khai sáng văn minh dân tộc. Họ cũng chấn hưng kinh tế bằng quyết tâm kết nối cảng biển năm 1824-1827. Sau cuộc Cách mạng Bỉ, với sự mất mát của cảng biển nền kinh tế địa phương bị suy sụp và tê liệt. Ghent bị chiếm đóng bởi người Đức trong cả hai cuộc chiến tranh thế giới nhưng đã tránh được sự tàn phá nghiêm trọng và đã được giải phóng bởi Vương quốc Anh ngày 6 tháng 9 năm 1944. Điều bền vững trường tồn cùng năm tháng chính là con người, văn hóa và giáo dục. Phần lớn kiến trúc thời Trung cổ của thành phố hiện vẫn còn nguyên vẹn và được phục hồi, bảo tồn khá tốt cho đến ngày nay.

        Ghent còn là thành phố lễ hội thường xuyên hàng năm với các nhà hàng ẩm thực nổi tiếng. Nhiều sự kiện văn hóa lớn như Lễ hội âm nhạc, Liên hoan phim quốc tế, Triển lãm lớn thực vật, Hội thảo Trường Đại học Ghent và các Công ty nghiên cứu … đã thu hút đông đảo du khách đến thành phố. Khoa học công nghệ và nghệ thuật thực sự được tôn trọng. Bạn có thành quả gì đóng góp cho chính sức khỏe, đời sống, niềm vui con người được vui vẻ đón nhận một cách thân thiện, hứng thú. Du lịch ngày càng trở thành ngành sử dụng lao động lớn tại địa phương.

        Ghent cũng là vùng đất địa linh với quá nhiều những người nổi tiếng. Charles V, Hoàng đế La Mã và vua Tây Ban Nha đã được sinh ra ở Ghent năm 1500. Một danh sách dài những người đã và đang hóa thân cho sự phồn vinh của quê hương xứ sở với đủ loại ngành nghề khác nhau.

        Phương Bắc đấy! Đi xa về Bắc Âu đến Phần Lan, Thụy Điển, Hà Lan, Đan Mạch, Na Uy là cả một vùng thiên nhiên, văn hóa mới lạ. Nơi đó không gian văn hóa thật trong lành. Chất lượng cuộc sống tốt hơn nhiều vùng tôi đã qua.

        Tôi ngồi vào bàn và lưu lại điểm nhấn: “Đến Ghent nhớ những đêm trắng và bình minh phương Bắc cùng với phóng sự ành Memories from Ghent để hẹn ngày quay lại ngẫm và viết. Ghent lúc này đã gần nửa đêm tương ứng với Việt Nam khoảng bốn năm giờ sáng nhưng bầu trời mới bắt đầu tối dần như khoảng 7 giờ chiều ở Việt Nam. Ánh sáng trắng đang nhạt đi và trời như chạng vạng tối. Đẹp và hay thật !

        Sắn quà tặng thế giới người nghèo

        Hội nghị khoa học đầu tiên của các đối tác sắn toàn cầu (First Scientific Meeting of the Global Cassava Partnership GCP1) với chủ đề “Sắn đáp ứng các thách thức của thiên niên kỷ mới” (Cassava: Meeting the Challenges of the New Millennium) được mở ra ở Trường Đại học Ghent vương quốc Bỉ với hơn một ngàn người tham dự. 115 báo cáo và hơn 200 áp phích (poster) và gian hàng được trình bày, giới thiệu liên tục tại 13 tiểu ban trong ba ngày.

        Tiến sĩ Claude Fauquet và tiến sĩ Joe Tohme có hai báo cáo thật ấn tượng: Cây sắn quà tặng của thế giới và cơ hội cho nông dân nghèo; Cây sắn quà tặng của thế giới và thách thức đối với các nhà khoa học. Những vấn đề khủng hoảng năng lượng toàn cầu, an ninh lương thực, môi sinh – môi trường đang thách thức thế giới hiện đại. Những câu hỏi đặt ra nhằm cải tiến cây sắn là cây chịu hạn, giàu tinh bột và năng lượng, đề mang lại thu nhập tốt hơn cho người dân nghèo.

        Tôi tham dự hội nghị với ba bài viết S3-2 (trang 54) SP3-9 (trang 60) và SP03-16 trang 63) gồm một báo cáo trước hội nghị toàn thể và hai áp phích. Việt Nam là điển hình quốc tế về sự đột phá sản lượng và năng suất sắn với sản lượng sắn tăng gấp năm lần và năng suất sắn tăng gấp đôi sau tám năm (2000-2008). Đó quả là một điều kỳ diệu cho toàn thế giới! Việc chọn tạo và phát triển các giống sắn mới của Việt Nam đã mang lại bội thu cao trong sản xuất ước vượt trên 2.000 tỷ đồng mỗi năm từ năm 2003 (đạt quy mô 270 ngàn ha x 8,9 tấn bội thu/ha x 50 USD/ tấn x 16.000 VND/USD). Sự cần cù, năng động, chịu thương chịu khó của nông dân Việt Nam thật đáng tự hào!

        Thành tựu sắn Việt Nam gắn liền với những bài học kinh nghiệm quý giá của đông đảo bà con nông dân, các nhà khoa học, khuyến nông, quản lý, doanh nghiệp … trong Chương trình Sắn Việt Nam (VNCP). Nước ta đã thành một trường hợp nghiên cứu điển hình (key study) của châu Á và Thế giới. Tôi bị vây kín giữa những người bạn suốt các lần giải lao một cách sung sướng và đáng thương. Đội ngũ đi họp của mình quá mỏng (chỉ một mình tôi) so với những đội hình sắn vững chãi của nhiều nước khác như Trung Quốc, Mỹ, Ấn Độ, Brazil, Thái Lan, Nigeria, Colombia, … Bài báo mà tôi viết chung với PGS.TS. Nguyễn Văn Bộ (Giám đốc Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam), tiến sĩ Reinhardt Howerler và tiến sĩ Hernan Ceballos (là hai chuyên gia nông học và chọn giống sắn hàng đầu của CIAT và thế giới) đã gây ấn tượng tốt và được nhiều người trao đổi, hỏi đáp.

        Buổi tối tiến sĩ Boga Boma, giám đốc của một dự án sắn lớn của châu Phi đã mang đồ đạc sang đòi “chia phòng ngủ” với tôi để “trao đổi về bài học sắn Việt Nam và cùng cảm nhận đêm trắng”.

        Boga Boma giàu, nhỏ tuổi hơn tôi, tính rất dễ thương, người cao lớn kỳ vĩ trên 1,90 m như một hảo hán. Lần trước Boga Boma làm trưởng đoàn 15 chuyên gia Nigeria sang thăm quan các giống sắn mới và kỹ thuật canh tác sắn của Việt Nam, đúc kết trao đổi về cách sử dụng sắn trong chế biến nhiên liệu sinh học. Anh chàng hảo hán này vừa ra đồng đã nhảy ngay xuống ruộng giống mới, đề nghị tôi nhổ thử một vài bụi sắn bất kỳ do anh ta chỉ định của giống mới KM140 (mà sau này đoạt giải Nhất VIFOTEC của Hội thi sáng tạo khoa học kỹ thuật toàn quốc lần thứ 10 trao giải ngày 19.1.2010 ở Hà Nội). Boga Boma ước lượng năng suất thực tế mỗi bụi sắn này phải sáu ký. Anh đo khoảng cách trồng rồi hồ hởi đưa lên một ngón tay nói với giọng thán phục “Sắn Việt Nam số 1”

        Sau buổi tham quan đó, Boga Boma ngỏ lời đề nghị với tôi cho đoàn Nigeria được đến thăm nhà riêng để “tìm hiểu cuộc sống và điều kiện sinh hoạt làm việc của một thầy giáo nông nghiệp Việt Nam”. Anh chàng chăm chú chụp nhiều ảnh về tài liệu sắn của bảy Hội thảo Sắn châu Á và mười Hội thảo Sắn Việt Nam trong một phần tư thế kỷ qua. Anh cũng chụp bếp đèn dầu dùng ga của gia đình tôi. Boga Boma cũng như Kazuo Kawano, Reinhardt Howerler, Hernan Ceballos, Rod Lefroy, Keith Fahrney, Bernardo Ospina, S. Edison, Tian Ynong, Li Kaimian, Huang Jie, Chareinsak Rajanaronidpiched, Watana Watananonta, Jarungsit Limsila, Danai Supahan, Tan Swee Lian, J. Wargiono, Sam Fujisaca, Alfredo Alves, Alfred Dixon, Fernando A, Peng Zhang, Martin Fregene, Yona Beguma, Madhavi Sheela, Lee Jun, Tin Maung Aye, Guy Henry, Clair Hershey, … trong mạng lưới sắn toàn cầu với tôi đều là những người bạn quốc tế thân thiết. Hầu hết họ đều đã gắn bó cùng tôi suốt nhiều năm. Sự tận tâm công việc, tài năng xuất sắc, chân thành tinh tế của họ trong ứng xử tình bạn đời thường làm tôi thực sự cảm mến.

        Bẳng đi một thời gian, Boga Boma thông tin Nigeria hiện đã ứng dụng bếp đèn dầu dùng cồn sinh học từ nguyên liệu sắn cho mọi hộ gia đình Nigeria trong toàn quốc. Nigeria đã thành công lớn trong phương thức chế biến sắn làm cồn gia đình phù hợp với đất nước họ, làm tiết kiệm được một khối lượng lớn xăng dầu với giá rất cạnh tranh cho tiêu thụ nội địa và xuất khẩu.

        Lần này trong đêm trắng ở Ghent, Boga Boma lại hí húi ghi chép và ngẫm nghĩ về ba bài học kinh nghiệm sắn Việt Nam 6M (Con người, Thị trường, Vật liệu mới Công nghệ tốt, Quản lý, Phương pháp, Tiền: Man Power, Market, Materials, Management, Methods, Money), 10T (Thử nghiệm, Trình diễn, Tập huấn, Trao đổi, Thăm viếng, Tham quan hội nghị đầu bờ, Thông tin tuyên truyền, Thi đua, Tổng kết khen thưởng, Thiết lập mạng lưới người nông dân giỏi) và FPR (Thiết lập mạng lưới thí nghiệm đồng ruộng và trình diễn để nghiên cứu cùng nông dân chuyển giao tiến bộ kỹ thuật sản xuất sắn).

        Buổi chiều Yona Beguma cùng các bạn châu Phi say mê trò chuyện cùng tôi về bài học sắn Việt Nam được giới thiệu trên trang của FAO với sự yêu thích, đặc biệt là “sáu em”(6M), “mười chữ T tiếng Việt” (10T) và “vòng tròn FPR dụ dỗ”. Sau này, anh chàng làm được những chuyện động trời của cây sắn Uganda mà tôi sẽ kể cho bạn nghe trong một dịp khác.

        Nhìn lớp trẻ thân thương đầy khát vọng tri thức đang vươn lên đỉnh cao giúp xóa đói giảm nghèo và làm giàu cho quê hương xứ sở. Ngắm nhìn sự mê mãi của Boga Boma lúc bình minh vừa rạng lúc anh chàng đã thức gần trọn đêm. Tôi chợt nhớ câu thơ Việt Phương: “Yêu biết mấy những đêm dài thức trắng/ Làm kỳ xong việc nặng sẵn sức bền/ Bình minh đuổi lá vàng trên đường vắng/ Như vì ta mà đời cũng ửng hồng lên”.

        Đêm trắng và bình minh phương Bắc

        Tôi lục tìm trong khoang tư liệu, đọc lại trích đoạn “Những đêm trắng” của nhà văn Nga Dostoievski và đoạn viết về hiện tượng cực quang của bình minh phương Bắc: “Ở vùng cực của trái đất, ban đêm, thường thấy hiện tượng ánh sáng có nhiều màu sắc: trắng, vàng, đỏ, xanh, tím, rực rỡ có hình dáng như một bức rèm hoặc một cái quạt rất lớn. Có khi những tia sáng lại xòe ra như hình nạn quạt. Cái quạt ánh sáng ấy lấp lánh rung chuyển nhè nhẹ như một bàn tay khổng lồ rũ xuống rũ lên, lập lòe làm thành một quang cảnh kỳ vĩ lạ thường. Màn ánh sáng ấy trong suốt đến nỗi nhìn qua thấy rõ tất cả các ngôi sao trên bầu trời. Hướng của những tia sáng nói chung trùng với hướng của các đường sức của từ trường trái đất. Loại ánh sáng này xuất hiện từ độ cao 80 đến 1.000 km và nhiều nhất là ở độ cao trên dưới 120 km. Ở nước Nga thời trước người ra cho rằng đó là ánh hào quang của những đoàn thiên binh thiên tướng kéo đi trong không gian. Còn nhân dân Phần Lan cho đó là mặt trời giả của người xưa làm ra để soi sáng cho đêm trường Bắc Cực. Vì loại ánh sáng này chỉ thấy trong những miền gần hai cực nên gọi là cực quang. Ở Na Uy và Thụy Điển thì người ta gọi là ánh sáng “bình minh phương Bắc”.

        Qua Ghent mới thấy đêm phương Bắc đến chậm và sớm nhanh Việt Nam như thế nào, mới thấm hiểu sự sâu sắc của Dostoievski nhà văn bậc thầy văn chương Nga và thế giới: Ông nói chuyện trời mà cũng là nói chuyện người. Ông trò chuyện về du lịch mà thực ra đang nói về nhân tình thế thái, những đêm trắng và ảo ảnh bình minh phương Bắc. Đó là câu chuyện thật như đùa và đùa như thật, ảo giác mà tưởng thật, thật mà tưởng ảo giác. Nhân loại đã đi qua vùng sáng tối đó, ánh sáng của thiên đường, những đêm trắng nối liền bình minh phương Bắc.

        Thực ra, khi bạn đến thủ đô Helsinki của Phần Lan vào tháng 6,7 thì đêm trắng và ảo ảnh bình minh phương Bắc rõ hơn nhiều. Bạn hãy đến đúng dịp hè và chuẩn bị sẵn máy ảnh loại tốt, độ phân giải lớn, khẩu độ rộng để săn ảnh. Tôi buộc phải sử dụng chùm ảnh du lịch Phần Lan vì máy ảnh họ chụp tốt hơn những tấm ảnh đẹp mê hồn về đêm trắng, trời tím và ngủ lều tuyết.

        Ở Phần Lan, nhiệt độ trung bình của tháng nóng nhất khoảng 15 độ C, và tháng lạnh nhất khoảng -9 độ C. Trung bình mỗi năm ở Phần Lan có hơn 100 ngày tuyết phủ ở phía nam và tây nam, còn ở phía bắc vùng Lappi thì tới hơn 200 ngày có tuyết. Nhiệt độ ban ngày và ban đêm chênh nhau tới 20 độ C, ngày lạnh nhất và ngày ấm nhất chênh nhau 80 độ C. Mặt trời mọc tháng 1, 2 lúc 9h30 sáng và lặn lúc 3h30 chiều là những ngày ngắn nhất trong năm. Tháng 6,7 mặt trời mọc lúc 4h00 sáng và lặn lúc 10h30 tối là những ngày dài nhất trong năm. Cá biệt ở phía Bắc vùng đất Lapland có những đêm trắng vào mùa hè, mặt trời không bao giờ lặn trong khoảng 60 ngày đêm nên có thể ngắm mặt trời lúc nửa đêm. Tiếp đó là khoảng thời gian chạng vạng không nhìn thấy mặt trời kéo dài trong khoảng 6 tháng vào mùa thu và đông. Không riêng gì Phần Lan mà hầu hết các nước Bắc Âu khí hậu lạnh và thời tiết thay đổi thất thường không được ấm áp thường xuyên như Việt Nam. Tôi lấy làm lạ khi sau này một số người đọc chưa hiểu đúng về sự khái quát cực kỳ tinh tế của Bác: “Nước ta: ở về xứ nóng, khí hậu tốt/ Rừng vàng biển bạc, đất phì nhiêu/ Nhân dân dũng cảm và cần kiệm/ Các nước anh em giúp đỡ nhiều.

        Demtrang7

        Tại Ghent của vương quốc Bỉ, nơi thành phố khoa học và công nghệ sinh học thì ấm hơn nhưng sự tiếp biến đêm trắng và bình minh phương bắc vẫn còn rất rõ nét. Ở đó, mặt trời tháng bảy mọc lúc hừng đông 4g30 -5g00 và lặn lúc 8g00- 9g00. Săn ảnh vào lúc bình minh vừa rạng cũng như ngắm mây ngũ sắc huyền thoại lúc mặt trời sắp lặn ở Việt Nam. Bạn hãy ngắm dòng tinh vân xinh đẹp lạ thường trước lúc bình minh.

        Sau này ở Việt Nam tôi chỉ có cơ hội nhìn thấy được sự chuyển màu từ tối tím sang bảy màu, sang màu xanh ngọc và trắng hồng lúc 4g30 sáng ngày 18 tháng 1 năm 2010 tại chòm cao nhất của non thiêng Yên Tử. Tôi chụp trên 100 tấm ảnh mới chọn được tấm ảnh ưng ý nhất. Đó là dịp may hiếm có của đời người. Sau này chúng ta sẽ nhiều dịp trở lại với Trần Nhân Tông và Bình minh trên Yên Tử để học được bài học vô giá của ông cha mình.

        Chúng tôi được giáo sư Marc Van Montagu, nhà bác học lừng danh thế giới cha đẻ GMO, vị chủ tịch của Liên đoàn Công nghệ sinh học châu Âu và hiệu trưởng của Trường Đại học Ghent hướng dẫn thăm quan lâu đài cổ, bảo tàng nghệ thuật và trường đại học nơi Ghent được UNESCO tôn vinh là di sản văn hóa thế giới năm 1998, 1999 và mời dự tiệc chiêu đãi. Tôi được mời ngồi bên cạnh ông và ba con người kỳ dị khác. Đó là Claude Fauquet (DDPSC, St Louis USA), Joe Tohme (CIAT, Colombia), G. Hawtin (CIAT, Colombia). Họ quá nổi tiếng trong số những con người đang làm thay đổi thế giới về bức tranh cây sắn và khoa học cây trồng những năm đầu thế kỷ 21. Tôi thực sự ngần ngại vị trí ngồi chung này và muốn thoái thác nhưng họ vui vẻ thân tình mời đại diện các châu lục. Họ đối xử với tôi và các đồng nghiệp với một sự tự nhiên, quý mến, trân trọng, và thực lòng ngưỡng mộ những kết quả đã đạt được của sắn Việt Nam (sau này khi nghĩ lại tôi ứa nước mắt hãnh diện về dân tộc mình đã cho chúng tôi cơ hội “O du kích bắn đại bác”). Tôi biết rõ những tài năng ưu tú xung quanh mình. Họ dung dị bình thường, thân tình lắng nghe nhưng đó là những con người khoa học đặc biệt. Họ không ham hố giàu sang và quyền lực mà chăm chú tận tụy giảng dạy và nghiên cứu, phát triển những thành tựu khoa học nông nghiệp mới, góp phần cải biến chất lượng thực phẩm thế giới theo hướng ngon hơn, tốt hơn, rẻ hơn và thân thiện môi trường hơn (HarvestPlus) nâng cao cuộc sống chúng ta. Tiến sĩ Rajiv J.Shah, giám đốc của Chương trình Phát triển Toàn cầu, Quỹ Bill Gate và Melinda (nơi tài trợ chính cho chuyến đi này của tôi) đã nói như vậy. Tôi ngưỡng mộ và tìm thấy ở họ những vầng sáng của trí tuệ và văn hóa.

        Chợt dưng tôi nhớ đến Bernadotte với vợ là Déssirée trong tác phẩm “Mối tình đầu của Napoléon” của Annemarie Selinko. Vợ chồng hai con người kỳ vĩ này với lý tưởng dân chủ đã xoay chuyển cả châu Âu, giữ cho Thụy Điển tồn tại trong một thế giới đầy biến động và nhiễu nhương. Bắc Âu phồn vinh văn hóa, thân thiện môi trường và có nền giáo dục lành mạnh phát triển như ngày nay là có công và tầm nhìn kiệt xuất của họ. Bernadotte là danh tướng của Napoleon và sau này được vua Thụy Điển đón về làm con để trao lại ngai vàng. Ông xuất thân hạ sĩ quan tầm thường nhưng là người có chí lớn, suốt đời học hỏi và tấm lòng cao thượng rộng rãi. Vợ ông là Déssirée là người yêu đầu tiên của Napoleon nhưng bị Napoleon phản bội khi con người lừng danh này tìm đến Josephine một góa phụ quý phái, giàu có, giao du toàn với những nhân vật quyền thế nhất nước Pháp, và Napoleon đã chọn bà làm chiếc thang bước lên đài danh vọng. Bernadotte với vợ là Déssirée hiểu rất rõ Napoleon. Họ đã khéo chặn được cơn lốc cuộc chiến đẫm máu tranh giành quyền lợi giữa các tập đoàn thống trị và các nước có lợi ích khác nhau. Bernadotte và Déssirée đã đưa đất nước Thụy Điển và Bắc Âu thoát cuộc tranh giành. Họ đã khai sáng một vầng hào quang bình minh phương Bắc.

        Việt Nam và khối Asean hiện cũng đang đứng trước khát vọng mở mang của “con sư tử phương Đông trỗi dậy” và sự vần vũ của thế giới văn minh nhiều cơ hội hơn cho người dân nhưng cũng tiềm ẩm lắm hiễm họa khó lường. Điều này dường như rất giống của thời người hùng Napoleon của một châu Âu và khao khát của nước Pháp muốn phục hưng dân tộc và mở rộng phạm vi ảnh hưởng. Bài học Bắc Âu miền đất trong lành, nước Bỉ trái tim của EU, và Ghent thành phố khoa học công nghệ là chỉ dấu minh triết chưa bao giờ sáng tỏ và cấp thiết như lúc này. Trước những khúc quanh của lịch sử, các dân tộc tồn tại và phát triển đều biết khéo tập hợp những lực lượng tinh hoa và sức mạnh dân chúng để thoát khỏi hiễm họa và bảo tồn được những viên ngọc quý di sản truyền lại cho đời sau. Trong vùng địa chính trị đầy điểm nóng tranh chấp biên giới hải đảo, sự tham nhũng chạy theo văn minh vật chất và nguy cơ tha hóa ô nhiễm môi trường, nguồn nước, bầu khí quyển, vệ sinh thực phẩm, văn hóa giáo dục và chất lượng cuộc sống thì bài học trí tuế càng cấp thiết và rõ nét. Ông José António Amorim Dias, Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước Cộng hòa Dân chủ Timor-Leste tại UNESCO và Liên minh châu Âu trên chuyến tàu tốc hành từ Brussels đến Paris chung khoang với tôi đã trò chuyện và chia sẽ rất nhiều điều về triết lý nhân sinh và văn hóa giáo dục.

        Đi đâu cũng không bằng Tổ quốc mình. Nói gì, làm gì cũng không bằng dạy, học và làm cho đồng bào đất nước mình. Đi khắp quê người để hiểu đất quê hương. Mục đích sau cùng của dạy và học là thấu suốt bản chất sự vật, có lời giải đúng và làm được việc. Dạy và học thực tiễn trên chính Tổ quốc mình. Việt Nam quê hương tôi! Đó là đất nước của biết bao nhiêu thế hệ xả thân vì nước để quyết giành cho được độc lập, thống nhất, tự do và toàn vẹn lãnh thổ. “Nếu chỉ để lại lời nói suông cho đời sau sao bằng đem thân đảm nhận trọng trách cho thiên hạ trước đã” nhưng “sức một người thì có hạn, tài trí thiên hạ là vô cùng”. “Lời nói là đọi vàng”. Làm nhà khoa học xanh hướng đến bát cơm ngon của người dân nghèo, đó là điều tôi tâm đắc nhất !

        Nhân loại đã có một thời đi trong đêm trắng ánh sáng của thiên đường, đêm trắng bình minh phương Bắc. Sự chạng vạng tranh tối tranh sáng có lợi cho sự quyền biến nhưng khoảng khắc bình minh là sự kỳ diệu mở đầu cho ng&agraXem tiếp >>

          Dạy và học 29 tháng 10(29-10-2021)


        DẠY VÀ HỌC 29 THÁNG 10
        Hoàng Kim
        CNM365 Tình yêu cuộc sốngNgẫm thơ ngoài ngàn năm; Ca dao Việt “Cày đồng”; Mười kỹ thuật thâm canh sắn; Nghiên cứu Kinh Dược Sư; Đậu Quốc Anh khiêm nhường; Đồng xuân lưu dấu hiền; Bảy bài học cuộc sống; Đồng xuân lưu dấu hiền; Bill Gates học để làm; Thăng Long Lý Thái Tổ; Hoàng Thành nền Đại La;Trường tôi nôi yêu thương; Tháp Bút viết trời xanh; Champasak ngã ba biên giới; Nguyễn Du trăng huyền thoại; Ngày 29 tháng 10 năm 1787 thiên tài âm nhạc Wolfgang Amadeus Mozart, nhà soạn nhạc người Áo, người có nhiều ảnh hưởng nhất trong thể loại nhạc cổ điển châu Âu đã biểu diễn lần đầu bản nhạc kịch Don Giovanni tại Praha, Đế quốc La Mã Thần thánh.  Ngày 29 tháng 10 năm 1792, Nguyễn Huệ sau cầu hôn công chúa nhà Thanh, xin đất Lưỡng Quảng chưa kịp trở thành hiện thực thì ông chết đột ngột vào ngày 29 tháng 7 năm Nhâm Tý nhằm ngày 16 tháng 9 năm 1792. Nguyễn Huệ qua đời, hưởng thọ 40 tuổi, ở ngôi được 4 năm, miếu hiệu là Thái Tổ Vũ hoàng đế. Vua Lê Chiêu Thống do con trai chết vừa bị vua Càn Long quản thúc nên đau buồn chán nản, ngã bệnh nặng, chết năm 1793.  Ngày 29 tháng 10 năm 1917, ngày sinh  Nam Cao, nhà văn Việt Nam; Bài chọn lọc ngày 29 tháng 10: Ngẫm thơ ngoài ngàn năm; Ca dao Việt “Cày đồng”; Mười kỹ thuật thâm canh sắn; Nghiên cứu Kinh Dược Sư; Đậu Quốc Anh khiêm nhường; Đồng xuân lưu dấu hiền; Bảy bài học cuộc sống; Đồng xuân lưu dấu hiền; Bill Gates học để làm; Thăng Long Lý Thái Tổ; Hoàng Thành nền Đại La;Trường tôi nôi yêu thương; Tháp Bút viết trời xanh; Champasak ngã ba biên giới; Nguyễn Du trăng huyền thoại; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlong và:  https://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-29-thang-10/ 

        NGẪM THƠ NGOÀI NGÀN NĂM
        Hoàng Kim

        Ca dao Việt “Cày đồngMãn Giác thơ “Hoa Mai” là những viên ngọc quý.
        Tiếng Việt lung linh sáng Thơ Việt ngoài ngàn năm. Trần Khánh Dư “Bán than”, Phạm Ngũ Lão Thuật Hoài, Nguyễn Trãi Dục Thúy Sơn, Đặng Dung thơ Cảm hoàicác bài thơ nổi tiêng đã trên bảy trăm tuổi, sánh với các kiệt tác Đỗ Phủ thơ mưa lành; Lý Bạch thơ trăng sáng, Mạnh Hạo Nhiên xuân hiểu; Trần Tử Ngang thơ Người. Trà sớm nhớ bạn hiền, chép tặng bạn và tôi những bài thơ hay xúc động ám ảnh này, https://hoangkimlong.wordpress.com/category/ngam-tho-ngoai-ngan nam/

        CA DAO VIỆT ‘CÀY ĐỒNG”

        Cày đồng đang buổi ban trưa
        Mồ hôi thảnh hót như mưa ruộng cày
        Ai ơi bưng bát cơm đầy
        Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần.


        Hoàng Kim có câu hỏi nghi vấn: “Sáng tác Việt hay dịch?” Ví như “Tết Việt và Tết Trung” là xuất phát từ “Tiết Lập Xuân” hướng chính Đông của Việt Thường La Bàn Việt; xem tiếp Ca dao Việt “Cày đồng” lời bình chọn lọc và những kiệt tác thơ hay
        https://hoangkimlong.wordpress.com/category/ca-dao-viet-cay-dong/

        MÃN GIÁC THƠ “HOA MAI

        Xuân khứ bách hoa lạc
        Xuân đáo bách hoa khai
        Sự trục nhãn tiền quá
        Lão tùng đầu thượng lai.
        Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
        Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.

        Xuân đi trăm hoa rụng
        Xuân đến trăm hoa cười
        Trước mặt việc đi mãi
        Trên đầu già đến rồi
        Đừng bảo xuân tàn hoa rụng hết
        Đêm qua sân trước một cành mai.

        (Bản dịch của Ngô Tất Tố)

        xem tiếp Mãn Giác với “Hoa Mai”
        https://hoangkimlong.wordpress.com/category/man-giac-voi-hoa-mai/; lời bình chọn lọc với những kiệt tác thơ hay Hoa Mai trong Tết Việthttps://hoangkimlong.wordpress.com/category/hoa-mai-trong-tet-viet/

        TRẦN KHÁNH DƯ “BÁN THAN”

        Một gánh kiền khôn quẩy tếch ngàn
        Hỏi chi bán đó, dạ rằng than
        Ít nhiều miễn được đồng tiền tốt,
        Hơn thiệt nài bao gốc củi tàn
        Ở với lửa hương cho vẹn kiếp
        Thử xem sắt đá có bền gan
        Nghĩ mình lem luốc toan nghề khác
        Nhưng sợ trời kia lắm kẻ hàn

        xem tiếp Trần Khánh Dư “Bán than”
        https://hoangkimlong.wordpress.com/category/tran-khanh-du-ban-than/; Trần Khánh Dư vẹn kiếphttps://hoangkimlong.wordpress.com/category/tran-khanh-du-ven-kiep/ lời bình chọn lọc với Những kiệt tác thơ hay Ngẫm thơ ngoài ngàn năm Chỉ tình yêu ở lạihttps://hoangkimlong.wordpress.com/category/chi-tinh-yeu-o-lai/

        PHẠM NGŨ LÃO “THUẬT HOÀI”

        Múa giáo non sông trải mấy thâu,
        Ba quân hùng khí át sao Ngưu.
        Công danh nam tử còn vương nợ,
        Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu.

        Nguồn: Trần Trọng Kim dịch, Việt Nam sử lược, NXB Tân Việt, 1951




        Thuật hoài

        Hoành sóc giang sơn cáp kỷ thu,
        Tam quân tỳ hổ khí thôn Ngưu.
        Nam nhi vị liễu công danh trái,
        Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu.

        Dịch nghĩa

        Cắp ngang ngọn giáo gìn giữ non sông đã mấy thu,
        Ba quân như gấu hổ, át cả sao Ngưu Đẩu.
        Thân nam nhi nếu chưa trả xong nợ công danh,
        Ắt thẹn thùng khi nghe người đời kể chuyện Vũ hầu.

        Nguồn:
        1. Hợp tuyển thơ văn Việt Nam (tập II), NXB Văn học, Hà Nội, 1976
        2. Thơ văn Lý Trần (tập II), NXB Khoa học xã hội, 1988
        3. Thi Viện Đào Trung Kiên.
        Bài thơ: Thuật hoài Phạm Ngũ Lão
        4. Lịch triều Hiến chương loại chí của Phan Huy Chú (trích dẫn tại
        Phạm Ngũ Lão Thuật Hoài)

        Có bài thơ:
        Hoành sáo giang sơn cáp kỷ thu,
        Tam quân tỷ hổ khí thôn ngưu
        Nam nhi vị liễu công danh trái,
        Tu hướng nhân gian thuyết Vũ hầu

        [Dịch]

        Múa ngang ngọn giáo khắp non sông kể đã mấy thu
        Ba quân khí mạnh như hổ beo tưởng có thể nuốt được cả con trâu
        Làm kẻ nam nhi mà chưa trả được nợ công danh
        Xấu hổ khi nghe người ta nói đến chuyện Gia Cát Lượng.

        xem tiếp
        Phạm Ngũ Lão Thuật Hoàihttps://hoangkimlong.wordpress.com/category/pham-ngu-lao-thuat-hoai. lời bình chọn lọc với Những kiệt tác thơ hay Ngẫm thơ ngoài ngàn năm Chỉ tình yêu ở lạihttps://hoangkimlong.wordpress.com/category/chi-tinh-yeu-o-lai/

        NGUYỄN TRÃI DỤC THÚY SƠN

        “Cửa biển có non tiên
        Năm xưa thường lại qua
        Hoa sen nổi trên nước
        Cảnh tiên rơi cõi trần

        Bóng tháp xanh trâm ngọc
        Tóc mây biếc nước lồng
        Nhớ hoài Trương Thiếu Bảo
        Bia cổ hoa rêu phong”

        Dục Thuý sơn
        Nguyễn Trãi

        Hải khẩu hữu tiên san,
        Niên tiền lũ vãng hoàn.
        Liên hoa phù thuỷ thượng,
        Tiên cảnh truỵ nhân gian.

        Tháp ảnh, trâm thanh ngọc,
        Ba quang kính thuý hoàn.
        Hữu hoài Trương Thiếu Bảo (*),
        Bi khắc tiển hoa ban.

        xem tiếp
        Nguyễn Trãi Dục Thúy Sơnhttps://hoangkimlong.wordpress.com/category/nguyen-trai-duc-thuy-son. lời bình chọn lọc với Những kiệt tác thơ hay Ngẫm thơ ngoài ngàn năm Chỉ tình yêu ở lạihttps://hoangkimlong.wordpress.com/category/chi-tinh-yeu-o-lai/

        ĐẶNG DUNG THƠ CẢM HOÀI

        CẢM HOÀI
        Đặng Dung

        Việc đời bối rối tuổi già vay,
        Trời đất vô cùng một cuộc say.
        Bần tiện gặp thời lên cũng dễ,
        Anh hùng lỡ bước ngẫm càng cay.
        Vai khiêng trái đất mong phò chúa,
        Giáp gột sông trời khó vạch mây.
        Thù trả chưa xong đầu đã bạc,
        Gươm mài bóng nguyệt biết bao rày.

        Bản dịch Phan Kế Bính Sách Văn đàn bảo giám (NXB Văn học, 2004) ghi người dịch là Trần Trọng Kim.

        Nguồn:
        1. Phan Kế Bính, “Đại Nam nhất thống chí”, Đông Dương tạp chí, số 116
        2. Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, NXB Tân Việt, 1951
        3. Dương Quảng Hàm, Việt Nam văn học sử yếu, Trung tâm học liệu xuất bản, 1968
        4. Thi Viện Đào Trung Kiên.
        Bài thơ: Cảm hoài Đặng Dung
        4. Lịch triều Hiến chương loại chí của Phan Huy Chú (trích dẫn tại
        Đặng Dung thơ Cảm hoài)

        Nguyên tác:








        Cảm hoài [Thuật hoài]

        Thế sự du du nại lão hà,
        Vô cùng thiên địa nhập hàm ca.
        Thời lai đồ điếu thành công dị,
        Vận khứ anh hùng ẩm hận đa.
        Trí chúa hữu hoài phù địa trục,
        Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà.
        Quốc thù vị báo đầu tiên bạch,
        Kỷ độ Long Tuyền đới nguyệt ma.

        xem tiếp
        Đặng Dung thơ Cảm hoàihttps://hoangkimlong.wordpress.com/category/dang-dung-tho-cam-hoai/ lời bình chọn lọc với Những kiệt tác thơ hay Ngẫm thơ ngoài ngàn năm Chỉ tình yêu ở lạihttps://hoangkimlong.wordpress.com/category/chi-tinh-yeu-o-lai/

        NGẪM THƠ NGOÀI NGÀN NĂM
        Hoàng Kim

        “Ngưòi trước chẳng thấy ai. Người sau thì chưa thấy. Gẫm trời đất thật vô cùng. Riêng lòng đau mà lệ chảy”. “Bài ca lên đài U Châu” thơ Trần Tử Ngang, người dịch Tương Như là tác phẩm văn chương thơ ngoài ngàn năm của bậc kỳ tài.  Trong văn chương Việt, khi đọc bài kệ “Cáo tật thị chúng” của thiền sư Mãn Giác, “Mài kiếm dưới trăng” của tráng sĩ Đặng Dung và đọc thơ Nguyễn Du, ta đều cảm nhận thấy sự ung dung, an nhiên tự tại, thấu suốt lẽ sinh tử… và đều có nỗi buồn man mác.Một người tốt muốn dấn thân nhưng còn bao điều kiện cần phải cố gắng vượt lên hoàn cảnh và vận mệnh. Đấy có thể là điều để hiểu thơ Trần Tử Ngang chăng? xem tiếp bài viết, hình ảnh và thư pháp tại đây https://hoangkimlong.wordpress.com/category/ngam-tho-ngoai-ngan-nam/

        trantungang1

        Trần Tử Ngang cuộc đời và sự nghiệp

        Trần Tử Ngang( 661 – 702) là nhà thơ có địa vị trọng yếu trên thi đàn thời Sơ Đường. Ảnh hưởng của ông rất lớn đối với thi ca thời Thịnh Ðường cũng như phong trào vận động cổ văn thời Trung Ðường. Ông có tên tự là Bá Ngọc, người đất Xạ Hồng, phủ Từ Châu (hiện là tỉnh Tứ Xuyên ). Ông đậu tiến sĩ lúc 24 tuổi năm 684 (đời Đường Trung Tông) làm đại quan trong triều Võ Tắc Thiên với chức Lan đài chính tự sau đó đổi làm chức Tả thập di.

        trantungang2

        Phong cách thơ của ông xuất chúng, ngụ ý sâu xa. Trần Tử Ngang thời niên thiếu gia đình tương đối giàu có, coi nhẹ tiền bạc, khẳng khái. Sau khi trưởng thành, ông quyết tâm học, giỏi viết văn; đồng thời quan tâm quốc sự , quyết lập công tích về chính trị. Ông thường dâng sớ điều trần về đại kế quốc gia nhưng không được Vũ hậu nghe theo. Vũ hậu là người mưu lược, cương nghị, quyền biến, tâm cơ. Bà không từ một thủ đoạn nào để mua chuộc, lôi kéo hoặc thẳng tay triệt hạ những người tài giỏi thuộc vây cánh của đối phương nhằm thâu tóm quyền lực, Dưới thời của bà những người tài không thuộc bè phái thường bị nguy hiểm.

        trantungang3

        Giai thoại đập đàn của Trần Tử Ngang

        Trần Tử Ngang có giai thoại nổi tiếng về việc đập đàn. Lần đầu tiên đến Trường An, ông không được một ai biết đến. Ông liền bỏ ra một ngàn quan tiền, mua một cây đàn hồ cầm rất quí, rồi mời mọi người đến dự tiệc, nghe nhạc.

        Khi moi người tề tựu đông đủ và háo hức chờ nghe nhạc. Ông đứng lên nói: “Tôi là Trần Tử Ngang người đất Thục, có trăm quyển văn, rong ruổi kinh sư, mà địa vị vẫn tầm thường giữa nơi bụi bậm, không ai biết đến. Nhạc này là của kẻ thơ hèn đâu đáng lưu tâm?

        trantungang4

        Nói đoạn, ông đập tan cây đàn hồ cầm rất quý trước sự sững sờ, kinh ngạc của nhiều người. Kế đó, ông đem các cuốn văn ra tặng cho cử tọa. Trong một ngày danh tiếng của ông chấn động khắp kinh thành, mọi người ai ai cũng đều biết tiếng.

        Năm 24 tuổi, Trần Tử Ngang với văn tài xuất chúng đã thi đậu tiến sĩ và được Võ hậu hết sức nể phục tài năng. Luận về thơ, ông nói: “Làm thơ là để gởi tấm lòng vào thiên cổ chứ đâu phải để lưu danh nhất thời”.

        Quả nhiên, những tuyệt phẩm thơ của Trần Tủ Ngang mười ba thế kỷ sau, đến nay vẫn còn tốn hao không biết bao nhiêu giấy mực của nhiều người. Trung Quốc hiện có nhiều địa chỉ web về Trần Tử Ngang , bạn có thể tìm trên Google tại từ khóa 陳子昂 (Trần Tử Ngang).

        trantungang5

        Trần Tử Ngang thơ ngoài ngàn năm

        Bài ca lên đài U Châu
        Trần Tử Ngang thơ ngoài ngàn năm “ Ngưòi trước chẳng thấy ai / Người sau thì chưa thấy / Gẫm trời đất thật vô cùng / Riêng lòng đau mà lệ chảy ”. Tương Như dịch

         

        Đăng U Châu Đài Ca

        Tiền bất kiến cổ nhân,
        Hậu bất kiến lai giả.
        Niệm thiên địa chi du du,
        Ðộc sảng nhiên nhi thế hạ.

        Trần Tử Ngang
        * U châu : nay là Bắc Kinh

        trantungang6

        Dịch nghĩa :

         

        Bài ca lên đài U Châu

        Trông lại trước không thấy người xưa ;
        nhìn về sau, không thấy kẽ mới đến.
        Nghĩ nổi trời đất lâu dài man mác,
        một mình bùi ngùi rơi lệ.

         

        Bài ca lên đài U Châu

        Ngoảnh lại trước, người xưa vắng vẻ
        Trông về sau, quạnh quẽ người sau
        Ngẫm hay trời đất dài lâu
        Mình ta rơi hạt lệ sầu chứa chan.

        Trần Trọng San dịch

        trantungang7

        Trước chẳng thấy người xưa,
        Sau chẳng thấy ai cả.
        Ngẫm trời đất thăm thẳm sao!
        Riêng xót xa lệ lã chã.

        Trần Trọng Kim dịch

        trantungang8

         

        Bài ca lên đài U Châu

        Trước không gặp được người xưa
        Sau không gặp được kẻ chưa ra đời
        Mênh mang ngẫm lẽ đất trời
        Một mình để giọt lệ rơi bùi ngùi

        Cao Nguyên dịch

        Suy ngẫm về thơ Trần Tử Ngang

        Lên núi cao ngắm biển trời để thấu hiểu sự mênh mang vô cùng của trời đất, lẽ huyền vi của tạo hóa, sự thịnh suy được mất của các triều đại, sự biến dịch của nhân quả, sự ngắn ngủi hữu hạn của kiếp người. Điều đó đã được nhiều người trãi nghiệm…

        Chúng ta đọc thêm hai bài thơ nữa của Trần Tử Ngang để hiểu rõ hơn về ông:

        Xem tiếp >>

          Dạy và học 28 tháng 10(27-10-2021)


         

         

        DẠY VÀ HỌC 28 THÁNG 10
        Hoàng Kim

        CNM365 Tình yêu cuộc sốngBảy bài học cuộc sống; Đồng xuân lưu dấu hiền; Bill Gates học để làm; Thăng Long Lý Thái Tổ; Hoàng Thành nền Đại La;Trường tôi nôi yêu thương; Tháp Bút viết trời xanh; Champasak ngã ba biên giới; Nguyễn Du trăng huyền thoại; Ngày 28 tháng 10 năm 1955, ngày sinh  Bill Gates, giám đốc và người sáng lập Microsoft. Ngày 28 tháng 10 năm 1868, Thomas Alva Edison xin cấp bằng sáng chế đầu tiên. Ngày 28 tháng 10 năm 1636 Đại học Harvard của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ được thành lập sau cuộc bỏ phiếu của Đại phán  Thuộc địa Vịnh Massachusetts. Ngày 28 tháng 10 năm 1886, Tổng thống Hoa Kỳ Grover Cleveland chủ tọa buổi lễ khánh thành Tượng Nữ thần Tự do tại thành phố New York; Bài chọn lọc ngày 28 tháng 10: Bảy bài học cuộc sống; Đồng xuân lưu dấu hiền; Bill Gates học để làm; Thăng Long Lý Thái Tổ; Hoàng Thành nền Đại La;Trường tôi nôi yêu thương; Tháp Bút viết trời xanh; Champasak ngã ba biên giới; Tháp Bút viết trời xanh; Hoàng Thành ngọc cho đời; Bảo tồn và phát triển sắn; Thầy bạn trong đời tôi; Việt Nam dư địa chí; Lúa Việt tới Châu Mỹ; Trung Nga với Trung Á; Turkmenistan đất và người; Trận Vũ Hán lịch sử; Lào hoa trắng nắng Mekong; Lúa sắn Cămpuchia và Lào; Trận Vũ Hán lịch sử; Đi thuyền trên Trường Giang; Đập Tam Hiệp Tam Tuyến; Lúa cao cây Trung Quốc; Thời biến nhớ người xưa; Hoàng Gia Cương thơ hiền; Chuyện thầy Ngô Kế Sương; Nợ duyên; Hưng Đạo Trần Quốc Tuấn;Nguyễn Du trăng huyền thoại; Nguyễn Du tư liệu quý; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/ và http://fa.hcmuaf.edu,vn/hoangkimlong và  https://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-28-thang-10/

        BẢY BÀI HỌC CUỘC SỐNG

        Học cách mặt trời tỏa sáng
        Nước chảy đá mòn
        Tôn trọng người khác
        Tận nhân lực tri thiên mệnh
        Đừng lo lắng vô ích
        Đừng sợ hãi hãy tiến tới
        Phúc hậu an nhiên kho báu chính mình

        Hoàng Kim
        Tuyển chọn tinh hoa cổ ngữ phương Đông

        https://www.youtube.com/embed/w21hkPfEA2M?version=3&rel=1&showsearch=0&showinfo=1&iv_load_policy=1&fs=1&hl=vi&autohide=2&wmode=transparent

        THIỀN SƯ LÃO NÔNG TĂNG
        https://youtu.be/w21hkPfEA2M

        “Mưa thuận gió hòa chăm bón đúng
        Nhân tươi quả tốt được thu nhiều”

        Viên Minh Thích Phổ Tuệ
        Nhớ Viên Minh Hoa Lúa
        Hoa Lúa giữa Đồng Xuân
        Lời Thầy dặn thung dung

        Kim Notes lắng ghi chú

         

         

        CHÍN ĐIỀU LÀNH HẠNH PHÚC
        Hoàng Kim.

        Mặt trời và thiên nhiên
        Môi trường sống an lành
        Gia đình thầy bạn quý
        Minh triết cho mỗi ngày
        An nhiên và phúc hậu
        Thức ngủ cần hài hòa
        Lao động và nghỉ ngơi
        Gieo lành thì gặt thiện
        Yêu thương trong tầm tay


        CHÍN ĐIỀU LÀNH HẠNH PHÚC

        1) Cười nhiều Giận ít
        2) Vui nhiều Lo ít
        3) Làm nhiều Nói ít
        4) Đi nhiều Ngồi ít
        5) Rau nhiều Thịt ít
        6) Chay nhiều Mặn ít
        7) Chua nhiều Ngọt ít
        8) Tắm nhiều Lười ít
        9) Thiện nhiều Tham ít

         

         

        MINH TRIẾT CHO MỖI NGÀY

        Ai đúng ai sai, mình không sai là được
        Người già người trẻ, cứ vui khỏe là được
        Việc nhiều lộc ít, làm xong việc là được
        Tận tâm tiết kiệm, đừng lãng phí là được
        Bất kể giàu nghèo, cứ hoà thuận là được
        Không kén ngon dở, cứ sạch nóng là được
        Bất luận đẹp xấu, cứ tốt duyên là được
        Nhà lớn nhà nhỏ, cứ ấm no là được
        Xe mới xe cũ, cứ chạy tốt là được
        Sung túc nghèo nàn, cứ bình an là được

        BẠN GIEO LÀNH GẶT THIỆN

        Bạn gieo yêu thương Bạn gặt thân ái
        Bạn gieo tha thứ Bạn gặt hoà giải
        Bạn gieo chịu đựng Bạn gặt cộng tác
        Bạn gieo chăm chỉ Bạn gặt thành công
        Chăm chín điều lành Bạn thành người tốt.

        Bạn gieo thành thật Bạn gặt lòng tin
        Bạn gieo lòng tốt Bạn gặt thân thiện
        Bạn gieo kiên nhẫn Bạn gặt chiến thắng
        Bạn gieo khiêm tốn Bạn gặt tín nhiệm.

        Bạn gieo kiêu hãnh Bạn gặt đố kỵ
        Bạn gieo bực bội Bạn gặt phiền muộn
        Bạn gieo mách lẻo Bạn gặt âu lo
        Bạn gieo ích kỷ Bạn gặt cô đơn

        Bạn gieo lười biếng Bạn gặt tổn hại
        Bạn gieo ỷ lại Bạn gặt ngờ vực
        Ban gieo bất tín Bạn gặt kẻ thù
        Bạn gieo tham lam Bạn gặt huỷ diệt

        YÊU THƯƠNG TRONG TẦM TAY

        Yêu thương không mệt, ghen ghét mới mệt
        Vui cười không mệt, buồn phiền mới mệt
        Chân thật không mệt, gian dối mới mệt
        Tương ái không mệt, tương tàn mới mệt
        Rộng rãi không mệt, ích kỷ mới mệt
        Khoan dung không mệt, khó khăn mới mệt
        Khiêm nhường không mệt, khoe khoang mới mệt
        Mỉm cười không mệt, tức giận mới mệt
        Đơn thuần không mệt, phức tạp mới mệt
        Chân thành không mệt, giả dối mới mệt
        Tương tư không mệt, đơn phương mới mệt
        Được mất không mệt, thích quản mới mệt
        Thảnh thơi không mệt, bức xúc mới mệt.
        Biết đủ không mệt, ki cóp mới mệt
        Thung dung không mệt, xét nét mới mệt.

         

         

        CÓ HAI THỨ TRONG ĐỜI BẠN CẦN NHỚ
        Kim Hoa Thuongyeuthathu

        Có hai thứ bạn nên tiết kiệm. Đó là sức khỏe và lời hứa.
        Có hai thứ bạn phải cho đi. Đó là tri thức và lòng tốt.
        Có hai thứ bạn phải thay đổi. Đó là tâm và ý của bạn
        Có hai thứ bạn phải giữ gìn. Đó là niềm tin và nhân cách.
        Có hai thứ bạn phải lãng quên. Đó là đau thương và hận thù.
        Có hai thứ bạn phải khắc ghi. Đó là công ơn cha mẹ và sự giúp đỡ của người khác.
        Có hai thứ bạn không được làm. Đó là hãm hại người khác và phản bội lòng tin.
        Có hai thứ bạn phải kiểm soát. Đó là bản năng và cảm xúc.
        Có hai thứ bạn phải tránh xa. Đó là cám dỗ và sự ích kỷ.
        Có hai thứ bạn luôn phải sử dụng đúng. Đó là tiền bạc và kinh nghiệm.
        Có hai thứ bạn phải không sợ sệt. Đó là cái ác và sự thật.
        Có hai thứ bạn phải nuôi dưỡng. Đó là tình yêu và sự bao dung.
        Có hai thứ bạn phải đạt được. Đó là thanh thản, an lạc.
        Có hai thứ bạn phải cần biết, ít muốn, biết đủ. Đó là hạnh phúc.
        Có hai thứ bạn phải luôn phải ghi nhớ cuộc đời này của ta.
        Đó là nhân quả và nhân bản.
        Có hai thứ bạn luôn nhớ khi tiếp xúc với tất cả mọi người.
        Đó là lắng nghe và kính trọng.
        Có hai thứ bạn luôn nhắc mình. Đó là nhìn thấy lỗi mình, không thấy lỗi người.
        Có hai thứ bạn nên nhớ. Đó là hãy cho đi- bạn sẽ nhận nhiều hơn thế nữa.
        Có hai thứ bạn đừng tiếc thời gian.
        Đó là ai cần bạn giúp đỡ, con vật nào cần cứu giúp.

        Có hai thứ bạn nên biết. Đó là tất cả chúng ta đều có nỗi khổ giống nhau và đều sống chung dưới một mái nhà nhân quả. Và hãy học cách sống đạo đức của loài người.
        Đó là không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sinh.Bao nhiêu điều đến với cuộc đời của bạn, cuộc sống của nhân loại, đều là sự sắp xếp của nhân quả, tình cờ, vô tình hay vô ý, thiện hay ác đều có nhân, đủ duyên, bạn sẽ có quả, quả lành thì đều vui vẻ, hoan hỉ, nhưng khi không được như ý muốn thì lại bảo sao sao ý nhỉ???. Hình như ông trời không có mắt, chẳng có ông trời nào cả chỉ có nhân duyên quả mà thôi. May mắn hay không may mắn, vui vẻ hay tức giận, lo lắng hay thanh thản, mệt mỏi hay phấn chấn, phiền não hay hoan hỉ, yêu thương hay giận hờn, tha thứ hay bao dung. Đó đều TÂM của bạn, hãy mở rộng tình yêu thương đến muôn người, giúp họ xóa tan đi màn vô minh, sống trọn kiếp làm người thật là người với lòng từ, lòng bi thương xót muôn người, muôn vật.

         

         

        ĐỒNG XUÂN LƯU DẤU HIỀN
        Hoàng Kim


        Dấu cũ hiền tài lắng đọng
        Dòng sông thế núi không quên
        Chuyện “
        Đào Duy Từ còn mãi
        Đời “
        Châu Văn Tiếp Phú Yên

        Đồng Xuân, Tùng Châu, Châu Đức
        Sắn biếc lúa xanh tâm hồn
        Thương núi Lương Sơn tá quốc
        Nhớ
        sông Kỳ Lộ Phú Yên

        Một vùng đất thiêng cổ tích
        Tùng Châu, Châu Đức, Đồng Xuân
        Một giấc mơ lành hạnh phúc
        Lời thương thăm thẳm giữa lòng.

         

         

        2

        Thân thiết thương người hiền cũ
        Tháng năm nhanh thật là nhanh
        Tùng Châu, Hoài Nhơn, Phụng Dụ
        Dừa xanh, sắn biếc tâm hồn

        Cứ nhớ thương thầm dấu cũ
        Dòng đời đâu dễ nguôi quên
        Chuyên “
        Đào Duy Từ còn mãi
        Đồng xuân lưu dấu người hiền

        Một giấc mơ lành hạnh phúc
        Tùng Châu, Châu Đức, Đồng Xuân
        Một góc vườn thiêng cổ tích
        Lời thương thăm thẳm giữa lòng

        xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/dong-xuan-luu-dau-hien/

         

         

        BILL GATES HỌC ĐỂ LÀM
        Hoàng Kim

        Bill Gates là một thế giới trí tuệ, lắng đọng nhiều kinh nghiệm sống học để làm (learning to doing) cần được khám phá. Bill Gates bỏ học mà thành tài, giàu có mà phúc hậu, bỏ quyền lực mà làm từ thiện, sống hữu hạn mà vĩnh cữu. Nhiều giá trị lớn của ông cần được khám phá không riêng cho lớp trẻ mà mang tính phổ quát cho tất cả mọi người. Tôi thật thích GatesNotes https://www.gatesnotes.com/Bio những bài viết ngắn gọn đầy áp thông tin Bill Gates ngày 25 tháng 10 năm 2021 nhắn tin “Sách điện tử miễn phí cho sinh viên đại học và cao đẳng Cách Tránh Thảm họa Khí hậu Tặng sách” College students, download your free copy here.Trước đó, ngày 25 tháng 8 năm 2021 Bill Gates đã nhắn ba tin quan trọng:cách các quốc gia châu Phi ngăn chặn thảm họa sốt rét; nhấn mạnh nghiên cứu mà quân đội Hoa Kỳ đang thực hiện; thông tin cập nhật về một bước đột phá đáng kinh ngạc về chống bệnh sốt rét trong đại dịch COVID-19. Bill Gates học để làm đọc tiếp và suy ngẫm https://hoangkimlong.wordpress.com/category/bill-gates-hoc-de-lam/

         

         

        Bởi Bill Gates | Ngày 25 tháng 8 năm 2021 Chào mừng đến với Tuần lễ Muỗi năm 2021 trên Ghi chú của Gates. Năm ngoái, nhiều người lo sợ về một thảm họa sốt rét. Một phân tích của Tổ chức Y tế Thế giới cho thấy sự gián đoạn trong việc kiểm soát và điều trị bệnh sốt rét do COVID-19 có thể dẫn đến sự gia tăng đáng kể số ca tử vong do sốt rét ở vùng cận Sahara, châu Phi. Một năm sau, tôi vui mừng thông báo rằng trường hợp xấu nhất này, ít nhất là hiện tại, đã tránh được. Tuần lễ Muỗi này, tôi chia sẻ câu chuyện về cách các quốc gia châu Phi ngăn chặn thảm họa sốt rét bằng cách nhanh chóng điều chỉnh các chương trình sốt rét của họ để đối phó với những thách thức của đại dịch.Tôi cũng nhấn mạnh nghiên cứu mà quân đội Hoa Kỳ đang thực hiện để chống lại loài muỗi gây ra nhiều thương vong cho quân đội hơn là bom và đạn.

        Cuối cùng, tôi cung cấp
        thông tin cập nhật về một bước đột phá đáng kinh ngạc có thể kiểm soát sự lây lan của bệnh sốt xuất huyết, một căn bệnh khủng khiếp do muỗi truyền lây nhiễm cho 400 triệu người mỗi năm. Cảm ơn bạn đã quan tâm đến việc tìm hiểu về tất cả những cải tiến đang được thực hiện để chống lại dịch bệnh lây lan từ loài động vật nguy hiểm nhất trên thế giới.

        Cảm ơn bạn đã là Người trong cuộc!

        Cách chống lại bệnh sốt rét trong đại dịch

        Bất chấp sự gián đoạn của COVID-19, các chương trình sốt rét của Châu Phi vẫn tiếp tục duy trì các nỗ lực điều trị và kiểm soát bệnh sốt rét. Khi bắt đầu đại dịch, nhiều người lo sợ rằng không chỉ bản thân COVID-19 sẽ là một thảm họa, mà việc khóa cửa và các phương pháp phòng ngừa khác sẽ có tác động khủng khiếp: làm gián đoạn cuộc chiến chống sốt rét một cách thảm khốc. Một phân tích mô hình từ Tổ chức Y tế Thế giới, mà tôi đã chia sẻ ở đây vào năm ngoái, cho thấy rằng số ca tử vong do sốt rét hàng năm ở châu Phi cận Sahara có thể tăng gấp đôi, trở lại tỷ lệ tử vong chưa từng thấy trong hơn 20 năm.

        Một năm sau, tôi rất vui khi có thể thông báo rằng trường hợp xấu nhất này, ít nhất là hiện tại, đã tránh được. Đó là nhờ sự lãnh đạo của các quốc gia châu Phi đã nhanh chóng điều chỉnh các chương trình sốt rét của họ để đáp ứng những thách thức của đại dịch. Thực hành các biện pháp tránh xa xã hội và các biện pháp an toàn khác, nhân viên sốt rét đã có thể thực hiện nhiệm vụ của mình, cung cấp màn ngủ được xử lý thuốc trừ sâu lâu dài, kiểm soát quần thể muỗi bằng cách phun trong nhà và điều trị dự phòng cho phụ nữ mang thai và trẻ em. Ở Nigeria, quốc gia vẫn phải chịu 60 triệu ca sốt rét mỗi năm, các nhân viên y tế thậm chí còn tăng cường cung cấp dịch vụ kiểm soát sốt rét, bảo vệ hàng triệu trẻ em trong một trong những chiến dịch lớn nhất của họ cho đến nay.

        Đồng thời, các nguồn tài nguyên về sốt rét đã phục vụ hai nhiệm vụ, giải quyết căn bệnh do muỗi truyền và giúp kiểm soát sự lây lan của COVID-19.

        Tại Zambia, các nhà khoa học và thiết bị trong phòng thí nghiệm giám sát bộ gen của Chương trình Loại trừ Sốt rét Quốc gia được sử dụng để theo dõi tình trạng kháng thuốc sốt rét đã nhanh chóng xoay trục để tìm ra các biến thể COVID-19 ở quốc gia này. Tại Mozambique, một ứng dụng được tạo cho nhân viên y tế để cung cấp báo cáo theo thời gian thực về các ca sốt rét và sốt đã cung cấp dữ liệu quan trọng cho phản ứng COVID quốc gia.

         Bất chấp sự tiến bộ này, công việc của chúng tôi vẫn chưa kết thúc. Bệnh sốt rét vẫn giết chết hơn 400.000 người mỗi năm. Và việc ngăn chặn đại dịch và hạn chế di chuyển đã cản trở một số hoạt động sốt rét quan trọng, bao gồm cả việc tiếp cận các nỗ lực chẩn đoán và điều trị ở châu Phi.

        Tuy nhiên, tôi vẫn lạc quan rằng một thế giới không có bệnh sốt rét đang trong tầm tay. Và đại dịch COVID-19 nhắc nhở chúng ta lý do tại sao diệt trừ bệnh sốt rét là điều cần thiết. Nhiều nền tảng chúng ta cần để chống lại bệnh sốt rét và ngăn chặn đại dịch tiếp theo giống nhau: dữ liệu chính xác, thời gian thực; chuỗi cung ứng đáng tin cậy để đưa thuốc và nguồn lực đến những nơi cần thiết nhất; và cộng tác xuyên quốc gia.

        Đầu tư vào các chương trình chống sốt rét giúp xây dựng hệ thống y tế mạnh mẽ hơn, không chỉ giúp cứu sống và chấm dứt bệnh sốt rét mà còn bảo vệ chúng ta khỏi đại dịch tiếp theo. Và điều đó tạo ra một thế giới lành mạnh, an toàn hơn cho tất cả mọi người.

        xem tiếp:
        nhấn mạnh nghiên cứu mà quân đội Hoa Kỳ đang thực hiện; thông tin cập nhật về một bước đột phá đáng kinh ngạc https://hoangkimlong.wordpress.com/category/bill-gate-hoc-de-lam/

        *

        Văn hóa mạng ngày càng tương tác hoàn hảo và hợp lý hơn với văn hóa đọc. Văn hóa mạng nhanh mạnh hiệu quả hơn, chia sẽ hơn, cần cho sự đọc mau lẹ và tiết kiệm thời gian hơn, trong khi văn hóa đọc sâu sắc, tinh tế hơn, chắt lọc hơn, cần cho bảo tồn và suy ngẫm nhiều hơn, lắng đọng tinh hoa hơn. Trang Gates Notes và @BillGates tổng hòa khá hoàn hảo điều đó. Bill Gates ngày· 6 tháng 11, 2019 viết: Tôi lạc quan về tương lai bởi vì tôi tin vào sức mạnh của sự đổi mới và tài năng của người dân tận tụy ý tưởng của họ, nguồn lực của họ, và thậm chí cả cuộc sống của họ để giải quyết những thách thức lớn nhất thế giới. (I’m optimistic about the future because I believe in the power of innovation and the talent of the people devoting their ideas, their resources, and even their lives to solving the world’s greatest challenges. Become a Gates Notes Insider to join the conversation: https://gatesnot.es/2rjGk1w).

        Bill Gates trước đó cũng đã nói lời giản dị mà thức tỉnh: “Đừng so sánh mình với bất cứ ai trong thế giới này … nếu bạn làm như vậy, bạn đang sỉ nhục chính mình” (Don’t compare yourself with anyone in this world … if you do so, you are insulting yourself. Bill Gates).

         

         

        Những câu nói Bill Gates thật đáng suy ngẫm. Cuộc đời của nhiều người không thành công và kém may mắn có thể vịn lời ông mà đứng dậy. Minh triết nhân sinh của Bill Gates thật chí thiện, trí tuệ với tư duy mạch lạc và có hệ thống khoa học. Bill Gates là chuyên gia hàng đầu của máy tính nhưng trong Gates Notes công việc đầu tư tiền bạc, công sức và thời gian của ngân quỹ Bill & Melinda Gates Foundation lại xếp hàng đầu cho nông nghiệp, thiên nhiên, đồ ăn thức uống của con người.

        Sự lựa chọn này của Bill Gates làm tôi nhớ đến lời thầy Norman Borlaug: “Đời người tối thiểu phải ăn, kế đến là học tập, công việc, nhà ở, quần áo và chăm sóc sức khỏe. Quanh ta còn nhiều mảnh đời bất hạnh. Hiểm họa nghèo đói vẫn bùng phát bất cứ lúc nào. Hãy luôn nhớ điều đó”; “Hãy vươn tới những vì sao. Cho dù không chạm được vào nó, nhưng nếu cố gắng hết sức, ít ra, chúng ta cũng chạm được những hạt bụi của ngôi sao”; “Việc chính đời người chỉ ít thôi. Chuyên tâm đừng bận chuyện trời ơi. Phúc hậu suốt đời làm việc thiện. Di sản muôn năm mãi sáng ngời”.

         

         

        Bill Gates có một gia đình hạnh phúc thật sự. Bill Gates được coi là người giàu nhất thế giới, với tài sản trên 100 tỷ đô la US , tuyên bố sẽ cho đi 99% tài sản của mình và sẽ chỉ để lại cho ba đứa con một phần rất nhỏ, chưa tới 1% tổng số tài sản/ Bill Gates đã nghĩ thật thoáng và thật chuẩn mực khi được hỏi tại làm sao ông không để cho các con ông nhiều hơn thế để bảo đảm cuộc sống sung túc hơn, Bill Gates nói:

        Tôi và vợ tôi đều muốn cho con cháu có được cuộc sống thực sự của riêng chúng. Tôi không muốn chúng thành cái bóng của tôi hay suốt đời sống dựa vào (tiền của) tôi. Tôi muốn chúng có nghề nghiệp riêng, có con đường đi cho riêng mình, giàu hay nghèo do chúng tự chọn lựa. Tôi mong chúng được trải nghiệm tất cả hương vị của cuộc sống, từ những nỗ lực để vượt qua khó khăn đến những suy nghĩ cân nhắc để phát triển. Cuộc sống thực sự phải có dễ có khó, có thăng có trầm, có vui có buồn, có lúc lo lắng có lúc bình tâm … Như vậy mới thực sự là sống! Chứ nếu tôi để lại cho các con tôi nhiều tiền của quá, chúng sẽ đâm ra lười biếng và sống cuộc sống nhàm chán, vì không còn thử thách và hồi hộp hay hy vọng gì nữa! Nếu tôi làm như vậy khác nào biến các con tôi thành robot chỉ biết ăn rồi ngủ rồi đi chơi rồi chờ chết? Làm vậy là làm hại các con chứ đâu phải là thương yêu?”

        Tôi thích sự học để làm, học vừa làm rất trí tuệ của ông. Câu châm ngôn hay về “sự đọc” vận vào đây thật đúng: “Trong một thế giới có đủ bình tâm, người viết nhỏ hơn người đọc, người đọc nhỏ hơn quyển truyện họ đang đọc, và quyển truyện nhỏ hơn sự đọc. Người viết và người đọc rồi chết, truyện rồi quên. Sự đọc ở lại và làm nên một phần mênh mông trong định nghĩa của việc làm người“.

        Bill Gates học để làm thật thấm thía.

        MƯỜI CÂU NÓI NỔI TIẾNG CỦA BILL GATES

        Bill Gates – ông chủ của tập đoàn máy tính lớn nhất thế giới Microsoft – trước khi về hưu vào đầu tháng 7 năm 2008, đã đưa ra 10 lời khuyên dành cho các bạn thanh niên trên con đường lập nghiệp. Hải Hiền VNN đã đưa tin. PGS.TS. Phan Thanh Kiếm đã kịp thời chuyển tin này cho DẠY VÀ HỌC

        1. Thế giới vốn không công bằng. Bạn biết điều này chứ? Dù bạn có nhận thấy sự bất công trong xã hội hay không thì cũng đừng hy vọng làm thay đổi được nó. Việc cần làm là hãy thích nghi với nó.

        2. Mọi người sẽ không bao giờ ngó ngàng đến lòng tự trọng của bạn, điều mà họ quan tâm chính là thành tựu mà bạn đạt được. Do đó, trước khi có được những thành tựu thì bạn đừng nên quá chú trọng hay cường điệu lòng tự trọng của bản thân mình lên.

        3. Thường thì bạn sẽ không thể trở thành CEO nếu chỉ mới tốt nghiệp trung học. Nhưng khi bạn đã trở thành một CEO thì không còn ai để ý là bạn mới chỉ có tốt nghiệp trung học nữa.

        4. Khi bạn gặp khó khăn hay bế tắc trong công việc thì đừng có oán trách số phận. Điều bạn học được khi gặp trắc trở chính là kinh nghiệm và bài học để lần sau không bao giờ mắc phải nữa.

        5. Nên hiểu một điều rằng: Trước khi có bạn, bố mẹ bạn không phải là những người “chán ngắt, vô vị” như bạn của ngày hôm nay đã nghĩ. Đây chính là cái giá rất lớn mà bố mẹ đã phải trả cho sự trưởng thành của bạn.

        6. Khi đi học, bạn đứng thứ mấy trong lớp cũng không phải là vấn đề quan trọng. Nhưng khi đã bước chân ra xã hội thì mọi việc lại không đơn giản như vậy. Dù đi đâu hay làm công việc gì bạn cũng nên tạo đẳng cấp cho mình.

        7. Khi đi học, bạn luôn mong chờ đến ngày nghỉ lễ, Tết. Khi đi làm thì hoàn toàn không giống vậy, dường như là bạn sẽ không được nghỉ ngơi. Công việc sẽ cuốn bạn đi bất cứ lúc nào kể cả ngày nghỉ.

        8. Khi ngồi trên ghế nhà trường, lúc gặp khó khăn trong học tập thì có giáo viên giúp đỡ bạn. Tuy nhiên, nếu lúc đó bạn lại cảm thấy mọi khó khăn đều do những yêu cầu quá nghiêm khắc từ phía giáo viên thì bạn đừng nên đi làm sau khi tốt nghiệp. Đơn giản nếu như không có những yêu cầu nghiêm khắc từ phía công ty thì chắc chắn bạn sẽ không làm được gì và sẽ nhanh chóng thất nghiệp, hơn nữa lúc này sẽ không có ai giúp đỡ bạn cả.

        9. Mọi người đều thích xem phim truyền hình, nhưng bạn không nên xem nhiều vì đó không phải là cuộc sống của bạn. Vì công việc ở công ty mới phản ánh cuộc sống thực của bạn.

        10. Không bao giờ phê bình người khác sau lưng của họ, đặc biệt đừng bao giờ phê phán sếp là người không có năng lực, điều này là không đúng.

        BILL GATES NÓI VÀ VIẾT VỀ LEONADO DA VINCI
        Leonardo da Vinci xem ảnh và nghe Gates nói

        Bill Gates kể rằng Leonardo là một trong những người hấp dẫn nhất từ ​​trước tới nay.  Một thời gian ngắn sau khi Melinda và Bill Gates kết hôn, Gates nói với Melinda rằng Gates đang đấu giá một chiếc m&Xem tiếp >>

          Dạy và học 27 tháng 10(27-10-2021)


        DẠY VÀ HỌC 27 THÁNG 10
        Hoàng Kim
        CNM365 Tình yêu cuộc sốngTháp Bút viết trời xanh; Hoàng Thành ngọc cho đời; Bảo tồn và phát triển sắn; Thầy bạn trong đời tôi; Việt Nam dư địa chí; Lúa Việt tới Châu Mỹ; Trung Nga với Trung Á; Turkmenistan đất và người; Trận Vũ Hán lịch sử; Lào hoa trắng nắng Mekong; Lúa sắn Cămpuchia và Lào; Trận Vũ Hán lịch sử; Đi thuyền trên Trường Giang; Đập Tam Hiệp Tam Tuyến; Lúa cao cây Trung Quốc; Thời biến nhớ người xưa; Hoàng Gia Cương thơ hiền; Chuyện thầy Ngô Kế Sương; Nợ duyên; Hưng Đạo Trần Quốc Tuấn;Nguyễn Du trăng huyền thoại; Nguyễn Du tư liệu quý; Ngày 27 tháng 10 năm 1991 Nước Cộng hòa Turkmenistan tuyên bố độc lập, từ một thành phần của Liên Xô cũ. Ashgabat là thủ đô và thành phố lớn nhất của Turkmenistan. Nước Turkmenistan tài nguyên đất đai phần nhiều là sa mạc Cát Đen, thế mạnh là khí đốt, dầu, gaz, điện, nước, sản phẩm hoá chất, dệt may, thảm và bông, phương tiện giao thông công cộng; Dân số Turkmenistan 87-93 %  là tín đồ Hồi giáo, phần nhiều người trong đó là người Turkmen. Turkmenistan giáp với Afghanistan về phía đông nam, Iran về phía tây nam, Uzbekistan về phía đông bắc, Kazakhstan về phía tây bắc và biển Caspi về phía tây. Ngày 27 tháng 10 năm 1868, Nguyễn Trung Trực thủ lĩnh kháng Pháp tại Nam Bộ bị người Pháp hành hình tại Rạch Giá. Ngày 27 tháng 10 năm 1938, Quân đội Nhật Bản chiếm được Hán Dương, giành chiến thắng kiểu Pyrros (chiến thắng để tự kết liễu) trong trận Vũ Hán. Đây là trận đánh ác liệt và đẫm máu nhất Trong Chiến tranh Trung Nhật.  Bài chọn lọc ngày 27 tháng 10: Tháp Bút viết trời xanh; Hoàng Thành ngọc cho đời; Bảo tồn và phát triển sắn; Thầy bạn trong đời tôi; Việt Nam dư địa chí; Lúa Việt tới Châu Mỹ; Trung Nga với Trung Á; Turkmenistan đất và người; Trận Vũ Hán lịch sử; Lào hoa trắng nắng Mekong; Lúa sắn Cămpuchia và Lào; Trận Vũ Hán lịch sử; Đi thuyền trên Trường Giang; Đập Tam Hiệp Tam Tuyến; Lúa cao cây Trung Quốc; Thời biến nhớ người xưa; Hoàng Gia Cương thơ hiền; Chuyện thầy Ngô Kế Sương; Nợ duyên; Hưng Đạo Trần Quốc Tuấn;Nguyễn Du trăng huyền thoại; Nguyễn Du tư liệu quý; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu,vn/hoangkimlong và  https://cnm365.wordpress.com/2018/10/27/chao-ngay-moi-27-thang-10/

        THÁP BÚT VIẾT TRỜI XANH
        Hoàng Kim
        (thơ đề ảnh)

        Hoàng Thành ngọc cho đời
        Thăng Long Lý Thái Tổ
        Hoàng Thành nền Đại La
        Việt Nam dư địa chí
        Tháp Bút viết trời xanh

        https://hoangkimlong.wordpress.com/category/thap-but-viet-troi-xanh

        VIỆT NAM DƯ ĐỊA CHÍ
        Hoàng Kim (đọc sách giùm bạn)

        “Việt Nam ta có hai tiếng đất nước.Có đất có nước thì mới thành Tổ quốc. Nhiều nước quá thì lũ lụt, ít nước quá thì hạn hán. Nhiệm vụ của chúng ta là phải điều hòa giữa đất và nước để nâng cao đời sống nhân dân và xây dựng chủ nghĩa xã hội”
        (Lời Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Hội nghị Thủy lợi toàn miền Bắc).

        Tổng tập Dư địa chí Việt Nam, sách bốn tập. Biên mục trên xuất bản phẩm của Thư Viện Quốc gia Việt Nam:

        Tổng tập Dư địa chí Việt Nam / Lê Tắc, Nguyễn Trãi, Phan Huy Chú…Bùi Văn Vượng chủ biên, Cao Giang hiệu đính, Nhà Xuất Bản Thanh Niên 2011. Tập 1 Dư địa chí toàn quốc (Quốc chí) 1248 trang,

        Tổng tập Dư địa chí Việt Nam / Phan Huy Chú.Lương Văn Can, Trúc Khê Ngô Văn Triện , Đào Duy Anh…Bùi Văn Vượng chủ biên, Cao Giang hiệu đính, Nhà Xuất Bản Thanh Niên 2011 Tập 2 Dư địa chí toàn quốc (Quốc chí) 1568 trang ;

        Tổng tập Dư địa chí Việt Nam / Dương Văn An, Trịnh Hoài Đức, Lê Quý Đôn…..Bùi Văn Vượng chủ biên, Cao Giang hiệu đính, Nhà Xuất Bản Thanh Niên 2011 Tập 3 Dư địa chí địa phương (Phương chí) 1344 trang,

        Tổng tập Dư địa chí Việt Nam / Trương Vĩnh Ký, M.E Levadoux, Đỗ Đình Nghiêm,…..Bùi Văn Vượng chủ biên, Chu Văn Mười hiệu đính, Nhà Xuất Bản Thanh Niên 2011 Tập 4 Dư địa chí địa phương (Phương chí) 1196 trang.

        Việt Nam dư địa chí là sách Việt Nam đất nước học do các triều đại Việt Nam qua các thời tổ chức biên soạn, hay do những nhà văn hóa trí thức uyên bác của các thời tự biên soạn, ấn hành và phổ biến rộng rãi trong nhân dân. Kiến thức trong loại sách này là những tri thức bách khoa toàn thư đa ngành và liên ngành, là di sản văn hóa dân tộc đúc kết thành văn, phản ảnh tại thời ấy về đất nước, con người, quê hương, xứ sở. Đây là loại sách công cụ quý hiếm bách khoa thư giúp khảo cứu, so sánh, đối chiếu xưa và nay, để giải đáp các vấn đề cấp thiết của đời sống kinh tế văn hóa xã hội hiện tại. Sách rất cần cho giảng day và nghiên cứu.

        Mục lục Tổng tập dư địa chí Việt Nam, bốn quyển

        TẬP 1
        Lời nói đầu, trang 11
        Lời người biên soạn, trang 13
        Tổng luận Dư địa chí Việt Nam, trang 19

        An Nam chí lược (Lê Tắc) trang 61
        Dư địa chí (Nguyễn Trãi) trang 537
        Hồng Đức bản đồ (Triều Lê) trang 681
        Hoàng Việt dư địa chí (Phan Huy Chú) trang 891
        Phương Đình dư địa chí (Nguyễn Văn Siêu) trang 1029

        TẬP 2
        Đề dẫn Tập 2 (trang 7)
        Dư địa chí, Nhân vật chí, Quan chức chí (Phan Huy Chú) trang 9
        Đại Nam nhất thống chí (Trích) Quốc sử quán triều Nguyễn [biên soạn] trang 601
        Đại Việt địa dư (Lương Văn Can) trang 1201
        Lịch sử Nam Tiến của dân tộc Việt Nam (Trúc Khê Lê Văn Triện) trang 1247
        Đất nước Việt Nam qua các đời (Đào Duy Anh) trang 1277
        Sách địa dư (trích) trang 1541

        TẬP 3
        Đề dẫn Tập 3 (trang 7)
        Ô châu cận lục (Dương Văn An) trang 9
        Gia Định thành thông chí (Trịnh Hoài Đức) trang 99
        Phủ Biên tạp lục (Lê Quý Đôn) trang 303
        Phong thổ Hà Bắc đời Lê (Khuyết danh) trang 577
        Nghệ An ký (Bùi Dương Lịch )trang 643
        Phú Thọ tỉnh địa chí (Phạm Xuân Độ) trang 911
        Địa chí tỉnh Vĩnh Yên (khuyết danh) trang 957
        Thanh Hóa quan phong (Vương Duy Trinh) trang 1009
        Bắc Thành địa dư chí (Lê Công Chất) trang 1099
        Bắc Kỳ hà đê sự tích (khuyết danh) trang 1287

        TẬP 4
        Đề dẫn Tập 4 (trang 5)
        Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất Hợi 1876 (Trương Vĩnh Ký) trang 9
        Tiểu giáo trình địa lý Nam Kỳ (Trương Vĩnh Ký) trang 57
        Ký ức lịch sử về Sài Gòn và vùng phụ cận (Trương Vĩnh Ký) trang 97
        Gia Định phong cảnh vịnh (Trương Vĩnh Ký) trang 129
        Địa chí tỉnh Bình Thuận (M.E Levadoux) trang 177
        Địa chí các tỉnh Bắc Kỳ (Đỗ Đình Nghiêm, Ngô Vi Liễn, Phạm Văn thư) trang 207
        Địa dư huyện Cẩm Giàng (Ngô Vi Liễn) trang 357
        Địa dư huyện Quỳnh Côi (Ngô Vi Liễn) trang 459
        Địa dư huyện Bình Lục (Ngô Vi Liễn) trang 555
        Tỉnh Gia Định đia phương chí (trích) trang 727
        Tân An ngày xưa (Đào Xuân Hội) trang 783
        Cà Mau xưa và An Xuyên nay (Vương Khả Lân) trang 867
        Chiêm Thành lược khảo (Vương Khả Lân) trang 985
        Trà Lũ xã chí (Lê Văn Nhưng) trang 1023
        Niên biểu Việt Nam, trang 1063
        Tổng Mục lục, trang 1191

        Thăng Long Lý Thái Tổ
        Hoàng Thành nền Đại La
        Việt Nam dư địa chí
        Tháp Bút viết trời xanh

        https://hoangkimlong.wordpress.com/category/hoang-thanh-ngoc-cho-doi/

        VIỆT NAM ĐẤT NƯỚC CON NGƯỜI

        Việt Nam tổ quốc tôi
        Việt Nam tâm thế mới
        Việt Nam dư địa chí
        Việt Nam con đường xanh
        Việt Nam thông tin khái quát
        Việt Nam đất nước con người

        Nông nghiệp sinh thái Việt
        Di sản thế giới tại Việt Nam
        Du lịch sinh thái Việt
        Vườn Quốc gia Việt Nam
        Nông nghiệp công nghệ cao
        Nông nghiệp Việt trăm năm
        Ngôn ngữ văn hóa Việt
        Dạo chơi non nước Việt

        https://hoangkimlong.wordpress.com/category/viet-nam-dat-nuoc-con-nguoi

        HOÀNG THÀNH NGỌC CHO ĐỜI
        Hoàng Kim


        Hứng mật đời
        thành thơ,
        việc nghìn năm hữu lý
        Trạng Trình.

        Đến Trúc Lâm
        đạt năm việc lớn Hoàng Thành
        Ngọc cho đời
        Phước Đức

        Vui đi dưới mặt trời
        Một niềm tin thắp lửa
        Một niềm vui ngày mới
        Giấc mơ lành yêu thương.

        Một đóa mai vàng sinh nhật
        Một lời ấm áp tình thân
        Một Biển Hồ soi bóng nắng
        Một Giác Tâm xa mà gần.

        Em đi chơi cùng Mẹ
        Trăng rằm vui chơi giăng
        Thảo thơm vui đầy đặn
        Ân tình cùng nước non.

        Trăng khuyết rồi lại tròn
        An nhiên cùng năm tháng
        Ơi vầng trăng cổ tích
        Soi sáng sân nhà em.

        Đêm nay là đêm nao?
        Ban mai vừa ló dạng
        Trăng rằm soi bóng nắng
        Bạch Ngọc trời phương em.

        Đêm Vu Lan nhớ bài thơ đi học
        Thấm nhọc nhằn củ sắn củ khoai
        Nhớ tay chị gối đầu khi mẹ mất
        Thương lời cha căn dặn học làm người…

        Trăng sáng lung linh, trăng sáng quá!
        Đất trời lồng lộng một màu trăng
        Dẫu đêm khuya vắng người quên ngắm
        Trăng vẫn là trăng, trăng vẫn rằm

        Cây mầm xanh người và cây cùng cảnh
        Lớn âm thầm trong chất phác chân quê
        Hoa và Ong Hoa Người cần mẫn
        Mai đào thơm nước biếc lộc xuân về

        MỘT VÙNG TRỜI NHÂN VĂN
        Hoàng Kim

        Gương trời lồng lộng ban mai
        Thung dung ta đến vùng trời nhân văn
        Thịnh suy thế nước ngàn năm
        Anh hùng là kẻ vì dân vì đời.

        Bên lề chính sử dạo chơi
        Rùa ơi thương Cụ biết nơi chọn về.
        Kỳ Lân mộ, Tháp Rùa bia
        Bia đời, bia miệng khắc ghi lòng người.

        Tìm nơi tỉnh lặng ta ngồi
        Tình yêu cuộc sống là nơi thư nhàn
        Câu thơ lưu lạc trần gian.
        Hoàng Thành Cổ Kiếm Hồ Gươm gọi về.

        Hoàng thành Thăng Long là di sản văn hóa thế giới được UNESCO công nhận ngày 1/8/2010. Hoàng Thành Thăng Long là khu trung tâm của kinh đô Thăng Long do vua Lý Thái Tổ, vị hoàng đế đầu tiên của nhà Lý quyết định xây dựng. Đây quần thể di tích gắn với lịch sử kinh thành Thăng Long Đông Kinh và tỉnh thành Hà Nội, là công trình kiến trúc đồ sộ, được các triều vua xây dựng trong nhiều giai đoạn lịch sử và trở thành di tích quan trọng bậc nhất trong hệ thống các di tích Việt Nam.

        Bảo tồn và phát triển sắn
        KÊNH ÔNG KIỆT TRONG TÔI
        Hoàng Kim

        Giống sắn KM94, KM98-1, giống lúa gạo thơm ngon KĐM 135 ngon cơm sinh trưởng phát triển tốt trên vùng đất hoang hóa được tưới ở Tri Tôn, Tịnh Biên đã mang lại niềm vui cho người nghèo tại vùng đất này; chính nhờ kênh ông Kiệt mới bảo tồn và phát triển tốt được. Bảy Nhị kênh ông Kiệt và tôi là một ký ức sâu đậm https://hoangkimlong.wordpress.com/category/bay-nhi-kenh-ong-kiet-va-toi/ . Sự tiếp nối là các giống sắn chủ lực và phổ biến sản xuất với Mười kỹ thuật thâm canh sắn; Giống sắn KM98-5; Giống sắn KM140 VIFOTEC; Giống sắn chủ lực KM419; Giống sắn KM419 và KM440; Bảo tồn và phát triển sắn. Đó là chuỗi ký ức lắng đọng mãi trong lòng tôi https://hoangkimlong.wordpress.com/category/bao-ton-va-phat-trien-san/

        Thơ cho em giữa tháng năm này
        Là lời người dân nói vể
        kênh ông Kiệt
        Là con kênh xanh mang dòng nước mát
        Làm ngọt ruộng đồng Tứ giác Long Xuyên

        Con kênh T5 thoát lũ xả phèn
        Dẫn nước ngọt về vùng quê nghèo khó
        Tri Tôn, Tịnh Biên trong mùa mưa lũ
        Giữa hoang hóa, sình lầy, thấm hiểu lòng dân

        Nguyễn Công Trứ xưa khẩn hoang đất dinh điền
        Thoại Ngọc Hầu mở mang kênh Vĩnh Tế
        Kênh ông Kiệt giữa lòng dân bền bỉ
        Ân nghĩa cuộc đời lưu dấu nghìn năm

        Em ơi khi nuôi dạy con
        Hãy dạy những điều vì dân, vì nước
        Người ta sinh ra cho đến khi nhắm mắt
        Đọng lại trong nhau vẫn chỉ những CON NGƯỜI.

        Hệ thống thủy lợi nội đồng nối với “Kênh ông Kiệt” đã mang nguồn nước ngọt về ruộng

        Giống lúa KĐM 135 ngon cơm sinh trưởng phát triển tốt trên vùng đất hoang hóa được tưới đã mang lại niềm vui cho người nghèo.

        Các giống cây màu rau đậu trồng vụ khô sau khi thu hoạch lúa đã giúp nâng cao đời sống người dân.

        Khoa học kỹ thuật bám dân bám ruộng âm thầm nhưng hiệu quả làm đổi thay vùng Tri Tôn Tịnh Biên.

        Ông Nguyễn Minh Nhị (nguyên Chủ tịch tỉnh) cùng anh Ngô Vi Nghĩa với giống mì ngắn ngày trên ruộng tăng vụ.

        “Kênh ông Kiệt” và vùng đất An Giang cũng là nôi nuôi dưỡng phát triển của các giống mì ngắn ngày KM98-1, KM140 đươc chọn tạo để đáp ứng nhu cầu né lũ nay đã phát triển rộng khắp toàn quốc (ảnh Thầy Lê Minh Tùng, Hiệu trưởng Trường Đại học An Giang, Phó Chủ tịch tỉnh An Giang với giống mì KM98-1)

        Nghiên cứu tuyển chọn giống sắn năng suất tinh bột cao kháng được sâu bệnh hại chính (CMD, CWBD) phú hợp với điều kiện sản xuất tại tỉnh Phú Yên và vùng phụ cận được thực hiện ngày nay là sự bảo tồn và phát triển chuỗi kinh nghiệm quý Cách mạng sắn Việt Nam; Bảo tồn và phát triển sắnhttps://hoangkimlong.wordpress.com/category/bao-ton-va-phat-trien-san/.

        Thầy bạn trong đời tôi

        Cà phê sáng với CNM365
        THẦY BẠN TRONG ĐỜI TÔI
        Hoàng Kim
        cám ơn
        Huỳnh Hồng, Lâm Cúc, Tùy Ngộ Nhi An
        https://hoangkimlong.wordpress.com/…/thay-ban-trong-doi-toi/

        LÚA VIỆT TỚI CHÂU MỸ
        Hoàng Kim


        Việt Nam con đường xanh kết nối, tỏa rộng sự hợp tác hiệu quả của Việt Nam với Thế giới . Lúa Việt tới Châu Mỹ thực sự đã có những dự án và mô hình hợp tác chất lượng hiệu quả được tổng kết. Tháng 10 năm 2018, tiến sĩ Phạm Xuân Liêm và đoàn chuyên gia lúa Việt Nam ở Venezuela.và các Nhà khoa học Viện Nghiên cứu Nông nghiệp Quốc gia INIA với bà con nông dân Venezuela đã giới thiệu kết quả và thành tựu của “Mô hình sản xuất lúa tại Venezuela theo kinh nghiệm trồng lúa nước Việt Nam”. Đây là bài học tuyệt vời bước đầu của sự hợp tác Nam Nam toả rộng Con đường Lúa Gạo Việt Nam đến với chén cơm ngon của người dân ở
        Venezuela, Lần này, tiến sĩ Lê Vinh Thảo trao đổi “Những tâm sự sâu kín” về Lúa Việt tới Cu Ba. Anh viết, xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/lua-viet-toi-chau-my/

        “Dự án “Việt Nam – Cuba về phát triển lúa quy mô hộ gia đình 2002- 2023” với mục tiêu giúp Cuba tự túc lương thực, hạn chế nhập khấu thóc gạo. với khoản tài chính hơn 60 triệu USD, dự án đã nghiên cứu thận trọng kỉ thuật trồng lúa Việt Nam trên đất Cuba anh em đã được lãnh đạo Viện KHKTNNVN, Bộ NNPTNT và Viện KHNNVN chỉ đạo thực hiện. Lê Thảo cùng Aleman Manfarol và Jorge Hernandez là những người bạn tâm huyết đề xuất và thực hiện từ những năm 2001- 2015. Trải qua gần 20 năm, người Cuba đã biết lồng đất, gieo mạ, cấy lúa, gieo thẳng, gặt lúa và sản xuất gạo trong điều kiện thiếu phân, thiếu máy móc, thiếu thuốc phòng trừ sâu bệnh và cỏ dại. Hàng trăm cán bộ Cuba đã sang học tập kinh nghiệm sản xuất, tạo giống của người nông dân và cán bộ trồng lúa Việt Nam. Dự án pha 1 (2002- 2004), pha 2 (2003-2005), pha 3 (2006-2009), pha 4 (2011-2015) và pha 5 (2019-2023) đang triển khai. Dự án trồng lúa quy mô hộ gia đình đã góp phần nâng cao tình hữu nghị giữa hai Đảng, hai dân tộc trong những năm qua. Cái chuyện “Cuba canh để người anh em Việt Nam ngon giấc ngủ” trong công cuộc chống Mỹ cứu nước có phần vơi đi cảm nhận xúc động tình anh em đồng chí trong suy nghĩ thầm kín trong tôi khi dự án này được chính phủ hai nước đánh giá cao trong những năm qua. Các giống lúa Thảo cẩm 5, Thảo cẩm 9, N98, Tân ưu 98, HT18… đã được các bạn Cuba nghiên cứu thử nghiệm tại Viện cây có hạt trong năm 2018. Hy vọng những giống mới thích ứng với điều kiện khí hậu và đất trồng của đất nước Cuba anh em. Lê Thảo cám ơn Viện Cơ điện, Viện Ngô, Cục Trồng trọt, các bạn chuyên gia … luôn đồng hành để Lê Thảo hoàn thành nhiệm vụ trong những ngày tháng tham gia Dự án. Bộ NN Cuba và các đơn vị liên quan phía Cuba đã ghi nhận sự đóng góp của Lê Thảo thông qua các bằng & giấy khen.”

        Tôi thực sự tin tưởng vào kết quả dự án sẽ sẽ hướng tới thành công vì tầm nhìn định hướng kế hoạch thật chu đáo cụ thể. Các giống lúa Thảo cẩm 5, Thảo cẩm 9, N98, Tân ưu 98, HT18… đã được các bạn Cuba nghiên cứu thử nghiệm tại Viện cây có hạt trong năm 2018. Hy vọng sẽ thích ứng với điều kiện khí hậu và đất trồng của đất nước Cuba anh em. Tôi có những niềm tin thân thiết giữa những người bạn.

        Nhìn hai cặp đôi hoàn hảo Phạm Xuân Liêm với Lê Thảo:

        Đi xe máy
        Về gần nhà
        Lại la cà
        Làm vài vại…

        Tôi thật nhớ bạn. Phạm Xuân Liêm, Đỗ Khắc Thịnh, Vũ Mạnh Hải, Lê Xuân Đính, Trần Văn Minh, Đỗ Thị Minh Huệ, Nguyễn Thị Bồng, Phạm Huy Trung, … chúng tôi đều cùng một lớp. Có những thế hệ mới đang tiếp nối chúng tôi gắn bó với ruồng đồng. Tôi lắng đọng sâu sắc bài thơ “Một niềm tin thắp lửa”:

        MỘT NIỀM TIN THẮP LỬA
        Hoàng Kim

        Nhìn đàn em ngời niềm vui rạng rỡ.
        Chợt thấy lòng rưng rưng.
        Công việc nghề nông cực mà hạnh phúc.
        Cố lên em nổ lực không ngừng !

        Hột mồ hôi lắng vào hạt gạo
        Câu ca ông bà theo suốt tháng năm
        Thêm bữa cơm ngon cho người lao động
        Nâng chén cơm thơm, qúy trọng người trồng.

        Em ơi hãy học làm ruộng giỏi
        Nghề nông thời nào cũng quý kỹ năng
        Người dân khá hơn là niềm ao ước
        Công việc này giao lại cho em.

        Có một mùa xuân hạnh phúc
        Ơn mẹ cha lam lũ sớm hôm
        Thương con vạc gọi sao mai dậy sớm
        Một niềm tin thắp lửa giữa tâm hồn.

        Bước tiếp bước giữa trường đời gian khó
        Học làm người lao động siêng năng
        Rèn nhân cách vượt lên bao cám dỗ
        Đức và Tài tử tế giữa Nhân Dân.

        Ngắm nhìn Cánh đồng lúa Việt Nam tại Venezuela thật thích! Ca dao Việt viết: “Đem chuông đi đấm xứ người. Chẳng kêu cũng đấm ba hồi cho kêu”. Nhớ Sơn Nam ông già Nam Bộ, Cụ nói:”“Cố gắng viết ngắn, câu nào cũng có thông tin”. “Khuyến nông tức là cách giữ đạo làm nông, thì dân mới giàu mạnh được”. “Người tứ xứ về tứ giác sinh cơ lập nghiệp, thì cần giữ cái đạo làm người, thì kinh tế thị trường ở đây mới nên bộ mặt nông thôn mới”. Tiến sĩ  Phạm Xuân Liêm và đồng nghiệp mang Lúa Việt tới Venezuela đã có cách làm, day và học thật lắng đọng, giản dị và hiệu quả.

        Anh viết: ” SÁCH HƯỚNG DẪN KỸ THUẬT :Cuốn sách nhỏ “Hướng dẫn kỹ thuật trồng lúa tại Venezuela theo kinh nghiệm canh tác lúa của Việt Nam” in bằng 2 thứ tiếng Tây Ban Nha và tiếng Việt là tài liệu cho Hội nghị đầu bờ đánh giá mô hình sản xuất lúa theo kỹ thuật Việt Nam tại Bang Guarico (19/10/2018). Cuốn sách cũng giới thiệu 5 giống lúa Việt Nam tuyển chọn, như một tài liệu chuyển giao kỹ thuật cho người trồng lúa Venezuela. Chúng t&ocXem tiếp >>

          Dạy và học 26 tháng 10(26-10-2021)

         

         

        DẠY VÀ HỌC 26 THÁNG 10
        Hoàng Kim
        CNM365 Tình yêu cuộc sốngLào hoa trắng nắng Mekong; Lúa sắn Cămpuchia và Lào; Trận Vũ Hán lịch sử; Đi thuyền trên Trường Giang; Đập Tam Hiệp Tam Tuyến; Trung Nga với Trung Á; Lúa cao cây Trung Quốc; Thời biến nhớ người xưa; Hoàng Gia Cương thơ hiền; Chuyện thầy Ngô Kế Sương; Nợ duyên; Hưng Đạo Trần Quốc Tuấn;Chuyển đổi số Quốc gia;Thiền Sư Lão Nông Tăng; Ban mai trên sông Son; Chớm Đông; Đi để hiểu quê hương; Nguyễn Du tư liệu quý; Nguyễn Du trăng huyền thoại; Ngày 26 tháng 10, 1972, ngày sinh Sơn Táp (Shan Sa,Yan Ni-Ni, Diêm Ni) nhà văn Pháp, người gốc Trung Quốc có tác phẩm nổi tiếng “Thiếu nữ đánh cờ vây” liên tưởng sâu sắc tới “Trận Vũ Hán” ác liệt và đẫm máu nhất của Chiến tranh Trung Nhật; Trong trận này, Trung Quốc đã chủ động phá vỡ đê Hoàng Hà để chặn đòn tiến quân của Nhật, gây nên “Lụt Hoàng Hà năm 1938“ chết trên 50 vạn dân .Ngày 26 tháng 10 năm 1940 Máy bay tiêm kích North American P-51 Mustang nổi tiếng nhất trong chiến tranh, đã thực hiện chuyến bay đầu tiên. Ngày 26 tháng 10 năm 1863, Hiệp hội Bóng đá Anh được thành lập tại Luân Đôn, đây là hiệp hội bóng đá lâu năm nhất thế giới. Bài chọn lọc ngày 26 tháng 10: Lào hoa trắng nắng Mekong; Lúa sắn Cămpuchia và Lào; Trận Vũ Hán lịch sử; Đi thuyền trên Trường Giang; Đập Tam Hiệp Tam Tuyến; Trung Nga với Trung Á; Lúa cao cây Trung Quốc; Thời biến nhớ người xưa; Hoàng Gia Cương thơ hiền; Chuyện thầy Ngô Kế Sương; Nợ duyên; Hưng Đạo Trần Quốc Tuấn;Chuyển đổi số Quốc gia;Thiền Sư Lão Nông Tăng; Ban mai trên sông Son; Chớm Đông; Đi để hiểu quê hương; Nguyễn Du tư liệu quý; Nguyễn Du trăng huyền thoại; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/ http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-26-thang-10/

        LÀO HOA TRẮNG NẮNG MEKONG
        Hoàng Kim


        Tháp vàng hoa trắng nắng Mekong
        Ấn tượng Viên Chăn thật lạ lùng
        Nơi đâu hối hả, đây trầm lắng
        Một vùng đất Phật ở ven sông.

        Nhớ thuở Nguyễn công gây nghiệp lớn
        Ai Lao thường mở lối đi về
        Trung Hưng thành tựu nhờ chung sức
        Núi thẳm, lòng dân đã chở che.

        Dân Việt ngàn năm xuôi lấn biển
        Tựa lưng vào núi hướng về Nam
        Thoáng chốc nghìn năm nhìn trở lại
        Tháp vàng, hoa trắng, nắng Mekong.

         

        Reinhardt Howeler, Hoàng Kim ở Lào (ảnh Hoàng Kim)

         

        LÚA SẮN CAMPUCHIA VÀ LÀO
        Hoàng Kim

        Lúa sắn Campuchia và Lào là điểm nhấn thú vị thật đáng suy ngẫm. Campuchia và Lào tôi đã đến thật nhiều lần, kể từ năm 1972 trong chuyện kể
        Câu cá bên dòng Sêrêpôk cho tới sau này được giảng dạy và nghiên cứu, dự hội thảo, du lịch sinh thái, giúp các chủ trang trại canh tác lúa sắn . Tôi có nhiều bạn ở nơi ấy. Hoàng Long con trai tôi cùng Nguyễn Văn Phu ở bộ môn Cây Lương thực Rau Hoa Quả Khoa Nông học Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh vừa tham gia Giúp bà con cải thiện vụ mùa tại Champasak trong mùa hè xanh năm 2019 tại Lào https://www.facebook.com/watch/?v=845140395871560

        Việt Nam Lào Cămpuchia chúng ta chung nôi bán đảo Đông Dương, chung một vận mệnh mật thiết của sự kết nối đất nước và con người. Lúa sắn Việt Nam, Campuchia và Lào trong sự so sánh bức tranh nông sản này thì Việt Nam năm 2016 có diện tích canh tác lúa là 7.783.113 ha, năng suất lúa 5,58 tấn/ ha, sản lượng 43,43 triệu tấn; diện tích sắn 579.898 ha, năng suất sắn 19,04 tấn/ha, sản lượng sắn 11,04 triệu tấn. Campuchia năm 2016 diện tích canh tác lúa là 2.866.973 ha, năng suất 3,42 tấn/ ha, sản lượng 9,82 triệu tấn; diện tích sắn 387.636 ha, năng suất 26,33 tấn/ha, sản lượng 10,20 triệu tấn. Lào năm 2016 diện tích canh tác lúa là 973.327 ha, năng suất 4,26 tấn/ ha, sản lượng 4,14 triệu tấn; diện tích sắn 94.726 ha, năng suất 32,68 tấn/ ha, sản lượng 3,09 triệu tấn. Đối chiếu với số liệu thống kê của năm 2014 thì Việt Nam có diện tích canh tác lúa là 7.816,476 ha, năng suất lúa 5,75 tấn/ ha, sản lượng 44,97 triệu tấn; diện tích sắn 552.760 ha, năng suất sắn 18,47 tấn/ha, sản lượng sắn 10,20 triệu tấn. Campuchia năm 2014 diện tích lúa là 2.856.703 ha, năng suất 3,26 tấn/ ha, sản lượng 9,32 triệu tấn; diện tích sắn 257.845 ha, năng suất 25,78 tấn/ha, sản lượng 8,58 triệu tấn. Lào năm 2014 diện tích canh tác lúa là 957.836 ha, năng suất 4,17 tấn/ ha, sản lượng 4,00 triệu tấn; diện tích sắn 60.475 ha, năng suất 26,95 tấn/ha, sản lượng 1,63 triệu tấn.

        Video
        Lao Farmer Network thật thú vị . Hình ảnh sắn Lào ngày 10 tháng 7 năm 2019 tại https://www.facebook.com/laofarmernetwork/videos/619900718642916 Bức tranh nông sản được đúc kết, bảo tồn để cùng học hỏi trao đổi. Lúa sắn Việt Nam, Lào, Cămpuchia với các điển hình tiên tiến trong nghiên cứu chuyển giao tiến bộ kỹ thuật canh tác và sản xuất. chế biến, tiêu thụ trong tầm nhìn hệ thống kinh tế văn hóa xã hội là điểm nhấn của bài viết này .

        LÚA SẮN CĂMPUCHIA

        Lúa, sắn Cămpuchia, chúng ta có thể dạy và học gì với nông dân? Tôi lưu lại đây một điểm nhấn hợp tác lúa sắn với nông nghiệp Căm pu chia để có dịp quay lại viết sâu hơn, kể câu chuyện tiếp nối các câu chuyện Hợp tác Bảo tồn và Phát triển. Đất nước Angkor nụ cười suy ngẫm .

        Câu chuyện này tôi đã kể với Sango Mahanty giáo sư và chuyên gia kinh tế nổi tiếng của Trường Đại học Úc. Tôi kết luận về sự trãi nghiệm và suy ngẫm của tôi với đất nước này.“Tiềm năng hợp tác nghiên cứu phát triển lúa sắn Việt Nam Căm pu-chia là rất to lớn. Điều này không chỉ đối với cây lúa, cây sắn mà với tất cả các lĩnh vực hợp tác về chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội, nông lâm ngư nghiệp, điện, nước, du lịch và thương mại, đời sống dân sinh cũng đều như vậy. Nhưng chúng ta không được ăn vào tiềm năng. Hãy nghĩ đến một sự hợp tác thân thiện, bền vững, khai mở được tiềm năng to lớn của hai dân tộc để cùng có lợi, cùng phát triển”.

        Sự thay đổi xã hội, môi trường dọc biên giới Campuchia Việt Nam là thật nhanh chóng. Một thí dụ nhỏ về cây sắn. Nhìn lại số liệu sắn Campuchia đầu năm 2011 khi tôi sang khảo sát bên đó thì năm 2010 Campuchia có tổng diện tích sắn là 20.230 ha, đạt sản lượng thu hoạch 4,24 triệu tấn, năng suất sắn củ tươi bình quân là 20,99 tấn/ ha. So với Việt Nam cùng kỳ (năm 2010) có tổng diện tích sắn là 498.000 ha, đạt sản lượng thu hoạch 8,59 triệu tấn, năng suất sắn củ tươi bình quân là 17,26 tấn/ ha. (FAOSTAT 2015). Tốc độ phát triển sắn Campuchia những năm gần đây nhanh hơn sắn Việt Nam. Lý do vì: doanh nghiệp Việt Nam và Cămpuchia tổ chức trồng sắn kinh doanh tại những vùng đất dọc biên giới, nơi trồng sắn hầu hết là rừng mới khai phá đất tốt; Sư tổ chức canh tác phần lớn theo kiểu sản xuất kinh doanh khép kín để bán củ tươi về Việt Nam hoặc chế biến tại chỗ. Giống sắn Campuchia do các thương lái Việt Nam chuyển sang buôn bán cây giống để thu mua củ tươi, nên theo rất sát nhưng tiến bộ giống sắn mới nhất của Việt Nam. Hiện tại tổng diện tích sắn trồng của Cămpuchia có trên 90% được trồng là ba giống sắn tốt nhất KM419 ( khoảng 60%), KM98-5 (khoảng 10%) và KM94 (khoảng 20%) . Mười biện pháp kỹ thuật canh tác sắn thích hợp bền vững theo kinh nghiệm đúc kết của Việt Nam và CIAT được bạn ứng dụng nhanh và tốt trong sản xuất.

        Đến đất nước Cămpuchia nhiều lần trong các chuyến khảo sát sản xuất thị trường sắn, cũng như giúp các doanh nghiệp Việt Nam, Cămpuchia và các bạn quốc tế canh tác sắn tại Cămpuchia. tôi thường thích mang theo tài liệu “Du lịch Cămpuchia” và cuốn sách  “Hồi ký Sihanouk: Những lãnh tụ thế giới mà tôi từng biết”  (dịch từ Nguyên tác Sihanouk Reminisces World Leaders I Have Known). Qua cửa khẩu Hoa Lư và các cửa khẩu khác dọc biên giới Việt _Cămpuchia, tôi chứng kiến nhiều lần những hàng xe tải lớn chở sắn nối đuôi nhau mút tầm mặt, gợi mở bao điều muốn nói về một tiềm năng hợp tác to lớn. Tôi khuyên Sango nên tìm lại những người sản xuất và kinh doanh lúa sắn Angkor là bạn cũ của tôi ở bên ấy. Họ sẽ giúp Sango và Bảo Chinh khám phá những điều mới mẻ trong nghiên cứu phát triển lúa sắn, những biến đổi xã hội và môi trường nhanh chóng dọc theo biên giới Campuchia-Việt Nam. Luật nhân quả và những minh triết sâu sắc của cuộc sống sẽ khai mở cho chúng ta nhiều điều để dạy và học.

         

         

        Cămpuchia đất rừng bạt ngàn, phần lớn là đất xám khá bằng phẳng, khó thoát nước. Dân cư thưa thớt. Trẻ em nghèo ít học khá phổ biến ở vùng sâu vùng xa.

         

         

        Những giống sắn phổ biến ở Căm pu chia là KM94, KM98-5  nhập từ Việt Nam. Giống sắn mới triển vọng KM419 (BKA900 x KM 98-5 lai tạo tại Việt Nam) và KM325 (nguồn gốc SC5 x SC5 lai tạo tại Việt Nam) cũng đã được trồng nhiều nơi khá rộng rãi.

         

         

        Chị Soc Chia thôn Tờ Rôn, nhà cách Snua 15 km, chồng trước đi lính nay chủ yếu đi xẻ cây, có tám con, năm đứa đi học , trường xa 4-5 km có đất mì 4 ha, đất lúa 1 ha , nuôi 5 bò và một số gà vịt. Nhà chở nước uống xa đến 5 km.

        Hộ ông Seng San trồng 4 ha sắn KM98-5 và KM94 làm thuê cho ông Kim Ren ở Snua, đầu tư giống mới, xịt phân bón qua lá, chưa dùng phân chuống và NPK.

         

         

        Sắn KM94 trồng luống từ cuối tháng 10 nay sinh trưởng khá tốt, nếu bón phân đúng cách và sạch cỏ có thể đạt trên 30 tấn củ tươi/ha do đất mới khai phá còn giàu dinh dưỡng.

         

         

        Cây giống sắn KM94 bảo quản tự nhiên gần rẫy từ tháng 11 để trồng lại đầu tháng 5 năm sau. (Ở Kampong Cham, Karatie và Mondulkiri những vùng trồng sắn chính của Căm pu chia cũng có hai vụ chính trồng sắn tương tự như Tây Ninh và Bình Phước của Việt Nam).

         

         

        Tiềm năng phát triển sắn thật lớn từ Kam Pong Cham đến Karatia đến Sen Monorom. Giống chủ lực nay là KM94, KM419, KM98-5, KM325 những giống sắn tốt từ Việt Nam. Lòng chúng tôi xúc động tự hào vì cống hiến của các nhà khoa học Việt Nam qua hệ thống doanh nhân của hai nước đã làm giàu cho nhiều người dân và góp phần mang lại thịnh vượng chung cho cộng đồng Việt Miên Lào.

         

         

        Anh Phạm Anh Tuấn (Tổng Giám đốc Công ty TNHH Nhiên liệu Sinh học Phương Đông, cô Nguyễn Thị Mỵ, Tổng Giám đốc HAMICO đều tâm đắc với sự đánh giá và trao đổi của tôi: “Tiềm năng hợp tác nghiên cứu phát triển sắn Việt Nam – Căm pu-chia là rất to lớn, Điều này không chỉ đối với cây sắn mà với tất cả các lĩnh vực hợp tác về chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội, nông lâm ngư nghiệp, điện, du lịch và thương mại, đời sống dân sinh cũng đều như vậy. Nhưng không được ăn vào tiềm năng. Hãy nghĩ đến một sự hợp tác thân thiện, bền vững,  khai mở được tiềm năng to lớn của hai dân tộc để cùng có lợi, cùng phát triển …

        Tôi đã có ít nhất tám lần đến Angkor, nhưng lần nào cũng chỉ kịp lưu lại một ít hình ảnh và ghi chép ngắn mà chưa kịp biên tập. Đất nước Angkor, nụ cười suy ngẫm Thăm quần thể kiến trúc Angkor, bơi thuyền trên Biển Hồ và đi dạo ban mai ở Phnôm Pênh, nơi hợp lưu của sông Mekong và sông Tonlé Sap là ba việc thú vị nếu bạn chỉ có thời gian ngắn du lịch Campuchia.

        Bạn nếu sang làm việc dài ngày thì nên dành thì giờ tìm hiểu sự chuyển biến kinh tế, xã hội, môi trường dọc theo biên giới Việt Miên Lào hoặc xuôi dòng Mekong bạn sẽ có rất nhiều điều kỳ thú. Lúa Cămpuchia đoạt chất lượng gạo ngon cao giá nhất hiện nay.Cây sắn Cămpuchia chuyển đổi sản lượng từ bốn triệu tấn năm 2010 tăng gấp đôi lên tám triệu tấn năm 2013, và vượt sản lượng năng suất Việt Nam từ năm 2016  chỉ sau sáu năm. Tôi không ngạc nhiên vì biết rõ những gì đã xảy ra và vì sao như vậy, nhưng thật khó lý giải. Nhiều năm giúp bạn trồng lúa sắn, đi trên đất nước Angkor, tôi hiểu mình đang đối thoại với một nền văn hóa lớn. Angkor nụ cười suy ngẫm. Lúa sắn Angkor.

         

         

        Đền Banteay Srei thờ thần Shiva được thánh hóa ngày 22 tháng 4 năm 967 tại khu vực Angkor thuộc Campuchia ngày nay. Ngày huyền thoại này gợi cho tôi trở về ký ức lúa sắn Angkor.

        Đền Banteay Srei thờ nữ thần Thánh Mẫu Shiva tại tọa độ 13,59 độ vĩ bắc,103,96 độ kinh đông, nằm gần đồi Phnom Dei, cách 25 km về phía đông bắc của nhóm các đền  Angkor Thom của các kinh đô cổ đại .Đền Thành Mẫu Banteay Srei gợi sự đồng văn với Đạo Mẫu Việt Nam trong tư duy triết học Phương Đông của dịch lý truyền nhân mà người chồng nếu bị hủy diệt thì người vợ chính là nguồn gốc để truyền nhân, “còn da lông mọc, còn chồi nãy cây” vì người Mẹ là gốc sinh tồn của muôn loài, mà có dịp tôi sẽ bàn sâu hơn với bạn trong một chuyên khảo khác.


        Shiva là là một vị thần quan trọng của Ấn Độ giáo một trong năm hình thức nguyên sơ của Thượng đế. Shiva là hiện thân của sáng tạo và sự khởi đầu cái mới, đại diện cho sự hủy diệt cái cũ để phát triển. Shiva hợp chung cùng Trimurti, Vishnu  thành ba vị thần sáng tạo, bảo quản và tiêu hủy. Shiva được xem như vô hạn, siêu việt, bất biến và vô tướng vô hình vừa nhân từ vừa kinh sợ,  được mô tả như là một vị thần toàn trí, bảo trợ của yoga và nghệ thuật. Shiva sống khổ hạnh trên núi Kailash với vợ và hai con nhưng ở khía cạnh kinh sợ, Shiva thường được mô tả như một ác thần hay chém giết.  Shiva có các biểu tượng chính là có con mắt thứ ba trên trán, con rắn Vasuki quanh cổ, trăng lưỡi liềm trang hoàng, sông thánh Ganga (Sông Hằng) chảy từ mái tóc rối bù của mình, với vũ khí là đinh ba (Trishula) và nhạc cụ là một loại trống lắc (damaru). Thần Shiva thường được thờ cúng dưới hình thức Shiva linga. Trong các ảnh tượng, thần được thể hiện trong trạng thái thiền định sâu hoặc đang múa điệu Tandava trên Maya.

         

         

        Đền Banteay Srei là viên ngọc quý của nghệ thuật Khme được xây chủ yếu bằng đá sa thạch đỏ và chất pha màu đặc biệt được lưu dấu trên các bức điêu khắc trang trí tỉ mỉ trên tường đạt hình thức cực kỳ tinh xảo của tiêu chuẩn đặc biệt cao của các công trình Angkor cho ngôi đền đặc biệt nổi tiếng.Ngôi đền là là bức tranh tuyệt tác về nghệ thuật điêu khắc trên đá ong và sa thạch đỏ. Bản thân ngôi đền được xem là tuyệt đỉnh của nghệ thuật trên đá với những bức phù điêu hoa văn tinh tế và đặc biệt khéo léo đến từng chi tiết nhỏ. Ngôi đền ban đầu thờ thần Shiva, trong khi đó ngôi đền phía Bắc lại thờ thần Vishnu, với nhiều bí mật lâu đài cổ, và các câu chuyện cổ xưa cần được khám phá. Tôi đến đây đã mấy lần nhưng nhiều sâu sắc vẫn chưa thấu tỏ.

        Lúa Angkor, sắn Angkor và Du lịch sinh thái là ba ấn tượng yêu thích nhất.

        LÚA SẮN LÀO

        Lúa sắn ở Lào có một vị trí quan trọng.  Khái quát về lịch sử và điều kiện sinh thái. Lào là một đất nước miền núi ở trung tâm bán đảo Đông Nam Á. Nước Lào có nguồn gốc lịch sử văn hoá từ Vương quốc Lan Xang (Vạn Tượng, Triệu Voi) được vua Lào Phà Ngừm khai sáng năm 1354. Vương quốc Lan Xang sau thời kỳ thịnh vương đến năm 1695 đã rơi vào khủng hoảng bởi tranh giành nội bộ và năm 1707 bị chia ba thành Vương quốc Luang Phrabang ở phía bắc, Vương quốc Viêng Chăn ở trung tâm, Vương quốc Champasak ở phía nam. Năm 1893, Pháp bảo hộ Liên bang Đông Dương đã hợp nhất ba vương quốc này thành lãnh thổ Lào. Sau khi Nhật chiếm đóng, Lào giành độc lập song người Pháp đã áp đặt lại quyền cai trị cho đến khi Lào được tự trị vào năm 1949. Lào độc lập vào năm 1953 với chính thể quân chủ lập hiến. Lào xẩy ra nội chiến trường kỳ kết thúc vào năm 1975 với phong trào Pathet Lào do Đảng Nhân dân Cách mạng Lào lãnh đạo đã lập nên chính thể hiện nay. Lào có điều kiện sinh thái tương tự vùng miền Trung và Tay Nguyên Việt Nam với khí hậu nhiệt đới gió mùa, mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10,mùa khô mát từ tháng 11 đến tháng 2, mùa khô nóng từ tháng 3 đến tháng 4. Lượng mưa hàng năm từ 1350mm đến 3700mm. Tổng diện tích đất đai Lào 23.080.000 ha trong đó đất nông nghiệp: 1.959.000 ha (8,5%), đất trồng trọt khoảng 1.000.000 ha (4.3%) đ 30% slope?”>ất dốc trên 30% chiếm 54%, đất dốc trên 8% slope “> 89% chiếm 8%.  Lào là nước có mức sống người dân nghèo hơn so với Việt Nam và Cămpuchia.  Nông nghiệp Lào chiếm 40% GDP, ngành công nghiệp chiếm 35% (chủ yếu là khai thác mỏ gổ và thủy điện) Dịch vụ 25% (chủ yếu là kinh doanh du lịch). 80% người dân tham gia các hoạt động nông nghiệp với hầu hết là nông dân sản xuất nhỏ. Lúa là cây trồng chính trong mùa mưa, đặc biệt là ở các nơi đất thấp dọc lưu vực sông Mêkông. Lúa nương, sắn, khoai lang, rau, ngô, cà phê, cao su, mía, thuốc lá, bông, chè, đậu phộng, là những cây trồng quan trọng đối với nhiều nông hộ ở vùng cao. Chiến lược quốc gia là thu hút đầu tư trong và ngoài nước tham gia vào sản xuất, tiếp thị và chế biến nhằm mục đích tối đa hóa sự tham gia của người nông dân và gia đình, ưu tiên cao su, mía đường, lâm nghiệp, cà phê, sắn, ngô, sử dụng cạnh tranh cho đất, khai thác mỏ, thủy điện, phát triển “chiến lược quốc gia về xoá đói và giảm nghèo” (gồm 47 huyện ưu tiên rất nghèo và 25 huyện nghèo .

        Tôi lần đầu tham gia đào tạo và tập huấn ở Lào cùng với tiến sĩ Reinhardt Howeler về “phương pháp FPR chuyển giao tiến bộ kỹ thuật canh tác sắn” năm 2001, lần kế tiếp  họp lúa sắn ở thủ đô Viên Chăn với tiến sĩ Nguyễn Văn Ngãi, một lần khác tham gia hội thảo sắn châu Á năm 2008 với tiến sĩ Rod Lefroy, giám đốc vùng sắn châu Á của CIAT, giáo sư Trần Ngọc Ngoạn, thạc sĩ Nguyễn Thị Phương Loan, tiến sĩ Nguyễn Thị Hoa Lý, tiến sĩ Nguyễn Hữu Hỷ và tiến sĩ Nguyễn Phương. Sau đó tôi cũng có ba lần tham gia học tập trao đổi, đánh giá khảo sát hiệu quả đầu tư với các tổ chức Quốc tế và với nhóm chuyên gia  Hernan Ceballos CIAT, Keith Fahrney CIAT- Lào,  Vinayaka Hegde CTCRI, Ấn Độ, Bernardo Ospina,CLAYUCA, Colombia, Tin Maung Aye CIAT- Lào,  Tian Yinong GSCRI, Trung Quốc . Nhiều báo cáo power point, tài liệu làm việc và những câu chuyện lúa sắn chưa dịp kể. Tháp vàng hoa trăng nắng Mekong hóa ra lắng đọng nhất.

         

         

        Tháp Vàng (That Luang), Hoa Trắng (Champa), nắng Mekong (golden light in Mekong River) là những ấn tượng khó quên về đất nước Lào. Tháp vàng là biểu tượng quốc gia. Hoa trắng là sắc hoa sứ thanh khiết mà người Lào rất mến chuộng. Nắng vàng rực rỡ trên sông Mekong tạo nên vẻ đẹp kỳ ảo của Viên Chăn. Uống bia Lào, ăn mực và nhâm nhi cà phê Việt, ngắm nắng chiều dát vàng trên sông xanh mà bờ sông bên kia là Thái Lan, để lắng nghe nhịp sống chậm rãi và yên bình.Tôi vui được tham dự Hội nghị Nghiên cứu Sắn Quốc tế lần thứ Tám (8th Asian Cassava Research Workshop) tổ chức tại Viên Chăn, đã cảm khái viết bài thơ “Tháp vàng hoa trắng nắng Mekong” và lưu lại một số hình ảnh đẹp về đất nước Lào.

         

        DatnuocLao1
        DatnuocLao5
        DatnuocLao6
        Lao Thao với บุนไท สีละพงLaothao Youabee (ảnh Lao Thao)
        Jonathan Newby kết nối đến ACIAR Cassava Value Chain and Livelihood Program30 May 2019
        Lao Thao với บุนไท สีละพงLaothao Youabee (ảnh Lao Thao)
        Lao Thao với บุนไท สีละพงLaothao Youabee (ảnh Lao Thao)

         

        Thác nước ຄອນພະເພັງ – Khone Phapheng Falls. ở Don Det, Champasak, Laos

        Tháp Vàng Lào ẩn chứa nhiều huyền thoại. Núi sông Lao có nhiều rừng và thác, đâu đây vẫn lưu dấu những câu chuyện cũ về Nguyễn Công, Đoàn Nhử Hài, về tầm nhìn sâu rộng của vua Phật Nhân Tông, về ruộng lúa, nương sắn, cánh đồng Chum và huyền môn. Lào nơi ấy là một vùng lịch sử văn hóa

        Lào hoa trắng nắng Mekong.

        Hoàng Kim

         

         

        TRẬN VŨ HÁN LỊCH SỬ
        Hoàng Kim


        Vũ Hán là long mạch địa linh của Trung Quốc, nơi trầm tích lịch sử lắng đọng truyền kỳ.Trận Vũ Hán trong chiến tranh Trung-Nhật là trận đánh lớn nhất, lâu nhất, dữ dội nhất ở châu Á, trận đấu tổng lực của sức mạnh toàn diện và trí tuệ Trung Nhật ở tầm mức thế giới. Đây là bài học lịch sử đắt giá của Trung Quốc trong chiến tranh cận hiện đại.gắn liền với sự kiện lụt Hoàng Hà năm 1938 dím chết hơn 50 vạn dân thường; xem tiếp
        https://hoangkimlong.wordpress.com/category/tran-vu-han-lich-su

        Trận Vũ Hán bắt đầu vào ngày 11 tháng 6 năm 1938 và kết thúc vào ngày 26 tháng 10 của bốn tháng sau đó.. Lực lượng tham chiến của Quân đội Cách mạng Trung Hoa Dân quốc là 1,1 triệu quân tinh nhuệ nhất do Tổng tư lệnh Tưởng Giới Thạch trực tiếp chỉ huy, với sự hổ trợ của Không quân Liên Xô, đối trận với Lục quân Đế quốc Nhật Bản đặc biệt tinh nhuệ do Đại tướng lừng danh Hata Shunroku chỉ huy. Chiến thắng Trận Vũ Hán thuộc về phía lục quân đế quốc Nhật Bản nhưng chiến thắng sau cùng lại thuộc về chiến thuật biển người thắng bằng mọi giá của Trung Hoa dân quốc vì sau trận quyết đấu sinh tử này nguyên khí của Nhật Bản bi hao tổn nghiêm trọng và nỗ lực của quân đội Nhật đánh đòn kết liễu quân Trung Quốc đã không thành công. Quân Nhật sau trận Vũ Hán lịch sử này chỉ còn đủ sức đánh lớn Chiến dịch Ichi-Go (hay trận Đại Lục liên thông kết nối tuyến hậu cần chiến lược Bắc Kinh – Hà Nam– Vũ Hán – Hồ Nam – Quảng Tây nối Đông Dương) và chịu thất bại chung cuộc của phe Trục theo chủ nghĩa phát xít trước lực lượng Đồng Minh trong Chiến tranh thế giới thứ hai.

        Nước Trung Hoa mới trổi dậy. Chủ tịch Trung Quốc Mao Trạch Đông tổng kết bài học Tam Tuyến tại Hội nghị Trung Ương từ ngày 18 tháng 9 đến ngày 12 tháng 10 năm 1965, khi đưa ra định hướng chiến lược quốc gia xử lý tình huống chiến tranh lớn, ‘thập diện mai phục’ ‘tứ bề thọ địch’  Mao Trạch Đông chủ trượng tam tuyến, thế lớn Trung Nam Hải, cương nhu kết hợp để chống trả địch mạnh . Ông nói: Trung Quốc không sợ bom nguyên tử vì bất kỳ một ngọn núi nào cũng có thể ngăn chặn bức xạ hạt nhân. Dụ địch vào sâu nội địa tới bờ bắc Hoàng Hà và bờ nam Trường Giang, dùng kế “đóng cửa đánh chó” lấy chiến tranh nhân dân, chiến tranh du kích, vận động chiến, đánh lâu dài níu chân địch, tận dụng thiên thời địa lợi nhân hòa, thời tiết mưa gió lầy lội, phá tan kế hoạch tốc chiến tốc thắng của địch. Bắc Kinh, Trùng Khánh, Thượng Hải, Thiên Tân là bốn thành phố trực thuộc Trung Ương, chuyển hóa công năng để phát huy hiệu lực bảo tồn và phát triển. Trùng Khánh là thủ đô kháng chiến lúc đất nước Trung Hoa động loạn”… Chủ tịch Mao Trạch Đông cũng nhấn mạnh chính sách Trung Quốc được phổ biến năm 1954 trong cuốn “Lịch sử Tân Trung Quốc” có kèm theo bản đồ, nhắc lại lời Mao: “Tất cả các lãnh thổ và hải đảo thuộc khu vực ảnh hưởng của Trung Quốc đã từng bị phe đế quốc Tây phương và Nhật Bản chiếm đoạt từ giữa thế kỷ 19 đến sau thế chiến lần thứ nhất, như Ngoại Mông, Triều Tiên, An Nam, Mã Lai, Thái Lan, Miến Điện, Bhutan, Nepal, Ladakh, Hồng Kông, Macao, cùng những hải đảo Thái Bình Dương như Đài Loan, Bành Hồ, Ryukyu, Sakhalin, phải được giao hoàn cho Trung Quốc.” Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình với cuốn sách lớn Những Suy tư từ sông Dương Tửcó đề cập sâu sắc đến vấn đề “Lịch sử Tân Trung Quốc” và “Trận Vũ Hán lịch sử”. Ông chọn phương lược “Trung Nam Hài Tam tuyến”, kế lớn “Liên Nga, bạXem tiếp >>

          Dạy và học 25 tháng 10(25-10-2021)


        DẠY VÀ HỌC 25 THÁNG 10
        Hoàng Kim
        CNM365 Tình yêu cuộc sốngTrung Nga với Trung Á; Lúa cao cây Trung Quốc; Thời biến nhớ người xưa; Hoàng Gia Cương thơ hiền; Chuyện thầy Ngô Kế Sương; Nợ duyên; Hưng Đạo Trần Quốc Tuấn;Chuyển đổi số Quốc gia;Thiền Sư Lão Nông Tăng; Ban mai trên sông Son; Chớm Đông; Đi để hiểu quê hương; Nguyễn Du tư liệu quý; Nguyễn Du trăng huyền thoại; Ngày 25 tháng 10 năm 1990 ngày tuyên bố chủ quyền của Cộng hòa Kazakhstan; Ngày 25 tháng 10 năm 2017 Anh lúa C4, Trung Quốc lúa cao cây. Ngày 25 tháng 10 năm 1746, ngày sinh Ngô Thời Nhậm, tự Hy Doãn, hiệu Đạt Hiên, tại Thanh Trì, Hà Nội. Ông là con Ngô Thì Sĩ. Ngày 25 tháng 10 năm 1881, ngày sinh Pablo Picasso, Họa sỹ và nhà điêu khắc người Tây Ban Nha. Bài chọn lọc ngày 25 tháng 10: Trung Nga với Trung Á; Lúa cao cây Trung Quốc; Thời biến nhớ người xưa; Hoàng Gia Cương thơ hiền; Chuyện thầy Ngô Kế Sương; Nợ duyên; Hưng Đạo Trần Quốc Tuấn;Chuyển đổi số Quốc gia;Thiền Sư Lão Nông Tăng; Ban mai trên sông Son; Chớm Đông; Đi để hiểu quê hương; Nguyễn Du tư liệu quý; Nguyễn Du trăng huyền tho Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.comhttp://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlong và  https://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-25-thang-10/

        TRUNG, NGA VỚI TRUNG Á
        Hoàng Kim


        Kazakhstan kỵ sĩ thảo nguyên
        Liên Nội Mông Trung Quốc
        Với Taliban Afghanistan
        Trung, Nga với Trung Á

        Trung Quốc một suy ngẫm
        Vành đai và con đường
        Thế giới trong mắt ai
        Con đường tơ lụa mới

        Thế sự bàn cờ vây

        Vành đai và con đường” là câu chuyện dài. Chuyện Taliban Afghanistan mới đây, tích hợp thông tin các video “Năm nước cộng hòa xa xôi cách biệt nhất Liên Bang Nga” https://youtu.be/LtcOGPjvgX8 “Năm vùng tự trị của Trung Quốcngày nay“ https://youtu.be/AlZhkTQobFA . Kazakhstan kỵ sĩ thảo nguyên của trung tâm châu Á, đang có những động thái mới trong chuỗi đường lối, chính sách, định hướng kế hoạch đầu tư hệ thống hạ tầng địa chính trị kinh tế xã hội trọng tâm đường cao tốc, năng lượng dầu mỏ khí đốt, công nghệ mới. Trong tầm nhìn Thượng Hải 2012 kết nối Trung Nga với Trung Á để phá vỡ trở ngại và sự vây hãm, phục hưng đang trở nên rõ ràng và chắc chắn hơn bao giờ hết, trong điều kiện dịch bệnh Covid 19 vẫn lơ lững trên kinh tế toàn cầu. Tôi đọc kỹ lại sách “Giấc mộng châu Á của Trung Quốc”, tác phẩm nổi tiếng của Tom Miller, đặc biệt là chương 2: “Tây Tiến; Kinh tế học về quyền lực ở Trung Á” và bài hay của anh Phan Chí Thắng “Suy nghĩ nhân kết thúc chiến tranh của Afghanistan”; xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/trung-nga-voi-trung-a

        TRUNG QUỐC MỘT SUY NGẪM
        Hoàng KimHoang Long

        Đường trần thênh thênh bước
        Đỉnh xanh mờ sương đêm
        Hoàng Thành Trúc Lâm sáng
        Phước Đức vui kiếm tìm.

        Tuyết rơi trên Vạn Lý
        Trường Thành bao đổi thay
        Ngưa già thương đồng cỏ
        Đại bàng nhớ trời mây.

        Ngược gió đi không nản
        Rừng thông tuyết phủ dày
        Ngọa Long cương đâu nhỉ
        Đầy trời hoa tuyết bay.

        Hồ Khẩu trên Hoàng Hà
        Đại tuyết thành băng giá
        Thế nước và thời trời
        Rồng giữa mùa biến hóa.

        *

        Lên Thái Sơn hướng Phật
        Chiếu đất ở Thái An
        Đi thuyền trên Trường Giang
        Nguyễn Du trăng huyền thoại

        Khổng Tử dạy và học
        Đến Thái Sơn nhớ Người
        Kho báu đỉnh Tuyết Sơn
        Huyền Trang tháp Đại Nhạn

        Tô Đông Pha Tây Hồ
        Đỗ Phủ thương đọc lại
        Hoa Mai thơ Thiệu Ung
        Ngày xuân đọc Trạng Trình

        Quảng Tây nay và xưa
        Lên đỉnh Thiên Môn Sơn
        Ngày mới vui xuân hiểu
        Kim Dung trong ngày mới

        Bình sinh Mao Trạch Đông
        Bình sinh Tập Cận Bình
        Lời dặn của Thánh Trần
        Trung Quốc một suy ngẫm

        xem tiếp
        https://hoangkimlong.wordpress.com/category/trung-quoc-mot-suy-ngam/

        LÚA CAO CÂY TRUNG QUỐC
        Hoàng Kim Long (điểm tin)


        Theo Thời báo Hoàn Cầu, được trích dẫn bởi
        báo Tuổi trẻ ngày 30 8 2021 và FBNC, Trung Quốc trồng thành công ‘lúa khổng lồ’ cao tới 2m. Giống lúa này thân cây cao và cứng cáp, có khả năng chống ngập úng và đất mặn, năng suất đạt 11,25-13,50 tấn/ha (750- 900 kg/ mẫu TQ, 15 mẫu TQ là 1 ha). Ông Chen Yangpiao, phó giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và phát triển lúa lai Trung Quốc chi nhánh Trùng Khánh hi vọng giống lúa này có thể trồng ở những vùng trũng ruộng ngập sâu 60-80cm, và có thể nuôi cá tôm trong ruộng lúa. Ông Viên Long Bình Lúa siêu xanh Hòa Bình từng ao ước và chia sẻ khi còn sống: “Tôi đã luôn mơ một ngày nào đó cây lúa sẽ cao như cao lương, hạt to như đậu phộng. Lúc đó chắc tôi và cộng sự sẽ ngồi dưới tán lúa, tận hưởng những ngày mát mẻ”

        LÚA CAO CÂY TRUNG QUỐC.

        Ngày 25 tháng 10 năm 2017, China’s People’s Daily cho biết Trung Quốc tạo giống lúa cao hơn đầu người cho năng suất lớn. Giống lúa có tên gọi “lúa khổng lồ” được các chuyên gia ở Viện Nông nghiệp Cận Nhiệt đới thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Trung Quốc lai tạo với hy vọng có thể cung cấp lương thực cho nhiều người hơn. Giống lúa mới được chính thức giới thiệu hôm 16/10 sau 10 nghiên cứu, có năng suất cao hơn 50% so với các giống lúa thông thường. Nhóm nghiên cứu đã trồng thử cây lúa khổng lồ và thu hoạch trên một cánh đồng nằm ở thị trấn Jinjing thuộc huyện Trường Sa, tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc. Cây lúa thân cao trung bình 1,8 mét, những cây lớn nhất cao tới 2,2 mét. Xia Xinjie, một nhà nghiên cứu trong dự án cho biết năng suất dự kiến có thể đạt trên 11,5 tấn/hecta. Số hạt có thể thu hoạch từ một gốc lúa là hơn 500 hạt. Các nhà khoa học Trung Quốc đã sử dụng một loạt công nghệ mới để tạo ra giống lúa mới, bao gồm đột biến, lai hữu tính và lai xa giữa nhiều loại lúa dại. Lúa khổng lồ có thể đem lại lợi ích lớn cho Trung Quốc, quốc gia đang phải đối mặt với tình trạng thiếu nông dân và dân số ngày càng tăng. “Lượng thóc lúa cần sản xuất thêm vào năm 2030 cao hơn 60% so với năm 1995. Hiện nay, một hecta đất trồng lúa cung cấp đủ thức ăn cho 27 người. Vào năm 2050, mỗi hecta phải đáp ứng nhu cầu lương thực cho 43 người”, Yuan Longping, nhà nông nghiệp học nổi tiếng ở Trung Quốc, nhấn mạnh trong một cuộc phỏng vấn vào tháng trước.

        Tin liên quan Lúa CLT:

        LÚA C4 TRƯỜNG ĐẠI HỌC OXFORD ANH

        Ngày 25 tháng 10 năm 2017 thông tin Lúa C4 của trường đại học Oxford năng suất tăng 50%. Các nhà khoa học làm việc trong Dự án Lúa C4 của trường đại học Oxford đã cải thiện quá trình quang hợp trong lúa gạo và tăng năng suất cây trồng, bằng cách đưa một gen ngô đơn lẻ vào lúa, tiến tới trồng lúa ‘supercharging’ tới mức hiệu quả hơn. Cây lúa sử dụng con đường quang hợp C3, trong môi trường nóng và khô ít hiệu quả hơn con đường C4 được sử dụng trong các thực vật khác như ngô và lúa miến. Gạo ‘chuyển đổi’ sử dụng quang hợp C4, năng suất sẽ tăng khoảng 50%.Các nhà nghiên cứu đã thực hiện phương pháp giải phẫu ‘proto-Kranz’ chuyển gen ngô GOLDEN2-LIKE tới cây lúa làm tăng lượng lạp lục và ty lạp thể có chức năng trong các tế bào vỏ bọc xung quanh lá. Giáo sư Jane Langdale thuộc Đại học Oxford, và nhà nghiên cứu chính về giai đoạn này của dự án lúa gạo C4 cho biết: “Nghiên cứu này giới thiệu một gen duy nhất cho cây lúa để tái tạo bước đầu tiên dọc theo con đường tiến hoá từ C3 đến C4. Đó là một sự phát triển thực sự đáng khích lệ, và thách thức bây giờ là xây dựng trên đó và tìm ra những gen thích hợp để tiếp tục hoàn các bước còn lại trong quá trình “. Thông tin chi tiết tại Đại học Oxford Tin tức & Sự kiện. xem tiếp Lúa C4 và lúa cao cây (Hoàng Kim Long điểm tin chọn lọc Cây Lương Thực Việt Nam)

        Philippines cho trồng đại trà gạo vàng biến đổi gene - Ảnh 1.

        Hạt gạo vàng biến đổi gene so với gạo trắng bình thường – Ảnh: IRRI

        GOLDEN RICE BIẾN ĐỔI GEN

        Theo Hãng tin Reuters, được trích dẫn bởi báo Tuổi trẻ
        Philippines cho trồng đại trà ‘gạo vàng’ biến đổi gene ngày 26 tháng 8 năm 2021: “Philippines là quốc gia đầu tiên trên thế giới cho phép trồng đại trà gạo biến đổi gene Golden Rice. Theo Reuters, Viện Nghiên cứu lúa gạo quốc tế (IRRI) có trụ sở tại Philippines đã hỗ trợ phát triển giống gạo vàng đặc biệt này.Trong thông báo ngày 25-8, Bộ Nông nghiệp Philippines (DA) và Viện Nghiên cứu lúa Philippines (PhilRice) xác nhận đã cấp phép an toàn sinh học cho giống Golden Rice.”Sau giấy chứng nhận an toàn sinh học, DA và PhilRice sẽ bắt đầu trồng lấy hạt giống. Thường thì quá trình này sẽ mất 3-4 vụ canh tác”, ông Ronan Zagado – một quan chức phụ trách dự án Golden Rice – cho biết thêm. Được biết giống gạo vàng đã được thử nghiệm thực địa gần một thập kỷ. Golden Rice sẽ được trồng đại trà ở các khu vực có tỉ lệ thiếu vitamin A cao vào quý 3-2022 trước khi bán rộng rãi. Philippines lên kế hoạch trồng đại trà gạo vàng từ năm 2011, nhưng phải trì hoãn vì vấp phải các phản đối và lo ngại từ người dân cũng như các tổ chức nông nghiệp. Tổ chức Hòa bình xanh (Greenpeace) nổi tiếng vì các chiến dịch chống săn bắt cá voi cũng lên tiếng phản đối quyết định của Chính phủ Philippines.Tuy nhiên, người đứng đầu PhilRice đã trấn an các lo ngại và khẳng định Golden Rice đáp ứng được các tiêu chuẩn an toàn quốc gia và quốc tế. Theo IRRI, Golden Rice đã nhận được giấy chứng nhận an toàn thực phẩm từ các cơ quan quản lý ở Úc, New Zealand, Canada và Mỹ. Hiện giống gạo này đang trải qua quá trình xem xét cuối cùng ở Bangladesh. Thực phẩm biến đổi gene từ lâu đã là một đề tài gây tranh cãi. Mục đích biến đổi gene nhằm tạo ra các loại nông sản bổ dưỡng hơn, kháng bệnh tốt hơn. Các cơ quan quản lý bác bỏ các thuyết âm mưu như thực phẩm biến đổi gene gây ung thư, ức chế hệ miễn dịch.Tuy nhiên, người tiêu dùng vẫn e dè trước loại thực phẩm này và kêu gọi các cơ quan quản lý yêu cầu nhà sản xuất dán nhãn cảnh báo thực phẩm biến đổi gene”.

        THỜI BIẾN NHỚ NGƯỜI XƯA
        Hoàng Kim


        Bến Giang Đình ần ngữ
        Nguyễn Du Nguyễn Công Trứ
        Có ba dòng văn chương
        Uy Viễn vịnh Thúy Kiều
        .

        Ta về trời đất Hồng Lam
        Dấu chân Ngô Thời Nhiệm
        Nguyễn Du trăng huyền thoại
        Mai Hạc vầng trăng soi
        .

        Thời biến nhớ người xưa.

        Hoàng Kim về bến Giang Đình xưa nơi Nguyễn Du viết Kiều và Nguyễn Công Trứ cùng Nguyễn Du đàm đạo. Non xanh còn đó, nước biếc còn đây, rác còn nhiều nhưng nước non vẫn vậy. Nguyễn Du Nguyễn Công Trứ giống nhau ở Ưu thời và khác nhau về thời biến. Đó là những kỳ tài khác nhau trong xử thể tùy thuộc phẩm hạnh mỗi người và thời biến. Nguyễn Du là biểu tượng dòng văn chương ưu thời thứ nhất. Nguyễn Công Trứ là biểu tượng dòng văn chương ưu thời thứ hai.Nguyễn Du không chịu theo Nguyễn Huệ như Ngô Thì Nhậm. Ông cũng không sớm theo Nguyễn Ánh như Đặng Trần Thường mà chỉ chấp nhận ra làm quan với triều Gia Long sau mười lăm năm lưu lạc khi thế nước đã phân định rõ ràng. Cuộc đời Nguyễn Du sau mười lăm năm lưu lạc là làm hiền triết giữa đời thường và chốn quan trường. Nguyễn Du ra làm quan Tri huyện Sơn Nam, Cai bạ Quảng Bình, Hàn Lâm Đại học sĩ, Chánh sứ của triều Nguyễn sang sứ nhà Thanh, (tương đương các chức vụ Chủ tịch huyện, Tỉnh trưởng, Bộ trưởng Giáo dục, Bộ trưởng Ngoại giao thời nay). Nguyễn Du viết sách Bắc Hành tạp lục là kiệt tác sử thi, chính kiến ngoại giao đánh giá bao quát mọi thời của Trung Quốc và kiệt tác Truyện Kiều là bài ca muôn thuở về tình yêu cuộc sống dân tộc Việt. Nguyễn Du mất mà không để lại lời dặn dò gì.

        Thúy Kiều với nguyên mẫu là Hồ Xuân Hương (Hồ Phi Mai) có nhiều kiệt tác thơ dân gian đời thường và thơ Hán Nôm, tiêu biểu nhất là Lưu Hương Ký. Trang thơ Hồ Xuân Hương 154 bài trên Thi Viện có nhiều bài rất hay: “Độ Hoa Phong” là Hạ Long tuyệt bút yêu thiên nhiên, Bài thơ “Miếu Sầm thái thú” cao vọi tầm tư tưởng nhân hậu và khí phách đảm lược của một kỳ tài, thơ tôn vinh phụ nữ và giải phóng con người, “Cảm cựu kiêm trình Cần chánh học sĩ Nguyễn Hầu” tri âm tri kỹ nghĩa tình bền vững, “thơ Nôm truyền tụng” thanh tục đời thường, như có như không. “Thuật ý kiêm trình hữu nhân Mai Sơn Phủ” là kiệt tác thơ tình yêu của Hồ Xuân Hương thuộc dạng thơ hát nói.

        Truyện Thúy Kiều của Nguyễn Du “Gương trong chẳng chút bụi trần. Một lời quyết hẳn muôn phần kính thêm. Bấy lâu đáy biển mò kim. Là nhiều vàng đá, phải tìm trăng hoa? Ai ngờ lại hợp một nhà. Lọ là chăn gối mới ra sắt cầm! Nghe lời sửa áo cài trâm. Khấu đầu lạy trước cao thâm nghìn trùng. Thân tàn gạn đục khơi trong. Là nhờ quân tử khác lòng người ta.Mấy lời tâm phúc ruột rà. Tương tri dường ấy mới là tương tri”. Kim Vân Kiều tái hợp. Lưu Hương Ký Truyện Thúy Kiều là ẩn ngữ tình yêu cuộc sống;xem tiếp: https://hoangkimlong.wordpress.com/category/thoi-bien-nho-nguoi-xua

        NGUYỄN DU NGUYỄN CÔNG TRỨ

        Nguyễn Công Trứ đã viết “Vịnh Thúy Kiều”: “Từ Mã Giám Sinh cho tới chàng Từ Hải. Cánh hoa tàn đem bán lại chốn thanh lâu. Bây giời Kiều còn hiếu vào đâu. Mà bướm chán ong chường cho đến thế. Bạc mệnh chẳng lầm người tiết nghĩa. Đoạn trường cho đáng kiếp tà dâm. Bán mình trong bấy nhiêu năm. Đố đem chữ hiếu mà lầm được ai”. Bài thơ ‘Vịnh Thúy Kiều’ của Nguyễn Công Trứ cho dù có thực của ông hay không thì cũng thể hiện một sự thật về sự đánh giá và chính sách của triều đình nhà Nguyễn đối với Nguyễn Du với đám con cháu ‘trung liệt’ cựu thần nhà Lê. Nhà Nguyễn vừa luôn cảnh giác đề phòng vừa tiếc tài mà trọng dụng.

        Nguyễn Du viết về Kiều:“Bất tri tam bách dư niên hậu. Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?” (Ba trăm năm nữa chốc mòng. Biết ai thiên hạ khóc cùng Tố Như?). Sự thật lịch sử Nguyễn Du làm Ngư Tiều là câu trả lời Nguyễn Du trước phán xét của triều Nguyễn và lịch sử., Truyện Kiều “Bên tình bên hiếu bên nào nặng hơn. Để lời thệ hải minh sơn. Làm con trước phải đền ơn sinh thành”, và tập thơ Bắc Hành chữ Hán (gồm “Bắc hành tạp lục” 132 bài, “Nam trung tạp ngâm” 16 bài “Thanh Hiên thi tập” 78 bài) thể hiện rất rõ nhận thức luận của ông.

        Nguyễn Du Nguyễn Công Trứ là bài học lớn về phép xử thế của hai bậc cao sĩ giữa đời thường. Nguyễn Du Nguyễn Công Trứ cho đến nay vẫn là chuyện lịch sử ẩn ngữ đời người “trơ gan cùng tuế nguyệt”. Nguyễn Du đã vượt lên vinh nhục bản thân giữa thời nhiễu loạn, vàng lầm trong cát để trao ngọc cho đời. Nguyễn Du ra làm quan triều Nguyễn giữ các chức vụ từ tri huyên, cai bạ, cần chánh điện đại học sĩ, chánh sứ đến hữu tham tri bộ lễ. Ông là nhà quản lý giỏi, yêu nước thương dân, Nguyễn Du để lại kiệt tác Truyện Kiều di sản muôn đời và Bắc Hành tạp lục kiệt tác sử thi tuyên ngôn ngoại giao nhân nghĩa rạng danh nước Việt.  Nguyễn Du được vua Càn Long kính trọng, được vua Gia Long phong làm làm Hữu Tham tri Bộ Lễ và tước Du Đức hầu sau khi ông làm Chánh sứ ngoại giao nhà Thanh năm 1813 trở về. Cuộc đời và sự nghiệp Nguyễn Du là một bài học lịch sử thật đáng suy ngẫm.

        Nguyễn Du làm Ngư Tiều mười năm 1796-1802 với biệt hiệu Nam Hải Điếu Đồ (Người đi câu ở biển Nam) và Hồng Sơn Liệp Hộ (Người đi săn ở núi Hồng), đó là ẩn ngữ đời người. Ông trầm tĩnh quan sát với nhãn quan thấu suốt, tầm nhìn minh triết, thông tuệ lạ thường để đánh giá và ứng xử đúng sự chuyển dời vận nước ở những thời khắc quyết định. Nguyễn Du là danh sĩ tinh hoa, hiền tài lỗi lạc, một nhân cách lớn.Nguyễn Du trăng huyền thoại soi tỏ cuộc đời, thời thế, tâm hồn Nguyễn Du https://hoangkimlong.wordpress.com/category/nguyen-du-trang-huyen-thoai/

        Nguyễn Du trăng huyền thoại 1 Nguyễn Du thơ chữ Hán Kiếm bút thấu tim Người Đấng danh sĩ tinh hoa Nguyễn Du khinh Thành Tổ Bậc thánh viếng đức Hòa 2 Nguyễn Du tư liệu quý Linh Nhạc thương người hiền Trung Liệt đền thờ cổ “Bang giao tập” Việt Trung
        Nguyễn Du niên biểu luận 3
        Nguyễn Du Hồ Xuân Hương “Đối tửu” thơ bi tráng “Tỏ ý” lệ vương đầy Ba trăm năm thoáng chốc Mại hạc vầng trăng soi. 4 Nguyễn Du Nguyễn Công Trứ Uy Viễn “Vịnh Thúy Kiều” Tố Như “Đọc Tiểu Thanh” Bến Giang Đình ẩn ngữ Thời biến nhớ người xưa. 5 Nguyễn Du thời Tây Sơn Mười lăm năm tuổi thơ Mười lăm năm lưu lạc
        Thời Hồng Sơn Liệp Hộ Tình hiếu thật phân minh 6
        Nguyễn Du làm Ngư Tiều Câu cá và đi săn Ẩn ngữ giữa đời thường Nguyễn Du ức gia huynh Hành Lạc Từ bi tráng 7 Nguyễn Du thời nhà Nguyễn Mười tám năm làm quan (1802-1820) Chính sử và Bài tựa Gia phả với luận bàn Bắc hành và Truyện Kiều 8 Nguyễn Du tiếng tri âmĐối tửu cụ Nguyễn Du Đi thuyền trên Trường Giang Nguyễn Du khóc Tố Như Nguyễn Du Kinh Kim Cương 9 Nguyễn Du niên biểu luận Tâm tình và Hồn Việt Tấm gương soi thời đại Ba trăm năm thoáng chốc Mai Hạc vầng trăng soi ; xem tiếp Nguyễn Du Nguyễn Công Trứ Uy Viễn “Vịnh Thúy Kiều” Tố Như “Đọc Tiểu Thanh” Bến Giang Đình ẩn ngữ; Thời biến nhớ người xưa https://hoangkimlong.wordpress.com/category/nguyen-du-nguyen-cong-tru/

        CÓ BA DÒNG VĂN CHƯƠNG

        Tôi về thăm lại bến Giang Đình xưa, nơi Nguyễn Du viết Kiều và nơi Nguyễn Du cùng Nguyễn Công Trứ đàm đạo. Non xanh còn đó, nước biếc còn đây, rác còn nhiều nhưng nước non vẫn vậy; xem tiếp
        https://hoangkimlong.wordpress.com/category/co-ba-dong-van-chuong/

        Nguyễn Du và Nguyễn Công Trứ văn chương giống và khác nhau thế nào? Thầy Nguyễn Khoa Tịnh và thầy Hoàng Ngọc Dộ trước đây, có nói với tôi: “Những người như Trần Quốc Tuấn, Trần Nhật Duật, Phạm Ngũ Lão, Trần Khánh Dư thời Trần đều là những danh tướng lừng lẫy một thời, ra tướng võ, vào tướng văn, nhưng ba người trước đều là nhân tướng, xử thế chuẩn mực, tiết độ. Trần Khánh Dư là một bậc danh tướng, hoặc như Nguyễn Công Trứ sau này cũng đều là trí tướng, nhung họ có khác ba người kia một chút, và họ đều ưu thời. Loại người sau cũng là kỳ tài nhưng phải có minh quân,kỳ tướng mới dùng được. Nhà thơ Hải Như Ngọc Tỉnh (là thân phụ và thân mẫu của anh
        Hanh Vu ) cũng đã nhận xét vậy nhưng Cụ gộp hai dòng ưu thời này vào làm một và cụ nhấn mạnh sự phân biệt dòng văn chương ưu thời và dòng văn chương xu thời. Dòng văn chương Xu thời quá phổ biến trong mọi xã hội. Dòng văn chương Ưu thời có hai dạng loại của Nguyễn Du và Nguyễn Công Trứ, như Khang Hi và Vi Tiểu Bảo. “Có tác phẩm văn chương đạt giá trị nhân văn đặc biệt tinh khiết sâu xa như món ăn trong thờ cúng, thức ăn khác dẫu rất ngon nhưng khi có một con ruồi nhỡ rơi vào và tuy đã được vớt đi nhưng cảm giác lúc ăn sẽ không bằng thức ăn hoàn toàn tinh khiết. Dòng văn chương ưu thời thứ nhất tinh khiết như vậy”.. Nguyễn Du là biểu tượng dòng văn chương ưu thời thứ nhất. Nguyễn Công Trứ là biểu tượng dòng văn chương ưu thời thứ hai. Còn dòng văn chương xu thời thì quá phổ biến trong mọi xã hội, đó là dòng văn chương thứ ba.

        Tôi yêu Kiều Nguyễn Du.

        Phan Lan Hoa ngày 11 tháng 10 năm 2012 có bài viết “Em xin làm lẽ Nguyễn Công Trứ” Tôi thảng thốt giật mình vì bài luận, nên vui đùa cầu thân kết bạn: ” Vô nhà đã thấy THƯƠNG, Vì Dặm ân TÌNH, thuyền quyên ứ hự VUI làm thiếp. Ra ngõ rồi thêm NHỚ, Linh Giang ơn NGHĨA, anh hùng khấp khởi SƯỚNG gặp em.” Nhà văn thầy giáo Nguyễn Thế Quang, tác giả hai cuốn tiểu thuyết lịch sử “Nguyễn Du” và “Thông reo ngàn Hống” đã khuyến khích tôi viết chuyên khảo “
        Nguyễn Du Nguyễn Công Trứ”. Chín năm qua, tôi viết Kim Notes lắng ghi chú để tìm sự thật Nguyễn Du niên biểu luận trong hệ thống thông tin chọn lọc “Nguyễn Du trăng huyền thoại” (*) trong đó có bài 4 “Nguyễn Du Nguyễn Công Trứ” nay xin được hiến tặng bạn đọc.https://hoangkimlong.wordpress.com/category/nguyen-du-nguyen-cong-tru/

        UY VIỄN VỊNH THÚY KIỀU

        Nguyễn Công Trứ (1778-1858) là Uy Viễn tướng công phúc tướng của vua Minh Mệnh, đánh giá của ông cũng tương đồng với đánh giá của triều Nguyễn định luận về Nguyễn Du và họ Nguyễn Tiên Điền. Nguyễn Công Trứ con người ấy, sự nghiệp ấy thật không tầm thường, khẩn điền mở cõi giúp dân, ra tướng võ vào tướng văn, phong lưu rất mực: “Ngồi buồn mà trách ông xanh/ Khi vui muốn khóc, buồn tênh lại cười/ Kiếp sau xin chớ làm người/ Làm cây thông đứng giữa trời mà reo/ Giữa trời vách đá cheo leo/ Ai mà chịu rét thì trèo với thông.” Nguyễn Công Trứ kém Nguyễn Du 13 tuổi và cùng đồng hương Nghi Xuân, Hà Tĩnh. Ông là vị tướng văn võ song toàn, phong lưu đa tình, gian thần đời loạn năng thần đời trị, có công với triều Nguyễn trong cai trị, dẹp loạn. Ông cùng chủ kiến với vua Gia Long và vua Minh Mệnh với kế sách ra tay trước (tiên phát chế nhân) để chặn bước các thế lực tiềm tàng, những người xuất chúng ngấp nghé ngai vàng, trong đó có Nguyễn Du. Nguyễn Công Trứ luận về Thúy Kiều nhưng thực chất là luận về Nguyễn Du: “Bán mình trong bấy nhiêu năm, Dễ đem chữ hiếu mà lầm được ai.” Nguyễn Công Trứ thân mật hay chống đối Nguyễn Du, đó là điều hậu thế cần lý giải cho đúng? hiểu đúng, biết đúng, mới bình giảng đúng Nguyễn Du Nguyễn Công Trứ. Đó là một câu hỏi thật không dễ trả lời

        TA VỀ TRỜI ĐẤT HỒNG LAM

        Ta về trời đất Hồng Lam
        Bâng khuâng bước dưới trăng vàng lộng soi
        Ngực trần chạm tới thảnh thơi
        Nghe lưng thấu đến bồi hồi đất quen.

        Linh miêu chốn Tổ Rồng TiênXem tiếp >>

          Dạy và học 24 tháng 10(24-10-2021)

        DẠY VÀ HỌC 24 THÁNG 10
        Hoàng Kim
        CNM365 Tình yêu cuộc sốngChuyển đổi số Quốc gia;Thiền Sư Lão Nông Tăng; Ban mai trên sông Son; Chớm Đông; Đi để hiểu quê hương; Nguyễn Du tư liệu quý; Nguyễn Du trăng huyền thoại; Ngày 24 tháng 10 là ngày Sương Giáng, một trong 24 tiết khí lịch nhà nông. Ngày 24 tháng 10 năm 1260, Nhà thờ Đức Bà Chartres tại Pháp được khánh thành với sự hiện diện của Quốc vương Louis IX. Nhà thờ Đức Bà Chartres được UNESCO đưa vào danh sách Di sản thế giới ngay trong lần xếp hạng đầu tiên năm 1979  là công trình kiểu Gothic đẹp và nổi tiếng  thế giới . Ngày 24 tháng 10 năm 1945 Ngày Hiến chương Liên Hiệp Quốc (United Nations Day). Ngày 24 tháng 10 năm 1898, ngày sinh Bành Đức Hoài là Nguyên soái Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc. Bài chọn lọc ngày 24 tháng 10: Chuyển đổi số Quốc gia; Thiền Sư Lão Nông Tăng; Ban mai trên sông Son; Chớm Đông; Đi để hiểu quê hương; Nguyễn Du tư liệu quý; Nguyễn Du trăng huyền thoại; Thông tin tại http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlong và  https://cnm365.wordpress.com/2018/10/24/chao-ngay-moi-24-thang-10/

        CHUYỂN ĐỔI SỐ QUỐC GIA
        Hoàng Kim


        Việt Nam con đường xanh
        Vui đi dưới mặt trời
        Một niềm tin thắp lửa
        Chuyển đổi số Quốc gia

        (*)
        https://hoangkimlong.wordpress.com/category/chuyen-doi-so-quoc-gia/

        THIỀN SƯ LÃO NÔNG TĂNG
        https://youtu.be/w21hkPfEA2M

        “Mưa thuận gió hòa chăm bón đúng
        Nhân tươi quả tốt được thu nhiều”

        Viên Minh Thích Phổ Tuệ
        Nhớ Viên Minh Hoa Lúa
        Hoa Lúa giữa Đồng Xuân
        Lời Thầy dặn thung dung

        Kim Notes lắng ghi chú

        Noi theo dấu chân Bụt
        Dạy và học làm Người
        Hiểu Quân Dân Chính Đảng
        Thấu Lão Nông Lâm Y Sinh
        https://hoangkimlong.wordpress.com/category/thien-su-lao-nong-tang/

        Có thể bạn chưa biết

        Ứng dụng rộng rãi trí tuệ nhân tạo trong giáo dục
        Theo Đầu tư Online
        D.Ngân, 23/10/2021 08:21 , Trong vài năm qua, nhiều doanh nghiệp, tổ chức đã bắt đầu phát triển và ứng dụng AI trong lĩnh vực giáo dục và thu được hiệu quả tích cực. Trí tuệ nhân tạo (Artificial intelligence – AI) tại Việt Nam đang phát triển nhanh chóng và từng bước khẳng định là công nghệ trụ cột, đột phá trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

        AI và các dự án ứng dụng AI đã và đang thu hút sự quan tâm, đầu tư không chỉ từ các tập đoàn công nghệ lớn, mà còn là sân chơi mới cho các công ty khởi nghiệp đổi mới sáng tạo thử sức và thực hiện những mô hình kinh doanh mới. 

        Với tốc độ phát triển “thần tốc” như hiện nay, lĩnh vực Trí tuệ nhân tạo Việt Nam được dự báo sẽ sớm vươn lên tầm cao mới để cùng thế giới giải quyết các thách thức thế kỷ. Đây là khát vọng lớn, đồng thời cũng là động lực cho các ý tưởng đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp Việt. 

        Tuy nhiên, trên thực tế, Việt Nam đang đối diện với những khó khăn nhất định. Để phát triển AI một cách toàn diện, Việt Nam cần giải quyết các bài toán về: quản lý nhà nước, chính sách, khuôn khổ pháp luật, nguồn nhân lực, hạ tầng, hạ tầng dữ liệu và cách thu thập, khai thác nguồn dữ liệu lớn (Big Data). 

        Ngoài ra, các ngành đào tạo về lĩnh vực AI ở Việt Nam còn non trẻ, đặc biệt là sự thiếu hụt bộ phận chuyên gia – giảng viên đào tạo về công nghệ này từ đó đặt ra những hạn chế nhất định cho sự phát triển nhân lực lĩnh vực trí tuệ nhân tạo.

        Chuyên gia dự báo, đến năm 2030, quy mô thị trường trí tuệ nhân tạo toàn cầu sẽ rơi vào khoảng 15.700 tỷ USD.

        Trong đó, Trung Quốc chiếm tới 7.000 tỷ USD, tương đương 45% thị trường này. Khu vực Bắc Mỹ chỉ chiếm khoảng 3.700 tỷ USD, bằng một nửa so với Trung Quốc.

        Tiếp đó là đến nhóm các nước Bắc Âu, các nước phát triển ở khu vực Châu Á, khu vực Nam Âu và khu vực Nam Mỹ. 

        Tại Việt Nam, theo ý kiến các chuyên gia ở Hội thảo “Trí tuệ nhân tạo và con người: Những tác động đa chiều của một cuộc cách mạng công nghệ”, do Viện Quốc tế Pháp ngữ trí tuệ tổ chức, các chuyên gia cho hay, trí tuệ nhân tạo đang phát triển nhanh chóng và từng bước khẳng định là một công nghệ trụ cột, đột phá trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

        Ông Ngô Tự Lập, Viện trưởng Viện Quốc tế Pháp ngữ (IFI), trí tuệ nhân tạo là lĩnh vực cạnh tranh quyết liệt giữa các cường quốc cũng như các quốc gia mới như Việt Nam nhằm giành lấy những cơ hội mới. AI sẽ là nhân tố quan trọng, nếu không nói là quan trọng nhất, quyết định sự thành công của các quốc gia trong việc chiếm lĩnh vị thế hàng đầu thế giới. 

        Ông Ngô Tự Lập nhận định rằng, AI đang thâm nhập vào tất cả mọi mặt của đời sống xã hội và mang lại những kết quả tích cực từ giáo dục, y tế, quản trị cho đến quân sự. Song cuộc cách mạng AI cũng có nhiều mặt tiêu cực. Cụ thể, AI sẽ góp phần khoét sâu thêm khoảng cách phát triển giữa các quốc gia, khoảng cách giàu nghèo và gia tăng sự bất bình đẳng trong xã hội. Trí tuệ nhân tạo cũng khiến chúng ta phải lo lắng về vấn đề quyền riêng tư và an toàn thông tin. 

        Cụ thể, đầu năm 2021, Thủ tướng chính phủ đã ban hành Chiến lược quốc gia về phát triển Trí tuệ nhân tạo đến 2030 với mục tiêu đưa Việt Nam vào 4 nhóm nước dẫn đầu ASEAN trong lĩnh vực này, hướng tới xây dựng thành công 10 thương hiệu AI uy tín trong khu vực. 

        Còn theo ông Nguyễn Hoàng Oanh, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Việt Nhật, các ngành đào tạo về AI ở Việt Nam còn non trẻ, đặc biệt là sự thiếu hụt chuyên gia – giảng viên đào tạo về công nghệ này từ đó hình thành những hạn chế nhất định cho sự phát triển nhân lực lĩnh vực trí tuệ nhân tạo.  

        Theo đó, khi trí tuệ nhân tạo dần thâm nhập vào cuộc sống, đặc biệt là trí tuệ nhân tạo trong giáo dục, mô hình giảng dạy cũng thay đổi và được đổi mới. Lúc này, chính phụ huynh mới là người quyết định sẽ chi trả bao nhiêu chi phí và học sinh mới là người sẽ định hướng con đường học vấn tương lai của mình. Tùy vào năng lực và điều kiện của bản thân để ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo vào giáo dục, cá nhân hoá từng người học chứ không còn là một mô hình chung mà các giáo viên đang cố gắng hướng đến cho một tập thể.

        Nắm bắt được những điểm tiện lợi từ các sản phẩm nghiên cứu của ngành khoa học Deep Learning, hệ thống giáo dục cũng đưa trí tuệ nhân tạo vào trong giảng dạy dựa trên nền tảng các trợ lý ảo. Siri, Cortana, hay Alexa của Google là một trong các trợ lý tuy ảo nhưng mà không hề phi thực tế. Đây là sản phẩm của mô hình Deep Learning vận hành bằng cách thu thập các nghiên cứu phân tích tâm lý và hành vi của con người, thông qua đó, tương tác với người sử dụng bằng 3 hình thức: văn bản (đặc biệt là chat nhanh), giọng nói và hình ảnh. 

        Tuy nhiên, không dừng lại ở các trợ lý ảo, công tác đổi mới giáo dục hiện nay tập trung vào việc chuẩn hóa nhằm giảm bớt sự khác biệt giữa các học sinh về thành tích. Chính vì vậy, hệ thống dạy kèm của AI ra đời, được thiết kế nhằm tối ưu hóa các bài giảng cho từng cấp bậc và khả năng tiếp thu của mỗi học sinh. 

        Mặc dù không ngừng cải tiến, nhưng các AI này vẫn còn tồn tại khá nhiều mặt hạn chế, đặc biệt là cảm xúc. Sự kiên nhẫn và những phản ứng cảm xúc trước các tình huống của một hình mẫu giáo viên sẽ khó được tái tạo bởi một hệ thống AI ở thời điểm hiện tại. Đổ vốn vào công nghệ trí tuệ nhân tạo Một nguồn lực khổng lồ đang được các doanh nghiệp Việt như Vingroup, Viettel, FPT… đổ vốn vào lĩnh vực công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI) https://baodautu.vn/do-von-vao-cong-nghe-tri-tue-nhan-tao-d150127.html..

        Chương trình quốc gia phát triển công nghệ cao đến năm 2030
        http://baochinhphu.vn/Chi-dao-quyet-dinh-cua-Chinh-phu-Thu-tuong-Chinh-phu/Chuong-trinh-quoc-gia-phat-trien-cong-nghe-cao-den-nam-2030/421182.vgp

        Chương trình đổi mới công nghệ quốc gia đến năm 2030
        https://thuvienphapluat.vn/tintuc/vn/thoi-su-phap-luat/chinh-sach-moi/33955/chuong-trinh-doi-moi-cong-nghe-quoc-gia-den-nam-2030

        Đất hiếm ở Việt Namhttps://youtu.be/aFde8CA3OeI; Nhà Quốc Hội Việt Namhttps://youtu.be/cXU6viKfovc; Công nghệ 5G là gì? https://youtu.be/Yo0bBSqrOOw
        https://www.youtube.com/embed/aFde8CA3OeI?version=3&rel=1&showsearch=0&showinfo=1&iv_load_policy=1&fs=1&hl=vi&autohide=2&wmode=transparent

        Thông điệp từ Việt Nam về chuyển đổi số:
        PHÁT BIỂU CỦA CHỦ TỊCH QUỐC HỘI VIỆT NAM VƯƠNG ĐÌNH HUỆ TẠI ĐẠI HỘI ĐỒNG AIPA-42
        Nguồn:
        https://quochoi.vn/ct-vuong-dinh-hue/Pages/qua-trinh-cong-tac.aspx?ItemID=58167 23/08/2021

        Tiếp tục chương trình Đại hội đồng AIPA-42, chiều 23/8, theo giờ Hà Nội, các đại biểu họp Phiên toàn thể thứ nhất, thảo luận về chủ đề “Phát triển quan hệ hợp tác nghị viện trong lĩnh vực kỹ thuật số bao trùm hướng tới Cộng đồng ASEAN năm 2025”. Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã có bài phát biểu quan trọng. Cổng TTĐT Quốc hội trân trọng giới thiệu toàn văn:

        Thưa Ngài Pehin Dato Abdul Rahman Taib, Chủ tịch Hạ viện Hội đồng Lập pháp Vương quốc Brunei Darussalam, Chủ tịch Đại hội đồng AIPA-42,

        Thưa các vị Chủ tịch, các vị Trưởng đoàn Nghị viện thành viên, Nghị viện quan sát viên AIPA,

        Thưa các Quý vị đại biểu,

        Thay mặt Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, tôi xin gửi lời chào trân trọng nhất đến Ngài Chủ tịch AIPA, các vị Chủ tịch, Phó Chủ tịch Nghị viện thành viên AIPA, các Nghị viện Quan sát viên, Tổng thư ký AIPA, Tổng thư ký ASEAN và các vị đại biểu tham dự Đại hội đồng AIPA lần thứ 42. Nhân dịp bước sang Năm mới của Người Hồi giáo, tôi xin gửi lời chúc tốt đẹp nhất đến Ngài Chủ tịch AIPA, Vương quốc Brunei Darussalam và các bạn bè Hồi giáo trong ASEAN. Cảm ơn nỗ lực và chuẩn bị tích cực của Hội đồng Lập pháp Brunei Darussalam để tổ chức Đại hội đồng AIPA-42 theo hình thức trực tuyến.

        Thưa toàn thể Quý vị,

        Hơn một năm qua, thế giới và khu vực ASEAN tiếp tục đối mặt với những khó khăn, thách thức to lớn của đại dịch Covid-19, gây ra những tổn thất về người và nguy cơ đứt gãy chuỗi sản xuất, cung ứng, tác động mạnh nghiêm trọng tới tăng trưởng kinh tế, làm trầm trọng hơn bất bình đẳng xã hội, trong đó có bất bình đẳng về kỹ thuật số và an sinh, phúc lợi xã hội của người dân. Hơn bao giờ hết, đại dịch Covid-19 đặt ra những yêu cầu cấp bách đối với các quốc gia cần đổi mới quản trị đất nước, điều chỉnh chính sách và những mực tiêu phát triển, trong đó có yêu cầu về chuyển đổi kỹ thuật số, xây dựng nền kinh tế số nhằm kịp thời ứng phó với đại dịch, duy trì phát triển kinh tế-xã hội ổn định.

        Trước diễn biến phức tạp của đại dịch Covid-19 cùng với chuyển động khó lường của môi trường địa chính trị khu vực và quốc tế, chúng ta vui mừng nhận thấy Cộng đồng ASEAN tiếp tục khẳng định tinh thần đoàn kết, thống nhất, năng lực tự cường, bản lĩnh vững vàng và vai trò trung tâm của mình, đã hành động kịp thời, chung tay ứng phó đại dịch ngay từ khi mới bùng phát. Càng qua sóng gió, bản sắc của Cộng đồng, tình cảm tương thân, tương ái giữa các quốc gia thành viên và người dân càng được củng cố và bồi đắp. Thông qua các sáng kiến lập Quỹ ứng phó Covid-19, Kho dự phòng vật tư y tế khẩn cấp, lập Quy trình chuẩn ứng phó dịch bệnh, đặc biệt là việc triển khai Kế hoạch chung của ASEAN mua vắc-xin hỗ trợ người dân và thúc đẩy năng lực tự cường về vắc xin ở khu vực, các nước ASEAN đã và đang tích cực phối hợp chặt chẽ nhằm nâng cao khả năng ứng phó chủ động của từng quốc gia, hỗ trợ lẫn nhau từng bước đẩy lùi dịch bệnh. Với cách tiếp cận toàn diện, song song với kiểm soát đại dịch, ASEAN đang đẩy mạnh các biện pháp theo Khung phục hồi tổng thể ASEAN, trong đó, đổi mới, sáng tạo, chuyển đổi số, đổi mới mô hình phát triển được xem là đòn bẩy để sớm khôi phục đà tăng trưởng bền vững.

        Đại dịch Covid-19 cũng là chất xúc tác để ASEAN tăng cường số hóa nền kinh tế, thích ứng và tận dụng hiệu quả Cách mạng công nghiệp 4.0, thu hẹp khoảng cách về số và đảm bảo bình đẳng số trong khu vực. Tôi hoan nghênh Hội nghị Bộ trưởng số của ASEAN nhóm họp tháng 01/2021 đã thông qua Kế hoạch tổng thể về Số của ASEAN đến năm 2025; ủng hộ nỗ lực thông qua và sớm đưa vào triển khai Chiến lược về Cách mạng công nghiệp 4.0 của ASEAN nhằm tạo lập một Cộng đồng ASEAN đổi mới, sáng tạo, nâng cao sức cạnh tranh trong nền kinh tế thế giới.

        Thưa Quý vị,

        Với tinh thần Chủ đề của Đại hội đồng AIPA-42 tập trung thúc đẩy hợp tác nghị viện trong lĩnh vực số, để phát huy hơn nữa vai trò quan trọng của AIPA và các Nghị viện thành viên đẩy mạnh công cuộc chuyển đổi số, đảm bảo tăng trưởng ổn định, phục hồi bền vững của ASEAN, tiếp tục là hạt nhân đóng góp cho hòa bình, ổn định và phát triển thịnh vượng ở khu vực, tôi xin chia sẻ một số ý kiến sau:

        Một là, các Nghị viện thành viên AIPA cần tích cực hỗ trợ hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, gỡ bỏ các rào cản, tạo điều kiện thực thi chính sách chuyển đổi số, góp phần hoàn thiện Chính phủ điện tử hướng đến Chính phủ số, nâng cao chất lượng dịch vụ công trực tuyến của Chính phủ, Quốc hội, tăng cường tiếp cận bình đẳng các dịch vụ số của người dân và doanh nghiệp, đẩy mạnh phổ cập số đối với các đối tượng yếu thế, cung cấp dịch vụ số công bằng, bình đẳng, phù hợp với mức thu nhập của người dân, thúc đẩy phát triển kinh tế số, xã hội số.

        Hai là, cần tích cực thúc đẩy và ủng hộ Chính phủ các nước ASEAN triển khai các chương trình, kế hoạch và chiến lược về số trong ASEAN, cũng như tăng cường hợp tác với các đối tác, các tổ chức quốc tế để đẩy mạnh kết nối hạ tầng kỹ thuật số, bảo đảm hệ sinh thái kỹ thuật số bao trùm, rút ngắn khoảng cách số. Tôi xin nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tăng cường kết nối số, thu hẹp khoảng cách số giữa các quốc gia, các vùng, miền nhằm đảm bảo phát triển đồng đều, bền vững trong ASEAN. Đề nghị AIPA tích cực hỗ trợ Chính phủ các nước ASEAN đẩy mạnh triển khai các nội dung liên quan thúc đẩy kết nối số, phổ cập số ở các khu vực kém phát triển, trong đó có các tiểu vùng của ASEAN, trong khuôn khổ Kế hoạch tổng thể về Kết nối ASEAN (MPAC) 2025, Kế hoạch công tác thực hiện Sáng kiến Hội nhập ASEAN (IAI) giai đoạn IV.

        Ba là, cần khuyến khích các nguồn lực xã hội để phát triển hệ sinh thái số thông qua hình thức hợp tác công-tư, tạo môi trường vườn ươm doanh nghiệp để phát triển doanh nghiệp số, doanh nghiệp khởi nghiệp số. Đặc biệt, cần tạo điều kiện lồng ghép triển khai Khung phục hồi tổng thể ASEAN vào các kế hoạch của từng quốc gia hỗ trợ doanh nghiệp tăng cường đổi mới, sáng tạo và chuyển đổi số nhằm ổn định và phục hồi sản xuất, kinh doanh.

        Bốn là, tăng cường các chính sách và khung pháp lý, ủng hộ các sáng kiến trong khuôn khổ các kênh hợp tác của ASEAN cũng như với các đối tác về đảm bảo an ninh mạng, an toàn thông tin, dữ liệu, tạo lập niềm tin trong không gian số. Hạ tầng số hiện đại cùng với niềm tin số sẽ tạo ra một không gian mới rộng mở cho sự phát triển nhanh và bền vững của các nước ASEAN.

        Năm là, trước diễn biến phức tạp hiện nay của đại dịch Covid-19, tôi kêu gọi tinh thần đoàn kết, trách nhiệm chung của AIPA trong hợp tác, chia sẻ kinh nghiệm, nhất là việc ứng dụng khoa học, công nghệ để kiểm soát hiệu quả đại dịch Covid-19; đề nghị tăng cường hợp tác nội khối và với các đối tác trong nghiên cứu, phát triển và chia sẻ công bằng vắc-xin, thuốc và trang thiết bị phòng, chống dịch bệnh Covid-19. Tôi cũng đề nghị Nghị viện các nước trao quyền nhiều hơn cho các Chính phủ để chủ động, linh hoạt ứng phó hiệu quả với dịch bệnh, giảm thiểu các thiệt hại và mau chóng phục hồi kinh tế, xã hội sau đại dịch Covid-19 (như Quốc hội Việt Nam, khóa XV đã thực hiện trong kỳ họp đầu tiên vào tháng 7 vừa qua).      

        Thưa Quý vị,

        Mọi nỗ lực phục hồi và phát triển của các quốc gia sẽ không thể thiếu điều kiện tiên quyết, đó là môi trường hòa bình, an ninh và ổn định ở khu vực. Tôi hoan nghênh và đánh giá cao nỗ lực của Chính phủ các nước ASEAN thời gian qua, với sự đồng hành và ủng hộ tích cực của các Nghị viện thành viên AIPA trong việc duy trì và thúc đẩy các tiến trình đối thoại, hợp tác, xây dựng lòng tin, đề cao tuân thủ luật pháp quốc tế, giúp ngăn ngừa và giảm thiểu các nguy cơ gây bất ổn, qua đó, góp phần gìn giữ hòa bình, an ninh và ổn định bền vững ở khu vực, trong đó có Biển Đông, phù hợp với luật pháp quốc tế và Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển 1982, không có hành động làm phức tạp thêm tình hình thực hiện DOC và sớm đàm phán đề ký kết COC.

        Thưa Ngài Chủ tịch và các Quý vị,

        Vượt qua mọi khó khăn của đại dịch Covid-19, Việt Nam đã tổ chức rất thành công Bầu cử Quốc hội và HĐND các cấp. Quốc hội Việt Nam vừa bắt đầu nhiệm kỳ mới, đang nỗ lực không ngừng tự đổi mới, tự hoàn thiện để nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động nhằm góp phần đưa Việt Nam đạt mục tiêu đến năm 2030 (kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam) là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước, trở thành nước phát triển, thu nhập cao. Quốc hội Việt Nam cam kết tiếp tục là thành viên tích cực, chủ động và có trách nhiệm của AIPA, vì sự phát triển của ngoại giao nghị viện và quyền lợi của mọi người dân trong ASEAN.

        Nhân dịp này, xin chúc Ngài Chủ tịch và các Quý vị đại biểu sức khỏe, thành công trên cương vị cao cả của mình, cùng đồng hành với Chính phủ và người dân vượt qua mọi khó khăn, thách thức để xây dựng Cộng đồng ASEAN đoàn kết, vững mạnh và thịnh vượng.

        Tôi tin tưởng rằng, dưới sự chủ trì của Ngài Chủ tịch, sự tham gia tích cực của các Quý vị đại biểu, Đại hội đồng AIPA-42 sẽ thành công tốt đẹp!

        Xin trân trọng cảm ơn!

        Chiến lược quốc gia về phát triển Trí tuệ nhân tạo đến 2030
        Ngày 26/01/2021, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định
        127/QĐ-TTg về Chiến lược quốc gia về nghiên cứu, phát triển và ứng dụng Trí tuệ nhân tạo (TTNT) đến năm 2030.

        Theo đó, mục tiêu đến năm 2030:

        – Đưa TTNT trở thành lĩnh vực công nghệ quan trọng của Việt Nam

        + Việt Nam nằm trong nhóm 4 nước dẫn đầu trong khu vực ASEAN và nhóm 50 nước dẫn đầu trên thế giới về nghiên cứu, phát triển và ứng dụng TTNT.

        + Xây dựng được 10 thương hiệu TTNT có uy tín trong khu vực…

        + Phát triển được 03 trung tâm quốc gia về lưu trữ dữ liệu lớn và tính toán hiệu năng cao…

        – Việt Nam là trung tâm đổi mới sáng tạo, phát triển các giải pháp và ứng dụng TTNT mạnh

        + Hình thành được 03 trung tâm đổi mới sáng tạo quốc gia về TTNT;

        + Có ít nhất 01 đại diện nằm trong bảng xếp hạng nhóm 20 cơ sở nghiên cứu và đào tạo về TTNT dẫn đầu trong khu vực ASEAN…

        – Góp phần đẩy mạnh xã hội sáng tạo, chính phủ hiệu quả, bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội và thúc đẩy phát triển kinh tế tăng trưởng bền vững…

        Xem chi tiết mục tiêu tại Quyết định
        127/QĐ-TTg có hiệu lực kể từ ngày ký.

        Chuyển đổi số nông nghiệp

        CHUYỂN ĐỔI SỐ NÔNG NGHIỆP
        Hoàng Kim


        Vui thu hoạch khoai mì
        Sự thật hơn lời nói
        https://youtu.be/XDM6i8vLHcI
        https://youtu.be/kjWwyW0hkbU
        Ai, giống gì, nơi nào?
        Quy mô sự chuyển đổi

        Đồng bộ hóa dữ liệu
        Có lợi cho người dân
        Minh bạch rõ thông tin
        Ban mai lặng lẽ sáng.

        (*) Chuyển đổi số để đồng bộ hóa dữ liệu cho người nông dân, video nguồn Báo Nông nghiệp Việt Nam đăng ý kiến chỉ đạo của Bộ trưởng Lê Minh Hoan về cấp bách Chuyển đổi số nông nghiệp xem tiếp tại đây https://nongnghiep.vn/video/chuyen-doi-so-de-dong-bo-hoa-du-lieu-cho-nguoi-nong-dan-tv299186.html

        ĐỌC LẠI VÀ SUY NGẪM
        Hoàng Kim


        Bài đồng dao huyền thoại (1)
        Di Tản (2), Li Nông Li Hương (3)
        Chuyện cụ Lê Huy Ngọ (4)
        Đọc lại và suy ngẫm (5)
        Chuyển đổi số nông nghiệp (6).

        Sự chậm rãi minh triết
        Vui đi dưới mặt trời
        Gõ ban mai vào phím
        Mặt trời nào đang lên

        Hóng chuyện với cao sĩ
        Lục Tích á khẩu, câm
        Lượng chất đủ tích lũy
        Chuyển đổi số thật cần.

        Ngược gió đi không nản
        Rừng thông tuyết phủ dày
        Ngọa Long cương đâu nhỉ
        Đầy trời hoa tuyết bay.

        Giấc mơ lành yêu thương
        Ban mai lặng lẽ sáng
        Một gia đình yêu thương
        Ngày mới bình minh an.

        (1)
        BÀI ĐỒNG DAO HUYỀN THOẠI
        Hoàng Kim

        “Dây dã tường vi thật dẻo dai
        Ba con ngỗng trong một đàn
        Một bay về Đông, một bay Tây
        Và một bay trên tổ chim cúc cu”.

        Bài đồng dao huyền thoại

        (2)
        DI TẢN
        Hoàng Đình Quang

        Mỗi dòng tin làm ta rơi nước mắt
        Bạn về quê bạn biết nơi mô mà tìm?
        Tiếng xe chạy chỉ nhìn qua kính chắn
        Vẫy chào ngày ở lại với lặng im.

        Rồi khốn khó tháng ngày sàng sẩy
        Mưa vẫn giăng mưa, bão vẫn bão bùng
        Cây cầu nối trong với ngoài thành phố
        Chỉ một đầu tiễn biệt thủy chung!

        Ta vẫn biết tai ương tràn phố thị
        Trốn nỗi đau, đi gặp nỗi buồn
        Ngồi mặc cả với rủi may thời thượng
        Phía quê nhà cánh cổng khép hoàng hôn!

        Ta đành vậy! Cắt ra từng gan ruột
        Lúc bơ vơ, bấu víu tiếng nhà quê
        Chỉ nước mắt nuốt vào miền quên lãng
        Mái thềm ơi! Dù đi bộ cũng xin về! (*)

        Làm sao khác, cái vòng tròn cơm áo
        Lúc cơ hồ, danh vọng khuất nhân tình
        Rồi quên nhớ, ít nhiều, thua được
        Rất hồn nhiên, tai họa rập rình!

        Nào! Thôi nhé, chuyến xe đò không hẹn
        Hay đôi chân biết định hướng chân trời
        Phía nước mắt sẽ khô dần, di tản
        Đón nhau về chập choạng chiều cánh dơi!

        27.7.2021
        (*). Mượn ý Olga Bergon: “Pushkin ơi! Dù đi bộ cũng xin về”!

        (3)
        LI NÔNG, LI HƯƠNG
        Truong Huy San

        Chúng ta đang chứng kiến cuộc hồi hương của những người nông dân lớn nhất trong lịch sử Việt Nam. Cuộc hồi hương lý giải vì sao lâu nay ở nhiều vùng nông thôn không còn nông dân, không còn thanh niên trai tráng và ở nhiều ngõ xóm không còn cả bóng trẻ thơ. Cuộc hồi hương không chỉ cho thấy khủng hoảng nhân đạo trên đường Cái mà rồi sẽ còn phát sinh nhiều vấn đề kinh tế xã hội trong những tháng năm tới sau các lũy tre làng.

        Những địa phương có người về từ Sài Gòn, Bình Dương… không chỉ phải ngăn chặn dịch lây lan ra cộng đồng từ những F0 rất có thể có trong dòng người trở về, vừa phải đảm trách các sứ mệnh nhân đạo; mà còn, phải tiên liệu, họ sẽ sống ra sao cho đến khi Sài Gòn, Bình Dương… trở lại bình thường và có thể nhiều người trong số họ không còn trở lại Sài Gòn, Bình Dương… nữa.

        Không giống các quốc gia ở vào thời kỳ công nghiệp hóa khác (tôi không dùng ví dụ Trung Quốc). Cải cách ruộng đất, hợp tác hóa… đã làm kiệt quệ nông thôn Việt Nam ở cả khả năng sản xuất nông phẩm và cả nền tảng văn hóa, đạo đức con người. Chính sách đất đai nửa vời trong thời kỳ chuyển đổi không chỉ đánh vào nông nghiệp mà còn đặt nông dân trở thành lực lưXem tiếp >>

          Dạy và học 23 tháng 10(23-10-2021)


        DẠY VÀ HỌC 23 THÁNG 10
        Hoàng Kim

        CNM365 Tình yêu cuộc sốngNông lịch tiết sương giáng;Viên Minh Thích Phổ Tuệ; Đền Trần chùa Thắng Nghiêm; Phú Tuệ duyên gặp Thầy; Bảo tồn và phát triển sắn; Nhớ Viên Minh Hoa Lúa; Hoa Lúa giữa Đồng Xuân; Sự thật hơn lời nói; Tuệ Giác và Tâm Đức; Nguyễn Du tư liệu quý; Nguyễn Du trăng huyền thoại; Thomas Edison huyền thoại; Ngày 23 tháng 10 năm 2018 Quốc hội bỏ phiếu bầu Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng làm Chủ tịch Nước và công bố kết quả vào buổi chiều, sau đó tân Chủ tịch nước tuyên thệ nhậm chức. Nguyễn Phú Trọng là một chính khách người Việt Nam, hiện giữ chức vụ Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam; Bí thư Quân ủy Trung ương từ năm 2011. Chủ tịch Nước ngày nay là ông Nguyễn Xuân Phúc một trong những chức vụ cao nhất trong hệ thống chính trị Việt Nam bên cạnh Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Ngày 23 tháng 10 năm 1896,  trường Quốc Học Huế được thành lập theo sắc dụ của vua Thành Thái. Ngày 23 tháng 10 năm 1868 là thời kỳ Minh Trị của Thiên hoàng Minh Trị bắt đầu sự hiện đại hóa của đế quốc Nhật Bản. Ngày 23 tháng 10 hàng năm là  Ngày tưởng niệm Chulalongkorn (Rama V) tại Thái Lan. Vua Rama V (20 tháng 9 năm 1853 – 23 tháng 10 năm 1910) là vị vua thứ năm của nhà Chakri trong lịch sử Thái Lan. Ông được xem là một trong những ông vua kiệt xuất của vương quốc Xiêm La. Bài chọn lọc ngày 23 tháng 10: Nông lịch tiết sương giáng;Viên Minh Thích Phổ TuệĐền Trần chùa Thắng Nghiêm; Phú Tuệ duyên gặp Thầy; Bảo tồn và phát triển sắn; Nhớ Viên Minh Hoa Lúa; Hoa Lúa giữa Đồng Xuân; Sự thật hơn lời nói; Tuệ Giác và Tâm Đức; Nguyễn Du tư liệu quý; Nguyễn Du trăng huyền thoại; Thomas Edison huyền thoại; Thông tin tại: https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/2018/10/23/chao-ngay-moi-23-thang-10/

        NÔNG LỊCH TIẾT SƯƠNG GIÁNG
        Hoàng Kim


        Sớm nay Sương Giáng tới rồi
        Gió mù sương sớm, tiết trời sang đông
        Khổng Minh thuyền cỏ mượn tên
        Cơ trời thế nước lắng thêm chuyện đời
        Tuệ giác tâm đức thương người
        Trà thơm ngày mới thảnh thơi thanh nhàn

        24 TIẾT KHÍ NÔNG LỊCH
        Hoàng Kim


        Khuyên em đừng quên nhất thì nhì thục
        Di sản Việt Nam học mãi không cùng
        Mình học để làm hai bốn tiết khí
        Mộc mạc hát vần bài học đầu tiên.

        Đất cảm trời thương lòng người gắn bó
        Dẫu khó vạn lần khéo liệu cũng xong
        Mùa xuân tới tự tiết xuân sẽ đến
        Bởi biết rằng năm tháng đó là em.

        6 tháng Một bắt đầu rét nhẹ
        21 tháng Một trời lạnh cắt da
        4 tháng Hai ngày xuân mới đến
        20 tháng Hai Thiên Địa Nhân hòa.

        Đồng dao cho em khuyên em đừng tưởng
        Câu chuyện mùa xuân
        thêm cho mồng Ba
        Trải Cốc Vũ qua ngày Hạ Chí
        Đại Thử rồi Sương Giáng thành hoa.

        6 tháng Năm là ngày Hè đến
        22 tháng Năm mưa nhỏ, vào mùa
        5 tháng Sáu ngày Tua Rua mọc
        21 tháng Sáu là chính giữa Hè.

        7 tháng Bảy là ngày nắng nhẹ
        23 tháng Bảy là tiết nóng oi
        7 tháng Tám Lập Thu rồi đó
        23 tháng 8 trời đất mưa Ngâu

        Qua Xử Thử đến tiết trời Bạch Lộ
        Sau Mưa Ngâu đến Nắng nhạt đấy em.
        Tiết Thu Phân khoảng 23 tháng 9
        Đối lịch nhà nông em nhớ đừng quên.

        Tiết Hàn Lộ nghĩa là trời mát mẻ
        Kế tiếp theo là Sương Giáng (sương mù)
        23 tháng 10 mù sa dày đặc
        Thuyền cỏ mượn tên nhớ chuyện Khổng Minh.

        Ngày 7 tháng 11 là tiết lập đông
        23 tháng 11 là ngày tiểu tuyết
        8 tháng 12 là ngày đại tuyết
        22 tháng 12 là chính giữa đông.

        Khuyên em đừng quên nhất thì nhì thục
        Di sản Việt Nam học mãi không cùng
        Mình học để làm 24 tiết khí
        Mộc mạc hát vần bài học đầu tiên.

        Mùa vụ trồng cây, kinh nghiệm nghề nông
        Xin em đừng quên điều ông bà dạy
        Xuân Hạ Thu Đông hai bốn tiết khí
        Khoa học thiên văn ẩn ngữ đời người.

        Đất cảm trời thương, lòng người gắn bó
        Dẫu khó vạn lần khéo liệu cũng xong
        Mùa xuân tới tự tiết xuân sẽ đến
        Bởi biết rằng
        năm tháng đó là em. https://www.youtube.com/embed/w21hkPfEA2M?version=3&rel=1&showsearch=0&showinfo=1&iv_load_policy=1&fs=1&hl=vi&autohide=2&wmode=transparent

        Viên Minh Thích Phổ Tuệ xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress

        VGP News Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc viếng Đại lão Hòa thượng Thích Phổ Tuệ

        (Chinhphu.vn) – Ngày 22/10, thay mặt lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc đã tới Tổ đình Viên Minh (chùa Ráng), xã Quang Lãng, huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội viếng Đại lão Hòa thượng Thích Phổ Tuệ, Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam.

        Theo Báo điện tử Chính phủ Nước Công hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, Ngày 22/10, thay mặt lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc đã tới Tổ đình Viên Minh (chùa Ráng), xã Quang Lãng, huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội viếng Đại lão Hòa thượng Thích Phổ Tuệ, Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam.

        Cùng đi có đại diện lãnh đạo Ủy ban Trung ương Mặt Trận Tổ quốc Việt Nam, Ban Dân vận Trung ương, Bộ Nội vụ, Ban Tôn giáo Chính phủ và UBND thành phố Hà Nội. 

        Tại lễ viếng, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc đã đặt vòng hoa, thắp hương viếng và tưởng niệm cố Đại lão Hòa thượng Thích Phổ Tuệ. Chủ tịch nước đã ghi sổ tang, bày tỏ niềm tiếc thương: “Đại lão Hòa thượng Thích Phổ Tuệ, Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam, bậc cao tăng, thạch trụ, vị chân tu thanh bạch của Phật giáo thời nay, là biểu tượng của tinh thần đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo. Trên cương vị lãnh đạo cao nhất của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Hòa thượng luôn gương mẫu, chỉ dẫn và định hướng Giáo hội Phật giáo Việt Nam thực hiện tốt phương châm “Đạo pháp – Dân tộc – Chủ nghĩa xã hội”.

        Cuộc đời Hòa thượng là minh chứng sinh động cho những giá trị văn hóa, đạo đức của Phật giáo trong đời sống xã hội. Với những cống hiến to lớn cho đất nước, Hòa thượng Thích Phổ Tuệ đã được Nhà nước ghi nhận và trao tặng Huân chương Hồ Chí Minh cùng nhiều phần thưởng cao quý khác”.

        Chủ tịch nước cũng bày tỏ thành kính phân ưu và gửi lời chia buồn sâu sắc đến Trung ương Giáo hội, tăng ni, tín đồ Phật giáo Việt Nam ở trong và ngoài nước; mong quý vị tăng ni, tín đồ Phật giáo Việt Nam hãy học gương tu hành cao đẹp của Hòa thượng để cùng nhau xây dựng Giáo hội Phật giáo Việt Nam đoàn kết, vững mạnh, ngày càng đóng góp xứng đáng cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

        Đại lão Hòa thượng Thích Phổ Tuệ, thế danh là Bùi Văn Quý, sinh năm 1917 tại thôn Phùng Thiện, xã Khánh Tiên, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình, xuất gia năm 1923.

        Trải qua 105 năm hiện diện ở cõi Sa Bà, với 85 hạ lạp, Đại lão Hòa thượng Thích Phổ Tuệ đã trọn đời hiến dâng cho lý tưởng hoằng pháp lợi sinh, Ngài đã đảm nhiệm nhiều chức vụ trong các cấp Giáo hội Phật giáo Việt Nam như: Trưởng Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Hà Tây, Viện trưởng Phân viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam tại Hà Nội, Tổng Biên tập tạp chí Nghiên cứu Phật học, Phó Trưởng ban Giáo dục Tăng Ni Trung ương, Phó ban Ban Tăng sự Trung ương, Phó Chủ tịch Hội đồng trị sự, Phó Pháp chủ kiêm Chánh Thư ký Hội đồng Chứng minh Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Tại Đại hội Đại biểu Phật giáo Toàn quốc lần thứ VI (2007), Ngài được suy tôn ngôi vị Pháp chủ Hội đồng Chứng minh Giáo hội Phật giáo Việt Nam, trở thành Pháp chủ thứ ba của Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Từ đó đến nay, trải qua các nhiệm kỳ Đại hội Phật giáo toàn quốc lần thứ VII (2012), VIII (2017) Ngài luôn luôn được Đại hội suy tôn ngôi vị Thiền gia Pháp chủ Hội đồng Chứng minh Giáo hội Phật giáo Việt Nam.

        Đại lão Hòa thượng Thích Phổ Tuệ là vị cao tăng uyên thâm Phật pháp, đức trí vẹn toàn, có nhiều đóng góp to lớn, là tấm gương quy tụ tăng ni, phật tử đoàn kết, lãnh đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam vững vàng phương châm “Đạo pháp – Dân tộc – Chủ nghĩa xã hội”, giữ vững truyền thống “Hộ quốc, an dân” của Phật giáo Việt Nam.

        Đại lão Hòa thượng đã được Nhà nước trao tặng Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Độc lập hạng Nhì, Huân chương Đại Đoàn kết dân tộc; được tặng thưởng Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ, Bằng khen của Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam, nhiều Bằng Tuyên dương công đức của Giáo hội Phật giáo Việt Nam và nhiều phần thưởng cao quý khác.

        Là bậc chân tu nổi tiếng tinh thông kim cổ, trọn đời sống thanh bần, lạc đạo, tụng kinh viết sách, tu tập dưới mái chùa làng khiêm tốn, thanh tịnh, Đại lão Hòa thượng đã tham gia biên soạn, dịch, hiệu đính nhiều tác phẩm về Phật học ở Việt Nam. Ông nhiều năm liền giữ ngôi Đường Chủ của các trường hạ tại Hà Nội, Hưng Yên… cũng như ngôi Hòa thượng đầu đàn trong rất nhiều Đại giới đàn ở các tỉnh.

        Do niên cao, lạp trưởng, Đại lão Hòa thượng Thích Phổ Tuệ đã thu thần viên tịch vào lúc 3h22 ngày 21/10/2021 (nhằm ngày 16 tháng 9 năm Tân Sửu), Trụ thế: 105 năm, Hạ lạp: 85 năm; để lại trong lòng môn đô tứ chúng, Tăng Ni Phật tử Việt Nam trong và ngoài nước niềm kính thương vô hạn.

        Theo TTXVN

        Từ khóa: Chủ tịch nước , Nguyễn Xuân Phúc , Đại lão Hòa thượng Thích Phổ Tuệ , Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam

        Ngat huong sen long long bong truc mai

        VIÊN MINH THÍCH PHỔ TUỆ xem tiếp tại https://hoangkimlong.wordpress.com/category/vien-minh-thich-pho-tue/

        TranHungDao1

        ĐỀN TRẦN CHÙA THẮNG NGHIÊM
        Hoàng Kim

        Thánh Trần chùa Thắng Nghiêm uy nghi, trầm tư, tỉnh lặng, đã khai mở trí huệ  tôi. Chùa Thắng Nghiêm ở 38 thôn Khúc Thuỷ, xã Cự Khê, Thanh Oai, Hà Nội, cách trung tâm Thủ đô khoảng 15 km về phía Nam. Chùa nằm trong quần thể Thánh tích làng Khúc Thủy, một địa phương mang đậm bản sắc văn hoá tâm linh Phật giáo với những danh thắng nổi tiếng như chùa Linh Quang, chùa Thắng Nghiêm, chùa Phúc Khê (tức chùa Dâu); đình, đền, miếu, văn chỉ, nhà thờ dân và nhà thờ các dòng họ lớn trong làng. Chùa là nơi tu hành của nhiều danh Tăng, danh Tướng thời Lý (1009-1225) và thời Trần (1225- 1400) như: Khuông Việt Quốc sư, Vạn Hạnh Quốc sư, Trùng Liên Bảo Tích Quốc sư, Đạo Huyền Quốc sư, Huyền Thông Quốc sư (Linh Thông Hòa thượng Đại vương), Hưng Đạo Đại vương…

        Lịch sử chùa Thắng Nghiêm cho hay về thắng tích nơi này “Theo truyền thuyết dân gian, chùa Thắng Nghiêm được xây dựng từ rất sớm trên thế đất “Liên Hoa hàm tiếu”, từ thời kỳ Ngô Sỹ Nhiếp làm Thái thú xứ Giao Châu, năm 187-266 (Phật lịch 731-810), do ngài Tôn giả Bảo Đức (tương truyền là hoá thân của Bồ Tát Văn Thù) từ nước Thiên Trúc sang sáng lập để truyền bá Phật Pháp. Ngài đã cho xây dựng ngôi đại bảo tháp thờ xá lợi Phật (đến nay vẫn còn), nhân dân thường gọi là khu Mả Bụt. Sau thời kỳ ngài Tôn giả Bảo Đức sáng lập, tiếp đến lại có hai vị Tôn giả là Kim Trang và Kim Quốc cũng từ xứ Thiên Trúc sang hoằng truyền Chính Pháp. Hai Ngài đã cho xây dựng thêm chùa Phúc Khê, thường gọi là chùa Dâu. Trong quần thể Thánh địa Khúc Thủy, chùa Linh Quang xưa còn được gọi là chùa Quan, là nơi lễ bái của các quan lại thời phong kiến, được xây dựng trên thế đất “Kim Quy Thần hạ giang ẩm thuỷ” (Thần Kim Quy xuống sông uống nước).

        Tương truyền, Đinh Tiên Hoàng đế (Đinh Bộ Lĩnh) trong một lần đi tuần thú đã dừng chân ở Khúc Thuỷ, gặp một thôn nữ xinh đẹp đang kéo hến bên sông, vua đã đưa nàng về cung làm phi tần. Thấy phong cảnh nơi đây hữu tình, thế đất lại có long chầu phượng vũ, lân ly hội tụ, nhà vua bèn cho lập dinh tại đất này và trùng tu lại chùa rồi đặt tên là chùa Pháp Vương, dân gian sau này thường gọi là chùa Bà Chúa Hến; nơi các ngài dừng thuyền được gọi là Bến Rồng hay còn gọi là Bến Ao Thuyền; nơi Ngự giá nghỉ ngơi trước khi vào lễ Phật được gọi là Dinh Vua. Dinh thự của vua chúa phong kiến các đời sau cũng được xây dựng tại đây.

        Trải qua bao biến thiên của lịch sử, chùa Thắng Nghiêm đã mang nhiều tên gọi khác nhau như: chùa Bụt, chùa Pháp Vương tức chùa Bà Chúa Hến (thời nhà Đinh), chùa Thắng Nghiêm (thời nhà Lý), chùa Trì Long, chùa Trì Bồng (thời nhà Trần), chùa Liên Trì (thời nhà Lê), chùa Phúc Đống (thời nhà Nguyễn) và danh hiệu Phật Quang Đại Tùng Lâm là tên gọi chung cho cả quần thể Thánh tích. Ngày nay, nhân dân địa phương vẫn thường gọi chung là chùa Khúc Thủy vì chùa nằm trên địa phận thôn Khúc Thủy. Hiện nơi đây vẫn còn lưu giữ được 34 đạo sắc phong của các triều đại phong kiến. Đặc biệt, làng Khúc Thủy đã được vua Giản Định cuối đời Trần gia phong tám chữ vàng “Khúc Thủy nghĩa dân, Mỹ tục khả phong”.

        Sau khi lấy được thiên hạ từ tay nhà Tiền Lê, vua Lý Thái Tổ (Lý Công Uẩn) lên ngôi, mở ra triều đại nhà Lý vào tháng 10 âm lịch năm 1009 và quyết định dời đô từ Hoa Lư về thành Đại La. Một lần, Vua ngự thuyền Rồng từ sông Kim Ngưu qua sông Tô Lịch rồi xuôi theo dòng Nhuệ Giang ngoạn cảnh. Chợt trông thấy ngôi cổ tự trang nghiêm tú lệ ẩn hiện ứng với mộng lành năm xưa, Ngài liền cho dừng thuyền vào chùa lễ Phật. Nhìn cảnh trí thơ mộng, thế đất có long chầu phượng vũ, Ngài thốt lên: “Nơi đây thật xứng là một chốn tu hành “trang nghiêm thù thắng”, đúng là bầu trời cảnh Phật vậy”. Nh­à vua liền đặt mỹ hiệu cho vùng đất này là trang Khúc Thủy, huyện Thanh Oai, phủ Ứng Thiên, trấn Nam Thượng và lập làm thang mộc ấp (ấp của vua). Sau này, Ngài thường lui tới lễ Phật, vãn cảnh. Chùa Thắng Nghiêm, trang Khúc Thủy từ đó đã trở thành nơi du ngoạn tâm linh của các bậc vua chúa, quan lại phong kiến.

        Theo chính sử, chùa Thắng Nghiêm được xây dựng vào thời vua Lý Thái Tổ (1009-1028). Đại Việt sử ký toàn thư, Kỷ nhà Lý, Niên hiệu Thái Tổ Hoàng đế có đoạn chép: “Năm 1010, mùa thu, tháng 7, vua Lý Thái Tổ từ thành Hoa Lư dời đô ra kinh phủ ở thành Đại La… Lại ở trong thành làm chùa ngự Hưng Thiên và tinh lâu Ngũ Phượng. Ngoài thành về phía Nam dựng chùa Thắng Nghiêm”…
        “Mùa đông, tháng 10, xuống chiếu phát trăm lạng bạc trong kho để đúc hai quả chuông treo ở chùa Thắng Nghiêm và tinh lâu Ngũ Phượng. Đắp thành đất ở bốn mặt kinh thành Thăng Long. Đổi phủ Ứng Thiên làm Nam Kinh”.

        Niên hiệu Thái Tông Hoàng đế có đoạn chép: “Mùa hạ, tháng 4, ngày mồng 1, vua thân đi đánh giáp Đản Nãi, cho Đông cung thái tử ở lại Kinh sư làm Giám quốc. Khi đánh được giáp Đản Nãi rồi, sai Trung sứ đốc suất người Đản Nãi đào kênh Đản Nãi. Vua từ Đản Nãi trở về Kinh sư. Có dấu người thần hiện ở chùa Thắng Nghiêm”.

        Niên hiệu Nhân Tông Hoàng Đế cũng chép: “Tháng 9, ngày Tân Tỵ, mở hội Thiên Phật (Nghìn Phật) để khánh thành chùa Thắng Nghiêm Thánh Thọ, cho sứ Chiêm Thành đến xem”.

        Trong Việt sử cương mục tiết yếu của Thiện Đình Đặng Xuân Bảng, phần Kỷ nhà Lý, Thái Tổ Hoàng đế cũng có đoạn chép: “Năm 1010, vua cho phát hai vạn quan tiền, dựng tám ngôi chùa và lập bia để ghi công đức. Lại xây chùa Hưng Thiên, cung Đại Thanh, chùa Vạn Tuế ở nội thành Thăng Long. Ngoại thành dựng bảy ngôi chùa là Thắng Nghiêm, Thiên Vương, Cẩm Y, Long Hưng, Thiên Thọ, Thiên Quang, Thiên Đức, chùa quán ở các hương ấp nếu bị hỏng thì cho sửa lại.”

        Đại Việt sử ký toàn thư chép: Trần Liễu thời Lý được phong làm Phụng Càn vương. Năm 1228, vua Trần Thái Tông (Trần Cảnh) phong Liễu làm Thái úy. Đến năm 1234, Thái thượng hoàng Trần Thừa băng hà, Trần Liễu lên làm Phụ Chính vương (sách sử còn gọi là Hiển Hoàng).

        Năm 1236, Trần Liễu phạm cung cấm bị giáng xuống làm Hoài vương. Năm 1237, Trần Thủ Độ ép vua Trần Cảnh lấy Thuận Thiên (là vợ Trần Liễu đang có mang 3 tháng, vì vợ vua Trần Cảnh là Lý Chiêu Hoàng chưa có con). Mất vợ, Trần Liễu nổi loạn. Do sợ bị diệt vong, Trần Liễu sai em gái là Thụy Bà Công chúa (hay còn gọi là Đoan Bà) đưa con trai là Trần Quốc Tuấn đi lánh nạn. Đoan Bà cùng gia nhân giả làm thương gia đưa Trần Quốc Tuấn đến chùa Trì Long, thuộc trang Khúc Thủy, huyện Thanh Oai, phủ Ứng Thiên, trấn Nam Thượng. Khi đó, chùa Thắng Nghiêm do Thiền sư họ Lý, pháp hiệu Đạo Huyền trụ trì. Ông là vị danh Tăng tinh thông Tam tạng, Giới đức trang nghiêm, uy tín bậc nhất thời đó. Đoan Bà giao Trần Quốc Tuấn, khi đó khoảng 7 tuổi, cho Thiền sư Đạo Huyền nuôi dưỡng. Thiền sư nhìn Trần Quốc Tuấn mỉm cười mà nói rằng: “Thật đúng là duyên mệnh Phật Trời đã định sẵn”. Từ đó, ngày qua tháng lại, Thiền sư Đạo Huyền truyền dạy cho Trần Quốc Tuấn Tam tạng Thánh điển, pháp thuật bí truyền. Với trí tuệ siêu phàm, chẳng bao lâu Quốc Tuấn đã tinh thông giáo pháp, văn võ kỳ tài không ai sánh kịp.

        Lại nói, sau khi Trần Liễu nổi loạn bị giáng xuống làm Hoài vương, vua Trần Thái Tông không những tha không giết mà còn phong vương, cấp cho đất Yên Phụ, Yên Dưỡng, Yên Sinh, Yên Hưng, Yên Bang (nay thuộc Đông Triều, Quảng Ninh) để Trần Liễu về trấn giữ và phong tước hiệu qua các thời kỳ là Hiển Hoàng, Hoài vương, An Sinh vương. Nội cung yên ổn, Trần Liễu cùng đoàn tùy tùng tới trang Khúc Thủy, chùa Trì Long cảm tạ ơn dưỡng dục và thỉnh Thiền sư cùng đón Trần Quốc Tuấn hồi cung, năm đó Quốc Tuấn tròn 21 tuổi.

        Sau khi hồi cung, Trần Quốc Tuấn được mời vào nội điện ra mắt vua Trần Thái Tông. Vua nhận thấy Quốc Tuấn tướng mạo phi phàm, tài trí vẹn toàn, thật xứng danh là bậc kỳ tài trong thiên hạ, bèn phong làm tướng trấn giữ biên ải phương Bắc.

        Năm Mậu Ngọ (1258), quân Nguyên-Mông đem hơn 30 vạn quân tiến qua biên ải, Trần Quốc Tuấn được phong Tiết chế kiêm Tả hữu
        thủy lục tướng quân, chỉ huy quân đội đánh giặc. Ngày 12 tháng 3 năm đó (1258), Trần Quốc Tuấn dẫn quân về Khúc Thủy, Khê Tang thành lập tinh binh trên dòng Nhuệ giang, chiêu hiền giúp nước. Khúc Thủy tuyển được 370 người, Khê Tang tuyển được 271 người ra nhập đội quân tinh nhuệ. Trần Quốc Tuấn đem 16 vạn tinh binh đóng đồn từ Tam Đái đến cửa sông Vọng Đức, Bạch Đằng, Lục Đầu Giang để đánh đuổi quân xâm lược. Sau khi thắng trận trở về, nhân dân ca khúc khải hoàn, Vua xuống chiếu sắc phong Ngài là Hưng Đạo Đại vương.

        Hưng Đạo Đại vương ban thưởng cho Khúc Thủy, Khê Tang 100 lượng vàng và đích thân đứng ra tu sửa chùa Trì Long.

        Năm 1284, vua Nguyên lại sai Thái tử Trấn Nam vương Thành Hoan (chính sử ghi là Thoát Hoan) đem trăm vạn tinh binh một lần nữa xâm lược nước ta. Với tài thao lược binh cơ, Hưng Đạo Đại vương thống lĩnh ba quân, lĩnh mệnh chinh Nguyên, tiến hành thủy chiến trên sông Bạch Đằng, lập chiến công vô cùng hiển hách.

        Ngay sau khi bại trận về nước, năm 1285, quân Nguyên chỉnh đốn quân ngũ, bổ sung lực lượng, đóng tàu chiến, huy động lương thảo để trở lại đánh Đại Việt lần thứ ba. Cuộc chiến lần này kéo dài khoảng gần 4 tháng, từ cuối tháng 12 năm 1287 đến cuối tháng 4 năm 1288. Cũng giống như hai lần trước, chúng đã bị quân dân Đại Việt đánh cho tan tác và từ đó không dám gây chiến với Đại Việt nữa.

        Đất nước thanh bình thịnh trị, Hưng Đạo Đại vương trở về thăm lại chùa xưa. Năm 79 tuổi, Ngài xin về Vạn Kiếp an dưỡng tuổi già. Năm 82 tuổi, ngày 10 tháng 8 mùa thu, Ngài lâm bệnh, thị tịch ngày 20 tháng 8, giờ Ngọ. Vua phong cho Ngài mỹ hiệu “Quốc lão Hiển tướng Đại vương”, cho Khúc Thủy, Khê Tang làm “Hộ Nhi hương”, thờ Quốc Tuấn Đại vương làm Thượng Đẳng thần, cử trọng thần xuân thu nhị kỳ về tế lễ.

        Đình Khúc Thủy được xây dựng từ đây trên thế đất “Thần Ly chầu ngọc”, cũng là nơi thờ phụng Nhị vị Đức Thánh Trần (Hưng Đạo Đại vương và Linh Thông Hoà thượng Đại vương).

        Ngược dòng thời gian, sau khi Thiền sư Đạo Huyền cùng Trần Quốc Tuấn về triều yết kiến Thái Tông Hoàng đế, Đạo Huyền được phong làm Quốc sư, phò Vua, giúp nước. Từ đây, trong Thiền phả không thấy nhắc đến các sư kế đăng trụ trì, mãi đến đời thứ 11 nhà Trần (vua Thuận Tông, húy Ngung, con trai út vua Nghệ Tông), mới có Linh Thông Hòa thượng Đại vương về trang Khúc Thủy thắp sáng ngọn đèn thiền.

        Thiền phả chép: “Linh Thông Hòa thượng Đại vương thuộc thời Trần, xét xưa kia nước ta mở vận hơn hai nghìn năm lấy hiệu là Hùng Vương, trải qua các triều Đinh, Lê, Lý, Trần đều có các minh quân (vua sáng) trị vì đất nước”. Khi ấy, ở trại Tức Mặc, huyện Mỹ Lộc, phủ Thiên Trường, xứ Nam Định, có gia đình họ Trần đời đời làm quan tướng trong triều. Nhà Lý trải qua tám đời vua, vận nước cáo chung mới có nữ quân là Chiêu Hoàng lên ngôi. Trần Thủ Độ làm quan trọng thần trong triều, đưa cháu ruột là Trần Cảnh vào cung, ép gả Chiêu Hoàng. Việc nhà Trần kế nghiệp đế vương nhà Lý mà không hề có nghiệp chiến tranh, đó há chẳng phải là trời đất giao hòa sao!

        Đời sau Lê Tiên sinh thơ rằng:
        Nhất sắc khuynh thành khởi chiến tranh,
        Kỵ long đằng vị tự nhiên thành.
        Giai do thiên mệnh nhân tâm thuận,
        Bách quỹ đồng quy hướng đức danh.

        Dịch thơ:
        Sắc đẹp khuynh thành chẳng chiến tranh,
        Cưỡi rồng giữ vị tự nhiên thành.
        Đều do trời đất lòng người thuận,
        Trăm mối về cùng tỏ đức danh.

        Nhà Trần trải qua các đời vua Thái Tông, Thánh Tông, Nhân Tông, Minh Tông, Anh Tông, Hiển Tông, Dụ Tông, Nghệ Tông, Phế Đế rồi truyền đến vua Thuận Tông. Nhà vua tính tình nhu thuận từ hòa nên đã bị Hồ Quí Ly âm mưu thoán đoạt, tất cả đều do đạo trời xui khiến, không phải là do đức ngu tối của vua Trần vậy.

        Khi ấy, ở trại Hà Lãng, huyện Vĩnh Ninh (nay thuộc Vĩnh Lộc, phủ Thiệu Hóa, Thanh Hóa) có người họ Trần, húy Chân (Trần Khát Chân), phu nhân họ Đặng, húy An, người phường Vạn Ninh. Trần công làm tướng phò giúp vua Anh Tông (ba đời làm tướng nhà Trần), lúc đó đã 40 tuổi, phu nhân 39 tuổi vẫn chưa có điềm lành, hòe quế chi lan đều do thứ phi sớm ứng.


        Đất Vĩnh Ninh có chùa Hoàng Long rất linh ứng, quan dân hương đèn cầu đảo không dứt, cảnh đẹp sánh tựa bồng lai, phong quang như vườn lộc uyển, thực là thắng cảnh của Thiền gia vậy. Năm ấy, nhân ngày hội, phu nhân trai giới đến chùa mật đảo, nguyện sớm được ban điềm lành. Ba ngày sau mộng ứng, trong giấc mơ thấy mình ngoạn du đến chùa Thiên Thai, gặp một lão tăng mặc áo xanh sẫm, đội mũ Thất Phật, chống gậy tùng, tay cầm bông sen, đi trước sân chùa ngâm rằng:


        Nhất thành khả cách đạt từ nhan,
        Kim hữu thành tùng Thứu Lĩnh san.
        Phu phụ Trần gia giai phúc hậu,
        Từ tâm nhất hứa trượng phu hoàn.


        Dịch thơ:

        Lòng thành thấu đến bậc từ nhân,
        Nay có cây tùng trên Thứu Lĩnh.
        Phúc hậu ban cho nhà họ Trần,
        Lòng từ sớm ứng sinh trai giỏi.


        Phu nhân ngắm xem, bỗng thấy cây tùng biến thành rồng xanh bay vào trong miệng. Tỉnh giấc, bà kể lại cho Trần công nghe. Trần công vui mừng nói: “Nhà ta kiếp trước chuyên tâm làm điều phúc thiện, nay trời giáng điềm lành, ắt có tài hoa kế thế, tuấn kiệt ra đời, đây chẳng phải là giấc mộng tầm thường”. Sau, quả nhiên phu nhân có mang. Vào giờ mão ngày 15 tháng giêng, bà sinh hạ một công tử mặt phượng, mắt rồng, hàm én, mày ngài, thể mạo khôi kỳ khác hẳn người thường; trong khi sinh nở điềm lành xuất hiện: hương thơm ngào ngạt, thụy khí lan tỏa khắp phòng. Ông bà đặt tên con là Trần Thông. Trần Thông từ nhỏ đã tỏ ra thông minh, dĩnh ngộ, 7 tuổi theo học với quan Đại học trong nội các, thân thiết với Thái tử như anh em ruột.


        Khi Trần Thông 15 tuổi, vua Thuận Tông nhường ngôi cho Thái tử hiệu là Hiếu Đế và phong Ngài làm trưởng Ấu Sử trong nội các, kiêm quản quân nội thị vệ. Khi ấy, Hồ Quí Ly và Hồ Hán Thương bức Vua phải thoái vị và xuất gia tại chùa Ngọc Thanh, thôn Đạm Thủy. Đất nước đại loạn, Hồ Quí Ly đã giết chết Trần Khát Chân. Tình thế bất an khiến Trần Thông phải dời đến núi Yên Tử, tự nguyện xuất gia tu hành cùng các thiền tăng. Ở đó có người họ Trần tu tập, tên gọi Trần Huyền. Trần Thông tu tại chùa Vân Tiêu được 7 năm thì Hồ Quí Ly biết tin liền cho quan đại thần mời về triều phục chức giúp nhà Hồ, nhưng Ngài không chịu. Nhà Hồ tìm cách sát hại, nhờ có người mật báo, Ngài dời chùa Vân Tiêu tới trang Khúc Thủy, huyện Thanh Oai, phủ Ứng Thiên, trấn Nam Thượng. Lúc Ngài ngồi nghỉ chân bên một thảo am ven đường, có người dân trang Khúc Thủy, họ Nguyễn húy Hành, sùng kính đạo Phật, đến đỉnh lễ thưa rằng: “Ngài từ đâu đến và đi về đâu?”


        Thiền sư mỉm cười đáp: “Ta vốn chẳng sinh ra từ đâu, thì cũng chẳng có đâu để về, Thứu Lĩnh, Tùng Lâm bao trùm khắp cả mười phương, ba cõi, đều là nơi ta đã ngao du, nào biết nơi đâu đáng để dừng. Vậy ta nhàn du đến đây, ngắm xem phong cảnh, tìm hiểu nhân gian họa phúc để mà cứu giúp”.
        Nguyễn công nghe nói vô cùng kính ngưỡng, liền cùng nhân dân Khúc Thủy thỉnh thiền sư về trụ trì chùa. Ngày 12 tháng một, Ngài bắt đầu khai tràng thuyết pháp, rao giảng Tam tạng Thánh điển, tiếp độ tăng, ni. Nhân dân, Phật tử kính ngưỡng Ngài như Phật tái thế. Ngài trụ trì được 5 năm, một hôm, trong khi đang tọa thiền dưới án Phật đường, Ngài thấy Quốc lão Hưng Đạo Đại vương đi đến ngồi trước nơi Ngài thiền định, ngâm rằng:

        Cấp báo chi cấp báo chi,
        Hồ binh lai nhập đáo thiền vi.
        Cấp cấp xu hồi Khê Tang địa,
        Huynh đệ đồng tâm cự tế chi.


        Dịch thơ:

        Kíp báo ngay kíp báo ngay,
        Ngày mai giặc Hồ vây chùa này.
        Mau mau trở lại Khê Tang nhé,
        Huynh đệ đồng tâm chống giặc đây.


        Canh ba hôm ấy, nghe tiếng hô hoán quanh chùa, Ngài sai tiểu tăng lên gác chuông quan sát thì đã thấy binh lính nhà Hồ vây kín cả bốn xung quanh. Ngài liền dùng tích trượng phá vòng vây, thẳng tiến tới chỗ giáp ranh giữa Khúc Thủy và Khê Tang thì thấy một gò cao, cây cối um tùm, Ngài liền ẩn mình vào đó. Bỗng một dải mây ngũ sắc sáng rực từ trong gò bay lên, phủ kín quanh gò, rồi cuồn cuộn bay thẳng lên không trung. Trong giây lát, trời đất tối tăm, sấm chớp ầm ầm, mưa to gió lớn, cây cối gãy đổ, bụi bay mù mịt, binh lính nhà Hồ sợ hãi bỏ chạy tán loạn. Khi đó, Thiền sư đã ung dung tự tại thiền định trên Tam quan chùa Khê Tang. Ngay đêm hôm ấy, Quốc lão mộng báo cho dân chúng Khê Tang thấy Ngài ngồi đàm đạo cùng một vị Thiền sư, đứng hầu xung quanh có khoảng hơn 500 người. Quốc lão gọi nhân dân đến bảo: “Ta có bạn quí tới chơi đã được năm ngày, mà sao các người không ra nghênh đón?”. Sáng hôm sau, nhân dân không ai bảo ai đều tập trung tại Tam quan chùa, quả nhiên thấy một vị Thiền tăng đang ngồi tĩnh tọa như trong giấc mộng vậy. Nhân dân liền thỉnh Ngài về chùa, cung kính lễ bái cúng dàng và xin làm đệ tử.

        Nhân dân Khúc Thủy gặp phải dịch nạn, chiều chiều thường nghe trong chùa văng vẳng tiếng nói vọng ra: “Chủ ta vì nạn mà dời đi nơi khác ở, chỉ có binh lính và Long Thần giữ chùa, được thể ôn thần, quỉ quái thừa cơ làm loạn, quấy nhiễu dân lành, biết tìm ai cứu giúp bây giờ!”. Nhân dân nghe thấy lấy làm lạ, cùng nhau sang Khê Tang thỉnh Ngài Trần Thông trở lại chùa làng, mọi chuyện lại được yên ổn, bình an như cũ.

        Thời gian đó, con thứ vua Nghệ Tông là Giản Định khởi nghĩa diệt Hồ, đánh đuổi giặc Minh, khôi phục lại cơ nghiệp nhà Trần, chấn hưng thiên hạ. Giản Định đế biết Thiền sư là cựu trung thần của triều đình, nên ban chiếu mời về giúp nước. Nhận lệnh vua ban, Ngài đã ưng thuận xếp cà sa, khoác chiến bào, một lần nữa cầm quân ra trận. Ngày 11 tháng 5, Ngài triệu tập dân làng Khúc Thủy, Khê Tang, tuyển được 500 dân binh tình nguyện lên đường. Ngày 12 tháng 2 khao thưởng binh lính, lập đàn cầu đảo Quốc thái dân an. Yến tiệc đến ngày 2 tháng 6, Ngài tấn kiến vua Giản Định. Vua liền phong Ngài làm Đốc lãnh binh, Giới trưởng Quân vệ tả hữu dẹp loạn nhà Hồ rồi tiến thẳng lên phương Bắc đánh đuổi giặc Minh, trấn an bờ cõi, giữ vững chủ quyền. Nhân dân an cư lạc nghiệp, ca khúc khải hoàn. Vua Giản Định phong Ngài làm phó tướng, kiêm Quân vệ thủy bộ, nhưng Ngài đã khước từ, xin vua cho phép trở về chùa xưa tiếp tục tu hành, giáo hóa chúng sinh, xiển dương ngôi Tam Bảo. Nhà vua ưng thuận và ban sắc phong cho Ngài là Linh Thông Hòa thượng Đại vương, lại ban mũ áo, vàng bạc tu bổ chùa chiền, cho Khúc Thủy làm thang mộc ấp. Ngài cảm tạ ơn vua rồi lên đường trở về chùa Khúc Thủy.

        Ngày mồng 10 tháng 9, Ngài mở tiệc khao thưởng úy lạo tướng sỹ. Ngày 12 tháng 9, nhân dân Khúc Thủy, Khê Tang làm lễ chúc mừng. Trong lúc yến ẩm, Ngài nói với phụ lão, nhân dân rằng: “Ta cùng các ngươi tình nghĩa sư đồ sâu nặng, không chỉ một ngày, sư đệ chi tình, ngàn vạn năm duyên đó khó có thể phai mờ. Sau này hãy lập miếu để thờ nơi ta lánh nạn nhà Hồ, bởi nhờ thần lực của Phật Tổ ta mới thoát được kiếp nạn. Hai ngôi Phạm Vũ Linh Quang, Trì Long nơi ta tu hành các ngươi phải thường xuyên tu sửa, giữ gìXem tiếp >>

          Dạy và học 22 tháng 10(22-10-2021)


        DẠY VÀ HỌC 22 THÁNG 10
        Hoàng Kim
        CNM365 Tình yêu cuộc sốngHoa Lúa giữa Đồng Xuân; Tuệ Giác và Tâm Đức; Nhớ Viên Minh Hoa Lúa; Thomas Edison huyền thoại; Sự thật hơn lời nói; Bảo tồn và phát triển sắn; Nguyễn Du tư liệu quý; Nguyễn Du trăng huyền thoại; Thomas Alva Edison (11 tháng 2 năm 1847 – 18 tháng 10 năm 1931) là một nhà phát minh và thương nhân đã phát triển rất nhiều thiết bị có ảnh hưởng lớn tới cuộc sống trong thế kỷ 20. Edison được coi là một trong những nhà phát minh giàu ý tưởng nhất trong lịch sử, ông giữ tổng cộng 1.500 bằng phát minh trên toàn thế giới trong đó có 1.093 bằng sáng chế tại Hoa Kỳ dưới tên ông, ngoài ra là các bằng sáng chế ở Anh, Pháp, Đức,…Ngày 22 tháng 10 năm 1879, Thomas Edison lần đầu tiên thành công trong việc thử nghiệm đèn sợi đốt, với một dây tóc cácbon. Ngày 22 tháng 10 năm 1964, nhà triết học Pháp Jean Paul Sartre đoạt Giải Nobel Văn học, ông đã tự ý từ chối nhận giải này vì không muốn bị “biến đổi”. Ông trở thành người đầu tiên từ chối nhận giải Nobel sau khi Ủy ban Nobel tuyên bố. Ngày 22 tháng 10 năm 1913,  ngày sinh Bảo Đại, vị hoàng đế cuối cùng của Việt Nam (mất năm 1997)  Bài chọn lọc ngày 22 tháng 10: Hoa Lúa giữa Đồng Xuân; Tuệ Giác và Tâm Đức; Nhớ Viên Minh Hoa Lúa; Thomas Edison huyền thoại; Sự thật hơn lời nói; Bảo tồn và phát triển sắn; Nguyễn Du tư liệu quý; Nguyễn Du trăng huyền thoại; Thông tin tại: https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-22-thang-10/.

        HOA LÚA GIỮA ĐỒNG XUÂN
        Hoàng Kim

        Bao năm Trường Viện là nhà
        Sắn khoai ngô lúa đều là thịt xương
        Một đời người một rừng cây
        Thầy ươm giống tốt để mai thành rừng.

        Con theo Người nguyện làm Hoa Lúa
        Bưng bát cơm đầy quý giọt mồ hôi
        Trọn đời vì Dân mến thương hạt gạo
        Hoa quê hương hạt ngọc trắng ngần.

        Con thăm Thầy
        lên non thiêng Yên Tử
        Về đất lành
        Chùa Ráng giữa đồng xuân


        Thơm hương lúa ngậm đòng chăm bón đúng
        Ngát gương sen lồng lộng bóng trúc mai

        Lẫn với cỏ không tranh đua hương vị
        Không màng ngôi ngự trị các loài hoa
        Hoa Lúa đượm hồn quê dung dị
        Quên sắc hương để lộng lẫy Hoa Người ! ” (**)

        Con nguyện ước nối đời theo hạt gạo
        Chén cơm ngon thơm bếp lửa gia đình
        Thầy Trò cùng chung tay làm việc thiện
        Sống trọn tình với giấc mơ xanh.

        xem tiếp: Hoa Lúa giữa Đồng Xuân
        https://hoangkimlong.wordpress.com/category/hoa-lua-giua-dong-xuan Nhớ Thầy Thích Phổ Tuệ https://youtu.be/e2B6aP6udNA Điều Kỳ Diệu lúc 3:40 Sáng https://youtu.be/jrvXCDZ8_ik

        TUỆ GIÁC VÀ TÂM ĐỨC
        Hoàng Kim

        Điều Kỳ Diệu lúc Sáng
        https://youtu.be/jrvXCDZ8_ik
        Tỉnh Thức Cùng Tháng Năm
        Luân Xa Vũ Trụ Mở
        Người An Hòa Trăng Rằm

        Viên Minh Thích Phổ Tuệ
        Rằm Tháng Chín Mưa Giăng
        Quá khuya Trăng lồng lộng
        Hạc Vàng đón Sương Giáng

        Thầy Phổ Tuệ về Trời
        Trần Nhân Tông Việt Nam
        https://www.facebook.com/Tran-Nhan-Tong-Vietnam-400333756725476

        NHỚ VIÊN MINH HOA LÚA
        Hoàng Kim

        Tay men bệ đá sân đình
        Tổ tiên cha mẹ lặng thinh chốn này
        Đình làng chốn cũ nơi đây
        Nuôi đêm phúc ấm dưỡng ngày nhân sinh.

        Mình về với đức Viên Minh
        Thơm hương
        Hoa Lúa ân tình nước non
        Đêm Yên Tử sáng trăng rằm
        Ban mai ngày mới an nhiên cuộc đời.

        Thung dung bước tới thảnh thơi
        Hiền lành phúc hậu lánh nơi bụi trần
        Thiên nhiên là thú bình an
        Người thân bạn quý thanh nhàn sống vui.

        Tay men bệ đá sân chùa
        Tổ tiên cha mẹ đều xưa chốn này
        Đình làng chùa cũ nơi đây
        Nuôi đêm phúc ấm dưỡng ngày nhân sinh

        Mình về với đức Viên Minh
        Thơm hương
        Hoa Lúa nặng tình nước non
        Đêm Yên Tử sáng trăng rằm
        Ban mai ngày mới an nhiên cuộc đời

        Thung dung bước tới thảnh thơi
        Hiền lành phúc hậu lánh nơi bụi trần
        Thiên nhiên là thú bình an
        Người thân bạn quý thanh nhàn sống vui.

        xem tiếp
        https://hoangkimlong.wordpress.com/category/nho-vien-minh-hoa-lua

        THOMAS EDISON HUYỀN THOẠI
        Hoàng Kim

        “Nên thợ nên thầy nhờ có học. No ăn no mặc bởi hay làm”. Nguyễn Trãi, thơ về nếp nhà và nét đẹp văn hóa, đã viết như vậy. Tôi kể bạn nghe về Edison chân dung một người thợ huyền thoại danh tiếng khắp thế giới. Thomas Alva Edison sinh  ngày 11 tháng 2 năm 1847 tại Milan, Ohio, Hoa Kỳ, mất ngày 18 tháng 10 năm 1931 lúc 84 tuổi tại West Orange, New Jersey, Hoa Kỳ. Ông là nhà phát minh, nhà khoa học và thương gia đã phát triển rất nhiều thiết bị ảnh hưởng lớn tới cuộc sống trong thế kỷ 20. Edison được coi là một trong những nhà phát minh giàu ý tưởng nhất trong lịch sử, ông giữ tổng cộng 1.500 bằng phát minh trên toàn thế giới trong đó có 1.093 bằng sáng chế tại Hoa Kỳ dưới tên ông, ngoài ra là các bằng sáng chế ở Anh, Pháp, Đức,…Ngày 22 tháng 10 năm 1879, Thomas Edison lần đầu tiên thành công trong việc thử nghiệm đèn sợi đốt, với một dây tóc các bon.

        Edison quê hương dòng họ và tuổi thơ

        Quê hương nơi sinh thành Thomas Edison là Milan một làng nhỏ thuộc quận Erie, tiểu bang Ohio, Hoa Kỳ, dân số của làng này, năm 2010 là 1367 người. Tiểu bang Ohio (OH) ở miền đông bắc Hoa Kỳ, được coi là vùng đất địa linh nôi Đảng Cộng hòa. Ohio nghĩa là “sông đẹp”, là tên của một dòng sông ranh giới phía nam của tiểu bang Ohio với Kentucky. Ðây là nơi sinh của Thomas Edison và bảy vị Tổng thống:Mỹ (TTM) Ulysses S. Grant (TTM 18, tại Point Pleasant), Rutherford B. Hayes (TTM19, tại Delaware), James A. Garfield (TTM 20, tại Orange, Cuyahoga County), Benjamin Harrison (TTM23, tại North Bend), William McKinley (TTM25, tại Niles), William Howard Taft (TTM27, tại Cincinnati), Warren G. Harding (TTM29, tại Blooming Grove). Ohio có dân số khoảng 12 triệu người, là một trong những tiểu bang công nghiệp chính sản phẩm chính là thiết bị chuyên chở, sản phẩm kim loại đúc sẵn, máy móc, chế biến đồ ăn và thiết bị điện. Ohio cũng thuộc khu vực trồng ngô và đậu nành chủ lực của Mỹ, nông nghiệp đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế của tiểu bang. Những thắng cảnh và các hoạt động giải trí của Ohio là nền tảng cho ngành du lịch thịnh vượng. Ohino có 85% là người da trắng 11,5% là người da đen 1,9% là người Mỹ nói tiếng Tây Ban Nha hay Bồ Đào Nha; 1,4% là người có máu hỗn hợp;  1,2% là người Mỹ gốc châu Á; 0,8% là chủng tộc khác; 0,22% là người da đỏ và người gốc Hawaii hay từ các đảo ngoài Thái Bình Dương. Thủ phủ Columbus là thành phố lớn nhất của Ohio.  Nơi mất của Edison tại New Jersey (gần Ohio) là một vùng nghĩ dưỡng đẹp, trong 4 tiểu bang nhỏ nhất của Hoa Kỳ nằm ven bờ Đại Tây Dương, phía bắc giáp New York, nam giáp Delaware, phía tây giáp Pennsylvania. Ðây là nơi sinh của Tổng thống Grover Cleveland (TTM22 và TTM24, tại Cadwell), là người thuộc Đảng Dân chủ  được bầu làm tổng thống Mỹ trong kỷ nguyên Đảng Cộng hòa chiếm ưu thế chính trị thuở đó trong giai đoạn 1860 và 1912, sau cuộc nội chiến Hoa Kỳ. New Jersey có số dân khoảng 9 triệu người trong đó 66,0% là người da trắng, 13,3% là người gốc châu Mỹ Latinh, 13,6% người da đen, 5,7% là người gốc Á, 2,5% chủng pha trộn,  0,2% thổ dân.

        Dòng họ và gia đình Edison. Tổ tiên Edison là người Hà Lan. Họ đã nhập cư tới New Jersey (một bang gần Ohino) năm 1730. Cụ cố John Edison do trung thành với Anh Quốc nên đã bị bắt và suýt bị treo cổ khi các thuộc địa tuyên bố độc lập. Ông cố và gia đình sau đó đã từ bỏ New Jersey để đi tới Nova Scotia, Canada, định cư trên vùng đất mà chính phủ thuộc địa dành cho những người trung thành với nước Anh. Ông nội và bố mẹ của ông Edison đã trở lại Milan, Ohio từ lúc nào và vì sao Edison sau này lại chọn quay về New Jersey nơi vùng đất tổ phụ của ông thuở xưa, là một nơi nghĩ dưỡng tuyệt vời gần biến thì người viết bài này vẫn chưa rõ khi nào và vì lý do gì.

        Thomas Alva Edison là con của cụ ông Samuel Ogden Edison, Jr.  (1804– 1896) và cụ bà Nancy Matthews Elliott (1810–1871). Ông là người con thứ bảy trong gia đình. Ông Edison theo tôn giáo thần giáo tự nhiên. Ông có hai người vợ tên là Mary Stilwell (1871–1884) và Mina Miller (1886–1931), sáu người con là Marion Estelle Edison (1873–1965); Thomas Alva Edison Jr. (1876–1935); William Leslie Edison (1878–1937); Madeleine Edison (1888–1979);  Charles Edison (1890–1969); Theodore Miller Edison (1898–1992). Người thân của gia đình Edison là cu ông Lewis Miller (cha vợ).

        Tuổi thơ Edison. Edison thuở nhỏ đã nổi tiếng là một cậu bé hiếu kì, ốm yếu, đầu óc luôn lơ mơ và đi học muộn. Ông Reverend Engle giáo viên của ông gọi ông là “rối trí”, trong khi bạn bè đồng lứa mãi học và ham chơi thì Edison đã luôn tìm tòi hiểu thấu mọi vật quanh mình. Chuyện vui kể lại là Edison thuở ấy đã hỏi mẹ vì sao gà phải ấp trứng thì nhận được câu trả lời là gà con cần ấp trứng để làm ấm cho trứng nở. Hôm sau đến bữa ăn me tìm Edison khắp nơi không thấy khi tìm ra chuồng gà thì thấy Edison đang ấp và đợi trứng gà nở. Vì những trò nghịch ngợm tương tự vậy mà Edison đã sớm bị đuổi học ngay khi chưa kết thúc tiểu học. Mẹ ông từng là một giáo viên ở Canada và bà rất vui mừng đảm nhận việc dạy đứa con cá biệt. Bà khuyến khích ông học đọc và làm thực nghiệm. Edison sau này nhớ lại “Mẹ không chỉ sinh thành mà đã nuôi dưỡng, đào tạo ra tôi. Bà rất tin tưởng và chắc chắn về tôi; và tôi cảm thấy rằng tôi có một điều gì đó để sống, một ai đó để tôi không thể làm cho thất vọng.”

        Edison bán kẹo và bán báo trên các chuyến tàu hỏa từ Port Huron đến Detroit. Ông hơi điếc từ nhỏ nhưng đã cứu được Jimmie Mackenzie khỏi lao vào tàu hoả nên sớm đã trở thành một điện tín viên. Cha của Jimmie là nhân viên của nhà ga J.U. Mackenzie ở Mount Clemens, Michigan đã rất vui mừng vì việc trên nên đã nhận bảo trợ,dạy và giúp cho ông trở thành điện tín viên. Edison vì điếc nên một điện tín viên già và là một nhà phát minh tên là Franklin Leonard Pope đã cho phép Edison được sống và làm việc tại tầng hầm của nhà ông ở Elizabeth, New Jersey. Phát minh đầu tiên của  Edison là máy đếm phiếu điện tử ngày 28 tháng 10, 1868.

        Edison tình yêu hôn nhân và sự nghiệp

        Edison ở tuổi 24 năm 1871 đã trở thành chủ một chủ xí nghiệp nhỏ được nhiều người biết tiếng. Ông say mê làm việc đến mức khi cuộc sống dần ổn định và nhu cầu cần một mái ấm gia đình chợt đến trong đầu thì ông đã tỏ tình và cưới theo cách “Edison”. Ông chú ý đến cô thư kí Mary Stilwell dịu dàng, thanh mảnh làm việc trong công ty. Một hôm, ông đã đến gặp nàng và ngỏ lời: “Thưa cô, tôi không muốn phí thì giờ nói những câu vô ích. Tôi xin hỏi cô một câu rất ngắn gọn và rõ ràng: Cô có muốn làm vợ tôi không?”. Cô gái sửng sốt, không tin ở tai mình – “Ý cô thế nào? Cô nhận lời tôi nhé? Tôi xin cô hãy suy nghĩ trong năm phút” – Edison nhắc lại lời cầu hôn cấp tốc của mình. “Năm phút cơ à? thế thì lâu quá! Vâng em nhận lời” cô Mary đỏ mặt lí nhí đáp. Ngày 25 tháng 12 năm 1871, ông cưới Mary, và họ có ba người con, Marion Estelle Edison, Thomas Alva Edison, Jr., và William Leslie Edison. Sau khi Mary vợ ông qua đời năm 1884, ngày 24 tháng 2 1886, ở tuổi ba chín, ông lấy Mina Miller một cô gái mười chín tuổi. Họ có thêm ba người con nữa là Madeleine Edison, Charles Edison (người tiếp quản công ty sau khi cha qua đời, và sau này trở thành Bộ trưởng Hải quân, được bầu làm Thống đốc bang New Jersey), và Theodore Edison.

        Thomas Edison có tổng cộng 1.500 bằng phát minh trên toàn thế giới trong đó có 1.093 bằng sáng chế tại Hoa Kỳ dưới tên ông, ngoài ra là các bằng sáng chế ở Anh, Pháp, Đức,… Thomas Edison mất ở New Jersey ở tuổi 84. Sáng Chủ Nhật ngày 18 tháng 10 năm 1931, Thomas Edison lìa trần chỉ 3 ngày trước lễ kỉ niệm sinh nhật lần thứ 52 của chiếc bóng điện đầu tiên. Những từ cuối cùng của ông nói với vợ là: “Ở ngoài kia đẹp quá”. Nước Mỹ tưởng nhớ ông bằng cách tắt toàn bộ đèn điện trên toàn lãnh thổ Hoa Kỳ trong một phút để tưởng nhớ người vĩ nhân, “người bạn của nhân loại” đã mang đến cho con người một thứ ánh sáng quý giá, một “mặt trời thứ hai”. Ẩnh  trong bài này là New Jersey cầu Benjamin Franklin về đêm.

        Một ngày với Thomas Edison

        Edison được quê hương ông vinh danh là “Thầy phù thủy ở Menlo Park” do sự đặt tên ông của một nhà báo. Thomas Alva Edison nói: “Genius is one percent inspiration, ninety-nine percent perspiration” (Thiên tài là một phần trăm cảm hứng, chín mươi chín phần trăm mồ hôi) tại Harper’s Monthly, tháng 9 năm 1932. Ông lắng đọng trong lòng mọi người là NGƯỜI LAO ĐỘNG “Working Man” A-Day-with-Thomas_Edison là câu chuyện tuyệt vời về ông{Tập tin:A Day with Thomas Edison (1922).webm
        A DAY WITH THO MAS EDISONA Day with Thomas Edison (1922) Trình chơi Video

        Edison là linh hồn của công ty mang tên ông.Edison là một người thợ cả bậc Thầy, một thiên tài phát minh thực tiễn thực dụng, một trong những nhà phát minh đầu tiên ứng dụng các nguyên tắc sản xuất hàng loạt vào quy trình sáng tạo. Ông vì vậy được coi là người sáng tạo ra phòng nghiên cứu công nghiệp đầu tiên.  Nhiều phát minh không là của riêng ông mà là sự kế thừa và phát triển. Ông trở thành tác giả chính hoặc đồng tác giả của Edison Group. Một số phát minh ông không là người đầu tiên nhưng ông là người kết nối, nâng tầm chất lượng và tổng kết hiệu quả.

        Thomas Edison phát minh nổi tiếng nhất là bóng đèn. Bài học lớn từ câu chuyện nhỏ.

        Chúc mừng quý thầy cô Tuyến Bùi Cách, Huỳnh Hồng, Tu Phan Van cùng với Tuyet Tran, Nhung Hoang và Hóa An từ ngày 10 tháng 10 đến 22 tháng 10 năm 2018 nhớ lại chuyến hành trình du lịch sinh thái đáng nhớ từ Sài Gòn đến Đài Bắc qua tới Toronto Thác Niagara Ottawa Quebec Montreal New York Philadelphia Pennylvania tới Washington DC, Bờ Đông… Bờ Tây đi Los Angeles San Diego Las Vegas: 5 giờ chạy xe.Hành trình từ Đông sang Tây từ Bắc về Nam của nước Mỹ. Hoàng Kim đồng cảm và thao thức kỷ niệm Đi khắp quê người để hiểu đất quê hương

        NGUYỄN PHƯƠNG GIỐNG BẮP NGỌT
        Hoàng Kim

        Chúc mừng TS Nguyễn Phương và đồng sự tiến bộ mới tiếp nối thành tựu năm 2019 “Nghiên cứu tạo giống ngô đường lai đơn F1 phục vụ cho sản xuất khu vực Đông Nam Bộ”. Mã số B2017 NLS 11. Đề tài thật tốt..

        SỰ THẬT HƠN LỜI NÓI

        Thông tin kết quả nghiên cứu và phát triển giống sắn KM419, KM440 tại Phú Yên “
        Tiến sĩ Trúc Mai nghiên cứu thành công giống sắn mới” “Người tâm huyết với cây sắn và lúa

        PHÚ YÊN BẢO TỒN VÀ PHÁT TRIỂN SẮN BỀN VỮNG
        Nguyễn Thị Trúc Mai, Hoàng Kim, Hoàng Long và đồng sự

        Tóm tắt: Báo cáo này đề cập ba nội dung: 1) Những vấn đề cần chú ý trong sản xuất sắn hiện nay để nâng cao giá trị và sức cạnh tranh cây sắn; 2) Thành tựu và bài học sắn Việt Nam (2016-2021) trước và trong dịch bệnh sắn CMD và CWBD ; 3) Phú Yên bảo tồn và phát triển sắn bền vững

        1) Giống sắn KM419 và KM440 ở Việt Nam hiện nay là phổ biến nhất, sau cả áp lực nặng của bệnh khảm lá CMD và bệnh chổi rồng CWBD. https://youtu.be/XDM6i8vLHcIhttps://youtu.be/kjWwyW0hkbU . Chúng tôi khuyên nông dân trồng các loại giống sạch bệnh KM419, KM440, KM140, KM98-1, KM568, KM535, KK537, HN5, HLS14 KM94 (đ/c), khảo nghiệm DUS và VCU. Sắn Việt Nam bảo tồn và phát triển bền vững (Hình 1); xem tiếp   https://hoangkimlong.wordpress.com/category/chon-giong-san-khang-cmd/  [11]

        2) Mười kỹ thuật thâm canh sắn được đúc kết thành quy trình canh tác thích hợp, hiệu quả đối với điều kiện sinh thái của địa phương (Hình 2) là giải pháp tổng hợp để nâng cao giá trị và sức cạnh tranh cây sắn. Mười kỹ thuật này bao gồm: 1) Sử dụng hom giống sắn tốt nhất của giống sắn thích hợp nhất; 2) Thời gian trồng tốt nhất và thời điểm thu hoạch tối ưu để đạt năng suất tinh bột tối đa và hiệu quả kinh tế; 3) Bón phân NPK kết hợp phân hữu cơ vi sinh và phân chuồng để cải thiện độ phì đất và tăng năng suất; 4) Khoảng cách trồng tối ưu cho giống sắn tốt nhất và thích hợp loại đất; 5) Ngăn chặn sâu bệnh hại bằng phòng trừ tổng hợp IPM; 6) Trồng xen sắn với lạc, cây họ đậu; trồng băng cây đậu phủ đất, luân canh thích hợp nhất tại địa phương; 7) Dùng thuốc diệt cỏ, tấm phủ đất để kiểm soát cỏ dại kết hợp bón thúc sớm và chuyển vụ; 8) Kỹ thuật làm đất trồng sắn thích hợp để kiểm soát xói mòn đất; 9) Phát triển hệ thống quản lý nước cho canh tác sắn; 10) Đào tạo huấn luyện bảo tồn phát triển sắn bền vững, sản xuất kết hợp sử dụng sắn; xây dưng chuỗi sản xuất tiêu thụ sắn hiệu quả thích hợp. Quy trình canh tác sắn này của Việt Nam đã được công bố tại Hội thảo Cây Có Củ Thế Giới tổ chức tại Nam Ninh, Quảng Tây, Trung Quốc ngày 18 tháng 1 năm 2016 (Le Huy Ham et al. 2016) [23]  
        https://youtu.be/81aJ5-cGp28

        3) Xây dựng vườn tạo dòng của 5 tổ hợp sắn lai ưu tú nhất của tiến bộ di truyền hiện nay trong nguồn gen giống sắn tuyển chọn Thế giới và Việt Nam (Hình 3) là giải pháp căn bản, trọng tâm, thường xuyên và lâu dài để xây dựng tiềm lực khoa học chọn giống sắn tại vùng sắn trọng điểm, đi đôi với việc đào tạo nguồn nhân lực, tạo sản phẩm nổi bật, nâng cao giá trị và sức cạnh tranh của cây sắn ở mức quốc gia và khu vực.

        4) Ứng dụng công nghệ nâng cao chuỗi giá trị nông nghiệp (Technological application enhances agriculture value chain), đặc biệt chú trọng giống sắn và vùng nguyên liệu và truyền thông Chuyển đổi số nông nghiệp kết nối thị trường  https://vtv.vn/video/bizline-15-3-2020-427424.htm.và https://youtu.be/XMHEa-KewEk

        5) Bảo tồn và phát triển hệ thống sản xuất tiêu thụ sắn thích hợp bền vững: Gắn vùng giống sắn tốt, có năng suất tinh bột cao, kháng các bệnh hại chính CMD, CWBD, với các doanh nghiệp nhà nông, phục vụ nông nghiệp; Liên kết hổ trợ nông dân tổ chức sản xuất kinh doanh sắn theo chuỗi giá trị sắn; Đa dạng hóa sinh kế, gắn cây sắn với các cây trồng và vật nuôi khác; Tăng cường năng lực liên kết tiếp thị; có các chính sách hỗ trợ cần thiết.

        THÀNH TỰU VÀ BÀI HỌC SẮN VIỆT NAM

        Cách mạng sắn Việt Namhttps://youtu.be/81aJ5-cGp28, là điểm sáng toàn cầu được vinh danh tại Hội thảo Cây Có Củ Thế Giới tổ chức tại Nam Ninh, Quảng Tây, Trung Quốc từ ngày 18 đến ngày 22 tháng 1 năm 2016. Thành tựu và bài học sắn Việt Nam (2016-2021) đánh giá SWOT điểm mạnh, điểm yều, cơ hội, thách thức trong bối cảnh dịch bệnh sắn CMD và CWBD, khái quát những điểm căn bản sau đây:

        Bối cảnh dịch bệnh sắn CWBD và CMD

        Dịch bệnh chồi rồng (CWBD) gây hại sắn Việt Nam rãi rác từ năm 2005-2008, và bùng phát thành dịch bệnh ở Quảng Ngãi năm 2009 (Báo Nhân Dân 2009) [1], Dịch bệnh này sau đó trở nên nghiêm trọng ở Việt Nam, chủ yếu trên giống sắn KM 94. Năm 2008, giống sắn KM94 là giống sắn chủ lực Việt Nam có diện tích thu hoạch chiếm 75, 54% tổng diện tích sắn Việt Nam (Hoang Kim Nguyen Van Bo et al. 2011) [10]. Đến năm 2016, tỷ trọng diện tích thu hoạch giống sắn KM94 chiếm 31,8 %, trong khi giống sắn KM419 chiếm 38%. (RTB Newsletter 2016. Assessment reveals that most cassava grown in Vietnam has a CIAT pedigree) [25]. Năm 2019, giống sắn KM419 chiếm trên 42% tổng diện tích sắn toàn Việt Nam. Nguyên nhân của sự chuyển dịch này là do giống sắn KM94 cây cao, mật độ trồng thưa (10.000 -11.000 cây/ ha), thời gian sinh trưởng dài, nhiễm nặng (cấp 4) bệnh chổi rồng. Giống sắn KM419, cây thấp, mật độ trồng dày (14.500 cây/ha), thời gian sinh trưởng ngắn, nhiễm nhẹ bệnh chổi rồng (cấp 1), năng suất tinh bột vượt KM94 khoảng 29%.

        Bệnh virus khảm lá (CMD) gây hại ban đầu từ tỉnh Tây Ninh (2017) lan rộng trên 15 tỉnh thành Việt Nam (2018) và 18 tỉnh thành Việt Nam (2019) gây hại nghiêm trọng  trên giống sắn HLS11. Chương trình sắn Quốc tế ACIAR, CIAT kết nối Mạng lưới sắn toàn cầu GCP21 và các chương trình sắn Quốc gia gồm Căm pu chia, Lào, Thái Lan, Việt Nam, tại Hội nghị sắn Quốc tế lần thứ IV, ngày 11-15 tháng 6 năm 2018 tại Benin, và  Hội thảo sắn khu vực ngày 18 tháng 9 năm 2018 tại Phnôm Pênh, Campuchia và Tây Ninh Việt Nam  đã báo cáo tình trạng dịch bệnh virus khảm lá sắn (CMD) gần đây ở Đông Nam Á và phối hợp chiến lược phòng trừ dịch bệnh CMD. Những kết quả giám sát dịch bệnh đã được đúc kết thông tin tại Hội thảo sắn Quốc tế tại Lào (2019), Ấn Độ (2021) xem tiếp Sắn Việt Nam ngày nayhttps://hoangkimlong.wordpress.com/category/san-viet-nam-ngay-nay

        Thành tựu sắn Việt Nam

        Sắn Việt Nam ngày nay đã là một ngành xuất khẩu đầy triển vọng. Ở Việt Nam, sắn là cây lương thực với diện tích hơn nửa triệu ha và giá trị xuất khẩu hơn một tỷ đô la Mỹ mỗi năm. Cách mạng sắn Việt Namhttps://youtu.be/81aJ5-cGp28, với sự tham gia của hàng triệu nông dân trồng sắn Việt Nam, đã thực sự đạt được sự chuyển đổi to lớn cây sắn và ngành sắn về năng suất, sản lượng, giá trị sử dụng, hiệu quả kinh tế, thu nhập thực tế, sinh kế, việc làm và bội thu giá trị lao động sống ngành sắn cho hàng triệu người dân trên toàn quốc. Sắn Việt Nam ngày nay đã và đang tiếp tục làm cuộc cách mạng xanh mới.tiếp tục lan tỏa thành quả điển hình của sắn thế giới khi nhiều hộ nông dân tại nhiều vùng rộng lớn ở Tây Ninh đã tăng năng suất sắn trên 400%, từ 8,35 tấn/ ha năm 2000 lên trên 36,0 tấn/ ha. (FAO, 2013b). Năng suất sắn Việt Nam bình quân cả nước từ năm 2009 đến nay (2021) đã đạt trên gấp đôi so với năng suất sắn năm 2000. Điển hình tại Tây Ninh, từ năm 2011 năng suất sắn đã đạt bình quân 29,0 tấn/ ha trên diện tích thu hoạch 45,7 nghìn ha với sản lượng là 1,32 triệu tấn, so với năm 2000 năng suất sắn đạt bình quân 12,0 tấn/ ha trên diện tích thu hoạch 8,6 nghìn ha, sản lượng 9,6 nghìn tấn. Sắn lát và tinh bột sắn Việt Nam đã trở thành một trong mười mặt hàng xuất khẩu chính. Sắn Việt Nam đã thành nguồn sinh kế, cơ hội xóa đói giảm nghèo và làm giàu của nhiều hộ nông dân, hấp dẫn sự đầu tư của nhiều doanh nghiệp chế biến kinh doanh; Chi tiết thông tin tại “Cassava conservation and sustainable development in Vietnam” (Hoàng Kim et al. 2018, 2015) [7], Trong sách: Sản xuất sắn bền vững ở châu Á đối với nhiều mục đích sử dụng và cho nhiều thị trường. Reihardt Howeler (biên tập) và nhiều tác giả, CIAT 2015. Sách Vàng nghề sắn)

        Sắn Việt Nam ngày nay thành tựu nổi bật

        Thành tựu sắn Việt Nam thể hiện chính trên 6 điểm:Giống sắn chủ lực và phổ biến ngày nay ở Việt Nam; Quy trình canh tác sắn thích hợp tại mỗi điều kiện sinh thái nền tảng phát triển trên Mười kỹ thuật thâm canh sắn;Hệ thống sản xuất chế biến tiêu thụ sắn;  Hệ thống giáo dục đào tạo và khuyến nông; Hệ thống quản lý nhà nước, hổ trợ liên kết chuỗi giá trị ngành hàng sắn và xây dựng nông thôn mới

        1) Giống sắn chủ lực và phổ biến ở Việt Nam ngày nay là KI419 và KM140, trong khi chờ đợi các giống sắn mới tích hợp gen kháng bệnh CMD được khảo nghiệm (Báo Nhân Dân 2020 dẫn kết luận của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn,: các giống đối chứng tốt nhất hiện trồng tại Tây Ninh là KM419 và KM140 có năng suất 44-48 tấn/ha https://nhandan.vn/chuyen-lam-an/tim-ra-giong-san-khang-benh-kham-la-625634/ ); xem tiếp [11] Chọn giống sắn Việt Nam, https://hoangkimlong.wordpress.com/category/chon-giong-san-viet-nam/

        2) Mười kỹ thuật thâm canh sắn bảo tồn và phát triển sắn bền vững; Cây sắn Việt Nam ngày nay, giải pháp chủ yếu ngăn chặn lây lan dịch bệnh CWBD và CMD là phòng trừ tổng hợp: sử dụng giống sắn KM419, KM440, KM397, KM140, KM98-1, … ít nhiễm bệnh hơn so với KM94 và dùng nguồn giống sạch bệnh; vệ sinh đồng ruộng, tiêu hủy nguồn bệnh kịp thời; diệt rầy lá, rầy thân, nhện đỏ, rệp sáp và các loại côn trùng lây lan bệnh; cần chăm sóc sắn tốt, bón phân và làm cỏ 3 lần để tăng sức đề kháng cho cây, bố trí mùa vụ thích hợp để hạn chế dịch hại; tiêu hủy nguồn bệnh kịp thời khi bệnh xuất hiện. [11]  https://hoangkimlong.wordpress.com/category/muoi-ky-thuat-tham-canh-san/

        3) Hệ thống sản xuất chế biến tiêu thụ sắn Việt Nam ngày nay là khá tốt và năng động, có nhiều điển hình doanh nghiệp chế biến kinh doanh giỏi, hiệu quả;

        4) Hệ thống giáo dục đào tạo và khuyến nông, dạy và học cây sắn đã tập huấn kỹ thuật, bổ sung tăng cường nguồn lực kỹ thuật, khoa học, công nghệ thích hợp cho ngành sắn.

        5) Hệ thống quản lý nhà nước, hổ trợ liên kết chuỗi giá trị ngành hàng sắn, phát triển nông thôn mới,đã có sự liên kết chương trình sắn liên vùng, hợp tác quốc tế với sự sâu sát thực tiễn và hiệu quả. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã có công văn cấm sử dụng giống sắn HLS11 mẫn cảm bệnh virus khảm lá CMD; Bộ Nông nghiệp Phát triển Nông thôn, Cục Bảo vệ Thực vật số 1068/ BVTV TV ngày 3 tháng 5 năm 2019 đã xác định “V/v sử dụng giống sắn KM419 trong sản xuất” ghi rõ.“Việc hướng dẫn nông dân mua giống sắn KM419 sạch bệnh là giải pháp an toàn, kinh tế nhất so với thực trạng nhiễm bệnh khảm lá sắn hiện nay”. Chương trình sắn Quốc tế ACIAR CIAT cũng xác định giống sắn KM98-1 canh tác phổ biến nhất ở Lào.

        6) Sắn Việt Nam chuyển đổi số đã tích lũy chuyển đổi số, liên kết hổ trợ người dân,  Cách mạng sắn Việt Namhttps://youtu.be/81aJ5-cGp28, Chọn giống sắn Việt Nam; Lúa sắn Cămpuchia và Lào; Lúa sắn Việt Châu Phi; Xem tiếp >>

          Dạy và học 21 tháng 10(21-10-2021)


        DẠY VÀ HỌC 21 THÁNG 10
        Hoàng Kim
        CNM365 Tình yêu cuộc sốngViên Minh Thích Phổ Tuệhttps://youtu.be/e2B6aP6udNA; Nhớ bài học sâu sắc; Chùa Giáng giữa đồng xuân; Minh triết sống phúc hậu; Hoa Lúa giữa Đồng Xuân; Nhớ Viên Minh Hoa Lúa; Borlaug và Hemingway; Những trang đời lắng đọng; Sách Văn Nghệ Quảng Minh; Vạn An lời yêu thương; Học không bao giờ muộn; Bài ca yêu thương; Ngày mới lời yêu thương; Ngày nhớ trong tim tôi; Nguyễn Du tư liệu quý; Nguyễn Du trăng huyền thoại; Ngày 21 tháng 10 năm 1867 kiệt tác văn chương “Chuông nguyện hồn ai” của Ernest Hemingway được phát hành lần đầu tiên. Hemingway là nhà văn Mỹ nổi tiếng, đoạt giải Nobel Văn học năm 1954, giải Pulitzer năm 1953 với tiểu thuyết Ông già và biển cả. Hemingway là mẫu mực kinh điển trong văn học Mỹ với đặc trưng văn chương chuẩn mực, kiệm lời, sáng tạo, ông khắc họa vĩnh cữu từ chìa khóa (Key word). Hemingway là người thuận theo tự nhiên, chịu nghịch cảnh theo chủ nghĩa khắc kỷ (stoicism), ông vui lòng chịu sức ép (grace under pressure), là một cựu quân nhân trãi gần trọn đời trong chiến tranh và nghèo đói, được ông mô tả là “Thế hệ bỏ đi” (Lost Generation) của cộng đồng người Paris xa xứ. Ngày 21 tháng 10 năm 1833, ngày sinh Alfred Nobel nhà hóa học, kỹ sư, nhà phát minh, nhà doanh nghiệp Thụy Điển, người đã phát minh ra thuốc nổ dynamite và lập ra các Giải Nobel. (mất năm 1896). Ngày 21 tháng 10 năm 1956 là ngày mất của Lưỡng quốc tướng quân Nguyễn Sơn (sinh năm 1908). Bài chọn lọc ngày 21 tháng 10: Viên Minh Thích Phổ Tuệ; Nhớ bài học sâu sắc; Chùa Giáng giữa đồng xuân; Minh triết sống phúc hậu; Hoa Lúa giữa Đồng Xuân; Nhớ Viên Minh Hoa Lúa; Borlaug và Hemingway; Những trang đời lắng đọng; Sách Văn Nghệ Quảng Minh; Vạn An lời yêu thương; Học không bao giờ muộn; Bài ca yêu thương; Ngày mới lời yêu thương; Ngày nhớ trong tim tôi; Nguyễn Du tư liệu quý; Nguyễn Du trăng huyền thoại; Đêm Vu Lan thương chị; Thắp đèn lên đi em; Ngẫm thơ ngoài ngàn năm; An Viên Phước Hoàng Gia; Thung dung; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-21-thang-10/.

        NHỚ BÀI HỌC SÂU SẮC
        Hoàng Kim

        Nhớ lời thề Độc Lập. Ngày Độc lập nhớ minh triết Hồ Chí Minh “Bình sinh đầu ngẩng tới trời xanh. Khuất núi hồn THƠM quyện đất lành. Anh hùng HỒ dễ nên nghiệp ấy. Tâm hồn bình dị CHÍ anh MINH”. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Độc Lập Tự Do Hạnh Phúc”. “Nhân dân có quyền đôn đốc và phê bình Chính phủ. Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ. Từ Chủ tịch nước đến giao thông viên cũng vậy. Nếu không làm được việc cho dân thì dân không cần đến nữa”. (Hồ Chí Minh, tập 4. trang 283).

        “Chúng ta không thể chấp nhận những người miệng nói yêu nước nhưng vì lợi ích cá nhân, “lợi ích nhóm” mà tham nhũng, lãng phí, làm tổn hại đến đất nước, làm nghèo, suy yếu đất nước Đây là giặc nội xâm, là những khối u trên cơ thể đất nước cần phải cắt bỏ”. Hoan nghênh thái độ của lớp lớp những thế hệ đứng đầu của Nước Việt Nam mới đối với tiêu cực, tham nhũng, dám và nêu gương đối diện với sự thật suy thoái của một bộ phận tham nhũng trong Đảng. Đây cũng là yếu tố mang tính quyết định tới sự thành bại của một quốc gia.

        Hồ Chí Minh “Chơi giăng” đến nay vẫn nóng hổi thời sự “Nước nhà giành lại nhờ tài sắt, Sự nghiệp làm nên bởi chữ đồng. Tổ chức, tuyên truyền càng rộng rãi Tức là cách mệnh chóng thành công”. Hoàng Kim có thơ ‘Nhớ thơ Trăng của Bác‘ học và họa vần thơ Người. Giỗ Bác Hồ ngày 21 tháng Bảy ÂL (nhằm ngày 2.9.1969 nhưng là ngày 31 8 2018) 

        CHƠI GIĂNG
        Hồ Chí Minh


        Gặp tuần trăng sáng, dạo chơi giăng,
        Sẵn nhắn vài câu hỏi chị Hằng:
        “Non nước tơi bời sao vậy nhỉ?
        Nhân dân cực khổ biết hay chăng?
        Khi nào kéo được quân anh dũng,
        Để dẹp cho tàn bọn nhố nhăng?
        Nam Việt bao giờ thì giải phóng
        Nói cho nghe thử, hỡi cô Hằng?”.
        *
        Nguyệt rằng: “Tôi kính trả lời ông:
        Tôi đã từng soi khắp núi sông,
        Muốn biết tự do chầy hay chóng,
        Thì xem tổ chức khắp hay không.
        Nước nhà giành lại nhờ tài sắt,
        Sự nghiệp làm nên bởi chữ đồng.
        Tổ chức, tuyên truyền càng rộng rãi,
        Tức là cách mệnh chóng thành công”.

        Báo Việt Nam độc lập, số 135, ngày 21-8-1942.
        Nguồn: Hồ Chí Minh toàn tập (tập 3), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000

        Quoc Khanh nho tho Trang cua Bac

        NHỚ THƠ TRĂNG CỦA BÁC
        Hoàng Kim

        Trăng rằm nhớ thơ Trăng của Bác
        Bốn lăm tuổi Đảng học theo Người
        Tâm sáng đức cao chăm việc tốt
        Chí bền trung hiếu được tin yêu
        .

        choi-giang.jpg

        TRĂNG RẰM VUI CHƠI GIĂNG
        Hoàng Kim


        Trăng rằm đường sáng dạo chơi giăng,
        Nhớ Bác đôi câu hỏi chị Hằng:
        “Thế nước thịnh suy sao đoán định?
        Lòng dân tan hợp biết hay chăng?
        Vành đai thế biến nhiều mưu hiểm,
        Con đường lực chuyển lắm lăng nhăng?
        Dân Nam Tiếng Việt nhiều gian khó
        Hưng thịnh làm sao hỡi chị Hằng?”.

        *

        “Bác Hồ thơ ‘Chơi giăng’ đó ông
        Vầng trăng cổ tích sáng non sông,
        Tâm sáng đức cao chăm việc tốt
        Chí bền trung hiếu quyết thắng không?
        Nội phản dẹp tan loài phản quốc
        Ngoại xâm khôn khéo giữ tương đồng.
        Khó dẫu vạn lần dân cũng vượt.
        Lòng dân thế nước chắc thành công”.

        Trăng rằm vui chơi giănghttps://hoangkimlong.wordpress.com/category/trang-ram-vui-choi-giang

        Sadhguru Tiếng Việt đã đăng một video Lời Khuyên tới Các Bạn Trẻ.

        3 Tháng 10 lúc 17:21  · Làm Sao Để Luôn Đưa Ra Quyết Định Đúng?

        Bạn gặp khó khăn mỗi khi cân nhắc xem liệu mình có đang đưa ra quyết định đúng? Trong video này, Sadhguru đưa ra những hiểu biết sâu sắc về quá trình đưa ra quyết định và bàn về cách để bạn luôn đảm bảo rằng mình đang làm những gì cần thiết.Xem thêm tại:
        https://www.youtube.com/c/SadhguruTiếngViệt#Sadhguru#SadhgurutiengViet

        Vị Yogi, nhà tâm linh và người có tầm nhìn xa trông rộng, Sadhguru là một bậc thầy tâm linh với sự khác biệt. Một sự pha trộn hấp dẫn giữa sự sâu sắc uyên thâm và chủ nghĩa thực dụng, cuộc sống và các hoạt động của ông như một lời nhắc nhở rằng yoga là một môn khoa học đương đại, vô cùng phù hợp với thời đại của chúng ta.

        Bởi Bill Gates | Ngày 13 tháng 10 năm 2021

        Nhiều người phương Tây đã bị sốc bởi việc vắc-xin COVID-19 đến tay người dân ở các nước giàu nhanh hơn nhiều so với các nước nghèo. Nhưng với nhiều nhà lãnh đạo mà tôi có thể nói chuyện trên khắp thế giới – đặc biệt là những người ở các quốc gia có thu nhập thấp và trung bình – thời gian trễ không phải là điều gì mới mẻ. Thường phải mất nhiều năm, thậm chí nhiều thập kỷ, để một tiến bộ y tế trở nên phổ biến rộng rãi ở các nước đang phát triển.

        Đây là một vấn đề mà nền tảng của chúng tôi đã làm việc trong nhiều năm. Theo quan điểm của tôi, tình huống với vắc-xin COVID-19 là không thể chấp nhận được — chỉ 2% người dân ở các nước thu nhập thấp đã được tiêm dù chỉ một liều — và nó cũng tốt hơn hầu như bất kỳ chiến dịch y tế công cộng nào khác từ trước đến nay.

        Điều đó có nghĩa là có tiến bộ và chúng ta có thể xây dựng dựa trên tiến độ. Trong bài đăng Gates Notes mới nhất của tôi, tôi viết về cách chúng ta có thể học hỏi từ trải nghiệm COVID-19 và thu hẹp khoảng cách thậm chí nhanh hơn vào lần sau. Đó là một chủ đề phức tạp và bài đăng dài, nhưng việc viết nó đã giúp tôi làm sáng tỏ suy nghĩ của mình. Tôi hy vọng bạn sẽ đọc nó.

        Cảm ơn vì đã là Người trong cuộc.

        By Bill Gates | October 13, 2021
        Many Westerners have been shocked by how much faster COVID-19 vaccines reached people in rich countries than in poor countries. But to many of the leaders I get to talk to around the world—especially those in low- and middle-income countries—the lag time was nothing new. It usually takes years, even decades, for a medical advance to become widely available in the developing world.
        This is a problem that our foundation has been working on for years. In my view, the situation with COVID-19 vaccines is unacceptable—just 2 percent of people in low-income countries have received even one dose—and it is also better than virtually any other public-health campaign ever.
        What that means is that there is progress, and we can build on progress. In my latest Gates Notes post, I write about how we can learn from the COVID-19 experience and close the gap even faster next time. It’s a complex subject, and the post is long, but writing it helped me clarify my own thinking. I hope you’ll give it a read.
        Thanks for being an Insider.

        VIÊN MINH THÍCH PHỔ TUỆ
        Hoàng Kim


        Rằm tháng Chín mưa giăng
        Quá khuya Trăng lồng lộng
        Hạc Vàng đón Sương Giáng
        Thầy Phổ Tuệ về Trời.

        Đại lão Hòa thượng Thích Phổ Tuệ trụ thế 105 năm (1017-2021), viên tịch lúc 3 g22 ngày 21 tháng 10 nhằm ngày Tư Mệnh 16 tháng 9 năm Tân Sửu. https://www.youtube.com/embed/e2B6aP6udNA?version=3&rel=1&showsearch=0&showinfo=1&iv_load_policy=1&fs=1&hl=vi&autohide=2&wmode=transparent

        Chua Giang giua dong xuan

        CHÙA GIÁNG GIỮA ĐỒNG XUÂN
        Hoàng Kim

        Nơi cổ tự mây lành che xóm vắng
        Viên Minh xưa chùa Giáng ở đây rồi
        Bụt thư thái chim rừng nghe giảng đạo
        Trời trong lành gió núi lắng xôn xao.

        xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/chua-giang-giua-dong-xuan/

        Mua thuan gio hoa cham bon dung
        Ngat huong sen long long bong truc mai

        MINH TRIẾT SỐNG PHÚC HẬU
        Hoàng Kim


        Bản chất cuộc sống là hạnh phúc và đau khổ, vui vẻ và phiền muộn, sự thiếu hoàn thiện và vô thường. Minh triết của đời người hạnh phúc là biết sống thung dung, phúc hậu, thanh thản, an nhiên tự tại, nhận ra kho báu vô giá của chính mình, không lo âu, không phiền muộn, sống với tinh thần dịu hiền và trái tim nhẹ nhõm.
        Minh triết sống thung dung phúc hậu.

        Bài giảng đầu tiên của Phật

        Tứ Diệu đế – Sự khổ: Nguyên nhân, Kết quả và Giải pháp – là bài giảng đầu tiên của Phật (Thích ca Mầu ni -Siddhartha Gamtama), nhà hiền triết phương đông cổ đại. Người là hoàng tử Ấn Độ, đã có vợ con xinh đẹp nhưng trăn trở trước sự đau khổ, thiếu hoàn thiện và vô thường (Dukkha) của đời người mà Phật đã xuất gia vào năm hai mươi chín tuổi để đi tìm sự giác ngộ. Người đã dấn thân suốt sáu năm trời tự mình đi tìm kiếm những vị hiền triết nổi tiếng khắp mọi nơi trong vùng để học hỏi và thực hành những phương pháp khác nhau nhưng vẫn chưa đạt ngộ. Cho đến một buổi chiều ngồi dưới gốc bồ đề, thốt nhiên Người giác ngộ chân lý mầu nhiệm lúc ba mươi lăm tuổi. Sau đó, Người đã có bài giảng đầu tiên cho năm người bạn tu hành. Mười năm sau, Phật thuyết pháp cho mọi hạng người và đến 80 tuổi thì mất ở Kusinara (Uttar Pradesh ngày nay). Học thuyết Phật giáo hiện có trên 500 triệu người noi theo.

        Bài giảng đầu tiên của Phật là thấu hiểu sự khổ (dukkha), nguyên nhân (samudaya), kết quả (nirodha) và giải pháp (magga). Tôn giáo được đức Phật đề xuất là vụ nổ Big Bang trong nhận thức, san bằng mọi định kiến và khác hẵn với tất cả các tôn giáo khác trước đó hoặc cùng thời trong lịch sử Ấn Độ cũng như trong lịch sử nhân loại. Phật giáo chủ trương bình đẳng giai cấp, bình đẳng giữa con người có máu cùng đỏ, nước mắt cùng mặn, hết thảy các pháp là vô ngã. Mục đích là vô ngã là sự chấm dứt đau khổ và phiền muộn để đạt sự chứng ngộ bất tử, Niết bàn.

        Kinh Phật với triết lý vô ngã: Chân lý là suối nguồn, chứ không phải là con người thần thánh hoặc chân lý tuyệt đối. Vị trí độc đáo của Phật giáo là một học thuyết mang đầy đủ tính cách mạng tư tưởng và cách mạng xã hội. Tiến sĩ triết học Walpola Rahula là giáo sư Trường Đại học Tổng hợp Ceylan (Pháp) đã tìm tòi văn bản cổ và giới thiệu tài liệu nghiêm túc, đáng tin cậy này (Lời Phật dạy. Lê Diên biên dịch).

        Suối nguồn tươi trẻ Thiền tông

        ‘Bất lập văn tự. Giáo ngoại biệt truyền.
        Trực chỉ nhân tâm. Kiến tánh thành Phật’. Không lập giáo điều, truyền dạy ngoài sách, vào thẳng lòng người, giác ngộ thành Phật Thiền sư Bồ-đề-đạt-ma (?-532) đã nêu ra triết lý căn bản Thiền tông để Dạy và Học.Thiền tông Phật giáo Đại thừa nguồn gốc từ đức Phật Thích-ca Mâu-ni đã đạt được sự giác ngộ dưới gốc cây Bồ-đề ở Ấn Độ. Thiền sư Bồ-đề-đạt-ma là Tổ sư Ấn Độ đời thứ 28 đã truyền bá và phát triển Thiền tông lớn mạnh tại Trung Quốc. “Thiền” nhấn mạnh  kinh nghiệm thực tiễn chứng ngộ ‘trực chỉ nhân tâm, kiến tính thành Phật’ . Nhà Ấn Độ học và Phật học người Đức Hans Wolfgang Schumann trong tác phẩm Đại thừa Phật giáo (Mahāyāna-Buddhismus) đã viết:“Thiền tông có một người cha Ấn Độ nhưng đã chẳng trở nên trọn vẹn nếu không có người mẹ Trung Quốc.Cái ‘dễ thương’,cái hấp dẫn của Thiền tông chính là những thành phần văn hoá nghệ thuật, những đặc điểm sắc thái riêng của Trung Quốc, không phải của Ấn Độ. Những gì Phật giáo mang đến Trung Quốc, với tư tưởng giải thoát tuyệt đối, trình bày một cách nghiêm nghị khắt khe với một ngón tay trỏ chỉ thẳng, những điều đó được các vị Thiền sư thừa nhận, hấp thụ với một nụ cười thầm lặng đầy thi vị. Thành tựu lớn lao của các Đại luận sư Ấn Độ là nhét ‘con ngỗng triết lý’ vào cái lọ ‘ngôn từ, thì  chính nơi đây tại Trung Quốc, con ngỗng này được thả về với thiên nhiên mà không hề mang thương tích.” Thiền tông là sự “truyền pháp ngoài kinh điển” đạt ‘giác ngộ tức thì’ tại đây, ngay lúc này, chứng ngộ ‘kiến tính thành Phật’ do bản ngã chân tính và nhân duyên. Phật Thích Ca trên núi Linh Thứu im lặng đưa lên cành hoa, Thiền sư Ca Diếp mỉm cười thấu hiểu và đức Phật Thích Ca đã ấn chứng cho Thiền sư Ca Diếp là Sơ tổ của Thiền tông Ấn Độ.

        Thiền tông Việt Nam có từ rất sớm tại Luy Lâu do Thiền tông Ấn Độ truyền bá vào Việt Nam trước tiên ở thế kỷ thứ 2 và thứ 3, rước cả Trung Quốc (thế kỷ thứ 6) Nhật Bản (thế kỷ 11, 12) và các nước châu Á khác. Các Sơ Tổ Thiền tông Việt Nam là thiền sư Khương Tăng HộiMâu Tử. Thiền tông Việt Nam nguồn gốc lâu đời trong lịch sử Việt Nam và phát triển rực rỡ nhất thời nhà Trần với Thiền phái Trúc Lâm.  Trần Nhân Tông (Trần Khâm 1258- 1308) là vua Phật đời Trần (sau vua cha Trần Thánh Tông và trước vua Trần Anh Tông). Người là tổ sư Trúc Lâm Yên Tử, nhà chiến lược kỳ tài, nhà văn hóa kiệt xuất, nhà thơ lớn Con Người Hoàn Hảo dân tộc Việt Nam. Người đã viết: Cư trần lạc đạo, triêt lý nhân sinh rất nổi tiếng “Ở đời vui đạo, mặc tùy duyên/ Hễ đói thì ăn, mệt ngủ liền/ Kho báu trong nhà thôi tìm kiếm/ Vô tâm đối cảnh hỏi chi thiền.

        Trúc Lâm Yên Tử, Trần Nhân Tông

        Trần Nhân Tông (Trần Khâm 1258- 1308) là vua Phật đời Trân (sau vua cha Trần Thánh Tông và trước vua Trần Anh Tông). Người là tổ sư Trúc Lâm Yên Tử, nhà chiến lược kỳ tài, nhà văn hóa kiệt xuất, nhà thơ lớn và Con Người Hoàn Hảo của dân tộc Việt Nam. Người đã viết: Cư trần lạc đạo, triêt lý nhân sinh rất nổi tiếng “Ở đời vui đạo, mặc tùy duyên/ Hễ đói thì ăn, mệt ngủ liền/ Kho báu trong nhà thôi tìm kiếm/ Vô tâm đối cảnh hỏi chi thiền.”

        Trần Nhân Tông với 50 năm cuộc đời đã kịp làm được năm việc lớn không ai sánh kịp trong mọi thời đại của tất cả các dân tộc trên toàn thế giới: Minh quân lỗi lạc, làm vua 15 năm (1278 – 1293) trực tiếp lãnh đạo cuộc kháng chiến hai lần đánh thắng quân Nguyên Mông là đội quân xâm lược hùng mạnh nhất thế giới của thời đó; Vua Phật Việt Nam, tổ sư thiền phái Trúc Lâm Yên Tử và Thái Thượng Hoàng 15 năm (1294-1306). Nhà văn hóa và nhà thơ kiệt xuất với thắng tích Trúc Lâm Yên Tử và kiệt tác Trần Nhân Tông còn mãi với thời gian, hoàn thành sư mệnh của bậc chuyển pháp luân, mang sự sống trường tồn vươt qua cái chết; Người Thầy của chiến lược vĩ đại yếu chống mạnh, ít địch nhiều bằng thế đánh tất thắng “vua tôi đồng lòng, toàn dân đồng sức”tạo lập sự nghiệp mở nước và thống nhất non sông Việt, mở đất phương Nam bằng vương đạo, thuận thời, thuận người; Con người hoàn hảo, đạo đức trí tuệ, kỳ tài trị loạn, đã hưng thịnh nhà Trần và cứu nguy cho nước Việt tại thời khắc đặc biêt hiểm nghèo, chuyển nguy thành an, biến những điều không thể thành có thể.

        Giáo sư sử học Trần Văn Giàu nhận định: “… chưa tìm thấy lịch sử nước nào có một người đặc biệt như Trần Nhân Tông ở Việt Nam. Tại nước Tàu lúc bấy giờ Triều đình nhà Tống rất hùng mạnh nhưng quân Nguyên Mông đã tràn xuống đánh thắng thần tốc, đến nỗi vua quan nhà Tống phải chạy ra biển và nhảy xuống biển tự vẫn. Tại Tây Á, Trung Á và một phần châu Âu cũng thua thảm hại, đến nỗi Giáo hoàng La Mã cũng lên tiếng sợ hãi. Trong lúc ấy Việt Nam so với phương Bắc thì quá nhỏ bé và quá nghèo yếu, thế mà Người dám không cho Nguyên Mông mượn đường xâm lược Chiêm Thành. Lại còn đánh bại ba lần Nguyên Mông xâm lược. Sau khi thắng giặc, Người lại lên núi sống. Người dám nghĩ, dám làm những việc không ai dám nghĩ chứ đừng nói đến làm”

        Phật giáo Khoa học và Việt Nam

        Nhà bác học Anhstanh, cha đẻ của Thuyết tương đối, đã nhận định: “Nếu có một tôn giáo nào đương đầu với các nhu cầu của khoa học hiện đại thì đó là Phật giáo. Phật giáo không cần xét lại quan điểm của mình để cập nhật hóa với những khám phá mới của khoa học. Phật giáo không cần phải từ bỏ quan điểm của mình để xu hướng theo khoa học, vì Phật giáo bao hàm cả khoa học cũng như vượt qua khoa học” . “Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo toàn cầu, vượt lên trên mọi thần linh, giáo điều và thần học. Tôn giáo ấy phải bao quát cả phương diện tự nhiên lẫn siêu nhiên, đặt trên căn bản của ý thức đạo lý, phát xuất từ kinh nghiệm tổng thể gồm mọi lĩnh vực trên trong cái nhất thể đầy đủ ý nghĩa. Phật giáo sẽ đáp ứng được các điều kiện đó” . “Khoa học mà thiếu tôn giáo là khập khiễng. Tôn giáo mà không có khoa học thì mù quáng” . Cả ba câu này đều được trích từ Những câu nói nổi tiếng của Anhstanh (Collected famous quotes from Albert), và được dẫn lại trong bài Minh triết sống thung dung phúc hậu của Hoàng Kim

        Khoa học và thực tiễn giúp ta tìm hiểu những phương pháp thực tế để thể hiện ước mơ, mục đích sống của mình nhằm sống yêu thương, hạnh phúc,vui khỏe và có ích. Đọc rất kỹ lại Ki tô giáo, Hồi giáo,Do Thái giáo,Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo, … và chiêm nghiệm thực tiễn , tôi thấm thía câu kinh Phật với triết lý vô ngã: Chân lý là suối nguồn chứ không phải là con người thần thánh hay chân lý tuyệt đối. Trúc Lâm Yên Tử Trần Nhân Tông có minh triết: Hãy quay về tự thân chứ không tìm ở đâu khác. Luật Hấp Dẫn, Thuyết Tương đối, Thành tựu Khoa học và Thực tiễn giúp ta khai mở nguồn năng lượng vô tận của chính bản thân con người và thiên nhiên. Đó là ba ngọn núi cao vọi của trí tuệ, là túi khôn của nhân loại. Bí mật Tâm linh (The Meta Secret) giúp ta khám phá sâu sắc các quy luật của vũ trụ liên quan đến Luật Hấp Dẫn đầy quyền năng. Những lời tiên tri của các nhà thông thái ẩn chứa trong Kinh Vệ đà, Lời Phật dạy, Kinh Dịch, Kinh Thánh, Kinh Koran …, cũng như xuyên suốt cuộc đời của những con người vĩ đại trên thế giới đã được nghiên cứu, giải mã dưới ánh sáng khoa học; Bí mật Tâm linh là sự khai mở những nguồn năng lượng vô tận của chính bản thân mỗi con người đối với đồng loại, các loài vật và thiên nhiên. Suối nguồn chân lý trong di sản văn hóa, lịch sử, giáo dục, kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao của mỗi dân tộc và nhân loại lưu giữ nhiều điều sâu sắc cần đọc lại và suy ngẫm.Qua đèo chợt gặp mai đầu suối. Gốc mai vàng trước ngõ.

        Việt Nam là chốn tâm thức thăm thẳm của đạo Bụt (Phật giáo) trãi suốt hàng nghìn năm. Lịch sử Phật giáo Việt Nam theo sách Thiền Uyển tập anh xác nhận là đạo Phật được truyền trực tiếp từ Ấn Độ theo đường biển vào Việt Nam, gồm Giao Chỉ ở phía bắc và Chăm pa ở phía nam, khoảng thế kỉ thứ ba đến thế kỉ thứ hai trước Công nguyên, chứ không phải từ Trung Hoa như một số quan niệm trước đây. Phật giáo đồng hành chung thủy, lâu bền với dân tộc Việt, dẫu trãi nhiều biến cố nhưng được dẫn dắt bởi những nhà dẫn đạo sáng suốt và các đấng minh vương, lương tướng chuộng nhân ái của các thời nên biết thể hiện sự tốt đạo, đẹp đời. Việt Nam là nước biết tiếp thu, chắt lọc tri thức tinh hoa của nhân loại, chuộng sự học, đồng thời biết quay về với tự thân tổng kết thực tiễn, chứ không tìm ở đâu khác.

        Việt Nam, Khoa học và Phật giáo là ba nhận thức căn bản của tôi.

        Bản chất cuộc sống là hạnh phúc và đau khổ, vui vẻ và phiền muộn, sự thiếu hoàn thiện và vô thường. Minh triết của đời người hạnh phúc là biết sống thung dung, phúc hậu, thanh thản, an nhiên tự tại, nhận ra kho báu vô giá của chính mình, không lo âu, không phiền muộn, sống với tinh thần dịu hiền và trái tim nhẹ nhõm

        Hoàng Kim

        Bulukhin ngày 03.10.2013 lúc 10:56 nói:

        Nếu thầy Thích Phổ Tuệ ấn chứng bạch ngọc (hạt gạo trắng ngần) thì cứ để nguyên vậy.

        Thiển nghỉ của Bu thì có khác chút xíu. Bạch Ngọc là ngọc trắng thì chưa nói chi đến hạt gạo cả.

        Thực ra hạt gạo không trắng thậm chí gạo lứt thì dinh dưỡng nhiều hơn gạo trắng. Bu được biết người Mỹ chế ra máy xát gạo trắng sau đó thấy là sai lầm bèn chế ra một thứ bột cho vào gạo để bù lại phần cám đã mất đi. Nhưng khi nấu cơm người ta vo gạo thì bột đó lại mất đi.

        Dân gian nói hạt gạo là ngọc trời cho, trong trường hợp này là MỄ NGỌC.

        Đấy cũng là nói cho vui.

        HOA LÚA GIỮA ĐỒNG XUÂN
        Hoàng Kim

        Bao năm Trường Viện là nhà
        Sắn khoai ngô lúa đều là thịt xương
        Một đời người một rừng cây
        Thầy ươm giống tốt để mai thành rừng.

        Con theo Người nguyện làm Hoa Lúa
        Bưng bát cơm đầy quý giọt mồ hôi
        Trọn đời vì Dân mến thương hạt gạo
        Hoa quê hương hạt ngọc trắng ngần.

        Con thăm Thầy
        lên non thiêng Yên Tử


        Về đất lành chùa Giáng (*) giữa đồng xuân
        Thơm hương lúa ngậm đòng chăm bón đúng
        Ngát gương sen lồng lộng bóng trúc mai

        Lẫn với cỏ không tranh đua hương vị
        Không màng ngôi ngự trị các loài hoa
        Hoa Lúa đượm hồn quê dung dị
        Quên sắc
        hương để lộng lẫy Hoa Người ! ” (**)

        Con nguyện ước nối đời theo hạt gạo
        Chén cơm ngon thơm bếp lửa gia đình
        Thầy Trò cùng chung tay làm việc thiện
        Sống trọn tình với giấc mơ xanh.

        xem tiếp: Hoa Lúa giữa Đồng Xuân
        https://hoangkimlong.wordpress.com/category/hoa-lua-giua-dong-xuan

        NHỚ VIÊN MINH HOA LÚA
        Hoàng Kim


        Tay men bệ đá sân chùa
        Tổ tiên cha mẹ đều xưa chốn này
        Đình làng chùa cũ nơi đây
        Nuôi đêm phúc ấm dưỡng ngày nhân sinh

        Mình về với đức Viên Minh
        Thơm hương Xem tiếp >>

          Dạy và học 20 tháng 10(20-10-2021)


        DẠY VÀ HỌC 20 THÁNG 10
        Hoàng Kim
        CNM365 Tình yêu cuộc sốngNgày mới lời yêu thươngNgày nhớ trong tim tôi; Đêm Vu Lan thương chị; Bài ca yêu thương; Thắp đèn lên đi em; Ngẫm thơ ngoài ngàn năm; An Viên Phước Hoàng Gia; Thung dung; Ngày 20 tháng 10 là ngày Phụ Nữ Việt Nam, (năm 1930, Hội Phụ nữ Việt Nam chính thức được thành lập) Ngày 20 tháng 10 năm 1819 là ngày sinh của Báb người sáng lập tôn giáo Baha’i “Người noi theo vinh quang của Thượng đế”, Tôn giáo Baha’i ra đời năm 1863 tại Ba Tư, là Iran ngày nay, với khoảng 7 triệu tín đồ ở 235 quốc gia và vùng lãnh thổ. Cộng đồng tôn giáo Bahá’í Việt Nam hiện có hơn 8.000 tín đồ phân bố ở 45 tỉnh/ thành phố. Ngày 20 tháng 10 năm 1935, cuộc Vạn lý Trường chinh kết thúc. Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc và Phương diện quân số 1 đã đến được miền bắc của tỉnh Thiểm Tây. Đây là một cuộc chuyển quân vĩ đại 12.000 km nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc và thế giới. Bài chọn lọc ngày 20 tháng 10: Ngày mới lời yêu thươngNgày nhớ trong tim tôi; Đêm Vu Lan thương chị; Bài ca yêu thương; Thắp đèn lên đi em; Ngẫm thơ ngoài ngàn năm; An Viên Phước Hoàng Gia; Thung dung; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/ và http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-20-thang-10/.

        This image has an empty alt attribute; its file name is bai-ca-yeu-thuong-1a.jpg

        NGÀY MỚI LỜI YÊU THƯƠNG
        Hoàng Kim


        Bài ca yêu thương là thơ hoa hồng
        Đỏ của máu và xanh hi vọng.
        Ngày nhớ trong tim tôi
        Ngày mới nhớ về mạch sống.

        Ngày Mẹ Cha vào chính ngày này
        Ngày 29 tháng 8 âm lịch năm xưa
        19 và 20 tháng 10 dương lịch hôm nay
        ‘Lời nguyền’ nhắc chúng con cố gắng:

        Tổ tiên công đức muôn đời thịnh
        Con cháu thảo hiền vạn kiếp vinh
        Minh Lệ Hưng Long hai bầu sữa
        Hoàng gia phúc hậu một con đường

        ĐÊM VU LAN THƯƠNG CHỊ
        Hoàng Kim

        Chẳng thể nào ngủ được đêm nay
        Đêm Vu Lan mờ tỏ
        Trăng rằm khuya lồng lộng giữa trời
        Thăm thẳm một lời Người nói …

        Mẹ cũ như ngôi nhà cũ
        Chiếc áo mẹ mang bạc phếch tháng năm
        Cha cũ như con thuyền cũ
        Dòng sông quê hương thao thiết đời con

        Anh chị cũ tình vẹn nghĩa
        Trọn đời thương nhau lồng lộng
        trăng rằm
        Em tôi hồn quê dáng cũ
        Con cháu niềm vui thương thảo tháng năm.

        Thầy bạn lộc xuân đầy đặn
        Bài ca thời gian ngời ngợi trăng rằm.

        Thắp đèn lên đi em

        Đêm Vu Lan gặp bạn
        Thương nhớ bài thơ cũ
        Chuyện đời không nỡ quên …

        Ngày mới và đêm Vu Lan
        Vầng trăng Sao Hôm
        Sao Kim thân thiết.
        Loanh quanh tìm tòi cái mới
        Đêm Vu Lan thức về lại chính mình.

        Đêm Vu Lan nhớ mùa thu đi học
        Nhớ ngọn đèn mờ tỏ giấc mơ xưa
        Thương con vạc gọi sao mai mọc sớm
        Vầng trăng khuya thăm thẳm giữa tâm hồn

        Thắp đèn lên đi em (1)
        Gốc mai vàng trước ngõ (2)
        Tháng bảy mưa ngâu (3)
        Đến chốn thung dung (4)

        Đối thoại với Thiền sư (5)
        Giấc mơ lành yêu thương (6)
        Đêm Vu LanThơ về Mẹ (7)
        Hoa Đất (8) Hoa Người (9)

        Đêm Vu Lan nhớ bài thơ đi học
        Thấm nhọc nhằn củ sắn củ khoai
        Nhớ tay chị gối đầu khi mẹ mất
        Thương lời cha căn dặn học làm người

        xem tiếp Đêm Vu Lan thương chị Thông tin tại http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-20-thang-10/

        THƯƠNG CHỊ
        Hoàng Kim

        Mấy chục năm rồi chị chẳng thơ
        Lương Y Từ Mẫu cả trong mơ
        Bùi ngùi em nhớ ngày xưa ấy
        Kỷ niệm theo em mãi đến giờ.
        Em đi dạy học thấu nhân văn
        Cày ruộng cha trao biết kiệm cần
        ‘Ôn cũ hiểu nay’ em phải nói
        Thương nghe lời chị, chị yên tâm.

        LỜI CỦA CHỊ DẠY EM
        Huyen Hoang

        Khó thì mặc khó nghèo mặc nghèo …

        Chào ngày mới yêu thương

        THƠ CHO CON
        Hoàng Kim

        ... 20 tháng 10 ngày ông Mỹ giết ...
        Ngày mà cửa nhà tan nát
        Đói nghèo Bác dắt dìu cha
        Tuổi thơ thì bắt ốc mò cua
        Lớn một chút trồng khoai dạy học
        Qua danh lợi hiểu vinh, hiểu nhục
        Trãi đói nghèo biết nghĩa biết ân
        (
        đọc tiếp… https://hoangkimlong.wordpress.com/category/hoang-kim-tho-cho-con/)

        THẮP ĐÈN LÊN ĐI EM !
        Hoàng Kim

        Em đã học nhiều gương sáng danh nhân
        Hãy biết nhục, biết hèn mà lập chí
        Thắp đèn lên đi em, ngọn đèn dầu bền bỉ
        Sáng giữa đời lấp lánh một niềm tin.

        Thắp đèn lên đi em!
        Xua tăm tối, giữa đêm trường ta học
        Vũ trụ bao la đèn em là hạt ngọc
        Cùng sao khuya soi sáng mảnh đất này
        Dù sớm chiều em đã học hăng say
        Dù ngày mệt chưa một hồi thanh thản
        Đèn hãy thắp sáng niềm tin chiến thắng
        Em thắp đèn lên cho trang sách soi mình.

        Thắp đèn lên đi em!
        Xua tăm tối giữa đêm trường ta học
        Em đâu chỉ học bằng ánh mắt
        Mà bằng cả lòng mình, cả khối óc hờn căm
        Thù giặc giết cha, bom cày sập tung hầm
        Nhà tan nát, sân trường đầy miệng hố
        Hãy học em ơi, dù ngày có khổ
        Lao động suốt ngày em cần giấc ngủ ngon
        Nhưng đói nghèo đâu có để ta yên
        Và nghị lực nhắc em đừng ngon giấc
        Nợ nước thù nhà ngày đêm réo dục
        Dậy đi em, Tổ quốc gọi anh hùng.

        Thắp đèn lên đi em!
        Xua tăm tối giữa đêm trường ta học
        Mặc cho gió đêm nay lạnh về tê buốt
        Tấm áo sờn không đủ ấm người em
        Vùng dậy khỏi mền, em thắp ngọn đèn lên
        Để ánh sáng xua đêm trường lạnh cóng
        Qua khổ cực càng yêu người lao động
        Trãi đói nghèo càng rèn đức kiên trung
        Em đã đọc nhiều gương sáng danh nhân
        Hãy biết nhục, biết hèn mà lập chí
        Thắp đèn lên đi em, ngọn đèn dầu bền bỉ
        Sáng giữa đời lấp lánh một niềm tin.

        Thắp đèn lên đi em!

        Hoàng Kim

         

        BÀI CA YÊU THƯƠNG
        Hoàng Kim

        Thương nước biết ơn bao người ngọc
        Vì dân qua bến nhẹ tênh lòng
        Nhớ bao tài đức đời thanh thản
        Ân tình lưu dấu những dòng sông.

        Linh Giang Kỳ Lộ tới Đồng Nai
        Mỗi chốn đều ghi chuyện cảm hoài
        Đá Bia núi Nhạn vùng huyền thoại
        Nam Tiến ân tình thương nhớ ai.

        Vì nước đâu nề cảnh biệt ly
        Nghìn trùng thăm thẳm buổi ra đi
        Thanh Lương an tĩnh hiền thoát tục
        Lương Chánh thanh nhàn đức từ bi

        Chí thiện cha nêu gương trung hiếu
        Yêu thương người chấp mọi thị phi
        Chuông chùa vang vọng niềm an lạc
        Sông núi trời Nam mãi mãi ghi.

        Trúc Lâm thăm thẳm đức Hoàng Thành
        A Na bà chúa Ngọc Phương Nam
        Đất phú trời yên người hạnh phúc
        Hồn Việt đường vui tới cõi hiền.

        Huyền Trân công chúa Đại Việt kết duyên với vua Chế Mân Chiêm Thành nhiều người cho rằng đó là mưu lược chính trị nhờ vậy mà Đại Việt thêm được hai châu Ô Lý. Sự thật đó là một liên minh của dân tộc Việt mà nếu không thành thì hai nước khó có thể tồn tại. Chế Mân là vị vua Chiêm Thành trong hoàn cảnh đất nước bị đế quốc Angkor sát nách luôn muốn thôn tính và vó ngựa quân Nguyên Mông đang thần tốc tràn xuống phương Nam. Ông đã bỏ qua vinh nhục bản thân nhiều lần tỏ lòng thành liên kết với Đại Việt bằng cách dâng lễ vật là hai châu Ô Lý để xin cầu hôn với Huyền Trân công chúa con vua Trần Nhân Tông. Hai châu Ô Lý thực chất là chiến phí cho công cuộc liên kết kháng chiến chống kẻ địch mạnh đến cướp đất cướp dân, trả ơn cho Đại Việt đã hai lần gánh chịu tổn thất nặng nề làm tiền phương chống trả quân Nguyên Mông, cản đường của kẻ đã lấy cớ mượn đường Đại Việt để đánh Chiêm Thành.

        Chế Mân là vị vua anh minh ưu tú xứng đáng và thực lòng yêu thương Huyền Trân. Các vị vương mưu lược tài năng và các danh thần triều Trần hiểu rõ vận nước và sự chân thành đó của ông nên mới tán đồng cuộc hôn nhân, khi công chúa Huyền Trân đã bén duyên Trần Khắc Chung và mang ơn cứu mạng của chàng đối với cả cha và con trong trận chiến đẫm máu mà hai vua Trần và Huyền Trân xuýt bị giết. Thiết tưởng việc dành sự trong trắng của một cô gái đang độ xuân thì phải lìa bỏ người yêu để dấn thân cứu nạn nước và thực tâm yêu người khác làm chồng đó là một sự hi sinh lớn lao. Hậu thế cần một đánh giá công bằng đối với Chế Mân và Huyền Trân để thấu hiểu trọn vẹn những uẩn khúc sau này lúc Huyền Trân đi tu, thực thấu hiểu cuộc tình duyên nổi tiếng này trong lịch sử.

        Tác giả Sao Khuê trong bài “Cảm nhận Huyền Trân” đã cho rằng: “Công chúa Huyền Trân là người đoan chính, chuyện bà tư thông với danh tướng Trần Khắc Chung là vô lý. Có năm lý do để Sao Khuê tin như thế, vì:

        1) Trần Nhân Tông là một vị vua lỗi lạc từng lập kỳ tích chiến thắng quân Nguyên 2 lần. Sau đó khi còn rất trẻ đã từ bỏ danh lợi, thoái vị trao ngai vàng lại cho con mà xuất gia quy y Phật pháp, trở thành tôn sư sáng lập một Thiền phái Phật giáo. “Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh” – Có người cha anh hùng xuất chúng như thế thì Công chúa Huyền Trân khó thể là đứa con hư hỏng làm ô danh hoàng tộc.

        2) Trần Khắc Chung là công thần qua mấy đời vua. Làm quan đến chức Nhập Nội Hành Khiển, Thượng Thư Tả Bộc Xạ (tương đương Tể Tướng). Công lao to tát đến độ được vua cho đổi sang quốc tính (họ Trần) – Xét về tuổi tác, luận về danh tiếng, đức độ…thì không lý gì ông lại làm ra chuyện xấu xa cùng Công chúa Huyền Trân để thân bại danh liệt.

        3) Trên chuyến vượt thoát về Đại Việt ngoài Trần Khắc Chung còn có nhiều người khác (như An phủ sứ Đặng Vân và quân lính tùy tùng…) chứ không chỉ có Trần Khắc Chung và Công chúa Huyền Trân hai người…

        4) Nếu là chuyện xấu xa thì tại sao những vị Vương Tướng cương trực cùng thời với Trần Khắc Chung (như Trần Hưng Đạo, Trần Quang Khải, …) không ai có thái độ gì?

        5) Ngoài ra, còn bởi một lẽ riêng tư (mà Sao Khuê cho là rất quan trọng): Khi trốn khỏi Chiêm Thành thì hoàng tử Chế Đa Đa do Công chúa Huyền Trân hạ sinh mới vừa được mấy tháng tuổi không thể mang theo cùng! Lúc đó bà chẳng những là một người vợ vừa mất chồng mà còn là một người mẹ phải đoạn lìa núm ruột của mình. Sao Khuê cùng phận nữ, vô cùng cảm thương cho Công chúa Huyền Trân nên có thơ

        CẢM PHẬN HUYỀN TRÂN

        Ô, Rí năm nào đổi biệt ly
        Huyền Trân Công Chúa bước vu qui
        Ba sinh chưa vẹn đà tan tác
        Hương lửa đang nồng vội thảm bi!
        Đại Việt cướp người thuyền vượt lướt
        Chiêm Thành ôm hận ngựa cuồng phi
        Kiên trinh há thẹn dòng Long Phụng
        Trung Đẳng (*) lòng son sử sách ghi!

        (*) Sau này Công chúa Huyền Trân chẳng những được dân chúng lập miếu thờ phượng vì linh ứng, mà còn được nhiều đời vua xưng tụng là Thần hộ quốc. Vào năm Khải Định thứ chín đã chính thức sắc phong bà là “Trai Tĩnh Trung Đẳng thần”.

        Hoàng Kim có “bài thơ yêu thương” họa vần”Cảm phận Huyền Trân”. Huyền Trân mang ơn cứu mạng của Lê Phụ Trần xả thân cứu cha và con trong cuộc chiến đẫm máu nhưng vẫn chấp nhận gác tình riêng vì NƯỚC NON NGÀN DẶM RA ĐI. Có Cha ấy và có Con ấy, dân tộc Việt thật là hồng phúc ! Tôi tâm đắc với câu trả lời của GS Trần Văn Giàu trước câu hỏi “Chúng ta có nên đề cập đến vấn đề châu Ô châu Rí không? GS. Trần Văn Giàu đã trả lời: “Có lúc nói, có lúc không. Chúng ta dựa vào lịch sử để nói, nhưng chúng ta không nên đi quá nhiều về lịch sử, bây giờ thì không cần nói vấn đề đó. Qua lịch sử, chúng ta nói về những vấn đề vượt lên trên lịch sử. Qua lịch sử ta nói đến con người, nhân cách của Người. Từ nhân cách ấy, cho ta thấy nhân cách của một dân tộc. Một đất nước sản sinh ra được một con người có một không hai trên thế giới, thử hỏi đất nước ấy và dân tộc ấy có đặc biệt hay không?”

        Giáo sư Tôn Thất Trình đã nhận xét thật sâu sắc và chí lý, đại ý: Văn học Việt Nam hội nhập toàn cầu thiếu những tác phẩm lớn đích thực như “Chiến tranh và Hòa bình” của Lev Tonstoy để xây dựng nên hình tượng Natasa bản tính Nga, chứ huyền sử Việt không thiếu những biểu tượng cảm động như Huyền Trân công chúa và đất phương Nam. Chúng ta chưa đủ tầm để thấu hiểu lịch sử văn hóa Việt đó thôi”.

        Thu Bồn có bài thơ “Tạm biệt Huế” dữ dội và cảm động in trong “Một trăm bài thơ tình chưa kịp đặt tên” phảng phất huyền sử mối tình say đắm và quyết liệt của Chế Mân – Huyền Trân với sự hi sinh thầm lặng cao cả của bốn nhân vật huyền thoại Trần Nhân Tông – Chế Mân- Huyền Trân- Lê Phụ Trần, bừng sáng bình minh Yên Tử.

        TẠM BIỆT HUẾ
        Thu Bồn

        bởi vì em dắt anh lên những ngôi đền cổ
        nên chén ngọc giờ chìm dưới đáy sông sâu
        những lăng tẩm như hoàng hôn chống lại ngày quên lãng
        mặt trời vàng và mắt em nâu

        xin chào Huế một lần anh đến
        để ngàn lần anh nhớ hư vô
        em rất thực nắng thì mờ ảo
        xin đừng lầm em với cố đô

        áo trắng hỡi thuở tìm em không thấy
        nắng minh mang mấy nhịp Tràng Tiền
        nón rất Huế mà đời không phải thế
        mặt trời lên từ phía nón em nghiêng

        nhịp cầu cong và con đường thẳng
        một đời anh đi mãi chẳng về đâu
        con sông dùng dằng con sông không chảy
        sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu

        tạm biệt Huế với em là vĩnh biệt
        Hải Vân ơi xin người đừng tắt ngọn sao khuya
        tạm biệt nhé với chiếc hôn thầm lặng
        anh trở về hoá đá phía bên kia.

        Huế 1980

        Huế xưa và nay là nơi lưu dấu đức hi sinh cao cả vì nước của cha con vua Phật Trần Nhân Tông và công chúa Huyền Trân. Đền thờ công chúa Huyền Trân trong không gian Trung tâm Văn hóa Huyền Trân có không gian rộng 28 ha tọa lạc tại 151 đường Thiên Thai, phường An Tây, chân núi Ngũ Phong, cách trung tâm thành phố Huế khoảng 7 km. “núi không cần cao, có tiên ắt thiêng. Sông không cần sâu, rồng chầu thành nổi tiếng”… Đến cố đô Huế, tôi dạo chơi cùng Trần Văn Minh người bạn thân thuở nhỏ nay là giáo sư tiến sĩ nhà giáo nhân dân nguyên Hiệu trưởng Trường Đại học Nông Lâm Huế. Chúng tôi cùng thành kính ngưỡng mộ đức Nhân Tông và Huyền Trân Công Chúa, cùng lắng nghe thông xanh đàn Nam Giao trò chuyện và lắng nghe tiếng chuông hòa bình mờ tỏ trong mây trên đỉnh tháp núi Ngũ Phong của vùng Trung tâm Văn hóa Huyền Trân. Đây là nơi giao hòa Trời Đất và hương linh các bậc Thầy, những người con trung hiếu tận tụy hi sinh hết lòng vì Nước vì Dân. Tôi đã cảm khái viết bài thơ nhớ Thầy Nguyễn Khoa Tịnh:

        THẦY ƠI
        Hoàng Kim

        Thầy ơi, em nặng lòng với Huế
        Mừng duyên lành con em xe về miền Trung
        Nơi LỘC Khê Hầu NGUYÊN vẹn công nghìn năm mở cõi
        Với dòng sông Hương soi bóng núi Ngự Bình.

        Huế là cố đô Nhà Nguyễn trãi mười đời chúa mười ba đời vua, từ khi Nguyễn Hoàng vào trấn thủ vùng Thuận Hóa năm 1558, cai quản xứ Đàng Trong sáng lập và tạo dựng mười đời chúa Nguyễn trong hơn 2 thế kỷ và chỉ chấm dứt sau khi nhà Tây Sơn nổi dậy và đánh đổ cả hai tập đoàn Chúa Trịnh và Chúa Nguyễn vào cuối thế kỷ 18. Nhà Nguyễn được tiếp nối khi nhà Tây Sơn sụp đổ, vua Gia Long lên ngôi năm 1802 và chấm dứt triều Nguyễn khi hoàng đế Bảo Đại thoái vị vào năm 1945, với 143 năm.

        Thầy Nguyễn Khoa Tịnh thông xanh núi Huế là người thầy dạy nhân cách và lịch sử, khai sáng thế hệ chúng tôi. Tôi đã viết bài ‘Thầy bạn là lộc xuân cuộc đời‘ để tỏ lòng tri ân sâu nặng đối với người Thầy lớn và những thầy bạn mà tôi không thể có được ngày hôm nay nếu thiếu sự động viên, giúp đỡ này: “Em đã học nhiều gương sáng danh nhân. Hãy biết nhục, biết hèn mà lập chí. Thắp đèn lên đi em, ngọn đèn dầu bền bỉ. Sáng giữa đời lấp lánh một niềm tin”.

        Dân Việt đi như dòng sông về biển. Gia đình tôi cũng đi theo con đường Nam Tiến của dân tộc, từ Linh Giang dòng sông quê hương đến bao dòng sông thao thiết chảy. Chúng tôi đã đi từ Sông Thương, Sông Hồng, Sông Lam, Sông Nhật Lệ, Sông Thu Bồn, đến Sông Tiền, Sông Hậu, … từ Mekong nhớ Neva, Từ Sông Hương, Kỳ Lộ tới Đồng Nai… Những con sông tắm mát đời người.

        Huyền Trân, Ngọc Khoa, Ngọc Vạn là ba người Mẹ Việt đã chịu điều tiếng thị phi để tạo dựng cơ nghiệp muôn đời cho dân tộc Việt. Huyền Trân công chúa là con gái của vua Trần Nhân Tông đã vì “nước non ngàn dặm ra đi” kết duyên vợ chồng với vua Chế Mân đất phương Nam. Hai công nữ Ngọc Vạn và Ngọc Khoa là con gái của chúa Nguyễn Phúc Nguyên đã được chúa Nguyễn gả cho vua Chiêm Thành và vua Cao Miên “dùng chính sách hoà bình, thân thiện để kết hòa hiếu”. Năm 1620, Chúa Sãi gả Công Nữ Ngọc Vạn cho vua Cao Miên là Chư Chetta II (1618-1686) nên dân Việt đã vào làm ăn sinh sống thuận lợi tại vùng sông Đồng Nai Cù Lao Phố Biên Hòa ngày nay, thuộc đất Thủy Chân Lạp của Cao Miên. Năm 1631, Chúa Nguyễn Phúc Nguyên cũng lại gả Công Nữ Ngọc Khoa cho Vua Chiêm Thành Pô Romê. Dân Việt đã vào sinh cơ lập nghiệp ở kinh đô Chiêm Thành thời ấy tại ven sông Kỳ Lộ thuộc huyện Đồng Xuân, Tuy An ngày nay. Sông Kỳ Lộ dài 120 km, bắt nguồn từ vùng núi La Hiên cao trên 1000 m, vùng giáp ranh giữa Bình Định và Gia Lai, chảy theo hướng Tây Bắc – Đông Nam đổ ra cửa biển Tiên Châu ở Tuy An (Phú Yên), với một phân lưu đổ vào Đầm Ô Loan, nhờ vậy mà hai dân tộc Chiêm-Việt có được sự hoà hiếu” (Theo Nguyễn Phúc tộc Thế phả xuất bản ở Huế 1995).

        Tôi lưu một ghi chép nhỏ “Bài ca yêu thương” “Sông Hương, Kỳ Lộ tới Đồng Nai” để nhớ.

        Cuối dòng sông là biển.

        Hoàng Kim

        NGÀY MỚI LỜI YÊU THƯƠNG
        Hoàng Kim


        Khoác thêm tấm áo trời se lạnh
        Tâm bình vui bước tới an nhiên
        Phúc hậu mỗi ngày thêm việc thiện
        Yêu thương xa cách hóa gần thêm.

        xem tiếp
        https://hoangkimlong.wordpress.com/category/ngay-moi-loi-yeu-thuong/ và 418 bài thơ Thung dung https://hoangkimlong.wordpress.com/category/thung-dung

        DẠY VÀ HỌC https://hoangkimvn.wordpress.com
        ngày mới nhất bấm vào đây cập nhật mỗi ngày

        Video yêu thích

        Kỉ yếu Nong Lam University https://youtu.be/fIWlbwvM6oU

        https://youtu.be/dXApBvgUNBQ

        http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam

        Trở về trang chính
        Hoàng Kim Long, Ngọc Phương Nam, Thung dung, Dạy và Học, Việt Nam Học, Cây Lương thực Việt Nam, CNM365Tình yêu Cuộc sống, Kim on LinkedIn, Kim on Facebook, Kim on Twitter

        Xem tiếp >>

          Dạy và học 19 tháng 10(19-10-2021)


        DẠY VÀ HỌC 19 THÁNG 10
        Hoàng Kim
        CNM365 Tình yêu cuộc sốngNgày mới lời yêu thươngNgày nhớ trong tim tôi; Phạm Trung Nghĩa Viện Lúa, Ngẫm thơ ngoài ngàn năm; An Viên Phước Hoàng Gia; Thung dung; Thương mình thương thân; Ngày 19 tháng 10 năm 1975 là ngày mất của thầy Nguyễn Văn Huyên, giáo sư, tiến sĩ, nhà sử học, nhà dân tộc học, nhà giáo dục, nhà nghiên cứu văn hóa Việt Nam, nguyên Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục Việt Nam nhiệm kỳ 1946– 1975, người được coi là một trong những vị Bộ trưởng giáo dục thành công của Việt Nam. Ngày 19 tháng 10 năm 1935, cuộc Vạn lý Trường chinh của Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc và Phương diện quân số 1 đã đến được miền bắc của tỉnh Thiểm Tây. Đây là một cuộc chuyển quân vĩ đại 12.000 km nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc và thế giới. Ngày 19 tháng 10 năm 1469, nước Tây Ban Nha được hình thành do cuộc hôn nhân giữa Fernando II của Aragon với Isabella I của Castilla, cho phép Aragon và Castilla thống nhất thành một quốc gia đơn nhất. Bài chọn lọc ngày 19 tháng 10: Ngày mới lời yêu thươngNgày nhớ trong tim tôi; Phạm Trung Nghĩa Viện Lúa, Ngẫm thơ ngoài ngàn năm; An Viên Phước Hoàng Gia; Thung dung; Thương mình thương thân; Bài ca Trường Quảng Trạch; Em ơi can đảm lên; Lời Thầy luôn theo em; Borlaug và Hemingway; Lời Thầy dặn thung dung; Thơ thầy Hồ Ngọc Diệp; Giấc mơ thiêng cùng Goethe; Bài ca nhịp thời gian; Nguyễn Du trăng huyền thoại; Nguyễn Du tư liệu quý, Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.comhttp://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-19-thang-10/.

        NGÀY MỚI LỜI YÊU THƯƠNG
        Hoàng Kim


        Khoác thêm tấm áo trời se lạnh
        Tâm bình vui bước tới an nhiên
        Phúc hậu mỗi ngày chăm việc thiện
        Yêu thương xa cách hóa gần thêm.

        xem tiếp
        https://hoangkimlong.wordpress.com/category/ngay-moi-loi-yeu-thuong/ và 418 bài thơ Thung dung https://hoangkimlong.wordpress.com/category/thung-dung

        NGÀY NHỚ TRONG TIM TÔI
        Hoàng Kim

        Ngày nhớ trong tim tôi là ngày mất của cha tôi 29 tháng 8 âm lịch. Với gia đình tôi, ngày này là kỹ niệm không quên. Lịch Vạn Niên ngày dương lịch có thể đổi thay nhưng ý nghĩa của sự kiện vẫn vậy.  Ngày này cha tôi mất năm 1968 và thầy Hiệu trưởng Trần Đình Côn đã viết Bài ca Trường Quảng Trạch với những câu thơ đẫm nước mắt “Thương em cảnh gieo neo mẹ mất, lại cha già giặc giết hôm qua”. Hai mươi năm sau, ngày này năm 1988, tại phòng riêng của tôi ở CIMMYT Mexico, tôi bất ngờ được thầy Norman Borlaug, người đoạt giải Nobel hòa bình, cha đẻ cách mạng xanh, nhà bác học hàng đầu của nông nghiệp hiện đại tới thăm. Thầy đã dành trọn buổi chiều để trò chuyện và khai mở tâm thức cho tôi. Lời Thầy dặn thung dung thật thấm thía: “Việc chính đời người chỉ ít thôi. Chuyên tâm đừng bận chuyện trời ơi. Phúc hậu suốt đời làm việc thiện. Di sản muôn năm mãi sáng ngời”. “Đời người tối thiểu phải ăn, kế đến là học tập, công việc, nhà ở, quần áo và chăm sóc sức khỏe. Quanh ta còn nhiều mảnh đời bất hạnh. Hiểm họa nghèo đói vẫn bùng phát bất cứ lúc nào. Hãy luôn nhớ điều đó”; “Hãy vươn tới những vì sao. Cho dù không chạm được vào nó, nhưng nếu cố gắng hết sức, ít ra, chúng ta cũng chạm được những hạt bụi của ngôi sao”. “Thầy bạn là lộc xuân ”.

        29 tháng 8 âm lịch năm 2016 trùng ngày 29 tháng 9 kỷ niệm 50 năm thành lập CIMMYT, tôi nhớ đến cha tôi, người thầy và cũng là anh hai Hoàng Ngọc Dộ tần tảo thay cha mẹ nuôi em năm năm ngày một bữa, thầy Nguyễn Khoa Tịnh khóc trên bục giảng cùng thầy bạn nhường cơm xẻ áo cho tôi, thầy Mai Văn Quyền mà tôi viết trên trang cảm ơn của luận án tiến sĩ để nói lên tình cảm của tôi đối với thầy cô: “Ơn Thầy. Cha ngày xưa nuôi con đi học. Một nắng hai sương trên những luống cày. Trán tư lự, cha thường suy nghĩ. Phải dạy con mình như thế nào đây? Cha mất sớm, bom thù rung mặt đất. Cái chết giằng cha ra khỏi tay con. Mắt cha lắng bao niềm ao ước. Vẫn lo cho con đến phút cuối cùng. Giặc giết cha, cha chưa kịp thấy. Tương lai con đi, sự nghiệp con làm. Cha có biết, luống cày cha bỏ dỡ. Cha ngã xuống rồi trao lại tay con. Trên luống cày này, đường cày con vững. Bởi có dáng thầy thay bóng cha xưa. Hiểu mảnh đất máu đào cha nhuộm đỏ. Thôi thúc tim con học tập phút giờ …”.

        KimCIMMYT2
        KimCIMMYT4
        KimCIMMYT9
        KimCIMMYT7
        KimCIMMYT8
        KimCIMMYT5
        KimCIMMYT
        KimCIMMYT1

        Trong Thầy bạn là lộc xuân cuộc đời , tôi kể với thầy Norman Borlaug rằng cha tôi là một người nông dân phúc hậu, bình thường. Ông đã ngã xuống do bom Mỹ ngày 29 tháng 8 âm lịch năm Mậu Thân 1968 . Thầy Norman Borlaug đã bối rối xin lỗi tôi và thật bất ngờ tôi đã có được một buổi chiều vô giá riêng tư bên Thầy. Câu chuyện ấy tại đây

        “Thầy Norman Borlaug sống nhân đạo, làm nhà khoa học xanh nêu gương tốt. Thầy là nhà nhân đạo, nhà nông học Mỹ cha đẻ của cuộc cách mạng xanh được tặng giải Nobel và Tổng thống Mỹ trao tặng huân chương cao quý nhất của nước Mỹ, thế giới tôn vinh là nhà bác học số một của nhân loại trong  cuộc chiến chống nghèo đói. Thầy đã suốt đời nghiên cứu giảng dạy về chọn tạo và phát triển cây lương thực, góp phần cải thiện đời sống và nâng cao thu nhập cho hàng trăm triệu nông dân nghèo ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ Latinh. Thầy là người sáng lập Giải thưởng Lương thực Thế giới và tổ chức nhiều hoạt động thiết thực thắp sáng niềm tin yêu cuộc sống. Tôi được Thầy ghé thăm gần trọn buổi chiều tại phòng riêng ở CIMMYT, Mexico ngày 29. 8. âm lịch năm 1988. Thầy đã một mình ghé thăm người trò nhỏ duy nhất của châu Á trong lớp học “Quản lý Trung tâm/ Trạm trại Nông nghiệp”. Khi Thầy đến, tôi đang thắp nến trên giá sách trong phòng đề tưởng nhớ ngày cha mất. Biết cha tôi bị bom Mỹ giết hại tại làng nhỏ ở Quảng Bình của buổi chiều này hai mươi năm trước (1968) lúc tôi còn là học sinh trung học của Trường cấp Ba Bắc Quảng Trạch. Thầy bối rối xin lỗi và thật bất ngờ tôi đã có được một buổi chiều vô giá riêng tư bên Thầy”.


        Thầy Norman Borlaug nhắc tôi: Có những giá trị văn hóa hãy thức tỉnh. Lời Thầy dặn thật thấm thía: “ Đời người tối thiểu phải ăn, kế đến là học tập, công việc, nhà ở, quần áo và chăm sóc sức khỏe. Quanh ta còn nhiều mảnh đời bất hạnh. Hiểm họa nghèo đói vẫn bùng phát bất cứ lúc nào. Hãy luôn nhớ điều đó”; “
        Hãy vươn tới những vì sao. Cho dù không chạm được vào nó, nhưng nếu cố gắng hết sức, ít ra, chúng ta cũng chạm được những hạt bụi của ngôi sao”; “Việc chính đời người chỉ ít thôi. Chuyên tâm đừng bận chuyện trời ơi. Phúc hậu suốt đời làm việc thiện. Di sản muôn năm mãi sáng ngời”.

        Gốc mai vàng trước ngõ“Anh trồng gốc mai này cho em!” Anh cả của tôi trước khi mất đã trồng tặng cho tôi một gốc mai trước ngõ vào hôm sinh nhật Hoàng Long, con tôi, sinh đêm trước Noel, Hoàng Minh Hải, con trai anh, sinh ngày 26.12 và tôi sinh ngày 27.12, còn anh thì mất đúng đêm trăng rằm tháng giêng. Anh trò chuyện với anh Cao Xuân Tài bạn tôi, trong khi tôi cùng vài anh em đào huyệt và xây kim tỉnh cho anh. Nhìn anh bình thản chơi với các cháu, tôi nao lòng rưng rưng.

        Chưa bao giờ và chưa khi nào tôi thấm thía những bài thơ về hoa mai cuối mùa đông tàn bằng lúc đó. Anh ra đi đêm rằm xuân 1994 do căn bệnh ung thư hiểm nghèo khi các con anh còn thơ dại.

        Trên hai mươinăm sau, các con và cháu anh đều đã trưởng thành, nay về quây quần ôn chuyện cũ. Gốc mai vàng trước ngõ trở thành chuyện nhiều năm còn kể, noi ước nguyện của người anh cả mong các em và con cháu gìn giữ nếp nhà “khiêm nhu cần kiệm” như cốt cách của hoa mai.

        Sân trước một cành mai

        Bài kệ “Cáo tật thị chúng” (Cáo bệnh với đệ tử) của thiền sư Mãn Giác (1052 – 1096) trong Thiền Uyển Tập Anh và lời bình của anh về nhân cách người hiền, cốt cách hoa mai đã đi thẳng vào lòng tôi:

        Xuân khứ bách hoa lạc
        Xuân đáo bách hoa khai
        Sự trục nhãn tiền quá
        Lão tùng đầu thượng lai.
        Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
        Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.

        Xuân đi trăm hoa rụng
        Xuân đến trăm hoa cười
        Trước mặt việc đi mãi
        Trên đầu già đến rồi
        Đừng bảo xuân tàn hoa rụng hết
        Đêm qua sân trước một cành mai.

        (Bản dịch của Ngô Tất Tố)

        Khi Lâm Cúc và anh Đình Quang trao đổi về chủ đề hoa mai, mạch ngầm tâm thức trong tôi đã được khơi dậy như suối nguồn tuôn chảy. Thiền sư Mãn Giác viết bài kệ “Cáo tật thị chúng” khi Người 45 tuổi, sau đó Người đã an nhiên kiết già thị tịch. Bài thơ kiệt tác vỏn vẹn chỉ có sáu câu, ba mươi tư chữ, bền vững trãi nghìn năm. Đối diện với cái chết, thiền sư ung dung, tự tại, thấu suốt lẽ sinh tử: Đừng bảo xuân tàn hoa rụng hết / Đêm qua sân trước một cành mai.

        Lời thơ thanh thoát, giản dị một cách lạ lùng! Thực tế cuộc sống đã được hiểu đầy đủ và rõ ràng. Bản tính cuộc sống là hạnh phúc và đau khổ, vui vẻ và phiền muộn, sự thiếu hoàn thiện và luôn vô thường. Xuân đi trăm hoa rụng/ xuân đến trăm hoa cười/ trước mặt việc đi mãi/ trên đầu già đến rồi. Đó là qui luật muôn đời, hoa có tàn có nở, người có diệt có sinh. Hạnh phúc cuộc sống là phong thái luôn vui vẻ và sung sướng, thanh thản và thung dung, không lo âu, không phiền muộn. Sống với một tinh thần dịu hiền và một trái tim nhẹ nhõm.

        Tình yêu cuộc sống thể hiện trong ý xuân và trật tự các câu thơ.“Xuân đi trăm hoa rụng/ xuân đến trăm hoa cười” ẩn chứa triết lý sâu sắc hơn là “Xuân đến trăm hoa cười, xuân đi trăm hoa rụng ”. Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491–1585) trong bài thơ nôm “Chín mươi” có câu: “Chín mươi thì kể xuân đà muộn/ Xuân ấy qua thì xuân khác còn”. Tăng Quốc Phiên chống quân Thái Bình Thiên Quốc “càng đánh càng thua” nhưng trong bản tấu chương gửi vua thì ông đã quyết ý đổi lại là “càng thua càng đánh”. Việc “đánh thua” thì vẫn vậy nhưng ý tứ của câu sau mạnh hơn hẵn câu trước.Mai vàng xuân Tết ViệtMai vàng là đặc sản Việt Nam. Hoa mai, hoa đào, bánh chưng là hình ảnh Tết cổ truyền của dân tộc Việt. Hoa mai là một trong bốn loài hoa kiểng quý nhất (mai, lan, cúc, trúc) của Việt Nam đặc trưng cho bốn mùa. Hoa mai gắn liền với văn hóa, đời sống, tâm linh, triết lý sống, nghệ thuật ứng xử, thơ văn, nhạc họa. Hiếm có loài hoa nào được quan tâm sâu sắc như vậy:

        “Nghìn dặm tìm anh chẳng gặp anh. Đường về vó ngựa dẫm mây xanh. Qua đèo chợt gặp mai đầu suối . Đóa đóa vàng tươi xuân thắm cành” (Hồ Chí Minh 1890-1969); “Đêm qua sân trước một nhành mai” (Mãn Giác 1052-1096) “Lâm râm mưa bụi gội cành mai” (Trần Quang Khải 1241-1294); Ngự sử mai hai hàng chầu chắp/ Trượng phu tùng mấy rặng phò quanh” (Huyền Quang 1254-1334); Quét trúc bước qua lòng suối/ Thưởng mai về đạp bóng trăng” (Nguyễn Trãi 1380-1442); “Cốt cách mai rừng nguyên chẳng tục”( Nguyễn Trung Ngạn 1289-1370); “Mai cốt cách, tuyết tinh thần” (Nguyễn Du 1765-1820) “Nhờ chúa xuân ưu ái/ Xếp đứng đầu trăm hoa/ Chỉ vì lòng khiêm tốn/ Nên hẵng nở tà tà” (Phan Bội Châu 1867-1940); “Mộng mai đình” (Trịnh Hoài Đức 1725-1825) ; “Non mai rồi gửi xương mai nhé/ Ước mộng hồn ta hóa đóa mai” (Đào Tấn 1845-1907); “Một đời chỉ biết cúi đầu vái trước hoa mai” (Cao Bá Quát 1809-1855) “Hững hờ mai thoảng gió đưa hương” (Hàn Mặc Tử 1912-1940) “Tìm em tôi tìm/ Mình hạc xương mai”(Trịnh Công Sơn 1939-2001),…

        Xuân sang lộc biếc cành

        Hoa mai là biểu tượng của mùa xuân, của sự may mắn, vui tươi và trường thọ. Cành mai ẩn tàng thông điệp của mùa xuân. Hoa mai vừa có cốt cách, vừa đẹp thanh nhã, vừa có hương thơm và nở sớm nhất trong các loại hoa xuân. Vì vậy, hoa mai đã được chọn để biểu hiện cho cốt cách thanh cao của người hiền. Hoa mai, hoa đào, hoa lê, hoa mận có nhiều loài với vùng phân bố rộng lớn ở nhiều nước châu Á nhưng chỉ riêng mai vàng là đặc sản của Việt Nam, trong khi mai trắng và hoa đào là phổ biến tại Trung Quốc, Nhật Bản, Bắc Triều Tiên, Hàn Quốc và các nước Trung Á.

        Gốc mai vàng trước ngõ. Rằm xuân lại nhớ anh. Cành mai sương mai đọng. Xuân sang lộc biếc cành.

        Các tiếng nói vĩnh cữu

        Tôi ghi chép CNM365 lưu lại các tiếng nói vĩnh cữu không nỡ quên trong lòng mình như lời thơ Poem-A-Day của W. B. Yeats, 1865 – 1939 (Nguyên tác: O sweet everlasting Voices be still; Go to the guards of the heavenly fold. And bid them wander obeying your will. Flame under flame, till Time be no more; Have you not heard that our hearts are old,That you call in birds, in wind on the hill,In shaken boughs, in tide on the shore? O sweet everlasting Voices be still.) Các tiếng nói vĩnh cửu (W. B. Yeats, 1865 – 1939) là những lời ngọt ngào mãi trong tâm thức; Nó theo ta lên thấu thiên đàng Nó lang thang  theo ý muốn của ta Biến thành niềm tin thắp lửa Cho đến khi thời gian không còn nữa; Ta vẫn nghe khi trái tim ta đã già, Nó thành tiếng chim, tiếng  gió trên đồi, Trong những nhánh cây xao động trên mặt nước? Hỡi những tiếng nói ngọt ngào ngọt ngào Vẫn còn.

        Trong lòng tôi, nếp nhà và nét đẹp văn hóa, là giá trị sâu sắc đích thực cội nguồn để thấm thía: Cái gốc của sự học là học làm Người. Sống phúc hậu minh triết yêu thương là  bài học lớn. Con vắng Mẹ từ lúc tuổi thơ, lớn một chút lại mất Cha vì bom Mỹ giết. Con nhớ chị gái thay mẹ hiền và anh Hai đã thay cha yêu quý dìu dắt, nâng giấc con. Kỹ niệm tuổi thơ yêu thương như dòng sông quê hương thao thiết chảy.
        Hoàng Thị Huyền (Thỉu con) sinh buổi sớm 13 tháng 3 năm Mẹo, mặt trời lên ngọn tre. Hoàng Minh Kim sinh gần nửa đêm rằm xuân Gíáp Ngọ, trăng qua ngọn cau hơn hai sào”(1). “Con Kim. Cụ khi mô cũng nhớ ’em’ cả. Con học với thầy phải kính thầy để thầy thương. Con chơi với bạn phải nhường bạn để bạn mến. Con sống với người phải tử tế, phúc đức để họ trọng. Làm gì cũng phải tự ý cẩn thận, đừng nghe người ta xui” (2).”Cụ biết mạ con bệnh hiểm nghèo không qua khỏi nhưng cụ quyết bán hết tài sản ‘còn nước còn tát ‘ vì không thể thấy mạ con chết mà không cứu?” (3).

        Tôi nhớ rất rõ tờ giấy đã ố vàng lưu bút tích của cha ghi bằng hai loại mực. Phần trên ghi năm sinh của hai chị em tôi (1). Phần dưới ghi thêm lời cha dặn (2). Tôi mang theo tờ giấy này bên mình khi tôi rời Nam Quảng Trạch sang bờ bắc rào Nậy (sông Gianh) đến Pháp Kệ, sau đó là Phù Lưu, Đồng Dương để theo anh Dộ tôi đang dạy cấp một. Anh tôi xin thầy Trần Đình Côn, hiệu trưởng nhà trường cho tôi được học cấp ba Bắc Quảng Trạch. Tôi cất tờ giấy này giữa hai tờ bọc vở của cuốn sổ. Tờ giấy thứ hai là giấy chứng nhận cha tôi là lính Vệ quốc đoàn thuộc tiểu đoàn 174, Trung đoàn 18 “Chiến khu thư Tư” của bác Lê Văn Tri (sau này là Trung tướng Chủ nhiệm Tổng cục Kỹ thuật, Phó Tư Lệnh Quân chủng Phòng Không Không Quân Việt Nam). Tờ giấy thứ ba ghi hai bài thơ của tôi:

        (1) Chiếc khăn tay

        Con cầm về chiếc khăn tay
        Của trường, của lớp, của thầy tặng con
        Cầm khăn cụ vui vô cùng
        Hai hòn nước mắt tưng bừng tuôn rơi

        Gì từng ấy hỡi cụ ơi
        So bằng công cụ như trời như non
        Nuôi con biết mấy năm tròn
        Gom từng hột sạu, bòn từng lá rau.

        Công ơn của cụ thẳm sâu
        Món quà con đó so đâu công này?

        (2) Ông ơi

        Cho tui sang với ông ơi
        Cho tui sang với kẽo chờ đò lâu.
        Bấy lâu nay dạ những sầu
        Bây giờ được học, ruột rầu hóa vui …

        Theo lời cha thì tôi sinh lúc gần nửa đêm rằm xuân Giáp Ngọ 1954, trăng qua ngọn cau hơn hai sào với tên khai sinh là Hoàng Minh Kim. Thế nhưng, do cuối năm lớp 7, tôi không thể vào học lớp 8 (cấp 3) mặc dù có thành tích học tập giỏi liên tục nhiều năm vì tuổi nhỏ so quy định. Thầy Côn hiệu trưởng đã thương tình và bày cho anh Dộ tôi về xã chứng lại giấy tờ, sửa lại tuổi tôi ngày 27. 12. 1953 để tôi được học.

        Nhà tôi thuở ấy nghèo quá, đói đến mức gần tắt bữa. Mẹ tôi ốm và chết trẻ do hậu sản và suy gan sau khi em tôi mất. Mẹ chết sáng mồng ba Tết “Giáp Thìn bốn chín mẹ quy tiên”. Trước đó cha đã bán hết tài sản để cứu mẹ nhưng không được. Tài sản đáng giá nhất tôi còn nhớ là con bò vàng hiền nhưng đánh nhau rất giỏi, nổi tiếng cả hai làng Minh Lệ và Hòa Ninh, căn nhà gổ, bộ phản, cái thùng gổ đựng lúa gạo và cũng là chỗ nằm. Cha bán, nói với các con và khóc: “Cụ biết mạ con bệnh hiểm nghèo không qua khỏi nhưng cụ quyết bán hết tài sản ‘còn nước còn tát ‘ vì không thể thấy mạ con chết mà không cứu?”. Trên năm mươi năm trôi qua, nước mắt hôm cha khóc là bài học vô giá cho con. Nước mắt của sự lựa chọn sinh tử thật dữ dội. Trước đó, tôi nghe kể, có lần khi cha bị bắt đi , cha xin chậm lại một chút để chẻ củi nhóm than cho vợ vừa sinh, ông đã tự bổ thẳng vào chân mình nên tránh được một kiếp nạn.

        Gia đình tôi sau đó còn ba bố con ở chái lều tranh một mái gác xiên trên tường đất cũ. Nền nhà cao hơn một mét, kiềng đá hộc chắc chắn để tránh lụt vô nhà. Nền này, anh Trực tôi đã nhiều đêm cùng cha đào gánh đất đắp nền, trước khi anh tình nguyện đi bộ đội lúc 17 tuổi để cha được miễn dân công hỏa tuyến ở nhà nuôi vợ ốm và hai con nhỏ. Mẹ chết lúc tôi lên 9 và chị Huyền tuổi 12. Anh Dộ đi dạy cấp 1 ở xa, chị Huyên đã lấy chồng đều về chịu tang. Hôm mẹ chết, hầu như cả làng đi đưa. Đám tang rất đông vì sinh thời mẹ ăn ở đức độ, phúc hậu và mẹ đẹp người, đẹp nết, chết trẻ vì bệnh hiểm nghèo nên ai cũng thương …

        BÀI CA YÊU THƯƠNG
        Hoàng Kim

        Bài ca yêu thương thơ hoa hồng
        Đỏ của máu và xanh hi vọng
        Ngày ghi nhớ trong trái tim tôi
        Ngày mới nhớ về mạch sống

        PHẠM TRUNG NGHĨA VIỆN LÚA
        Hoàng Kim

        “Hãy cúi xuống học tốt. Khi kết quả thành rồi, người đời sẽ dắt bạn lên ” tưởng nhớ nhà khoa học xanh Phạm Trung Nghĩa. Rạng sáng ngày 19 tháng 10 năm 2012, lúc 6 giờ. Tiến sĩ Phạm Trung Nghĩa Phó Viện Trưởng Viện Lúa Đồng Bằng Sông Cửu Long từ trần. Anh ra đi sau cơn đột quỵ và hôn mê sâu để lại sự tiếc thương vô hạn cho gia đình, đồng nghiệp, học trò nghề nông, người thân và người dân khắp vùng Nam Bộ. Anh đi xa đã mấy năm nhưng anh cũng đã đi vào bữa cơm mỗi gia đình, thầm lặng, thiết thực mà hiệu quả. Anh đi xa lúc 51 tuổi khi sức cống hiến của anh đối với khoa học đang ở độ rực rỡ nhất. Anh để lại những công trình dang dở, những giống lúa triển vọng đang xanh mướt trên đồng. Anh để lại những trang viết chưa dừng, những việc tốt đang làm và những dự định đang ấp ủ thực hiện. Anh là nhà khoa học xanh hiền hậu, tài năng, chịu khó, người bạn hiền của nông dân, người thầy giỏi của con tôi và nhiều lớp học trò may mắn được anh chỉ dạy. Mãi còn đó lời khuyên của anh chân thành mà minh triết: “Hãy cúi xuống làm việc. Khi kết quả thành rồi, người đời sẽ dắt bạn lên !”. “Hãy cúi xuống học trên đồng, cúi xuống học trong phòng thí nghiệm, cúi xuống học thầy, học bạn và lắng nghe tiếng nói người dân”.

        Phạm Trung Nghĩa sinh ngày 28 tháng 4 năm 1962 nguyên quán xã Kim Sơn huyện An Sơn tỉnh Ninh Bình, Nơi ở hiện nay: Số nhà 226G, đường 3/2 thành phố Cần Thơ. Cơ quan công tác Viện Lúa đồng bằng Sông Cửu Long. Chức vụ Phó Viện Trưởng, Ủy Viên Ban Thường vụ Đảng Ủy, Trưởng Bộ Môn Công nghệ Sinh học Viện Lúa Đồng Bằng Sông Cửu Long.

        Phạm Trung Nghĩa có quá trình công tác thật đáng trân trọng (*): Trước năm 1975, anh là học sinh cư ngụ tại 94 đường Phú Thọ Quận 11 thành phố Hồ Chí Minh. Từ năm 1975 đến 1981 là học sinh cư ngụ tại ấp E 2 xã Thạnh Thắng huyện Thốt Nốt tỉnh Hậu Giang. Từ năm 1981 đến 1986 là sinh viên Trường Đại học Cần Thơ. Từ năm 1986 đến 1996 là nghiên cứu viên Bộ môn di truyền chọn giống , Viện Lúa Đồng Bằng Sông Cửu Long; Từ năm 1996 đến 1998 là học viên cao học tại Trường Đại học Nông nghiệp và Kỹ thuật G.B. Pantnagar, U.P, Ấn Độ. Từ năm 1998 đến tháng 1 năm 2000 là nghiên cứu viên Bộ môn công nghệ sinh học. Từ tháng 1 năm 2000 đến tháng 10 năm 2005 là nghiên cứu sinh tiến sĩ Trường Đại học Durham Anh Quốc. Từ năm 2006 đến 2010 nghiên cứu viên chính. Phó Bộ môn công nghệ sinh học Viện Lúa Đồng Bằng Sông Cửu Long. Từ năm 2010 đến tháng 8 năm 2011 Trưởng Bộ môn công nghệ sinh học Viện Lúa Đồng Bằng Sông Cửu Long. Từ tháng 9 năm 2011 đến nay nghiên cứu viên chính, Phó Viện Trưởng Viện Lúa Đồng Bằng Sông Cửu Long. Trong quá trình công tác tiến sĩ Phạm Trung Nghĩa đã được tặng thưởng Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ và nhiều Bằng khen của Bộ Trưởng Bộ Nông nghiêp và Phát triển Nông thôn , nhiều năm liền là Chiến sĩ Thi đua và nhiều phần thưởng khác về thành tích nghiên cứu khoa học , chuyển giao khoa học công nghệ, góp phần phát triển nông nghiệp nông thôn.

        TS. Phạm Trung Nghĩa là nhà khoa học xanh tiên phong trên những hướng nghiên cứu: 1) Tạo các giống lúa năng suất cao, chất lượng tốt, chống chịu sâu bệnh và điều kiện bất lợi của ngoại cảnh bằng cách áp dụng kỹ thuật nuôi cấy mô, nuôi cấy túi phấn kết hợp nhập nội nguồn gen quý hiếm và phương pháp tạo giống truyền thống. 2) Chuyển nạp gen các tính trạng chống chịu sâu bệnh và điều kiện ngoại cảnh bất lợi dùng vi khuẩn Agrobacterium và súng bắn gen. 3) Đánh giá, tuyển chọn và phát triển nguồn gen lúa siêu xanh (green supper rice) thích ứng biến đổi khí hậu năng suất cao, dạng hình cây lúa lý tưởng, chất lượng tốt, chống chịu sâu bệnh và điều kiện khô hạn hoặc nhiễm mặn.

        Tiến sỹ Phạm Trung Nghĩa nhà khoa học xanh Viện Lúa.

        NGẪM THƠ NGOÀI NGÀN NĂM
        Hoàng Kim

        “Ngưòi trước chẳng thấy ai. Người sau thì chưa thấy. Gẫm trời đất thật vô cùng. Riêng lòng đau mà lệ chảy”. “Bài ca lên đài U Châu” thơ Trần Tử Ngang, người dịch Tương Như là tác phẩm văn chương thơ ngoài ngàn năm của bậc kỳ tài.  Trong văn chương Việt, khi đọc bài kệ “Cáo tật thị chúng” của thiền sư Mãn Giác, “Mài kiếm dưới trăng” của tráng sĩ Đặng Dung và đọc thơ Nguyễn Du, ta đều cảm nhận thấy sự ung dung, an nhiên tự tại, thấu suốt lẽ sinh tử… và đều có nỗi buồn man mác. Một người tốt muốn dấn thân nhưng còn bao điều kiện cần phải cố gắng vượt lên hoàn cảnh và vận mệnh. Đấy có thể là điều để hiểu thơ Trần Tử Ngang chăng? xem tiếp bài viết, hình ảnh và thư pháp tại đây https://hoangkimlong.wordpress.com/category/ngam-tho-ngoai-ngan-nam/

        trantungang1

        Trần Tử Ngang cuộc đời và sự nghiệp

        Trần Tử Ngang( 661 – 702) là nhà thơ có địa vị trọng yếu trên thi đàn thời Sơ Đường. Ảnh hưởng của ông rất lớn đối với thi ca thời Thịnh Ðường cũng như phong trào vận động cổ văn thời Trung Ðường. Ông có tên tự là Bá Ngọc, người đất Xạ Hồng, phủ Từ Châu (hiện là tỉnh Tứ Xuyên ). Ông đậu tiến sĩ lúc 24 tuổi năm 684 (đời Đường Trung Tông) làm đại quan trong triều Võ Tắc Thiên với chức Lan đài chính tự sau đó đổi làm chức Tả thập di.

        trantungang2

        Phong cách thơ của ông xuất chúng, ngụ ý sâu xa. Trần Tử Ngang thời niên thiếu gia đình tương đối giàu có, coi nhẹ tiền bạc, khẳng khái. Sau khi trưởng thành, ông quyết tâm học, giỏi viết văn; đồng thời quan tâm quốc sự , quyết lập công tích về chính trị. Ông thường dâng sớ điều trần về đại kế quốc gia nhưng không được Vũ hậu nghe theo. Vũ hậu là người mưu lược, cương nghị, quyền biến, tâm cơ. Bà không từ một thủ đoạn nào để mua chuộc, lôi kéo hoặc thẳng tay triệt hạ những người tài giỏi thuộc vây cánh của đối phương nhằm thâu tóm quyền lực, Dưới thời của bà những người tài không thuộc bè phái thường bị nguy hiểm.

        trantungang3

        Giai thoại đập đàn của Trần Tử Ngang

        Trần Tử Ngang có giai thoại nổi tiếng về việc đập đàn. Lần đầu tiên đến Trường An, ông không được một ai biết đến. Ông liền bỏ ra một ngàn quan tiền, mua một cây đàn hồ cầm rất quí, rồi mời mọi người đến dự tiệc, nghe nhạc.

        Khi moi người tề tựu đông đủ và háo hức chờ nghe nhạc. Ông đứng lên nói: “Tôi là Trần Tử Ngang người đất Thục, có trăm quyển văn, rong ruổi kinh sư, mà địa vị vẫn tầm thường giữa nơi bụi bậm, không ai biết đến. Nhạc này là của kẻ thơ hèn đâu đáng lưu tâm?

        trantungang4

        Nói đoạn, ông đập tan cây đàn hồ cầm rất quý trước sự sững sờ, kinh ngạc của nhiều người. Kế đó, ông đem các cuốn văn ra tặng cho cử tọa. Trong một ngà,y danh tiếng của ông chấn động khắp kinh thành, mọi người ai ai cũng đều biết tiếng.

        Năm 24 tuổi, Trần Tử Ngang với văn tài xuất chúng đã thi đậu tiến sĩ và được Võ hậu hết sức nể phục tài năng. Luận về thơ, ông nói: “Làm thơ là để gởi tấm lòng vào thiên cổ chứ đâu phải để lưu danh nhất thời”.

        Quả nhiên, những tuyệt phẩm thơ của Trần Tủ Ngang mười ba thế kỷ sau, đến nay vẫn còn tốn hao không biết bao nhiêu giấy mực của nhiều người. Trung Quốc hiện có nhiều địa chỉ web về Trần Tử Ngang , bạn có thể tìm trên Google tại từ khóa 陳子昂 (Trần Tử Ngang).

        trantungang5

        Trần Tử Ngang thơ ngoài ngàn năm

        Bài ca lên đài U Châu
        Trần Tử Ngang thơ ngoài ngàn năm “ Ngưòi trước chẳng thấy ai / Người sau thì chưa thấy / Gẫm trời đất thật vô cùng / Riêng lòng đau mà lệ chảy ”. Tương Như dịch

         

        Đăng U Châu Đài Ca

        Tiền bất kiến cổ nhân,
        Hậu bất kiến lai giả.
        Niệm thiên địa chi du du,
        Ðộc sảng nhiên nhi thế hạ.

        Xem tiếp >>

          Dạy và học 18 tháng 10(18-10-2021)

        DẠY VÀ HỌC 18 THÁNG 10
        Hoàng Kim
        CNM365 Tình yêu cuộc sốngBài ca Trường Quảng Trạch; Em ơi can đảm lên; Lời Thầy luôn theo em; Borlaug và Hemingway; Lời Thầy dặn thung dung; Giấc mơ thiêng cùng Goethe; Bài ca nhịp thời gian; Nguyễn Du trăng huyền thoại; Nguyễn Du tư liệu quý,. Ngày 18 tháng 10 năm 1386, Đại học Heidelberg khai hiệu, đây là trường đại học lâu đời nhất của Đức từ thời Thánh chế La Mã. Đại học Heidelberg ngày nay nằm trong số các trường đại học nghiên cứu hàng đầu của châu Âu và Thế giới. Trường có nhiều thành tựu chủ yếu về các lĩnh vực vật lý học, thiên văn học, dược lý học, y học, luật học và xã hội học, 55 trong số đó đã được trao tặng giải Nobel.  Ngày 18 tháng 10 năm 1931 là ngày mất của Thomas Alva Edison (sinh ngày 11 tháng 2 năm 1847) là một nhà phát minh và thương nhân đã phát triển rất nhiều thiết bị có ảnh hưởng lớn tới cuộc sống trong thế kỷ 20. Edison được coi là một trong những nhà phát minh giàu ý tưởng nhất trong lịch sử, ông giữ tổng cộng 1.500 bằng phát minh trên toàn thế giới, trong đó có 1.093 bằng sáng chế tại Hoa Kỳ dưới tên ông. Edison là một trong những nhà phát minh đầu tiên ứng dụng các nguyên tắc sản xuất hàng loạt vào quy trình sáng tạo, và vì thế có thể coi là người đã sáng tạo ra phòng nghiên cứu công nghiệp đầu tiên. Ngày 18 tháng 10 năm 1952 ngày sinh Bảo Ninh, nhà văn Việt Nam, tác giả của “Nỗi buồn chiến tranh”. Bài chọn lọc ngày 18 tháng 10: Bài ca Trường Quảng Trạch; Em ơi can đảm lên; Lời Thầy luôn theo em; Borlaug và Hemingway; Lời Thầy dặn thung dung; Giấc mơ thiêng cùng Goethe; Bài ca nhịp thời gian; Nguyễn Du trăng huyền thoại; Nguyễn Du tư liệu quý, Linh Nhạc thương lời hiền; Trung Liệt đền thờ cổ; “Bang giao tập” Việt Trung; Nguyễn Du niên biểu luận; Chương mục tiêu quốc gia; Hoàng Long dạy và học; Cây Lương thực Việt Nam; Tổ hợp tác nông nghiệp; Phát triển nông thôn mới; Đồng xuân lưu dấu hiền; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-18-thang-10/.

        BÀI CA TRƯỜNG QUẢNG TRẠCH
        Hoàng Kim

        Trường Quảng Trạch bên dòng Gianh ấy1
        Bao năm rồi biết mấy đổi thay
        Công cha nghĩa mẹ ơn thầy
        Ân tình bầu bạn vẹn đầy lòng dân.

        Trần Đình Côn là thầy Hiệu trưởng
        Trường khai sinh 18 tháng 10
        Ba Đồn một chín sáu hai (1962)
        Cờ đầu giáo dục của thời vàng son.

        Trường Quảng Trạch tiếng thơm vang mãi
        “Bài ca Trường Quảng Trạch” tuyệt hay
        Bao năm gặp lại hôm nay
        Chúng ta chung đọc lời Thầy đầu tiên:

        Bài ca Trường Quảng Trạch
        Trần Đình Côn
        Hiệu trưởng

        “Hồi tưởng lại một mùa thu ấy
        Mấy thu rồi biết mấy đổi thay
        Khởi công ròng rã tháng ngày
        Dốc lòng, dốc sức dựng xây trường mình

        Vùng cát trắng biến thành ao cá
        Rừng dương xanh lộng gió vi vu
        Giếng thơi trong suốt ngọt ngào
        Cổng trường cao rộng đón chào anh em

        Trường Quảng Trạch trên miền Quảng Thọ1
        Tên trường ta chữ đỏ vàng son
        Tên Tổ Quốc, tên yêu thương
        Thơm dòng sữa mẹ quê hương xa gần

        Phòng học mới cửa xanh, ngói đỏ
        Lá cờ sao trước gió tung bay
        Tình em, tình bạn, tình thầy
        Mỗi ngày thêm nặng, mỗi ngày thêm sâu.

        Lòng những tưởng khởi đầu vất vả
        Để năm sau tất cả tiến lên
        Ai ngờ giặc Mỹ đê hèn
        Tường vôi tan nát, khói hoen mặt người.

        Cuộc sống đã sáng ngời lửa thép
        Đạn bom nào uy hiếp được ta
        Cổng trường, mái ngóii, tường hoa
        Đã thành gạch vụn xót xa hận thù

        Đã đến lúc thầy trò sơ tán
        Xa thị thành về tận xóm thôn
        Bầu Mây, Phù Hợp, Đồng Dương 2
        Trắng trong cồn cát mái trường thêm xinh

        Phá trường ngói trường tranh ta dựng
        Đắp luỹ dày, hầm vững, hào sâu
        Khiêng bàn, vác gỗ đêm thâu
        Lưng trời đạn xé, ngang đầu bom rơi.

        Nơi Hầm Cối 3 xa vời em đến
        Qua Khe Sâu 4 đá nghiến nát chân
        Nhớ khi bụng đói lạc đường
        Càng căm giặc Mỹ, càng thương chúng mình.

        Chí đã quyết hi sinh chẳng quản
        Lòng đã tin vào Đảng , vào dân
        Kết liền lưc lượng Công Nông
        Ghi sâu tình bạn Hải quân anh hùng

        Sông Gianh đó vẫy vùng một cõi
        Thép hạm tàu chói lọi chiến công
        Đôi ta chiến đấu hợp đồng 5
        Vít đầu giặc Mỹ xuôi dòng nước xanh.

        Ngày thêm nặng mối tình kết nghĩa
        Nơi “vườn đào” đất mẹ Phù Lưu 6
        Cùng nhau chung một chiến hào
        Trao quà chiến thắng vui nào vui hơn

        Từ ấy đã nghìn đêm có lẽ
        Có phút nào giặc Mỹ để yên
        Chất chồng tội ác ngày đêm
        Lửa thù rực cháy đốt tim muôn người

        Ôi những cảnh rụng rời thê thảm
        Mái nhà tranh giáo án thành tro
        Mẹ già, anh chiị, em thơ
        Xương bay, thịt nát, cửa nhà tan hoang

        Lớp học đó chiến trường em đó
        Nín đi em hãy cố học chăm
        Giành điểm bốn, giành điểm năm
        Ấy là diệt Mỹ chiến công hàng ngày.

        Đã có bạn có thầy giúp đỡ
        Khó khăn nào lại khó vượt qua
        Miếng khi đói gói khi no
        Lưng cơm hạt muối giúp cho bạn nghèo

        Thương em cảnh gieo neo mẹ mất
        Lại cha già giặc giết hôm qua
        Tình thầy tình bạn tình cha
        Ấy là tình Đảng thiết tha mặn nồng.

        Có những lúc đêm đông giá rét
        Thầy bên em ai biết ai hay
        Hầm luỹ thép, ngọn đèn khuya
        Mùa đông sưởi ấm, mùa hè mát sao.

        Nào Văn học lại nào Toán Lý
        Giảng cho em nhớ kỹ từng lời
        Cho em học một biết mười
        Cho em học chóng nên người tài cao

        Dắt em tận năm châu bốn biển
        Mắt nhìn xa nghĩ đến mai sau
        Đây Lạng Sơn đó Cà Mau
        Giang sơn hùng vĩ, địa cầu lừng danh

        Đưa em lên sao Kim sao Hoả
        Để em nhìn cho rõ nước ta
        Hiểu ngày nay, hiểu ngày xưa
        Hùng Vương, Nguyễn Trãi gần là Quang Trung

        Em càng hiểu anh hùng thời đại
        Có Bác Hồ chỉ lối ta đi
        Dù địch phá, dù gian nguy
        Trường ta vững lái cứ đi cứ về

        Tuổi thanh niên sơ gì việc khó
        Khó khăn nhiều tiến bộ càng nhanh
        Đã nuôi chí lớn ắt thành
        Có thầy, có bạn, có mình, có ta.

        Thiếu phấn viết làm ra phấn viết
        Sách giáo khoa ta chép thâu đêm
        Sản xuất kết hợp học hành
        Như chim đủ cánh cất mình bay cao.

        Ruộng tăng sản bèo dâu xanh biếc
        Cấy thẳng hàng buốt thiịt xương đau
        Độ pH cách trừ sâu
        Chiêm mùa sau trước trước sau khác gì.

        Sổ tay đó em ghi phân bón
        Ước mơ sao năm tấn thành công
        Bốn mùa Xuân Hạ Thu Đông
        Bức tranh tuyệt đẹp ruộng đồng bao la

         

        Những đêm sáng trăng ngà trong suốt
        Vút lên cao thánh thót lời ca
        “Hoa Pơ lang” 7 ấy bông hoa
        Tây Nguyên đẹp nhất thiết tha gửi lời
        “Nổ trống lên rừng núi ơi” 8
        “Bài ca may áo” 9 “Mặc người dèm pha” 10

        Thân múa dẽo kết “Hoa Sen” 11 trắng
        Giữa hội trường rực sáng đèn xanh
        Tưởng chừng lạc đến cảnh tiên
        Tưởng chừng thiếu nữ ở miền Thiên Thai.

        Ai biết đó con người nghèo khổ
        Con Công Nông bỗng hoá thành tiên
        Rũ bùn em bước đi lên
        Bùn tanh mà đã lọc nên hương trời.

        Trường ta đó ấy nơi rèn luyện
        Mấy năm qua bao chuyện anh hùng
        Ngày xưa Phù Đổng Thiên Vương
        Ta nay lớn mạnh phi thường lạ chưa?

        Trong chiến đấu xông pha diệt Mỹ
        Lập công đầu dũng sĩ tiền phương
        Liên Xô, Tiệp Khắc, Ba Lan
        Châu Âu châu Á từ trường mà ra

        Dù ở tận Cu Ba châu Mỹ
        Vẫn ngày đêm suy nghĩ về ta
        Dù cho ở lại quê nhà
        Xóm thôn xã vắng vẫn lo sớm chiều

        Lo nước đủ phân nhiều lúa tốt
        Cảnh ruộng đồng hợp tác vui thay
        Mỗi khi bưng bát cơm đầy
        Dẽo thơm một hạt nhớ thầy năm xưa

        Ôi có những phút giờ sung sướng
        Là những khi cờ Đảng trao tay 12
        Anh em bè bạn sum vầy
        Tiếng cười xen tiếng vỗ tay kéo dài

        Có những lúc nghe đài Hà Nội
        Vang truyền đi thế giới gần xa
        Tin trường ta, tin chúng ta
        Hả lòng, hả dạ ưóc mơ nào bằng

        Có những lúc báo Đoàn báo Đảng
        Đăng tin trường khai giảng thành công
        Tin một năm, tin ba năm
        Như luồng gió mới lửa hồng bùng lên

        Trên màn bạc giữa  nền ánh điện
        Phim trường ta chiếu rạng khắp nơi  13
        Châu Âu châu Mỹ xa xôi
        Năm câu bốn biển rõ mười tin vui

        Hay biết mấy xem người trong ảnh
        Ta xem ta xem cảnh trường ta
        Này hầm, này luỹ, này nhà
        Kìa thầy kìa bạn kìa là xã viên

        Phù Lưu đó ruộng liền thẳng cánh
        Bầu Mây đây đúng cảnh trong phim
        Sáng bừng như mặt trời lên
        Chói ngời như một niềm tin tuyệt trần.

        Chào 68 mùa xuân tuyệt đẹp
        Cả trường đang vang nhịp tiến công
        Đón xuân với cả tấm lòng
        Đầy trời lửa đạn súng giòn chào ta

        Duyên thiên lý một nhà sum họp
        Người tuy đông mà một lòng son
        Nào khách quý nào tri âm
        Bốn phương quy tụ xa gần về đây

        Thời gian hỡi dừng ngay cánh lại
        Giờ vui ơi xin hãy khoan thai
        Rượu nồng chưa uống mà say
        Bữa ăn quên đói, chuyện dài thâu canh

        Vui gặp chị gặp anh thân thiết
        Chuyện xa gần khôn xiết nói sao
        Yêu nhau xin nhớ lời nhau
        Thù chung đã nặng càng sâu thù nhà

        Con khôn lớn mẹ cha đẹp mặt
        Trường vững vàng Đảng ắt mừng vui
        Cờ hồng bạn lại trao tay 14
        Phất cao cho đến tầng mây xa vời

        Sức ta ước chọc trời khuấy nước
        Khó khăn nào chặn bước ta đi
        Mỗi năm xuân đến một thì
        Xuân này hơn hẵn mấy kỳ xuân qua.

        Có nghe chăng Bác Hồ ra lệnh
        “Tiến lên toàn thắng ắt về ta”
        Tiến lên giành lấy tự do
        Tiến lên giành lấy thời cơ diệt thù

        Hồi tưởng lại những mùa thu ấy
        Bao ngày qua biết mấy buồn vui
        “Đắng cay nay mới ngọt bùi
        Đường đi muôn dặm đã ngời mai sau”

        Lời Bác dạy ghi sâu trong dạ
        Ngọn đèn pha chiếu toả muôn nơi
        Trang sách rộng nghĩa đường đời
        Học hành kết hợp nên người tài ba

        Nay sum họp mai đà li biệt
        Tiễn người đi lại tiếp người vào
        Kể sao vui sướng dạt dào
        Người sao vương vấn ra vào băn khoăn

        Đã vì Đảng vì Dân vì Nước
        Tiến lên đi nhanh bước tiến lên
        Lòng thầy luôn ở bên em
        Đường lên sao Hoả, sao Kim xa gì?

        Đi đâu cũng hướng về Quảng Trạch
        Cũng có ngày gặp mặt các em
        Nhắc bao kỷ niệm êm đềm
        Báo công ghi tiếp nên thiên sử vàng …

        *

        Trường tỏa sáng nhân văn nét đẹp
        Nôi luyện rèn bao lớp học sinh
        Bao người vì nước hiến dâng
        Bao người bình dị chân thành thủy chung.

        Phạm Ngọc Căng là thầy Hiệu phó
        Chốn đôi quê Thanh Hóa Quảng Bình
        Tám mươi vẫn nặng ân tình
        Bồi hồi nhớ lại, đinh ninh dặn dò:

        Ta gặp nhau từ lúc tóc còn xanh.
        Nay tìm lại thì đầu đã bạc.
        Để nhớ một thời cùng toàn dân đánh giặc.
        Gian khổ chất chồng, mất mát đau thương.
        Bốn mươi năm thầy bạn tỏa muôn phương.
        Nay ôn lại thầy trò thời chống Mỹ.
        Trăm khuôn mặt anh chị nào cũng quý.
        Bình dị, chân thành, tình nghĩa, thuỷ chung.
        Nét đẹp quê hương Quảng Trạch anh hùng”.

        Trường Quảng Trạch âm vang tiếng dội
        Quách Mộng Lân bài hát tuyệt vời
        Lời ca ấm áp một thời
        Lắng sâu cảm xúc tình đời tỏa hương:

        Bai ca Truong Quang Trach 4

        “MỜI GHÉ THĂM TRƯỜNG EM
        Nhạc và lời: Quách Mộng Lân

        Ai về Quảng Lưu mời ghé thăm trường em
        Lớn lên trong những ngày vui đánh Mỹ
        Trường của em theo tiếng gọi Bác Hồ
        Lớp học là chiến trường, học sinh là chiến sĩ
        Ôi mái trường đẹp xinh
        Bao năm trường dạy ta khôn lớn
        Có thầy có bạn ngày đêm chan chứa bao tình

        Ai về Quảng Lưu mời ghé thăm trường em
        Gió reo vui hát bài ca chiến thắng
        Ruộng phì nhiêu năm tấn hạt thóc vàng
        Sống vui với xóm làng Trường ta thêm gắn bó
        Đây mái trường của ta
        Bao năm trường day ta khôn lớn
        Muôn hạt giống đỏ rồi đây
        Đi khắp mọi miền dựng xây Tổ quốc.”

        Võ Huy Cát người thầy Vĩnh Phúc
        Lúc đạn bom thầy đến thăm Trường‘Về Quảng Trạch” át tiếng bom
        Thơ hay một thuở sổ vàng còn ghi:

        “VỀ QUẢNG TRẠCH
        Võ Huy Cát (Vĩnh Phúc)

        Sách giáo khoa anh chép mấy đêm thâu
        Mà từng bản thấm mồ hôi trí tuệ
        Đồ dạy học biến từ không thành có
        Từ mảnh bom vỏ đạn quân thù

        Có thầy giáo lội băng đồng đến lớp
        Nỗi cảm thông thầm kín trong lòng
        Vừa hôm qua đi bới hầm chữa cháy
        Soạn xong bài vừa lúc hừng đông

        Có thầy giáo cùng các em tâm sự
        Cảnh nhà neo mẹ giặc giết hôm qua
        Một lon gạo thấm tình người đồng chí
        Một lời khuyên ấm tình bạn chan hoà

        Có em học điểm năm chen cọc sổ
        Chiều lại về làm cán bộ thông tin
        Chòi phát thanh tiếng em vang xóm ngõ
        Những chiến công lừng lẫy hai miền

        Quảng Trạch ơi kể làm sao hết được
        Những chiến công của những người con
        Trên đất anh hùng hôm trước đạn bom
        Mà sáng dậy vẫn cười vui đến lớp

        Anh đứng đó mái trường tranh mới lợp
        Trái tim sôi máu nóng hờn căm
        Mười tám đôi mươi hay tuổi trăng rằm
        Mang sức trẻ cùng toàn dân cứu nước

        Quảng Trạch ơi đường vào đó bao xa
        Cầu phá mấy chuyến phà anh nhỉ
        Cho tôi gửi bài thơ tặng người đồng chí
        Dưới mái trường xanh đang ươm những mầm hoa

        Dưới mái trường tranh đang cứu nước cứu nhà.”

        Em ơi em can đảm bước chân lên!
        Thơ của Thầy trong em đã thành ngọn lửa
        Thầy ơi, nước mắt đời người thấm vào con chữ
        Trung hiếu trọn đời rèn chí vươn lên.

        EM ƠI CAN ĐẢM LÊN
        Nguyễn Khoa Tịnh
        gửi em Kim

        “Thầy ước mong em noi gương Quốc Tuấn,
        nhớ Lời nguyền của thầy Hoàng Ngọc Dộ
        “Không vì danh lợi đua chen
        Thù nhà nợ nước quyết rèn bản thân.”
        *

        “Đọc thơ em, tim tôi thắt lại
        Lòng nghẹn ngào, nước mắt chảy rưng rưng
        Nửa xót xa nhưng nửa lại vui mừng
        Xót xa vì đời em còn thơ dại
        Mới tuổi thơ mà cuộc đời đầy khổ ải
        Mới biết cười đã phải sống mồ côi
        Như chiếc thuyền giữa biển tự trôi
        Như chiếc lá bay về nơi vô định
        Bụng đói” viết ra thơ em vịnh:

        “Cơm ngày một bữa sắn trộn khoai
        Có biết lòng ta bấy hỡi ai?
        Vơi vơi lòng dạ, cồn cào bụng
        Kể chi no đói, mặc ngày dài”

        Phải!
        Kể chi no đói mặc ngày dài
        Rất tự hào là thơ em sung sức
        Rất tự hào là em tôi đầy nghị lực
        Đã hiển lộ mình qua “Cái chảo rang

        “Trung dũng ai bằng cái chảo rang
        Lửa to mới biết sáp hay vàng
        Xào nấu chiên kho đều vẹn cả
        Chua cay mặn ngọt giữ an toàn
        Ném tung chẳng vỡ như nồi đất
        Quăng bừa xó bếp vẫn nằm ngang
        Tốt đẹp đâu cần danh tiếng hão
        Bạn cùng lửa đỏ, nóng chang chang”

        Phải!
        Lửa to mới biết sáp hay vàng!
        Em hãy là vàng,
        Mặc ai chọn sáp!
        Tôi vui sướng cùng em
        Yêu giấc “Ngủ đồng
        Hiên ngang khí phách:

        “Sách truyền sướng nhất chức Quận công
        Ta sướng khi ra ngủ giữa đồng
        Lồng lộng trời hè muôn làn gió
        Đêm thanh sao sáng mát thu không
        Nằm ngửa ung dung như khanh tướng
        Lấy mấy vần thơ tỏ nỗi lòng
        Tinh tú bao quanh hồn thời đại
        Ngủ đồng khoan khoái ngắm gương trong”

        Tôi biết chí em khi “Qua đèo Ngang
        Ung dung xướng họa với người anh hùng
        Đã làm quân thù khiếp sợ:

        “Ta đi qua đèo Ngang
        Cũng gặp Người trèo qua núi hiểm
        Đỉnh dốc chênh vênh
        Xe mù bụi cuốn
        Có lẽ thiên nhiên đã định bao giờ
        Một dãy Hoành Sơn bát ngát trận đồ
        Điệp điệp núi cao
        Trùng trùng rừng thẳm.
        Người thấy
        Súng gác trời xanh
        Gió lùa biển lớn
        Nông dân rộn rịp đường vui
        Thanh Quan nàng nhẽ có hay
        Cảnh mới đã thay cảnh cũ.
        Ta hay
        Máu chồng đất đỏ
        Mây cuốn dặm khơi
        Nhân công giọt giọt mồ hôi
        Hưng Đạo thầy ơi có biết
        Người nay nối chí người xưa

        Tới đây
        Nước biếc non xanh
        Biển rộng gió đùa khuấy nước
        Đi nữa
        Đèo sâu vực thẳm
        Núi cao mây giỡn chọc trời

        Nhớ thù nhà, luống thẹn làm trai
        Thương dân nước, thà sinh phận gái
        “Hoành Sơn cổ lũy”
        Hỏi đâu dấu tích phân tranh?
        Chỉ thấy non sông
        Lốc cuốn, bốn phương sấm động.

        Người vì việc nước ra đi
        Ta muốn cứu dân nên thăm trận thế
        Điều không hẹn mà xui gặp mặt
        Vô danh lại gặp hữu danh
        Cuộc đời dài ắt còn sẽ gặp nhau
        Nay hội ngộ giữa đỉnh cao trời đất
        Anh em ta ngự trên xe đạp
        Còn Người thì lại đáp com măng
        Đường xuyên sơn
        Anh hùng gặp anh hùng
        Nhìn sóng biển Đông
        Như ao trời dưới núi.

        Xin kính chào
        Bậc anh hùng tiền bối
        Ta ngưỡng mộ Người
        Và tỏ chí với non sông
        Mẹ hiền ơi!
        Tổ Quốc ơi!
        Xin tiếp bước anh hùng!”

        Hãy cố lên em!
        Noi gương danh nhân mà lập chí
        Ta với em
        Mình hãy kết thành đôi tri kỷ !
        Đất Quảng Trạch này đâu kém Nam Dương
        Tôi tự hào bài “Tỏ chí” của em:

        “Quốc Tuấn ngày xưa chí vững bền
        Thù nhà, nợ nước chẳng hề quên
        Đến bữa quên ăn, đêm quên ngủ
        Thương dân, yêu nước quyết báo đền
        Văn hay thu phục muôn người Việt
        Võ giỏi kinh hồn lũ tướng Nguyên
        Mươi năm sau nữa ơi ông Tuấn
        Nối chí ông, nay cháu tiến lên!”

        Tôi thương mến em
        Đã chịu khó luyện rèn
        Biết HỌC LÀM NGƯỜI !
        Học làm con hiếu thảo.
        Mười lăm tuổi đã “Tập làm thầy giáo

        “Vui gì hơn buổi đầu làm thầy giáo
        Của lớp vở lòng đất mẹ yêu thương
        Trưa nắng luyến các em cùng đến lớp
        Giọng líu lo như chim hót ven đường.

        Đứng trước các em tuổi nhỏ đáng yêu
        Mà đã tưởng tới bao nhiêu người lớn
        Nghe em đọc giọng thanh thanh dễ mến
        Mà đã nghe đất nước xuyến xao mình!”

         

        Tổ Quốc đang chờ em phía trước.
        Em ơi em, can đảm bước chân lên !

        Bài ca Trường Quảng Trạch thân thiết yêu thương
        Dạy và Học, Học để Làm, suốt đời ta nhớ mãi.

         

        Ghi chú của thầy Trần Đình Côn

        1) Trường Quảng Trạch đóng ở xã Quảng Thọ từ 9/1962- 6/1965, dựng trường ngày 18 tháng 10 năm 1962 (Trường khai hiệu cùng ngày Đại học Heidelberg khai hiệu ngày 18 tháng 10 năm 1386, đó là trường đại học lâu đời nhất của Đức, theo CNM365, HK)
        2) Bầu Mây, Phù Hợp, Đồng Dương là những tên đất, tên làng trường sơ tán từ 1965 đến 1968. (Thuở chiến tranh ác liệt có Trường cấp 3 Bắc Quảng Trạch và Trường Cấp 3 Nam Quảng Trạch, địa danh sơ tán và chuyển đổi tên trường tuy có biến động theo thời gian nhưng sau này quy tụ chung một nôi chung tại thị xã Ba Đồn là Quảng Trạch cũ)
        3) Tên rú nơi các em đi lấy gỗ
        4) Tên khe nơi các em đi qua
        5) Trận chiến đấu hợp đồng giữa Trường và đơn vị kết nghĩa Hải quân sông Gianh
        6) Nơi làm lễ kết nghĩa giữa ba đơn vị 11/1965
        7, 8, 9, 10) Tên các ca khúc mà các em thường hát
        11) Điệu múa truyền thống của Trường
        12) Lễ tiếp nhận lần thứ nhất Cờ Lao động XHCN của Hội đồng Chính phủ trao tại Cao Mại ngày 30/8/1967
        13) Bộ phim Trường Quảng Trạch do nhà quay phim Ma Văn Cường dựng 5/12/1965
        14) Lễ trao tặng lần thứ hai Cờ Lao động XHCN của Hội đồng Chính phủ và Bằng Khen của Tổng Công Đoàn tại Phù Lưu ngày 4/1/1968

         

        LỜI THẦY LUÔN THEO EM
        Hoàng Kim
        tưởng nhớ thầy Nguyễn Khoa Tịnh

        Thầy thung dung bước lên bục giảng
        Buổi học cuối cùng “Tổng kết sử Việt Nam”
        Tiếng Thầy ấm trong từng lời nói
        Như muốn truyền cho các em
        Tất cả những niềm tin.

        Đôi mắt sáng lướt nhìn toàn bộ lớp
        Thầy có dừng trên khuôn mặt nào không ?
        Thầy có tin trong lớp còn ngồi học
        Có những em nung nấu chí anh hùng.

        Các em hiểu những gì
        Trong tim óc người Thầy
        Mái tóc đà điểm bạc
        Em biết Thầy tâm huyết rất nhiều
        Trên mười năm dạy học
        Vẫn canh cánh trong lòng
        Luôn tìm kiếm những người
        Có chí lớn
        và tấm lòng yêu nước
        thương dân.

        Mười năm
        Thức đo thời gian
        Dài như cả nỗi đau chia cắt
        Sương bạc thời gian phôi pha mái tóc
        Câu chuyện mười năm Đông Quan dạy học
        Hẳn nhiều đêm rồi
        Thầy nhớ Ức Trai xưa?

        Mười năm
        Trang lòng, trang thơ
        Nhớ tráng sĩ Đặng Dung đêm thanh mài kiếm
        Ôi câu thơ năm nào
        giữa lòng Thầy xao xuyến
        “Anh hùng lỡ vận ngẫm càng cay”

        Mười năm
        Dằng dặc thời gian
        Đo lòng Thầy nhớ miền Nam tha thiết
        Em tin trong lòng Thầy
        Luôn âm ỉ cháy lửa lòng yêu nước
        Thầy có tin rằng trong lớp
        Có người trò nghèo
        Chí nối Ức Trai xưa.

        “Dẫu đất này khi thịnh khi suy
        Song hào kiệt đời nào cũng có”

        Thầy giảng Đại cáo bình Ngô
        Liên hệ chuyện chân chúa Nguyễn Hoàng
        âm thầm tìm kiếm Đào Duy Từ …
        cũng như chuyện “Tam cố thảo lư”
        anh em Lưu Bị
        vượt núi thẳm, mưa tuyết, đường xa
        ba lần đến Long Trung
        tìm kiếm Khổng Minh Gia Cát
        tuổi chỉ đáng bằng tuổi con mình
        nhưng trọng dụng kỳ tài
        đã tôn làm quân sư cùng lo việc nước…

        Thầy kể chuyện Đào Duy Từ xưa
        Bậc khai quốc công thần nhà Nguyễn
        dựng nghiệp nhọc nhằn, người hiền lắm nạn
        cha mẹ chết oan, chiếc lá giữa dòng…
        Đào Duy Từ còn mãi với non sông:
        Người có công nghiệp lẫy lừng chẳng kém Ngọa Long
        Định Bắc, thu Nam, công đầu Nam tiến.
        Người tổ chức phòng ngự chiều sâu
        Hoành Sơn, Linh Giang, Lũy Thầy
        minh chúa, quân giỏi, tướng tài, ba tầng thủ hiểm
        Người xây dựng nên định chế đàng Trong
        một chính quyền rất được lòng dân
        nức tiếng một thời.
        Người viết nên kiệt tác Hổ trướng khu cơ,
        tuồng Sơn Hậu, nhã nhạc cung đình
        là di sản muôn đời.
        Trí tuệ bậc thầy, danh thơm vạn thuở …

        Thầy giảng về bài học lịch sử Việt Nam
        những người con trung hiếu
        tận tụy quên mình vì dân vì nước
        hẳn lòng Thầy cháy bỏng khát khao
        vượng khí non sông khí thiêng hun đúc
        Đất Quảng Trạch này đâu kém Nam Dương
        Có nông phu ham học, chăm làm
        Mà thao lược chuyển xoay thời vận.

        Ôi sử sách cổ kim bao nhiêu gương sáng
        Học sử ai người biết sử để noi?

        “Lịch sử dân tộc mình
        Những năm bảy mươi
        Các em sẽ là người viết tiếp
        Điểm theo thời gian
        Truyền thống ông cha xưa
        Oanh liệt vô cùng”

        Tiếng Thầy thiết tha
        Truyền nguồn cảm xúc
        Các em uống từng lời
        Lắng nghe từng chữ
        Lời tâm huyết thấm sâu vào lòng em:
        “Nung gan sắt để dời non lấp bể
        Xối máu nóng rửa vết nhơ nô lệ”
        Em đã tìm được trong Thầy
        Một người anh
        Một người đồng chí
        Em vững tin trong sự nghiệp cứu dân
        Hẳn có lòng Thầy luôn ở bên em!

        Thầy nói nhiều về Việt Nam thân yêu
        Dựng nước gian nan, người dân còn khổ
        Mắt Thầy thiết tha quá chừng
        Làm em mãi nhớ
        Thầy truyền cho chúng em niềm tin
        Đạo làm người, lòng yêu nước
        Em càng thấm thía vô cùng
        Vì sao những người có tâm huyết ngày xưa
        Những Chu Văn An, Nguyễn Bỉnh Khiêm,
        Nguyễn Thiếp, Phan Châu Trinh, …
        Đều yêu nghề dạy học.

        Tổ Quốc cần, gọi em về phía trước
        “Em ơi em, can đảm bước chân lên!” (1)
        Em sẽ khắc trong lòng
        Những lời dạy đầu tiên!

        Lời của Thầy theo mãi bước em đi.

        Hoàng Kim
        Rút trong tập THƠ CHO CON

        (1) bài thơ của thầy Nguyễn Khoa Tịnh
        Em ơi em can đảm bước chân lên

        Trăng rằm

        TRĂNG RẰM VUI CHƠI GIĂNG
        Hoàng Kim

        Trăng rằm vui chơi giăng
        Đêm Vu Lan mờ tỏ
        Trăng rằm khuya lồng lộng giữa trời
        Thăm thẳm lời Người nói …

        Mẹ cũ như ngôi nhà cũ
        Chiếc áo mẹ mang bạc phếch tháng năm
        Cha cũ như con thuyền cũ
        Dòng sông quê hương thao thiết đời con

        Anh chị cũ tình vẹn nghĩa
        Trọn đời thương nhau lồng lộng trăng rằm
        Em tôi hồn quê dáng cũ
        Con cháu niềm vui thơm thảo tháng năm

        Thầy bạn lộc xuân đầy đặn
        Bài ca thời gian ngời ngợi trăng rằm.

        Thắp đèn lên đi em
        Đêm Vu Lan tỉnh thức
        Thương nhớ bài thơ cũ
        Chuyện đời không nỡ quên …

        Ngày mới và đêm Vu Lan
        Vầng trăng Sao Hôm Sao Kim thân thiết.
        Loanh quanh tìm tòi cái mới
        Đêm Vu Lan thức về lại chính mình.

        Đêm Vu Lan nhớ mùa thu đi học
        Nhớ ngọn đèn mờ tỏ giấc mơ xưa
        Thương con vạc gọi sao Mai mọc sớm
        Vầng trăng khuya thăm thẳm giữa tâm hồn

        Thắp đèn lên đi em (1)
        Gốc mai vXem tiếp >>

          Dạy và học 17 tháng 10(17-10-2021)

        DẠY VÀ HỌC 17 THÁNG 10
        Hoàng Kim
        CNM365 Tình yêu cuộc sốngChương mục tiêu quốc gia; Hoàng Long dạy và học; Cây Lương thực Việt Nam; Tổ hợp tác nông nghiệp; Phát triển nông thôn mới; Đồng xuân lưu dấu hiền; Borlaug và Hemingway; Ngày mới lời yêu thương; Lời Thầy dặn thung dung; Giấc mơ thiêng cùng Goethe; Bài ca nhịp thời gian; Nguyễn Du tư liệu quý, Linh Nhạc thương lời hiền; Trung Liệt đền thờ cổ; “Bang giao tập” Việt Trung; Nguyễn Du niên biểu luận; Nguyễn Du trăng huyền thoại; Ngày Thế giới chống đói nghèo, (International Day for the Eradication of Poverty) được cử hành vào ngày 17 tháng 10 hàng năm trên toàn thế giới. Ngày này được Liên Hiệp Quốc chính thức công nhận là ngày lễ quốc tế trong Nghị quyết A/RES /47/196 ngày 22/12/1992 Ngày 17 tháng 10 năm 1979, Mẹ Têrêsa được trao giải Nobel Hòa bình do những hoạt động nhằm đấu tranh vượt qua nghèo khó tại Ấn Độ. Ngày 17 tháng 10 năm 1849, ngày mất Frédéric Chopin nhà soạn nhạc nổi tiếng người Ba Lan. Bài viết chọn lọc ngày 17 tháng 10: Chương mục tiêu quốc gia; Hoàng Long dạy và học; Cây Lương thực Việt Nam; Tổ hợp tác nông nghiệp; Phát triển nông thôn mới; Đồng xuân lưu dấu hiền; Borlaug và Hemingway; Ngày mới lời yêu thương; Lời Thầy dặn thung dung; Giấc mơ thiêng cùng Goethe; Bài ca nhịp thời gian; Nguyễn Du tư liệu quý, Linh Nhạc thương lời hiền; Trung Liệt đền thờ cổ; “Bang giao tập” Việt Trung; Nguyễn Du niên biểu luận; Nguyễn Du trăng huyền thoại; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/ http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-17-thang-10/.

        CHƯƠNG MỤC TIÊU QUỐC GIA
        Hoàng Kim

        Chương mục tiêu quốc gia
        Một niềm tin thắp lửa
        Tổ hợp tác nông nghiệp
        Phát triển nông thôn mới
        Đồng xuân lưu dấu hiền

        Tích hợp thông tin theo chủ đề PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN MỚI, xem tiếp
        https://hoangkimlong.wordpress.com/category/chuong-muc-tieu-quoc-gia/;
        https://hoangkimlong.wordpress.com/category/phat-trien-nong-thon-moi
        https://hoangkimlong.wordpress.com/category/mot-niem-tin-thap-lua/

        CHƯƠNG MỤC TIÊU QUỐC GIA

        Theo Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam “Chương mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030” Ngày 14/10/2021, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1719/ QĐ-TTg về phê duyệt Chương mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030, giai đoạn I: từ năm 2021-2025.

        Ảnh báo ĐCSVN

        Khai thác tiềm năng, lợi thế của các địa phương trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi

        Thực hiện Nghị quyết số 120/2020/QH14 ngày 19/6/2020 của Quốc hội về phê duyệt chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 – 2030, ngày 14/10/2021 Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1719/QĐ-TTg phê duyệt Chương mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030.

        Mục tiêu tổng quát của Nghị quyết nhằm khai thác tiềm năng, lợi thế của các địa phương trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; đổi mới sáng tạo, đẩy mạnh phát triển kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội; giảm nghèo nhanh, bền vững, thu hẹp dần khoảng cách về mức sống, thu nhập bình quân của vùng so với bình quân chung của cả nước; giảm dần số xã, thôn đặc biệt khó khăn; quy hoạch, sắp xếp, bố trí ổn định dân cư, xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội đồng bộ, liên vùng, kết nối với các vùng phát triển; phát triển toàn diện giáo dục, đào tạo, y tế, văn hóa; cải thiện rõ rệt đời sống của Nhân dân; nâng cao số lượng, chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, người lao động là người dân tộc thiểu số; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa tốt đẹp của các dân tộc thiểu số đi đôi với xóa bỏ phong tục tập quán lạc hậu; thực hiện bình đẳng giới và giải quyết những vấn đề cấp thiết đối với phụ nữ và trẻ em; xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, đảm bảo an ninh biên giới quốc gia; củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết các dân tộc, nâng cao niềm tin của đồng bào các dân tộc đối với Đảng và Nhà nước.

        Phạm vi của Chương trình: Trên địa bàn các xã, thôn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; trong đó, ưu tiên nguồn lực của Chương trình đầu tư cho các địa bàn đặc biệt khó khăn (xã đặc biệt khó khăn, thôn đặc biệt khó khăn), xã an toàn khu (ATK) thuộc vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.

        Đối tượng của Chương trình bao gồm: Xã, thôn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; Hộ gia đình, cá nhân người dân tộc thiểu số; Hộ gia đình, cá nhân người dân tộc Kinh thuộc diện hộ nghèo, cận nghèo sinh sống ở xã, thôn đặc biệt khó khăn; Doanh nghiệp, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã (HTX), các tổ chức kinh tế hoạt động ở địa bàn các xã, thôn đặc biệt khó khăn.

        Các dự án thành phần của Chương trình

        (ảnh báo ĐCSVN)

        Nghị quyết cũng nêu rõ từng Dự án Chương trình thực hiện theo Nghị Quyết

        Dự án 1: Giải quyết tình trạng thiếu đất ở, nhà ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt

        Dự án 2: Quy hoạch, sắp xếp, bố trí, ổn định dân cư ở những nơi cần thiết.

        Dự án 3: Phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp, phát huy tiềm năng, thế mạnh của các vùng miền để sản xuất hàng hóa theo chuỗi giá trị.

        Dự án 4: Đầu tư cơ sở hạ tầng thiết yếu, phục vụ sản xuất, đời sống trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi và các đơn vị sự nghiệp công của lĩnh vực dân tộc.

        Dự án 5: Phát triển giáo dục đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.

        Dự án 6: Bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc thiểu số gắn với phát triển du lịch.

        Dự án 7: Chăm sóc sức khỏe nhân dân, nâng cao thể trạng, tầm vóc người dân tộc thiểu số; phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em.

        Dự án 8: Thực hiện bình đẳng giới và giải quyết những vấn đề cấp thiết đối với phụ nữ và trẻ em

        Dự án 9: Đầu tư phát triển nhóm dân tộc rất ít người, nhóm dân tộc còn nhiều khó khăn

        Dự án 10: Truyền thông, tuyên truyền, vận động trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Kiểm tra, giám sát đánh giá việc tổ chức thực hiện chương trình.

        Dự kiến tổng mức vốn để thực hiện Chương trình giai đoạn 2021 – 2025 là 137.664,959 tỷ đồng. Cụ thể từng huy động từ các nguồn vốn:

        –      Vốn ngân sách trung ương: 104.954,011 tỷ đồng; bao gồm:

        Vốn đầu tư: 50.000 tỷ đồng (đã được bố trí theo Nghị quyết số 29/2021/QH15 ngày 28 tháng 7 năm 2021 của Quốc hội về Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021 – 2025); Vốn sự nghiệp: 54.324,848 tỷ đồng.

        Đối với số vốn còn lại (629,163 tỷ đồng): Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với Ủy ban Dân tộc, Bộ Tài chính báo cáo cấp có thẩm quyền cân đối, bố trí trong quá trình thực hiện Chương trình.

        –      Vốn ngân sách địa phương: 10.016,721 tỷ đồng.

        –      Vốn vay tín dụng chính sách: 19.727,020 tỷ đồng.

        –      Vốn huy động hợp pháp khác: 2.967,207 tỷ đồng.

        Thủ tướng Chính phủ cũng nêu rõ trách nhiệm của Uỷ ban nhân dân tỉnh trong việc thực hiện Nghị quyết, gồm:

        – Phê duyệt kế hoạch thực hiện Chương trình trong giai đoạn 5 năm và hằng năm bao gồm các nội dung: Kế hoạch về nguồn vốn, mục tiêu, nhiệm vụ gửi Cơ quan chủ trì Dự án, Tiểu dự án, nội dung thành phần của Chương trình, Ủy ban Dân tộc và các cơ quan liên quan theo quy định;

        – Tổ chức triển khai; giám sát, đánh giá và báo cáo kết quả thực hiện Chương trình trên địa bàn tỉnh theo định kỳ, đột xuất;

        – Chỉ đạo, phân công trách nhiệm của từng cấp và các sở, ban, ngành trong việc tổ chức thực hiện Chương trình theo nguyên tắc đẩy mạnh phân cấp và đề cao tinh thần trách nhiệm cho cơ sở;

        – Ban hành cơ chế, chính sách, hướng dẫn tổ chức triển khai Chương trình trên địa bàn tỉnh theo thẩm quyền, nhiệm vụ được giao;

        – Chỉ đạo kiện toàn hoặc thành lập mới Ban Chỉ đạo chung cho các Chương trình mục tiêu quốc gia các cấp và bộ máy tham mưu, giúp việc cho Ban Chỉ đạo các cấp theo quy định của Nghị quyết số 24/2021/QH15 ngày 28 tháng 7 năm 2021 và Nghị quyết số 25/2021/QH15 ngày 28 tháng 7 năm 2021 của Quốc hội.

        TỔ HỢP TÁC NÔNG NGHIỆP

        “Quy định mới về tổ hợp tác” là văn bản nhà nước Việt Nam đăng trên Báo điện tử Việt Nam ngày 11/10/2019 22:29 (GMT+7)
        https://dangcongsan.vn/kinh-te/quy-dinh-moi-ve-to-hop-tac-539047.html

        Theo “Quy định mới về tổ hợp tác” thì nội dung toàn văn như sau
        Quy định mới về tổ hợp tác

        (ĐCSVN11/10.2019. – Theo quy định, tổ hợp tác là tổ chức không có tư cách pháp nhân, được hình thành trên cơ sở hợp đồng hợp tác, gồm từ 02 cá nhân, pháp nhân trở lên tự nguyện thành lập, cùng đóng góp tài sản, công sức để thực hiện những công việc nhất định, cùng hưởng lợi và cùng chịu trách nhiệm.

          Tổ hợp tác sản xuất nông nghiệp thị xã Ba Đồn ra quân khơi thông kênh mương nội đồng chuẩn bị cho vụ sản xuất mới. (Ảnh minh họa. Nguồn ảnh: baoquangbinh.vn)

        Chính phủ vừa ban hành Nghị định 77/2019/NĐ-CP quy định về thành lập, tổ chức, hoạt động và chấm dứt hoạt động của tổ hợp tác. Nghị định này có hiệu lực từ ngày 25/11/2019 và thay thế Nghị định 151/2007/NĐ-CP.

        Theo quy định, tổ hợp tác là tổ chức không có tư cách pháp nhân, được hình thành trên cơ sở hợp đồng hợp tác, gồm từ 02 cá nhân, pháp nhân trở lên tự nguyện thành lập, cùng đóng góp tài sản, công sức để thực hiện những công việc nhất định, cùng hưởng lợi và cùng chịu trách nhiệm.

        Tổ hợp tác tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc: 1- Tổ hợp tác hoạt động trên cơ sở hợp đồng hợp tác; 2- Cá nhân, pháp nhân tự nguyện thành lập, gia nhập và rút khỏi tổ hợp tác; 3- Thành viên tổ hợp tác có quyền dân chủ, bình đẳng trong việc quyết định tổ chức và hoạt động của tổ hợp tác. Quyết định theo đa số trừ trường hợp hợp đồng hợp tác, Bộ luật dân sự và pháp luật có liên quan quy định khác; 4- Cùng hưởng lợi và cùng chịu trách nhiệm.

        Tổ hợp tác có quyền: 1- Tên riêng; 2- Tự do hoạt động, kinh doanh trong những ngành, nghề mà luật không cấm; được quyền kinh doanh ngành, nghề kinh doanh có điều kiện kể từ khi có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật; 3- Hợp tác kinh doanh với tổ chức, cá nhân để mở rộng hoạt động, sản xuất, kinh doanh theo quy định của pháp luật; 4- Thực hiện mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán theo quy định của pháp luật có liên quan; 5- Xác lập và thực hiện các giao dịch dân sự theo quy định của Nghị định, Điều 508 của Bộ luật dân sự và pháp luật khác có liên quan; 6- Được hưởng các chính sách ưu đãi, hỗ trợ của Nhà nước như các hợp tác xã; 7- Quyền khác theo quy định của hợp đồng hợp tác, Bộ luật dân sự và pháp luật khác có liên quan.

        Nghị định nêu rõ, để trở thành thành viên của tổ hợp tác, các thành viên phải đáp ứng các điều kiện sau:

        1- Cá nhân là công dân Việt Nam, có năng lực hành vi dân sự phù hợp theo quy định từ Điều 16 đến Điều 24 Bộ luật dân sự, quy định của Bộ luật lao động và pháp luật khác có liên quan;
        2- Tổ chức là pháp nhân Việt Nam, thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật Việt Nam, có năng lực pháp luật phù hợp với lĩnh vực kinh doanh của tổ hợp tác;
        3- Tự nguyện gia nhập và chấp thuận nội dung hợp đồng hợp tác;
        4- Cam kết đóng góp tài sản, công sức theo quy định của hợp đồng hợp tác;
        5- Điều kiện khác theo quy định của hợp đồng hợp tác.

        Ngoài ra, Nghị định cũng nêu rõ tổ hợp tác bị chấm dứt hoạt động trong trường hợp sau: a- Hết thời hạn ghi trong hợp đồng hợp tác; b- Mục đích hợp tác đã đạt được; c- Không duy trì số lượng thành viên tối thiểu theo quy định; d- Theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; đ- Theo quy định của hợp đồng hợp tác và pháp luật có liên quan; e- Theo thỏa thuận của các thành viên tổ hợp tác.

        PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN MỚI

        Bảo tồn và phát triển sắn; Chọn giống sắn kháng CMDNông nghiệp công nghệ cao; Nông nghiệp sinh thái Việt; Khoai Sắn Lúa Siêu Xanh Cây Lương thực Việt Nam , Chuyển đổi số nông nghiệp … là các chủ đề thời sự cần tích hợp mạnh mẽ trong phát triển nông thôn mới xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/phat-trien-nong-thon-moi

        ĐỒNG XUÂN LƯU DẤU HIỀN

        Dấu cũ hiền tài lắng đọng
        Dòng sông thế núi không quên
        Chuyện “
        Đào Duy Từ còn mãi
        Đời “
        Châu Văn Tiếp Phú Yên

        Đồng Xuân, Tùng Châu, Châu Đức
        Sắn biếc lúa xanh tâm hồn
        Thương núi Lương Sơn tá quốc
        Nhớ
        sông Kỳ Lộ Phú Yên

        Một vùng đất thiêng cổ tích
        Tùng Châu, Châu Đức, Đồng Xuân
        Một giấc mơ lành hạnh phúc
        Lời thương thăm thẳm giữa lòng.

        2

        Thân thiết thương người hiền cũ
        Tháng năm nhanh thật là nhanh
        Tùng Châu, Hoài Nhơn, Phụng Dụ
        Dừa xanh, sắn biếc tâm hồn

        Cứ nhớ thương thầm dấu cũ
        Dòng đời đâu dễ nguôi quên
        Chuyên “
        Đào Duy Từ còn mãi
        Đồng xuân lưu dấu người hiền

        Một giấc mơ lành hạnh phúc
        Tùng Châu, Châu Đức, Đồng Xuân
        Một góc vườn thiêng cổ tích
        Lời thương thăm thẳm giữa lòng

        MỘT NIỀM TIN THẮP LỬA
        Hoàng Kim

        Nhìn đàn em ngời niềm vui rạng rỡ.
        Chợt thấy lòng rưng rưng.
        Công việc nghề nông cực mà hạnh phúc.
        Cố lên em nổ lực không ngừng !

        Hột mồ hôi lắng vào hạt gạo.
        Câu ca ông bà theo suốt tháng năm.
        Thêm bữa cơm ngon cho người lao động.
        Nâng chén cơm thơm, qúy trọng người trồng.

        Em ơi hãy học làm ruộng giỏi.
        Nghề nông thời nào cũng quý kỹ năng.
        Người dân khá hơn là niềm ao ước
        Công việc này giao lại cho em.

        Có một mùa Vu Lan hạnh phúc
        Ơn mẹ cha lam lũ sớm hôm
        Thương con vạc gọi sao mai dậy sớm
        Một niềm tin thắp lửa giữa tâm hồn.

        Bước tiếp bước giữa trường đời gian khó
        HỌC ĐỂ LÀM người lao động siêng năng
        Rèn nhân cách vượt lên bao cám dỗ
        Đức và Tài tử tế giữa Nhân Dân.

        Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là 1-mot-niem-tin-thap-lua-1a.jpg
        Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là mot-niem-tin-thap-lua-9.jpg
        Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là mot-niem-tin-thap-lua-7.jpg
        Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là 1-mot-niem-tin-thap-lua-7.jpg
        Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là 1-mot-niem-tin-thap-lua-8.jpg
        Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là 1-mot-niem-tin-thap-lua-9.jpg
        Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là mot-niem-tin-thap-lua-5.jpg
        Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là mot-niem-tin-thap-lua-1.jpg
        Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là mot-niem-tin-thap-lua-4.jpg
        Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là mot-niem-tin-thap-lua-3.jpg

        Giúp bà con cải thiện vụ mùa
        Một niềm tin thắp lửa

        Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là thay-ban-trong-doi-toi-3-1.jpg
        HuynhHuong Vo Minh Luan
        Congviecnaytraolaichoem
        Congviecnaytraolaichoem1

        Một niềm tin thắp lửa
        Hoàng Kim

        IAS 20 11 2015aaa
        GiadinhNN
        Congviecnaytraolaichoem3
        NhoThay1
        NhoThay2

        Xem tiếp >>

          Dạy và học 16 tháng 10 (16-10-2021)


        DẠY VÀ HỌC 16 THÁNG 10
        Hoàng Kim
        CNM365 Tình yêu cuộc sốngNguyễn Du trăng huyền thoại; Nguyễn Du niên biểu luận; Nguyễn Du tư liệu quý; Những người Việt ở FAO; An nhiên nơi tỉnh lặng; Trạng Trình dưỡng sinh thi;Vui đến chốn thung dung; Nghiên cứu Kinh Dược Sư; Thánh Trần Chùa Thắng Nghiêm ; Nguyễn Minh Không Bái Đính; Sông Hoàng Long chảy hoài; Truyện Norodom Sihanouk; Thơ thầy Hồ Ngọc Diệp; Nguyễn Huệ thời Tây Sơn; Dạo chơi non nước Việt; Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hiệp Quốc (FAO) được thành lập ngày 16 tháng 10 năm 1945 tại thành phố Québec, Canada. Năm 1951, trụ sở chính của FAO tại Washington DC, Mỹ được chuyển về Roma, Ý. Tháng 5 năm 2015, FAO có tổng cộng 194 thành viên. Ngày 16 tháng 10 hàng năm là Ngày Lương thực thế giới (World Food Day), Ngày 16 tháng 10 năm 2007: ngày mất Giáo sư Cao Xuân Hạo. Ngày 16 tháng 10 năm 690,  Võ Tắc Thiên lên ngôi hoàng đế, đổi quốc hiệu từ “Đường” thành “Chu”, sau khi phế con là Đường Duệ Tông thành “hoàng tự”; Bài chọn lọc ngày 16 tháng 10: Nguyễn Du trăng huyền thoại; Nguyễn Du niên biểu luận; Nguyễn Du tư liệu quý; Những người Việt ở FAO; An nhiên nơi tỉnh lặng; Trạng Trình dưỡng sinh thi;Vui đến chốn thung dung; Nghiên cứu Kinh Dược Sư; Thánh Trần Chùa Thắng Nghiêm ; Nguyễn Minh Không Bái Đính; Sông Hoàng Long chảy hoài; Truyện Norodom Sihanouk; Thơ thầy Hồ Ngọc Diệp; Nguyễn Huệ thời Tây Sơn; Dạo chơi non nước Việt; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-16-thang-10/.

        NGUYỄN DU NIÊN BIỂU LUẬN
        Hoàng Kim

        Mười lăm năm tuổi thơ (1766-1780)
        Mười lăm năm lưu lạc (1781-1796)
        Thời Hồng Sơn Liệp Hộ (1797-1802)
        Bắc Hành và Truyện Kiều (1802-1820)

        Nguyễn Du niên biểu luận là Nguyễn Du và thời thế theo từng năm của 55 năm cuộc đời ông Nguyễn Du trăng huyền thoại, Mai Hạc vầng trăng soi góp phần làm sáng tỏ cuộc đời thời thế của ông và hổ trợ thông tin giải mã ẩn ngữ Truyện Kiều và Bắc Hành là hai kiệt tác của Nguyễn Du Thiền sư Linh Nhạc Phật Ý tại Tổ Đình Phước Tường Thủ Đức trong giấc mơ lạ Nguyễn Du nửa đêm đọc lại khuyên tôi lập “Nguyễn Du niên biểu luận” Nguyễn Du và thời thế để tìm hiểu về Người. Theo vị Thiền sư này thì dấu vết chứng cứ sự thật hàng năm của Nguyễn Du là chỉ dấu đáng tin cậy nhất về những sự kiện trọng yếu trong thời ông. Điều này chi phối quyết định và gợi ý sâu sắc nhất xử thế của bình sinh hành trạng Nguyễn Du. Chúng ta nếu muốn hiểu đúng sự thật về Nguyễn Du và Truyện Kiều thì cần có những sự kiện chính yếu của thời thế đàng Trong và đàng Ngoài cùng với các nước liên quan soi vào hệ quy chiếu chính cuộc đời Nguyễn Du và gia tộc Nguyễn Du làm trung tâm mới thấu hiểu. Đó là phương pháp luận liên ngành tổng hợp với hệ thống thông tin thực sự bổ ích để hiểu đúng ẩn ngữ Truyện Kiều, lịch sử, văn hóa, con người và bối cảnh hình thành kiệt tác”Truyện Thúy Kiều”.


        Kết quả nghiên cứu này cho thấy: Nguyễn Du 55 năm cuộc đời chia làm hai thời kỳ Nguyễn Du thời Tây Sơn (1766-1802) và Nguyễn Du thời Nhà Nguyễn (1802-1820). Nguyễn Du thời Tây Sơn có Mười lăm năm tuổi thơ (1766 – 1780), Mười lăm năm lưu lạc (1781 – 1796), Năm năm thời Hồng Sơn Liệp Hộ (1797- 1802). Nguyễn Du làm quan thời nhà Nguyễn 18 năm từ năm 1802 cho tới lúc ông mất năm 1820.

        Nguyễn Du thời Tây Sơn (1766-1802) Tóm tắt gồm có bốn sự kiện chính nổi bật (ngày nay sử liệu đã hoàn toàn sáng tỏ, có đủ chứng cứ sự thật chứng thực).1) Quang Trung đại phá quân Thanh năm Kỷ Dậu 1789; 2) Nguyễn Vương bình Gia Định nhờ lợi dụng tình thế ngay đúng năm ấy; 3) Nguyễn Du xây đền cổ Trung Liệt cho nhà Hậu Lê tại Thăng Long và tu bổ phần mộ tổ tiên Họ Nguyễn Tiên Điền từ năm 1793 đến 1795 (Thời điểm 1792- 1793 là lúc 3 vị vua Nguyễn Huệ, Nguyễn Nhạc, Lê Chiêu Thống đều mất; Nguyễn Du xây đền Trung Liệt cho các trung thần nghĩa sĩ thời hậu Lê đã được thực hiện từ năm 1793 vã hoàn thành khoảng đầu năm 1795. Vua Lê Chiêu Thống qua đời tại Bắc Kinh năm 1793 nhưng tro cốt của ông được đưa về Việt Nam năm 1804 và chôn ở Thanh Hóa quê hương của tổ tiên ông Cương mục quyển XI .VII trang 48a, trích dẫn từ Chính sử triều Nguyễn; nguồn dẫn khác theo Lê Thành Khôi ‘Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến giữa thế kỷ 20’, trang 386); 4) Nguyễn Du làm Nam Hải Điếu Đồ (1791-1796) và Hồng Sơn Liệp Hộ (1797- 1802) Thời Nguyễn Du làm Hồng Sơn Liệp Hộ (Người đi săn ở núi Hồng), Nguyễn Du sống chủ yếu ở Nghệ Tĩnh. Thông tin chi tiết tại Nguyễn Du niên biểu luận, Nguyễn Du thời Tây Sơn

        Nguyễn Du thời Nhà Nguyễn (1802-1820):Tóm tắt gồm có sáu sự kiện chính nổi bật (ngày nay sử liệu cũng đã hoàn toàn sáng tỏ, có đủ chứng cứ sự thật chứng thực): 1) Nguyễn Du gặp vua Gia Long năm 1802 khi vua Gia Long ra Bắc và Nguyễn Du được bổ nhiệm ngay làm quan tri huyện Phù Dung (1802) sau đó được thăng chức tri phủ Thường Tín (1803-1804) và cai bạ Quảng Bình (1808-1811); 2) Nguyễn Du làm quan nhà Nguyễn có chính tích được lưu trong Chính sử Nhà Nguyễn, 3) Nguyễn Du được thăng Đông Các học sĩ, hàm ngũ phẩm, tước Du Đức hầu, ông vào nhậm chức cần chánh điện đại học sĩ, chức vụ dâng sách cho vua Gia Long đọc mỗi ngày. (1805- 1807), 4) Nguyễn Du làm quan Chánh sứ đi sứ nhà Thanh (1813-1814); 5) Nguyễn Du sau khi đi sứ nhà Thanh thành công trở về được nghỉ phép ở quê sáu tháng, Trong thời gian này, Nguyễn Du đã hoàn thiện tập thơ Truyện Kiều chữ Nôm và Bắc Hành chữ Hán (gồm “Bắc hành tạp lục” 132 bài, “Nam trung tạp ngâm” 16 bài “Thanh Hiên thi tập” 78 bài). 6) Nguyễn Du vào Huế nhậm chức Hữu Tham tri Bộ Lễ (1815-1820) và chết ở Huế năm 1820. Thông tin chi tiết tại Nguyễn Du niên biểu luận, Nguyễn Du thời nhà Nguyễn .

        Mời quý bạn đọc chùm bài Nguyễn Du trăng huyền thoại, Nguyễn Du tư liệu quý, Nguyễn Du thơ chữ Hán; Nguyễn Du thời Tây Sơn; Nguyễn Du Hồ Xuân Hương của Hoàng Kim.

        Hình thế nước Đại Việt đàng Trong đàng Ngoài năm 1760. Bản đồ vẽ bởi công ty Cóvens e Mortier, Amsterdam (hình trên) và Hình thế nước Đại Việt đàng Trong đàng Ngoài năm 1788 trước mùa xuân Kỷ Dậu năm 1790 (vẽ theo sử liệu và bản đồ Trần Trọng Kim) đã cho thấy Nguyễn Du cuộc đời và thời thế. Diễn biến thời cuộc từ khi Nguyễn Du sinh ra năm 1766 đến khị Triều đại Tây Sơn sụp đổ năm 1802 qua minh chứng tại Nguyễn Du niên biểu luận

        NGUYỄN DU MỘT TỔNG LUẬN

        1. Nguyễn Du không chỉ là nhà thơ lớn, danh nhân văn hóa thế giới mà còn là danh sĩ tinh hoa, đấng anh hùng hào kiệt minh sư hiền tài lỗi lạc.

        2. Nguyễn Du rất mực nhân đạo và minh triết, ông nổi bật hơn tất cả những chính khách và danh nhân cùng thời. Nguyễn Du vượt lên vinh nhục bản thân giữa thời nhiễu loạn, vàng lầm trong cát để trao lại ngọc cho đời. “Nguyễn Du là người rất mực nhân đạo trong một thời đại ít nhân đạo” (Joocjo Budaren nhà văn Pháp). Ông chí thiện, nhân đạo, minh triết, mẫu hình con người văn hóa tương lai. Kiều Nguyễn Du là bài học lớn về tâm tình hồn Việt. Truyện Kiều của Nguyễn Du đã thấm sâu vào hồn Việt và lan tỏa khắp thế giới.

        3. Nguyễn Du quê hương và dòng họ cho thấy gia tộc họ Nguyễn Tiên Điền là dòng họ lớn đại quý tộc có thế lực mạnh “Triều đình riêng một góc trời/ Gồm hai văn võ, rạch đôi sơn hà”. Vị thế gia tộc Nguyễn Tiên Điền đến mức nhà Lê, họ Trịnh, nhà Tây Sơn, nhà Nguyễn đều tìm mọi cách liên kết, lôi kéo, mua chuộc, khống chế hoặc ra tay tàn độc để trấn phản.

        4. Nguyễn Du niên biểu luận, cuộc đời và thời thế là bức tranh bi tráng của một bậc anh hùng hào kiệt nhân hậu, trọng nghĩa và tận lực vì lý tưởng. Nguyễn Du đã phải gánh chịu quá nhiều chuyện thương tâm và khổ đau cùng cực cho chính ông và gia đình ông bởi biến thiên của thời vận”Bắt phong trần phải phong trần.Cho thanh cao mới được phần thanh cao“. Nguyễn Du mười lăm năm tuổi thơ (1765-1780) mẹ mất sớm, ông có thiên tư thông tuệ, văn võ song toàn, văn tài nổi danh tam trường, võ quan giữ tước vị cao nơi trọng yếu; người thân gia đình ông giữ địa vị cao nhất trong triều Lê Trịnh và có nhiều người thân tín quản lý phần lớn những nơi trọng địa của Bắc Hà. Nguyễn Du mười lăm năm lưu lạc (1781- 1796) Thời Hồng Sơn Liệp Hộ (1797-1802) Nlà giai đoạn đất nước nhiễu loạn Lê bại Trịnh vong, nội chiến, tranh đoạt và ngoại xâm. Nguyễn Du và gia đình ông đã chịu nhiều tổn thất nhưng ông kiên gan bền chí, tận tụy hết lòng vì nhà Lê “Bên tình bên hiếu bên nào nặng hơn. Để lời thệ hải minh sơn. Làm con trước phải đền ơn sinh thành“. Nguyễn Du thời Nhà Nguyễn (1802- 1820) ra làm quan triều Nguyễn giữ các chức vụ từ tri huyên, cai bạ, cần chánh điện đại hoc sĩ, chánh sứ đến hữu tham tri bộ lễ. Ông là nhà quản lý giỏi yêu nước thương dân, Nguyễn Du để lại kiệt tác Truyện Kiều là di sản muôn đời, kiệt tác thơ chữ Hán có Bắc hành tạp lục 132 bài, Nam trung tạp ngâm 16 bài và Thanh Hiên thi tập 78 bài, là phần sâu kín trong tâm trạng Nguyễn Du, tỏa sáng tầm vóc và bản lĩnh của một anh hùng quốc sĩ tinh hoa, chạm thấu những vấn đề sâu sắc nhất của tình yêu thương con người và nhân loại. Đặc biệt “Bắc Hành tạp lục” là kiệt tác sử thi và tuyên ngôn ngoại giao nhân nghĩa  làm rạng danh nước Việt.

        5. Minh triết ứng xử của Nguyễn Du là bậc hiền tài trước ngã ba đường đời là phải chí thiện và thuận theo tự nhiên “Tùy cơ, tùy vận, tùy thiên mệnh, tùy thời, tùy thế, lại tùy nghi” Nguyễn Du ký thác tâm sự vào Truyện Kiều là ẩn ngữ ước vọng đời người, tâm tình và tình yêu cuộc sống “Thiện căn cốt ở lòng ta, Chữ tâm kia mới thành ba chữ tài” .

        6. Truyện Kiều có tầm ảnh hưởng rất sâu rộng đã trở thành hồn Việt, và là tác phẩm văn học cổ điển Việt Nam được dịch ra hơn 20 thứ tiếng và trên 73 bản dịch. Giá trị tác phẩm Kiệt tác Truyện Kiều của Nguyễn Du có sự tương đồng với kiệt tác Hồng Lâu Mộng của Tào Tuyết Cần.nhưng khác chiều kích văn hóa giáo dục và giá trị tác phẩm.

        7. Nhân cách, tâm thế của con người Nguyễn Du đặt trong mối tương quan với Nguyễn Huệ và Nguyễn Ánh của thời đại Hậu Lê Trịnh – nhà Tây Sơn – đầu triều Nguyễn; khi so sánh với Tào Tuyết Cần là văn nhân tài tử của thời đại cuối nhà Minh đến đầu và giữa nhà Thanh thì vừa có sự tương đồng vừa có sự dị biệt to lớn.

        8. Gia tộc của Nguyễn Quỳnh – Nguyễn Thiếp – Nguyễn Du tương đồng với gia tộc của Tào Tỷ – Tào Dần – Tào Tuyết Cần nhưng nền tảng đạo đức văn hóa khác nhau  Nhấn mạnh điều này để thấy sự cần thiết nghiên cứu liên ngành lịch sử, văn hóa, con người tác gia, bởi điều đó chi phối rất sâu sắc đến giá trị của kiệt tác.

        9. Nguyễn Du danh si tinh hoa là tấm gương soi sáng thời đại Nguyễn Du

        QUÊ HƯƠNG VÀ DÒNG HỌ

        Nguyễn Du tự Tố Như, hiệu Thanh Hiên, biệt hiệu Nam Hải Điếu Đồ (kẻ đi câu ở biển Nam) lại có hiệu Hồng Sơn Liệp Hộ (người đi săn ở núi Hồng). Nguyễn Du sinh 1766, tại làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, Nghệ An (theo gia phả của họ Nguyễn Tiên Điền thì Nguyễn Du sinh tại Tiên Điền chứ không phải sinh tại Hà Nội). Nguyễn Du thi Hương tại Sơn Nam năm 1783 và chỉ đậu Tam Trường. Ông có được bổ sung chức quan tại Thường Tín, nhưng cáo ốm không nhậm chức. Khi Tây Sơn ra Bắc. Thận Quân Công có ép ra phục vụ, nhưng Nguyễn Du và nhiều chí sĩ thời bấy giờ cho rằng Tây Sơn là giặc, nên từ chối, bị nhốt hai tháng rồi thả ra. họ Nguyễn Tiên Điền quê hương Nghệ Tĩnh nhưng sống nhiều nơi “Hồng Lam vô gia huynh đệ tán”, mẹ họ Trần đất Kinh Bắc, tổ tiên Sơn Nam, khởi nghiệp Thái Nguyên, nhiều năm lưu lạc giang hồ ở châu thổ sông Hồng, vùng núi phía Bắc, Nam Trung Quốc,và Nghệ Tĩnh, nhiều năm làm quan ở Quảng Bình và kinh đô Huế. Nguyễn Du là danh sĩ tinh hoa, tính tình khoan hòa điềm tĩnh, đi nhiều, học rộng, là nhà thơ nổi tiếng thời Lê mạt, Nguyễn sơ ở Việt Nam.

        Cha của Nguyễn Du là Nguyễn Nghiễm (1708 – 1775), sinh ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh, tên tự Hy Di, hiệu Nghi Hiên, có biệt hiệu là Hồng Ngự cư sĩ, đậu Nhị giáp tiến sĩ , làm quan đến chức Đại tư đồ (Tể tướng) kiêm Trung thư giám, Tổng tài Quốc sử giám, tước Thượng thư bộ Hộ, Xuân Quận công triều Lê.

        Mẹ là bà Trần Thị Tần, sinh ngày 24 tháng 8 năm 1740, mất ngày 27 tháng 8 năm 1778, con gái một người thuộc hạ của Nguyễn Nhiễm làm chức Câu kê lo việc kế toán, quản gia cho cụ Nguyễn Nghiễm. Quê mẹ Nguyễn Du ở làng Hoa Thiều, xã Minh Đạo, huyện Tiên Du (Đông Ngàn), xứ Kinh Bắc, nay thuộc tỉnh Bắc Ninh. Bà Trần Thị Tần là vợ thứ ba của Nguyễn Nghiễm, bà kém chồng 32 tuổi, sinh được năm con, bốn trai và một gái.

        Nguyễn Nghiễm có tám vợ và 21 người con. Vợ chánh thất là bà Đặng Thị Dương, sinh mẫu của Nguyễn Khản (1734-1786); bà hai là Đặng Thị Thuyết, sinh mẫu của Nguyễn Điều (1740-1786), bà là em ruột của bà chánh thất Đặng Thị Dương; bà ba là Trần Thị Tần, sinh mẫu của Nguyễn Trụ (1757-1775, con trai thứ 3), Nguyễn Nễ (1761-1805, con trai thứ 6), Nguyễn Thị Diên, Nguyễn Du (1765- 1820, con trai thứ 7, nên tục gọi là cậu Chiêu Bảy), Nguyễn Ức (1867-1823, con trai thứ 8); bà tư là Nguyễn Thị Xuyên, quê ở xã Hoàng Mai, Yên Dũng, Kinh Bắc, sinh mẫu của Nguyễn Quýnh (1759- 1791, con trai thứ 4), bà năm là Nguyễn Thị Xuân, quê xã Tiêu Sơn, huyện Yên Phong, xứ Kinh Bắc, sinh mẫu của Nguyễn Trừ (1760 -1809, con trai thứ 5) và Nguyễn Nghi (1773- 1845, con trai thứ 10); bà sáu là Phạm Thị Diễm, quê xã Hải Lộ, huyện Nam Chân, xứ Sơn Nam, sinh mẫu của Nguyễn Lạng (1768- 1817), con trai thứ 9), bà bảy là Hồ Thị Ngạn, người xã Hoa Viên, huyện Nghi Xuân, sinh mẫu của Nguyễn Nhưng (1763-1824), con trai thứ 11; bà tám là Hoàng Thị Thược, người xã Đan Hải, Nghi Xuân, sinh mẫu của Nguyễn Tốn (1767- 1812), con trai thứ 12 (Trích theo đúng gia phả, bản dịch của cụ Giải nguyên Lê Thước dịch từ năm 1962).

        Đền thờ Nguyễn Nghiễm ở thôn Bảo Kê, xã Tiên Điền. Đền có 3 tấm biển lớn, một khắc 4 chữ “Phúc lý vĩnh tuy” (Phúc ấm lâu dài) do tự tay chúa Trịnh viết. Một tấm khắc 4 chữ: “Dịch tế thư hương” (dòng thư hương đời nối đời) do Đức Bảo sứ thần nhà Thanh đề tặng. Một biển khắc 4 chữ “Quang tiền du hậu” (Rạng rỡ thế hệ trước, phúc ấm ở đời sau) do Tô Kính người Viễn Đông đề tặng. Đền còn có đôi câu đối: Lưỡng triều danh Tể Tướng. Nhất thế đại nho sư (Nho sư cả nước vang danh hiệu. Tể tướng hai triều rạng tiếng tăm). Danh sĩ La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp, người được Nguyễn Huệ tôn làm thầy, là học trò của Nguyễn Nhiễm, đã viết bài tán Phú Đức nói về thầy học của mình. Nguyễn Nhiễm khi còn sống đặt ruộng cúng và xây sẵn đền thờ ở mặt sông. Sau khi ông mất, triều đình phong “Thượng Đẳng Tôn Thần”, Huân Du Đô Hiến Đại Vương, hàng năm Quốc gia làm tế lễ. Lại giao cho 4 xã chăm sóc hương khói. Ngày sinh, ngày giỗ của ông có cả xã Uy Viễn cùng tế lễ.

        Tổ tiên của Nguyễn Du gốc ở làng Canh Hoạch, huyện Thanh Oai, trấn Sơn Nam (nay thuộc Hà Nội), sau di cư vào Hà Tĩnh, có truyền thống khoa bảng nổi danh ở làng Tiên Điền thời Lê mạt. Trước ông bảy thế hệ, viễn tổ họ Nguyễn Tiên Điền là Nam Dương hầu Nguyễn Nhiệm, con trai Nguyễn Miễn và là cháu Nguyễn Quyện, gọi Nguyễn Quyện bằng bác ruột, thời Lê Trung hưng có dự mưu phục lại nhà Mạc, bị thua trận chạy về phương Nam giấu hẵn tung tích đến sinh cơ lập nghiệp ở Tiền Điền Nghi Xuân. (Nguyễn Miễn là con của Trạng nguyên Nguyễn Thiến, hậu duệ người em của Nguyễn Phi Khanh). Nguyễn Trãi và Nguyễn Du cùng dòng họ và chung một ông tổ.

        Ông nội của Nguyễn Du là Nguyễn Quỳnh. Ông có 5 vợ và 9 con (6 trai, 3 gái). Trong số 6 người con trai thì có 3 người con đậu đại khoa và làm quan to là Nguyễn Huệ , Nguyễn Nghiễm và Nguyễn Trọng. Ông Nguyễn Quỳnh là người hay đọc sách, tinh thông lý số, giỏi kinh dịch, … Ông chuyên tâm dạy con cái học hành, có soạn ba bộ sách bàn về Kinh Dịch với những việc chiêm nghiệm được trong đời. Ông có trồng ba cây cổ thụ, một cây Muỗm (Xoài), một cây Bồ Lỗ (Cây Nóng), một cây Rói, để sau này con cái thành đạt về thăm cha có chỗ buộc ngựa. Những cây cổ thụ đó, nay vẫn còn, trừ cây Rói bị bão đổ năm 1976. Nguyễn Quỳnh giỏi y thuật từ khi còn trẻ nghe nói có gặp một người Trung Quốc là Ngô Cảnh Phượng (dòng dõi Ngô Cảnh Loan- một nhà địa lý nổi tiếng đời Tống)am hiểu địa lý, gặp nạn, ông đưa về nuôi. Ngô Cảnh Phượng cảm phục ân đức đã truyền cho bí quyết về phong thủy. Họ Nguyễn Tiên Điền thịnh đức, nếp nhà di huấn nối đời làm thuốc và dạy học, nếu có làm quan biết giữ tiết tháo, đức độ, thanh thận cần.

        Vợ chính thất của Nguyễn Du họ Đoàn là con thứ sáu của Đoàn Công, Hoàng giáp Phó Đô ngự sử Quỳnh Châu bá người Quỳnh Côi, Hải An (xưa thuộc Sơn Nam, nay thuộc Thái Bình). Theo gia phả của họ Nguyễn Tiên Điền thì ông bà sinh con trai tên Nguyễn Tứ tự là Hạo Như có văn học, Nguyễn Ngũ giỏi võ, Nguyễn Thuyến giỏi văn nhưng không tham gia chính sự. Năm Quý Dậu (1813), bà theo ông đi sứ phương Bắc, về nước được vài năm bị bệnh mất. Bà sinh được một gái gả cho Tú tài Ngô Cảnh Trân, người ở Trảo Nha, Thạch Hà.

        Một trong những người yêu thương nhất của Nguyễn Du là Hồ Phi Mai (Hồ Xuân Hương) bà chúa thơ nôm, tác giả của Lưu Hương ký, quê ở Quỳnh Đôi, có quan hệ mật thiết với họ Hồ nhà Tây Sơn. Hồ Xuân Hương cũng là tác giả của những tác phẩm thơ nổi tiếng: Bánh trôi nước, Kẽm Trống, Nhớ người cũ, viết gửi Cần Chánh Học Sĩ Nguyễn Hầu, Khóc ông phủ Vĩnh Tường, Khóc Tổng Cóc, Làm lẽ, Tự tình, Mời trầu, Đề đền Sầm Nghi Đống, Đèo Ba Dội, Hang Cắc Cớ, Cái quạt, Đánh đu, Thiếu nữ ngủ ngày, Không chồng mà chửa, Chùa Quán Sứ,  Sư hổ mang, Sư bị ong châm, Quan thị, Mắng học trò dốt … bài nào cũng thực thông minh, hóm hỉnh, vừa sâu sắc vừa cận nhân tình. Hồ Xuân Hương là một phụ nữ đặc biệt tài hoa nhưng bất hạnh. Bà có tới ba đời chồng là Tổng Cóc, Tri phủ Vĩnh Tường và Tham hiệp trấn Yên Quảng Trần Phúc Hiển, người  bị kết án năm 1816 và bị xử tử năm 1818.

        Gia tộc Nguyễn Du có nhiều người giỏi và giữ những vị trí trọng yếu của thời cuộc: cha là Nguyễn Nhiễm làm Tể tướng hai triều Lê; chức quan trước khi cáo lão về trí sĩ là thượng thư bộ Hộ, Đại Tư đồ, Tham tụng, tặng tiệp dinh Tả tướng, tước Xuân Quận công, anh cùng cha khác mẹ là Nguyễn Khản làm Tể tướng, Tham tụng, Thượng thư bộ Lại kiêm trấn thủ Thái Nguyên, Hưng Hóa triều Lê; cha nuôi là quan trấn thủ Thái Nguyên Quản Vũ Hầu Nguyễn Đăng Tiến, tướng tâm phúc của Nguyễn Nhiễm; cha vợ là Hoàng giáp Phó Đô ngự sử Quỳnh Châu bá Đoàn Nguyễn Thục; anh cùng mẹ là Nguyễn Nễ đứng đầu ngoại giao của cả ba triều Lê, Tây Sơn, Nguyễn (Nguyễn Nễ từng trãi Cai đội quân Nhất Phấn giữ phủ chúa Trịnh, Hiệp tán quân vụ nhà Lê, Tả Phụng nghi bộ Binh, Hiệp tán quân vụ trấn Quy Nhơn, Chánh sứ, Tả đồng nghị trung thư sảnh trấn Nghệ An nhà Tây Sơn, phụ tá Tổng trấn Bắc thành nhà Nguyễn); anh ruột là Nguyễn Điều làm trấn thủ Sơn Tây của triều Lê; anh vợ là Đoàn Nguyễn Tuấn làm Thị Lang bộ Lại nhà Tây Sơn; anh rể là tiến sĩ Vũ Trinh làm Hữu Tham tri bộ Hình, thầy dạy Nguyễn Văn Thuyên, con của Tổng trấn Bắc thành Nguyễn Văn Thành.

        Điểm đáng lưu ý là Nguyễn Du cũng là chú vợ của vua Gia Long Nguyễn Phúc Ánh. Cuốn gia phả cung cấp về cụ Nguyễn Trừ, anh trai thứ năm của Nguyễn Du : “Ông tên húy là Trừ, …, con bà trắc thất Nguyễn Thị Xuân, người xã Tiêu Sơn, huyện Yên Phong , Bắc Ninh và vẫn lưu ở quê mẹ. Năm Giáp Tý (1804) đổi làm Tri phủ Nam Sách. Ngày 8 tháng Giêng năm Gia Long thứ 8 (22 tháng 2 năm 1809) ông mang bệnh và mất ở đây, thọ 50 tuổi, đem về táng ở Tiêu Sơn (quê mẹ). Vợ kế thất là Tống Thị Thiếu sinh được 4 con trai Đại, Trù (làm tri phủ Vĩnh Tường), Hồng, Hiệp, có con gái là Thị Uyên được tuyển làm cung tần của vua Gia Long”. Vậy Nguyễn Trù là bố vợ của vua Gia Long.và Nguyễn Du là chú vợ của vua

        Nguyễn Du rất được quý trọng của nhiều danh sĩ đương thời. Văn chương của ông đặc biệt lưu truyền sâu rộng trong lòng dân. Ông giao thiệp rộng với nhiều tướng văn võ của triều Lê như Hoàng Ngũ Phúc, Nguyễn Hữu Chỉnh, với danh thần nhà Tây Sơn như La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp, Ngô Thì Nhậm, Trần Văn Kỷ, Phan Huy Ích, Ngô Văn Sở, Thận Quận công, với danh thần nhà Nguyễn như Nguyễn Văn Thành, Đặng Trần Thường, Trịnh Hoài Đức, Ngô Nhân Tĩnh, Phạm Văn Hưng, Nguyễn Công Trứ, Trương Đăng Quế, Nguyễn Văn Giai…

        Nguyễn Du mất ở Kinh Đô Huế ngày 10 tháng tám năm Canh Thìn (ngày 16 tháng 9 năm 1820), an táng tại cánh đồng Bào Đá, xã An Ninh, huyện Phong Điền. Năm Giáp Thân (1824), hài cốt của cụ được cải táng đưa về quê nhà ở Đồng Ngang thuộc giáp cũ của bản xã (có bút phê) ở thôn Thuận Mỹ, làng Tiên Điền, Hà Tĩnh. Những năm sau đó dời đến táng cạnh đền thờ Nguyễn Trọng và lại cải táng đến xứ Đồng Cùng, giữa một vùng cát rộng. Mộ cụ Nguyễn Du qua nhiều trùng tu, ngày một tôn nghiêm hơn.

        Nguyễn Du di cảo thơ lưu hành qua những câu thơ lưu lạc trong dân gian trên gốm sứ Giang Tây, qua di sản thơ chữ Hán, thơ Truyện Kiều bản kiểm duyệt hiệu đính của triều Nguyễn (bản Kinh) và bản Phường chữ Hán Nôm có lưu dấu hai bài Tựa đầu Truyện Thúy Kiều ( Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim biên khảo theo bản khắc in cuối triều Nguyễn) lộ thêm một chút cuộc đời và hành trạng Nguyễn Du.

        MƯỜI LĂM NĂM TUỔI THƠ

        Năm Ất Dậu (1765), Nguyễn Du sinh ngày 23 tháng 11 (nhằm ngày 3 tháng 1 năm 1766) lúc Nguyễn Nghiễm 58 tuổi, bà Trần Thị Tần 26 tuổi. Nguyễn Du được gọi là cậu Chiêu Bảy. Năm ấy cũng là năm Vũ Vương mất, Trương Phúc Loan chuyên quyền. Trước đó, từ thời ông Nguyễn Hoàng trở đi, họ Nguyễn làm chúa trong Nam, gọi là Đằng Trong, phía bắc chống nhau với họ Trịnh, phía nam đánh lấy đất Chiêm Thành và đất Chân Lạp, truyền đến đời Vũ Vương thì định triều nghi, lập cung điện ở đất Phú Xuân, phong cho Nguyễn Phúc Hiệu người con thứ 9 làm thế tử. Bây giờ thế tử đã mất rồi, con thế tử là Nguyễn Phúc Dương hãy còn nhỏ mà con trưởng của Vũ Vương cũng mất rồi. Vũ Vương lập di chiếu cho người con thứ hai là hoàng tử Cốn lên nối ngôi nhưng quyền thần Trương Phúc Loan đổi di chiếu lập người con thứ 16 của Vũ Vương, mới có 12 tuổi tên là Nguyễn Phúc Thuần lên làm chúa, gọi là Định Vương. Nguyễn Phúc Ánh là con của hoàng tử Cốn. Nguyễn Phúc Ánh sinh ngày Kỷ Dậu tháng Giêng năm Nhâm Ngọ (1762) lớn hơn Nguyễn Du ba tuổi. Trương Phúc Loan là người tham lam, làm nhiều điều tàn ác nên trong nước ai ai cũng oán giận, bởi thế phía nam nhà Tây Sơn dấy binh ở Quy Nhơn, phía bắc quân Trịnh vào lấy Phú Xuân, làm cho cơ nghiệp họ Nguyễn xiêu đổ.

        Năm Đinh Hợi (1767), Nguyễn Du hai tuổi, Nguyễn Nghiễm được thăng Thái tử Thái bảo, hàm tòng nhất phẩm, tước Xuân Quận công. Lúc này Trịnh Doanh mất, con là Trịnh Sâm lên làm chúa. Lê Duy Mật đem quân về đánh Hương Sơn và Thanh Chương rồi rút về Trấn Ninh. Trịnh Sâm cho người đưa thư sang vỗ về không được, mới quyết ý dùng binh để dứt mối loạn. Cũng năm ấy (1767) nước Miến Điện sang đánh Xiêm La (Thái Lan ngày nay) bắt vua nước ấy và các con vua mang về Miến Điện. Hai người con khác của vua Xiêm La một người chạy sang Chân Lạp, một người chạy sang Hà Tiên. Trịnh Quốc Anh (Taksin) một tướng Thái gốc Hoa người Triều Châu tỉnh Quảng Đông khởi binh chống quân Miến Điện giành lại độc lập, tự lập làm vua Xiêm La và dời đô về Thonburi, bên bờ sông Chao Phraya, đối diện với Bangkok. (Nguyên nước Xiêm La vốn là một vương quốc Phật giáo tên là Xích Thổ (Sukhothai) ở miền Bắc Thái Lan, dần thay thế vai trò của Đế chế Khmer (Chân Lạp) đang tàn lụi vào thế kỷ 13 – thế kỷ 15. Năm 1283 người Thái có chữ viết. Sau đó người Thái mở rộng lãnh thổ xuống phía nam, và năm 1350 chuyển kinh đô xuống Ayuthaya, phía bắc Bangkok 70 km. Năm 1431, quân Xiêm cướp phá Angkor của Chân Lạp. Nhiều bảo vật và trang phục của văn hóa Hindu đã được họ đem về Ayutthaya, lễ nghi và cách ăn mặc của người Khmer được dung nhập vào thượng tầng văn hóa Xiêm. Trong khoảng 400 năm, từ thế kỷ 14 đến thế kỷ 18, giữa người Thái và người Miến Điện láng giềng luôn xảy ra các cuộc chiến tranh và kinh đô Ayuthaya bị huỷ diệt ở thế kỷ 18. Người Hoa sau biến cố Minh Thanh cũng ngày một nhiều ở Xiêm La).

        Năm Kỷ Sửu (1769), Nguyễn Du bốn tuổi, được phong ấm Hoằng Tín đại trung thành môn vệ úy xuất thân thu Nhạc công. Ông dung mạo khôi ngô, Việp Quận công (Hoàng Ngũ Phúc) trông thấy lấy làm lạ ban cho bảo kiếm. Năm đó, Trịnh Sâm sai Bùi Thế Đạt, Nguyễn Phan, Hoàng Đình Thể đem ba đạo quân của Nghệ An, Thanh Hóa, Hưng Hóa tiến đánh Trấn Ninh. Lê Duy Mật thua mà chết.

        Năm Tân Mão (1771), Nguyễn Du sáu tuổi. Tây Sơn dấy binh. Nguyễn Nhạc lập đồn trại ở đất Tây Sơn, chiêu nạp quân sĩ, người về theo rất đông. Nguyễn Nhạc nguyên tổ bốn đời là họ Hồ cùng một tổ với Hồ Quý Ly, người gốc ở huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An, gặp lúc chúa Trịnh chúa Nguyễn đánh nhau, bị bắt đem vào ở ấp Tây Sơn thuộc phủ Hoài Nhân, đất Quy Nhơn. Đến đời của Nguyễn Phi Phúc dời nhà sang ấp Kiên Thành, sinh được Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ, Nguyễn Huệ (Hồ Thơm). Lúc khởi binh nhà Tây Sơn lấy họ mẹ là Nguyễn để khởi sự cho dễ thu phục nhân tâm vì đất miền Nam vốn đất chúa Nguyễn. Năm 1771, Nguyễn Huệ mười tám tuổi, đã sớm tỏ ra là một bậc anh tài quân sự, định kế và cầm quân cùng anh. Cũng năm ấy, vua Xiêm La là Trịnh Quốc Anh (Taksin) khởi binh đánh vua Chân Lạp là Nặc Tôn nhưng không thắng bèn quay sang đem binh thuyền sang vây đánh con vua cũ là Chiêu Thúy ở Hà Tiên. Mạc Thiên Tứ là con Mạc Cửu và bà phi họ Nguyễn, tướng giữ thành Hà Tiên của nhà Nguyễn giữ không nổi phải bỏ thành chạy. Vua Xiêm La Trịnh Quốc Anh sai tướng giữ Hà Tiên và tiến đánh Chân Lạp. Quốc vương Chân Lạp là Nặc Tôn phải bỏ thành chạy. Vua Xiêm La chiếm Nam Vang (Phnom Penh ngày nay).

        Năm Nhâm Thìn (1772), Nguyễn Du bảy tuổi. Tháng sáu năm 1772, chúa Nguyễn sai quan Tổng suất là Nguyễn Cửu Đàm đem quân đánh Xiêm La. Quân của Nguyễn Cửu Đàm tiến đến Nam Vang, quân Xiêm La bỏ chạy về Hà Tiên. Nặc Non cũng chạy về Cầu Bột. Nặc Tôn lại về làm vua Chân Lạp. Vua Xiêm La Trịnh Quốc Anh đưa thư sang gọi Mạc Thiên Tứ về để giảng hòa. Mạc Thiên Tứ không chịu. Vua Xiêm La Trịnh Quốc Anh bèn cử tướng giữ Hà Tiên, rồi bắt con gái Mạc Thiên Tứ và Chiêu Thúy đem về nước. Năm sau, Mạc Thiên Tứ thấy việc không xong bèn giảng hòa. Vua Xiêm La trả lại con gái cho Mạc Thiên Tứ và giết Chiêu Thúy. Mạc Thiên Tứ trở về giữ đất Hà Tiên. Nước Chân Lạp vốn là nền văn minh Khmer đã phát triển rực rỡ từ thế kỷ 9 đến thế kỷ 13, và lụi tàn vào thế kỷ 13-thế kỷ 15. Trước đó thời Tùy Đường có nước Phù Nam bao gồm Campuchia, nam Việt Nam, nam Thái Lan ngày nay. Từ thế kỷ 5 một tộc người Môn-Khmer hình thành một thuộc quốc Chân Lạp (Chenla) ở khu vực Bắc Campuchia và Nam Lào . Đến thế kỷ 7, Chân Lạp chiếm toàn bộ lãnh thổ Phù Nam. Một phần của Phù Nam ở phía tây Chân Lạp là nước Xích Thổ (Sukhothai). Nước này sau chia làm hai vào khoảng thế kỷ XI, XII thời Tống Kim và nhập làm một thời Minh, khi cầu phong Minh Thái Tổ gọi là nước Xiêm La. Thời các chúa Nguyễn mở đất Chiêm Thành thì Xiêm La cũng luôn tìm cách lấn chiếm Chân Lạp.

        Năm Quý Tỵ (1773), Nguyễn Du tám tuổi. Nhà Tây Sơn xây dựng lực lượng và củng cố căn cứ ở vùng An Khê, khôn khéo khai thác sự chia rẽ triều đình chúa Nguyễn bằng tuyên bố lật đổ Trương Phúc Loan, khôi phục ông hoàng hợp pháp, lấy lòng người bằng cách cướp của người giàu chia người nghèo. Tây Sơn thu phục được công chúa Chăm, hương chức Nguyễn Thung, Huyền Khê, hai nhà buôn người Hoa là Lý Tài và Tập Đình cũng gia nhập. Nguyễn Nhạc dùng mưu kế tự nhốt mình vào củi, lừa chiếm được thành Quy Nhơn, đánh bại quân tiếp viện Phú Xuân, cuối năm ấy Tây Sơn đã toàn thắng, chiếm từ Quảng Ngãi đến Bình Thuận.

        Năm Giáp Ngọ (1774), Nguyễn Du chín tuổi. Nguyễn Nhiễm sung chức tả tướng, cùng Hoàng Ngũ Phúc đi đánh chúa Nguyễn ở Đàng Trong với danh nghĩa đuổi quyền thần Trương Phúc Loan và đánh dẹp quân nổi loạn. Quân Trịnh vượt sông Gianh chiếm Đồng Hới mà không cần giao tranh. Quân Nguyễn hầu như không có kháng cự nào vì binh lực tập trung chống nhà Tây Sơn đang thừa thắng chiếm Quảng Ngãi và đánh lui quân cứu viện năm dinh phía nam, chúa Trịnh Sâm lại thừa cơ dẫn đại quân vào Nghệ An trợ chiến tăng thanh thế, lòng người oán ghét Trương Thúc Loan nên làm nội ứng giúp quân Trịnh, Quảng Nam lại có nạn đói trầm trọng. Triều đình chúa Nguyễn nộp Trương Phúc Loan nhưng quân Trịnh vẫn tiến quân và chiếm kinh đô Phú Xuân đầu năm 1775.

        Năm Ất Mùi (1775), Nguyễn Du mười tuổi: Anh trai cùng mẹ của Nguyễn Du là Nguyễn Trụ (sinh 1757) qua đời. Năm ấy, chúa Nguyễn chạy vào Quảng Nam lập cháu là Nguyễn Phúc Dương làm Đông Cung để lo việc chống trả. Quân Tây Sơn ở Quy Nhơn kéo ra đánh chiếm Quảng Nam. Chúa Nguyễn Định Vương liệu không chống cự nổi nên cùng cháu là Nguyễn Ánh chạy vào Gia Định, chỉ để Đông Cung ở lại Quảng Nam chống giữ. Nguyễn Nhạc biết Đông Cung yếu thế và muốn mượn tiếng nên sai người rước Đông Cung về Hội An. Họ Trịnh vượt đèo Hải Vân, đẩy lui quân Tây Sơn do Tập Đình làm tiên phong, Lý Tài làm tướng trung quân. Nguyễn Nhạc xét tội Tập Đình thua trận định giết. Tập Đình vội trốn về Quảng Đông và bị giết. Nguyễn Nhạc đưa Đông Cung về Quy Nhơn. Tống Phước Hiệp ở phía nam nhân lúc Nguyễn Nhạc thua trận đã tiến quân chiếm lại Phú Yên. Tống Phước Hiệp cho Bạch Doãn Triều và cai đội Thạc đến đòi Nguyễn Nhạc trả Đông Cung cho nhà Nguyễn. Nguyễn Nhạc theo kế Nguyễn Huệ giả vờ ưng thuận, một mặt mượn lệnh Đông Cung phủ dụ Tống Phước Hiệp và Chu Văn Tiếp đem tướng sĩ năm dinh về theo phò Đông Cung, mặt khác lại cho người mang vàng bạc châu báu đến dâng Hoàng Ngũ Phúc xin nộp ba phủ Quảng Ngãi, Quy Nhơn, Phú Yên để xin cho Nguyễn Nhạc được làm tướng tiên phong đánh Gia Định. Hoàng Ngũ Phúc viết khải văn dâng lên chúa Trịnh Sâm phong tướng hiệu cho Nguyễn Nhạc. Trịnh Sâm sai Nguyễn Hữu Chỉnh mang sắc chỉ, cờ, ấn kiếm của vua Lê đến ban cho Nguyễn Nhạc. Tống Phước Hiệp do mắc lừa không đề phòng nên bị Nguyễn Huệ đánh bại.Xem tiếp >>

          Dạy và học 15 tháng 10(14-10-2021)


        DẠY VÀ HỌC 15 THÁNG 10
        Hoàng Kim
        CNM365 Tình yêu cuộc sốngNghiên cứu Kinh Dược Sư; Nguyễn Minh Không Bái Đính; Sông Hoàng Long chảy hoài; Truyện Norodom Sihanouk; Thơ thầy Hồ Ngọc Diệp; Nguyễn Huệ thời Tây Sơn; Dạo chơi non nước Việt; Ngày 15 tháng 10 năm 1065, ngày sinh Nguyễn Minh Không thiền sư, Quốc sư, thần y nổi tiếng thời Lý, ông Tổ nghề đúc đồng Việt Nam.Ngày 15 tháng 10 năm 2012 là ngày mất của Norodom Sihanouk là cựu Quốc vương, Thái thượng vương của Vương quốc Campuchia.trong nhiều giai đoạn cho đến ngày 7 tháng 10 năm 2004 thoái vị nhường ngôi cho quốc vương Norodom Sihamoni.Ngày 15 tháng 10 năm 1990, Nhà lãnh đạo Liên Xô gây nhiều tranh cãi nhất tại Nga và trên Thế giới Mikhail Gorbachyov được trao giải Nobel Hòa bình vì đã làm dịu căng thẳng Chiến tranh Lạnh và mở cửa đất nước; Bài chọn lọc ngày 15 tháng 10: Nghiên cứu Kinh Dược Sư; Nguyễn Minh Không Bái Đính; Sông Hoàng Long chảy hoài; Truyện Norodom Sihanouk; Thơ thầy Hồ Ngọc Diệp; Nguyễn Huệ thời Tây Sơn; Dạo chơi non nước Việt; Nhớ Viên Minh Hoa Lúa; Chùa Giáng giữa Đồng Xuân; Ban Mai Đình Minh Lệ; Viên Minh Thích Phổ Tuệ; Hoa Lúa giữa Đồng Xuân; Hoa Đất của quê hương; Vườn Tao Đàn bạn quý; Nguyễn Du tư liệu quý, Ngày mới lời yêu thương; Lời Thầy dặn thung dung; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-15-thang-10/.

        YenTuKinhDuocSu

        NGHIÊN CỨU KINH DƯỢC SƯ
        Hoàng Kim


        Thánh Trần Chùa Thắng Nghiêm
        Trạng Trình Dưỡng Sinh Thi
        Vui đến chốn thung dung
        An nhiên nơi tĩnh lặng

        Việc lớn đời người không gì lớn hơn Sống và Chết, mà vấn đề rất khó giải quyết cũng chỉ có sống chết mà thôi. Thiền sư Thích Phổ Tuệ Đại lão hòa thượng Pháp chủ Tổ Đình Viên Minh
        ấn chứng tôi và căn dặn nên dành thời gian nghiên cứu Kinh Dược Sư khi đã có một nền tảng sinh học căn bản và sự yêu thích trọn đời sống giữa thiên nhiên…

        Bảy ngày đêm tỉnh lặng, tôi đã nhìn thấy sự bình tâm và an nhiên xuất hiện.  Nhìn đúng và nghe đúng là nền tảng của toàn bộ lối sống đúng. Tôi bắt đầu nghiên cứu Kinh Dược Sư lắng nghe bằng tim, lọc thanh âm bằng tai, nhìn bằng mắt, nghĩ bằng đầu. Tuệ học trị tâm bệnh cứu người giúp đời còn gì vui hơn khi  đã có một chút học vấn nghề nghiệp khoa học cây trồng và văn hóa giáo dục.

        TranHungDao1

        THÁNH TRẦN CHÙA THẮNG NGHIÊM

        Thánh Trần chùa Thắng Nghiêm uy nghi, trầm tư, tỉnh lặng, đã khai mở trí huệ  tôi. Chùa Thắng Nghiêm ở 38 thôn Khúc Thuỷ, xã Cự Khê, Thanh Oai, Hà Nội, cách trung tâm Thủ đô khoảng 15 km về phía Nam. Chùa nằm trong quần thể Thánh tích làng Khúc Thủy, một địa phương mang đậm bản sắc văn hoá tâm linh Phật giáo với những danh thắng nổi tiếng như chùa Linh Quang, chùa Thắng Nghiêm, chùa Phúc Khê (tức chùa Dâu); đình, đền, miếu, văn chỉ, nhà thờ dân và nhà thờ các dòng họ lớn trong làng. Chùa là nơi tu hành của nhiều danh Tăng, danh Tướng thời Lý (1009-1225) và thời Trần (1225- 1400) như: Khuông Việt Quốc sư, Vạn Hạnh Quốc sư, Trùng Liên Bảo Tích Quốc sư, Đạo Huyền Quốc sư, Huyền Thông Quốc sư (Linh Thông Hòa thượng Đại vương), Hưng Đạo Đại vương…

        Lịch sử chùa Thắng Nghiêm cho hay về thắng tích nơi này “Theo truyền thuyết dân gian, chùa Thắng Nghiêm được xây dựng từ rất sớm trên thế đất “Liên Hoa hàm tiếu”, từ thời kỳ Ngô Sỹ Nhiếp làm Thái thú xứ Giao Châu, năm 187-266 (Phật lịch 731-810), do ngài Tôn giả Bảo Đức (tương truyền là hoá thân của Bồ Tát Văn Thù) từ nước Thiên Trúc sang sáng lập để truyền bá Phật Pháp. Ngài đã cho xây dựng ngôi đại bảo tháp thờ xá lợi Phật (đến nay vẫn còn), nhân dân thường gọi là khu Mả Bụt. Sau thời kỳ ngài Tôn giả Bảo Đức sáng lập, tiếp đến lại có hai vị Tôn giả là Kim Trang và Kim Quốc cũng từ xứ Thiên Trúc sang hoằng truyền Chính Pháp. Hai Ngài đã cho xây dựng thêm chùa Phúc Khê, thường gọi là chùa Dâu. Trong quần thể Thánh địa Khúc Thủy, chùa Linh Quang xưa còn được gọi là chùa Quan, là nơi lễ bái của các quan lại thời phong kiến, được xây dựng trên thế đất “Kim Quy Thần hạ giang ẩm thuỷ” (Thần Kim Quy xuống sông uống nước).

        Tương truyền, Đinh Tiên Hoàng đế (Đinh Bộ Lĩnh) trong một lần đi tuần thú đã dừng chân ở Khúc Thuỷ, gặp một thôn nữ xinh đẹp đang kéo hến bên sông, vua đã đưa nàng về cung làm phi tần. Thấy phong cảnh nơi đây hữu tình, thế đất lại có long chầu phượng vũ, lân ly hội tụ, nhà vua bèn cho lập dinh tại đất này và trùng tu lại chùa rồi đặt tên là chùa Pháp Vương, dân gian sau này thường gọi là chùa Bà Chúa Hến; nơi các ngài dừng thuyền được gọi là Bến Rồng hay còn gọi là Bến Ao Thuyền; nơi Ngự giá nghỉ ngơi trước khi vào lễ Phật được gọi là Dinh Vua. Dinh thự của vua chúa phong kiến các đời sau cũng được xây dựng tại đây.

        Trải qua bao biến thiên của lịch sử, chùa Thắng Nghiêm đã mang nhiều tên gọi khác nhau như: chùa Bụt, chùa Pháp Vương tức chùa Bà Chúa Hến (thời nhà Đinh), chùa Thắng Nghiêm (thời nhà Lý), chùa Trì Long, chùa Trì Bồng (thời nhà Trần), chùa Liên Trì (thời nhà Lê), chùa Phúc Đống (thời nhà Nguyễn) và danh hiệu Phật Quang Đại Tùng Lâm là tên gọi chung cho cả quần thể Thánh tích. Ngày nay, nhân dân địa phương vẫn thường gọi chung là chùa Khúc Thủy vì chùa nằm trên địa phận thôn Khúc Thủy. Hiện nơi đây vẫn còn lưu giữ được 34 đạo sắc phong của các triều đại phong kiến. Đặc biệt, làng Khúc Thủy đã được vua Giản Định cuối đời Trần gia phong tám chữ vàng “Khúc Thủy nghĩa dân, Mỹ tục khả phong”.

        Sau khi lấy được thiên hạ từ tay nhà Tiền Lê, vua Lý Thái Tổ (Lý Công Uẩn) lên ngôi, mở ra triều đại nhà Lý vào tháng 10 âm lịch năm 1009 và quyết định dời đô từ Hoa Lư về thành Đại La. Một lần, Vua ngự thuyền Rồng từ sông Kim Ngưu qua sông Tô Lịch rồi xuôi theo dòng Nhuệ Giang ngoạn cảnh. Chợt trông thấy ngôi cổ tự trang nghiêm tú lệ ẩn hiện ứng với mộng lành năm xưa, Ngài liền cho dừng thuyền vào chùa lễ Phật. Nhìn cảnh trí thơ mộng, thế đất có long chầu phượng vũ, Ngài thốt lên: “Nơi đây thật xứng là một chốn tu hành “trang nghiêm thù thắng”, đúng là bầu trời cảnh Phật vậy”. Nh­à vua liền đặt mỹ hiệu cho vùng đất này là trang Khúc Thủy, huyện Thanh Oai, phủ Ứng Thiên, trấn Nam Thượng và lập làm thang mộc ấp (ấp của vua). Sau này, Ngài thường lui tới lễ Phật, vãn cảnh. Chùa Thắng Nghiêm, trang Khúc Thủy từ đó đã trở thành nơi du ngoạn tâm linh của các bậc vua chúa, quan lại phong kiến.

        Theo chính sử, chùa Thắng Nghiêm được xây dựng vào thời vua Lý Thái Tổ (1009-1028). Đại Việt sử ký toàn thư, Kỷ nhà Lý, Niên hiệu Thái Tổ Hoàng đế có đoạn chép: “Năm 1010, mùa thu, tháng 7, vua Lý Thái Tổ từ thành Hoa Lư dời đô ra kinh phủ ở thành Đại La… Lại ở trong thành làm chùa ngự Hưng Thiên và tinh lâu Ngũ Phượng. Ngoài thành về phía Nam dựng chùa Thắng Nghiêm”…
        “Mùa đông, tháng 10, xuống chiếu phát trăm lạng bạc trong kho để đúc hai quả chuông treo ở chùa Thắng Nghiêm và tinh lâu Ngũ Phượng. Đắp thành đất ở bốn mặt kinh thành Thăng Long. Đổi phủ Ứng Thiên làm Nam Kinh”.

        Niên hiệu Thái Tông Hoàng đế có đoạn chép: “Mùa hạ, tháng 4, ngày mồng 1, vua thân đi đánh giáp Đản Nãi, cho Đông cung thái tử ở lại Kinh sư làm Giám quốc. Khi đánh được giáp Đản Nãi rồi, sai Trung sứ đốc suất người Đản Nãi đào kênh Đản Nãi. Vua từ Đản Nãi trở về Kinh sư. Có dấu người thần hiện ở chùa Thắng Nghiêm”.

        Niên hiệu Nhân Tông Hoàng Đế cũng chép: “Tháng 9, ngày Tân Tỵ, mở hội Thiên Phật (Nghìn Phật) để khánh thành chùa Thắng Nghiêm Thánh Thọ, cho sứ Chiêm Thành đến xem”.

        Trong Việt sử cương mục tiết yếu của Thiện Đình Đặng Xuân Bảng, phần Kỷ nhà Lý, Thái Tổ Hoàng đế cũng có đoạn chép: “Năm 1010, vua cho phát hai vạn quan tiền, dựng tám ngôi chùa và lập bia để ghi công đức. Lại xây chùa Hưng Thiên, cung Đại Thanh, chùa Vạn Tuế ở nội thành Thăng Long. Ngoại thành dựng bảy ngôi chùa là Thắng Nghiêm, Thiên Vương, Cẩm Y, Long Hưng, Thiên Thọ, Thiên Quang, Thiên Đức, chùa quán ở các hương ấp nếu bị hỏng thì cho sửa lại.”

        Đại Việt sử ký toàn thư chép: Trần Liễu thời Lý được phong làm Phụng Càn vương. Năm 1228, vua Trần Thái Tông (Trần Cảnh) phong Liễu làm Thái úy. Đến năm 1234, Thái thượng hoàng Trần Thừa băng hà, Trần Liễu lên làm Phụ Chính vương (sách sử còn gọi là Hiển Hoàng).

        Năm 1236, Trần Liễu phạm cung cấm bị giáng xuống làm Hoài vương. Năm 1237, Trần Thủ Độ ép vua Trần Cảnh lấy Thuận Thiên (là vợ Trần Liễu đang có mang 3 tháng, vì vợ vua Trần Cảnh là Lý Chiêu Hoàng chưa có con). Mất vợ, Trần Liễu nổi loạn. Do sợ bị diệt vong, Trần Liễu sai em gái là Thụy Bà Công chúa (hay còn gọi là Đoan Bà) đưa con trai là Trần Quốc Tuấn đi lánh nạn. Đoan Bà cùng gia nhân giả làm thương gia đưa Trần Quốc Tuấn đến chùa Trì Long, thuộc trang Khúc Thủy, huyện Thanh Oai, phủ Ứng Thiên, trấn Nam Thượng. Khi đó, chùa Thắng Nghiêm do Thiền sư họ Lý, pháp hiệu Đạo Huyền trụ trì. Ông là vị danh Tăng tinh thông Tam tạng, Giới đức trang nghiêm, uy tín bậc nhất thời đó. Đoan Bà giao Trần Quốc Tuấn, khi đó khoảng 7 tuổi, cho Thiền sư Đạo Huyền nuôi dưỡng. Thiền sư nhìn Trần Quốc Tuấn mỉm cười mà nói rằng: “Thật đúng là duyên mệnh Phật Trời đã định sẵn”. Từ đó, ngày qua tháng lại, Thiền sư Đạo Huyền truyền dạy cho Trần Quốc Tuấn Tam tạng Thánh điển, pháp thuật bí truyền. Với trí tuệ siêu phàm, chẳng bao lâu Quốc Tuấn đã tinh thông giáo pháp, văn võ kỳ tài không ai sánh kịp.

        Lại nói, sau khi Trần Liễu nổi loạn bị giáng xuống làm Hoài vương, vua Trần Thái Tông không những tha không giết mà còn phong vương, cấp cho đất Yên Phụ, Yên Dưỡng, Yên Sinh, Yên Hưng, Yên Bang (nay thuộc Đông Triều, Quảng Ninh) để Trần Liễu về trấn giữ và phong tước hiệu qua các thời kỳ là Hiển Hoàng, Hoài vương, An Sinh vương. Nội cung yên ổn, Trần Liễu cùng đoàn tùy tùng tới trang Khúc Thủy, chùa Trì Long cảm tạ ơn dưỡng dục và thỉnh Thiền sư cùng đón Trần Quốc Tuấn hồi cung, năm đó Quốc Tuấn tròn 21 tuổi.

        Sau khi hồi cung, Trần Quốc Tuấn được mời vào nội điện ra mắt vua Trần Thái Tông. Vua nhận thấy Quốc Tuấn tướng mạo phi phàm, tài trí vẹn toàn, thật xứng danh là bậc kỳ tài trong thiên hạ, bèn phong làm tướng trấn giữ biên ải phương Bắc.

        Năm Mậu Ngọ (1258), quân Nguyên-Mông đem hơn 30 vạn quân tiến qua biên ải, Trần Quốc Tuấn được phong Tiết chế kiêm Tả hữu
        thủy lục tướng quân, chỉ huy quân đội đánh giặc. Ngày 12 tháng 3 năm đó (1258), Trần Quốc Tuấn dẫn quân về Khúc Thủy, Khê Tang thành lập tinh binh trên dòng Nhuệ giang, chiêu hiền giúp nước. Khúc Thủy tuyển được 370 người, Khê Tang tuyển được 271 người ra nhập đội quân tinh nhuệ. Trần Quốc Tuấn đem 16 vạn tinh binh đóng đồn từ Tam Đái đến cửa sông Vọng Đức, Bạch Đằng, Lục Đầu Giang để đánh đuổi quân xâm lược. Sau khi thắng trận trở về, nhân dân ca khúc khải hoàn, Vua xuống chiếu sắc phong Ngài là Hưng Đạo Đại vương.

        Hưng Đạo Đại vương ban thưởng cho Khúc Thủy, Khê Tang 100 lượng vàng và đích thân đứng ra tu sửa chùa Trì Long.

        Năm 1284, vua Nguyên lại sai Thái tử Trấn Nam vương Thành Hoan (chính sử ghi là Thoát Hoan) đem trăm vạn tinh binh một lần nữa xâm lược nước ta. Với tài thao lược binh cơ, Hưng Đạo Đại vương thống lĩnh ba quân, lĩnh mệnh chinh Nguyên, tiến hành thủy chiến trên sông Bạch Đằng, lập chiến công vô cùng hiển hách.

        Ngay sau khi bại trận về nước, năm 1285, quân Nguyên chỉnh đốn quân ngũ, bổ sung lực lượng, đóng tàu chiến, huy động lương thảo để trở lại đánh Đại Việt lần thứ ba. Cuộc chiến lần này kéo dài khoảng gần 4 tháng, từ cuối tháng 12 năm 1287 đến cuối tháng 4 năm 1288. Cũng giống như hai lần trước, chúng đã bị quân dân Đại Việt đánh cho tan tác và từ đó không dám gây chiến với Đại Việt nữa.

        Đất nước thanh bình thịnh trị, Hưng Đạo Đại vương trở về thăm lại chùa xưa. Năm 79 tuổi, Ngài xin về Vạn Kiếp an dưỡng tuổi già. Năm 82 tuổi, ngày 10 tháng 8 mùa thu, Ngài lâm bệnh, thị tịch ngày 20 tháng 8, giờ Ngọ. Vua phong cho Ngài mỹ hiệu “Quốc lão Hiển tướng Đại vương”, cho Khúc Thủy, Khê Tang làm “Hộ Nhi hương”, thờ Quốc Tuấn Đại vương làm Thượng Đẳng thần, cử trọng thần xuân thu nhị kỳ về tế lễ.

        Đình Khúc Thủy được xây dựng từ đây trên thế đất “Thần Ly chầu ngọc”, cũng là nơi thờ phụng Nhị vị Đức Thánh Trần (Hưng Đạo Đại vương và Linh Thông Hoà thượng Đại vương).

        Ngược dòng thời gian, sau khi Thiền sư Đạo Huyền cùng Trần Quốc Tuấn về triều yết kiến Thái Tông Hoàng đế, Đạo Huyền được phong làm Quốc sư, phò Vua, giúp nước. Từ đây, trong Thiền phả không thấy nhắc đến các sư kế đăng trụ trì, mãi đến đời thứ 11 nhà Trần (vua Thuận Tông, húy Ngung, con trai út vua Nghệ Tông), mới có Linh Thông Hòa thượng Đại vương về trang Khúc Thủy thắp sáng ngọn đèn thiền.

        Thiền phả chép: “Linh Thông Hòa thượng Đại vương thuộc thời Trần, xét xưa kia nước ta mở vận hơn hai nghìn năm lấy hiệu là Hùng Vương, trải qua các triều Đinh, Lê, Lý, Trần đều có các minh quân (vua sáng) trị vì đất nước”. Khi ấy, ở trại Tức Mặc, huyện Mỹ Lộc, phủ Thiên Trường, xứ Nam Định, có gia đình họ Trần đời đời làm quan tướng trong triều. Nhà Lý trải qua tám đời vua, vận nước cáo chung mới có nữ quân là Chiêu Hoàng lên ngôi. Trần Thủ Độ làm quan trọng thần trong triều, đưa cháu ruột là Trần Cảnh vào cung, ép gả Chiêu Hoàng. Việc nhà Trần kế nghiệp đế vương nhà Lý mà không hề có nghiệp chiến tranh, đó há chẳng phải là trời đất giao hòa sao!

        Đời sau Lê Tiên sinh thơ rằng:
        Nhất sắc khuynh thành khởi chiến tranh,
        Kỵ long đằng vị tự nhiên thành.
        Giai do thiên mệnh nhân tâm thuận,
        Bách quỹ đồng quy hướng đức danh.

        Dịch thơ:
        Sắc đẹp khuynh thành chẳng chiến tranh,
        Cưỡi rồng giữ vị tự nhiên thành.
        Đều do trời đất lòng người thuận,
        Trăm mối về cùng tỏ đức danh.

        Nhà Trần trải qua các đời vua Thái Tông, Thánh Tông, Nhân Tông, Minh Tông, Anh Tông, Hiển Tông, Dụ Tông, Nghệ Tông, Phế Đế rồi truyền đến vua Thuận Tông. Nhà vua tính tình nhu thuận từ hòa nên đã bị Hồ Quí Ly âm mưu thoán đoạt, tất cả đều do đạo trời xui khiến, không phải là do đức ngu tối của vua Trần vậy.

        Khi ấy, ở trại Hà Lãng, huyện Vĩnh Ninh (nay thuộc Vĩnh Lộc, phủ Thiệu Hóa, Thanh Hóa) có người họ Trần, húy Chân (Trần Khát Chân), phu nhân họ Đặng, húy An, người phường Vạn Ninh. Trần công làm tướng phò giúp vua Anh Tông (ba đời làm tướng nhà Trần), lúc đó đã 40 tuổi, phu nhân 39 tuổi vẫn chưa có điềm lành, hòe quế chi lan đều do thứ phi sớm ứng.


        Đất Vĩnh Ninh có chùa Hoàng Long rất linh ứng, quan dân hương đèn cầu đảo không dứt, cảnh đẹp sánh tựa bồng lai, phong quang như vườn lộc uyển, thực là thắng cảnh của Thiền gia vậy. Năm ấy, nhân ngày hội, phu nhân trai giới đến chùa mật đảo, nguyện sớm được ban điềm lành. Ba ngày sau mộng ứng, trong giấc mơ thấy mình ngoạn du đến chùa Thiên Thai, gặp một lão tăng mặc áo xanh sẫm, đội mũ Thất Phật, chống gậy tùng, tay cầm bông sen, đi trước sân chùa ngâm rằng:


        Nhất thành khả cách đạt từ nhan,
        Kim hữu thành tùng Thứu Lĩnh san.
        Phu phụ Trần gia giai phúc hậu,
        Từ tâm nhất hứa trượng phu hoàn.


        Dịch thơ:

        Lòng thành thấu đến bậc từ nhân,
        Nay có cây tùng trên Thứu Lĩnh.
        Phúc hậu ban cho nhà họ Trần,
        Lòng từ sớm ứng sinh trai giỏi.


        Phu nhân ngắm xem, bỗng thấy cây tùng biến thành rồng xanh bay vào trong miệng. Tỉnh giấc, bà kể lại cho Trần công nghe. Trần công vui mừng nói: “Nhà ta kiếp trước chuyên tâm làm điều phúc thiện, nay trời giáng điềm lành, ắt có tài hoa kế thế, tuấn kiệt ra đời, đây chẳng phải là giấc mộng tầm thường”. Sau, quả nhiên phu nhân có mang. Vào giờ mão ngày 15 tháng giêng, bà sinh hạ một công tử mặt phượng, mắt rồng, hàm én, mày ngài, thể mạo khôi kỳ khác hẳn người thường; trong khi sinh nở điềm lành xuất hiện: hương thơm ngào ngạt, thụy khí lan tỏa khắp phòng. Ông bà đặt tên con là Trần Thông. Trần Thông từ nhỏ đã tỏ ra thông minh, dĩnh ngộ, 7 tuổi theo học với quan Đại học trong nội các, thân thiết với Thái tử như anh em ruột.


        Khi Trần Thông 15 tuổi, vua Thuận Tông nhường ngôi cho Thái tử hiệu là Hiếu Đế và phong Ngài làm trưởng Ấu Sử trong nội các, kiêm quản quân nội thị vệ. Khi ấy, Hồ Quí Ly và Hồ Hán Thương bức Vua phải thoái vị và xuất gia tại chùa Ngọc Thanh, thôn Đạm Thủy. Đất nước đại loạn, Hồ Quí Ly đã giết chết Trần Khát Chân. Tình thế bất an khiến Trần Thông phải dời đến núi Yên Tử, tự nguyện xuất gia tu hành cùng các thiền tăng. Ở đó có người họ Trần tu tập, tên gọi Trần Huyền. Trần Thông tu tại chùa Vân Tiêu được 7 năm thì Hồ Quí Ly biết tin liền cho quan đại thần mời về triều phục chức giúp nhà Hồ, nhưng Ngài không chịu. Nhà Hồ tìm cách sát hại, nhờ có người mật báo, Ngài dời chùa Vân Tiêu tới trang Khúc Thủy, huyện Thanh Oai, phủ Ứng Thiên, trấn Nam Thượng. Lúc Ngài ngồi nghỉ chân bên một thảo am ven đường, có người dân trang Khúc Thủy, họ Nguyễn húy Hành, sùng kính đạo Phật, đến đỉnh lễ thưa rằng: “Ngài từ đâu đến và đi về đâu?”


        Thiền sư mỉm cười đáp: “Ta vốn chẳng sinh ra từ đâu, thì cũng chẳng có đâu để về, Thứu Lĩnh, Tùng Lâm bao trùm khắp cả mười phương, ba cõi, đều là nơi ta đã ngao du, nào biết nơi đâu đáng để dừng. Vậy ta nhàn du đến đây, ngắm xem phong cảnh, tìm hiểu nhân gian họa phúc để mà cứu giúp”.
        Nguyễn công nghe nói vô cùng kính ngưỡng, liền cùng nhân dân Khúc Thủy thỉnh thiền sư về trụ trì chùa. Ngày 12 tháng một, Ngài bắt đầu khai tràng thuyết pháp, rao giảng Tam tạng Thánh điển, tiếp độ tăng, ni. Nhân dân, Phật tử kính ngưỡng Ngài như Phật tái thế. Ngài trụ trì được 5 năm, một hôm, trong khi đang tọa thiền dưới án Phật đường, Ngài thấy Quốc lão Hưng Đạo Đại vương đi đến ngồi trước nơi Ngài thiền định, ngâm rằng:

        Cấp báo chi cấp báo chi,
        Hồ binh lai nhập đáo thiền vi.
        Cấp cấp xu hồi Khê Tang địa,
        Huynh đệ đồng tâm cự tế chi.


        Dịch thơ:

        Kíp báo ngay kíp báo ngay,
        Ngày mai giặc Hồ vây chùa này.
        Mau mau trở lại Khê Tang nhé,
        Huynh đệ đồng tâm chống giặc đây.


        Canh ba hôm ấy, nghe tiếng hô hoán quanh chùa, Ngài sai tiểu tăng lên gác chuông quan sát thì đã thấy binh lính nhà Hồ vây kín cả bốn xung quanh. Ngài liền dùng tích trượng phá vòng vây, thẳng tiến tới chỗ giáp ranh giữa Khúc Thủy và Khê Tang thì thấy một gò cao, cây cối um tùm, Ngài liền ẩn mình vào đó. Bỗng một dải mây ngũ sắc sáng rực từ trong gò bay lên, phủ kín quanh gò, rồi cuồn cuộn bay thẳng lên không trung. Trong giây lát, trời đất tối tăm, sấm chớp ầm ầm, mưa to gió lớn, cây cối gãy đổ, bụi bay mù mịt, binh lính nhà Hồ sợ hãi bỏ chạy tán loạn. Khi đó, Thiền sư đã ung dung tự tại thiền định trên Tam quan chùa Khê Tang. Ngay đêm hôm ấy, Quốc lão mộng báo cho dân chúng Khê Tang thấy Ngài ngồi đàm đạo cùng một vị Thiền sư, đứng hầu xung quanh có khoảng hơn 500 người. Quốc lão gọi nhân dân đến bảo: “Ta có bạn quí tới chơi đã được năm ngày, mà sao các người không ra nghênh đón?”. Sáng hôm sau, nhân dân không ai bảo ai đều tập trung tại Tam quan chùa, quả nhiên thấy một vị Thiền tăng đang ngồi tĩnh tọa như trong giấc mộng vậy. Nhân dân liền thỉnh Ngài về chùa, cung kính lễ bái cúng dàng và xin làm đệ tử.

        Nhân dân Khúc Thủy gặp phải dịch nạn, chiều chiều thường nghe trong chùa văng vẳng tiếng nói vọng ra: “Chủ ta vì nạn mà dời đi nơi khác ở, chỉ có binh lính và Long Thần giữ chùa, được thể ôn thần, quỉ quái thừa cơ làm loạn, quấy nhiễu dân lành, biết tìm ai cứu giúp bây giờ!”. Nhân dân nghe thấy lấy làm lạ, cùng nhau sang Khê Tang thỉnh Ngài Trần Thông trở lại chùa làng, mọi chuyện lại được yên ổn, bình an như cũ.

        Thời gian đó, con thứ vua Nghệ Tông là Giản Định khởi nghĩa diệt Hồ, đánh đuổi giặc Minh, khôi phục lại cơ nghiệp nhà Trần, chấn hưng thiên hạ. Giản Định đế biết Thiền sư là cựu trung thần của triều đình, nên ban chiếu mời về giúp nước. Nhận lệnh vua ban, Ngài đã ưng thuận xếp cà sa, khoác chiến bào, một lần nữa cầm quân ra trận. Ngày 11 tháng 5, Ngài triệu tập dân làng Khúc Thủy, Khê Tang, tuyển được 500 dân binh tình nguyện lên đường. Ngày 12 tháng 2 khao thưởng binh lính, lập đàn cầu đảo Quốc thái dân an. Yến tiệc đến ngày 2 tháng 6, Ngài tấn kiến vua Giản Định. Vua liền phong Ngài làm Đốc lãnh binh, Giới trưởng Quân vệ tả hữu dẹp loạn nhà Hồ rồi tiến thẳng lên phương Bắc đánh đuổi giặc Minh, trấn an bờ cõi, giữ vững chủ quyền. Nhân dân an cư lạc nghiệp, ca khúc khải hoàn. Vua Giản Định phong Ngài làm phó tướng, kiêm Quân vệ thủy bộ, nhưng Ngài đã khước từ, xin vua cho phép trở về chùa xưa tiếp tục tu hành, giáo hóa chúng sinh, xiển dương ngôi Tam Bảo. Nhà vua ưng thuận và ban sắc phong cho Ngài là Linh Thông Hòa thượng Đại vương, lại ban mũ áo, vàng bạc tu bổ chùa chiền, cho Khúc Thủy làm thang mộc ấp. Ngài cảm tạ ơn vua rồi lên đường trở về chùa Khúc Thủy.

        Ngày mồng 10 tháng 9, Ngài mở tiệc khao thưởng úy lạo tướng sỹ. Ngày 12 tháng 9, nhân dân Khúc Thủy, Khê Tang làm lễ chúc mừng. Trong lúc yến ẩm, Ngài nói với phụ lão, nhân dân rằng: “Ta cùng các ngươi tình nghĩa sư đồ sâu nặng, không chỉ một ngày, sư đệ chi tình, ngàn vạn năm duyên đó khó có thể phai mờ. Sau này hãy lập miếu để thờ nơi ta lánh nạn nhà Hồ, bởi nhờ thần lực của Phật Tổ ta mới thoát được kiếp nạn. Hai ngôi Phạm Vũ Linh Quang, Trì Long nơi ta tu hành các ngươi phải thường xuyên tu sửa, giữ gìn phụng sự Phật Tổ cho chu đáo. Nơi trước khi ta tới đây dừng chân ngồi nghỉ, hãy lập nhà hội họp, tế lễ, chớ có quên lời”.

        Song việc, Ngài giao lại chùa cho các đệ tử trông nom, rồi đem theo một số đệ tử khác ra đi hoằng dương Phật pháp, giáo hóa chúng sinh. Ngài dạo khắp cả Thiền Môn, Tùng Lâm, Thứu Lĩnh, khai sáng ra mười chín ngôi Phạm Vũ ở khắp mọi miền và tiếp độ được mười bốn vị danh tăng thời đó. Một hôm, Thiền sư bảo môn đệ: “Nay ta muốn đến núi Đốn Sơn (Đún Sơn) để thăm viếng phần mộ của Tiên công” (Trần Khát Chân bị Hồ Quí Ly giết hại, mộ táng tại nơi này, được nhân dân lập đền phụng thờ). Đến nơi, Ngài cảm xúc làm thơ rằng:

        Nhất bả cương thường trọng thử thân,

        Tuyết thù dĩ đắc báo quân thân.
        Đốn Sơn, Khúc Thủy lưu thiên cổ,
        Hiếu tử trung thần biểu thế nhân.


        Dịch thơ:

        Một mối cương thường trọng thân này,
        Thù nhà nợ nước báo đền ngay.
        Đốn Sơn, Khúc Thủy còn giữ mãi,
        Tôi trung con hiếu gương sáng thay.


        Ngâm xong, bỗng thấy một dải mây ngũ sắc từ trong đền bay thẳng lên không trung, trong khoảnh khắc, trời đất tối đen, mưa to, gió lớn, sấm chớp nổi ầm ầm và Thiền sư biến mất. Hôm ấy là ngày 15 tháng 2. Các đệ tử rất đỗi kinh ngạc, vô cùng kính ngưỡng, than khóc thảm sầu, cùng nhau vào đền thì thấy Ngài đã hiển Thánh, chỉ để lại chiếc mũ Thất Phật và cây thiền trượng. Các đệ tử của Ngài và nhân dân Khúc Thủy rước mũ và thiền trượng về chùa phụng thờ và đặt Thánh hiệu. Sau khi xong việc, họ dâng sớ tấu Vua việc hy hữu
        này. Vua khen ngợi Ngài là trung nghĩa lương thần và sắc phong mỹ tự, lại truyền cho dân đón rước sắc chỉ mũ áo, ban vàng bạc tu sửa chùa, đình, miếu để sớm tối phụng thờ, phong Khúc Thủy là ấp hộ nhi thang mộc muôn đời huyết thực hương hỏa vô cùng, còn mãi cùng trời đất và ban cho tám chữ vàng “Khúc Thủy nghĩa dân, Mỹ tục khả phong”!

        Nhà Trần diệt vong, có người họ Lê, húy Lợi, quê ở sách Lam Sơn, huyện Lương Giang, phủ Thuận Thiên, đất Ái Châu nổi dậy khởi nghĩa, đem ba quân trừ bỏ nhà Hồ, bình định giặc Minh. Khi ấy, Lê Khả (tướng của Lê Lợi) đến chùa Khúc Thủy, đền Khê Tang mật đảo. Sau khi lên ngôi, Lê Lợi (Lê Thái Tổ) đã ban cho chùa mỹ tự: “Vạn Cổ Phúc Thần” (Sáng mãi cùng Nhật Nguyệt), phong Ngài Trần Thông là Linh Thông Phổ Tế Đại vương, cho hai làng Khúc Thủy, Khê Tang cùng phụng thờ.

        Vào thời vua Lê Chiêu Tông, nhà Mạc nổi lên cướp ngôi. Đến đời vua Trang Tông, Thái úy Nguyễn công (tự Tích Trung, người Trang Gia Miêu Ngoại, huyện Tống Sơn) khởi binh diệt Mạc, đến chùa Khúc Thủy mật đảo, cầu xin Thiền sư giúp nước. Sau khi lên ngôi, Trang Tông đã gia phong Ngài mỹ tự Huệ Dân. Có thơ vịnh rằng:


        Sinh vi Tướng giả, tử vi Tăng,
        Vạn cổ trường lưu tại xã dân.
        Khúc Thủy, Khê Tang tồn tích tại,
        Thiên xuân Miếu Vũ thử trung thần.


        Dịch thơ:

        Sống là Tướng giỏi, hóa Thánh Tăng,
        Muôn thủa tiếng thơm để lại dân.
        Khúc Thủy, Khê Tang còn dấu tích,
        Nghìn năm Chùa Miếu rạng trung thần.


        Ngày sinh, ngày hóa cùng các tiết lễ chính hội, tên húy, tên tự, sắc phong của Thiền sư Trần Thông được ghi trong chính bản. Ngày 15 tháng 5 năm Hồng Phúc 1 (1572), Hàn lâm viện Đông Các học sỹ thần Nguyễn Bính vâng soạn. Quản Giám Bách Thần Chi Điện Thiếu Khanh vâng theo bản cũ tiền Triều viết lại. Ngày 6 tháng 12 năm Tự Đức 3 (1850), các viên chức xã Khúc Thủy kính cẩn sao lục theo chính bản. Ngày 10 tháng 10 năm Thành Thái 1 (1889) các viên chức xã Khúc Thủy cẩn đằng tả theo chính bản. Sau khi Thánh Tổ viên tịch, chùa được tiếp tục truyền nối bởi các bậc Thánh Tổ sư là đệ tử của ngài trong các triều đại phong kiến thời đó và sau này.


        Vào cuối thế kỷ XIX đầu XX, thừa lệnh các vua nhà Nguyễn, cha con Tổng đốc Trấn thủ Hà Đông là Hoàng Cao Khải và Hoàng Trọng Phu lại tiếp tục cho đại trùng tu quần thể thánh tích Phật Quang Đại Tùng Lâm một lần nữa. Nhưng than ôi! Dòng thời gian cứ biến đổi vô thường, vận đất nước thịnh suy theo năm tháng, quần thể Thánh tích Khúc Thủy vang tiếng một thời bỗng phút chốc biến thành phế tích của các cuộc chiến tranh tàn khốc.


        Tới năm Tân Sửu (1901), đời Thành Thái 13, tháng 5, mùa hạ, toàn thể nhân dân xã Khúc Thủy thành tâm cùng sư trụ trì chùa Linh Quang ra chùa Chân Tiên (Hà Thành) yết kiến Sư tổ Thanh Toàn tự Mẫn Chân. Sư tổ Sơn Hà Thanh Cốc cùng tông phái của Sư tổ Thanh Sùng đưa cụ Thanh Sùng về chùa Phúc Đống nhập tự trụ trì. Khi ấy, trong xã có ông Lưu Hiên làm quan tỉnh xin phép được trùng tu ngôi Tam Bảo. Sư tổ Thanh Sùng trụ trì 24 năm rồi trở về chùa Chân Tiên duy trì mạng mạch chốn Tổ, giao lại chùa Phúc Đống cho đệ tử là Sư tổ Thanh Thứ. Tổ Thanh Thứ có hai đệ tử Thanh Thịnh, Thanh Nhạc. Thanh Thịnh sau đi trụ trì cảnh riêng, Thanh Nhạc ở lại hầu thầy.


        Năm 1947, giặc Pháp chiếm đóng vùng này, lập đồn bốt tại chùa Linh Quang (chùa trên) khiến dân chúng ly loạn, thầy trò Sư tổ Thanh Thứ mạng vong, nhân dân đưa đi an táng sau chùa. Sau chiến tranh, không còn ai nhớ được mộ phần cũng như ngày mất của thầy trò Tổ Thanh Thứ. Mãi đến năm 2011, do một đại nhân duyên hy hữu, Đại đức Thích Minh Thanh đã tìm thấy được nơi an táng cũng như ngày huý kỵ của thầy trò Tổ. Kể từ đó, xá lợi của thầy trò Tổ Thanh Thứ được rước về chùa Thắng Nghiêm để nhập tháp và cúng giỗ.


        Năm 1948, được sự chỉ đạo của Đảng và Hồ Chủ tịch, Việt Minh về xây dựng căn cứ địa tại Khúc Thủy, lấy chùa Phúc Đống (chùa dưới) làm cơ sở kháng chiến, cử ông Nguyễn Văn Quyết (biệt danh Sư Đê) về trụ trì chùa để củng cố và xây dựng lực lượng chống thực dân Pháp. Từ năm 1949 đến năm 1954, Hồ Chủ tịch giao trọng trách cho Đại tướng Văn Tiến Dũng về chỉ huy căn cứ địa Khúc Thủy, Cự Đà. Đại tướng đã khoác cà sa làm sư để hoạt động cùng Sư Đê tại chùa Phúc Đống. Khi đó, toàn bộ tài sản, đồ thờ cúng của chùa đều được đưa ra phục vụ kháng chiến. Chín gian nhà thờ Tổ được dùng làm trường học cho trẻ em sơ tán, còn hai dãy nhà ngang, nhà bia, gác chuông, gác trống đều bị thực dân Pháp bắn phá.


        Hưởng ứng lời kêu gọi “Toàn quốc kháng chiến” của Hồ Chủ tịch, sau 9 năm gian khổ trường kỳ, giặc Pháp đã phải đầu hàng vô điều kiện và rút khỏi Việt Nam. Nhưng sau đó, đế quốc Mỹ được sự tiếp tay chính quyền Ngô Đình Diệm lại tràn vào xâm lược nước ta, chúng ném bom đánh phá miền Bắc, gây bao cảnh tang thương điêu tàn cho dân chúng, ai oán ngút trời. Hồ Chủ tịch lại ra lời kêu gọi “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”, toàn dân tộc nhất tề hưởng ứng đứng lên chống giặc ngoại xâm.


        Theo sự chỉ đạo của Đảng, ông Nguyễn Văn Quyết (Sư Đê) rời chùa Khúc Thủy đi theo kháng chiến. Năm 1953, Ni sư Đàm Nhân về đèn hương sớm tối trông nom chốn Tổ. Năm 1969, Ni sư Đàm Nhân viên tịch.

        Trong suốt hai cuộc kháng chiến chống thực dân, đế quốc, chùa Khúc Thủy luôn có các hoạt động gắn liền với sự tồn vong của đất nước. Chinh chiến loạn lạc cộng với ảnh hưởng của hai thời kỳ pháp nạn khiến cho kiến trúc, di vật, tư liệu của chùa bị tàn phá và thất lạc trong dân gian. Hòa bình lập lại, Khúc Thủy chỉ còn lại hai ngôi Tam Bảo là chùa Linh Quang (chùa trên) và chùa Phúc Đống (chùa dưới) song đã xuống cấp nghiêm trọng.


        Năm 1956, sau cải cách ruộng đất, hàng trăm bia ký của hai chùa, đình, miếu và Dinh Vua bị tàn phá, bia rùa mang ra làm công cụ đập lúa, sau đó bị phá bỏ, vứt xuống dòng Nhuệ Giang và các ao hồ. Vào những năm 80 của thế kỷ XX, một pho tượng Phật A Di Đà tạc bằng gỗ mít cao 5m từ thời Lý đã bị phá hủy và đem đốt, giờ chỉ còn duy nhất một góc hậu cung phía tây chùa xây bằng đá ong là di tích có từ thời Lý, chuông Thắng Nghiêm giờ đây cũng không còn cất tiếng.


        Năm Quí Sửu (1973), Ni sư Đàm Thủy (Sư Cụ Bé) về chùa đèn hương phụng sự chốn Tổ (đến năm Tân Mùi 2003 thì Ni sư viên tịch). Năm Ất Hợi (1995), do tuổi cao sức yếu không thể gánh vác công việc Phật sự, Ni sư Đàm Thủy cùng nhân dân, chính quyền các cấp và Hòa thượng Thích Quảng Lợi, Trưởng ban Đại diện Phật giáo huyện Thanh Oai, vào chùa Hương Tích cúng chùa Khúc Thủy cho Hòa thượng Thích Viên Thành, Viện chủ Tổ đình Hương Tích đời thứ 11. Năm Đinh Sửu (1997), tháng 2 ngày 2, Hòa thượng Thích Viên Thành cử đệ tử là Đại đức Thích Minh Thanh về đây tiếp nối ngọn đèn thiền. Kể từ đó tới nay, công việc trùng hưng ngôi Phạm Vũ đã và đang được tiến hành nhằm khôi phục, bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá tâm linh, nghệ thuật kiến trúc Phật giáo cũng như truyền thống của dân tộc.

        *
        Nhờ sức mạnh tâm linh của Phật tổ và hồn thiêng sông núi đất Việt, làng Khúc Thủy – chùa Thắng Nghiêm vẫn trường tồn qua bao thăng trầm, biến thiên của lịch sử. Trải dài theo các triều đại phong kiến, trang Khúc Thủy đều được phong mỹ hiệu và lập làm thang mộc ấp, trên dưới cho xây cổng làng, cứ đến 7 giờ tối là đóng và có lính triều đình canh gác. Dân Khúc Thủy không phải chịu sưu thuế, nghề chủ yếu là tằm tang canh cửi và chế biến các món ăn thơm ngon, tinh khiết để tiến cung dâng Vua. Tự hào về mảnh đất quê hương linh thiêng và giàu truyền thống, người xưa đã có thơ rằng:”Làng ta bé nhỏ xinh xinh
        Nơi ăn chốn ở là dinh toàn quyền”.

        TranHungDao2
        TranHungDao3

        Kinh Dược Sư ở chùa Thắng Nghiêm, Kinh Phạm Võng Bồ Tát Giới, tịnh lặng cùng thầy Thích Minh Thanh, lắng nghe thiên nhiên cổ vật của vùng đất thiêng kể chuyện, thật hạnh phúc để thấu hiểu một chuỗi sXem tiếp >>

          Dạy và học 14 tháng 10(14-10-2021)


         

         

        DẠY VÀ HỌC 14 THÁNG 10
        Hoàng Kim
        CNM365 Tình yêu cuộc sốngNhớ Viên Minh Hoa Lúa; Chùa Giáng giữa Đồng Xuân; Ban Mai Đình Minh Lệ; Viên Minh Thích Phổ Tuệ; Hoa Lúa giữa Đồng Xuân; Hoa Đất của quê hương; Vườn Tao Đàn bạn quý; Nguyễn Du tư liệu quý, Ngày mới lời yêu thương; Lời Thầy dặn thung dung; Dạo chơi non nước Việt; Ngày 14 tháng 10 năm 1930 Ngày thành lập Hội Nông Dân Việt Nam. Ngày 14 tháng 10 năm 1952,  Chiến tranh Đông Dương: Việt Minh bắt đầu tiến hành Chiến dịch Tây Bắc chống lại quân Liên hiệp Pháp. Ngày 14 tháng 10 năm 1952, ngày sinh Nguyễn Văn Thạc liệt sĩ, nhà văn. Bài viết chọn lọc ngày 14 tháng 10: Nhớ Viên Minh Hoa Lúa; Chùa Giáng giữa Đồng Xuân; Ban Mai Đình Minh Lệ; Viên Minh Thích Phổ Tuệ; Hoa Lúa giữa Đồng Xuân; Hoa Đất của quê hương; Vườn Tao Đàn bạn quý; Nguyễn Du tư liệu quý, Ngày mới lời yêu thương; Lời Thầy dặn thung dung; Dạo chơi non nước Việt;Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-14-thang-10/

         

        Ngat huong sen long long bong truc mai

         

        NHỚ VIÊN MINH HOA LÚA
        Hoàng Kim

        Tay men bệ đá sân chùa
        Tổ tiên cha mẹ đều xưa chốn này
        Đình làng chùa cũ nơi đây
        Nuôi đêm phúc ấm dưỡng ngày nhân sinh

        Mình về với đức Viên Minh
        Thơm hương
        Hoa Lúa nặng tình nước non
        Đêm Yên Tử sáng trăng rằm
        Ban mai ngày mới an nhiên cuộc đời

        Thung dung bước tới thảnh thơi
        Hiền lành phúc hậu lánh nơi bụi trần
        Thiên nhiên là thú bình an
        Người thân bạn quý thanh nhàn sống vui.

        xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/nho-vien-minh-hoa-lua

         

        Chua Giang giua Dong Xuan

         

        CHÙA GIÁNG GIỮA ĐỒNG XUÂN
        Hoàng Kim


        Nơi cổ tự mây lành che xóm vắng
        Viên Minh xưa chùa Giáng ở đây rồi
        Bụt thư thái chim rừng nghe giảng đạo
        Trời trong lành gió núi lắng xôn xao.

        Chùa Viên Minh còn gọi là chùa Giáng nằm ven đê thuộc xã Quang Lãng, huyện Phú Xuyên, Hà Tây (cũ) nay thuộc Hà Nội, nơi
        Tổ Giáng Đại lão Hòa thượng Thích Phổ Tuệ trụ trì. xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/chua-giang-giua-dong-xuan

         

         

        BAN MAI ĐÌNH MINH LỆ
        Hoàng Kim


        Tay men bệ đá sân đình
        Tổ tiên cha mẹ lặng thinh chốn này
        Đình làng chốn cũ nơi đây
        Nuôi đêm phúc ấm dưỡng ngày nhân sinh.

        Mình về với đức Viên Minh
        Thơm hương Hoa Lúa ân tình nước non
        Đêm Yên Tử sáng trăng rằm
        Ban mai ngày mới an nhiên cuộc đời.

        Thung dung bước tới thảnh thơi
        Hiền lành phúc hậu lánh nơi bụi trần
        Thiên nhiên là thú bình an
        Người thân bạn quý thanh nhàn sống vui.

        Ban mai sương sớm trên đình làng Minh Lệ trước ruộng lúa nhà tôi.
        Ban Mai Đình Minh Lệ
        https://hoangkimlong.wordpress.com/ban-mai-dinh-minh-le/

         

         

         

         

        VIÊN MINH THÍCH PHỔ TUỆ
        Hoàng Kim

        Nhớ Pháp Chủ người hiền Thích Phổ Tuệ
        Viên ngọc lành tính sáng gửi tin yêu:
        “Mưa thuận gió hòa chăm bón đúng
        Nhân tươi quả tốt được thu nhiều”

        Thương hạt ngọc trắng ngần vui Bạch Ngọc
        Phước nhân duyên thơm thảo học làm người
        “Thơm hương lúa ngậm đòng chăm bón đúng
        Mưa thuận gió hòa nhân quả tốt tươi”

        Ngát hương sen lồng lộng bóng trúc mai
        Đồng xanh đất lành trời xanh bát ngát
        Hoa Đất, Hoa Người tổ tiên phước đức
        Con biết ơn Người hiếu thảo ghi ơn …

        Đại lão Hòa thượng Thích Phổ Tuệ viết “Mưa thuận gió hòa chăm bón đúng. Nhân tươi quả tốt được thu nhiều” và ấn chứng Bạch Ngọc (hạt gạo trắng ngần) cho người có tâm nguyện trọn đời theo nghề nông. Viên Minh Thích Phổ Tuệ sinh ngày 12 tháng 4 năm 1917 đến nay đã trụ thế trãi trên 105 xuân (2021), Người từng nói: “Sống ở trên đời này được bao nhiêu năm, theo tôi, không phải là thước đo giá trị của đời người. Con rùa nó sống hàng ngàn năm thì đã sao? Vấn đề là sống để thực hiện sứ mệnh gì, mang lại lợi ích gì cho Đời, cho Đạo, ngài
        Trần Nhân Tông chỉ ở đời có 51 năm, Ngài Pháp Loa có 47 năm mà công nghiệm thì bất khả tư nghì. Tôi trụ thế đến nay.( …) nghiệp là tu hành, nuôi thân thể chủ yếu bằng nghề làm ruộng, chưa từng dám lạm dụng một bát gạo, một đồng tiền của tín thí thập phương, khi nào chư Phật, chư Tổ cho gọi thì về thôi” . Đại lão Hòa thượng Thích Phổ Tuệ là người đóng góp nhiều công trình nghiên cứu, biên soạn, dịch thuật về Phật học như: Đại từ điển Phật học, Đại Luật, Đại tạng kinh Việt Nam, Đề cương Kinh Pháp Hoa, Kinh Bách Dụ, Phật Tổ Tam Kinh, Phật học là tuệ học.Thiền sư Thích Phổ Tuệ là đệ Tam pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam.

         

         

        HOA LÚA GIỮA ĐỒNG XUÂN
        Hoàng Kim

        Bao năm Trường Viện là nhà
        Sắn khoai ngô lúa đều là thịt xương
        Một đời người một rừng cây
        Thầy ươm giống tốt để mai thành rừng…

        Con thăm Thầy
        lên non thiêng Yên Tử
        Về đất lành chùa Giáng (*) giữa đồng xuân
        Thơm hương lúa ngậm đòng chăm bón đúng
        Ngát gương sen lồng lộng bóng trúc mai

        Biết ơn Thầy trọn đời thương hạt gạo
        Bưng bát cơm đầy, quý giọt mồ hôi
        Con theo Thầy nguyện làm Hoa Lúa
        Hoa quê hương hạt ngọc trắng ngần.

         

        Lẫn với cỏ không tranh đua hương vị
        Không màng ngôi ngự trị các loài hoa
        Hoa Lúa đượm hồn quê dung dị
        Quên sắc hương để lộng lẫy Hoa Người ! ” (**)

         

        Con nguyện ước nối đời theo hạt gạo
        Chén cơm ngon thơm bếp lửa gia đình
        Thầy Trò cùng chung tay làm việc thiện
        Sống trọn tình với giấc mơ xanh.

         

         

        NGÀY MỚI LỜI YÊU THƯƠNG
        Hoàng Kim

        9
        Khoác thêm tấm áo trời se lạnh
        Tâm bình vui bước tới an nhiên
        Phúc hậu mỗi ngày thêm việc thiện
        Yêu thương xa cách hóa gần thêm.

         

         

        NGÀY MỚI LỜI YÊU THƯƠNG
        Hoàng Kim
        8
        Nắng dát vàng Bến Lội
        Khoai mướt xanh Cồn Dưa
        Núi sẫm tím Đá Dựng
        Cò đậu trắng đôi bờ

        Linh Giang ơi Linh Giang
        Quê hương thăm thẳm nhớ
        Rào Nan và Nguồn Son
        Dòng đời thao thiết chảy

        “Cảnh mãi theo người được đâu em
        Hết khổ hết cay hết vận hèn
        Nghiệp sáng đèn giời đà chỉ rõ
        Rồi đây cay đắng chẳng buồn chen” (*)

        (*) Khát vọng, thơ Hoàng Ngọc Dộ.

         

         

        NGÀY MỚI LỜI YÊU THƯƠNG
        Hoàng Kim
        7
        Mái nhà xưa nơi đây
        Mẹ cha thành bóng hạc
        Thương câu thơ lưu lạc
        Chuyện đời đâu dễ quên.

        Người thân, họ hàng quen
        Tảo mộ mừng gặp lại
        Ngày mới trên quê hương
        Sông xanh thao thiết chảy

         

         

        NGÀY MỚI LỜI YÊU THƯƠNG
        Hoàng Kim

        6
        Đêm Giáng Sinh an lành
        Ông Già Noel mở cửa
        Chuông ngân nga mười hai giờ đêm
        Đông tàn xuân đã đến

        Sáng mai
        Em dậy đi làm sớm
        Trời còn se lạnh
        Đừng quên giữ ấm nghe em

        Lời nhắn yêu thương
        Tình yêu đầy đặn
        Thung dung cuộc đời
        Ngày mới trên quê hương.

         

        Ngày mới

         

        NGÀY MỚI LỜI YÊU THƯƠNG
        Hoàng Kim
        5
        Nay vui là chính bạn và ta,
        Hào hứng cười to một tiếng oa (*),
        An nhiên thanh thản vui lòng mẹ,
        Nối nghiệp theo nghề thỏa chí cha.
        Tâm học Đào, Phan công việc tốt
        Đức noi Hoàng, Nguyễn lộc thêm hoa.
        Minh Lệ Hiếu Kim ngày trở lại (**)
        Mai vui về Huế ghé thăm nhà.

        Hơn chín mươi lăm triệu dân ta,
        Nay lại vừa thêm một tiếng oa
        Chúc cháu an lành vui lòng mẹ,
        Mừng nhà thịnh vượng thỏa chí cha.
        Đất Huế thanh trà thơm ngọt trái
        Trời Nam giống tốt lộc đầy hoa.
        Minh Hiếu Quê Choa nay thành nội
        Phúc hậu đời thương phước đến nhà.

        Ghi chú
        (*) Bài thơ cụ Phan Bội Châu chúc mừng cụ Đào Duy Anh và chúc phúc GS Đào Thế Tuấn (*) là thân phụ của TS. The Anh Dao .Cụ Phan tiên đoán tương lai của ‘con cháu dòng họ Đào Công’ không chỉ sẽ theo được mà còn làm rạng rỡ thêm truyền thống gia đình, (nay điều đó đã trở thành hiện thực); nguyên vận bài thơ cụ Phan:

        Hai mươi lăm triệu giống dòng ta,
        Hôm trước nghe thêm một tiếng oa,
        Mừng chị em mình vừa đáng mẹ,
        Mong thằng bé nọ khéo in cha.
        Gió đưa nam tới sen đầy hột,
        Trời khiến thu về quế nở hoa.
        Sinh tụ mười năm mong thế mãi,
        Ấy nhà là nước, nước là nhà.

        (**) Dân số Việt Nam lúc 9g53 ngày 29 tháng 11 năm 2017 là 95929429 người thống kê vào đúng thời điểm 9g53 lúc thầy Hiếu đăng FB ngày 29 Tháng Mười Một, được cập nhật tại https://danso.org/viet-nam/ Thầy Hiếu quê choa nay thành nội’ ẩn ngữ hai nghĩa quê Quảng Bình nay ở thành Nội (Huế), Thầy Hiếu là ‘Thượng thư bộ Học’ đại học Huế nay thành ông nội, một nhà làm Thầy.

         

         

        NGÀY MỚI LỜI YÊU THƯƠNG
        Hoàng Kim

        4
        Một đóa mai vàng sinh nhật
        Một lời ấm áp tình thân
        Một Biển Hồ soi bóng nắng
        Một Giác Tâm xa mà gần.

         

         

        NGÀY MỚI LỜI YÊU THƯƠNG
        Hoàng Kim

        3
        Ai đến
        nơi nao
        xa
        thăm thẳm
        chia nửa
        vầng trăng
        khuyết lại tròn,
        mưa
        níu ngày dài
        thêm nỗi nhớ
        ngóng cửa chờ nhau
        ai
        nhớ ai …

        Cứ đợi
        cứ chờ
        thương
        mòn mõi
        gìn vàng
        giữ ngọc
        nắng mai
        nay,
        Chút thôi
        mưa sớm
        trời
        quang lại,
        sương đọng
        mi
        ai
        lặng lẽ
        hoài …

         

         

        NGÀY MỚI LỜI YÊU THƯƠNG
        Hoàng Kim
        2

        Thung dung cùng với cỏ hoa.
        Thảnh thơi đèn sách, nhẫn nha dọn vườn.
        Mặc ai tính thiệt so hơn.
        Bát cơm gạo mới vẫn thơm láng giềng.

        Thiên nhiên là thú thần tiên.
        Chân quê là chốn bình yên đời mình.
        Bạn hiền bia miệng anh linh.
        An nhiên sống giữa ân tình thế gian

         

         

        NGÀY MỚI LỜI YÊU THƯƠNG
        Xuân hiểu Mạnh Hạo Nhiên
        Bản dịch của Hoàng Kim

        1
        Ban mai chợt tỉnh giấc,
        Nghe đầy tiếng chim kêu.
        Đêm qua mây mưa thế,
        Hoa xuân rụng ít nhiều?

        (*) Mạnh Hạo Nhiên (689 – 740) là nhà thơ người Tương Dương, Tương Châu, nay thuộc tỉnh Hồ Bắc ,Trung Quốc thời nhà Đường, thuộc thế hệ đàn anh của Lí Bạch. Ông là người nhân cách lỗi lạc, yêu thiên nhiên, phúc hậu đức độ, học vấn tài năng trác tuyệt, giỏi thơ văn, nhưng chán ghét cảnh quan trường nên ẩn cư vui với thiên nhiên, sông núi quê hương , đặc biệt là Long Môn, Nam San và Lumen Sơn. Sự nghiệp văn chương của ông sừng sững như núi cao với hai trăm sáu mươi bài thơ, phần lớn là những bài thơ sơn thuỷ tuyệt bút . Thơ năm chữ của Mạnh Hạo Nhiên luật lệ nghiêm cách, phóng khoáng, hùng tráng, rất nổi tiếng. Bài Xuân hiểu và Lâm Động Đình được nhiều người truyền tụng. Lí Bạch rất hâm mộ Mạnh Hạo Nhiên và có thơ tặng ông.

         

        thayoi

         

        LỜI THẦY DẶN THUNG DUNG
        Hoàng Kim

        Việc chính đời người chỉ ít thôi.
        Chuyên tâm đừng bận chuyện trời ơi.
        Phúc hậu suốt đời làm việc thiện.
        Di sản muôn năm mãi sáng ngời

        Biết đủ thời nhàn sống thảnh thơi
        Con em và cháu vững tay rồi
        Đời không lo nghĩ lòng thanh thản
        Minh triết mỗi ngày dạy học chơi.
        Thung dung đời thoải mái
        ban mai của riêng mình
        giọt thời gian điểm ngọc
        thanh nhàn khát khao xanh.

         

        thungdung
        Thầy bạn trong đời tôi

         

        VƯỜN TAO ĐÀN BẠN QUÝ
        Hoàng Kim
        cám ơn
        Huỳnh Hồng, Lâm Cúc,Trương Phú Thiện, Tùy Ngộ Nhi An

        Ngày mới vui gặp bạn
        Tao Đàn tươi nắng mai
        Điểm xanh hoa cỏ đẹp
        Giếng Ngọc thơm hương trời

         

         

        VƯỜN TAO ĐÀN BẠN QUÝ
        Hoàng Kim


        Bạn hiền gửi ảnh ơn bạn quý
        Hình đẹp mình vui được sẻ chia.
        Thiên nhiên hồn Việt như tình mẹ
        Cổ thụ chim trời hót mãi mê.

         

        Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là NLU.jpg

         

        DẠY VÀ HỌC https://hoangkimvn.wordpress.com
        ngày mới nhất bấm vào đâycập nhật mỗi ngày

        Video yêu thích
        Mênh mang một khúc sông Hồng
        Huyền Thoại Hồ Núi Cốc
        Một thoáng Tây Hồ
        Trên đỉnh Phù Vân
        Chảy đi sông ơi …

        Chỉ tình yêu ở lại
        Ngày hạnh phúc của em
        Giúp bà con cải thiện mùa vụ
        KimYouTube

        Trở về trang chính
        Hoàng Kim Long, Ngọc Phương Nam, Thung dung, Dạy và Học, Việt Nam Học, Cây Lương thực Việt Nam, CNM365Tình yêu Cuộc sống, Kim on LinkedIn, Kim on Facebook, Kim on Twitter

        Xem tiếp >>

          Dạy và học 13 tháng 10(13-10-2021)


        DẠY VÀ HỌC 13 THÁNG 10
        Hoàng Kim
        CNM365 Tình yêu cuộc sốngBài đồng dao huyền thoại; Vị tướng của lòng dân; Nhớ thầy Nguyễn Mộng Giác,Nhớ thầy Nguyễn Quốc Toàn; Quang Dũng thơ gọi nắng; Lên Việt Bắc điểm hẹn; Về Việt Bắc nhớ Người; Dạo chơi non nước Việt; Thu Nguyệt gai và hoa; Nguyễn Du trăng huyền thoại; Quả tốt bởi nhân lành; Nhân nghĩa cốt an dân; Người vịn trời chấp sói; Trân trọng Ngọc riêng mình; Lời Thầy dặn thung dung; Ngày 13 tháng 10 năm 2005 Ngày thành lập doanh nhân doanh nghiệp Việt Nam. Ngày 13 tháng 10 năm 2013 Ngày đưa tang đại tướng Võ Nguyên Giáp. Ngày 13 tháng 10 năm 1939, ngày mất nhà văn Vũ Trọng Phụng.  Ngày 13 tháng 10 năm 1988, ngày mất nhà thơ Quang Dũng. Bài viết chọn lọc ngày 13 tháng 10: Bài đồng dao huyền thoại; Vị tướng của lòng dân; Nhớ thầy Nguyễn Mộng Giác,Nhớ thầy Nguyễn Quốc Toàn; Quang Dũng thơ gọi nắng; Lên Việt Bắc điểm hẹn; Về Việt Bắc nhớ Người; Dạo chơi non nước Việt; Thu Nguyệt gai và hoa; Nguyễn Du trăng huyền thoại; Quả tốt bởi nhân lành; Nhân nghĩa cốt an dân; Người vịn trời chấp sói; Trân trọng Ngọc riêng mình; Lời Thầy dặn thung dung; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-13-thang-10/

        NHỚ THẦY NGUYỄN MỘNG GIÁC
        Hoàng Kim

        Nhớ thương cánh chim trời
        Những trang đời lắng đọng
        Hoa Đất thương lời hiền
        Ngựa không nản chân bon.

        Ngày xuân đọc Trạng Trình
        Đào Duy Từ còn mãi
        Nguyễn Du trăng huyền thoại
        Văn chương ngọc cho đời.

        Vĩ Dạ thương Miên Thẩm
        Mai Hạc vầng trăng soi

        Tôi tâm đắc đọc lại
        Sông Côn Mùa Lũ – Lời Giới Thiệu của giáo sư tiến sĩ Mai Quốc Liên đối với tác phẩm lớn Sông Côn mùa lũ trên 2000 trang của nhà giáo nhà văn Nguyễn Mộng Giác. Ngọc phương Nam tôi thường trở lại nhiều hơn cả, đó là Sóc Trăng Lương Định Của, Nhớ thầy Tôn Thất Trình, Nguyễn Hiến Lê sao sáng, riêng Nhớ thầy Nguyễn Mộng Giác tôi đã lưu thông tin Nguyễn Du trăng huyền thoại Hoàng Kim viết từ thuở ấy (cuối bài). Những lời đầu trang này là sự đọc lại sau thời gian chín năm tác giả ‘Sông Côn mùa lũ’ đi xa. Nhớ thầy Nguyễn Mộng Giác, pháp danh Thiền Ngộ Thầy ra đi trong bình an https://youtu.be/MtLcxiqZamQ; “Đốt lò hương ấy so tơ phím này” Hoàng Kim cảm khái đọc lại Sông Côn mùa lũ chương 65. https://nguyenmonggiac.com/song-con-mua-lu/phan-5-vuot-deo-hai-van/153-chuong-065.html; Nguyễn Du trăng huyền thoại; Quả tốt bởi nhân lành, Ngôn ngữ văn hóa Việt cùng với https://hoangkimlong.wordpress.com/category/nho-thay-nguyen-mong-giachttps://hoangkimlong.wordpress.com/category/ngua-khong-nan-chan-bon/

        Sông Côn Mùa Lũ – Lời Giới Thiệu
        của giáo sư tiến sĩ Mai Quốc Liên đối với tác phẩm lớn Sông Côn mùa lũ trên 2000 trang của nhà giáo nhà văn Nguyễn Mộng Giác

        Sông Côn là con sông chảy qua vùng đất Tây Sơn quê hương của anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ. Anh Nguyễn Mộng Giác là người cùng quê với người anh hùng – nhân vật tiểu thuyết đó của anh. Đấy cũng là một lợi thế để anh có những tình cảm và hiểu biết đặng viết về biến cố lịch sử quan trọng nhất của thế kỷ 18 đó. Nhưng không phải chỉ có thế. Để viết về lịch sử, dĩ nhiên là tác giả thông hiểu lịch sử. Nhưng đây không phải là sử học ở chỗ sử học tạm ngừng bút (vì thật ra nó chưa bao giờ thực sự ngừng bút) thì tiểu thuyết bắt đầu. Tiểu thuyết là lĩnh vực của cái có thể, của tưởng tượng, tất nhiên là sự tưởng tượng ở đây bị chế ước bởi tình cảm và sự nhận thức về lịch sử.

        Sông Côn Mùa Lũ (1) lần đầu tiên trong văn chương Việt Nam, làm một trường thiên về lịch sử thế kỷ 18. Tác phẩm rất hấp dẫn, trước hết là vì phẩm chất văn học của nó. Các sử sự thì ta đã biết cả rồi nhưng những tình cảm, những thôi thúc nội tâm, những suy tưởng, những quan hệ giữa con người với con người trải dài qua một biến cố lớn lao thì đây là đầu ta tiếp xúc. Và sự phong phú của nó, vẻ đẹp của nó…lôi cuốn ta, lôi cuốn những người yêu lịch sử dân tộc, yêu con người Việt Nam nhân ái và quả cảm. Ở đây Nguyễn Huệ đã được mô tả thành công như đã có trong sử sách: anh hùng đến mức xuất sắc, thiên tài, nhưng không phải anh hùng một cách đơn giản, tự nhiên nhi nhiên, mà có những suy tưởng, trăn trở có hàm lượng trí tuệ, triết học – lịch sử cao làm động cơ bên trong của những hành động. Nguyễn Huệ bình dị trong đời thường, cũng có những cái bị ràng buộc bởi xã hội: anh yêu An sâu thẳm, thiết tha biết bao nhiêu, nhưng rồi anh phải lấy người khác, và An thì cũng vậy. Thành công nhất là tuyến nhân vật hư tưởng, tuyến nhân vật “đời thường”, “thế sự”, cái hồn, cái nền, cái thẳm sâu… của tiểu thuyết lịch sử. Xét cho cùng, tiểu thuyết lấy đề tài lịch sử phải giải quyết một nhiệm vụ kép; nói như Chế Lan Viên có lần nói về chuyện này: “nó phải nhảy qua hai vòng lửa”: vòng lửa “lịch sử” và vòng lửa “tiểu thuyết”. Trước mắt nhà văn bao giờ cũng là những con người với những ràng buộc qua những biến cố lịch sử và qua chính mình. Về tuyến nhân vật này, thành công lớn nhất của tác giả là An. Tôi ít đọc được trong tiểu thuyết mình một nhân vật nữ nào quyến rũ, thương mến, Việt Nam như An. An là người phụ nữ Việt Nam của mọi thời biến động, nhẫn nại, yêu thương, đi hết số phận mình và phong phú, đẹp đẽ biết bao trong nội tâm.Có thể nói, tác giả đã gởi vào An rất nhiều những thể nghiệm, những suy tưởng… về người phụ nữ Việt Nam – người gánh lịch sử, đất nước, chồng con… trên đôi vai bé nhỏ, yếu đuối của mình. Có thể nói An là cái “nguyên lý thi học”, cái thước đo thử nghiệm của tác phẩm. Điều thú vị là An đã làm say mê bao bạn gái của nàng thời nay: sau khi Sông Côn mùa lũ in lần thứ nhất, đã có nhiều bạn đặt tên con mình là An (Khánh An, Bình An,…) như một kỷ niệm. Tiểu thuyết đã đi được vào người đọc, vào cuộc đời. Bên cạnh đó, là những nhân vật như Lợi, Lãng, Kiên, Chinh… Họ cũng được tác giả xây dựng thành công với những nét tính cách khác biệt, những gởi gắm về triết lý cuộc đời, triết lý lịch sử: người thì trung thực, vô tư, “nghệ sĩ”, người thì chịu đựng nhẫn nại… Thông qua các nhân vật, hành động và suy tưởng của họ mà cuộc đời – lịch sử được hiển hiện với bao hấp dẫn, say mê, nghĩ ngợi… Toàn bộ tuyến nhân vật “hư tưởng” này (thực ra thì các nhân vật lịch sử trong tiểu thuyết này cũng là “hư tưởng” của tác giả), quả đã là một sáng tạo mới góp phần làm cho cuốn tiểu thuyết đáng mặt là tiểu thuyết theo cái nghĩa cổ điển của từ này.

        Ngoài những thành công về nhân vật, về ngôn ngữ, về dựng cảnh, về phát triển tình tiết…tác phẩm bao quát một cái nhìn đúng và sâu về dòng chảy của lịch sử về sự phát triển của dân tộc – một cái nhìn đáng yêu và rất dễ chia sẻ.

        Nguyễn Mộng Giác đã viết tác phẩm này lúc còn ở trong nước vào những năm 1978-1981 với những cố gắng rất cao (2). Chúng tôi thấy vui khi thấy có một nhà văn đã dám bỏ nhiều công phu, tâm huyết và tài năng để dựng một bộ tiểu thuyết trường thiên về một người anh hùng dân tộc, về một thời đại lịch sử mà chúng ta mãi yêu mến, tự hào và luôn luôn muốn hiểu biết sâu thêm. Và có thể nói rằng tác giả đã thành công. Với sự giúp đỡ của nhiều bạn bè và tổ chức, cuối cùng Trung tâm nghiên cứu Quốc học và Nhà xuất bản Văn học đã làm được điều chúng tôi mong mỏi: đưa được tới tay bạn đọc một bộ sách hay, bổ ích, có nhiều ý nghĩa, một tác phẩm rất cần có trong hành trang văn hóa của mỗi người Việt Nam chúng ta trong lúc này. “Mỗi một cuốn sách có số phận riêng của mình”, câu châm ngôn Latinh đó thực đúng với tác phẩm này. Từ quê hương Việt Nam ra đi, nó lại trở về quê hương, nơi chắc chắn nó sẽ được yêu mến và trân trọng. Vì nó chính là những tình cảm cội nguồn với quê hương, đất nước, tổ tiên không dễ gì phai nhạt.

        Hy vọng rằng trong bộ sách này dù dài trên 2000 trang sẽ được bạn đọc sẵn lòng dành thì giờ cho nó, và, chúng tôi tin chắc rằng các bạn sẽ không có điều gì ân hận khi phải “mất công” đọc nó.

        ***

        Tôi đã tìm đọc cuốn Sông Côn mùa lũ trong chuyến thăm Hoa Kỳ năm 1996. Khi đó tôi đang ở thăm trường Đại học Wisconsin-Point, một Đại học nằm ở cực Bắc Hoa Kỳ, trong một thành phố nhỏ hết sức tĩnh lặng. Ngoài việc đi thăm các khoa, tiếp xúc với một số thầy giáo, đi thăm các nông trại và ngôi nhà bên hồ của vợ chồng GS Eagan, người đã tổ chức chuyến đi…tôi không có việc gì làm trong gần 10 ngày ở đó. Cuối xuân trời se lạnh và buồn, tôi nhớ nhà. Thế là tôi lôi bộ Sông Côn ra đọc, và càng đọc tôi càng bị cuốn hút, cứ ngỡ như gặp lại một cái gì vừa quen vừa lạ, thú vị vô cùng. Tôi là người để tâm tìm hiểu nhiều về thời Quang Trung, về sử sự Tây Sơn, tôi đã dịch nhiều thơ văn Ngô Thì Nhậm. Nhưng thực ra sử sự rất ít. Rất cần có một cuốn Lịch sử Tây Sơn – Quang Trung cho ra trò, một cuốn như thế phải là một công trình sưu tầm, nghiên cứu công phu… từ “điền dã” đến sử liệu và một ngọn bút sâu sắc, thông minh. Hình như ta chưa có một cuốn sách như thế. Còn về tiểu thuyết, kịch bản… thì chưa có cái nào thật xứng tầm với thời đại đó, nó mới là một cái gì nhất thời, làm vội, ngẫu nhiên. Sông Côn mùa lũ là một nỗ lực tổng hợp với một quan niệm mới cả về tiểu thuyết và cả về lịch sử.

        Tôi rất quí cuốn tiểu thuyết này. Tôi nghĩ nó là một “người đẹp” khó gặp lần thứ hai (“giai nhân nan tái đắc”) trong đời một người viết như anh Nguyễn Mộng Giác. Tôi mong nó sẽ được dựng thành phim. Để người xem cứ suốt ngày đêm xem phim lịch sử Trung Quốc, thuộc và yêu lịch sử Trung Hoa hơn Việt Nam nhiều, thì vô lý quá, và bất tiện quá. Khó là vì tiền là một nhẽ, thực ra tôi nghĩ Nhà nước có thể chi nếu có Dự án đáng tin cậy, nhưng tìm ra cho được một đạo diễn hiểu và yêu lịch sử giờ này cũng khó, rồi còn diễn viên: ai là người sẽ thể hiện cô An cho thành công như mong đợi? Nhưng tôi nghĩ, trước sau gì ta cũng nên làm, phải làm; bỏ mặc lịch sử của tổ tiên như thế sao tiện, trong khi nếu làm thành công thì tác động của nó vào tâm hồn, đời sống là vô giá. Tôi cũng đã bàn việc này với anh Nguyễn Mộng Giác, nhưng rồi cũng chỉ bàn thế thôi. Giáo sư Trần Văn Dĩnh ở Washington D.C, ủy viên Hội đồng Khoa học Trung tâm nghiên cứu Quốc học,ngỏ ý muốn tác phẩm được dịch ra tiếng Anh, rồi ông sẽ liên hệ với bên ấy để họ làm phim này. Tôi nghĩ: họ có thể làm lắm! Phim “Người Mỹ trầm lặng” mới vừa chiếu, người ta làm ra làm, chuyên nghiệp và tâm huyết như thế! Có được một cuốn tiểu thuyết để làm nền cho kịch bản là điều rất khó,nhưng có ai quan tâm gì không? Sao mà im lặng, hình như mọi người đang nghĩ đâu đâu, đang bận việc gì đâu, chẳng ai chú ý đến nghệ thuật, văn chương…

        Cả tôi cũng vậy, tôi cũng bận bao nhiêu việc vặt, và cũng chưa có dịp đọc lại Sông Côn mùa lũ. Gần đây Nguyễn Mộng Giác và chị Diệu Chi, vợ anh có về thăm quê nhà; tôi mới gặp lại anh – một người có chất “thầy giáo” hơn tôi nhiều – và tôi ngẫu hứng có mấy câu thơ viết tặng anh, xin ghi lại để làm kỷ niệm.

        Về quê, anh nhớ ghé thăm gốc me vườn Nguyễn Huệ,
        Cây me xanh, vòm lá chở che đời.
        Cây me sống cuộc đời ba thế kỷ,
        Những thương đau, những hùng vĩ con người.

        Và Sông Côn thầm lặng chảy bên trời,
        Mang ký ức của một thời oanh liệt.
        Vốn biết ai rồi cũng xong một kiếp,
        Nhưng phù sa ta sẽ hiến cho người.

        Sông Côn chảy trong đời, trong trang văn anh viết,
        Và hai dòng soi bóng vào nhau.
        Sẽ có người thiếu nữ của mai sau,
        Nhỏ giọt lệ thương An (3) – thương cuộc đời nhân loại.
        Chợt tỉnh giấc mộng dài, trời xanh chói lọi,
        Bao vui buồn sướng khổ đã đi qua.

        Tết Quí Mùi 2003

        Mai Quốc Liên, GS-TS Văn học

        GĐ Trung tâm nghiên cứu Quốc học.


        (1) Sông Côn mùa lũ – Trường thiên tiểu thuyết của Nguyễn Mộng Giác. Nhà xuất bản Văn học và Trung tâm nghiên cứu Quốc Học, xuất bản tháng 2-2003 (In lần II).
        (2) Hiện nay tác giả đang sống ở Hoa Kỳ.
        (3) Nhân vật nữ trong Sông Côn mùa lũ, người yêu Nguyễn Huệ.

        Sông Côn Mùa Lũ – Chương 65

        Nguyễn Mộng Giác Lượt xem: 3251 Trần Văn Kỷ chỉ quyết định viết thư phúc đáp cho Nguyễn Huệ sau khi nhận được thư của sư cụ chùa Hà trung, bạn thiết của ông. Sư cụ tin cho ông đồ Kỷ biết: một toán trai tráng dân chài đã ùa vào phá chùa, gỡ chuông, hạ tượng Phật và bắt tất cả các chú tiểu trên mười lăm tuổi cùng hai sư bác đem lên giao nộp cho Tây Sơn. Những người phá hoại không xa lạ gì với nhà chùa. Có điều sư cụ thắc mắc phải viết thư hỏi người bạn còn hiểu chuyện trần tục là cái gì đã thúc đẩy những thanh niên hằng ngày hiền lành, nhút nhát, lầm lì, đến hành động bạo lực đó. Cái gì? Tại sao?

        Trần Văn Kỷ xuống thăm bạn ngay sau khi được thư. Ngôi chùa giống như vừa trải qua một cơn bão mạnh. Cây cối trong vườn bị xác xơ gẫy đổ, nhàu nát. Bệ Phật trống trải. Tất cả đồ đồng đồ sắt trong chùa bị mang đi. Mấy chiếc mõ bị đập vỡ. Chùa chỉ còn một mình sư cụ là người lớn. Các học tăng, chỉ còn lại hai chú tiểu tuổi chưa đến mười lăm hình vóc ốm yếu, gầy gò.

        Sư cụ lặng lẽ dẫn ông đồ Kỷ đi thăm một vòng khu vườn đổ nát và ngôi chùa chính. Tuyệt đối sư cụ không nói năng gì. Trần Văn Kỷ cũng không hỏi. Họ đi bên nhau, chân dẫm trên những mảnh vỡ của vôi xây bệ Phật và của cái mõ lớn, để bước vào phòng trong nơi sư cụ ở. Họ lặng lẽ ngồi xuống chiếc chiếu trải trên nền chùa.

        Sư cụ chờ ông đồ hỏi, nhưng lâu quá ông đồ Kỷ vẫn chưa hỏi gì. Cho nên sư cụ phải nói trước. Bằng một giọng nhỏ như lời thủ thỉ, sư cụ bảo:

        – Ông xuống có hơi sớm. Nếu kịp dọn dẹp, cảnh chùa sẽ giống như hồi nhờ ông làm cho bài phả khuyến để đúc tượng.

        Trần Văn Kỷ buồn rầu đáp:

        – Thật không thể tưởng tượng được. Tất cả mọi điều xảy ra quanh ta đều hết sức lạ lùng. Có thể trước đây chưa bao giờ có, và sau này, cũng sẽ không bao giờ có. Sư cụ hỏi tôi tại sao? Tôi lại tự hỏi mình: Có phải mình đã quá già, đến nỗi không còn cảm nghĩ, hành động như mọi người chung quanh chăng?

        Sư cụ chờ mãi không thấy ông đồ nói tiếp, nên nói:

        – Họ đã phá những gì họ đã xây, rồi mang đi dựng một cái khác. Không mất gì cả. Ông đừng nghĩ đến chuyện đổ vỡ, mất mát mà thương hại nhà chùa. Lúc nãy tôi nói y như hồi làm phả khuyến là có ý đó. Có điều tôi vẫn còn vướng víu, mê chấp, là cứ muốn biết họ sẽ xây được cái gì với số chuông tượng của chùa này.

        Trần Văn Kỷ nói ngay điều thoạt nghĩ:

        – Họ chưa vội xây đâu. Họ phá trước đã.

        Nhà sư vội hỏi:

        – Phá được cái gì?

        Ông đồ đáp ngay:

        – Trước mắt, họ phá được những tai ách mà tiếng chuông chùa Hà Trung không phá được. Lớp trẻ máu còn nóng, không kiên nhẫn lắng nghe chuông chùa niệm Phật như lớp cha chú của chúng, lớp đã nghe theo lời phả khuyến góp của để đúc chuông dựng tượng. Vì vậy chúng hăng hái đem chuông đi đúc súng.

        – Giả sử họ phá được mọi tai ách, san bằng hết chông gai hầm hố, xóa hết nghiệp chướng, sau đó họ sẽ xây cái gì?

        Trần Văn Kỷ thú nhận:

        – Tôi không biết.

        Nhà sư hỏi:

        – Họ có biết không?

        – Họ là ai?

        – Những người ra lệnh phá tượng để đúc súng, và ngay cả những người tuân lệnh.

        – Có lẽ họ cũng chưa biết.

        – Nghe nói ông được tiếp chuyện với viên Phó tướng Tây Sơn. Ông ta biết không?

        Trần Văn Kỷ bĩu môi nói:

        – Hắn không nhìn quá được tầm tay.

        – Thế viên Chủ tướng?

        – Tôi chưa được gặp. Ông ta là người đã đạp đổ cơ nghiệp họ Nguyễn Gia Miêu, và sắp tới đây, đến phiên cơ nghiệp họ Trịnh. Long Nhương tướng quân, em ruột vua Tây Sơn, sư cụ đã nghe nói đến rồi chứ?

        Nhà sư gật đầu, mặt đăm chiêu. Một lúc sau, nhà sư hỏi:

        – Viên Phó tướng nhờ ông việc gì vậy?

        Trần Văn Kỷ thành thực đáp:

        – Hắn vâng lệnh ông Long Nhương tìm mời các sĩ phu Thuận Hóa ra cộng tác với Tây Sơn.

        Nhà sư không giấu được sự nôn nóng tò mò, vội hỏi:

        – Rồi ông trả lời thế nào?

        – Tôi chưa trả lời thế nào cả. Bạch sư cụ, có nên ra giúp họ không?

        – Nếu ông nghĩ việc đó có tạo được quả phúc cho nhiều người, thì cứ mạnh dạn.

        Ông đồ hỏi dồn:

        – Nhưng ý của sư cụ ra sao?

        – Bần tăng đã chọn đường từ lúc cắt tóc khoác nâu sồng. Vì thế, bần tăng không còn so đo, thắc mắc chọn lựa con đường nào khác.

        Ông đồ Kỷ bẻ lại:

        – Nhưng nãy giờ sư cụ vẫn còn hỏi tại sao như vậy? Họ định xây cái gì? Nghĩa là…

        Nhà sư vội nói:

        – Ông hãy tự tìm đường. Bần tăng không tìm thay cho ông được đâu. Dĩ nhiên ông không có ý định xuống đây để xin qui y. Xưa nay ông vẫn thường xem vào chùa như một cách ở ẩn, hoặc đi trốn. Lúc nãy, ông cũng vừa lặp lại ý đó. Chẳng lẽ đến lượt ông, ông cũng đi trốn? Có thể nhờ có ông mà họ khỏi đập phá những gì không cần, hoặc chưa cần đập phá. Phải chừa lại chút gì làm móng để mai sau xây lên cái khác chứ. Ông nghĩ lại xem!

        *

        * *

        Khoảng đầu tháng sáu Bính Ngọ, Long Nhương tướng quân tiếp Trần Văn Kỷ tại sảnh đường tráng lệ của dinh Trấn thủ. Ngoài Lãng người được giao cho phận sự dẫn lính hầu đem võng đến mời ông đồ, trong phòng chỉ có hai người: viên võ tướng lừng lẫy chiến công, và nhà nho xứ Thuận Hóa.

        Vừa thấy võng điều hạ xuống trước thềm, Nguyễn Huệ đoán biết ngay là Trần Văn Kỷ, nên vội vã ra tận cửa để đón ông đồ. Nguyễn Huệ cung kính chắp tay vái chào, ân cần bảo:

        – Tôi biết thế nào thầy cũng đến. Suốt mười năm sống với bọn ma quỉ họ Trịnh mà thầy không thèm mặc áo giấy, đủ biết thầy vẫn hàm dưỡng để chờ bậc anh quân. Có đúng thế không?

        Trần Văn Kỷ ngồi xuống tràng kỷ không chút e dè, khách sáo, sửa lại áo khăn cho ngay ngắn, rồi mới đáp:

        – Ngài quả đã thấy cả lòng dạ tôi. Vâng, cả đời tôi vẫn ước mong được thấy bậc anh quân. Cho đến nay, tôi vẫn còn tìm.

        Nguyễn Huệ mỉm cười, đôi mắt vừa thân ái vừa ranh mãnh như mọi khi. Ông sai lính hầu pha trà, đẩy cơi trầu về phía ông đồ Kỷ. Ông đồ khẽ gật đầu cảm tạ, rồi lấy một miếng trầu bỏ vào miệng. Nguyễn Huệ thấy khách nhai trầu thản nhiên chứ không dè dặt lấm lét như nhiều kẻ đến gặp ông, đã bắt đầu kiêng nể. Nguyễn Huệ hỏi:

        – Thầy đã tìm ra minh chúa để thờ chưa?

        Trần Văn Kỷ đáp:

        – Thưa chưa!

        Nguyễn Huệ hỏi ngay:

        – Thế tại sao thầy bằng lòng đến đây?

        Ông đồ đáp:

        – Tôi làm nghề dạy học lại kiêm nghề thuốc mới đủ sống. Vất vả lâu thành thói quen. Đêm hôm khuya khoắt, nhiều khi gặp con bệnh ngặt nghèo, dù mưa gió tôi cũng đi. Cho nên được đem võng tận nhà mời đón, dù chưa biết đến đâu, tôi cũng không lấy làm ngại.

        Nguyễn Huệ thích chí, mỉm cười, rồi bảo:

        – Quả là danh bất hư truyền. Thầy dạy học hay lắm. Không biết thuốc thầy bổ cho người ta có được công hiệu không?

        Ông đồ tiếp tục nhóp nhép nhai trầu, đáp lại:

        – Cái đó còn tùy. Bệnh nặng quá không thuốc nào cứu nổi, thì chỉ bổ vài thang bồi dưỡng để con bệnh sống rán được ít lâu nữa với vợ con. Bệnh chữa được thì tùy con bệnh có thực tin ở thầy thuốc hay không. Có tin mới chịu uống đúng phép tắc, cân lượng, giờ giấc. Không thể chữa được cho những người không chịu uống thuốc.

        Nguyễn Huệ ngồi dịch lại gần ông đồ, chìa bàn tay phải ra, mỉm cười bảo:

        – Thầy xem hộ mạch cho tôi được không?

        Trần Văn Kỷ cũng mỉm cười, lắc đầu lễ phép nói:

        – Ngài cương cường mạnh khỏe như vậy, có bệnh tật gì đâu mà phải xem mạch.

        Nguyễn Huệ vội hỏi:

        – Thế lúc ra đi, thầy định làm nghề dạy học hay làm nghề thuốc?

        Ông đồ Kỷ nhũn nhặn đáp:

        – Tôi chỉ vâng mệnh Ngài mà đến.

        Nguyễn Huệ cười lớn, hỏi dồn:

        – Vậy tại sao trước kia thầy không vâng mệnh Quận Tạo?

        Trần Văn Kỷ nhớ lại cuộc trò chuyện giữa mình và sư cụ Hà Trung, nghiêm mặt đáp ngay:

        – Vì sau khi phá thành Phú Xuân này, hắn không biết làm gì khác ngoài việc tiếp tục phá hoại. Còn Ngài thì…

        – Tôi thì thế nào? Thầy chớ ngại. Tôi thích những lời nói thẳng.

        – Ngài thì có dư lực để xây cả một giang sơn, chứ đừng nói cái chuyện mọn là chắp vá lại vài chỗ thành sập lở.

        Nguyễn Huệ thích chí quá, quên cả dè dặt, đập tay xuống cái kỷ trước mặt khiến cơi trầu dồi lên. Trong khi ông đồ Kỷ đưa tay sửa lại cơi trầu, Nguyễn Huệ hân hoan nói:

        – Lâu lắm tôi mới tìm được một bậc cao kiến để được nghe những lời khuyên chân thành, biện biệt phải trái nên chăng rõ ràng. Lâu lắm! Từ ngày thầy tôi mất đi…

        Nguyễn Huệ chỉ nói đến đó, rồi im lặng. Mãi một lúc sau, ông trỏ Lãng lúc đó đang đứng hầu phía sau, hỏi Trần Văn Kỷ:

        – Thầy biết cậu này chứ ạ?

        Ông đồ nheo mắt nhìn Lãng, vui vẻ đáp:

        – Thưa có gặp. Ông này đem thư của Ngài đến cho tôi.

        Nguyễn Huệ nói:

        – Thế thầy có biết ông giáo Hiến không?

        – Thưa có.

        Nguyễn Huệ hấp tấp hỏi:

        – Biết từ hồi nào?

        – Ông giáo thuộc lớp đàn anh của tôi. Hồi đến nhà dật sĩ Ngô Thế Lân để tập văn, đôi lần tôi có gặp ông giáo đến chơi.

        – Cậu này là con trai của ông giáo đấy!

        Trần Văn Kỷ nhìn về phía Lãng, mỉm cười nói:

        – Thế à!

        Nguyễn Huệ nói:

        – Tôi được học hỏi nhiều điều bổ ích suốt mấy năm theo học thầy tôi. Sau đó vì mải theo chuyện cung kiếm, tôi không có nhiều cơ may nữa. Rồi thầy tôi qui tiên. Hôm nay được gặp thầy ở đây, tôi mừng như được gặp lại thầy.

        Trần Văn Kỷ cảm động đến nghẹn lời, phải cố dằn xúc động để nói vài câu thoái thác:

        – Ngài làm cho tôi hổ thẹn quá. Tôi chỉ là một lão đồ gàn, suốt đời lận đận cơm áo, có làm được việc gì đâu! Xin Ngài xét lại kẻo lầm lẫn.

        Nguyễn Huệ cương quyết bảo:

        – Tôi không lầm đâu. Thầy lầm thì có. Lầm vì chưa thấy, hoặc vờ như chưa thấy cái tài của mình. Xin thầy chớ ngại. Thầy đợi cho đến bao giờ nữa! Thầy vừa bảo tôi có thể xây dựng được cả một giang sơn. Thực thế ư? Xây dựng giang sơn, một người mà làm nổi ư? Ngay cái thành Phú Xuân này, quân thì lười, Quận Tạo thì nhát, nhưng hạ được nó đâu phải dễ. Nếu dân Thuận Hóa không chán ghét bọn đàn áp, nếu Trời không cho nước sông Hương dâng cao lên tận chân thành, thì dễ gì hạ họ nổi trong vòng có một đêm! Thầy là con dân của Thuận Hóa, hỏi bây giờ ai lo cho Thuận Hóa đây? Thầy chờ ai? Chờ đến bao giờ? Chắc thầy đã biết là chúng tôi sắp ra Bắc diệt Trịnh để phù Lê. Đại quân kéo đi tất có thể có nhiều kẻ lưu manh vô lại thừa chỗ hở, quấy phá dân lành. Xin thầy vui lòng giúp cho Đông định công ổn định mọi việc ở đây, trong lúc tôi ra Bắc. Tôi biết trước là thầy sẽ không từ chối, nên mới sai đưa võng tới.

        Trần Văn Kỷ không còn biết nói gì thêm nữa. Vả lại, ông đồ đã có ý định ra cộng tác với Tây Sơn từ lúc ra đi, nên lời khẩn khoản của Nguyễn Huệ càng khiến ông an tâm hơn. Sau này, ông đồ chỉ tiếc là trong buổi hội kiến thân mật và thẳng thắn ban đầu, ông đã không nói gì đến chuyện phá chùa lấy chuông tượng đúc súng và bắt lính. Có lẽ trongXem tiếp >>

          Dạy và học 12 tháng 10(11-10-2021)

        DẠY Và HỌC 12 THÁNG 10
        Hoàng Kim
        CNM365 Tình yêu cuộc sốngQuả tốt bởi nhân lành; Lời Thầy dặn thung dung; Hoàng Long dạy và học; Khoai Sắn Lúa Siêu Xanh; Minh quân Trần Thánh Tông; Nếp nhà đẹp văn hóa; Thời biến nhớ người xưa; Nam Mỹ trong mắt tôi; Ngày 12 tháng 10 năm 1240 là ngày sinh của Trần Thánh Tông, vị Hoàng đế thứ hai của nhà Trần, Việt Nam, mất năm 1290. Ngày 12 tháng 10 năm 1942, Cristoforo Colombo cùng đoàn thám hiểm của mình cập bờ Bahamas, nhưng nhà thám hiểm tưởng lầm rằng mình đến được Ấn Độ. Ngày 12 tháng 10 là ngày kỷ niệm Colombo tìm ra Châu Mỹ tại nhiều nước châu Mỹ, cũng là ngày tự do tư tưởng ở Hoa Kỳ. Ngày 12 tháng 10 năm 1979, Bão Tip cuồng phong bão biển lớn nhất thế giới từng được ghi nhận, cách Guam khoảng 840 km về phía tây-tây bắc, áp suất khí quyển thấp kỷ lục trên toàn cầu là 87,0 kPa, xuất hiện tại Tây Thái Bình Dương. Bài viết chọn lọc ngày 12 tháng 10: Quả tốt bởi nhân lành; Lời Thầy dặn thung dung; Hoàng Long dạy và học; Khoai Sắn Lúa Siêu Xanh; Minh quân Trần Thánh Tông; Nếp nhà đẹp văn hóa; Thời biến nhớ người xưa; Nam Mỹ trong mắt tôi; Thế giới trong mắt ai; Chuyển đổi số nông nghiệp; Thơ Tứ tuyệt Hoàng Kim; Nhân nghĩa cốt an dân; IAS đường tới trăm năm; Hoa và Ong Hoa Người; Thời biến nhớ người xưa; Ta về trời đất Hồng Lam; Đùa vui cùng Thuận Nghĩa; Nguyễn Du Nguyễn Công Trứ; Nguyễn Du trăng huyền thoại; Việt Nam con đường xanh; Vị tướng của lòng dân; Thu Nguyệt gai và hoa; Làng Minh Lệ quê tôi; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-12-thang-10/

        thayoi

        QỦA TỐT BỞI NHÂN LÀNH
        Hoàng Kim

        Mục đích sau cùng của DẠY VÀ HỌC là thấu suốt bản chất sự vật, có lời giải đúng và LÀM được việc
        Lời Thầy dặn thung dung: Minh triết sống phúc hậu, Quả tốt bởi nhân lành, Làm điều lành việc tốt, Vui tự tại an nhiên. Tin sâu luật nhân quả, Sống đức độ thung dung, An nhàn nguyên khí vững, Tâm sáng lộc hạnh gần. Thiện nghiệp duyên biến cải, Ngày mới ngọc tri âm, Hiếu trung nhân nghĩa lễ, Trí tín cần kiệm liêm. Thanh nhàn suối nguồn sạch, Trân trọng ngọc riêng mình, Sức khỏe và điều độ, Mai sớm thành rừng thôi https://hoangkimlong.wordpress.com/category/qua-tot-boi-nhan-lanh

        Việc chính đời người chỉ ít thôi.
        Chuyên tâm đừng bận chuyện trời ơi.
        Phúc hậu suốt đời làm việc thiện.
        Di sản muôn năm mãi sáng ngời

        Biết đủ thời nhàn sống thảnh thơi
        Con, em và cháu vững tay rồi
        Đời sống an nhiên lòng thanh thản
        Minh triết mỗi ngày dạy học vui.

        Thung dung đời thoải mái
        ban mai của riêng mình
        giọt thời gian điểm ngọc
        thanh nhàn khát khao xanh.

        Học không bao giờ muộn

        LỜI THẦY DẶN THUNG DUNG
        Hoàng Kim

        Ngày ghi nhớ trong trái tim tôi. CIMMYT tươi rói một kỷ niệm. Ngày 29 tháng 8 (âm lịch) năm 1988 là kỷ niệm ngày mất của cha tôi. Ngày này năm xưa, dưới vòm cây xanh do Thầy Norman Borlaug trồng ở CIMMYT Thầy với tôi đã trò chuyện về Goethe, cây xanh,  nhà khoa học xanh.

        Việc chính đời người chỉ ít thôi
        Chuyên tâm đừng bận chuyện trời ơi
        Phúc hậu suốt đời làm việc thiện
        Di sản muôn năm mãi sáng ngời.

        Norman Borlaug người Thầy sống nhân đạo, làm nhà khoa học xanh và nêu gương tốt. Thầy là nhà nhân đạo, nhà nông học Mỹ cha đẻ của cuộc cách mạng xanh được tặng giải Nobel và Tổng thống Mỹ trao tặng huân chương cao quý nhất của nước Mỹ, thế giới tôn vinh là nhà bác học số một của nhân loại trong cuộc chiến chống nghèo đói. Thầy đã suốt đời nghiên cứu giảng dạy về chọn tạo và phát triển cây lương thực, góp phần cải thiện đời sống và nâng cao thu nhập cho hàng trăm triệu nông dân nghèo ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ Latinh. Thầy là người sáng lập Giải thưởng Lương thực Thế giới và tổ chức nhiều hoạt động thiết thực thắp sáng niềm tin yêu cuộc sống.

        Tôi được Thầy ghé thăm gần trọn buổi chiều tại phòng riêng ở CIMMYT, Mexico ngày 29.8.1988. Thầy đã một mình ghé thăm người trò nhỏ duy nhất của châu Á trong lớp học “Quản lý Trung tâm/ Trạm trại Nông nghiệp”. Khi Thầy đến, tôi đang thắp nến trên giá sách trong phòng đề tưởng nhớ ngày cha mất. Biết cha tôi bị bom Mỹ giết hại tại làng nhỏ ở Quảng Bình của buổi chiều này hai mươi năm trước (1968) lúc tôi còn là học sinh trung học của Trường cấp Ba Bắc Quảng Trạch, Thầy bối rối xin lỗi và thật bất ngờ tôi đã có được một buổi chiều vô giá riêng tư bên Thầy.

        Lời Thầy dặn thật thấm thía: “ Đời người tối thiểu phải ăn, kế đến là học tập, công việc, nhà ở, quần áo và chăm sóc sức khỏe. Quanh ta còn nhiều mảnh đời bất hạnh. Hiểm họa nghèo đói vẫn bùng phát bất cứ lúc nào. Hãy luôn nhớ điều đó”; “Hãy vươn tới những vì sao. Cho dù không chạm được vào nó, nhưng nếu cố gắng hết sức, ít ra, chúng ta cũng chạm được những hạt bụi của ngôi sao”; “Việc chính đời người chỉ ít thôi. Chuyên tâm đừng bận chuyện trời ơi. Phúc hậu suốt đời làm việc thiện. Di sản muôn năm mãi sáng ngời”. Trích “Thầy bạn là lộc xuân cuộc đời” – Hoàng Kim

        NGUYỄN DU TRĂNG HUYỀN THOẠI
        Trân trọng Ngọc riêng mình
        Hoàng Kim

        Nguyễn Du là một bài học lịch sử thật đáng suy ngẫm. Nguyễn Du làm Ngư Tiều mười năm 1796-1802 với biệt hiệu Nam Hải Điếu Đồ (Người đi câu ở biển Nam) và Hồng Sơn Liệp Hộ (Người đi săn ở núi Hồng), đó là một ẩn ngữ đời người. Ông trầm tĩnh quan sát với nhãn quan thấu suốt, tầm nhìn minh triết, thông tuệ lạ thường để đánh giá và ứng xử đúng sự chuyển dời vận nước ở những thời khắc quyết định. Nguyễn Du là danh sĩ tinh hoa, hiền tài lỗi lạc, một nhân cách lớn.Nguyễn Du trăng huyền thoại soi tỏ cuộc đời, thời thế, tâm hồn Nguyễn Du https://hoangkimlong.wordpress.com/category/nguyen-du-trang-huyen-thoai/

        Nguyễn Du trăng huyền thoại 1 Nguyễn Du thơ chữ Hán Kiếm bút thấu tim Người Đấng danh sĩ tinh hoa Nguyễn Du khinh Thành Tổ Bậc thánh viếng đức Hòa 2 Nguyễn Du tư liệu quý Linh Nhạc thương người hiền Trung Liệt đền thờ cổ “Bang giao tập” Việt Trung
        Nguyễn Du niên biểu luận 3
        Nguyễn Du Hồ Xuân Hương “Đối tửu” thơ bi tráng “Tỏ ý” lệ vương đầy Ba trăm năm thoáng chốc Mại hạc vầng trăng soi. 4 Nguyễn Du Nguyễn Công Trứ Uy Viễn “Vịnh Thúy Kiều” Tố Như “Đọc Tiểu Thanh” Bến Giang Đình ẩn ngữ Thời biến nhớ người xưa. 5 Nguyễn Du thời Tây Sơn Mười lăm năm tuổi thơ Mười lăm năm lưu lạc
        Thời Hồng Sơn Liệp Hộ Tình hiếu thật phân minh 6
        Nguyễn Du làm Ngư Tiều Câu cá và đi săn Ẩn ngữ giữa đời thường Nguyễn Du ức gia huynh Hành Lạc Từ bi tráng 7 Nguyễn Du thời nhà Nguyễn Mười tám năm làm quan (1802-1820) Chính sử và Bài tựa Gia phả với luận bàn Bắc hành và Truyện Kiều 8 Nguyễn Du tiếng tri âmĐối tửu cụ Nguyễn Du Đi thuyền trên Trường Giang Nguyễn Du khóc Tố Như Nguyễn Du Kinh Kim Cương 9 Nguyễn Du niên biểu luận Tâm tình và Hồn Việt Tấm gương soi thời đại Ba trăm năm thoáng chốc Mai Hạc vầng trăng soi ; xem tiếp Nguyễn Du Nguyễn Công Trứ Uy Viễn “Vịnh Thúy Kiều” Tố Như “Đọc Tiểu Thanh” Bến Giang Đình ẩn ngữ; Thời biến nhớ người xưa. Tôi về thăm lại bến Giang Đình xưa, nơi Nguyễn Du viết Kiều và nơi Nguyễn Du cùng Nguyễn Công Trứ đàm đạo. Non xanh còn đó, nước biếc còn đây, rác còn nhiều nhưng nước non vẫn vậy; xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/co-ba-dong-van-chuong/

        MINH QUÂN TRẦN THÁNH TÔNG
        Hoàng Kim

        Trần Thánh Tông sinh ngày 12 tháng 10 năm 1240, mất ngày 3 tháng 7 năm 1290 là  vị Hoàng đế thứ hai của nhà Trần, ở ngôi từ năm 1258 đến 1278 và làm Thái thượng hoàng từ năm 1278 đến năm 1290 lúc qua đời (hình Lăng Trần Thánh Tông ở Long Hưng, Thái Bình)Trần Thánh Tông là vua thánh nhà Trần: Vua nổi tiếng có lòng thương dân và đặc biệt thân thiết với anh em trong Hoàng tộc, điều hiếm thấy từ trước đến nay; Trần Thánh Tông có công rất lớn lúc làm Thái thượng hoàng đã cùng với con trai là vua Trần Nhân Tông lãnh đạo quân dân Đại Việt giành chiến thắng trong hai cuộc chiến cuối cùng chống lại quân đội nhà Nguyê
        n sang thôn tính nước ta lần thứ hai năm1285 và lần thứ ba năm 1287; Nước Đại Việt suốt thời Trần Thánh Tông làm vua và làm Thái Thượng hoàng là rất hưng thịnh, hùng mạnh, phát triển toàn diện chính trị, kinh tế, quân sự, ngoại giao, văn hóa, giáo dục không để cho nhà Nguyên thôn tính.

        Trần Thánh Tông cuộc đời và di sản

        Vua Trần Thánh Tông tên thật Trần Hoảng là con trai thứ hai của vua Trần Thái Tông (Trần Cảnh), mẹ là Hiển Từ Thuận Thiên hoàng hậu Lý thị, công chúa nhà Lý, con gái của Lý Huệ Tông và Linh Từ Quốc mẫu. Anh trai lớn của ông, Tĩnh Quốc đại vương Trần Quốc Khang tuy danh nghĩa là con lớn nhất, nhưng thực tế là con của Khâm Minh đại vương Trần Liễu. Như vậy, ông là Hoàng đích trưởng tử (con trai lớn nhất và do chính thất sinh ra) của Trần Thái Tông hoàng đế.

        Vua Trần Thánh Tông sinh ngày 25 tháng 9 âm lịch, năm Thiên Ứng Chính Bình thứ 9 (1240), và ngay lập tức được lập làm Hoàng thái tử, ngự ở Đông cung. Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư, trước khi Hiển Từ Thuận Thiên hoàng hậu mang thai ông, Thái Tông hoàng đế nằm mơ thấy Thượng Đế trao tặng bà một thanh gươm báu.

        Vua Trần Thánh Tông có vợ là  Nguyên Thánh hoàng hậu Trần Thiều (?– 1287), con gái An Sinh Vương Trần Liễu, mới đầu phong làm Thiên Cảm phu nhân, sau phong lên làm Hoàng hậu. Năm 1278, Trần Nhân Tông tôn làm Nguyên Thánh Thiên Cảm Hoàng Thái hậu

        Vua Trần Thánh Tông có bốn con: 1) đích trưởng tử là Trần Khâm, tức Nhân Tông Duệ Hiếu hoàng đế, mẹ là Nguyên Thánh hoàng hậu; 2) Tá Thiên đại vương Trần Đức Việp (1265 – 1306), mẹ là Nguyên Thánh hoàng hậu. 3) Thiên Thuỵ công chúa, chị gái Nhân Tông, mất cùng ngày với Nhân Tông (3 tháng 11 âm lịch, 1308), lấy Hưng Vũ vương Trần Quốc Nghiễn, con trai Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn, mẹ là Nguyên Thánh hoàng hậu;4)  Bảo Châu công chúa, lấy con trai thứ của Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải, mẹ là Nguyên Thánh hoàng hậu.

        Nhà Trần đánh bại quân Nguyên Mông lần thứ nhất năm 1257, vào ngày 24 tháng 12 năm Nguyên Phong thứ 7 (1257), Thái tử Trần Hoảng đã cùng với vua Trần Thái Tông ngự lâu thuyền mà kéo quân đến Đông Bộ Đầu, đập tan tác quân Nguyên Mông trong Trận Đông Bộ Đầu, buộc họ phải rút chạy và chấm dứt cuộc xâm lược Đại Việt.

        Vua Trần Thái Tông nhường ngôi cho Thái tử Trần Hoảng ngày 24 tháng 2, năm 1258 (Nguyên Phong thứ 8). Vua Trần Thánh Tông đổi niên hiệu là Thiệu Long, xưng làm Nhân Hoàng, tôn vua chalàm Thái thượng hoàng, tôn hiệu là Hiển Nghiêu Thánh Thọ Thái Thượng Hoàng Đế .

        Vua Trần Thánh Tông ở ngôi 21 năm, đất nước được yên trị . Vua nổi tiếng là vị hoàng đế nhân hậu, hòa ái đối với mọi người từ trong ra ngoài. Ông thường nói rằng: “Thiên hạ là của ông cha để lại, nên để anh em cùng hưởng phú quý chung”.Do vậy, các hoàng thân trong nội điện thường ăn chung cỗ và ngủ chơi chung nhà rất đầm ấm, chỉ khi có việc công, hay buổi chầu, thì mới phân thứ tự theo phép nước .

        Tĩnh Quốc đại vương Trần Quốc Khang, trên danh nghĩa là con trưởng của vua Trần Thái Tông, nhưng thực ra là con trai của An Sinh đại vương Trần Liễu cùng Hiển Từ Thuận Thiên hoàng hậu. Trần Quốc Khang tuy là con trưởng  của vua Trần Thái Tông, nhưng  xuất thân đặc biệt nên chịu mọi sự suy xét trong hoàng tộc. Sử cũ kể lại, có lần Trần Thánh Tông cùng với người anh cả là Trần Quốc Khang chơi đùa trước mặt Thái thượng hoàng. Thượng hoàng mặc áo bông trắng, Trần Quốc Khang múa kiểu người Hồ, Thượng hoàng bèn cởi áo ban cho. Vua Trần Thánh Tông thấy vậy cũng múa kiểu người Hồ để đòi thưởng áo bông. Quốc Khang bèn nói:Quý nhất là ngôi vua, tôi đã không tranh với chú hai rồi. Nay đức chí tôn cho tôi thứ nhỏ mọn này mà chú hai cũng muốn cướp sao?

        Thượng hoàng Thái Tông cười nói với Quốc Khang:

        Vậy ra con coi ngôi vua cũng chỉ như cái áo choàng này thôi à?

        Thượng hoàng Thái Tông khen Quốc Khang, rồi ban áo cho ông. Trong Hoàng gia, cha con, anh em hòa thuận không xảy ra xích mích.] Vào tháng 9 năm 1269, Vua Trần Thánh Tông phong cho Trần Quốc Khang làm Vọng Giang phiêu kỵ Đô thượng tướng quân. Một lần khác, vào mùa xuân năm 1270, Trần Quốc Khang xây vương phủ hoành tráng tại Diễn Châu, vua Trần Thánh Tông bèn cho người đến xem. Hoảng sợ, Quốc Khang đành phải dựng tượng Phật tại nơi này – sau trở thành chùa Thông.

        Vua Trần Thánh Tông rất quan tâm giáo dục, Trần Ích Tắc, em trai Trần Thánh Tông nổi tiếng là một người hay chữ trong nước được cử mở trường dạy học để các văn sĩ học tập. Danh nho Mạc Đĩnh Chi, người đỗ trạng nguyên đời Trần Anh Tông sau này cũng học ở trường ấy.

        Thời vua Trần Thánh Tông nhân sự cũng được thay đổi. Ông xuống chiếu kén chọn văn học sĩ sung vào quan ở Quán và Các. Trước đó, theo quy chế cũ: “không phải người trong họ vua thì không được làm chức Hành khiển“. Nhưng bắt đầu từ đấy, nho sĩ văn học được giữ quyền bính làm hành khiển, như Đặng Kế làm Hàn lâm viện học sĩ, Đỗ Quốc Tá làm Trung thư sảnh trung thư lệnh, đều là nho sĩ văn học.  Vua Trần Thánh Tông cho phép các vương hầu, phò mã họp các dân nghèo để khẩn hoang]. Vương hầu có điền trang bắt đầu từ đấy.

        Năm 1262, vua Trần Thánh Tông xuống lệnh cho quan quân chế tạo vũ khí và đúc thuyền. Tại chín bãi phù sa ở sông Bạch Hạc, Lục quân và Thủy quân nhà Trần đã tổ chức tập trận. Vào tháng 9 (âm lịch) năm ấy, ông truyền lệnh cho rà soát ngục tù, và thẳng tay xử lý những kẻ đã đầu hàng quân xâm lược Nguyên trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ nhất thời Nguyên Phong.

        Vua Trần Thánh Tông còn cho Lê Văn Hưu tiếp tục biên soạn sách Đại Việt sử ký. Lê Văn Hưu đã làm được bộ sử sách gồm 30 quyển, chép từ đời Triệu Vũ Vương đến Lý Chiêu Hoàng. Việc biên tập bộ sử này được khởi đầu từ đời vua Trần Thái Tông, đến năm 1271 đời Thánh Tông mới hoàn thành.

        Năm 1258, sau khi Nhà Trần đánh bại quân Nguyên Mông lần thứ nhất, Trần Thánh Tông sai sứ sang Nam Tống báo việc lên ngôi và được phong làm An Nam quốc vương. Mặc dù Nam Tống đã suy yếu trước sự uy hiếp của Mông Cổ, ông vẫn giữ quan hệ bang giao với Nam Tống ngoài ý nghĩa giao hảo nước lớn còn nhằm mục đích nắm tình hình phương bắc. Khi Thánh Tông sai sứ mang đồ cống sang, vua Tống cũng tặng lại các sản vật của Trung Quốc như chè, đồ sứ, tơ lụa; không những gửi cho Thánh Tông mà còn tặng cả sứ giả.  Sau này khi Nam Tống bị nhà Nguyên đánh bại, phải rút vào nơi hiểm yếu, mới không còn qua lại với Đại Việt. Nhiều quan lại và binh sĩ Tống không thần phục người Mông đã sang xin nương nhờ Đại Việt. Trần Thánh Tông tiếp nhận họ, ban cho chức tước và cử người quản lý.

        Năm 1260, hoàng đế nhà Nguyên sai Mạnh Giáp, Lý Văn Tuấn mang chiếu chỉ sang Đại Việt tuyên dụ, với yêu cầu hệ thống chính quyền Đại Việt phải theo lối hoạt động của Thiên triều, không được dấy binh xâm lấn bờ cõi. Vào năm Tân Dậu 1261, niên hiệu Thiệu Long thứ 4, vua Trần Thánh Tông được vua Mông Cổ phong làm An Nam Quốc Vương, lại được trao cho 3 tấm gấm tây cùng với 6 tấm gấm kim thục. Trần Thánh Tông duy trì lệ cống nhà Nguyên 3 năm 1 lần, mỗi lần đều phải cống nho sĩ, thầy thuốc, thầy bói và thợ thuyền mỗi hạng ba người, cùng với các sản vật như là sừng tê, ngà voi, đồi mồi, châu báu…

        Vua nhà Nguyên lại đặt chức quan Darughachi tại Đại Việt để đi lại giám trị các châu quận Đại Việt; ý muốn can thiệp chính trị, tìm hiểu nhân vật, tài sản Đại Việt để liệu đường mà đánh chiếm. Thánh Tông bề ngoài tuy vẫn chịu thần phục, nhưng ông biết ý đồ của vua Mông, nên tiếp tục luyện binh dụng võ để chuẩn bị chiến tranh. Ông cho tuyển đinh tráng các lộ làm lính, phân làm quân và đô, bắt phải luyện tập luôn.

        Năm 1271, Hốt Tất Liệt đặt quốc hiệu là Nguyên, bình định nốt miền nam Trung Quốc và dụ vua Đại Việt sang hàng, để khỏi cần động binh. Nhà Nguyên cứ vài năm lại cho sứ sang sách nhiễu và dụ vua Đại Việt sang chầu, nhưng vua Trần lấy cớ thoái thác.

        Năm 1272, hoàng đế nhà Nguyên cho sứ sang lấy cớ tìm cột đồng trụ của Mã Viện trồng ngày trước, nhưng vua Thánh Tông sai quan sang nói rằng: cột ấy lâu ngày mất đi rồi, không biết đâu mà tìm nữa. Vua Nguyên bèn thôi không hỏi nữa.

        Năm 1275, hoàng đế nhà Nguyên ra chiếu dụ đòi vua Đại Việt nộp sổ sách dân số, thu thuế khóa, trợ binh lực cho Thiên triều thông qua sự thống trị của quan Darughachi và đòi nhà vua phải đích thân tới chầu. Vua Thánh Tông sai sứ sang nói với hoàng đế nhà Nguyên rằng: Nước Nam không phải là nước Mường mán mà đặt quan giám trị, xin đổi quan Đại-lỗ-hoa-xích làm quan Dẫn tiến sứ.

        Vua nhà Nguyên không cho, lại bắt vua Trần sang chầu. Thánh Tông cũng không chịu. Từ đấy vua nhà Nguyên thấy dùng ngoại giao để khuất phục nhà Trần không được, quyết ý cử binh sang đánh Đại Việt. Nguyên Thế Tổ cho quan ở biên giới do thám địa thế Đại Việt, Trần Thánh Tông cũng đặt quan quân phòng bị.

        Theo sách “Các triều đại Việt Nam” của Quỳnh Cư, Đỗ Đức Hùng, “Nhìn chung, vua Trần Thánh Tông thực hiện chính sách ngoại giao mềm dẻo nhưng rất kiên quyết, chằm bảo vệ danh dự của Tổ quốc, ngăn chặn từ xa mọi sự dòm ngó, tạo sự xâm lược của nhà Nguyên.“ Tuy nhiên, sau khi nhà Nguyên diệt Nam Tống (1279), Đại Việt càng đứng trước nguy cơ bị xâm lăng từ đế quốc khổng lồ này.

        Mùa đông, ngày 22 tháng 10 năm 1278, sau một năm Thái Tông Thượng hoàng đế băng hà, Thánh Tông hoàng đế nhường ngôi cho con trai là Thái tử Trần Khâm, tức Trần Nhân Tông. Thánh Tông lên làm Thái thượng hoàng, với tôn hiệu là Quang Nghiêu Từ Hiếu Thái Thượng Hoàng Đế. Trên danh nghĩa là Thái thượng hoàng, nhưng Trần Thánh Tông vẫn tham gia việc triều chính.

        Quan hệ hai bên giữa Đại Việt và Đại Nguyên căng thẳng và đến cuối năm 1284 thì chiến tranh bùng nổ. Thượng hoàng Thánh Tông cùng Nhân Tông tín nhiệm thân vương là Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn, phong làm Quốc công Tiết chế chỉ huy quân đội trong nước để chống Nguyên Mông. Trong hai lần Chiến tranh với Nguyên Mông lần 2 và lần 3, thắng lợi có vai trò đóng góp của Thượng hoàng Thánh Tông.

        Năm 1289, sau khi chiến tranh kết thúc, Thượng hoàng lui về phủ Thiên Trường làm thơ. Các bài thơ thường được truyền lại là: “Hành cung Thiên Trường”, “Cung viên nhật hoài cực”.

        Ngày 25 tháng 5, năm Trùng Hưng thứ 6 (1290), Thượng hoàng băng hà tại Nhân Thọ cung, hưởng thọ 51 tuổi. Miếu hiệu là Thánh Tông (聖宗), thụy hiệu là Hiến Thiên Thế Đạọ Huyền Công Thịnh Đức Nhân Minh Va7n Vũ Tuyên Hiếu hoàng đế . Ông được táng ở Dụ Lăng, phủ Long Hưng (Tiến Đức, Hưng Hà, Thái Bình ngày nay).

        Ngày nay ở trung tâm thành phố Hà Nội có phố mang tên Trần Thánh Tông.

        Vua Trần Thánh Tông  sùng đạo Phật, rất giỏi thơ văn, thường sáng tác thơ văn về thiền. Tác phẩm của Trần Thánh Tông có: Di hậu lục (Chép để lại cho đời sau), Cơ cầu lục (Chép việc nối dõi nghiệp nhà); Thiền tông liễu ngộ (Bài ca giác ngộ Thiền tông), Phóng ngưu (Thả trâu), Trần Thánh Tông thi tập (Tập thơ Trần Thánh Tông), Chỉ giá minh (Bài minh về sự cung kính)…Và một số thư từ ngoại giao, nhưng tất cả đều đã thất lạc, chỉ còn lại 6 bài thơ được chép trong Việt âm thi tập (5 bài) và Đại Việt sử ký toàn thư (1 bài) mà chúng tôi sẽ chép bổ sung vào cuối bài này.

        Thơ Trần Thánh Tông  giàu chất trữ tình, kết hợp nhuần nhị giữa tinh thần tự hào về đất nước của người chiến thắng, với tình yêu cuộc sống yên vui, thanh bình, và phong độ ung dung, phóng khoáng của một người biết tự tin, lạc quan. Trong thơ, ông đã xen nhịp ba của thơ dân tộc với nhịp bốn quen thuộc của thơ Đường, tạo nên một nét mới về nhịp điệu thơ và về thơ miêu tả thiên nhiên.

        Trong sách Thơ văn Lý Trần, NXB Khoa học xã hội, 1977, có bài thơ Chân tâm chi dụng của Trần Thánh Tông:

        Dụng của chân tâm … 
        Trần Thánh Tông

        Dụng của chân tâm, 
        Thông minh tịnh mịch. 
        Không đến không đi, 
        Không tổn không ích. 
        Vào nhỏ vào to, 
        Mặc thuận cùng nghịch. 
        Động như hạc mây, 
        Tĩnh như tường vách. 
        Nhẹ tựa mảy lông, 
        Nặng như bàn thạch. 
        Trần trần trụi trụi, 
        Làu làu trong sạch. 
        Chẳng thể đo lường, 
        Tuyệt vô tung tích. 
        Nay ta vì ngươi, 
        Tỏ bày rành mạch. 

        Đại Việt Sử ký Toàn thư của nhà Hậu Lê ca ngợi Trần Thánh Tông “trung hiếu nhân thứ, tôn hiền trọng đạo, cha khai sáng trước, con kế thừa sau, cơ nghiệp nhà Trần được bền vững”, tuy nhiên trên quan điểm Nho giáo lại phê phán ông sùng đạo Phật “thì không phải phép trị nước hay của đế vương”. Sử gia Ngô Sĩ Liên ca ngợi công lao của ông: “Thánh Tông nối nghiệp Thái Tông, giữa chừng gặp giặc cướp biến loạn, ủy nhiệm cho tướng thần cùng với Nhân Tông giúp sức làm nên việc, khiến thiên hạ đã tan lại hợp, xã tắc nguy lại an. Suốt đời Trần không có việc giặc Hồ nữa, công to lắm.”  Giáo sư Trần Văn Giàu luận về “Nhân cách Trần Nhân Tông” nhưng nói đầy đủ là hai vua Trần vì Thái Thượng hoàng Trần Thánh Tông là người tham gia và lãnh đạo xuyên suốt cả ba lần quân dân Đại Việt đánh thắng quân Nguyên năm 1258, 1285 và 1287: …”Tại nước Tàu lúc bấy giờ Triều đình nhà Tống rất hùng mạnh nhưng quân Nguyên Mông đã tràn xuống đánh thắn thần tốc, đến nỗi vua quan nhà Tống phải chạy ra biển và nhảy xuống biển tự vẫn. Tại Tây Á, Trung Á và một phần châu Âu cũng thua thảm hại , đến nỗi Giáo hoàng La Mã cũng lên tiếng sợ hãi. Trong lúc ấy Việt Nam so với phương Bắc thì quá nhỏ bé và quá nghèo yếu, thế mà Người dám không cho Nguyên Mông mượn đường xâm lược Chiêm Thành. Lại còn đánh bại ba lần Nguyên Mông xâm lược. Sau khi thắng giặc, Người lại lên núi sống. Người dám nghĩ, dám làm những việc không ai dám nghĩ chứ đừng nói đến làm !” 

        Trần Thánh Tông vua giỏi nhà Trần

        xem tiếp: Minh quân Trần Thánh Tông


        Trận Bạch Đằng năm 1288 là  trận thắng tiêu biểu nhất thời Trần. Sử thần Ngô Sĩ Liên, sách Đại Việt Sử ký Toàn thư, viết :“Thánh Tông nối nghiệp Thái Tông, giữa chừng gặp giặc cướp biến loạn, ủy nhiệm cho tướng thần cùng với Nhân Tông giúp sức làm nên việc, khiến thiên hạ đã tan lại hợp, xã tắc nguy lại an. Suốt đời Trần không có việc giặc Hồ nữa, công to lắm.”

        NẾP NHÀ ĐẸP VĂN HÓA
        Hoàng Kim

        Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm nói về phép xử thế của bậc hiền minh thuở thời thế nhiễu loạn, vàng lầm trong cát: ”Đạo trời đất là Trung Tân, vẹn toàn điều Thiện là Trung, không vẹn toàn điều Thiện thì không phải là Trung. Tân là cái bến, biết chỗ dừng lại là bến chính, không biết chỗ dừng lại là bến mê. Nghĩa chữ Trung chính là ở chỗ Chí Thiện.Trung Tân quán bi ký, 1543). Đạo ở mình ta lấy đạo trung/ Chớ cho đục, chớ cho trong (Thơ chữ Nôm, Bài số 104) Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ/ Người khôn, người đến chốn lao xao (Thơ chữ Nôm, Bài số 79). Làm việc thiện không phải vì công tích mà ở tấm lòng. Nay vừa sau cơn loạn lạc thì chẳng những thân người ta bị chìm đắm, mà tâm người ta càng thêm chìm đắm. Các bậc sĩ đệ nên khuyến khích nhau bằng điều thiện, để làm cho mọi người dấy nên lòng thiện mà tạo nên miền đất tốt lành. (Diên Thọ kiều bi ký, 1568) An nhàn, vô sự là tiên (Sấm ký)”. Người đời sau luận chuyện Lão Tử ‘dạy’ Khổng Tử: “Ngươi cứ nhìn vào trời đất mà hiểu Đạo của ta. Kìa, có trời thì có đất, có núi thì có sông, có cao thì có thấp, có dài thì có ngắn, có cương thì có nhu, có rỗng thì có đặc, có sáng thì có tối, có thẳng thì có cong… Mọi thứ đang dịch chuyển trong sự biến hóa vô cùng. Tự nhiêXem tiếp >>

          Dạy và học 11 tháng 10(11-10-2021)


        DẠY VÀ HỌC 11 THÁNG 10
        Hoàng Kim

        CNM365 Tình yêu cuộc sống
        Hoàng Long dạy và học; Khoai Sắn Lúa Siêu Xanh; Thế giới trong mắt ai; IAS đường tới trăm năm; Hoa và Ong Hoa Người; Thời biến nhớ người xưa; Ta về trời đất Hồng Lam; Đùa vui cùng Thuận Nghĩa; Nguyễn Du Nguyễn Công Trứ; Nguyễn Du trăng huyền thoại; Việt Nam con đường xanh; Vị tướng của lòng dân; Thu Nguyệt gai và hoa; Làng Minh Lệ quê tôi; Đài kỉ niệm trung tâm châu Á tại Kyzyl nước cộng hòa Tyva (hình). Ngày 11 tháng 10 năm 1944, sau 23 năm từ khi tuyên bố độc lập khỏi Trung Quốc, nước Cộng hòa Nhân dân Tyva là một nước cộng hòa thuộc Liên Xô (cũ) và liên bang Nga ngày nay. Ngày 11 tháng 10 năm 1852, Đại học Sydney được khánh thành, là đại học lâu năm nhất tại Úc. Ngày 11 tháng 10 năm 1941, Chiến tranh nhân dân giải phóng Macedonia bắt đầu. Bài viết chọn lọc ngày 11 tháng 10: Hoàng Long dạy và học; Khoai Sắn Lúa Siêu Xanh; IAS đường tới trăm năm; Hoa và Ong Hoa Người; Thế giới trong mắt ai; Thời biến nhớ người xưa; Ta về trời đất Hồng Lam; Nguyễn Du Nguyễn Công Trứ; Nguyễn Du trăng huyền thoại; Việt Nam con đường xanh; Vị tướng của lòng dân; Thu Nguyệt gai và hoa; Làng Minh Lệ quê tôi; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlong https://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-11-thang-10/

        Hình ảnh này chưa có thuộc tính alt; tên tệp của nó là vietnamtoquoctoi.jpg

        Thế giới trong mắt ai
        VIỆT NAM VÀ THẾ GIỚI
        Hoàng Kim

        “Đi đâu cũng không bằng Tổ quốc mình. Nói gì, làm gì cũng không bằng dạy, học và làm cho đồng bào đất nước mình. Đi khắp quê người để hiểu đất quê hương. Mục đích sau cùng của dạy và học là thấu suốt bản chất sự vật, có lời giải đúng và làm được việc. Dạy và học thực tiễn trên chính Tổ quốc mình”. Đêm trắng và bình minh Hoàng Kim lời tâm đắc

        “Dĩ bất biến ứng vạn biến”. Đường lối cách mạng của nước Việt Nam ngày nay thích hợp bền vững trong tình hình mới, thời đại mới, đã được Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đúc kết tinh hoa tại bài viết: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” xác định rõ đường lối, quan điểm, tầm nhìn chiến lược, cương lĩnh và kế hoạch hành động: “Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức; Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; Bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội; Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hoá, đa dạng hoá, hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế (in đậm để nhấn mạnh HK); Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp với sức mạnh thời đại; Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện“.

        Việt Nam thông tin khái quát thu thập thông tin cập nhật Việt Nam với Thế giới

        VIỆT NAM THÔNG TIN KHÁI QUÁT
        Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim

        Việt Nam thông tin khái quát tiếp nối bài Thông tin nhanh về Việt Nam thuộc nội dung VIỆT NAM HỌC Tổng quan văn hoá và kinh tế xã hội Việt Nam là tập tài liệu giảng dạy nghiên cứu Việt Nam Học: người Việt, tiếng Việt, nông nghiệp Việt Nam, văn hóa, kinh tế, xã hội, du lịch sinh thái. Mục đích tập tài liệu này nhằm đúc kết kiến thức nền Việt Nam Học, giúp việc tìm hiểu đất nước con người Việt Nam “vốn xưng nền văn hiến đã lâu; núi sông bờ cõi đã chia, phong tục Bắc Nam cũng khác” (Nguyễn Trãi, 1428) với phẩm chất văn hóa thân thiện, tốt đẹp.Việt Nam thông tin khái quát được đúc kết cập nhật theo
        Wikipedia tiếng Việt và các nguồn trích dẫn chính thực có liên quan tới ngày 30 tháng 6 năm.2021. Thông tin nhanh về Việt Nam và một số bài đọc, xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/viet-nam-thong-tin-khai-quat/

        THẾ GIỚI TRONG MẮT AI
        Hoàng Kim và Hoàng Long

        Thế sự bàn cờ vâyhttps://hoangkimlong.wordpress.com/category/the-su-ban-co-vay/
        https://www.facebook.com/MatThan.Official/videos/223059606523973/; Tin quốc tế nóng nhất 5/10, Bà Thái Anh Văn: Hậu quả thảm khốc nếu Đài Loan vào tay Trung Quốc, FBNC; https://youtu.be/Rw2Wodgd-iI; Tin thế giới tổng hợp mới nhất https://youtu.be/LN-lijBMuvk
        https://www.youtube.com/embed/LN-lijBMuvk?version=3&rel=1&showsearch=0&showinfo=1&iv_load_policy=1&fs=1&hl=vi&autohide=2&wmode=transparenthttps://www.youtube.com/embed/RN0jvdhDdDU?version=3&rel=1&showsearch=0&showinfo=1&iv_load_policy=1&fs=1&hl=vi&autohide=2&wmode=transparent

        Nội Mông Cổ Trung Quốchttps://youtu.be/RN0jvdhDdDU;
        5 khu Tự trị Trung Quốchttps://youtu.be/AlZhkTQobFA:
        Nước Mông Cổngày nayhttps://youtu.be/Igq6vLWDB9Q
        Trung Á liên Trung Ngahttps://youtu.be/LtcOGPjvgX8;

        Trung Nga với Trung Á https://hoangkimlong.wordpress.com/category/trung-nga-voi-trung-a-2/; Thế giới trong mắt aihttps://hoangkimlong.wordpress.com/category/the-gioi-trong-mat-ai; Trung Quốc một suy ngẫmhttps://hoangkimlong.wordpress.com/category/trung-quoc-mot-suy-ngam; Vành đai và con đườnghttps://hoangkimlong.wordpress.com/category/vanh-dai-va-con-duong; Thế sự bàn cờ vâyhttps://hoangkimlong.wordpress.com/category/the-su-ban-co-vay/https://www.youtube.com/embed/LKsXFwb5WSk?version=3&rel=1&showsearch=0&showinfo=1&iv_load_policy=1&fs=1&hl=vi&autohide=2&wmode=transparent


        Nhớ bạn nhớ châu Phi
        Nam Phi một thoáng nhìn
        Lúa sắn Việt Châu Phi
        Ghana bờ biển vàng
        Martin Fregene xa mà gần
        Ai Cập bạn tôi ở đấy

        TRUNG QUỐC MỘT SUY NGẪM
        Hoàng KimHoang Long

        Đường trần thênh thênh bước
        Đỉnh xanh mờ sương đêm
        Hoàng Thành Trúc Lâm sáng
        Phước Đức vui kiếm tìm.

        Tuyết rơi trên Vạn Lý
        Trường Thành bao đổi thay
        Ngưa già thương đồng cỏ
        Đại bàng nhớ trời mây.

        Ngược gió đi không nản
        Rừng thông tuyết phủ dày
        Ngọa Long cương đâu nhỉ
        Đầy trời hoa tuyết bay.

        Hồ Khẩu trên Hoàng Hà
        Đại tuyết thành băng giá
        Thế nước và thời trời
        Rồng giữa mùa biến hóa.

        *

        Lên Thái Sơn hướng Phật
        Chiếu đất ở Thái An
        Đi thuyền trên Trường Giang
        Nguyễn Du trăng huyền thoại

        Khổng Tử dạy và học
        Đến Thái Sơn nhớ Người
        Kho báu đỉnh Tuyết Sơn
        Huyền Trang tháp Đại Nhạn

        Tô Đông Pha Tây Hồ
        Đỗ Phủ thương đọc lại
        Hoa Mai thơ Thiệu Ung
        Ngày xuân đọc Trạng Trình

        Quảng Tây nay và xưa
        Lên đỉnh Thiên Môn Sơn
        Ngày mới vui xuân hiểu
        Kim Dung trong ngày mới

        Bình sinh Mao Trạch Đông
        Bình sinh Tập Cận Bình
        Lời dặn của Thánh Trần
        Trung Quốc một suy ngẫm

        lên Thái Sơn hướng Phật, cha con tôi có 20 ghi chú về Trung Quốc một suy ngẫm trò chuyện những bàn luận của các học giả, nhà văn khả kính Việt Nam về Trung Quốc ngày nay. Trong đó có phiếm đàm của Trần Đăng Khoa “Tào lao với Lão Khoa” Tiếng là phiếm đàm nhưng sự thực là những việc quốc kế dân sinh, tuy là ‘tào lao’ mà thật sự nóng và hay và nghiêm cẩn; xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/the-gioi-trong-mat-ai/

        ĐƯỜNG TỚI IAS 100 NĂM
        Hoàng Kim

        Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam đã đúc kết tốt 90 năm nông nghiệp miền Nam lịch sử phát triển (1925-2015) và đang trên đường tới ‘100 năm nông nghiệp Việt Nam’ (1925-2025). Công tác chuẩn bị cho ngày tổng kết và lễ hội quan trọng này này vào năm 2025 đang được chuẩn bị từ hiện nay.

        90 năm Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam, sự nhìn lại bản tóm tắt nông nghiệp 90 năm (1925-2015) thật khá thú vị: Tác giả Bùi Chí Bửu, Trần Thị Kim Nương, Nguyễn Hồng Vi, Nguyễn Đỗ Hoàng Việt, Nguyễn Hiếu Hạnh, Đinh Thị Lam, Trần Triệu Quân, Võ Minh Thư, Đỗ Thị Nhạn, Lê Thị Ngọc, Trần Duy Việt Cường, Nguyễn Đức Hoàng Lan, Trần Thị Kim Cúc, Nguyễn Thị Kim Thoa, Đinh Thị Hương, Trần Văn Tưởng, Phan Trung Hiếu, Hồ Thị Minh Hợp, Đào Huy Đức* (*Chủ biên chịu trách nhiệm tổng hợp).

        Khoa học nông nghiệp là một tổng thể của kiến thức thực nghiệm, lý thuyết và thực tế về nông nghiệp, nông dân, nông thôn do các nhà nghiên cứu phát triển với các phương pháp khoa học, trong đó đặc biệt là sự quan sát, giải thích, và dự báo những hiện tượng của nông nghiệp. Việt Nam là đất nước “dĩ nông vi bản”, do đó nông nghiệp của chúng ta gắn liền với lịch sử phát triển của đất nước. Viện đã không ngừng phát triển trong chặng đường lịch sử 90 năm. Viện đã cùng đồng hành với nông dân Việt Nam, người mà lịch sử Việt Nam phải tri ân sâu đậm. Chính họ là lực lựơng đông đảo đã làm cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân thành công; đồng thời đã đóng góp xuất sắc trong thời kỳ đổi mới, xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa, với nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, tạo nên những đột phá liên tục làm tiền đề cho công nghiệp và dịch vụ phát triển như ngày nay. Sự kiện 02 triệu người chết đói năm 1945 luôn nhắc người Việt Nam rằng, không có độc lập dân tộc, không có khoa học công nghệ, sẽ không có ổn định lương thực cho dù ruộng đất phì nhiêu của Đồng bằng Sông Cửu Long có tiềm năng vô cùng to lớn.

        Lịch sử của Viện cũng là lịch sử của quan hệ hợp tác mật thiết với các tổ chức nông dân, với lãnh đạo địa phương, với các Viện nghiên cứu trực thuộc VAAS và các Trường, Viện khác, với các tổ chức quốc tế. Khoa học nông nghiệp không thể đứng riêng một mình. Khoa học nông nghiệp phải xem xét cẩn thận các yếu tố kinh tế, môi trường, chính trị; trong đó có thị trường, năng lượng sinh học, thương mại hóa toàn cầu. Đặc biệt, nông nghiệp phải nhấn mạnh đến chất lượng nông sản và an toàn lương thực, thực phẩm, khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới.

        Lịch sử đang đặt ra cho Viện những thách thức mới trong điều kiện Việt Nam hội nhập quốc tế sâu rộng, hàng rào thuế quan được dỡ bỏ, thay vào đó là rào cản kỹ thuật đối với nông sản trên thương trường quốc tế. Thách thức do bùng nổ dân số, thiếu đất nông nghiệp, thiếu tài nguyên nước ngọt, biến đổi khí hậu với diễn biến thời tiết cực đoan, thu nhập nông dân còn thấp là những nhiệm vụ vô cùng khó khăn, nhưng rất vinh quang của Viện, đang mong đợi sự năng động và thông minh của thế hệ trẻ.”

        Lịch sử của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam được chia là hai phân kỳ : Từ ngày thành lập Viện 1925 đến năm 1975, và từ năm 1975 đến năm 2018.

        Từ năm 1925 đến năm 1975 những nhân vật lịch sử tiêu biểu của Viện trong thời kỳ này là GS.TS. Auguste Chavalier (1873-1956) Người thành lập Viện Khảo cứu Khoa học Đông Dương, năm 1918;  Yves Henry (1875-1966) Người thành lập Viện Khảo cứu Nông Lâm Đông Dương, năm 1925;  GS. Tôn Thất Trình, GS. Thái Công Tụng, GS. Lương Định Của, … là những người có ảnh hưởng nhiều đến Viện trong giai đoạn này

        Từ năm 1975 đến năm 2018 Viện trãi qua 5 đời Viện trưởng GS Trần Thế Thông, GS Phạm Văn Biên, GS Bùi Chí Bửu, TS Ngô Quang Vinh và TS Trần Thanh Hùng.  Tôi lưu lại một số bức ảnh tư liệu kỷ niệm một thời của tôi với những sự kiện chính không quên.

        Viện IAS từ năm 1975 đến năm 2015 là một Viện nông nghiệp lớn đa ngành, duy nhất trong lĩnh vực nông nghiệp ở Việt Nam. Đó là tầm nhìn phù hợp điều kiện thực tế thời đó. Viện có một đội ngũ cán bộ khoa học nông nghiệp hùng hậu, có trình độ chuyên môn cao, thế hệ đầu tiên của giai đoạn hai mươi lăm năm đầu tiên sau ngày Việt Nam thống nhất (1975 – 2000)  gồm các chuyên gia như:  Giáo sư Trần Thế Thông, Giáo sư Vũ Công Hậu, Giáo sư Lê Văn Căn, Giáo sư Mai Văn Quyền, Giáo sư Trương Công Tín, Giáo sư Dương Hồng Hiên, Giáo sư Phạm Văn Biên, … là những đầu đàn trong khoa học nông nghiệp.

        Viện có sự cộng tác của nhiều chuyên gia lỗi lạc quốc tế đã đến làm việc ở Viện như: GSTS. Norman Bourlaug (CIMMYT), GS.TS. Kazuo Kawano, TS. Reinhardt Howeler, GS.TS. Hernan Ceballos, TS. Rod Lefroy, (CIAT),  GS.TS. Peter Vanderzaag, TS. Enrique Chujoy, TS. Il Gin Mok, TS. Zhang Dapheng (CIP), GS.TS. Wiliam Dar, TS. Gowda (ICRISAT), GSTS.  V. R. Carangal (IRRI), TS. Magdalena Buresova , GSTS. Pavel Popisil (Tiệp), VIR, AVRDC,  …

        Thật đáng tự hào về một khối trí tuệ lớn những cánh chim đầu đàn nêu trên. Chúng ta còn nợ những chuyên khảo sâu các đúc kết trầm tích lịch sử, văn hóa, sinh học  của vùng đất này để đáp ứng tốt hơn cho các vấn đề nông dân, nông nghiệp, nông thôn, đời sống và  an sinh xã hộiđể vận dụng soi tỏ “Niên biểu lịch sử Việt Nam“, ” 500 năm Nông nghiệp Việt Nam”, “90 năm Nông nghiệp miền Nam” “Trăm năm nông nghiệp Việt Nam (1925-2025)” nhằm tìm thấy trong góc khuất lịch sử  dòng chủ lưu tiến hóa của nông nghiệp, giáo dục, văn hóa Việt Nam.

        Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam (IAS) từ cuối năm 2015 đến đầu năm 2025 đang chuyển đổi mạnh mẽ trong xu thế hội nhập và phát triển. Viện cấu trúc hài hòa các Bộ môn Bảo vệ Thực vật; Công nghệ Sinh học; Chọn tạo giống cây trồng; Nông học; Cây Công Nghiệp. Viện IAS vừa xử lý tốt các vấn đền đề vùng miền vừa đáp ứng tốt những đề tài trọng điểm quốc gia theo chuỗi giá trị hàng hóa chuyên cây, chuyên con và tổng hợp quốc gia mà Viện có thế mạnh như Điều, Sắn, Cây Lương thực Rau Hoa Quả, Nông nghiệp hữu cơ, Nông nghiệp đô thị, Đào tạo và huấn luyện nguồn lực, xây dựng phòng hợp tác nghiên cứu chung và trao đổi chuyên gia quốc tế … trong cấu thành chỉnh thể Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam.

        Năm tháng đi qua chỉ tình yêu ở lại

        100 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT
        Đọc lại và suy ngẫm
        Hoàng Kim


        Cám ơn anh
        Bong Nguyen Dinh, tài liệu tổng quan “Quản lý Đất đai Việt Nam” và chùm ảnh tư liệu của anh thật quý. Xin phép được lưu lại để đọc lại và suy ngẫm. Việt Nam ngày nay còn ít thấy những tổng quan đúc kết chuỗi hệ thống lịch sừ địa lý sinh thái kinh tê xã hội tầm nhìn dài hạn 100-500 năm theo hướng tổng kết bài học lý luận và thực tiễn.

        Brazil có Embrapa là tập đoàn nghiên cứu và phát triển nông nghiệp lâu năm và khá hoàn hảo để đảm bảo các giải pháp khoa học và biến đổi phát triển bền vững. Trang web của họ là www.embrapa.br. Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam hiện nay có đúc kết kinh nghiệm của Embrapa khi tái cấu trúc theo sự tư vấn của các chuyên giao FAO và UNDP.Bài học lớn của đất nước Brazil có 500 năm nông nghiệp Brazil Đất và Thức ăn (Land and Food 500 years of Agriculture in Brazil). Đó là tổng quan bảo tồn và phát triển mà Việt Nam cần tham khảo. https://hoangkimlong.wordpress.com/category/500-nam-nong-nghiep-brazil/

        Đường tới IAS 100 năm (1925-2025) https://hoangkimlong.wordpress.com/category/duong-toi-ias-100-nam/ là bài viết của Hoàng Kim nhằm bảo tồn tư liệu thông tin nhìn lại để phát triển 100 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT suy ngẫm rút ra những bài học lý luận và thực tiễn hiệu quả cho sự tiếp nối . Kính lắng nghe sự chỉ giáo của quý Thầy bạn nhàn đàm trong mùa COVID19 này ạ. Bài Quản lý đất đai Việt Nam đăng trên FB nhiều kỳ, xin được chép lại dưới đây để tiện theo dõi

        Họp mặt tất niên ngày 15 tháng 1 năm 2020 ảnh Minh Hương17 tháng 1 · cùng với Nguyễn Thanh Thủy, Thanhminh Nguyen, Tran Nu Thanh, Cuộc Đời, Nguyen Quy Hung, Tin TruongHoàng Kim

        Tài liệu dẫn

        QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI VIỆT NAM
        Nguyễn Đình Bông
        giới thiệu thông tin
        Hoàng Kim bảo tồn thông tin tư liệu học tập

        Nhân dip kỷ niệm 71 năm ngay truyền thống Ngành Quản lý Đất đai (3.10.1945 -3.10 2016), Tổng Cục Quản Lý Đất Đai ngày 3 tháng 10 năm 2016 đã tổ chức tại Hà Nội Hội thảo góp ý kiến vào dự thảo 2, Sach Quản lý Đất đai Việt Nam nhìn lại để phát triển. Ông Lê Thanh Khuyến Tổng Cục Trưởng đã nhấn mạnh ý nghĩa lịch sử ngày truyền thống vẻ vang của Ngành và những việc quan trọng cấp bách của Ngành Quản lý Đất đai trong thời gian trước mắt. Thay mặt Ban Biên tập Ông Tôn Gia Huyên nguyên Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Quản lý Ruông đất và Tổng cục Địa chính đã giới thiệu tóm tắt nội dung cuốn sách và ông Đào Trung Chính Phó Tổng Cục trưởng đã chủ trì thảo luận góp ý kiến vào dự thảo 2 cuốn sách này. Ông Nguyễn Đình Bông ( Bong Nguyen Dinh) là cán bộ lão thành ở Bộ Tài nguyên và Môi trường giới thiệu một số hình ảnh và thông tin tóm tắt của Hội thảo và trich Video bài phát biểu của Ông Tôn Gia Huyên với Trần Duy Hùng4 người khác.3 tháng 10, 2016 Hoàng Kim thuộc chuyên ngành Khoa học Cây trồng, không thuộc chuyên ngành Khoa học Đất và Quản lý Đất đai nhưng tôi yêu thích tìm hiểu mối quan hệ Đất Nước Cây trồng Con người Kinh tế Xã hội nên xin phép tập hợp tư liệu để dễ tra cứu nhằm hiểu rõ hơn 100 năm nông nghiệp Việt Nam.·

        3 Quản lý đất đai thời kỳ Pháp thuộc (1858-1945)

        i) Áp dụng các chính sách bảo hộ sở hữu của địa chủ phong kiến, thực dân, duy trì chế độ công điền và chế độ sở hữu nhỏ ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ,

        ii) Thiết lập hệ thống tổ chức quản lý đất đai 3 cấp trung ương, (Sở Địa chính) tỉnh (ty Địa chính), xã: Chưởng bạ (Bắc kỳ) Hương bộ (Nam Kỳ);

        iii) Hoạt động quản lý đất đai trong đó, đo đạc địa chính được triển khai sớm với việc đo giải thửa, lập sổ địa chính, sổ điền bạ, sổ khai báo chuyển dịch đất đai và cập nhật biến động đất đai để phục vụ thu thuế. Áp dụng hệ thống đăng ký Torrens (Úc) nhằm xác lập được vị trí pháp lý của từng thửa đất và trở thành cơ sở để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người sở hữu nó và giao dịch thuận lợi trong thị trường có kiểm soát.

        (xem Bảng tóm tắt và hình
        ảnXem tiếp >>

          Dạy và học 10 tháng 10(10-10-2021)


        DẠY VÀ HỌC 10 THÁNG 10
        Hoàng Kim

        CNM365 Tình yêu cuộc sốngHoàng Long dạy và học; Khoai Sắn Lúa Siêu Xanh; Giấc mơ lành yêu thương; Nguyễn Du trăng huyền thoại; Nguyễn Du Nguyễn Công Trứ; Việt Nam con đường xanh; Vị tướng của lòng dân; Dạy học nghề làm vườn; Thu Nguyệt gai và hoa; Làng Minh Lệ quê tôi; Ngày 10 tháng 10 năm 2010 Đại lễ 1000 năm Thăng Long  Hà Nội được tổ chức nhằm kỷ niệm 1.000 năm Lý Thái Tổ ban chiếu dời đô từ Hoa Lư về thành Đại La và đổi tên thành Thăng Long.  Ngày 10 tháng 10 năm 1954, Quân đội Nhân dân Việt Nam tiến vào tiếp quản Hà Nội từ tay người Pháp sau Chiến tranh Đông Dương. Ngày song thập là Ngày Quốc khánh Trung Hoa Dân Quốc. NNgày 10 tháng 10 năm 1911 là ngày Khởi nghĩa Vũ Xương, còn gọi là Cách Mạng Tân Hợi. Sau 2 tháng kể từ ngày khởi nghĩa, phong trào cách mạng đã thành công trên phạm vi cả nước Trung Quốc, làm sụp đổ hoàn toàn chế độ phong kiến nhà Thanh. Bài viết chọn lọc: Hoàng Long dạy và học; Khoai Sắn Lúa Siêu Xanh; Giấc mơ lành yêu thương; Nguyễn Du trăng huyền thoại; Nguyễn Du Nguyễn Công Trứ; Việt Nam con đường xanh; Vị tướng của lòng dân; Dạy học nghề làm vườn; Thu Nguyệt gai và hoa; Làng Minh Lệ quê tôi; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-10-thang-10/

        GIẤC MƠ LÀNH YÊU THƯƠNG
        Hoàng Kim

        nhắm mắt lại đi em
        để thấy rõ giấc mơ hạnh phúc
        trời thanh thản xanh
        đêm nồng nàn thở
        ta có nhau trong cuộc đời này
        nghe hương tinh khôi đọng mật
        quyến rũ em và khát khao anh
        mùi ngây ngất đằm sâu nỗi nhớ
        một tiếng chuông ngân
        thon thả đầu ghềnh

        nhắm mắt lại đi em
        hạnh phúc đâu chỉ là đích đến
        hạnh phúc là con đường trãi nghiệm
        vỗ về, chờ đợi, nhớ thương

        nhắm mắt lại đi em
        trong giấc mơ của anh
        có em và rừng thiêng cổ tích
        có suối nước trong veo như ngọc
        có vườn trúc và ngôi nhà tranh
        có một đàn trẻ thơ tung tăng
        heo gà chó mèo ngựa trâu
        nhởn nhơ trên đồng cỏ
        tươi xanh

        nhắm mắt lại đi em,
        tận hưởng thú an lành.

        Nhắm mắt lại đi em
        Giấc ngủ ngoan
        giấc mơ hạnh phúc
        Em mãi bên anh,
        Đồng hành với anh
        Bài ca yêu thương
        Bài ca hạnh phúc
        Giấc mơ lành yêu thương

        I have a dream

        Nhắm mắt lại đi em
        Giấc mơ cuộc đời
        giấc mơ hạnh phúc
        ngôi nhà tâm thức
        Giấc mơ lành yêu thương
        Có cánh cửa khép hờ
        Có bãi cỏ xanh non.
        Đất nước cây và hoa
        Một khu vườn tĩnh lặng.
        Chim sóc chó mèo gà
        luôn quấn quýt sớm hôm.
        Ban mai ửng
        nghe chim trời gọi cửa.
        Hoàng hôn buông
        trăng gió nhẹ lay màn.
        Ta
        về với ruộng đồng
        Vui giấc mơ hạnh phúc
        Vui một giấc mơ con
        Hoa LúaHoa NgườiHoa Đất 
        Giấc mơ lành yêu thương.

        VỊ TƯỚNG CỦA LÒNG DÂN
        Hoàng Kim

        Võ Nguyên Giáp vị tướng của lòng dân. Người dĩ công vi thượng, biết người biết mình, dám đánh và biết đánh thắng. Đại tướng Võ Nguyên Giáp có những câu nói bất hủ:Thế giới còn đổi thay nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh sẽ sống mãi”; “Ý định của tôi là ra lệnh hoãn cuộc tiến công ngay chiều hôm nay, thu quân về vị trí tập kết, chuẩn bị lại theo phương châm đánh chắc, tiến chắc”; “Ngày hôm đó, tôi đã thực hiện được một quyết định khó khăn nhất trong cuộc đời chỉ huy của mình!”; “Thần tốc, thần tốc hơn nữa; táo bạo, táo bạo hơn nữa; tranh thủ từng phút, từng giờ; xốc tới mặt trận; giải phóng miền Nam. Quyết chiến và toàn thắng!”; Chúng tôi đánh theo cách đánh khác, cách đánh của Việt Nam, và chúng tôi sẽ thắng”; “Vị tướng dù có công lao lớn đến đâu cũng chỉ là giọt nước trong biển cả. Chỉ có nhân dân Việt Nam là người đánh thắng Mỹ. Các ngài gọi tôi là vị tướng thần thoại, nhưng tôi tự nghĩ tôi bình đẳng với những người lính của mình”; “Tôi sống ngày nào, cũng là vì đất nước ngày đó” Cuộc đời Người là 103 mùa xuân huyền thoại, còn mãi với non sông.

        VÕ NGUYÊN GIÁP 103 MÙA XUÂN HUYỀN THỌAI

        Đại tướng Võ Nguyên Giáp sinh ngày 25 tháng 8 năm 1911 tại làng An Xá, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình, qua đời ngày 4 tháng 10 năm 2013, lúc 18 giờ 9 phút và an táng ngày 9 tháng 9 năm Quý Tỵ (nhằm ngày 13 tháng 10 năm 2013) tại mũi Rồng- đảo Yến, xã Quảng Đông, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình. Người trãi cuộc trường chinh thế kỷ với 103 mùa xuân huyền thoại, là nhà chỉ huy quân sự và hoạt động chính trị lỗi lạc bên cạnh chủ tịch Hồ Chí Minh.

        Đại tướng Võ Nguyên Giáp là người chỉ huy chính trong Chiến tranh Đông Dương (1946– 1954) và chiến tranh Việt Nam (1960–1975) đã trực tiếp hoặc tham gia chỉ huy Chiến dịch Việt Bắc (thu đông 1947), Chiến dịch Biên giới (thu đông năm 1950), Chiến dịch Trung Du (tháng 12 năm 1950), Chiến dịch Đông Bắc (năm 1951, Chiến dịch Đồng Bằng (tháng 5 năm 1951), Chiến dịch Hòa Bình (tháng 12 năm 1951), Chiến dịch Tây Bắc (tháng 9 năm 1952), Chiến dịch Thượng Lào (tháng 4 năm 1953), Chiến dịch Điện Biên Phủ (tháng 3 – 5 năm 1954), Chiến dịch Tết Mậu Thân (1968), Chiến dịch đường Chín Nam Lào (1971), Chiến dịch Trị Thiên – Huế (1972), Chiến dịch Hồ Chí Minh (1975). Nhiều tài liệu lịch sử gần đây từ hai phía đã soi thấu những góc khuất, càng thể hiện tài năng kiệt xuất của Đại tướng Võ Nguyên Giáp về chiến lược, chiến dịch, chiến thuật trong suốt Chiến tranh Đông Dương (1946–1954) và chiến tranh Việt Nam (1960–1975). Sau khi Việt Nam thống nhất, đại tướng Võ Nguyên Giáp thôi giữ chức Bộ trưởng Bộ Quốc phòng năm 1980 nhưng vẫn tiếp tục là Ủy viên Bộ Chính trị đến năm 1982 và Phó Thủ tướng phụ trách Khoa học – Kỹ thuật. Năm 1983 ông được Hội đồng Bộ trưởng phân công kiêm nhiệm thêm vai trò Chủ tịch Ủy ban quốc gia dân số và sinh đẻ có kế hoạch. Năm 1991, đại tướng nghỉ hưu ở tuổi 80. Thời gian cuối đời, đại tướng vẫn quan tâm đến những vấn đề cơ bản và cấp bách của đất nước, với một loạt những tác phẩm, kiến nghị, đề xuất còn mãi với thời gian như: Thế giới còn đổi thay nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn sống mãi; Để cho khoa học thật sự trở thành động lực phát triển kinh tế xã hội, Đổi mới, tiếp tục đổi mới, dân chủ, dân chủ hơn nữa, nâng cao trí tuệ, đoàn kết tiến lên trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, Đổi mới nền giáo dục và đào tạo Việt Nam; yêu cầu kiểm định và báo cáo Đại hội Đảng Cộng sản X về Vụ PMU18; gặp gỡ và khuyến khích doanh nhân làm xuất khẩu nông sản; đề nghị dừng chủ trương xây dựng Nhà Quốc hội ở khu di tích 18 Hoàng Diệu; viết thư yêu cầu thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tạm dừng Dự án khai thác bô xít ở Tây Nguyên vì lý do an ninh quốc gia và  môi trường; đúc kết Tổng tập Võ Nguyên Giáp;…

        Đại tướng Võ Nguyên Giáp có các tác phẩm chính:  Tổng tập Võ Nguyên Giáp (2010); Điện Biên Phủ 50 năm nhìn lại (2004); Tổng hành dinh trong mùa xuân đại thắng (2000); Điện Biên Phủ điểm hẹn lịch sử (2000); Đường tới Điện Biên Phủ (2001); Chiến đấu trong vòng vây (1995,2001); Chiến tranh giải phóng dân tộc và chiến tranh bảo vệ Tổ quốc (1979); Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam (Võ Nguyên Giáp chủ biên, 2000); Những chặng đường lịch sử (1977); Vũ trang quần chúng cách mạng, xây dựng quân đội nhân dân (1972); Những năm tháng không thể nào quên (1970, 2001) Mấy vấn đề đường lối quân sự của Đảng (1970); Từ nhân dân mà ra (1964); Đội quân giải phóng (1950); Vấn đề dân cày (Trường Chinh,Võ Nguyên Giáp (1938);

        VÕ NGUYÊN GIÁP VỊ TƯỚNG CỦA LÒNG DÂN

        “Văn lo vận nước Văn thành Võ/ Võ thấu lòng dân, Võ hoá Văn”. Đó là đôi câu đối của cụ Hồ Cơ trên 90 tuổi, từng là Hiệu trưởng trường Trung học Nguyễn Nghiêm, huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi, nay sống ở phường Láng Hạ, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội, khái quát tài năng, đức độ của vị Đại tướng huyền thoại, đăng trong bài” Một câu đối – Một đời người ” của VOV. Sự ra đi của Võ Đại tướng đã mở đầu cho những giá trị mới của cuộc sống như một câu đối khác cũng của nhà giáo Hồ Cơ ngưỡng vọng Người: “Trăm tuổi lừng danh Văn Đại tướng/ Nghìn thu vang tiếng Võ Anh hùng”.

        Nhà văn Sơn Tùng có bức trướng: “Võ nghiệp dẹp xong ba đế quốc/ Văn tài xây đắp một nhà chung/ Võ Văn minh đạo chân Nguyên Giáp/ Nhật nguyệt vô thường một sắc không”.

        Bộ Nội vụ tặng Đại tướng đôi lộc bình trên đó có ghi đôi câu đối mang ý nghĩa sâu xa : “Tâm sáng Đảng tin, đời trường thọ/ Trí cao Dân mến, sử lưu danh.” mà tài liệu Soha.vn đã trích dẫn. Nhiều bài thơ văn nhạc viết về Người và đồng đội “Lính Cụ Hồ” theo chân Người. Nhà thơ Hoàng Gia Cương viết

        Mãi mãi là Anh
        Kính tặng anh Văn – Đại tướng Võ Nguyên Giáp

        Anh đã là Anh – mãi mãi Anh
        Người Anh của lớp lớp hùng binh
        Song toàn văn võ, thông kim cổ
        Vững chí bền gan đạp thác ghềnh!

        Nhiều người ứa nước mắt xúc động tiễn Bác Giáp về cõi vĩnh hằng và thấm thía lời nói của Người về lòng yêu nước và sức mạnh toàn dân:”Có lòng dân là có tất cả”.

        Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam, đại tá tiến sĩ Vũ Tang Bồng đúc kết: “MÃI LÀ ANH CẢ CỦA QUÂN ĐỘI, ĐẠI TƯỚNG CỦA NHÂN DÂN. Ngày 4-10-2013, Đại tướng Võ Nguyên Giáp – Người Anh Cả của Quân đội nhân dân Việt Nam, Đại tướng của nhân dân, được cả dân tộc ngưỡng mộ, đã qua đời. Là người có may mắn được gặp và giúp việc cho Đại tướng trong một số lần, trong 5 năm qua, cứ vào dịp kỷ niệm ngày mất của Đại tướng, tôi thường đọc lại những bài viết, hình ảnh trên báo chí những ngày ấy, và lần nào tôi cũng không kìm nổi lòng mình. Tôi còn nhớ, ngay sau khi biết tin Đại tướng từ trần, anh Hoàng Anh, một họa sĩ trẻ đã sáng tác poster “Chào đồng bào, tôi đi” và được Báo Lao động sử dụng làm tranh bìa trong số báo ra ngày 5-10-2013. Đúng 45 phút sau, poster đó được đưa lên Facebook và lập tức gây được sự chú ý đặc biệt. Poster “Chào đồng bào, tôi đi” của người họa sĩ trẻ gây được hiệu ứng lay động bởi hình ảnh của Đại tướng rất giản dị với nụ cười thanh thản. Câu chữ trên poster cũng rất độc đáo với hai chữ “đồng bào”, mà sinh thời Bác Hồ rất thường dùng với nghĩa kêu gọi, gắn kết cội nguồn thân thương, ruột thịt. Poster ấy đã khiến mọi người khi xem đều xúc động mạnh mẽ. Nó cho thấy sự cống hiến và thanh thản của Đại tướng lúc còn sống, cũng như khi về với tổ tiên.”Qua hồi ức của các tướng lĩnh và qua các tác phẩm quân sự của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, chúng ta ngày càng thấy rõ rằng, trong suốt cuộc đời cầm quân, Đại tướng không bao giờ chấp nhận một chiến thắng phải trả bằng bất cứ giá nào, hoặc phải trả bằng cái giá quá đắt xương máu của cán bộ, chiến sĩ, do những quyết định tùy tiện, hoặc thiếu thận trọng gây nên. Đừng nghĩ Đại tướng “sợ” hy sinh xương máu, hay thiếu tinh thần cách mạng tiến công! Không, hoàn toàn không! Đại tướng chưa bao giờ nhân danh việc thực hành quan điểm, cách mạng tiến công để đưa ra những mệnh lệnh chủ quan, gây thương vong nghiêm trọng cho bộ đội. Nguyên tắc bất di bất dịch trong chỉ huy và chỉ đạo cuộc chiến tranh cách mạng của Đại tướng là: Tầm cao mỗi chiến thắng phải tỷ lệ nghịch với tổng số tử sĩ, thương binh trong chiến thắng ấy.  Là một vĩ nhân, một vị tướng huyền thoại, một nhà văn hóa lớn, nên ngay cả sau khi đã nghỉ hưu, hằng ngày Đại tướng vẫn đón nhiều đoàn khách đến thăm hỏi, làm việc, gồm khách quốc tế, khách ở các cơ quan Đảng, Nhà nước, các ban ngành đoàn thể…, nhưng Đại tướng luôn dành sự ưu tiên đặc biệt cho các đoàn của cấp ủy, chính quyền và nhân dân các địa phương, trong đó nhiều đoàn không có lịch trước. Ông luôn dặn các cán bộ giúp việc tìm mọi cách bố trí để Ông có thể gặp được đồng bào, dù chỉ trong ít phút. Nhiều lần, Đại tướng phải xin lỗi các đoàn khách quan trọng, hoặc tranh thủ thời gian giải lao giữa các buổi làm việc để tiếp nhân dân. Những lời ân cần thăm hỏi, dặn dò, nhắc nhở, động viên của Đại tướng khiến đồng bào rất xúc động. Đại tướng cũng luôn nhắc các đồng chí giúp việc chụp ảnh kỷ niệm với bà con dưới gốc cây muỗm cổ thụ trong vườn; sau khi có ảnh thì gửi tặng ngay cho bà con. Đại tướng luôn chinh phục người khác bằng cách ứng xử tự nhiên và bằng tình cảm chân thành. Được chứng kiến lòng dân trong những ngày diễn ra lễ tang Đại tướng, chúng ta thấy rõ, cả dân tộc đã cùng xích lại gần nhau trong nỗi đau chung. Nhìn dòng người vào viếng Đại tướng trong những ngày đầu tháng 10-2013 cứ ngày một dài thêm, có thể thấy, không thước đo nào bằng thước đo lòng dân. Hàng triệu người dân từ già đến trẻ ở khắp mọi miền đất nước, từ miền núi đến đồng bằng, nông thôn, hải đảo đã vượt mọi khó khăn, xa xôi, vất vả, lặng lẽ, kính cẩn xếp hàng ở khu vực nhà riêng của Đại tướng và Nhà tang lễ quốc gia, chờ đến lượt vào viếng vị anh hùng, đã cho thấy cả dân tộc nắm tay nhau kết thành một khối thống nhất; qua đó, tinh thần dân tộc trong mỗi người Việt Nam càng được khơi dậy, phát huy. Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã đi xa, nhưng vẫn mãi là Người Anh Cả của Quân đội, Đại tướng của nhân dân, là ngọn lửa không bao giờ tắt, là nguồn cảm hứng sống và cống hiến của các thế hệ người Việt Nam hôm nay và mai sau.”

        Bác Giáp là vị tướng của lòng dân mà hầu như ai cũng yêu kính rất mực.

        Gia đình tôi cũng vậy. Buổi tối về nhà, nghe tin Bác Giáp mất, chúng tôi đã dừng hết mọi việc để lên thắp hương trên bàn thờ Cha Mẹ để tưởng nhớ Người và tưởng nhớ Bác Giáp. Bài viết này vào lúc một giờ khuya và nối tiếp vào sáng hôm sau. Cha tôi sinh năm 1913 nhỏ hơn Bác Giáp ba tuổi, bị máy bay Mỹ bắn chết năm 1968 vào ngày 29 tháng 8 âm lịch, trước Bác Giáp mất (30/8 al) một ngày. Sinh thời cha tôi là lính Vệ Quốc Đoàn cùng tiểu đội với bác Lê Văn Tri sau này là Phó Tư Lệnh Quân chủng Phòng Không Không Quân. Anh trai tôi là Hoàng Trung Trực và tôi sau này cũng đều tham gia quân đội. Cha vợ tôi, cụ Nguyễn Đức Hà 91 tuổi ở Đức Long, Phan Thiết, nghe tin Bác Giáp mất, cụ đã đi xe đò từ lúc 2 giờ khuya để mờ sáng kịp vào Đồng Nai cùng con cháu đi viếng Bác. Cụ là chiến sĩ quân báo của đơn vị 415 ban 2 trung đoàn anh hùng 812 tỉnh đội Bình Thuận. Cụ đã bị lao tù hai lần và chỉ được ra khỏi tù khi bộ đội vào giải phóng lao xá năm 1975. Cụ đã rất xúc động khi viết vào sổ tang của người anh Cả quân đội.

        Tôi lần đầu tiên và dường như duy nhất trong đời đeo huân chương đi viếng Bác. Giáo sư Nhật Kazuo Kawano một người thân của gia đình sắn Việt Nam, người Thầy danh tiếng này đã xúc động viết về bác Giáp :”Mười năm hợp tác chặt chẽ với các đồng nghiệp chọn tạo giống sắn của tôi từ những năm 1990 và nay gặp lại họ trong chuyến đi này đã hoàn toàn thay đổi sự đánh giá của tôi về Việt Nam. Bằng chứng trong hàng loạt các báo cáo của tôi ở đây, thì họ thật siêng năng, sâu sắc, chu đáo và dường như không biết mệt mỏi để noi theo gương của Đại tướng Võ Nguyên Giáp“.(My ten years of close collaboration with my cassava breeding colleagues in the 1990s and the reunion with them in this trip completely changed my assessment of the Vietnamese. As evidenced by the series of my reporting here, they are industrious, insightful, considerate and indefatigable, as if to emulate General Vo Nguyen Giap …”.  In: Cassava and Vietnam: Now and Then)…

        VÕ NGUYÊN GIÁP CÒN MÃI VỚI NON SÔNG

        “Phải thật công khai, thật công phu, thật công bằng và thật công tâm khi nghiên cứu về Võ Nguyên Giáp”, câu nói này của thượng tướng Trần Văn Trà thật minh triết và thật ám ảnh. Bài viết của Lê Mai ‘Võ Nguyên Giáp trong mắt Trần Văn Trà’, tôi thường đọc lại.  Trần Văn Trà nhận định: “Suốt hai cuộc kháng chiến, tôi chưa hề thầy Bí thư Quân ủy Trung ương kiêm Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp mắc một sai lầm nào về chiến lược và chiến thuật quân sự; tôi chỉ thấy Anh Văn đi những nước cờ bậc thầy để vây hãm và tiến công quân địch”. Đó thật sự là một tổng kết rất sâu sắc của một danh tướng Việt Nam đối với Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp. Ngày 20 tháng 4 năm 1996 là ngày mất của Thượng tướng Trần Văn Trà (1919-1996).“Ra đi hai bàn tay trắng. Trở về một dải giang san. “Trăng xưa, hạc cũ”, dòng sông lặng. Mây nước yên bình, thiên mã thăng”.

        Nhà sử học Dương Trung Quốc nhận định: “Võ Nguyên Giáp là một tên tuổi lớn trong lịch sử dân tộc Việt Nam và càng lớn hơn trong tâm thức những người sống cùng thời với ông. Cuộc đời Võ Nguyên Giáp là một tấm gương phản chiếu của gần trọn thế kỷ XX, thế kỹ dữ dội nhất và cũng bi hùng nhất của dân tộc Việt Nam.”

        John Kennedy phỏng vấn đại tướng Võ Nguyên Giáp và đã viết bài “Trí tuệ bậc Thầy” đăng trên tạp chí George tháng 11 năm 1998, bản tiếng Việt trong sách Hữu Mai 2011 “Không là huyền thoại” (tái bản lần thứ tư) trang 564-569. John Kennedy đã viết: “Giáp từng nói: Chúng ta sẽ đánh bại địch ngay lúc chúng đông quân nhất, nhiều vũ khí nhất, nhiều hi vọng chiến thắng nhất. Bởi vì tất cả sức mạnh đó sẽ làm thành áp lực nặng nề cho địch” Bởi vậy ông chiến đấu theo cách của riêng ông, không theo kiểu của người Mỹ , giao chiến với địch ngay tại nơi và ngay khi địch ít ngờ tới nhất. Ông đã huy động tất cả mọi người tham gia cuộc chiến, làm cho lính Mỹ xa nhà hàng ngàn dặm, không bao giờ có thể cảm thấy an toàn. Ông đã duy trì cuộc chiến đấu dai dẵng, làm cho nguồn lực và nhuệ khí của địch cạn kiệt, trong khi phong trào phản chiến ở Mỹ bùng phát“. Đó là một cách lý giải về nghệ thuật chiến tranh toàn dân, toàn diện, trường kỳ mà tướng Giáp là trí tuệ bậc Thầy.

        Trần Đăng Khoa kể về một ông già bản mà nhà thơ đã gặp trên đường vào Mường Phăng. Ông già hồ hởi: ” Chuyện Đại tướng chứ gì? Đại tướng thì tôi biết. Tôi cũng đã mấy lần gặp Đại tướng rồi. Vùng này là quê của Đại tướng đấy. Năm nọ Đại tướng có về quê. Đại tướng nói chuyện với đồng bào bằng tiếng dân tộc. Đại tướng là già làng của chúng tôi đấy. Nhà Đại tướng ở chỗ kia kìa…” Nói rồi, ông già chỉ lên núi Mường Phăng. Một dải rừng xanh um giữa mênh mông đồi trọc. Ở Điện Biên và cả mấy vùng lân cận, rừng cơ bản đã bị phá xong. Nửa đêm, tôi còn thấy những dải lửa cháy rừng rực vắt giữa lưng chừng trời. Đồng bào đốt nương đấy. Chẳng còn cách nào ngăn được. Đói thì phải phá rừng. Rừng núi nhiều nơi đã trơ trụi, nhưng Mường Phăng thì vẫn um tùm rậm rạp như rừng nguyên sinh. Tôi đã đi dưới những tầng cây ấy, nghe chim rừng hót ríu ran. Một làn suối âm thanh trong trẻo và mát rượi rót xuống từ lưng chừng trời. Không một rảnh cây nào bị chặt phá hay bị bẻ gẫy. Ở đây, người dân còn đói cơm, thiếu mặc, nhưng họ vẫn nâng niu gìn giữ khu rừng. Họ tự đặt tên cho khu rừng là “Rừng Đại tướng”. Đấy là ngôi đền thiêng, ngôi đền xanh thiên nhiên mà người dân đã tự lập để thờ ông. Đối với vị tướng trận, đó là hạnh phúc lớn. Một hạnh phúc mà không phải ai cũng có được trong cõi trần này…

        Bác Giáp từng khoác áo dân sự, như ảnh chụp và lời ông Đoàn Sự nguồn VOA, nhưng dường như ngôi vị lãnh đạo tối cao ở Việt Nam, và những quyết sách quan trọng nhất về bảo tồn phát triển quốc gia còn bị chi phối bởi nhiều mối tương quan, tầm nhìn khác.

        Chiến tranh đã qua lâu, đã có cả núi sách của phương Tây và Việt Nam viết về cuộc chiến này với nhiều nghiên cứu công phu về đánh giá thời cuộc. Sự khai sinh của nước Việt Nam mới và cuộc chiến giành độc lập thống nhất Tổ quốc gắn liền với tên tuổi của Võ Nguyên Giáp, con người đã sống chết trung hiếu với đất nước mình.

        Bài viết này là nén tâm hương tưởng nhớ.

        Võ Nguyên Giáp còn mãi với non sông. Vị tướng của lòng dân.

        Hoàng Kim

        Ghi chú và trích dẫn

        Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là e26af-vonguyengiap1.jpg

        VỊ TƯỚNG CỦA LÒNG DÂN
        Hoàng Kim

        Hôm nay ngày Chín tháng Chín Quý Tỵ.
        Bác Văn ơi thành kính tiễn Người
        “Cái tôi hoàn lại đất trời
        Trả tôi mặt mũi muôn đời chưa sanh”

        Bác về vùng đất địa linh
        Mũi Rồng Đảo Yến, Quảng Bình quê ta.

        Người là Võ Đại Thánh
        Hộ Quốc Đại Tướng Quân
        Ở chính đạo Trung tâm
        Hoành Sơn Linh Giang
        Đèo Ngang gánh hai đầu Đất Nước.

        Người về gặp các bậc chí nhân
        Trần Quốc Tuấn,
        Trần Nhân Tông,
        Hồ Chí Minh, …
        Thanh thản giấc muôn đời.
        “Tôi bình đẳng với những người lính của tôi”

        Lớp lớp cháu con
        thành kính tiễn biệt Người
        Lớp lớp cháu con
        noi gương Người
        ra chiến hào cầm súng.
        Đất nước bình yên
        lại trở về đời thường
        cầm bút cầm cày
        trong yêu thương, thanh thản.
        Gìn giữ “non sông muôn thuở vững âu vàng“.
        Tiễn biệt Người, vị tướng của lòng dân.

        Hoàng Kim

        Tư liệu

        Chùm ảnh gia đình cùng nhân dân cả nước tiễn biệt Đại tướng

        Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là 0fc7c-dsc02453.jpg
        Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là 9c861-dsc02492.jpg
        Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là 29e13-nhonguoi.jpg

        Báo Tuổi Trẻ ngày 13.10 Nhân dân khóc tướng Võ, đất nước tiễn anh Văn

        Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là aa2c6-vonguyengiap4.jpg

        Báo Tiin (Theo: Quân đội nhân dân) trực tiếp lễ viếng

        Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là e7632-nhe1bb9bngc6b0e1bb9di2.jpg

        Báo Dân Trí: Lễ viếng Đại tướng

        Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là 69271-dsc02474.jpg
        Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là eaf8b-dsc02467.jpg
        Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là 79c15-dsc02491.jpg

        Đại tướng Võ Nguyên Giáp trên Danh nhân Việt

        1)
        Nhân cách lớn của đại tướng Võ Nguyên Giáp
        2)
        Tướng Giáp trí tuệ bậc Thầy
        3)
        Võ Nguyên Giáp sao sáng trời Nam
        4)
        Võ Nguyên Giáp vị nhân tướng khuyến học
        5)
        Võ Nguyên Giáp thiên tài quân sự
        6)
        Đại tướng Võ Nguyên Giáp chân dung một huyền thoại
        7)
        Võ Nguyên Giáp đọc lại và suy ngẫm
        8)
        Đọc lại và suy ngẫm Tết Mậu Thân 1968
        9)
        Võ Nguyên Giáp vị tướng của lòng dân
        10)
        Đại tướng Võ Nguyên Giáp những câu nói bất hủ

        Thơ yêu thích 

        VỊ TƯỚNG GIÀ
        Tiễn biệt Người, vị đại tướng của nhân dân.
        Anh Ngọc 94. 

        Những đối thủ của ông đã chết từ lâu.
        Bạn chiến đấu cũng chẳng ai còn nữa.
        Ông ngồi giữa thời gian vây bủa.
        Nghe hoàng hôn chầm chậm xuống quanh mình.
        Bàn chân đi qua hai cuộc chiến tranh.
        Giờ chậm rãi lần theo dấu gậy.
        Đôi bàn tay nhăn nheo run rẩy.
        Đã từng gieo khủng khiếp xuống đầu thù.
        Trong góc vườn mùa thu.
        Cây lá cũng như ông lặng lẽ.
        Tám mươi tuổi ông lại như đứa trẻ.
        Nở nụ cười ngơ ngác thơ ngây.
        Ông ra đi
        Và…
        Ông đã về đây.
        Đời là cuộc hành trình khép kín.
        Giữa hai đầu điểm đi và điểm đến.
        Là một trời nhớ nhớ với quên quên.
        Những vui buồn chưa kịp gọi thành tên.
        Cõi nhân thế mây bay và gió thổi.
        Bầy ngựa chiến đã chân chồn gối mỏi.
        Đi về miền cát bụi phía trời xa.
        Ru giấc mơ của vị tướng già.
        Có tiếng khóc xen tiếng cười nức nở.
        Một chân Ông đã đặt vào lịch sử.
        Một chân còn vương vấn với mùa thu.

         

        Võ Nguyên Giáp trong mắt Trần Văn Trà
        Lê Văn

        Báo chí cho hay, đến nay ở VN và trên thế giới đã có tới 120 cuốn sách, không kể vô số những bài báo, bài nghiên cứu về Võ Nguyên Giáp. Có một nghịch lý, hình như những sự kiện lịch sử, những yếu nhân lịch sử của VN lại được các tác giả nước ngoài nghiên cứu nhiều hơn, sâu hơn, đầy đủ hơn là các tác giả trong nước.  Vì sao vậy? Ta mà chưa hiểu hết ta. Và ta thường hay tự ca ngợi mình: “Ôi ta là ta mà ta vẫn cứ mê ta” (Chế Lan Viên).

        Nhưng nghiên cứu về Võ Nguyên Giáp thì rõ ràng chưa đủ, càng không thể đầy đủ nếu chỉ căn cứ vào sách báo trong nước. Như nhiều người khác, tôi cũng có một số cuốn sách về Võ Nguyên Giáp, tỷ như Võ Nguyên Giáp của Geogres Boudarel, nhà sử học Pháp; Chiến thắng bằng mọi giá của Celcil B.Currey, một sử gia quân sự Hoa Kỳ; Võ Nguyên Giáp – một sự đánh giá của Peter MacDonald, sử gia quân sự người Anh và tất nhiên – còn nhiều cuốn sách khác của các tác giả trong nước.

        Sách của các tác giả nước ngoài nhìn chung khách quan, có những phân tích, đánh giá rất sâu sắc con người, tài năng và sự nghiệp của tướng Giáp. Họ lưu ý đến nhiều vấn đề, nhiều chi tiết có khi rất nhỏ nhưng lại có ý nghĩa lớn. Họ quan tâm đủ mọi thứ. Tuy nhiên, chưa thể coi các cuốn sách ấy đã là đầy đủ, hoàn hảo về Võ Nguyên Giáp. Chắc rằng thời gian tới sẽ có rất nhiều công trình nghiên cứu về Võ Nguyên Giáp – nhất là khi ông đã về cõi vĩnh hằng.

        Mong ước nghiên cứu đầy đủ, khách quan về Võ Nguyên Giáp là mong ước cháy bỏng của tướng Trần Văn Trà. Ông là một danh tướng cùng thời với Võ Nguyên Giáp, là cấp dưới của ông Giáp. Trần Văn Trà là Tư lệnh B2, địa bàn chiến lược quan trọng nhất trong cuộc chiến với người Mỹ. Sau khi Hiệp định Pari được ký kết, Trần Văn Trà được cử làm Trưởng đoàn quân sự của Chính phủ Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tại Ban Liêp hiệp quân sự bốn bên, Sài GXem tiếp >>

          Dạy và học 9 tháng 10(09-10-2021)

        DẠY VÀ HỌC 9 THÁNG 10
        Hoàng Kim

        CNM365 Tình yêu cuộc sống Nguyễn Du Hồ Xuân Hương; Vị tướng của lòng dân; Việt Nam con đường xanh; Đọc lại và suy ngẫm, Chuyển đổi số nông nghiệp; Những trang đời lắng đọng; Nông lịch tiết Hàn Lộ; Nguyễn Du tiếng tri âm; Vui đi dưới mặt trời; 24 tiết khí nông lịch; Về với vùng cát đá; Người lính già thời Bác; Ngày 9 tháng 10 năm  1874 là ngày Liên minh Bưu chính Quốc tế ngày nay mà lúc đó gọi là Tổng Liên minh Bưu chính, đã được thành lập theo Hiệp ước Bern với mục đích thống nhất các dịch vụ và luật lệ bưu chính, cho phép trao đổi bưu phẩm quốc tế tự do. Ngày 9 tháng 10 năm 1762: Chiến tranh Bảy năm bắt đầu ở châu Âu từ năm 1756 và kết thúc năm 1762. Vua nước Phổ Friedrich II Đại Đế đã lấy lại được pháo đài Schweidnitz (Silesia) từ tay quân Áo. Phổ trở thành một quốc gia hùng mạnh ở miền Bắc Đức. Kết quả cuộc chiến này ảnh hưởng lan rộng đến châu Á và châu Mỹ đã làm thay đổi sâu sắc những khu vực này trong giai đoạn sau đó. Ngày 9 tháng 10 năm 1940 là ngày sinh của John Lennon, ca sĩ, nhạc sĩ nhạc rock người Anh (mất năm 1980). Bài viết chọn lọc ngày 9 tháng 10:Nguyễn Du Hồ Xuân Hương; Vị tướng của lòng dân; Việt Nam con đường xanh; Đọc lại và suy ngẫm, Chuyển đổi số nông nghiệp; Những trang đời lắng đọng; Nông lịch tiết Hàn Lộ; Nguyễn Du tiếng tri âm; Vui đi dưới mặt trời; 24 tiết khí nông lịch; Về với vùng cát đá; Người lính già thời Bác; ; Lên Trúc Lâm Yên Tử; Tìm về đức Nhân Tông; Đồng đội cùng tháng năm; Nguyễn Du thơ chữ Hán; Thầy Ngoạn Hồ Núi Cốc; Có một ngày như thế; Bài đồng dao huyền thoại; Bài thơ Viên đá Thời gian; Thầy Ngoạn Hồ Núi Cốc; Bài học Phủ Khai Phong; Thơ Tứ tuyệt Hoàng Kim; Quả táo Apple Steve Jobs; Hoàng Gia Cương thơ hiền; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.comhttp://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-9-thang-10/

        NGUYỄN DU HỒ XUÂN HƯƠNG
        Hoàng Kim

        “Đối tửu” thơ bi tráng
        “Tỏ ý” lệ vương đầy
        Ba trăm năm thoáng chốc
        Mai Hạc vầng trăng soi

        Nguyễn Du Hồ Xuân Hương Nguyễn Du Hồ Xuân Hương là bài 3 trong chùm bài viết Nguyễn Du trăng huyền thoại tài liệu

        Mai Hạc (hình) là vầng trăng cổ tích soi tỏ sự tích Nguyễn Du và Hồ Xuân Hương. Từ Hải và Thúy Kiều luận anh hùng chính là Nguyễn Du và Hồ Xuân Hương luận anh hùng. Các bài khảo cứu “Hồ Xuân Hương tỏ ý Nguyễn Du; Lưu Hương ký và Truyện Thúy Kiều đã xác định sự thật lịch sử Hồ Xuân Hương chính là Thúy Kiều và Nguyễn Du là Từ Hải. “Chút riêng chọn đá thử vàng. Biết đâu mà gửi can tràng vào đâu? Còn như vào trước ra sau. Ai cho kén chọn vàng thau tại mình? Từ rằng: Lời nói hữu tình. Khiến người lại nhớ câu Bình Nguyên Quân. Lại đây xem lại cho gần. Phỏng tin được một vài phần hay không? Thưa rằng: Lượng cả bao dong. Tấn Dương được thấy mây rồng có phen . “Từ Hải và Thúy Kiều luận anh hùng và Từ Hải đã khen Thúy Kiều, là lời khen của Nguyễn Du đối với Hồ Xuân Hương đã đánh giá đúng Nguyễn Du “Khen cho con mắt tinh đời. Anh hùng đoán giữa trần ai mới già”. Nguyễn Du không chỉ là một đại thi hào, danh nhân văn hóa thế giới mà còn là một đấng danh sĩ tinh hoa; anh hùng nhân hậu, kiếm bút chạm thấu lòng người mà kiếm sắc của kẻ anh hùng, bậc hoàng đế tranh hùng ngôi cao chí thượng không thể vượt qua được. Truyện Thúy Kiều và Lưu Hương Ký nâng niu quý trọng con người là báu vật vô giá của lịch sử văn hóa Việt. Nguyễn Du Hồ Xuân Hương là tri âm tri kỷ. Hồ Xuân Hương tỏ ý kính trọng yêu thương Nguyễn Du vì Nguyễn Du thực sự là đấng anh hùng danh sĩ tinh hoa đích thực. Nguyễn Du Từ Hải anh hùng trong Truyện Thúy Kiều là hình tượng Yến Thanh Tiểu Ất trong Thủy Hử. Dẫn liệu minh chứng xin đọc bài dưới đây:

        ĐỐI TỬU THƠ BI TRÁNG

        Đối tửu
        Nguyễn Du

        Bên cửa xếp bằng ngất ngưởng say
        Cánh hoa rơi phủ thảm rêu đầy
        Sống chưa vơi nửa lưng ly rượu
        Chết hỏi rằng ai tưới mộ đây?
        Xuân đã xa dần oanh bỏ tổ
        Tháng năm bàng bạc tóc màu mây
        Trăm năm chỉ ước say mềm mãi
        Thế sự bèo mây…ngẫm đắng cay

        (Bản dịch thơ của Hoa Huyền)

        對酒

        趺坐閒窗醉眼開,
        落花無數下蒼苔。
        生前不盡樽中酒,
        死後誰澆墓上杯。
        春色霑遷黄鳥去,
        年光暗逐白頭來。
        百期但得終朝醉,
        世事浮雲眞可哀。

        Đối tửu
        Nguyễn Du

        Phu toạ nhàn song tuý nhãn khai,
        Lạc hoa vô số há thương đài.
        Sinh tiền bất tận tôn trung tửu,
        Tử hậu thuỳ kiêu mộ thượng bôi ?
        Xuân sắc niệm thiên hoàng điểu khứ,
        Niên quang ám trục bạch đầu lai.
        Bách kỳ đãn đắc chung triêu tuý,
        Thế sự phù vân chân khả ai.

        Dịch nghĩa

        Ngồi xếp bằng tròn trước cửa sổ, rượu vào hơi say mắt lim dim,
        Vô số cánh hoa rơi trên thảm rêu xanh.
        Lúc sống không uống cạn chén rượu,
        Chết rồi, ai rưới trên mồ cho ?
        Sắc xuân thay đổi dần, chim hoàng oanh bay đi,
        Năm tháng ngầm thôi thúc đầu bạc.
        Cuộc đời trăm năm, chỉ mong say suốt ngày.
        Thế sự như đám mây nổi, thật đáng buồn.

        “Đối tửu” của Nguyễn Du là bài thơ thật bi tráng của bậc anh hùng, trong tình thế cùng cực.

        Bản đồ Hình thế Đại Việt đàng Trong và đàng Ngoài năm 1760 (vẽ bởi công ty Cóvens e Mortier, Amsterdam) và các thông tin chi tiết đã xác định rõ Nguyễn Du từ năm Tân Sửu (1781) lúc mười sáu tuổi đã làm Chánh Thủ hiệu quân Hùng Hậu ở Thái Nguyên. Trước đó Nguyễn Du đã được danh tướng Hoàng Ngũ Phúc tặng bảo kiếm và Quản Vũ Hầu Nguyễn Đăng Tiến tướng trấn thủ Thái Nguyên ( tướng tâm phúc thân tùy của Nguyễn Nhiễm với tên gọi Hà Mỗ trong Gia Phả họ Nguyễn Tiên Điền) nhận làm cha nuôi Nguyễn Du. Tướng trấn thủ Sơn Tây là Nguyễn Điền là anh cùng cha khác mẹ của Nguyễn Du, Tướng trấn nhậm Sơn Nam Thượng, Sơn Nam Hạ đều là học trò Nguyễn Nhiễm. Bắc Hà là đất tổ nghiệp của nhà Nguyễn Tiên Điền. Thế lực họ Nguyễn Tiên Điền với Nguyễn Nhiễm làm Tể tướng. Sau khi Nguyễn Nhiễm mất, đến năm 1783 Nguyễn Khản kế tiếp công nghiệp của cha, đầu năm thăng chức Thiếu Bảo, cuối năm thăng chức Tham tụng, Thượng Thư Bộ Lại kiêm trấn thủ Thái Nguyên, Hưng Hóa. Anh cùng mẹ của Nguyễn Du là Nguyễn Nễ (sinh 1761) đỗ đầu thi Hương ở điện Phụng Thiên, được bổ thị nội văn chức, khâm thị nhật giảng, sung Nội Hàn Viện cung phụng sứ, phó tri thị nội thư tả lại phiên, Thiên Thư Khu mật viện Đức Phái hầu, cai quản đội quân Phấn Nhất của phủ Chúa. Vừa lúc Thuận Châu khởi binh, phụng sai hiệp tán quân cơ của đạo Sơn Tây. Nhà Nguyễn Tiên Điền thực sư hùng mạnh “gồm hai văn võ rạch đôi sơn hà” “năm năm hùng cứ một phương hải tần” (1781- 1786) “Chọc trời khuấy nước mặc dầu/ Dọc ngang nào biết trên đầu có ai” . Vua Lê và chúa Trịnh do sự chia rẽ đặc biệt nghiêm trọng thời thái tử Lê Duy Vĩ (cha của vua Lê Chiêu Thống) và chúa Trịnh Sâm.Tthái tử Lê Duy Vĩ đã bị Trịnh Sâm bức hại mà chết và ba con bị giam cầm 15 năm. Đến thời loạn kiêu binh vua Lê Chiêu Thống (tên thật là Lê Duy Kỳ con trai của Lê Duy Vĩ) quyết nắm lại thực quyền thì Nguyễn Hữu Chỉnh đã rước quân Tây Sơn Nguyễn Huệ ra Bắc lần thứ nhất năm 1787 gieo kế li gián khiến nhà Nguyễn Tiên Điền bị nghi ngờ không được vua Lê dùng nên Nguyễn Huệ mới ra Bắc thành công.

        Ở đằng Ngoài, năm 1987 Nguyễn Huệ theo kế Nguyễn Hữu Chỉnh bất ngờ đánh ra Nghệ An và thuận thời đột kích Thăng Long thắng lợi, chiếm được Bắc Hà mà không kịp xin lệnh Nguyễn Nhạc, sau đó Nguyễn Huệ cưới công chúa Lê Ngọc Hân con vua Lê Hiển Tông. Nguyễn Nhạc vơi quyết sách tạo thành hai nước Bắc Nam hòa hiếu đằng Trong đằng Ngoài nên đã cấp tốc ra Bắc, thay đổi tướng hiệu và cùng Nguyễn Huệ về Nam. Vua Lê Chiêu Thống dùng mưu thần Nguyễn Hữu Chỉnh và trung thần Lê Quýnh đuổi Trịnh Bồng quyết giành lại thực quyền từ nhà chúa, sau đó tiếp tục mưu việc giành lại Nghệ An. Tướng Tây Sơn Vũ Văn Nhậm con rể Nguyễn Nhạc trấn thủ Quảng Bình đã cùng Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân theo lệnh Nguyễn Huệ kéo đại quân ra Bắc giết Nguyễn Hữu Chỉnh. Vua Lê Chiêu Thống trốn chạy vào rừng ở Yên Thế Thái Nguyên Tuyên Quang chống lại Tây Sơn. Vũ Văn Nhậm không bắt được Lê Chiêu Thống nên đã lập chú vua là Lê Duy Cận làm Giám Quốc. Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ kéo quân kỵ gấp đường ra Thăng Long, nửa đêm đến nơi bắt Vũ Văn Nhậm giết đi, đổi đặt quan quân, đặt quan lục bộ và các quan trấn thủ, vẫn để Lê Duy Cẩn làm Giám Quốc, chủ trương việc tế lễ để giữ tông miếu tiền triều, dùng Ngô Thì Nhậm làm Lại bộ tả thị lang, cùng bọn Ngô Văn Sở ở lại giữ đất Bắc Hà, còn Nguyễn Huệ thì trở về Nam. Mẹ vua Lê Chiêu Thống đã cầu xin nhà Thanh viện binh giúp vua Lê phục quốc. Vua Càn Long lợi dụng tình hình cho Tôn Sĩ Nghị, Ô Đại Kinh, Sầm Nghi Đống ba cánh quân của Lưỡng Quảng, Quý Châu – Vân Nam, Điền Châu chia đường sang cứu viện và nhân tiện cướp Đại Việt. Quân Thanh vào đến Thăng Long đã theo kế Càn Long lập Lê Chiêu Thống lên làm An Nam quốc vương để chống lại nhà Tây Sơn. Nguyễn Huệ tại Phú Xuân nhận được tin cấp báo đã lên ngôi Hoàng Đế để chính danh phận và lập tức kéo quân ra Bắc. Nhà Nguyễn Tiên Điền và những cựu thần nhà Lê trừ số theo vua bôn tẩu ra ngoài đều không được vua Lê tin dùng vì Nguyễn Khải anh Nguyễn Du vốn và thầy chúa Trịnh có thù sâu nặng với vua Lê. Nguyễn Huệ dụng binh như thần và khéo chia rẽ, mua chuộc nên nhiều cựu thần nhà Lê như Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích, La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp, và kể cả Nguyễn Nễ là anh trai Nguyễn Du và Đoàn Nguyễn Tuấn là anh vợ Nguyễn Du đều lần lượt ra làm quan với nhà Tây Sơn. Riêng Nguyễn Du thì không ra. Năm Kỷ Dậu (1789) Nguyễn Huệ đại phá quân Thanh. Sầm Nghi Đống tự sát ở gò Đống Đa, Tôn Sĩ Nghị tháo chạy về Bắc, cánh quân của Ô Đại Kinh rút chạy, Đồn Ngọc Hồi với toàn bộ quân Thanh và danh tướng Hứa Thế Hanh giữ đồn này đều bị diệt. Vua Quang Trung chiều ngày 5 Tết đã khải hoàn ở kinh thành Thăng Long. Các anh của Nguyễn Du ra làm quan với nhà Tây Sơn. Phủ đệ của họ Nguyễn Tiên Điền bên hồ Tây được sửa lại. Nguyễn Huệ sau khi đại phá quân Thanh, bằng mưu kế ngoại giao của nhà Tây Sơn với vua Càn Long nên được phong làm An Nam quốc vương, Lê Chiêu Thống phát động cuộc chiến ở tây Nghệ An và Trấn Ninh, Lào nhưng bị thua bởi danh tướng Tây Sơn Trần Quang Diệu. Vua Lê cũng bị bại ở trận chiến Cao Bằng Tuyên Quang do quân mỏng lực yếu. Vua Lê Chiêu Thống và các trung thần tiết nghĩa nhà hậu Lê đã bị “bán đứng” bởi vua Càn Long và tướng Phúc Khang An do bí mật kho báu ở đỉnh Tuyết Sơn núi Tuyết (mời đọc Kho báu đỉnh Tuyết Sơn). “Nhà vua bị người ta lừa gạt, bị giám buộc ở quê người đất khách, đến nỗi lo buồn phẫn uất, ôm hận mà chết, thân dẫu chết, nhưng tâm không chết, kể cũng đáng thương! (trích lời phê của vua Tự Đức).

        Ở đằng Trong, nhân lúc Bắc Hà biến loạn, Nguyễn Huệ phải lo đối phó từ hai phía, vua Lê trốn vào rừng và phát chiếu cần vương, quân Thanh có thể can thiệp bất cứ lúc nào, Nguyễn Ánh công phá và bình định Sài Gòn – Gia Định ngày Đinh Dậu tháng 8 năm Mậu Thân (9.1788). Đông Định Vương Nguyễn Lữ bị rơi vào mưu kế chia rẽ của Nguyễn Ánh đối với Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ nên đã phải rút chạy về Quy Nhơn. Phạm Văn Tham tướng Nguyễn Nhạc lui về giữ những điểm trọng yếu ở Ba Thắc và Biên Hòa, đồng thời cấp báo về Quy Nhơn xin viện binh. Nguyễn Nhạc không dám phát binh vì sợ Nguyễn Ánh thừa cơ mang thủy quân ra đột kích miền Trung. Nguyễn Vương nhân cơ hội này đã đánh rộng ra chiếm trọn Nam Bộ. Thất bại chiến lược này của nhà Tây Sơn do trước đó, năm 1787 Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ đã bất hòa rất nghiêm trọng về việc Nguyễn Huệ chống đối Nguyễn Nhạc không chịu sung vào quân lương số vàng bạc châu báu rất lớn mà quân Bắc Bình Vương đã cướp được từ kho chúa Trịnh, đồng thời Nguyễn Huệ đòi quyền quản lý Quảng Nam. Nguyễn Nhạc uất ức chán nản vì em của ông tuy tài trí xuất chúng đánh giỏi và cơ trí hơn người nhưng mãnh liệt hung bạo và khó chế ngự, không còn tin theo phương lược của ông là chỉ nên tranh hùng với chúa Nguyễn ở đất phương Nam mà tạm thời chưa dòm ngó phương Bắc vì cựu thân tôn phò nhà Lê còn rất mạnh. Nhà Thanh lại ủng hộ nhà Lê. Mầm họa nhà Tây Sơn tăng dần và sự bất hòa này đã bị Nguyễn Ánh triệt để lợi dụng. Nguyễn Ánh lợi dụng tình hình Bắc Hà rối loạn nên đã chiếm trọn đất phương Nam.

        Nguyễn Du cùng Lê Quýnh dựng cờ phù Lê, vận động ngoại giao xin chiếu vua Càn Long, liên thủ với vùng Nam Trung Quốc và Nghệ Tĩnh, giao kết kẻ sĩ, xây dựng lực lượng, trầm tĩnh theo chuyển biến thời cuộc để chớp thời cơ hành động. Nguyễn Du sau khởi nghĩa Tư Nông thất bại ông đã sang căn cứ Nam Trung Quốc thực hiện việc vận động ngoại giao. Nguyễn Du năm ấy đi lại giữa Thăng Long, Quảng Tây, Kinh Bắc, Hải Dương, Nghệ An nhưng đang là lúc “ngọa hổ tàng long” nên Nguyễn Du hành tung bí mật, rất ít lộ diện. Những sử liệu dưới đây cho thấy các địa điểm ẩn hiện của ông: Trong “Lê Quý Kỷ Sự” của Nguyễn Thu có nói đến cuộc khởi nghĩa tại Tư Nông của cựu Trấn Thủ Thái Nguyên Nguyễn Đăng Tiến, tước Quản Vũ Hầu, bị tướng Tây Sơn bắt giải về cho Vũ Văn Nhậm. Nhậm trọng sự khí khái nên dụ hàng, sau đó cũng tha bổng và cho phép muốn đi đâu thì đi. Họ đi sang Vân Nam. Nguyễn Quýnh quay trở về Hồng Lĩnh khởi nghĩa bị bắt và bị giết năm 1791 tròn 30 tuổi, dinh thự và làng Tiên Điền bị đốt sạch. Đến Vân Nam, Nguyễn Du bị bệnh ba tháng mùa xuân. Hết bệnh, họ đi Liễu Châu và chia tay, Nguyễn Đại Lang về thăm quê nhà vùng Quế Lâm, cao sơn lưu thủy. Nguyễn Du đi giang hồ ba năm ở Trung Quốc trong áo mũ nhà sư mang danh Chí Hiên, từ Quảng Tây theo thuyền đi dọc sông và Hồ Động Đình đến Hán Khẩu, rồi theo sông Hán rồi lên Trường An viết bài Dương Quý Phi, Bùi Tấn Công mộ, Phân Kinh thạch đài, rồi lại theo kinh Đại Vận Hà đến Hàng Châu. Năm 1790 Nguyễn Du cư ngụ tại chùa Hổ Pháo bên Tây Hồ, tại Hàng Châu, nơi Từ Hải tức Minh Sơn Hoà thượng từng tu hành, trước khi đi giang hồ thành cướp biển. Nguyễn Du tại đây có được bản Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân. Ông gặp lại Nguyễn Đại Lang tại miếu Nhạc Phi cũng bên cạnh Tây Hồ. Chính nơi đây Nguyễn Du viết 5 bài thơ, một bài Nhạc Phi, hai bài Tần Cối và hai bài Vương Thị, sau đó Nguyễn Du cùng Nguyễn Đại Lang đi Yên Kinh gặp vua Lê Chiêu Thống, và trở về Hàng Châu thì gặp Đoàn Nguyễn Tuấn cùng với sứ đoàn Tây Sơn tại một lữ quán. Tại đây, Nguyễn Du bàn chuyện về hồng nhan đa truân và Đoàn Nguyễn Tuấn đã viết hai bài thơ tặng văn nhân họ Nguyễn. Nguyễn Du về Long Châu và trở về Thăng Long. Ba năm 1791-1793, Nguyễn Du ở với Nguyễn Nể, đang làm quan Tây Sơn tại Bắc Thành giữ chức Hàn Lâm thị thư, sung chức Phó sứ tuế công. Năm 1791, Nguyễn Nễ đi sứ về, đã xây dựng lại một phần dinh thự Bích Câu, tại đây Nguyễn Du nghe cô Cầm, người nhạc nữ cũ cung vua Lê đánh đàn. Nguyễn Du không chịu ra làm quan nhà Tây Sơn khi vua Lê Chiêu Thông đã bị nhà Thanh dùng kế ‘bán đứng”. Ông cam lòng ẩn nhẫn câu cá làm “Nam Hải điếu đồ” tại ao vườn của anh là Nguyễn Khản cạnh đền Khán Xuân. Chính nơi đây, Nguyễn Du cùng Xuân Hương (tức Hồ Phi Mai) có ba năm vẹn 1790-1992 sống cùng nhau để trầm tĩnh nhìn thời thế biến chuyển. Câu chuyện luận anh hùng của họ là trong thời điểm này. Những ẩn ngữ Lưu Hương ký và Truyện Thúy Kiều, Nhân vật Từ Hải và Thúy Kiều chính là từ hình mẫu của Nguyển Du và Hố Xuân Hương. Cuối năm 1993 Nguyễn Du vào Phú Xuân tìm cách giúp cho hai anh Nguyễn Nễ và Đoàn Nguyễn Tuấn thoát ra khỏi họa diệt tộc khỏi dính líu quá sâu vào triều Tây Sơn, khi Nguyễn Du đã đọc nghìn lần kinh Kim Cương và đã nhìn thấy mối họa khó bề cứu vãn của triều đại Tây Sơn.

        Nguyễn Du và Hồ Xuân Hương luận anh hùng” thể hiện rõ nét qua “Truyện Thúy Kiều” và “Lưu Hương Ký” Hồ Xuân Hương viết: “Ngước mắt trông lên thấy bảng treo. Kìa đền Thái thú đứng cheo leo. Ví đây đổi phận làm trai được. Sự nghiệp anh hùng há bấy nhiêu” “Giương oai giễu võ thật là kinh. Danh tiếng bao lăm đã tận rồi. Thoáng ngửi thoáng ghê hơi hương lửa. Tài trí ra sao hỏi tính tình”. Hồ Xuân Hương căm ghét quyết liệt đối với cái ác, cái xấu, vô văn hóa, giả đạo đức, mất nhân tính. Bà căm ghét khinh bỉ những kẻ tính tình hung bạo thủ đoạn nham hiểm, liên tưởng tới dòng họ Nguyễn Du ở Tiên Điền bị quân Tây Sơn sát hại toàn gia tộc sau khởi nghĩa thất bại của Nguyễn Quýnh năm 1791 ở tây Nghệ An, bị truy sát đến Trấn Ninh và liên lụy đến vua Lào và đại tướng Lào . Nguyễn Du và Hồ Xuân Hương luận anh hùng qua đối thoại của Từ Hải và Thúy Kiều: “Thưa rằng: Lượng cả bao dong/ Tấn Dương được thấy mây rồng có phen/ Rộng thương cỏ nội hoa hèn/ Chút thân bèo bọt, dám phiền mai sau!/ Nghe lời vừa ý gật đầu/ Cười rằng tri kỷ trước sau mấy người/ Khen cho con mắt tinh đời /Anh hùng đoán giữa trần ai mới già/ Một lời đã biết đến ta/ Muôn chung nghìn tứ, cũng là có nhau/ Hai bên ý hợp tâm đầu/ Khi thân, chẳng lọ là cầu mới thân/ Ngõ lời cùng với băng nhân/ Tiền trăm lại cứ nguyên ngân phát hoàn/ Buồng riêng sửa chốn thanh nhàn/ Đặt giường thất bảo, vây màn bát tiên/ Trai anh hùng gái thuyền quyên/ Phỉ nguyền sánh phượng, đẹp duyên cưỡi rồng.”

        TỎ Ý LỆ VƯƠNG ĐẦY

        Hồ Xuân Hương đã “Tỏ ý” với Nguyễn Du. Chuyện tình cảm động Nguyễn Du và Hồ Xuân Hương thể hiện rõ nét trên tác phẩm Lưu Hương Ký, di cảo đích thực của Hồ Xuân Hượng tại bài “Thuật ý kiêm trình hữu nhân Mai Sơn Phủ” là thơ chữ Hán của Hồ Xuân Hương tặng Mai Sơn Phủ Nguyễn Du.

        TỎ Ý
        Hồ Xuân Hương tặng Mai Sơn Phủ (Nguyễn Du)
        (Bản dịch của Hoàng Kim)

        Hoa rung rinh,
        Cây rung rinh,
        Giấc mộng cô đơn nhớ hương tình,
        Đêm xuân bao cảm khái.

        Hươu nơi nao
        Nhạn nơi nao
        Mình ước trong nhau ban mai nào
        Lòng em thương nhớ ai thấu sao!

        Sông mênh mông
        Nước dạt dào
        Lòng hai chúng mình đều ao ước
        Nước mắt thầm rơi mặn chát.

        Thơ thương thương,
        Lòng vương vương,
        Ấm lạnh lòng ai thấu tỏ tường,
        Bút người tả xiết chăng?

        Mây lang thang
        Trăng mênh mang
        Trăng gió xui ai luống đoạn tràng
        Đâu là gác Đằng Vương ?

        Mây vương vương
        Nước sương sương
        Mây nước chung nhau chỉ một đường
        Dặm trường cách trở thương càng thương.

        Ngày thênh thênh,
        Đêm thênh thênh,
        Đêm ngày khắc khoải nhớ thương anh,
        Người ơi đừng lỡ hẹn sai tình.

        Gió bay bay
        Mưa bay bay
        Mưa gió giục em viết thơ này
        Bút xuân gửi đến người thương nhớ

        Anh đồng lòng
        Em đồng lòng
        Mộng hồn tương luyến liễu hoa âm (*)
        Thơ cùng ngâm
        Rượu và trăng
        Thăm thẳm buồn ly biệt
        Vầng trăng chia hai nữa
        Cung đàn ly khúc oán tri âm (**),
        Thôi đành bặt tiếng hồ cầm
        Núi cao biển sâu đằng đẳng
        Xin chớ tủi buồn mà than cổ kim.

        Chàng hẹn gì
        Ta hẹn gì
        Hai ta đều muộn nói năng chi
        Trà mà chi
        Bút mà chi
        Lời và chữ còn đó
        Ai là kẻ tình si
        Hiểu nhau trong dạ khó khăn gì
        Hãy nên trao gửi mối duyên đi
        Lòng son ai nỡ phụ.

        Hồ Xuân Hương (Hồ Phi Mai) với ngón hồ cầm tuyệt diệu hát nói ca trù chính là Kiều gẩy đàn cho Kim Trọng nghe “Trong như tiếng hạc bay qua. Đục như nước suối vừa sa nửa vời. Tiếng khoan như gió thoảng ngoài. Tiếu mau sầm sập như trời đổ mưa. Ngọn đèn khi tỏ khi mờ. Khiến người ngồi đấy cũng ngơ ngẫn sầu. Khi tựa gối khi cúi đầu. Khi vò chín khúc, khi chau đôi mày” (Truyện Kiều, Nguyễn Du). Truyện Thúy Kiều soi thấu những góc khuất của Lưu Hương Ký và ngược lại.

        Hồ Xuân Hương với kiệt tác Lưu Hương Ký có một bài thơ khác đã xác nhận thơ bà viết gửi Cần chánh học sĩ Nguyễn hầu chính là Nguyễn Du.

        NHỚ CHUYỆN CŨ
        Cảm cựu kiêm trình Cần chánh học sĩ Nguyễn Hầu

        感舊兼呈勤政學士阮侯 – Nhớ chuyện cũ viết gửi Cần chánh học sĩ Nguyễn Hầu (*).

        Hồ Xuân Hương

        Dặm khách muôn nghìn nỗi nhớ nhung,
        Mượn ai tới đấy gửi cho cùng.
        Chữ tình chốc đã ba năm vẹn,
        Giấc mộng rồi ra nửa khắc không.
        Xe ngựa trộm mừng duyên tấp nập,
        Phấn son càng tủi phận long đong.
        Biết còn mảy chút sương siu mấy,
        Lầu nguyệt năm canh chiếc bóng chong.

        (*) Sau đầu đề trên, tác giả có chú: “Hầu, Nghi Xuân, Tiên Điền nhân” 侯宜春仙田人 (Hầu người làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân). Như vậy, ở đây Nguyễn Hầu đúng là Nguyễn Du tiên sinh. Gia phả họ Nguyễn Tiên Điền ghi rõ mùa hè năm Kỉ Tỵ (1809), Nguyễn Du được bổ làm cai bạ Quảng Bình. Tháng 2 năm Quý Dậu (1813) ông được phong Cần chánh điện học sĩ, rồi được cử làm chánh sứ đi Trung Quốc tuế cống.

        Kiều – Nguyễn Du
        Ca trù hát nói Việt Nam

        Non xanh xanh

        Nước xanh xanh
        Sớm tình tình sớm, trưa tình tình trưa
        Áy ai tháng đợi năm chờ
        Mà người ngày ấy bây giờ là đây…

        Hồng Hồng Tuyết Tuyết ca trù hát nói tinh hoa cổ văn chương Việt) NS Quách Thị Hồ

        Nguyên tác:




        鹿







        Xem tiếp >>

          Dạy và học 8 tháng 10(08-10-2021)


        CHÀO NGÀY MỚI 8 THÁNG 10
        Hoàng Kim
        CNM365 Tình yêu cuộc sốngNông lịch tiết Hàn Lộ; Nguyễn Du tiếng tri âm; Vui đi dưới mặt trời; 24 tiết khí nông lịch; Về với vùng cát đá; Người lính già thời Bác; Cồn cát Oregon gần Florence, Oregon, đã là nguồn cảm hứng cho kiệt tác ‘Xứ Cát’ của Franklin Patrick Herbert đại văn hào Mỹ. Ngày 8 tháng 10 hàng năm là tiết Hàn Lộ (mát mẻ) trong 24 tiết khí nông lịch Việt Nam, Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên, khi kinh độ Mặt Trời bằng 195°. Ngày 8 tháng 10 năm 1920 là ngày sinh của Franklin Patrick Herbert, nhà văn khoa học giả tưởng nổi tiếng người Mỹ với bộ sách kiệt tác Xứ Cát gồm sáu tập Dune World,  Prophet of Dune, Dune MessiahChildren of Dune, God Emperor of Dune và Chapterhouse Dune, đã được dựng thành phim. Bài viết chọn lọc ngày 8 tháng 10: Nông lịch tiết Hàn Lộ; Nguyễn Du tiếng tri âm; Vui đi dưới mặt trời; 24 tiết khí nông lịch; Về với vùng cát đá; Người lính già thời Bác; Lên Trúc Lâm Yên Tử; Tìm về đức Nhân Tông; Đồng đội cùng tháng năm; Nguyễn Du thơ chữ Hán; Thầy Ngoạn Hồ Núi Cốc; Có một ngày như thế; Bài đồng dao huyền thoại; Bài thơ Viên đá Thời gian; Thầy Ngoạn Hồ Núi Cốc; Bài học Phủ Khai Phong; Thơ Tứ tuyệt Hoàng Kim; Quả táo Apple Steve Jobs; Hoàng Gia Cương thơ hiền; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.comhttp://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-8-thang-10/

        NÔNG LỊCH TIẾT HÀN LỘ
        Hoàng Kim


        Giữa thu chầm chậm nắng lên
        Hơi may lành lạnh, êm đềm vườn thu
        Mai vàng vẫn mướt cành tơ
        Chùm hoa tứ quý bao giờ nở xong
        Sớm Thu thơ ở giữa lòng
        Thu như mắt lá mãi mong ngày dài.

        *

        Hàn Lộ mát mẻ tới rồi
        Sương tan đầu ngõ, bầu trời nắng ong
        Gió se se mát giữa lòng
        Bầy chim ríu rít, súng hồng ao thanh
        Vườn cây ngày đẹp an lành
        Thung dung ông cháu dạo quanh ghế ngồi

        Việc nhàn thời phải đợi thôi

        24 TIẾT KHÍ NÔNG LỊCH
        Hoàng Kim


        Khuyên em đừng quên nhất thì nhì thục
        Di sản Việt Nam học mãi không cùng
        Mình học để làm hai bốn tiết khí
        Mộc mạc hát vần bài học đầu tiên.

        Đất cảm trời thương lòng người gắn bó
        Dẫu khó vạn lần khéo liệu cũng xong
        Mùa xuân tới tự tiết xuân sẽ đến
        Bởi biết rằng năm tháng đó là em.

        6 tháng Một bắt đầu rét nhẹ
        21 tháng Một trời lạnh cắt da
        4 tháng Hai ngày xuân mới đến
        20 tháng Hai Thiên Địa Nhân hòa.

        Đồng dao cho em khuyên em đừng tưởng
        Câu chuyện mùa xuân
        thêm cho mồng Ba
        Trải Cốc Vũ qua ngày Hạ Chí
        Đại Thử rồi Sương Giáng thành hoa.

        6 tháng Năm là ngày Hè đến
        22 tháng Năm mưa nhỏ, vào mùa
        5 tháng Sáu ngày Tua Rua mọc
        21 tháng Sáu là chính giữa Hè.

        7 tháng Bảy là ngày nắng nhẹ
        23 tháng Bảy là tiết nóng oi
        7 tháng Tám Lập Thu rồi đó
        23 tháng 8 trời đất mưa Ngâu

        Qua Xử Thử đến tiết trời Bạch Lộ
        Sau Mưa Ngâu đến Nắng nhạt đấy em.
        Tiết Thu Phân khoảng 23 tháng 9
        Đối lịch nhà nông em nhớ đừng quên.

        Tiết Hàn Lộ nghĩa là trời mát mẻ
        Kế tiếp theo là Sương Giáng (sương mù)
        23 tháng 10 mù sa dày đặc
        Thuyền cỏ mượn tên nhớ chuyện Khổng Minh.

        Ngày 7 tháng 11 là tiết lập đông
        23 tháng 11 là ngày tiểu tuyết
        8 tháng 12 là ngày đại tuyết
        22 tháng 12 là chính giữa đông.

        Khuyên em đừng quên nhất thì nhì thục
        Di sản Việt Nam học mãi không cùng
        Mình học để làm 24 tiết khí
        Mộc mạc hát vần bài học đầu tiên.

        Mùa vụ trồng cây, kinh nghiệm nghề nông
        Xin em đừng quên điều ông bà dạy
        Xuân Hạ Thu Đông hai bốn tiết khí
        Khoa học thiên văn ẩn ngữ đời người.

        Đất cảm trời thương, lòng người gắn bó
        Dẫu khó vạn lần khéo liệu cũng xong
        Mùa xuân tới tự tiết xuân sẽ đến
        Bởi biết rằng
        năm tháng đó là em.

        SỚM THU THƠ GIỮA LÒNG
        Hoàng Kim

        Ai thương núi nhớ biển
        Vui thu măng mỗi ngày
        Ai chợp mắt Tam Đảo
        Nắng lên là sương tan
        Ai tỏ Ngọc Quan Âm
        Vui bước tới thảnh thơi

        *

        Tỉnh thức ban mai đã sớm thu
        Sương đêm giữ ngọc ướt cành tơ
        Ai ơi gieo đậu vừa rồi đấy
        Lộc biếc me xanh chín đợi chờ.

        *

        Sớm thu trên đồng rộng
        Em cười trời đất nghiêng
        Lúa ngậm đòng con gái
        Em đang thì làm duyên.

        Sớm thu trên đồng rộng
        Cây đời xanh thật xanh
        Lúa siêu xanh tỏa rộng
        Hương lúa thơm mông mênh.

        Sớm thu trên đồng rộng
        Trời đất đẹp lạ lùng
        Bản nhạc vui an lành
        Ơi đồng xanh yêu dấu…

        *

        Thích thơ hay bạn quý
        Yêu sương mai đầu cành
        Bình minh chào ngày mới
        Vườn nhà bừng nắng lên

        Trà sớm nhớ bạn hiền
        Trung thu bánh tình thân
        Phố núi cao thu sớm
        Gia an nguyên lộc gần.

        *

        Thanh thản an vui dạo dọn vườn
        Vui thầy mừng bạn ngát thêm hương
        Đường xuân nhàn hạ phai mưa nắng
        Tâm sáng an lành trãi gió sương
        Thoắt đó vườn thơm nhiều quả ngọt
        Mới hay nhà phước lắm con đường
        An nhiên vô sự là tiên cảnh
        Sớm thu mai nở nắng thu vương

        Sớm thu thơ giữa lòng là thơ liên vận của Hoàng Kim lưu chung với “Mùa thu trong thi ca” gồm 19 bài thơ tinh tuyển chọn lọc: Chớm thu Hoàng Gia Cương; Thu mưa Đỗ Phủ; Thu mưa Nguyễn Hoài Nhơn; Thu vịnh Nguyễn Khuyến; Thu buồn Đỗ Phủ; Thu hứng Đỗ Phủ; Thu sơn Bạch Cư Dị; Chiều thu Nguyễn Bính; Tiếng thu Lưu Trọng Lư; Thu tứ Bạch Cư Dị; Đêm thu Trần Đăng Khoa; Đêm thu Quách Tấn; Thu ẩm Nguyễn Khuyến; Thu ca Chanson d’automne (Paul Verlaine);Thu vàng Alexxandr Puskin; Thu vàng Thu Bồn; Giọt mưa thu Thái Lượng; Nắng thu Nam Trân; Thơ gửi mùa thu Nguyễn Hoài Nhơn; Thư tình gửi mùa thu, nhạc Phan Huỳnh Điểu phổ thơ Xuân Quỳnh ; xem tiếp Mùa thu trong thi ca
        https://hoangkimlong.wordpress.com/category/som-thu-tho-giua-long/

        Thơ Tứ tuyệt Hoàng Kim
        CUỐI THU TIẾT HÀN LỘ
        Hoàng Kim


        Mãi miết đường xuân đã cuối thu
        Trời xanh như ngọc nắng trong thơ
        Vui đi dưới mặt trời hớn hở
        Thời vận an nhiên, tiếc hẹn hò.

        VUI ĐI DƯỚI MẶT TRỜI
        Hoàng Kim


        Hãy lên đường đi em
        Ban mai vừa mới rạng
        Vui đi dưới mặt trời
        Một niềm tin thắp lửa

        Ta như ong làm mật
        Cuộc đời đầy hương hoa
        Thời an nhiên vẫy gọi
        Vui đời khỏe cho ta.

        Vui đi dưới mặt trời
        Nắng dát vàng trên đồng xuân
        Mưa ướt vệt bóng mây, tím sắc trời cuối hạ
        Đất ước, cây trông, lòng nhớ …

        Em trốn tìm đâu trong giấc mơ tâm tưởng
        Ngôi nhà con hạnh phúc trăm năm
        Bếp lửa ngọn đèn khuya
        Vận mệnh cuộc đời cố gắng

        Tình yêu là người thầy tốt hơn trách nhiệm
        Đồng lòng đất cảm trời thương
        Phúc hậu minh triết tận tâm
        Cố gắng làm người có ích

        Tháng năm tròn đầy vườn thiêng cổ tích
        Mừng ban mai mỗi ngày tỉnh thức bình an
        Chào ngày mới
        CNM365 Tình yêu cuộc sống
        Thảnh thơi vui cõi phúc được thanh nhàn.

        Lời vàng của Frank Herbert

        Bất kỳ con đường nào đi chính xác đến tận cùng của nó đều dẫn đến đỉnh điểm. Leo lên núi là để kiểm tra ngọn núi nhưng đứng trên đỉnh núi thì bạn không thể nhìn thấy ngọn núi. (Any road followed precisely to its end leads precisely nowhere. Climb the mountain just a little bit to test it’s a mountain. From the top of the mountain, you cannot see the mountainClassic Quotes by Frank Herbert (1920-1986) US writer.

        VỀ VỚI VÙNG CÁT ĐÁ
        Hoàng Kim


        Về nơi cát đá em ơi
        Mình cùng tỉnh thức những lời nhân gian

        Quê em thăm thẳm Tháp Chàm
        Biển xanh cát đá và rừng hoang sơ
        Hoa trên cát, núi Phổ Đà
        Tháp BÀ CHÚA NGỌC dẫu xa mà gần.

        Ta đi về chốn trong ngần
        Để thương cát đá cũng cần có nhau
        Dấu xưa mưa gió dãi dầu
        Đồng Xuân nắng ấm nhuốm màu thời gian.

        Đỉnh mây gặp buổi thanh nhàn
        Dịch cân kinh luyện giữa vùng non xanh
        Cát vàng, biển biếc, nắng thanh
        Bình Minh An Đức Hoàng Thành Trúc Lâm.

        Ảnh Soải Nguyễn. thật đẹp ! Cuộc đời vui hơn bởi những màu phổ rộng và tươi, luôn làm cho bức tranh đời bạn sáng đẹp. Cám ơn Soải Nguyễn. Nhị Hà Thuận Nam Ninh Thuận. Cảm ơn Trịnh Thế Hoan với nhiều khoảnh khắc đáng nhớ. Các bạn hãy tự do lắng nghe và khai mở năng lượng chính mình. Năng khiếu này của Hoan là thật quý. Chúc gia đình người thân và thầy bạn ngày mới vui khỏe. Mời xem tiếp Về nơi cát đá — cùng với Phúc Lê, Võ Văn TúTrần Văn Phong.

        NGƯỜI LÍNH GIÀ THỜI BÁC
        Hoàng Kim


        Thấm thoát thoi đưa vừa ngoảnh lại. Xuân nay mình đã tám mươi tròn. Bốn tư năm lẻ đi đánh giặc.  Hưu về tóc bạc vẫn lòng son. Tôi có anh Phạm Hồng người lính già thời Bác, người chính ủy sư đoàn cũ, thân như anh em ruột, ngày 10 tháng 9 Kỷ Hợi nhằm ngày 8 tháng 10 năm 2019 anh từ trần lúc 93 tuổi. Buổi khuya 16 tháng 2 năm nay (2020) tôi thảnh thốt dậy vì chuông reo giờ khuya, mấy lần trên số máy của anh nhưng tôi gọi lại không được. Hôm nay gọi lại thì chị Hảo vợ anh xác nhận là anh đã mất nhưng gia đình không báo tin vì anh em đồng đội ở xa (*) . Năm 2008, anh lúc 82 tuổi vẫn ghi thư cho tôi mà lời văn và câu thơ minh mẫn lắm. Anh thật vui vẻ, tráng kiện, lạc quan và thực sự là “người lính già đầu bạc, kể mãi chuyện Nguyên Phong“:  Câu chuyện về bộ đội anh Văn, người lính cụ Hồ, năm cha con ra trận. Câu chuyện về một gia đình quân nhân, thanh bạch, trung trinh, nặng lòng vì nước. Năm nay anh đã luống tuổi. Tôi nhớ anh chị Hồng Hảo cùng gia đình (xem ảnh) nên lần hồi
        tìm thư anh đọc lại  (Hoàng Kim). Thư và thơ anh như một lời ký thác.

        Hải Dương những ngày đầu năm 2008
        Út Kim thương nhớ!

        Xa em, càng nhớ những ngày này 35 năm trước, theo lệnh tổng động viên của Chủ tịch Nước, hàng chục vạn sinh viên của các trường đại học, cao đẳng trong cả nước đã xếp bút nghiên lên đường cùng cả nước “đánh cho Mỹ cút” như lời Bác Hồ dặn. Anh cùng đơn vị được đón em từ Trường Đại học Nông nghiệp cùng hàng ngàn anh em về huấn luyện chi viện chiến trường.

        Biết em là con út, mới lớn lên đã sớm mồ côi cha mẹ, ngày chỉ được ăn một bữa, áo chỉ mặc một manh … mà đã có chí học hành thành sinh viên đại học, tình nguyện vào chiến trường đánh Mỹ!

        Anh và đồng đội để em cùng đơn vị vào miền Nam đánh vài trận rồi gọi ra ngay để có kinh nghiệm về đội huấn luyện, góp sức đào tạo hàng vạn tiểu đội trưởng “khuôn vàng thước ngọc” của phân đội nhỏ nhất trong quân đội ta. Hàng vạn tiểu đội trưởng từ đoàn 568 anh hùng đã phụ trách hàng vạn tiểu đội với hơn mười vạn quân đi khắp chiến trường chống Mỹ xâm lược.

        Cùng lúc ấy, trong giai đoạn ác liệt nhất của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước năm 1972, đã có nhiều bạn sinh viên của em trong 81 đại đội vượt sông Thạch Hãn vào đánh giặc ở thành cổ Quảng Trị 81 ngày đêm… Sau này, cả nước và thế giới đều biết những người con “tiền trí thức” yêu quý của dân tộc và quân đội ta từ trường đại học hiên ngang đi thẳng ra chiến trường đánh Mỹ, trở thành những anh hùng bất tử với dòng Thạch Hãn:

        Đò xuôi Thạch Hãn xin chèo nhẹ
        Đáy sông còn đó bạn tôi nằm
        Có tuổi thanh xuân thành sóng nước
        Vỗ yên bờ bãi mãi ngàn năm.

        Em cùng với những bạn trí thức ngày ấy đã xứng đáng với lòng tin yêu và truyền thống của đoàn 568 làm tốt nhiệm vụ đào tạo tiểu đội trưởng cho chiến trường, rồi học tiếp đại học, lấy bằng tiến sĩ, về làm giám đốc trung tâm nghiên cứu khoa học nông nghiệp, ngày đêm gắn bó với Đông Nam Bộ, đồng bằng sông Cửu Long, Tây Nguyên và duyên hải miền Trung. Nay em lại làm giảng viên đại học, góp phần đào tạo những kỹ sư, thạc sỹ, tiến sỹ của hơn 45 triệu nông dân đã đang nuôi sống cả xã hội và đi lên công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn.

        Nhân năm mới, mừng hai em không ngừng tiến bộ và thành đạt trên con đường khoa học của mình, mừng hai cháu Nguyên Long nối tiếp truyền thống gia đình, luôn tiến bộ trưởng thành. Mong được đón các em và các cháu. Gửi các em những dòng tâm tình của anh trong trang thơ kèm đây nhân 80 mùa xuân.

        Anh chị Hồng, Hảo

        MỪNG TUỔI TÁM MƯƠI
        Phạm Hồng (năm 1980)

        Thấm thoát thoi đưa vừa ngoảnh lại
        Xuân nay mình đã tám mươi tròn
        Bốn tư năm lẻ đi đánh giặc
        Hưu về tóc bạc vẫn lòng son

        Nhớ buổi đầu vào Vệ quốc quân
        Dối nhà đi họp đã hơn tuần
        Kiểm tra sức khỏe năm phòng huyện
        Suýt bị trả về: chưa đủ cân!

        Trận đầu bố trí ở Cầu Bây
        Giáo búp đa sắc lẹm trong tay
        Đợi địch tràn sang là xốc tới
        “Đánh giáp lá cà” với giặc Tây.

        Trận hai chặn Pháp ở cầu Ghềnh
        Quê hương Bãi Sậy giáp Như Quỳnh
        Với khẩu súng trường, viên đạn thép
        Quần với thằng Tây cao lênh khênh

        Trận ba được nhận khẩu tiểu liên
        Với mười viên đạn một băng liền
        Chặn giặc từ đầu đường “ba chín”
        Thôn nghèo Yên Lịch dạ trung kiên!

        Vừa đánh Tây vừa cõng thương binh
        Vượt sông giá lạnh lúc bình minh
        Máu đồng đội thấm đầy quân phục
        Vẫn chẳng rời nhau nghĩa tử sinh!

        Thế rồi hơn bốn chục mùa xuân
        Chiến trường giục giã chẳng dừng chân
        Theo anh Văn, ngọn cờ Quyết thắng
        Bác Hồ cùng chúng cháu hành quân!

        Cả đời mãi miết cuộc trường chinh
        Ơn vợ, quê hương vẹn nghĩa tình
        Tần tảo nuôi con, chăm cha mẹ
        Vượt ngàn gian khó, giỏi mưu sinh!

        Pháp Mỹ chạy rồi, nước chửa yên
        Hai đầu biên giới lửa triền miên
        Năm cha con lại cùng thắng giặc
        Trên biên phía Bắc bảy năm liền.

        Trở về đội ngũ cựu chiến binh
        Cháu con đều tiến bộ, trưởng thành
        Cùng anh em tiếp vun truyền thống
        Chung tay làm rạng rỡ quê mình…

        Sức mạnh nhân dân và đồng đội
        Dựng làng văn hoá thật kiên trung
        Vượt bao thử thách hai thời đại
        Quê hương Tán Thuật xã anh hùng.

        Tám chục tuổi đời vẫn thanh xuân
        Sáu hai tuổi Đảng vẫn kiệm, cần
        Liêm chính làm theo lời Bác day
        Vinh nào bằng “công bộc nhân dân”

        Mười tám năm qua hưu chẳng nghỉ
        Đồng đội luôn về sum họp vui
        Mọi việc làm đều cùng suy nghĩ
        Đơm hoa, kết trái đẹp cho đời

        Vui thay mình đang tới tám hai
        Phía trước đường xuân vẫn rộng dài
        Nước mạnh, dân giàu, nhà hạnh phúc
        Ngẩng đầu thẳng bước tới tương lai.

        Xuân Mậu Tý 2008

        PHẠM HỒNG
        CCB nhà 8/17 đường Trần Khánh Dư, Bạch Đằng
        Phường Trần Phú, Thành phố Hải Dương; ĐT 0396620183.
        Bản trước đã đăng tại
        https://hoangkimlong.wordpress.com/2013/05/27/pham-hong-nguoi-linh-gia-thoi-bac/

        Phạm Hồng chính ủy sư đoàn 325 đã từ trần ngày 20 tháng 9 âm lịch Kỷ Hợi nhằm ngày 10 tháng 8 dương lịch năm 2019 hưởng thọ 93 tuổi, xem tiếp https://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-8-thang-10/

        NGUYỄN DU TIẾNG TRI ÂM
        Hoàng Kim

        Hồ Xuân Hương là ai ?
        Kiều Nguyễn luận anh hùng
        Thời Nam Hải Điếu Đồ
        Thời Hồng Sơn Liệp Hộ.

        Quang Trung phá quân Thanh
        Nguyễn Vương giành Gia Định
        Chiêu Thống bị bán đứng
        Đền Trung Liệt Thụy Khuê

        Nguyễn Du tiếng tri âm là bài 8 trong Nguyễn Du trăng huyền thoại là nghiên cứu lịch sử văn hóa của Hoàng Kim. Nguyễn Du tiếng tri âm là lời bình đối với kiệt tác của Nguyễn Du Tiếng đàn Kiều ở 4 cảnh ngộ.tại  truyện “Thúy Kiều”. Chính sử triều Nguyễn ghi “Du rất giỏi về thơ, làm thơ quốc âm rất hay, khi sang sứ nước Thanh về, có tập thơ “Bắc hành” và truyện “Thúy Kiều” lưu hành ở đời. Thúy Kiều nguyên mẫu là ai?  Hồ Xuân Hương là ai? “Tỏ ý” “Thuật ý kiêm trình hữu nhân Mai Sơn Phủ” của Hồ Xuân Hương tại Lưu Hương ký nói lên điều gì? “Nguyễn Du tiếng tri âm” góp một góc nhìn đối thoại sáng tỏ câu chuyện ấy. Nội dung trao đổi này gồm bốn ý: 1) Hồ Xuân Hương là ai? 2) Thúy Kiều luận anh hùng; 3) Thời Nam Hải Điếu Đồ; 4) Thời Hồng Sơn Liệp Hộ; Các chứng cứ lịch sử trong hai thời kỳ này của Nguyễn Du mà hiện nay đã hoàn toàn sáng tỏ: Quang Trung phá quân Thanh; Nguyễn Vương giành Gia Định; Chiêu Thống bị bán đứng; Đền Trung Liệt Thụy Khuê ; Nguyễn Du tiếng tri âm là bài 8 trong Nguyễn Du trăng huyền thoại là nghiên cứu lịch sử văn hóa của Hoàng Kim. Nguyễn Du tiếng tri âm là lời bình đối với kiệt tác của Nguyễn Du Tiếng đàn Kiều ở 4 cảnh ngộ.tại  truyện “Thúy Kiều”. Chính sử triều Nguyễn ghi “Du rất giỏi về thơ, làm thơ quốc âm rất hay, khi sang sứ nước Thanh về, có tập thơ “Bắc hành” và truyện “Thúy Kiều” lưu hành ở đời. Thúy Kiều nguyên mẫu là ai?  Hồ Xuân Hương là ai? “Tỏ ý” “Thuật ý kiêm trình hữu nhân Mai Sơn Phủ” của Hồ Xuân Hương tại Lưu Hương ký nói lên điều gì? “Nguyễn Du tiếng tri âm” góp một góc nhìn đối thoại sáng tỏ câu chuyện ấy. Nội dung trao đổi này gồm bốn ý: 1) Hồ Xuân Hương là ai? 2) Thúy Kiều luận anh hùng; 3) Thời Nam Hải Điếu Đồ; 4) Thời Hồng Sơn Liệp Hộ; Các chứng cứ lịch sử trong hai thời kỳ này của Nguyễn Du tới hiện nay thông tin từ mộc bản triều Nguyễn đã giúp tích hợp rõ . Nguyễn Du tiếng tri âm ối Nguyễn Du Hồ Xuân Hương, rõ ẩn ngữ văn chương lắng đọng.

        Từ Hải Thúy Kiều luận anh hùng “Chút riêng chọn đá thử vàng. Biết đâu mà gửi can tràng vào đâu? Còn như vào trước ra sau. Ai cho kén chọn vàng thau tại mình? Từ rằng: Lời nói hữu tình. Khiến người lại nhớ câu Bình Nguyên Quân. Lại đây xem lại cho gần. Phỏng tin được một vài phần hay không? Thưa rằng: Lượng cả bao dong. Tấn Dương được thấy mây rồng có phen“. Từ Hải khen Thúy Kiều: “Khen cho con mắt tinh đời. Anh hùng đoán giữa trần ai mới già. Một lời đã biết đến ta. Muôn chung nghìn tứ cũng là có nhau. Hai bên ý hợp tâm đầu. Lúc thân chẳng lọ là cầu mới thân. Ngõ lời nói với băng nhân. Tiền trăm lại cứ nguyên ngân phát hoàn. Buồng riêng sửa chốn thanh nhàn. Đặt giường thất bảo vây màn bát tiên. Trai anh hùng, gái thuyền quyên. Phỉ nguyền sánh phượng đẹp duyên cưỡi rồng“. ”Thơ Nôm Hồ Xuân Hương có bài đề Miếu Sầm Thái thú “Ngước mắt trông lên thấy bảng treo. Kìa đền Thái thú đứng cheo leo. Ví đây đổi phận làm trai được. Sự nghiệp anh hùng há bấy nhiêu” và bài thơ Hồ Xuân Hương đối đáp ở ông nghè ở Nghệ An. “Giương oai giễu võ thật là kinh Danh tiếng bao lăm đã tận rồi  Thoáng ngửi thoáng ghê hơi hương lửa Tài trí ra sao hỏi tính tình”. Kiều Nguyễn luận anh húng sự thật và huyền thoại nói lên điều gì? Mời quý thầy bạn dành thời gian đọc và suy ngẫm, xem tiếp
        https://hoangkimlong.wordpress.com/category/nguyen-du-tieng-tri-am/

        Vị thiền sư Linh Nhạc Phật Ý tại Tổ Đình chùa cổ Thủ Đức trong giấc mơ lạ
        Nguyễn Du nửa đêm đọc lại đã khuyên tôi viết Nguyễn Du trăng huyền thoại bằng cách lập “Nguyễn Du niên biểu luận” cuộc đời và thời thế Nguyễn Du để tìm hiểu về Người. Theo vị Thiền sư này thì dấu vết chứng cứ sự thật hàng năm của Nguyễn Du là chỉ dấu đáng tin cậy của thời ấy về những sự kiện trọng yếu của thời thế đã gợi ý chi phối thế xuất xử của Nguyễn Du bình sinh và hành trạng, để hậu thế chúng ta có thể hiểu đúng sự thật và huyền thoại về ông. Những sự kiện chính tại đàng Trong và đàng Ngoài với các nước liên quan trong hệ quy chiếu lấy chính Nguyễn Du và gia tộc của ông làm trung tâm sẽ là dẫn liệu thông tin thực sự có ích để thấu hiểu chính xác ẩn ngữ Truyện Kiều, lịch sử, văn hóa, con người, bối cảnh hình thành kiệt tác “300 năm nữa chốc mòng Biết ai thiên ha khóc cùng Tố Như” xem tiếp http://hoangkimlong.wordpress,com/category/nguyen-du-trang-huyen thoại

        Tác phẩm bao gồm chín bài, mục lục như sau: 1
        Nguyễn Du thơ chữ Hán Kiếm bút thấu tim Người, Đấng danh sĩ tinh hoa, Nguyễn Du khinh Thành Tổ, Bậc thánh viếng đức Hòa 2 Nguyễn Du tư liệu quý Linh Nhạc thương người hiền, Trung Liệt đền thờ cổ, “Bang giao tập” Việt Trung, Nguyễn Du niên biểu luận 3 Nguyễn Du Hồ Xuân Hương “Đối tửu” thơ bi tráng, “Tỏ ý” lệ vương đầy, Ba trăm năm thoáng chốc, Mại hạc vầng trăng soi. 4 Nguyễn Du Nguyễn Công Trứ Uy Viễn “Vịnh Thúy Kiều”, Tố Như “Đọc Tiểu Thanh”, Bến Giang Đình ẩn ngữ, Thời biến nhớ người xưa. 5 Nguyễn Du thời Tây Sơn Mười lăm năm tuổi thơ, Mười lăm năm lưu lạc, Thời Hồng Sơn Liệp Hộ, Tình hiếu thật phân minh 6 Nguyễn Du làm Ngư Tiều Câu cá và đi săn, Ẩn ngữ giữa đời thường, Nguyễn Du ức gia huynh, Hành Lạc Từ bi tráng 7 Nguyễn Du thời nhà Nguyễn Mười tám năm làm quan, Chính sử và Bài tựa, Gia phả với luận bàn. Bắc hành và Truyện Kiều 8 Nguyễn Du tiếng tri âm Hồ Xuân Hương là ai, Kiều Nguyễn luận anh hùng, Thời Nam Hải Điếu Đồ, Thời Hồng Sơn Liệp Hộ 9 Nguyễn Du trăng huyền thoạiĐi thuyền trên Trường Giang,Tâm tình và Hồn Việt, Tấm gương soi thời đại. Mai Hạc vầng trăng soi,

        Tôi viết
        Nguyễn Du trăng huyền thoại cho những ai vốn thích Nguyễn Du và Truyện Kiều nhưng chỉ có sách Truyện Kiều và một ít bộ sách quý có liên quan mà chưa thể có thời gian đào sâu tìm hiểu về bộ kiệt tác văn chương Việt kỳ lạ này với những ẩn ngữ thời thế cuộc đời Nguyễn Du lắng đọng vào trang sách. Bạn đọc để đỡ tốn công, tôi xin có ít lời hướng dẫn cách đọc chùm 9 bài này như sau. Đầu tiên bạn nên đọc bảng Mục lục chín bài viết này và xác định mình cần đọc bài nào trong chín bài viết ấy sau đó bấm thẳng vào đường dẫn có tại trang ấy liên kết với chín bài; Thứ hai mời bạn đọc ngay bài bảy mục 2 va 3 đó là Chính sử và Bài tựa/ Gia phả với luận bàn. Muốn hiểu thêm Nguyễn Du trăng huyền thoại cần tìm đọc những sách và tác giả giới thiệu trong 9 bài này với sự định kỳ cập nhật. Thứ ba mời xem trước a) Nguyễn Du là danh sĩ tinh hoa Việt Nam thời nhà Nguyễn; b) Mộc bản triều Nguyễn là di sản tư liệu của Việt Nam được Uỷ ban tư vấn quốc tế thuộc UNESCO công nhận là di sản tư liệu thế giới trong Di sản thế giới tại Việt Nam được tích hợp và vận dụng; c) Tổng luận Nguyễn Du và Truyện Kiều. Đây là ba suy ngẫm chọn lọc lắng đọng.

        a) Nguyễn Du là danh sĩ tinh hoa Việt Nam thời nhà Nguyễn, là minh sư hiền tài lỗi lạc, nhà thơ lớn danh nhân văn hóa thế giới, hình mẫu con người Việt Nam thuộc văn hóa tương lai, tấm gương trong về phép ứng xử chí thiện, nhân đạo và minh triết giữa thời nhiễu loạn; là một biểu trưng của dòng văn chương ưu thời thứ nhất khi chúng ta luận bàn
        Có ba dòng văn chương. Ông là tác giả của.Truyện Kiều và Bắc hành tạp lục, bài học tâm tình Việt đã thấm sâu vào hồn Việt, và lan tỏa khắp thế giới. Nguyễn Du sinh ngày 3 tháng 1 năm 1766, nhằm ngày 23 tháng 11 năm Ất Dậu, tại phường Bích Câu, ở Thăng Long, Hà Nội, mất ngày 16 tháng 9 năm 1820 nhằm ngày 10 tháng tám năm Canh Thìn.

        b) Mộc bản triều Nguyễn là di sản tư liệu của Việt Nam được Uỷ ban tư vấn quốc tế (IAC) thuộc UNESCO công nhận là di sản tư liệu thế giới vào ngày 31/7/2009. Đây là một loại hình tài liệu đặc biệt quý hiếm không chỉ ở Việt Nam mà còn hiếm có trên toàn thế giới. Mộc bản triều Nguyễn là những văn bản chữ Hán – Nôm được khắc trên gỗ để in các loại sách lưu hành tại Việt Nam Xem tiếp >>

          Dạy và học 7 tháng 10(07-10-2021)


        Nhớ Yên Tử Quảng Ninh

        CHÀO NGÀY MỚI 7 THÁNG 10
        Hoàng Kim

        CNM365 Tình yêu cuộc sốngLên Trúc Lâm Yên Tử; Tìm về đức Nhân Tông; Đồng đội cùng tháng năm; Nguyễn Du thơ chữ Hán; Thầy Ngoạn Hồ Núi Cốc; Có một ngày như thế; Sông Thương; Ngày 7 tháng 10 năm 1947, Chiến tranh Đông Dương: Một binh đoàn quân dù Pháp nhảy xuống Bắc Kạn để tiến công Việt Minh, mở màn Chiến dịch Việt Bắc. Ông Nguyễn Văn Tố, Chủ tịch Quốc hội khóa I, Bộ trưởng Cứu tế Xã hội, bị bắt và bị quân Pháp giết. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đại tướng Võ Nguyên Giáp giai thoại thoát hiểm. Ngày 7 tháng 10 năm 1952, ngày sinh Vladimir Vladimirovich Putin, tổng thống Nga (2000 ÷ 2008, 2012 ÷ 2016, 2018 ÷ 2022), thủ tướng Nga (2008 ÷ 2012). Ngày 7 tháng 10 năm 1885, ngày sinh Niels Bohr, nhà vật lý người Đan Mạch, được nhận giải Nobel (mất năm 1962). Bài viết chọn lọc: Lên Trúc Lâm Yên Tử; Tìm về đức Nhân Tông; Đồng đội cùng tháng năm; Nguyễn Du thơ chữ Hán; Thầy Ngoạn Hồ Núi Cốc; Có một ngày như thế; Bài đồng dao huyền thoại; Bài thơ Viên đá Thời gian; Thầy Ngoạn Hồ Núi Cốc; Bài học Phủ Khai Phong; Thơ Tứ tuyệt Hoàng Kim; Quả táo Apple Steve Jobs; Hoàng Gia Cương thơ hiền; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.comhttp://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-7-thang-10/

        LÊN TRÚC LÂM YÊN TỬ
        Hoàng Kim

        Tỉnh thức giữa đêm thiêng Yên Tử
        Để thấu hiểu đức Nhân Tông
        Ta thành tâm đi bộ
        Lên tận đỉnh chùa Đồng
        Tâm sáng Ức Trai trong tựa ngọc
         
        “Yên sơn sơn thượng tối cao phong
        Tài ngũ canh sơ nhật chính hồng
        Vũ trụ nhãn cùng thương hải ngoại
        Tiếu đàm nhân tại bích vân trung
        Ủng môn ngọc sóc sâm thiên mẫu
        Quải ngọc châu lưu lạc bán không
        Nhân miếu đương niên di tích tại
        Bạch hào quang lý đổ trùng đồng” (1)
         

        Non thiêng Yên Tử đỉnh kỳ phong
        Trời mới ban mai đã rạng hồng
        Vũ trụ mắt soi ngoài biển cả
        Nói cười lồng lộng giữa không trung
        Giáo trúc quanh chùa giăng nghìn mẫu
        Cỏ cây chen đá rũ tầng không
        Nhân Tông bảo tháp còn lưu dấu
        Mắt sáng hào quang tỏa ánh đồng (2)  

        Non thiêng Yên Tử
        Nghìn năm Thăng Long, Đông Đô, Hà Nôi
        Bảy trăm năm đức Nhân Tông
        Non sông bao cảnh đổi
        Kế sách một chữ Đồng
        Lồng lộng gương trời buổi sớm
        Trong ngần, thăm thẳm, mênh mông ….  

        1) Thơ Nguyễn Trãi
        2) Bản dịch thơ Nguyễn Trãi của Hoàng Kim  

        TRÚC LÂM TRẦN NHÂN TÔNG
        Hoàng Kim

        Trần Nhân Tông (1258-1308)  là một trong những vị vua anh minh nhất của lịch sử Việt Nam. Người tên thật là Trần Khâm, vua Trần thứ ba (sau vua cha Trần Thánh Tông và trước vua Trần Anh Tông). Với 50 năm cuộc đời, vua Phật Trần Nhân Tông đã kịp làm được ít nhất năm việc lớn hiếm thấy và khó ai bì kịp ở mọi dân tộc và mọi thời đại: 1) Minh quân lỗi lạc, làm vua 15 năm (1278 – 1293) trực tiếp lãnh đạo cuộc kháng chiến hai lần đánh thắng quân Nguyên Mông là đội quân xâm lược hùng mạnh nhất thời đó; 2) Tổ sư thiền phái Trúc Lâm và Thái Thượng Hoàng 15 năm (1294-1306) là vua Phật Việt Nam. 3) Nhà văn hóa và nhà thơ kiệt xuất với kiệt tác thơ Thiền Trần Nhân Tông và thắng tích Trúc Lâm Yên Tử; 4) Người thầy chiến lược vĩ đại muôn đời của kế sách một chữ “đồng” “vua tôi đồng lòng, toàn dân đồng sức”, nhược thắng cường, yếu thắng mạnh, nước nhỏ thắng nước lớn, sự nghiệp mở nước và thống nhất non sông Việt bằng vương đạo, thuận thời, thuận người . 5) Nhà trị loạn kỳ tài đã hưng thịnh nhà Trần và cứu nguy cho nước Việt ở thời khắc quyết định, biến nguy thành an, biến những điều không thể thành có thể.

        Kiệt tác thơ thiền đức Nhân Tông là đỉnh cao thơ Thiền thời Trần:

        Cư trần lạc đạo phú
        Đại Lãm Thần Quang tự
        Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca
        Đăng Bảo Đài sơn
        Đề Cổ Châu hương thôn tự
        Đề Phổ Minh tự thủy tạ
        Động Thiên hồ thượng
        Họa Kiều Nguyên Lãng vận
        Hữu cú vô cú
        Khuê oán
        Lạng Châu vãn cảnh
        Mai
        Nguyệt
        Nhị nguyệt thập nhất nhật dạ
        Quỹ Trương Hiển Khanh xuân bính
        Sơn phòng mạn hứng
        I
        II
        Sư đệ vấn đáp
        Tán Tuệ Trung thượng sĩ
        Tảo mai
        I
        II
        Tặng Bắc sứ Lý Tư Diễn
        Tây chinh đạo trung (tái chinh Ai Lao)
        Thiên Trường phủ
        Thiên Trường vãn vọng
        Tống Bắc sứ Lý Trọng Tân, Tiêu Phương Nhai
        Tống Bắc sứ Ma Hợp, Kiều Nguyên Lãng
        Trúc nô minh
        Tức sự
        I
        II
        Vũ Lâm thu vãn
        Xuân cảnh
        Xuân hiểu
        Xuân nhật yết Chiêu Lăng
        Xuân vãn

        Lên non thiêng Yên Tử, khảo sát điền dã những chứng tích lịch sử văn hóa lưu dấu mãi với thời gian. “Soi sáng lại chính mình là phận sự gốc, chẳng từ nơi khác mà được.” (Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc.). Đức Nhân Tông viết về sự đạt ngộ với người thầy là Tuệ Trung Thượng Sĩ . “Nghe xong, tôi thông suốt được đường vào, bèn vén áo thờ Ngài làm thầy”. “Soi sáng lại chính mình” chứ không tìm kho báu ở đâu khác là trí tuệ siêu việt của vua Phật Trúc Lâm Yên Tử Trần Nhân Tông.

        ;

        Kinh Dịch xem chơi, yêu tính sáng yêu hơn châu báu.
        Sách Nhàn đọc giấu, trọng lòng rồi trọng nữa hoàng kim…

        Trần Nhân Tông

        TÌM VỀ ĐỨC NHÂN TÔNG
        Hoàng Kim


        Người ơi con đến đây tìm
        Non thiêng Yên Tử như tranh họa đồ
        Núi cao trùng điệp nhấp nhô
        Trời xuân bảng lãng chuông chùa Hoa Yên

        Thầy còn dạo bước cõi tiên
        Con ươm mầm sống xanh thêm ruộng vườn
        Mang cây lộc trúc về Nam
        Ken dày phên giậu ở miền xa xôi

        Cư trần lạc đạo, Người ơi
        Tùy duyên vui đạo sống đời thung dung
        Hành trang Thượng sĩ Tuệ Trung
        Kỳ Lân thiền viện cành vươn ra ngoài

        An Kỳ Sinh trấn giữa trời
        Thơ Thiền lưu dấu muôn đời nước non …

        LÊN TRÚC LÂM YÊN TỬ
        Hoàng Kim


        Lên non thiêng Yên Tử
        Đêm trắng và bình minh
        Khi nhớ miền đất thiêng
        Lại thương vùng trời thẳm

        Đi đường thấu non cao
        Tầm nhìn ôm biển rộng
        Thương Nhân Tông Bảo Sái
        Đỉnh mây vờn Trúc Lâm

        Dạo chơi non nước Việt
        Non xanh bên bạn hiền
        Thung dung cùng cây cỏ
        Xuống núi thăm người quen.

        ĐỒNG ĐỘI CÙNG THÁNG NĂM
        Kính anh Nguyễn Mạnh Đẩu
        Hoàng Kim


        Đọc “
        Vị tướng viết văn
        Tác giả Nguyễn Chí Tình
        Thân mến tặng Nguyễn Mạnh Đẩu
        “. (1)
        Mà lặng người, rưng rưng nước mắt:

        Mười sáu tuổi, áo vải đầu trần
        Khoác ba lô lên đường nhập ngũ
        Anh không nói văn chương.
        Đường hành quân lội suối băng rừng
        Trận chiến

        xông lên mịt mù bom đạn
        Anh không nói văn chương.
        Mím chặt môi nghe lời trăng trối cuối cùng
        Và vuốt mắt cho người đồng đội
        Anh không nói văn chương.
        Trong căn hầm chỉ huy
        Trước biết bao éo le căng thẳng
        Sinh mệnh anh em và lòng căm thù sâu thẳm
        Anh không nói văn chương.
        .
        Anh không nói văn chương
        Nhưng tất cả, còn đây tất cả
        Như rễ hút đất lành để nuôi hoa lá
        Như trăm dòng suối chảy từ rừng sâu
        Để hôm nay
        Ngồi trong gian phòng với mái tóc ngả màu
        Hay ngước nhìn bầu trời quê xanh như ngày xưa ấy.

        Tất cả đang sống dậy
        Thành ngọn thác trào lên
        Dồn dập nhịp đời, dồn dập nhịp tim
        Như cuộc đời bắt anh phải viết
        Như muôn người bắt anh phải viết
        Mà anh không cần biết
        Đó có là văn chương?

        Nhà thơ nào từng nói thế:
        “Một cây chông” đánh Mỹ
        Vẫn hơn “Ngàn trang giấy” văn chương
        Còn anh
        Anh đã đi biết mấy nẻo đường
        Khói lửa nắng mưa, tấm thân dầu dãi
        Đã trải những tháng ngày ưu tư khắc khoải
        Thì điều khác thường lại hóa đời thường:
        Anh đến với văn chương
        Để chẳng bao giờ hết được văn chương !
        ” (1)

        2

        Anh Hoàng Trung Trực đời lính, là anh trai em,
        Đồng đội thân của anh, cũng mười bảy tuổi lên đường
        Lớp anh trước, lớp em sau
        Em trong lứa sinh viên 1971
        trang sách soi trang đời
        Thắp đèn lên đi em
        Nhớ vầng trăng ngọn lửa
        Xếp bút nghiên lên đường ra trận.

        Tổ chiến đấu của em có bốn người
        Xuân và Chương nằm lại
        Trung với em về Trường sau chiến tranh
        Lửa miền Nam vừa tắt chưa thôi
        Hận Nam Quan “Nước mắt Vị Xuyên”
        Nhiều đồng đội em hóa đá.

        Anh Tư Trực của em trở lại đời thường
        ‘Mảnh đạn trong người’ ‘Nhớ bạn’
        ‘Bền chí’ ‘Hát ru con bằng khúc quân hành”

        Đối thoại với Thiền sư‘ ;Trạng Trình” (2)
        Anh ấy làm ông già phúc hậu sau chiến tranh
        Chăm lo điều lành, việc lành cho bà con phường, quận
        Thật nhớ ngày anh lặn lội vào thăm
        Đồng đội cùng tháng năm
        http://hoangkimlong.wordpress.com/category/dong-doi-cung-thang-nam/

        3

        Qua thơ của bạn Nguyên Hùng
        Kể về vị tướng giữa đời thường
        Anh và em bất ngờ kết nối
        Anh nhớ tường tận từng chút về gia đình em
        Thấu suốt mọi điều hay đồng đội
        Hiểu tường tận uẩn khúc trăm năm…
        Quốc Công đạo làm tướng
        Vị tướng của lòng dân
        Ban mai đứng trước biển
        Thăm thẳm một tầm nhìn.

        4

        Trung tướng Nguyễn Mạnh Đẩu là Người
        Sinh tử giữa chiến trường
        Đồng đội cùng tháng năm
        Biết mình và biết người
        Có ba dòng văn chương
        Văn chương ngọc cho đời.

        5

        Anh đến với văn chương
        Để chẳng bao giờ hết được văn chương !


        Tài liệu dẫn:

        (1) XIN KHOE MỘT CHÚT
        Nguyễn Mạnh Đẩu

        Nhà thơ, Nhà văn, Nhà nghiên cứu Nguyễn Chí Tình ( tên thật Nguyễn Đức Nhật ), sinh 1935, quê Nghi Trung ( Nghi Lộc-Nghệ An ). Ông là cháu nội Chí sĩ Nguyễn Đức Công ( tức Hoàng Trọng Mậu ), con trai Nhà giáo, Nhà thơ Nguyễn Đức Bính, cháu Nhà phê bình văn học Hoài Thanh (Nguyễn Đức Nguyên). Hơn tôi 13 tuổi, là đồng hương huyện Nghi Lộc, ông Nguyễn Chí Tình thân thiết tôi từ nhiều năm nay. Ông viết tặng tôi bài thơ, đăng trong tập CÓ MỘT MIỀN QUÊ ( NXB Thanh niên – 2015). Tôi xin được khoe với bè bạn Fb.

        VỊ TƯỚNG VIẾT VĂN
        (Thân mến tặng Nguyễn Mạnh Đẩu)
        Tác giả Nguyễn Chí Tình


        Mười sáu tuổi, áo vải đầu trần
        Khoác ba lô lên đường nhập ngũ
        Anh không nói văn chương.
        Đường hành quân lội suối băng rừng
        Trận chiến xông lên mịt mù bom đạn
        Anh không nói văn chương.
        Mím chặt môi nghe lời trăng trối cuối cùng
        Và vuốt mắt cho người đồng đội
        Anh không nói văn chương.
        Trong căn hầm chỉ huy
        Trước biết bao éo le căng thẳng
        Sinh mệnh anh em và lòng căm thù sâu thẳm
        Anh không nói văn chương.
        Anh không nói văn chương

        Nhưng tất cả, còn đây tất cả
        Như rễ hút đất lành để nuôi hoa lá
        Như trăm dòng suối chảy từ rừng sâu
        Để hôm nay
        Ngồi trong gian phòng với mái tóc ngả màu
        Hay ngước nhìn bầu trời quê xanh như ngày xưa ấy.

        Tất cả đang sống dậy
        Thành ngọn thác trào lên
        Dồn dập nhịp đời, dồn dập nhịp tim
        Như cuộc đời bắt anh phải viết
        Như muôn người bắt anh phải viết
        Mà anh không cần biết
        Đó có là văn chương?

        Nhà thơ nào từng nói thế
        “Một cây chông” đánh Mỹ
        Vẫn hơn“Ngàn trang giấy” văn chương
        Còn anh
        Anh đã đi biết mấy nẻo đường
        Khói lửa nắng mưa, tấm thân dầu dãi
        Đã trải những tháng ngày ưu tư khắc khoải
        Thì điều khác thường lại hóa đời thường:
        Anh đến với văn chương
        Để chẳng bao giờ hết được văn chương !

        (2)
        Hoàng Trung Trực đời línhhttps://hoangkimlong.wordpress.com/category/hoang-trung-truc-doi-linh/
        (3)
        Đồng đội cùng tháng nămhttp://hoangkimlong.wordpress.com/category/dong-doi-cung-thang-nam/

        *

        CÂU CHUYỆN ẢNH THÁNG MƯỜI
        Hoàng Kim

        Bảo tồn và phát triển ON THIS DAY CNM365 Tình yêu cuộc sống
        Câu chuyện ảnh tháng Mườihttps://hoangkimlong.wordpress.com/category/cau-chuyen-anh-thang-muoi/

        CÓ MỘT NGÀY NHƯ THẾ
        Hoàng Kim


        Có một ngày như thế
        Cuộc đời nâng trang văn
        Lan tỏa niềm vui mới
        Lộc đời thêm tình thân

        Giếng ngọc mãi thanh xuân
        Người hiền gieo chí thiện
        Thung dung giữa đời thường
        An nhiên lời cảm mến.

        xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/co-mot-ngay-nhu-the/

        Có một ngày như thế.
        Thầy bạn là lộc xuân.
        Hợp tác đào tạo tốt.
        Nơi ấy xa mà gần.

        Chúc mừng em vững bước
        Đi về phía  bình minh
        Mừng những người hướng đạo
        Giúp em vượt chính mình.

        Thắp sáng một niềm tin
        Tỏa ngời như nắng ấm
        Ngày thước đo cố gắng
        Chúc mừng em thành công.

        Có một ngày như thế.
        Nỗ lực òa niềm vui.
        Chào lớp thầy cô trẻ.
        Thênh thang trên đường đời.

        Có một ngày như thế.
        Người thân bên mẹ hiền.
        Đời vui người trẻ lại.
        Lộc Vừng thắm đầy sân.

        Có một ngày như thế
        Giữa cuộc đời yêu thương
        Em đi tìm điều hay
        Tôi bày em việc tốt.

        Đời vui người trẻ lại
        Thoải mái bên bạn hiền
        Trường tôi thành điểm tựa
        Giấc mơ lành bay lên.

        Có một ngày như thế.
        Vui em nay thành công.
        Nụ cười tươi rạng rỡ.
        Ngày mỗi ngày trưởng thành.

        Phúc hậu và thực việc
        Tận tụy với nghề nông
        Thân thiết tình thầy bạn
        Chăm chút từng trang văn.

        Có một ngày như thế
        Đường xa về thăm Thầy
        Niềm vui ngời nét mặt
        Thầy trẻ lại vì vui.

        Ảnh đẹp và thật tươi
        Khoảnh khắc mà vĩnh cửu
        Thay bao lời muốn nói
        Học bởi hành hôm nay.

        2017-10-14_Noi voi ban hien

        Hoa Bình Minh Hoa Lúa


        CUỘC CHIẾN TRANH ĐÔNG DƯƠNG
        Hoàng Kim

        Theo Bernard Fall, ” tờ mờ sáng ngày 7 tháng 10 năm 1947, Liên đoàn không vận “S” gồm 1,137 người lính bất ngờ nhẩy dù xuống bộ chỉ huy Việt Minh tại Bắc Kạn, Chợ Mới và Chợ Đồn. Họ lấy được bức thư của Hồ Chí Minh mới viết xong chưa kịp ký, bắt được một ông bộ trưởng và các cố vấn Nhật, Đức quốc xã (những người Đức này hợp tác với Nhật trước đây nay trốn theo VM sợ đồng minh bắt xử tội) . Hồ Chí Minh và các lãnh đạo đã trốn thoát. Các kho hàng rơi vào tay Pháp cùng với 200 con tin Pháp-Việt mà Việt Minh mang theo khi họ rút khỏi Hà Nội cuối năm 1946.”

        Ngày 7 tháng 10 năm 1947 là ngày mở màn Chiến dịch Việt Bắc trong Chiến tranh Đông Dương. Một binh đoàn quân dù Pháp nhảy xuống Bắc Kạn để tiến công Việt Minh. Ông Nguyễn Văn Tố, Chủ tịch Quốc hội khóa I, Bộ trưởng Cứu tế Xã hội, đã bị bắt và bị quân Pháp giết. Chủ tịch Hồ Chí Minh và tướng Võ Nguyên Gi&aacutXem tiếp >>

          Dạy và học 6 tháng 10(06-10-2021)


        DẠY VÀ HỌC 6 THÁNG 10
        Hoàng Kim

        CNM365 Tình yêu cuộc sốngBài đồng dao huyền thoại; Bài thơ Viên đá Thời gian; Sông Thương; Thầy Ngoạn Hồ Núi Cốc; Bài học Phủ Khai Phong; Thơ Tứ tuyệt Hoàng Kim; Quả táo Apple Steve Jobs; Hoàng Gia Cương thơ hiền; Ngày 6 tháng 10 năm 1942 là ngày sinh của Xuân Quỳnh, nữ thi sĩ Việt Nam, mất năm 1988. Ngày 6 tháng 10 năm 1887 là ngày sinh Phan Khôi, nhà báo, học giả Việt Nam, mất năm 1959. Ngày 6 tháng 10 năm 1976, Thủ tướng Quốc vụ viện Trung Quốc Hoa Quốc Phong ra lệnh cho công an bắt giữ Tứ nhân bang cùng những người cộng tác.Sự kiện này là bước ngoặt quyết định thay đổi vận mệnh Trung Quốc sau khi Mao Trạch Đông mất, đánh dấu sự kết thúc của Cách mạng Văn hóa. Bài viết và hình ảnh tuyển chọn ngày 6 tháng 10: Bài thơ Viên đá Thời gian; Bài đồng dao huyền thoại; Sông Thương; Thầy Ngoạn Hồ Núi Cốc; Bài học Phủ Khai Phong; Thơ Tứ tuyệt Hoàng Kim; Quả táo Apple Steve Jobs; Hoàng Gia Cương thơ hiền;Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-6-thang-10/

        BÀI ĐỒNG DAO HUYỀN THOẠI
        Hoàng Kim

        Người trồng cây hạnh người chơi
        Ta trồng cây đức để đời mai sau
        Tu đâu cho bằng tu nhà
        Thờ Cha kính Mẹ ấy là chân tu.

        *

        Cười nhiều Giận ít
        Vui nhiều Lo ít
        Làm nhiều Nói ít
        Đi nhiều Ngồi ít
        Rau nhiều Thịt ít
        Chay nhiều Mặn ít
        Chua nhiều Ngọt ít
        Tắm nhiều Lười ít
        Thiện nhiều Tham ít

        *

        Phúc hậu và an nhiên
        Trái ý không nóng giận
        Thức ngủ cần hài hòa
        An lành môi trường sống
        Lao động và nghỉ ngơi
        Chín điều lành hạnh phúc
        Minh triết cho mỗi ngày
        Bạn gieo lành gặt thiện
        Yêu thương trong tầm tay.

        *

        Dây dã tường vi thật dẻo dai
        Ba con ngỗng trong một đàn
        Một bay về Đông, một bay Tây
        Và một bay trên tổ chim cúc cu.

        *

        Mình ghé thăm nhau chốn núi non
        Vàng ươm đồng rộng nắng lên hương
        Khoai ngon, lạc béo thơm xôi đỗ
        Mai núi chiều buông vọng nhạc rừng

        *

        Thủy vốn mạch sông nước có nguồn.
        Chính Trung tiền hậu đổi nhau luôn.
        Nụ cười Nghê Việt luôn đầy đặn.
        Mai với Bồ Đề ẩn sau lưng.
        Tóc nhuốm bạch kim phơi nắng hửng
        Da pha hồng ngọc trãi mưa nhuần.
        Hoa Người, Hoa Đất vui thầy bạn.
        Phước Đức mừng ai thắng tuổi trăm.

        Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là goc-mai-vang-truoc-ngo.jpg


        Thanh thản an vui dạo dọn vườn
        Vui thầy mừng bạn ngát thêm hương
        Đường xuân nhàn hạ phai mưa nắng
        Tâm sáng an lành trải gió sương
        Thoắt đó vườn thơm nhiều quả ngọt
        Mới hay nhà phước lắm con đường
        An nhiên vô sự là tiên cảnh
        Sớm Xuân mai nở nắng vàng ươm

        *

        Tách cà phê ban mai
        Gió mù sương đầy núi
        Suối nguồn thao thiết chảy
        Nhạc rừng đầy tiếng chim.

        xem tiếp
        https://hoangkimlong.wordpress.com/category/bai-dong-dao-huyen-thoai/

        BÀI THƠ VIÊN ĐÁ THỜI GIAN
        Hoàng Kim

        Anh Phan Chí Thắng từ Hà Nội đã tìm đến thăm chúng tôi ở Trảng Bom Đồng Nai, sau đó hai anh em đi xe đò tìm về thăm những người bạn ở góc khuất Đức Linh. Hoàng Kim đã nối vần thơ anh Phan Chí Thắng và chép lại bài thơ viên đá thời gian: ” Hình như gặp lại mới hương / Ngựa già máng cỏ nhớ đường cỏ hoa / Ta tìm gặp bạn đường xa/ Tưởng là thăm bạn hoá ra thăm mình/ . Đêm dài xoè một bình minh / Hoa NgườiHoa ĐấtÂn tìnhSớm Xuân. Sau một thời gian, hôm nay, (ngày 29 tháng 8 âm lịch, ngày giỗ cha tôi. Cụ mất vì bom Mỹ năm 1968), anh Phan Chí Thắng gọi điện và gửi cho tôi lưu thêm một số hình ảnh tư liệu cá nhân. Bài thơ Viên đá Thời gianBài đồng dao huyền thoại này được lưu lại https://hoangkimlong.wordpress.com/category/bai-tho-vien-da-thoi-gian/

        1

        Bài thơ viên đá thời gian gọi
        Một tiếng kêu vang dội thấu trời
        Tháng năm thoáng chốc nhìn trở lại
        Hạc tùng thảng thốt nắng lên hơi

        2

        Đầu xuân gặp bạn thật mừng vui
        Rượu ngọt trà thơm sóng sánh mời
        NƯỚC suối ban mai trong tựa ngọc
        OANH vàng CÚC tím nắng xuân tươi.

        MÂY TRẮNG quyện lưng trời lãng đãng
        Thiên NGA từng cặp nhởn nhơ bay
        Nhớ xưa CHIẾN SỰ vùng đất lửa
        HÒA bình về lại Chứa Chan nay.

        Sóng nhạc yêu thương lời cảm mến
        KIM Kiều tái ngộ rộn ràng vui
        Anh HÙNG thanh thản mừng “Xuân cảm”
        “Đè nghiêng ngọn gió đọc thơ chơi”.

        3

        Tui chỉ mới là thuộc sách (TS) thôi.
        Giảng sách (GS) xem ra chửa tới nơi.
        Vui việc cứ LÀM chưa vội DẠY
        Nói nhiều làm ít sợ chê cười.

        Cổ điển honda không biết chạy
        Canh tân blog viết đôi bài
        Quanh quẩn chỉ là ngô khoai sắn
        Vô bờ biển HỌC dám đơn sai.

        Ước noi cụ Trạng ưa duyên thắm
        Nịnh vợ không quên việc trả bài
        An nhàn vô sự là tiên đấy
        Thung dung đèn sách, thảnh thơi chơi.

        4

        “Ngõ nhà Lão Hâm” Phan Chí Thắng
        Ngắm ảnhNgắm dấu chân thời gian
        Ngày mới “Năm mươi năm nhớ lại”
        Khát khao xanhTỉnh thứcĐợi mưa

        5

        Ta tìm gặp bạn đường xa
        Tưởng là thăm bạn hoá ra thăm mình
        Đêm dài xoè một bình minh …’
        Tháng Ba nhớ bạnÂn tìnhSớm Xuân.

        6

        Thủy vốn mạch sông nước có nguồn.
        Chính Trung tiền hậu đổi nhau luôn.
        Nụ cười Nghê Việt luôn đầy đặn.
        Mai với Bồ Đề ẩn sau lưng.

        Tóc nhuốm bạch kim phơi nắng hửng
        Da pha hồng ngọc trãi mưa nhuần.
        Hoa NgườiHoa Đất vui thầy bạn.
        Phước Đức mừng ai thắng tuổi trăm.

        7

        Xuân sớm Ngọc Phương Nam
        Yên Tử Trần Nhân Tông
        Ngày xuân đọc Trạng Trình
        Đào Duy Từ còn mãi

        8

        Nguyễn Du trăng huyền thoại
        Tô Đông Pha Tây Hồ
        Ngôi sao mai chân trời
        Thầy là nắng tháng Ba

        9

        Ngày mới bình minh an
        Ngày mới lời yêu thương
        Hoàng Thành đến Trúc Lâm
        Ngày mới Ngọc cho đời

        CHUYỆN ANH PHAN CHÍ THẮNG
        Hoàng Kim
        Cụ là Người cẩn trọng sâu sắc minh thận cần (*)

        Thủy vốn mạch sông nước có nguồn.
        Chính Trung tiền hậu đổi nhau luôn.
        Nụ cười Nghê Việt luôn đầy đặn.
        Mai với Bồ Đề ẩn sau lưng.
        Tóc nhuốm bạch kim phơi nắng hửng
        Da pha hồng ngọc trãi mưa nhuần.
        Hoa Người Hoa Đất vui thầy bạn.
        Phước Đức mừng ai thắng tuổi trăm.

        (*) anh Phan Chi Thắng ngày 4 tháng 8 năm 2020 viết· TÔN NỮ MẸ TÔI Nếu họ tên người nam có hai chữ Tôn Thất, người nữ có Tôn Nữ thì những người này có quan hệ huyết thống với các chúa Nguyễn, họ gốc là Nguyễn Phúc mà người ta kỵ huý nên gọi chệch đi là Nguyễn Phước tộc. Quan hệ như thế nào, gần xa cấp độ mấy thì còn phải xét nhưng chắc chắn trong huyết quản họ có dòng máu chúa Nguyễn.Tôn Thất (chữ Hán: 尊室) (chữ 尊 vốn đọc là Tông, nhưng do kỵ tên huý vua Thiệu Trị nên đổi là Tôn) là họ được vua Minh Mạng đặt cho con cháu của các chúa Nguyễn từ ngài Nguyễn Hoàng đến ngài Nguyễn Phúc Thuần, mỗi chúa là hệ tổ của một hệ. Hệ bao gồm chúa và các anh em trai của chúa, hậu duệ của các hệ là hậu duệ của các anh em trai của chúa. Có tất cả 9 hệ nhưng có hai hệ là hệ 4 và hệ 6 không con nên không lưu truyền được. Họ Tôn Thất bà con xa với dòng Đế hệ, dòng làm Hoàng đế của Đại Nam, tính ra kể từ vua Gia Long. Không phải tất cả Tôn Thất, Tôn Nữ đều nổi tiếng hoặc làm to, đời trước nổi tiếng có các cụ Tôn Thất Thuyết, Tôn Thất Thiệp, đời nay có Nguyễn Minh Vĩ (Tôn Thất Vĩ), phó Chủ tịch Quốc hội, Tôn Thất Tùng giáo sư bác sĩ, Tôn Nữ Thị Ninh nhà ngoại giao, Phó giáo sư Tương Lai (Nguyễn Phước Tương hay Tôn Thất Tương) nguyên Viện trưởng Viện Xã hội học, Tôn Thất Lập nhạc sĩ. Chế độ VNCH có một số trí thức, tướng lãnh là Tôn Thất.Tôi biết nhiều tôn thất tôn nữ sống và lao động như mọi người dân bình thường. Nét đặc biệt ngoại hình của họ là khuôn mặt dài, thông minh và nghiêm cẩn. Một cái gì đó quý tộc cho dù có rơi vào hoàn cảnh chân lấm tay bùn.Tôi biết hai người phụ nữ tên là Tôn Nữ Lệ Minh. Người thứ nhất là vợ nhà thơ Lưu Trọng Lư tôi chỉ biết sơ. Người thứ hai tôi biết rất kỹ vì người đó là mẹ tôi.Ông ngoại tôi Tôn Thất nên mẹ tôi Tôn Nữ. Mẹ sớm mồ côi cha, lớn lên trong vòng tay của đại gia đình bên ngoại (cụ ngoại tôi làm quan nhà Nguyễn), được hưởng sự giáo dục nề nếp gia giáo.Lớn lên lấy chồng, theo chồng ra Bắc, chịu mọi gian khổ thiếu thốn, Mẹ đã vượt qua tất cả cho chúng tôi có ngày hôm nay. Chúng tôi thừa hưởng ở Mẹ cái nhìn thẳng và tinh thần quý tộc theo nghĩa đẹp nhất của nó là luôn cố gắng làm người tử tế.Viết thêm:Họ “Công Tằng Tôn Nữ” được dùng cho các cháu gái bên nhà họ nội của các đời vua Nguyễn xuất phát từ thời Minh Mạng. Vua Minh Mạng (Tên húy: Nguyễn Phúc Đảm) đã định ra một chính hệ từ đời vua Gia Long trở về sau theo nguyên tắc sau: con cháu các chúa Nguyễn thì được xếp vào hệ Tôn Thất cho nam và Tôn Nữ dành cho nữ.Còn sự khác nhau giữa Tôn Nữ và Công Tằng Tôn Nữ là ở chỗ cách đặt tên theo thế hệ các con gái, cháu gái :Công Chúa : chị em vua Minh Mạng.Công Nữ : con của vua.Công Tôn Nữ : cháu của vua.Công Tằng Tôn Nữ : chắt của vua.Công Huyền Tôn Nữ : chít của vua.Huyền Tôn Nữ : dùng chung cho thế hệ này trở về sau .Nhưng cũng theo một số tài liệu thì Tôn Nữ được sử dụng chung cho thế hệ thứ 2 trở đi với ý nghĩa là chỉ cháu gái.Tôn Nữ Mẹ Tôi và tôi, Huế năm 1948:

        Họ “Công Tằng Tôn Nữ” được dùng cho các cháu gái bên nhà họ nội của các đời vua Nguyễn xuất phát từ thời Minh Mạng. Vua Minh Mạng (Tên húy: Nguyễn Phúc Đảm) đã định ra một chính hệ từ đời vua Gia Long trở về sau theo nguyên tắc sau: con cháu các chúa Nguyễn thì được xếp vào hệ Tôn Thất cho nam và Tôn Nữ dành cho nữ.Còn sự khác nhau giữa Tôn Nữ và Công Tằng Tôn Nữ là ở chỗ cách đặt tên theo thế hệ các con gái, cháu gái :Công Chúa : chị em vua Minh Mạng.Công Nữ : con của vua.Công Tôn Nữ : cháu của vua.Công Tằng Tôn Nữ : chắt của vua.Công Huyền Tôn Nữ : chít của vua.Huyền Tôn Nữ : dùng chung cho thế hệ này trở về sau .Nhưng cũng theo một số tài liệu thì Tôn Nữ được sử dụng chung cho thế hệ thứ 2 trở đi với ý nghĩa là chỉ cháu gái.”

        Tôi lưu một số ghi chép của anh Phan Chí Thắng

        Chuyện dài chưa đặt tên’
        Phan Chi Thắng

        Ghi chép vày của
        Hoàng Kim nhằm tìm lại những ký ức riêng để thấu hiểu giá của tình yêu thương ngày thống nhất. Xin phép anh Phan Chi Thắng được chia sẻ:

        ” Cô mất bốn năm rồi, yên nghỉ trong phần mộ anh em Tuân đã chuẩn bị từ trước, xây lăng trên đồi, cạnh lăng ông bà nội và lăng cha Tuân.

        Con cháu, họ hàng đều ở xa, không ai tiếp quản căn nhà cổ và khu vườn rộng, Tuân bàn với những người có quyền thừa kế theo pháp luật hiến căn nhà và khu vườn đó cho chùa.

         

        Không phải Tuân không tiếc ngôi nhà tuổi thơ của mình, tính ra cũng là một tài sản lớn. Nhưng hãy để nơi ấy thành một ngôi chùa bởi chắc chắn giờ này cô đã ở bên Phật”. (1)

        Anh Phan Chí Thắng kể với chúng tôi:

        “Trong số hơn mười đứa cháu, đứa gọi bằng o (cô), đứa gọi bằng dì, có lẽ cô thương Tuân nhất. Không hẳn vì Tuân là đích tôn, không hẳn vì mấy đứa gọi cô bằng dì ở thành phố khác, ít gặp cô.

        Cô thương Tuân vì cô thương cha anh nhất, thương người anh trai bỏ nhà đi kháng chiến chống Pháp rồi mang đứa con mới 5-6 tuổi ra Bắc, nơi ăn không đủ no, mặc không đủ ấm, “bảy tên Việt Cộng đu không gãy một cành đu đủ”.

        Hôm Tuân cùng mẹ lên chiến khu rồi theo đường dây vượt rừng ra Bắc, cô ngồi nắm cơm cho vào mo nang. Không biết cô lỡ tay cho nhiều muối mè (muối vừng) hay nước mắt cô thầm nhỏ vào cơm mà Tuân ăn thấy mặn.

        Cô tiễn cháu đi để rồi đêm đêm bí mật áp cái đài transito vào tai nghe đài Hà Nội với hy vọng may ra có chút tin tức gì về anh chị và cháu.

        Năm 66 Tuân được đi Liên xô học đại học. Không biết đường dây nào đã báo tin cho cô, cô làm thịt con gà thắp hương cúng các cụ rồi mời hai ông bà dùng bữa. Ông hỏi có chuyện gì, cô nói thằng Tuân vừa đi Liên xô học 6 năm rồi.

        Ông nhắm mắt, chắp tay niệm A Di Đà Phật, bà nội và cô ôm nhau khóc. Mâm cơm vẫn còn nguyên.

        Hai mươi hai năm sau kể từ lúc lon ton chạy theo mẹ trốn lên chiến khu, đầu tháng 5 năm 75, Tuân tìm về làng thăm bà nội và cô. Ông nội mất đã lâu, hai bà con dựa vào nhau mà sống.

        Các bà cô Tuân ai cũng đẹp và lấy chồng xa. Riêng cô không lấy chồng, ở lại phụng dưỡng cha mẹ.

        Năm 75 cô còn khỏe, còn hái trái cây trong vườn mang ra chợ bán lấy tiền mua gạo, mắm muối.

        Năm 85 là đỉnh điểm của nghèo khổ khó khăn. Cô mua ớt về đăm (giã) làm ớt bột gửi ra Hà Nội cho cháu. Ớt đựng trong lọ nhựa đen nguyên dùng đựng xà phòng kem. Cô già mắt kém súc lọ không kỹ, ớt toàn mùi xà phòng. Tuân đành đổ nguyên cân ớt bột xuống cống, xót xa công sức người cô già.

        Một năm đôi ba lần Tuân về quê thăm bà và cô, từ khi bà nội mất cô sống một mình trong căn nhà cổ. Một mình trong khuôn vườn khá rộng kể cả tính theo tiêu chuẩn ở Huế.

        Trẻ con hái trộm trái cây, bắt trộm chó. Cô không còn sức chăm bón mấy cây thanh trà (bưởi), khế, ổi, mãn cầu từng nuôi sống bà và cô. Vườn xác xơ như chính cô vậy.

        Mỗi lần về quê Tuân đều dành dụm ít nhiều tiền đưa cô mua gạo.

        Vậy mà cô chẳng tiêu đồng nào. Lần sửa mái ngói bị dột, thợ phát hiện có gói nilon bọc mấy chục triệu giấu dưới mái, Tuân vừa giận vừa thương cô. Không chịu ăn uống tẩm bổ, tiền để lại cho ai?

        Người đàn bà không chồng không con về già khổ đủ đường. Không ai chăm sóc, không có ai để nhờ cậy đã đành, cơ thể chưa một lần “thay máu” nhiều bệnh hơn người thường.

        Có lần Tuân về thấy tóc cô bù xù, móng tay dài cong queo, anh gọi thợ làm đầu vào gội đầu cắt móng tay cho cô.

        Chấy nhiều quá, đen kịt cả mặt nước chậu thau đồng. Tuân cố không khóc.

        Vậy mà cô cũng sống tới 95 tuổi. Cô sống được lâu thế chắc là nhờ muốn sống để trông coi ngôi nhà các cụ để lại và thay mặt tất cả con cháu ở xa và rất xa chăm lo việc hương khói các ngày giỗ chạp. Đã nhiều lần Tuân muốn đón cô ra Hà nội sống với gia đình Tuân để tiện chăm sóc cô nhưng cô không chịu. Cô không thể rời nơi cô đã gắn bó cả cuộc đời.

        Khi cảm thấy mình quá yếu, không còn sống được bao lâu, cô dắt Tuân vào buồng, tay run run mở mấy lần khoá cái tủ gỗ xộc xệch có khi còn nhiều tuổi hơn cô:

        – Đây là số tiền cô dành dụm cả đời, bây giờ cho cháu.

        Nhìn đám giấy bạc cũ kỹ buộc chun làm thành nhiều gói bọc kỹ trong tờ giấy bao xi măng, Tuân không thể cầm lòng. Những tờ tiền Bảo Đại, tiền Việt Nam Cộng hoà, rồi tiền Giải phóng và các đợt tiền cụ Hồ, anh không biết nói sao. Tất cả đã không còn bao nhiêu giá trị.

        Đặc biệt là xâu tiền đồng có lỗ vuông ở giữa. Chẳng để làm gì.

        Người đàn bà không có công ăn việc làm, không có lương hưu, bao nhiêu năm tằn tiện để cho cháu số tiền khá lớn nay chỉ có thể coi là kỷ niệm.

        Cô mất bốn năm rồi, yên nghỉ trong phần mộ anh em Tuân đã chuẩn bị từ trước, xây lăng trên đồi, cạnh lăng ông bà nội và lăng cha Tuân.

        Con cháu, họ hàng đều ở xa, không ai tiếp quản căn nhà cổ và khu vườn rộng, Tuân bàn với những người có quyền thừa kế theo pháp luật hiến căn nhà và khu vườn đó cho chùa.

        Không phải Tuân không tiếc ngôi nhà tuổi thơ của mình, tính ra cũng là một tài sản lớn. Nhưng hãy để nơi ấy thành một ngôi chùa bởi chắc chắn giờ này cô đã ở bên Phật.

        (Viết trong ngày giỗ cô)

        Phan Chi Thắng 20 8 2021

        Hôm nay giỗ cụ ngoại cu Bi cu Tí cu Bun – cụ Trần Quý Kiên. Cụ Kiên từng là thủ trưởng của cụ Vũ Kỳ nên sinh thời cụ Kỳ hay mời gia đình cụ Kiên vào Phủ Chủ tịch trò chuyện nhân dịp lễ nào đó.Trong ảnh là cụ bà Lê Thị Tấn cùng con cháu (không đầy đủ) chụp lưu niệm cùng cụ Vũ Kỳ ngày 3/9/1978. Hồi đó vẫn coi ngày 3/9 là ngày Cụ Hồ mất. Trong ảnh tôi ngồi hàng trên rìa phải cạnh con gái, bà xã tất nhiên ngồi hàng đầu cạnh mẹ. Cụ Kỳ, cụ Tấn nay đã ở thế giới người hiền cùng cụ Kiên. Con cháu thắp hương cho cụ Kiên, đồng tưởng nhớ các cụ.

        Bài thơ Viên đá Thời gianhttps://hoangkimlong.wordpress.com/category/bai-tho-vien-da-thoi-gian/

        SÔNG THƯƠNG
        Hoàng Kim

        Ta chưa về lại
        sông Thương
        ghé thăm bến đợi
        hoàng hôn
        trời chiều
        Sông Cầu
        nước chảy
        trong veo
        Ngại chi chí thạnh
        cách đèo
        sông
        ngăn.
        Ước Trời chở gió
        vào Nam
        chở mây
        ra Bắc
        để làm
        thành mưa.
        Biển trời
        cá nước duyên ưa
        kể chi bến đợi
        sông chờ
        hỡi em.

        QUA SÔNG THƯƠNG GỬI VỀ BẾN NHỚ
        Hoàng Kim

        Ta lại hành quân qua sông Thương
        Một đêm vào trận tuyến
        Nghe Tổ Quốc gọi lên đường!
        Mà lòng ta xao xuyến
        Và hồn ta căng gió reo vui
        Như dòng sông Thương chảy mãi về xuôi
        Hôm nay ta ra đi
        Súng thép trên vai nóng bỏng

        Không qua nhịp cầu ngày xưa soi bóng
        Phà đưa ta sang sông
        Rạo rực trời khuya, thao thức trong lòng
        Rầm rập dòng sông sóng nhạc
        Như tình thân yêu muôn vàn của Bác
        Tiễn đàn con ra đi

        Tầu cập bến rầm rì tiếng máy
        Tiếng động cơ sục dưới khoang tàu
        Hay sôi ở trong lòng đất cháy
        Hay giữa tim ta thúc giục lên đường
        Chào bờ Bắc thân yêu hẹn ngày trở lại!

        Ôi những con thuyền đèn trôi suốt canh khuya
        Có khua nhẹ mái chèo qua bến cũ
        Nhắn cho ai ngày đêm không ngủ
        Rằng ta đi chưa kịp báo tin vui

        Đêm nay bên dòng nước nghiêng trôi
        Sông vẫn thức canh trời Tổ Quốc
        Rạo rực lòng ta bồi hồi tiếng hát
        Đổ về bến lạ xa xôi
        Với biển reo ca rộng mở chân trời

        Hoàng Kim
        (Rút trong tập THƠ VIỆT NAM 1945-2000
        Nhà Xuất bản Lao động 2001, trang 646)

        Tôi có hai bài thơ về Sông Thương . Một bài thơ “Qua sông Thương gửi về bến nhớ” của tuổi trẻ và một bài thơ “Sông Thương” của lòng mình thao thiết chảy. Đó là sông Thương của cuộc đời của giấc mơ xanh. Đến với sông Thương, tôi lưu thêm năm bài thơ ‘Qua sông Thương’ của Lưu Quang Vũ, “Bến Đợi” của Nguyễn Tuyết Hạnh, “Nắng được thì cứ nắng” của cụ Phan Khôi, “Cưỡi lừa qua cầu con” của cụ Hoàng Thừ Ngạn” với bài “Phan Khôi nắng được thì cứ nắng ” của chính mình.

        QUA SÔNG THƯƠNG
        Lưu Quang Vũ

        *Sao tên sông lại là Thương
        Để cho lòng anh nhớ?
        Người xưa bảo đây đôi dòng lệ nhỏ
        Những suối buồn gửi tới mênh mang
        Đò về Nhã Nam
        Đò qua Phủ Lạng
        Mưa chiều nắng rạng
        Đã bao năm?
        Nỗi đau cũ thật không cùng
        Sông cũng thành nước mắt

        Hôm nay anh lại qua sông
        Đò anh đi giữa những đóa sen hồng
        Ong chấp chới bay, đây đương mùa dứa
        Đò ngược xuôi chở trái chín vàng
        Thơm ngát mật hương mùa hạ
        Thôn xóm đôi bờ xanh biếc quá
        Những đường xe chạy đỏ bụi bay
        Những tiếng cười khúc khích sau vườn cây
        Nước vỗ mạn thuyền dào dạt
        Buồm trắng nắng căng phồng gió mát
        Phủ Lạng thương sừng sững thân cầu
        Giặc đánh hai lần ta lại sửa mau
        Dòng nước đêm nay đựng trời sao
        Hay ánh đèn điện sáng
        Lấp lánh công trình phân đạm
        Bóng ai kia trên giàn giáo tầng cao?
        Thôi chẳng mất công tìm nhau
        Hãy lắng nghe loa truyền tin vui quá nhỉ?
        Sông Thương ơi, đang những ngày đánh Mỹ
        Nên đôi bờ nòng pháo hướng trời mây
        Những cô lái đò súng khoác trên vai
        Đời đẹp vô cùng dòng lệ hóa dòng vui
        Đò anh đi vẫn mùa sen thắm
        Xuôi dòng về ngã ba sông
        Bỗng ào ào nước mênh mông
        Vui gì bằng những dòng sông gặp gỡ?
        Mang vè bóng làng bóng người bóng lá
        Những đò trái chín hẹn hò nhau …

        Mùa đánh Mỹ qua sông xưa nước mắt
        Mà vạt áo người nay chẳng ướt
        Chỉ nghe lồng lộng tiếng ca vang
        Nghe sông gọi người đi đánh giặc
        Đất nước nặng tình phù sa bát ngát
        Tâm hồn ta tắm với bóng mây trong
        Yêu quá sông Thương nước chảy đôi dòng

        BẾN ĐỢI
        Nguyễn Tuyết Hạnh

        Mình về Bến đợi
        Nghe anh
        Con sông xưa cũ
        Bỗng
        Xanh
        Nhức lòng
        Gió đùa vạt nắng
        Đi rong
        Câu ca ai hát
        Uốn
        Cong
        Cả chiều
        Thôi thì lấy ít làm nhiều
        Giữa dòng chiếc bách
        Chở chiều
        Vào đêm…
        Ánh trăng buông dải lụa mềm
        Buộc mình hai đứa
        Một đêm
        Đá vàng…
        Chẳng đành mọi sự nhỡ nhàng
        “Dư âm” tiếng hát… *
        Mênh mang đất trời
        Ánh trăng xanh cõi xa vời
        Buộc mình hai đứa
        Một lời
        Tri âm….

        * Bài hát Dư âm ( NS Nguyễn Văn Tý )

        Cu Phan Khôi là “ngự sử văn đàn Việt“, nhà báo, học giả nổi tiếng Việt Nam. Cụ Phan Khôi sinh ngày 6 tháng 10 năm 1887, mất ngày 16 tháng 1 năm 1959, là tác giả của bài thơ nổi tiếng “Nắng được thì cứ nắng“. “Nắng chiều đẹp có đẹp. Tiếc tài gần chạng vạng. Mặc dù gần chạng vạng. Nắng được thì cứ nắng “. Nguyễn Tuyết Hạnh là cô cháu ngoại xinh đẹp tài hoa của nhà triết học Việt, tác giả của bài thơ quý “Bến Đợi” và nhiều ảnh đẹp, tôi chưa gặp bao giờ. Tôi dạo chơi cùng bạn ở chùa Thanh Lương ngắm hoa dâm bụt nở tuyệt đẹp bên hoa vô ưu, nhớ bức ảnh “Hoa Dâm Bụt tím đêm”, Tôi chợt liên tưởng tới bài thơ hay của cụ Hoàng Thừa Ngạn, bố vợ  Khổng Minh Gia Cát Lượng: “Một đêm gió lạnh lùng, Muôn dặm mây đỏ ối. Bời bời hoa tuyết bay, Nước non hình sắc đổi, Ngẩng mặt trông trên trời, Tưởng là rồng ngọc chọi, Vây mai tua tủa bay, Một lát khắp bốn cõi, Cưỡi lừa qua cầu con, Than vì mai gầy cỗi.” Tôi lưu lại bài thơ không nỡ quên

        NHỚ SÔNG THƯƠNG
        Nhật Minh (Diễn đàn Bắc Giang Online)

        Tôi là một trong những người may mắn, may mắn bởi tuổi thơ tôi được tắm mát bên hai dòng sông quê hương: sông Cầu thơ mộng và sông Thương đôi dòng trong đục. Nếu như bao kỉ niệm khi nhỏ đã gắn với dòng sông Cầu cùng những chiều chăn trâu, cắt cỏ, những buổi mò hến, bơi sông…, và còn nữa những trò trẻ dại: ném tàu qua lại, thi bơi xa mùa nước lên.., thì dòng sông Thương mang cho tôi cảm giác thân thương, gần gũi suốt một thời “ngày hai buổi đến trường”.

        Sông Thương nước chảy đôi dòng.
        Bên trong bên đục em trông bên nào?

        Nếu không có những ngày sang sông học thêm, thì có lẽ hình ảnh con sông Thương cũng bình thường như bao con sông khác trong tiềm thức của tôi, như bao con sông tôi biết đến qua môn địa lý thầy dậy ở trường. Tuần ba buổi, sau khi tan lớp tôi lại lọc cọc con xe đạp cà tàng thẳng hướng Phà Bến Đám. Điểm dừng chân ăn trưa của tôi có khi là Neo, có khi là bất kỳ quán lá nào ven đường, hay cũng ngạy tại các quán chân dốc Phà. Chúng tôi lúc ba, lúc bốn…nhưng hễ xuống phà là lại trở Xem tiếp >>

          Dạy và học 5 tháng 10(05-10-2021)

        DẠY VÀ HỌC 5 THÁNG 10
        Hoàng Kim
        CNM365 Tình yêu cuộc sốngQuả táo Apple Steve Jobs; Hoàng Gia Cương thơ hiền; Đối thoại nền văn hóa; Có ba dòng văn chương; Bài ca yêu thương; Cầu Trời nối Mẹ Cha xưa; Ban mai đứng trước biển; Vị tướng của lòng dân; Nếp nhà đẹp văn hóa; Steve Jobs là con người huyền thoại của thế kỷ 21, là đồng sáng lập viên, chủ tịch, và cựu tổng giám đốc điều hành của hãng Apple, là một trong những người có ảnh hưởng lớn nhất ở ngành công nghiệp vi tính toàn cầu. Thương hiệu Apple được định giá 119 tỷ USD và chiếm vị trí thương hiệu giá trị nhất thế giới từ năm 2014. Quả táo Apple Steve Jobs là bài ca thời gian về Jobs, quả táo, bài ca cây táo, hoa và ong. Ngày 29 tháng 9 năm 2011 là ngày mất của Steve Jobs là doanh nhân và nhà sáng chế người Mỹ. Ngày 5 tháng 10 là Ngày Nhà giáo thế giới do Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hiệp Quốc đề xướng năm 1994, được tổ chức hàng năm nhằm nâng cao nhận thức về vai trò nhà giáo. Ngày 5 tháng 10 là Ngày truyền thống của Lực lượng Tăng Thiết giáp Quân đội Nhân dân Việt Nam. Bài viết và hình ảnh tuyển chọn ngày 5 tháng 10: Quả táo Apple Steve Jobs; Hoàng Gia Cương thơ hiền; Đối thoại nền văn hóa; Có ba dòng văn chương; Bài ca yêu thương; Cầu Trời nối Mẹ Cha xưa; Ban mai đứng trước biển; Vị tướng của lòng dân; Nếp nhà đẹp văn hóa; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.comhttp://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-5-thang-10

        QUẢ TÁO APPLE STEVE JOBS
        Hoàng Kim


        Steve Jobs là con người huyền thoại của thế kỷ 21, là đồng sáng lập viên, chủ tịch, và cựu tổng giám đốc điều hành của hãng Apple, là một trong những người có ảnh hưởng lớn nhất ở ngành công nghiệp vi tính toàn cầu. Thương hiệu Apple được định giá gần 119 tỷ USD và chiếm vị trí thương hiệu giá trị nhất thế giới từ năm 2014. Quả táo Apple Steven Jobs là bài ca thời gian về Jobs, quả táo, bài ca cây táo, hoa và ong. Ba quả táo làm thay đổi thế giới: quả táo trong vườn địa đàng Adam và Eva, quả táo rơi trúng Newton, và quả táo cắn dở của Steve Jobs. Những câu chuyện về Jobs luôn là nguồn cảm hứng dồi dào cho thế hệ trẻ. Mỗi năm vào những ngày này tôi lại trở về với câu chuyện”Quả táo Apple Steve Job” Có những giá tr5i5 vĩnh cửu đích thực về CON NGƯỜI NHÂN VĂN cần phải nhấn mạnh cho mọi người, đặc biệt là thế hệ trẻ. Dạy và học không những trao truyền kiến thức mà còn thắp lên ngọn lửa. Chừng nào mỗi chúng ta chưa ứa nước mắt thấm hiểu sự nhọc nhằn của người nông dân một nắng hai sương làm ra hạt gạo. Chừng nào những giá trị lao động khoa học cao quý, liên tục, âm thầm chưa mang lại đủ niềm vui cho bữa ăn của người dân nghèo. Chừng đó chúng ta sẽ còn phải DẠY VÀ HỌC. Cái gốc của sự học là HỌC LÀM NGƯỜI. Quả táo Apple Steve Jobs là bài học lớn cho nhân cách và nổ lực khởi nghiệp.
        Tài sản quý giá nhất của đời người là sức khỏe Bài học sau cùng của Steve Jobs những phút cuối đời thực sự lay động hàng triệu người. Tình yêu và sức khỏe là tài sản quan trọng nhất… https://hoangkimlong.wordpress.com/category/qua-tao-apple-steve-jobs/

        Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là qua-tao-apple-steve-jobs-5.jpg

        Steve Jobs, sinh ngày 24 tháng 2 năm 1955, mất ngày 5 tháng 10, năm 2011. Ông là doanh nhân và nhà sáng chế người Mỹ. Ngày 24 tháng 1 năm 1984, Steve Jobs giới thiệu Macintosh 128K, loại máy tính cá nhân đầu tiên của Macintosh, dòng máy tính cá nhân đầu tiên được thương mại hóa thành công, tạo nên bước đột phá trong ngành công nghệ máy tính. Câu chuyện về Jobs được thế giới quan tâm từ sự kiện này.

        Quả táo là Apple. Quả táo cũng là Steven Jobs. Quả táo là loại trái cây ngon phổ biến nhất hành tinh. Quả táo nay cũng là máy tính chất lượng Apple là thương hiệu giá trị nhất thế giới. Quả táo Steve Jobs cũng như Kiều Nguyễn Du. Ai nói đến Kiều lập tức gợi nhớ Nguyễn Du; ai nói đến Quả táo Apple lập tức gợi nhớ Steve Jobs và ngược lại. Thương hiệu Apple, điều hay nhất là “quả táo có cắn một miếng”. Chúng ta nhìn quả táo Jobs đã cắn một miếng mà thấy thèm. Táo ngon mọi người đều thèm cắn. Apple Steve Jobs đã làm nên giá trị Mỹ, là tấm giấy thông hành của nước Mỹ đi ra thế giới.

        Việt Nam chúng ta đã có tấm giấy thông hành của một đất nước độc lập, đẹp và thân thiện với những danh nhân minh triết dựng nước, giữ nước và nhiều gương anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang nhưng thiếu vắng những giá trị Việt, thương hiệu Việt lừng lẫy như Apple Steve Jobs.

        Tôi kể em nghe “câu chuyện về Jobs”,“câu chuyện quả táo”, “hoa và ong” với những trãi nghiệm và suy ngẫm của riêng mình. Thật lạ lùng ý tưởng này của tôi lại trùng hợp với thầy Nguyễn Lân Dũng. Thầy Lân Dũng cũng nâng niu, sưu tầm, biên soạn Câu chuyện ông chủ Apple. Thầy đã gần tám mươi tuổi mà vẫn thật tận tụy thu thập tuyển chọn thông tin về các điều hay lẽ phải, những gương sáng lập nghiệp để trao lại cho lớp trẻ. Biển học vô bờ, siêng năng là bến. Kiến thức nhân loại là mênh mông như biển và cao vọi như núi. Việc chính đời người là chọn lọc thông tin để dạy, học và làm được những điều bổ ích cho chính mình, cộng đồng và đất nước.

        Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là qua-tao-apple-steve-jobs-1.jpg

        CÂU CHUYỆN VỀ STEVE JOBS

        Steve Jobs đã qua đời vào sáng 5 tháng 10 năm 2011 ở tuổi 56 khiến cả thế giới bàng hoàng sửng sốt và tiếc nuối. Ông là người kín tiếng, gần như không bao giờ nói về đời tư của mình cho đến khi Jobs bị bệnh ung thư, và ông lặng lẽ chịu đựng cho đến ngày 24 tháng 8 năm 2011, thì ông tuyên bố từ chức tổng giám đốc điều hành của Apple và mạnh mẽ gửi gắm rằng Tim Cook là người kế nhiệm ông. Steve Jobs do yêu cầu này, được bổ nhiệm làm chủ tịch hội đồng quản trị của Apple và bài phát biểu dưới đây là cuộc trò chuyện sau cùng cởi mở nhất của ông tại lễ tốt nghiệp đại học. Ông nói, bản dịch tiếng Việt

        Steve Jobs và bài phát biểu gây ảnh hưởng nhất trong sự nghiệp

        “Tôi rất vinh dự có mặt trong lễ trao bằng tốt nghiệp của các bạn hôm nay tại một trong những trường đại học uy tín nhất thế giới. Tôi chưa bao giờ có bằng đại học. Phải thú nhận đây là lần tôi tiếp cận gần nhất với một buổi tốt nghiệp. Tôi muốn kể cho các bạn ba câu chuyện về cuộc đời tôi. Không có gì nhiều nhặn. Chỉ là ba câu chuyện.

        Chuyện thứ nhất là về việc kết nối các dấu chấm

        Tôi bỏ trường Reed College ngay sau 6 tháng đầu, nhưng sau đó lại đăng ký học thêm 18 tháng nữa trước khi thực sự rời trường. Vậy, vì sao tôi bỏ học?

        Mọi chuyện như đã định sẵn từ trước khi tôi sinh ra. Mẹ đẻ tôi là một sinh viên, bà chưa kết hôn và quyết định gửi tôi làm con nuôi. Bà nghĩ rằng tôi cần được nuôi dưỡng bởi những người đã tốt nghiệp đại học nên sắp đặt để trao tôi cho một vợ chồng luật sư ngay trong ngày sinh. Tuy nhiên, mọi chuyện thay đổi vào phút chót bởi họ muốn nhận một bé gái hơn là tôi.

        Vì thế, cha mẹ nuôi của tôi, khi đó đang nằm trong danh sách xếp hàng, đã nhận được một cú điện thoại vào nửa đêm rằng: “Chúng tôi có một đứa con trai không mong đợi, ông bà có muốn chăm sóc nó không?” và họ trả lời: “Tất nhiên rồi”. Mẹ đẻ tôi sau đó phát hiện ra mẹ nuôi tôi chưa bao giờ tốt nghiệp đại học còn cha tôi thậm chí chưa tốt nghiệp phổ thông trung học. Bà từ chối ký vào giấy tờ trao nhận và chỉ đồng ý vài tháng sau đó khi bố mẹ hứa rằng ngày nào đó tôi sẽ vào đại học.

        Sau đó 17 năm, tôi thực sự đã vào đại học. Nhưng tôi ngây thơ chọn ngôi trường đắt đỏ gần như Đại học Stanford vậy. Toàn bộ số tiền tiết kiệm của bố mẹ tôi phải dồn vào trả học phí cho tôi. Sau 6 tháng, tôi thấy việc đó không hề hiệu quả. Tôi không có ý niệm về những gì muốn làm trong cuộc đời mình và cũng không hiểu trường đại học sẽ giúp tôi nhận ra điều đó như thế nào. Tại đó, tôi tiêu hết tiền mà cha mẹ tiết kiệm cả đời. Vì vậy tôi ra đi với niềm tin rằng mọi việc rồi sẽ ổn cả. Đó là khoảnh khắc đáng sợ, nhưng khi nhìn lại, đấy lại là một trong những quyết định sáng suốt nhất của tôi. Tôi bắt đầu bỏ những môn học bắt buộc mà tôi không thấy hứng thú và chỉ đăng ký học môn tôi quan tâm.

        Tôi không có suất trong ký túc, nên tôi ngủ trên sàn nhà của bạn bè, đem đổi vỏ chai nước ngọt lấy 5 cent để mua đồ ăn và đi bộ vài km vào tối chủ nhật để có một bữa ăn ngon mỗi tuần tại trại Hare Krishna. Những gì tôi muốn nói là sau này tôi nhận ra việc cố gắng theo đuổi niềm đam mê và thỏa mãn sự tò mò của mình là vô giá.

        Tôi sẽ kể cho các bạn một ví dụ: Đại học Reed khi đó có lẽ là trường tốt nhất dạy về nghệ thuật viết chữ đẹp ở Mỹ. Khắp khuôn viên là các tấm áp-phích, tranh vẽ với những dòng chữ viết tay tuyệt đep. Vì tôi đã bỏ học, tôi quyết định chỉ đăng ký vào lớp dạy viết chữ để tìm hiểu họ làm điều đó thế nào. Tôi học cách biến hóa với nét bút, về khoảng cách giữa các chữ, về nét nghiêng, nét đậm. Đây là môn học nghệ thuật và mang tính lịch sử mà khoa học không thể nắm bắt được và tôi thấy nó thật kỳ diệu.

        Những thứ này khi đó dường như chẳng có chút ứng dụng thực tế nào trong cuộc đời tôi. Nhưng 10 năm sau, khi chúng tôi thiết kế máy Macintosh, mọi thứ như trở lại trong tôi. Và chúng tôi đưa nó vào trong Mac. Đó là máy tính đầu tiên có các font chữ đẹp. Nếu tôi không bỏ học chỉ để theo một khóa duy nhất đó, máy Mac sẽ không bao giờ được trang bị nhiều kiểu chữ hoặc có được sự cân xứng về khoảng cách các chữ như vậy (sau này Windows đã sao chép lại). Nếu tôi không bỏ học, tôi có lẽ sẽ không bao giờ tham gia lớp nghệ thuật viết chữ và máy tính có lẽ không có được hệ thống chữ phong phú như hiện nay.

        Tất nhiên, chúng ta không thể kết nối các dấu ấn tương lai, bạn chỉ có thể móc nối chúng khi nhìn lại quá khứ. Vậy hãy tin rằng các dấu chấm, các sự kiện trong cuộc đời bạn về mặt này hay mặt khác sẽ ảnh hưởng đến tương lai của bạn. Bạn phải có niềm tin vào một thứ gì đó – sự can đảm, số phận, cuộc đời, định mệnh hay bất cứ điều gì – cách nghĩ đó đã tạo nên những sự khác biệt trong cuộc đời tôi.

        Câu chuyện thứ hai là về tình yêu và sự mất mát

        Tôi may mắn khi đã nhận ra những gì tôi yêu quý ngay từ khi còn trẻ. Woz (Steve Wozniak) cùng tôi sáng lập Apple tại garage của bố mẹ khi tôi mới 20 tuổi. Chúng tôi làm việc miệt mài trong 10 năm và phát triển từ một cái nhà xe thành một công ty trị giá 2 tỷ USD với 4.000 nhân viên. Chúng tôi cho ra đời thành quả sáng tạo – Macintosh – khi tôi mới bước sang tuổi 30.

        Sau đó, tôi bị sa thải. Sao bạn lại có thể bị sa thải tại ngay công ty mà bạn lập ra? Apple đã thuê một người mà tôi nghĩ là đủ tài năng để điều hành công ty với mình và năm đầu tiên, mọi thứ đã diễn ra tốt đẹp. Nhưng sau đó, tầm nhìn về tương lai của chúng tôi khác nhau và không thể hợp nhất. Khi đó, ban lãnh đạo đứng về phía ông ấy. Ở tuổi 30, tôi phải ra đi. Những gì tôi theo đuổi cả đời đã biến mất, nó đã bị phá hủy.

        Tôi không biết phải làm gì trong những tháng tiếp theo. Tôi cảm thấy như mình đã đánh rơi mất cây gậy trong cuộc chơi khi người ta vừa trao nó cho tôi. Tôi đã gặp David Packard và Bob Noyce, cố gắng xin lỗi vì đã làm mọi chuyện trở nên tồi tệ. Tôi còn nghĩ đến chuyện bỏ cuộc. Nhưng mọi thứ bắt đầu kéo tôi trở lại. Tôi vẫn yêu những gì tôi làm. Bước ngoặt tại Apple không thay đổi con người tôi. Tôi bị từ chối, nhưng tôi vẫn còn yêu. Vì thế tôi quyết định làm lại từ đầu.

        Khi đó tôi đã không nhận ra, nhưng hóa ra bị sa thải lại là điều tốt nhất dành cho tôi. Sức ép duy trì sự thành công đã được thay thế bằng tinh thần nhẹ nhàng của người mới bắt đầu lại và không chắc về những gì sẽ diễn ra. Nó giải phóng tôi để bước vào giai đoạn sáng tạo nhất cuộc đời.

        Trong năm năm tiếp theo, tôi thành lập NeXT và một công ty khác mang tên Pixar và phải lòng một người phụ nữ tuyệt vời, người trở thành vợ tôi sau này. Pixar tạo ra bộ phim từ đồ họa máy tính đầu tiên trên thế giới – Toy Story và hiện là xưởng phim hoạt hình thành công nhất toàn cầu. Apple mua lại NeXT, tôi trở lại và công nghệ tôi phát triển ở NeXT là trọng tâm trong cuộc phục hưng Apple. Tôi và vợ Laurene cũng có một cuộc sống gia đình tuyệt vời.

        Tôi khá chắc chắn rằng những điều trên sẽ không xảy ra nếu tôi không bị Apple sa thải. Nó như một liều thuốc đắng và kinh khủng, nhưng bệnh nhân cần nó. Đôi khi cuộc đời sẽ giáng một viên gạch vào đầu bạn. Đừng mất niềm tin. Tôi hiểu thứ duy nhất khiến tôi vững vàng chính là niềm đam mê. Bạn phải tìm ra bạn yêu cái gì. Nó đúng cho công việc và cho cả những người thân yêu của bạn. Công việc chiếm phần lớn cuộc đời và cách duy nhất để thực sự hài lòng là làm những gì bạn tin nó sẽ trở nên tuyệt vời. Và cách duy nhất có công việc tuyệt vời là yêu những gì bạn làm. Nếu chưa nhận ra, hãy tiếp tục tìm kiếm. Đừng dừng lại. Như mọi mối quan hệ trong cuộc đời, nó sẽ trở nên ngày càng tốt đẹp hơn qua từng năm.

        Câu chuyện thứ ba là về cái chết.

        Khi 17 tuổi, tôi đọc ở đâu đó rằng: “Nếu sống mỗi ngày như thể đó là ngày cuối cùng, một ngày nào đó bạn sẽ đúng”. Điều đó gây ấn tượng với tôi và 33 năm qua, tôi nhìn vào gương mỗi sáng và hỏi: “Nếu hôm nay là ngày cuối của cuộc đời mình, mình có muốn làm những gì định làm hôm nay không?”. Nếu câu trả lời là “Không” kéo dài trong nhiều ngày, đó là lúc tôi biết tôi cần thay đổi.

        Luôn nghĩ rằng mình sẽ sớm chết là công cụ quan trọng nhất giúp tôi tạo ra những quyết định lớn trong đời. Vì gần như mọi thứ, từ hy vọng, niềm tự hào, nỗi sợ hãi, tủi hộ hay thất bại, sẽ biến mất khi bạn phải đối mặt với cái chết, chỉ còn lại điều thực sự quan trọng với bạn. Nghĩ rằng mình sắp chết là cách tốt nhất tôi tránh rơi vào bẫy rằng tôi sẽ mất cái gì đó. Khi không còn gì nữa, chẳng có lý gì bạn không nghe theo lời mách bảo của trái tim.

        Một năm trước, tôi biết mình bị ung thư. Tôi được chụp cắt lớp lúc 7h30 và nhìn thấy rõ khối u trong tuyến tụy. Tôi còn chẳng biết tuyến tụy là cái gì. Bác sĩ bảo tôi bệnh này không chữa được và tôi chỉ có thể sống thêm 3 đến 6 tháng nữa. Ông ấy khuyên tôi về nhà và sắp xếp lại công việc, cố gắng trò chuyện với bọn trẻ những điều mà tôi định nói với chúng trong 10 năm tới, nhưng giờ phải tâm sự trong vài tháng. Nói cách khác, hãy nói lời tạm biệt.

        Tối hôm đó, tôi được kiểm tra sinh thiết. Họ đút một ống qua cổ họng tôi xuống dạ dày và ruột rồi đặt một cái kim vào tuyến tụy để lấy mẫu tế bào khối u. Tôi giữ thái độ bình thản, và vợ tôi, cũng có mặt lúc đó, kể với tôi rằng khi các bác sỹ xem các tế bào dưới kính hiển vi, họ đã reo lên khi phát hiện đây là trường hợp ung thư tuyến tụy hiếm hoi có thể chữa được bằng phẫu thuật. Tôi đã được phẫu thuật và bây giờ tôi đã khỏe lại.

        Đó là lần gần nhất tôi đối mặt với cái chết. Tôi hy vọng lần tiếp theo sẽ là vài thập kỷ nữa. Không ai muốn chết. Ngay cả người mong được lên thiên đường cũng không muốn chết để tới đó. Nhưng cái chết là đích đến mà chúng ta đều phải tới. Không ai thoát được nó. Cái chết như là phát minh hay nhất của sự sống. Nó là tác nhân thay đổi cuộc sống. Nó loại bỏ sự cũ kỹ (người già) để mở đường cho cái mới (lớp trẻ). Các bạn chính là thế hệ trẻ, nhưng ngày nào đó sẽ già đi và rời bỏ cuộc sống. Xin lỗi vì đã nói thẳng nhưng điều đó là sự thật.

        Thời gian của bạn không nhiều, đừng lãng phí bằng cách sống cuộc đời của người khác. Đừng nghe những lời giáo điều, vì đó là suy nghĩ của người khác. Đừng để những quan điểm ồn ào lấn át tiếng nói bên trong bạn. Chúng biết bạn muốn gì. Mọi thứ khác chỉ là thứ yếu.

        Khi tôi còn trẻ, có một cuốn sách thú vị là “The Whole Earth Catalog “(Cẩm nang thế giới). Nó giống như một cuốn kinh thánh, kim chỉ nam của thế hệ tôi. Tác giả Steward Brand tạo ra nó vào thập niên 60, trước thời máy tính cá nhân. Nội dung sách được soạn bằng máy đánh chữ, bằng kéo và bằng máy ảnh polaroid. Nó như Google trên giấy vậy. Ở bìa sau của cuốn sách có in ảnh một con đường trong ánh bình minh, bên dưới là dòng chữ: “Sống khát khao. Sống dại khờ”. Tôi luôn chúc điều đó cho chính mình. Hôm nay, các bạn tốt nghiệp và sắp bước vào cuộc đời mới, tôi cầu chúc điều đó cho các bạn.

        Hãy luôn khát khao. Hãy cứ dại khờ.

        Steven Jobs”

        Qua Steven Jobs chuyện đời tự kể, bạn hẵn tìm thấy bài học cuộc sống và lời khuyên thấm thía cho riêng mình. Quả táo Apple là cảm hứng của Steve Jobs cho sự ra đời thương hiệu Apple Inc. nổi tiếng thế giới và chính Apple Inc. lại làm bừng sáng giá tri cao quý của Apple, Quả táo, loài quả phổ biến nhất hành tinh.

        Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là qua-tao-apple-steve-jobs-2.jpg

        CÂU CHUYỆN QUẢ TÁO

        Táo tây tiếng Anh là Apple tên khoa học là Malus domestica, còn gọi là bôm, phiên âm từ pomme tiếng Pháp, là một trong những loại cây ăn trái phổ biến nhất trên thế giới. Loài cây thân gỗ này thuộc họ Hoa hồng (Rosaceae).Táo ta ở Việt Nam (Ziziphus mauritiana) là loại cây ăn quả của vùng nhiệt đới, thuộc họ Táo (Rhamnaceae). Tại Trung Quốc, nó được gọi là táo chua, táo Ấn Độ hay táo Điền (táo Vân Nam), táo gai Vân Nam. Cây Táo ta có đường kính tán khoảng 4m thậm chí tới 12 mét và đạt tuổi thọ 25 năm. Nó có nguồn gốc ở châu Á (chủ yếu là Ấn Độ) mặc dù cũng có thể tìm thấy ở châu Phi. Quả là loại quả hạch, khi chín quả giòn, mọng, vị ngọt, mềm, chứa nhiều nước. Các quả chín vào các khoảng thời gian khác nhau ngay cả khi chỉ trên một cây và có màu lục nhạt khi còn xanh và vàng nhạt khi chín. Kích thước và hình dạng quả phụ thuộc vào các giống khác nhau trong tự nhiên cũng như loại được trồng. Quả được dùng để ăn khi đã chín hoặc ngâm rượu hay sử dụng để làm đồ uống. Nó là một loại quả giàu chất dinh dưỡng và chứa nhiều vitamin C.

        Steve Jobs chưa kể cho chúng ta nghe vì sao ông lại chọn quả táo Apple Inc làm thương hiệu và vì sao lại là biểu tượng quả táo khuyết. Chính trong sự nhọc nhằn khởi nghiệp của Jobs, quả táo đã thấm sâu vào tiềm thức. Thầy Nguyễn Lân Dũng tóm tắt điều này trong bài “Câu chuyện về ông chủ Apple”:“Đầu những năm 1980, Jobs là một trong những người đầu tiên nhìn thấy tiềm năng thương mại của giao diện người dùng điều khiển đồ họa bằng cách sử dụng chuột dẫn đến việc ra đời Macintosh. Quá trình hoạt động kinh doanh của Steve Jobs đã đóng góp nhiều cho các hình ảnh biểu tượng mang phong cách riêng. Steve Jobs, nhà doanh nghiệp tiêu biểu của Thung lũng Silicon, nhấn mạnh tầm quan trọng của thiết kế và hiểu biết vai trò thiết yếu của tính thẩm mỹ trong việc thu hút công chúng. Công việc của ông thúc đẩy sự phát triển của các sản phẩm mà chức năng và tính thanh lịch của chúng đã thu hút những người ủng hộ hết mình”.

        Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là qua-tao-apple-steve-jobs-4.jpg

        Thương hiệu Apple được định giá gần 119 tỷ USD. Ảnh: NDTV. “Apple vẫn là thương hiệu giá trị nhất thế giới. Năm 2014 là năm thứ 2 liên tiếp Táo Khuyết qua mặt Google để chiếm vị trí thương hiệu giá trị nhất thế giới với gần 119 tỷ USD. Ngoài Apple và Google, không có thương hiệu nào được định giá trên 100 tỷ USD, theo báo cáo thường niên Best Global Brands của Interbrand. Hãng tư vấn đánh giá các thương hiệu dựa trên 3 tiêu chí chính. Ngoài năng lực tài chính, họ còn nhìn vào khả năng tăng giá và ảnh hưởng của thương hiệu lên sự lựa chọn của khách hàng.” Thông tin Vnexpress, Hà Thu, ngày 10/10/2014 cho biết. “Apple được định giá 118,9 tỷ USD, tăng 21% so với năm 2013. Trong khi đó, còn số này tại Google là 107,43 tỷ USD, tăng 15% so với năm ngoái. “Sự tăng trưởng của Apple và Google là minh chứng cho sức mạnh của việc xây dựng thương hiệu”, Jez Frampton – CEO Interbrand nhận xét. Những danh hiệu nổi tiếng thế giới, ngoài Táo Khuyết và Google, các công ty công nghệ chiếm nửa top 10, với IBM ở vị trí thứ 4, Microsoft thứ 5 và Samsung thứ 7. Trong khi đó, ngành ôtô cũng có 4 đại diện trong top 20 là Toyota (8), Mercedes-Benz (10), BMW (11) và Honda (20). Giá trị 3 thương hiệu xe hơi khác là Audi, Volkswagen và Nissan cũng có sức tăng trưởng vượt bậc với hơn 20%.”

        Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là qua-tao-aple-steve-job.jpg

        Ngày 3 tháng 8 năm 2018, với việc đạt giá trị vốn hóa một nghìn tỷ USD, Apple trở thành công ty đại chúng nghìn tỷ USD đầu tiên trên thế giới; Giá trị của Apple hiện nay đã lớn hơn GDP của nhiều quốc gia phát triển, trong đó có Hà Lan, Thụy Điển, Thụy Sỹ, Argentina (theo số liệu của CIA); Trong năm tài khóa 2019, doanh thu Apple đạt 260,2 tỷ USD, gần bằng GDP Việt Nam, theo Axios; so với Alphabet đạt 161,19 tỷ USD, gần bằng GDP Ukraine; Facebook đạt 70,7 tỷ USD, tương đương GDP của Venezuela. Quả táo Apple Steve Jobs là niềm tự hào của nước Mỹ và nhân loại.

        Hai câu chuyên trên đây cho thấy Steve Jobs đã mang đến “Quả táo” “Apple” thương hiệu Mỹ giá trị biết bao.

        Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là qua-tao-apple-steve-jobs-3.jpg

        HOA VÀ ONG, BÀI CA CÂY TÁO

        William Cullen Bryant (1794-1878) nhà thơ và nhà báo Mỹ đã viết “Bài ca cây táo” rất nổi tiếng. Lời vàng của bài thơ này đã tạc cây táo vào văn chương Anh Mỹ và văn hóa nhân loại nhưng sự dịch bài thơ này sang tiếng Việt hay và chuẩn khó đến nản lòng:

        “What plant we in this apple tree? Sweets for a hundred flowery springs To load the May-wind’s restless wings, When, from the orchard-row, he pours Its fragrance through our open doors; A world of blossoms for the bee, Flowers for the sick girl’s silent room, For the glad infant sprigs of bloom, We plant with the apple tree”

        Tạm dịch ý:

        Cây táo này của chúng ta. Ngọt ngào cho trăm suối hoa xuân.Tải cánh bồn chồn của gió tháng năm, Khi các hàng táo đưa hương thơm qua những cánh cửa mở; Một thế giới của hoa cho ong, hoa cho phòng tĩnh lặng của cô gái mòn mỏi đợi chờ, nhánh hoa mừng cho trẻ sơ sinh, Chúng ta trồng cây táo.

        Hoàng Kim tạm dịch thơ

        Cây táo này của chúng ta.Ngọt ngào trăm suối rừng hoa xuân về.Gió trời tải cánh đam mê,Khi hương táo ngát tình quê gọi mời Mở toang cánh cửa đất trời Ong say làm mật bồi hồi bên hoa, Hoa em mòn mỏi đợi chờ,Nhánh hoa mừng trẻ mong chờ phục sinh, Hoa xuân của tiết Thanh Minh Chúng ta trồng táo gieo lành phước duyên.

        Nguồn: Classic Quotes by William Cullen Bryant(1794-1878) US poet and newspaper editor

        Ba quả táo làm thay đổi thế giới: quả táo trong vườn địa đàng Adam và Eva, quả táo rơi trúng Newton, và quả táo cắn dở của Steve Jobs. “Những câu chuyện về Jobs luôn là nguồn cảm hứng dồi dào cho thế hệ trẻ. Nếu như Bill Gates nổi tiếng bởi sự giàu có và tấm lòng nhân hậu chinh phục lòng người thì Steve Jobs phần nào đó vẫn được yêu quý hơn bởi năng lực sáng tạo, tinh thần gần gũi, một con người thực sự đã làm thay đổi toàn thế giới: Máy tính cá nhân Mac, điện thoại Iphone, Ipad, Ipod, Xưởng phim hoạt hình Pixar, hay cả trong âm nhạc với Itune…“. Tôi thực sự rất đồng cảm với em.

        Một thế giới của hoa cho ong, của Hoa và Ong, của những giấc mơ lành hạnh phúc. ‘Hãy luôn khát khao Hãy cứ dại khờ’.

        Tài sản quý giá nhất của đời người là sức khỏe

        Bài học rút ra của Steve Jobs những phút cuối đời đã có sức lay động hàng triệu người, bởi họ cũng như ông: lao vào công việc mà bỏ quên chính mình, không chăm sóc thân – tâm! Là một hình tượng mẫu mực của sự thành công trong giới kinh doanh, nhưng Steve Jobs lại sớm qua đời vì căn bệnh ung thư ở tuổi 56. Những lời cuối cùng trước khi ông ra đi đã làm thức tỉnh hàng triệu người. Tất cả sự công nhận, sự giàu có, vinh quang mà ông đã mất rất nhiều năm tháng tuổi trẻ để có đuợc dần trở nên vô nghĩa khi cận kề với cái chết. Đối mặt với giây phút ấy, ông mới nhận ra tình yêu và sức khỏe mới là thứ quan trọng nhất…: Video tuyệt vời của #Langmaster_Careers

        Quả táo Apple Steve Jobs là Bài ca thời gian.

        HOÀNG GIA CƯƠNG THƠ HIỀN
        Hoàng Kim

        Nhà thơ Hoàng Gia Cương có các tác phẩm chính: Thơ 1) Theo dòng thời gian Nxb Văn Học 2013; 2) Trãi nghiệm với thời gian Nxb Hội nhà văn 2010, 3) Cổ tích cho mai sau Nxb QĐND 2006. 4) Trong cõi vô biên Nxb Hội nhà văn 2005, 5) Lắng đọng Nxb Hội nhà văn, 2001, 7) Lặng lẽ thời gian, Nxb Thanh Niên 1997, 8) Truyện ký rãi rác nhiều năm. Tác phẩm thơ văn của Hoàng Gia Cương có mặt trên 30 tuyển tập, tập thơ văn in chung. Tôi không phải là người bình thơ, chỉ xin lưu đôi điều tâm đắc.

        THỜI GIAN LẮNG ĐỌNG NGƯỜI HIỀN

        Hoàng Kim cảm nhận thơ Hoàng Gia Cương

        Hay từ bài tuyển đầu tiên,
        Ánh Trăng khuya rọi khắp miền thế gian,
        Lạ thay thi tứ nồng nàn,
        Tình yêu cuộc sống muôn vàn yêu thương.

        Câu thơ lắng đọng đời thường,
        Mạ ơi xúc động lời thương dặn dò,
        Cha tôi là một nhà Nho,
        Tìm về nguồn cội, Chớm thu … tuyệt vời !

        Cội nguồn Lũng Động, Cổ Trai,
        Khí thiêng cõi Bắc nhớ nơi sinh thành,
        Vua Thái tổ Mạc Đăng Dung,
        Hoàng chi dòng đích lưu cùng nước non.

        Phố Cụt, Phố nối, Phố cong,
        Đi trong phố nhỏ một vòng nhân gian
        Rùa ơi tôn bậc trí nhân
        Để nền Văn hiến ngàn năm không nhòa.

        Sáu mươi năm Mạ đi xa,
        Mạ ơi tiếng vọng không là niềm riêng.

        Thời gian lắng đọng người hiền.
        Trăng khuya xế bóng, bình mình rạng ngời.

        (*) Những chữ in đậm là tuyển chọn các bài tôi thích nhất trong tập thơ Theo dòng thời gian của nhà thơ Hoàng Gia Cương

        NGỌC TRAI BÉ ÔNG TÔI

        Nhà thơ Hoàng Gia Cương sinh ngày 25 tháng 10 năm 1942 ở làng Minh Lệ, xã Quảng Minh, thị xã Ba Đồn, tỉnh Quảng Bình, nghề kỹ sư vô tuyến điện, nghiệp hội viên hội nhà văn Hà Nội. Trong các tác phẩm nêu trên, tôi thích nhất là tập thơ “Theo dòng thời gian, Nhà Xuất Bản Văn Học Hà Nội năm 2013, 447 trang, ” “Thời gian chảy tới vô cùng Lắng bao tinh chất… Bỏ công kiếm tìm !  (Hoàng Gia Cương)“. Hoàng Gia Cương theo dòng thời gian thao thức một tầm nhìn nhân văn sâu sắc, tài hoa. Đọc sách, tôi lật xem trang đầu và trang cuối. Phụ lục 1 của sách THEO DÒNG THỜI GIAN có các câu: “Văn muốn đạt tài hoa, tâm cần sáng, tứ cần sâu, năng gạn đục khơi trong văn mới tuyệt. Nghệ mong nên tuyệt tác, trí phải minh, công phải trọng, biết tầm sư học đạo nghệ càng tinh“; “CHÍ khí một hiền MINH, vạch lối, dẫn đường, gây nghiệp lớn hồi sinh đất nước. NGUYÊN  vẹn từng trụ GIÁP, xua Tây, trừ Mỹ, lập công đầu bảo vệ non sông”. “Mạc tộc dựng xây thiên kỷ tạc. Hoàng chi bồi đắp vạn đời ghi“. Trang Phụ lục cuối sách có hai vế mời đối của hai trong các câu đối, ẩn ý sâu xa thú vị: Phải từ đâu để định hướng đầu tư cho năng lượng ngày lương thêm nặng? Hoài sao chẳng vẽ?

        Nhà nho Hoàng Bá Chuân, bố của bảy người con trai ở câu chuyện “Cuộc đoàn tụ bất ngờ của 5 anh em ngày giải phóng thủ đô“, là em ruột của bà ngoại tôi. Chúng tôi tự hào về dòng họ Hoàng có nhiều người con trung hiếu với đất nước, quê hương và gia đình. Ông tôi thường dạy con cháu về nếp nhà phúc hậu văn hóa. Ông tôi viết: Nhà tôi sinh được bảy người con/ Quyết chí chung tình với nước non/ Kháng chiến năm con đi khắp nước/ Lớn lên trai bé sẽ xung phong… Cậu Cương ngọc trai bé của ông tôi, sau này cũng vào bộ đội Trung đoàn Thủ Đô (E102) Sư đoàn Quân Tiên phong (F308). Cậu Cương dần dà theo trọn đời nghề làm kỹ thuật vô tuyến điện nhưng cái nghiệp lắng đọng lại là thơ, theo dòng thời gian thao thức một tầm nhìn nhân văn sâu sắc, tài hoa, với một gia đình hạnh phúc, nếp nhà phúc hậu và văn chương đích thực.

        vonguyengiapansochinhtrung

        Sáu anh em ruột gia đình đến thăm đại tướng Võ Nguyên Giáp (1996). Từ trái sang: Hoàng Gia Cương, Hoàng Thúc Cảnh, bà Đặng Bích Hà, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, cô Võ Hồng Anh, Hoàng Thúc Cẩn, Hoàng Thúc Tấn, Hoàng Thúc Tuệ, Hoàng Quý Thân.

        Cụ Chuân là một nhà Nho thích nếp nhà thanh đạm phúc hậu, cẩn trọng cần kiệm, nền nếp gia giáo. Các con của Cụ sau năm 1954 đều giữ trọng trách, một gia đình trí thức cách mạng được các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước rất quý trọng và quan tâm. Người anh lớn ông Hoàng Thúc Cảnh thời kỳ Việt Bắc công tác tại Văn phòng Phủ Chủ tịch, sau này làm cố vấn Văn phòng Chính phủ suốt thời gian dài mãi cho đến khi cụ Phạm Văn Đồng nghỉ hưu thì mới nghỉ, hai anh em ông Hoàng Thúc Cẩn và Hoàng Thúc Tuệ đều là đại tá quân đội, ông Hoàng Thúc Tấn là Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ, ông Hoàng Quý Thân là tiến sỹ công tác ở Uỷ ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước, ông Hoàng Gia Cương là kỷ sư vô tuyến điện và là nhà thơ. Chuyện triều đình tôi vắn tắt đôi điều. Tôi chỉ biết là tất cả các cậu đều rất quý cha mẹ tôi, những nông dân lương thiện, sống có tình có nghĩa với làng xóm và rất thương anh chị em tôi, những đứa con mồ côi tuy cha mẹ tôi chết sớm nhưng anh em biết đùm bọc và rất thương yêu nhau.

        Anh Bu Lu Khin Nguyễn Quốc Toàn là người anh và bạn thiết của tôi rất đồng cảm về nếp nhà. Anh Toàn bên nội và bên ngoại đều thuộc dòng dõi gia thế. Gia đình anh chị Toàn Hà trưng trang trọng tự hào trong phòng thờ Tổ tiên ba chữ yêu thích “THANH THẬN CẦN Minh Mệnh châu phê”do vua Minh Mệnh ban cho vị quan trung lương dòng họ Nguyễn Quốc là quan “thanh liêm, cẩn thận, cần cù”. Lời ban khen của một ông vua phong kiến thời nay chẳng mấy ai quan tâm, nhưng  gia đình anh Bu thì thực lòng kính cẩn trân trọng và tự hào về nếp nhà của dòng họ. Nơi yên nghỉ của họ nội Nguyễn Quốc bên dòng sông Gianh lưu giữ  đôi câu đối cổ kính “Chu biên quốc trọng thân hầu mệnh / Đường bảng gia truyền liễu tử danh” (Dòng họ có những nhân vật giữ trọng trách với quốc gia như Thân Bất Hại thời nhà Chu/ Đời này sang đời khác có những thi nhân văn gia nỗi danh như Liễu Tông Nguyên thời nhà Đường).Tôi đọc bài anh Bu mà tâm đắc lời thơ của cậu Cương: “Cúi mình trước đấng Tổ Tông? Râm ran như được tiếp dòng máu thiêng“.

        Nhà cụ Hoàng Bá Chuân ông tôi cũng tự hào và lặng lẽ thời gian giữ lại đôi dòng vắn tắt “Hậu duệ của Hoàng đế Mạc Đăng Dung” tại khu mộ chí họ Hoàng ở động Ma Ca dưới chân hòn Đá Đứng ở làng Minh Lệ, nay là xã Quảng Minh, thị xã Chợ Đồn, tỉnh Quảng Bình. Tương truyền nguồn gốc dòng họ Hoàng làng Minh Lệ là hậu duệ Hiển tổ Mạc Đỉnh Chi (1280-1346) ở hương Lũng Động và Thái tổ Mạc Đăng Dung (1483 – 1541) ở hương Cổ Trai, ly tán vào đất Quảng Bình cải thành họ Hoàng để tránh sự báo thù của vua Lê chúa Trịnh, tuy làm nông nghiệp nhưng các thế hệ con cháu vẫn giữ được truyền thống hiếu học và văn chương của dòng tộc. Vì thế, nhà nho Hoàng Bá Chuân đã được theo đuổi Cửa Khổng sân Trình từ nhỏ, tinh thông Tứ thư Ngũ kinh, điêu luyện các thể thơ phú, trở thành một nhà Nho được kính nể. Đó là niềm tự hào của dòng họ Hoàng – Trần trong bốn họ chính Hoàng – Trần – Trương – Nguyễn của làng Minh Lệ chúng tôi và đây là một câu chuyện dài…

        Xem tiếp >>

          Dạy và học 4 tháng 10(04-10-2021)


        DẠY VÀ HỌC 4 THÁNG 10
        Hoàng Kim
        CNM365 Tình yêu cuộc sốngBan mai đứng trước biển;Vị tướng của lòng dân; Nếp nhà đẹp văn hóa; Có ba dòng văn chương; Bài đồng dao huyền thoại; Chợt gặp mai đầu suối; Bên suối một nhành mai; Thơ vui những ngày nhàn. Ngắm dấu chân thời gian; Trời nhân loại mênh mông; Ngày 4 tháng 10 năm  2013 là ngày mất Võ Nguyên Giáp, nhà chỉ huy quân sự và nhà hoạt động chính trị kiệt xuất Việt Nam (sinh năm 1911). Ngày 4 tháng 10 năm 1966 ngày lễ Độc lập của Vương quốc Lesotho (1966); Ngày 4 tháng 10 Ngày Động vật thế giới; Ngày Phòng cháy, chữa cháy Việt Nam. Bài chọn lọc ngày 4 tháng 10: Ban mai đứng trước biển; Vị tướng của lòng dân; Nếp nhà đẹp văn hóa; Có ba dòng văn chương; Bài đồng dao huyền thoại; Chợt gặp mai đầu suối; Bên suối một nhành mai; Thơ vui những ngày nhàn. Ngắm dấu chân thời gian; Trời nhân loại mênh mông; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-4-thang-10

        BAN MAI ĐỨNG TRƯỚC BIỂN
        Hoàng Kim

        Ban mai đứng trước biển
        Đảo Yến trong mắt ai
        Thăm thẳm một tầm nhìn
        Vị tướng của lòng dân.

        VỊ TƯỚNG CỦA LÒNG DÂN
        Hoàng Kim

        Võ Nguyên Giáp vị tướng của lòng dân. Người dĩ công vi thượng, biết người biết mình, dám đánh và biết đánh thắng. Đại tướng Võ Nguyên Giáp có những câu nói bất hủ:Thế giới còn đổi thay nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh sẽ sống mãi”; “Ý định của tôi là ra lệnh hoãn cuộc tiến công ngay chiều hôm nay, thu quân về vị trí tập kết, chuẩn bị lại theo phương châm đánh chắc, tiến chắc”; “Ngày hôm đó, tôi đã thực hiện được một quyết định khó khăn nhất trong cuộc đời chỉ huy của mình!”; “Thần tốc, thần tốc hơn nữa; táo bạo, táo bạo hơn nữa; tranh thủ từng phút, từng giờ; xốc tới mặt trận; giải phóng miền Nam. Quyết chiến và toàn thắng!”; Chúng tôi đánh theo cách đánh khác, cách đánh của Việt Nam, và chúng tôi sẽ thắng”; “Vị tướng dù có công lao lớn đến đâu cũng chỉ là giọt nước trong biển cả. Chỉ có nhân dân Việt Nam là người đánh thắng Mỹ. Các ngài gọi tôi là vị tướng thần thoại, nhưng tôi tự nghĩ tôi bình đẳng với những người lính của mình”; “Tôi sống ngày nào, cũng là vì đất nước ngày đó” Cuộc đời Người là 103 mùa xuân huyền thoại, còn mãi với non sông.

        VÕ NGUYÊN GIÁP 103 MÙA XUÂN HUYỀN THỌAI

        Đại tướng Võ Nguyên Giáp sinh ngày 25 tháng 8 năm 1911 tại làng An Xá, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình, qua đời ngày 4 tháng 10 năm 2013, lúc 18 giờ 9 phút và an táng ngày 9 tháng 9 năm Quý Tỵ (nhằm ngày 13 tháng 10 năm 2013) tại mũi Rồng- đảo Yến, xã Quảng Đông, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình. Người trãi cuộc trường chinh thế kỷ với 103 mùa xuân huyền thoại, là nhà chỉ huy quân sự và hoạt động chính trị lỗi lạc bên cạnh chủ tịch Hồ Chí Minh.

        Đại tướng Võ Nguyên Giáp là người chỉ huy chính trong Chiến tranh Đông Dương (1946– 1954) và chiến tranh Việt Nam (1960–1975) đã trực tiếp hoặc tham gia chỉ huy Chiến dịch Việt Bắc (thu đông 1947), Chiến dịch Biên giới (thu đông năm 1950), Chiến dịch Trung Du (tháng 12 năm 1950), Chiến dịch Đông Bắc (năm 1951, Chiến dịch Đồng Bằng (tháng 5 năm 1951), Chiến dịch Hòa Bình (tháng 12 năm 1951), Chiến dịch Tây Bắc (tháng 9 năm 1952), Chiến dịch Thượng Lào (tháng 4 năm 1953), Chiến dịch Điện Biên Phủ (tháng 3 – 5 năm 1954), Chiến dịch Tết Mậu Thân (1968), Chiến dịch đường Chín Nam Lào (1971), Chiến dịch Trị Thiên – Huế (1972), Chiến dịch Hồ Chí Minh (1975). Nhiều tài liệu lịch sử gần đây từ hai phía đã soi thấu những góc khuất, càng thể hiện tài năng kiệt xuất của Đại tướng Võ Nguyên Giáp về chiến lược, chiến dịch, chiến thuật trong suốt Chiến tranh Đông Dương (1946–1954) và chiến tranh Việt Nam (1960–1975). Sau khi Việt Nam thống nhất, đại tướng Võ Nguyên Giáp thôi giữ chức Bộ trưởng Bộ Quốc phòng năm 1980 nhưng vẫn tiếp tục là Ủy viên Bộ Chính trị đến năm 1982 và Phó Thủ tướng phụ trách Khoa học – Kỹ thuật. Năm 1983 ông được Hội đồng Bộ trưởng phân công kiêm nhiệm thêm vai trò Chủ tịch Ủy ban quốc gia dân số và sinh đẻ có kế hoạch. Năm 1991, đại tướng nghỉ hưu ở tuổi 80. Thời gian cuối đời, đại tướng vẫn quan tâm đến những vấn đề cơ bản và cấp bách của đất nước, với một loạt những tác phẩm, kiến nghị, đề xuất còn mãi với thời gian như: Thế giới còn đổi thay nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn sống mãi; Để cho khoa học thật sự trở thành động lực phát triển kinh tế xã hội, Đổi mới, tiếp tục đổi mới, dân chủ, dân chủ hơn nữa, nâng cao trí tuệ, đoàn kết tiến lên trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, Đổi mới nền giáo dục và đào tạo Việt Nam; yêu cầu kiểm định và báo cáo Đại hội Đảng Cộng sản X về Vụ PMU18; gặp gỡ và khuyến khích doanh nhân làm xuất khẩu nông sản; đề nghị dừng chủ trương xây dựng Nhà Quốc hội ở khu di tích 18 Hoàng Diệu; viết thư yêu cầu thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tạm dừng Dự án khai thác bô xít ở Tây Nguyên vì lý do an ninh quốc gia và  môi trường; đúc kết Tổng tập Võ Nguyên Giáp;…

        Đại tướng Võ Nguyên Giáp có các tác phẩm chính:  Tổng tập Võ Nguyên Giáp (2010); Điện Biên Phủ 50 năm nhìn lại (2004); Tổng hành dinh trong mùa xuân đại thắng (2000); Điện Biên Phủ điểm hẹn lịch sử (2000); Đường tới Điện Biên Phủ (2001); Chiến đấu trong vòng vây (1995,2001); Chiến tranh giải phóng dân tộc và chiến tranh bảo vệ Tổ quốc (1979); Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam (Võ Nguyên Giáp chủ biên, 2000); Những chặng đường lịch sử (1977); Vũ trang quần chúng cách mạng, xây dựng quân đội nhân dân (1972); Những năm tháng không thể nào quên (1970, 2001) Mấy vấn đề đường lối quân sự của Đảng (1970); Từ nhân dân mà ra (1964); Đội quân giải phóng (1950); Vấn đề dân cày (Trường Chinh,Võ Nguyên Giáp (1938);

        VÕ NGUYÊN GIÁP VỊ TƯỚNG CỦA LÒNG DÂN

        “Văn lo vận nước Văn thành Võ/ Võ thấu lòng dân, Võ hoá Văn”. Đó là đôi câu đối của cụ Hồ Cơ trên 90 tuổi, từng là Hiệu trưởng trường Trung học Nguyễn Nghiêm, huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi, nay sống ở phường Láng Hạ, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội, khái quát tài năng, đức độ của vị Đại tướng huyền thoại, đăng trong bài” Một câu đối – Một đời người ” của VOV. Sự ra đi của Võ Đại tướng đã mở đầu cho những giá trị mới của cuộc sống như một câu đối khác cũng của nhà giáo Hồ Cơ ngưỡng vọng Người: “Trăm tuổi lừng danh Văn Đại tướng/ Nghìn thu vang tiếng Võ Anh hùng”.

        Nhà văn Sơn Tùng có bức trướng: “Võ nghiệp dẹp xong ba đế quốc/ Văn tài xây đắp một nhà chung/ Võ Văn minh đạo chân Nguyên Giáp/ Nhật nguyệt vô thường một sắc không”.

        Bộ Nội vụ tặng Đại tướng đôi lộc bình trên đó có ghi đôi câu đối mang ý nghĩa sâu xa : “Tâm sáng Đảng tin, đời trường thọ/ Trí cao Dân mến, sử lưu danh.” mà tài liệu Soha.vn đã trích dẫn. Nhiều bài thơ văn nhạc viết về Người và đồng đội “Lính Cụ Hồ” theo chân Người. Nhà thơ Hoàng Gia Cương viết

        Mãi mãi là Anh
        Kính tặng anh Văn – Đại tướng Võ Nguyên Giáp

        Anh đã là Anh – mãi mãi Anh
        Người Anh của lớp lớp hùng binh
        Song toàn văn võ, thông kim cổ
        Vững chí bền gan đạp thác ghềnh!

        Nhiều người ứa nước mắt xúc động tiễn Bác Giáp về cõi vĩnh hằng và thấm thía lời nói của Người về lòng yêu nước và sức mạnh toàn dân:”Có lòng dân là có tất cả”.

        Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam, đại tá tiến sĩ Vũ Tang Bồng đúc kết: “MÃI LÀ ANH CẢ CỦA QUÂN ĐỘI, ĐẠI TƯỚNG CỦA NHÂN DÂN. Ngày 4-10-2013, Đại tướng Võ Nguyên Giáp – Người Anh Cả của Quân đội nhân dân Việt Nam, Đại tướng của nhân dân, được cả dân tộc ngưỡng mộ, đã qua đời. Là người có may mắn được gặp và giúp việc cho Đại tướng trong một số lần, trong 5 năm qua, cứ vào dịp kỷ niệm ngày mất của Đại tướng, tôi thường đọc lại những bài viết, hình ảnh trên báo chí những ngày ấy, và lần nào tôi cũng không kìm nổi lòng mình. Tôi còn nhớ, ngay sau khi biết tin Đại tướng từ trần, anh Hoàng Anh, một họa sĩ trẻ đã sáng tác poster “Chào đồng bào, tôi đi” và được Báo Lao động sử dụng làm tranh bìa trong số báo ra ngày 5-10-2013. Đúng 45 phút sau, poster đó được đưa lên Facebook và lập tức gây được sự chú ý đặc biệt. Poster “Chào đồng bào, tôi đi” của người họa sĩ trẻ gây được hiệu ứng lay động bởi hình ảnh của Đại tướng rất giản dị với nụ cười thanh thản. Câu chữ trên poster cũng rất độc đáo với hai chữ “đồng bào”, mà sinh thời Bác Hồ rất thường dùng với nghĩa kêu gọi, gắn kết cội nguồn thân thương, ruột thịt. Poster ấy đã khiến mọi người khi xem đều xúc động mạnh mẽ. Nó cho thấy sự cống hiến và thanh thản của Đại tướng lúc còn sống, cũng như khi về với tổ tiên.”Qua hồi ức của các tướng lĩnh và qua các tác phẩm quân sự của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, chúng ta ngày càng thấy rõ rằng, trong suốt cuộc đời cầm quân, Đại tướng không bao giờ chấp nhận một chiến thắng phải trả bằng bất cứ giá nào, hoặc phải trả bằng cái giá quá đắt xương máu của cán bộ, chiến sĩ, do những quyết định tùy tiện, hoặc thiếu thận trọng gây nên. Đừng nghĩ Đại tướng “sợ” hy sinh xương máu, hay thiếu tinh thần cách mạng tiến công! Không, hoàn toàn không! Đại tướng chưa bao giờ nhân danh việc thực hành quan điểm, cách mạng tiến công để đưa ra những mệnh lệnh chủ quan, gây thương vong nghiêm trọng cho bộ đội. Nguyên tắc bất di bất dịch trong chỉ huy và chỉ đạo cuộc chiến tranh cách mạng của Đại tướng là: Tầm cao mỗi chiến thắng phải tỷ lệ nghịch với tổng số tử sĩ, thương binh trong chiến thắng ấy.  Là một vĩ nhân, một vị tướng huyền thoại, một nhà văn hóa lớn, nên ngay cả sau khi đã nghỉ hưu, hằng ngày Đại tướng vẫn đón nhiều đoàn khách đến thăm hỏi, làm việc, gồm khách quốc tế, khách ở các cơ quan Đảng, Nhà nước, các ban ngành đoàn thể…, nhưng Đại tướng luôn dành sự ưu tiên đặc biệt cho các đoàn của cấp ủy, chính quyền và nhân dân các địa phương, trong đó nhiều đoàn không có lịch trước. Ông luôn dặn các cán bộ giúp việc tìm mọi cách bố trí để Ông có thể gặp được đồng bào, dù chỉ trong ít phút. Nhiều lần, Đại tướng phải xin lỗi các đoàn khách quan trọng, hoặc tranh thủ thời gian giải lao giữa các buổi làm việc để tiếp nhân dân. Những lời ân cần thăm hỏi, dặn dò, nhắc nhở, động viên của Đại tướng khiến đồng bào rất xúc động. Đại tướng cũng luôn nhắc các đồng chí giúp việc chụp ảnh kỷ niệm với bà con dưới gốc cây muỗm cổ thụ trong vườn; sau khi có ảnh thì gửi tặng ngay cho bà con. Đại tướng luôn chinh phục người khác bằng cách ứng xử tự nhiên và bằng tình cảm chân thành. Được chứng kiến lòng dân trong những ngày diễn ra lễ tang Đại tướng, chúng ta thấy rõ, cả dân tộc đã cùng xích lại gần nhau trong nỗi đau chung. Nhìn dòng người vào viếng Đại tướng trong những ngày đầu tháng 10-2013 cứ ngày một dài thêm, có thể thấy, không thước đo nào bằng thước đo lòng dân. Hàng triệu người dân từ già đến trẻ ở khắp mọi miền đất nước, từ miền núi đến đồng bằng, nông thôn, hải đảo đã vượt mọi khó khăn, xa xôi, vất vả, lặng lẽ, kính cẩn xếp hàng ở khu vực nhà riêng của Đại tướng và Nhà tang lễ quốc gia, chờ đến lượt vào viếng vị anh hùng, đã cho thấy cả dân tộc nắm tay nhau kết thành một khối thống nhất; qua đó, tinh thần dân tộc trong mỗi người Việt Nam càng được khơi dậy, phát huy. Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã đi xa, nhưng vẫn mãi là Người Anh Cả của Quân đội, Đại tướng của nhân dân, là ngọn lửa không bao giờ tắt, là nguồn cảm hứng sống và cống hiến của các thế hệ người Việt Nam hôm nay và mai sau.”

        Bác Giáp là vị tướng của lòng dân mà hầu như ai cũng yêu kính rất mực.

        Gia đình tôi cũng vậy. Buổi tối về nhà, nghe tin Bác Giáp mất, chúng tôi đã dừng hết mọi việc để lên thắp hương trên bàn thờ Cha Mẹ để tưởng nhớ Người và tưởng nhớ Bác Giáp. Bài viết này vào lúc một giờ khuya và nối tiếp vào sáng hôm sau. Cha tôi sinh năm 1913 nhỏ hơn Bác Giáp ba tuổi, bị máy bay Mỹ bắn chết năm 1968 vào ngày 29 tháng 8 âm lịch, trước Bác Giáp mất (30/8 al) một ngày. Sinh thời cha tôi là lính Vệ Quốc Đoàn cùng tiểu đội với bác Lê Văn Tri sau này là Phó Tư Lệnh Quân chủng Phòng Không Không Quân. Anh trai tôi là Hoàng Trung Trực và tôi sau này cũng đều tham gia quân đội. Cha vợ tôi, cụ Nguyễn Đức Hà 91 tuổi ở Đức Long, Phan Thiết, nghe tin Bác Giáp mất, cụ đã đi xe đò từ lúc 2 giờ khuya để mờ sáng kịp vào Đồng Nai cùng con cháu đi viếng Bác. Cụ là chiến sĩ quân báo của đơn vị 415 ban 2 trung đoàn anh hùng 812 tỉnh đội Bình Thuận. Cụ đã bị lao tù hai lần và chỉ được ra khỏi tù khi bộ đội vào giải phóng lao xá năm 1975. Cụ đã rất xúc động khi viết vào sổ tang của người anh Cả quân đội.

        Tôi lần đầu tiên và dường như duy nhất trong đời đeo huân chương đi viếng Bác. Giáo sư Nhật Kazuo Kawano một người thân của gia đình sắn Việt Nam, người Thầy danh tiếng này đã xúc động viết về bác Giáp :”Mười năm hợp tác chặt chẽ với các đồng nghiệp chọn tạo giống sắn của tôi từ những năm 1990 và nay gặp lại họ trong chuyến đi này đã hoàn toàn thay đổi sự đánh giá của tôi về Việt Nam. Bằng chứng trong hàng loạt các báo cáo của tôi ở đây, thì họ thật siêng năng, sâu sắc, chu đáo và dường như không biết mệt mỏi để noi theo gương của Đại tướng Võ Nguyên Giáp“.(My ten years of close collaboration with my cassava breeding colleagues in the 1990s and the reunion with them in this trip completely changed my assessment of the Vietnamese. As evidenced by the series of my reporting here, they are industrious, insightful, considerate and indefatigable, as if to emulate General Vo Nguyen Giap …”.  In: Cassava and Vietnam: Now and Then)…

        VÕ NGUYÊN GIÁP CÒN MÃI VỚI NON SÔNG

        “Phải thật công khai, thật công phu, thật công bằng và thật công tâm khi nghiên cứu về Võ Nguyên Giáp”, câu nói này của thượng tướng Trần Văn Trà thật minh triết và thật ám ảnh. Bài viết của Lê Mai ‘Võ Nguyên Giáp trong mắt Trần Văn Trà’, tôi thường đọc lại.  Trần Văn Trà nhận định: “Suốt hai cuộc kháng chiến, tôi chưa hề thầy Bí thư Quân ủy Trung ương kiêm Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp mắc một sai lầm nào về chiến lược và chiến thuật quân sự; tôi chỉ thấy Anh Văn đi những nước cờ bậc thầy để vây hãm và tiến công quân địch”. Đó thật sự là một tổng kết rất sâu sắc của một danh tướng Việt Nam đối với Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp. Ngày 20 tháng 4 năm 1996 là ngày mất của Thượng tướng Trần Văn Trà (1919-1996).“Ra đi hai bàn tay trắng. Trở về một dải giang san. “Trăng xưa, hạc cũ”, dòng sông lặng. Mây nước yên bình, thiên mã thăng”.

        Nhà sử học Dương Trung Quốc nhận định: “Võ Nguyên Giáp là một tên tuổi lớn trong lịch sử dân tộc Việt Nam và càng lớn hơn trong tâm thức những người sống cùng thời với ông. Cuộc đời Võ Nguyên Giáp là một tấm gương phản chiếu của gần trọn thế kỷ XX, thế kỹ dữ dội nhất và cũng bi hùng nhất của dân tộc Việt Nam.”

        John Kennedy phỏng vấn đại tướng Võ Nguyên Giáp và đã viết bài “Trí tuệ bậc Thầy” đăng trên tạp chí George tháng 11 năm 1998, bản tiếng Việt trong sách Hữu Mai 2011 “Không là huyền thoại” (tái bản lần thứ tư) trang 564-569. John Kennedy đã viết: “Giáp từng nói: Chúng ta sẽ đánh bại địch ngay lúc chúng đông quân nhất, nhiều vũ khí nhất, nhiều hi vọng chiến thắng nhất. Bởi vì tất cả sức mạnh đó sẽ làm thành áp lực nặng nề cho địch” Bởi vậy ông chiến đấu theo cách của riêng ông, không theo kiểu của người Mỹ , giao chiến với địch ngay tại nơi và ngay khi địch ít ngờ tới nhất. Ông đã huy động tất cả mọi người tham gia cuộc chiến, làm cho lính Mỹ xa nhà hàng ngàn dặm, không bao giờ có thể cảm thấy an toàn. Ông đã duy trì cuộc chiến đấu dai dẵng, làm cho nguồn lực và nhuệ khí của địch cạn kiệt, trong khi phong trào phản chiến ở Mỹ bùng phát“. Đó là một cách lý giải về nghệ thuật chiến tranh toàn dân, toàn diện, trường kỳ mà tướng Giáp là trí tuệ bậc Thầy.

        Trần Đăng Khoa kể về một ông già bản mà nhà thơ đã gặp trên đường vào Mường Phăng. Ông già hồ hởi: ” Chuyện Đại tướng chứ gì? Đại tướng thì tôi biết. Tôi cũng đã mấy lần gặp Đại tướng rồi. Vùng này là quê của Đại tướng đấy. Năm nọ Đại tướng có về quê. Đại tướng nói chuyện với đồng bào bằng tiếng dân tộc. Đại tướng là già làng của chúng tôi đấy. Nhà Đại tướng ở chỗ kia kìa…” Nói rồi, ông già chỉ lên núi Mường Phăng. Một dải rừng xanh um giữa mênh mông đồi trọc. Ở Điện Biên và cả mấy vùng lân cận, rừng cơ bản đã bị phá xong. Nửa đêm, tôi còn thấy những dải lửa cháy rừng rực vắt giữa lưng chừng trời. Đồng bào đốt nương đấy. Chẳng còn cách nào ngăn được. Đói thì phải phá rừng. Rừng núi nhiều nơi đã trơ trụi, nhưng Mường Phăng thì vẫn um tùm rậm rạp như rừng nguyên sinh. Tôi đã đi dưới những tầng cây ấy, nghe chim rừng hót ríu ran. Một làn suối âm thanh trong trẻo và mát rượi rót xuống từ lưng chừng trời. Không một rảnh cây nào bị chặt phá hay bị bẻ gẫy. Ở đây, người dân còn đói cơm, thiếu mặc, nhưng họ vẫn nâng niu gìn giữ khu rừng. Họ tự đặt tên cho khu rừng là “Rừng Đại tướng”. Đấy là ngôi đền thiêng, ngôi đền xanh thiên nhiên mà người dân đã tự lập để thờ ông. Đối với vị tướng trận, đó là hạnh phúc lớn. Một hạnh phúc mà không phải ai cũng có được trong cõi trần này…

        Bác Giáp từng khoác áo dân sự, như ảnh chụp và lời ông Đoàn Sự nguồn VOA, nhưng dường như ngôi vị lãnh đạo tối cao ở Việt Nam, và những quyết sách quan trọng nhất về bảo tồn phát triển quốc gia còn bị chi phối bởi nhiều mối tương quan, tầm nhìn khác.

        Chiến tranh đã qua lâu, đã có cả núi sách của phương Tây và Việt Nam viết về cuộc chiến này với nhiều nghiên cứu công phu về đánh giá thời cuộc. Sự khai sinh của nước Việt Nam mới và cuộc chiến giành độc lập thống nhất Tổ quốc gắn liền với tên tuổi của Võ Nguyên Giáp, con người đã sống chết trung hiếu với đất nước mình.

        Bài viết này là nén tâm hương tưởng nhớ.

        Võ Nguyên Giáp còn mãi với non sông. Vị tướng của lòng dân.

        Hoàng Kim

        Ghi chú và trích dẫn

        Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là e26af-vonguyengiap1.jpg

        VỊ TƯỚNG CỦA LÒNG DÂN
        Hoàng Kim

        Hôm nay ngày Chín tháng Chín Quý Tỵ.
        Bác Văn ơi thành kính tiễn Người
        “Cái tôi hoàn lại đất trời
        Trả tôi mặt mũi muôn đời chưa sanh”

        Bác về vùng đất địa linh
        Mũi Rồng Đảo Yến, Quảng Bình quê ta.

        Người là Võ Đại Thánh
        Hộ Quốc Đại Tướng Quân
        Ở chính đạo Trung tâm
        Hoành Sơn Linh Giang
        Đèo Ngang gánh hai đầu Đất Nước.

        Người về gặp các bậc chí nhân
        Trần Quốc Tuấn,
        Trần Nhân Tông,
        Hồ Chí Minh, …
        Thanh thản giấc muôn đời.
        “Tôi bình đẳng với những người lính của tôi”

        Lớp lớp cháu con
        thành kính tiễn biệt Người
        Lớp lớp cháu con
        noi gương Người
        ra chiến hào cầm súng.
        Đất nước bình yên
        lại trở về đời thường
        cầm bút cầm cày
        trong yêu thương, thanh thản.
        Gìn giữ “non sông muôn thuở vững âu vàng“.
        Tiễn biệt Người, vị tướng của lòng dân.

        Hoàng Kim

        Tư liệu

        Chùm ảnh gia đình cùng nhân dân cả nước tiễn biệt Đại tướng

        Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là 0fc7c-dsc02453.jpg
        Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là 9c861-dsc02492.jpg
        Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là 29e13-nhonguoi.jpg

        Báo Tuổi Trẻ ngày 13.10 Nhân dân khóc tướng Võ, đất nước tiễn anh Văn

        Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là aa2c6-vonguyengiap4.jpg

        Báo Tiin (Theo: Quân đội nhân dân) trực tiếp lễ viếng

        Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là e7632-nhe1bb9bngc6b0e1bb9di2.jpg

        Báo Dân Trí: Lễ viếng Đại tướng

        Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là 69271-dsc02474.jpg
        Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là eaf8b-dsc02467.jpg
        Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là 79c15-dsc02491.jpg

        Đại tướng Võ Nguyên Giáp trên Danh nhân Việt

        1)
        Nhân cách lớn của đại tướng Võ Nguyên Giáp
        2)
        Tướng Giáp trí tuệ bậc Thầy
        3)
        Võ Nguyên Giáp sao sáng trời Nam
        4)
        Võ Nguyên Giáp vị nhân tướng khuyến học
        5)
        Võ Nguyên Giáp thiên tài quân sự
        6)
        Đại tướng Võ Nguyên Giáp chân dung một huyền thoại
        7)
        Võ Nguyên Giáp đọc lại và suy ngẫm
        8)
        Đọc lại và suy ngẫm Tết Mậu Thân 1968
        9)
        Võ Nguyên Giáp vị tướng của lòng dân
        10)
        Đại tướng Võ Nguyên Giáp những câu nói bất hủ

        Thơ yêu thích 

        VỊ TƯỚNG GIÀ
        Tiễn biệt Người, vị đại tướng của nhân dân.
        Anh Ngọc 94. 

        Những đối thủ của ông đã chết từ lâu.
        Bạn chiến đấu cũng chẳng ai còn nữa.
        Ông ngồi giữa thời gian vây bủa.
        Nghe hoàng hôn chầm chậm xuống quanh mình.
        Bàn chân đi qua hai cuộc chiến tranh.
        Giờ chậm rãi lần theo dấu gậy.
        Đôi bàn tay nhăn nheo run rẩy.
        Đã từng gieo khủng khiếp xuống đầu thù.
        Trong góc vườn mùa thu.
        Cây lá cũng như ông lặng lẽ.
        Tám mươi tuổi ông lại như đứa trẻ.
        Nở nụ cười ngơ ngác thơ ngây.
        Ông ra đi
        Và…
        Ông đã về đây.
        Đời là cuộc hành trình khép kín.
        Giữa hai đầu điểm đi và điểm đến.
        Là một trời nhớ nhớ với quên quên.
        Những vui buồn chưa kịp gọi thành tên.
        Cõi nhân thế mây bay và gió thổi.
        Bầy ngựa chiến đã chân chồn gối mỏi.
        Đi về miền cát bụi phía trời xa.
        Ru giấc mơ của vị tướng già.
        Có tiếng khóc xen tiếng cười nức nở.
        Một chân Ông đã đặt vào lịch sử.
        Một chân còn vương vấn với mùa thu.

         

        Võ Nguyên Giáp trong mắt Trần Văn Trà
        Lê Văn

        Báo chí cho hay, đến nay ở VN và trên thế giới đã có tới 120 cuốn sách, không kể vô số những bài báo, bài nghiên cứu về Võ Nguyên Giáp. Có một nghịch lý, hình như những sự kiện lịch sử, những yếu nhân lịch sử của VN lại được các tác giả nước ngoài nghiên cứu nhiều hơn, sâu hơn, đầy đủ hơn là các tác giả trong nước.  Vì sao vậy? Ta mà chưa hiểu hết ta. Và ta thường hay tự ca ngợi mình: “Ôi ta là ta mà ta vẫn cứ mê ta” (Chế Lan Viên).

        Nhưng nghiên cứu về Võ Nguyên Giáp thì rõ ràng chưa đủ, càng không thể đầy đủ nếu chỉ căn cứ vào sách báo trong nước. Như nhiều người khác, tôi cũng có một số cuốn sách về Võ Nguyên Giáp, tỷ như Võ Nguyên Giáp của Geogres Boudarel, nhà sử học Pháp; Chiến thắng bằng mọi giá của Celcil B.Currey, một sử gia quân sự Hoa Kỳ; Võ Nguyên Giáp – một sự đánh giá của Peter MacDonald, sử gia quân sự người Anh và tất nhiên – còn nhiều cuốn sách khác của các tác giả trong nước.

        Sách của các tác giả nước ngoài nhìn chung khách quan, có những phân tích, đánh giá rất sâu sắc con người, tài năng và sự nghiệp của tướng Giáp. Họ lưu ý đến nhiều vấn đề, nhiều chi tiết có khi rất nhỏ nhưng lại có ý nghĩa lớn. Họ quan tâm đủ mọi thứ. Tuy nhiên, chưa thể coi các cuốn sách ấy đã là đầy đủ, hoàn hảo về Võ Nguyên Giáp. Chắc rằng thời gian tới sẽ có rất nhiều công trình nghiên cứu về Võ Nguyên Giáp – nhất là khi ông đã về cõi vĩnh hằng.

        Mong ước nghiên cứu đầy đủ, khách quan về Võ Nguyên Giáp là mong ước cháy bỏng của tướng Trần Văn Trà. Ông là một danh tướng cùng thời với Võ Nguyên Giáp, là cấp dưới của ông Giáp. Trần Văn Trà là Tư lệnh B2, địa bàn chiến lược quan trọng nhất trong cuộc chiến với người Mỹ. Sau khi Hiệp định Pari được ký kết, Trần Văn Trà được cử làm Trưởng đoàn quân sự của Chính phủ Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tại Ban Liêp hiệp quân sự bốn bên, Sài Gòn. Sau ngày 30.4.1975, có một thời gian ông là Chủ tịch Ủy ban quân quản thành phố Sài Gòn – Gia Định. Ba ông “họ Trần”: Trần Văn Giàu, Trần Văn Trà, Trần Bạch Đằng là ba nhân vật lừng danh một thời vang bóng tại Sài Gòn cũng như miền đất Nam Bộ.

        Tác phẩm nổi tiếng của Trần Văn Trà: Những chặng đường lịch sử của B2 thành đồng, mới xuất bản được Tập 1: Hòa hay chiếntranh và Tập 5: Kết thúc cuộc chiến tranh 30 năm. Nghe nói, Lê Đức Thọ phán, cuốn sách ấy sai từ đầu đến cuối, sách bị thu hồi nhưng nay đã được in lại.

        Tháng 3.1992, tướng Trà đồng ý trả lời phỏng vấn của Nhật Hoa Khanh – tác giả Gặp Tố Hữu tại biệt thự 76 Phan Đình Phùng, về nhân vật lịch sử Võ Nguyên Giáp. Nhật Hoa Khanh – nhà nghiên cứu lịch sử VN hiện đại rất đặc sắc, đã công bố nhiều bài nghiên cứu rất có giá trị, hấp dẫn.

        Bài trả lời phỏng vấn của Trần Văn Trà về Võ Nguyên Giáp có nhiều luận điểm cực kỳ sâu sắc, gợi lên cho giới nghiên cứu nhiều suy nghĩ. Võ Nguyên Giáp hiện lên trong mắt Trần Văn Trà đầy tài năng và nhân cách.

        Nghiên cứu về Võ Nguyên Giáp, Trần Văn Trà cho rằng “phải thật công khai, thật công phu, thật công bằng và thật công tâm” – bốn chữ “thật” rất đắt giá trong cách diễn đạt. Đã nghiên cứu về Võ Nguyên Giáp là phải “thật công khai”: công khai tư liệu, công khai quan điểm, công khai sự kiện; công khai trong nước, ngoài nước. “Thật công phu” vì với một trí tuệ bậc thầy, siêu việt như Võ Nguyên Giáp, nếu nghiên cứu một cách hời hợt, bề ngoài, không đi sâu vào bản chất, vào quy luật, không hiểu được những nước cờ quân sự thiên tài của ông, không rút ra được các bài học thì làm sao thuyết phục?

        “Thật công bằng” nghe qua tưởng đơn giản nhưng khó làm sao! Ông Trần Bạch Đằng từng phát biểu: “Tất cả chúng ta đều có thắc mắc giống nhau: Kỷ niệm 30 năm chiến thắng Điên Biên Phủ mà không nhắc đến tên đồng chí Võ Nguyên Giáp. Lịch sử là lịch sử, nếu thiếu chân thật, sẽ ảnh hưởng đến đạo lý”. Rằng Điện Biên Phủ thắng lợi là nhờ cố vấn TQ. “Họ” không biết rằng, nếu nghe lời cố vấn TQ tấn công theo kiểu “biển người”, thất bại là chắc chắn và cuộc kháng chiến đã phải lùi lại mười năm. “Họ” còn nói, tổng tấn công năm 1975, đồng chí (…) là Bí thư Quân ủy Trung ương chứ không phải ông Giáp. Rồi cuốn Đại thắng mùa xuân của Văn Tiến Dũng nghe nói bị độc giả phản ứng, phải sửa tới 30 chỗ. Lịch sử rất công bằng. Cho nên, “thật công bằng” đi liền với “thật công tâm”.

        Trần Văn Trà nhận định: “Suốt hai cuộc kháng chiến, tôi chưa hề thầy Bí thư Quân ủy Trung ương kiêm Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp mắc một sai lầm nào về chiến lược và chiến thuật quân sự; tôi chỉ thấy Anh Văn đi những nước cờ bậc thầy để vây h&atiXem tiếp >>

          Dạy và học 3 tháng 10(02-10-2021)

        ben-suoi-moi-nhanh-mai

        DẠY VÀ HỌC 3 THÁNG 10
        Hoàng Kim
        CNM365 Tình yêu cuộc sốngBài đồng dao huyền thoại; Chợt gặp mai đầu suối; Bên suối một nhành mai; Thơ vui những ngày nhàn. Ngắm dấu chân thời gian; Trời nhân loại mênh  mông; Đối thoại nền văn hóa; Trần Nhật Duật nhân tướng; Phạm Ngũ Lão Thuật Hoài; Trà sớm nhớ bạn hiền; Giống khoai lang HL518; Giống khoai lang HL491; Giống khoai Hoàng Long; Giống khoai lang Việt Nam; Cây đời mãi xanh tươi; Mai vàng bền mưa nắng; Lời Thầy dặn thung dung; Nhân hậu đời quên tuổi; Thanh nhàn vui tháng năm; Một niềm vui ngày mới; Một gia đình yêu thương; Ngày 3 tháng 10 năm 1928, ngày sinh  Alvin Toffler, tác giả và nhà tương lai học người Mỹ, tác giả của bộ sách nổi tiếng Cú sốc tương lai (future shock). Làn sóng thứ 3 (the third way). Thăng trầm quyền lực (power shift) (tập 1 và 2). Tạo dựng một nền văn minh mới chính trị của làn sống thứ 3 (Alvin Toffler & Heidi Toffler). Ngày 3 tháng 10 năm 1744 ,ngày sinh của Bùi Huy Bích, danh sĩ Việt Nam (mất năm 1818). Ngày 3 tháng 10 năm 1929 Vương quốc Nam Tư, “vùng đất của người Nam Slav” được đổi tên từ Vương quốc của người Serb, Croat và Sloven Đây là đất nước đa sắc tộc và tôn giáo, có biến động dữ dội trong lịch sử nhân loại. Bài chọn lọc ngày 3 tháng 10 Bài đồng dao huyền thoại; Chợt gặp mai đầu suối; Bên suối một nhành mai; Thơ vui những ngày nhàn. Ngắm dấu chân thời gian; Trời nhân loại mênh mông; Đối thoại nền văn hóa; Trần Nhật Duật nhân tướng; Phạm Ngũ Lão Thuật Hoài; Trà sớm nhớ bạn hiền; Giống khoai lang HL518; Giống khoai lang HL491; Giống khoai Hoàng Long; Giống khoai lang Việt Nam; Cây đời mãi xanh tươi; Mai vàng bền mưa nắng; Lời Thầy dặn thung dung; Nhân hậu đời quên tuổi; Thanh nhàn vui tháng năm; Một niềm vui ngày mới; Một gia đình yêu thương; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-3-thang-10/

        BÀI ĐỒNG DAO HUYỀN THOẠI
        Hoàng Kim
        I
        Mình ghé thăm nhau chốn núi non
        Vàng ươm đồng rộng nắng lên hương
        Khoai ngon lạc béo thơm xôi đỗ
        Mai núi chiều buông vọng nhạc rừng

        II

        Bốn lăm (45) năm rồi đấy
        Đời người theo tháng năm

        HOA NGƯỜI
        Hoàng Kim

        Thủy vốn mạch sông nước có nguồn.
        Chính Trung tiền hậu đổi nhau luôn.
        Nụ cười Nghê Việt luôn đầy đặn.
        Mai với Bồ Đề ẩn sau lưng.
        Tóc nhuốm bạch kim phơi nắng hửng
        Da pha hồng ngọc trãi mưa nhuần.
        Hoa Người Hoa Đất vui thầy bạn.
        Phước Đức mừng ai thắng tuổi trăm.

        Nhu ang may bay

        III

        Dây dã tường vi thật dẻo dai
        Ba con ngỗng trong một đàn
        Một bay về Đông, một bay Tây
        Và một bay trên tổ chim cúc cu.

        IV

        Tách cà phê ban mai
        Gió mù sương đầy núi
        Suối nguồn thao thiết chảy
        Nhạc rừng đầy tiếng chim …

        V

        Ngày mới lời yêu thương

        Thanh thản an vui dạo dọn vườn
        Vui thầy mừng bạn ngát thêm hương
        Đường xuân nhàn hạ phai mưa nắng
        Tâm sáng an lành trãi gió sương
        Thoắt đó vườn thơm nhiều quả ngọt
        Mới hay nhà phước lắm con đường
        An nhiên vô sự là tiên cảnh
        Sớm thu mai nở nắng thu vương

        Nguồn:
        Bài thơ Viên đá Thời gianBài đồng dao huyền thoại
        ảnh 1 của Đỗ Dung; ảnh 2 của Phan Chí Thắng; ảnh 3, 4, 5 Hoàng Kim

        Quadeochotgapmaidausuoi

        CHỢT GẶP MAI ĐẦU SUỐI
        Hoàng Kim

        Nghìn dặm tìm anh chẳng gặp anh/ Đường về vó ngựa dẫm mây xanh/ Qua đèo chợt gặp mai đầu suối/ Đóa đóa vàng tươi xuân thắm cành“. Tôi biết bài thơ kỳ lạ này của Bác Hồ đăng trên báo khoảng năm 1970 do một chuyện ngẫu nhiên tình cờ nên nhớ mãi. Bài thơ kỳ lạ vì ẩn chứa nhiều triết lý sâu sắc không dễ thấy, vì nó là thơ của Bác Hồ mà ít thấy sách báo nào nhắc đến gần nửa thế kỷ qua.Thuở ấy, tôi mười bảy tuổi, đã cùng người anh trai Hoàng Ngọc Dộ ra thăm đèo Ngang. Chúng tôi vừa đi xe đạp vừa đi bộ từ chân núi lên đến đỉnh đèo. Gần cột mốc địa giới hai tỉnh trên đỉnh đường xuyên sơn, cạnh khe suối ven đỉnh dốc sườn đèo có cây mai rừng rất đẹp. Chúng tôi đang thưởng ngoạn thì chợt gặp xe của Bộ trưởng Xuân Thủy và  bí thư tỉnh ủy Quảng Bình Nguyễn Tư Thoan vừa tới. Họ đã xuống xe ngắm nhìn trời, biển, hoa, núi và bộ trưởng Xuân Thuỷ đã bình bài thơ trên.

        Bộ trưởng Xuân Thủy là nhà ngoại giao có kiến thức rộng, bạn thơ của Hồ Chí Minh, giỏi dịch thơ chữ Hán. Ông cũng là người đã dịch bài thơ “Nguyên tiêu” nổi tiếng, nên khi tôi tình cờ được nghe lời bình phẩm trực tiếp của ông về bài thơ trên thì tôi đã nhớ rất lâu. Tôi cũng hiểu nghĩa rõ ràng cụm từ “Trung Nam Hải” từ dịp ấy.

        Ba mươi năm sau, khi anh Gia Dũng sưu tầm, tuyển chọn và giới thiệu bài thơ “Tìm bạn không gặp” trong tập thơ “Ngàn năm thương nhớ” tuyển thơ một nghìn năm Thăng Long, Hà Nội. Bài thơ “Tầm hữu vị ngộ” của Bác do nhà Hán học nổi tiếng Phan Văn Các diễn nghĩa và dịch thơ. Nội dung tuy vẫn thế nhưng bản dịch mới lời dịch sát nghĩa chữ Hán hơn so với bản tự dịch thoáng ý của chính Bác và có khác MỘT chữ so với bài mà tôi được nghe bình trước đây. Đó là từ “nghìn dặm” được thay bằng từ “trăm dặm” (“bách lý tầm quân vị ngộ quân” thay vì “thiên lý tầm quân vị ngộ quân”). Bản dịch mới có lời ghi chú, nghe nói là của Bác. Bài thơ viết năm 1950 nhưng cảm xúc thực sự của Người khi thăng hoa bài thơ nổi tiếng này thì nay vẫn còn để ngỏ.

        Hồ Chí Minh tầm hữu vị ngộ

        Thiên lý tầm quân vị ngộ quân,
        Mã đề đạp toái lĩnh đầu vân.
        Quy lại ngẫu quá sơn mai thụ,
        Mỗi đoá hoàng hoa nhất điểm xuân.

        尋友未遇

        千里尋君未遇君,
        馬蹄踏碎嶺頭雲。
        歸來偶過山梅樹,
        每朵黃花一點春。

        Nghìn Trăm dặm tìm anh chẳng gặp anh,
        Đường về vó ngựa dẫm mây xanh.
        Qua đèo chợt gặp mai đầu suối
        Đóa đóa vàng tươi xuân thắm cành.

        (Bản tự dịch của Hồ Chí Minh, theo Xuân Thủy)

        “Trăm dặm tìm không gặp cố nhân
        Mây đèo dẫm vỡ ngựa dồn chân
        Đường về chợt gặp cây mai núi
        Mỗi đoá hoa vàng một nét xuân”
        (Bản dịch thơ của
        Phan Văn Các)

        Bác ra nước ngoài từ đầu năm 1950 đến đầu tháng Tư mới về nước theo hồi ức “Chiến đấu trong vòng vây” của đại tướng Võ Nguyên Giáp. Bác lúc đó đã sáu mươi tuổi, bí mật đi đến Bắc Kinh gặp chủ tịch Đảng Cộng sản Trung Quốc Mao Trạch Đông rồi đi luôn sang Matxcơva gặp đồng chí Stalin. Bác cũng đi tìm gặp đại tướng Trần Canh khi chuẩn bị chiến dịch Biên giới. Trong cơn lốc của các sự kiện, Bác khẳng định: “ Tổng phản công của ta sẽ là một giai đoạn lâu dài. Rồi đây, có sự chi viện của Liên Xô và Trung Quốc về vật chất, vũ khí, trang bị, ta sẽ đỡ khó khăn hơn, nhưng giành được thắng lợi là phải do sức nỗ lực của chính bản thân ta quyết định”.

        “Nghìn dặm” hay “trăm dặm”? “gặp bạn” hay “không gặp” hoặc “gặp nhưng không gặp về cách làm”? Ngữ nghĩa của câu thơ “Bách lý tầm quân vị ngộ quân” khác hẳn với “thiên lý tầm quân vị ngộ quân” và không đơn giản dịch là “Tìm bạn không gặp”. Dường như Bác đang đề cập một vấn đề rất lớn của định hướng chiến lược đối ngoại. Nhiều sự kiện lịch sử hiện tại đã được giải mã nhưng còn nhiều ẩn ý sâu sắc trong thơ Bác cần được tiếp tục tìm hiểu, khám phá thêm. Những năm tháng khó khăn của cách mạng Việt Nam “chiến đấu trong vòng vây”; Những tổn thất và sai lầm trong cải cách ruộng đất do sự thúc ép từ phía Liên Xô và sự vận dụng không phù hợp kinh nghiệm của Trung Quốc; Quan hệ của nước nhỏ đối với các nước lớn. Nhiều điều tinh tế ẩn chứa trong thơ Bác.

        Ý tứ trong bài thơ của Bác rất gần với với một bài thơ cổ của Trung Quốc thời nhà Tống: “Tận nhật tầm xuân bất kiến xuân/ Mang hài đạp phá lãnh đầu vân/ Quy lai khước phá mai hoa hạ/ Xuân tại chi đầu vị thập phân”. Bài thơ tả một ni cô mang hài trèo đèo vượt núi cực khổ tìm xuân suốt ngày mà vẫn chẳng gặp xuân. Đến khi trở về mới thấy xuân đang hiện trên những cành mai trong vườn nhà.

        Bác Hồ cũng vượt vòng vây phong tỏa, chịu nhiều gian khổ suốt bốn tháng ròng để tìm sự ủng hộ quốc tế cho cách mạng Việt Nam đang “chiến đấu trong vòng vây”. Trên đường về, qua đèo, Bác chợt gặp cây mai đầu suối và Bác đã ngộ ra được những vấn đề sâu sắc của phương pháp cách mạng. Đối diện với mặt trời đỏ “đông phương hồng, mặt trời lên” là mặt TRĂNG hiền hoà (rằm xuân lồng lộng trăng soi) và gốc MAI vàng cổ thụ bên SUỐI nguồn tươi mát (bên suối một nhành mai). Trăng, suối, hoa mai là những cụm từ quan trọng trong thơ Bác. Nó là triết lý ứng xử tuyệt vời của một nước nhỏ đối với các nước lớn trong quan hệ quốc tế phức tạp. Trời càng sáng, trăng càng trong, nước càng mát, mai càng nở rộ.

        Hồ Chí Minh Thướng Sơn

        “Thướng sơn”; là bài thơ Ngôn chí đặc sắc của Hồ Chí Minh viết ở Lũng Dẻ năm 1942, in tại: Thơ chữ Hán Hồ Chí Minh, Nhà Xuất bản Văn học, Hà Nội, 1990, trang 14. Bài thơ ẩn ngữ lấy ý chủ đạo “nhành mai” đối “mặt trời hồng“. “bên suối một nhành mai.”

        Thướng sơn

        Lục nguyệt nhị thập tứ,
        Thướng đáo thử sơn lai.
        Cử đầu hồng nhật cận,
        Đối ngạn nhất chi mai.

        上山





        Dịch nghĩa

        Ngày hai mươi bốn tháng sáu,
        Lên đến núi này.
        Ngẩng đầu thấy mặt trời đỏ gần lại,
        Bờ bên kia có một nhành mai.

        Dịch thơ

        Hai mươi tư tháng sáu,
        Lên ngọn núi này chơi.
        Ngẩng đầu: mặt trời đỏ,
        Bên suối một nhành mai.
        (Bản dịch của Tố Hữu)

        Hăm tư tháng sáu hôm nay
        Trèo lên trên đỉnh núi này dạo chơi
        Ngẩng lên đỏ chói mặt trời
        Bên kia khe một nhành mai xanh rờn
        (Bản dịch của Xuân Thủy)

        Ngày 24 tháng 6 là ngày gì trong lịch sử? Ngày 24 tháng 6 năm 1812 là ngày đại quân của Hoàng đế Pháp Napoléon Bonaparte vượt sông Neman, khởi đầu xâm chiếm Đế quốc Nga. Ngày 24 tháng 6 năm 1942 là ngày khởi đầu của chiến dịch Voronezh đại quân Đức Quốc Xã Adolf Hitler tấn công Voronezh, thành phố có tầm quan trọng chiến lược đặc biệt quan trọng bên bờ sông Đông, (là nguyên quán của Nikolai Fyodorovich Vatutin tư lệnh Phương diện quân Tây Nam, lực lượng phòng thủ chính của Liên Xô trong Chiến dịch phòng thủ Valuiki – Rossosh năm 1942). Về sau Adolf Hitler cho rằng hai ngày chậm trễ trong chiến dịch này đã làm Tập đoàn quân thiết giáp số 4 không kịp đến, làm giảm sức công phá và để cho Liên Xô kịp phòng thủ cứu nguy Stalingrad, thay đổi cục diện chiến tranh. Ngày 24 tháng 6 năm 1942 tại Lũng Dẻ, Hồ Chí Minh lên núi.

        “Thướng sơn” và “Tầm hữu vị ngộ” là ẩn ngữ, câu thơ lưu lạc giữa đời thường. Hồ Chí Minh là người chuộng kinh Dịch và rất tinh tế, thường có những ứng xử ngẫu nhiên phù hợp với quy luật tất nhiên. Hồ Chí Minh trọn đời minh triết viết và nói thường có ẩn ý. Như 19 tháng 5 là ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, cũng là ngày thành lập Việt Minh, cũng là ngày khai sinh  đường Hồ Chí Minh trong lịch sử. Chuỗi ba sự kiện lớn này đóng mốc son ngày 19 tháng 5 vào lịch sử Việt Nam và thế giới đối với nền độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và sự nghiệp thống nhất Tổ quốc Việt Nam.

        “Thướng sơn” (lên núi) là lên non thiêng ‘chống gậy lên non xem trận địa”, để xác định đúng tình thế, thời cơ và phương pháp cách mạng “tùy cơ, tùy vận, tùy thiên mệnh, tùy thời, tùy thế lại tùy nghi” là minh triết Hồ Chí Minh.”Đi đường mới biết gian lao. Núi cao rồi lại núi cao chập chùng . Núi cao lên đến tận cùng. thu vào tầm mắt muôn trùng nước non” (Đi đường, Hồ Chí Minh) Lên núi là để xem thế trận biến ảo khôn lường dự báo kêết quả thắng thua của Chiến tranh thế giới thứ hai. Tôn Trung Sơn thời Trung Hoa Dân Quốc, đưa ra đại kế “Liên Nga, thân Cộng, ủng hộ Công Nông, Tam Dân chủ thuyết” Uông Tinh Vệ nối nghiệp Tôn Trung Sơn cùng Mao Trạch Đông và Tưởng Giới Thạch.là “tam hùng”. Uông Tinh Vệ trước tả sau hữu, kết giao người Nhật và trở thành Hán gian vì Uông Tinh Vệ cho rằng Đức Nhật Ý sẽ thắng Nga Mỹ Anh Trung Hoa Dân Quốc.

        Hồ Chí Minh nguyên tiêu

        Nhân nói thêm dịch bài thơ “Nguyên tiêu” Hồ Chí Minh, kiệt tác trong “100 bài thơ hay nhất Việt Nam thế kỷ 20” thì bản dịch thơ của Xuân Thủy được nhiều người yêu thích hơn cả. Tuy vậy nghe nói là Cụ Hồ đã hỏi vui Bộ trưởng Xuân Thủy rằng câu thơ “Xuân giang, xuân thủy tiếp xuân thiên” (sông xuân, nước xuân tiếp trời xuân) khi dịch là “Sông xuân nước lẫn bầu trời thêm xuân” thì ba chữ xuân sao chỉ còn lại hai chữ xuân? Đó cũng là sự tinh tế (như Bộ trưởng Xuân Thủy làm Bộ trưởng không Bộ vậy).

        Rằm Tháng Giêng
        Hồ Chí Minh

        Rằm xuân lồng lộng trăng soi,
        Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân.
        Giữa dòng bàn bạc việc quân,
        Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền.

        (Bản dịch thơ của Xuân Thuỷ)

        Nguyên tác




        滿

        Nguyên tiêu

        Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên,
        Xuân giang, xuân thủy tiếp xuân thiên.
        Yên ba thâm xứ đàm quân sự,
        Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền.

        Dịch nghĩa

        Đêm nay, rằm tháng giêng, trăng vừa tròn,
        Nước sông xuân tiếp liền với màu trời xuân.
        Giữa nơi khói sóng thăm thẳm, bàn bạc việc quân,
        Nửa đêm trở về, thuyền chở đầy ánh trăng.

        Tháng 2 năm 1948.

        Nguồn:
        1. Hồ Chí Minh – Thơ, NXB Văn học, Hà Nội, 1975
        2. Hồ Chí Minh toàn tập (tập 5), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000

        Nhành mai trong thơ Bác

        Bài thơ “Tầm hữu vị ngộ” Hồ Chí Minh câu thơ nguyên tác cuối bài là  “Mỗi đoá hoàng hoa nhất điểm xuân” . Giáo sư tiến sĩ Hán học Phan Văn Các, nguyên Viện trưởng Viện Hán Nôm đã dịch là “Mỗi đoá hoa vàng một nét xuân”. So câu chữ là rất chuẩn và rất sát nghĩa. Thế nhưng, tôi lại nghe cố bộ trưởng nhà thơ Xuân Thủy, người đã dịch kiệt tác bài thơ “Nguyên tiêu” ra tiếng Việt, nói năm 1970 thì “Ông Cụ” đã tự mình dịch câu thơ trên là “đóa đóa vàng tươi xuân thắm cành”.

        Câu thơ “Đình tiền tạc dạ nhất chi mai” của Thiền sư Mãn Giác (Lý Trường,1051-1096) theo Minh Đức Triều Tâm Ảnh được dẫn lại và phân tích sâu thêm của Nguyễn Khôi, thì đáng chú ý nhất và khó dịch nhất là “nhất chi mai”.

        Nhiều người dịch “nhất chi mai” là “một nhành mai, một nhánh mai, một cành mai”, thật ra phải hiểu “nhất chi mai” còn có nghĩa là “một đóa mai” mới thấu hiểu hết nghĩa thâm thúy. Một đóa là đủ cho cái tối thiểu, là đủ đại biểu cho mùa xuân, như một câu thơ có trước đó của Thiền sư Tề Kỷ (864-937) bạn của Thi sĩ Trịnh Cốc (849-911) đời nhà Đường đã sáng tác bài:

        TẢO MAI

        Vạn mộc đống dục chiết
        Cô căn noãn độc hồi
        Tiền thôn thâm tuyết lý
        Tạc dạ nhất chi khai.
        Phong đệ u hương khứ
        Cầm khuy tố diễm lai
        Minh niên như ưng luật
        Tiên phát ánh xuân đài.

        MAI NỞ SỚM

        Vạn cây băng giá chết
        Một cội ấm mọc ra
        Đầu xóm trong tuyết đặc
        Một cành đêm nở hoa.
        Gió xa đem hương ẩn
        Chim ngắm hoa trắng ngà
        Năm tới như đúng tiết
         Mừng Xuân sáng ánh tà.

        Chuyện kể rằng: Khi thiền sư Sư Tề Kỷ, sau khi viết xong, vốn tính khiêm tốn đã đem sang nhờ Thi sĩ Trịnh Cốc “góp ý kiến”, Trịnh Cốc đọc nhanh, rồi nói “sổ chi” phi “tảo” dã, vị nhược “nhất chi” giai (“mấy cành” chưa phải là sớm, chưa hay bằng “một cành”). Thiền sư Sư Tề Kỷ bèn sửa thành “Tạc dạ nhất chi khai”(một cành đêm nở hoa) bất hủ.

        Bài thơ của Mãn Giác so với Tề Kỷ thì tương tự, nhưng có phần thâm viễn hơn. Với ý muốn nhắn gửi với đời về lẽ chuyển dịch vô thường không dao động đến tâm an nhiên của ta (theo Trần Tuấn Kiệt); Còn theo Ngộ Không thì nên hiểu: ở đây “xuân tàn” là trầm luân, “hoa lạc tận” là hư vô, giữa mê và Ngộ, phân ra hữu và vô, có và không. “nhất chi mai” chính là giác ngộ với trong sinh có diệt, trong diệt có sinh.”

        “Mỗi đoá hoàng hoa nhất điểm xuân” là “nhành mai” điểm nhấn tinh tế trong thơ Bác. Tại đây, Hồ Chí Minh chỉ rõ là “đóa” cụ thể là “một đóa mai” (nhất chi mai) nhưng Hồ Chí Minh tài tình chỉ rõ là “hoàng hoa” “đóa mai vàng” rất phù hợp và thông dụng ở Việt Nam, khác với mơ, mận, mai trắng, có nhiều ở xứ lạnh nhưng ít thông dụng ở xứ ấm như Việt Nam. Hồ Chí Minh lại viết ba chữ “nhất điểm xuân” đồng nghĩa nhưng khác sự diễn đạt với “nhất chi mai”, lời dịch nghĩa lại thoáng nghĩa “đóa đóa vàng tươi xuân thắm cành” thuần Việt hoàn toàn và khẳng định chân lý “toàn thể mới làm nên mùa xuân đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công thành công đại thành công.

        Qua đèo chợt gặp mai đầu suối là tuyệt phẩm. “đóa đóa vàng tươi xuân thắm cành” là câu thơ kiệt tác của Hồ Chí Minh.

        BÊN SUỐI MỘT NHÀNH MAI
        Hoàng Kim.

        Ảnh nhành mai của anh Phan Chí tại đỉnh núi Lũng Cú thể hiện được tứ thơ “Thướng sơn” của Hồ Chí Minh, Lũng Dẻ năm 1942. Nguyên tác “Thướng sơn. Lục nguyệt nhị thập tứ, Thướng đáo thử sơn lai. Cử đầu hồng nhật cận, Đối ngạn nhất chi mai”. Lên núi. Hai mươi tư tháng sáu, Lên ngọn núi này chơi. Ngẩng đầu: mặt trời đỏ, Bên suối một nhành mai. (Bản dịch của Tố Hữu). Thơ chữ Hán Hồ Chí Minh, Nhà Xuất bản Văn học, Hà Nội, 1990, trang 14. “Lên núi” ẩn ngữ “nhành mai” đối “mặt trời hồng“.

        上山




        Xem tiếp >>

          Dạy và học 2 tháng 10(02-10-2021)

        Moskva

        DẠY VÀ HỌC 2 THÁNG 10
        Hoàng Kim
        CNM365 Tình yêu cuộc sống Trà sớm nhớ bạn hiền; Giống khoai lang HL518; Giống khoai lang HL491; Giống khoai Hoàng Long; Giống khoai lang Việt Nam; Cây đời mãi xanh tươi; Mai vàng bền mưa nắng; Lời Thầy dặn thung dung; Nhân hậu đời quên tuổi; Thanh nhàn vui tháng năm; Một niềm vui ngày mới; Một gia đình yêu thương; Ngày 2 tháng 10 năm 1941, Quân đội Đức bắt đầu cuộc tiến công tổng lực vào thủ đô Moskva của Liên Xô. Trận Moskva là một trong những trận đánh lớn nhất của Chiến tranh thế giới thứ hai, có tầm quan trọng bậc nhất cả về quân sự, chính trị và tâm lý tạo nên bước ngoặt chiến tranh. Ngày 2 tháng 10 năm 1869, ngày sinh Mahatma Gandhi, anh hùng dân tộc, thánh tăng Ấn Độ (mất năm 1948). Ngày 2 tháng 10 năm 1496, ngày mất Lương Thế Vinh, trạng nguyên, quan đại thần viện Hàn Lâm triều Lê Thánh Tông. nhà toán học, Phật học, nhà thơ người Việt Nam (sinh năm 1441), Bài chọn lọc ngày 2 tháng 10: Trà sớm nhớ bạn hiền; Giống khoai lang HL518; Giống khoai lang HL491; Giống khoai Hoàng Long; Giống khoai lang Việt Nam; Cây đời mãi xanh tươi; Mai vàng bền mưa nắng; Lời Thầy dặn thung dung; Nhân hậu đời quên tuổi; Thanh nhàn vui tháng năm; Một niềm vui ngày mới; Một gia đình yêu thương; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/ và http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-2-thang-10/

        Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là nang-moi-1-e1589670316958.jpg

        TRÀ SỚM NHỚ BẠN HIỀN
        Hoàng Kim

        Ban mai tỉnh thức chim kêu cửa
        Hoa rắc bên song đẫm nước non
        Ô hay gió mát hương trời biển
        An giấc đêm ngon chí vẫn nồng *

        (*) Lưu chùm ảnh và thơ “Trà sớm nhớ bạn hiền”
        https://hoangkimlong.wordpress.com/category/tra-som-nho-ban-hien/

        Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là lua-phu-yen-tap-the.jpg

        TRÀ SỚM VUI NGÀY MỚI
        Hoàng Kim

        Ban mai chợt tỉnh thức
        Nghe đầy tiếng chim kêu
        Đêm qua mây mưa thế
        Hoa mai rụng ít nhiều.

        Trà sớm thương người hiền,
        trong không gian tỉnh lặng,
        ăn sáng và chuyện vui,
        lắng nghe đời thật chậm.

        Ai học làm và dạy.
        Ai vô sự là tiên
        Ai an nhàn thanh thản
        Ai thân với bạn hiền.

        Văn chương là cõi mộng.
        Giấc mơ lành trăm năm.
        Phúc hậu là lẽ sống.
        Thơ ra ngoài ngàn năm,

        Chuyện Tình yêu cuộc sống,
        Ông Nguyễn và bác Văn.
        Cụ Trình và Trần lão,
        Gần gũi mà xa xăm.

        Tính sáng hơn châu báu.
        Trở về với chính mình.
        Trà thơm chào ngày mới.
        Vui khỏe và bình yên…

        Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là lua-phu-yen-ton-kim.jpg

        NẮNG MỚI
        Hoàng Kim


        Mưa ướt đất lành nắng mới lên
        Đêm thương sương rụng nhắc ngoài hiên
        Núi trùm mây khói trời chất ngất
        Ngày tháng thung dung nhớ bạn hiền

        Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là go-ban-mai-vao-phim.jpg

        TRÀ SỚM THƯƠNG NGƯỜI HIỀN
        Hoàng Kim


        Sao tình yêu may mắn
        Ban mai sáng chân trời
        Trà sớm thương người ngọc
        Bình sinh mình biết mình

        VÔ ĐỀ
        Gia Cát Lượng


        Mơ màng ai tỉnh trước,
        Bình sinh ta biết ta.
        Thềm tranh giấc xuân đẫy,
        Ngoài song bóng xế tà.

        Bản dịch lưu hành trong Tam Quốc diễn nghĩa, dịch bởi Phan Kế Bính

        無題
        大夢誰先覺,
        平生我自知。
        草堂春睡足,
        窗外日遲遲。

        Vô đề

        Đại mộng thuỳ tiên giác,
        Bình sinh ngã tự tri.
        Thảo đường xuân thụy túc,
        Song ngoại nhật trì trì.

        Dịch nghĩa

        Trong giấc mộng lớn, ai là người tỉnh trước?
        Trong cuộc đời này ta tự biết ta.
        Đang yên giấc ngủ xuân trong ngôi nhà tranh,
        Bên ngoài cửa sổ mặt trời (ngày tháng) cứ chậm rãi trôi qua.

        ThaiDuonghe

        GÕ BAN MAI VÀO PHÍM
        Ngôi sao may mắn chân trời
        Hoàng Kim

        ta gõ ban mai vào bàn phím
        gõ vào khuya ngơ ngẫn kiếm tìm
        biết em ngủ đợi chờ em tỉnh thức
        như ánh sao trời ở chốn xa xôi.

        em em em giá mà em biết được
        những yêu thương hóa đá chốn xa mờ
        sợi tóc bạc vì em mà xanh lại
        lời ru và nỗi nhớ ngấm vào thơ.

        em thăm thẳm một vườn thiêng cổ tích
        chốn ấy cõi riêng khép mở chân trời
        ta như chim đại bàng trở về tổ ấm
        lại khát Bồng Lai ước vọng mù khơi.

        ta gõ ban mai vào bàn phím
        dậy em ơi ngày mới đến rồi. (**)

        Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là tra-som-voi-ban-hien.jpg

        TRÀ SỚM THƯƠNG NGƯỜI HIỀN
        Hoàng Kim

        Ngắm ảnh nhớ thương ngày tháng cũ
        Bạn hiền trà sớm chẳng quên nhau
        Ban mai tỉnh thức ngày vui mới
        Nắng hửng thanh tâm bát ngát trời

        Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là chuatuhieu.jpg

        BÀI THƠ VIÊN ĐÁ THỜI GIAN
        Hoàng Kim với anh Phan Chí


        “Về quê lần trước ghé thăm đây.
        Đất hiếu cầu thương níu bạn bầy.
        Thơ thiền Nhất Hạnh tìm nơi cũ.
        Mặt trời từng hạt chính nơi này”
        (HK).

        Cà phê ở Huế thơm ngon lắm.
        Mười bốn ngàn thôi uống suốt ngày.
        Ngắm em tóc gió bay bay nắng.
        Nghe bạn tâm tình hơn rượu say”
        (PC)

        Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là hoangkimvn.jpg

        @ với anh PC: Em Ra Huế thăm vị chân chúa Nguyễn Hoàng ở lăng Trường Cơ, tọa lạc tại xã La Khê, huyện Hương Trà, nay là làng La Khê, xã Hương Thọ, thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế; thăm Thiên Thụ Sơn vùng cây trên 2000 ha mà triều Nguyễn dày công mang kỳ hoa dị thảo cả nước có nguồn cây trái chính yếu đặc sản đất phương Nam về trồng ở chốn kinh kỳ để lưu dấu những hoài niệm bôn tẩu trọn đời quy giang sơn về một mối. Lạ lùng thay, khi được may mắn uống trà ban mai tĩnh lặng ở Từ Hiếu với bạn hiền lại được lắng nghe cổ vật và các trang sách uyên áo của các vị thiền sư trò chuyện. Tâm chợt ngộ ra rằng vị chân chúa nhà Nguyễn chưa hẳn đã ở Trường Cơ mà có thể ẩn khuất ở chính nơi đây, gần Nam Giao và phía sau của chính điện Từ Hiếu, cội nguồn của hiếu sinh.

        Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là co-ngoi-sao-may-man-phia-chan-troi.jpg

        NGÔI SAO MAI CHÂN TRỜI
        Hoàng Kim

        Em đọc lại Nhà Giả Kim em nhé
        Bài ca thời gian câu chuyện cuộc đời
        Một giấc mơ Người đi tìm kho báu
        Theo ước mơ mình tới chốn xa xôi …

        Bậc tiên tri biết nhìn sâu khát vọng
        Khuyến khích em theo mơ ước tuổi hoa
        Đi tới cuối con đường hạnh phúc
        Hãy là chính mình, ta chính là ta.

        Em thấu hiểu có ngôi sao may mắn
        Luôn bên em lấp lánh phía chân trời
        Nơi bảng lãng
        thơ tình Hồ núi Cốc
        Giấc mơ đưa ta về cổ tích xa xôi  …

        Lên đường đi em
        Bình minh đã rạng
        Vui bước tới thảnh thơi
        Vui đi dưới mặt trời

        Ta hãy chăm như con ong làm mật
        Cuộc đời này là hương hoa.
        Ngày mới yêu thương vẫy gọi,
        Ngọc cho đời vui khỏe cho ta.

        Hoàng Kim

        Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là mua.jpg

        xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/tra-som-nho-ban-hien/

        Giong Khoai lang HL518 NhatDo

        GIỐNG KHOAI LANG HL518
        Hoàng Kim

        Hỏi: Giống khoai lang HL518 Nhật Đỏ làm sao để nhận diện giống? Cần mua đúng loại giống khoai ngon này để ăn và trồng thì nên mua ở đâu để có giá tốt và mua không bị lầm? Hiện nay ai và nơi nào giúp làm việc bảo tồn phát triển giống khoai lang ngon cao sản này? Thầy Hoàng Kim, Nguyễn Thị Thủy, Trần Công Khanh Nguyễn Thị Sâm, là các tác giả giống, hiện còn tiếp tục giúp tư vấn sản xuất, tiêu thụ đối với giống khoai lang này không?

        Tiến sĩ Hoàng Kim trả lời:

        1) Giống khoai lang HL518 Nhật Đỏ sự nhận diện giống cần đối chiếu hình ảnh của củ và thận lá, so sánh chi tiết với bản tả kỹ thuật của giống khoai lang HL518 đã công bố của Nguyễn Thị Thủy, Hoàng Kim, Trần Công Khanh, Nguyễn Thị Sâm 1997:Hai giống khoai lang mới HL518 và HL491 (Two new sweet potato varieties: HL 518 and HL 491) Tài liệu báo cáo công nhận chính thức hai giống khoai lang HL518 và HL419. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn. Hội nghị khoa học kỹ thuật nông nghiệp ở các tỉnh phía Nam tổ chức tại thành phố Hồ Chí Minh ngày 16-18/ 9/ 1997,18 trang.

        Giống khoai lang ở Việt Nam hiện nay có nhiều loại với năng suất, chất lượng, thời gian sinh trưởng rất khác nhau và hiệu quả kinh tế cũng rất khác nhau. Ba giống khoai lang cao sản có chất lượng ngon, được trồng phổ biến nhất là HL518 (Nhật đỏ), HL491 (Nhật tím) và Hoàng Long chọn lọc. Thông tin về ba giống khoai lang này được tóm tắt dưới đây: xem thêm
        Giống khoai lang ở Việt Namhttps://hoangkimlong.wordpress.com/category/giong-khoai-lang-o-viet-nam/

        HL518PhuThien

        Giống khoai lang HL518

        Nguồn gốc giống: Giống khoai lang HL518 (Nhật đỏ) do Trung tâm Nghiên cứu Thực nghiệm Nông nghiệp Hưng Lộc, Viên Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam chọn tạo và giới thiệu từ tổ hợp Kokey 14 polycross nguồn gốc Nhật Bản = CIP92031 = HL518 (Nguyễn Thị Thủy, Hoàng Kim, Trần Công Khanh, Nguyễn Thị Sâm 1997). Giống đã được Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn công nhận giống năm 1997; hiện phổ biến trong sản xuất phía Nam và bán nhiều ở các siêu thị. Đặc tính giống: Thời gian sinh trưởng: 95 -110 ngày. Năng suất củ tươi: 17-32 tấn/ha, tỷ lệ chất khô 27-30%. chất lượng củ luộc ngon, vỏ củ màu đỏ đậm, thịt củ màu cam đậm, dạng củ đều đẹp, dây xanh tím, nhiễm nhẹ sùng, hà và sâu đục dây.

        Giống khoai lang HL491

        Nguồn gốc giống: Giống khoai lang HL491 (Nhật tím) do Trung tâm Nghiên cứu Thực nghiệm Nông nghiệp Hưng Lộc chọn tạo và giới thiệu từ tổ hợp lai Murasa Kimasari polycross nguồn gốc Nhật Bản = CN76-2 CIP/AVRDC (Nguyễn Thị Thủy, Hoàng Kim, Trần Công Khanh, Nguyễn Thị Sâm 1997). Giống đã được Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn công nhận giống năm 1997, hiện phổ biến trong sản xuất phía Nam và bán nhiều ở các siêu thị..Đặc tính giống: Thời gian sinh trưởng: 95 -110 ngày. Năng suất củ tươi: 15-27 tấn/ha, tỷ lệ chất khô 27- 31%. chất lượng củ luộc khá, vỏ củ màu tía, thịt củ màu tím đậm, dạng củ đều đẹp, dây xanh tím, nhiễm nhẹ sùng, hà và sâu đục dây.

        Giống khoai lang HOÀNG LONG

        Nguồn gốc giống : Hoàng Long chọn lọc là giống khoai lang phổ biến ở Việt Nam, có nguồn gốc từ Trung Quốc, đã nhập nội vào Việt Nam năm 1968.(*) và đã qua chọn lọc. Giống do Trường Đại học Nông Lâm thành phố. Hồ Chí Minh tuyển chọn và giới thiệu (Hoàng Kim, Nguyễn Thị Thủy, 1981). Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn công nhận giống năm 1981. Đặc tính giống: Thời gian sinh trưởng 85-95 ngày. Năng suất củ tươi 15 – 27 tấn/ ha, tỷ lệ chất khô 27-30%, chất lượng củ luộc khá, vỏ củ màu hồng sẫm, thịt củ màu vàng cam, dạng củ đều đẹp, dây xanh tím phủ luống gọn, mức độ nhiễm sùng và sâu đục dây trung bình. (*) Khoai lang Hoàng Long có nguồn gốc tại Thái Sơn, Thái An, Sơn Đông, Trung Quốc do tổ chuyên gia Trung Quốc mang vào Việt Nam năm 1968 làm việc với các chuyên gia nông nghiệp Việt Nam Quách Ngọc Ân, Đinh Thế Lộc. Khoai lang Hoàng Long được  trồng đầu tiên tại chân núi Trường Sinh thuộc bản Ngọc, xã Cẩm Lương, huyện miền núi Cẩm Thủy và phát triển rộng nhất ở huyện Cẩm Thủy, tỉnh Thanh Hóa . Giống khoai lang Hoàng Long chọn lọc do Hoàng Kim, Nguyễn Thị Thủy Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh thu thập, tuyển chọn và giới thiệu công nhận giống năm 1981. Khoai Hoàng Long chọn lọc được tuyển chọn theo hướng vỏ củ màu hồng sẫm, thịt củ màu vàng cam, dạng củ đều đẹp, chất lượng ngon, độ dẻo hơn độ ngọt (hình trên). Đây là giống khoai lang cao sản được trồng phổ biến nhất Việt Nam trong hơn ba mươi năm qua, nhiều nhất tại tỉnh Thanh Hóa. Giống khoai Hoàng Long chọn lọc tuyển chọn tại Việt Nam ngắn ngày hơn và chất lượng ngon hơn so với giống gốc đầu tiên tại Trung Quốc. xem thêm https://hoangkimlong.wordpress.com/category/giong-khoai-lang-hoang-long/

        IAS90

        2) Cần mua đúng loại giống khoai ngon này để ăn và trồng thì nên mua ở đâu để có giá tốt và không bị lầm? Hai giống khoai lang HL518 (Nhật đỏ) và HL491 (Nhật tím) hiện đã được xã hội hóa 24 năm (1997-2021) nên ngày nay được trồng khá phổ biến và mang lại sự thay đổi căn bản về năng suất cao và chất lượng ngon cho sự canh tác khoai lang tại nhiều tỉnh của Việt Nam. Những tỉnh trồng hai giống khoai lang này nhiều nhất là  Vĩnh Long, Kiên Giang, Đà Lạt, Đăk Nông, Gia Lai, Đồng Nai và Sóc Trăng. Tại Vĩnh Long, việc thay thế các giống khoai lang địa phương Dương Ngọc, Tàu Nghẹn, Bí Đế bằng hai giống khoai lang HL518 (Nhật đỏ) và HL491 (Nhật tím) cùng với việc ứng dụng các biện pháp kỹ thuật thâm canh khoai lang thích hợp đã đưa khoai lang Vĩnh Long năm 2000 từ diện tích 2,5 ngàn ha, năng suất bình quân 18,4 tấn/ ha, sản lượng 46,2 ngàn tấn, lên diện tích 8,5 ngàn ha, năng suất bình quân 29,2 tấn/ ha, sản lượng 248,7 ngàn tấn, (Tổng cục Thống kê 2014). Thông tin đúc kết tại kỷ yếu khoa học Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam năm 2015 (hình ảnh kèm theo).

        KhoaiSan

        Người trồng và người tiêu thu nên mua đúng loại giống khoai ngon HL518, HL491 này tại những hộ nông dân canh tác giỏi giống khoai lang này tại địa phương hoặc mua củ giống vỏ đỏ ruột cam ở các siêu thị để mang về tuyển lại hệ cũ, đối chiếu hình ảnh và bản tả kỹ thuật của giống khoai lang gốc đã công bố. Sau đó xây dựng chuỗi giá trị khoai lang ngon VIETGAP cho vùng sản xuất kinh doanh tiêu thụ khoai lang.

        Giống khoai lang HL518 (Nhật đỏ)

        3) Hiện nay ai và nơi nào có thể giúp làm việc bảo tồn phát triển giống khoai lang ngon cao sản này?Thầy Hoàng Kim, Nguyễn Thị Thủy, Trần Công Khanh, Nguyễn Thị Sâm, là các tác giả giống có còn tiếp tục giúp tư vấn sản xuất, tiêu thụ đối với giống khoai lang này không? Ba giống khoai lang HL518, HL491, Hoàng Long đã công bố từ lâu và đã xã hội hóa lâu dài, phát triển bền vững trong sản xuất, nay đã thành nguồn giống khoai lang ngon bản địa Việt Nam. Chúng tôi sẵn sàng hợp tác nghiên cứu phát triển giống khoai lang và các biện pháp kỹ thuật thâm canh để lựa chọn đúng giống, xác định địa bàn thích hợp đạt năng suất khoai lang cao, chất lượng tốt, và hiệu quả kinh tế cao, theo hợp đồng tư vấn dịch vụ nông nghiệp cụ thể.

        Việc ứng dụng giống khoai lang tốt có năng suất chất lượng cao và các biện pháp kỹ thuật thâm canh đã mang lại nhiều lợi ích kinh tế cho nông dân. Tuy vậy, năng suất, sản lượng, hàm lượng các chất trong củ khoai lang (% chất khô, tinh bột, vitamin, ) là có sự sai khác rất rõ giữa các địa phương, vùng miền, tùy thuộc chủ yếu vào các yếu tố: độ đúng giống và chất lượng lô hàng sử dụng nhận giống và chọn lọc giống (nếu lẫn tạp nhiều phải tuyển chọn chọn hệ cũ lại theo đúng tiêu chuẩn kỹ thuật); Sự sai khác cũng tùy thuộc đặc điểm sinh thái khí hậu đất đai và mức độ thích hợp với các giống khoai lang khác nhau; trình độ kỹ thuật thâm canh của dân địa phương và điều kiện kinh tế xã hội liên quan đến sản xuất và tiêu thụ khoai lang. Việc xây dựng mô hình sản xuất tiêu thụ khoai lang khép kín theo VIETGAP giúp phát huy lợi thế so sánh của khoai lang tại nơi thực hiện.

        Khó khăn chính trong sản xuất khoai lang hiện tại là: Giống khoai lang lẫn tạp và thoái hóa; Kỹ thuật canh tác khoai lang chưa thật thích hợp (thời vụ trồng, chọn đất, chọn hom giống tốt, kỹ thuật làm đất, bón phân NPK và hữu cơ vi sinh, kỹ thuật trồng, mật độ trồng, phòng trừ sùng khoai lang, sâu đục dây và bệnh hại, các biện pháp làm cỏ, nhấc dây, tổ chức sản xuất kinh doanh và tiêu thụ khép kín) Chưa kiểm soát tốt sùng hà gây hại; Ít đầu tư thâm canh; Chưa tổ chức sản xuất kinh doanh và tiêu thụ khép kín.

        Ba bài viết “Giống khoai lang ở Việt Nam” “Khoai lang Hoàng Long trên Yên Tử” “Khoai lang Việt Nam từ giống tốt đến thương hiệu” mời đọc thêm để tiện theo dõi. Chúc bạn vui khỏe và thành công.

        Hoàng Kim cùng với Huỳnh Hồng2 người khác. 13 tháng 4, 2017 lúc 07:30 ·

        Vui thu hoạch khoai lang
        https://www.facebook.com/permalink.php?story_fbid=577648890080479&id=100035061194376

        ĂN KHOAI LANG KIỂU NHẬT
        Hoàng Kim

        ĂN khoai kiểu Nhật nhớ em tôi
        KHOAI
        Đỗ QuýHạo thật tuyệt vời
        KIỂU ngon nướng hầm nghiền hấp luộc
        NHẬT đỏ (HL518) Nhật tím (HL491) ngon nhất thôi

        Hỏi đáp: Giống khoai lang HL 518; Giống khoai lang HL 491; Giống khoai lang Hoàng Long; Giống khoai lang Việt Nam; Ăn khoai lang kiểu Nhật Khoai Việt giống tốt đến thương hiệu;
        http://hoangkimlong.wordpress.com/category/giong-khoai-lang-hl518

        Những bài liên quan
        Giấc mơ lai khoai lang
        Giống khoai Bí Đà Lạt
        Giống khoai Hoàng Long
        Giống khoai lang HL4
        Giống khoai lang HL491
        Giống khoai lang HL518
        Giống khoai lang Việt Nam

        Thông tin liên quan : Theo Home Doctor Việt Nam Ăn khoai lang luộc và uống nước chanh nóng tốt cho sức khỏe và góp phần hiệu quả phòng trị bệnh Ung thư

        CÂY ĐỜI MÃI XANH TƯƠI
        Hoàng Kim

        Ngọc Phương Nam ngày mới

        Nhớ kỷ niệm một thời
        Phan Thiết có nhà tôi
        Nhớ lớp học trên đồng
        Ta về với đồng xuân

        Nhớ cây thông mùa đông
        Hoa Bình Minh Hoa Lúa
        Về miền Tây yêu thương
        Về với vùng cát đá

        Về với vùng văn hóa
        Xem tiếp >>

          Dạy và học 1 tháng 10(01-10-2021)

        nepnha

        CHÀO NGÀY MỚI 1 THÁNG 10
        Hoàng Kim
        CNM365 Tình yêu cuộc sốngNhân hậu đời quên tuổi; Thanh nhàn vui tháng năm; Một niềm vui ngày mới; Một gia đình yêu thương; Thời gian lưu dấu hiền; Tự do ngời tâm đức; Văn chương ngọc cho đời; Trung Quốc một suy ngẫm; Đi để hiểu quê hương; Giống sắn chủ lực KM419; Chọn giống sắn Việt Nam; Châu Mỹ chuyện không quên; Lời Thầy dặn thung dung; Con đường di sản LewisClark; Ngọt bùi nhớ trái ớt cay; Có một ngày như thế; Chuyện đồng dao cho em; Người vịn trời chấp sói; Praha Goethe và lâu đài cổ; Giấc mơ thiêng cùng Goethe; Niềm tin và nghị lực; Trà sớm thương người hiền; Ngày 1 tháng 10 là Ngày quốc tế người cao tuổi  (International Day of Older Persons – IDOP) do Liên Hiệp Quốc khởi xướng nhằm tuyên truyền cổ động cho việc chăm sóc, bảo vệ các người cao tuổi trong mọi nước thành viên. Ngày 1 tháng 10 năm 1949 Quốc khánh nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa;  Ngày 1 tháng 10 năm 1960, Quốc khánh nước Nigeria giành độc lập từ Anh Quốc. Bài chọn lọc ngày 1 tháng 10: Nhân hậu đời quên tuổi; Thanh nhàn vui tháng năm; Một niềm vui ngày mới; Một gia đình yêu thương; Thời gian lưu dấu hiền; Tự do ngời tâm đức; Văn chương ngọc cho đời; Trung Quốc một suy ngẫm; Đi để hiểu quê hương; Giống sắn chủ lực KM419; Chọn giống sắn Việt Nam; Châu Mỹ chuyện không quên; Lời Thầy dặn thung dung; Con đường di sản LewisClark; Ngọt bùi nhớ trái ớt cay; Có một ngày như thế; Chuyện đồng dao cho em; Người vịn trời chấp sói; Praha Goethe và lâu đài cổ; Giấc mơ thiêng cùng Goethe; Văn chương ngọc cho đời; Niềm tin và nghị lực; Trà sớm thương người hiền; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-1-thang-10/

        NHÂN HẬU ĐỜI QUÊN TUỔI
        Hoàng Kim

        “Nhân hậu thói nhà in một nếp
        Chân chính bao nhiêu phúc bấy nhiêu”

        Nhân hậu đời quên tuổi
        Thanh nhàn vui tháng năm
        Một niềm vui ngày mới
        Một gia đình yêu thương

        Nhớ Ông Bà Cậu Mợ
        Thời gian lưu dấu hiền
        Tự do ngời tâm đức
        Văn chương ngọc cho đời

        Mạc triều trong sử Việt
        Hoa Đất thương lời hiền
        Linh Giang Đình Minh Lệ
        Trăng rằm đêm Trung Thu

        Nếp nhà đẹp văn hóa
        Hoàng Gia Cương thơ hiền
        Trăng rằm vui chơi giăng
        Hoa Đất của quê hương

        cháu Hoàng Kim kính chúc thọ Cậu Hoàng Thúc Cảnh 101 tuổi Trung Thu 2021; xem tiếp 16 đường dẫn tại https://hoangkimlong.wordpress.com/category/nhan-hau-doi-quen-tuoi

        THANH NHÀN VUI THÁNG NĂM
        Hoàng Kim


        Sớm mai ngắm mai nở
        Thanh nhàn vui tháng năm
        Học lời hay của bạn
        Trân trọng ngọc riêng mình..

        Sớm mai ngắm mai nở
        Ngắm đức Phật và cây
        Lang thang vườn cổ tích
        Ta vui chơi chốn này

        Nhớ xưa dưới tán cây
        Cùng Norman trò chuyện
        Con đường xanh giấc mơ
        Dạo chơi vui cùng Goethe

        Noi theo dấu chân Bụt
        Hai bảy năm với Người
        dưới tán bồ đề xanh,
        kẻ tầm đạo thành đạo

        Tám mươi tuổi Niết Bàn
        Sa la hoa trắng muốt.
        Sớm mai ngắm mai nở
        Thanh nhàn vui tháng năm,

        xem tiếp http://hoangkimlong.wordpress.com/category/thanh-nhan-vui-thang-nam/

        MỘT NIỀM VUI NGÀY MỚI
        Hoàng Kim


        Suy ngẫm từ núi Xanh
        Giống khoai lang Hoàng Long
        Lúa siêu xanh Việt Nam
        Lên Thái Sơn hướng Phật

        Minh triết Hồ Chí Minh
        Khổng Tử dạy và học
        Mưa bóng mây nắng đầy
        Mưa tháng Năm nhớ bạn

        Một niềm vui ngày mới

        SUY NGẪM TỪ NÚI XANH
        Hoàng Kim

        “Muốn bình sao chẳng lấy nhân / Muốn an sao lại bắt dân ghê mình”.;“Biển Đông vạn dặm giang tay giữ. Đất Việt muôn năm vững thái bình” (Vạn lý Đông minh quy bá ác/ Ức niên Nam cực điện long bình). Suy ngẫm từ núi Xanh (景山, Jǐngshān, Cảnh Sơn, Green Mount), ngọn núi địa linh của đế đô Bắc Kinh, tôi tâm đắc lời nhắn gửi sâu xa của bậc hiền minh Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, nhà tiên tri lỗi lạc:Suy ngẫm về cuộc cách mạng Xanh và đỉnh cao Hòa Bình. Lời giáo sư Norman Borlaug văng vẳng bên tai tôi: “Đời người tối thiểu phải ăn, kế đến là học tập, công việc, nhà ở, quần áo và chăm sóc sức khỏe. Quanh ta còn nhiều mảnh đời bất hạnh. Hiểm họa nghèo đói vẫn bùng phát bất cứ lúc nào. Hãy luôn nhớ điều đó.” Sự hiền minh lỗi lạc của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, và di sản vô giá của giáo sư Norman Borlaug cùng với các bậc Thầy về cách mạng xanh mãi mãi là niềm tin và nổ lực của chúng ta.

        Suy ngẫm từ núi Xanhhttps://hoangkimlong.wordpress.com/category/suy-ngam-tu-nui-xanh/

        Đi như một dòng sông

        MINH TRIẾT HỒ CHÍ MINH
        Hoàng Kim

        Tôi viết minh triết Hồ Chí Minh theo chính kiến và nhận thức của riêng mình. 19 tháng 5 là ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, cũng là ngày thành lập Việt Minh, ngày khai sinh đường Hồ Chí Minh trong lịch sử. Chuỗi ba sự kiện lớn này đóng mốc son ngày 19 tháng 5 vào lịch sử Việt Nam và Thế giới đối với nền độc lập của nước Việt Nam ngày nay và sự nghiệp thống nhất Tổ quốc Việt Nam. Bác Hồ trọn đời minh triết. Bài viết này chỉ đề cập ba ý: Việt Nam Hồ Chí Minh là biểu tượng Việt; Bác Hồ nói đi đôi với làm, có lý có tình, mẫu mực đạo đức; Bác Hồ thực tiễn, quyền biến, năng động, rất ít trích dẫn. Tôi bổ sung hai sử liệu chọn lọc: Thư gửi Nguyễn Ái Quốc của Phan Châu Trình (bàn về phương pháp “ngọa ngoại chiêu hiền, đãi thời đột nội” (ngồi ở nước ngoài kêu gọi người tài giỏi, đợi thời để xông vào trong nước) với thông tin nhiều năm chiêm nghiệm Bước ngoặt lịch sử chiến tranh Đông Dương, sự thấu hiểu vì sao không có thỏa hiệp hợp tác khác hơn so với sự thật lịch sử đã xảy ra giữa Hồ Chí Minh với Bảo Đại, Trần Trọng Kim, Ngô Đình Diêm, Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Trường Tam khi hình thành nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa của đất nước Việt Nam mới

        1. Việt Nam Hồ Chí Minh là biểu tượng Việt 

        Bác Hồ là biểu tượng của thế giới người hiền, là tinh hoa văn hóa Việt gốc và văn hóa tương lai. 

        Giáo sư Trần Văn Giàu trong bài viết Nhân cách lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã luận về bảy phẩm chất nhân cách mà cũng là minh triết của Bác Hồ được con dân nước Việt và thế giới ngợi ca. Đó là : Ưu tiên đạo đức, Tận tụy quên mình, Kiên trì bất khuất, Khiêm tốn giản dị, Hài hòa kết hợp, Thương, quý người, nâng đỡ con người, thấu tình đạt lý, Yêu thiên nhiên, hòa hợp với thiên nhiên. Giáo sư Trần Văn Giàu kết luận: “Xin mượn ý của một nhà báo ở châu Đại Dương để tạm kết chủ đề luận về nhân cách Hồ Chủ tịch: Người ta không thể trở thành một Cụ Hồ Chí Minh, nhưng ở Cụ Hồ, mỗi người có thể học một số điều làm cho mình trở thành tốt hơn”. 

        Bác sĩ Vũ Đình Tụng đã kể câu chuyện Bức thư huyết lệ trong hàng vạn chuyện đời thường về Bác Hồ, xin được trích nguyên văn. 

        ” 8 giờ đêm – một đêm tháng Chạp năm 1946 – bác sĩ Vũ Đình Tụng phải mổ một trường hợp chiến thương quá đặc biệt và rất đau lòng: một chiến sĩ “sao vuông” rất trẻ, tuy vết thương nặng, đạn xé tung cả một khúc ruột mà miệng vẫn mỉm cười, cái nụ cười quá quen thuộc và thân thương đối với bác sĩ. Anh tự vệ Thủ đô ấy, người chiến sĩ gan góc ấy lại chính là Vũ Văn Thành, con trai út của bác sĩ. 

        Suốt ngày hôm ấy, tôi đã phải mổ cưa gắp đạn và khâu vết thương cho hàng chục chiến sĩ nhưng đến trường hợp con tôi, thần kinh tôi căng lên một cách kinh khủng. Mấy người giúp việc khuyên tôi nên nghỉ tay, nhưng tôi vẫn cố kìm mình để giữ bình tĩnh gắp mảnh đạn cuối cùng trong thân thể người con. Xong việc, tôi loạng choạng rời khỏi bàn mổ. 

        Các bác sĩ và những người giúp việc đã cố gắng nhiều, nhưng vết thương do quân thù gây ra quá nặng đã cướp đi mất Thành, con trai của tôi, anh của Thành là Vũ Đình Tín, tự vệ chiến đấu cũng vừa bị mất sau ngày Tổng khởi nghĩa, tôi đau đớn đến bàng hoàng. 

        Một buổi chiều trời rét lắm, sau đêm Nôen cuối cùng ở bệnh viện Bạch Mai, bị bom đạn tàn phá, vào lúc tôi mổ xong một ca thương binh nhẹ thì bác sĩ Trần Duy Hưng, lúc bấy giờ giữ chức Thứ trưởng Bộ Nội vụ trân trọng trao cho tôi một bức thiếp của Hồ Chủ tịch. Tôi cảm động quá. Mới đầu tôi cứ ngỡ là một mệnh lệnh mới của Người. Nhưng thật không ngờ, đó lại là một bức thư riêng đầy tình cảm lớn lao của Bác chia đau thương với gia đình tôi. Khi đó, Bác gọi tôi là “Ngài”. 

        “Thưa Ngài,
        Tôi được báo cáo rằng: con giai Ngài đã oanh liệt hy sinh cho Tổ quốc. 

        Ngài biết rằng tôi không có gia đình, cũng không có con cái. Nước Việt Nam là gia đình của tôi. Tất cả thanh niên Việt Nam là con cháu của tôi. Mất một thanh niên thì hình như tôi đứt một đoạn ruột. 

        Nhưng cháu và anh em thanh niên khác dũng cảm hy sinh để giữ gìn đất nước – Thế là họ đã làm rạng rỡ dân tộc, vẻ vang giống nòi. Họ chết cho Tổ quốc sống mãi, tinh thần họ luôn luôn sống với non sông Việt Nam. 

        Họ là con thảo của Đức Chúa, họ đã thực hiện cái khẩu hiệu: Thượng đế và Tổ quốc. Những thanh niên đó là anh hùng dân tộc. Đồng bào và Tổ quốc sẽ không bao giờ quên ơn họ. 

        Ngài đã đem món quà quý báu nhất là con của mình, sẵn sàng hiến cho Tổ quốc. Từ đây, chắc Ngài sẽ thêm ra sức giúp việc kháng chiến để bảo vệ nước nhà thì linh hồn cháu ở trên trời cũng bằng lòng và sung sướng. 

        Tôi thay mặt Chính phủ cảm ơn Ngài, và gửi Ngài lời chào thân ái và quyết thắng.
        Tháng 1-1947
        Hồ Chí Minh” 

        Đọc xong bức thư, tôi thấy bàng hoàng. Bác bận trăm công nghìn việc, thế mà Bác vẫn nghĩ đến tôi, một gia đình đang có cái tang đau lòng như hàng vạn gia đình khác. 

        Tôi thấy nỗi đau thương và sự hy sinh của gia đình mình trở thành nhỏ bé trong cái tình thương mênh mông và sự hy sinh cao cả của Bác đối với cả dân tộc. Tôi nhủ mình sẽ phải làm tốt công việc để xứng đáng với sự hy sinh của các con và khỏi phụ lòng Bác. 

        Sau đó, tôi theo Bác lên Việt Bắc – căn cứ thần thánh của cách mạng Việt Nam. Từ một người thầy thuốc của xã hội cũ, một giáo dân ngoan đạo, tôi đã trở thành một người thầy thuốc tốt, một Bộ trưởng Bộ Thương binh xã hội của nước Việt Nam mới. 

        Vũ Đình Tụng kể, Lê Thân ghi, theo báo Nghệ An, tháng 9-1994 

        Tổ chức UNESCO tại kỳ họp Đại hội đồng lần thứ 24 ở Paris năm 1987 đã tôn vinh Chủ tịch Hồ Chí Minh là “Anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa“ do các đóng góp quan trọng và nhiều mặt của Người trong các lĩnh vực văn hóa, giáo dục, nghệ thuật, và Người đã dành cả cuộc đời mình cho sự giải phóng nhân dân Việt Nam, đóng góp cho cuộc đấu tranh chung vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội của các dân tộc. 

        19 tháng 5 là ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng là ngày thành lập Việt Minh và khai sinh đường Hồ Chí Minh trong lịch sử. Hành trình đến tự do hạnh phúc của dân tộc Việt đã trãi qua giành độc lập dân tộc và đấu tranh thống nhất Tổ quốc trong cuộc trường chinh thế kỷ . Minh triết của Chủ tịch Hồ Chí Minh là đã hiến dâng trọn đời mình cho sự nghiệp đấu trang giải phóng dân tộc và thống nhất Tổ quốc quy non sông vào một mối. Những việc khác Bác có Di chúc để lại cho đời sau. Công lao và những biến đổi phần sau không thể và không nên quy hết về Người. Có một số uẩn khúc đời người cần có đủ tư liệu mới đánh giá đầy đủ. 

        Bác Hồ có bài thơ “Chơi chữ” rất lạ vào những ngày đầu khởi lập nước Việt Nam mới.Đó là một kỳ thư, kinh Dịch độc đáo, một luận giải sứ mệnh và tự đánh giá của Bác:

        Chơi chữ 
        Hồ Chí Minh 
        (Bản dịch của Nam Trân): 

        Người thoát khỏi tù ra dựng nước,
        Qua cơn hoạn nạn, rõ lòng ngay;
        Người biết lo âu, ưu điểm lớn,
        Nhà lao mở cửa, ắt rồng bay! 

        Nguyên tác:
        Tù nhân xuất khứ hoặc vi quốc,
        Hoạn quá đầu thì thuỷ kiến trung;
        Nhân hữu ưu sầu ưu điểm đại,
        Lung khai trúc sản, xuất chân long. 

        折字
        Chiết tự
        Chơi chữ
        囚人出去或為國
        患過頭時始見 忠
        人有憂愁優點大
        籠開竹閂出真龍 

        Chiết tự là một hình thức phân tích chữ Hán ra từng bộ phận để thành những chữ mới, có ý nghĩa khác với ý nghĩa ban đầu. Theo lối chiết tự, bài thơ này còn có nghĩa đen như sau: chữ tù (囚) bỏ chữ nhân (人), cho chữ hoặc (或) vào, thành chữ quốc (國). Chữ hoạn (患) bớt phần trên đi thành chữ trung (忠). Thêm bộ nhân (人) đứng vào chữ ưu (憂) trong “ưu sầu” thành chữ ưu (優) trong “ưu điểm”. Chữ lung (籠) bỏ bộ trúc đầu (竹) thành chữ long (龍). 

        Anh Phan Chí Thắng có bài thơ viên đá thời gian “Ảnh ngày 19 /5 36 năm trước”

        Vườn cây che mát nhà sàn
        Mặt ao in bóng dịu dàng trời mây
        Người như còn sống nơi đây
        Mắt cười ấm áp đủ đầy yêu thương
        Huệ thơm ngan ngát tỏa hương
        Bước chân khẽ vọng con đường Bác qua
        Nước non đất Việt là nhà
        Biển xa núi thẳm đều là chốn quê:

        Bác thật sự Ưu tiên đạo đức, Tận tụy quên mình, Kiên trì bất khuất, Khiêm tốn giản dị, Hài hòa kết hợp, Thương, quý người, nâng đỡ con người, thấu tình đạt lý, Yêu thiên nhiên, hòa hợp với thiên nhiên.
        Hải Như thơ về NgườiSơn Tùng chuyện Bác Hồ, tôi thường đọc lại

        Vị tướng của lòng dân Võ Nguyên Giáp có nhiều đúc kết trí tụệ sâu sắc về Bác

        2. Bác Hồ nói đi đôi với làm, có lý có tình, mẫu mực đạo đức 

        Hồ Chí Minh là một nhà cách mạng chuyên nghiệp, mẫu mực về đạo đức cách mạng, là tấm gương sáng về tự học suốt đời. Người nói: “Học ở đâu? Học ở trường, học trong sách vở, học lẫn nhau và học ở dân“. Người luôn nói và làm đi đôi., học không biết mỏi, dạy không biết chán. 

        Bác viết: “Học thuyết của Khổng Tử có ưu điểm là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tôn giáo của Jêsu có ưu điểm của nó là lòng nhân ái cao cả. Chủ nghĩa Mác có ưu điểm là phương pháp làm việc biện chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm là chính sách của nó thích hợp với điều kiện nước ta. Khổng Tử, Jêsu, Mác, Tôn Dật Tiên chẳng có ưu điểm chung đó sao? Họ đều mưu cầu hạnh phúc cho loài người, mưu cầu hạnh phúc cho xã hội. Nếu hôm nay họ còn sống trên đời này, tôi tin rằng họ nhất định sống chung với nhau rất hoàn mỹ như những người bạn thân thiết. Tôi cố gắng làm một người học trò nhỏ của các vị ấy..” Trích “Hồ Chí Minh về vấn đề tôn giáo và tín ngưỡng”, NXB Khoa học xã hội, H.1996, trang 152. (Ảnh: Chủ tịch Hồ Chí Minh và Thủ tướng Phạm Văn Đồng). 

        Nói và làm của Hồ Chí Minh điều gì cũng minh triết và thiết thực. Từ bài “Tâm địa thực dân” viết ở Pháp năm 1919 đến “Tuyên ngôn độc lập” năm 1945. Từ “Những nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa” năm 1945 đến “Lời kêu gọi sau khi hội nghị Giơnevơ thành công” năm 1954. Từ “Lời phát biểu trong buổi đón tiếp Ủy ban Quốc tế” năm 1954 sau cuộc chiến tranh Đông Dương tàn khốc và dai dẳng 8,9 năm đến “Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh” công bố năm 1969 lúc cuộc chiến tranh Việt Nam đang ở giai đoạn dữ dội và ác liệt nhất. Việc làm nào, lời nói nào của Bác Hồ đều là nói đi đôi với làm, là khuôn vàng thước ngọc của đạo đức cách mạng “cần, liêm, chính, chí công vô tư“. Trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất Tổ Quốc, tự do và hạnh phúc của dân. Người viết: “Ngày nay, chúng ta đã xây dựng nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nhưng nếu nước được độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì” Tư tưởng xuyên suốt của Người là “Việc gì lợi cho dân , ta phải hết sức làm. Việc gì hại cho dân ta phải hết sức tránh” “Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi” “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công” 

        Hồ Chí Minh có nhiều bài chuyên bàn về đạo đức và đạo đức cách mạng. Đó là các bài “Đạo đức công dân” (1-1955), Đạo đức cách mạng (6-1955; 12-1958), “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân” (2-1969). Người chủ trương phát triển văn hóa gắn liền với đời sống mới, kêu gọi thực hành đời sống mới trong mọi lĩnh vực, mọi tầng lớp và trong từng con người. Hồ Chí Minh chỉ ra rằng: ” Đời sống mới không phải là cái gì cũ cũng bỏ hết không phải cái gì cũng làm mới. Cái gì cũ mà xấu thì phải bỏ. Cái gì cũ mà không xấu nhưng phiền phức thì phải sửa đổi lại cho hợp lý…; Cái gì cũ mà tốt thì phải phát triển thêm …; Cái gì mới mà hay thì ta phải làm” 

        3. Bác Hồ thực tiễn, quyền biến, năng động, rất ít trích dẫn  

        Ông Trường Chinh nói với ông Hà Đăng khi chiêm nghiệm về phong cách văn chương của chủ tịch Hồ Chí Minh: Bác Hồ rất ít trích dẫn. Lúc đầu tôi cũng cho là ngẫu nhiên. Về sau, hỏi trực tiếp, Bác nói: Mác, Ang ghen, Lê Nin nói rất đúng. Nhưng hoàn cảnh Mác, Ang ghen, Lê Nin hoàn toàn khác hoàn cảnh của chúng ta. Vậy nên muốn nói gì, trước hết phải hiểu cho thật rõ điều mà các vị ấy muốn nói, nói cho phù hợp với hoàn cảnh của mình, cho dân mình dễ hiểu. Do đó, Bác viết bằng sự suy nghĩ của mình. Bác rất ít trích dẫn”. (Hà Đăng 2002. Trường Chinh, người anh cả trong làng báo. Trong sách: Trường Chinh, một nhân cách lớn, một nhà lãnh đạo kiệt xuất của cách mạng Việt Nam. Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia, trang 320). Ông Trường Chinh là một trong những người làm việc lâu nhất, thường xuyên nhất với Bác. Những chắt lọc và nhận xét trên đây chắc chắn là điều cần cho chúng ta suy ngẫm. 

        “Bác viết bằng sự suy nghĩ của mình. Bác rất ít trích dẫn” đó là phong cách văn chương của Hồ Chí Minh. Những người thông hiểu lịch sử, văn hóa, hiểu sâu các điển cố văn chương, chuyện hay tích cổ sẽ có thể chỉ ra vô số những điều trùng khớp của những lời hay ý đẹp từ xa xưa đã được Bác vận dụng một cách hợp lý hợp tình trong thời đại mới. Bác là người chú trọng ngôn ngữ giản dị, ngắn gọn, dễ hiểu, có tính thuyết phục cao, có nhịp điệu. Một thí dụ nhỏ như câu: “Yêu Tổ quốc, yêu đồng bào/ Học tập tốt, lao động tốt/ Đoàn kết tốt, kỹ luật tốt/ Giữ gìn vệ sinh thật tốt/ Khiêm tốn, thật thà, dũng cảm” là câu sáu chữ có nhịp điệu như câu thơ cổ.   

        Bác Hồ nói: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Suốt đời Bác làm hai việc chính là kiến tạo Việt Nam Độc lập Đồng minh (gọi tắt là Việt Minh) thành một mặt trận rộng rãi “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công thành công, đại thành công” thực hiện “kế sách một chữ đồng” giành độc lập dân tộc và mở đường thống nhất Việt Nam. 

        Bác Hồ thật đúng là: “Bình sinh đầu ngẩng tới trời xanh. Khuất núi hồn THƠM quyện đất lành. Anh hùng HỒ dễ nên nghiệp ấy. Tâm hồn bình dị CHÍ anh MINH”.

        Một số vĩ nhân còn lầm lẫn và khuyết điểm vào một thời điểm nào đó trong đời, riêng Bác Hồ thì sự lầm lẫn và khuyết điểm chưa tìm thấy.

        Hồ Chí Minh trọn đời minh triết.

        Hoàng Kim

        (*) Bài viết Minh triết Hồ Chí Minh  nhân kỷ niệm 131 năm (1890 – 2021) ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh

        MỘT NIỀM VUI NGÀY MỚI
        Hoàng Kim

        Cây Lương thực Việt Nam là Hoa Đất
        Ngọc cho đời đằm thắm giấc mơ con
        Chào ngày mới một niềm vui thầm lặng
        Một niềm tin thắp lửa giữa tâm hồn

        Ngắm ảnh lúa nhớ người hiền hoa lúa.
        Những bạn thầy dung dị chốn chân quê.
        Ta về giữa trời xanh và đồng rộng.
        Lắng yêu thương ký ức lại quay về.

        Viên ngọc ước, trong ngần như hạt gạo.
        Chén cơm ngon, thơm bếp lửa gia đình.
        Hạnh phúc lớn, trong niềm vui bình dị.
        Cùng ruộng đồng, bạn quý với chân quê

        Xuôi phương Nam, tôi tìm thăm Hai Lúa.
        Thắm tình thân, thầy bạn buổi tất niên.
        Địa chỉ xanh, dẫu xa mà gần gũi .
        Mừng xuân này công việc gắn bền thêm.

        Ngày mới vui chào thầy bạn quý.
        Người hiền việc tốt chốn yêu thương
        An viên nghề nông và dạy học
        Chung sức bao năm một chặng đường .

        xem tiếp:http://hoangkimlong.wordpress.com/category/mot-niem-vui-ngay-moi

        Câu chuyện ảnh tháng Một; Câu chuyện ảnh tháng Hai; Câu chuyện ảnh tháng Ba; Câu chuyện ảnh tháng Tư; Câu chuyện ảnh tháng Năm; Câu chuyện ảnh tháng SáuXem tiếp >>

          Dạy và học 30 tháng 9(30-09-2021)


        DẠY VÀ HỌC 30 THÁNG 9
        Hoàng Kim
        CNM365 Tình yêu cuộc sốngGiống sắn chủ lực KM419; Chọn giống sắn Việt Nam; Châu Mỹ chuyện không quên; Lời Thầy dặn thung dung; Con đường di sản LewisClark; Thầy Nguyễn Lân Dũng; Chuyện thầy Lê Văn Tố; Có một ngày như thế; Câu chuyện ảnh tháng Chín; Chuyện đồng dao cho em; Người vịn trời chấp sói; Praha Goethe và lâu đài cổ; Giấc mơ thiêng cùng Goethe; Văn chương ngọc cho đời; Ăn cháo nói càn khôn; Tự do ngời tâm đức; Người dĩ công vi thượng; Đi như một dòng sông; Quốc Công đạo làm tướng; Tiết Chế đức dụng nhân; Kế sách một chữ Đồng;Biết mình và biết người; Trúc Lâm Trần Nhân Tông; Làng Minh Lệ quê tôi; Ngày 30 tháng 9 năm 1935 Đập Hoover của Hoa Kỳ được khánh thành. Đập này nằm trên biên giới giữa hai bang Arizona và Nevada, của sông Colorado, miền tây nước Mỹ. Phía bắc đập nước đã thành hồ Mead, là một trong những kho nước nhân tạo lớn nhất thế giới, dài 177 km, tuyến bờ hồ dài 1.323 km (Hình 1.6). Ngày 30 tháng 9 năm 1966 Ngày Độc lập tại Botswana là một nước cộng hoà nằm kín trong lục địa Nam Phi, trước kia là quốc gia bảo hộ bởi Vương quốc Anh, nay thành nước độc lập thuộc Khối thịnh vượng chung Anh Quốc. Nước Botswana có diện tích tự nhiên 581.730 km² (hạng 46) so Việt Nam 331.699 km² (hạng 66) Nước Botswana được đặt tên theo nhóm sắc tộc lớn nhất, người Tswana, có quan hệ chặt chẽ với Nam Phi, chủ yếu dựa vào khai mỏ (đặc biệt là kim cương), chăn nuôi gia súc, và du lịch; Ngày 30 tháng 9 năm 1520, Suleiman I đăng quang Sultan của Ottoman, đế quốc đạt đỉnh cao về quân sự, chính trị và kinh tế trong thời gian ông trị vì. ‘Nhà nước Ottoman Tối cao’ là quốc hiệu nước Thổ Nhĩ Kỳ thời từ năm 1299 đến 1923. Đế quốc Ottoman tương tác với văn hóa phương Đông và phương Tây trong suốt lịch sử 624 năm của nó. Đế quốc Ottoman thời đỉnh cao quyền lực ở thế kỷ XVI và thế kỷ XVII, lãnh thổ rộng lớn gồm các vùng Tiểu Á, Trung Đông, nhiều phần ở Bắc Phi, và đa phần đông nam châu Âu đến tận Kavkaz, có diện tích khoảng trên 5,6 triệu km²,với vùng ảnh hưởng thực tế của đế quốc này còn rộng hơn nhiều, nếu tính cả các vùng lân cận do các bộ lạc du mục cai quản, thuộc đế quốc này cai quản được công nhận. Bài chọn lọc ngày 30 tháng 9: Giống sắn chủ lực KM419; Chọn giống sắn Việt Nam; Châu Mỹ chuyện không quên; Lời Thầy dặn thung dung; Con đường di sản LewisClark; Thầy Nguyễn Lân Dũng; Chuyện thầy Lê Văn Tố; Có một ngày như thế; Câu chuyện ảnh tháng Chín; Chuyện đồng dao cho em; Người vịn trời chấp sói; Praha Goethe và lâu đài cổ; Giấc mơ thiêng cùng Goethe; Văn chương ngọc cho đời; Ăn cháo nói càn khôn; Tự do ngời tâm đức; Người dĩ công vi thượng; Đi như một dòng sông; Quốc Công đạo làm tướng; Tiết Chế đức dụng nhân; Kế sách một chữ Đồng;Biết mình và biết người; Trúc Lâm Trần Nhân Tông; Làng Minh Lệ quê tôi; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-30-thang-9/

        Chọn giống sắn Việt Nam
        GIỐNG SẮN CHỦ LỰC KM419
        Giống sắn KM 419 được chọn tạo từ tổ hợp lai BKA900 x KM 98-5. Giống do Trường Đại học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh phối hợp với Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Phú Yên, Trường Đại học Nông Lâm Huế tuyển chọn và giới thiệu (Hoàng Kim, Trần Ngọc Ngoạn, Nguyễn Thị Trúc Mai, Võ Văn Quang, Nguyễn Bạch Mai, Nguyễn Thị Lệ Dung, Nguyễn Phương, Hoàng Long, Nguyễn Minh Cường, Đào Trọng Tuấn, Trần Công Khanh, Nguyễn Minh Hiếu, Nguyễn Văn Bộ, Nguyễn Thị Cách, Nguyễn Trọng Hiển, Lê Huy Ham, H. Ceballos and M. Ishitani. (2016), Giống sắn KM419 đượcBộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn công nhận sản xuất thử tại Quyết định số 85 / QĐ-BNN-TT Hà Nội ngày 13 tháng 1 năm 2016 cho vùng sinh thái Bắc Trung Bộ, Duyên hải Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ).

        Giống sắn KM419 là giống sắn chủ lực của Việt Nam có diện tích thu hoạch năm 2016 chiếm 38 % so với giống sắn KM94 chiếm 31,7% (RTB Newsletter 2016. Assessment reveals that most cassava grown in Vietnam has a CIAT pedigree), và năm 2019 giống sắn KM419 chiếm khoảng 42% tổng diện tích sắn toàn Việt Nam. Giống sắn chủ lực và phổ biến ở Việt Nam ngày nay là KI419 và KM140, trong khi chờ đợi các giống sắn mới tích hợp gen kháng bệnh CMD được khảo nghiệm (Báo Nhân Dân 2020 dẫn kết luận của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn,: các giống đối chứng tốt nhất hiện trồng tại Tây Ninh là KM419 và KM140 có năng suất 44-48 tấn/ha https://nhandan.vn/chuyen-lam-an/tim-ra-giong-san-khang-benh-kham-la-625634/ );.

        Giống sắn KM419 đã phát triển rộng rãi tại Tây Ninh, Đồng Nai, Đắk Lắk, Phú Yên,…được nông dân các địa phương ưa chuộng với tên gọi sắn giống cao sản siêu bột Nông Lâm. Đặc biệt tại tỉnh Phú Yên giống sắn KM419 được trồng trên 85% tổng diện tích sắn của toàn tỉnh mang lại bội thu năng suất và hiệu quả cao về kinh tế xã hội. Tại Tây Ninh, năm 2019 diện tích sắn bị nhiễm bệnh CMD tuy vẫn còn cao nhưng mức độ hại giảm mạnh, lý do vì KM419 và KM94 là giống chủ lực chiếm trên 76% diện tích mỗi vụ của toàn tỉnh (KM419 chiếm 45% ở vụ Đông Xuân và 54,2% ở vụ Hè Thu; KM94 chiếm 31% ở vụ Đông Xuân và 21,6% ở vụ Hè Thu). Tại Đăk Lắk, năm 2019 diện tích sắn KM419 chiếm trên 70% diện tích mỗi vụ của toàn tỉnh.

        Giống KM419 có đặc điểm:

        + Thân xanh xám thẳng, ngọn xanh cọng đỏ, lá xanh đậm, không phân nhánh.
        + Năng suất củ tươi: 34,9-54,9 tấn/ha.
        + Tỷ lệ chất khô: 35,1- 39.0%.
        + Hàm lượng tinh bột: 27,8 – 30,7%.
        + Năng suất tinh bột: 10,1-15,8 tấn/ ha
        + Chỉ số thu hoạch: 62 %.
        + Thời gian thu hoạch: 7-10 tháng.
        + Nhiễm trung bình bệnh chồi rồng và bệnh khảm lá virus CMD
        + Cây cao vừa, nhặt mắt, tán gọn, thích hợp trồng mật độ dày 12,500- 14.000 gốc/ ha .

        Sự bùng nổ về năng suất sản lượng và hiệu quả kinh tế sắn đã trùng hợp với sự xuất hiện, lây lan của các bệnh hại bệnh sắn nghiêm trọng. Đặc biệt bệnh khảm lá CMD do virus gây hại (Sri Lanka Cassava Mosaic Virus) lây lan rất nhanh và gây hại khủng hoảng các vùng trồng sắn. Tại Việt Nam, bệnh này được phát hiện vào tháng 5/2017 trên giống sắn HLS11, đến tháng 7/ 2019 bệnh đã gây hại các vùng trồng sắn của 15 tỉnh, thành phố (2018), trên hầu hết các giống sắn hiện có ở Việt Nam. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Cục BVTV đã có văn bản 1068 ngày 9/5/2019 xác định “Việc hướng dẫn nông dân mua giống KM419 sạch bệnh là giải pháp an toàn, kinh tế nhất hiện nay”.

        Điểm lưu ý trong sản xuất hiện nay là trồng giống KM419 sạch bệnh. Cần phân biệt giống sắn giống KM419 với HLS11 và các giống sắn chưa rõ lý lịch cha mẹ và nguồn gốc giống. Giống sắn KM419 đăc trưng là 1) thấp cây, tán gọn, cọng đỏ; 2) vỏ cũ xám trắng, 3) chống chịu nhẹ đến trung bình bệnh CMD và CWBD, so với HLS 11 đặc trưng là 1) cao cây, cọng xanh, 2) vỏ củ nâu đỏ, 3) nhiễm nặng bệnh CMD và bệnh đốm lá CBB. Giống sắn chủ lực KM419, được lai tạo đưa thêm gen kháng bệnh của giống C39, KM440, KM397 tạo ra các giống sắn KM568, KM537, KM536, KM535, năng suất bột cao kháng bệnh CMD và CWBD và có dạng hình cây thấp tán gọn,

        Giống sắn KM419 bìa trái thấp cây, tán gọn, cọng đỏ, chống chịu trung bình với bệnh CMD và CWBD , và các dòng sắn lai ít bệnh CMD và CWBD, so với HLS 11 giữa, cao cây, cọng xanh, nhiễm nặng bệnh CMD

        Nghiên cứu tuyển chọn giống sắn năng suất tinh bột cao, kháng được sâu bệnh hại chính (CMD, CWBD) phù hợp với điều kiện sản xuất tại tỉnh Phú Yên và vùng phụ cận (Nguyễn Thị Trúc Mai, Hoàng Kim, Hoàng Long và đồng sự 2020). Sử dụng giống sắn KM419 năng suất tinh bột cao và nhiễm nhẹ đến trung bình bệnh CMD và bệnh chồi rồng (CWBD) để đưa thêm vào gen mục tiêu (C39) kháng bệnh. Chọn tạo và phát triển 1-2 các giống sắn mới trong phả hệ các giống sắn triển vọng KM568, KM537, KM536, KM535, KM534 là nội dung nghiên cứu quan trọng “Chọn tạo sắn Việt Nam” cấp thiết, có tính khả thi cao, tính mới cao, kế thừa và phát triển bền vững giống sắn ở Việt Nam tốt nhất hiện nay.

        xem thêm Chọn giống sắn Việt Nam; Chọn giống sắn kháng CWBD; Chọn giống sắn kháng CMD, Bảo tồn và phát triển sắnhttps://hoangkimlong.wordpress.com/category/bao-ton-va-phat-trien-san/

        Video yêu thích
        Giống sắn KM419 và KM440 ở Việt Nam hiện nay là phổ biến nhất, sau cả áp lực nặng của bệnh khảm lá CMD và bệnh chổi rồng CWBD. https://youtu.be/XDM6i8vLHcIhttps://youtu.be/kjWwyW0hkbU .

        CHÂU MỸ CHUYỆN KHÔNG QUÊN
        Hoàng Kim

        Tôi đã nhiều lần tới châu Mỹ, tới cả Trung Mỹ, Bắc Mỹ và Nam Mỹ. Đó là kinh nghiệm sống quý giá cho sự nghiên cứu và giảng dạy khoa học cây trồng, đặc biệt là cây lương thực. Tôi nhớ thầy Norman Boulaug và nhiều thầy bạn ở nơi ấy, nhớ đất. nhớ người. Tôi có thói quen chép lại ghi chú ngắn và ghi hình về kỷ niệm sau mỗi chuyến đi, lần này mới có dịp hệ thống lại. “Châu Mỹ chuyện không quên” lắng đọng trong lòng tôi những ký ức sâu sắc về công việc chuyên môn khoa học cây trồng, cây lương thực yêu thích, kết nối với đất nước, con người, bạn hữu, và nền văn hóa châu Mỹ. Tôi kể từ chuyến đi Mỹ lần đầu tiên năm 1988, cho tới nhiều lần về sau lắng đọng chuỗi trãi nghiệm thân thương với thầy bạn ở bên kia bờ đại dương. Ba nơi chính của châu Mỹ mà tôi may mắn được tới, đó là vùng vật liệu di truyền ở ba trung tâm khởi nguyên cây trồng toàn cầu của chúng tại Châu Mỹ gồm Trung tâm ngô và lúa mì quốc tế CIMMYT ở Mê hi cô. Trung tâm khoai lang và khoai tây quốc tế CIP ở Peru. Trung tâm Quốc tế Nông nghiệp Nhiệt đới CIAT về sắn, đậu thực phẩm, lúa gạo châu Mỹ ở Côlômbia. Những điểm đến này tương tự như Viện Nông nghiệp Nhiệt đời Quốc tế IITA ở Nigeria châu Phí, Viện Nghiên cứu Cây trồng Quốc tế cho vùng Nhiệt đới Bán khô cằn ICRISAT ở Ấn Độ, và Viện Lúa quốc tế IRRI ở Philippines. Những chốn ấy cũng thật thân thuộc với tôi. Tại đấy sách chuyên khảo cây trồng, tạp chí, trang web, video thật phong phú, sâu sắc và thật đáng ao ước. Cũng từ đấy mà tôi may mắn được đi thăm thú rộng ra các vùng lân cận theo điều kiện và hoàn cảnh của mỗi chuyến đi.

        “Châu Mỹ chuyện không quên” là các bài học tình yêu cuộc sống trãi nghiệm cá nhân của các chuyến đi thực tế, với mục đích cung cấp các điểm nhấn tư liệu nông nghiệp sinh thái về cây lương thực châu Mỹ cho bạn đọc. Tác phẩm gồm 36 đường dẫn, tựa đề thơ ngũ ngôn, để dễ đọc dễ nhớ, ảnh chi tiết bấm link.

        Mục đích sau cùng của DẠY VÀ HỌC là thấu suốt bản chất sự vật, có lời giải đúng và LÀM được việc.
        Lời Thầy dặn thung dung.

        Châu Mỹ chuyện không quên
        Hoàng Kim

        Niềm tin và nghị lực
        Về lại mái trường xưa
        Hưng Lộc nôi yêu thương
        Năm tháng ở trời Âu

        Vòng qua Tây Bán Cầu
        CIMMYT tươi rói kỷ niệm
        Mexico ấn tượng lắng đọng
        Lời Thầy dặn không quên

        Ấn tượng Borlaug và Hemingway
        Con đường di sản Lewis Clark
        Sóng yêu thương vỗ mãi
        Đối thoại nền văn hóa

        Truyện George Washington
        Minh triết Thomas Jefferson
        Mark Twain nhà văn Mỹ
        Đi để hiểu quê hương

        500 năm nông nghiệp Brazil
        Ngọc lục bảo Paulo Coelho
        Rio phố núi và biển
        Kiệt tác của tâm hồn

        Giấc mơ thiêng cùng Goethe
        Chuyện Henry Ford lên Trời
        Bài đồng dao huyền thoại
        Bảo tồn và phát triển

        Sắn Việt Nam và Kawano
        Sắn Việt Nam và Howeler
        Một ngày với Hernán Ceballos
        CIAT Colombia thật ấn tượng
        Martin Fregenexa mà gần

        Châu Mỹ chuyện không quên
        CIP Peru và khoai Việt
        Nam Mỹ trong mắt tôi
        Nhiều bạn tôi ở đấy

        Machu Picchu di sản thế giới
        Mark Zuckerberg và Facebook
        Lời vàng Albert Einstein
        Bill Gates học để làm

        Thomas Edison một huyền thoại
        Toni Morrison nhà văn Mỹ
        Walt Disney bạn trẻ thơ
        Lúa Việt tới Châu Mỹ.

        xem tiếp 36 đường dẫn
        https://hoangkimlong.wordpress.com/category/chau-my-chuyen-khong-quen/

        Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là tuthangminhlabaihocdautien.jpg

        BÀI HỌC TỰ THẮNG MÌNH
        Hoàng Kim

        Ngày mỗi ngày phải tự thắng mình
        Trận chiến mới em mãi là chiến sĩ
        Ngày mỗi ngày cần ghi đều nhật ký
        Tự thắng mình là bài học đầu tiên !

        Có điện lung linh suốt đêm
        Không quên vầng trăng ngọn lửa
        Ngày dẫu miệt mài
        Đêm về phải cố
        Khắc sâu lời nguyền xưa !

        “Không vì danh lợi đua chen
        Thù nhà nợ nước quyết rèn bản thân”

        Lưu bút Norman E. Borlaug gửi Hoàng Kim ngày 17 tháng 7 năm 1989 từ CIMMYT (hình) sau khi tôi đã về Việt Nam. Bài học phúc hậu, minh triết, tân tâm của gương sáng người Thầy, đã theo tôi suốt đời, tỏa sáng nhân cách, trí tuệ.

        Chuyện Bài học tự thắng mình trong chùm bài viết
        Đi như một dòng sôngChâu Mỹ chuyện không quên.nối Con đường di sản LewisClark . Đó là sự tiếp nối Làng Minh Lệ quê tôi của các ghi chú nhỏ (Notes) Linh Giang Đình Minh Lệ; Đá Đứng chốn sông thiêng; Nguồn Son nối Phong NhaĐất Mẹ vùng di sản. Tôi xa quê Quảng Bình từ nhỏ. Quê hương nơi sinh thành là bài học quý cho bất cứ ai lớn nổi thành người, nhưng tôi vì hoàn cảnh lưu lạc xa xứ nên hiểu quê hương có giới hạn, mà ấn tượng lắng đọng sâu sắc nhất là Tổ quốc Quê hương đất nước con người, trãi mười hai bến nước của vận mệnh chiếc lá trôi dạt, đi để hiểu quê hương. Làng Minh Lệ quê tôi là bài học KHAI TÂM đầu đời là của cha mẹ và thầy giáo già mù nơi ngôi nhà tuổi thơ bến quê, với sự chỉ dạy tiếp theo của anh hai Hoàng Ngọc Dộ, chị năm Hoàng Thị Huyền đã thay cha mẹ mất để nuôi em dìu dắt cưu mang em, với thầy Nguyễn Khoa Tịnh khóc trên bục giảng cùng quý thầy bạn và người thân thắp lên ngọn lửa. Bài học của bến nước này là KHAI TRÍ. Chùm ảnh bài này thắp sáng ước mơ. .

        LỜI THẦY DẶN
        Hoàng Kim

        Việc chính đời người chỉ ít thôi.
        Chuyên tâm đừng bận chuyện trời ơi.
        Phúc hậu suốt đời làm việc thiện.
        Di sản muôn năm mãi sáng ngời

        Biết đủ thời nhàn sống thảnh thơi
        Con em và cháu vững tay rồi
        An nhàn vô sự là tiên đấy
        Minh triết mỗi ngày dạy học chơi.

        Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là hoangkim-tiepbotruongnguyenngoctruu.jpg

        Bộ Trưởng Nguyễn Ngọc Trìu đến Trung tâm Hưng Lộc năm 1987 thăm thành tựu tiến bộ kỹ thuật “Trồng ngô lai xen đậu ở vùng Đông Nam Bộ” và mô hình “Nghiên cứu phát triển đậu rồng ở các tỉnh phía Nam” (Nguồn: Nhớ cụ Nguyễn Ngọc Trìu, bài và ảnh Hoàng Kim)

        Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là thaybanlalocxuancuocdoi.jpg

        NLU hướng tới 65 năm. Chào mừng quý Thầy Cô và Các Bạn 30 năm ngày ra Trường 2010. Ảnh Họp mặt Kỷ niệm 30 năm ngày ra Trường, Khóa 2 Trồng Trọt, Chăn nuôi, Kinh tế, Lâm Nghiệp, Thủy Sản Trường Đại Học Nông Lâm TP Hồ Chí Minh, năm 2010 (Nguồn: Thầy bạn trong đời tôi, Bài và ảnh Hoàng Kim, lưu ảnh truyền thống)

        ĐI NHƯ MỘT DÒNG SÔNG
        Hoàng Kim


        Hoàng Kim ở CIMMYT 1988 (hình) trong bài
        Đi như một dòng sông . Đây là kinh nghiệm khởi nghiệp kể cho người thân và thầy bạn quý, với các bạn trẻ đang tìm kiếm sự kết nối học để làm (Learning to Doing) với dạy và học hiệu qủa. Bài viết này được trích phần đầu của Thầy bạn là lộc xuân với phần giữa Dạy và học ngày nay và phần cuối Con đường di sản LewisClark của Châu Mỹ chuyện không quên . Đó là thu hoạch của tôi với thầy bạn

        TỪ CẬU BÉ LÀNG MINH LỆ

        Quê tôi ở miền Trung nghèo khó “Nhà mình gần ngã ba sông/ Rào Nan, chợ Mới, nguồn Son, Quảng Bình,/
        Linh Giang sông núi hữu tình / Nơi đây cha mẹ sinh thành ra con/ Chèo thuyền cho khuất bến Son/ Để con khỏi chộ (thấy) nước non thêm buồn/ Câu thơ quặn thắt đời con/ Mẹ cha mất sớm, con còn trẻ thơ”. Tôi xa quê từ nhỏ. Mười tuổi mồ côi mẹ, Mười bốn tuổi cha chết do bom Mỹ giết hại.Tôi với chị gái Hoàng Thị Huyền ở với anh trai Hoàng Ngọc Dộ trong nhà hầm của lớp học ở làng Phù Lưu để học cấp ba Bắc Quảng Trạch. Anh trai tôi dạy cấp một, giáo viên khẩu phần ăn 13 ký lương thực mỗi tháng, trong đó có 70% là khoai sắn. Anh vì nuôi hai em thay cha mẹ mất nên khẩu phần ăn ấy chia cho ba người ăn. Đói. Gia đình tôi năm năm đã ăn ngày một bữa. Thầy Nguyễn Khoa Tịnh đứng khóc trên bục giảng vận động thầy cô, bạn hữu chia sớt khoai sắn giúp đỡ. Tôi cũng dạy năm lớp vở lòng, ba lớp bổ túc văn hóa và cùng anh cuốc đất tăng gia để vượt khó vươn lên. Thầy Hiệu trưởng Trần Đình Côn đã viết những lời xúc động trong Bài ca Trường Quảng Trạch trường ca tình thầy trò: “Thương em nhỏ gieo neo mẹ mất. Lại cha già giặc giết hôm qua. Tình thầy, tình bạXem tiếp >>

          Dạy và học 29 tháng 9(29-09-2021)

        DẠY VÀ HỌC 29 THÁNG 9
        Hoàng Kim
        CNM365 Tình yêu cuộc sốngThầy Nguyễn Lân Dũng; Chuyện thầy Lê Văn Tố; Có một ngày như thế; Câu chuyện ảnh tháng Chín; Chuyện đồng dao cho em; Người vịn trời chấp sói; Praha Goethe và lâu đài cổ; Giấc mơ thiêng cùng Goethe; Văn chương ngọc cho đời; Ăn cháo nói càn khôn; Tự do ngời tâm đức; Người dĩ công vi thượng; Đi như một dòng sông; Quốc Công đạo làm tướng; Tiết Chế đức dụng nhân; Kế sách một chữ Đồng;Biết mình và biết người; Trúc Lâm Trần Nhân Tông; Làng Minh Lệ quê tôi; Châu Mỹ chuyện không quên; Ngày 29 tháng 9 năm 1774, Tác phẩm Nỗi đau của chàng Werther được phát hành khiến tác gia Johann Wolfgang von Goethe (hình) nổi tiếng thế giới. Johann Wolfgang von Goethe là nhà thông thái Đức, vĩ nhân văn chương thế giới, nhà thơ, nhà văn, nhà khoa học, tiểu thuyết gia, họa sĩ. Ba tác phẩm sử thi danh tiếng nhất của ông, bền vững với thời gian, là kịch thơ Faust đỉnh cao văn chương thế giới, Nỗi đau của chàng WertherWilhelm Meister’s Apprenticeship ; Ngày 29 tháng 9 năm 1951 là ngày mất của Nguyễn Bình, tên thật là Nguyễn Phương Thảo, (1906 – 1951) là Trung tướng đầu tiên của Quân đội Nhân dân Việt Nam, lãnh đạo quân dân miền Nam Việt Nam kháng chiến chống Pháp. Ông hi sinh tại xã Srê Dốc, huyện Sê San, tỉnh Xtung Treng, trên đất Campuchia . Ông là  người đầu tiên được nhận huận chương quân công hạng nhất bởi sắc lệnh 84/SL của chủ tịch Hồ Chí Minh, được nhà nước truy tặng Huân chương Hồ Chí Minh và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Ngày 29 tháng 9 năm 1954, 12 quốc gia ký hiệp định thành lập Tổ chức Nghiên .cứu Nguyên tử Châu Âu (CERN), phòng thí nghiệm vật lý hạt lớn nhất thế giới hiện nay. Bài chọn lọc ngày 29 tháng 9: Thầy Nguyễn Lân Dũng; Chuyện thầy Lê Văn Tố; Có một ngày như thế; Câu chuyện ảnh tháng Chín; Chuyện đồng dao cho em; Người vịn trời chấp sói; Praha Goethe và lâu đài cổ; Giấc mơ thiêng cùng Goethe; Văn chương ngọc cho đời; Ăn cháo nói càn khôn; Tự do ngời tâm đức; Người dĩ công vi thượng; Đi như một dòng sông; Quốc Công đạo làm tướng; Tiết Chế đức dụng nhân; Kế sách một chữ Đồng;Biết mình và biết người; Trúc Lâm Trần Nhân Tông; Làng Minh Lệ quê tôi; Châu Mỹ chuyện không quên; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.comhttp://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-29-thang-9/

        THẦY NGUYỄN LÂN DŨNG
        Hoàng Kim

        Thầy Nguyễn Lân Dũng là người Thầy đức độ, trí tuệ bách khoa thư, người thầy giỏi giáo dục sinh học.Tôi có ba ghi chép nhỏ về Thầy đối với một bài học lớn: 1) Một gương sáng người Thầy; 2) Một nếp nhà văn hóa; 3) Một công án kỳ lạ. Thầy Nguyễn Lân Dũng
        https://hoangkimlong.wordpress.com/category/thay-nguyen-lan-dung/

        Bài viết này tôi xin được tỏ lời biết ơn chân thành, thầm lặng, ân tình, kính trọng Thầy. Ấn tượng sâu sắc nhất của tôi khi viết “
        Nguyễn Du trăng huyền thoại” nhờ công án kỳ lạ “Vinh quang nghề Thầy”, “Linh Nhạc thương người hiền” trải suốt mười năm (2011-2021) kể từ khi thầy tặng sách quý, với câu chuyện lạ “Nguyễn Du nửa đêm đọc lại“; “Nguyễn Du và đền cổ Trung Liệt“. Tôi noi gương sáng và lời khuyến khích tâm đắc của Thầy để đúc kết “Lê Quý Đôn tinh hoa” “Dẫu có bạc vàng trăm vạn lượng. Không bằng kinh sử một vài pho”. Tôi viết “Minh triết Hồ Chí Minh” lại nhớ về bài Thầy viết “Bác Hồ với thế giới tâm linh“. Dạy và học mỗi ngày của tôi là chịu ảnh hưởng lớn của tinh hoa “Vinh quang nghề Thầy”.

        MỘT GƯƠNG SÁNG NGƯỜI THẦY

        Giáo sư Nguyễn Lân Dũng sinh ngày 29 tháng 9 năm 1938. Thầy Nguyễn Lân Dũng là con thứ ba của nhà giáo nhân dân Nguyễn Lân và cụ bà Nguyễn Thị Tề. Nơi sinh của Thầy ở xã Ngọc Lập, huyện Mỹ Hào, nay là phường Phùng Chí Kiên, thị xã Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên. Vợ của thầy Nguyễn Lân Dũng là cô Nguyễn Kim Nữ Hiếu, đại tá, phó giáo sư tiến sĩ, thầy thuốc nhân dân, nguyên Phó Giám đốc Bệnh viện Quân y 108, là con gái của giáo sư tiến sĩ Nguyễn Văn Huyên và cụ bà Vi Kim Ngọc. Giáo sư tiến sĩ Nguyễn Văn Huyên từng làm Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục của Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà từ năm 1946 đến năm 1975. Bà Vi Kim Ngọc là cháu của quan tổng đốc Vi Văn Định, một danh thần thời nhà Nguyễn. Địa chỉ nơi ở hiện nay của thầy Nguyễn Lân Dũng tại số 1 Trần Thánh Tông, Hà Nội. Điện thoại 0903 428308. Thầy công việc thường ngày, gần như trọn đời, là giảng day và nghiên cứu. Sở trường của Thầy là làm “Người của công chúng”. Ngôn chí Thầy yêu thích là câu cách ngôn: Sống khỏe, chết nhanh, ít của để dành, nhiều người thương mến.

        Thầy Nguyễn Lân Dũng là giáo sư tiến sĩ sinh học, nhà giáo nhân dân Việt Nam. Thầy giảng dạy nghiên cứu tại Viện Vi sinh vật và Công nghệ Sinh học thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội. Thầy Nguyễn Lân Dũng là một trong những nhà sinh học hàng đầu Việt Nam, nổi tiếng với di sản lắng đọng ‘Tài nguyên vi sinh vật Việt Nam’. Trong sách “Bách khoa toàn thư nông nghiệp Việt Nam”. Tập 1. Tổng quan Việt Nam. Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa. Nội dung thực tiễn và trước tác của Thầy lắng đọng công phu nhất là ‘Công tác quản lý nguồn gen vi sinh vật tại Bảo tàng giống chuẩn vi sinh vật’ (VTCC), Trung tâm Công nghệ sinh học, Đại học Quốc gia Hà Nội. Trong sách “Những vấn đề nghiên cứu cơ bản trong kế hoạch sự sống”. Nhà Xuất Bản Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, 2003, trang 861 – 864 (Cộng tác với Dương Văn Hợp). Bộ sách chuyên khảo Công nghệ nuôi trồng nấm. Tập 1. Nhà xuất bản Nông nghiệp, 2002; Công nghệ nuôi trồng nấm. Tập 2. Nhà xuất bản Nông nghiệp, 2003 Tự học nghề trồng nấm. Nhà xuất bản Nông nghiệp, 2004; Chuyên mục: “Hỏi gì, đáp nấy” tập 1 đến tập 9 , Nhà xuất bản Trẻ 1999 – 2005..Thầy cũng có nhiều tác phẩm phổ thông khác và nhiều bài báo khoa học phổ thông có giá trị bách khoa, khuyến học, khuyến nông.

        Di sản lớn nhất lắng đọng của Thầy là CON NGƯỜI VÀ NẾP NHÀ. Di sản này là sự trao truyền và tỏa sáng bài học quý giá nhất của thầy cô Nguyễn Lân Nguyễn Thị Tề trong dòng chảy của một gia tộc danh gia được người đương thời vinh danh, tỏa sáng “Gương sáng nghề Thầy” từ thời thầy Nguyễn Lân (*): “Giáo sư nhà giáo nhân dân Nguyễn Lân vẻ đẹp của một nhân cách lớn” “Luôn luôn sống với đất nước, với nhân dân, với lẽ phải, với những truyền thống đạo lý của dân tộc, ghét sự xa hoa, chỉ ưa thanh bạch, rất giàu nghị lực, thông minh, rất cần cù trung thực, thẳng thắn mà vẫn không làm mất lòng người, rất tự trọng, giao tiếp lịch sự, chu đáo từ chuyện lớn đến chuyện nhỏ, yêu thương tôn trọng con người “. Thầy Nguyễn Lân Dũng đã cùng gia tộc, con cháu bảo tồn và phát triển tốt truyền thống ấy. Thầy Nguyễn Lân Dũng thực sự là người của công chúng, bạn của nhà nông, thầy của nhiều lớp sinh viên và của mọi người, Thầy là lão làng Xóm Lá, người giáo sư nhân hậu tốt tính của trang văn Nguyễn Lân Dũng
        http://nguyenlandung.vn102.space/

        MỘT NẾP NHÀ VĂN HÓA

        Thầy Nguyễn Lân Dũng có hai con đều thành đạt trong cuộc sống. Con trai cả của Thầy là phó giáo sư, tiến sĩ bác sĩ y khoa Nguyễn Lân Hiếu nay là Giám đốc Bệnh viện Đại học Y Hà Nội, đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 14 nhiệm kì 2016-2021. Bác sĩ Nguyễn Lân Hiếu ứng cử và trúng cử đại biểu quốc hội lần đầu năm 2016 ở đơn vị bầu cử số 2 tỉnh An Giang gồm các huyện: Châu Phú và Châu Thành. Ông là một chuyên gia tim mạch có tên tuổi với nhiều cống hiến trong nền Y học Việt Nam. Con gái út của thầy Nguyễn Lân Dũng là tiến sĩ sinh học Nguyễn Kim Nữ Thảo đã hoàn thành luận án tiến sĩ tại Mỹ, cũng là dịch giả của tác phẩm “Loài tinh tinh thứ 3” dày 672 trang. Nguyễn Kim Nữ Thảo trước đó đã từng đoạt giải Olympic Sinh học quốc tế tại Bỉ, giải nhất Sinh học toàn quốc ở lớp 11 và giải nhì ở lớp 12. Nguyễn Kim Nữ Thảo khi theo học lớp cử nhân tài năng tại Đại học Quốc gia Hà Nội, cũng đã từng được cấp bằng gương mặt trẻ tiêu biểu, giải thưởng Nữ sinh Việt Nam, bằng khen của Chủ tịch UBND TP Hà Nội, bằng khen của Thành đoàn Thanh niên Cộng sản Hà Nội

        Thầy Nguyễn Lân Dũng “Người của công chúng”. Thầy từng làm Phó Chủ tịch Hội Liên lạc với người Việt Nam ở nước ngoài, Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam, Chuyên gia cao cấp Viện Vi Sinh vật và Công nghệ Sinh học, Chủ tịch Hội các ngành Sinh học Việt Nam, Ủy viên Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam, Ủy viên Hội đồng Quốc gia Giáo dục và Phát triển Nhân lực, Viện trưởng Viện Thực phẩm Chức năng, Cố vấn Việt Nam của Hội Liên hiệp Thanh niên Quốc tế (IYF), Chủ nhiệm Chương trình tự nguyện đưa khoa học kĩ thuật vào hộ nông dân; Ủy viên Ủy ban Đối ngoại Quốc hội; Đại biểu Quốc hội ba khóa liên tục khóa X (1977-2002), khóa XI (2002-2007) và khóa XII (2007-2011) tại tỉnh Đắc Nông; với sau này con trai thầy là bác sĩ Nguyễn Lân Hiếu làm đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 14 nhiệm kì 2016- 2021

        Gia đình của thầy Nguyễn Lân Dũng thực sự là một nếp nhà văn hóa: cha mẹ, anh chị em Thầy và những người con của hai Cụ đều là những trí thức có tài năng. Thật tâm đắc với lời giáo sư Nguyễn Đình Chú định luận về thầy Nguyễn Lân, là thân phụ của thầy Nguyễn Lân Dũng, rằng: “Tôi ước gì trên đất nước ta sẽ có nhiều gia đình toàn trí thức như gia đình cố Giáo sư Đặng Thai Mai, gia đình Giáo sư Nguyễn Lân mà tôi được biết.Tôi đã nói điều này trong sự suy nghĩ về vấn đề gia phong, gia đạo, gia thế, gia truyền, vấn đề vai trò của gia đình, gia tộc trong lịch sử phát triển văn hóa dân tộc, trong yêu cầu phát triển văn hóa xây dựng cuộc sống của đất nước hôm nay và mai sau”. Theo “Hồi ký giáo dục” của thầy Nguyễn Lân, tại sách ‘Vinh quang nghề Thầy’ thì ông nội của thầy Nguyễn Lân Dũng là cụ Nguyễn Xuân Thiều, con thứ hai của một ông lang nghèo, là cụ Nguyễn Danh Tưởng, ở làng Ngọc Lập (nay đổi là xã Phùng Chí Kiên) huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên. Cụ Thiều lớn lên theo cụ Nguyễn Thiện Thuật đánh Pháp ở Bãi Sậy. Cụ Tán Thuật chiến đấu anh dũng nhưng vì thế yếu phải chịu thất bại lánh sang Trung Quốc. Cụ Nguyễn Xuân Thiều cũng phải bỏ quê đi lánh nạn, tha phương cầu thực, đến phủ Từ Sơn Bắc Ninh, và sau đó kết duyên với bà nội của thầy Dũng là cụ Quản Thị Ba, con thứ ba của một gia đình tiểu thương. Cụ Thiều lên lao động ở Bảo Lạc tỉnh Cao Bằng nhưng sau đó bị sốt rét ngã nước phải về lại Từ Sơn nương nhờ vợ. Nhà nghèo đông con và gia đình phải cưu mang cả anh chồng là cụ Nguyễn Xuân Cảnh bị mù và hai người con trai của anh chồng là Nguyễn Khánh Dư và Nguyễn Danh Cảnh. Thầy Nguyễn Lân là con thứ 17 trong gia đình nhưng lúc thầy ra đời chỉ còn có bốn người anh em gồm hai anh, một chị và thầy, còn những người khác đều hữu sinh vô dưỡng cả.

        Ông bà nội của thầy Nguyễn Lân Dũng nhà tuy nghèo khó nhưng rất quan tâm đến việc học hành của bốn người con và người cháu là ông Nguyễn Khánh Dư. Do đó, năm 17 tuổi anh cả của thầy Nguyễn Lân là Nguyễn Tiến Trinh đã thi đỗ làm thư ký Thương chính và được bổ vào làm việc tận Cam Ranh. Người anh thứ hai là Nguyễn Văn Phượng và thầy Nguyễn Lân đều đã được học chữ Hán từ rất sớm. Thầy Nguyễn Lân tuổi thơ được học chữ Hán với thầy Đỗ Cự một nhà nho không đỗ đạt gì nhưng rất yêu thương học trò. Cụ đã khai tâm đầu đời cho thầy, tác động sâu sắc đến thầy Nguyễn Lân từ bé biết kính phục sự nghiệp giáo dục. Thầy Nguyễn Lân học chữ Hán được hơn một năm thì bố mẹ cho chuyển về học trường Pháp Việt bên cạnh phủ Từ Sơn. Sau đó mẹ thầy Nguyễn Lân bị mất sớm vì Cụ lao lực đã mất hết răng khi mới có 49 tuổi vì đẻ nhiều lần quá. Gia đình thầy trong lúc quẫn bách, được anh họ Nguyễn Khánh Dư đã đưa thầy Nguyễn Lân về Hải Phòng để nuôi ăn học nhưng thật đau xót ông Nguyễn Khánh Dư bị lây ho lao và từ trần. Anh cả của thầy Nguyễn Lân là Nguyễn Tiến Trinh đã đón cha và em vào Bình Định để phụng dưỡng cha và nuôi em ăn học. Vợ chồng người anh rất quyết tâm bảo bọc và cưu mang người em, nên thuở ấy giá gạo hai đồng một tạ mà học nội trú phải trả 17 đồng một tháng hơn phân nữa lương tháng của người anh ruột nhưng anh chị vẫn quyết giúp cho em ăn học nội trú. Nhờ nghị lực cao và sự chăm học của thầy Nguyễn Lân với phước nhà như đã kể trên, nên thầy Nguyễn Lân được bồi bổ sức khỏe không còi cọc ốm yếu nữa, được dạy học tốt tại trường dòng nội trú của thầy Pháp, lại ở và học chung với ba học sinh người Pháp là con Tây đoan Thầy Nguyễn Lân đã đậu đầu kỳ thi tiểu học, và đậu tuyển sinh vào Trường Bưởi. Học ở Trường Bưởi thầy Nguyễn Lân chịu ảnh hưởng sâu sắc nhất từ thầy Dương Quảng Hàm. Thầy Nguyễn Lân sau này khi được phong tặng nhà giáo nhân dân đã đọc bài thơ “Tình sâu nghĩa nặng” tôn vinh thầy Dương Quảng Hàm “Trường Bưởi noi gương cụ giáo Hàm/ Một nhà học giả thật phi phàm/ Làu thông Âu Á, say nghiên cứu/ Ham dạy Sử Văn, lợi chẳng ham !” Năm 1927 sau khi tốt nghiệp trường Bưởi , thầy Nguyễn Lân di dạy trường tư thục Trung Bắc học hiệu . Ngày 23 tháng chạp năm Mậu Thìn (1928) bố và chị dâu của thầy Nguyễn Lân đều bị chết vì tai nạn ở xưởng phảo Năm 1932 thầy Nguyễn Lân tốt nghiệp thủ khoa Trường cao đẳng sư phạm Đông Dương và bắt đầu dạy học ở Trường tư thục Hồng Bàng và Thăng Long ở Hà Nội (từ năm 1923 đến 1935) và kết duyên với bà Nguyễn Thị Tề là con gái cụ Nguyễn Hữu Tiệp, một người giàu vào hạng nhất nhì ở Bắc Kỳ thời bấy giờ.

        Bảo tồn và phát triển tốt nếp nhà văn hóa. Vợ chồng nhà giáo Nguyễn Lân nhờ duyên lành phúc ấm nhân cách nghị lực may mắn, đã sinh thành và nuôi dưỡng được tám người con 1) Nguyễn Lân Tuất, nhạc sĩ giáo sư Viện Hàn lâm Âm nhạc, nghệ sĩ công huân Nga; 2) Nguyễn Tề Chỉnh, tiến sĩ sinh học; 3) Nguyễn Lân Dũng, giáo sư tiến sĩ sinh học; 4) Nguyễn Lân Cường phó giáo sư tiến sĩ khảo cổ học, 5) Nguyễn Lân Hùng, chuyên gia nông học; 6) Nguyễn Lân Tráng tiến sĩ giảng dạy tại Đại học Bách khoa; 7) Nguyễn Lân Việt, bác sĩ, phó giáo sư tiến sĩ, cựu Hiệu trưởng Trường Đại học Y khoa Hà Nộ; 8) Nguyễn Lân Trung, phó giáo sư tiến sĩ, Đại học Quốc gia Hà Nội.

        Năm 1935 đến năm 1945 thầy Nguyễn Lân vào Huế làm giáo viên trường công ở trường Quốc Học, Đồng Khánh, Bách Công. Thầy dạy giỏi và mực thước,tham gia Hội Truyền bá chữ Quốc ngữ ở Trung Kỳ, lại là nhà văn Từ Ngọc danh tiếng với các tác phẩm có nhiều độc giả thời đó như Những trang sử vẻ vang (hai tập) Nhà Xuất bản Mai Lĩnh Hà Nội 1943; Nguyễn Trường Tộ , Nhà Xuất Bản Viễn Đệ Huế và NXB Mai Lĩnh Hà Nội 1941, tái bản 1942, Hai ngả (tiểu thuyết xã hội) Nhà Xuất bản Tân Dân Hà Nội năm 1938; Ngược dòng (tiểu thuyết xã hội) Nhà Xuất bản Tân Dân Hà Nội 1936; Khói hương (tiểu thuyết xã hội) Nhà Xuất bản Tân Dân Hà Nội 1935; Cậu bé nhà quê (tiểu thuyết giáo dục, có bản dịch ra tiếng Pháp) năm 1925 .

        Trong bài “Nhà giáo nhân dân Nguyễn Lân, vẻ đẹp của một nhân cách lớn” giáo sư Nguyễn Đình Chú định luận: “Với tư thế đó, nhân cách đó, Chính phủ Trần Trọng Kim thành lập. Giáo sư Nguyễn Lân là người được tranh thủ. Cách mạng tháng Tám thành công. Giáo sư Nguyễn Lân được mời làm Ủy Viên Giáo Dục Tỉnh Thừa Thiên; Giám đốc Học chính Nam Bộ. Sau đó chuyển ra Hà Nội dạy ban chuyên khoa Trường Chu Văn An rồi đi kháng chiến, làm Giám đốc Giáo dục các Liên Khu 10 và Liên khu Việt Bắc. Năm 1951 sang Trung Quốc dạy trường Sư phạm Cao cấp tại Khu học xá Nam Ninh, từ năm 1956 dạy tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội và làm Chủ nhiệm khoa Tâm lý Giáo dục học của Trường từ ngày thành lập cho đến ngày giáo sư nghĩ hưu . Giáo sư còn tham gia nhiều hoạt động văn hóa xã hội …Giáo sư Nguyễn Lân đã đóng góp cho đất nước, cho nhân dân Việt Nam ta với nhiều tư cách: 1) Một nhà hoạt động xã hội nhiều tâm huyết trong sự đưa ánh sáng văn hóa đến cho nhân dân, trong việc chăm lo vun đắp khối đại đoàn kết dân tộc; 2) Một nhà giáo đã có công đào tạo cho đất nước nhiều nhân tài, nhiều cán bộ ưu tú. 3) Một nhà văn Từ Ngọc Nguyễn Lân (Chi tiết tác phẩm ở bộ Từ điển văn học mục Từ Ngọc); 4) Một nhà ngữ pháp với sách giáo khoa Ngữ pháp Việt Nam từ lớp 1 đến lớp 7 (NXB Giáo dục 1965); 5) Một nhà biên soạn từ điển vào tuổi đại lão.”vô địch” có lẽ không sai ” (Trích) “Bà Cụ Nguyễn Lân quả là một người phụ nữ, một người vợ, một người mẹ không dễ gì có nhiều trong đời thường, và tôi muốn cho rằng 50% sự nghiệp, công trình của giáo sư là thuộc về bà” (trích)

        (xem tiếp)

        MỘT CÔNG ÁN KỲ LẠ

        Thầy Nguyễn Lân Dũng. Ấn tượng sâu sắc nhất của tôi khi viết “Nguyễn Du trăng huyền thoại” nhờ công án kỳ lạ “Vinh quang nghề Thầy”, “Linh Nhạc thương người hiền” trải suốt mười năm (2011-2021) kể từ khi thầy tặng sách quý, với câu chuyện lạ “Nguyễn Du nửa đêm đọc lại“; “Nguyễn Du và đền cổ Trung Liệt“. Tôi noi gương sáng và lời khuyến khích tâm đắc của Thầy để đúc kết “Lê Quý Đôn tinh hoa” “Dẫu có bạc vàng trăm vạn lượng. Không bằng kinh sử một vài pho”. Tôi viết “Minh triết Hồ Chí Minh” lại nhớ về bài Thầy viết “Bác Hồ với thế giới tâm linh“. Dạy và học mỗi ngày của tôi là chịu ảnh hưởng lớn của tinh hoa “Vinh quang nghề Thầy”.

        Nhớ
        Thầy Nguyễn Lân Dũng, tôi ám ảnh năm câu hỏi của một công án kỳ lạ 1) Nguyễn Du có phải là Từ Hải hay không? 2) Thầy Nguyễn Lân Dũng đọc sách Hoàng Tuấn Công sẽ viết gì? 3) Vì sao Chủ tịch Hồ Chí Minh với vua Bảo Đại và Thủ tướng Trần Trọng Kim không thể có được thỏa hiệp hợp tác khi hình thành nước Việt Nam mới? 4) Gia tài tinh thần thầy cô Nguyễn Lân Nguyễn Thị Tề trao truyền lại cho gia tộc mà thầy Nguyễn Lân Dũng đã đúc kết năm điểm? 5) Bài học tinh hoa của “Vinh quang nghề Thầy”?

        ĐỌC ‘VINH QUANG NGHỀ THẦY

        1
        Năm 2011, tôi tình cờ biết được một câu chuyện riêng, rất đau lòng và thương tâm của gia tộc thầy Nguyễn Lân Dũng. Ông nội của thầy Nguyễn Lân Dũng với vợ bác hai Nguyễn Văn Phượng và mười người thợ của gia đình bác hai thầy Dũng đều đã bị cháy thiêu tại một tai nạn pháo bông. Xưởng pháo bị nổ sau bữa tiệc cuối năm, vào ngày 23 tháng Chạp năm Mậu Thìn (1928) khi công nhân đang ngủ, chắc họ đã đụng vào ngọn đèn dầu tây cạnh đấy và đèn bị đổ nên lửa đã bắt vào pháo để đấy ở tầng dưới, khi ông nội thầy Dũng ngủ trên gác, vừa xuống tới cầu thang cũng tắt nghỉ. Sau này, lúc gần ngày Chạp mộ, tôi ghé thăm trang Thầy Nguyễn Lân Dũng
        http://nguyenlandung.vn102.space/ lúc thầy đã là lão làng tốt tính quen thuộc ở Xóm Lá, thì tôi được thầy Dũng đồng cảm tặng sách “Vinh quang nghề Thầy” ,soi tỏ nhiều chi tiết thời vận mà tôi sẽ xin nói rõ hơn trong sự luận bàn ‘Một công án kỳ lạ’ ở phần sau.

        2

        Đọc “Nhà giáo Nhân dân Nguyễn Lân ‘Bay trên tấm thảm dệt bằng vải gai’ của tác giả Võ Thị Hảo, báo Gia đình và xã hội số 96 (406) ngày 12 tháng 8 năm 2003, tôi bùi ngừi tự hỏi không biết có những ai đã để ý và dừng lại rất lâu, thật lâu tại ba trích đoạn này 1) “Người vợ hiền ấy (bà Nguyễn Thị Tề sinh năm 1915, mất năm 1993), 4 tháng trước khi từ bỏ cõi đời, ở tuổi 79, đã tự tay rút chỉ thêu một chiếc gối tặng ông. Gối đơn. Vì bà đi trước. Lời trối trăng trước lúc tạ thế, nói đủ cho cô con dâu đã sống cùng ông bà hơn hai chục năm nghe “Con nhớ ở lại chăm sóc ông cho mợ”. Với chiếc gối độc nhất, để giữ lại hơi ấm của bà, sau 5 năm cặm cụi, một cuốn từ điển, công trình ‘vĩ mô’ cuối cùng trong đời, hôm nay, Giáo sư Nguyễn Lân đã thanh thản trên đường về với hiền thê. Trên ‘tấm thảm gai’ của hàn sĩ”:2) Cả nhà đều làm nghề giáo. Nhưng trong những phiên chợ giáo dục hỗn mang, hoạt báo , vô lương, không có họ. “Hôm nay là ngày giỗ bác cả Trình. Nhờ bác mà ba và các con mới được như ngày hôm nay. Ba là con thứ 17 trong nhà , sinh ra đã ‘tiên thiên bất túc’, nhà nghèo, mẹ mất sớm, may nhờ có bác cả Trình nuôi ba như con, cho ăn, cho học, cho chữa bệnh… Ơn này, ba và các con cháu không bao giờ quên“; 3) “Cả đời, với nếp sống thanh bạch của một hàn sĩ, với tinh thần làm việc và ý chí cũng như công tích của một nhà sư phạm có nhân cách lớn, cụ Nguyễn Lân đã kiên trì chống chọi lại thói ăn xổi ở thì, xa lánh cáí “QUẦNG SÁNG PHÙ PHIẾM CỦA PHÁO BÔNG”, (HK in đậm để ghi nhớ dạy và học), không lợi dụng vị trí và các mối quen biết để trục lợi….”. Ngày ấy, tới gần tới dịp Chạp mộ, tôi lại nhớ tới ngày 23 tháng Chap năm Mậu Thìn (1928), ngày tai họa pháo bông thương tâm ập xuống ngôi nhà lương thiện của Thầy.

        3

        “Vinh quang nghề Thầy” thấm thía nhất, sâu sắc nhất, thương yêu nhất trong lòng tôi với sự kính trọng, ngưỡng mộ là thầm lặng đọc đi đọc lại nhiều lần, để tỉnh thức noi gương sáng người hiền, soi thấu những bài học quý “Vĩnh biệt Cha yêu quý” trong “Ba của chúng con”

        Đó là tấm gương về lòng tin, tin ở chính mình, tin ở sự nghiệp vẻ vang của dân tộc, tin ở lẽ phải, ở chính nghĩa, tin ở tất cả những người lương thiện sống quanh ta.

        Đó là tấm gương về lòng hiếu học và ý chí phấn đấu học tập suốt đời để không ngừng làm giàu kiến thức cho mình và dùng kiến thức ấy để cống hiến cho xã hội.

        Đó là tấm lòng nhân ái, yêu đời, yêu người, vị tha, khoan dung dành cho những người sống quanh mình. Ba luôn xót thương cho những số phận bất hạnh, luôn luôn cảm thông cho những lỗi lầm do ít kinh nghiệm hoặc thiếu kiến thức. Nhưng Ba lại là người hết sức bất bình với những hành vi tham lam, vị kỷ, dối trá, lọc lừa, vô đạo đức. Ba căm ghét sự lợi dụng chức quyền , làm giàu bất chính, bắt nạt dân lành, dối trên lừa dưới.

        Đó là tấm gương về nếp sống giản dị, tiết kiệm, không màng công danh phú quý, không chuộng hình thức, luôn khiêm nhường và quý trọng sức lao động của người khác.”

        (còn nữa…)

        vochonggslevanto

        CHUYỆN THẦY LÊ VĂN TỐ
        Hoàng Kim


        Giáo sư Lê Văn Tố là một người thầy hiền hậu, tài năng mà đời tôi may mắn được gần gũi, học hỏi và tôi thực sự kính trọng. Thầy Tố cùng quê Nghệ Tĩnh với cụ Nguyễn Công Trứ người đã tuyên ngôn sứ mệnh của kẻ quốc sĩ: “Đã mang tiếng ở trong trời đất. Phải có danh gì với núi sông” đối với người có học thực sự phải làm được điều gì đó ích lợi cho dân cho nước. Chuyện thầy Lê Văn Tố khơi dậy trong tôi sự thăm thẳm nhớ quê của một người con xa xứ và ước vọng tiếp tục hoàn thiện các công việc ân tình phục vụ ích lợi cho Tổ Quốc Quê Hương. Thầy Tố có nhiều chuyện đời mà tôi thích nhất bảy chuyện: 1) PHTI – HCMC và FCC; 2) Một chuyến đi ‘dối già’ và những suy tư ”, 3) “Lịch sử Logo FCC”, 4) “FOLI và FOVINA”,5) “Câu thơ đời ám ảnh”, 6) “Thầy Tố chuyện đời thường ” 7) “Thầy Tố bạn và học trò ” Trước đây khi bước vào tuổi 75 thầy Tố đã có cuộc du xuân “dối già” cùng vợ về quê. Đó là câu chuyện không phải của riêng ai, chỉ là người trước người sau mà thôi, bạn cũng chẳng kiêng cử về hai chữ “dối già” vì thầy cô nay còn mạnh khỏe lắm, phải thọ đến trăm tuổi, nhưng một cuộc du xuân cùng vợ về quê là chuyện to. Thầy coi xong việc này là thảnh thơi xong một việc chính.

        Mời bạn lắng nghe lời Thầy kể:

        1. PHTI – HCMC VÀ FCC

          Thầy
          Lê Văn Tố viết “Tiền nhân bảo” Công trồng là công bỏ, Công làm cỏ là công ăn“. Đúng vậy tôi chỉ có công trồng chỉ có 2 cây là PHTI-HCMC và FCC trồng trong những đêm dài chuyển mình đổi mới: không được thành lập thêm cơ quan ở HCMC nếu không có chữ kí của ông Võ Văn Kiệt phó chủ tịch hội đồng bộ trưởng và ông Phan Văn Khải chủ tịch thành phố. Tôi ở nước ngoài về cầm thơ tay của ông Chín Cần – phó ban tổ chức trung ương, Bộ trưởng, không biết sợ là gì cứ thế xông vào thế mà được việc. Có đội ngủ tốt. Cơ quan làm được nhiều việc, có uy tín với xã hội. Tôi về hưu đã lâu, nhân ngày gia đình Việt Nam, anh em cơ quan đến thăm. Cầm phong bì trên ngực, gạo, sữa nặng quá không ôm được biểu lộ tấm lòng của người già. Trân trong trước tình cảm của anh chị em”. Đọc những lời chia sẻ, Ấm áp mãi tình thân. Trang sách đời rộng mở. Dạy và học chuyên cần. Em Hoàng Kim xin được lưu về chuyên trang Chuyện thầy Lê Văn Tố

        2. MỘT CHUYẾN ĐI “DỐI GIÀ” VÀ NHỮNG SUY TƯ
        Giáo sư Tiến sĩ Khoa học Lê Văn T

        Bước vào tuổi 75 tôi muốn có cuộc du xuân “dối già” cùng vợ về quê.

        Như có món nợ nào đó chưa trảXem tiếp >>

          Dạy và học 28 tháng 9(29-09-2021)

        DẠY VÀ HỌC 28 THÁNG 9
        Hoàng Kim
        CNM365 Tình yêu cuộc sống Có một ngày như thế; Câu chuyện ảnh tháng Chín; Chuyện đồng dao cho em; Người vịn trời chấp sói; Praha Goethe và lâu đài cổ; Giấc mơ thiêng cùng Goethe; Văn chương ngọc cho đời; Ăn cháo nói càn khôn; Tự do ngời tâm đức; Người dĩ công vi thượng; Đi như một dòng sông; Quốc Công đạo làm tướng; Tiết Chế đức dụng nhân; Kế sách một chữ Đồng;Biết mình và biết người; Trúc Lâm Trần Nhân Tông; Làng Minh Lệ quê tôi; Châu Mỹ chuyện không quên; Ngày 28 tháng 9 năm 1928, Alexander Fleming nhận thấy một loại mốc diệt vi khuẩn phát triển trong phòng thí nghiệm của ông, thứ mà về sau được gọi là penicillin. Ngày 28 tháng 9 năm 1926, ngày sinh Nguyễn Cảnh Toàn, giáo sư toán học người Việt Nam (mất năm 2017), nguyên Hiệu trưởng trường Đại học Sư phạm Hà Nội, thứ trưởng Bộ Giáo dục Việt Nam (1976-1989), phó Chủ tịch Hội Toán học Việt Nam và Tổng biên tập tạp chí Toán học và Tuổi trẻ trong hơn 40 năm. Ông được báo chí trong nước đánh giá là một tấm gương tự học thành tài và có công lao trong việc đào tạo và xây dựng đội ngũ những giáo viên toán. Ngày 28 tháng 9 năm 1986, Đảng Dân chủ Tiến bộ Đài Loan tuyên bố thành lập tại Đài Bắc, là đảng đối lập đích thực đầu tiên tại Đài Loan. Bài chọn lọc ngày 28 tháng 9: Có một ngày như thế; Câu chuyện ảnh tháng Chín; Chuyện đồng dao cho em; Người vịn trời chấp sói; Praha Goethe và lâu đài cổ; Giấc mơ thiêng cùng Goethe; Văn chương ngọc cho đời; Ăn cháo nói càn khôn; Tự do ngời tâm đức; Người dĩ công vi thượng; Đi như một dòng sông; Quốc Công đạo làm tướng; Tiết Chế đức dụng nhân; Kế sách một chữ Đồng;Biết mình và biết người; Trúc Lâm Trần Nhân Tông; Làng Minh Lệ quê tôi; Châu Mỹ chuyện không quên;Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-28-thang-9/

        CÓ MỘT NGÀY NHƯ THẾ
        Hoàng Kim

        Có một ngày như thế
        Về với Trường thân yêu
        Thầy bạn chung tiếp sức
        Cùng nối dây cho diều.

        Có một ngày như thế
        Ngày Niềm vui đó em
        Niềm tin và nghị lực
        Em vượt lên chính mình.

        Chùm ảnh
        Có một ngày như thế

        Xem tiếp chùm ảnh Có một ngày như thế; Câu chuyện ảnh tháng Chínhttp://hoangkimlong.wordpress.com/category/cau-chuyen-anh-thang-chin

        NGƯỜI VỊN TRỜI CHẤP SÓI
        Hoang Kim

        Hà Giang ơi Hà Giang ơi
        Núi thẳm mờ sương thấu cửa trời
        Nơi đâu bạn cũ (*) thành sương khói
        Bồng bềnh mây trắng dốc chơi vơi.

        Trời rất xanh và rừng rất sâu
        Mèo Vạc xa kìa, Lũng Dẻ đâu
        Nào hang Cắc Cớ nào Công Cốc
        Núi Tản ngàn năm biếc một màu.

        Phình ngán Phình ngán Ắt tắc tím
        Bạn ra kéo mình ra búa
        Trò chơi mê mãi suối bên mai
        Người vịn trời xanh chấp sói rừng.

        (*) Hoàng Kim ở E568 F325B sau này là nòng cốt của F356 nước mắt Vị Xuyên, chính ủy sư đoàn Phạm Hồng (Hải Dương) là người thân. Ngày về thăm nơi cũ Người vịn trời xanh chấp sói rừng

        PRAHA GOETHE VÀ LÂU ĐÀI CỔ
        Hoàng Kim


        Lâu đài Praha là lâu đài cổ lớn nhất thế giới theo sách Kỷ lục Guinness. Ở đó có quảng trường Old Town Square là trung tâm trục lịch sử suốt nghìn năm với những tòa nhà cổ đầy màu sắc, các nhà thờ Gothic và đồng hồ thiên văn thời trung cổ. Lâu đài cổ Praha là nơi lưu dấu sử thi muôn đời của Gớt (Johann Wolfgang von Goethe 1749
        1832), vĩ nhân khoa học nhân văn, nhà thông thái, đỉnh cao văn chương thế giới. Tôi may mắn được lạc vào thế giới của Goethe và được lắng nghe Người trò chuyện sử thi qua các trang sách kỳ thú.

        Điều kỳ lạ với tôi là sau khi gặp Goethe và đọc tác phẩm của Người tại vùng đất thiêng Old Town Square và vùng suối nước nóng nổi tiếng Kalovy Vary nơi có khu nghĩ dưỡng spa và rừng cổ  thư viện Goethe, tôi ám ảnh đến lạ như bị thôi miên bởi một năng lượng quá mạnh mẽ. Tôi cũng ước ao hiểu biết và mong muốn dấn thân làm được những điều gì đó có ích cho đời. Tôi được phiêu lưu lên rừng xuống biển, đi được nhiều nơi khắp Á Âu Phi Mỹ mà người nhà với bạn bè nói vui là “có lộc và có may mắn xuất ngoại” bởi từ cậu bé chân đất làng Minh Lệ nghèo khó làm sao có được sự đổi đời này. Tôi được gặp Goethe nhiều lần sau đó, ở những địa điểm rất xa nhau, như ở Obragon (miền Tây nước Mỹ), CIMMYT (Mexico), FAO, Rome (Italiy), Ghent (Bỉ) Giấc mơ xanh, ước mơ xanh là bài học quý đầu đời. Goethe là người Thầy lớn của tôi.

        Ngày 29 tháng 9 năm 1774 là ngày Johann Wolfgang von Goethe đã phát hành kiệt tác ‘Nỗi đau của chàng Werther’ mang lại cho Goethe danh tiếng quốc tế. Ngày 29 tháng 9 năm 1951 là ngày mất của tướng Nguyễn Bình, vị trung tướng và tư lệnh Nam Bộ Việt Nam (sinh năm 1906). Ngày 29 tháng 9 năm 1973 cũng là ngày mất của W. H. Auden là nhà thơ Mỹ gốc Anh (sinh năm 1907). Ông là một trong những nhà thơ lớn nhất của thế kỷ 20, người có sự ảnh hưởng rất lớn đến nền văn học Anh Mỹ.

        “Praha Goethe và lâu đài cổ“ là phần hai của bài viết  “Tiệp Khắc kỷ niệm một thời”, tiếp nối  phần một “Tiệp Khắc đất nước con người”. Praha là thủ đô Cộng hòa Séc, trái tim văn hóa và học vấn châu Âu, nơi trung tâm thành phố được UNESCO công nhận là Di sản Thế giới năm 1992, là “thành phố vàng” “thành phố một trăm ngọn tháp”. Goethe là nhà thông thái thiên tài, nhà thơ, nhà văn, nhà khoa học, triết gia, nhà viết kịch và họa sỹ người Đức danh tiếng toàn châu Âu và Thế Giới với Viện Goethe hiện có phân viện tại 13 thành phố ở Đức và 128 thành phố nước ngoài nhưng lắng đọng về Người là tại cụm công trình di sản thế giới nêu trên với những câu chuyện huyền thoại kỳ lạ.

        Praha thành phố vàng

        Sang Tiệp, đến Praha, chúng tôi được ở  khu nhà dành cho sinh viên và thực tập sinh nước ngoài tại Trường Đại học Praha, nơi có khá nhiều thực tập sinh và sinh viên các nước Âu, Á, Phi, Mỹ đến học nơi xưa là Trường Đại Học Karlova  được thành lập từ năm 1348, trung tâm học vấn châu Âu. Trường Đại học Praha là niềm tự hào của thầy cô giáo trường này và cũng là niềm tự hào của đất nước Tiệp Khắc.

        Chị Magdalena Buresova hướng dẫn chúng tôi đi dã ngoại ba tuần trước khi chúng tôi trở về Trường trình bày báo cáo “Thành tựu nghiên cứu phát triển đậu rồng và các cây họ đậu nhiệt đới hợp tác Việt Tiệp” trong một Seminar ở Khoa Cây trồng và được thông báo là có nhiều người quan tâm.

        Điểm đến đầu tiên của chúng tôi là “Praha vàng”, lâu đài cổ thành Hradčanské, quảng trường Con Ngựa, quảng trường Con Gà (theo cách gọi của sinh viên Việt tại Tiệp) và vô vàn những điểm tham quan nối hai đầu của hai Quảng trường Museum và Můstek và cầu đi bộ Karl (Tiếng Tiệp gọi là Karlův, người Việt gọi là cầu Tình) bắc trên con sông Vltava đến khu lâu đài cổ.

        Thủ đô Praha hiện có dân số khoảng 1,5 – 2,5 triệu người, GDP bình quân đầu người của Praha cao gấp đôi mức bình quân của Cộng hòa Séc và cao gấp rưởi (153%) mức  bình quân của Liên minh châu Âu.  Tôi thuở đến Tiệp Khắc học năm 1986 thì dân số Praha ước khoảng 1,2 triệu người và Praha trong mắt tôi thời ấy thật “xa hoa”, giống như câu nói lưu truyền dân gian “Muốn giàu đi Đức, tri thức đi Nga, xa hoa đi Tiệp”. Câu thơ của nhà thơ Tố Hữu trong “Nhật ký đường về” năm 1964: “Praha vàng tím chiều hè. Hỡi nàng công chúa nằm mê, mộng gì” lung linh trong đầu tôi. Thành phố  Praha nằm bên sông Vltava ở miền trung Bohemia, là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của Séc trong hơn 1000 năm, như tôi đã kể tại “Tiệp Khắc đất nước con người”

        Tại Quảng trường Con Gà có cái đồng hồ cổ mỗi khi đánh chuông báo giờ, chú gà gáy lảnh lót từ tòa tháp cao nhất và những vị thần lần lượt diễu qua ô cửa nhỏ… Các du khách ai cũng thích thú nán lại chờ xem gà gáy và những vị thần diễu qua ô cửa nhỏ. Gần bảy trăm năm trôi qua mà chương trình của đồng hồ vẫn chính xác một cách tuyệt vời ! Cầu đi bộ Charles, hoàn thành năm 1402 rất nổi tiếng, nối đôi bờ sông Vltava ở trung tâm thủ đô Praha. Sông Vltava có chiều dài 430 km với diện tích lưu vực là 28.090 km² là sông dài nhất của Cộng hòa Séc, sông chảy theo hướng bắc từ đầu nguồn tại Šumava gần biên giới với Đức qua Český Krumlov, České Budějovice, và Praha, hợp lưu vào sông Elbe tại Mělník. Sông Vltava có 31 km chảy trong địa bàn của thành phố Praha với 18 cây cầu bắc ngang sông, trong đó cầu Charles là danh thắng số một về cầu nối đôi bờ thủ đô Praha.

        Goethe vĩ nhân huyền thoại

        Tôi gặp Goethe ở Kalovi Vary trong rừng thiêng cổ tích. Người đã viết nên kiệt tác Faust, Nỗi đau của chàng Werther, bộ sử thi huyền thoại ngợi ca con người, mãi mãi bền vững với thời gian.

        Goethe là nhà thông thái thiên tài, nhà thơ văn, nhà khoa học, triết gia, viết kịch và họa sỹ người Đức. Goethe tuy sinh ra và lớn lên ở Frankfurt am Main, thành phố lớn thứ năm của Đức, nhưng ông đã sống ở Leipzig (thuộc Đức) Strasbourg (thuộc Pháp), và nơi tưởng niệm Goethe tại Tiệp Khắc có ở rất nhiều vùng . Danh tiếng của ông vang dội toàn châu Âu và Thế Giới. Viện Goethe hiện có phân viện tại 13 thành phố ở Đức và 128 thành phố ở nước ngoài.

        Goethe là giáo sư đại học, bạn thân và quân sư của Quận công Charles Augustus xứ Saxe-Weimar trong Đế quốc La Mã Thần thánh.  Các tác phẩm của Goethe là kiệt tác của nhân loại. Ông viết những điều vượt lên lịch sử, khoa học, tôn giáo, không bị cuốn hút vào những tham vọng, khát khao quyền lực, những sự kiện nổi bật của thực tại mà hướng tới CON NGƯỜI với khát khao hiểu biết và ước mơ vượt lên nghịch cảnh số phận.

        Hai tác phẩm nổi tiếng nhất của Goethe  là Faust và  Nỗi đau của chàng WertherFaust là tác phẩm thơ kịch văn xuôi độc đáo và tiêu biểu nhất của Goethe với 12.111 câu thơ thể tự do xen lẫn với văn xuôi, mở đầu là 32 câu thơ đề tặng, kế đến là 25 trường đoạn, thể hiện tâm trạng của Goethe cũng là  tâm trạng của thời đại. Cấu trúc và dịch lý tựa như kiệt tác Sấm ký Nguyễn Bỉnh Khiêm của Việt Nam

        Faust I được Goethe sáng tác năm 1808, khi ông đang độ tuổi thanh xuân bế tắc và khao khát cống hiến,  với tâm trạng chán ghét muốn nổi loạn chống lại “sự cùng khổ Đức”. Đó là tâm trạng của các nhà văn và thế hệ thanh niên phong trào Bão táp và Xung kích. Goethe đặc biệt ngưỡng mộ vua nước Phổ là Friedrich II Đại Đế đã giành chiến thắng trong cuộc Chiến tranh Bảy năm (1756 – 1763). Goethe nung nấu viết được sử thi ghi lại những chuyển biến lớn của thời đại, làm quân sư chính đạo cho các quân vương và nhà lãnh đạo tài năng để thay đổi được thực trạng của nước Đức hiện thời. Ông viết:

        “Vùng đất Đức, từ lâu đã bị ngoại bang vùi dập, bị các nước khác xâm chiếm,… nền thi ca Đức… thiếu niềm tự tôn của cả một dân tộc: chúng ta không hề thiếu tài năng. Lần đầu tiên thi ca Đức có được niềm tự hào thực sự, và tự hào hơn là nhờ Đức Vua Friedrich Đại Đế và những chiến công của Người trong cuộc Đại chiến Bảy năm. Tất cả mọi nền thi ca dân tộc đều mờ nhạt, càng mờ nhạt đi, nếu nó không dựa trên sự độc đáo nhân văn, không dựa trên những sự kiện gắn bó với nhân dân và những vị lãnh đạo xuất sắc của nước nó… Các vị vua phải được quan tâm trong chiến tranh và hiểm họa, trong những khi họ là những người đứng đầu mọi thứ, vì họ quyết định đến sự tồn vong của dân tộc và do đó họ sẽ được yêu thích hơn cả các vị Thần Thánh. Theo lối suy nghĩ này thì mỗi dân tộc vinh quang đều phải có một bộ sử thi… ” (Goethe).

        Faust II gốm 5 hồi được Goethe bắt đầu khi ông đã năm mươi tuổi và hoàn thành ngày 22 tháng 7 năm 1831, một năm trước khi Goethe đi vào cõi vĩnh hằng lúc 82 tuổi. Faust II không còn là con người tuổi trẻ khát khao dấn thân nữa mà tuyển chọn những công việc rất hữu ích để giúp cho đời.

        Faust đi từ một  nguyên mẫu dân gian Johannes Faust (hoặc Johann Faust, George Faust) là một nhân vật có thật, đặc biệt nổi tiếng ở vùng Đức Tiệp,  sống vào khoảng năm  1480 – 1541. Đó là một thầy thuốc, nhà chiêm tinh và “phù thủy” ảo thuật gia xuất chúng người Đức (ngôn từ để chỉ nhà khoa học tài năng có thể biến đá thành vàng). Trong thời kỳ kháng cách, chống mê tín dị đoan, cải cách tôn giáo thế kỷ 16 xuất hiện 68 giai thoại về nhân vật Faust được Johannes Spies ghi chép lại và từ đó lưu truyền trong dân gian về nhân vật này như một huyền thoại: người bán linh hồn cho quỷ dữ.

        Sách truyện dân gian là một hình thức phổ biến của văn học châu Âu vùng  Bohemia thế kỷ 15-16. Những tác phẩm khuyết danh thường được in bằng giấy thông thường và bán rẻ nên lưu truyền khá phổ biến và rộng rãi trong công chúng. Nhân vật trong truyện dân gian thường thông minh, hóm hỉnh, nhiều yếu tố lạ, có hành động “kinh thiên động địa” trong những tình huống phức tạp, éo le… J.Spies cho xuất bản cuốn sách truyện dân gian về Faust năm 1587 cùng lời giải thích: Chuyện về Faust, kẻ làm quỷ thuật du đãng và là tên phù thuỷ. Hắn liên minh với quỷ sứ. Hắn phiêu lưu mạo hiểm. Và hắn phải nhận lấy số phận của mình. Kẻ không kính trọng thánh thần và là ví dụ khủng khiếp răn đe mọi người.

        Faust trong dân gian là một học giả tài ba, sống nội tâm, ít chơi bời và không sa vào ham muốn quyền lực hoặc dục vọng như người đương thời mà khát khao kiến thức, hiểu biết, sống tự do phóng khoáng, không thích bị câu thúc, và chỉ chuyên giao du với những kẻ vô thần phù hợp với mình. Faust đã kết bạn với quỷ Mephisto ở dưới địa ngục và đã hiến linh hồn của mình cho quỷ để thỏa mãn ước mơ khám phá hiểu biết của mình. Kết cục Faust bị quỷ Mephisto hành hạ đọa đày đau khổ và máu óc Faust vung vãi khắp nơi nhưng quỷ dữ không thể nào khuất phục được Faust. Huyền thoại về  Faust với 68 câu chuyện đầy tính sử thi phiêu lưu mạo hiểm của một nhân vật có thật trong đời sống được công chúng hết sức ưa chuộng. Faust dám khát khao tự do, khám phá những bí mật của trời đất, xâm phạm đến sự thiêng liêng của thần thánh. Điều đó đã làm chất liệu nền, khơi nguồn cảm hứng cho Goethe ra đời kiệt tác Faust.

        Goethe đã tìm thấy từ hình tượng nguyên mẫu của Faust trong dân gian, một khát vọng vô biên về sức mạnh sáng tạo và chinh phục của con người. Faust giống như Tôn Ngô Không của phương Đông, có thể lên thiên đường, xuống địa ngục,  trãi nhiều kiếp nạn nhưng cuối cùng đã tìm thấy chân lý “Chỉ những ai biết hăng say lao động, biết nổ lực chinh phục những đỉnh cao chí thiện thì mới xứng đáng được hưởng tự do và tình yêu cuộc sống.

        Faust trong bí mật lâu đài cổ

        Faust là hình bóng của Goethe trong kiệt tác ở quảng trường Old Town Square. Đó là  một con người chí thiện, yêu tự do, ước mơ hiểu biết. Kiệt tác Faust trong văn chương và kiệt tác Faust tại quảng trường Old Town Square đều rất nổi tiếng và bền vững với thời gian. Goethe đã dựng chân dung hình tượng Faust là một con người có tốt có xấu, có chính có tà, có thiện có ác, với những nỗ lực không ngừng vượt qua cám dỗ, dục vọng do sự tạo nghiệp của quỷ sứ Mephisto. Faust  là bài ca muôn thuở của tình yêu cuộc sống.

        Faust trong văn chương của Goethe là tổng hòa của kịch, thơ, văn xuôi, tiên tri, dịch lý, là “kịch trong kịch” với nhiều tác phẩm nhỏ được lồng ghép nhau. Những đối thoại triết học thật sâu lắng và thích hợp cho những nhà nghiên cứu nhưng những hoạt cảnh ma quỷ và con người lại kích thích vùng tâm thức trẻ thơ của mỗi con người. Đọc Faust, ta hình dung như đọc Tây Du Ký, Sấm Trạng Trình, Truyên Kiều, Kiếm hiệp Kim Dung, …

        G. Chonhio nhận xét  “lịch sử nhân loại được hồi sinh trọn vẹn theo từng bước chân của Faust”. Faust từ một nhân vật có thật đã trở thành hình tượng huyền thoại trong dân gian và với kiệt tác của Goethe đã thành bất tử với thời gian . Điều này cũng tương tự như Trận Xích Bích thời Tam Quốc là chất liệu cho thơ và từ của Tô Đông Pha nhưng chính Tiền Xích Bích Phú và Hậu Xích Bích Phú của Tô Đông Pha lại là pho sử thi lưu dấu vùng địa linh Xích Bích neo đậu vào tim óc người đọc của nhiều thế hệ.

        Goethe đã đoạn tuyệt với các mô tả sáo mòn cổ điển, đẽo gọt những sự kiện vụn vặt và những thị hiếu bình thường để khắc họa rất sâu tâm trạng của chính thời đại ông đang sống, hướng tới tương lai. Goethe đã khai mở, tiếp hợp với  thời kỳ khai sáng và chủ nghĩa lãng mạn. Chính vì vậy, Goethe đã có ảnh hưởng đặc biệt to lớn đến nền văn chương thế giới, nổi bật nhất ở châu Âu và nước Mỹ. Tác phẩm của Goethe hiện vẫn là nguồn cảm hứng trong âm nhạc cổ điển Đức, kịch, thơ, và triết học. Kiệt tác văn chương của  Goethe bền vững với thời gian.

        Old Town Square là quảng trường nổi tiếng của lâu đài cổ Praha.  Kalovy Vary là vùng suối nước nóng nổi tiếng ở cộng hòa Sec, nơi có khu nghỉ dưỡng spa và rừng cổ tích với thư viện Goethe. Cuộc đời tôi thật may khi được lạc vào cả hai nơi kỳ diệu này trong thế giới của Goethe, được “Dạo chơi cùng Goethe”, lắng Người kể chuyện sử thi  khai mở tâm thức.

        Đêm thiêng, bình minh và ngày mới bắt đầu.

        Hoàng Kim

        (*) Ghi chú: Tiệp Khắc kỷ niệm một thời, tôi viết lần đầu ngày 28 tháng 9 năm 2015 và dự định viết một ghi chép sâu hơn về  Praha Goethe và lâu đài cổ để bình giải Nỗi đau của chàng Werther và vở kịch thơ Faust là hai kiệt tác văn chương nổi tiếng của đại văn hào Goethe, danh nhân văn hóa thế giới, bậc thầy triết học và văn hóa lừng lẫy nhất của dân tộc Đức, lưu dấu rất đậm nét ở Tiệp Khắc. Năm nay, tôi đã hiệu đính và bổ sung bài viết này để hiến tặng bạn đọc.

        NẮNG ẤM TRỜI XANH ẤY
        Hoàng Kim


        Thoáng ý thơ hay ngày tiễn bạn
        Mà nghe xao xuyến tưởng mình đi
        Chao ơi nắng ấm trời xanh ấy
        “Điểm hẹn” (*) làm ta ước trở về (**) …

        (*) ĐIỂM HẸN
        Hoàng Kim


        Anh như chim ưng quay về tổ ấm
        Vẫn khát bầu trời ước vọng bay lên
        Ơi Bồng Lai cồn cào nỗi nhớ
        Anh về bên này lại nhớ bên em.

        (**) CHIA TAY
        Nguyễn Dương


        “Chia tay đâu phải không gặp nữa
        Mà khói hoàng hôn cay mắt nhau
        Mà chiều như rụng theo chân bước
        Và nắng đường xa bỗng bạc màu …”

        Praha Goethe và lâu đài cổ xem tiếp : Giấc mơ thiêng cùng Goethe

         

         

         

        CHƯA QUÊN SƯƠNG MUỐI GIÓ MÙA
        Trinh Đường

        Gửi một người nhờ mua
        sương mù biên giới
        -Tặng HGC-

        Em nhờ anh mua bao nhiêu sương mù
        Một làn mỏng làm khăn quàng
        Một thung lũng để em vào ở ẩn ?
        Sương Núi Nùng thương thu
        Sương Hồ Tây để hồn ai hoá bướm
        Còn sương mù trên đây
        Dày
        Đặc
        Mịt mùng
        Như quanh ta bỗng kín cổng cao tường
        Như bốn mặt đều thiên la địa võng
        Như trái đất bỗng lọt vào quả bóng
        Bồng bềnh trôi trong một cõi hỗn hoang
        Sương chặn xe úa hết ánh đèn vàng
        Cứ đông đặc một trời hoa tuyết xốp
        Tưởng xắn được ra từng mảng một
        Để đắp thành vô số núi chiêm bao !

        Em muốn mù sương biên giới tỉnh nào ?
        Lạng Sơn, Hà Giang… không đâu bán cả
        Chỉ có bán nấm tai mèo, thảo quả
        Trao cho nhau những núi hẹn, sông thề
        Qua tiếng khèn làm mây nước đê mê
        Qua quả còn giao duyên lễ hội…
        Đành lấy hồn đựng sương mù biên giới
        Gửi về em nỗi nhớ thương dài…
        Hà Giang 31/12/1996

        Nhà thơ Trinh Đường (1 1 1917- 28 9 2001) đã vĩnh viễn ra đi nhưng tình yêu của ông đối với thơ, những bài thơ ông viết và những gì ông đã làm để gìn giữ và tôn vinh nền thơ dân tộc Việt vẫn còn mãi trong lòng chúng ta.

        Cảm ơn nhà thơ
        Hoàng Gia Cương thơ hiền theo dòng thời gian đã lắng đọng những điều sâu sắc. Xin chọn lưu bài thơ CHƯA QUÊN SƯƠNG MUỐI GIÓ MÙA của nhà thơ Trinh Đường cảm hứng nhân tứ thơ ” Chưa quên sương muối gió mùa Không đi nên gửi nhà thơ mua dùm” của nhà thơ Hoàng Gia Cương . Bài thơ “Người vịn trời chấp sói;” của Hoàng Kim ngày 28 tháng 9 là nhớ bạn đơn vị cũ và nhớ Trinh Đường.

        Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là NLU.jpg

        DẠY VÀ HỌC https://hoangkimvn.wordpress.com
        ngày mới nhất bấm vào đâycập nhật mỗi ngày

        Video yêu thích
        Mênh mang một khúc sông Hồng
        Huyền Thoại Hồ Núi Cốc
        Một thoáng Tây Hồ
        Trên đỉnh Phù Vân
        Chảy đi sông ơi …

        Chỉ tình yêu ở lại
        Ngày hạnh phúc của em
        Giúp bà con cải thiện mùa vụ
        KimYouTube

        Trở về trang chính
        Hoàng Kim Long, Ngọc Phương Nam, Thung dung, Dạy và Học, Việt Nam Học, Cây Lương thực Việt Nam, CNM365Tình yêu Cuộc sống, Kim on LinkedIn, Kim on Facebook, Kim on Twitter

        Xem tiếp >>

          Dạy và học 27 tháng 9(27-09-2021)


        DẠY VÀ HỌC 27 THÁNG 9
        Hoàng Kim
        CNM365 Tình yêu cuộc sốngĐi như một dòng sông; Quốc Công đạo làm tướng; Tiết Chế đức dụng nhân; Kế sách một chữ Đồng;Biết mình và biết người; Trúc Lâm Trần Nhân Tông; Làng Minh Lệ quê tôi; Châu Mỹ chuyện không quên; Ngày 27 tháng 9 năm 1821 Quốc khánh Mexico giành được độc lập từ Tây Ban Nha. Ngày 27 tháng 9 năm 1905, Albert Einstein định rõ phương trình E=mc² trong bài luận “Quán tính của một vật có tùy theo nội dung Năng lượng?” xuất bản trên Tạp chí Vật lý học Annalen der Physik. Ngày 27 tháng 9 năm 1949 Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa xác định Mao Trạch Đông làm Chủ tịch chính phủ Nhân dân Trung ương, Chu Ân Lai làm Tổng lý Chính vụ Viện,  quốc kỳ là Ngũ tinh Hồng kỳ, Quốc ca là Nghĩa dũng quân tiến hành khúc tại Hội nghị Hiệp thương chính trị nhân dân Trung Quốc. Bài chọn lọc ngày 27 tháng 9:Đi như một dòng sông; Quốc Công đạo làm tướng; Tiết Chế đức dụng nhân; Kế sách một chữ Đồng;Biết mình và biết người; Trúc Lâm Trần Nhân Tông; Làng Minh Lệ quê tôi; Châu Mỹ chuyện không quên; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-27-thang-9/

        ĐI NHƯ MỘT DÒNG SÔNG
        Hoàng Kim


        Hoàng Kim ở CIMMYT 1988 trong bài viết Đi như một dòng sông là những ký ức vụn kể về
        Con đường di sản LewisClark của Châu Mỹ chuyện không quên. Tôi đã viết Kim Notes lắng ghi chú kể về Làng Minh Lệ quê tôi; Hoành Sơn và Linh Giang; Linh Giang sông quê hương; Linh Giang Đình Minh Lệ; Đá Đứng chốn sông thiêng; Nguồn Son nối Phong Nha; Quê Mẹ vùng di sản;. Tôi xa quê từ nhỏ. Quê hương nơi sinh thành thường là bài học lón nhất đời người nhưng tôi vì hoàn cảnh xa quê nên hiểu quê hương có giới hạn mà thường ấn tượng về mười hai bến nước của chiếc lá trôi dạt do vận mệnh. Mỗi dân tộc và mỗi con người đều có vận mệnh của riêng mình, bằng cách tin sâu vào luật nhân quả, thực hành chí thiện để tương lai cuộc đời được tốt hơn. Đi để hiểu quê hương.

        Đi như một dòng sông là bài học kinh nghiệm khởi nghiệp của tôi kể lại cho người thân và thầy bạn quý. Tôi đặc biệt dành tặng cho các bạn trẻ đang tìm kiếm sự kết nối Học để Làm (Learning to Doing) và để Dạy hiệu qủa. Tôi tâm đắc lời Bác về triết lý giáo dục “Ngủ thì ai cũng như lương thiện. Tỉnh dậy phân ra kẻ dữ hiền. Hiền dữ phải đâu là tính sằn. Phần nhiều do giáo dục mà nên. Học không bao giờ muộn. Học lắng nghe cuộc sống. Sự chậm rãi minh triết; Vui bước tới thảnh thơi. Bài viết này được trích từ phần đầu của Thầy bạn là lộc xuân với phần giữa Dạy và học ngày nay và phần cuối Con đường di sản LewisClark của Châu Mỹ chuyện không quên . Đó là thu hoạch của tôi trà sớm với thầy bạn

        TỪ CẬU BÉ LÀNG MINH LỆ

        Quê tôi ở miền Trung nghèo khó “Nhà mình gần ngã ba sông/ Rào Nan, chợ Mới, nguồn Son, Quảng Bình,/
        Linh Giang sông núi hữu tình / Nơi đây cha mẹ sinh thành ra con/ Chèo thuyền cho khuất bến Son/ Để con khỏi chộ (thấy) nước non thêm buồn/ Câu thơ quặn thắt đời con/ Mẹ cha mất sớm, con còn trẻ thơ”. Tôi xa quê từ nhỏ. Mười tuổi mồ côi mẹ, Mười bốn tuổi cha chết do bom Mỹ giết hại.Tôi với chị gái Hoàng Thị Huyền ở với anh trai Hoàng Ngọc Dộ trong nhà hầm của lớp học ở làng Phù Lưu để học cấp ba Bắc Quảng Trạch. Anh trai tôi dạy cấp một, giáo viên khẩu phần ăn 13 ký lương thực mỗi tháng, trong đó có 70% là khoai sắn. Anh vì nuôi hai em thay cha mẹ mất nên khẩu phần ăn ấy chia cho ba người ăn. Đói. Gia đình tôi năm năm đã ăn ngày một bữa. Thầy Nguyễn Khoa Tịnh đứng khóc trên bục giảng vận động thầy cô, bạn hữu chia sớt khoai sắn giúp đỡ. Tôi cũng dạy năm lớp vở lòng, ba lớp bổ túc văn hóa và cùng anh cuốc đất tăng gia để vượt khó vươn lên. Thầy Hiệu trưởng Trần Đình Côn đã viết những lời xúc động trong Bài ca Trường Quảng Trạch trường ca tình thầy trò: “Thương em nhỏ gieo neo mẹ mất. Lại cha già giặc giết hôm qua. Tình thầy, tình bạn, tình cha. Ấy là ân nghĩa thiết tha mặn nồng” (9)  Những gương mặt thầy bạn đã trở thành máu thịt trong đời tôi.

        Thi đậu vào Trường Đại học Nông nghiệp 2 Hà Bắc năm 1970, tôi học Trồng trọt 4 cùng khóa với các bạn Trần Văn Minh, Đỗ Thị Minh Huệ, Phan Thanh Kiếm, Đỗ Khắc Thịnh, Vũ Mạnh Hải, Phạm Sĩ Tân, Phạm Huy Trung, Lê Xuân Đính, Nguyễn Hữu Bình, Lê Huy Bá … cho đến ngày 02 tháng 9 năm 1971 thì tôi gia nhập quân đội cùng lứa với Nguyễn Văn Thạc. Đợt tuyển quân sinh viên trong ngày độc lập đã nói lên sự quyết liệt sinh tử và ý nghĩa thiêng liêng của ngày cầm súng. Chiến trường đánh lớn. Đơn vị chúng tôi chỉ huấn luyện rất ngắn rồi vào trận ngay với 81 đại đội vượt sông Thạch Hãn. Chiến dịch Quảng Trị năm 1972 sau này đã đi vào huyền thoại: “Đò lên Thạch Hãn ơi chèo nhẹ/ Đáy sông còn đó bạn tôi nằm/ Có tuổi hai mươi thành sóng nước/ Vỗ yên bờ mãi mãi ngàn năm” Tổ chúng tôi bốn người thì Xuân và Chương hi sinh, chỉ Trung và tôi trở về trường sau ngày đất nước thống nhất.  Những vần thơ viết dưới đây là xúc động sâu xa của tôi khi nghĩ về bạn học đồng đội đã khuất: “Trận chiến hôm qua bạn góp máu hồng. Lớp học hôm nay bạn không trở lại. Trách nhiệm trong mình nhân lên gấp bội. Đồng chí ơi, tôi học cả phần anh

        Tôi về học tiếp năm thứ hai tại Trồng trọt 10 của Đại học Nông nghiệp 2 Hà Bắc đến cuối năm 1977 thì chuyển trường vào Đại học Nông nghiệp 4, tiền thân Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh hiện nay. Trồng trọt 2 thuở đó là một lớp chung mãi cuối khóa mới tách ra 2A,2B, 2C. Tôi làm Chủ tịch Hội Sinh viên thay cho anh Nguyễn Anh Tuấn khoa thủy sản ra trường về dạy Đại học Cần Thơ. Trồng trọt khóa hai chúng tôi thuở đó được học với các thầy cô: Nguyễn Đăng Long, Tô Phúc Tường, Nguyễn Tâm Đài, Trịnh Xuân Vũ, Lê Văn Thượng, Ngô Kế Sương, Trần Thạnh, Lê Minh Triết, Phạm Kiến Nghiệp, Nguyễn Bá Khương, Nguyễn Tâm Thu, Nguyễn Bích Liễu, Trần Như Nguyện, Trần Nữ Thanh, Vũ Mỹ Liên, Từ Bích Thủy, Huỳnh Thị Lệ Nguyên, Trần Thị Kiếm, Vũ Thị Chỉnh, Ngô Thị Sáu, Huỳnh Trung Phu, Phan Gia Tân, Nguyễn Văn Tài, Nguyễn Văn Kế, … Ngoài ra còn có nhiều thầy cô hướng dẫn thực hành, thực tập, kỹ thuật phòng thí nghiệm, chủ nhiệm lớp như Bùi Cách Tuyến, Nguyễn Văn Kịp, Lê Quang Hưng, Trương Đình Khôi, Nguyễn Ngọc Châu, Nguyễn Gia Quốc, Nguyễn Văn Biền, Lê Huy Bá, Hoàng Quý Châu, Phạm Lệ Hòa, Đinh Ngọc Loan, Chung Anh Tú và cô Thảo làm thư ký văn phòng Khoa. Bác Năm Quỳnh là Bí thư Đảng ủy đầu tiên của Trường sau đó là thầy Kiên và cô Bạch Trà. Thầy Nguyễn Phan là Hiệu trưởng kiêm Trưởng Trại Thực nghiệm. Thầy Dương Thanh Liêm, Nguyễn Ngọc Tuân, Võ Thị Tuyết, Ngô Văn Mận, Bùi Xuân An … ở khoa Chăn nuôi Thú y, thầy Nguyển Yên Khâu, Nguyễn Quang Lộc … ở khoa Cơ khí, cô Nguyễn Thị Sâm ở Phòng Tổ chức, cô Văn Thị Bạch Mai dạy tiếng Anh, thầy Đặng, thầy Tuyển, thầy Châu ở Kinh tế -Mác Lê …Thầy Trần Thạnh, anh Quang, anh Đính, anh Đống ở trại Trường là những người đã gần gũi và giúp đỡ nhiều các lớp nông học.

        Thay ban trong doi toi 1b

        Thuở đó đời sống thầy cô và sinh viên thật thiếu thốn. Các lớp Trồng trọt khóa 1, khóa 2, khóa 3 chúng tôi thường hoạt động chung như: thực hành sản xuất ở trại lúa Cát Lái, giúp dân phòng trừ rầy nâu, điều tra nông nghiệp, trồng cây dầu che mát sân trường, rèn nghề ở trại thực nghiệm, huấn luyện quốc phòng toàn dân, tập thể dục sáng, hội diễn văn nghệ, thi đấu bóng chuyền, bóng đá tạo nên sự thân tình gắn bó. Những sinh viên các khóa đầu tiên được đào tạo ở Khoa Nông học sau ngày Việt Nam thống nhất hiện đang công tác tại trường có các thầy cô như  Từ Thị Mỹ Thuận, Lê Văn Dũ, Huỳnh Hồng, Cao Xuân Tài, Phan Văn Tự, …

        Tháng 5 năm 1981, nhóm sinh viên của khoa Nông học đã bảo vệ thành công đề tài thu thập và tuyển chọn được các giống khoai lang Hoàng Long, Chiêm Dâu, Gạo, Bí Đà Lạt được Bộ Nông nghiệp công nhận giống ở Hội nghị Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Toàn Quốc Lần thứ Nhất tổ chức tại Thành phố Hố Chí Minh. Đây là một trong những kết quả nghiên cứu khoa học và chuyển giao tiến bộ kỹ thuật đầu tiên của Trường giới thiệu cho sản xuất. Thầy Cô Khoa Nông học và hai lớp Trồng trọt 2, Trồng trọt 3 cũng đã làm họ trai họ gái tác thành đám cưới cho vợ chồng tôi. Sau này, chúng tôi lấy tên khoai Hoàng Long để đặt cho con và thầm hứa việc tiếp nối sự nghiệp nghiên cứu khoa học và giảng dạy, một nghề nghiệp cao quý và lương thiện. “Biết ơn thầy cô giáo dịu hiền. Bằng khích lệ động viên lòng vượt khó. Trăm gian nan buổi ban đầu bở ngỡ. Có bạn thầy càng bền chí vươn lên. Trước mỗi khó khăn tập thể luôn bên. Chia ngọt xẻ bùi động viên tiếp sức. Thân thiết yêu thương như là ruột thịt. Ta tự nhủ lòng cần cố gắng hơn

        tt2-1

        Bạn học chúng tôi vẫn thỉnh thoảng họp mặt, có danh sách các lớp Trồng trọt 2, Trồng trọt 3 số điện thoại và địa chỉ liên lạc. Một số hình ảnh của các lớp ngày ấy và bây giờ lắng đọng sâu sắc trong lòng tôi.

        TRIẾT LÝ NHÂN SINH CỦA TÔI

        Đi như một dòng sông; Đi để hiểu quê hương Đời người gồm chuỗi hệ thống Học, Làm, Dạy, Nhàn, Viết. là năm quá trình kế tiếp nhau, đan xen nhau, hỗ trợ nhau, trộn vào nhau. CNM365 Tình yêu cuộc sống là kinh nghiệm đời người lặp lại mỗi năm.Tôi tâm đắc Tôn tử thiên IV chọn lại từ đứcTrần Hưng Đạo, Lời dặn của Thánh Trần; Biết mình và biết người; Quốc Công đạo làm tướng; Tiết Chế đức dụng nhânNgười đánh giỏi trước làm thế địch không thể thắng để đợi thế địch mà mình có thể thắng. Tiết chế ở mình mà thôi.” Câu thoại cổ trí tuệ nhân loại chọn lại từ Lev Tonstoy và Paulo Coelho “Sống có nghĩa là thay đổi, và các mùa lặp lại những bài học này cho chúng ta mỗi năm. Thay đổi và đổi mới là quy luật của cuộc sống“. (Living means changing, and the seasons repeat these lessons to us every year Change and renewal are the laws of life) Thăm nhà cũ của Darwin thích đôi mắt Darwin soi thấu nguồn gốc các loài: “Kẻ sống sót không phải là kẻ mạnh nhất hay thông minh nhất, mà là kẻ thích nghi tốt nhất” “It is not the strongest of the species that survives, nor the most intelligent that survives. It is the one that is most adaptable to change”

        SỰ HỌC khởi đầu từ lúc con người sinh ra cho đến khi có VIỆC LÀM để mưu sinh, để lao động, để cống hiến, để không còn làm người ăn bám sống trên mồ hôi thành quả của người khác, để biến cái sở trường thành hữu dụng. Đó là sự học chân chính, học để làm. Sự học tốt nhất là tự học suốt đời và sự học hữu dụng nhất, hiệu quả nhất là học làm người có ích. Học để làm tốt một nghề.

        VIỆC LÀM VÀ VIỆC DẠY dường như chiếm một nữa đời người khi một phần tư đời người cho tuổi thơ và sự học, Dẫu sự học tốt nhất là tự học suốt đời nhưng thật xấu hổ nếu không biết làm và dạy. Học làm người có ích là có tâm huyết, chuyên nghiệp và kỹ năng học làm người có ích. Có người giảng dạy và việc làm tách riêng , làm thành thạo trước và trao truyền sau nhưng có nhiều người việc làm và việc dạy kết rất nhuyễn, Cha mẹ là thầy cô đầu đời của con.

        AN NHÀN VÔ SỰ VÀ VIẾT. Nhàn và viết là lắng đọng di sản. An nhàn vô sự và viết dường như chiếm một phần tư đời người sau cùng. Phúc cho ai hưởng nhàn và đọng lại di sản.
        Minh triết sống phúc hậu là bài học quý, Bản chất cuộc sống là hạnh phúc và đau khổ, vui vẻ và phiền muộn, sự thiếu hoàn thiện và vô thường. Minh triết của đời người hạnh phúc là biết sống thung dung, phúc hậu, an nhiên tự tại, nhận ra kho báu vô giá của chính mình, không lo âu, không phiền muộn, sống với tinh thần dịu hiền và trái tim nhẹ nhõm.

        CHÂU MỸ CHUYỆN KHÔNG QUÊN

        Tôi đã nhiều lần tới châu Mỹ, tới cả Trung Mỹ, Bắc Mỹ và Nam Mỹ. Đó là kinh nghiệm sống quý giá cho sự nghiên cứu và giảng dạy khoa học cây trồng, đặc biệt là cây lương thực. Tôi nhớ thầy Norman Boulaug và nhiều thầy bạn ở nơi ấy, nhớ đất. nhớ người. Tôi có thói quen chép lại ghi chú ngắn và ghi hình về kỷ niệm sau mỗi chuyến đi, lần này mới có dịp hệ thống lại. “Châu Mỹ chuyện không quên” lắng đọng trong lòng tôi những ký ức sâu sắc về công việc chuyên môn khoa học cây trồng, cây lương thực yêu thích, kết nối với đất nước, con người, bạn hữu, và nền văn hóa châu Mỹ. Tôi kể từ chuyến đi Mỹ lần đầu tiên năm 1988, cho tới nhiều lần về sau lắng đọng chuỗi trãi nghiệm thân thương với thầy bạn ở bên kia bờ đại dương. Ba nơi chính của châu Mỹ mà tôi may mắn được tới, đó là vùng vật liệu di truyền ở ba trung tâm khởi nguyên cây trồng toàn cầu của chúng tại Châu Mỹ gồm Trung tâm ngô và lúa mì quốc tế CIMMYT ở Mê hi cô. Trung tâm khoai lang và khoai tây quốc tế CIP ở Peru. Trung tâm Quốc tế Nông nghiệp Nhiệt đới CIAT về sắn, đậu thực phẩm, lúa gạo châu Mỹ ở Côlômbia. Những điểm đến này tương tự như Viện Nông nghiệp Nhiệt đời Quốc tế IITA ở Nigeria châu Phí, Viện Nghiên cứu Cây trồng Quốc tế cho vùng Nhiệt đới Bán khô cằn ICRISAT ở Ấn Độ, và Viện Lúa quốc tế IRRI ở Philippines. Những chốn ấy cũng thật thân thuộc với tôi. Tại đấy sách chuyên khảo cây trồng, tạp chí, trang web, video thật phong phú, sâu sắc và thật đáng ao ước. Cũng từ đấy mà tôi may mắn được đi thăm thú rộng ra các vùng lân cận theo điều kiện và hoàn cảnh của mỗi chuyến đi.

        “Châu Mỹ chuyện không quên” là các bài học tình yêu cuộc sống trãi nghiệm cá nhân của các chuyến đi thực tế, với mục đích cung cấp các điểm nhấn tư liệu nông nghiệp sinh thái về cây lương thực châu Mỹ cho bạn đọc. Tác phẩm gồm 36 đường dẫn, tựa đề thơ ngũ ngôn, để dễ đọc dễ nhớ, ảnh chi tiết bấm link.

        Mục đích sau cùng của DẠY VÀ HỌC là thấu suốt bản chất sự vật, có lời giải đúng và LÀM được việc.
        Lời Thầy dặn thung dung.

        Châu Mỹ chuyện không quên

        Niềm tin và nghị lực
        Về lại mái trường xưa
        Hưng Lộc nôi yêu thương
        Năm tháng ở trời Âu

        Vòng qua Tây Bán Cầu
        CIMMYT tươi rói kỷ niệm
        Mexico ấn tượng lắng đọng
        Lời Thầy dặn không quên

        Ấn tượng Borlaug và Hemingway
        Con đường di sản Lewis Clark
        Sóng yêu thương vỗ mãi
        Đối thoại nền văn hóa

        Truyện George Washington
        Minh triết Thomas Jefferson
        Mark Twain nhà văn Mỹ
        Đi để hiểu quê hương

        500 năm nông nghiệp Brazil
        Ngọc lục bảo Paulo Coelho
        Rio phố núi và biển
        Kiệt tác của tâm hồn

        Giấc mơ thiêng cùng Goethe
        Chuyện Henry Ford lên Trời
        Bài đồng dao huyền thoại
        Bảo tồn và phát triển

        Sắn Việt Nam và Kawano
        Sắn Việt Nam và Howeler
        Một ngày với Hernán Ceballos
        CIAT Colombia thật ấn tượng
        Martin Fregenexa mà gần

        Châu Mỹ chuyện không quên
        CIP Peru và khoai Việt
        Nam Mỹ trong mắt tôi
        Nhiều bạn tôi ở đấy

        Machu Picchu di sản thế giới
        Mark Zuckerberg và Facebook
        Lời vàng Albert Einstein
        Bill Gates học để làm

        Thomas Edison một huyền thoại
        Toni Morrison nhà văn Mỹ
        Walt Disney bạn trẻ thơ
        Lúa Việt tới Châu Mỹ.

        Thầy tôi
        Norman Borlaug  trao đổi với tôi thật nhiều câu chuyệnThomas Jefferson (1743 – 1826) là Nhà tư tưởng sáng lập nước Mỹ, với Lewis & Clark cuộc thám hiểm miền Tây nước Mỹ. Đó là một ví dụ điển hình về tầm nhìn và dự án khoa học thành công. Con đường di sản Lewis và Clark lắng đọng trong tôi thật sâu Chuyện bây giờ mới kể …

        Cuộc thám hiểm của Lewis và Clark đã được khởi sự vào ngày 14 tháng 5 năm 1804 và kết thúc cuối năm 1806. Đây là cuộc thám hiểm trên bộ đầu tiên của người Mỹ đến những tiểu bang duyên hải cận tây nhất của nước Mỹ và ngược lại. Miền Tây nước Mỹ là vùng đất nhiều thổ dân da đỏ sinh sống khoảng 10 ngàn năm trước đó, và thuở ấy miền Tây nước Mỹ có sự hiện diện của những cư dân mới là người thám hiểm và định cư thuộc các nước Tây Ban Nha, Anh, México, Nga và Mỹ. Tổng thống Mỹ Thomas Jefferson đã kiến nghị Quốc hội Mỹ phê chuẩn đầu tư cho chuyến khảo sát đường bộ của cuộc thám hiểm của Lewis và Clark cùng cộng sự. Trong một lá thư đề ngày 20 tháng 6 năm 1803, Tổng thống Mỹ Thomas Jefferson đã viết cho Lewis. “Mục tiêu sứ mạng của anh là thám hiểm Sông Missouri và dòng suối chính của nó qua dòng chảy và sự liên thông của nó với các bộ phận nước khác của Thái Bình Dương để xem Sông Columbia, Xứ Oregon, Colorado hay bất cứ con sông nào có thể cung cấp một sự liên thông mặt nước thực tiễn và trực tiếp nhất ngang qua lục địa này để giúp cho những mục đích thương mại“.

        Thầy tôi trong buổi trò chuyện của mình đã khoanh vào các chỉ dấu Thomas Jefferson Lewis & Clark thành những điểm chính nhấn mạnh cho các lời diễn đạt của mình


        Trong chuyến khảo sát CIANO, OREGON của Miền Tây Mexico và nước Mỹ năm 1989 sau 186 năm từ chuyến thám hiểm miền Tây nước Mỹ của Lewis & Clark và cộng sự, tôi nhớ đinh ninh lời Thầy dặn, thật ấn tượng và thấm thía khi viết bài thơ cảm khái:

        ĐI KHẮP QUÊ NGƯỜI ĐỂ HIỂU ĐẤT QUÊ HƯƠNG

        Tạm biệt
        Oregon !
        Tạm biệt
        Obregon California !
        Cánh bay đưa ta về
        CIMMYT
        Bầu trời xanh bát ngát
        Lững lờ mây trắng bay
        Những ngọn núi cao nhấp nhô
        Những dòng sông dài uốn khúc
        Hồ lớn Ciudad Obregon
        ba tỷ khối nước

        Nở xòe như chùm pháo bông
        Những cánh đồng mênh mông
        Thành trăm hình thù dưới làn mây bạc
        Con đường dài đưa ta đi
        Suốt dọc từ Nam chí Bắc
        Thành sợi chỉ màu chạy mút tầm xa…

        Ơi vòm trời xanh bao la
        Gọi lòng ta nhớ về Tổ Quốc
        Ôi Việt Nam, Việt Nam
        Một vùng nhớ trong lòng ta tỉnh thức
        Đi khắp quê người để hiểu đất quê hương.

        Hoàng Kim

        Sáu tháng ở CIMMYT với tôi là một câu chuyện ám ảnh. Tôi như cậu bé chăn cừu mà Paulo Coelho kể trong kiệt tác của tâm hồn Nhà Giả Kim (O Alquimista) mà tôi đã viết ở Ngọc lục bảo Paulo Coelho, cũng giống như cô bé Quách Tương tại tiểu thuyết ‘Thần điêu đại hiệp’ của Kim Dung đi vào thế giới bí ẩn của riêng mình với khát khao tìm kiếm

        Thầy Norman Borlaug là nhà khoa học xanh sống nhân đạo, và nêu gương tốt. Thầy là nhà nông học Mỹ cha đẻ của cuộc cách mạng xanh được tặng giải Nobel và Tổng thống Mỹ trao tặng huân chương cao quý nhất của nước Mỹ, thế giới tôn vinh là nhà bác học số một của nhân loại trong  cuộc chiến chống nghèo đói. Thầy đã suốt đời nghiên cứu giảng dạy về chọn tạo và phát triển cây lương thực, góp phần cải thiện đời sống và nâng cao thu nhập cho hàng trăm triệu nông dân nghèo ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ Latinh. Thầy là người sáng lập Giải thưởng Lương thực Thế giới và tổ chức nhiều hoạt động thiết thực thắp sáng niềm tin yêu cuộc sống.Câu chuyện về Người tôi đã kể vắn tắt tại Norman Borlaug di sản, niềm tin và nổ lực


        Tôi được Thầy ghé thăm gần trọn buổi chiều tại phòng riêng ở CIMMYT, Mexico ngày 29.8.1988. Thầy đã một mình ghé thăm người trò nhỏ duy nhất của châu Á trong lớp học “Quản lý Trung tâm Trạm trại Nông nghiệp”. Khi Thầy đến, tôi đang thắp nến trên giá sách trong phòng đề tưởng nhớ ngày cha mất. Biết cha tôi bị bom Mỹ giết hại tại làng nhỏ ở Quảng Bình của buổi chiều này hai mươi năm trước (1968) lúc tôi còn là học sinh trung học của Trường cấp Ba Bắc Quảng Trạch, Thầy Xem tiếp >>

          Dạy và học 26 tháng 9(26-09-2021)


        DẠY VÀ HỌC 26 THÁNG 9
        Hoàng Kim
        CNM365 Tình yêu cuộc sốngTrúc Lâm Trần Nhân Tông; Nguyễn Du Nguyễn Công Trứ; Nguyễn Khải thầy văn Việt; Sách hay thầy bạn quý; Về Việt Bắc nhớ Người; Mây lành Phổ Đà Sơn; Thiên nhiên là thú thần tiên; Vui đi dưới mặt trời, Đá Đứng chốn sông thiêng; Đợi nắng; Ta về với Linh Giang; Hoa Đất của quê hương, Hoa Đất thương lời hiền; Đất Mẹ vùng di sản; Nguồn Son nối Phong Nha; Linh Giang Đình Minh Lệ; Nguyễn Du Nguyễn Công Trứ; Trần Khánh Dư vẹn kiếp; Kim Dung trong ngày mới; Ngày 26 tháng 9 năm 1983, sĩ quan Liên Xô Trung tá Stanislav Yevgrafovich Petrov, người sau này nhận được giải thưởng đặc biệt Công dân thế giới ngày 21 tháng 5 năm 2004, bởi sự kiện ngày 26 tháng 8 năm 1983 đã tránh được chiến tranh nguyên tử khắp thế giới bằng cách chứng nhận báo động giả mặc dù hệ thống báo trước cho rằng Hoa Kỳ đang tấn công; Ngày 26 tháng 9 năm 1969, Album Abbey Road của ban nhạc The Beatles được phát hành tại Anh. Ban nhạc The Beatles có tên trong danh sách “Nhân vật quan trọng nhất của thế kỷ 20” của tạp chí Time,  là nghệ sĩ có hơn 600 triệu đĩa đã bán trên toàn thế giới. Ngày 26 tháng 9 năm 2004, tạp chí Rolling Stone xếp The Beatles là nghệ sĩ vĩ đại nhất mọi thời đại. Ngày 26 tháng 9 năm 2007, Nhịp dẫn cầu Cần Thơ sập làm 54 người chết, 180 người bị thương.(Cầu Cần Thơ ngày nay, hình). Bài viết chọn lọc ngày 26 tháng 9 Trúc Lâm Trần Nhân Tông; Nguyễn Du Nguyễn Công Trứ; Nguyễn Khải thầy văn Việt; Sách hay thầy bạn quý; Về Việt Bắc nhớ Người; Mây lành Phổ Đà Sơn; Thiên nhiên là thú thần tiên; Vui đi dưới mặt trời, Đá Đứng chốn sông thiêng; Đợi nắng; Ta về với Linh Giang; Hoa Đất của quê hương, Hoa Đất thương lời hiền; Đất Mẹ vùng di sản; Nguồn Son nối Phong Nha; Linh Giang Đình Minh Lệ; Nguyễn Du Nguyễn Công Trứ; Trần Khánh Dư vẹn kiếp; Kim Dung trong ngày mới; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-26-thang-9/

        TRÚC LÂM TRẦN NHÂN TÔNG
        Hoàng Kim

        Trần Nhân Tông (1258-1308)  là một trong những vị vua anh minh nhất của lịch sử Việt Nam. Người tên thật là Trần Khâm, vua Trần thứ ba (sau vua cha Trần Thánh Tông và trước vua Trần Anh Tông). Với 50 năm cuộc đời, vua Phật Trần Nhân Tông đã kịp làm được ít nhất năm việc lớn hiếm thấy và khó ai bì kịp ở mọi dân tộc và mọi thời đại: 1) Minh quân lỗi lạc, làm vua 15 năm (1278 – 1293) trực tiếp lãnh đạo cuộc kháng chiến hai lần đánh thắng quân Nguyên Mông là đội quân xâm lược hùng mạnh nhất thời đó; 2) Tổ sư thiền phái Trúc Lâm và Thái Thượng Hoàng 15 năm (1294-1306) là vua Phật Việt Nam. 3) Nhà văn hóa và nhà thơ kiệt xuất với kiệt tác thơ Thiền Trần Nhân Tông và thắng tích Trúc Lâm Yên Tử; 4) Người thầy chiến lược vĩ đại muôn đời của kế sách một chữ “đồng” “vua tôi đồng lòng, toàn dân đồng sức”, nhược thắng cường, yếu thắng mạnh, nước nhỏ thắng nước lớn, sự nghiệp mở nước và thống nhất non sông Việt bằng vương đạo, thuận thời, thuận người . 5) Nhà trị loạn kỳ tài đã hưng thịnh nhà Trần và cứu nguy cho nước Việt ở thời khắc quyết định, biến nguy thành an, biến những điều không thể thành có thể.

        Kiệt tác thơ thiền đức Nhân Tông là đỉnh cao thơ Thiền thời Trần:

        Cư trần lạc đạo phú
        Đại Lãm Thần Quang tự
        Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca
        Đăng Bảo Đài sơn
        Đề Cổ Châu hương thôn tự
        Đề Phổ Minh tự thủy tạ
        Động Thiên hồ thượng
        Họa Kiều Nguyên Lãng vận
        Hữu cú vô cú
        Khuê oán
        Lạng Châu vãn cảnh
        Mai
        Nguyệt
        Nhị nguyệt thập nhất nhật dạ
        Quỹ Trương Hiển Khanh xuân bính
        Sơn phòng mạn hứng
        I
        II
        Sư đệ vấn đáp
        Tán Tuệ Trung thượng sĩ
        Tảo mai
        I
        II
        Tặng Bắc sứ Lý Tư Diễn
        Tây chinh đạo trung (tái chinh Ai Lao)
        Thiên Trường phủ
        Thiên Trường vãn vọng
        Tống Bắc sứ Lý Trọng Tân, Tiêu Phương Nhai
        Tống Bắc sứ Ma Hợp, Kiều Nguyên Lãng
        Trúc nô minh
        Tức sự
        I
        II
        Vũ Lâm thu vãn
        Xuân cảnh
        Xuân hiểu
        Xuân nhật yết Chiêu Lăng
        Xuân vãn

        Lên non thiêng Yên Tử, khảo sát điền dã những chứng tích lịch sử văn hóa lưu dấu mãi với thời gian. “Soi sáng lại chính mình là phận sự gốc, chẳng từ nơi khác mà được.” (Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc.). Đức Nhân Tông viết về sự đạt ngộ với người thầy là Tuệ Trung Thượng Sĩ . “Nghe xong, tôi thông suốt được đường vào, bèn vén áo thờ Ngài làm thầy”. “Soi sáng lại chính mình” chứ không tìm kho báu ở đâu khác là trí tuệ siêu việt của vua Phật Trúc Lâm Yên Tử Trần Nhân Tông.

        Đêm Yên Tử là trãi nghiệm sâu lắng nhất đời tôi, tác phẩm và trích dẫn biên khảo yêu thích. Tôi chép lại hai điểm nhấn quan trọng “Dấu xưa đêm Yên Tử” “Thơ Thiền đức Nhân Tông” với bốn bài thơ “Lên non thiêng Yên Tử”, “Tìm về đức Nhân Tông”, “Sông núi lưu ân tình”, “Biển Hồ NgọcTây Nguyên” của chính mình với bài Trần Nhân Tông (1247-1308): Minh quân và đạo sĩ của Nguyễn Đức Hiệp.

        DẤU XƯA ĐÊM YÊN TỬ

        Đêm Yên Tử, vào lúc nửa đêm, ngày mồng 1 tháng 11 năm Mậu Thân (1308) sao sáng đầy trời, Trúc Lâm hỏi: “Bây giờ là mấy giờ?”. Bảo Sát thưa: “Giờ Tý”. Trúc Lâm đưa tay ra hiệu mở cửa sổ nhìn ra ngoài và nói: “Đến giờ ta đi rồi vậy”. Bảo Sát hỏi: “Tôn sư đi đâu bây giờ?”. Trúc Lâm nói: “Mọi pháp đều không sinh. Mọi pháp đều không diệt. Nếu hiểu được như thế. Chư Phật thường hiện tiền. Chẳng đi cũng chẳng lại”.

        ( trước đó) sách “Tam tổ thực lục”, bản dịch, Tư liệu Viện Khảo cổ học, ký hiệu D 687, trang 12 ghi: “Ngày 18 ngài lại đi bộ đến chùa Tú Lâm ở ngọn núi Kỳ Đặc, Ngài thấy rức đầu. Ngài gọi hai vị tì kheo là Tử Danh và Hoàn Trung lại bảo: ta muốn lên núi Ngoạ Vân mà chân không thể đi được thì phải làm thế nào? Hai vị tỳ kheo bạch rằng hai đệ tử chúng tôi có thể đỡ đại đức lên được. Khi lên đến núi, ngài cảm ơn hai vị tỷ kheo và bảo các ngươi xuống núi tu hành, đừng lấy sự sinh tử làm nhàm sự.

        Ngày 19 ngài sai thị giả Pháp Không lên am Tử Tiêu ở núi Yên Tử giục Bảo Sát đến ngay núi Ngoạ Vân….. Ngày 21, Bảo Sát đến núi Ngoạ Vân, Ngài thấy Bảo Sát đến mỉm cười nói rằng ta sắp đi đây, sao ngươi đến muộn thế?” “Mùa đông tháng 11, … ngày mồng 3, thượng hoàng (Trần Nhân Tông) băng ở Am Ngoạ Vân Núi Yên Tử”. Sách Đại Việt sử ký toàn thư, bản dịch, Nhà Xuất Bản Văn hoá Thông tin, 2004, trang 570 chép.

        Đêm Yên Tử, tôi đi lúc nửa đêm từ nơi khởi đầu tại khu lăng mộ đức Nhân Tông theo đường xưa mây trắng lên chùa Đồng, Tôi đi một mình trong đêm lạnh không trăng sao và thật tỉnh lặng với một đèn pin nhỏ trong tay, gậy trúc, khăn quàng cổ và ba lô. Tôi đã tới vòm đá hang cọp phía sau chùa Bảo Sái gần đỉnh chùa Đồng lúc ba giờ khuya và ngồi dưới chân Bụt Trần Nhân Tông với cảm giác thành tâm, an nhiên thật lạ, không lo âu và không phiền muộn. Nơi đây giờ này là lúc Trần Nhân Tông mất. Người từ chùa Hoa Yên lúc nữa đêm đã nhờ Bảo Sái, một danh tướng cận vệ và đại đệ tử thân tín, cõng Người lên đây. Bảy trăm năm sau, giữa đêm thiêng Yên Tử, đúng chính nơi và khoảng giờ lúc đức Nhân Tông mất, tôi lắng nghe tiếng lá cây gạo trên 700 tuổi rơi rất mỏng lúc canh khuya. Bóng của Phật Nhân Tông mờ mờ bình thản lưng đền. Lúc đó vụt hiện trong đầu tôi bài kệ “Cư trần lạc đạo” của đức Nhân Tông và bài thơ “đề Yên Tử sơn, Hoa Yên Tự” của Nguyễn Trãi văng vẳng thinh không thăm thẳm vô cùng …

        Hoàng Kim kính cẩn cảm nhận

        LÊN NON THIÊNG YÊN TỬ

        Tỉnh thức giữa đêm thiêng Yên Tử
        Để thấm hiểu đức Nhân Tông
        Ta thành tâm đi bộ
        Lên tận đỉnh chùa Đồng
        Tâm sáng Ức Trai trong tựa ngọc

        “Yên sơn sơn thượng tối cao phong
        Tài ngũ canh sơ nhật chính hồng
        Vũ trụ nhãn cùng thương hải ngoại
        Tiếu đàm nhân tại bích vân trung
        Ủng môn ngọc sóc sâm thiên mẫu
        Quải ngọc châu lưu lạc bán không
        Nhân miếu đương niên di tích tại
        Bạch hào quang lý đổ trùng đồng” (1)

        Non thiêng Yên Tử đỉnh kỳ phong
        Trời mới ban mai đã rạng hồng
        Vũ trụ mắt soi ngoài biển cả
        Nói cười lồng lộng giữa không trung
        Giáo ngọc quanh nhà giăng vạn khoảnh
        Cỏ cây chen đá rũ tầng không
        Nhân Tông bảo tháp còn lưu dấu
        Mắt sáng hào quang tỏa ánh đồng. (2)

        Non thiêng Yên Tử
        Nghìn năm Thăng Long, Đông Đô, Hà Nôi
        Bảy trăm năm đức Nhân Tông
        Non sông bao cảnh đổi
        Kế sách một chữ Đồng
        Lồng lộng gương trời buổi sớm
        Trong ngần, thăm thẳm, mênh mông …

        * (1) Thơ Nguyễn Trải (2) Bản dịch thơ của Hoàng Kim
        Nguồn: THUNG DUNG thơ văn Hoàng Kim Lên non thiêng Yên Tử (2011)
        https://thungdung.wordpress.com/yentu/

        SÔNG NÚI LƯU ÂN TÌNH

        Thương nước biết ơn bao người ngọc (*)
        Vì dân qua bến nhẹ tênh lòng
        Nhớ bao tài đức đời phiêu dạt
        Ân tình lưu mãi những dòng sông.

        (*) An Tư, Huyền Trân, Ngọc Hoa, Ngọc Vạn, …

        TÌM VỀ ĐỨC NHÂN TÔNG

        Kinh Dịch xem chơi, yêu tính sáng yêu hơn châu báu.
        Sách Nhàn đọc giấu, trọng lòng rồi trọng nữa hoàng kim…
        (Trần Nhân Tông)

        Người ơi con đến đây tìm
        Non thiêng Yên Tử như tranh họa đồ
        Núi cao trùng điệp nhấp nhô
        Trời xuân bảng lãng chuông chùa Hoa Yên

        Thầy còn dạo bước cõi tiên
        Con ươm mầm sống xanh thêm ruộng vườn
        Mang cây lộc trúc về Nam
        Ken dày phên giậu ở miền xa xôi

        Cư trần lạc đạo Người ơi
        Tùy duyên vui đạo sống đời thung dung
        Hành trang Thượng sĩ Tuệ Trung
        Kỳ Lân thiền viện cành vươn ra ngoài

        An Kỳ Sinh trấn giữa trời
        Thơ Thiền lưu dấu muôn đời nước non …

        BIỂN HỒ NGỌC TÂY NGUYÊN

        “Mây núi nào không bay cạnh núi,
        Sóng nào chẳng ở chốn xa khơi.” (1)
        Ban mai nắng hửng Tiên Sơn đẹp
        Vàng sáng trời quang Biển Hồ ơi.

        Dấu xưa Đêm Yên Tử
        Thơ Thiền Trần Nhân Tông
        Lên non thiêng Yên Tử
        Sông núi lưu ân tình
        Tìm về đức Nhân Tông
        Biển Hồ Ngọc Tây Nguyên

        Bạch Ngọc
        tiếp dẫn thơ Tuệ Trung Thượng Sĩ (1)
        ảnh Chùa Bửu Minh

        Tài liệu trích dẫn

        TRẦN NHÂN TÔNG (1247-1308):
        MINH QUÂN VÀ ĐẠO SĨ
        biên khảo của Nguyễn Đức Hiệp
        (Nguồn:
        https://nghiencuulichsu.com/2012/10/02/tran-nhan-tong-1247-1308-minh-quan-va-dao-si/)

        “Nhà ta vốn là dân hạ bạn
        đời đời ưa chuộng việc hùng dũng”
        Trần Nhân Tông

        Trong lịch sử Việt Nam, có những vị vua giỏi giang cáng đáng và lãnh đạo nước trong những tình huống khó khăn. Trần Nhân Tông là một trong những vị vua đầu khai triều và xây dựng nhà Trần. Triều ông là giai đoạn cực thịnh nhất của nhà Trần. Ông lãnh đạo nước trong những thời kỳ gay cấn nhất của lịch sử Việt Nam: chiến tranh xâm lược của đạo quân Mông Cổ gieo rắc kinh hoàng ở khắp lục địa Á-Âu.

        Trong hai cuộc xâm lăng của Mông Cổ lần hai và lần ba, ông đã cùng tướng sĩ và nhân dân đối phó và đánh bại giặc. Ông là người mở ra Hội nghị Diên Hồng hỏi ý kiến toàn dân và cùng nhân dân đối kháng địch. Trần Nhân Tông không những là vị vua cương chính và gần dân mà còn là một đạo sĩ Phật giáo hiền tài, một trong ba sư tổ sáng lập ra trường phái Trúc Lâm duy nhất ở Việt Nam.

        1- Con người và sự nghiệp

        (a) Bản chất con người

        Thái tử Trần Khâm tức Trần Nhân Tông lên ngôi vua thay thế Thượng Hoàng Thanh Tông năm 1279. Ông là một vị vua có cốt ở dân và có một târn hồn Việt cội rễ. Ẩn tàng trong ông là ý thức về nguồn, gợi nhớ gốc tổ Rồng Tiên, như lời ông từng nói với con Trần Anh Tông và Quốc Công Trần Quốc Tuấn: “Nhà ta vốn là dân hạ bạn, đời đời ưa chuộng việc hùng dũng… thích hình rồng vào đùi để tỏ ra không quên gốc.” Tục xăm hình rất phổ biến trong dân gian Việt Nam từ thời Hùng Vương, đến đời Trần Nhân Tông thì phát triển mạnh mẽ. Từ vua quan đến quân dân đều vẽ xâm hình rồng trước bụng, sau lưng và hai vế đùi. Lúc này người ta chẳng những quan niệm xâm hình rồng để khi xuống nước không bị giao long làm hại mà còn ngầm nhắc nhở nhau về một nguồn gốc như lời vua nhắn nhủ.

        Tục này thịnh hành đến nổi người Trung Hoa trông thấy gọi là “thái long” tức rồng vẽ. Theo sứ nhà Nguyên Trần Phụ, thì mỗi người dân Đại Việt còn thích chữ “Nghĩa di quyền phụ, hình vu báo quốc” (Vì việc nghĩa mà liều thân, vì ơn nước mà báo đền). Điều này cho thấy dưới đời vua Trần Nhân Tông, quân dân đều một lòng và tụ tập quanh một ông vua có căn cơ là gốc dân.

        (b) Tư cách lãnh đao

        Nhân Tông là một vị vua anh minh, biết dùng và trọng dụng nhân tài. Đời ông, nhân tài, anh hùng, tuấn kiệt lũ luợt kéo ra giúp nước, lòng người như một. Bên ông, về quốc triều có Thái sư Trần Quang Khải, về binh sự có các danh tướng Trần Quốc Tuấn, Trần Quốc Toản, Phạm Ngũ Lão, Trần Khánh Dư, Trần Nhật Duật .., về văn học có các văn thi sĩ uyên bác như Nguyễn Thuyên, Trương Hán Siêu, Mạc Đĩnh Chi. Riêng Nguyễn Thuyên là người khởi đầu dùng chữ Nôm làm thơ phú, văn hay như Hàn Dũ bên Trung Quốc ngày xưa nên Nhân Tông cho đổi tên là họ Hàn.

        Sự hiểu người và dùng người của ông được thể hiện qua một câu chuyện tiêu biểu sau. Trong không khí khẩn trương, khi con trai của Hốt Tất Liệt là Thái tử Thoát Hoan đang sôi sục căm hờn điều động binh mã ở biên thùy để sửa soạn tràn vào Đại Việt. Vào một ngày cuối năm Nhâm Ngọ (1282), tại bến Bình Than có một cuộc họp lịch sử giữa vua Trần Nhân Tông và các tướng sĩ. Giữa lúc vua Nhân Tông và mọi người đang bàn bạc sôi nổi, vua chợt nhìn ra ngoài sông và thoáng thấy một chiếc thuyền lớn chở đầy than theo dòng đổ về xuôi. Nhác thấy trên thuyền có một người đội nón lá, mặc áo ngắn, ngộ ngộ trông như người quen, vua bèn chỉ và hỏi quan thi thần:

        – Người kia có phải là Nhân Huệ Vương không?

        Rồi lập tức sai quân chèo thuyền nhỏ đuổi theo. Nhưng lát sau chỉ thấy quân trở về không, tâu với vua là ông lái ngang bướng ấy không chịu đến mà chỉ trả lời rằng:

        – Lão già này là người bán than, có việc gì mà vua gọi đến!

        Nghe thấy thế, các quan rất đổi ngạc nhiên và lo cho người bán than, cái tội khi quân mạn thượng này dù xử nhẹ cũng phải dăm chục trượng là ít. Nhưng Nhân Tông vẫn tươi cười mà rằng:

        – Thế thì đúng là Nhân Huệ Vương rồi, người thường không dám trả lời ta như thế!

        Rồi sai nội thị đi gọi: lần này “lão ta” chịu đến. Vua quan nhìn ra thì đích thị không sai. Người lái thuyền bán than đó chính là Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư. Đội chiếc nón lá và bận tấrn áo nâu ngắn bạc phếch, quần xắn tới đầu gối, trông ông ta thật phong trần. Nhưng lạ thay, cuộc sống lam lũ vẫn không làm mất được cái vẻ tinh anh quắc thước và dáng dấp hiên ngang ở người tướng vũ dũng của cuộc kháng chiến chống Mông Cổ năm xưa, vì nóng tính và trót phạm lỗi với triều đình nên bị cách chức và tịch thu gia sản. Chuyến đi hôrn nay của ông tình cờ lại hóa hay

        – Thế nào, liệu khanh còn đủ sức đánh giặc hay không? – Nhân Tông ướm hỏi.

        Nghe thấy hai chữ “đánh giặc”, mắt Trần Khánh Dư vụt sáng:

        – Dạ, thần còn đủ sức. Mấy năm nay vung rìu đẵn gỗ, cánh tay thần xern ra còn rắng rỏi hơn xưa.

        Nhân Tông cười vui vẻ và ngợi khen:

        – Quả là gan Trần Khánh Dư còn bền hơn sắt đá. Được rồi còn phải xem khanh lập công chuộc tội ra sao?

        Đoạn xuống chiếu tha tội cho Trần Khánh Dư, ban mũ áo, phong làm phó tướng quân rồi cho ngồi ở ghế cuối hàng vương để bàn việc nước. Thế là triều đình lại có thêm được một người tài giỏi đứng ra phò vua giúp nước.

        Sự dùng người của Nhân Tông như thế xứng đáng phong cách của một người lãnh đạo: hiểu và dùng người đúng chỗ.

        (c) Cách cư xử người

        Trần Nhân Tông là một vị vua khí khái và nhân đức. Đối diện với bao phong ba bão táp, ông lãnh đạo tướng sĩ và nhân dân chống đỡ những cơn hiểrn nguy. Nhưng không lúc nào là ông không để ý đến tình trạng của quân dân.

        Khi quân Mông Cổ với khí thế hung tàn tràn vào Đại Việt, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn vì kém thế thua chạy rút về Vạn Kiếp. Nhân Tông nghe Hưng Đạo Vương thua, liền ngự một chiếc thuyền nhỏ xuống Hải Dương rồi cho vời Hưng Đạo Vương đến bàn việc, nhân thấy quân mình thua, trong bụng không yên, mới bảo Hưng Đạo Vương rằng:

        – Thế giặc to như vậy, mà chống nó thì dân sự tàn hại, hay là trẫm hãy chịu hàng đi để cứu muôn dân?

        Hưng Đạo Vương tâu rằng:

        – Bệ hạ nói câu ấy thì thật là nhân đức, nhưng mà tôn miếu xã ­tắc thi sao? Nếu bệ hạ muốn hàng, xin trước hãy chém đầu tôi đi đã, rồi sau sẽ hàng.

        Nhân Tông nghe lời nói trung liệt như vậy, trong bụng mới yên.

        Cũng vậy, đối với quân thù, trong trận chiến thắng lịch sử của quân ta ở Tây Kết (Khoái Châu, Hải Hưng), tướng giặc là Toa Đô bị trúng tên chết và Ô Mã Nhi phải chốn chui xuống thuyền vượt biển chạy về Trung Quốc. Khi các tướng thắng trận đưa đầu Toa Đô về nộp, Nhân Tông thấy người dũng kiện mà lại hết lòng với chúa, nên xúc động mới than rằng: “Làm bầy tôi nên như người này” rồi cởi áo ngự bào đắp vào đầu Toa Đô, sai quân dùng lễ mai táng cho tử tế.

        Khi bóng quân Mông Cổ không còn trên đất Nam, triều đình bắt được một tráp chứa các biểu hàng của một số quan. Số là khi quân giặc đang cường thịnh, triều thần lắm kẻ hai lòng, có giấy má đi lại với chúng. Đình thần muốn lục tráp ra để trị tội, nhưng Nhân Tông và Thánh Tông Thượng Hoàng nghĩ xa đến sự hoà giãi dân tộc nên sai đem đốt cả tráp đi cho yên lòng mọi người và cùng nhau xây dựng lại cố đô. Duy chỉ những người thực sự hàng và hợp tác với giặc mới bị trị tội.

        (d) Trị nước

        Trách nhiệm giữ nước đã xong, Nhân Tông còn phải lo việc ngoại giao với giặc và xây dựng lại đất nước và con người. Với nhà Nguyên, Mông Cổ, vua không kiêu căng khi thắng, mà hoà khí, khiêm nhượng nhưng nhân chính. Sự tàn phá của quân Mông Cổ thật nặng nề đến nổi, lúc chiến thắng trở về Thăng Long, vua không còn cung điện để ở mà phải tạm trú ở Lăng thị vệ. Trong tờ biểu gởi Hốt Tất Liêt, Nhân Tông đã phải viết: “đốt phá hết chùa miếu trong nước, khai quật phần mộ tổ tiên, cướp bóc dân gian, phá phách sản nghiệp trăm họ, mọi tàn ác không việc nào trừ …”.

        Hậu quả của chiến tranh tàn khốc như vậy cho nên phải có chính sách an dân và ủy lạo dân. Sau cuộc chiến, Nhân Tông xuống chiếu đại xá cho thiên hạ. Nơi nào bị địch đốt phá thì tha tô ruộng và tạp dịch toàn phần, các chỗ khác thì xét miễn giảm theo thứ bậc khác nhau. Chinh sách khéo léo và có tầm nhìn xa này, thể hiện một tinh thần thương dân và ở một đầu óc có tư tưởng đầu tư xây dựng lâu dài, đã được kể lại trong quyển “Long thành dật sự” như sau:

        Sau chiến tranh, thành Thăng Long nhiều đoạn bị san bằng, vua Nhân Tông định hạ chỉ gấp rút xây lại thành trì. Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn can rằng: “Việc sửa lại thành trì không cần kíp lắm. Việc cần kíp của triều đình phải làm ngay không thể chậm trễ được là việc ủy lạo nhân dân. Hơn 4 năm, quân giặc hai lần tràn sang quấy rối, từ nơi núi rừng đến nơi đồng ruộng, đều bị tàn phá hầu hết. Vậy mà nhân dân vẫn một lòng hướng về triều đình, xuất tài, xuất lộc, đi lính và đóng thuế, làm nên một lực lượng mạnh cho triều đình chống nhau với giặc. Nay nhà vua được trở về yên ổn. Việc làm trước hết là chú ý ngay đến dân, những nơi nào bị tàn phá, tuỳ tình trạng nặng nhẹ mà cứu tế; nơi nào bị tàn phá quá nặng, có thể miễn tô thuế mấy năm. Có như thế dân mới nức lòng càng quy hướng về triều đình hơn nữa. Người xưa đã nói: “chúng chí thành thành” nghĩa là ý chí của dân là một bức thành kiên cố. Đó mới là cái thành cần sửa chữa ngay, xin nhà vua xử lý.”

        Vua Nhân Tông vui vẻ nghe theo lời khuyên của Trần Quốc Tuấn. Đây cũng là một bài học quan trọng mà gần đây chúng ta đã không nắm mà nguy hơn nữa là đã làm ngược lại.

        Cũng vậy để cải tổ bộ máy hành chánh, và thúc đẩy nền kinh tế giúp dân giàu mạnh. Trần Nhân Tông quyết định giảm thủ tục, các quan lộc và quan liêu trong nước. Trước một bộ máy quá lớn và quá nặng nề từ Thượng thư sảnh, Môn hạ sảnh, Nội mật viện, đến các quan, cac lục bộ, các cục (Nội thư hoả cục, Chi hậu cục..), các đài (Ngự sử đài), các viện (Khu mật viện, Hàn lâm viện, Thẩm hình viện, Quốc sử viện, Thái y viện,..), các ty .. khiến Trần Nhân Tông phải thốt lên :

        ” Sao một nước bé bằng bàn tay mà phong nhiều quan thế! “

        Lại một lần nữa, vấn đề này cũng là vấn đề mà hiện nay chúng ta đang trực tiếp đối diện

        (e) Trung hiếu và gia huấn

        Trần Nhân Tông coi việc trung hiếu là quan trọng hàng đầu. Đối với thượng hoàng và các bề trên ông đều hết lòng đáp nghĩa. Ông thường lễ long trọng hàng năm trước các lăng tiền bối. Bài thơ của ông làm lúc về bái yết lăng ông nội Trần Thái Tông vẫn còn để lại trong sử sách.

        Trượng vệ thiên môn túc
        Y quan thất phẩm thông ..

        (Qua nghìn cửa chào nghiêm túc,
        Đủ áo mũ các quan của bảy chức ..)

        Khi ông là Thượng hoàng, đối với con ông là Trần Anh Tông, ông để tự do nhưng đều khuyên bảo những điều nhân đức về phép trị dân. Sử sách chép rằng, Anh Tông là người có hiếu nhưng thường uống rượu và lẻn đi chơi đêm khắp kinh thành, đến gà gáy mới về. Vì thế có lúc Nhân Tông phải có thái độ cứng rắn.

        Tháng năm năm Kỷ Hợi (1299), vua Anh Tông uống rượu xương bồ say quá. Thượng hoàng Nhân Tông từ phủ Thiên Trường (Nam Định), nơi các Thượng hoàng thường ở an dưỡng, về kinh sư, quan trong triều không ai biết cả. Nhân Tông thong thả xem khắp các cung điện, từ sáng đến trưa. Người trong cung dâng cơm, Nhân Tông ngoãnh trông, không thấy vua, ngạc nhiên hỏi ở đâu?

        Cung nhân vào đánh thức nhưng vua say quá không tỉnh. Ông giận lắm, trở về Thiên Trường ngay, xuống chiếu cho các quan ngày mai đến họp ở phủ Thiên Trường. Đến chiều, vua Anh Tông mới tỉnh, biết Thượng Hoàng về kinh, sợ hải quá, vội vàng chạy ra ngoài cung gặp một người học trò tên Đoàn Nhữ Hài, mượn thảo bài biểu để dâng lên tạ tội, rồi cùng với Nhữ Hài xuống thuyền đi suốt đêm đến phủ Thiên Trường. Nhân Tông xem biểu rồi quở mắng một lúc, và tha lỗi cho Anh Tông. Từ đó vua Anh Tông không uống rượu nữa.

        2- Xuất thế và thơ văn

        Sau khi quân xâm lăng Nguyên Mông Cổ không còn dám có tham vọng chiếm Đại Việt, năm năm sau (1293) Trần Nhân Tông nhường ngôi cho con ở Thăng Long rồi rút về Thiên Trường đi ngao du và bắt đầu xuất thế. Trước lúc đó, ông đã là một nhà đạo sĩ và thi văn nổi tiếng đời Trần. Đời của ông lúc này chuyển qua một giai đoạn khác, việc nước và gia đình đã xong giờ đến việc mình và đời sống tinh thần của bản thân.

        Ông cùng các đệ tử của mình lên núi Yên Tử (Quảng Ninh) xây dựng các chùa. Một trong những chùa nổi tiếng nhất là chùa Hoa Yên. Ông là vị “tổ” đã có công lớn trong việc xây dựng nên phái Phật giáo ở vùng Yên Tử Sơn này. Trần Nhân Tông, cùng sư Pháp Hoa và sư Huyền Quang là tam tổ của trường phái Trúc Lâm và thường được goi là phái Trúc Lâm Tam Tổ vì chỉ riêng ở Việt Nam mới có.

        Sự nhập thiền của Trần Nhân Tông không phải là một tiêu cực yếm thế. Thiền Trúc Lâm mang một hinh thái nữa có nữa không, nữa thực nữa hư và có một tinh thần biện chứng tích cực. Một thiền Phật giáo nhập thế mà tất cả mọi người dân đều có thể áp dụng theo đuổi ở mọi nơi, mọi lúc trong đời sống không phải chỉ ở cửa chùa. Bắt nguồn từ thiền Vô Ngôn thông, quan điểm cơ bản của thiền Trúc lâm là “tức tâm tức Phật”, Phật ở tâm, ở trong ta, khi đốn ngộ thì ta là Phật và Phật là ta. Từ Yên Tử Sơn, lâu lâu Nhân Tông đi ngao du các nơi, thăm thắng cảnh thanh bình của quê hương mình. Lúc qua Thiên Trường vào một buổi chiều, trong cảnh tranh tối tranh sáng của đồng quê Việt Nam, dưới con mắt Thiền của mình, ông đã xúc cảm làm một bài thơ tựa đề “Thiên Trường vãn vọng”

        Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên
        Bán vô bán hữu tịch dương biên
        Mục đồng địch lý quy ngưu tận
        Bạch lộ song song phi hạ điền

        (Xóm trước thôn sau tựa khói lồng
        Bóng chiều dường có lại dường không
        Mục đồng sáo vẵng trâu về hết
        Cò trắng từng đôi hạ xuống đồng)

        Những buổi chiều của đồng quê Việt Nam đẹp đẽ và yên tỉnh như kia là một hiện thực, đã có từ nghin năm nay trong đời sống nhân dân, và đã tác động mạnh mẽ vào một tâm hồn Việt cội rễ của đạo sĩ Trần Nhân Tông.

        Danh tiếng của đạo sĩ Trần Nhân Tông vang lừng khắp Đại Việt đến tận đất Chiêm Thành. Trong cuộc thăm viếng lịch sử chưa từng có của một Thượng hoàng nước Đại Việt, cả Chiêm Thành từ vua quan đến nhân dân một lòng tôn kính một hiền sĩ từ phương xa ghé vào. Nhân Tông cũng xúc động và học hỏi nhiều từ một nền văn minh khác. Đối với ông, con người đâu đâu cũng vậy. Biên giới chỉ là một hàng rào giã tạo đặt ra bởi sự không thông hiểu giữa con người. Ông đã nhin xa và muốn thắt chặt t&igravXem tiếp >>

          Dạy và học 25 tháng 9(25-09-2021)

         

        Thiên nhiên là thú thần tiên

        DẠY VÀ HỌC 25 THÁNG 9
        Hoàng Kim
        CNM365 Tình yêu cuộc sốngThiên nhiên là thú thần tiên; Vui đi dưới mặt trời, Đá Đứng chốn sông thiêng; Đợi nắng; Ta về với Linh Giang; Hoa Đất, Đất Mẹ vùng di sản; Nguồn Son nối Phong Nha; Linh Giang Đình Minh Lệ; Nguyễn Du Nguyễn Công Trứ; Trần Khánh Dư vẹn kiếp; Kim Dung trong ngày mới; Ngày 25 tháng 9 năm 1951, Chiến tranh Đông Dương: Lực lượng Việt Minh vượt sông Hồng tiến vào khu vực Tây Bắc, mở đầu Chiến dịch Lý Thường Kiệt. Ngày 25 tháng 9 năm 1881, ngày sinh Lỗ Tấn, nhà văn Trung Quốc.Ngày 25 tháng 9 năm 1982, ngày mất Đặng Thai Mai, giáo sư, nhà giáo, nhà phê bình văn học Việt Nam, nguyên là Bộ trưởng Bộ Giáo Dục, và Viện trưởng đầu tiên Viện Văn Học Việt Nam. Bài chọn lọc ngày 25 tháng 9: Thiên nhiên là thú thần tiên;Vui đi dưới mặt trời, Đá Đứng chốn sông thiêng; Đợi nắng; Ta về với Linh Giang; Hoa Đất, Đất Mẹ vùng di sản; Nguồn Son nối Phong Nha; Linh Giang Đình Minh Lệ; Nguyễn Du Nguyễn Công Trứ; Trần Khánh Dư vẹn kiếp; Kim Dung trong ngày mới; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-25-thang-9/

        THIÊN NHIÊN LÀ THÚ THẦN TIÊN
        Hoàng Kim

        Thiên nhiên là thú thần tiên
        Chân quê là chốn bình yên đời mình
        Bạn hiền bia miệng anh linh
        Thảnh thơi hưởng trọn ân tình thế gian.

        Thien nhien la thu than tien 3
        Thien nhien la thu than tien 4
        Thien nhien la thu than tien 5
        haydivephiamattroihk

        VUI ĐI DƯỚI MẶT TRỜI
        Hoàng Kim

        Hãy lên đường đi em
        Ban mai vừa mới rạng
        Vui đi dưới mặt trời
        Một niềm tin thắp lửa

        Ta như ong làm mật
        Cuộc đời đầy hương hoa
        Thời an nhiên vẫy gọi
        Vui đời khỏe cho ta.

        ĐÁ ĐỨNG CHỐN SÔNG THIÊNG
        Hoàng Kim

        Hoàng Minh Thuần viết: Dạ anh. Em cũng nghĩ khai thác được tour du lịch sông nước kết hơp thắng cảnh từ Cầu sông Gianh lên Ba Đồn, Chợ Mới, bến Lội đền Bốn Miếu, bến chợ Troóc, Phong Nha – Kẽ Bàng, động Thiên Đường, động Sơn Đoòng chẳng khác gì thắng cảnh TRÀNG AN… là điều kiện thuận lợi để quê mình phát triển.

        Kim Hoàng Hoàng Minh Thuần ạ. Tất cả những góp ý và bình luận này mình ghi chú vào bài viết (*). Mời đọc tiếp bài Đá Đứng chốn sông thiêng Làng Minh Lệ quê tôi; Đất Mẹ vùng di sản; Nguồn Son nối Phong Nha. Linh Giang Đình Minh Lệ. Đá Đứng chốn sông thiêng. Tiếp theo kỳ trước

        – Không phải ngẫu nhiên mà Pháp chọn Đà Nẵng làm điểm khởi đầu trong kế hoạch đánh chiếm Việt Nam đâu. Có lý cả đấy ! Vì Kinh đô Huế nằm ở Bắc Hải Vân mà thế lực thông thuộc của Nhà Nguyễn chính là đất phương Nam trong khi Hoàng Sơn Linh Giang Lũy Thầy lại lại che chắn Huế ở mặt Bắc kinh đô Huế nên Pháp không chọn đánh Thanh Khê đó thôi- Nhưng đó cũng là hiểm địa, bẻ đôi Việt Nam. Ông già mù nói

        . Cụ nói đúng, Bố tôi lập tức nhỏm dậy/ .Vì tôi đã bị bắt đi đi lính Pháp để đưa sang đánh nhau bên Tây, đóng quân ở Đà Nẵng bền sông Hàn, sau đó tôi trốn theo Vệ Quốc Đoàn nên rất thông thuộc địa hình đó. Pháp nếu đứng chân được ở Đà Nẵng thì chẹn được mặt Nam, cô lập kinh thành Huế, mẹo ‘đánh rắn giập đầu’ rất mau thắng được dân Nam.

        – Trận Đà Nẵng năm 1857 tụi Pháp thua. Cha tôi nói. – Vì tướng Nguyễn Tri Phương giỏi cầm quân, Ông ấy tránh đánh trực diện mà dùng phục binh, lập kế ‘đóng cửa đánh chó’ làm vườn không, nhà trống” triệt hết đường tiếp tế của địch, cách ly và xử nghiêm tụi gián điệp đội lốt giáo sĩ, giáo dân. Ông lại cho đắp lũy kiểu như Lũy Thầy, bao vây chẹn họng địch ra biển, vây đánh trường kỳ không cần thắng nhanh, nên trận Đà Nẵng bên mình thắng Pháp phải chuyển vào đánh thành Gia Định, chiếm dần đất mình từ phương Nam theo kiểu tằm ăn lá dâu..

        – Ông giỏi sử thiệt. Cụ già khen.

        – Tôi ít học nhưng rất thích đọc sách Tam Quốc. Cha tôi nói : – Tôi thông gia với ông mẹt Rịnh thường kêu thằng Kim đọc sách Tam Quốc cho tôi và ông Rịnh nghe. Hôm nào ông Rịnh hoặc ông Thìn đến chơi, tôi không khi nào không kêu thằng Kim đọc sách Tam Quốc và sách Kiều, đến mức nó thuộc và kể được đấy. Mẹ nó thì thích nhất Lục Vân Tiên kế đến Kiều và Phạm Công Cúc Hoa.

        – Cháu đọc cho ông nghe một đoạn nào? Cụ già nói.

        Tôi ngước mắt nhìn Mẹ, Mẹ tôi cười khuyến khích: – Con đọc đi

        Tôi đọc đoạn ông quán trong thơ Lục Vân Tiên mà mẹ thích:
        – Thương ông Gia Cát tài lành,
        Gặp cơn Hán mạt, đã đành phôi pha.
        Thương thầy Đồng tử cao xa,
        Chí thời có chí, ngôi mà không ngôi.

        Thương người Nguyên Lượng bùi ngùi,
        Lỡ bề giúp nước lại lui về cày.
        Thương ông Hàn Dũ chẳng may,
        Sớm dâng lời biểu tối đày đi xa.

        Thương thầy Liêm Lạc đã ra,
        Bị lời xua đuổi về nhà giáo dân.
        Xem qua kinh sử mấy lần,
        Nửa phần lại ghét, nửa phần lại thương.

        – Địch đánh vô Thanh Khê cửa Hác không dễ Bố tôi miên man kể. Ông nhớ thời lính tráng của ông: – Tôi dự nhiều trân đánh Pháp cùng thời và cùng đơn vị với Lâm Úy. Tôi ở đại đội 2 tiểu đoàn 274 của ông Lê Văn Tri làm tiểu đoàn trưởng thuộc Trung đoàn 18. Tôi vô sinh ra tử nhiều trận cùng anh em. Chỉ tiếc là đến năm 1951 bị đau bệnh sốt rét phù thủng ngã nước quá yếu trong khi đơn vị thiếu thốn thuốc men chữa trị và điều kiện chăm sóc nên trên mới phải cho giải ngũ về quê. Nếu không thì tôi đến nay đã nhất xanh cỏ nhì đỏ ngực rồi.

        – Ông Lê Văn Tri là người Cao Hạ cùng làng với tôi. sau này ông làm tướng rất to Cụ gìa nói

        – Trân Phú Trịch Là Hà, địa thế và cách dàn quân hai bên cũng lựa thế hiểm yếu như là trận Bạch Đằng. Voi trận của Đức Thánh Trần sa lầy ở Sông Hóa. Địa điểm cũng có các trận địa phục kích là các cồn và ngả ba sông hiểm yếu như Chợ Mới, La Hà Phú Trịch vậy. Lời thề trên sông Hóa “Chuyến đi này không thắng, ta thề thề không về lại nợ này!” cũng như trận Phú Trịch La Hà đội cảm tử chết như voi trận của đức Thánh Trần chết vậy. Cha tôi nói

        – Đá Đứng chốn sông thiêng Cầu Minh Lệ Rào Nan Bến Lội Đền Bốn Miếu là nơi rất rất hiểm. Ông già lại xuống giọng thầm thì. Ngã ba sông Chợ Mới là hiểm địa. Đá Đứng chốn sông thiêng là rất rất hiểm địa. Ông có biết vì sao đối diện Bến Lội Đền Bốn Miếu là động Ma Ca không? Thiêng lắm đấy, vì có quá nhiều người chết. Đây là nơi chính phân tranh từ nhiều đời. Thời Cao Vương lập đá Đứng bỏ bút thần. Thời Núi Đá Bia ngón tay minh sư thệ trời xanh bước qua lời nguyền chia cắt đấy. Giá máu xương cao lắm ! Chỗ cao giá hiểm nguy. Cụ già lặp lại.

        Cụ già quay sang tôi, bắt tôi nhắc lại mấy lời khẩu quyết. Cao cát Mạc sơn / Sơn Hà Cảnh Thổ / Văn Võ Cổ Kim / Linh Giang thông đại hải / Ngũ Lĩnh tiếp Cao Sơn / Đình Bảng Cao Lao Hạ / Miếu cổ thủy sơn thần./ …. Mắt ông rất thành khẩn. Hốc mắt ông dường như có nước mắt. Người ông khoan thai thần bí và trầm tĩnh lạ lùng. Tôi cẩn thận lặp lại. Cha mẹ tôi im nghe và tỏ vẻ khuyến khích con. Cụ già nói chậm rãi: Ông bà thay tên cho ’em’ đi: Hoàng Kim tốt hơn Hoàng Minh Kim. Ông tánh trung trực nghĩa khí, bà tánh đức độ, hiền từ, nhà có phước đức, sẽ thành dòng họ lớn ở phương xa, con cháu có quý tử, nhưng ông bà không được hưởng lộc con, nhưng theo con hưởng phúc và tổ tiên ông bả bảo bọc che chở cho con cháu.

        Cụ già dặn tôi “làm vàng ròng, ngọc cho đời, nên bớt sáng”. Đây là chuyện lạ của lời dặn thứ ba. Chuyện lạ đến mức anh hai Hoàng Ngọc Dộ đã quyết chọn
        Hoàng Kim làm tên gọi cho em từ lớp 10 sau khi cha mẹ mất và toàn gia lưu tán. Chuyện lạ này lưu trong chuyên mục Nguồn Son nối Phong Nha liên kết với các thư mục Làng Minh Lệ quê tôi; Đất Mẹ vùng di sản; Đá Đứng chốn sông thiêng Thông tin tại http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-24-thang-9/

        Tôi là người học sinh nhỏ tuổi cha mẹ mất sớm. Thầy Nguyễn Khoa Tịnh khóc trên bục giảng Thầy tăng tôi cuốn sách Trần Hưng Đạo Binh Thư Yếu Lược với lời đề tặng từ tuổi thơ để tôi lưu lại
        Lời dặn của Thánh Trần và thầy viết bài thơ Em ơi em can đảm bước chân lên lưu những bài thơ tuổi thơ của chính tôi cho tôi. Tôi được anh trai Hoàng Ngọc Dộ và chị gái Hoàng Thị Huyền bảo bọc cưu mang từ nhỏ khi cha mẹ mất sớm, chị gái Hoàng Thị Huyên đã lấy chồng và anh trai Hoàng Trung Trực dấu chân người lính giữa chiến trường, Tôi gạt nước mắt ra đi, thề trước mộ cha mẹ theo Lời dặn của Thánh Trần với Lời thề trên sông Hóa. Thật xúc động ngày về quê tảo mộ tổ tiên Quảng Bình đất Mẹ ơn Người, trời đất tổ tông linh thiêng đã lặng thầm phù trợ,

        EM ƠI EM CAN ĐẢM BƯỚC CHÂN LÊN
        Nguyễn Khoa Tịnh

        Thầy ước mong em noi gương Quốc Tuấn

        Đọc thơ em, tim tôi thắt lại
        Lòng nghẹn ngào, nước mắt chảy rưng rưng
        Nửa xót xa nhưng nửa lại vui mừng
        Xót xa vì đời em còn thơ dại
        Mới tuổi thơ mà cuộc đời đầy khổ ải
        Mới biết cười đã phải sống mồ côi
        Như chiếc thuyền giữa biển tự trôi
        Như chiếc lá bay về nơi vô định
        “Bụng đói” viết ra thơ em vịnh:

        “Cơm ngày một bữa sắn trộn khoai
        Có biết lòng ta bấy hỡi ai?
        Vơi vơi lòng dạ, cồn cào bụng
        Kể chi no đói, mặc ngày dài”

        Phải!
        Kể chi no đói mặc ngày dài
        Rất tự hào là thơ em sung sức
        Rất tự hào là em tôi đầy nghị lực
        Đã hiển lộ mình qua “Cái chảo rang”

        “Trung dũng ai bằng cái chảo rang
        Lửa to mới biết sáp hay vàng
        Xào nấu chiên kho đều vẹn cả
        Chua cay mặn ngọt giữ an toàn
        Ném tung chẳng vỡ như nồi đất
        Quăng bừa xó bếp vẫn nằm ngang
        Tốt đẹp đâu cần danh tiếng hão
        Bạn cùng lửa đỏ, nóng chang chang”

        Phải!
        Lửa to mới biết sáp hay vàng!
        Em hãy là vàng,
        Mặc ai chọn sáp!
        Tôi vui sướng cùng em
        Yêu giấc “Ngủ đồng
        Hiên ngang khí phách:

        “Sách truyền sướng nhất chức Quận công
        Ta sướng khi ra ngủ giữa đồng
        Lồng lộng trời hè muôn làn gió
        Đêm thanh sao sang mát thu không
        Nằm ngữa ung dung như khanh tướng
        Lấy mấy vần thơ tỏ nỗi lòng
        Tinh tú bao quanh hồn thời đại
        Ngủ đồng khoan khoái ngắm gương trong”

        Tôi biết chí em khi “Qua đèo Ngang
        Ung dung xướng họa với người anh hùng
        Đã làm quân thù khiếp sợ:

        “Ta đi qua đèo Ngang
        Cũng gặp Người trèo qua núi hiểm
        Đỉnh dốc chênh vênh
        Xe mù bụi cuốn
        Có lẽ thiên nhiên đã định bao giờ
        Một dãy Hoành Sơn bát ngát trận đồ
        Điệp điệp núi cao
        Trùng trùng rừng thẳm.
        Người thấy
        Súng gác trời xanh
        Gió lùa biển lớn
        Nông dân rộn rịp đường vui
        Thanh Quan nàng nhẽ có hay
        Cảnh mới đã thay cảnh cũ.
        Ta hay
        Máu chồng đất đỏ
        Mây cuốn dặm khơi
        Nhân công giọt giọt mồ hôi
        Hưng Đạo thầy ơi có biết
        Người nay nối chí người xưa

        Tới đây
        Nước biếc non xanh
        Biển rộng gió đùa khuấy nước
        Đi nữa
        Đèo sâu vực thẳm
        Núi cao mây giỡn chọc trời

        Nhớ thù nhà, luống thẹn làm trai
        Thương dân nước, thà sinh phận gái
        “Hoành Sơn cổ lũy”
        Hỏi đâu dấu tích phân tranh?
        Chỉ thấy non sông
        Lốc cuốn, bốn phương sấm động.

        Người vì việc nước ra đi
        Ta muốn cứu dân nên thăm trận thế
        Điều không hẹn mà xui gặp mặt
        Vô danh lại gặp hữu danh
        Cuộc đời dài ắt còn sẽ gặp nhau
        Nay hội ngộ giữa đỉnh cao trời đất
        Anh em ta ngự trên xe đạp
        Còn Người thì lại đáp com măng
        Đường xuyên sơn
        Anh hùng gặp anh hùng
        Nhìn sóng biển Đông
        Như ao trời dưới núi.

        Xin kính chào
        Bậc anh hùng tiền bối
        Ta ngưỡng mộ Người
        Và tỏ chí với non sông
        Mẹ hiền ơi!
        Tổ Quốc ơi!
        Xin tiếp bước anh hùng!”

        Hãy cố lên em!
        Noi gương danh nhân mà lập chí
        Ta với em
        Mình hãy kết thành đôi tri kỷ!
        Đất Quảng Trạch này đâu kém Nam Dương
        Tôi tự hào bài “Tỏ chí” của em:

        “Quốc Tuấn ngày xưa chí vững bền
        Thù nhà, nợ nước chẳng hề quên
        Đến bữa quên ăn, đêm quên ngủ
        Thương dân, yêu nước quyết báo đền
        Văn hay thu phục muôn người Việt
        Võ giỏi kinh hồn lũ tướng Nguyên
        Mươi năm sau nữa ơi ông Tuấn
        Nối chí ông, nay cháu tiến lên!”

        Tôi thương mến em
        Đã chịu khó luyện rèn
        Biết HỌC LÀM NGƯỜI !
        Học làm con hiếu thảo.
        Mười lăm tuổi đã “Tập làm thầy giáo

        “Vui gì hơn buổi đầu làm thầy giáo
        Của lớp vở lòng đất mẹ yêu thương
        Trưa nắng luyến các em cùng đến lớp
        Giọng líu lo như chim hót ven đường.

        Đứng trước các em tuổi nhỏ đáng yêu
        Mà đã tưởng tới bao nhiêu người lớn
        Nghe em đọc giọng thanh thanh dễ mến
        Mà đã nghe đất nước xuyến xao mình!”

        Tổ Quốc đang chờ em phía trước.
        Em ơi em, can đảm bước chân lên!

        Nguyễn Khoa Tịnh, 1970

        Tôi kể chuyện này đúng sự thật mà không dám lạm bàn, cũng không viết về chi tiết những lời ông già mù chỉ dẫn thuở ấy. Mời đọc chi tiết các đường link bài thơ Ta về với Linh Giang Đời tôi đã chứng kiến việc anh em và người thân của các cụ Nguyễn Ngọc Thừa (giáo sư địa chất nay cụ đã mất) Nguyễn Ngọc Hạp, Nguyễn Ngọc Huề đã tìm đến mộ cha mẹ tôi ngày nay tại Đồng Nai để thắp hương biết ơn cha mẹ tôi đã trung trực nghĩa khí đức độ hiền lương đắp mộ phần cho cụ Liệt sĩ Nguyễn Ngọc Xừ . Nghĩa cử được con cháu nhớ.

        Sử thi tâm linh là di sản văn hóa

        Hoàng Kim

        (*) Hoàng Minh Thuần viết.” Lời thầy bói bên Hạ Trạch phán khá đúng. Nhà này giờ Ngọ con chú Thìn đang ở”. Kim Hoàng trả lời: Mình chỉ viết sự thật mình ám ảnh về địa chí lịch sử văn hóa Đất Mẹ vùng di sản. Mình nghiệm thấy tuyến thủy lộ bến chợ Mới đến Bến chợ Ba Đồn, bến Lội đền Bốn Miếu, bến chợ Troóc Phong Nha Thiên Đường Sơn Đoòng không khác gì DI SẢN VĂN HÓA TRÀNG AN. Đất quý hiếm và hiểm “Hoành Linh vô gia huynh đệ tán”. May mà gia đình mình trôi giạt và tụ được Hoàng Gia Đất Phương Nam nhờ phúc ấm tổ tiên.Mời nghe tiếp và góp ý Đá Đứng chốn sông thiêng. Cuộc Đời mình thật may mắn được học những người thầy khai tâm sớm. Bữa cơm này dường như là bữa cơm khách đầu tiên và cuối cùng mình may được ăn cơm chung với ông già mù với cha mẹ trước khi cha mẹ mất. Bữa cơm đầy hiếu kỳ, lạ lùng, được nghe cổ tích huyền thoại và bắt học thuộc khẩu quyết, lại trong một hoàn cảnh rất đặc biệt được ăn xôi gà rất ngon sau bao tháng năm chỉ ăn khoai độn cơm. Được nghe nói lời cảm ơn rất chân thành của ông già mù đối với cha mẹ về bản tánh lương thiện nghĩa khí của cha, nhân từ của mẹ đã cứu vớt con ông. Vì vậy mình lắng nghe từng chữ, nuốt từng lời và ám ảnh mang theo suốt cuộc đời , không bao giờ quên. Đâu phải học nhiều, đọc nhiều, viết nhiều, trí tuệ cao mới ngộ được điều hay. Khai tâm là đặc biệt quý. Bất lập văn tự, Giáo ngoại biệt truyền. Trực chỉ nhân tâm. Kiến tánh thành Phật (Truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thánh Phật) Thiếu thất Lục Môn Đạt Ma, Mình mãi sau này mới hiểu.

        Hình ảnh này chưa có thuộc tính alt; tên tệp của nó là 2-nhatoi.jpg

        ĐỢI NẮNG
        Hoàng Kim


        Em đã yêu và tôi đã yêu
        Mình nối dài vần thơ có lửa
        Ta đã là máu thịt trong nhau
        Khắc khoải niềm thương nỗi nhớ …

        Người vợ nhớ chồng hóa đá Vọng Phu
        Người yêu nhớ người yêu thành hòn Trống Mái
        Núi Nhạn ngàn năm tháp Nhạn én bay về
        Đá Bia muôn đời trời xanh chỉ lối.

        Yên Tử non thiêng thăm thẳm một tầm nhìn
        Hải Vân ơi Người ở đừng về mà hóa đá
        Sông Hương ngập ngừng sông Hương nghẹn chảy
        Năm tháng qua rồi chỉ tình yêu ở lại mà thôi.

        Đợi nắng mùa đông
        Sưởi ấm tổ ấm Tình Thiên thu
        Tình yêu cao hơn sinh tử biệt li
        Tôi đã yêu và em đã yêu
        Em đã yêu và tôi đã yêu

        PhanChiThang

        MÙA THU HÔN TÔI
        Phan Chí Thắng


        Mùa thu ôm tôi
        Chặt hơn một người từng ôm người khác
        Bàn tay heo may luồn trong man mác
        Trên từng da thịt thấm đẫm hồn thu

        Người tình trăm năm mang bóng dáng mùa
        Mùa thu hôn tôi
        Nếp tháng năm hằn buồn theo khoé miệng
        Đuôi mắt kéo dài hồ thu lúng liếng
        Đang còn ngọn lửa bỏng cháy trưa hè

        Băng giá mùa đông đâu đó chưa về
        Mùa thu yêu tôi
        Bằng những cúc vàng không cần rực rỡ
        Lá níu cành sợ không xanh được nữa
        Làn sương phảng phất run tiếng chuông chùa

        Cuộc tình trăm năm ngất ngây giấc mơ thật đùa
        Tôi trong mùa thu
        Người đàn bà yêu đắm say tha thiết
        Mùa của dịu dàng mùa thu hôn tôi
        Tôi đã yêu và em đã yêu
        Em đã yêu và tôi đã yêu.

        Video và thông tin yêu thích
        Cách mạng sắn ở Việt Nam
        Giúp bà con cải thiện mùa vụ
        Vietnamese food paradise
        KimYouTube

        Trở về trang chính
        Hoàng Kim Long, Ngọc Phương NamThung dung Dạy và Học, Việt Nam Học, Cây Lương thực Việt Nam, Tình yêu Cuộc sống, CNM365; Kim on LinkedIn Kim on Facebook Kim on Twitter

        Xem tiếp >>

          Dạy và học 24 tháng 9(24-09-2021)

        DẠY VÀ HỌC 24 THÁNG 9
        Hoàng Kim
        CNM365 Tình yêu cuộc sốngĐá Đứng chốn sông thiêng; Hoa Đất của quê hương, Hoa Đất thương lời hiền; Đất Mẹ vùng di sản; Ta về với Linh Giang;Có một ngày như thế; Nguồn Son nối Phong Nha; Linh Giang Đình Minh Lệ; Champasak ngã ba biên giới; Mùa Thu trong thi ca; Bay lên nào Hải Âu; Nguyễn Du làm Ngư Tiều; Ngày 24 tháng 9 năm 1973 Ngày độc lập tại Guiné-Bissau; Ngày 24 tháng 9 năm 1946, Cathay Pacific được thành lập tại Hồng Kông, hiện là một trong những hãng hàng không lớn nhất thế giới.  Ngày 24 tháng 9 năm 1957 Sân vận động Camp Nou được khánh thành tại Barcelona, Tây Ban Nha, đây là sân vận động lớn nhất châu Âu. Ngày 24 tháng 9 năm 1997, Trần Đức Lương bắt đầu đảm nhiệm chức vụ Chủ tịch nước Việt Nam. Bài chọn lọc ngày 24 thang 9: Đá Đứng chốn sông thiêng; Hoa Đất của quê hương, Hoa Đất thương lời hiền; Đất Mẹ vùng di sản; Ta về với Linh Giang; Có một ngày như thế; Nguồn Son nối Phong Nha; Linh Giang Đình Minh Lệ; Champasak ngã ba biên giới; Mùa Thu trong thi ca; Bay lên nào Hải Âu; Nguyễn Du làm Ngư Tiều; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/ http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-24-thang-9/

        ĐÁ ĐỨNG CHỐN SÔNG THIÊNG
        Hoàng Kim

        Con về Đá Đứng Rào Nan
        Cồn Dưa Minh Lệ của làng quê hương
        Linh Giang chảy giữa vô thường
        Đôi bờ thăm thẳm nối đường tử sinh.

        Quê hương sông núi hữu tình
        Chính trung phúc hậu đinh ninh lời nguyền
        Không vì danh lợi đua chen
        Thù nhà nợ nước quyết rèn bản thân

        Ân tình nắm đất quê hương
        Công Cha nghĩa Mẹ lời thương dặn dò
        Đinh ninh như một lời thề
        Trọn đời trung hiếu để về dâng hương

        HOA ĐẤT CỦA QUÊ HƯƠNG
        Hoàng Kim

        Đất nặng ân tình đất nhớ thương
        Ta làm hoa đất của quê hương
        Để mai mưa nắng con đi học
        Lưu dấu chân trần với nước non.

        HOA ĐẤT THƯƠNG LỜI HIỀN
        Hoàng Kim

        Mẫu Phương Nam Tao Đàn
        Đường Huyền Trân Công Chúa
        Nam tiến của người Việt
        Hoa Đất thương lời hiền

        Người ta hoa đất
        An nhàn vô sự là tiên
        Thung dung cỏ hoa
        Thế giới người hiền

        Điền trúc măng ngon
        Hôm qua chăm mai
        Sớm nay hái nấm
        Chiều về thu măng.

        Thung dung thanh nhàn
        Sống giữa thiên nhiên
        Đọc bài cho em
        Vui cùng bạn quý

        Đọc sách dọn vườn
        Lánh chốn bon chen
        Thảnh thơi cuộc đời
        Chơi cùng hoa cỏ.

        Xưa lên non Yên Tử
        Mang lộc trúc về Nam
        Nay đến chốn thung dung
        Vui nhởn nhơ hái nấm.

        Ơn Thầy Ơn Bạn
        Lộc xuân cuộc đời
        Thung dung
        Hoa Lúa
        Phúc hậu, an nhiên,

        Minh triết, tận tâm
        Hoa NgườiHoa Đất
        Làm ngọc cho đời
        Đạo ẩn vô danh.

        *

        Mình là hoa của đất
        Ươm mầm xanh cho đời.
        Gieo yêu thương hi vọng
        Gặt hái những niềm vui.

        Thấm thoắt bao xuân qua
        Cùng nhau từ thuở ấy
        Lộc muộn ngày hôm nay
        Nhớ buổi đầu gieo cấy.

        Hàng trăm ngàn hec ta
        Bội thu từ giống mới .
        Nhìn bà con hân hoan
        Đường trần vui quên mỏi.

        *

        Nhà Trần trong sử Việt
        Lời dặn của Thánh Trần
        Yên Tử Trần Nhân Tông
        Chuyện cổ tích người lớn

        Chín điều lành hạnh phúc
        Một gia đình yêu thương
        Nguyễn Du trăng huyền thoại
        Trà sớm thương người hiền

        Việt Nam con đường xanh

        Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là hoadat3.jpg
        Gốc mai vàng trước ngõ
        Chuyện đồng dao cho em

        Ta vui đếm nhịp thời gian
        Thung dung nhàn giữa gian nan đời thường

        Sớm nào cũng dành nửa tiếng,
        Thung dung đếm nhịp thời gian.
        Thong thả chỉ thêu nên gấm,
        An nhiên việc tốt cứ làm.
        Thoáng chốc đường trần nhìn lại,
        Thanh nhàn vô sụ là tiên

        *

        Điểm nhịp thời gian đầy bút mực
        Thung dung năm tháng thảnh thơi nhàn
        Đất cảm trời thương người mến đức
        An nhiên thầy bạn quý bình an.

        Ngày mới đầy yêu thương
        Chuyện cũ chưa hề cũ
        An nhiên nhàn nét bút
        Thảnh thơi gieo đôi vần

        ĐẤT MẸ VÙNG DI SẢN
        Hoàng Kim

        Về Nghĩa Lĩnh, Đền Hùng
        Lên chùa Đồng Yên Tử
        Vào Tràng An Bái Đính
        Đến Kiếp Bạc Côn Sơn

        Đất Mẹ vùng di sản
        Đá Đứng chốn sông thiêng
        Bến Lội Đền Bốn Miếu
        Cầu Minh Lệ Rào Nan

        Linh Giang Đình Minh Lệ
        Nguồn Son nối Phong Nha
        Động Thiên Đường tuyệt đẹp
        Biển Nhật Lệ Quảng Bình

        Thương Kinh Bắc chốn xưa
        Nhớ Ô Châu cận lục
        Nam tiến của người Việt
        Hoa Đất thương lời hiền

         

        Hoành Sơn Linh Giang
        Cao Cát Mạc Sơn
        Sơn Hà Cảnh Thổ
        Văn Võ Cổ Kim

        Linh Giang thông Đại Hải
        Ngũ Lĩnh tiếp Cao Sơn
        Đình Bảng Cao Lao Hạ
        Miếu Cổ Thủy Sơn Thần

        Kiệt tác của trần gian
        Rồng Trường Sơn nhả ngọc
        Chợ Mới nối Phong Nha
        Chợ Mới nối Chợ Đồn
        Chợ Mới nối Đá Đứng
        Tuyến thủy bộ tuyệt vời
        .(*)

        Hiền tài canh trời đất
        Vũng Chùa bên Hòn La
        Biển xanh kề núi thẳm
        Mừng bạn về Quê Choa

        Quảng Bình là địa linh nhân kiệt, rung độ hai đầu đất nước, giao thoa và tiếp biến văn hoá lịch sử trên cả hai chiều Bắc Nam và Đông Tây. Đây là vùng danh thắng hang động và vùng rừng nguyên sinh có giá trị du lịch sinh thái rất nổi tiếng như Vườn quốc gia Phong Nha Kẻ Bàng, khu bảo tồn thiên nhiên Khe Nét, khu bảo tồn thiên nhiên núi Giăng Màn, khu bảo tồn thiên nhiên Khe Ve. Đây cũng là vùng cảnh quan hấp dẫn của nhiều cụm du lịch đầy tiềm năng như Đèo Ngang, Sông Roòn, vũng nước sâu Hòn La, Sông Gianh, Lèn Bảng, Minh Cầm, đèo Lý Hoà, sông Nhật Lệ, Luỹ Thầy, Sông Dinh, suối nước nóng Bang, Bàu Tró, phá Hạc Hải,… Quảng Bình cũng là vùng đất có nhiều người con lỗi lạc trong lịch sử dân tộc như Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Hữu Cảnh, Dương Văn An, Nguyễn Hàm Ninh, … Nay đón bạn về thăm, xin lưu lại chùm thơ và một số hình ảnh

        Ảnh

        Ta về với Linh GiangBài ca Trường Quảng TrạchĐèo Ngang thăm thẳm nhớLời thề trên sông HóaLời dặn của Thánh TrầnThượng Đức thương nhìn lạiĐào Duy Từ còn mãiCao Biền trong sử ViệtHoa Đất thương lời hiền

        TA VỀ VỚI LINH GIANG
        Hoàng Kim

        Ta về với Linh Giang
        Lời thề trên sông Hóa
        Ban mai đứng trước biển
        Ban mai trên sông Son

        Làng Minh Lệ quê tôi
        Đất Mẹ vùng di sản;
        Linh Giang, Đình Minh Lệ;
        Nguồn Son nối Phong Nha

        Hoành Sơn với Linh Giang
        Đá Đứng chốn sông thiêng
        Sông Nhật Lệ Lũy Thầy
        Tuyến ba tầng thủ hiểm

        Nam tiến của người Việt
        Cao Biền trong sử Việt
        Trúc Lâm Trần Nhân Tông
        Đào Duy Từ còn mãi

        Bài ca Trường Quảng Trạch
        Lời dặn của Thánh Trần
        Cuối dòng sông là biển
        Hoa Đất thương lời hiền

        Ta về với Linh Giang
        Sông đời thao thiết chảy…


        Bài và ảnh liên quan

        Làng Minh Lệ quê tôi

        Cầu Minh Lệ Rào Nan

         

         linh-giang-dong-song-que-huong

        LINH GIANG SÔNG QUÊ HƯƠNG
        Hoàng Kim

        Nhà mình gần ngã ba sông
        Rào Nan, chợ Mới, nguồn Son, Quảng Bình
        Linh Giang sông núi hữu tình
        Nơi đây cha mẹ sinh thành ra con

        “Chèo thuyền cho khuất bến Son
        Để con khỏi chộ nước non thêm buồn “

        Câu ru quặn thắt đời con
        Mẹ cha mất sớm, con còn trẻ thơ

        Ra đi từ bấy đến chừ
        Lặn trong sương khói bến đò sông quê
        Ngày xuân giữ vẹn lời thề
        Non sông mở cõi, tụ về trời Nam.

        Ta về với Linh Giang

        HOME RIVER

        Learning the attitude of water that goes like the river

        My house is near a confluence
        Rao Nan, Cho Moi, Nguon Son, Quang Binh
        Linh River charming Mountain River
        The place where I was born.

        “Rowing far away the SON wharf
        Not to see our village that makes me sadder “
        Lullaby makes me heart- rending
        My parents died early when I was a baby.

        Leaving our village since then
        Diving in smog from the wharf of our river
        Keeping full oath in Spring days
        When the country unify, we’ll live together in the South

        English translation
        by NgocphuongNam

        LINH RIVER
        Hoang Kim
        Learning the attitude of water that goes like the river

        By confluence sited is my home
        Rao Nam, Cho Moi, Nguon Son, Quang Binh
        Linh river of charming
        That is place releasing a person

        Rowing out of the Son
        Let is the upset not involved in my mind
        Such a sad lunlaby
        Parents is dead left five child barren

        Leaving home since then
        Smog of wharf is driven my life
        When Vietnam unified
        The South chosen the homeland to live.

        English translation
        by Vu Manh Hai

        LỜI THỀ TRÊN SÔNG HÓA
        Hoàng Kim


        Sông Hóa ơi Bạch Đằng Giang
        Ta đến nơi đây chẳng một lần
        Lời thề sông núi trời đất hiểu
        Lời dặn của Thánh Trần

        Sông Hóa ơi hời, ơi Linh Giang
        Quê hương liền dải tụ trời Nam
        Minh Lệ, Hưng Long hai bầu sữa
        Hoàng Gia trung chính một con đường.

        Rào Nan Đá Đứng chốn sông thiêng
        Nguồn Son Chợ Mới đẹp ân tình
        Minh Lệ đình xưa thương làng cũ
        Nguyện làm hoa đất của quê hương.

        Đất nặng ân tình đất nhớ thương
        Ta làm hoa đất của quê hương
        Để mai mưa nắng con đi học
        Lưu dấu chân trần với nước non.

        Cầu Minh Lệ Rào Nan

         

        Hoàng Minh Thuần

        viết: Dạ anh. Em cũng nghĩ khai thác được tour du lịch sông nước kết hơp thắng cảnh từ Cầu sông Gianh lên Ba Đồn, Chợ Mới, bến Lội đền Bốn Miếu, bến chợ Troóc, Phong Nha – Kẽ Bàng, động Thiên Đường, động Sơn Đoòng chẳng khác gì thắng cảnh TRÀNG AN… là điều kiện thuận lợi để quê mình phát triển.

        Kim Hoàng: @ Hoàng Minh Thuần ạ. bình luận này của bạn mình ghi chú vào bài viết (*). Mời đọc tiếp bài Đá Đứng chốn sông thiêng; Hoa Đất của quê hương, Hoa Đất thương lời hiền; Đất Mẹ vùng di sản; Ta về với Linh Giang; Nguồn Son nối Phong Nha; Thông tin tại http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-24-thang-9/

        Video yêu thích
        Secret Garden – Bí mật vườn thiêng 
        KimYouTube

        Trở về trang chính
        Hoàng Kim Long, Ngọc Phương NamThung dungDạy và Học, Việt Nam Học, Cây Lương thực Việt Nam, Tình yêu Cuộc sống, CNM365; Kim on LinkedIn Kim on Facebook Kim on Twitter

        – Không phải ngẫu nhiên mà Pháp chọn Đà Nẵng làm điểm khởi đầu trong kế hoạch đánh chiếm Việt Nam đâu. Có lý cả đấy ! Vì Kinh đô Huế nằm ở Bắc Hải Vân mà thế và lực với sự thông thuộc của Nhà Nguyễn chính là đất phương Nam trong khi Hoàng Sơn Linh Giang Lũy Thầy lại lại che chắn Huế ở mặt Bắc kinh đô Huế nên Pháp không chọn đánh Thanh Khê đó thôi – Nhưng đó cũng là hiểm địa, bẻ đôi Việt Nam. Ông già mù nói

        . Cụ nói đúng, Bố tôi lập tức nhỏm dậy/ .Vì tôi đã bị bắt đi đi lính Pháp để đưa sang đánh nhau bên Tây, đóng quân ở Đà Nẵng bền sông Hàn, sau đó tôi trốn theo Vệ Quốc Đoàn nên rất thông thuộc địa hình đó. Pháp nếu đứng chân được ở Đà Nẵng thì chẹn được mặt Nam, cô lập kinh thành Huế, mẹo ‘đánh rắn giập đầu’ rất mau thắng được dân Nam.

        – Trận Đà Nẵng năm 1857 tụi Pháp thua. Cha tôi nói. – Vì tướng Nguyễn Tri Phương giỏi cầm quân, Ông ấy tránh đánh trực diện mà dùng phục binh, lập kế ‘đóng cửa đánh chó’ làm vườn không, nhà trống” triệt hết đường tiếp tế của địch, cách ly và xử nghiêm tụi gián điệp đội lốt giáo sĩ, giáo dân. Ông lại cho đắp lũy kiểu như Lũy Thầy, bao vây chẹn họng địch ra biển, vây đánh trường kỳ không cần thắng nhanh, nên trận Đà Nẵng bên mình thắng Pháp phải chuyển vào đánh thành Gia Định, chiếm đần đất mình từ phương Nam.

        – Ông giỏi sử thiệt. Cụ già khen.

        – Tôi ít học nhưng rất thích đọc sách Tam Quốc. Cha tôi nói : – Tôi thông gia với ông mẹt Rịnh thường kêu thằng Kim đọc sách Tam Quốc cho tôi và ông Rịnh nghe. Hôm nào ông Rịnh hoặc ông Thìn đến chơi, không khi nào không kêu thằng Kim đọc sách Tam Quốc và sách Kiều, đến mức nó thuộc và kể được đấy. Mẹ nó thì mê nhất Lục Vân Tiên đến Kiều và Phạm Công Cúc Hoa. – Cháu đọc cho ông nghe một đoạn nào? Cụ già nói.

        Tôi ngước mắt nhìn Mẹ, Mẹ tôi cười khuyến khích: – Con đọc đi

        Tôi đọc đoạn ông quán trong thơ Lục Vân Tiên mà mẹ thích:
        – Thương ông Gia Cát tài lành,
        Gặp cơn Hán mạt, đã đành phôi pha.
        Thương thầy Đồng tử cao xa,
        Chí thời có chí, ngôi mà không ngôi.
        Thương người Nguyên Lượng bùi ngùi,
        Lỡ bề giúp nước lại lui về cày.
        Thương ông Hàn Dũ chẳng may,
        Sớm dâng lời biểu tối đày đi xa.
        Thương thầy Liêm Lạc đã ra,
        Bị lời xua đuổi về nhà giáo dân.
        Xem qua kinh sử mấy lần,
        Nửa phần lại ghét, nửa phần lại thương.

        – Địch đánh vô Thanh Khê cửa Hác không dễ Bố tôi miên man kể. Ông nhớ thời lính tráng của ông: – Tôi dự nhiều trân đánh Pháp cùng thời và cùng đơn vị với Lâm Úy. Tôi ở đại đội 2 tiểu đoàn 274 của ông Lê Văn Tri làm tiểu đoàn trưởng thuộc Trung đoàn 18. Tôi vô sinh ra tử nhiều trận cùng anh em. Chỉ tiếc là đến năm 1951 bị đau bệnh sốt rét phù thủng ngã nước quá yếu trong khi đơn vị thiếu thốn thuốc men chữa trị và điều kiện chăm sóc nên trên mới phải cho giải ngũ về quê. Nếu không thì tôi đến nay đã nhất xanh cỏ nhì đỏ ngực rồi.

        – Ông Lê Văn Tri là người Cao Hạ cùng làng với tôi. sau này ông làm tướng rất to Cụ gìa nói

        – Trân Phú Trịch Là Hà, địa thế và cách dàn quân hai bên cũng lựa thế hiểm yếu như là trận Bạch Đằng. Voi trận của Đức Thánh Trần sa lầy ở Sông Hóa. Địa điểm cũng có các trận địa phục kích là các cồn và ngả ba sông hiểm yếu như Chợ Mới, La Hà Phú Trịch vậy. Lời thề trên sông Hóa “Chuyến đi này không thắng, ta thề thề không về lại nợ này!” cũng như trận Phú Trịch La Hà đội cảm tử chết như voi trận của đức Thánh Tràn chết vậy. Cha tôi nói

        – Đá Đứng chốn sông thiêng Cầu Minh Lệ Rào Nan Bến Lội Đền Bốn Miếu là nơi rất rất hiểm. Ông già lại xuống giọng thầm thì. Ngã ba sông Chợ Mới là hiểm địa. Đá Đứng chốn sông thiêng là rất rất hiểm địa. Ông có biết vì sao đối diện Bến Lội Đền Bốn Miếu là động Ma Ca không? Thiêng lắm đấy, vì có quá nhiều người chết. Đây là nơi chính phân tranh từ nhiều đời. Thời Cao Vương lập đá Đứng bỏ bút thần. Thời Núi Đá Bia ngón tay minh sư thệ trời xanh bước qua lời nguyền chia cắt đấy. Giá máu xương cao lắm ! Chỗ cao giá hiểm nguy. Cụ già lặp lại.

        Cụ già quay sang tôi, bắt tôi nhắc lại mấy lời khẩu quyết. Cao cát Mạc sơn / Sơn Hà Cảnh Thổ / Văn Võ Cổ Kim / Linh Giang thông đại hải / Ngũ Lĩnh tiếp Cao Sơn / Đình Bảng Cao Lao Hạ / Miếu cổ thủy sơn thần./ …. Mắt ông rất thành khẩn. Hốc mắt ông dường như có nước mắt. Người ông khoan thai thần bí và trầm tĩnh lạ lùng. Tôi cẩn thận lặp lại. Cha mẹ tôi im nghe và tỏ vẻ khuyến khích con. Cụ già nói chậm rãi: Ông bà thay tên cho ’em’ đi: Hoàng Kim tốt hơn Hoàng Minh Kim. Ông tánh trung trực nghĩa khí, bà tánh đức độ, hiền từ, nhà có phước đức, sẽ thành dòng họ lớn ở phương xa, con cháu có quý tử, nhưng ông bà không được hưởng lộc con, nhưng theo con hưởng phúc và tổ tiên ông bả bảo bọc che chở cho con cháu.

        Cụ già dặn tôi “làm vàng ròng, ngọc cho đời, nên bớt sáng”. Đây là chuyện lạ của lời dặn thứ ba. Chuyện lạ đến mức anh hai Hoàng Ngọc Dộ đã quyết chọn
        Hoàng Kim làm tên gọi cho em từ lớp 10 sau khi cha mẹ mất và toàn gia lưu tán. Chuyện lạ này lưu trong chuyên mục Nguồn Son nối Phong Nha liên kết với các thư mục Làng Minh Lệ quê tôi; Đất Mẹ vùng di sản; Đá Đứng chốn sông thiêng Thông tin tại http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-24-thang-9/

        Tôi là người học sinh nhỏ tuổi cha mẹ mất sớm. hầy Nguyễn Khoa Tịnh khóc trên bục giảng Thầy tăng tôi cuốn sách Trần Hưng Đạo Binh Thư Yếu Lược với lời đề tặng từ tuổi thơ để tôi lưu lại
        Lời dặn của Thánh Trần và thầy viết bài thơ Xem tiếp >>

          Dạy và học 23 tháng 9(23-09-2021)


        DẠY VÀ HỌC 23 THÁNG 9
        Hoàng Kim
        CNM365 Tình yêu cuộc sốngNông lịch tiết Thu Phân; 24 tiết khí nông lịch; Sớm Thu thơ giữa lòng; Mùa thu trong thi ca; Ngôi sao mai chân trời; Nguyễn Du làm Ngư Tiều; Đất Mẹ vùng di sản; Nguồn Son nối Phong Nha. Linh Giang, Đình Minh Lệ; Bay lên; Quản lý bền vững sắn châu Á; Ngày 23 tháng 9 là ngày thu phân tiết khí có khởi đầu bằng điểm giữa mùa thu kinh độ Mặt Trời bằng 180 độ, khi Mặt Trời ở gần xích đạo nhất. Ngày 23 tháng 9 năm 1945 là ngày Nam Bộ kháng chiến Quân Pháp khai hỏa nhằm chiếm quyền kiểm soát Sài Gòn với sự giúp đỡ của quân Anh. Dân quân Nam Bộ với vũ khí tầm vông vạt nhọn khởi đầu Nam Bộ kháng chiến (hình). “Mùa thu rồi ngày hăm ba Ta đi theo tiếng kêu sơn hà nguy biến. Rền khắp trời lời hoan hô Dân phương Nam nhịp chân tiến ra trận tiền.Thuốc súng kém, chân đi không Mà đoàn người giàu lòng vì nước. Nóp với giáo mang ngang vai Nhưng thân trai nào kém oai hùng. Ngày 23 tháng 9 năm 1846, Sao Hải Vương được phát hiện bởi nhà thiên văn học Johann Gottfried Galle dùng các dự đoán của nhà toán học Urbain Le Verrier. Sao Hải Vương là hành tinh thứ tám và xa nhất tính từ Mặt Trời trong Hệ Mặt Trời. Sao Hải Vương có khối lượng gấp 17 lần khối lượng của Trái Đất. Nó quay trên quỹ đạo quanh Mặt Trời ở khoảng cách bằng khoảng 30 lần khoảng cách Trái Đất đến Mặt Trời. Bài chọn lọc ngày 23 tháng 9: Nông lịch tiết Thu Phân; 24 tiết khí nông lịch; Sớm Thu thơ giữa lòng; Mùa thu trong thi ca; Ngôi sao mai chân trời; Nguyễn Du làm Ngư Tiều; Đất Mẹ vùng di sản; Nguồn Son nối Phong Nha. Linh Giang, Đình Minh Lệ; Bay lên; Quản lý bền vững sắn châu Á; NgThông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-23-thang-9/

        NÔNG LỊCH TIẾT THU PHÂN
        Hoàng Kim


        Giữa thu chầm chậm nắng lên
        Hơi may lành lạnh, êm đềm vườn thu
        Mai vàng vẫn mướt cành tơ
        Chùm hoa tứ quý bao giờ nở xong
        Sớm Thu thơ ở giữa lòng
        Thu như mắt lá mãi mong ngày dài.

        24 TIẾT KHÍ NÔNG LỊCH
        Hoàng Kim


        Khuyên em đừng quên nhất thì nhì thục
        Di sản Việt Nam học mãi không cùng
        Mình học để làm hai bốn tiết khí
        Mộc mạc hát vần bài học đầu tiên.

        Đất cảm trời thương lòng người gắn bó
        Dẫu khó vạn lần khéo liệu cũng xong
        Mùa xuân tới tự tiết xuân sẽ đến
        Bởi biết rằng năm tháng đó là em.

        6 tháng Một bắt đầu rét nhẹ
        21 tháng Một trời lạnh cắt da
        4 tháng Hai ngày xuân mới đến
        20 tháng Hai Thiên Địa Nhân hòa.

        Đồng dao cho em khuyên em đừng tưởng
        Câu chuyện mùa xuân
        thêm cho mồng Ba
        Trải Cốc Vũ qua ngày Hạ Chí
        Đại Thử rồi Sương Giáng thành hoa.

        6 tháng Năm là ngày Hè đến
        22 tháng Năm mưa nhỏ, vào mùa
        5 tháng Sáu ngày Tua Rua mọc
        21 tháng Sáu là chính giữa Hè.

        7 tháng Bảy là ngày nắng nhẹ
        23 tháng Bảy là tiết nóng oi
        7 tháng Tám Lập Thu rồi đó
        23 tháng 8 trời đất mưa Ngâu

        Qua Xử Thử đến tiết trời Bạch Lộ
        Sau Mưa Ngâu đến Nắng nhạt đấy em.
        Tiết Thu Phân khoảng 23 tháng 9
        Đối lịch nhà nông em nhớ đừng quên.

        Tiết Hàn Lộ nghĩa là trời mát mẻ
        Kế tiếp theo là Sương Giáng (sương mù)
        23 tháng 10 mù sa dày đặc
        Thuyền cỏ mượn tên nhớ chuyện Khổng Minh.

        Ngày 7 tháng 11 là tiết lập đông
        23 tháng 11 là ngày tiểu tuyết
        8 tháng 12 là ngày đại tuyết
        22 tháng 12 là chính giữa đông.

        Khuyên em đừng quên nhất thì nhì thục
        Di sản Việt Nam học mãi không cùng
        Mình học để làm 24 tiết khí
        Mộc mạc hát vần bài học đầu tiên.

        Mùa vụ trồng cây, kinh nghiệm nghề nông
        Xin em đừng quên điều ông bà dạy
        Xuân Hạ Thu Đông hai bốn tiết khí
        Khoa học thiên văn ẩn ngữ đời người.

        Đất cảm trời thương, lòng người gắn bó
        Dẫu khó vạn lần khéo liệu cũng xong
        Mùa xuân tới tự tiết xuân sẽ đến
        Bởi biết rằng
        năm tháng đó là em.

        SỚM THU THƠ GIỮA LÒNG
        Hoàng Kim

        Ai thương núi nhớ biển
        Vui thu măng mỗi ngày
        Ai chợp mắt Tam Đảo
        Nắng lên là sương tan
        Ai tỏ Ngọc Quan Âm
        Vui bước tới thảnh thơi

        *

        Tỉnh thức ban mai đã sớm thu
        Sương đêm giữ ngọc ướt cành tơ
        Ai ơi gieo đậu vừa rồi đấy
        Lộc biếc me xanh chín đợi chờ.

        *

        Sớm thu trên đồng rộng
        Em cười trời đất nghiêng
        Lúa ngậm đòng con gái
        Em đang thì làm duyên.

        Sớm thu trên đồng rộng
        Cây đời xanh thật xanh
        Lúa siêu xanh tỏa rộng
        Hương lúa thơm mông mênh.

        Sớm thu trên đồng rộng
        Trời đất đẹp lạ lùng
        Bản nhạc vui an lành
        Ơi đồng xanh yêu dấu…

        *

        Thích thơ hay bạn quý
        Yêu sương mai đầu cành
        Bình minh chào ngày mới
        Vườn nhà bừng nắng lên

        Trà sớm nhớ bạn hiền
        Trung thu bánh tình thân
        Phố núi cao thu sớm
        Gia an nguyên lộc gần.

        *

        Thanh thản an vui dạo dọn vườn
        Vui thầy mừng bạn ngát thêm hương
        Đường xuân nhàn hạ phai mưa nắng
        Tâm sáng an lành trãi gió sương
        Thoắt đó vườn thơm nhiều quả ngọt
        Mới hay nhà phước lắm con đường
        An nhiên vô sự là tiên cảnh
        Sớm thu mai nở nắng thu vương

        Sớm thu thơ giữa lòng là thơ liên vận của Hoàng Kim lưu chung với “Mùa thu trong thi ca” gồm 19 bài thơ tinh tuyển chọn lọc: Chớm thu Hoàng Gia Cương; Thu mưa Đỗ Phủ; Thu mưa Nguyễn Hoài Nhơn; Thu vịnh Nguyễn Khuyến; Thu buồn Đỗ Phủ; Thu hứng Đỗ Phủ; Thu sơn Bạch Cư Dị; Chiều thu Nguyễn Bính; Tiếng thu Lưu Trọng Lư; Thu tứ Bạch Cư Dị; Đêm thu Trần Đăng Khoa; Đêm thu Quách Tấn; Thu ẩm Nguyễn Khuyến; Thu ca Chanson d’automne (Paul Verlaine);Thu vàng Alexxandr Puskin; Thu vàng Thu Bồn; Giọt mưa thu Thái Lượng; Nắng thu Nam Trân; Thơ gửi mùa thu Nguyễn Hoài Nhơn; Thư tình gửi mùa thu, nhạc Phan Huỳnh Điểu phổ thơ Xuân Quỳnh ; xem tiếp Mùa thu trong thi ca
        https://hoangkimlong.wordpress.com/category/som-thu-tho-giua-long/

        CHỚM THU
        Hoàng Gia Cương

        Ban mai rười rượi – thu vừa chớm
        Gió lạc vườn ai bỡn trái hồng
        Khóm trúc dáng chừng đang độ lớn
        Ngỡ ngàng lối ngõ đẫm hơi sương!

        Mây bông lặng vén rèm che mỏng
        Để nắng non nghiêng liếc trộm vườn
        Hàng cúc xốn xang gờn gợn sóng …
        Hình như trời đất biếc xanh hơn!

        Qua bao giông bão bao mưa lũ
        Đất lại hồi sinh lại mượt mà
        Chấp chới cánh diều loang loáng đỏ
        Cố giữ tầm cao, níu khoảng xa!

        1998
        [1] Chớm thu, Hoàng Gia Cương THEO DÒNG THỜI GIAN
        Thơ tuyển chọn 2013. NXB Văn Học Hà Nội, tr.101

        VƯỜN THU
        Hoàng Thanh Luận

        Nhỏ nhỏ con con một mảnh vườn
        Bầu trời xanh ngắt đượm mùi hương
        Phong lam một nhánh đang khoe sắc
        Gốc bưởi nhiều cành trĩu nặng sương
        Sớm sớm chim về vui hội mới
        Chiều chiều ong đến rộn gia đường
        Môi trường sinh thái ru nhè nhẹ
        Cảnh ấy người đây cứ vấn vương

        THU MƯA
        Đỗ Phủ
        Dịch thơ Khương Hữu Dụng

        Hết gió liền mưa bời bời thu,
        Tám hướng tứ bề mây mịt mù.
        Ngựa lại trâu qua thấy loáng thoáng,
        Vị trong Kinh đục trông xô bồ.
        Lúa ngâm nứt mông ngô nếp thối,
        Nhà nông già trẻ ai dám nói.
        Trong thành đấu gạo so áo chăn,
        Hơn thiệt kể gì miễn được đổi.

        Nguồn: Thơ Đỗ Phủ, Hoàng Trung Thông, NXB Văn học, 1962

        THU MƯA
        Nguyễn Hoài Nhơn

        Thu về vườn lá chớm xanh
        Ngõ cũ mưa đưa gọi nhớ
        Ai người hạnh phúc bất thành
        Ai người tình yêu dang dở?

        Mưa rây tận cùng ướt lạnh
        Thấm tháp gì tôi mưa ơi
        Úp mặt vào tay cóng buốt
        Đi hoang xa, vắng cõi người

        Nỗi quê nửa đời thao thức
        Hạt mưa tha hương phương nào
        Ta như đất và…như cỏ
        Như chẳng còn ta nữa sao ?

        Chiếc lá ngập ngừng xoay, rớt
        Mùa đi ai nỡ giữ mùa
        Em về hòan nguyên hòai ước
        Hãy giữ giùm tôi thu mưa.

        THU VỊNH
        Nguyễn Khuyến

        Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao,
        Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu.
        Nước biếc trông như tầng khói phủ,
        Song thưa để mặc bóng trăng vào.
        Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái,
        Một tiếng trên không ngỗng nước nào?
        Nhân hứng cũng vừa toan cất bút,
        Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào.

        Rút từ Quốc văn tùng ký (AB.383), Nam âm thảo (VHv.2381), Quế Sơn thi tập (A.469). Tiêu đề trong Nam âm thảo chép là Mùa thu ngồi mát ngâm thơ.. Ông Đà: tức Đào Tiềm, tự Uyên Minh, từ quan về ở ẩn đời nhà Tấn, nổi tiếng thanh cao.

        Nguồn:
        1. Thơ văn Nguyễn Khuyến, NXB Văn học, 1971 (tái bản 1979)
        2. Nguyễn Khuyến – Tác phẩm, Nguyễn Văn Huyền chủ biên, NXB Khoa học xã hội, 1984
        3. Thi hào Nguyễn Khuyến: đời và thơ, Nguyễn Huệ Chi chủ biên, NXB Giáo dục, 1994

        THU BUỒN
        Đỗ Phủ
        Dịch thơ
        Phan Ngọc

        Gió bụi nổi vạn dặm,
        Giặc giã đang hoành hành.
        Nhà xa gửi thư lắm,
        Thư đến, khách buồn tênh.
        Chim bay, cao buồn ngắm,
        Già lưu lạc theo người.
        Bụng muốn đến Tam Giáp,
        Về hai kinh chịu thôi.

        Nguồn: Phan Ngọc, Đỗ Phủ – Nhà thơ thánh với hơn một ngàn bài thơ, NXB Văn hoá thông tin, 2001

        THU HỨNG 1
        Đỗ Phủ
        Dịch thơ
        Thích Quảng Sự


        Thê lương sương phủ ủ rừng phong
        Vu Giáp Vu Sơn ảm đạm buồn.
        Ải tiếp gió mây hòa đất lạnh
        Sóng đùa sông nước hợp trời tung.
        Hai mùa cúc nở còn vương lệ
        Một chiếc thuyền tình mãi sắt son.
        Đan áo nơi nơi cho giá rét
        Giục chày thành Bạch mỗi chiều buông.

        THU HỨNG 4
        Đỗ Phủ
        Dịch thơ
        Trương Việt Linh

        Nghe nói Trường An rối cuộc cờ
        Trăm năm thế sự não lòng chưa
        Lâu đài khanh tướng thay người mới
        Áo mũ công hầu khác thưở xưa
        Xe ngựa xứ tây tin rộn đến
        Cõi bờ đất bắc trống vang đưa
        Cá rồng quạnh quẽ sông thu lạnh
        Nước cũ mơ màng chuyện gió mưa

        THU SƠN (Núi thu)
        Bạch Cư Dị
        Dịch thơ
        Trương Việt Linh

        Ốm lâu,trong bụng cũng lười
        Sáng nay lên núi dạo chơi một lần
        Núi thu mây cảnh lạnh lùng
        Xanh xao cũng tựa mặt mình như in
        Dây xanh dựa bước dễ vin
        Trắng tinh gối đá ta nằm ta chơi
        Trải lòng thoả dạ mừng vui
        Cuối ngày nhưng chửa muốn lui về nhà
        Trăm năm trong cõi người ta
        Cái thân nhăng nhít đáng là chi đâu
        Chuyện xưa khéo nghĩ bạc đầu
        Một ngày có được mấy hồi thảnh thơi
        Lưới trần khi gỡ ra rồi
        Về đây khép cửa nghỉ ngơi thanh nhàn

        CHIỀU THU
        Nguyễn Bính

        Thăm thẳm trời xanh lộng đáy hồ,
        Mùi hoa thiên lý thoảng chiều thu.
        Con cò bay lả trong câu hát,
        Giấc trẻ say dài nhịp võng ru.

        Lá thấp cành cao gió đuổi nhau,
        Góc vườn rụng vội chiếc mo cau.
        Trái na mở mắt, nhìn ngơ ngác,
        Đàn kiến trường chinh tự thủa nào.

        Lúa trổ đòng tơ, ngậm cốm non,
        Lá dài vươn sắc lưỡi gươm con.
        Tiếng chim mách lẻo cây hồng chín,
        Điểm nhạt da trời những chấm son.

        Hai cánh chia quân chiếm mặt gò,
        Bê con đùa mẹ bú chưa no.
        Cờ lau súng sậy giam chân địch,
        Trận Điện Biên này lại thắng to.

        Sông đỏ phù sa, nước lớn rồi,
        Nhà bè khói bếp lững lờ trôi.
        Đường mòn rộn bước chân về chợ,
        Vú sữa đẫy căng mặt yếm sồi.

        Thong thả trăng non dựng cuối làng,
        Giữa nhà cây lá bóng xiên ngang.
        Chiều con, cặm cụi đôi ngày phép,
        Ngồi bẻ đèn sao, phất giấy vàng.

        Nguồn: Hoàng Xuân, Nguyễn Bính – thơ và đời, NXB Văn học, 2003

        TIẾNG THU
        Lưu Trọng Lư

        Tặng bạn Văn

        Em không nghe mùa thu
        Dưới trăng mờ thổn thức?
        Em không nghe rạo rực
        Hình ảnh kẻ chinh phu
        Trong lòng người cô phụ?

        Em không nghe rừng thu
        Lá thu kêu xào xạc
        Con nai vàng ngơ ngác
        Đạp trên lá vàng khô?
        Bài thơ này đã được nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc thành bài hát cùng tên.

        Nguồn:
        1. Lưu Trọng Lư, Tiếng thu, 1939, Librairie Centrale ấn hành, 1939
        2. Tuyển tập Lưu Trọng Lư, NXB Văn học, 1987
        3. Hoài Thanh, Hoài Chân, Thi nhân Việt Nam (1932-1941), NXB Văn học, 2007
        4. Nguyễn Tấn Long, Nguyễn Hữu Trọng, Việt Nam thi nhân tiền chiến, quyển thượng, NXB Sống Mới, 1968

        THU TỨ (Ý thu)
        Bạch Cư Dị
        Dịch thơ
        Hải Đà

        Ưng ửng chiều hôm tỏa ánh hồng
        Trời quang cảnh sắc biếc thanh trong
        Mây bay lơ lửng muôn hình thú
        Bóng nguyệt thu mình lộ dáng cong
        Trời Bắc bâng khuâng chờ cánh nhạn
        Suối Nam dồn dập tiếng chày buông
        Trời thu hiu hắt tình muôn ý
        Đợi tuổi già chi mới cảm lòng ?

        ĐÊM THU
        Trần Đăng Khoa

        Thu về lành lạnh trời mây
        Bỗng nhiên thức giấc nào hay mấy giờ
        Ánh trăng vừa thực vừa hư
        Vườn sau gió nổi nghe như mưa rào
        1972

        Nguồn: Trần Đăng Khoa, Góc sân và khoảng trời, NXB Văn hóa dân tộc, 1999

        ĐÊM THU
        Quách Tấn

        Vườn thu óng ả nét thuỳ dương,
        Đưa nhẹ đêm thu cánh hải đường.
        Lóng lánh rẻo vàng gieo bến nguyệt,
        Phất phơ tơ nhện tủa ngàn sương.
        Chim hồi hộp mộng cơn mưa lá,
        Cúc vẩn vơ hồn ngọn gió hương.
        Say khướt hơi men thời Lý Bạch,
        Non xa mây phới nếp nghê thường.
        Nguồn:
        1. Quách Tấn, Mùa cổ điển (tái bản lần thứ 1), NXB Tân Việt, Sài Gòn, 1960
        2. Quách Tấn, Mùa cổ điển, NXB Thuỵ Ký, 1941
        3. Phạm Thanh, Thi nhân Việt Nam hiện đại – quyển thượng, NXB Xuân Thu tái bản, 1990

        THU ẨM
        Nguyễn Khuyến

        Năm gian nhà cỏ thấp le te,
        Ngõ tối đêm sâu đóm lập loè.
        Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt,
        Làn ao lóng lánh bóng trăng loe.
        Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt?
        Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe.
        Rượu tiếng rằng hay, hay chẳng mấy.
        Độ năm ba chén đã say nhè.

        Rút từ Quốc văn tùng ký (AB.383), Nam âm thảo (VHv.2381), Quế Sơn thi tập (A.469), Quế Sơn Tam nguyên thi tập (A.3160). Tiêu đề trong Nam âm thảo chép là Mùa thu ngồi mát uống rượu, trong Quế Sơn Tam nguyên thi tập chép là Dạ toạ ngẫu tác 夜坐偶作 (Chợt làm khi ngồi trong đêm).

        Nguồn:
        1. Thơ văn Nguyễn Khuyến, NXB Văn học, 1971 (tái bản 1979)
        2. Nguyễn Khuyến – Tác phẩm, Nguyễn Văn Huyền chủ biên, NXB Khoa học xã hội, 1984
        3. Thi hào Nguyễn Khuyến: đời và thơ, Nguyễn Huệ Chi chủ biên, NXB Giáo dục, 1994

        THU CA
        Chanson d’automne (Paul Verlaine)
        Dịch thơ
        Kiều Văn


        Tiếng vĩ cầm nức nở
        Của mùa thu ngân dài
        Giọng đều đều buồn tẻ
        Cứa mãi vào tim tôi.

        Tất cả chợt lịm đi
        Trong giây phút tái tê
        Khi chuông giờ gõ điểm.

        Tôi miên man tưởng niệm
        Những ngày xưa xa xôi
        Và nước mắt tôi rơi.

        Rồi tôi đi, đi mãi
        Giữa cơn gió phũ phàng
        Cuốn tôi mang đây đó
        Như chiếc lá úa vàng.
        Nguồn: Mùa thu trong thi ca, tuyển thơ nhiều tác giả, NXB Hội nhà văn, 2007

        THU VÀNG
        Alexxandr Puskin
        Dịch thơ Hồ Quốc Vĩ

        Thu buồn, – cặp mắt đắm say,
        Tôi yêu sắc đẹp em ngày chia phôi.
        Thiên nhiên tàn úa bỗng tươi,
        Rừng thay áo mới, cả trời vàng au.
        Ồn ào hơi gió thở mau,
        Bầu trời gợn sóng như màu khói sương.
        Vài tia nắng hiếm nhớ thương
        Sợ mùa đông sớm quen đường đến nhanh.
        Đắm trong yên tĩnh ngọt lành,
        Tôi quên thế giới thức thành tiếng thơ.

        Tâm hồn xáo động ngẩn ngơ,
        Tơ lòng run rẩy, mộng chờ đợi ai.

        Nguồn: Alexxandr Puskin, Tuyển tập tác phẩm – Thơ và trường ca, NXB Văn học, Trung tâm VHNN Đông Tấy, 1999

        THU VÀNG
        Thu Bồn

        Tặng T. A.

        ập thoáng chốc… thu về như lá rụng
        ngoài hiên em đã đến tự bao giờ
        trời xanh ngắt anh không còn trẻ nữa
        cây sấu cho hè hết cả trái chua

        thế là hạ đã qua trong giây lát
        giọt thơ anh thánh thót đã thu vàng
        em đã đến mà như chưa đến
        tiếng chim kêu se sắt muộn màng

        mắt le lói nhìn sao khuya rụng
        Hà Nội trôi sông Hồng đêm nay
        nghe hơi thở đất trời trong tiếng dế
        nâng trái tim mình lên uống để mà say

        em nhanh quá anh về chậm quá
        trái đất vô tư níu giữ vòng quay
        chân anh mỏi âm thầm mặc cảm
        véo von em lảnh lót giữa đời bay

        mầm nhú ban đêm lá úa ban ngày
        anh lẩn thẩn mài đời lên trang giấy
        thời gian cứ lạnh lùng như viên tẩy
        chút thu vàng mờ nhạt lẩn đâu đây

        đừng hát nữa thu vàng em hãy ngủ
        để anh nghe lá rụng cọ tim mình
        xào xạc đấy những trời yên tĩnh lạ
        tay mơ hồ đang chạm những lời ru…
        (Hà Nội đêm 29-08-1990)

        Nguồn: 100 bài thơ tình nhờ em đặt tên (thơ), Thu Bồn, NXB Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, 1992

        GIỌT MƯA THU
        Thái Lượng


        Mưa thu rơi, rơi đều trong đêm vắng
        Tiếng mưa buồn sâu lắng giữa canh thâu
        Mưa từ đâu tí tách những giọt sầu
        Như nức nở vọng lầu thương bóng nguyệt

        Đêm cô tịch mưa kéo dài cay nghiệt
        Thương dòng đời ru nghịch cảnh trái ngang
        Mưa thu rơi như lệ chảy từng hàng
        Nghe lạnh lẽo những lời than vô vọng

        Mặt đường phố giọt mưa còn khơi đọng
        Nỗi lạnh lùng cây cỏ cũng buồn tênh
        Giữa lưng trời giọt nhớ mãi lênh đênh
        Như khắc khoải không ngừng câu ai oán

        Mưa thu rơi giọt sầu thêm ngao ngán
        Tiếng ngậm ngùi đang vỗ giấc tương tư
        Biết nói sao cho hết được ngôn từ
        Đêm hoang lạnh lòng chìm trong thương nhớ

        Mưa rơi nhẹ nhịp hoà cùng hơi thở
        Giữa vũng lầy bỡ ngỡ những bước chân
        Tiếng mưa rơi não nuột chẳng ngại ngần
        Sầu phong kín nỗi lòng người lữ thứ

        Thu man mác gợi thêm sầu cô lữ
        Gió muộn màng thổi nhẹ lá vàng rơi
        Mưa thu ơi xin trút hết cho đời
        Bao nỗi nhớ trôi về nơi xa ấy…

        NẮNG THU
        Nam Trân

        Tặng Hoàng Khôi

        Hát bài hát ngô nghê và êm ái,
        Bên sườn non, mục tử cỡi trâu về,
        Nắng chiều rây vàng bột xuống dân quê,
        Lúa chín đỏ theo gió nồm sắp mái.

        Trên suối nhỏ, chiếc cầu treo hẻo lánh
        Tốp người qua, lẩy bẩy vịn thanh ngang
        Lũ trẻ con sung sướng nổ cười vang
        Đùa với bóng chảy theo giòng nước lạnh.

        Dãy núi tím bỗng thay mầu xanh ngắt
        Rồi ố làn trong giây khắc nhá nhem.
        Âm thầm cảnh vật vào Đêm:
        Vết ráng đỏ, tiếng còi xa cũng tắt.
        Nguồn:
        1. Nam Trân, Huế, đẹp và thơ, 1939
        2. Hoài Thanh, Hoài Chân, Thi nhân Việt Nam, NXB Văn học, 2007
        3. Phạm Thanh, Thi nhân Việt Nam hiện đại (quyển thượng), NXB Xuân Thu, 1990

        THƠ GỬI MÙA THU
        Nguyễn Hoài Nhơn


        Thu ạ, tôi như lọn mây phiêu lạc
        Đắp đỗi cho em vụng dại mấy mươi mùa
        Đôi mắt sẽ muộn phiền trăm năm nữa
        Ba ngả sông đời nghẹn chảy xót xa chưa ?

        Thị trấn nhỏ lắm bùn, nhiều cát thế
        Để bước chân lỡ hẹn với Ngân Hà
        Triền đê gió dỗi hờn, ai ru dỗ
        Đêm lạc loài sương cỏ dấu em qua

        Quán trọ tình yêu tôi về tạ lỗi
        Cùng cơn mơ tiền kiếp đắng cay đầy
        Em tỉnh giấc trắng trời mưa lông ngỗng
        Và con đường buôn buốt gió heo may.

        THƠ TÌNH CUỐI MÙA THU
        Xuân Quỳnh


        Cuối trời mây trắng bay
        Lá vàng thưa thớt quá
        Phải chăng lá về rừng
        Mùa thu đi cùng lá
        Mùa thu ra biển cả
        Theo dòng nước mênh mang
        Mùa thu vào hoa cúc
        Chỉ còn anh và em

        Chỉ còn anh và em
        Là của mùa thu cũ
        Chợt làn gió heo may
        Thổi về xao động cả:
        Lối đi quen bỗng lạ
        Cỏ lật theo chiều mây
        Đêm về sương ướt má
        Hơi lạnh qua bàn tay

        Tình ta như hàng cây
        Đã qua mùa gió bão
        Tình ta như dòng sông
        Đã yên ngày thác lũ

        Thời gian như là gió
        Mùa đi cùng tháng năm
        Tuổi theo mùa đi mãi
        Chỉ còn anh và em

        Chỉ còn anh và em
        Cùng tình yêu ở lại…
        – Kìa bao người yêu mới
        Đi qua cùng heo may

        Nguồn: Thơ tình cuối mùa thu; trong Tự hát, Xuân Quỳnh, NXB Tác phẩm mới, 1984. Bài thơ này đã được nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu phổ nhạc thành bài hát Thư tình cuối mùa thu.

        Chỉ tình yêu ở lại


        NGÔI SAO MAI CHÂN TRỜI

        Hoàng Kim

        Em đọc lại Nhà Giả Kim em nhé
        Bài ca thời gian câu chuyện cuộc đời
        Một giấc mơ Người đi tìm kho báu
        Theo ước mơ mình tới chốn xa xôi …

        Bậc tiên tri biết nhìn sâu khát vọng
        Khuyến khích em theo mơ ước tuổi hoa
        Đi tới cuối con đường hạnh phúc
        Hãy là chính mình, ta chính là ta.

        Em thấu hiểu có ngôi sao may mắn
        Luôn bên em lấp lánh phía chân trời
        Nơi bảng lãng
        thơ tình Hồ núi Cốc
        Giấc mơ đưa ta về cổ tích xa xôi  …

        Hãy lên đường đi em
        Ban mai vừa mới rạng
        Vui đi dưới mặt trời
        Một niềm tin thắp lửa

        Ta như ong làm mật
        Cuộc đời đầy hương hoa
        Thời an nhiên vẫy gọi
        Vui đời khỏe cho ta.

        LINH GIANG, ĐÌNH MINH LỆ
        Hoàng Kim


        Đất Mẹ vùng di sản. Nguồn Son nối Phong Nha. Linh Giang Đình Minh Lệ. Đá Đứng chốn sông thiêng. Hôm nay tôi kể thêm ngoại truyện về lời của ông thầy bói già Cao Lao Hạ. Trước đây ngại không dám nói ra, nay đã luống tuổi, trãi nghiệm đủ mười hai bến nước nên đúc kết lại bài học cho chính mình, gia đình người thân và thầy bạn quý

        Cha tôi hỏi : Nhà tôi trước ở rất gần Đình Minh Lệ, nhà hướng nam, ngoảnh mặt về với Rào Nan và đình, nhưng sao nhà quá nghèo khổ, phải bỏ nền nhà ông nhà cha mẹ mà đi. Vợ chồng tôi chuyển nhà về xóm Chợ Mới để dễ kiếm cơm nuôi con. Nghề là làm ruộng nhưng việc chính tôi chèo đò, vợ chạy chợ, bán mớ rau, ít nước chè lá vằng, thỉnh thoảng hàng chợ phiên Troóc, Ba Đồn đưa về, để đắp đổi sống qua ngày. Nhà tôi quay lưng hướng sông ngoảnh mặt ra ngã ba đường chính ,từ hướng chợ Hòa Ninh đi vô, hướng hói Đồng đi lên, hướng ga Minh Lệ đi xuống. Mấy người nói thế là hướng sai nhưng tôi giữ lối trung chính thuận đường. Ông đi qua bà đi lại chào hỏi nhau được. Ông nghĩ vậy là phải chứ?

        – Ông còn chuyện gì khác mà phải chuyển nhà từ xóm Đình về xóm Chợ Mới ? Cụ già hỏi.

        – Không! Mưu sinh, đường sống là chính. Sang đây thêm chèo đò, chạy chợ mới sống được. Nhất cận thị, nhị cần sông mới bớt khổ. Vì vợ chồng tôi đau yếu, nghèo khổ quá. Cha tôi nói thêm.


        – Tôi bị Pháp bắt đi lính khố đỏ để đi đánh nhau bên Tây. Tôi đã vô Đà Nẵng, nhưng được anh em giác ngộ nên theo Vệ Quốc Đoàn đánh Tây suốt nhiều năm mãi đến năm 1951 bệnh binh mới giải ngũ, trên cho về quê. Bệnh sốt rét phù thủng đọa đày tôi hết mức chết đi sống lại, mẹ nó đã khổ càng thêm khổ Tôi tính nghĩa khí, trung trực, trọng lẽ phải, cứ theo điều hay lẽ phải mà làm, im nghe người ta nói không cãi, nhưng làm thì nhất định chỉ làm điều mà mình cho là phải, khi đã làm thì quyết làm cho bằng được, không hề sợ bất cứ ai, lượng sức lựa thế mà làm, không làm liều, không nghe người ta xui. Bà nhà tôi thì đức độ, hiền từ, nết ăn ở như đọi nước đầy, làng trên xóm dưới ai cũng thương. Cụ nói đi:.Nhà tôi gần ngã ba sông lại gần đường chính ngã ba đường thì hướng nhà làm sao?

        – Linh Giang thông đại hải. Ngũ Lĩnh tiếp Cao Sơn. Đi như một dòng sông. Cuối dòng sông là biển. Cháu nhớ khẩu quyết chứ? Cụ già không trả lời cha mà quay sang bảo tôi.

        – Hướng nhà theo thế Lục Môn. Đúng. Tôi nhìn theo tay ông chỉ. Nhà tôi lưng tựa Cao Sơn, xuôi chiều theo thế nước Nguồn Son lao thẳng về, đúng là thế nước hiểm, phải cuốn theo chiều gió, đi như một dòng sông, lá về nơi vô định. Đình Minh Lệ hóa ra Linh Giang thông đại hải, đình hướng chính diện Đông biển lớn. Ngũ Lĩnh nối Cao Sơn, Đá Đứng chốn sông thiêng, là hướng ngọc phương Nam, như rồng xanh Trường Sơn cuộn mình, sau tôi mới hiểu.

        – Đất này sao đã quý hiếm mà lại hiểm? Cha tôi thắc mắc.

        – Vì rất rất cao giá !.Gian nan nên người hay. Thời thế tạo anh hùng. Địa linh sinh nhân kiệt. Nhân kiệt sáng địa linh. Đất sông thiêng này phát sinh những dòng họ lớn ! Ông già xuống giọng thầm thì. Ngã ba sông Chợ Mới là hiểm địa. Đá Đứng chốn sông thiêng là rất rất hiểm địa. Ông có biết vì sao đối diện Bee61n Lội Đền Bốn Miếu là động Ma Ca không? Thiêng lắm đấy vì có quá nhiều người chết. Đây là nơi chính phân tranh từ nhiều đời. Đến mức Cao Vương lập đá Đứng bỏ bút thần. Sau này có Núi Đá Bia cũng là ngón tay minh sư thệ trời xanh bước qua lời nguyền chia đấy. Giá máu xương cao lắm ! Chỗ cao giá phải hiểm nguy. Ông già nói .

        – Nguồn Son Rào Nan hợp lưu thành Linh Gianh, giữa sông lại có Cồn, đó là … của người phụ nữ.Xem tiếp >>

          Dạy và học 22 tháng 9(22-09-2021)

         

        Tập tin:Abrahamlincoln.jpg

        DẠY VÀ HỌC 22 THÁNG 9
        Hoàng Kim
        CNM365 Tình yêu cuộc sốngĐất Mẹ vùng di sản; Nguồn Son nối Phong Nha; Làng Minh Lệ quê tôi; Cầu Minh Lệ Rào Nan; Chuyện cụ Nguyễn Quốc Toàn; Thầy bạn trong đời tôi; Trường tôi nôi yêu thương; Đối thoại với Thiền sư; Quản lý bền vững sắn châu Á; Ngày 22 tháng 9 Ngày độc lập tại Bulgaria (1908) và Mali (1960). Ngày 22 tháng 9 năm 1862, Tổng thống Hoa Kỳ Abraham Lincoln (hình) phát hành Tuyên ngôn giải phóng nô lệ, tuyên bố quyền tự do của tất cả nô lệ ở phần lớn lãnh thổ thuộc Liên minh miền Nam, bắt đầu từ năm sau. Ngày 22 tháng 9 năm 1829, ngày sinh Tự Đức, vua nhà Nguyễn của Việt Nam (mất năm 1883). Tự Đức (22 tháng 9 năm 1829 – 19 tháng 7 năm 1883) tên thật là Nguyễn Phúc Hồng Nhậm, khi lên ngôi đổi thành Nguyễn Phúc Thì, là vị hoàng đế thứ tư của triều Nguyễn. Ông là vị vua có thời gian trị vì lâu dài nhất của nhà Nguyễn, trị vì từ năm 1847 đến 1883, ông được truy tôn miếu hiệu là Nguyễn Dực Tông. Triều đại của ông đánh dấu sự suy yếu của nhà Nguyễn và nhiều sự kiện xấu với vận mệnh Đại Nam. Quân đội nhà Nguyễn ngày càng suy yếu, kinh tế trì trệ, trong khi nhiều cuộc nội loạn diễn ra trong cả nước. Năm 1858, liên quân Pháp-Tây Ban Nha nổ súng tấn công Đà Nẵng. Trước tình hình người Pháp xâm lấn trong triều đình đặt ra vấn đề cải cách, liên tiếp các năm từ 1864 đến 1881, với các quan là Phan Thanh Giản, Phạm Phú Thứ, Nguyễn Trường Tộ,… liên tiếp dâng sớ xin nhà vua cho cải cách toàn diện đất nước nhưng đình thần bất đồng và nảy sinh hai phe cải cách và bảo thủ, đến khi nước Đại Nam dần rơi vào tay quân Pháp cũng nảy sinh hai phe chủ chiến và chủ hòa. Tới năm 1883, Tự Đức qua đời, ngay sau đó Pháp tấn công vào kinh đô và ép buộc nhà Nguyễn phải công nhận sự “bảo hộ” của Pháp trên toàn quốc. Đại Nam sau thời Tự Đức thực tế đã mất nước vào tay Pháp. Ngày 22 tháng 9 năm 1913, ngày mất Tôn Thất Thuyết, danh tướng Việt Nam (sinh năm 1839), phái chủ chiến, người đã nhân danh vua Hàm Nghi ra chiếu Cần Vương, kêu gọi nhân dân Việt Nam chống Pháp. Toàn bộ gia đình ông cũng tham gia kháng chiến và nhiều người đã hy sinh, được người dân ca tụng là “Toàn gia yêu nước“. Bài chọn lọc ngày 22 tháng 9: Đất Mẹ vùng di sản; Nguồn Son nối Phong Nha; Làng Minh Lệ quê tôi; Cầu Minh Lệ Rào Nan; Chuyện cụ Nguyễn Quốc Toàn; Thầy bạn trong đời tôi; Trường tôi nôi yêu thương; Đối thoại với Thiền sư; Quản lý bền vững sắn châu Á; Trăng rằm đêm Trung Thu; Giống khoai lang Việt Nam; Giống khoai lang HL518; Giống khoai lang HL491; Giống khoai Hoàng Long: Food Crops Ngọc Phương Nam; Bảo tồn và phát triển sắn; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-22-thang-9/

        TRƯỜNG TÔI NÔI YÊU THƯƠNG
        Hoàng Kim


        Cảm ơn Quý Thầy Cô và Các Bạn ờ Trường NLU. Cảm ơn và chia sẻ chùm ảnh tuyệt đẹp từ thầy
        Trần Đình Lý Đường vào NLU.Thật tuyệt vời! Xin được cập nhật về trang CNM365 Tình yêu cuộc sống. Chào ngày mới 22 tháng 9 Thông tin tại http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-22-thang-9/

        Đại học Nông Lâm thật thích
        Bạn thầy vui thật là vui
        Sân Trường giảng đường ấm áp
        Đường xuân phơi phới tuyệt vời

        Hình như mọi người trẻ lại
        Hình như người ấy đẹp hơn
        Hình như tre già măng mọc
        Nắng mai soi giữa tâm hồn.

        Thầy bạn trong ngoài thiện nguyện
        Về Trường chia sẻ động viên
        Trang sách trang đời lắng đọng
        Yêu thương bao cuộc đời hiền.

        Thầy ơi hôm nay chưa gặp
        Lời thương mong ước bình an
        Tình khúc Nông Lâm ngày mới
        Sức xuân Tự nguyện Lên đàng.

        Xem tiếp
        Trường tôi nôi yêu thương

        CẦU MINH LỆ RÀO NAN
        Hoàng Kim

        Linh Giang Đình Minh Lệ
        Cầu Minh Lệ Rào Nan
        Bến Lội Đền Bốn Miếu
        Đá Đứng chốn sông thiêng

        Nguồn Son nối Phong Nha
        Đất Mẹ vùng di sản
        Lời thề trên sông Hóa
        Lời dặn của Thánh Trần

        Ta về với Linh Giang
        Làng Minh Lệ quê tôi

        Tôi sinh ở
        Làng Minh Lệ, Ba Đồn, Quảng Bình. Nguồn gốc tổ tiên, ông bà, cha mẹ là nơi này. Gia đình chúng tôi ngày nay đoàn tụ đất phương Nam, phần lớn làm nghề thầy giáo, thầy thuốc, thầy nghề nông chiến sĩ và một số giữ nghiệp nhà nông. Chúng tôi đã đưa phần mộ cha mẹ ở Minh Lệ Quảng Bình vào Hưng Long Đồng Nai. Nhưng nỗi niềm của những người con xa xứ vẫn thăm thẳm nhớ về nơi sinh thành. Tôi lưu mười đường links chọn lọc Kim Notes lắng ghi chú trên đây về địa chí, lịch sử, văn hóa, gia tộc cho mình và con cháu để nhớ nguồn; https://hoangkimlong.wordpress.com/category/cau-minh-le-rao-nan/.

        Quảng Bình quê hương tôi đất không rộng, người không đông nhưng địa linh nhân kiệt, có địa thế sinh tử ‘nối hai đầu đất nước’ cầu nối thống nhất Tổ quốc với bề dày văn hiến và võ công, với các địa danh quần thể du lịch sơn thủy hữu tình đẹp hiếm thấy. Quảng Bình là nơi hẹp nhất Việt Nam, từ biển Đông sang Lào chỉ khoảng 50 km, ngay vùng địa danh quê tôi, nơi mà một cuộc chiến uy lực, bất ngờ, mãnh liệt, thần tốc, chớp nhoáng, có thể bẻ gãy đôi Việt Nam tại địa bàn sinh tử đặc biệt xung yếu, hiểm địa này. Cầu Minh Lệ Rào Nan gần Đá Đứng chốn sông thiêng được coi là “nơi tuyệt thế hiểm địa”, “điểm huyệt sinh tử phù” của huyền thoại “Cao Biền ném bút thần” Cao Biền trong sử Việt. Nơi tích xưa Lời thề trên sông Hóa, Lời dặn của Thánh Trần phải thuộc nằm lòng:Kế sách một chữ Đồng; “Khoan sức cho dân để sâu rễ bền gốc” https://hoangkimlong.wordpress.com/category/loi-dan-cua-thanh-tran/https://hoangkimlong.wordpress.com/category/cao-bien-trong-su-viet

        Cầu Minh Lệ Rào Nan dễ nhớ dễ lưu dấu, giữa vùng Minh Linh huyền tích ngàn năm Đá Đứng chốn sông thiêng của địa linh Linh Giang Đình Minh Lệ, Bến Lội Đền Bốn Miếu, Nguồn Son nối Phong Nha. Đây là nơi hợp lưu sơn thủy, kết nối với cửa ngõ tuyến du.lịch tuyệt đẹp Phong Nha Kẻ Bàng di sản thiên nhiên Thế giới. Nơi đây cũng là vùng đất địa linh hiểm yếu sinh tử để thống nhất đất nước, bước qua lời nguyền chia cắt ranh giới đôi bờ (Linh Giang/ sông Gianh / Ranh (giới) Nơi đây là hợp lưu sơn thủy của thế núi, mạch sông, người hiền tài, tướng giỏi, lòng dân. Vùng đất này là điểm nhấn địa chí văn hóa lịch sử, là một trong những điểm chính yếu của con đường huyết mạch Nam Tiến người Việt. Bến Lội Đền Bốn Miếu là nơi hợp lưu của dòng Rào Nan với một nhánh nhỏ là Rào Đá, do phù sa của Rào Đá tuôn ra mạnh nên chỗ hợp lưu ấy bị cạn lại mới gọi Bến Lội, ngày xưa nơi ấy là vậy, nhưng ngày nay lại là Cầu Minh Lệ Rào Nanhttps://hoangkimlong.wordpress.com/category/cau-minh-le-rao-nan.

        Làng Minh Lệ quê tôi

        NGUỒN SON NỐI PHONG NHA
        Hoàng Kim

        Linh Giang sông quê hương tôi có chi lưu Rào Nan (ảnh trên ) và Nguồn Son (ảnh dưới) hợp lưu với Rào Nậy gần Quảng Hải, Chợ Đồn, Thanh Khê, nơi có đường Quốc lộ 1 thiên lý Bắc Nam và Cầu Gianh. Cuối dòng sông này là biển Quảng Bình. Tôi sinh quán ở làng Minh Lệ, xã Quảng Minh, là em út trong một gia đình nông dân nghèo có năm anh chi em Nhà cha mẹ tôi trước đó ở xóm Đình, rất gần Đình Minh Lệ, nhưng sau thì chuyển về gần Chợ Mới Làng Minh Lệ nơi ngã ba sông Linh Giang hợp lưu của Nguồn Son và Rào Nan. Ngôi nhà tuổi thơ tôi gần rặng tre sau gốc bần.”Không vì danh lợi đua chen/ Thù nhà nợ nước quyết rèn bản thân” Mẹ tôi mất sớm, cha bị máy bay Mỹ giết. Tôi mồ côi mẹ cha lưu lạc từ rất nhỏ. Lời nguyền này với tiếng dội sông Linh Giang “đi như một dòng sông” thao thức suốt đời trong lòng anh chị em chúng tôi

        Nhà mình gần ngã ba sông.
        Rào Nan, Chợ Mới, Nguồn Son, Quảng Bình
        Linh Giang sông núi hữu tình
        Nơi đây cha mẹ sinh thành ra con

        “Chèo thuyền cho khuất bến Son
        Để con khỏi chộ nước non thêm buồn“

        Câu ru quặn thắt đời con
        Mẹ cha mất sớm, con còn trẻ thơ

        Ra đi từ bấy đến chừ
        Lặn trong sương khói bến đò sông quê
        Ngày xuân giữ vẹn lời thề
        Non sông mở cõi, tụ về trời Nam.

        Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là linh-giang.jpg

        Bài thơ “Linh Giang sông quê hương” là tâm tình sâu nặng của anh chị em chúng tôi đối với Làng Minh Lệ quê tôi. Nguồn Son nối Phong Nha là chuyện đời không quên: “Nghe nóng hổi nước mắt thầm vị mặn Nhớ Mẹ Cha thấm thía bữa nhường cơm Lời Cha dặn và lời Thầy nhớ mãi Một niềm tin thắp lửa giữa tâm hồn. Không vì danh lợi đua chen.Thù nhà nợ nước quyết rèn bản thân“. Mẹ tôi mất ngày mồng ba Tết Giáp Thìn 1964, cha tôi bị bom Mỹ giết ngày 29 tháng 8 năm Mậu Thân 1968. Anh chị em chúng tôi mồ côi mẹ cha và lưu lạc xa quê từ nhỏ. Lời anh Hai dặn, với tiếng dội Linh Giang “đi như một dòng sông” thao thức suốt đời chúng tôi.

        Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là nguon-son-noi-phong-nha-5.jpg

        NGUỒN SON VÀ CHỢ MỚI

        Cha mẹ tôi sau khi chuyển nhà về Chợ Mới, thì cha tôi sinh kế chính là chèo đò ngang từ chợ Mới qua sông và chèo đò dọc từ chợ Mới theo nguồn Son nối Phong Nha vào chợ Troóc, hoặc chèo đò chợ Mới đến chợ Đồn ở Thanh Khê La Hà. Cha tôi thường dậy sớm chèo đò bắt đầu từ lúc ba giờ sáng thường cho đến suốt ngày, trừ những hôm bận làm công điểm hoặc việc khác. Cha làm nghề như vậy cốt để kiếm khoai gạo nuôi con suốt mười lăm năm từ năm 1954 cho đến năm 1968 lúc ông bị bom Mỹ giết hại. Mẹ tôi làm lụng ở đất vườn nhà và bán rau, nước lá vằng ở chợ Mới để phụ thêm. Hợp tác xã có tổ chức làm công điểm nhưng cuối vụ mới được chia và vì xã nghèo nên cũng được ít. Ai cũng vậy. Chị tôi đi học phải dắt em đi học kèm để rãnh cho mẹ chạy chợ. Tôi tuổi thơ đã chăn bò và bắt cua cá, tép ven sông, Học cấp 1 trường làng nhưng lớp năm thì lên học ở trường Thọ Linh Quảng Sơn, đi về chân trần khoảng 5 cây số. Sau này khi tôi về thăm quê, vẫn bàng hoàng lấy làm lạ là không hiểu sao thuở tôi nhỏ hơn 10 tuổi lại đã có thể ‘sáng kiến’ mấy lần nương theo bò lội qua sông Linh Giang rộng đến vậy. Tôi cũng không thể tưởng tượng nổi là sao thuở ấy cha tôi chèo chiếc thuyền nan nhỏ xíu một lá, đó dọc từ nguồn Son tới Phong Nha, chèo từ ba giờ khuya trên con sông sâu.thẳm, suốt 15 năm trời mà chỉ sơ sẩy một chút là gặp hiểm. Sau khi cha tôi mất, anh mẹt Phiếm cũng chèo đó ngang. Thuyền chìm ! Anh vớt được 9 em nhỏ đi học và anh đuối nước chết (sau này, anh Phiếm được phong liệt sĩ). Lần về quê gần đây, tôi có ghé thắp hương cho anh.

        Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là nguon-son-noi-phong-nha-4-1.jpg

        Từ bến đò Chợ Mới theo Nguồn Son nối Phong Nha ngày nay là tuyến du lịch tuyệt đẹp của đường thủy lộ nối từ Chợ Mới đến Động Thiên Đường và Động Sơn Đoòng di sản thiên nhiên thế giới ở Phong Nha Kẻ Bàng. Nhưng với gia đình tôi thì nghỉ lại là rùng mình khi cha tôi chèo đò trong đêm khuya hiểm yếu, sông sâu, thuyền nhỏ, đêm khua , trời gần sáng rất lạnh

        CHUYỆN CỨU NGƯỜI CHẾT ĐUỐI

        Một hôm chưa đến ba giờ khuya, cha tôi ra thuyền đón khách chợ Troóc. Cha thấy mái chèo bị vướng. Ông lần theo mái chèo thì vớt được một xác chết. Đêm tối như mực, ông ngại nhưng lòng trắc ẩn ông vớt lên loay hoay hô hấp hồi lâu, thì người chết đuối tỉnh lại. Ông vội vàng bế vào nhà cùng mẹ tôi hơ lửa cứu sống. Bà trẻ hơn mẹ tôi ít tuổi và ói mửa rất mệt. Sau hai hôm cha tôi vẫn đi chèo đò từ rất sớm. Mẹ hái rau. Chị Huyền tôi lên giúp chị Huyên. Anh Trực tôi đã đi bộ đội. Anh Dộ đi dạy học xa ở Pháp Kệ . Tôi chăn bò và bắt tép ven sông. Nhà vắng người. Bà bị chết đuối khi tỉnh lại đã tự ý bỏ nhà đi mà không một lời dặn lại.

        Sau đó mấy tháng, chợt có một ông già mù dắt một đứa bé trạc tuổi tôi tìm đến nhà. Ông mời cha mẹ tôi ngồi lên ghế và hai ông cháu thụp lạy sống cha mẹ tôi. Ông nói rằng ông là cha của người phụ nữ chết đuối được cứu sống nọ. Bà là con ruột ông. Bà bị bệnh tâm thần, nay nhờ cha mẹ tôi cứu nên đã về nhà chết trẻ rồi. “Phúc đức đó , ông thầy bói mù nói rằng, ông là người mù lòa ăn mày, là thầy bói Cao Lao Hạ, ông nhà nghèo chẳng có cách gì để đền ơn, nên ông chỉ đến tạ ơn lời nói và giúp được cho ít lời khuyên.

        Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là nguon-son-vao-phong-nha-7.jpg

        CHUYỆN THẦY MÙ CAO HẠ

        Ông già mù bảo tôi:– Cháu đi từ giếng này đến đường chính trước cửa nhà cho ông. Giếng là nơi góc sân trước nhà, nơi mà năm trước lụt to, tràn về làm ngập mất thành giếng. Gia đình bận chạy đồ đạc, không kịp để ý. Cháu Thung (
        Thung Tran) con đầu của chị Huyên tôi đã té giếng, đang chấp chới suýt chết đuối thì tôi còn bé nhưng may lúc ấy nghĩ kịp cách vội vàng đưa chân ra cho cháu níu lấy và hai cậu cháu thoát chết, may níu được túm cỏ, bò lên). Mẹ tôi vừa kể vừa khóc.

        Tôi chạy chân sáo ra ngõ chính rất nhanh và về cũng rất nhanh trước mặt ông. Cụ hỏi:
        – Cháu tên gì? – Cháu tên là Hoàng Minh Kim. Mẹ tôi đỡ lời. – Sao ông bà đặt cho cháu tên này? – Họ và tên Hoàng Minh Kim là do tôi đặt. Cha tôi nói.

        – Vì tôi sinh cháu trong nhà lợp toóc (rạ) của khung chuồng bò do ông bà ngoại cho. Nhà tôi thuở ấy ở gần Đình Minh Lệ. Mẹ tôi nói. – Tôi sinh. Ông ấy đi kêu bà mụ. Tôi đau đẻ thì thấy có một con chuột rất to chạy qua nóc nhà, mồm ngậm một cục vàng to như quả trứng gà, rất sáng. Tôi vội vái lấy vái để, cầu khẩn xin ông Tý cho tôi cục vàng. Con chuột dừng lại nhìn tôi chằm chằm, nhưng lắc đầu, rồi ôm cục vàng chạy mất.

        – Họ và tên Hoàng Minh Kim là vì chuyện ấy. Cha tôi xác nhận lời mẹ.– Ông bà có mấy con và nội ngoại thân thích có những ai?. Cụ già mù hỏi cha mẹ tôi Sau khi nghe kể chuyện, cụ già mù hỏi thêm: – Các bến đò chợ Đồn, chợ Troóc , bến Lội, bến Nghè, bến Đình, … Ông chèo bến mô nhiều hơn?

        – Chợ Mới đi Nguồn Son tới Phong Nha, chợ Troóc, là nhiều hơn cả. Cha tôi nói: – Bên nội, tôi có hai anh em trai và một em gái. Anh trai tôi mất sớm. Em gái út tôi thì lấy chồng chợ Troóc cũng nghèo. Bên ngoại thì khá hơn, nhưng cũng nghèo. Nhà ngoại có hai chị em gái và một cậu em út mất sớm. Hai bên nội ngoại ông bà đều chết sớm. Tôi làm nông nhưng đủ ăn qua ngày là nhờ chèo đò.

        Cha tôi hỏi cụ già mù: Nhà tôi trước đây ở rất gần Đình Minh Lệ, nhà hướng nam, ngoảnh mặt về với Rào Nan và đình, nhưng sao nhà quá nghèo khổ, phải bỏ nền nhà ông nhà cha mẹ mà đi. Vợ chồng tôi chuyển nhà về xóm Chợ Mới để dễ kiếm cơm nuôi con. Nghề là làm ruộng nhưng việc chính tôi chèo đò, vợ chạy chợ, bán mớ rau, ít nước chè lá vằng, thỉnh thoảng hàng chợ phiên Troóc, Ba Đồn đưa về, để đắp đổi sống qua ngày. Nhà tôi quay lưng hướng sông ngoảnh mặt ra ngã ba đường chính ,từ hướng chợ Hòa Ninh đi vô, hướng hói Đồng đi lên, hướng ga Minh Lệ đi xuống. Mấy người nói thế là hướng sai nhưng tôi giữ lối trung chính, thuận đường. Ông đi qua bà đi lại chào hỏi nhau được. Cụ nghĩ vậy là phải chứ?

        – Ông còn chuyện gì khác mà phải chuyển nhà từ xóm Đình về xóm Chợ Mới ? Cụ già hỏi.

        – Không! Mưu sinh, đường sống là chính. Sang đây thêm chèo đò, chạy chợ mới sống được. Nhất cận thị, nhị cận sông mới bớt khổ. Vì vợ chồng tôi đau yếu, nghèo khổ quá. Cha tôi nói thêm.

        – Tôi bị Pháp bắt đi lính khố đỏ để đi đánh nhau bên Tây. Tôi đã vô Đà Nẵng, nhưng được anh em giác ngộ nên theo Vệ Quốc Đoàn đánh Tây suốt nhiều năm mãi đến năm 1951 là bệnh binh mới giải ngũ, trên cho về quê. Bệnh sốt rét phù thủng đọa đày tôi hết mức chết đi sống lại, mẹ nó đã khổ càng thêm khổ Tôi tánh nghĩa khí, trung trực, trọng lẽ phải, cứ theo điều hay lẽ phải mà làm, im nghe người ta nói không cãi, nhưng làm thì nhất định chỉ làm điều mà mình cho là phải, khi đã làm thì quyết làm cho bằng được, không hề sợ bất cứ ai, lượng sức lựa thế mà làm, không làm liều, không nghe người ta xui. Bà nhà tôi thì đức độ, hiền từ, nết ăn ở như đọi nước đầy, làng trên xóm dưới ai cũng thương. Cụ nói đi:.Nhà tôi gần ngã ba sông lại gần ngã ba đường thì hướng nhà nên làm sao?

        – Linh Giang thông đại hải. Ngũ Lĩnh tiếp Cao Sơn. Đi như một dòng sông. Cuối dòng sông là biển. Cháu nhớ khẩu quyết chứ? Cụ già không trả lời cha mà quay sang bảo tôi.

        – Hướng nhà theo thế Lục Môn. Đúng. Tôi nhìn theo tay ông chỉ. Nhà tôi lưng tựa Cao Sơn, xuôi chiều theo thế nước Nguồn Son lao thẳng về, đúng là thế nước hiểm, phải cuốn theo chiều nước, đi như một dòng sông, lá về nơi vô định. Đình Minh Lệ Linh Giang thông đại hải, đình hướng chính Đông biển lớn. Ngũ Lĩnh nối Cao Sơn, Đá Đứng chốn sông thiêng là hướng ngọc phương Nam, như rồng xanh Trường Sơn cuộn mình.

        – Đất này sao đã quý hiếm mà lại hiểm? Cha tôi thắc mắc. – Vì rất rất cao giá !.Gian nan nên người hay. Thời thế tạo anh hùng. Địa linh sinh nhân kiệt. Nhân kiệt sáng địa linh. Đất sông núi thiêng này phát sinh những dòng họ lớn ! Ông già xuống giọng thầm thì. Ngã ba sông Chợ Mới là hiểm địa. Đá Đứng chốn sông thiêng là rất rất hiểm địa. Ông có biết vì sao đối diện Bến Lội Đền Bốn Miếu là động Ma Ca không? Thiêng lắm đấy, vì có quá nhiều người chết. Đây là nơi chính phân tranh từ nhiều đời. Thời Cao Vương lập đá Đứng bỏ bút thần. Thời Núi Đá Bia ngón tay minh sư thệ trời xanh bước qua lời nguyền chia cắt đấy. Giá máu xương cao lắm ! Chỗ cao giá hiểm nguy. Ông già nói .

        – Nguồn Son Rào Nan hợp lưu thành Linh Gianh, giữa sông lại có Cồn, đó là … của người phụ nữ. Ông nghĩa khí trung trực, bà hiền từ đức độ, nhà có phước, sẽ thành dòng họ lớn ở phương xa, không thua kém người ta, nhưng ông bà không được hưởng lộc con. Cụ già mù kết luận. Đó là điều lạ thứ hai lời dặn của ông già mù Cao Lao Hạ, tự truyện ‘Linh Giang Đình Minh Lệ’ ngoài những thông tin địa chí lịch sử văn hóa mà tôi đã đúc kết thành bài dài.

        – Không phải ngẫu nhiên mà Pháp chọn Đà Nẵng làm điểm khởi đầu trong kế hoạch đánh chiếm Việt Nam đâu. Có lý cả đấy ! Vì Kinh đô Huế nằm ở Bắc Hải Vân mà thế và lực với sự thông thuộc của Nhà Nguyễn chính là đất phương Nam trong khi Hoành Sơn Linh Giang Lũy Thầy lại là tuyến ba tầng thủ hiểm che chắn Kinh đô Huế ở mặt Bắc nên Pháp không chọn đánh Thanh Khê đó thôi – Nhưng Linh Giang chính là hiểm địa, bẻ đôi Việt Nam. Ông già mù nói

        . Cụ nói đúng, Bố tôi lập tức nhỏm dậy. Vì tôi đã bị bắt đi đi lính Pháp để đưa sang đánh nhau bên Tây, đóng quân ở Đà Nẵng bên sông Hàn, sau đó tôi trốn theo Vệ Quốc Đoàn nên rất thông thuộc địa hình đó. Pháp nếu đứng chân được ở Đà Nẵng thì chẹn được mặt Nam, cô lập kinh thành Huế, mẹo ‘đánh rắn giập đầu’ rất mau thắng được dân Nam..

        – Trận Đà Nẵng năm 1857 tụi Pháp thua. Cha tôi nói. – Vì tướng Nguyễn Tri Phương giỏi cầm quân, Ông ấy tránh đánh trực diện mà dùng phục binh, lập kế ‘đóng cửa đánh chó’ làm “vườn không, nhà trống” triệt hết đường tiếp tế của địch, cách ly và xử nghiêm tụi gián điệp đội lốt giáo sĩ, giáo dân. Ông lại cho đắp lũy kiểu như Lũy Thầy, bao vây chẹn họng địch ra biển, vây đánh trường kỳ không cần thắng nhanh, nên trận Đà Nẵng bên mình thắng Pháp phải chuyển vào đánh thành Gia Định, chiếm dần đất đai của mình từ phương Nam theo kiểu tằm ăn lá dâu.

        – Ông giỏi sử thiệt. Cụ già khen. – Tôi ít học nhưng rất thích đọc sách Tam Quốc. Cha tôi nói : – Tôi thông gia với ông mẹt Rịnh thường kêu thằng Kim đọc sách Tam Quốc cho tôi và ông Rịnh nghe. Hôm nào ông Rịnh hoặc ông Thìn đến chơi, tôi không khi nào không kêu thằng Kim đọc sách Tam Quốc và sách Kiều, đến mức nó thuộc và kể được đấy. Mẹ nó thì mê nhất Lục Vân Tiên kế đến Kiều và Phạm Công Cúc Hoa.

        – Cháu đọc cho ông nghe một đoạn nào? Cụ già nói. Tôi ngước mắt nhìn Mẹ, Mẹ tôi cười khuyến khích: – Con đọc đi Tôi đọc đoạn ông quán trong thơ Lục Vân Tiên mà mẹ thích:

        – Thương ông Gia Cát tài lành,
        Gặp cơn Hán mạt, đã đành phôi pha.
        Thương thầy Đồng tử cao xa,
        Chí thời có chí, ngôi mà không ngôi.

        Thương người Nguyên Lượng bùi ngùi,
        Lỡ bề giúp nước lại lui về cày.
        Thương ông Hàn Dũ chẳng may,
        Sớm dâng lời biểu tối đày đi xa.

        Thương thầy Liêm Lạc đã ra,
        Bị lời xua đuổi về nhà giáo dân.
        Xem qua kinh sử mấy lần,
        Nửa phần lại ghét, nửa phần lại thương.

        – Địch đánh vô Thanh Khê cửa Hác không dễ. Bố tôi miên man kể. Ông nhớ thời lính tráng của ông: – Tôi dự nhiều trân đánh Pháp cùng thời và cùng đơn vị với Lâm Úy. Tôi ở đại đội 2 tiểu đoàn 274 của ông Lê Văn Tri làm tiểu đoàn trưởng thuộc Trung đoàn 18. Tôi vô sinh ra tử nhiều trận cùng anh em. Chỉ tiếc là đến năm 1951 bị đau bệnh sốt rét phù thủng ngã nước quá yếu trong khi đơn vị thiếu thốn thuốc men chữa trị và điều kiện chăm sóc nên trên mới phải cho giải ngũ về quê. Nếu không thì tôi đến nay đã nhất xanh cỏ nhì đỏ ngực rồi.

        – Ông Lê Văn Tri là người Cao Hạ cùng làng với tôi. Sau này ông làm tướng rất to Cụ gìa nói – Trân Phú Trịch Là Hà, địa thế và cách dàn quân hai bên cũng lựa thế hiểm yếu như là trận Bạch Đằng. Voi trận của Đức Thánh Trần sa lầy ở Sông Hóa. Các trận địa phục kích cũng là các cồn tại các ngả ba sông hiểm yếu như Chợ Mới, La Hà Phú Trịch vậy. Lời thề trên sông Hóa “Chuyến đi này không thắng, ta thề không về lại nơi này!” của đức Thánh Trần cũng như lời thề quyết tử chiến của đội cảm tử 15 trận Phú Trịch La Hà đã chết như voi trận của đức Thánh Tràn chết vậy. Cha tôi nói

        – Đá Đứng chốn sông thiêng Cầu Minh Lệ Rào Nan Bến Lội Đền Bốn Miếu là nơi rất rất hiểm. Ông già lại xuống giọng thầm thì. Ngã ba sông Chợ Mới là hiểm địa. Đá Đứng chốn sông thiêng là rất rất hiểm địa. Ông có biết vì sao đối diện Bến Lội Đền Bốn Miếu là động Ma Ca không? Thiêng lắm đấy, vì có quá nhiều người chết. Đây là nơi chính phân tranh từ nhiều đời. Thời Cao Vương lập đá Đứng bỏ bút thần. Thời Núi Đá Bia ngón tay minh sư thệ trời xanh bước qua lời nguyền chia cắt đấy. Giá máu xương cao lắm ! Chỗ cao giá hiểm nguy. Cụ già lặp lại.

        Cụ già quay sang tôi, bắt tôi nhắc lại mấy lời khẩu quyết. Cao cát Mạc sơn / Sơn Hà Cảnh Thổ / Văn Võ Cổ Kim / Linh Giang thông đại hải / Ngũ Lĩnh tiếp Cao Sơn / Đình Bảng Cao Lao Hạ / Miếu cổ thủy sơn thần./ …. Mắt ông rất thành khẩn. Hốc mắt ông dường như có nước mắt. Người ông khoan thai thần bí và trầm tĩnh lạ lùng. Tôi cẩn thận lặp lại. Cha mẹ tôi im nghe và tỏ vẻ khuyến khích con. Cụ già nói chậm rãi: Ông bà thay tên cho ’em’ đi: Hoàng Kim tốt hơn Hoàng Minh Kim. Ông tánh trung trực nghĩXem tiếp >>

          Dạy và học 21 tháng 9(21-09-2021)


        DẠY VÀ HỌC 21 THÁNG 9
        Hoàng Kim
        CNM365 Tình yêu cuộc sốngĐất Mẹ vùng di sản; Trăng rằm đêm Trung Thu; Giống khoai lang Việt Nam; Giống khoai lang HL518Giống khoai lang HL491; Giống khoai Hoàng Long: Food Crops Ngọc Phương Nam; Bảo tồn và phát triển sắn; Làng Minh Lệ quê tôi; Ngày 21 tháng 9 Ngày Quốc tế Hòa bình (International Day of Peace) (trước đây là ngày khai mạc Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc). Ngày 21 tháng 9 năm 1820 , Đế quốc Maratha là cựu Đế quốc và vương quốc tại Ấn Độ bị diệt vong sau khi chiến bại trước Anh Quốc, Công ty Đông Ấn Anh tiếp tục củng cố địa vị tại Ấn Độ. Ngày 21 tháng 9 năm 1832 là ngày mất của Sir Walter Scott, nhà văn và nhà thơ lãng mạn nổi tiếng người Scotland (sinh năm 1771) với nhiều tác phẩm được coi là đại diện cho nền văn học cổ điển Anh, như Ivanhoe (Ai-van-hô), Rob Roy, Waverley, Trái tim của Midlothian (The Heart of Midlothian). Bài chọn lọc ngày 21 tháng 9: Đất Mẹ vùng di sản; Trăng rằm đêm Trung Thu; Giống khoai lang Việt Nam; Giống khoai lang HL518Giống khoai lang HL491; Giống khoai Hoàng Long: Food Crops Ngọc Phương Nam; Bảo tồn và phát triển sắn; Làng Minh Lệ quê tôi; Ta về trời đất Hồng Lam, Nguồn Son nối Phong Nha, Linh Giang sông quê hương; Ta về với Linh Giang, Lời thề trên sông Hóa; Ông Rhodes chữ tiếng Việt; Nguyễn Trãi kiệt tác thơ văn; Trầm tích ngọc cho đời; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-21-thang-9/

        ĐẤT MẸ VÙNG DI SẢN
        Hoàng Kim

        Lên chùa Đồng Yên Tử
        Đến Kiếp Bạc Côn Sơn
        Vào Tràng An Bái Đính
        Về Nghĩa Lĩnh, Đền Hùng

        Thăm Trường xưa Hà Bắc
        Nhớ Linh Giang quê hương
        Động Thiên Đường tuyệt đẹp

        Biển Nhật Lệ Quảng Bình

        Đất Mẹ vùng di sản
        Nguồn Son nối Phong Nha
        Biển xanh kề núi thẳm
        Mừng bạn về Quê Choa

        Quảng Bình là vùng di sản địa linh nhân kiệt, nơi trung độ gánh hai đầu đất nước, nơi giao thoa và tiếp biến văn hoá lịch sử trên cả hai chiều Bắc Nam và Đông Tây. Đây là vùng danh thắng hang động và vùng rừng nguyên sinh có giá trị du lịch sinh thái rất nổi tiêng như Vườn quốc gia Phong Nha Kẻ Bàng, khu bảo tồn thiên nhiên Khe Nét, khu bảo tồn thiên nhiên núi Giăng Màn, khu bảo tồn thiên nhiên Khe Ve. Đây cũng là vùng cảnh quan hấp dẫn của nhiều cụm du lịch đầy tiềm năng như Đèo Ngang, Sông Roòn, vũng nước sâu Hòn La, Sông Gianh, đèo Lý Hoà, sông Nhật Lệ, Luỹ Thầy, Sông Dinh, suối nước nóng Bang, Bàu Tró, phá Hạc Hải, Lèn Bảng, Minh Cầm…Quảng Bình cũng là vùng đất có nhiều người con lỗi lạc trong lịch sử dân tộc như Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Hữu Cảnh, Dương Văn An, Nguyễn Hàm Ninh, … Nay đón bạn về thăm, xin lưu lại chùm thơ và một số hình ảnh

        NÔI SINH THÁI QUẢNG BÌNH
        Hoàng Kim

        Báu vật nơi đất Việt
        Hoành Sơn với Linh Giang
        Đồng Hới sông Nhật Lệ
        Nguồn Son nối Phong Nha

        Đất Mẹ vùng di sản
        Cầu Minh Lệ Rào Nan
        Bến Lội Đền Bốn Miếu
        Đá Đứng chốn sông thiêng

        Bài đồng dao huyền thoại:
        Cao cát Mạc sơn
        Sơn Hà Cảnh Thổ
        Văn Võ Cổ Kim

        Linh Giang thông đại hải
        Ngũ Lĩnh tiếp Cao Sơn
        Đình Bảng Cao Lao Hạ
        Miếu cổ thủy sơn thần
        .”

        Kiệt tác chốn trần gian
        Linh Giang Đình Minh Lệ
        Chợ Đồn qua Chợ Mới
        Nguồn Son nối Phong Nha
        Đá Đứng kết Sơn Đoòng

        TA VỀ VỚI LINH GIANG
        Hoàng Kim

        Ta về với Linh Giang
        Lời thề trên sông Hóa
        Ta khóc khi ra đi
        Tâm bình lặng lúc về

        Làng Minh Lệ quê tôi
        Đất Mẹ vùng di sản;
        Linh Giang, Đình Minh Lệ;
        Nguồn Son nối Phong Nha

        Hoành Sơn với Linh Giang
        Đá Đứng chốn sông thiêng
        Sông Nhật Lệ Lũy Thầy
        Tuyến ba tầng thủ hiểm

        Nam tiến của người Việt
        Cao Biền trong sử Việt
        Trúc Lâm Trần Nhân Tông
        Đào Duy Từ còn mãi

        Bài ca Trường Quảng Trạch
        Lời dặn của Thánh Trần
        Cuối dòng sông là biển
        Hoa Đất thương lời hiền

        Ta về với Linh Giang
        Sông đời thao thiết chảy…

        Ảnh
        Ảnh
        Ảnh
        Ảnh
        Ảnh
        Ảnh
        Ảnh
        Ảnh
        Ảnh
        Ảnh
        Ảnh
        Ảnh
        Ảnh
        Ảnh
        Ảnh
        Ảnh
        Ảnh
        Ảnh
        Ảnh
        Ảnh
        Ảnh
        Ảnh
        Ảnh
        Ảnh
        Trăng rằm

        TRĂNG RẰM ĐÊM TRUNG THU
        Hoàng Kim

        Đêm Vu Lan nhớ bài thơ đi học
        Thấm nhọc nhằn củ sắn củ khoai
        Nhớ tay Chị gối đầu khi Mẹ mất
        Thương Cha, Anh căn dặn học làm Người

        Trăng rằm đêm Trung Thu
        Đêm Vu Lan mờ tỏ
        Trăng rằm khuya lồng lộng giữa trời
        Thăm thẳm một lời Người nói …

        Mẹ cũ như ngôi nhà cũ
        Chiếc áo mẹ mang bạc phếch tháng năm
        Cha cũ như con thuyền cũ
        Dòng sông quê hương thao thiết đời con

        Anh chị cũ tình vẹn nghĩa
        Trọn đời thương nhau lồng lộng trăng rằm
        Em tôi hồn quê dáng cũ
        Con cháu niềm vui thơm thảo tháng năm

        Thầy bạn lộc xuân đầy đặn
        Bài ca thời gian ngời ngợi trăng rằm.

        Ngày mới và đêm Vu Lan
        Vầng trăng Sao Hôm Sao Kim thân thiết.
        Loanh quanh tìm tòi cái mới
        Đêm Vu Lan thức về lại chính mình.

        Đêm Vu Lan nhớ mùa thu đi học
        Nhớ ngọn đèn mờ tỏ giấc mơ xưa
        Thương con vạc gọi sao mai mọc sớm
        Vầng trăng khuya thăm thẳm giữa tâm hồn

        Thắp đèn lên đi em
        Trăng rằm soi ký ức
        Thương nhớ bài thơ cũ
        Chuyện đời không thể quên …

        Gốc mai vàng trước ngõ (1)
        Em ơi can đảm lên (2)
        Một niềm tin thắp lửa (3)
        Lời Thầy luôn theo em (4)

        Bài ca Trường Quảng Trạch (5)
        Thắp đèn lên đi em (6)
        Ban mai đứng trước biển (7)
        Hoa Đất thương lời hiền (8)

        Về lại bến sông xưa (9)
        Đất Mẹ vùng di sản (10)
        Làng Minh Lệ quê tôi (11)
        Quảng Bình đất Mẹ ơn Người (12)

        Giấc mơ lành yêu thương (13)
        Bài đồng dao huyền thoại (14)
        Hoàng Thành đến Trúc Lâm (15)
        Bài ca nhịp thời gian (16)

        Trăng rằm đêm Trung Thu (17)
        Hoa và Ong Hoa Người (18)
        Ngày mới lời yêu thương (19)
        Đối thoại với Thiền sư (20)

        * 1-20 là
        Những bài thơ không quênhttps://hoangkimlong.wordpress.com/category/trang-ram-dem-trung-thu

        Trăng rằm xưa và nay
        TRĂNG RẰM VUI CHƠI GIĂNG
        Hoàng Kim
        :

        Em đi chơi cùng Mẹ
        Trăng rằm vui chơi giăng
        Thảo thơm vui đầy đặn
        Ân tình cùng nước non.

        Trăng khuyết rồi lại tròn
        An nhiên cùng năm tháng
        Ơi vầng trăng cổ tích
        Soi sáng sân nhà em.

        Đêm nay là đêm nao?
        Ban mai vừa ló dạng
        Trăng rằm soi bóng nắng
        Bạch Ngọc trời phương em

        *

        Trăng rằm đường sáng dạo chơi giăng,
        Nhớ Bác đôi câu hỏi chị Hằng:
        “Thế nước thịnh suy sao đoán định?
        Lòng dân tan hợp biết hay chăng?
        Vành đai thế biến nhiều mưu hiểm,
        Con đường lực chuyển lắm lăng nhăng?
        Dân Nam Tiếng Việt nhiều gian khó
        Hưng thịnh làm sao hỡi chị Hằng?”.

        *
        “Bác Hồ thơ ‘Chơi giăng’ đó ông
        Vầng trăng cổ tích sáng non sông,
        Tâm sáng đức cao chăm việc tốt
        Chí bền trung hiếu quyết thắng không?
        Nội loạn dẹp tan loài phản quốc
        Ngoại xâm khôn khéo giữ tương đồng.
        Khó dẫu vạn lần dân cũng vượt.
        Lòng dân thế nước chắc thành công”.

        Nguyên vận thơ Bác Hồ
        CHƠI GIĂNG
        Hồ Chí Minh


        Gặp tuần trăng sáng, dạo chơi giăng,
        Sẵn nhắn vài câu hỏi chị Hằng:
        “Non nước tơi bời sao vậy nhỉ?
        Nhân dân cực khổ biết hay chăng?
        Khi nào kéo được quân anh dũng,
        Để dẹp cho tàn bọn nhố nhăng?
        Nam Việt bao giờ thì giải phóng
        Nói cho nghe thử, hỡi cô Hằng?”.

        *
        Nguyệt rằng: “Tôi kính trả lời ông:
        Tôi đã từng soi khắp núi sông,
        Muốn biết tự do chầy hay chóng,
        Thì xem tổ chức khắp hay không.
        Nước nhà giành lại nhờ tài sắt,
        Sự nghiệp làm nên bởi chữ đồng.
        Tổ chức, tuyên truyền càng rộng rãi,
        Tức là cách mệnh chóng thành công”.

        Báo Việt Nam độc lập, số 135, ngày 21-8-1942. Nguồn: Hồ Chí Minh toàn tập (tập 3), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000 xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/trang-ram-vui-choi-giang/

        DemNguyenTieu

        TRĂNG RẰM SEN TÂY HỒ
        Hoàng Kim

        Trăng sáng lung linh, trăng sáng quá!
        Đất trời lồng lộng một màu trăng
        Dẫu đêm khuya vắng người quên ngắm
        Trăng vẫn là trăng, trăng vẫn rằm.

        Rằm Tháng Giêng năm 1994 gần nửa đêm là lúc mất của anh hai tôi Hoàng Ngọc Dộ, cũng là thời khắc tôi chào đời Rằm Tháng Giêng năm Giáp Ngọ 1954. Anh hai tôi lúc sinh thời có bài thơ Cuốc đất đêm, sau nay tôi tích hợp vào bài thơ Ta hẹn em uống rượu ngắm trăng.

        Bài tứ tuyệt “Trăng rằm sen Tây Hồ” được anh Gia Dũng chọn đưa vào “Ngàn năm thương nhớ” tuyển thơ Thăng Long Hà Nội (1010-2010) và anh Nguyễn Chu Nhạc có bài thơ Con chim xanh với bảy chữ xanh ngẫu đối với bảy chữ trăng trong “Trăng rằm sen Tây Hồ”; Nhà thơ Nguyễn Lâm Cúc có chùm thơ Đãi trăng, Không hẹn hò đời hóa hoang vu; Hát vu vơ thật hay. Tôi đã lưu lại chung chuyên trang này để làm kỷ niệm trong thông tin ‘Trăng rằm sen Tây Hồ’ tại https://hoangkimlong.wordpress.com/2015/03/05/trang_ram-sen-tay-ho/ . Năm nay nhân cậu Hoàng Gia Cương đã bảo tồn bài thơ “Hồ Gươm” của ông Minh Sơn Hoàng Bá Chuân là em ruột của bà ngoại tôi với cậu tôi là bài “Rùa ơi”. Tôi xin được chép về ở chung trang này https://hoangkimlong.wordpress.com/category/trang-ram-sen-tay-ho/

        Hồ Gươm
        Minh Sơn Hoàng Bá Chuân

        Tô điểm Hà Thành một hạt châu
        Ấy hồ Lục Thủy tiếng từ lâu
        Trăng vờn cổ thụ mây lồng nước
        Tháp hướng trời xanh gió lộng cầu !
        Kiếm bạc hưng bang rùa vẫn ngậm?
        Bút son kiến quốc hạc đương chầu !
        Trùng trùng lá biếc hoa phơi gấm
        Kía tượng vua Lê chót vót cao !

        Minh Sơn Hoàng Bá Chuân NGÀN NĂM THƯƠNG NHỚ
        Gia Dũng Tuyển thơ Thăng Long Hà Nội, trang 782

        Rùa ơi
        Hoàng Gia Cương

        Rùa ơi, quá nặng phải không
        Cõng bia Tiến sĩ lưng còng vậy ư?
        Mấy trăm năm gội nắng mưa
        Dẫu cho mòn đá cũng chưa xao lòng!

        Hoa đời như sắc phù dung
        Đổi thay sớm tối, khôn lường thịnh suy
        Ngàn năm còn mất những gì
        Mà hàng bia vẫn rạng ghi tên người!

        Biết ơn rùa lắm rùa ơi
        Giữ cho ta một khoảng trời nhân văn
        Để tôn vinh bậc trí nhân
        Để nền văn hiến nghìn năm không nhòa

        Rùa ơi ta chẳng là ta
        Nếu như đạo học lìa xa đất này

        Hoàng Gia Cương NGÀN NĂM THƯƠNG NHỚ
        Gia Dũng Tuyển thơ Thăng Long Hà Nội, trang 932
        Hoàng Gia Cương THEO DÒNG THỜI GIAN
        Thơ tuyển chọn 2013. NXB Văn Học Hà Nội, tr. 266

        Cuốc đất đêm
        Hoàng Ngọc Dộ

        Mười lăm trăng qủa thật tròn
        Anh hùng thời vận hãy còn gian nan
        Đêm trăng nhát cuốc xới vàng
        Trăng dòm, ta hẹn, trăng càng dòm thêm
        Đất vàng, vàng ánh trăng đêm
        Đêm khuya, ta với nàng quên nhọc nhằn.

        Con chim xanh
        Chu Nhạc

        Con chim xanh trong tán lá xanh
        Chỉ một màu xanh lay động
        Tiếng hót nào trên trời xanh cao rộng
        Con chim xanh bay rồi tán lá vẫn xanh.

        (*) Ngẫu đối Chim xanh 7 chữ xanh và Trăng rằm 7 chữ trăng.

        Ta hẹn em uống rượu ngắm trăng
        Hoàng Kim
        Thân tặng Lâm Cúc

        Ta hẹn em uống rượu ngắm trăng
        Mấy khi đời có một người tri kỷ?
        Nâng chén nhé!
        Trăng vàng như giọt lệ
        Buồn ư em?
        Trăng vằng vặc trên đầu!

        Ta nhớ Anh ta xưa mưa nắng dãi dầu
        Khi biệt thế gian chọn trăng làm bạn
        “Trăng tán trời mưa, trăng quầng trời hạn”
        Dâu bể cuộc đời đâu chỉ trăm năm?

        Mười lăm trăng qủa thật tròn
        Anh hùng thời vận hãy còn gian nan
        Đêm trăng nhát cuốc xới vàng
        Trăng dòm, ta hẹn, trăng càng dòm thêm
        Đất vàng, vàng ánh trăng đêm
        Đêm khuya, ta với nàng quên nhọc nhằn (1)

        Ta mời em uống rượu ngắm trăng
        Mấy khi đời có một người tri kỷ?
        Nâng chén nhé!
        Trăng vàng như giọt lệ
        Vui ư em?
        Trăng lồng lộng trên đầu!

        Ta nhớ Bạn ta vào tận vùng sâu
        Để kiếm tìm ta, người thanh xứ núi
        Cởi bỏ cân đai xênh xang áo mũ
        Rượu đế, thưởng trăng, chân đất, đũa tre.

        Hoa mận chờ trăng nhạt bóng đêm
        Trăng lên vời vợi vẫn êm đềm
        Trăng qua vườn mận, trăng thêm sáng
        Mận đón trăng về, hoa trắng thêm

        Ta cùng em uống rượu ngắm trăng
        Ta có một tình yêu lặng lẽ
        Hãy uống đi em!
        Mặc đời dâu bể.
        Trăng khuyết lại tròn
        Mấy kẻ tri âm?

        Trăng sáng lung linh, trăng sáng quá!
        Đất trời lồng lộng một màu trăng
        Dẫu đêm khuya vắng người quên ngắm
        Trăng vẫn là trăng, trăng vẫn rằm

        Hoàng Kim
        1) Hoàng Ngọc Dộ. Cuốc đất đêm

        GIỐNG KHOAI LANG HL518
        Hoàng Long, Hoàng Kim, Nguyễn Văn Phu

        Nguồn gốc giống: Giống khoai lang HL518 (Nhật đỏ) là giống khoai lang Việt Nam ưu tú có nguồn gốc từ tổ hợp lai Kokey 14 Nhật Bản polycross, tạo giống tại Việt Nam; giống do Trung tâm Nghiên cứu Thực nghiệm Nông nghiệp Hưng Lộc, Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam chọn tạo và giới thiệu (Nguyễn Thị Thủy, Hoàng Kim, Trần Công Khanh, Nguyễn Thị Sâm 1997) Giống khoai lang HL518 (Nhật đỏ) đã được Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn công nhận giống năm 1997; hiện trồng phổ biến trong sản xuất và bán nhiều ở các siêu thị (*).

        Đặc tính giống: HL518 là giống khoai lang rất ngon. Thời gian sinh trưởng từ 95 đến 110 ngày. Năng suất củ tươi: 17-32 tấn/ha, tỷ lệ chất khô 27-30%. chất lượng củ luộc rất ngon, vỏ củ màu đỏ đậm, thịt củ màu cam đậm, dạng củ đều đẹp, dây xanh tím, nhiễm nhẹ sùng, hà và sâu đục dây. Các chợ và siêu thị trên toàn quốc đều có bán. Mười kỹ thuật canh tác khoai lang cần tuyển lại hệ củ theo bản tả kỹ thuật đã đăng ký, để đảm bảo chất lượng và năng suất.

        (*) Notes: Ghi chú:
        Nguyễn Thị Thủy, Hoàng Kim, Trần Công Khanh, Nguyễn Thị Sâm 1997. Hai giống khoai lang mới HL518 và HL491. Tài liệu báo cáo công nhận hai giống khoai lang HL518 và HL419. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn. Hội nghị khoa học kỹ thuật nông nghiệp ở các tỉnh phía Nam tổ chức tại thành phố Hồ Chí Minh ngày 16-18/9/1997. 18 trang. Two new sweet potato varieties: HL 518 and HL 491. In: MARD Proc. Vietnam Agricultural Research Workshop held in Ho Chi Minh City, Vietnam, Sep 16- 18/1997. 18p.

        Giong Khoai lang HL518 NhatDo


        Hỏi: Giống khoai lang HL518 Nhật Đỏ làm sao để nhận diện giống? cần mua đúng loại giống khoai ngon này để ăn và trồng thì nên mua ở đâu để có giá tốt và không bị lầm? Thầy Hoàng Kim và Nguyễn Thị Thủy, Trần Công Khanh Nguyễn Thị Sâm, là tác giả giống, có còn tiếp tục giúp tư vấn sản xuất, tiêu thụ đối với giống khoai lang này không? hiện nay ai có thể giúp làm việc bảo tồn phát triển giống khoai lang ngon cao sản này?

        Tiến sĩ Hoàng Kim trả lời:
        1) Giống khoai lang HL518 Nhật Đỏ nhận diện giống cần đối chiếu hình ảnh củ và thận lá với chi tiết bản tả kỹ thuật HL518 của Nguyễn Thị Thủy,Hoàng Kim, Trần Công Khanh, Nguyễn Thị Sâm 1997:Hai giống khoai lang mới HL518 và HL491 (Two new sweet potato varieties: HL 518 and HL 491) Tài liệu báo cáo công nhận chính thức hai giống khoai lang HL518 và HL419. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn. Hội nghị khoa học kỹ thuật nông nghiệp ở các tỉnh phía Nam tổ chức tại thành phố Hồ Chí Minh ngày 16-18/9/1997,18 trang.

        Giống khoai lang ở Việt Nam có nhiều loại với năng suất, chất lượng, thời gian sinh trưởng rất khác nhau và hiệu quả kinh tế cũng rất khác nhau. Ba giống khoai lang chất lượng ngon, cao sản được trồng phổ biến nhất là HL518 (Nhật đỏ), HL491 (Nhật tím) và Hoàng Long. Thông tin ba giống khoai lang này được tóm tắt dưới đây: xem thêm
        Giống khoai lang ở Việt Namhttps://hoangkimlong.wordpress.com/category/giong-khoai-lang-o-viet-nam/

        HL518PhuThien

        Giống khoai lang HL518
        Giống khoai lang HL518 (Nhật đỏ) do Trung tâm Nghiên cứu Thực nghiệm Nông nghiệp Hưng Lộc, Viên Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam chọn tạo và giới thiệu từ tổ hợp Kokey 14 polycross nguồn gốc Nhật Bản = CIP92031 = HL518 (Nguyễn Thị Thủy, Hoàng Kim, Trần Công Khanh, Nguyễn Thị Sâm 1997). Giống đã được Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn công nhận giống năm 1997; hiện phổ biến trong sản xuất phía Nam và bán nhiều ở các siêu thị. Đặc tính giống: Thời gian sinh trưởng: 95 -110 ngày. Năng suất củ tươi: 17-32 tấn/ha, tỷ lệ chất khô 27-30%. chất lượng củ luộc ngon, vỏ củ màu đỏ đậm, thịt củ màu cam đậm, dạng củ đều đẹp, dây xanh tím, nhiễm nhẹ sùng, hà và sâu đục dây.

        Giống khoai lang HL491 (Nhật tím)

        Giống khoai lang HL491 (Nhật tím) do Trung tâm Nghiên cứu Thực nghiệm Nông nghiệp Hưng Lộc chọn tạo và giới thiệu từ tổ hợp lai Murasa Kimasari polycross nguồn gốc Nhật Bản = CN76-2 CIP/AVRDC (Nguyễn Thị Thủy, Hoàng Kim, Trần Công Khanh, Nguyễn Thị Sâm 1997). Giống đã được Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn công nhận giống năm 1997, hiện phổ biến trong sản xuất phía Nam và bán nhiều ở c&aacutXem tiếp >>

          Dạy và học 20 tháng 9(20-09-2021)


        Bản đồ địa hình Việt Nam. Được tạo với GMT từ dữ liệu GLOBE được phát hành công khai Topographic map of Vietnam. Created with GMT from publicly released GLOBE data

        DẠY VÀ HỌC 20 THÁNG 9
        Hoàng Kim
        CNM365 Tình yêu cuộc sốngViệt Nam tổ quốc tôi; Food Crops Ngọc Phương Nam; Bảo tồn và phát triển sắn; Ta về trời đất Hồng Lam, Nguồn Son nối Phong Nha, Linh Giang sông quê hương; Ta về với Linh Giang, Lời thề trên sông Hóa; Ông Rhodes chữ tiếng Việt; Nguyễn Trãi kiệt tác thơ văn; Trầm tích ngọc cho đời; Ngày 20 tháng 9 năm 1977, Việt Nam được chính thức công nhận là thành viên thứ 149 của Liên Hiệp Quốc. Ngày 20 tháng 9 năm 1891, xe hơi đầu tiên chạy bằng xăng được trình bày tại Springfield, Massachusetts, Hoa Kỳ. Ngày 20 tháng 9 năm 1946, Liên hoan phim Cannes đầu tiên khai mạc. Năm này 11 điện ảnh đoạt Cành cọ vàng, hồi đó được gọi “Giải thưởng lớn”. Bài chọn lọc ngày 20 tháng 9: Việt Nam Tổ Quốc tôi; Food Crops Ngọc Phương Nam; Bảo tồn và phát triển sắn; Ta về trời đất Hồng Lam, Nguồn Son nối Phong Nha, Linh Giang sông quê hương; Ta về với Linh Giang, Lời thề trên sông Hóa; Ông Rhodes chữ tiếng Việt; Nguyễn Trãi kiệt tác thơ văn; Nguyễn Trãi Dục Thúy Sơn;Trầm tích ngọc cho đời; Cầu Minh Lệ Rào Nan; Nguồn Son nối Phong Nha; Cầu Trời nối Mẹ Cha xưa; Ta về với Linh Giang, Đất Mẹ vùng di sản; Thế giới trong mắt ai;Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-20-thang-9/

        Chào quý thầy bạn Cuộc Đời những bậc lão thành trong Đường tới IAS 100 năm (1925-2025) Kính chúc thầy, anh chị, bạn hữu vui khỏe.

        gaovietchatluongvathuonghieu

        FOOD CROPS NGỌC PHƯƠNG NAM
        Hoàng Kim


        Khoai Sắn Lúa Siêu Xanh
        Giống khoai lang Việt Nam
        Sắn Việt Nam ngày nay
        Lúa siêu xanh Việt Nam

        Ngô Đậu Hệ Canh Tác

        FOOD CROPS Ngọc Phương Namhttps://hoangkimlong.wordpress.com/category/food-crops-ngoc-phuong-nam kết nối Việt Nam con đường xanh, tỏa sáng giá trị Việt

        Vị thế Nông nghiệp Việt Nam rất quan trọng trong nền kinh tế. Trong đó, sản xuất tiêu thụ cây lương thực là ngành quan trọng nhất của nông nghiệp Việt Nam. Lúa là cây lương thực hàng đầu chiếm diện tích gieo trồng lớn nhất, kế đến là ngô, sắn và khoai lang. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, tổng diện tích canh tác hàng năm của cây lương thực Việt Nam (lúa, ngô, sắn và khoai lang) khoảng 9,257 triệu ha, so với diện tích cây công nghiệp lâu năm khoảng 1,885 triệu ha, cây công nghiệp hàng năm khoảng 806 nghìn ha, cây ăn quả khoảng 775 nghìn ha Vận mệnh và thời cơ luôn định hướng chi phổi mỗi quốc gia và mỗi người. Nông nghiệp Việt Nam gần đây, đang có được chiến lược, định hướng, tầm nhìn và kế hoạch thực hiện hiệu quả và thực chất hơn trong sự chuyển đổi mạnh mẽ về cây lúa. Những cây sắn, ngô khoai, đậu đỗ … cần có các đánh giá riêng.

        Gạo Việt và thương hiệu, Việt Nam con đường xanh đang nổ lực vươn tới. Những chuyển đổi tạo nên sự khác biệt. Nhớ lại những naq8m mới đây, Báo VietNamNet.vn ngày 8 tháng 10 năm 2016 đưa tin: Gạo Việt nước ngoài từ chối, người dân mất tin: Thế mạnh Việt hết thời?  Các công ty xuất khẩu gạo liên tục bị trả hàng về, còn trong nước, dân Việt cũng không tin vào gạo Việt. Thời kỳ đỉnh cao của gạo Việt đã hết, và nếu không đổi mới trong tư duy sản xuất, gạo Việt sẽ mất toàn bộ thị trường cả nội lẫn ngoại. Buôn gạo lỗ ngàn tỷ: Ông lớn Vinafood 2 thành ‘cục nợ’; Nghịch lý: Bán gạo giá rẻ, bỏ tỷ USD mua ngô Dân Việt từ chối, Campuchia xuất khẩu gạo từ giống Việt Nam Gạo Việt rồi chỉ bán được cho người nghèo; … Đọc những trang báo thuở ấy thật bùi ngùi. Không phải bây giờ và chỉ một vài người nói tư duy lối mòn hủy hoại gạo Việt, cần đột phá đổi mới cách sản xuất. Thực trạng nghề lúa Việt không chỉ “tư duy sản xuất vẫn theo lối mòn, sản xuất nhỏ lẻ manh mún, thiếu cánh đồng mẫu lớn dẫn đến chất lượng hạt gạo Việt làm ra không đồng đều, rất khó để làm thương hiệu” mà còn nhiều vấn đề khác để có được gạo Việt và thương hiệu

        KHOAI SẮN LÚA SIÊU XANH

        Tầm nhìn và đầu tư nông nghiệp chẳng thể ngắn hạn, chắp vá, thiếu căn cơ và dễ dàng đến vậy “Nếu quyết tâm làm thì chỉ cần 3-4 năm, hoặc mua ngay những thành tựu công nghệ tốt, là có thể xây dựng được thương hiệu gạo Việt chất lượng cao” . Sự thật không dễ như vậy đâu! Anh Hồ Quang Cua gạo ST để có được gạo ST25 đã qua gạo ST1 đến ST24 trước đó. Lúa siêu xanh Việt Nam từ khởi đầu đến GSR65, GSR90 là mười năm. Mời xem hình ảnh Hoa Lúa Bùn Hạt Gạo và đọc các bài viết Khoai Sắn Lúa Siêu Xanh, Dẻo thơm hạt ngọc Việt để thấu hiểu bao mồ hôi, công sức, nhọc nhằn, đầu tư, khoa học công nghệ, trí tuệ, tầm nhìn, tâm huyết, mới có bát cơm ngon như video cuối bài..

        Giống khoai lang Việt Nam phổ biến nhất hiện nay gồm Giống khoai lang HL518, Giống khoai lang HL491, Giống khoai Hoàng Long, Giống khoai lang HL4, Giống khoai Bí Đà Lạt; liên kết Mười kỹ thuật canh tác khoai lang; Liên kết sản xuất chế biến tiêu thu khoai lang hiệu quả; đọc tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/giong-khoai–lang-viet-namhttps://www.youtube.com/embed/0V0hGx2TCKA?version=3&rel=1&showsearch=0&showinfo=1&iv_load_policy=1&fs=1&hl=vi&autohide=2&wmode=transparent

        Vui học Ươm trồng khoai lang từ củ https://youtu.be/0V0hGx2TCKA

        PHÚ YÊN BẢO TỒN VÀ PHÁT TRIỂN SẮN BỀN VỮNG
        Nguyễn Thị Trúc Mai, Hoàng Kim, Hoàng Long và đồng sự

        1) Giống sắn KM419 và KM440 ở Việt Nam hiện nay là phổ biến nhất, sau cả áp lực nặng của bệnh khảm lá CMD và bệnh chổi rồng CWBD. https://youtu.be/XDM6i8vLHcIhttps://youtu.be/kjWwyW0hkbU . Chúng tôi khuyên nông dân trồng các loại giống sạch bệnh KM419, KM440, KM140, KM98-1, KM568, KM535, KK537, HN5, HLS14 KM94 (đ/c), khảo nghiệm DUS và VCU. Sắn Việt Nam bảo tồn và phát triển bền vững (Hình 1); xem tiếp   https://hoangkimlong.wordpress.com/category/chon-giong-san-khang-cmd/  [11]

        2) Mười kỹ thuật thâm canh sắn được đúc kết thành quy trình canh tác thích hợp, hiệu quả đối với điều kiện sinh thái của địa phương (Hình 2) là giải pháp tổng hợp để nâng cao giá trị và sức cạnh tranh cây sắn. Mười kỹ thuật này bao gồm: 1) Sử dụng hom giống sắn tốt nhất của giống sắn thích hợp nhất; 2) Thời gian trồng tốt nhất và thời điểm thu hoạch tối ưu để đạt năng suất tinh bột tối đa và hiệu quả kinh tế; 3) Bón phân NPK kết hợp phân hữu cơ vi sinh và phân chuồng để cải thiện độ phì đất và tăng năng suất; 4) Khoảng cách trồng tối ưu cho giống sắn tốt nhất và thích hợp loại đất; 5) Ngăn chặn sâu bệnh hại bằng phòng trừ tổng hợp IPM; 6) Trồng xen sắn với lạc, cây họ đậu; trồng băng cây đậu phủ đất, luân canh thích hợp nhất tại địa phương; 7) Dùng thuốc diệt cỏ, tấm phủ đất để kiểm soát cỏ dại kết hợp bón thúc sớm và chuyển vụ; 8) Kỹ thuật làm đất trồng sắn thích hợp để kiểm soát xói mòn đất; 9) Phát triển hệ thống quản lý nước cho canh tác sắn; 10) Đào tạo huấn luyện bảo tồn phát triển sắn bền vững, sản xuất kết hợp sử dụng sắn; xây dưng chuỗi sản xuất tiêu thụ sắn hiệu quả thích hợp. Quy trình canh tác sắn này của Việt Nam đã được công bố tại Hội thảo Cây Có Củ Thế Giới tổ chức tại Nam Ninh, Quảng Tây, Trung Quốc ngày 18 tháng 1 năm 2016 (Le Huy Ham et al. 2016) [23]  
        https://youtu.be/81aJ5-cGp28

        3) Xây dựng vườn tạo dòng của 5 tổ hợp sắn lai ưu tú nhất của tiến bộ di truyền hiện nay trong nguồn gen giống sắn tuyển chọn Thế giới và Việt Nam (Hình 3) là giải pháp căn bản, trọng tâm, thường xuyên và lâu dài để xây dựng tiềm lực khoa học chọn giống sắn tại vùng sắn trọng điểm, đi đôi với việc đào tạo nguồn nhân lực, tạo sản phẩm nổi bật, nâng cao giá trị và sức cạnh tranh của cây sắn ở mức quốc gia và khu vực.

        4) Ứng dụng công nghệ nâng cao chuỗi giá trị nông nghiệp (Technological application enhances agriculture value chain), đặc biệt chú trọng giống sắn và vùng nguyên liệu và truyền thông Chuyển đổi số nông nghiệp kết nối thị trường  https://vtv.vn/video/bizline-15-3-2020-427424.htm.và https://youtu.be/XMHEa-KewEk

        5) Bảo tồn và phát triển hệ thống sản xuất tiêu thụ sắn thích hợp bền vững: Gắn vùng giống sắn tốt, có năng suất tinh bột cao, kháng các bệnh hại chính CMD, CWBD, với các doanh nghiệp nhà nông, phục vụ nông nghiệp; Liên kết hổ trợ nông dân tổ chức sản xuất kinh doanh sắn theo chuỗi giá trị sắn; Đa dạng hóa sinh kế, gắn cây sắn với các cây trồng và vật nuôi khác; Tăng cường năng lực liên kết tiếp thị; có các chính sách hỗ trợ cần thiết.

        THÀNH TỰU VÀ BÀI HỌC SẮN VIỆT NAM

        Cách mạng sắn Việt Namhttps://youtu.be/81aJ5-cGp28, là điểm sáng toàn cầu được vinh danh tại Hội thảo Cây Có Củ Thế Giới tổ chức tại Nam Ninh, Quảng Tây, Trung Quốc từ ngày 18 đến ngày 22 tháng 1 năm 2016. Thành tựu và bài học sắn Việt Nam (2016-2021) đánh giá SWOT điểm mạnh, điểm yều, cơ hội, thách thức trong bối cảnh dịch bệnh sắn CMD và CWBD, khái quát những điểm căn bản sau đây:

        Bối cảnh dịch bệnh sắn CWBD và CMD

        Dịch bệnh chồi rồng (CWBD) gây hại sắn Việt Nam rãi rác từ năm 2005-2008, và bùng phát thành dịch bệnh ở Quảng Ngãi năm 2009 (Báo Nhân Dân 2009) [1], Dịch bệnh này sau đó trở nên nghiêm trọng ở Việt Nam, chủ yếu trên giống sắn KM 94. Năm 2008, giống sắn KM94 là giống sắn chủ lực Việt Nam có diện tích thu hoạch chiếm 75, 54% tổng diện tích sắn Việt Nam (Hoang Kim Nguyen Van Bo et al. 2011) [10]. Đến năm 2016, tỷ trọng diện tích thu hoạch giống sắn KM94 chiếm 31,8 %, trong khi giống sắn KM419 chiếm 38%. (RTB Newsletter 2016. Assessment reveals that most cassava grown in Vietnam has a CIAT pedigree) [25]. Năm 2019, giống sắn KM419 chiếm trên 42% tổng diện tích sắn toàn Việt Nam. Nguyên nhân của sự chuyển dịch này là do giống sắn KM94 cây cao, mật độ trồng thưa (10.000 -11.000 cây/ ha), thời gian sinh trưởng dài, nhiễm nặng (cấp 4) bệnh chổi rồng. Giống sắn KM419, cây thấp, mật độ trồng dày (14.500 cây/ha), thời gian sinh trưởng ngắn, nhiễm nhẹ bệnh chổi rồng (cấp 1), năng suất tinh bột vượt KM94 khoảng 29%.

        Bệnh virus khảm lá (CMD) gây hại ban đầu từ tỉnh Tây Ninh (2017) lan rộng trên 15 tỉnh thành Việt Nam (2018) và 18 tỉnh thành Việt Nam (2019) gây hại nghiêm trọng  trên giống sắn HLS11. Chương trình sắn Quốc tế ACIAR, CIAT kết nối Mạng lưới sắn toàn cầu GCP21 và các chương trình sắn Quốc gia gồm Căm pu chia, Lào, Thái Lan, Việt Nam, tại Hội nghị sắn Quốc tế lần thứ IV, ngày 11-15 tháng 6 năm 2018 tại Benin, và  Hội thảo sắn khu vực ngày 18 tháng 9 năm 2018 tại Phnôm Pênh, Campuchia và Tây Ninh Việt Nam  đã báo cáo tình trạng dịch bệnh virus khảm lá sắn (CMD) gần đây ở Đông Nam Á và phối hợp chiến lược phòng trừ dịch bệnh CMD. Những kết quả giám sát dịch bệnh đã được đúc kết thông tin tại Hội thảo sắn Quốc tế tại Lào (2019), Ấn Độ (2021) xem tiếp Sắn Việt Nam ngày nayhttps://hoangkimlong.wordpress.com/category/san-viet-nam-ngay-nay

        Thành tựu sắn Việt Nam

        Sắn Việt Nam ngày nay đã là một ngành xuất khẩu đầy triển vọng. Ở Việt Nam, sắn là cây lương thực với diện tích hơn nửa triệu ha và giá trị xuất khẩu hơn một tỷ đô la Mỹ mỗi năm. Cách mạng sắn Việt Namhttps://youtu.be/81aJ5-cGp28, với sự tham gia của hàng triệu nông dân trồng sắn Việt Nam, đã thực sự đạt được sự chuyển đổi to lớn cây sắn và ngành sắn về năng suất, sản lượng, giá trị sử dụng, hiệu quả kinh tế, thu nhập thực tế, sinh kế, việc làm và bội thu giá trị lao động sống ngành sắn cho hàng triệu người dân trên toàn quốc. Sắn Việt Nam ngày nay đã và đang tiếp tục làm cuộc cách mạng xanh mới.tiếp tục lan tỏa thành quả điển hình của sắn thế giới khi nhiều hộ nông dân tại nhiều vùng rộng lớn ở Tây Ninh đã tăng năng suất sắn trên 400%, từ 8,35 tấn/ ha năm 2000 lên trên 36,0 tấn/ ha. (FAO, 2013b). Năng suất sắn Việt Nam bình quân cả nước từ năm 2009 đến nay (2021) đã đạt trên gấp đôi so với năng suất sắn năm 2000. Điển hình tại Tây Ninh, từ năm 2011 năng suất sắn đã đạt bình quân 29,0 tấn/ ha trên diện tích thu hoạch 45,7 nghìn ha với sản lượng là 1,32 triệu tấn, so với năm 2000 năng suất sắn đạt bình quân 12,0 tấn/ ha trên diện tích thu hoạch 8,6 nghìn ha, sản lượng 9,6 nghìn tấn. Sắn lát và tinh bột sắn Việt Nam đã trở thành một trong mười mặt hàng xuất khẩu chính. Sắn Việt Nam đã thành nguồn sinh kế, cơ hội xóa đói giảm nghèo và làm giàu của nhiều hộ nông dân, hấp dẫn sự đầu tư của nhiều doanh nghiệp chế biến kinh doanh; Chi tiết thông tin tại “Cassava conservation and sustainable development in Vietnam” (Hoàng Kim et al. 2018, 2015) [7], Trong sách: Sản xuất sắn bền vững ở châu Á đối với nhiều mục đích sử dụng và cho nhiều thị trường. Reihardt Howeler (biên tập) và nhiều tác giả, CIAT 2015. Sách Vàng nghề sắn)

        Sắn Việt Nam ngày nay thành tựu nổi bật

        Thành tựu sắn Việt Nam thể hiện chính trên 6 điểm:Giống sắn chủ lực và phổ biến ngày nay ở Việt Nam; Quy trình canh tác sắn thích hợp tại mỗi điều kiện sinh thái nền tảng phát triển trên Mười kỹ thuật thâm canh sắn;Hệ thống sản xuất chế biến tiêu thụ sắn;  Hệ thống giáo dục đào tạo và khuyến nông; Hệ thống quản lý nhà nước, hổ trợ liên kết chuỗi giá trị ngành hàng sắn và xây dựng nông thôn mới

        1) Giống sắn chủ lực và phổ biến ở Việt Nam ngày nay là KI419 và KM140, trong khi chờ đợi các giống sắn mới tích hợp gen kháng bệnh CMD được khảo nghiệm (Báo Nhân Dân 2020 dẫn kết luận của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn,: các giống đối chứng tốt nhất hiện trồng tại Tây Ninh là KM419 và KM140 có năng suất 44-48 tấn/ha https://nhandan.vn/chuyen-lam-an/tim-ra-giong-san-khang-benh-kham-la-625634/ ); xem tiếp [11] Chọn giống sắn Việt Nam, https://hoangkimlong.wordpress.com/category/chon-giong-san-viet-nam/

        2) Mười kỹ thuật thâm canh sắn bảo tồn và phát triển sắn bền vững; Cây sắn Việt Nam ngày nay, giải pháp chủ yếu ngăn chặn lây lan dịch bệnh CWBD và CMD là phòng trừ tổng hợp: sử dụng giống sắn KM419, KM440, KM397, KM140, KM98-1, … ít nhiễm bệnh hơn so với KM94 và dùng nguồn giống sạch bệnh; vệ sinh đồng ruộng, tiêu hủy nguồn bệnh kịp thời; diệt rầy lá, rầy thân, nhện đỏ, rệp sáp và các loại côn trùng lây lan bệnh; cần chăm sóc sắn tốt, bón phân và làm cỏ 3 lần để tăng sức đề kháng cho cây, bố trí mùa vụ thích hợp để hạn chế dịch hại; tiêu hủy nguồn bệnh kịp thời khi bệnh xuất hiện. [11]  https://hoangkimlong.wordpress.com/category/muoi-ky-thuat-tham-canh-san/

        3) Hệ thống sản xuất chế biến tiêu thụ sắn Việt Nam ngày nay là khá tốt và năng động, có nhiều điển hình doanh nghiệp chế biến kinh doanh giỏi, hiệu quả;

        4) Hệ thống giáo dục đào tạo và khuyến nông, dạy và học cây sắn đã tập huấn kỹ thuật, bổ sung tăng cường nguồn lực kỹ thuật, khoa học, công nghệ thích hợp cho ngành sắn.

        5) Hệ thống quản lý nhà nước, hổ trợ liên kết chuỗi giá trị ngành hàng sắn, phát triển nông thôn mới,đã có sự liên kết chương trình sắn liên vùng, hợp tác quốc tế với sự sâu sát thực tiễn và hiệu quả. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã có công văn cấm sử dụng giống sắn HLS11 mẫn cảm bệnh virus khảm lá CMD; Bộ Nông nghiệp Phát triển Nông thôn, Cục Bảo vệ Thực vật số 1068/ BVTV TV ngày 3 tháng 5 năm 2019 đã xác định “V/v sử dụng giống sắn KM419 trong sản xuất” ghi rõ.“Việc hướng dẫn nông dân mua giống sắn KM419 sạch bệnh là giải pháp an toàn, kinh tế nhất so với thực trạng nhiễm bệnh khảm lá sắn hiện nay”. Chương trình sắn Quốc tế ACIAR CIAT cũng xác định giống sắn KM98-1 canh tác phổ biến nhất ở Lào.

        6) Sắn Việt Nam chuyển đổi số đã tích lũy chuyển đổi số, liên kết hổ trợ người dân,  Cách mạng sắn Việt Namhttps://youtu.be/81aJ5-cGp28, Chọn giống sắn Việt Nam; Lúa sắn Cămpuchia và Lào; Lúa sắn Việt Châu Phi; Sắn Việt Nam bài học quý; Sắn Việt Nam sách chọn; Sắn Việt Nam và Kawano; Sắn Việt Nam và Howeler; Sắn Việt và Sắn Thái; Quản lý bền vững sắn châu Á; Cassava and Vietnam: Now and Then; …

        Bài học sắn Việt Nam

        Sắn Việt Nam thành tựu và bài học (Vietnam cassava achievement and learnt lessons)  [8] đã đúc kết ba bài học Cassava in Việt Nam http://cassavaviet.blogspot.com/ (Hoang Kim, Pham Van Bien et al. 2003, Hoang Kim et al. 2013) bao gồm:

        Bài học một: 6 M.  1) Man Power Con người  2) Market Thị trường 3) Materials Giống mới, Công nghệ mới 4) Management Quản lý và Chính sách 5) Methods Phương pháp tổ chức thực hiện 6) Money Tiền.

        Bài học hai: 10 T  1) Thử nghiệm (Trials); 2) Trình diễn (Demonstrations); 3) Tập huấn (Training); 4) Trao đổi (Exchange); 5)Thăm viếng (Farmer tours); 6) Tham quan hội nghị đầu bờ (Farmer field days); 7) Thông tin tuyên truyền (Information, propaganda; 8) Thi đua (Competition); 9) Tổng kết khen thưởng (Recognition, price and reward); 10) Thành lập mạng lưới nông dân giỏi (Establish good farmers’ network.

        Bài học ba: 1F Nông dân tham gia nghiên cứu (Farmer Participatory Research – FPR)

        Sắn Việt Nam ngày nay có thêm hai bài học nối tiếp

        Bài học bốn “Nhận diện rủi ro bất cập”

        1)     Quản lý dịch bệnh hại và giống sắn. Giải pháp giám sát sự lây lan bệnh CMD lúc đầu còn lúng túng chậm trễ. Việc hủy bỏ giống HLS11.cây cao, vỏ củ nâu đỏ, bệnh CMD mức 5 rất nặng) vì sự lẫn giống đã giảm nhân giống sắn KM419 năng suất tinh bột cao, cây thấp, vỏ củ xám trắng, nhiễm  bệnh virus  khảm lá CMD mức 2-3 (Hình 4, 5). Sản xuất sắn Tây Ninh lẫn giống sắn chưa có nguồn gốc lý lịch đặc điểm giống phù hợp và thiếu hồ sơ chọn tạo [2] trong khi các giống sắn KM440, KM140, đã có đủ hồ sơ gốc DUS và VCU (Hoang Kim et al. 2018; 2015 [7];  Trần Công Khanh [25], Hoàng Kim và đồng sự 2007, 2010 [27], Nguyễn Thị Trúc Mai 2017[11, 12,13, 14, 15], Nguyễn Bạch Mai 2018 [16] Hoàng Long [17,18,19])  

        2)     Bảo vệ đất rừng, đất dốc trồng sắn và xử lý thực tiễn các vấn đề liên quan kỹ thuật canh tác sắn. Sách sắn “Quản lý bền vững sắn châu Á từ nghiên cứu đến thực hành” của tiến sĩ Reinhardt Howeler và tiến sĩ Tin Maung Aye, người dịch Hoàng Kim, Hoàng Long, Nguyễn Thị Trúc Mai, Nguyễn Bạch Mai [ 20, 21] gồm 13 chương có chương 12 “Làm thế nào để chống xói mòn đất” đã đề cập chi tiết kỹ thuật canh tác trên đất dốc trồng sắn; chương 6 “Sâu bệnh hại sắn và cách phòng trừ” có hướng dẫn biện pháp phòng trừ tổng hợp đối với bệnh CWBD, CMD, trọng điểm là sử dụng hom giống sạch bệnh của giống kháng và giống chống chịu CWBD, CMD kết hợp sự tiêu hủy nguồn bệnh và kiểm dịch thực vật nghiêm ngặt . Sách này là cẩm nang nghề sắn “thay cho những lời khuyên tốt nhất hiện có về kỹ thuật canh tác sắn sau hơn 50 năm kinh nghiệm thực tiễn kết hợp nghiên cứu và làm việc với nông dân để thấu hiểu những thách thức thực tế cuộc sống và cơ hội mà họ phải đối mặt”.

        3)     Chế biến kinh doanh sắn
        Các nhà máy ethanol Việt Namđầu tư lớn và lỗ; Nhà máy ethanol hoạt động khó khăn. Trong khi trên thế giới ngày nay, cạnh tranh nhiên liệu thực phẩm thức ăn chăn nuôi và các tác động tiềm tàng đối với các hệ thống canh tác năng lượng – cây trồng quy mô nhỏ, đã có rất nhiều sáng tạo tiến bộ khoa học công nghệ mới (John Dixon, Reinhardt Howeler et al. 2021). Sắn Nigeria sản lượng 52,4 triệu tấn năng suất sắn chỉ đạt 14,02 tấn/ha (thấp hơn sắn Việt Nam) nhưng từ năm 2011 đã có thành tựu “bếp cồn sắn” cho toàn quốc, dành được lượng lớn xăng dầu cho xuất khẩu.

        4)     Quản lý vĩ mô ngành hàng sắn còn bất cập đặc biệt là trong  dịch bệnh Covid19

        Bài học năm: Bảo tồn sắn và phát triển bền vững Phú Yên là điểm sáng điển hình

        PHÚ YÊN BẢO TỒN SẮN VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG

        Phú Yên là điểm sáng điển hình, nôi bảo tồn sắn và phát triển bền vững ở Việt Nam. Giống sắn KM419 là giống sắn chủ lực và KM440 là một trong những giống sắn triển vọng nhất của sắn Việt Nam ngày nay. Hai giống có năng suất tinh bột cao, ít bệnh, là lựa chọn của đông đảo nông dân sau  áp lực nặng của bệnh khảm lá CMD và chổi rồng CWBD. https://youtu.be/XDM6i8vLHcIXem tiếp >>

          Dạy và học 19 tháng 9(20-09-2021)


        DẠY VÀ HỌC 19 THÁNG 9
        Hoàng Kim
        CNM365 Tình yêu cuộc sốngNguyễn Trãi kiệt tác thơ văn; Nguyễn Trãi Dục Thúy Sơn;Trầm tích ngọc cho đời; Cầu Minh Lệ Rào Nan; Nguồn Son nối Phong Nha; Cầu Trời nối Mẹ Cha xưa; Ta về với Linh Giang, Đất Mẹ vùng di sản; Lời thề trên sông Hóa; Food Crops Ngọc Phương Nam; Bảo tồn và phát triển sắn; Thế giới trong mắt ai; Ngày 19 tháng 9 năm 1442,Vụ án Lệ Chi Viên: Đại thần Nguyễn Trãi của nhà Hậu Lê và gia quyến bị tru di tam tộc do bị khép vào âm mưu thí nghịch. Ngày 19 tháng 9 năm 1952 Hoa Kỳ quyết định sẽ thẩm vấn Charlie Chaplin nếu ông trở lại nước này sau khi thăm Anh Quốc vì ông là đảng viên Đảng Cộng sản. Ngày 19 tháng 9 năm 1991, Người băng Ötzi, một xác ướp tự nhiên được bảo quản rất tốt của một người đàn ông từ khoảng năm 3300 TCN, được khám phá bởi hai người Đức đi du lịch. Bài chọn lọc ngày 19 tháng 9: Nguyễn Trãi kiệt tác thơ văn; Nguyễn Trãi Dục Thúy Sơn; Trầm tích ngọc cho đời; Cầu Minh Lệ Rào Nan; Nguồn Son nối Phong Nha; Cầu Trời nối Mẹ Cha xưa; Ta về với Linh Giang, Đất Mẹ vùng di sản; Lời thề trên sông Hóa; Thiên đường này đâu quá xa; Phan Thiết có nhà tôi; Tứ Cô Nương bạn tôi; Trà sớm nhớ bạn hiền; Châu Mỹ chuyện không quên; Lúa siêu xanh Việt Nam; Food Crops Ngọc Phương Nam; Bảo tồn và phát triển sắn; Thế giới trong mắt ai; Con đường tơ lụa mới; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.comhttp://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-19-thang-9/

        NGUYỄN TRÃI KIỆT TÁC THƠ VĂN
        Hoàng Kim

        Nguyễn Trãi đã có nhiều tôn vinh, nhưng như giáo sư Phan Huy Lê đã nhận xét trong bài “Nguyễn Trãi, 560 năm sau vụ án Lệ Chi Viên“: ”Cho đến nay, sử học còn mang một món nợ đối với lịch sử, đối với Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ là chưa khám phá và đưa ra ánh sáng những con người cùng với những âm mưu và hành động lợi dụng việc từ trần đột ngột của vua Lê Thái Tông ở Lệ Chi Viên để vu oan giá hoạ dựng nên vụ án kết liễu thảm khốc cuộc đời của một anh hùng vĩ đại, một nữ sĩ tài hoa, liên luỵ đến gia đình ba họ. Với tình trạng tư liệu quá ít ỏi lại bị chính sử che đậy một cách có dụng ý, thì quả thật khó hi vọng tìm ra đủ chứng cứ để phá vụ án bí hiểm này. Nhưng lịch sử cũng rất công bằng. Với thời gian và những công trình nghiên cứu của nhiều thế hệ các nhà sử học, nhà văn học, nhà tư tưởng, nhà văn hoá…, lịch sử càng ngày càng làm sáng rõ và nâng cao nhận thức về con người và sự nghiệp của Nguyễn Trãi, về những công lao, cống hiến, những giá trị đích thực của ông trong lịch sử cứu nước và dựng nước, lịch sử văn hoá của dân tộc”. Dẫu vậy, trong tất cả những tư liệu lịch sử để lại thì tư liệu sáng giá nhất, rõ rệt nhất, sâu sắc nhất để minh oan cho Người lại chính là Những kiệt tác thơ văn Nguyễn Trãi, “Họa phúc có nguồn đâu bổng chốc, Anh hùng để hận mãi nghìn năm” “Số khó lọt vành âu bởi mệnh. Văn chưa tàn lụi cũng do trời “. Bài thơ thần “Yên Tử “của Nguyễn Trãi “Non thiêng Yên Tử đỉnh kỳ phong. Trời mới ban mai đã rạng hồng. Vũ trụ mắt soi ngoài biển cả. Nói cười lồng lộng giữa không trung…” (thơ Nguyễn Trãi trên Yên Tử, hình ảnh và cẩn dịch Hoàng Kim). Những kiệt tác thơ văn Nguyễn Trãi lưu bài “Yên Tử” “Ngôn chí,” “Quan hải”, “Oan than” của Người kèm cảm nhận “Trời ban tối biết về đâu?” của Vũ Bình Lục.; xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/nguyen-trai-kiet-tac-tho-van/

        Nguyễn Trãi là bậc anh hùng dân tộc, nhà chính trị kiệt xuất và danh nhân văn hóa lỗi lạc của dân tộc Việt, Nguyễn Trãi hiệu là Ức Trai, người làng Nhị Khê, huyện Thượng Phúc nay là huyện Thường Tín, Hà Nội, sinh năm 1380 , mất năm 1442,. cha là Nguyễn Phi Khanh, nguyên quán làng Chi Ngại , huyện Phương So8n (Chí Linh, Hải Dương) mẹ là Trần Thị Thái, con gái của Trần Nguyên Đán. Nguyễn Trãi thi đỗ Thái học sinh (tiến sĩ) năm 1400, cha con đều từng làm quan dưới triều Hồ. Sau khi Việt Nam bị rơi vào sự cai trị của nhà Minh, Nguyễn Trãi tham gia vào cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo. Ông trở thành mưu sĩ bày tính mưu kế về mọi mặt chính trị, quân sự, ngoại giao của nghĩa quân Lam Sơn. Ông là khai quốc công thần của nhà Hậu Lê, được ban quốc tính, năm 1428 viết Bình Ngô đại cáo thiên cổ hùng văn, năm 1433 ông đã viết văn bia Vĩnh Lăng nổi tiếng khi Lê Lợi mất,.Tuy nhiên, năm 1442, toàn thể gia đình Nguyễn Trãi bị tru di tam tộc trong vụ án Lệ Chi Viên. Năm 1464, vua Lê Thánh Tông xuống chiếu giải oan cho ông. Ức Trai tâm thượng quang Khuê tảo (Lòng Ức Trai sáng như sao Khuê).

        Dưới đây là năm bài thơ trong Những kiệt tác thơ văn Nguyễn Trãi và cảm nhận “Trời ban tối biết về đâu?” của Vũ Bình Lục

        YÊN TỬ

        Nguyên văn chữ Hán

        題 安子山花煙寺

        安山山上最高峰,
        纔五更初日正紅。
        宇宙眼窮滄海外,
        笑談人在碧雲中。
        擁門玉槊森千畝,
        掛石珠流落半空。
        仁廟當年遺跡在,
        白毫光裏睹重瞳。

        Ðề Yên Tử sơn Hoa Yên tự

        Yên Sơn sơn thượng tối cao phong
        Tài ngũ canh sơ nhật chính hồng
        Vũ trụ nhãn cùng thương hải ngoại
        Tiếu đàm nhân tại bích vân trung
        Ủng môn ngọc sóc sâm thiên mẫu
        Quải thạch châu lưu lạc bán không
        Nhân miếu đương niên di tích tại
        Bạch hào quang lý đổ trùng đồng.

        YÊN TỬ

        Đề chùa Hoa Yên, núi Yên Tử
        Nguyễn Trãi

        Non thiêng Yên Tử đỉnh kỳ phong
        Trời mới ban mai đã rạng hồng
        Vũ trụ mắt soi ngoài biển cả
        Nói cười lồng lộng giữa không trung
        Giáo trúc quanh chùa giăng nghìn mẫu
        Cỏ cây chen đá rũ tầng không
        Nhân Tông bảo tháp còn lưu dấu
        Mắt sáng hào quang tỏa ánh đồng

        (Bản dịch của Hoàng Kim)

        Trên dải Yên Sơn đỉnh tuyệt vời
        Đầu canh năm đã sáng trưng rồi
        Mắt ngoài biển cả ôm trời đất
        Người giữa mây xanh vẳng nói cười
        Giáo ngọc quanh nhà giăng vạn khoảnh
        D4i châu treo đá rũ lưng trời
        Nhân Tông còn miếu thời nao đó
        Thấy rõ đôi ngươi giữa ánh ngời (1)

        (1) Tương truyền vua Trần Nhân Tông mắt có hai con ngươi
        (Bản dịch của Khương Hữu Dụng)

        Trên núi Yên Tử chòm cao nhất
        Vừa mới canh năm đã sáng trời
        Tầm mắt bao trùm nơi biển tận
        Từng mây nghe thoảng tiếng ai cười
        Rừng vươn giáo dựng tre nghìn mẫu
        Đá rũ rèm buông nhũ nửa vời
        Miếu cổ Nhân Tông hằng để dấu
        Mắt còn trắng tỏa ánh đôi ngươi.

        (Bản dịch của Lê Cao Phan)

        Trên non Yên Tử chòm cao nhất,
        Trời mới canh năm đã sáng tinh.
        Vũ trụ mắt đưa ngoài biển cả,
        Nói cười người ở giữa mây xanh.
        Muôn hàng giáo ngọc tre gài cửa,
        Bao dãi tua châu đá rủ mành.
        Dấu cũ Nhân tôn còn vẫn đấy,
        Trùng đồng thấy giữa áng quang minh.

        (Bản dịch của nhóm Đào Duy Anh)
        Nguồn: Nguyễn Trãi toàn tập, Đào Duy Anh,
        NXB Khoa học xã hội, 1976

        Trên non Yên Tử ngọn cao nhất
        Chỉ mới canh năm sáng đỏ trời!
        Ngoài vũ trụ xanh màu biển thẳm
        Giữa mây biếc rộn tiếng người cười.
        Cửa cài ngọc dựng, ken nghìn mẫu
        Đá rũ châu rơi, rớt nửa vời!
        Miếu cổ Nhân Tông di tích đó
        Đôi mày sáng trắng rực hai ngươi!

        (Bản dịch của Lâm Trung Phú)

        NGÔN CHÍ

        Am trúc, hiên mai ngày tháng qua
        Thị phi nào đến chốn yên hà
        Cơm ăn dù có dưa muối
        Áo mặc nài chi gấm là
        Nước dưỡng cho thanh, trì thưởng nguyệt
        Đất cày ngõ ải luống ương hoa
        Trong khi hứng động bề đêm tuyết
        Ngâm được câu thần dững dưng ca

        Tà dương bóng ngả thuở giang lâu
        Thế giới đông nên ngọc một bầu
        Tuyết sóc treo cây điểm phấn
        Cõi đông giãi nguyệt in câu.
        Khói chìm thuỷ quốc quyên phẳng
        Nhạn triện hư không gió thâu
        Thuyền mọn còn chèo chẳng khứng đỗ
        Trời ban tối biết về đâu?

        QUAN HẢI

        Nguyên văn chữ Hán

        樁木重重海浪前
        沉江鐵鎖亦徒然
        覆舟始信民猶水
        恃險難憑命在天
        禍福有媒非一日
        英雄遺恨幾千年
        乾坤今古無窮意
        卻在滄浪遠樹烟

        Thung mộc trùng trùng hải lãng tiền
        Trầm giang thiết tỏa diệt đồ nhiên
        Phúc chu thủy tín dân do thủy
        Thị hiểm nan bằng mệnh tại thiên.
        Họa phúc hữu môi phi nhất nhật
        Anh hùng [3] di hận kỷ thiên niên.
        Càn khôn kim cổ vô cùng ý,
        Khước tại thương lang viễn thụ yên.

        Dịch nghĩa : NGẮM BIỂN

        Cọc gỗ lớp lớp trồng trước sóng biển
        Xích sắt ngầm dưới sông cũng vậy thôi.
        Thuyền bị lật mới tin rằng dân là như nước
        Cậy đất hiểm cũng khó dựa, mệnh là ở trời.
        Họa phúc có manh mối không phải một ngày
        Anh hùng để mối hận mấy nghìn năm sau.
        Lẽ của trời đất và xưa nay, thực là vô cùng
        Vẫn là ở chỗ sắc nước bát ngát, cây khói xa vời

        CỬA BIỂN

        Lớp lớp cọc ngăn giữa sóng nhồi
        Thêm ngầm dây sắt – uổng công thôi !
        Lật thuyền, thấm thía dân như nước
        Cậy hiểm, mong manh : mệnh ở trời
        Hoạ phúc có nguồn, đâu bỗng chốc?
        Anh hùng để hận, dễ gì nguôi?
        Xưa nay trời đất vô cùng ý
        Nơi sóng xanh cây khói tuyệt vời

        (Bản dịch của HƯỞNG TRIỀU)

        OAN THÁN

        Nguyên văn chữ Hán

        浮俗升沉五十年
        故山泉石負情緣
        虛名實禍殊堪笑
        眾謗孤忠絕可憐
        數有難逃知有命
        大如未喪也關天
        獄中牘背空遭辱
        金闕何由達寸箋

        Phù tục thăng trầm ngũ thập niên ;
        Cố sơn tuyền thạch phụ tình duyên.
        Hư danh thực họa thù kham tiếu ;
        Chúng báng cô trung tuyệt khả liên.
        Số hữu nan đào tri thị mệnh ;
        Văn như vị táng dã quan thiên.
        Ngục trung độc bối [1] không tao nhục ;
        Kim khuyết hà do đạt thốn tiên ?

        Dịch nghĩa THAN NỔI OAN

        Nổi chìm trong phù tục đã năm chục năm,
        Đành phụ tình duyên với khe và đá của núi cũ.
        Danh hư mà họa thực, rất đáng buồn cười ;
        Lắm kẻ ghét một mình trung, rất đáng thương hại.
        Khó trốn được số mình, biết là vì mệnh ;
        Tư văn như chưa bỏ, cũng bởi ở trời.
        Trong ngục viết ở lưng tờ, khi không bị nhục ;
        Cửa khuyết vàng làm thế nào mà đạt được tờ giấy lên ?

        Dịch Thơ: THAN NỔI OAN:

        Biển tục thăng trầm nữa cuộc đời
        Non xưa suối đá phụ duyên rồi
        Trung côi , ghét lắm, bao đau xót
        Họa thực, danh hư , khéo tức cười
        Số khó lọt vành âu bởi mệnh
        Văn chưa tàn lụi cũng do trời
        Trong lao độc bối cam mang nhục
        Cửa khuyết làm sao tỏ khúc nhôi?

        Bản dịch của Thạch Cam

        Năm mươi năm thế tục bình bồng
        Khe núi lòng cam bội ước chung
        Cười nạn hư danh, trò thực họa
        Thương phường báng bổ kẻ cô trung
        Mạng đà định số, làm sao thoát
        Trời chửa mất văn, vẫn được dùng
        Lao ngục đau nhìn lưng mảnh giấy
        Oan tình khó đạt tới hoàng cung.

        Bản dịch của Lê Cao Phan

        NGUYỄN TRÃI KIỆT TÁC THƠ VĂN
        Hoàng Kim


        Nguyễn Trãi đạị cáo Bình Ngô
        Văn bia Vĩnh Lăng ghi rõ:

        “Như nước Đại Việt ta từ trước
        Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
        Núi sông bờ cõi đã chia
        Phong tục Bắc Nam cũng khác

        Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần
        bao đời xây nền độc lập
        Cùng Hán, Đường,Tống, Nguyên
        mỗi bên hùng cứ một phương
        Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau
        Song hào kiệt thời nào cũng có”

        Càn khôn bĩ rồi lại thái
        Nhật nguyệt hối rồi lại minh
        Ngàn năm vết nhục nhã sạch làu
        Muôn thuở nền thái bình vững chắc

        Âu cũng nhờ trời đất tổ tông
        linh thiêng đã lặng thầm phù trợ“

        Ngày 9 tháng 3 năm 111 TCN
        Thời Hán Vũ Đế Lưu Triệt .
        Nam Việt bị nhập vào nhà Hán
        Ngàn năm sau vết nhục sạch làu.

        Nhật nguyệt hối rồi minh’
        Trăng che trời đêm rồi sáng
        Nguyễn Trãi ngàn năm linh cảm
        Ngày 9 tháng 3 thật lạ lùng !

        Triệu Đà tích xưa còn đó
        Nam Việt nhập vào nhà Hán
        Sử xưa Triệu Đinh Lý Trần
        Đối Hàn Đường Tống Nguyên

        Sách nay Đinh Lê Lý Trần
        thay cho Triệu Đinh Lý Trần
        Ngàn năm vết nhục sạch làu.
        Chính sử còn, sự thật đâu ?

        Soi gương kim cổ
        Tích truyện xưa
        Ghi lại đôi lời
        Trăng che mặt trời
        Nhật thực hôm nay.

        Ngày 9 tháng 3 năm 1945 Nhật đảo chính Pháp
        Ngày 9 tháng 3 năm 2016 Nhật thực Việt Nam
        Ngày 9 tháng 3 lúc 10: 45 trăng che mặt trời
        CNM365 ta chọn lại vài hình hay để ngắm …
        Nguyễn Trãi kiệt tác thơ văn
        Ức Trai ngàn năm linh cảm

        TRỜI BAN TỐI, BIẾT VỀ ĐÂU?

        Vũ Bình Lục

        (Về bài thơ NGÔN CHÍ – SỐ13 của Nguyễn Trãi)

        Tà dương bóng ngả thuở giang lâu
        Thế giới đông nên ngọc một bầu
        Tuyết sóc treo cây điểm phấn
        Cõi đông giãi nguyệt in câu.
        Khói chìm thuỷ quốc quyên phẳng
        Nhạn triện hư không gió thâu
        Thuyền mọn còn chèo chẳng khứng đỗ
        Trời ban tối biết về đâu?

        Nguyễn Trãi sống cách chúng ta khoảng sáu trăm năm. Riêng nói về thơ Nôm, dẫu thất lạc sau thảm hoạ tru di năm 1442, cũng còn được hơn 250 bài. Có thể nói, Nguyễn Trãi đã dựng lên một tượng đài sừng sững bằng thơ, mà trước hết là thơ viết bằng ngôn ngữ dân tộc-Thơ Nôm. Chùm thơ “Ngôn chí” có rất nhiều bài hay, đọc kỹ, nghiền ngẫm kỹ mới thấy cái hay, bởi chữ Nôm cách nay sáu trăm năm, rất nhiều từ nay không còn dùng nữa, hoặc rất ít dùng. Phải tra cứu một số từ, một số điển tích, mới dần sáng tỏ một hồn thơ lớn, lớn nhất, trong lịch sử thơ ca Việt Nam!

        Đây là bài Ngôn chí số 13, do những người biên soạn sách Tuyển tập thơ văn Nguyễn Trãi sắp xếp.

        Hai câu đầu: Tà dương bóng ngả thuở giang lâu
        Thế giới đông nên ngọc một bầu

        Hai câu thơ đơn thuần chỉ là tả cảnh, đặc tả một buổi chiều, mà gam màu chủ đạo là màu vàng thẫm rất quen mà huyễn hoặc. Bóng chiều tà đã ngả, đang quấn lấy một ngôi lầu ở bên sông, hay đang trùm lên ngôi lầu bên sông một màu vàng thẫm. Nhưng có điều cần lưu ý, đây là ngôi lầu giành cho đàn bà con gái thuộc tầng lớp quý tộc giàu sang, trong một không gian rộng lớn và yên tĩnh, rất yên tĩnh. Câu tiếp theo mới thật diễm lệ: Thế giới đông nên ngọc một bầu. Vậy thế giới đông là gì? Theo điển dẫn, đông chính là khí tốt, khí thiêng của thế giới, của vũ trụ đông đặc lại mà thành phong cảnh đẹp như ngọc. Thế đấy! Còn như Bầu, cũng theo điển sách Đạo gia, kể rằng Trương Thân thường treo một quả bầu rất lớn, hoá làm trời đất, ở trong cũng có mặt trời mặt trăng, đêm chui vào đó mà ngủ, gọi là trời bầu, hay bầu trời cũng vậy…Quả là một bức tranh được vẽ bằng ngôn ngữ, rất xưa, tinh khiết và tráng lệ, dường như đã đạt đến mức cổ điển!

        Đấy là hai câu thất ngôn. Hai câu tiếp theo, lại là lục ngôn, vẫn tiếp tục tả cảnh:
        Tuyết sóc treo cây điểm phấn
        Cõi đông giải nguyệt in câu.

        Tuyết sóc, nghĩa là tuyết ở phương bắc (sóc) chả biết gieo xuống từ bao giờ, mà còn giăng mắc trên những cành cây như những bông hoa trắng muốt, như điểm phấn cho cây, trang trí làm đẹp cho cây. Có người bảo nước ta làm gì có tuyết, chỉ là ước lệ cho đẹp văn chương mà thôi. Nhưng họ nhầm đấy! Các tỉnh phía Bắc nước ta như Lào Cai, Hà Giang và chắc là còn một số nơi khác nữa ngày nay vẫn có tuyết, nhiều nữa kia. Vậy thì sao thơ văn ngày xưa các cụ ta nói đến tuyết, con cháu lại hàm hồ bác bỏ? Cách đây mấy trăm năm, sao lại không thể không có tuyết mà các cụ phải đi mượn của người? Phía bắc là tuyết, là hoa tuyết điểm phấn cho cây, thì Cõi đông giải nguyệt in câu. Phương đông in một giải lụa trăng vàng óng. Thế là cả một không gian rực rỡ sắc màu. Màu trắng của tuyết hoa tương ánh cùng màu vàng của ánh nguyệt in bóng nước, của chiều tà vàng thẫm, tạo một bức tranh vừa rộng vừa sâu, gợi một khoảnh khắc giao thoa hỗn mang rất nhiều tâm trạng.

        Hai câu tiếp theo, vẫn cấu trúc bằng lục ngôn:
        Khói chìm thuỷ quốc quyên phẳng
        Nhạn triện hư không gió thâu

        Bây giờ là sương khói trong chiều muộn. Cúi xuống nhìn dòng nước, thấy khói chiều in xuống mặt nước trong veo phẳng lặng. Quyên, từ cổ là mặt nước trong, do đó quyên phẳng nghĩa là mặt nước trong phẳng lặng, như thể nhìn rõ khói chiều đang chìm dưới đáy nước. Rõ là nước lộn trời, vàng gieo đáy nước, “Long lanh đáy nước in trời / Thành xây khói biếc, non phơi bóng vàng”. Có lẽ Nguyễn Du mấy trăm năm sau đã tiếp thu tinh thần của câu thơ Nguyễn Trãi mà sáng tạo lại trong Truyện Kiều câu thơ trên, khi mà tiếng Việt đã đạt đến độ nhuần nhuyễn và trang nhã chăng? Còn trên trời thì đàn chim nhạn đang xếp hình chữ triện mà mỏi mệt bay về rừng tìm chốn ngủ. Và gió nhẹ, thổi rỗng cả trời…

        Cảnh chỉ là điểm xuyết, mà gợi nên bức tranh đủ sắc màu, rất sống động, và tiếp đó, nó như thể đang chuyển động dần về phía đêm tối, về phía lụi tàn.

        Hai câu cuối, tác giả viết:
        Thuyền mọn còn chèo chẳng khứng đỗ
        Trời ban tối ước về đâu?

        Con thuyền nhỏ nhoi (Thuyền mọn) của Tiên sinh, hay con thuyền của một vị khách nào đó, vẫn còn đang mải miết chèo trên sông, như chẳng muốn dừng lại. Trong nhập nhoạng bóng tà, con thuyền mọn như càng nhỏ bé hơn, chưa muốn, hay chưa tìm được nơi đỗ lại mà nghỉ ngơi, hay bởi vì Trời ban tối, ước về đâu, biết về đâu? Câu bảy thất ngôn, dàn trải thêm, biểu hiện sự buông thả, lửng lơ, phân vân… Câu tám bỗng đột ngột thu lại lục ngôn, như một sự dồn nén tâm sự.

        Có bao nhiêu phần trăm sự thực trong bức tranh chiều tà bên sông lộng lẫy mà buồn? Có lẽ cũng chẳng nên đặt vấn đề cân đong cụ thể, bởi thơ nhìn chung là sản phẩm sáng tạo của trí tưởng tượng, thực và ảo hoà trộn đan xen. Hai câu kết của bài thơ xem ra mới thật sự là tâm điểm của bài thơ. Phải chăng, con thuyền mọn kia, chính là hình ảnh Ức Trai Tiên sinh, như con thuyền nhỏ bé ấy, đang một mình đi tìm bến đỗ, mà chưa tìm thấy nơi đâu là bến là bờ? Từ cái ngôn chí này, có thể ước đoán Ức Trai viết bài thơ này vào thời điểm quân Minh đang đô hộ nước ta, Ức Trai đang bị giam lỏng ở thành Đông Quan, chưa tìm được minh chủ mà đem tài giúp nước? Cũng có thể đây là thời điểm Nguyễn Trãi bị thất sủng, về ở ẩn tại Côn Sơn, trong hoàn cảnh chính sự trong nước đang rất đen tối, nhất là ở nơi triều chính. Nguyễn Trãi từ tin tưởng, đến nghi ngờ và thất vọng trước thực tại đau lòng: Biết bao trung thần bị hãm hại, còn lũ gian thần hiểm ác nổi lên như ong, nhũng lọan cả triều đình. Làm sao mà không bi quan cho được khi mà Trời ban tối, biết về đâu?

        *

        Lên non thiêng Yên Tử, tôi thành tâm đi bộ từ chùa Hoa Yên lúc nửa đêm để lên thấu đỉnh chùa Đồng lúc ban mai.Nguyễn Trãi bài thơ thần trên trang sách mở, lồng lộng giữa nền trời bình minh trên đỉnh cao phong Yên Tử. Tôi chợt tỉnh thức, thấm thía, thấu hiểu sự nhọc nhằn của đức Nhân Tông hội tụ minh triết Việt. Nguyễn Trãi kiệt tác thơ văn.”xưa nay trời đất vô cùng ý. Nơi sóng xanh cây khói tuyệt vời”.

        NGUYỄN TRÃI DỤC THÚY SƠN
        Hoàng Kim

        Qua Non Nước Ninh Bình
        Nhớ thơ hay Nguyễn Trãi
        Người hiền in bóng núi
        Hoàng Long sông giữa lòng:

        “Cửa biển có non tiên
        Năm xưa thường lại qua
        Hoa sen nổi trên nước
        Cảnh tiên rơi cõi trần


        Bóng tháp xanh trâm ngọc
        Tóc mây biếc nước lồng
        Nhớ hoài Trương Thiếu Bảo
        Bia cổ hoa rêu phong”


        Dục Thuý sơn
        Nguyễn Trãi

        Hải khẩu hữu tiên san,
        Niên tiền lũ vãng hoàn.
        Liên hoa phù thuỷ thượng,
        Tiên cảnh truỵ nhân gian.


        Tháp ảnh, trâm thanh ngọc,
        Ba quang kính thuý hoàn.
        Hữu hoài Trương Thiếu Bảo (*),
        Bi khắc tiển hoa ban

        (*) Trương Hán Siêu “Phú sông Bạch Đằng” đã thuật lại cuộc chiến sông Bạch Đằng nơi voi chiến sa lầy rơi nước mắt và lời thề trên sông Hóa 1288 của Hưng Đạo Vương. Lời thơ hào hùng bi tráng: “Thuyền bè muôn đội, tinh kỳ phấp phới/ Hùng dũng sáu quân, giáo gươm sáng chói/ Trận đánh được thua chửa phân/ Chiến lũy bắc nam đối chọi/ Tất Liệt thế cường, Lưu Cung chước dối/ Những tưởng gieo roi một lần/ Quét sạch Nam bang bốn cõi/ Trời cũng chiều người/ Hung đồ hết lối!”

        Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải viết: ‘Thái bình tu nổ lực/ Vạn cổ thử giang san”.

        (**) Dục Thuý sơn 浴翠山 • Núi Dục Thuý nguyên văn chữ Hán (Nguồn: Thi Viện) Thơ » Việt Nam » Hậu Lê, Mạc, Trịnh-Nguyễn » Nguyễn Trãi » Ức Trai thi tập » Thơ làm sau khi thành công và làm quan ở triều.

        浴翠山

        海口有仙山,
        年前屢往還。
        蓮花浮水上,
        仙景墜塵間。
        塔影針青玉,
        波光鏡翠鬟。
        有懷張少保,
        碑刻蘚花斑。

        (***) Lương Hữu Khánh danh nhân Việt làm bài thơ (Nho Tăng đồng chu) “Cùng qua một chuyến đò”, nghe nói tại bến đò nơi này http://thovanhoangkim.blogspot.com/2014/10/luong-huu-khanh-danh-nhan-viet.html .

        CÙNG QUA MỘT CHUYẾN ĐÒ
        Lương Hữu Khánh


        Một hòm kinh sử, níp kim cương.
        Người, tớ cùng qua một chuyến dương.
        Đám hội đàn chay người đủng đỉnh.
        Sân Trình cửa Khổng tớ nghênh ngang.
        Sao người chẳng nhớ lời Hàn Dũ.
        Đây tớ còn căm chuyện Thủy Hoàng.
        Một chốc lên bờ đà tiễn biệt.
        Người thì lên Phật, tớ nên sang.

        Đây là bài thơ “Nho Tăng đồng chu” rất nổi tiếng của Lương Hữu Khánh, hiện đã có nhiều bản dịch về bài thơ này nhưng dịch lý và ý tứ bản gốc thật sâu sắc, cần đọc lại và suy ngẫm (Linh Giang, ảnh HK chỉ dùng để minh họa). Lương Hữu Khánh Thượng thư Bộ Lễ thời Lê Trung hưng, con của Tả Thị lang Bộ Lại Bảng nhãn Lương Đắc Bằng, nhà dịch lý thông tuệ thầy học của Nguyễn Bỉnh Khiêm , người làng Lạch Triều, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Lương Hữu Khánh là học trò của Nguyễn Bỉnh Khiêm, được vợ chồng thầy học biệt đãi như con đẻ cho ở trong nhà. Ông đã yêu con gái lớn của Trạng Trình. Do cha của ông có những uẩn khúc với triều đình và đã qua đời, mẹ là thiếp làm nghề buôn bán sinh ông ở Thăng Long, đường khoa cử và lập gia đình của ông trắc trở. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã tùy duyên mà gả con gái cho Phó Vệ uý Hầu tước Phạm Dao. Lương Hữu Khánh đã buồn rầu bỏ thi Đình của nhà Mạc để về Thanh Hóa khởi nghiệp trung hưng nhà Lê. Lương Hữu Khánh tính tình cương trực, thanh liêm, giản dị, an nhiên, nếp sống thanh cao, hào sảng, nối được chí hướng của cha, luôn gìn giữ truyền thống gia phong, tôn trọng đạo đức. Lương Hữu Khánh là nhân vật trọng yếu của triều đình nhà Lê. Ông đã cùng với chúa Trịnh Tùng, vị tiết chế tài năng, có tầm nhìn xa rộng và Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan, nhà quân sư tài danh và ngoại giao lỗi lạc, đã nối được chí hướng của thầy học Nguyễn Bỉnh Khiêm, lấy yêu dân và vận nước làm trọng, để nỗ lực tôn phù vua sáng, thay đổi được cục diện chiến tranh Lê-Mạc kéo dài.

        Hoàng Kim
        (Nguyễn Trãi Dục Thúy Sơn, bài của tác gỉa Hoàng Kim đã đăng trên Wikipedia tiếng Việt bản đầu tiên, mục từ Lương Hữu Khánh, sau này trang đã có nhiều chỉnh lý mở)

        Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là 1-dinh-minh-le-va-nha-toi-1.jpg

        TRẦM TÍCH NGỌC CHO ĐỜI
        Hoàng Kim

        Nghe nóng hổi nước mắt thầm vị mặn
        Nhớ Mẹ Cha thấm thía bữa nhường cơm
        Lời Thầy dặn thung dung phúc hậu
        Một niềm tin thắp lửa giữa tâm hồn.

        Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là quang-binh-dat-me-on-nguoi-1.jpg

        QUẢNG BÌNH ĐẤT MẸ ƠN NGƯỜI
        Hoàng Kim

        Quảng Bình đất Mẹ ơn Người
        Tổ tiên cát bụi nhiều đời thành quê
        Đinh ninh như một lời thề
        Trọn đời trung hiếu để về dâng hương

        Lòng son trung chính biết ơn
        Quê hương chung đúc khí thiêng Quảng Bình
        Về quê kính nhớ Tổ tiên
        Mừng vui giữa chốn bạn hiền người thân

        Đất trời ngày mới thanh tân
        Thung dung thăm hỏi ân cần níu chân.
        Đường xuân như một dòng sông
        Việt Nam thống nhất thác ghềnh đến nơi.

        Hồn chính khí bốc lên ánh sáng
        Sáng choang ngọc đá giữa hoang tàn’.
        Tâm nhân văn lắng đọng tinh hoa
        Hoa Đất Hoa Người trong cõi Bụt

        Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là vieng-mo-cha-me.jpg

        VIẾNG MỘ CHA MẸ
        Hoàng Trung Trực

        Dưới lớp đất này là mẹ là cha
        Là khởi phát đời con từ bé bỏng
        Là lời mẹ ru dịu dàng cánh võng
        Là binh nghiệp cha một thuở đau đời

        Hành trang cho con đi bốn phương trời
        Là nghĩa khí của cha, là nhân từ của mẹ
        Vẫn bầu sữa tinh thần không ngừng không nghỉ
        Để hành trang cho con đi tiếp cuộc đời

        Cuộc đời con bươn chãi bốn phương trời
        Nay về lại nơi cội nguồn sinh trưởng
        Dâng nén hương mà lòng hồi tưởng
        Thuở thiếu thời dưới lồng cánh mẹ cha

        “Ước hẹn anh em một lời nguyền
        Thù nhà đâu sá kể truân chiên
        Bao giờ đền được ơn trung hiếu
        Suối vàng nhắm mắt mới nằm yên”.

        Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là som-xuan-di-tao-mo.jpg

        Viếng mộ cha mẹ

        Xem tiếp >>

          Dạy và học 18 tháng 9(18-09-2021)

        DẠY VÀ HỌC 18 THÁNG 9
        Hoàng Kim
        CNM365 Tình yêu cuộc sốngCầu Minh Lệ Rào Nan; Thiên đường đâu quá xa; Phan Thiết có nhà tôi; Tứ Cô Nương bạn tôi; Trà sớm nhớ bạn hiền; Châu Mỹ chuyện không quên; Lúa siêu xanh Việt Nam; Ngày 18 tháng 9 quốc khánh tại Chile (1818). Ngày 18 tháng 9 năm 1851, The New York Times, nhật báo thành phố lớn nhất ở Hoa Kỳ, xuất bản số đầu tiên. Ngày 18 tháng 9 năm 1953, nguyên mẫu máy bay tiêm kích phản lực MiG-19 của Liên Xô thực hiện chuyến bay thử nghiệm đầu tiên. Bài chọn lọc ngày 18 tháng 9: Cầu Minh Lệ Rào Nan; Thiên đường đâu quá xa; Phan Thiết có nhà tôi; Tứ Cô Nương bạn tôi; Trà sớm nhớ bạn hiền; Châu Mỹ chuyện không quên; Lúa siêu xanh Việt Nam; Linh Giang Đình Minh Lệ; Nhớ Viên Minh; Food Crops Ngọc Phương Nam; Bảo tồn và phát triển sắn; Bến Lội Đền Bốn Miều; Đá Đứng chốn sông thiêng; Đào Duy Từ còn mãi; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-18-thang-9/

        Làng Minh Lệ quê tôi

        CẦU MINH LỆ RÀO NAN
        Hoàng Kim

        Làng Minh Lệ quê tôi lưu lại một số thông tin địa chí, lịch sử, văn hóa không nỡ quên Tôi sinh ra ở đất này, có tổ tiên, ông bà, cha mẹ nơi đây. Tôi lưu lạc từ nhỏ. Anh em tôi đều hành trình gian nan dấu chân người lính. Tôi làm Thầy nghề nông chiến sĩ. Anh chị em tôi nay phần lớn đều làm thầy giáo và thầy thuốc và đã đưa phần mộ cha mẹ ở Minh Lệ Quảng Bình vào Hưng Long Đồng Nai, Nỗi niềm người con xa xứ thăm thẳm nhớ về cố hương. Đình Minh Lệ, Linh Giang / Bến Lội Đền Bốn Miếu / Cầu Minh Lệ Rào Nan/ Đá Đứng chốn sông thiêng/ Chợ Mới nối Nguồn Son / Đất Mẹ vùng di sản / Ta về với Linh Giang/ Lời thề trên sông Hóa/ Lời dặn của Thánh Trần/ …
        .
        Quảng Bình đất không rộng, người không đông nhưng địa linh nhân kiệt, có vị thế sinh tử ‘nối hai đầu đất nước’ của sự nghiệp thống nhất Tổ quốc với bề dày văn hiến võ công và các quần thể địa danh du lịch sơn thủy hữu tình đẹp hiếm thấy.. Quảng Bình là nơi hẹp nhất Việt Nam, từ biển Đông sang Lào chỉ khoảng 50 km, nơi mà một cuộc chiến uy lực mạnh, bất ngờ, chớp nhoáng, thần tốc,có thể bẻ gãy Việt Nam làm đôi tại địa bàn sinh tử xung yếu này. Cầu Minh Lệ Rào Nan được coi là điểm sinh tử nhất trong câu chuyện cổ truyền miệng dân gian ở quê tôi “Cao Biền ném bút thần” điểm huyệt tại Đá Đứng chốn sông thiêng giữa vùng địa linh Đình Minh Lệ Linh Giang Bến Lội Đền Bốn Miếu Cầu Minh Lệ Rào Nan, Chợ Mới nối Nguồn Son. Đây là nơi hợp lưu sơn thủy, kết nối với cửa ngõ tuyến du.lịch tuyệt đẹp Phong Nha Kẻ Bàng di sản thiên nhiên Thế giới. Nơi đây là vùng đất địa linh hiểm yếu sinh tử để thống nhất đất nước, bước qua lời nguyền chia cắt ranh giới đôi bờ (Linh Giang/ sông Gianh / Ranh (giới) Nơi đây là hợp lưu sơn thủy của thế núi, mạch sông, người hiền tài, tướng giỏi, lòng dân. Vùng đất này là điểm nhấn địa chí văn hóa lịch sử, là một trong những điểm chính yếu con đường huyết mạch Nam Tiến của người Việt. Bến Lội là nơi hợp lưu của dòng Rào Nan với một nhánh nhỏ là Rào Đá, do phù sa của Rào Đá tuôn ra mạnh nên chỗ hợp lưu ấy bị cạn lại mới gọi Bến Lội, ngày xưa là vậy nhưng nay là Cầu Minh Lệ Rào Nan.

        Đền Bốn Miếu có tên thường gọi là Nghè Bốn Miếu, hoặc Nghè Miếu, có dấu tích cổ của bốn ngôi miếu thiêng (hình 2), thờ Thành hoàng làng Trung lang Thượng tướng quân Trương Hy Trọng (hình 3 và hình 4) và các vị Thần tổ của bốn họ Trương, Nguyễn, Hoàng, Trần tại Bến Lội Đền Bốn Miếu có Bằng Xếp Hạng di tích cấp tỉnh thành phố Lăng mộ Nhà thờ Thượng tướng quân Trương Hy Trọng và Khu Giang Sơn Bến Lội tại Quyết định số 5062/QĐ-UBND ngày 27-12-2019 của Ủy Ban Nhân Dân tỉnh Quảng Bình (hình 5).

        Theo cố nhà giáo Hoàng Hữu Sam tại bài viết “Qua một ngôi đình suy nghĩ về người xưa” đăng trên Tạp chí Nhật Lệ năm 2001 (tài liệu dẫn kèm theo) thì tại ngôi đình Làng Minh Lệ ngày nay từ thời xa xưa đã có những đôi câu đối cổ (hiện nay vẫn còn ở lưu tại đình làng) đó là: Minh Lễ chương danh đình dĩ cố / Thiệp tân tích sử thủy trường thanh;. Sơn cao thủy tú phong quang vô hạn hảo / Địa linh nhân kiệt hoằng thạc xuất nhân trung; Cách trí lương phương thiên khái văn minh tân vận hội / Trác thành để trụ được chung linh khí cửu Giang Sơn Cố nhà giáo Hoàng Hữu Xứng là người làng đã diễn dịch ý tứ của những câu này sang tiếng Việt để hổ trợ cho người em trai là cố nhà giáo Hoàng Hữu Sam cùng những người làng tâm huyết tận tâm xin thủ tục công nhận và tu bổ lại đình làng. Những câu diễn dịch ý Thầy như sau Minh Lễ là một mảnh đất vô cùng đẹp đẽ, Địa linh sản sinh ra những người con kiệt xuất cho đất nước và quê hương; Phong cảnh núi sông cao đẹp vô cùng/ Đất linh thiêng sinh ra những con người hào kiệt, thật là vĩ đại xứng trời mây; Mở rộng tầm hiểu biết, trời mở vận hội mới là vận hội văn minh / Gọt dủa cho thành công, đất hun đúc nên khí thiêng của giang sơn cũ. Cố nhà giáo Hoàng Hữu Xứng giảng dạy ở Trường Đại học Ngoại ngữ Hà Nội – ĐHQGHN Trường ULIS (University of Languages and International Studies)là một trong những trường đại học uy tín hàng đầu tại Việt Nam cũng như trong khu vực Đông Nam Á. Hệ thống cơ sở vật chất khang trang, đội ngũ giảng viên chuyên môn cao, chương trình đào tạo tiên tiến.

        Cố nhà giáo Hoàng Hữu Đản, nhà văn hóa tầm vóc quốc tế là em trai thứ của thầy Hoàng Hữu Xứng. Thầy Hoàng Hữu Đản là một trong số rất ít người ở Việt Nam và Quốc tế đạt được thành quả rực rỡ cả trên hai lĩnh vực dịch thuật (văn chương, tư tưởng) và sáng tác văn học (nổi bật nhất là kịch nói Vụ án vườn Lệ Chi rung động văn chương Việt). Thầy Hoàng Hữu Đản được Nhà nước Pháp hai lần trao tặng huân chương Cành cọ Hàn lâm (Palmes Académiques) hạng ba và hạng nhì cho ông vào năm 2000 và 2008 do những cống hiến trong việc phát triển tiếng Pháp và đẩy mạnh sự giao lưu văn hoá giữa hai nước Pháp – Việt Nam.

        Cố nhà giáo Hoàng Hữu Sam là em trai của hai thầy Hoàng Hữu Xứng, Hoàng Hữu Đản, là thầy dạy văn sử đầu tiên cho lớp học trường làng chúng tôi có PGS. TS Trần Bình, PGS.TS Trương Minh Dục, GS Trần Ngọc Vương, Nhà báo Kiên Giang và Nông nghiệp Việt Nam Hoàng Thiên Diễn. Thầy cùng nhiều người tâm huyết tại địa phương đã tận tâm bảo tồn tôn tạo di tích lịch sử văn hóa Đình Minh Lệ (Bằng Công nhân Di tích lịch sử Văn hóa Di tích được xếp cấp Quốc gia theo Quyết định số 1430 QĐ/BT ngày 12 tháng 10 năm 1993 của Bộ Văn hóa Thông tin) và khu di sản Bến Lội Đền Bốn Miếu (Bằng Xếp Hạng di tích cấp tỉnh thành phố Lăng mộ Nhà thờ Thượng tướng quân Trương Hy Trọng và Khu Giang Sơn Bến Lội tại Quyết định số 5062/QĐ-UBND ngày 27-12-2019 của Ủy Ban Nhân Dân tỉnh Quảng Bình). Trong bao nhiêu chuyện đời, tôi nhớ nhất lời thầy về bằng chứng máu xương bao đồi bồi đắp cho địa danh này. Đó là ngôi đền thiêng trong lòng dân, điển cố văn chương và di sản văn hóa cần bảo tồn và phát triển. Bài dưới đây về QUA MỘT NGÔI ĐÌNH SUY NGHĨ VỀ NGƯỜI XƯA do thầy đăng năm 2001 ở Tạp chí Nhật Lệ. Trang văn thành di sản của ba người thầy lớn mà trong dòng họ, mà thầy vừa là Thầy vừa là cậu ở Làng Minh Lệ quê tôi…

        Tài liệu dẫn

        QUA MỘT NGÔI ĐÌNH SUY NGHĨ VỀ NGƯỜI XƯA
        Bút ký Hoàng Hữu Sam

        “Qua đình ngã nón trông đình. Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu”. Ngày nay, qua đình Minh Lễ, xã Quảng Minh – Quảng Trạch, các trai tân gái lịch không còn nhìn thấy, như xưa kia, đây là nơi hò hẹn, nơi gửi gắm tâm tình cho nhau trước khi đi đến xây dựng cuộc sống vợ chồng “Bách niên giai lão” trên mảnh đất truyền thống đầy huyền thoại này.

        Đình Minh Lễ được xây dựng từ thế kỷ XIX, là nơi thờ vị Thành Hoàng làng cùng các vị Thần tổ của bốn Họ trong làng, là nơi sinh hoạt văn hóa, hội hè, đình đám và bàn công việc làng. Đình được trùng tân vào năm Bảo Đại nhị niên.Trải qua nhiều biến cố thăng trầm của lịch sử đất nước và quê hương trong một thời gian quá dài, nhất là hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Đình làng Minh Lễ đã “ Trơ gan cùng tuế nguyệt” với những bức tường đổ nát nằm trong những lùm cây hoang dại và um tùm. Cũng chính trong hoang tàn đổ nát ấy mà Đình Minh Lễ trở thành nơi hội họp bí mật của cán bộ cách mạng trong xã, nơi thu giấu vũ khí đánh giặc ngoại xâm, nơi rèn luyện ý chí quật cường của những người con quê hương căm thù chế độ cũ, nơi vang lên tiếng mõ đình inh ỏi sáng ngày 23 tháng 8 năm 1945 để toàn dân cướp chính quyền và bầu lên Ủy ban Hành chính lâm thời đầu tiên của xã Minh Lễ.

        Xuất phát từ ý thức muốn bảo vệ lấy những gì là di tích văn hóa lịch sử của quê hương, một số con em của làng có tâm huyết với mảnh đất quê nhà đã làm đơn gửi lên Sở Văn hóa – Thông tin tỉnh xin trùng tu lại ngôi đình. Được sự động viên, giúp đỡ của chính quyền địa phương và của Sở Văn hóa -Thông tin, đơn xin trùng tu đình làng Minh Lễ được chấp nhận. Năm 1993 Đình Minh Lễ được Bộ Văn hóa – thông tin ra quyết định công nhận Di tích Văn hóa – Lịch sử của xã Quảng Minh. Qua hai đợt Đình Minh Lễ đã được trùng tu lại đẹp đẽ, khang trang, đứng sừng sững giữa bầu trời xanh của một miền quê đất nước. Ở đây, nhờ trí nhớ hoàn hảo của ông Hoàng Hữu Xứng mà tôi đã viết lại tất cả các bức hoành phi và câu đối – đều được ghi lại hầu như theo đúng nguyên tác thư pháp xưa.

        Đình làng Minh Lễ vẫn giữ được thư pháp tuyệt vời của hai ông Tôn Thất Mai, Hoàng Tinh Sà (thân sinh tác giả- NBT) – Hai người được triều Vua nhà Nguyễn mời vào kinh đô viết sắc bằng cho toàn quốc -được nhân dân làng Minh Lễ mời viết giúp những bức hoành phi và câu đối cho Đình làng. Với các yếu tố: kiến trúc, hoa văn, bề dày lịch sử, giá trị tinh thần biểu hiện qua nội dung các bức hoành phi và câu đối, nên Đình làng Minh Lễ mới được công nhận Di tích Văn hóa – Lịch sử. Tất cả đó tạo nên niềm tự hào chính đáng của nhân dân làng Minh Lễ từ trước tới nay.*

        Vậy chúng ta hãy nghe các cụ xưa đã nói những gì qua các bức hoành phi và câu đối ở Đình? *

        Thoạt đầu, bước tới cổng Đình, chúng ta bắt gặp ngay đôi câu đối ở hai cột trụ cổng bằng chữ Nho đại tự mà đứng xa hàng năm mét vẫn có thể nhìn đọc được: Tiền hướng Linh Giang thông đại hải / Hậu liên Ngùi Lĩnh tiếp cao sơn. Câu đối đã nói lên vị trí to rộng giữa một khoảng trời đất bao la: mặt trước hướng về sông Gianh (Linh Giang) để thông ra biển cả. Mặt sau liền với núi Ngùi (Ngùi Lĩnh ) và tiếp đến núi cao của dãy Trường Sơn hùng vĩ. Ở cổng phụ cạnh cổng chính, có đôi câu đối đã đem chúng ta trở về với cội nguồn làng quê: Làng Minh Lễ ngày xưa được gọi là Bến Lội – nơi hợp lưu của dòng Rào Nan với một nhánh nhỏ là Rào Đá, do phù sa của Rào Đá tuôn ra mạnh nên chỗ hợp lưu ấy bị cạn lại mới gọi Bến Lội – người ta có thể lội qua được – đó là: Minh Lễ chương danh đình dĩ cố /Thiệp tân tích sử thủy trường thanh.*Giang sơn Bến Lội – Minh Lễ còn là một mảnh đất vô cùng đẹp đẽ, một địa linh đã sản sinh ra những người con kiệt xuất cho đất nước và quê hương: Sơn cao thủy tú phong quang vô hạn hảo / Địa linh nhân kiệt hoằng thạc xuất nhân trung (Phong cảnh núi sông cao đẹp vô cùng. Đất linh thiêng sinh ra những con người hào kiệt, thật là vĩ đại ngang trời mây) *

        Các cụ còn làm cho con cháu thấy được niềm vui, lòng tin tưởng quê hương ngày càng đổi mới, ngày càng hướng tới văn minh: Cách trí lương phương thiên khái văn minh tân vận hội / Trác thành để trụ được chung linh khí cửu Giang Sơn (Mở rộng tầm hiểu biết, trời mở vận hội mới là vận hội văn minh / Gọt dủa cho thành công, đất hun đúc nên khí thiêng của giang sơn cũ). *Được sống trên mảnh đất địa linh nhân kiệt, nhân dân đã thông qua các cụ xưa đã ca ngợi quê hương và biết ơn vị Thành Hoàng đã “Mở mang văn nghiệp, võ công” (Bố võ tuyên văn – một câu trong Sắc phong). Đồng thời phải biết kính trọng và tôn thờ các vị Thần linh đó vừa có công lớn, vừa tăng thêm sức mạnh của núi sông: Tại kỳ thượng tại kỳ tả hữu /Tý nhĩ thọ tỷ nhĩ xí xương ( Kính thờ thần như thần thánh đứng ở trên (bàn thờ) và cả ở hai bên tả hữu (chúng ta). Cầu mong cho được sống lâu và được vẻ vang rực rỡ).Hoặc: Hân yết đại danh thùy vũ trụ / Hiên ngang chính khí tráng sơn hà (Tiếng tăm lừng lẫy hòa trong vũ trụ Chính khí hiên ngang tăng thêm sức mạnh của núi sông)* Đặc biệt, đây là những di huấn, những sự nhắc nhở các thế hệ sau phải tuân thủ theo lễ nghĩa, đồng thời cũng phải luôn luôn nhớ đến tên làng đã đi vào lịch sử, đã có từ thời nhà Trần (thế kỷ thứ XIII).* Bức hoành phi ở giữa:Hội đồng hữu dịch ( Đình làng là nơi hội họp của làng, mà có hội họp thì có trao đổi diễn dịch (như có thảo luận) cho sáng ra những điều lễ nghĩa) Câu này cũng gần nghĩa như chữ Minh Lễ là tên làng, nên các cụ đặt ở gian giữa Đình*

        Bức hoành phi bên phải: Tự sự khổng minh ( Việc tế tự phải nghiêm túc như ánh sáng xuyên qua một lỗ nhỏ từ trên mái nhà xuống, nghĩa là rất thành kính)* Bức hoành phi bên trái: Gia hội hợp lễ (Tổ chức các cuộc họp, lễ hội phải đúng theo lễ nghĩa). Ở đây có một vấn đề rất tế nhị nhưng cũng rất quan trọng là: để bảo vệ lấy tên làng mãi mãi đến muôn đời sau, các cụ đã thông qua các bức hoành phi để kín đáo dùng những chữ ghép lại thành tên làng:Lấy chữ “Minh” ở bức hoành phi bên phải ghép với chữ “Lễ” ở bức hoành phi bên trái ghép lại thành Minh Lễ là tên làng đã có từ xưa)* Để chắc chắn hơn nữa, các cụ lại dùng một câu đối ở mặt tiền chính giữa để giữ lấy tên làng: Xa thư cộng đạo văn minh xiển / Hương hỏa thiên thu điển lễ tồn (Những nền nếp đều thống nhất quy về một mối, làm cho ánh sáng văn minh thêm chói lọi. Việc hương khói (thờ phụng) hàng năm vẫn theo điển lễ vẫn còn ( không sai chạy)). Cũng như các bức hoành phi trên, tại câu đối này, lấy chữ thứ 6 của vế 1 ( Minh) ghép với chữ thứ 6 của vế 2 ( Lễ) thành tên làng Minh Lễ.

        Ở đây với một trình độ Hán học uyên thâm, các cụ đã sử dụng những từ nguyên rất chính xác để nhắc nhở hậu thế. Xa thư: Xa đồng quỹ,thư đồng văn: Xe thì khoảng cách giữa hai bánh bằng nhau, sách thì viết một thứ chữ. Cho nên ta càng rõ thêm: Giang sơn thống nhất về một mối, nền văn minh sáng tỏ ra. Hương khói ngàn năm cúng tế theo điển lễ vẫn còn.

        Vì có tên làng nên hai câu này cũng được viết ở chính giữa mặt tiền của Đình. Kính quý thần khả vị tri hỉ / Bảo hữu dân thượng hữu chế tai (Biết kính quý Thần, có thể nói là thông minh, đã là biết vậy /.Bảo vệ cho người dân lành còn là trách nhiệm (quy chế, chế độ) nữa. Bảo vệ dân đen mà còn hạn chế nữa hay sao !)

        Trên đây chỉ xin trích dịch một số nội dung trong các bức hoành phi và câu đối ở Đình làng Minh Lễ từ xa xưa. Giới thiệu một số nội dung các bức hoành phi và câu đối ở Đình làng, người viết bài này chỉ mong đem đến một phần nào những suy nghĩ và ước mong của người xưa đã gửi gắm vào những bức hoành phi và câu đối, để mong quê hương – làng Minh Lễ mãi mãi trường tồn cùng núi sông đất Việt.

        Mặc dù đã cố gắng với nhiều công sức, song trình độ có hạn, kính mong được sự góp ý của quý vị độc giả, nhất là các vị con em xã nhà.

        Thượng tuần tháng Nhâm Dần, năm Nhâm Ngọ.
        H.H.S (Tạp chí Nhật Lệ năm 2001)

        LÀNG MINH LỆ QUA THƯ TỊCH
        Trương Minh Dục

        Ngày 24 tháng 4 theo Âm lịch hàng năm là ngày giỗ của Trung lang Thượng quân Trương Hy Trọng- Thành hoàng làng Minh Lệ. * Ảnh: 1&3: Lăng Thành hoàng Ảnh 4: Bằng xếp hạng Di tích cấp tỉnh, thành phố theo Quyết định số 5062/QĐ-UBND ngày 27-12-2019 của UBND tỉnh Quảng Bình cho: Lăng mộ, nhà thờ Trung lang Thượng tướng quân Trương Hy Trọng và khu Giang sơn Bến Lội. Ảnh 2&5: Cúng Ngài tại Đình làng

        Nguồn:
        Trương Minh Dục ngày 17 Tháng 5 

        LÀNG MINH LỆ QUA THƯ TỊCH
        Trương Minh Dục


        Trong quá trình hình thành và phát triển, do yêu cầu quản lý phát triển xã hội, một đất nước, hay một địa phương tên gọi có thay đổi tùy theo các chế độ chính trị, các vương triều và cả theo tập quán dân gian. Làng Minh Lệ hiện nay của tôi cũng không phải là ngoại lệ. Thời gian gần đây, nhiều anh em yêu quê hương tranh luận về tên làng Minh Lễ hay Minh Lệ?. Tranh luận là tốt, để hiểu hơn về quá trình hình thành và phát triển của quê hương. Bỡi lẽ, ai cũng yêu quê hương, nhưng hiểu đầy đủ, sâu sắc về quê hương thì chưa có điều kiện đầy đủ về tư liệu và thời gian. Trong mùa Covid-19, tôi dành thời gian đọc lại những thư tịch cổ, đặng cung cấp cho những ai quan tâm đến quá trình hình thành và phát triển của Làng.

        *

        Làng Minh Lệ hiện nay được hình thành là kết quả của chính sách di dân khai phá vùng đất Bố Chính dưới thời Lê Thánh Tông sau thắng lợi bình Chiêm năm 1471. Trong sách “Ô châu cận lục” của Dương Văn An, được viết năm 1552, ấn hành năm 1555, cho biết, châu Bố Chính (gồm vùng đất Bố Trạch, Quảng Trạch, Tuyên Hoá và Minh Hoá ngày nay) có 68 xã (nhưng trong liệt kê là 69), trong đó có xã Thị Lễ (xã lúc ấy là đơn vị hành chính thấp nhất). Nhưng trong thư tịch về đình làng Vĩnh Phước đề cập đến 5 thôn của xã Thị Lễ lúc bấy giờ là: An Phước, An Lộc, An Hoà, An Lễ, An Trường. Trong sách “Phủ biên tạp lục” được viết năm 1776, Lê Quý Đôn chỉ đề cập đến các địa danh từ nam sông Gianh là châu Nam Bố Chánh, còn châu Bắc Bố Chánh thuộc Đàng ngoài nên không được đề cập đến.

        Trong Sắc phong Thành hoàng cho ông Trương Công Chấn tự Hy Trọng năm Quang Trung thứ hai (Kỷ Dậu- 1789), người có công “bình lồi thiết xã”, Thị Lễ có 5 thôn (trong sắc phong không ghi tên thôn).Như vậy, Trương Công Chấn là Thành Hoàng của 5 thôn chứ không phải của riêng Minh Lễ (nay là Minh Lệ).

        Trong Sắc phong cho Ông Nguyễn Cơ (có tài liệu ghi Nguyễn Quốc Cơ) năm Tự Đức thập tam niên (1860), có ghi quê quán thôn Yên Lễ, xã Thị Lễ, tổng Thuận Thị, huyện Minh Chính, phủ Quảng Trạch. Đến giai đoạn từ năm 1885 đến 1889, vua Đồng Khánh tổ chức “Tổng điều tra” dân số, dân cư và tổ chức hành chính, phủ Quảng Trạch có 4 huyện: Bình Chính, Minh Chính, Bố Trạch và Minh Hoá. Huyện Minh Chính có hai tổng Thuận Thị và Thuận Lễ. Tổng Thuận Thị có 18 xã, thôn, phường. Địa danh Minh Lễ lần đâù tiên xuất hiện là cấp xã (làng). Còn các thôn Diên Trường, Hoà Ninh, Vĩnh Lộc, Vĩnh Phước là các thôn trực thuộc tổng Thuận Thị. Dưới thời Pháp thuộc, làng là tổ chức hành chính cơ sở.

        Cho đến năm 1927, trong bài thơ Làm đình, cụ phó lý lúc bấy giờ là Hoàng Liễn còn viết tên làng là Làng Minh Lễ. Trong kháng chiến chống Pháp, tổ chức hành chính cơ sở là xã. Xã Minh Trạch lúc đó là các xã Quảng Minh, Quảng Sơn, Quảng Thủy bây giờ. Cho đến bây giờ chưa tìm thấy tên làng Minh Lệ xuất hiện ở tài liệu Hán Nôm nào. Có người cho rằng từ Minh Lệ là từ Minh Lễ mà ra do người vùng ta thường nói các từ dấu ngã thành nặng và theo thời gian nói và viết trùng nhau. Tôi cho rằng đó cũng có cơ sở.

        Giải nghĩa từ Lễ, trong Ô Châu cận lục, phần tổng luận về phòng tục, có viết: “Cao Lao, Thị Lễ nối nghiệp văn nho”; (…) “danh lừng Thị Lễ lắm văn nhân theo phép lễ nghi”. Còn trong bài thơ Làm đình, một bài thơ ngắn và rất hay ca ngợi vùng đất quê hương nhất là phong thủy của đình làng, văn hoá và con người làng Minh Lễ, cụ Hoàng Liễn có giải thích: Làng Minh Lễ: Minh là cờ, Lễ là nghĩa. Minh tắc thiêng chấp phí kính chỉ”. Như vậy, chữ Lễ trong Thị Lễ, sau đó là Minh Lễ là phép tắc lễ nghi. * Viết ra như vậy không phải để đổi tên làng, mà để các thế hệ hậu sinh biết đúng về gốc tích của quê hương mình.

        Những thông tin tóm lược này để mọi người tham khảo. Mong ai có tư liệu gì chỉ giúp để bổ sung thêm. Ảnh đầu trang: Môt số tài liệu tham khảo để viết stt này

        Nguồn:
        Trương Minh Dục ngày 18 Tháng 4  

        LÀNG MINH LỆ QUA THƯ TỊCH
        (tiếp theo)

        1. Tôi viết Làng Minh Lệ qua thư tịch là muốn mọi người tìm hiểu lịch sử phát triển của làng có bề dày lịch sử 5-6 thế kỷ qua. Điều đó mặc nhiên tên làng như hiện nay là Minh Lệ. Tuy nhiên, nếu chỉ khư khư cái tên đó, cho rằng tên làng ML có từ lúc thiết lập làng đến nay như một số người quan niệm, thì các thể hệ con cháu hiện tại và sau này không biết lịch sử của làng được đề cập trong các thư tịch qua các thời kỳ như thế nào.

        Thư tịch là gì? Mọi người tra từ điển hay vào Google, thì rõ. Nhưng chúng tôi lưu ý, có các loại thư tịch sau:

        – Các văn bản của nhà nước như Châu bản, chỉ dụ, sắc phong, lệnh,…có tính pháp lý nên có độ tin cậy cao nhất.

        – Các sách lịch sử, địa lý do nhà nước phong kiến chỉ đạo biên soạn như Đại Việt sử ký toàn thư, sách địa chí của Quốc sử quán Triều Nguyễn biên soạn cũng là những thư tịch có tính pháp lý và độ tin cậy cao.

        – Các sách do cá nhân các nhà khoa học có tên tuổi biên soạn như Nguyễn Trãi, Lê Văn Hưu, Dương Văn An, Đỗ Bá, Lê Quý Đôn,v.v., cũng có độ tin cậy cao. Ngoài ra, còn phải kể đến các gia phả dòng họ và các tài liệu thành văn khác. Nhưng các thư tịch này thì độ tin cậy không bằng các văn bản của nhà nước.

        Phải phân biệt như vậy để hiểu tính pháp lý và độ tin cậy của thư tịch và tư liệu.

        2. Ở Làng Minh Lệ hiện nay, theo tôi biết có hai sắc phong liên quan đến quá trình thiết lập và phát triển của làng.

        – Sắc phong thứ nhất là Sắc của vua Quang Trung phong cho Trung lang thượng tướng quân Trương Hy Trọng năm Quang Trung thứ hai (1789). Theo nhà nghiên cứu lịch sử- văn hoá Tạ Đình Hà, đây là một trong hai sắc phong cổ nhất ở tỉnh Quảng Bình.

        Sắc phong thứ hai là Sắc của vua Tự Đức bổ nhiệm ông Nguyễn Cơ chức Hàn lâm viện Điển bộ, sung Kiểm hiệu Ấn thư cục thuộc Bộ Lễ, vào năm Tự Đức thứ 13 (1860) (hình 1a, 1b) trong đó ghi: “Cử nhân Nguyễn Cơ, quán thôn Yên Lễ, xã Thị Lễ, tổng Thuận Thị, huyện Minh Chính” (có bản phụng dịch của cố nhà giáo Hoàng Hữu Xứng kèm theo, hình 1c).

        Được phép của anh Nguyễn Phái, hâụ duệ đời thứ 5 của ông Nguyễn Cơ, tôi công bố những sắc phong đó cho mọi người tham khảo (Riêng về ông Nguyễn Cơ sẽ có một bài viết từ bộ hồ sơ tư liệu mà anh Nguyễn Phái cung cấp).

        Nguồn:
        Trương Minh Dục ngày 7 Tháng 6

        Nhớ con sông quê hương
        VỀ SÔNG GIANH
        Hoàng Gia Cương


        Tôi lại về sông Gianh
        Con sông thời thơ ấu
        Gió Lào thổi ầm ào như gió bão
        Sóng dập dềnh
        Phà chở nắng chang chang …

        Nước thẩm xanh
        Xanh Nguồn Nậy,
        Nguồn Nan(*)
        Có vị muối thủy triều
        Có mùi hương của suối.

        Ba nguồn nước chảy từ ba hướng núi
        Như ba miền tụ hội một miền xanh.
        Yêu đất trời sông trải rộng mông mênh
        Soi dáng núi, hình mây vào đáy nước.

        Con thuyền nhỏ bơi ngược dòng ký ức
        Trái bần xanh còn chát một thời xa …
        Sông Gianh xưa như kiếm chắn đôi bờ (**)
        Trang sử cũ hoen vết nhơ chia cắt !

        Tôi đã lớn từ củ khoai, mắm ruốc
        Nước mắt, mồ hôi hòa giọt với dòng sông
        Những niềm vui và cả nỗi đau buồn
        Sông còn giữ – như tôi – từng kỷ niệm ?

        Hàng tre vẫy đón thuyền tôi về bến
        Bờ dịu dàng, cát mịn đỡ chân tôi
        Dù đi xa đã mấy chục năm rồi
        Tôi lại sống giữa một thời thơ ấu …

        Linh Giang ơi, qua bao lần gió bão
        Qua bao lần đỏ máu lại xanh trong
        Minh Lệ, Ba Đồn Bến đợi, bờ mong…
        Sông trải rộng như lòng người trải rộng !

        Vẫn bình thản trước gió Lào, nắng nóng
        Vẫn dịu hiền như mẹ tiễn con đi !…

        QB Hè1989
        *Sông Gianh (Linh Giang) có 3 nhánh: nguồn Nậy, nguồn Nan và nguồn Son.** Thời Trịnh-Nguyễn phân tranh, sông Gianh là ranh giới chia cắt giữa Đàng Trong và Đàng Ngoài.Ảnh: Nguồn Nan chảy qua làng Minh Lệ quê tôi (ảnh đầu trang Hoàng Gia Cương).

        LINH GIANG SÔNG QUÊ HƯƠNG
        Hoàng Kim


        Nhà mình gần ngã ba sông
        Rào Nan, chợ Mới, nguồn Son, Quảng Bình
        Linh Giang sông núi hữu tình
        Nơi đây cha mẹ sinh thành ra con

        “Chèo thuyền cho khuất bến Son
        Để con khỏi chộ nước non thêm buồn “

        Câu ru quặn thắt đời con
        Mẹ cha mất sớm, con còn trẻ thơ

        Ra đi Xem tiếp >>

          Dạy và học 17 tháng 9(17-09-2021)


        Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là linh-giang.jpg

        DẠY VÀ HỌC 17 THÁNG 9
        Hoàng Kim
        CNM365 Tình yêu cuộc sốngLinh Giang Đình Minh Lệ; Nhớ Viên Minh; Châu Mỹ chuyện không quên; Food Crops Ngọc Phương Nam; Bảo tồn và phát triển sắn; Lúa siêu xanh Việt Nam; Tứ Cô Nương bạn tôi; Bến Lội Đền Bốn Miều; Đá Đứng chốn sông thiêng; Đào Duy Từ còn mãi; Ngày 17 tháng 9 năm 1630, Thành phố Boston được thành lập, đây là nơi có nhiều sự kiện mang tính quyết định trong Cách mạng Mỹ, nay là một trung tâm quốc tế về giáo dục bậc đại học và y tế. Ngày 17 tháng 9 năm 1787, Văn bản Hiến pháp Hoa Kỳ được hoàn thành tại Hội nghị Hiến phápPhiladelphia, Pennsylvania. Ngày 17 tháng 9 năm 1976, NASA hoàn tất tàu con thoi đầu tiên mang tên Enterprise. Con tàu này ra mắt công chúng ở Palmdale, California. Bài chọn lọc ngày 17 tháng 9: Linh Giang Đình Minh Lệ; Nhớ Viên Minh; Châu Mỹ chuyện không quên; Food Crops Ngọc Phương Nam; Bảo tồn và phát triển sắn; Lúa siêu xanh Việt Nam; Tứ Cô Nương bạn tôi; Bến Lội Đền Bốn Miều; Đá Đứng chốn sông thiêng; Đào Duy Từ còn mãi; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-17-thang-9/

        LINH GIANG SÔNG QUÊ HƯƠNG
        Hoàng Kim


        Nhà mình gần ngã ba sông
        Rào Nan, chợ Mới, nguồn Son, Quảng Bình
        Linh Giang sông núi hữu tình
        Nơi đây cha mẹ sinh thành ra con

        “Chèo thuyền cho khuất bến Son
        Để con khỏi chộ nước non thêm buồn “

        Câu ru quặn thắt đời con
        Mẹ cha mất sớm, con còn trẻ thơ

        Ra đi từ bấy đến chừ
        Lặn trong sương khói bến đò sông quê
        Ngày xuân giữ vẹn lời thề
        Non sông mở cõi, tụ về trời Nam.

        Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là lang-minh-le-que-toi.jpg

        ĐÌNH MINH LỆ QUÊ TÔI
        Hoàng Kim

        Đất nặng ân tình đất nhớ thương
        Ta làm hoa đất của quê hương
        Để mai mưa nắng con đi học
        Lưu dấu chân trần với nước non.

        Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là dinh-minh-le-bang-cong-nhan-di-tich-lich-su-van-hoa.jpg

        Đình Minh Lệ xã Quảng Minh, huyện Quảng Trạch (nay là thị xã Ba Đồn) Tỉnh Quảng Bình có Bằng Công nhân Di tích lịch sử Văn hóa Di tích được xếp cấp Quốc gia theo Quyết định số 1430 QĐ/BT ngày 12 tháng 10 năm 1993 của Bộ Văn hóa Thông tin. Đình được xây dựng vào thời ‘Hồng Đức Lê Triều’. Trùng tân năm Bảo Đại nhị niên năm 1927, trùng tu vào các năm 1998, 2003, 2011 và chống xuống cấp năm 2018. Đình thờ Thành hoàng làng Trung lang Thượng tướng quân Trương Hy Trọng và các vị Thần tổ của bốn họ Trương, Nguyễn, Hoàng, Trần. Đình là nơi thờ Thành hoàng của làng, đồng thời là nơi hội họp, bàn việc làng. Đình được coi là trung tâm sinh hoạt văn hóa gắn bó với một cộng đồng cư dân Việt Nam.Thành hoàng là người có công với dân, với nước, lập làng, dựng ấp hay sáng lập nên một nghề (ông tổ của nghề). Đình có lưu giữ sắc phong của vua cho đức Thành hoàng để lưu giữ chứng tích; Ngày nay, Bộ Văn hóa Thông tin Việt Nam có Bằng Công nhân Di tích lịch sử Văn hóa số Quyết định. đối với chứng tích được xác nhân.

        Đình Minh Lệ quê tôi là nơi diễn ra các lễ hội của làng, nơi gắn liền với những sự kiện lịch sử tiêu biểu trong thời kỳ vận động thành lập Đảng, khởi nghĩa giành chính quyền cách mạng tháng Tám năm 1945 và trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ của dân tộc. Đình Minh Lệ quê tôi là chứng nhân sự hi sinh to lớn và những chiến công xuất sắc của xã Quảng Minh đơn vị anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Bia dựng năm 2018.

        Đình Minh Lệ quê tôi được xây dựng năm 1464 dưới triều vua Lê Thánh Tông, hoàng đế thứ 5 của nhà Lê sơ, là nơi thờ tự bốn vị Đức Thần Tổ Trương, Hoàng, Trần, Nguyễn. Thuở sơ khai, đình Minh Lệ là ngôi đình chung của cả năm thôn “Nhất xã ngũ thôn”: Minh Lệ (Quảng Minh), thôn Đoài (Diên Trường – Quảng Sơn), Vĩnh Ninh (Hoà Ninh – Quảng Hoà), Vĩnh Phước, Vĩnh Lộc (Quảng Lộc), trích dẫn theo bài “Qua một ngôi đình suy nghĩ về người xưa” của nhà giáo Hoàng Hữu Sam đăng trên Tạp chí Nhật Lệ năm 2001 và sách “Thời lửa đạn” theo hồi ký của nhà giáo Nguyễn Hữu Thanh.

        QUA MỘT NGÔI ĐÌNH SUY NGHĨ VỀ NGƯỜI XƯA
        Bút ký Hoàng Hữu Sam


        “Qua đình ngã nón trông đình. Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu”. Ngày nay, qua đình Minh Lễ, xã Quảng Minh – Quảng Trạch, các trai tân gái lịch không còn nhìn thấy, như xưa kia, đây là nơi hò hẹn, nơi gửi gắm tâm tình cho nhau trước khi đi đến xây dựng cuộc sống vợ chồng “Bách niên giai lão” trên mảnh đất truyền thống đầy huyền thoại này.

        Đình Minh Lễ được xây dựng từ thế kỷ XIX, là nơi thờ vị Thành Hoàng làng cùng các vị Thần tổ của bốn Họ trong làng, là nơi sinh hoạt văn hóa, hội hè, đình đám và bàn công việc làng. Đình được trùng tân vào năm Bảo Đại nhị niên.Trải qua nhiều biến cố thăng trầm của lịch sử đất nước và quê hương trong một thời gian quá dài, nhất là hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Đình làng Minh Lễ đã “ Trơ gan cùng tuế nguyệt” với những bức tường đổ nát nằm trong những lùm cây hoang dại và um tùm. Cũng chính trong hoang tàn đổ nát ấy mà Đình Minh Lễ trở thành nơi hội họp bí mật của cán bộ cách mạng trong xã, nơi thu giấu vũ khí đánh giặc ngoại xâm, nơi rèn luyện ý chí quật cường của những người con quê hương căm thù chế độ cũ, nơi vang lên tiếng mõ đình inh ỏi sáng ngày 23 tháng 8 năm 1945 để toàn dân cướp chính quyền và bầu lên Ủy ban Hành chính lâm thời đầu tiên của xã Minh Lễ.

        Xuất phát từ ý thức muốn bảo vệ lấy những gì là di tích văn hóa lịch sử của quê hương, một số con em của làng có tâm huyết với mảnh đất quê nhà đã làm đơn gửi lên Sở Văn hóa – Thông tin tỉnh xin trùng tu lại ngôi đình. Được sự động viên, giúp đỡ của chính quyền địa phương và của Sở Văn hóa -Thông tin, đơn xin trùng tu đình làng Minh Lễ được chấp nhận. Năm 1993 Đình Minh Lễ được Bộ Văn hóa – thông tin ra quyết định công nhận Di tích Văn hóa – Lịch sử của xã Quảng Minh. Qua hai đợt Đình Minh Lễ đã được trùng tu lại đẹp đẽ, khang trang, đứng sừng sững giữa bầu trời xanh của một miền quê đất nước. Ở đây, nhờ trí nhớ hoàn hảo của ông Hoàng Hữu Xứng mà tôi đã viết lại tất cả các bức hoành phi và câu đối – đều được ghi lại hầu như theo đúng nguyên tác thư pháp xưa.

        Đình làng Minh Lễ vẫn giữ được thư pháp tuyệt vời của hai ông Tôn Thất Mai, Hoàng Tinh Sà (thân sinh tác giả- NBT) – Hai người được triều Vua nhà Nguyễn mời vào kinh đô viết sắc bằng cho toàn quốc -được nhân dân làng Minh Lễ mời viết giúp những bức hoành phi và câu đối cho Đình làng. Với các yếu tố: kiến trúc, hoa văn, bề dày lịch sử, giá trị tinh thần biểu hiện qua nội dung các bức hoành phi và câu đối, nên Đình làng Minh Lễ mới được công nhận Di tích Văn hóa – Lịch sử. Tất cả đó tạo nên niềm tự hào chính đáng của nhân dân làng Minh Lễ từ trước tới nay.*

        Vậy chúng ta hãy nghe các cụ xưa đã nói những gì qua các bức hoành phi và câu đối ở Đình? *

        Thoạt đầu, bước tới cổng Đình, chúng ta bắt gặp ngay đôi câu đối ở hai cột trụ cổng bằng chữ Nho đại tự mà đứng xa hàng năm mét vẫn có thể nhìn đọc được: Tiền hướng Linh Giang thông đại hải / Hậu liên Ngùi Lĩnh tiếp cao sơn. Câu đối đã nói lên vị trí to rộng giữa một khoảng trời đất bao la: mặt trước hướng về sông Gianh (Linh Giang) để thông ra biển cả. Mặt sau liền với núi Ngùi (Ngùi Lĩnh ) và tiếp đến núi cao của dãy Trường Sơn hùng vĩ. Ở cổng phụ cạnh cổng chính, có đôi câu đối đã đem chúng ta trở về với cội nguồn làng quê: Làng Minh Lễ ngày xưa được gọi là Bến Lội – nơi hợp lưu của dòng Rào Nan với một nhánh nhỏ là Rào Đá, do phù sa của Rào Đá tuôn ra mạnh nên chỗ hợp lưu ấy bị cạn lại mới gọi Bến Lội – người ta có thể lội qua được – đó là: Minh Lễ chương danh đình dĩ cố /Thiệp tân tích sử thủy trường thanh.*Giang sơn Bến Lội – Minh Lễ còn là một mảnh đất vô cùng đẹp đẽ, một địa linh đã sản sinh ra những người con kiệt xuất cho đất nước và quê hương: Sơn cao thủy tú phong quang vô hạn hảo / Địa linh nhân kiệt hoằng thạc xuất nhân trung (Phong cảnh núi sông cao đẹp vô cùng. Đất linh thiêng sinh ra những con người hào kiệt, thật là vĩ đại ngang trời mây) *

        Các cụ còn làm cho con cháu thấy được niềm vui, lòng tin tưởng quê hương ngày càng đổi mới, ngày càng hướng tới văn minh: Cách trí lương phương thiên khái văn minh tân vận hội / Trác thành để trụ được chung linh khí cửu Giang Sơn (Mở rộng tầm hiểu biết, trời mở vận hội mới là vận hội văn minh / Gọt dủa cho thành công, đất hun đúc nên khí thiêng của giang sơn cũ). *Được sống trên mảnh đất địa linh nhân kiệt, nhân dân đã thông qua các cụ xưa đã ca ngợi quê hương và biết ơn vị Thành Hoàng đã “Mở mang văn nghiệp, võ công” (Bố võ tuyên văn – một câu trong Sắc phong). Đồng thời phải biết kính trọng và tôn thờ các vị Thần linh đó vừa có công lớn, vừa tăng thêm sức mạnh của núi sông: Tại kỳ thượng tại kỳ tả hữu /Tý nhĩ thọ tỷ nhĩ xí xương ( Kính thờ thần như thần thánh đứng ở trên (bàn thờ) và cả ở hai bên tả hữu (chúng ta). Cầu mong cho được sống lâu và được vẻ vang rực rỡ).Hoặc: Hân yết đại danh thùy vũ trụ / Hiên ngang chính khí tráng sơn hà (Tiếng tăm lừng lẫy hòa trong vũ trụ Chính khí hiên ngang tăng thêm sức mạnh của núi sông)* Đặc biệt, đây là những di huấn, những sự nhắc nhở các thế hệ sau phải tuân thủ theo lễ nghĩa, đồng thời cũng phải luôn luôn nhớ đến tên làng đã đi vào lịch sử, đã có từ thời nhà Trần (thế kỷ thứ XIII).* Bức hoành phi ở giữa:Hội đồng hữu dịch ( Đình làng là nơi hội họp của làng, mà có hội họp thì có trao đổi diễn dịch (như có thảo luận) cho sáng ra những điều lễ nghĩa) Câu này cũng gần nghĩa như chữ Minh Lễ là tên làng, nên các cụ đặt ở gian giữa Đình*

        Bức hoành phi bên phải: Tự sự khổng minh ( Việc tế tự phải nghiêm túc như ánh sáng xuyên qua một lỗ nhỏ từ trên mái nhà xuống, nghĩa là rất thành kính)* Bức hoành phi bên trái: Gia hội hợp lễ (Tổ chức các cuộc họp, lễ hội phải đúng theo lễ nghĩa). Ở đây có một vấn đề rất tế nhị nhưng cũng rất quan trọng là: để bảo vệ lấy tên làng mãi mãi đến muôn đời sau, các cụ đã thông qua các bức hoành phi để kín đáo dùng những chữ ghép lại thành tên làng:Lấy chữ “Minh” ở bức hoành phi bên phải ghép với chữ “Lễ” ở bức hoành phi bên trái ghép lại thành Minh Lễ là tên làng đã có từ xưa)* Để chắc chắn hơn nữa, các cụ lại dùng một câu đối ở mặt tiền chính giữa để giữ lấy tên làng: Xa thư cộng đạo văn minh xiển / Hương hỏa thiên thu điển lễ tồn (Những nền nếp đều thống nhất quy về một mối, làm cho ánh sáng văn minh thêm chói lọi. Việc hương khói (thờ phụng) hàng năm vẫn theo điển lễ vẫn còn ( không sai chạy)). Cũng như các bức hoành phi trên, tại câu đối này, lấy chữ thứ 6 của vế 1 ( Minh) ghép với chữ thứ 6 của vế 2 ( Lễ) thành tên làng Minh Lễ.

        Ở đây với một trình độ Hán học uyên thâm, các cụ đã sử dụng những từ nguyên rất chính xác để nhắc nhở hậu thế. Xa thư: Xa đồng quỹ,thư đồng văn: Xe thì khoảng cách giữa hai bánh bằng nhau, sách thì viết một thứ chữ. Cho nên ta càng rõ thêm: Giang sơn thống nhất về một mối, nền văn minh sáng tỏ ra. Hương khói ngàn năm cúng tế theo điển lễ vẫn còn.

        Vì có tên làng nên hai câu này cũng được viết ở chính giữa mặt tiền của Đình. Kính quý thần khả vị tri hỉ / Bảo hữu dân thượng hữu chế tai (Biết kính quý Thần, có thể nói là thông minh, đã là biết vậy /.Bảo vệ cho người dân lành còn là trách nhiệm (quy chế, chế độ) nữa. Bảo vệ dân đen mà còn hạn chế nữa hay sao !)

        Trên đây chỉ xin trích dịch một số nội dung trong các bức hoành phi và câu đối ở Đình làng Minh Lễ từ xa xưa. Giới thiệu một số nội dung các bức hoành phi và câu đối ở Đình làng, người viết bài này chỉ mong đem đến một phần nào những suy nghĩ và ước mong của người xưa đã gửi gắm vào những bức hoành phi và câu đối, để mong quê hương – làng Minh Lễ mãi mãi trường tồn cùng núi sông đất Việt.

        Mặc dù đã cố gắng với nhiều công sức, song trình độ có hạn, kính mong được sự góp ý của quý vị độc giả, nhất là các vị con em xã nhà.

        Thượng tuần tháng Nhâm Dần, năm Nhâm Ngọ.
        H.H.S (Tạp chí Nhật Lệ năm 2001)

        Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là dinh-lac-giao.jpg

        Đình Lạc Giao ở Buôn Ma Thuột Đăk Lăk , rất gần nơi sinh thành cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn cũng là một mốc son quan trọng trên đường Nam Tiến của người Việt. Đền Lạc Giao đã được cấp Bằng Công nhân Di tích lịch sử Văn hóa Di tích được xếp cấp Quốc gia theo của Bộ Văn hóa Thông tin. Đình Lạc Giao trước đó được hình thành theo tài liệu của đình được ghi nhận là do ông Phan Hộ, người Quảng Nam, vào Ninh Hoà, Khánh Hoà) sinh sống. Thuở ấy, lên cao nguyên Dak Lak chưa có đường, ông Phan Hộ cùng một số trai tráng đi bằng voi, ngựa xuyên rừng vài tháng mới tới vùng M’Drak rồi đến Buôn Ma Thuột trao đổi hàng hoá với người Ê Đê, thấy người dân ở đây giàu lòng mến khách, đất đai màu mỡ lại dễ làm ăn, nên ông vận động nhiều gia đình lên đây sinh sống, khai phá đất hoang để lập làng. Nỗi nhớ thương quê nhà bản quán, anh em khôn nguôi trong lòng những người đi xa quê, làm ăn xứ lạ. Từ đó họ có nhu cầu gặp gỡ, trao đổi công việc làm ăn, nhất là Lễ Tết có nơi cúng kiếng ông bà tổ tiên, nhắc chuyện quê hương làng xóm. Họ đã góp tiền của công sức dựng nên ngôi đình trên để thoả nỗi ước mong đó. Đình Lạc Giao ra đời ghi dấu bước chân của người Việt trên mảnh đất cao nguyên, là nơi mọi người cầu mong sức khoẻ và làm ăn phát đạt, nơi thờ các vị tiên hiền và người có công với đất nước, nơi sinh hoạt trong những ngày lễ tết của cư dân Việt trên vùng đất mới. Câu chuyện này xem chi tiết ở chuyên khảo Đình Lạc Giao Hồ LắkĐào Duy Từ còn mãi

        Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là quang-binh-dat-me-on-nguoi-1.jpg

        LINH GIANG ĐÌNH MINH LỆ
        Hoàng Kim

        Tay men bệ đá sân đình
        Tổ tiên cha mẹ lặng thinh chốn này
        Đình làng chốn cũ nơi đây
        Nuôi đêm phúc ấm dưỡng ngày nhân sinh.

        Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là nho-vien-minh-1.jpg

        NHỚ VIÊN MINH
        Hoàng Kim

        Mình về với đức Viên Minh
        Thơm hương Hoa Lúa ân tình nước non
        Đêm Yên Tử sáng trăng rằm
        Ban mai ngày mới an nhiên cuộc đời.

        Thung dung bước tới thảnh thơi
        Hiền lành phúc hậu lánh nơi bụi trần
        Thiên nhiên là thú bình an
        Người thân bạn quý thanh nhàn sống vui.

        Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là nho-vien-minh-4.jpg

        Tay men bệ đá sân chùa
        Tổ tiên cha mẹ đều xưa chốn này
        Đình làng chùa cũ nơi đây
        Nuôi đêm phúc ấm dưỡng ngày nhân sinh

        Mình về với đức Viên Minh
        Thơm hương Hoa Lúa nặng tình nước non
        Đêm Yên Tử sáng trăng rằm
        Ban mai ngày mới an nhiên cuộc đời

        Thung dung bước tới thảnh thơi
        Hiền lành phúc hậu lánh nơi bụi trần
        Thiên nhiên là thú bình an
        Người thân bạn quý thanh nhàn sống vui.

        Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là nho-vien-minh-2.jpg
        Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là nho-vien-minh-3.jpg
        Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là nho-vien-minh-5.jpg

        (*) Đình Minh Lệ ban mai. (**) Viên Minh còn gọi là chùa Giáng nằm ven đê thuộc xã Quang Lãng, huyện Phú Xuyên, Hà Tây (cũ) nay thuộc Hà Nội, nơi Tổ Giáng Đại lão Hòa thượng Thích Phổ Tuệ trụ trì. xem tiếp: Hoa Lúa https://hoangkimlong.wordpress.com/category/hoa-lua/

        Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là chau-my-chuyen-khong-quen-2-1.jpg

        CHÂU MỸ CHUYỆN KHÔNG QUÊN
        CIMMYT tươi rói một kỷ niệm
        Hoàng Kim

        Nhớ xưa leo đỉnh đèo Ngang
        Để nay xuôi ngược dọc ngang xứ người
        Mê xi cô tựa cổng trời (*)
        Đường xuôi về biển bồi hồi nhớ quê

        Oregon thác uy nghi
        Trập trùng đường hiểm tưởng về Hải Vân
        Phải đi muôn dặm xa gần
        Lên cao đỉnh núi rộng tầm mắt xa

        Em về thưa với mẹ cha
        Rằng anh còn bận đường xa chưa về
        Trăm quê dẫu ngỡ là quê
        Tuy say đất lạ vẫn mê xứ mình

        Đã từng ly biệt tử sinh
        Gừng cay muối mặn để thành quê hương
        Đã từng gian khổ chiến trường
        Ngọt bùi nhớ bát cơm thường trộn khoai

        Anh đi núi rộng sông dài
        Bởi đâu trông cảnh nhớ người hỡi em
        Bởi đâu bạn lạ hóa quen
        Nâng hòn đất lại nghĩ miền quê ta

        Anh về sẽ nối đường qua
        Cánh thư chắp mối để xa nên gần
        Cây ngay sẽ tỏa bóng tròn
        Cây càng sâu rễ cành càng xum xuê

        (*) Thủ đô Mê xi cô ở độ cao trên 2000m so với mặt biển;

        Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là chau-my-chuyen-khong-quen-9.jpg

        (**) CIMMYT https://www.cimmyt.org/ là một tổ chức Quốc tế nghiên cứu về Ngô và Lúa mì để giúp đỡ các chương trình nghiên cứu và phát triển ngô, lúa mì, cao lương ở các nước đang phát triển. CIMMYT là một trong 13 Viện và Trung tâm Nghiên cứu Quốc tế thuộc CGIAR (Ủy Ban Tư Vấn Nghiên Cứu Nông Nghiệp Quốc Tế) được thiết lập bởi FAO với Ngân hàng Thế giới và UNDP.

        Nội dung hoạt động của CIMMYT bao gồm: 1) Duy trì và cải tiến nguồn gen; 2) Chọn giống và nghiên cứu đẩy mạnh sản xuất ngô, lúa mì; 3) Huấn luyện ; 4) Tư vấn nông nghiệp; 5) Dịch vụ thông tin. Huấn luyện là một hoạt động chính tại CIMMYT, nhóm lớn nhất là đào tạo theo khung chương trình, bao gồm huấn luyện về ngô (nghiên cứu nông học và sản xuất ngô, chọn tạo giống ngô, kỹ thuật phòng thí nghiệm chọn tạo giống ngô chất lượng cao), huấn luyện về lúa mì (nghiên cứu nông học và sản xuất lúa mì, chọn tạo giống lúa mì, kỹ thuật hạt giống cây cốc); huấn luyện quản lý Trung tâm trạm trại nông nghiệp; huấn luyện kinh tế nông nghiệp, định hướng trên các hoạt động nghiên cứu và chuyển giao tiến bộ kỹ thuật về ngô và lúa mì. CIMMYT còn có các chương trình huấn luyện tiến sĩ, thạc sĩ, khách thăm, cộng tác viên, và sự huấn luyện cho các nước theo yêu cầu của chương trình Quốc gia.

        CIMMYT có trụ sở chính 80 ha đặt ở El Batan nơi trung tâm của hầu hết các chương trình CIMMYT. El Batan cách thủ đô Mexicô 45 km về phía Tây Bắc có cao độ là 2.240m so với mặt biển. Cơ sở vật chất của CIMMYT ở El Batan bao gồm: khu trụ sở văn phòng và huấn luyện; thư viện và cung cấp thông tin; các phòng thí nghiệm và nhà kính nhà lưới; khu bảo quản và sơ chế hạt giống; khu trạm trại thí nghiệm thực nghiệm (CIMMYT có 5 trạm trại thí nghiệm 4 trực thuộc CIMMYT 1 trực thuộc Viện Nghiên cứu Quốc gia Mexico; khu nhà ở nhà khách và dịch vụ đời sống cho nhân viên và học viên. Theo tài liệu của CIMMYT khoảng 60% tài chính được đầu tư cho nghiên cứu trực tiếp, 10% đầu tư cho nghiên cứu hổ trợ, 14% đầu tư cho huấn luyện, 6% cho duy trì quỷ gen, 3% cho dịch vụ thông tin và 7% cho quản lý hành chính. Việt Nam CIMMYT hợp tác từ năm 1980.

        Mexico, Oragon, CIANO, Norman Borlaug, thầy bạn tôi ở nơi ấy, CIMMYT tươi rói một kỷ niệm.

        Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là chau-my-chuyen-khong-quen-3-1.jpg
        Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là chau-my-chuyen-khong-quen-7.jpg
        Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là con-duong-di-san-lewis-vc3a0-clark-3.jpg
        Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là chau-my-chuyen-khong-quen-2.jpg

        CHÂU MỸ CHUYỆN KHÔNG QUÊN
        Hoàng Kim

        Tôi đã nhiều lần tới châu Mỹ, tới cả Trung Mỹ, Bắc Mỹ và Nam Mỹ. Đó là kinh nghiệm sống quý giá cho sự nghiên cứu và giảng dạy khoa học cây trồng, đặc biệt là cây lương thực. Tôi nhớ thầy Norman Boulaug và nhiều thầy bạn ở nơi ấy, nhớ đất. nhớ người. Tôi có thói quen chép lại ghi chú ngắn và ghi hình về kỷ niệm sau mỗi chuyến đi, lần này mới có dịp hệ thống lại. “Châu Mỹ chuyện không quên” lắng đọng trong lòng tôi những ký ức sâu sắc về công việc chuyên môn khoa học cây trồng, cây lương thực yêu thích, kết nối với đất nước, con người, bạn hữu, và nền văn hóa châu Mỹ. Tôi kể từ chuyến đi Mỹ lần đầu tiên năm 1988, cho tới nhiều lần về sau lắng đọng chuỗi trãi nghiệm thân thương với thầy bạn ở bên kia bờ đại dương. Ba nơi chính của châu Mỹ mà tôi may mắn được tới, đó là vùng vật liệu di truyền ở ba trung tâm khởi nguyên cây trồng toàn cầu của chúng tại Châu Mỹ gồm Trung tâm ngô và lúa mì quốc tế CIMMYT ở Mê hi cô. Trung tâm khoai lang và khoai tây quốc tế CIP ở Peru. Trung tâm Quốc tế Nông nghiệp Nhiệt đới CIAT về sắn, đậu thực phẩm, lúa gạo châu Mỹ ở Côlômbia. Những điểm đến này tương tự như Viện Nông nghiệp Nhiệt đời Quốc tế IITA ở Nigeria châu Phí, Viện Nghiên cứu Cây trồng Quốc tế cho vùng Nhiệt đới Bán khô cằn ICRISAT ở Ấn Độ, và Viện Lúa quốc tế IRRI ở Philippines. Những chốn ấy cũng thật thân thuộc với tôi. Tại đấy sách chuyên khảo cây trồng, tạp chí, trang web, video thật phong phú, sâu sắc và thật đáng ao ước. Cũng từ đấy mà tôi may mắn được đi thăm thú rộng ra các vùng lân cận theo điều kiện và hoàn cảnh của mỗi chuyến đi.

        “Châu Mỹ chuyện không quên” là các bài học tình yêu cuộc sống trãi nghiệm cá nhân của các chuyến đi thực tế, với mục đích cung cấp các điểm nhấn tư liệu nông nghiệp sinh thái về cây lương thực châu Mỹ cho bạn đọc. Tác phẩm gồm 36 đường dẫn, tựa đề thơ ngũ ngôn, để dễ đọc dễ nhớ, ảnh chi tiết bấm link.

        Mục đích sau cùng của DẠY VÀ HỌC là thấu suốt bản chất sự vật, có lời giải đúng và LÀM được việc.
        Lời Thầy dặn thung dung.

        Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là chau-my-chuyen-khong-quen-5.jpg

        Châu Mỹ chuyện không quên
        Hoàng Kim

        Niềm tin và nghị lực
        Về lại mái trường xưa
        Hưng Lộc nôi yêu thương
        Năm tháng ở trời Âu

        Vòng qua Tây Bán Cầu
        CIMMYT tươi rói kỷ niệm
        Mexico ấn tượng lắng đọng
        Lời Thầy dặn không quên

        Ấn tượng Borlaug và Hemingway
        Con đường di sản Lewis Clark
        Sóng yêu thương vỗ mãi
        Đối thoại nền văn hóa

        Truyện George Washington
        Minh triết Thomas Jefferson
        Mark Twain nhà văn Mỹ
        Đi để hiểu quê hương

        500 năm nông nghiệp Brazil
        Ngọc lục bảo Paulo Coelho
        Rio phố núi và biển
        Kiệt tác của tâm hồn

        Giấc mơ thiêng cùng Goethe
        Chuyện Henry Ford lên Trời
        Bài đồng dao huyền thoại
        Bảo tồn và phát triển

        Sắn Việt Nam và Kawano
        Sắn Việt Nam và Howeler
        Một ng&aXem tiếp >>

          Dạy và học 16 tháng 9(16-09-2021)


        DẠY VÀ HỌC 16 THÁNG 9
        Hoàng Kim
        CNM365 Tình yêu cuộc sốngLúa siêu xanh Việt Nam; Tứ Cô Nương bạn tôi; Bến Lội Đền Bốn Miều; Đá Đứng chốn sông thiêng; Đào Duy Từ còn mãi;Việt Nam vị thế mới; Việt Nam con đường xanh; Hoa Đất thương lời hiền; Trà sớm nhớ bạn hiền; Mùa Trung Thu tình thân; Thanh trà Thủy Biều Huế; Trăng rằm vui chơi giăng; Thăm nhà cũ của Darwin; Làng Minh Lệ quê tôi; Ta về với Linh Giang; Quảng Bình đất Mẹ ơn Người; Ngày 16 tháng 9 năm 1950, Chiến tranh Đông Dương: Tướng Hoàng Văn Thái chỉ huy hai trung đoàn Việt Minh tiến công quân Pháp ở Đông Khê, mở màn Chiến dịch Biên giới. Ngày 16 tháng 9 năm 1987, Nghị định thư Montreal được ký kết nhằm bảo vệ lớp ô zôn khỏi bị suy giảm. Ngày 16 tháng 9 năm 1792, ngày mất Nguyễn Huệ, Vị hoàng đế thứ hai của nhà Tây Sơn. Ngày 16 tháng 9 năm 1820, ngày mất Nguyễn Du, đại thi hào Việt Nam. Bài chọn lọc ngày 16 tháng 9 Lúa siêu xanh Việt Nam; Tứ Cô Nương bạn tôi; Bến Lội Đền Bốn Miều; Đá Đứng chốn sông thiêng; Đào Duy Từ còn mãi;Việt Nam vị thế mới; Việt Nam con đường xanh; Hoa Đất thương lời hiền; Trà sớm nhớ bạn hiền; Mùa Trung Thu tình thân; Thanh trà Thủy Biều Huế; Trăng rằm vui chơi giăng; Thăm nhà cũ của Darwin; Làng Minh Lệ quê tôi; Ta về với Linh Giang; Quảng Bình đất Mẹ ơn Người; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-16-thang-9/

        Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là lua-sieu-xanh-viet-nam-13.jpg

        LÚA SIÊU XANH VIỆT NAM
        Hoang Long, Hoàng Kim và đồng sự

        Giống lúa siêu xanh GSR65
        Nguồn gốc giống: Giống lúa GSR65 có nguồn gốc từ giống lúa Huang Hua Zhang (HHZ) cải tiến HHZ5-DT11-SAL2-7, được lai tạo và nhập nội nguồn gen từ chương trình chọn tạo giống lúa siêu xanh (GSR) của Viện Nghiên cứu lúa Quốc tế (IRRI) với Viện Hàn lâm Khoa học Nông nghiệp Trung Quốc (CAAS). Giống lúa GSR65 được Mạng lưới Nghiên cứu Lúa Siêu Xanh Việt Nam tuyển chọn và phát triển thích ứng với điều kiện biến đổi khí hậu tại Việt Nam (Nguyễn Trọng Tùng, Nguyễn Đức Thắng, Hoàng Long và ctv. 2018a, Nguyễn Trọng Tùng, Nguyễn Đức Thắng, Hoàng Long và ctv. 2018b; Hoang Long et al. 2015). Giống lúa siêu xanh GSR 65 đã được tuyển chọn qua bảy vụ tại Phú Yên với sáu khảo nghiệm cơ bản (12 giống lúa trong ba vụ tại hai điểm); bốn khảo nghiệm sản xuất (5 giống lúa tuyển chọn trong hai vụ tại hai điểm), bốn trình diễn xây dựng mô hình sản xuất thử (trong hai vụ tại hai điểm). Giống lúa GSR65 đang được Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Phú Yên chủ trì phối hợp với Trường Đại học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh, Trường Đại Học Nông Lâm Huế, Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Sóc Trăng, Viện Hàn Lâm Khoa học Nông nghiệp Trung Quốc lập hồ sơ công nhận giống lúa mới.

        Đặc điểm giống: Giống lúa siêu xanh GSR65 năng suất cao chất lượng tốt thích hợp vùng thâm canh và vùng mặn, vùng hạn. Giống có thời gian sinh trưởng 95 – 100 ngày đối với lúa sạ và 100 – 105 ngày khi cấy. Giống có chiều cao cây 98 – 100 cm. Giống có 336 – 354 bông/m2, trọng lượng 1000 hạt khoảng 24 – 25g. Tỷ lệ gạo lật, tỷ lệ gạo xát và tỷ lệ gạo nguyên đều đạt tốt, chất lượng gạo loại 1. Giống GSR65 đạt mức protein cao trên 7%, có hàm lượng amylose trung bình, có mùi thơm và cơm ngon. Giống có đặc điểm nông sinh học tốt dạng hình lúa siêu xanh, bộ lá xanh lâu bền (điểm 1), thấp cây (điểm 1), cứng cây không đổ ngã (điểm 1), độ thoát cổ bông cao (điểm 1), dạng hạt gạo thon dài. Giống GSR65 kháng vừa rầy nâu, có phản ứng nhiễm vừa với bệnh đạo ôn hại lúa. Giống lúa GSR65 tại Phú Yên trong khảo nghiệm cơ bản đạt năng suất thực thu bình quân là 8,70 tấn/ ha vượt 30,12% so với đối chứng ML48 đạt 6,69 tấn/ha, trong mô hình trình diễn khảo nghiệm sản xuất thử đạt năng suất thực thu bình quân là 7,98 tấn/ ha vượt 11,92% so với đối chứng ML48 đạt 71,3 tạ/ha

        Giống lúa siêu xanh GSR90
        Nguồn gốc giống: Giống lúa GSR90 được lai tạo từ tổ hợp OM9921x GSR38 thực hiện tại Việt Nam (GSR38 có nguồn gốc là giống lúa Huang Hua Zhang (HHZ) cải tiến HHZ5-Y7-Y3 nhập nội từ chương trình chọn tạo giống lúa siêu xanh (GSR) của Viện Nghiên cứu lúa Quốc tế (IRRI) với Viện Hàn lâm Khoa học Nông nghiệp Trung Quốc (CAAS). Giống lúa GSR90 được Mạng lưới Nghiên cứu Lúa Siêu Xanh Việt Nam lai tạo, tuyển chọn và phát triển thích ứng với điều kiện biến đổi khí hậu tại Việt Nam (Nguyễn Trọng Tùng, Nguyễn Đức Thắng, Hoàng Long và ctv. 2018a, Nguyễn Trọng Tùng, Nguyễn Đức Thắng, Hoàng Long và ctv. 2018b; Hoang Long et al. 2015). Giống lúa siêu xanh GSR 90 đã được tuyển chọn qua bảy vụ tại Phú Yên với sáu khảo nghiệm cơ bản (12 giống lúa trong ba vụ tại hai điểm); bốn khảo nghiệm sản xuất (5 giống lúa tuyển chọn trong hai vụ tại hai điểm), bốn trình diễn xây dựng mô hình sản xuất thử (trong hai vụ tại hai điểm). Giống lúa GSR90 đang được Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Phú Yên chủ trì phối hợp với Trường Đại học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh, Viện Lúa Đồng Bằng Sông Cửa Long, Trường Đại Học Nông Lâm Huế, Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Sóc Trăng, Viện Hàn Lâm Khoa học Nông nghiệp Trung Quốc lập hồ sơ công nhận giống lúa mới tại Việt Nam.

        Đặc điểm giống: Giống lúa siêu xanh GSR90 năng suất cao chất lượng tốt thích hợp vùng thâm canh và vùng mặn, vùng hạn. Giống có thời gian sinh trưởng khoảng 99 – 102 ngày đối với lúa sạ và 101 – 105 ngày khi cấy. Giống có chiều cao cây 103 – 105 cm. Giống có 309 – 351 bông/m2 trọng lượng 1000 hạt khoảng 28 – 29 g. Tỷ lệ gạo lật, tỷ lệ gạo xát và tỷ lệ gạo nguyên đều đạt tốt, chất lượng gạo loại 1. Giống GSR90 đạt mức protein cao trên 7%, có hàm lượng amylose trung bình, có mùi thơm và cơm ngon. Giống có đặc điểm nông sinh học tốt dạng hình lúa siêu xanh, bộ lá xanh lâu bền (điểm 1), thấp cây (điểm 1), cứng cây không đổ ngã (điểm 1), độ thoát cổ bông cao (điểm 1), dạng hạt gạo thon dài. Giống GSR90 ít sâu bệnh hại ngoài đồng ruộng, kháng vừa rầy nâu, có phản ứng nhiễm bệnh đạo ôn hại lúa. Giống lúa GSR90 tại Phú Yên trong khảo nghiệm cơ bản đạt năng suất thực thu bình quân là 8,36 tấn/ha vượt 25,01% so với đối chứng ML48 đạt 6,69 tấn/ha; trong mô hình trình diễn khảo nghiệm sản xuất thử đạt năng suất thực thu bình quân là 8,17 tấn/ ha vượt 14,58% so với đối chứng ML48 đạt 7,13 tấn/ha.

        Thông tin tại: 1) Nguyễn Trọng Tùng, Nguyễn Đức Thắng, Hoàng Long, Nguyễn Thị Trúc Mai, Nguyễn Văn Minh, Đặng Văn Mạnh, Ngô Thị Bích Diễm, Lê Thanh Tùng, Hoàng Kim, Tian Qing Zheng, Zhikang Li. 2018. Nghiên cứu hai giống lúa siêu xanh GSR65, GSR90 năng suất cao, chất lượng tốt và quy trình kỹ thuật thâm canh lúa thích hợp tại cánh đồng Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên (Two Green Super Rice varieties GSR65, GSR90 with high productivity and quality and appropriate technical process of cultivation in the Tuy Hoa fields, Phu Yen province) Trong sách: Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Tạp chí Khoa học và Công nghệ. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, số 10, trang 47- 55; Science and Technology Journal of Agriculture & Rural Development , MARD, No 10, p. 47-55, ISSN0866-7020 ; 2) Nguyễn Trọng Tùng, Nguyễn Đức Thắng Hoàng Long, Nguyễn Thị Trúc Mai, Phạm Thị Thỏa, Đàm Thanh Tồn, Hoàng Kim 2018. Tuyển chọn giống lúa siêu xanh năng suất cao chất lượng tốt thích ứng điều kiện biến đổi khí hậu ở tỉnh Phú Yên (Phần 2). Selection of Green Super Rice (GSR) with high yield, good qualities, and adaptation to climate condition in Phu Yen province (Part Two). Trong sách:Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển, JAD Tập 17 Số 4, 15-24 (2018) Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh pISSN 2615-9503 ∗ eISSN 2615949X ; 3) Nguyễn Trọng Tùng, Nguyễn Đức Thắng Hoàng Long, Nguyễn Thị Trúc Mai, Phạm Thị Thỏa, Đàm Thanh Tồn, Hoàng Kim 2018. Tuyển chọn giống lúa siêu xanh năng suất cao chất lượng tốt thích ứng điều kiện biến đổi khí hậu ở tỉnh Phú Yên (Phần 1) Selection of Green Super Rice (GSR) with high yield, good qualities, and adaptation to climate condition in Phu Yen province (Part one). Trong sách: Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển, JAD Tập 17 Số 4, 15-24 (2018) Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh pISSN 2615-9503 ∗ eISSN 2615949X

        Lúa Siêu Xanh Việt Nam giống tốt và kỹ thuật thâm canh là khâu trọng yếu, đầu tiên để cải tiến chuỗi giá trị sản phẩm lúa gạo Việt Nam, bảo tồn và phát triển bền vững ngành lúa gạo, thích ứng với biến đổi khí hậu, thích hợp với các vùng sinh thái nông nghiệp Việt Nam. Thủ tướng Chính phủ Việt Nam khẳng định tầm nhìn, cơ chế, chính sách mới nhằm khuyến khích đầu tư vào nông nghiệp và nông thôn tại Nghị định 57/2018 / ND-CP. Theo đó, trục sản phẩm chính nhắm đến các sản phẩm chính quốc gia, trong khi lúa gạo vẫn tiếp tục là ngành chính của nông nghiệp Việt Nam, giá đỡ của an sinh xã hội và phát triển kinh tế, là sinh kế chính của vùng nông thôn rộng lớn, lao động và việc làm. Chuỗi giá trị sản phẩm lúa gạo ở cấp tỉnh cần đủ lớn, liên kết các khu vực nguyên liệu thô với các thương hiệu, ứng dụng nông nghiệp công nghệ cao và đào tạo nguồn nhân lực. Mục tiêu hướng tới sự đáp ứng tốt nhất chất lượng cuộc sống của người lao động, đạt hiệu quả cao trong tăng trưởng kinh tế, bảo vệ môi trường, tiến bộ và công bằng xã hội. Mục đích của tài liệu này là nhằm cung cấp thông tin về các kết quả nghiên cứu đã được xác định rõ ràng để giúp người nông dân nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả sản xuất lúa gạo đi đôi với việc bảo vệ đất đai và môi trường. Tài liệu được thiết kế như một cẩm nang nghề lúa gạo cần thiết cho các nhà nghiên cứu, cán bộ khuyến nông, cán bộ tổ chức phi chính phủ làm việc về phát triển nông nghiệp, cũng như các hộ nông dân trồng lúa quy mô nông hộ sản xuất lớn và nhỏ. Tài liệu nhằm cung cấp một thông tin  tham khảo kỹ lưỡng về thực hành sản xuất lúa thân thiện môi trường. Từ việc trình bày ngắn gọn tầm quan trọng lúa gạo trên thế giới và Việt Nam; sản xuất tiêu thụ lúa gạo trên thế giới và Việt Nam; thành phần dinh dưỡng và giá trị kinh tế lúa gạo; nguồn gốc vùng phân bố và phân loại cây lúa; Sinh học cây lúa: Đặc điểm thực vật học cây lúa (rễ, thân, lá, hoa, hạt) Các giai đoạn sinh trưởng phát triển của cây lúa Đặc điểm sinh lý của ruộng lúa năng suất cao; Khí hậu và đất lúa, tầm quan trọng của nó trong khu vực để đề xuất chi tiết về quản lý đất nước và cây trồng, giống mới và kỹ thuật thâm canh lúa. Tài liệu mỏng này cung cấp một bằng chứng thực nghiệm mạnh mẽ của chính tác giả và đồng sự sau mười năm nghiên cứu ứng dụng lúa siêu xanh (Green Super Rice) vào thực tiễn sản xuất nông nghiệp Việt Nam, với một số kết quả bước đầu đã được xác định để tiếp tục sự nghiên cứu, giảng dạy, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật mới, bảo tồn phát triển lúa siêu xanh Việt Nam cho thương hiệu gạo Việt. Kính chúc bà con nông dân những mùa thu hoạch bội thu.

        Anh Nam Sinh Đoàn viết : “Ngoài đồng giống lúa không thuần, nhà nông lười khử giống bị lẫn, giống dại. Cộng với nhà lái mua vào để lẫn, hoặc cố tình pha lẫn lấy lời. Ai đời trộn lẫn hột dài với hột hơi tròn, gạo dẽo với gạo cứng cơm, gạo cũ với gạo mới, … Chính vì vậy mà nồi cơm nào cũng chỗ nhão chỗ khô, hạt mềm nhẽo cạnh hạt còn tim bột. (Chưa kể phun thêm hương liệu, chất chống mốc mọt,…thay đổi cả đặc tính hạt gạo khi đun nấu). Nhiều năm làm lúa với anh Hồ Quang Cua, mới có dịp học hỏi về việc làm giống, giữ đặc trạng của từng giống, cách thức trồng trọt – thu hoạch – tồn trữ – xay xát – lựa lọc – bao bì,…cả chục việc đòi hỏi phải chắc tay. Thế mà khi thí nghiệm trên bàn của nhóm chuyên gia còn lòi ra bao thứ khác: thời gian ngâm, tỉ lệ nước, thời gian đun và cách đun nấu, … Ví dụ, với cùng một thứ gạo, nhưng có dòng nở ít, thì chỉ 70-71% nước. Loại nào nở cơm thì ngâm trước 15 phút, loại nở búp chỉ cần mươi phút là được. Lại còn tùy loại gạo, để ăn xào với rau, gia vị cho có màu mùi như kiểu châu Âu thì nấu bằng nồi hơi như nồi hong. Để còn làm cơm xào, cơm chiên thì chớ ngâm nhiệt, tức là ngâm gạo, đun nước vừa nóng chừng 50 độ hãy cho gạo vào theo đúng tỉ lệ, mới đạt yêu cầu. Câu nói: Cơm lành canh ngọt tưởng dễ mà khó thay”. Tôi (Hoàng Kim) trả lời: Thưa anh, xin hãy nhìn tấm ảnh, từ hạt gạo đến bát cơm chỉ là một phần ngắn trong chuỗi “hoa lúa, bùn, hột lúa, cây lúa, hạt gạo, bát cơm”. Hai khâu khó nhất và nhọc nhằn nhất là hoa lúa và bùn. Mời đọc bài tiếp nối Từ Sắn Việt Nam đến Lúa Siêu Xanh; Lúa Siêu Xanh Việt Nam

        Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là chien-luoc-chon-tao-lua-sieu-xanh-vietnam.jpg
        Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là lua-sieu-xanh-viet-nam-gsrgvn.jpg

        Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là lua-sieu-xanh-viet-nam-1.jpg
        Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là lua-sieu-xanh-viet-nam-4a.jpg
        Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là lua-sieu-xanh-viet-nam-1.jpg
        Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là gsr90.jpg

        Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là lua-sieu-xanh-viet-nam-11.jpg

        Thích ứng cây trồng trước biến đổi khí hậu

        Báo Nhân Dân: Biến đổi khí hậu (BĐKH) đang diễn ra ngày càng khốc liệt, đe dọa an ninh lương thực và có tác động toàn diện đến sự phát triển bền vững của đất nước. Để ứng phó, giảm nhẹ tác động tiêu cực của BĐKH lên sản xuất nông nghiệp, thích ứng cho cây trồng là biện pháp, hướng mở có ý nghĩa rất quan trọng và hiệu quả. (xem tiếp…)

        Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là lua-sieu-xanh-viet-nam-hoang-long-34a.jpg

        Sau bảy năm (2012-2018) đánh giá và tuyển chọn giống lúa siêu xanh (GSR Green Super Rice) Việt Nam, ngày 24 tháng 5 năm 2018 tại Viện Khoa học Cây trồng, Viện Hàn lâm Nông nghiệp Trung Quốc (CAAS) tiến sĩ Hoàng Kim đã gặp Giáo sư tiến sĩ Zhikang Li và Phó Giáo sư tiến sĩ Tian-Qing Zheng trưởng dự án lúa toàn cầu IRRI CAAS để trao đổi kế hoạch hợp tác Lúa Siêu Xanh Việt Nam kết nối CAAS IRRI trong việc đánh giá mở rộng các giống lúa tốt thích nghi biến đổi khí hậu có chất lượng ngon, năng suất cao, ngắn ngày, chống chịu sâu bệnh chính, thích hợp vùng thâm canh vùng mặn vùng hạn và đào tạo nguồn lực giảng dạy nghiên cứu phát triển. Do tình hình dịch bệnh, nên các trao đổi lúa siêu xanh toàn cầu hướng về giải pháp trực tuyến và nổ lực mỗi bên là chính.

        Bài này là tóm tắt thông tin Lúa siêu xanh Việt Nam.

        Xem tiếp
        Con đường lúa gạo Việt Nam
        Lúa Siêu Xanh Việt Nam kết nối CAAS IRRI
        Việt Nam con đường xanh

        ST25 gạo ngon Việt Nam

        Việt Nam con đường xanh
        Một niềm tin thắp lửa

        TỨ CÔ NƯƠNG BẠN TÔI
        Hoàng Kim

        Tứ Cô Nương  Lâm Cúc, Thanh Chung, Kim Oanh , Hoài Vân là bốn người bạn thân, bốn loài hoa xuân phơi phới hạnh phúc.Đó là nhóm bạn quý của tình bạn, văn chương, thơ và lòng người. Hoài Vân dẫn đoàn vui gặp bạn đầu xuân ở nhà tôi và chúng tôi kéo nhau cùng đi thăm Lâm Cúc. Tứ Cô Nương sau ít năm lại tạo sự kiện “Bay qua giấc mơ” và “Đi dưới mặt trời” giới thiệu các tác phẩm chọn lọc. Tứ Cô Nương bạn tôi là ký ức hành trình xanh

        THIÊN ĐƯỜNG NÀY ĐÂU XA

        Em có lạc đường không đấy em
        Mãi nghe chuyện lạ ngẩn ngơ quen
        Chỉ vài điều ước sao chưa tới
        Ngẫm bạn nhìn ta lại phát thèm.

        Đường tốt và không ai thu phí
        Không bề bộn ‘nút’ chẳng ni lon
        Hoa công cộng không ai bứt hái
        ‘Biển cấm’ vì ai hóa thẹn thùng.

        Vé số, ăn xin đâu chẳng thấy
        Không ai chèo kéo chém chặt ai
        Hàng chôm cháo chửi không hề thấy
        Rừng nguyên sinh xanh suốt đường dài

        Đi khắp quê người để hiểu đất quê hương
        Em cứ tung tăng nhưng xin đừng lạc.
        Em ơi, ơi em, xin em đừng lạc.
        Đi đâu thì đi đừng có lạc đường …


        VUI GẶP BẠN ĐẦU XUÂN
        Hoàng Kim

        Đầu xuân gặp bạn thật mừng vui
        Rượu ngọt, trà thơm sóng sánh mời
        NƯỚC suối ban mai trong tựa ngọc
        OANH vàng, CÚC tím, nắng xuân tươi.

        MÂY TRẮNG quyện lưng trời lảng đảng
        Thiên NGA từng cặp nhởn nhơ bay
        Nhớ xưa CHIẾN SỰ vùng đất lửa
        HÒA bình về lại Chứa Chan nay.

        Sóng nhạc yêu thương lời cảm mến
        KIM Kiều tái ngộ rộn ràng vui
        Anh HÙNG thanh thản mừng “Xuân cảm”
        Đè nghiêng ngọn gió đọc thơ chơi” (1).

        Ghi chú: (1):Xuân cảm là thơ hay mừng gặp bạn của thượng tướng thái sư Trần Quang Khải được vận dụng trong bài thơ úng khẩu mừng bạn. Nỗi chữ viết in là tên của một bạn trong đoàn vui hôm đó.

        XUÂN CẢM
        (Cảm hứng ngày xuân)

        Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải

        Lâm râm mưa bụi gội hoa mai,
        Khép chặt phòng thơ ngất ngưởng ngồi.
        Già nửa phần xuân cam bỏ uổng,
        Tới năm chục tuổi biết suy rồi.
        Mơ màng nước cũ chim bay mỏi,
        Khơi thẳm nguồn ân, cá khó bơi.
        Đảm khí ngày nào rày vẫn đó,
        Đè nghiêng ngọn gió đọc thơ chơi!

        (Ngô Tất Tố dịch)

        Hành trình xanh thật vui như chùm ảnh trên đây mà bạn đã thấy, nhưng tươi vui yêu thích đọng lại đầy ngưỡng mộ vui vẻ với tôi là “Phím chiến” > Đó thực sự là các câu thơ tài hoa.

        PHÍM CHIẾN
        Thanh Chung, Lâm Cúc & Hoa Huyền

        CNM365 Chim khôn ăn trái nhãn lồng/ người ngoan nói chuyện lòng vòng cũng ngoan./
        Hoàng Kim (HK) chép lại cuộc ”Phím chiến”  giữa hai nàng Thanh Chung (TC) Lâm Cúc (LC) và Hoa Huyền (HH)

        Trăng đáy hồ – trăng đáy ao
        Ngẩn ngơ một gã họ Đào tên Hoa
        Trêu chàng Cuội, tán Hằng Nga
        Dọc ngang một cõi – trời già cũng thua.
        TC

        Rõ là miệng lưỡi chanh chua
        Gặp ngay phải lão thích đùa nên vui
        Tuổi tam hợp Hợi… khoái Mùi
        Rủi may duyên số hên xui xá gì
        HH

        Gã này có họ chàng… si
        Chanh chua tưởng khế sao kì thế anh?
        Đèn vàng lại ngỡ đèn xanh
        Trái mơ anh ngỡ… cam sành he he.
        TC

        Em như trái sấu, quả me
        Phải lão to bè có lẽ vừa đôi
        Sơ cua dẻo mép mềm môi
        Để cho lắm kẻ đứng ngồi không yên
        HH

        Lão H này rõ lắm duyên
        Xanh xanh cũng buộc, huyền huyền cũng vơ
        Một tay khuấy đảo mấy bờ?
        Phen này e phải cậy nhờ Liên Bang!
        NLC

        Chào LC ghé gia trang
        Tham gia tác chiến… hai nàng một anh
        Dẫu cho cam giấy, cam sành
        Hoahuyen cũng quyết tung hoành tả tơi!
        HH

        Nghênh ngang khuấy nước chọc trời
        Bến Đông cũng ghé, bến Đoài cũng thăm
        Có sao còn muốn hái trăng
        Được voi đòi cả chị Hằng Tiên Nga.
        TC

        Dại gì mặc áo cà sa
        Chính chuyên chết cũng thành ma cà rồng
        Giấu tờ hôn thú chơi ngông
        Đèn xanh ai bật là ông ứ… ừ
        HH

        Kiếp này trót vụng đường…đua
        Làm vua một cõi còn thua lão… liều
        Xem ra còn khổ vì yêu
        Vì trăng, vì gió, vì diều không dây
        TC

        Hỏi ai ghẹo gió vờn mây?
        Mà không khốn đốn đêm ngày nghiêng siêu?
        Càng đau khổ… lại càng iêu
        Hoa thơm càng ngát quả liều càng ngon
        HH

        Tìm nhau xuống biển lên non
        Trăng nay cuối tháng, anh còn… hàm nhai?
        Vin cành trúc, bẻ cành mai
        Có về phố Hiến nhắn ai về cùng (!)
        TC

        Chỉ e “cầu” đã lệch ”cung”
        Rồi lại phải lùng mua gấp đi-văng(*)
        Xa thì chín nhớ, mười mong
        Gần nhãn đau lòng sao chẳng ngọt ngon?
        HH

        Trăng mười sáu bảo trăng non
        Mồng tơi một thuở anh còn nhớ chăng?
        Lỡ lời ước hẹn trăm năm
        Thương nhau ta lộn về Bần – kiếp sau (!)
        TC

        Sẵn lòng vui vẻ làm… trâu?
        Anh hầu cho đến bạc đầu mới thôi?
        Kiếp này biết đã thiu ôi
        Nhìn nhau thế cũng đã rồi phải không?
        HH
        hehehe

        Hoahuyen*** quê Hưng Yên nhãn lồng nơi Hoàng Đình Quang có thơ Hưng Yên tặng bạn và Hoàng Kim có thơ “Hoàng Đình Quang bạn tôi” ngưỡng mộ bạn.

        Chim khôn ăn trái nhãn lồng
        Người ngoan nói chuyện lòng vòng cũng ngoan

        VUI ĐÙA BẠN HOA HUYỀN
        Hoàng Kim

        https://hoangkimlong.wordpress.com/category/vui-dua-ban-hoa-huyen/

        HƯNG YÊN
        Hoàng Đình Quang

        Lần đầu theo bạn đến Hưng Yên
        Bạn tặng cho mình chút nợ duyên
        Phố Hiến một thời còn tấp nập
        Chùa Chuông trăm tuổi vẫn tham thiền
        Thanh tân em gái cười trong nón
        Chầm chậm mẹ già ngóng trước hiên
        Phố Nối ngập ngừng ta tiễn bạn
        Với Hưng Yên, thượng lộ bình yên!

        HOÀNG ĐÌNH QUANG BẠN TÔI
        Hoàng Kim


        Cứ ngỡ chiều hôm nắng đã tà
        Giáo già, ca trẻ, thật nhiều hoa
        Câu thơ định mệnh lời bền nước
        Hót chẳng theo mùa tiếng vững nhà.
        Khanh tướng chắc gì nên vọng tộc.
        Câu thơ còn đó lập danh gia” (*)
        Tâm sáng văn tài mừng việc mới
        Chuyện đời dạy học bạn và ta.

        Hoàng Đình Quang bạn tôihttps://hoangkimlong.wordpress.com/category/hoang-dinh-quang-ban-toi/

        LỘC XUÂN

        Tứ Cô Nương bốn tác giả nữ Hoài Vân, Thanh Chung, Lâm Cúc, Kim Oanh giới thiệu các tập sách “Tin nhắn cuối cùng” “Bay qua giấc mơ” “Đi dưới mặt trời” thật chuyên nghiệp và trang trọng, vui vẻ, đầm ấm giữa những người bạn thân quen. Tôi ghi lại một số hình ảnh và chút ít lời bình văn.

        NHỮNG TRANG VĂN CỦA NGƯỜI ĐÀN BÀ
        “BAY QUA GIẤC MƠ ” Thanh Thanh/ VOV Online

        (VOV) – Tập truyện ngắn “Bay qua giấc mơ” của Lê Thanh Chung là những trăn trở muôn thuở của đời người đi tìm hạnh phúc. (ảnh Tác gXem tiếp >>

          Dạy và học 15 tháng 9(15-09-2021)


        Darwin

        CHÀO NGÀY MỚI 15 THÁNG 9
        Hoàng Kim
        CNM365 Tình yêu cuộc sốngTrà sớm nhớ bạn hiền; Mùa Trung Thu tình thân; Thanh trà Thủy Biều Huế; Trăng rằm vui chơi giăng; Thăm nhà cũ của Darwin; Làng Minh Lệ quê tôi; Bến Lội Đền Bốn Miều; Đá Đứng chốn sông thiêng; Ta về với Linh Giang; Quảng Bình đất Mẹ ơn Người; Ngày 15 tháng 9 hàng năm được Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc chọn làm Ngày Quốc tế Dân chủ (International Day of Democracy) tại Quyết định vào ký ngày 15 tháng 9 năm 2007, với mục đích thúc đẩy và duy trì các nguyên tắc dân chủ và mời gọi tất cả các quốc gia và các tổ chức thành viên kỷ niệm ngày này một cách thích hợp để góp phần nâng cao nhận thức cộng đồng. Ngày 15 tháng 9 năm 1835, Charles Darwin (hình) trong chuyến thứ hai trên tàu HMS Beagle, tới Quần đảo Galápagos, ở đấy ông phát triển học thuyết tiến hóa. Ngày 15 tháng 9 năm 1945 Thông tấn xã Việt Nam được thành lập dưới tên Việt Nam Thông tấn xã. Bài chọn lọc ngày 15 tháng 9 Trà sớm nhớ bạn hiền; Mùa Trung Thu tình thân; Thanh trà Thủy Biều Huế; Trăng rằm vui chơi giăng; Thăm nhà cũ của Darwin; Làng Minh Lệ quê tôi; Bến Lội Đền Bốn Miều; Đá Đứng chốn sông thiêng; Ta về với Linh Giang; Quảng Bình đất Mẹ ơn Người; Việt Nam vị thế mới; Việt Nam con đường xanh; Giấc mơ Lúa Siêu Xanh; Gạo Việt Ngọc phương Nam; Linh Giang sông quê hương; Hoa Đất của quê hương; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-15-thang-9/

        Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là nang-moi-1-e1589670316958.jpg

        TRÀ SỚM NHỚ BẠN HIỀN
        Hoàng Kim

        Ban mai tỉnh thức chim kêu cửa
        Hoa rắc bên song đẫm nước non
        Ô hay gió mát hương trời biển
        An giấc đêm ngon chí vẫn nồng *

        (*) Lưu chùm ảnh và thơ “Trà sớm nhớ bạn hiền”
        https://hoangkimlong.wordpress.com/category/tra-som-nho-ban-hien/

        TRÀ SỚM VUI NGÀY MỚI
        Hoàng Kim

        Ban mai chợt tỉnh thức
        Nghe đầy tiếng chim kêu
        Đêm qua mây mưa thế
        Hoa mai rụng ít nhiều.

        Trà sớm thương người hiền,
        trong không gian tỉnh lặng,
        ăn sáng và chuyện vui,
        lắng nghe đời thật chậm.

        Ai học làm và dạy.
        Ai vô sự là tiên
        Ai an nhàn thanh thản
        Ai thân với bạn hiền.

        Văn chương là cõi mộng.
        Giấc mơ lành trăm năm.
        Phúc hậu là lẽ sống.
        Thơ ra ngoài ngàn năm,

        Chuyện Tình yêu cuộc sống,
        Ông Nguyễn và bác Văn.
        Cụ Trình và Trần lão,
        Gần gũi mà xa xăm.

        Tính sáng hơn châu báu.
        Trở về với chính mình.
        Trà thơm chào ngày mới.
        Vui khỏe và bình yên…

        NẮNG MỚI
        Hoàng Kim


        Mưa ướt đất lành nắng mới lên
        Đêm thương sương rụng nhắc ngoài hiên
        Núi trùm mây khói trời chất ngất
        Ngày tháng thung dung nhớ bạn hiền

        TRÀ SỚM THƯƠNG NGƯỜI HIỀN
        Hoàng Kim


        Sao tình yêu may mắn
        Ban mai sáng chân trời
        Trà sớm thương người ngọc
        Bình sinh mình biết mình

        VÔ ĐỀ
        Gia Cát Lượng


        Mơ màng ai tỉnh trước,
        Bình sinh ta biết ta.
        Thềm tranh giấc xuân đẫy,
        Ngoài song bóng xế tà.

        Bản dịch lưu hành trong Tam Quốc diễn nghĩa, dịch bởi Phan Kế Bính

        無題
        大夢誰先覺,
        平生我自知。
        草堂春睡足,
        窗外日遲遲。

        Vô đề

        Đại mộng thuỳ tiên giác,
        Bình sinh ngã tự tri.
        Thảo đường xuân thụy túc,
        Song ngoại nhật trì trì.

        Dịch nghĩa

        Trong giấc mộng lớn, ai là người tỉnh trước?
        Trong cuộc đời này ta tự biết ta.
        Đang yên giấc ngủ xuân trong ngôi nhà tranh,
        Bên ngoài cửa sổ mặt trời (ngày tháng) cứ chậm rãi trôi qua.

        ThaiDuonghe

        GÕ BAN MAI VÀO PHÍM
        Ngôi sao may mắn chân trời
        Hoàng Kim

        ta gõ ban mai vào bàn phím
        gõ vào khuya ngơ ngẫn kiếm tìm
        biết em ngủ đợi chờ em tỉnh thức
        như ánh sao trời ở chốn xa xôi.

        em em em giá mà em biết được
        những yêu thương hóa đá chốn xa mờ
        sợi tóc bạc vì em mà xanh lại
        lời ru và nỗi nhớ ngấm vào thơ.

        em thăm thẳm một vườn thiêng cổ tích
        chốn ấy cõi riêng khép mở chân trời
        ta như chim đại bàng trở về tổ ấm
        lại khát Bồng Lai ước vọng mù khơi.

        ta gõ ban mai vào bàn phím
        dậy em ơi ngày mới đến rồi. (**)

        TRÀ SỚM THƯƠNG NGƯỜI HIỀN
        Hoàng Kim

        Ngắm ảnh nhớ thương ngày tháng cũ
        Bạn hiền trà sớm chẳng quên nhau
        Ban mai tỉnh thức ngày vui mới
        Nắng hửng thanh tâm bát ngát trời

        Hieu Nguyenminh, Trần Văn Minh, Trần Thị Lệ, Hoàng Kim, trà sớm ở cố đô Huế, trò chuyện về cụ Miên Thẩm

        BÀI THƠ VIÊN ĐÁ THỜI GIAN
        Hoàng Kim với anh Phan Chí


        “Về quê lần trước ghé thăm đây.
        Đất hiếu cầu thương níu bạn bầy.
        Thơ thiền Nhất Hạnh tìm nơi cũ.
        Mặt trời từng hạt chính nơi này”
        (HK).

        Cà phê ở Huế thơm ngon lắm.
        Mười bốn ngàn thôi uống suốt ngày.
        Ngắm em tóc gió bay bay nắng.
        Nghe bạn tâm tình hơn rượu say”
        (PC)

        @ với anh PC: Em Ra Huế thăm vị chân chúa Nguyễn Hoàng ở lăng Trường Cơ, tọa lạc tại xã La Khê, huyện Hương Trà, nay là làng La Khê, xã Hương Thọ, thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế; thăm Thiên Thụ Sơn vùng cây trên 2000 ha mà triều Nguyễn dày công mang kỳ hoa dị thảo cả nước có nguồn cây trái chính yếu đặc sản đất phương Nam về trồng ở chốn kinh kỳ để lưu dấu những hoài niệm bôn tẩu trọn đời quy giang sơn về một mối. Lạ lùng thay, khi được may mắn uống trà ban mai tĩnh lặng ở Từ Hiếu với bạn hiền lại được lắng nghe cổ vật và các trang sách uyên áo của các vị thiền sư trò chuyện. Tâm chợt ngộ ra rằng vị chân chúa nhà Nguyễn chưa hẳn đã ở Trường Cơ mà có thể ẩn khuất ở chính nơi đây, gần Nam Giao và phía sau của chính điện Từ Hiếu, cội nguồn của hiếu sinh.

        KHÁT KHAO XANH
        Hoàng Kim

        Khát khao xanh
        Trời xanh
        Biển xanh
        Cây xanh
        Con đường xanh
        Giấc mơ hạnh phúc.

        Anh tan vào em
        thành ngôi sao may mắn
        Em dựa vào anh
        thành niềm tin hi vọng
        Mình hòa vào nhau
        ươm mầm xanh sự sống

        Những thiên thần bé nhỏ
        sinh thành từ khát khao xanh.

        NGÔI SAO MAI CHÂN TRỜI
        Hoàng Kim

        Em đọc lại Nhà Giả Kim em nhé
        Bài ca thời gian câu chuyện cuộc đời
        Một giấc mơ Người đi tìm kho báu
        Theo ước mơ mình tới chốn xa xôi …

        Bậc tiên tri biết nhìn sâu khát vọng
        Khuyến khích em theo mơ ước tuổi hoa
        Đi tới cuối con đường hạnh phúc
        Hãy là chính mình, ta chính là ta.

        Em thấu hiểu có ngôi sao may mắn
        Luôn bên em lấp lánh phía chân trời
        Nơi bảng lãng
        thơ tình Hồ núi Cốc
        Giấc mơ đưa ta về cổ tích xa xôi  …

        Lên đường đi em
        Bình minh đã rạng
        Vui bước tới thảnh thơi
        Vui đi dưới mặt trời!

        Ta hãy chăm như con ong làm mật
        Cuộc đời này là hương hoa.
        Ngày mới yêu thương vẫy gọi,
        Ngọc cho đời vui khỏe cho ta.

        Hoàng Kim

        XUÂN SỚM NGỌC PHƯƠNG NAM
        Hoàng Kim

        Trời trong vắt và xuân gần gũi quá
        Đóa hoa xuân lặng lẽ nở bên thềm
        Giọt sương ngọc lung linh trên lộc nõn
        Đất giao hòa xuân sớm hóa mênh mông.

        XUÂN SỚM
        Hoàng Kim

        Sớm mai trời lạnh giá
        Ngắm cảnh nhớ Đào Công
        Chuyển mùa trời chưa ấm
        Tuyết xuân thương người hiền

        Đêm trắng và Bình Minh
        Thung dung chào ngày mới
        Phúc hậu sống an nhiên
        Đông qua rồi xuân tới.

        Ngược gió đi không nản
        Rừng thông tuyết phủ dày
        Ngọa Long cương đâu nhỉ
        Đầy trời hoa tuyết bay

        NGỌC PHƯƠNG NAM
        Hoàng Kim

        hứng mật đời
        thành thơ
        việc nghìn năm hữu lý
        trạng Trình

        đến Trúc Lâm
        đạt năm việc lớn Hoàng Thành
        đất trời xanh
        Yên Tử …

        (*) Hoàng Kim họa đối
        THUYỀN ĐỘC MỘC
        Trịnh Tuyên

        Quên tên cây
        làm thuyền
        Tận cùng nỗi cô đơn
        – độc mộc!

        Khoét hết ruột
        Chỉ để một lần ngược thác
        bất chấp đời
        lênh đênh…‘ (*)

        Cảm ơn Nguyen Thanh Binh thầm lặng mà hiệu quả đóng góp cho quê hương. Trà sớm với bạn hiền cùng Nguyen Thanh Binh (Roots of Peace) cũng lại là thật đáng nhớ. Ba giờ khuya, Bình ra bến tàu đón tôi, trà sớm là với nông dân. Quảng Trị dân ra đồng sớm (chứ không phải 8:00 sáng theo lịch làm việc hành chính). Nguyen Thanh Binh thân với tôi cũng như nhóm bạn nhà nông ở Phú Yên, Sóc Trăng, Đăk Lăk, Đồng Nai, Tây Ninh, … Những buổi học trên đồng giữa khoa học, khuyến nông và nông dân luôn thiết thực với cuộc sống mỗi ngày của người dân và thực sự là chén cơm của họ.

        mientham

        MIÊN THẨM THẦY THƠ VIỆT
        Hoàng Kim.

        “Văn như Siêu Quát vô tiền Hán; Thi đáo Tùng Tuy thất thịnh Đường” Vua Tự Đức ông vua nổi tiếng hay chữ thời Nguyễn trong lịch sử Việt Nam đã viết như vậy. Vua Tự Đức  trước mộ Tùng Thiện Vương cũng cảm khái đề thơ: Nhất Đại Thi Ông thệ bất hoàn! (Sao Nhất Đại Thi Ông nỡ không trở lại !). Sổ xích tân phần tỳ mẫu mộ Kỷ thiên cựu vịnh bá nhân hoàn (Vài thước đất vun gần mộ mẹ Mấy bài thơ rãi khắp bầu trời.)   Tôi theo chân Lê Ngọc Trác tìm về Tùng Thiện Vương, lần theo lời đánh giá này để tìm về cội nguồn hiểu rõ thơ Tùng Thiện Vương Miên Thẩm.

        Miên Thẩm cuộc đời và thơ văn

        Tùng Thiện Vương  tên thật là Nguyễn Phúc Miên Thẩm, sinh ngày 11 tháng 12 năm 1819 nhằm ngày 24 tháng 10 năm Kỷ Mão tại Cung Thanh Hoà, trong Đại nội Kinh thành Huế, mất ngày 30 tháng 4 năm 1870, tên tự là Trọng Uyên,  tên tự khác là Thận Minh, hiệu Thương Sơn, biệt hiệu Bạch Hào Tử.  Ông là một nhà thơ lớn của triều đại nhà Nguyễn ở trong hội Mạc Vân thi xã nổi tiếng. Miên Thẩm cùng với hai em là Tuy Lý Vương, Tương An Quận Vương được người đời xưng tụng là “Tam Đường”. Ông là  cháu nội của vua Gia Long, con trai thứ 10 của vua Minh Mạng, em của vua Thiệu Trị, chú của vua Tự Đức.  Mẹ ông là Thục tần Nguyễn Thị Bửu người Bình Chương Gia Định con gái của Tư không Nguyễn Khắc Thiệu rất giỏi chữ nghĩa. Ông thuở nhỏ tên  Hiện đến năm 1832 khi đã có Đế hệ thi ông được cải tên là Nguyễn Phúc Miên Thẩm. Theo Đại Nam liệt truyện, ông thuở nhỏ được cùng ng với các em học  thầy Thân Văn Quyền dạy chu đáo, Sau khi lớn lên ông trở thành con rể của quan đại thần Trương Đăng Quế là danh thần trải bốn triều vua Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức trong lịch sử Việt Nam.

        Năm 1839 ông được phong làm Tùng Quốc công, mở phủ ở phường Liêm Năng, bên bờ sông An Cựu, Huế. Năm 1849, ông lập thêm Tiêu Viên  sau phủ, đón mẹ  là Thục tần Nguyễn Thị Bửu và ba em gái (Nguyệt Đình , Mai Am và Huệ Phố ra phụng dưỡng chăm nuôi. Khi các em lần lượt có chồng, rồi mẹ mất, ông cải tạo phủ chính làm nhà thờ, còn mình lui về ở Tiêu Viên và dựng lều tranh bên cạnh mộ mẹ cư tang ba năm. Nhà Tùng Thiện Vương dấu tích nay đối diện với Vĩ Dạ xưa bên sông An Cựu.

        Năm 1854 mãn tang, ông được gia phong Tùng Thiện công. Năm 1858, ông mua 12 mẫu ruộng ở xã Dương Xuân, làm nhà ở gọi là Phương Thốn thảo đường. Năm 1865, ông giữ chức Tả Tôn Nhân phủ, trong thời gian này xảy ra sự biến giặc Chày vôi  Trước đó, ông đã gả con gái là Thể Cúc cho Đoàn Hữu Trưng, một thanh niên ở làng An Truyền (tức làng Chuồn ở xã Phú An huyện Phú Vang ngày nay). Nguyên Đoàn Hữu Trưng cha mất sớm, mẹ bị mù, đông em, nên từ thuở nhỏ ông đã phải làm lụng vất vả để nuôi em, nuôi mẹ. Dù vậy, vốn thông minh và ham học, ngay từ buổi ấy ông đã là người nổi tiếng hay chữ khắp vùng. Vào một dịp Tết, nhờ một câu đối mà Đoàn Trưng và Đoàn Trực được Tuy Lý Vương Miên Trinh cho vào học trong vương phủ . Tài học của Đoàn Trưng có dịp vang lên chốn kinh thành. Năm 1864  Tùng Thiện Vương Miên Thẩm (anh ruột Tuy Lý Vương), cũng vì quý tài, gả con gái đầu là Thể Cúc cho Đoàn Trưng, dù lúc ấy ông chưa đỗ đạt gì. Năm 1866, Hữu Trưng ngầm làm cuộc nổi dậy nhằm lật đổ vua Tự Đức bằng Đinh Đạo[6] (con Hồng Bảo). Việc thất bại, Hữu Trưng và nhiều người bị hành hình. Mặc dù trước đó, Hữu Trưng đã lấy cớ vợ cư xử trái lễ với mẹ chồng mà trả về để tránh liên lụy cho nhà vợ, Miên Thẩm cũng trói cả con gái và cháu ngoại, quỳ dâng sớ xin chịu tội. Tự Đức không kết tội chỉ nói ông: “Chọn rể không cẩn thận để mất thanh danh, nay trừ bổng trong tám năm”. Suốt những năm bị trừ bổng ấy, ông lên ngôi chùa cổ Từ Lâm hoang tàn ở xã Dương Xuân làm nơi cư ngụ, vợ con phải canh tác trồng cây quả đem ra chợ bán để có cái ăn hàng ngày. Ông mất ngày 30 tháng 3  năm Canh Ngọ (tức 30 tháng 4 năm 1870), lúc 51 tuổi. Thụy là Văn Nhã. Năm 1878 ông được  vua  Tự Đức gia tặng là Tùng Thiện Quận vương. Năm 1936 vua Bảo Bảo Đại  mới truy phong ông là Tùng Thiện Vương mà ngày nay vẫn gọi.

        Miên Thẩm là Đỗ Phủ thơ Việt

        Ông sống thận trọng, minh triết, trong một hoàn cảnh hết sức đặc biệt, các ông hoàng nhà Nguyễn không được đi thi, ít được tham gia chính sự, khi đất nước đang hết sức rối ren: nội bộ triều đình lủng củng, rạn nứt, loạn lạc khắp nơi, thiên tai, mất mùa nhiều năm cùng nạn ngoại bang xâm lấn. Hai trăm năm sau thật khó xác định được tài năng thật sự và đóng góp của ông trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, quân sự… Chỉ biết rằng sinh thời, Miên Thẩm là một ông hoàng có nhiều uy tín bởi đạo đức cao, tri thức rộng. Ông đến với mọi người đều bằng tấm lòng chân thực, khiêm tốn, phóng khoáng; không hề phân biệt địa vị, tuổi tác hay sang hèn. Nhờ vậy Mạc Vân thi xã còn gọi là Tùng Vân thi xã mà ông là “Tao đàn nguyên súy” tập họp được nhiều danh sĩ đương thời, trong đó có Nguyễn Văn Siêu, Cao Bá Quát, Hà Tôn Quyền, Phan Thanh Giản, Nguyễn Văn Giai và nhiều hoàng thân quý tộc như Thọ Xuân Vương Miên Định, Hàm Thuận Quận Công Miên Thủ, Tuy Lý Vương Miên Trinh, Tương An Quận Vương Miên Bửu, Hoằng Hóa Quận Vương Miên Triện, …

        Miên Thẩm là một nhà thơ chữ Hán bậc thầy. Ông được một số nhà thơ Trung Quốc đánh giá cao, trong đó có Tiến sĩ Lao Sùng Quang. Chung Ứng Nguyên một danh sĩ người Bắc Kinh Trung Quốc đã làm thơ ca tụng Miên Thẩm Tùng Thiện Vương: Nhược sử nguyên tinh giáng Trung Quốc / Hàn trào, Tô hải, si đồng lưu / Hu ta công hồ thùy dữ trù / Hu ta công hồ vô dữ trù (Như Thương Sơn sinh vào Trung Quốc/ Thi tài ngang với ông Hàn Dũ, ông Tô Đông Pha/ Than ôi ! đời nay ai sánh vai? /Than ôi đời nay không ai có thể sánh vai được!)

        Miên Thẩm cũng được các danh sĩ đương thời, kể cả vua Tự Đức nhờ duyệt thơ. Cao Bá Quát (1809 – 1855) một nhà thơ nổi danh ở giữa thế kỷ 19 trong lịch sử văn học Việt Nam, quốc sư của cuộc nổi dậy Mỹ Lương tại bài đề tựa Thương Sơn thi tập của Miên Thẩm, đã viết:…”Tôi theo Quốc công (Tùng Thiện Vương) chơi đã lâu. Thơ của Quốc công đâu phải đợi đến ngày nay mới nói đến? Và cũng đâu phải đợi đến Quát này mới có thể nói được? Sáng ngày mai, đứng ở ngoài cầu Đốc Sơ trông về phía Nam… đó chẳng phải là núi Thương Sơn ư? Mua rượu uống rồi, cởi áo ở nơi bắc trường đình, bồi hồi ngâm vịnh các bài thơ “Hà Thượng” của Quốc công, lòng khách càng cảm thấy xa xăm man mác … 

        Tùng Thiện Vương để lại cho đời một gia tài văn học thật đồ sộ (14 tập). Trong đó Thương Sơn thi tập gồm 54 quyển chia ra 8 tập với hơn 2.200 bài thơ. Các tác phẩm chính khác như  Thương Sơn từ tập- Thương Sơn thi thoại- Thương Sơn ngoại tập- Thương Sơn văn di- Nạp bị văn tập- Học giá chí- Nam cầm phổ- Độc ngã thư sao- Lão sinh thường đàm- Tịnh y kí- Tình kị tập- Thi tấu hợp biên- Lịch đại thi tuyển- Thức cốc biên – Thi kinh diễn nghĩa ca- Lịch đại đế vương thống hệ đồ- Lịch đại thi nhân tiểu sử Về thơ quốc âm của ông, nay chỉ còn bài đề sách “Nữ phạm diễn nghĩa từ” của Tuy Lý Vương và khúc liên ngâm Hoà lạc ca (Tùng Thiện,Tuy Lý, Tương An). 

        Miên Thẩm bậc thầy văn chương Việt

        Ví Miên Thẩm là Đỗ Phủ thơ Việt liệu có nói quá hay không?
        Đọc Đỗ Phủ nhớ Đặng Dung, Đỗ Phủ những bài thơ bi tráng,  Đỗ Phủ là Thi thánh Thi sử Trung Quốc do đức độ cao thượng, tài thơ văn tuyệt vời. Đỗ Phủ cùng Lý Bạch là hai nhà thơ vĩ đại nhất thời nhà Đường. Thơ Đỗ Phủ nổi tiếng vì phong cách đơn giản và thanh lịch đặc sắc bậc nhất trong thơ cổ điển Trung Quốc. Tầm vóc Đỗ Phủ sánh với Victor Hugo và Shakespeare. Thơ Đỗ Phủ ảnh hưởng sâu sắc tới văn hóa cổ điển Trung Quốc và văn học hiện đại Nhật Bản. Cụ Nguyễn Du đã từng thán phục Đỗ Phủ “Thiên cổ văn chương thiên cổ sư Bình sinh bội phục vị thường ly” (Văn chương lưu muôn đời, bậc thầy muôn đời Bình sinh bái phục không lúc nào ngớt. Cụ Hồ Chí Minh trong Di chúc đã có trích thơ Đỗ Phủ. Cuộc đời Đỗ Phủ là tấm gương phản chiếu đất nước Trung Hoa thời loạn khi đời sống nhân dân tột cùng điêu đứng vì thường xuyên biến động. Đỗ Phủ bộ sưu tập thơ được bảo tồn khoảng 1500 bài thơ đều là tuyệt phẩm. Thi Viện hiện có Đỗ Phủ trực tuyến 1450 bài. 

        Tùng Thiện Vương Miên Thẩm cuộc đời và thơ văn thật đáng khâm phục và kinh ngạc. Miên Thẩm lưu lại cho đời 14 bộ sách, riêng bộ ‘Thương Sơn thi tập’ có 2.200 bài thơ, tiếc là thơ ông chưa được đầu tư dịch thuật Hán Nôm bảo tồn và phát triển thỏa đáng. Thi Viện chỉ mới lưu một sồ bài. Soi gương kim cổ thì danh sĩ Trung Hoa Chung Ứng Nguyên đã ví ông với đại văn hào Hàn Dũ và đại văn hào Tô Đông Pha là bát đại gia Đường Tống: “Như Thương Sơn sinh vào Trung Quốc/ Thi tài ngang với ông Hàn Dũ, ông Tô Đông Pha/ Than ôi ! đời nay ai sánh vai? /Than ôi đời nay không ai có thể sánh vai được!“. Chúng ta khi bình tâm xem xét kỹ lại cuộc đời thơ văn và tầm minh triết thì Miên Thẩm là Đỗ Phủ thơ Việt.  Ba ý chính để đánh giá: Thứ nhất là chất lượng thơ. Thứ hai là khối lượng tác phẩm và những bài thơ “giản dị xúc động ám ảnh” đọng lại trong lòng người đọc; Thứ ba là tư tưởng cuộc đời nhân cách tác giả là minh triết trí tuệ gương cho người đương thời và hậu thế. Miên Thẩm cả ba ý này đều rất gần gũi với Đỗ Phủ qua những tư liệu lắng đọng ở “Miên Thẩm cuộc đời và thơ văn” nêu trên. Xin được trích dẫn giới thiệu một số bài thơ tuyển chọn dưới đây.

        Thi Viện có lưu một sồ bài thơ Tùng Thiện Vương Miên Thẩm dưới đây:

        1. Bạch Đằng giang
        2. Bần gia
        3. Bất mị tuyệt cú
        4. Bi thu
        5. Biệt lão hữu
        6. Chiên đàn thụ
        7. Cổ ý
        8. Cừ Khê thảo đường kỳ 1
        9. Cừ Khê thảo đường kỳ 2
        10. Cừ Khê thảo đường kỳ 3
        11. Dạ bạc Nguyệt Biều
        12. Dạ bộ khẩu hào
        13. Dạ độ Kiến Giang ngẫu thành
        14. Dạ văn trạo ca
        15. Dịch kỳ
        16. Đạo phùng cố nhân
        17. Đăng Thuý Vân sơn hữu cảm
        18. Điền lư
        19. Điền lư tiểu khế đề bích
        20. Điếu Trương Độn Tẩu
        21. Độc Nguyễn Đình Chiểu nghĩa dân tử trận quốc ngữ văn
        22. Đông viên hoa
        23. Gia Hội độ
        24. Giang thôn kỳ 1
        25. Giang thôn kỳ 2
        26. Hạ thọ
        27. Hải thượng
        28. Hán cung từ
        29. Hoan Châu dạ vũ
        30. Hương Cần
        31. Khách đình
        32. Kim hộ thán
        33. Kim Luông dạ bạc
        34. Kim tỉnh oán
        35. Kỷ mộng
        36. Lão bệnh
        37. Lão khứ
        38. Liễu
        39. Long thành trúc chi từ kỳ 1
        40. Long thành trúc chi từ kỳ 2
        41. Long Thọ cương
        42. Lục thuỷ
        43. Lựu
        44. Mỵ Châu từ
        45. Nam Định hải dật
        46. Nam khê
        47. Ngô Vương oán
        48. Nhàn cư
        49. Nhất Trụ tự
        50. Nhĩ hà
        51. Xem tiếp >>

            Dạy và học 14 tháng 9(14-09-2021)


          DẠY VÀ HỌC 14 THÁNG 9
          Hoàng Kim
          CNM365 Tình yêu cuộc sốngViệt Nam vị thế mới; Việt Nam con đường xanh; Giấc mơ Lúa Siêu Xanh; Gạo Việt Ngọc phương Nam; Linh Giang sông quê hương; Hoa Đất của quê hương; Ngày 14 tháng 9 năm 1946, Marius MoutetHồ Chí Minh ký kết Tạm ước Việt – Pháp, một thành quả của Hội nghị Fontainebleau tại Seine-et-Marne, Pháp. Ngày 14 tháng 9 năm 1901,Theodore Roosevelt trở thành Tổng thống Hoa Kỳ, lúc đó là người trẻ nhất nhậm chức ở tuổi 42, tám ngày sau William McKinley bị ám sát. Ngày 14 tháng 9 năm 2000, Microsoft phát hành Windows Me, hệ điều hành cuối cùng trong dòng Windows 9x. Bài chọn lọc ngày 14 tháng 9: Việt Nam vị thế mới; Việt Nam con đường xanh; Giấc mơ Lúa Siêu Xanh; Gạo Việt Ngọc phương Nam; Linh Giang sông quê hương; Hoa Đất của quê hương; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/ http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-14-thang-9/

          Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Ảnh: VGP

          VIỆT NAM VỊ THẾ MỚI
          Hoàng Kim


          Việt Nam vị thế mới
          Việt Nam con đường xanh
          Giấc mơ Lúa Siêu Xanh
          Gạo Việt Ngọc phương Nam


          Báo Nhân Dân đăng bài viết của Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng
          Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt NamDư luận quốc tế Bài viết của Tổng Bí thư là tác phẩm có ý nghĩa quan trọng“.Chủ tịch Quốc Hội Việt Nam công du Châu Âu “Nâng tầm hợp tác Việt Nam – EU ngày càng thực chất và hiệu quả”. Thứ trưởng Ngoại giao Tô Anh Dũng:Chuyến công tác của Chủ tịch Quốc hội thành công vượt dự kiến”. Chuyện bên lề chính sử “Tin hay không nên tin” “Việt Nam là dân tộc nhỏ yếu, nghèo nàn và lạc hậu?”; xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/viet-nam-vi-the-moi

          Những trích dẫn nổi bật
          Chuyển đổi số Quốc gia
          Chuyển đổi số nông nghiệp
          Tin nổi bật quan tâm

          VIỆT NAM CON ĐƯỜNG XANH
          Hoàng Kim

          Việt Nam con đường xanh những trích dẫn nổi bật của kỳ này gồm: Tin nổi bật quan tâm; Đọc lại và suy ngẫm: “Toàn văn Bản Tuyên ngôn độc lập“; “Bài viết của Tổng Bí thư về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” “Tầm nhìn mới, bản lĩnh mới, sức sáng tạo mới“; Người giương ngọn cờ đúng thời điểm lịch sử; Muốn CNXH, nền chính trị phải thật sự dân chủ; Không thể có CNXH từ lý luận sáo mòn; “Để Việt Nam mơ giấc mơ ‘hóa rồng, hóa hổ’; Khi nào hoàn thành giấc mơ công nghiệp hóa

          Bác Hồ nói: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành“. Việt Nam con đường xanh cốt lõi là an dân với năm yếu tố: An sinh xã hội; An tâm; An lạc; An toàn; An ninh.

          Định hướng chiến lược quốc gia, phương hướng nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế xã hội 2021-2030 (* Đảng Cộng Sản Việt Nam 2020, Dự thảo các văn kiện trình đại hội Đảng XIII của Đảng) xác định 10 giải pháp cơ bản:

          1) Tập trung hoàn thiện nâng cao chất lượng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, giải quyết tốt hơn quan hệ giữa Nhà nước và thị trường.

          2) Phát triển mạnh mẽ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo nhằm tạo bứt phá nâng cao năng suất, chất lượng hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế;

          3) Phát triển nguồn nhân lực, giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu nhân lực chất lượng cao của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế;

          4) Đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, bảo đảm thực chất, hiệu quả; phát triển nền kinh tế số; thúc đẩy tăng trưởng nhanh, bền vững trên cơ sở ổn định kinh tế vĩ mô;

          5) Phát triển kết cấu hạ tầng, kinh tế vùng, kinh tế biển, lấy các đô thi làm động lực phát triển vùng và đẩy mạnh xây dựng nông thôn mới;

          6) Phát triển văn hóa, xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; không ngừng nâng cao đời sống vật chất tinh thần của nhân dân;

          7) Quản lý và sử dụng hiệu quả tài nguyên; tăng cường bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu; phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai;

          8) Củng cố, tăng cường quốc phóng, bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia;

          9) Nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại, hội nhập và vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế;

          10) Tiếp tục xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động; đẩy mạnh phòng chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, tạo đột phá trong cải cách hành chính.

          Việt Nam con đường xanh lĩnh vực nông lâm thủy hải sản trọng tâm là 13 sản phẩm nông nghiệp chủ lực quốc gia đã được xác định bởi Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tại Thông tư số 37 /2018/TT /BNNPTNT ngày 25/12/2018 gồm Gạo, Cà phê, Cao su, Điều, Hồ tiêu, Chè, Rau Quả, Sắn và sản phẩm từ sắn, Thịt lợn, Thịt và trứng gia cầm, Cá tra, Tôm, Gỗ và sản phẩm từ gỗ.

          Phương hướng nhiệm vụ và giải pháp chính của giai đoạn 2021- 2030 để đảm bảo khối sản phẩm chủ lực này phát huy hiệu quả giá trị nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân lao động Việt Nam là cần tổ chức điều hành thật tốt 5 nhóm hệ thống giải pháp chính đã được xác định:

          1) Nông sản Việt 13 ngành hàng chủ lực kết nối mạnh mẽ với thị trường thế giới, xác định lợi thế so sánh và hệ thống giải pháp bảo tồn phát triển bền vững, hiệu quả khoa học công nghệ, kinh tế an sinh xã hội môi trường và vị thế quan trọng của từng ngành hàng. Nâng cao hiệu quả, hiệu lực hợp tác đầu tư nước ngoài có trọng tâm, trọng điểm, có chọn lọc, ưu tiên các dự án có công nghệ tiên tiến, công nghệ mới, công nghệ cao, quản trị hiện đại, năng lực đổi mới sáng tạo, kết nối Nông sản Việt đạt lợi thế cạnh tranh cao trong chuỗi cung ứng toàn cầu, có tác động lan tỏa, kết nối chặt chẽ hữu cơ với khu vực kinh tế trong nước. Đổi mới và phát triển các hình thức tổ chức sản xuất phù hợp, hiệu quả, đẩy mạnh hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ nông sản, kết nối với hệ thống tiêu thụ toàn cầu. Phát triển mạnh doanh nghiệp nông nghiệp, hổ trợ, khuyến khích phát triển kinh tế trang trại, hợp tác xã nông nghiệp và các tổ hợp tác. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nông nghiệp.

          2) Phát triển mạnh nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, sạch, nông nghiệp hữu cơ, đạt tiêu chuẩn phổ biến về an toàn thực phẩm. Đổi mới chính sách quản lý và sử dụng đất trồng lúa, hàng năm sản xuất khoảng 35 triệu tấn lúa làm nòng cốt bảo đảm an ninh lương thực quốc gia, thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng phù hợp với lợi thế và nhu cầu thị trường, tăng khả năng chống chịu, thích ứng của nông dân với biến đổi khí hậu từng vùng, miền, hình thành các vùng sản xuất hàng hóa tập trung, ổn định. Tổ chức kết nối nông nghiệp với công nghiệp chế biến, thị trường xuất khẩu, chuỗi giá trị toàn cầu.

          3) Phát triển chăn nuôi công nghiệp ứng dụng công nghệ cao, khuyến khích phát triển chăn nuôi trang trại, gia trại hiệu quả cao, thân thiện với môi trường. Phát triển nuôi trồng thủy sản cá trên biển và mặt nước nội địa theo hướng công nghiệp, quảng canh cải tiến , sinh thái, nâng cao hiệu quả khai thác xa bờ , phát triển đánh bắt hải dương. Thực hiện đồng bộ các giải pháp bảo vệ và phát triển nguồn lợi hải sản;

          4) Quản lý chặt chẽ, bảo vệ và phục hồi rừng tự nhiên gắn với bảo tồn đa dạng sinh học, bảo vệ cảnh quan, môi trường sinh thái. Phát triển mạnh và nâng cao chất lượng rừng trồng, nhất là rừng đặc dụng, rừng phòng hộ đầu, rừng phòng hộ ven biển. Chú trọng phát triển trồng rừng gỗ lớn, nâng cao hiệu quả rừng trồng, lâm đặc sản, đáp ứng cơ bản nhu cầu lâm sản trong nước làm nguyên liệu chế biến xuất khẩu. Tăng cường sự tham gia của cộng đồng vào các chuỗi giá trị lâm nghiệp.

          5) Đẩy mạnh xây dựng nông thôn mới và quản lý sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên; tăng cường bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai. Đẩy mạnh hợp tác với các quốc gia thượng nguồn và các tổ chức quốc tế trong việc bảo vệ và sử dụng có hiệu quả tài nguyên nước ở lưu vực các dòng sông xuyên biên giới, nhất là sông Mê Công và sông Hồng. Nâng cao tính chống chịu và thích ứng biến đổi khí hậu của hệ thống kết cấu hạ tầng và của nền kinh tế Việt Nam, thực hiện các giải pháp thông minh để thích ứng trong nông nghiệp, thủy sản và phát triển rừng. Giảm thiểu những rũi ro do biến đổi khí hậu gây ra, đặc biệt là xâm nhập mặn, sạt lở tại Đồng Bằng Sông Cửu Long, an toàn lụt và môi sinh tại Hà Nội và vùng Đồng Bằng Sông Hồng khô hạn tại Tây Nguyên, Nam Trung Bộ,Bắc Trung Bộ Bảo vệ an ninh nguồn nước, tăng cường quản lý và khai thác, sử dụng hiệu quả, tiết kiệm nguồn nước theo lưu vực sông, ngăn chặn suy giảm tài nguyên nước, tích nước điều tiết nguồn nước hợp lý phục vụ phát triển kinh tế xã hội. Quản lý chặt chẽ và nâng cao hiệu lực quản lý, hiệu quả sử dụng các nguồn lực tài nguyên, nhất là đất, nước khoáng sản, theo nguyên tắc thị trường. Phát triển thị trường, đẩy mạnh thương mại hóa quyền sử dụng đất, tăng cường đăng ký quyền sử dụng đất và áp dụng định giá đất theo thị trường, bảo đảm công khai, minh bạch. Phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn, mạng lướí các dự án hạ tầng trọng điểm quốc gia kết nối đồng bộ với các khu vực nông phẩm hàng hóa chính và khu đô thị, khu công nghiệp, cảng biển; Kết nối xây dựng nông thôn mới với kinh tế vùng, kinh tế biển, đào tạo nguồn lực nông nghiệp, cải tiến nâng cấp hệ thống hóa dữ liệu thông tin nông nghiệp nông dân nông thôn đáp ứng phù hợp với thời đại mới. Tiếp tục thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới theo hướng gắn với đô thị hóa, thực chất và đi vào chiều sâu hiệu quả bền vững, lấy cư dân nông thôn làm chủ thể, tạo sự chuyển biến tích cực rõ rệt về nếp sống mới ở nông thôn; xây dựng nông thôn mới kiểu mẫu, nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới cấp thôn bản. Thu hút mạnh mẽ các doanh nghiệp đầu tư vào khu vực nông thôn để tổ chức và nâng cao chuỗi gía trị “mỗi xã một sản phẩm” gắn với thương hiệu, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiêu thụ sản phẩm. Chú trọng xây dựng cảnh quan sinh thái môi trường làng xã Việt xanh sạch đẹp tiến bộ an lành

          Ba trụ cột cốt lõi của một quốc gia là cân đối hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế, bảo vệ môi trường và thực hiện tiến bộ công bằng xã hội.theo kết luận của Hội nghị thượng đỉnh toàn cầu về Phát triển bền vững tại Johannesburg (Cộng hòa Nam Phi) năm 2002.

          Bảo vệ an toàn môi trường sống và nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân lao động Việt Nam là một trong ba trụ cột cốt lõi của chính sách quốc gia. Bảo vệ an toàn thức ăn, đất, nước, không khí và môi sinh là luật sống. Nguyên tắc cơ bản là: Ai gây ô nhiễm môi trường phải trả chi phí để xử lý khắc phục hậu quả, cải tạo và phục hồi. Thực thi chế tài và xử phạt nghiêm về vi phạm môi trường là quốc sách.

          Tăng cường giám sát, công khai đầy đủ, kịp thời thông tin và nâng cao chất lượng môi trường, sự an toàn về thức ăn, đất nước, không khí và môi sinh ở các đô thị và vùng dân cư. Xử lý dứt điểm các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Cải thiện rõ rệt tình trạng ô nhiễm môi trường, ở các cụm công nghiệp, làng nghề, lưu vực sông, khu vực nông thôn. Kiểm soát chặt chẽ các dự án khai thác tài nguyên, chủ động phát hiện và xử lý nghiêm các vi phạm gây ô nhiễm môi trường. Ngăn chặn suy thoái môi trường. Tối ưu hóa các mục đích sử dụng đất nông nghiệp. Đẩy mạnh hợp tác với các quốc gia thượng nguồn và các tổ chức quốc tế trong việc bảo vệ và sử dụng có hiệu quả tài nguyên nước ở lưu vực các dòng sông xuyên biên giới, nhất là sông Mê Công và sông Hồng.

          Việt Nam con đường xanh, thông tin đúc kết này là chọn lọc trích dẫn phù hợp với tư tưởng chỉ đạo của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Định hướng và tầm nhìn này nhấn mạnh

          1) Phải phát triển hài hòa ba trụ cột “Không đánh đổi môi trường với tăng trưởng kinh tế”; “Không thể vì nghèo mà hy sinh môi trường và sức khỏe người dân”

          2) Vai trò kiến tạo của Nhà nước là quyết định;

          3) Vai trò của người dân lao động và cộng đồng xã hội là không thể thiếu.

          Việt Nam ngày nay nhấn mạnh sự diệt trừ tham nhũng và đề cao vai trò kiến tạo của Nhà nước là quyết định. Việt Nam là nước văn hiến có truyền thống “bầu ơi thương lấy bí cùng” và kinh nghiệm làm chủ tập thể, cũng đã vận dụng thành công “chính sách cộng sản thời chiến” biết thắt lưng buộc bụng đầu tư trong điểm.

          NHỮNG TRÍCH DẪN NỔI BẬT

          MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
          Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Phú Trọng
          Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam

          Theo Việt Nam Net ngày 16/05/2021, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng có
          bài viết: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”.  CNM365 Tình yêu cuộc sống trích dẫn toàn văn bài viết quan trọng này

          (VNN) Tổng Bí thư viết bài này nhân dịp kỷ niệm 131 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh  (19/5/1890 – 19/5/2021) và bầu cử ĐBQH khoá XV và HĐND các cấp nhiệm kỳ 2021 – 2026 vào ngày 23/5 tới đây. VietNamNet trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết quan trọng này của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.

          Chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một đề tài lý luận và thực tiễn rất cơ bản, quan trọng, nội dung rất rộng lớn, phong phú và phức tạp, có nhiều cách tiếp cận khác nhau, đòi hỏi phải có sự nghiên cứu rất công phu, nghiêm túc, tổng kết thực tiễn một cách sâu sắc, khoa học.

          Trong phạm vi bài này, tôi chỉ xin đề cập một số khía cạnh từ góc nhìn thực tiễn của Việt Nam. Và cũng chỉ tập trung vào trả lời mấy câu hỏi: Chủ nghĩa xã hội là gì? Vì sao Việt Nam lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa? Làm thế nào và bằng cách nào để từng bước xây dựng được chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam? Thực tiễn công cuộc đổi mới, đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong thời gian qua có ý nghĩa gì và đặt ra vấn đề gì?.

          Như chúng ta đã biết, chủ nghĩa xã hội thường được hiểu với ba tư cách: chủ nghĩa xã hội là một học thuyết; chủ nghĩa xã hội là một phong trào; chủ nghĩa xã hội là một chế độ. Mỗi tư cách ấy lại có nhiều biểu hiện khác nhau, tuỳ theo thế giới quan và trình độ phát triển ở mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể. Chủ nghĩa xã hội đề cập ở đây là chủ nghĩa xã hội khoa học dựa trên học thuyết Mác – Lênin trong thời đại ngày nay. Vậy thì chúng ta phải định hình chủ nghĩa xã hội thế nào, và định hướngđi lên chủ nghĩa xã hội thế nào cho phù hợp với hoàn cảnh, đặc điểm cụ thể ở Việt Nam?

          Trước đây, khi còn Liên Xô và hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa thế giới thì vấn đề đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam dường như không có gì phải bàn, nó mặc nhiên coi như đã được khẳng định. Nhưng từ sau khi mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và nhiều nước Đông Âu sụp đổ, cách mạng thế giới lâm vào thoái trào thì vấn đề đi lên chủ nghĩa xã hội lại được đặt ra và trở thành tâm điểm thu hút mọi sự bàn thảo, thậm chí tranh luận gay gắt. Các thế lực chống cộng, cơ hội chính trị thì hí hửng, vui mừng, thừa cơ dấn tới để xuyên tạc, chống phá.

          Trong hàng ngũ cách mạng cũng có người bi quan, dao động, nghi ngờ tính đúng đắn, khoa học của chủ nghĩa xã hội, quy kết nguyên nhân tan rã của Liên Xô và một số nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu là do sai lầm của chủ nghĩa Mác – Lênin và sự lựa chọn con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Từ đó họ cho rằng chúng ta đã chọn đường sai, cần phải đi con đường khác.

          Có người còn phụ hoạ với các luận điệu thù địch, công kích, bài bác chủ nghĩa xã hội, ca ngợi một chiều chủ nghĩa tư bản. Thậm chí có người còn sám hối về một thời đã tin theo chủ nghĩa Mác – Lênin và con đường xã hội chủ nghĩa! Thực tế có phải như vậy không? Thực tế có phải hiện nay chủ nghĩa tư bản, kể cả những nước tư bản chủ nghĩa già đời vẫn đang phát triển tốt đẹp không? Có phải Việt Nam chúng ta đã chọn con đường đi sai không?

          Chúng ta thừa nhận rằng, chủ nghĩa tư bản chưa bao giờ mang tính toàn cầu như ngày nay và cũng đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, nhất là trong lĩnh vực giải phóng và phát triển sức sản xuất, phát triển khoa học – công nghệ. Nhiều nước tư bản phát triển, trên cơ sở các điều kiện kinh tế cao và do kết quả đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, đã có những biện pháp điều chỉnh, hình thành được không ít các chế độ phúc lợi xã hội tiến bộ hơn so với trước.

          Từ giữa thập kỷ 70 và nhất là từ sau khi Liên Xô tan rã, để thích ứng với điều kiện mới, chủ nghĩa tư bản thế giới đã ra sức tự điều chỉnh, thúc đẩy các chính sách “tự do mới” trên quy mô toàn cầu; và nhờ đó hiện vẫn còn tiềm năng phát triển. Tuy nhiên, chủ nghĩa tư bản vẫn không thể khắc phục được những mâu thuẫn cơ bản vốn có của nó.

          Các cuộc khủng hoảng vẫn tiếp tục diễn ra. Đặc biệt là, năm 2008 – 2009 chúng ta đã chứng kiến cuộc khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế bắt đầu từ nước Mỹ, nhanh chóng lan rộng ra các trung tâm tư bản chủ nghĩa khác và tác động đến hầu hết các nước trên thế giới. Các nhà nước, các chính phủ tư sản ở Phương Tây đã bơm những lượng tiền khổng lồ để cứu các tập đoàn kinh tế xuyên quốc gia, các tổ hợp công nghiệp, tài chính, ngân hàng, thị trường chứng khoán, nhưng không mấy thành công.

          Và hôm nay, chúng ta lại chứng kiến cuộc khủng hoảng nhiều mặt, cả về y tế, xã hội lẫn chính trị, kinh tế đang diễn ra dưới tác động của đại dịch Covid-19 và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Kinh tế suy thoái đã làm phơi bày sự thật của những bất công xã hội trong các xã hội tư bản chủ nghĩa: đời sống của đa số dân cư lao động bị giảm sút nghiêm trọng, thất nghiệp gia tăng; khoảng cách giàu – nghèo ngày càng lớn, làm trầm trọng thêm những mâu thuẫn, xung đột giữa các sắc tộc.

          Những tình huống “phát triển xấu”, những nghịch lý “phản phát triển”, từ địa hạt kinh tế – tài chính đã tràn sang lĩnh vực xã hội, làm bùng nổ các xung đột xã hội, và ở không ít nơi từ tình huống kinh tế đã trở thành tình huống chính trị với các làn sóng biểu tình, bãi công, làm rung chuyển cả thể chế. Sự thật cho thấy, bản thân thị trường tự do của chủ nghĩa tư bản không thể giúp giải quyết được những khó khăn, và trong nhiều trường hợp còn gây ra những tổn hại nghiêm trọng cho các nước nghèo; làm sâu sắc thêm mâu thuẫn giữa lao động và tư bản toàn cầu.

          Sự thật đó cũng làm phá sản những lý thuyết kinh tế hay mô hình phát triển vốn xưa nay được coi là thời thượng, được không ít các chính khách tư sản ca ngợi, được các chuyên gia của họ coi là tối ưu, hợp lý.
          Cùng với khủng hoảng kinh tế – tài chính là khủng hoảng năng lượng, lương thực, sự cạn kiệt của các nguồn tài nguyên thiên nhiên, sự suy thoái của môi trường sinh thái,… đang đặt ra những thách thức vô cùng lớn cho sự tồn tại và phát triển của nhân loại.

          Đó là hậu quả của một quá trình phát triển kinh tế – xã hội lấy lợi nhuận làm mục tiêu tối thượng, coi chiếm hữu của cải và tiêu dùng vật chất ngày càng tăng làm thước đo văn minh, lấy lợi ích cá nhân làm trụ cột của xã hội. Đó cũng chính là những đặc trưng cốt yếu của phương thức sản xuất và tiêu dùng tư bản chủ nghĩa. Các cuộc khủng hoảng đang diễn ra một lần nữa chứng minh tính không bền vững cả về kinh tế, xã hội và môi trường sinh thái của nó. Theo nhiều nhà khoa học phân tích, các cuộc khủng hoảng hiện nay không thể giải quyết được một cách triệt để trong khuôn khổ của chế độ tư bản chủ nghĩa.

          Các phong trào phản kháng xã hội bùng nổ mạnh mẽ tại nhiều nước tư bản phát triển trong thời gian qua càng làm bộc lộ rõ sự thật về bản chất của các thể chế chính trị tư bản chủ nghĩa. Thực tế là các thiết chế dân chủ theo công thức “dân chủ tự do” mà phương Tây ra sức quảng bá, áp đặt lên toàn thế giới không hề bảo đảm để quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân – yếu tố bản chất nhất của dân chủ.

          Hệ thống quyền lực đó vẫn chủ yếu thuộc về thiểu số giàu có và phục vụ cho lợi ích của các tập đoàn tư bản lớn. Một bộ phận rất nhỏ, thậm chí chỉ là 1% dân số, nhưng lại chiếm giữ phần lớn của cải, tư liệu sản xuất, kiểm soát tới 3/4 nguồn tài chính, tri thức và các phương tiện thông tin đại chúng chủ yếu và do đó chi phối toàn xã hội. Đây chính là nguyên nhân sâu xa dẫn đến phong trào “99 chống lại 1” diễn ra ở Mỹ đầu năm 2011 và nhanh chóng lan rộng ở nhiều nước tư bản.

          Sự rêu rao bình đẳng về quyền nhưng không kèm theo sự bình đẳng về điều kiện để thực hiện các quyền đó đã dẫn đến dân chủ vẫn chỉ là hình thức, trống rỗng mà không thực chất. Trong đời sống chính trị, một khi quyền lực của đồng tiền chi phối thì quyền lực của nhân dân sẽ bị lấn át. Vì vậy mà tại các nước tư bản phát triển, các cuộc bầu cử được gọi là “tự do”, “dân chủ” dù có thể thay đổi chính phủ nhưng không thể thay đổi được các thế lực thống trị; đằng sau hệ thống đa đảng trên thực tế vẫn là sự chuyên chế của các tập đoàn tư bản.

          Chúng ta cần một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người. Chúng ta cần sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, chứ không phải gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội. Chúng ta cần một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, chứ không phải cạnh tranh bất công, “cá lớn nuốt cá bé” vì lợi ích vị kỷ của một số ít cá nhân và các phe nhóm.

          Chúng ta cần sự phát triển bền vững, hài hoà với thiên nhiên để bảo đảm môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai, chứ không phải để khai thác, chiếm đoạt tài nguyên, tiêu dùng vật chất vô hạn độ và huỷ hoại môi trường.

          Và chúng ta cần một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân, chứ không phải chỉ cho một thiểu số giàu có. Phải chăng những mong ước tốt đẹp đó chính là những giá trị đích thực của chủ nghĩa xã hội và cũng chính là mục tiêu, là con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta và nhân dân ta đã lựa chọn và đang kiên định, kiên trì theo đuổi.
          Như chúng ta đều biết, nhân dân Việt Nam đã trải qua một quá trình đấu tranh cách mạng lâu dài, khó khăn, đầy gian khổ hy sinh để chống lại ách đô hộ và sự xâm lược của thực dân, đế quốc để bảo vệ nền độc lập dân tộc và chủ quyền thiêng liêng của đất nước, vì tự do, hạnh phúc của nhân dân với tinh thần “Không có gì quý hơn Độc lập Tự do”.

          Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là đường lối cơ bản, xuyên suốt của cách mạng Việt Nam và cũng là điểm cốt yếu trong di sản tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bằng kinh nghiệm thực tiễn phong phú của mình kết hợp với lý luận cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh đã đưa ra kết luận sâu sắc rằng, chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới có thể giải quyết triệt để vấn đề độc lập cho dân tộc, mới có thể đem lại cuộc sống tự do, ấm no và hạnh phúc thực sự cho tất cả mọi người, cho các dân tộc.

          Ngay khi mới ra đời và trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn khẳng định: chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng của Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam; đi lên chủ nghĩa xã hội là yêu cầu khách quan, là con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam. Năm 1930, trong Cương lĩnh chính trị của mình, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chủ trương: “Tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân do giai cấp công nhân lãnh đạo, tiến lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa”.

          Vào những năm cuối thế kỷ XX, mặc dù trên thế giới chủ nghĩa xã hội hiện thực đã bị đổ vỡ một mảng lớn, hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa không còn, phong trào xã hội chủ nghĩa lâm vào giai đoạn khủng hoảng, thoái trào, gặp rất nhiều khó khăn, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn tiếp tục khẳng định: “Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”.

          Tại Đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng (tháng 01/2011) trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), chúng ta một lần nữa khẳng định: “Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”.

          Tuy nhiên, chủ nghĩa xã hội là gì và đi lên chủ nghĩa xã hội bằng cách nào?Đó là điều mà chúng ta luôn luôn trăn trở, suy nghĩ, tìm tòi, lựa chọn để từng bước hoàn thiện đường lối, quan điểm và tổ chức thực hiện, làm sao để vừa theo đúng quy luật chung, vừa phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam.

          Trong những năm tiến hành công cuộc đổi mới, từ tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, Đảng Cộng sản Việt Nam từng bước nhận thức ngày càng đúng đắn hơn, sâu sắc hơn về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội; từng bước khắc phục một số quan niệm đơn giản trước đây như: đồng nhất mục tiêu cuối cùng của chủ nghĩa xã hội với nhiệm vụ của giai đoạn trước mắt; nhấn mạnh một chiều quan hệ sản xuất, chế độ phân phối bình quân, không thấy đầy đủ yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ, không thừa nhận sự tồn tại của các thành phần kinh tế; đồng nhất kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản; đồng nhất nhà nước pháp quyền với nhà nước tư sản…

          Cho đến nay, mặc dù vẫn còn một số vấn đề cần tiếp tục đi sâu nghiên cứu, nhưng chúng ta đã hình thành nhận thức tổng quát: Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam đang phấn đấu xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.

          Để thực hiện được mục tiêu đó, chúng ta phải: Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức; Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; Xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; Bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội; Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hoá, đa dạng hoá, hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp với sức mạnh thời đại; Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện.

          Càng đi vào chỉ đạo thực tiễn, Đảng ta càng nhận thức được rằng, quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một sự nghiệp lâu dài, vô cùng khó khăn và phức tạp, vì nó phải tạo sự biến đổi sâu sắc về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, lực lượng sản xuất rất thấp, lại trải qua mấy chục năm chiến tranh, hậu quả rất nặng nề; các thế lực thù địch thường xuyên tìm cách phá hoại cho nên lại càng khó khăn, phức tạp, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước đi, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen nhau, có sự đấu tranh giữa cái cũ và cái mới.

          Nói bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là bỏ qua chế độ áp bức, bất công, bóc lột tư bản chủ nghĩa; bỏ qua những thói hư tật xấu, những thiết chế, thể chế chính trị kXem tiếp >>

            Dạy và học 13 tháng 9(13-09-2021)


          DẠY VÀ HỌC 13 THÁNG 9
          Hoàng Kim
          CNM365 Tình yêu cuộc sốngQuảng Bình đất Mẹ ơn Người;Ban mai đứng trước biển; Thơ tình Hồ Núi Cốc; Yên Lãng Hồ Chí Minh; Nôi đất Việt yêu thương; Mỏ than Hồng giữ lửa; Chọn giống sắn kháng CMD; Khoai Sắn Lúa Siêu Xanh; Hoàng Thành đến Trúc Lâm; Ngày Hạnh Phúc của em; CIP Peru và khoai Việt; Giấc mơ lành yêu thương; Hoàng Trung Trực đời lính; Hoàng Đình Quang bạn tôi; Một gia đình yêu thương; .Ngày 13 tháng 9 năm 1913 là ngày sinh Trần Đại Nghĩa (1913–1997) là một Thiếu tướng Quân đội Nhân dân Việt Nam, giáo sư, kỹ sư quân sự, nhà bác học, người đặt nền móng xây dựng ngành khoa học kỹ thuật quân sự và công nghiệp quốc phòng Việt Nam .Ngày 13 tháng 9 năm  2006, Từ điển bách khoa Việt Nam xuất bản tập cuối cùng, chính thức hoàn thành sau 15 năm biên soạn và xuất bản. Ngày 13 tháng 9 năm 1229 , Oa Khoát Đài trở thành đại hãn thứ hai của Đế quốc Mông Cổ sau Thành Cát Tư Hãn. Dưới thời Oa Khoát Đài sự bành trướng của người Mông Cổ gần như toàn bộ châu Á, hầu hết lãnh thổ Nga (ngoại trừ Novgorod trở thành chư hầu), là việc ngay cả Napoléon và Hitler cũng không thể làm được. Ông đã đem lại sự ổn định chính trị và tái thiết lập con đường tơ lụa, hành trình thương mại chính giữa phương Đông và phương Tây thời đó. Bài chọn lọc ngày 13 tháng 9: Quảng Bình đất Mẹ ơn Người;Ban mai đứng trước biển; Thơ tình Hồ Núi Cốc; Yên Lãng Hồ Chí Minh; Nôi đất Việt yêu thương; Mỏ than Hồng giữ lửa; Chọn giống sắn kháng CMD; Khoai Sắn Lúa Siêu Xanh; Hoàng Thành đến Trúc Lâm; Ngày Hạnh Phúc của em; CIP Peru và khoai Việt; Giấc mơ lành yêu thương; Hoàng Trung Trực đời lính; Hoàng Đình Quang bạn tôi; Một gia đình yêu thương; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-13-thang-9/

          QUẢNG BÌNH ĐẤT MẸ ƠN NGƯỜI
          Hoàng Kim

          Quảng Bình đất Mẹ ơn Người
          Tổ tiên cát bụi nhiều đời thành quê
          Đinh ninh như một lời thề
          Trọn đời trung hiếu để về dâng hương

          Lòng son trung chính biết ơn
          Quê hương chung đúc khí thiêng Quảng Bình
          Về quê kính nhớ Tổ tiên
          Mừng vui giữa chốn bạn hiền người thân

          Đất trời ngày mới thanh tân
          Thung dung thăm hỏi ân cần níu chân.
          Đường xuân như một dòng sông
          Việt Nam thống nhất thác ghềnh đến nơi.

          Hồn chính khí bốc lên ánh sáng
          Sáng choang ngọc đá giữa hoang tàn’.
          Tâm nhân văn lắng đọng tinh hoa
          Hoa Đất Hoa Người trong cõi Bụt

          THẦY BẠN LÀ LỘC XUÂN
          Hoàng Kim

          Tôi viết bài này để tỏ lòng biết ơn thầy bạn dưới mái trường Nông Lâm thân thương và làm món quà nhỏ thân tặng cho các em sinh viên nghèo hiếu học. Thầy, bạn là lộc xuân đời tôi mà nếu thiếu sự động viên, giúp đỡ này thì tôi không thể có được ngày hôm nay:“Em đã học nhiều gương sáng danh nhân. Hãy biết nhục, biết hèn mà lập chí. Thắp đèn lên đi em, ngọn đèn dầu bền bỉ. Sáng giữa đời lấp lánh một niềm tin”. xem tiếp
          https://hoangkimlong.wordpress.com/category/thay-ban-la-loc-xuan/

          Loc Nguyen 3aaaa

          Ảnh năm tháng không quên …

          Loc Nguyen va GD bac Buu
          Loc Long Kim Thong
          Loc Nguyen Ke  Thanh Viet Triet
          Gapban9

          TA HẸN EM UỐNG RƯỢU NGẮM TRĂNG
          Hoàng Kim

          Ta hẹn em uống rượu ngắm trăng
          Mấy khi đời có một người tri kỷ?
          Nâng chén nhé!
          Trăng vàng như giọt lệ
          Buồn ư em?
          Trăng vằng vặc trên đầu!

          Ta nhớ Anh ta xưa mưa nắng dãi dầu
          Khi biệt thế gian chọn trăng làm bạn
          “Trăng tán trời mưa, trăng quầng trời hạn”
          Dâu bể cuộc đời đâu chỉ trăm năm?

          “Mười lăm trăng qủa thật tròn
          Anh hùng thời vận hãy còn gian nan
          Đêm trăng nhát cuốc xới vàng
          Trăng dòm, ta hẹn, trăng càng dòm thêm
          Đất vàng, vàng ánh trăng đêm
          Đêm khuya, ta với nàng quên nhọc nhằn”

          Ta mời em uống rượu ngắm trăng
          Mấy khi đời có một người tri kỷ?
          Nâng chén nhé!
          Trăng vàng như giọt lệ
          Vui ư em?
          Trăng lồng lộng trên đầu!

          Ta nhớ Bạn ta vào tận vùng sâu
          Để kiếm tìm ta, người thanh xứ núi
          Cởi bỏ cân đai xênh xang áo mũ
          Rượu đế, thưởng trăng, chân đất, đũa tre.

          “Hoa mận chờ trăng nhạt bóng đêm
          Trăng lên vời vợi vẫn êm đềm
          Trăng qua vườn mận, trăng thêm sáng
          Mận đón trăng về, hoa trắng thêm”

          Ta cùng em uống rượu ngắm trăng
          Ta có một tình yêu lặng lẽ
          Hãy uống đi em!
          Mặc đời dâu bể.
          Trăng khuyết lại tròn
          Mấy kẻ tri âm?

          “Trăng sáng lung linh, trăng sáng quá!
          Đất trời lồng lộng một màu trăng
          Dẫu đêm khuya vắng người quên ngắm
          Trăng vẫn là trăng, trăng vẫn rằm”

          BAN MAI ĐỨNG TRƯỚC BIỂN
          Hoàng Kim

          Đảo Yến trong mắt ai
          Ban mai đứng trước biển
          Thăm thẳm một tầm nhìn
          Vị tướng của lòng dân

          Hình ảnh này chưa có thuộc tính alt; tên tệp của nó là deongang.jpg

          ĐÈO NGANG VÀ NHỮNG TUYỆT PHẨM THƠ CỔ
          Hoàng Kim

          Trèo đèo hai mái chân vân / Lòng về Hà Tĩnh, dạ ân Quảng Bình”. Đèo Ngang là con đèo lịch sử đã đi vào ca dao, huyền thoại. Nhiều danh nhân- thi sĩ như Lê Thánh Tông, Nguyễn Thiếp, Vũ Tông Phan, Ngô Thì Nhậm, Nguyễn Du, Bà huyện Thanh Quan,  Cao Bá Quát, Hồ Chí Minh … đã lưu dấu tại đèo Ngang những tuyệt phẩm thơ. Đặc biệt, bài thơ “Qua Đèo Ngang” của Bà huyện Thanh Quan rất nổi tiếng.

          Lê Thánh Tông (1442 – 1497) là vị Hoàng đế thứ 5 của nhà Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam. Ông trị vì từ năm 1460 đến 1497, tổng cộng 37 năm. Ông nổi tiếng là vị minh quân, là người đã đưa Đại Việt lên tới thời hoàng kim của chế độ phong kiến. Ông cũng được xem là một nhà văn hoá và một người coi trọng hiền tài. Lê Thánh Tông trên đường chinh phục Chiêm Thành năm 1469 có bài Di Luân hải tần (Cửa Roòn) gửi Ma Cô (đền thiêng thờ công chúa Liễu Hạnh, ở xã Quảng Đông nam Đèo Ngang)

          CỬA ROÒN
          Lê Thánh Tông (*)

          Tây Hoành Sơn thấy rõ Di Luân
          Cát trải mênh mông tiếp biển gần
          Sóng nước đá nhô xây trạm dịch
          Gió sông sóng dựng lập đồn quan
          Muối Tề sân phố mời thương khách
          Rượu Lỗ quầy bàn tiếp thị dân
          Muốn nhắn Ma Cô  nhờ hỏi giúp
          Bụi trần Nam Hải có xua tan.

          Trần Châu Báu Di Luân cẩn dịch

          DI LUÂN HẢI TẤN

          Hoành Sơn tây vọng thị Di Luân
          Diễu diễu bình sa tiếp hải tần
          Yên thủy sa đầu phân dịch thứ
          Phong đào giang thượng kiến quan tân
          Tề diêm trường phố yêu thương khách
          Lỗ tửu bồi bàn túy thị nhân
          Dục phỏng Ma Cô bằng ký ngữ
          Nam minh kim dĩ tức dương trần.

          Nguyễn Thiếp, (1723 – 1804), là nhà giáo, danh sĩ cuối đời Hậu Lê và Tây Sơn trong lịch sử Việt Nam. Ông được vua Quang Trung rất nể trọng. Nguyễn Thiếp đã hiến kế cho vua Quang Trung ” “Người Thanh ở xa tới mệt nhọc không biết tình hình khó dễ thế nào. Vả nó có bụng khinh địch, nếu đánh gấp thì không ngoài mười ngày sẽ phá tan. Nếu trì hoãn một chút thì khó lòng mà được nó”. Ông đồng thời cũng là người dâng ba kế sách “quân đức, dân tâm, học pháp”, dùng chữ Nôm thay chữ Hán để tạo thế lâu bền giữ nước, xây dựng Phượng Hoàng Trung Đô nơi đất khởi nghiệp Hồ Phi Phúc (tổ nghiệp của nhà Tây Sơn) để sâu rễ bền gốc. Vào khoảng đầu năm 1803, lúc Nguyễn Thiếp 80 tuổi, lúc vua Quang Trung đã mất, vua Quang Toản không giữ được cơ nghiệp,  vua Gia Long nhà Nguyễn thắng nhà Tây Sơn đã triệu ông vào gặp vua tại Phú Xuân để hỏi việc nước. Nghe vị chúa này tỏ ý muốn trọng dụng, ông lấy cớ già yếu để từ chối, rồi xin về. Trên đường về, khi qua đỉnh đèo Ngang, ông đã cảm khái đọc bài thơ Nôm:

          ĐÃ TRÓT LÊN ĐÈO PHẢI XUỐNG ĐÈO
          Nguyễn Thiếp

          Đã trót lên đèo, phải xuống đèo
          Tay không mình tưởng đã cheo leo
          Thương thay thiên hạ người gồng gánh
          Tháng lọn ngày thâu chỉ những trèo!

          Danh sĩ Ngô Thì Nhậm (1746–1803),  nhà văn, nhà mưu sĩ đời hậu Lê–Tây Sơn, người có công lớn trong việc giúp triều Tây Sơn đánh lui quân Thanh cũng cảm khái khi “lên đèo Ngang ngắm biển”. Bài thơ cao khiết, bi tráng, mang sắc thái thiền.

          LÊN ĐÈO NGANG NGẮM BIỂN
          Ngô Thì Nhậm

          Bày đặt khen thay thợ hóa công,
          Khéo đem hang cọp áp cung rồng.
          Bóng cờ Trần đế (1) dường bay đó,
          Cõi đất Hoàn vương (2) thảy biến không.
          Chim đậu lùm xanh, xanh đã lão,
          Ngạc đùa sóng bạc, bạc nên ông.
          Việc đời bọt nổi, xưa nay thế,
          Phân họp giành trong giấc hạc nồng (3)

          Bản dịch của Nguyễn Sĩ Lâm

          ĐĂNG HOÀNH SƠN VỌNG HẢI

          Tạo hóa đương sơ khổ dụng công,
          Khước tương hổ huyệt xấn giao cung.
          Hoàn vương phong vực qui ô hữu,
          Trần đế tinh kì quải thái không.
          Tình thụ thê cầm thương dục lão,
          Nộ đào hí ngạc bạch thành ông.
          Vô cùng kim cổ phù âu sự.
          Phân hợp du du hạc mộng trung.

          Chú thích:
          (1) Trần đế:Các vua đời Trần.
          (2) Hoàn vương: Chiêm Thành.
          (3) Giấc hạc: Giấc mộng hạc. Câu thơ ý nói cuộc tranh giành đất đai giữa Đằng Ngoài và Đằng Trong chẳng qua chỉ là giấc mộng trần thế sẽ tiêu tan.

          Đại thi hào Nguyễn Du (1765-1820) có bài thơ “Qua đèo Ngang” trong Hải Ông Tập;  họa vần bài thơ “năm Giáp Dần (1794), vâng mệnh vào kinh Phú Xuân, lúc lên đường lưu biệt các bạn ở Bắc Thành” của Hải Ông Đoàn Nguyễn Tuấn  ( Đoàn Nguyễn Tuấn là con Đoàn Nguyễn Thục, đỗ Hương Cống đời Lê, có chiêu mộ người làng giúp Trịnh Bồng đánh Chỉnh, sau ra giúp Tây Sơn, làm đến chức Tả Thị Lang Bộ Lại, tước Hải Phái Bá. Có đi sứ Trung Quốc năm 1790 và có tập thơ nhan đề Hải Ông tập. Ông là anh vợ Nguyễn Du, hơn Nguyễn Du khoảng 15 tuổi). Đọc bài thơ này của Nguyễn Du để hiểu câu thơ truyện Kiều  “Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo”.

           

          QUA ĐÈO NGANG
          Nguyễn Du
          Họa Hải Ông  Đoàn Nguyễn Tuấn

          Tiến về Nam qua đèo Ngang
          Hành trình đầy đủ gươm đàn mang theo
          Thuốc thần nào đã tới đâu
          Mảnh da beo vẫn mối đầu lụy thân
          Ánh mầu nước, chén rượu xanh
          Dõi theo vó ngựa một vành trăng quê
          Gặp gia huynh  hỏi xin thưa
          Đường cùng tôi gặp, tóc giờ điểm sương

          HỌA HẢI ÔNG ĐOÀN NGUYỄN TUẤN

          Hoành Sơn sơn ngoại lĩnh nam trình
          Cần kiếm tương thùy thướng ngọc kinh
          Thỏ tủy vị hoàn tân đại dược
          Báo bì nhưng lụỵ cựu phù danh
          Thương minh thủy dẫn bôi trung lục
          Cố quốc thiềm tùy mã hậu minh
          Thử khứ gia huynh như kiến vấn
          Cùng đồ bạch phát chí tinh tinh

          Nguyễn Tâm Hàn phỏng dịch

          Danh sĩ Vũ Tông Phan, (1800 – 1851),  nhà giáo dục, người có công lớn trong việc chấn hưng văn hóa Thăng Long thời vua Minh Mệnh cũng có bài thơ “Qua lũy Ninh Công nhớ chuyện xưa” rất nổi tiếng:

          QUA LỦY NINH CÔNG NHỚ CHUYỆN XƯA
          Vũ Tông Phan

          Đất này ví thử phân Nam, Bắc
          Hà cớ năm dài động kiếm dao?
          Trời tạo Hoành Sơn còn chẳng hiểm,
          Người xây chiến lũy tổn công lao.
          Thắng, thua rốt cuộc phơi hoang mộ,
          Thù hận dư âm rợn sóng đào.
          Thiên hạ nay đà quy một mối
          Non sông muôn thuở vẫn thanh cao.

          QÚA NINH CÔNG LŨY HOÀI CỔ

          Nhược tương thử địa phân Nam Bắc,
          Hà sự kinh niên động giáp bào?
          Thiên tạo Hoành Sơn do vị hiểm,
          Nhân vi cô lũy diệc đồ lao.
          Doanh thâu để sự không di chủng,
          Sát phạt dư thanh đái nộ đào.
          Vũ trụ như kim quy nhất thống,
          Mạc nhiên sơn thủy tự thanh cao.

          Người dịch: Vũ Thế Khôi
          Nguồn: Đào Trung Kiên (Thi Viện)

          Chu Thần Cao Bá Quát (1809 – 1855) là quốc sư của cuộc nổi dậy Mỹ Lương, và là một nhà thơ nổi danh ở giữa thế kỷ 19 trong lịch sử văn học Việt Nam. Cao Bá Quát có hai bài thơ viết ở đèo Ngang đó là Đăng Hoành Sơn (Lên núi Hoành Sơn) và Hoành Sơn Quan (Ải Hoành Sơn)

          LÊN NÚI HOÀNH SƠN
          Cao Bá Quát

          Muôn dặm đường đi núi lẫn đồi,
          Bên non cỏ nội tiễn đưa người.
          Ai tài kéo nước nghìn năm lại ?
          Trăm trận còn tên một lũy thôi.
          Ải bắc mây tan mưa dứt hạt,
          Thôn nam nắng hửng sớm quang trời.
          Xuống đèo mới biết lên đèo khổ,
          Trần lụy, sao đành để cuốn lôi ?

          ĐĂNG HOÀNH SƠN

          Sơn ngại thanh sơn vạn lý Trình,
          Sơn biên dã thảo tống nhân hành.
          Anh hùng mạc vãn thiên niên quốc,
          Chinh chiến không tồn nhất lũy danh.
          Bắc lĩnh đoạn vân thu túc vũ,
          Nam trang sơ hiểu đái tân tình,
          Há sơn phản giác đăng sơn khổ,
          Tự thán du du ủy tục tình!

          Người dịch: Nguyễn Quý Liêm
          Nguồn: Lương Sơn Thi Đàn

          ẢI HOÀNH SƠN
          Cao Bá Quát

          Non cao nêu đất nước,
          Liền một dẫy ra khơi.
          Thành cũ trăm năm vững,
          Ải xa nghìn dặm dài.
          Chim về rừng lác đác,
          Mây bám núi chơi vơi.
          Chàng Tô nấn ná mãi,
          Tấm áo rách tơi rồi.

          HOÀNH SƠN QUAN

          Địa biểu lập sàn nhan,
          Liêu phong đáo hải gian.
          Bách niên khan cổ lũy,
          Thiên lý nhập trùng quan.
          Túc điểu sơ đầu thụ,
          Qui vân bán ủng sơn.
          Trì trì Tô Quí tử,
          Cừu tệ vị tri hoàn.

          Bản dịch của Hóa Dân
          Nguồn: Lương Sơn Thi Đàn

          Hồ Chí Minh (19 tháng 5 năm 1890 – 2 tháng 9 năm 1969) nhà cách mạng, sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, một trong những người đặt nền móng và lãnh đạo công cuộc đấu tranh giành độc lập, toàn vẹn lãnh thổ cho Việt Nam trong thế kỷ 20. Hai bài thơ của Bác Hồ lúc 5 tuổi, là hai bài đồng dao của Nguyễn Sinh Cung (Nguyễn Tất Thành, tên thuở nhỏ của Hồ Chí Minh ) tại đèo Ngang, trong chuyện kể “Tất Đạt tự ngôn” được Sơn Tùng ghi lại. Đó cũng là những câu thơ lưu lạc, huyền thoại giữa đời thường. Câu chuyện “đường lưỡi bò” và lời đồng dao “Biển là ao lớn, Thuyền là con bò” “Em nhìn thấy trước, Anh trông thấy sau” của cậu bé Nguyễn Sinh Cung “nói” năm 1895 mà  Sơn Tùng đã ghi lại và in trên báo Cứu Quốc lần đầu năm 1950. Câu chuyện trẻ con đan xen những ẩn khuất lịch sử chưa được giải mã đầy đủ về Quốc Cộng hợp tác, tầm nhìn Hoàng Sa, Trường Sa của Tưởng Giới Thạch, Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh trong giai đoạn 1424-1427, lúc mà Nguyễn Ái Quốc lấy tên là Lý Thụy làm phiên dịch cho Borodin trưởng đoàn cố vấn của chính phủ Liên Xô tới Quảng Châu giúp chính phủ Trung Hoa Dân quốc của Tưởng Giới Thạch.

          KHÔNG ĐỀ
          Nguyễn Sinh Cung, 1895

          Núi cõng con đường mòn
          Cha thì cõng theo con
          Núi nằm ì một chỗ
          Cha thì cúi lom khom
          Đường bám lì lưng núi
          Con tập chạy lon ton
          Cha siêng hơn ngọn núi
          Con đường lười hơn con.

          Biển là ao lớn.
          Thuyền là con bò
          Bò ăn no gió
          Lội trên mặt nước
          Em nhìn thấy trước
          Anh trông thấy sau
          Ta lớn mau mau
          Vượt qua ao lớn.

          Bà Huyện Thanh Quan (1805-1848), tên thật là Nguyễn Thị Hinh, là một nhà thơ nữ nổi tiếng trong thời cận đại của lịch sử văn học Việt Nam với  bàithơ “Qua đèo Ngang’, một tuyệt phẩm thơ cổ, được người đời  truyền tụng hơn cả (1) (2).

          QUA ĐÈO NGANG
          Bà huyện Thanh Quan

          Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà
          Cỏ cây chen đá, lá chen hoa
          Lom khom dưới núi tiều vài chú
          Lác đác bên sông rợ mấy nhà.
          Nhớ nước đau lòng con quốc quốc,
          Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
          Dừng chân đứng lại trời, non, nước
          Một mảnh tình riêng ta với ta.

          Bài thơ này của Bà Huyện Thanh Quan
          được Nguyễn Văn Thích dịch thơ chữ Hán

          BỘ ĐÁO HOÀNH QUAN

          Bộ đáo Hoành Quan nhật dĩ tà,
          Yên ba gian thạch, thạch gian hoa.
          Tiều quy nham hạ, ta ta tiểu,
          Thị tập giang biên, cá cá đa.
          Đỗ vũ tâm thương, thanh quốc quốc,
          Giá cô hồn đoạn, tứ gia gia.
          Đình đình trữ vọng: thiên, sơn, hải,
          Nhất phiến cô hoài, ta ngã ta.

          Bản dịch chữ Hán của Nguyễn Văn Thích

          QUÁ HOÀNH SƠN

          Quá Hoành Sơn đỉnh tịch dương tà
          Thảo mộc tê nham diệp sấn hoa
          Kỳ khu lộc tế tiều tung yểu
          Thác lạc giang biên điếm ảnh xa
          Ưu quốc thương hoài hô quốc quốc
          Ái gia quyện khẩu khiếu gia gia
          Tiểu đình hồi vọng thiên sơn thuỷ
          Nhất phiến ly tình phân ngoại gia.

          Bản dịch chữ Hán của Lý Văn Hùng.

          Đèo Ngang và những tuyệt phẩm thơ cổ, nơi lưu dấu những huyền thoại (2).

          Hoàng Kim

          (1) Hoàng Đình Quang họa vần “Qua đèo Ngang” với lời bình xác đáng:

          Thế sự mông lung lộn chính tà
          Quần hồng ghi dấu bậc tài hoa
          Sáu bài thơ cổ lưu tên phố (*)
          Nửa thế kỷ nay đánh số nhà (**)
          Khanh tướng chắc gì nên vọng tộc
          Câu thơ còn đó lập danh gia
          Chẳng bia, chẳng tượng, không đến miếu
          Ngẫm sự mất còn khó vậy ta?

          (*) Toàn bộ sự nghiệp thơ ca của Bà Huyện Thanh Quan chỉ còn lại 6 bài, trong đó có 2 bài được coi là kiệt tác: Qua đèo Ngang Thăng Long thành hoài cổ.
          (**) Từ năm 1955, chính quyền Việt Nam (miền Nam) chính thức đặt tên đường Bà Huyện Thanh Quan cho một đường phố của thành phố Sài Gòn, (thay thế tên cũ Flandin do người Pháp) và tồn tại cho đến ngày nay.

          (2) Qua đèo chợt gặp mai đầu suối, Hoàng Kim đã thuật lại câu chuyện “Tầm hữu vị ngộ Hồ Chí Minh”  do cố Bộ trưởng Xuân Thủy kể trên đỉnh đèo Ngang năm 1970. “Nghìn dặm tìm anh chẳng gặp anh/ Đường về vó ngựa dẫm mây xanh/ Qua đèo chợt gặp mai đầu suối/ Đóa đóa vàng tươi xuân thắm cànhBài thơ kỳ lạ này của Bác Hồ đăng trên báo khoảng năm 1970 ẩn chứa nhiều triết lý sâu sắc không dễ thấy, là thơ Bác Hồ mà ít thấy sách báo nào nhắc đến gần nửa thế kỷ qua“.

          Hình ảnh này chưa có thuộc tính alt; tên tệp của nó là deongang1.jpg
          Hình ảnh này chưa có thuộc tính alt; tên tệp của nó là kimlongdeongang-1.jpg


          Đỉnh đèo Ngang , ranh giới Hà Tĩnh Quảng Bính nơi lưu giấu huyền thoại “Qua đèo chợt gạp mai đầu suối”. Mộ bác Giáp an táng tại mũi Rồng gần vũng Chùa nam đèo Ngang (ảnh đầu trang).

          DeoNgang2


          Đỉnh đèo Ngang chốn xưa nơi lắng đọng câu chuyện

          Hình ảnh này chưa có thuộc tính alt; tên tệp của nó là deongang3.jpg

          Qua đèo Chợt gặp mai đầu suối. Hoành Sơn nơi ẩn giấu những huyển thoại Hoàng Kim

          Bình yên đảo Yến. (QBĐT) Đảo Yến nằm cách Đèo Ngang 7 km về phía nam, thuộc thôn Thọ Sơn, xã Quảng Đông, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình. Hòn đảo này mang vẻ đẹp hoang sơ, yên bình và được bao quanh bởi màu xanh ngút ngàn của cây cỏ. Cùng với Vũng Chùa nơi yên nghỉ của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Vũng Chùa Đảo Yến sẽ là điểm đến giá trị, kết nối với Hoành Sơn Quan, đền thờ Liễu Hạnh Công Chúa… tạo thành một tuyến du lịch đầy thu hút. Nguồn video: Bình yên đảo Yến báo Quảng Bình điện tử người thực hiện: Diệu Hương, Xuân Hoàng, Nguyễn Chiến

          HoNuiCoc01

          THƠ TÌNH HỒ NÚI CỐC
          Hoàng Kim

          Anh đến tìm em ở Bến Mơ
          Một trời thu đẹp lắng vào thơ
          Mênh mang mường Mán mình mong mỏi
          Lấp loáng luồng Lưu lượn lững lờ
          Núi Cốc chùa Vàng xao xuyến đợi
          Sông Công đảo Cái ước mong chờ
          Nham Biền, Yên Lãng uy nghi quá
          Tam Đảo, Trường Yên dạ ngẫn ngơ.

          Hồ Núi Cốc là quần thể du lịch sinh thái thuộc huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên cách trung tâm thành phố 15 km về hướng Tây Nam theo lộ Đán -Tân Cương – núi Cốc. Nơi đây có núi Cốc, sông Công, hồ núi Cốc – vịnh Hạ Long, hồ trên núi – với diện tích mặt hồ khoảng 25 km2. Đền Hồ Chí Minh trên rừng Yên Lãng, đỉnh đèo De dưới là mỏ than núi Hồng giữ ngọn lửa thiêng, vùng huyền thoại chuyện tình yêu thương. Đảo Cái lưu dấu những cổ vật đặc biệt quý hiếm. Chùa Vàng và đền bà chúa Thượng Ngàn nổi tiếng. Đây là vùng đất địa linh của tam giác châu giữa lòng của vòng cung Đông Triều với dãy Tam Đảo có 99 ngọn Nham Biền chạy xuống Yên Tử , trường thành chắn Bắc (hướng kia là dãy Tản Viên 99 ngọn chạy dọc sông Đáy tới Thần Phù, Nga Sơn nối Trường Sơn tạo thế trường tồn và mở mang cho dân tộc Việt. Đây là vùng thiên nhiên trong lành, suối nguồn tươi trẻ, lưu dấu tích anh hùng, mỹ nhân trong vầng trăng, bóng nước giữa rừng…
          Nôi đất Việt yêu thương/ Mỏ than Hồng giữ lửa/ Thơ tình Hồ Núi Cốc / Yên Lãng Hồ Chí Minh/ Đền Bà Chúa Thượng Ngàn / Chợt gặp mai đầu suối/ Thanh trà Thủy Biều Huế/ Mai Hạc vầng trăng soi/ Cánh cò bay trong mơ/ Một niềm tin thắp lửa/ Giấc mơ lành yêu thương / Đồng xuân lưu dấu hiền

          Những tác phẩm âm nhạc vượt thời gian
          Xem tiếp >>

            Dạy và học 12 tháng 9(12-09-2021)


          DẠY VÀ HỌC 12 THÁNG 9
          Hoàng Kim
          CNM365 Tình yêu cuộc sốngChọn giống sắn kháng CMD; Khoai Sắn Lúa Siêu Xanh; Hoàng Thành đến Trúc Lâm; Ngày Hạnh Phúc của em; CIP Peru và khoai Việt; Giấc mơ lành yêu thương; Hoàng Trung Trực đời lính; Hoàng Đình Quang bạn tôi; Một gia đình yêu thương; Ngày 12 tháng 9 năm 1959, Liên Xô phóng tàu vũ trụ Luna 2 lên Mặt Trăng từ sân bay vũ trụ Baykonur, Kazakhstan. Đây là vùng trung tâm châu Á, trọng điểm của “Vành đai và con đường” trong chiến lược Trung Quốc “Liên Nga, bạn Ấn, mở rộng Á Âu Phi”.Ngày 12 tháng 9 năm 1890, Harare, thủ đô Zimbabwe, được thành lập bởi những người định cư. Ngày 12 tháng 9 năm 1921, ngày sinh Lưu Hữu Phước, một trong những nhạc sĩ nổi tiếng, tiên phong của tân nhạc Việt Nam (mất năm 1989). Ngày 12 tháng 9 năm 2017 ngày mất nhạc sĩ Thanh Tùng, tác giả bài thơ Thời hoa đỏ (1972), được Nguyễn Đình Bảng phổ nhạc, là một trong những bản tình ca hay nhất của ca khúc Việt Nam thời đổi mới. Bài chọn lọc ngày 12 tháng 9: Chọn giống sắn kháng CMD; Khoai Sắn Lúa Siêu Xanh; Hoàng Thành đến Trúc Lâm; Ngày Hạnh Phúc của em; CIP Peru và khoai Việt; Giấc mơ lành yêu thương; Hoàng Trung Trực đời lính; Hoàng Đình Quang bạn tôi; Một gia đình yêu thương; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-12-thang-9/

          Khoai Sắn Lúa Siêu Xanh
          DẺO THƠM HẠT NGỌC VIỆT
          Hoàng Kim, Hoàng Long và đồng sự

          Hoàng Kim cảm nhận Hoàng Long lời tác giả. Hoàng Long chuyển cho tôi tập tài liệu bài giảng Cây Lương thực Việt Nam để tôi giúp chuẩn thông tin cho những sản phẩm giống cây lương thực nổi bật Giống lúa GSR65, GSR90, giống sắn KM419, giống khoai lang Hoàng Long, HL518 (Nhật Đỏ), HL419 (Nhật tím), Yêu cầu của sản xuất cần những thông tin khoa học thực tiễn chân thực lắng đọng. Dịp ấy, tôi bận đi Quảng Bình, nhưng vì việc này quá cấp thiết, và khi đọc ‘Lời nói đầu’ tôi đã thực sự xúc động . Hoàng Long viết: “Tài liệu mỏng này cung cấp một bằng chứng thực nghiệm mạnh mẽ của chính tác giả và đồng sự sau mười năm nghiên cứu ứng dụng lúa siêu xanh (Green Super Rice) vào thực tiễn sản xuất nông nghiệp Việt Nam, với một số kết quả bước đầu đã được xác định, để chúng tôi tiếp tục sự nghiệp nghiên cứu, giảng dạy, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật mới, bảo tồn phát triển lúa siêu xanh Việt Nam cho thương hiệu gạo Việt Nam. Kính chúc bà con nông dân những vụ mùa thu hoạch bội thu”. Tôi hiểu rõ và thật sự đồng cảm sâu sắc với con tôi về ước mơ, nghị lực, trí tuệ, nổ lực với một ít thành quả bước đầu trên cây lúa cũng như của chính chúng tôi đã trãi nghiệm và thấm hiểu thật rõ ràng mỗi tiến bộ giống cây trồng và kỹ thuật công nghệ thâm canh thì gian khổ đến đâu. Dẻo thơm ngọc cho đời Đắng lòng thương vị mặn;xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/deo-thom-hat-ngoc-viet/

          LÚA SIÊU XANH VIỆT NAM
          Giống tốt và kỹ thuật thâm canh
          TS. Hoàng Long và đồng sự


          Lúa Siêu Xanh Việt Nam giống tốt và kỹ thuật thâm canh là khâu trọng yếu, đầu tiên để cải tiến chuỗi giá trị sản phẩm lúa gạo Việt Nam, bảo tồn và phát triển bền vững ngành lúa gạo, thích ứng với biến đổi khí hậu, thích hợp với các vùng sinh thái nông nghiệp Việt Nam. Thủ tướng Chính phủ Việt Nam khẳng định tầm nhìn, cơ chế, chính sách mới nhằm khuyến khích đầu tư vào nông nghiệp và nông thôn tại Nghị định 57/2018 / ND-CP. Theo đó, trục sản phẩm chính nhắm đến các sản phẩm chính quốc gia, trong khi lúa gạo vẫn tiếp tục là ngành chính của nông nghiệp Việt Nam, giá đỡ của an sinh xã hội và phát triển kinh tế, là sinh kế chính của vùng nông thôn rộng lớn, lao động và việc làm. Chuỗi giá trị sản phẩm lúa gạo ở cấp tỉnh cần đủ lớn, liên kết các khu vực nguyên liệu thô với các thương hiệu, ứng dụng nông nghiệp công nghệ cao và đào tạo nguồn nhân lực. Mục tiêu hướng tới sự đáp ứng tốt nhất chất lượng cuộc sống của người lao động, đạt hiệu quả cao trong tăng trưởng kinh tế, bảo vệ môi trường, tiến bộ và công bằng xã hội. Mục đích của cuốn sách này là nhằm cung cấp thông tin về các kết quả nghiên cứu đã được xác định rõ ràng để giúp người nông dân nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả sản xuất lúa gạo đi đôi với việc bảo vệ đất đai và môi trường. Sách được thiết kế như một cẩm nang nghề lúa gạo cần thiết cho các nhà nghiên cứu, cán bộ khuyến nông, cán bộ tổ chức phi chính phủ làm việc về phát triển nông nghiệp, cũng như các hộ nông dân trồng lúa quy mô nông hộ sản xuất lớn và nhỏ. Tài liệu nhỏ này cung cấp một hông tin tham khảo kỹ lưỡng về thực hành sản xuất lúa thân thiện môi trường. Từ việc trình bày ngắn gọn tầm quan trọng lúa gạo trên thế giới và Việt Nam; sản xuất tiêu thụ lúa gạo trên thế giới và Việt Nam; thành phần dinh dưỡng và giá trị kinh tế lúa gạo; nguồn gốc vùng phân bố và phân loại cây lúa; Sinh học cây lúa: Đặc điểm thực vật học cây lúa (rễ, thân, lá, hoa, hạt) Các giai đoạn sinh trưởng phát triển của cây lúa Đặc điểm sinh lý của ruộng lúa năng suất cao; Khí hậu và đất lúa, tầm quan trọng của nó trong khu vực để đề xuất chi tiết về quản lý đất nước và cây trồng, giống mới và kỹ thuật thâm canh lúa. Tài liệu mỏng này cung cấp một bằng chứng thực nghiệm mạnh mẽ của chính tác giả và đồng sự sau mười năm nghiên cứu ứng dụng lúa siêu xanh (Green Super Rice) vào thực tiễn sản xuất nông nghiệp Việt Nam, với một số kết quả bước đầu đã được xác định để tiếp tục sự nghiên cứu, giảng dạy, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật mới, bảo tồn phát triển lúa siêu xanh Việt Nam cho thương hiệu gạo Việt. Kính chúc bà con nông dân những mùa thu hoạch bội thu.

          Lúa Siêu Xanh Việt Nam
          CÂY LÚA VÀ HẠT GẠO
          Lời ngỏ cho tập sách mỏng


          Hoàng Kim nói với
          Hoang Long, Nguyễn Văn Phu, Nguyễn Thị Trúc Mai, Nguyễn Đức Thắng, Nguyễn Trọng Tùng và những đồng sự thân thiết:

          Tôi mắc nợ ý tưởng “Nấu cơm” của một người bạn nên hôm nay tạm đưa lên một hình để trả lời cho một mục trong chùm bài viết “Lúa Siêu Xanh Việt Nam” và ” Con đường lúa gạo Việt Nam “. Anh Nam Sinh Đoàn viết như vầy: “Ngoài đồng giống lúa không thuần, nhà nông lười khử giống bị lẫn, giống dại. Cộng với nhà lái mua vào để lẫn, hoặc cố tình pha lẫn lấy lời. Ai đời trộn lẫn hột dài với hột hơi tròn, gạo dẽo với gạo cứng cơm, gạo cũ với gạo mới, … Chính vì vậy mà nồi cơm nào cũng chỗ nhão chỗ khô, hạt mềm nhẽo cạnh hạt còn tim bột. (Chưa kể phun thêm hương liệu, chất chống mốc mọt,…thay đổi cả đặc tính hạt gạo khi đun nấu). Nhiều năm làm lúa với anh Hồ Quang Cua, mới có dịp học hỏi về việc làm giống, giữ đặc trạng của từng giống, cách thức trồng trọt – thu hoạch – tồn trữ – xay xát – lựa lọc – bao bì,…cả chục việc đòi hỏi phải chắc tay. Thế mà khi thí nghiệm trên bàn của nhóm chuyên gia còn lòi ra bao thứ khác: thời gian ngâm, tỉ lệ nước, thời gian đun và cách đun nấu, … Ví dụ, với cùng một thứ gạo, nhưng có dòng nở ít, thì chỉ 70-71% nước. Loại nào nở cơm thì ngâm trước 15 phút, loại nở búp chỉ cần mươi phút là được. Lại còn tùy loại gạo, để ăn xào với rau, gia vị cho có màu mùi như kiểu châu Âu thì nấu bằng nồi hơi như nồi hong. Để còn làm cơm xào, cơm chiên thì chớ ngâm nhiệt, tức là ngâm gạo, đun nước vừa nóng chừng 50 độ hãy cho gạo vào theo đúng tỉ lệ, mới đạt yêu cầu. Câu nói: Cơm lành canh ngọt tưởng dễ mà khó thay”. Tôi (Hoàng Kim) trả lời: Thưa anh, xin hãy nhìn tấm ảnh, từ hạt gạo đến bát cơm chỉ là một phần ngắn trong chuỗi “hoa lúa, bùn, hột lúa, cây lúa, hạt gạo, bát cơm”. Hai khâu khó nhất và nhọc nhằn nhất là hoa lúa và bùn.

          KHOAI SẮN LÚA SIÊU XANH

          CÂY LƯƠNG THỰC VIỆT NAM
          Hoàng Kim, Hoàng Long (chủ biên) và đồng sự
          http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlong

          Bài viết mới (đọc thêm, ngoài giáo trình, bài giảng)

          Cách mạng sắn Việt Nam
          Chọn giống sắn Việt Nam
          Chọn giống sắn kháng CMD
          Giống sắn KM419 và KM440
          Mười kỹ thuật thâm canh sắn
          Sắn Việt bảo tồn phát triển
          Sắn Việt Lúa Siêu Xanh
          Sắn Việt Nam bài học quý
          Sắn Việt Nam sách chọn
          Sắn Việt Nam và Howeler
          Sắn Việt Nam và Kawano
          Sắn Việt và Sắn Thái
          Quản lý bền vững sắn châu Á
          Cassava and Vietnam: Now and Then

          Lúa siêu xanh Việt Nam
          Giống lúa siêu xanh GSR65
          Giống lúa siêu xanh GSR90
          Gạo Việt và thương hiệu
          Hồ Quang Cua gạo ST
          Cơm Niêu Vàng Gạo Đông A
          Con đường lúa gạo Việt
          Chuyện cô Trâm lúa lai
          Chuyện thầy Hoan lúa lai
          Lúa C4 và lúa cao cây
          Lúa sắn Cămpuchia và Lào
          Lúa sắn Việt Châu Phi
          Lúa Việt tới Châu Mỹ

          Giống ngô lai VN 25-99
          Giống lạc HL25 Việt Ấn


          Giống khoai lang Việt Nam
          Giống khoai lang HL518
          Giống khoai lang HL491
          Giống khoai Hoàng Long
          Giống khoai lang HL4
          Giống khoai Bí Đà Lạt

          Việt Nam con đường xanh
          Việt Nam tổ quốc tôi
          Vườn Quốc gia Việt Nam
          Nông nghiệp công nghệ cao
          Nông nghiệp sinh thái Việt
          Nông nghiệp Việt trăm năm
          IAS đường tới trăm năm
          Viện Lúa Sao Thần Nông
          Hoàng Thành đến Trúc Lâm
          Ngày Hạnh Phúc của em
          Có một ngày như thế

          Thầy bạn là lộc xuân
          Thầy bạn trong đời tôi
          Sóc Trăng Lương Định Của
          Thầy Quyền thâm canh lúa
          Borlaug và Hemingway
          Thầy Luật lúa OMCS OM
          Thầy Tuấn kinh tế hộ
          Thầy Tuấn trong lòng tôi
          Thầy Vũ trong lòng tôi
          Thầy lúa xuân Việt Nam
          Thầy Ngoạn Hồ Núi Cốc
          Thầy bạn Vĩ Dạ xưa
          Thầy Dương Thanh Liêm
          Thầy Hiếu Đêm Giáng Sinh
          Phạm Trung Nghĩa Viện Lúa
          Phạm Quang Khánh Hoa Đất
          Phạm Văn Bên Cỏ May

          24 tiết khí nông lịch
          Nông lịch tiết Lập Xuân
          Nông lịch tiết Vũ Thủy
          Nông lịch tiết Kinh Trập
          Nông lịch tiết Xuân Phân
          Nông lịch tiết Thanh Minh
          Nông lịch tiết Cốc vũ
          Nông lịch tiết Lập Hạ
          Nông lịch tiết Tiểu Mãn
          Nông lịch tiết Mang Chủng
          Nông lịch tiết Hạ Chí
          Nông lịch tiết Tiểu Thử
          Nông lịch tiết Đại Thử
          Nông lịch tiết Lập Thu
          Nông lịch Tiết Xử Thử
          Nông lịch tiết Bạch Lộ
          Nông lịch tiết
          Thu Phân
          Nông lịch tiết
          Hàn Lộ
          Nông lịch tiết
          Sương Giáng
          Nông lịch tiết Lập Đông
          Nông lịch tiết Tiểu tuyết
          Nông lịch tiết Đại tuyết
          Nông lịch tiết giữa Đông
          Nông lịch Tiết Tiểu Hàn
          Nông lịch tiết Đại Hàn

          Nhà sách Hoàng Gia

          Video Cây Lương thực chọn lọc :

          Cây Lương thực Việt NamChuyển đổi số nông nghiệp, Học không bao giờ muộnCách mạng sắn Việt Namhttps://youtu.be/81aJ5-cGp28; Mười kỹ thuật thâm canh sắn : Cassava in Vietnam Save and Grow 1Daklak; Cassava in Vietnam: Save and Grow 2Daklak; Cassava in Vietnam: Save and Grow 3Daklak; Giống sắn KM410 và KM440 ở Phú Yên https://youtu.be/XDM6i8vLHcI; Giống sắn KM419, KM440 ở Đăk Lăk https://youtu.be/EVz0lIJv2N4; Giống sắn KM419, KM440 ở Tây Ninh https://youtu.be/XMHEa-KewEk; https://youtu.be/kjWwyW0hkbU; https://youtu.be/9mZHm08MskE; Trồng sắn KM419, KM98-5, KM98-1 ở Căm pu chia https://youtu.be/TpTIxv9LaFQ; Ngăn chặn lây lan CWBD bệnh chổi rồng ở Căm pu chia https://youtu.be/0gNY0KZ2nyY; Trồng khoai lang ở Hàn Quốc https://youtu.be/J_6xW3j47Sw; Trồng lúa đặc sản ở Trung Quốc https://youtu.be/rJSZfrJFluw; Trồng khoai lang tím ở Trung Quốc https://youtu.be/0CHOG3r64xs;Trồng và chế biến khoai tây ở Trung Quốc https://youtu.be/0gNY0KZ2nyYv; Làm măng ngọt giá cao ở Trung Quốc https://youtu.be/i1oFFqFMlvI; Nghệ thuật làm vườn “The life of okra and bamboo fence” https://youtu.be/kPIzBRPezY4

          CHỌN GIỐNG SẮN KHÁNG CMD
          Nguyễn Thị Trúc Mai, Hoàng Kim, Hoàng Long, và đồng sự (*)
          Selection of cassava varieties resistant to CMD

          Ở Việt Nam, giống sắn KM419 và KM440 đến nay là phổ biến nhất, sau cả áp lực nặng của bệnh khảm lá CMD và bệnh chổi rồng CWBD.
          https://youtu.be/XDM6i8vLHcIhttps://youtu.be/kjWwyW0hkbU chúng tôi khuyên nông dân nên trồng các loại giống sạch bệnh KM568, KM535, KM419, KM440, KM94, KM140, KM98-1, HN5, HLS14 để khảo nghiệm DUS và VCU. Sắn Việt Nam bảo tồn và phát triển bền vững: xem thêm https://hoangkimlong.wordpress.com/category/chon-giong-san-khang-cmd/

          In  Vietnam, up to now, cassava varieties KM419 and KM440 are popular,  after even CMD and CWBD, https://youtu.be/XDM6i8vLHcI and https://youtu.be/kjWwyW0hkbU planting clean KM568, KM535, KM419, KM440, KM94, KM140, KM98-1, HN5, HLS14 for DUS and VCU trials remains our advice to farmer at this stage.  Cassava conservation and sustainable development in Vietnam: https://youtu.be/XMHEa-KewEk; https://youtu.be/5l9xPES76fU;

          Bệnh virus khảm lá CMD từ ban đầu Tây Ninh (2017) lan rộng trên 15 tỉnh thành Việt Nam (2018) là thách thức của các nhà khoa học. “V/v sử dụng giống sắn KM419 trong sản xuất” đã được Bộ NNPTNT xác định tại công văn chỉ đạo của Bộ Nông nghiệp Phát triển Nông thôn, Cục Bảo vệ Thực vật số 1068/ BVTV ngày 3 tháng 5 năm 2019. Giống sắn KM419 có năng suất tinh bột cao nhất và diện tích trồng phổ biến nhất Việt Nam. Giống sắn KM419 chống chịu trung bình bệnh CMD và bệnh chổi rồng (CWBD), trong điều kiện áp lực 2 bệnh này ở Việt Nam hiện nay là rất cao. Sự cần thiết cXem tiếp >>

            Dạy và học 11 tháng 9(11-09-2021)


          ThapTuDo

          DẠY VÀ HỌC 11 THÁNG 9
          Hoàng Kim
          CNM365 Tình yêu cuộc sốngNam Mỹ trong mắt tôi; Nhiều bạn tôi ở đấy; Châu Mỹ chuyện không quên; Sóc Trăng Lương Định Của; Trung Quốc một suy ngẫm; Nguyễn Trãi kiệt tác thơ văn; Hoa Bình Minh Hoa Lúa; Câu chuyện ảnh tháng Chín; Lúa siêu xanh Việt Nam; Hoàng Trung Trực đời lính; Một gia đình yêu thương; Ông bà và con cháu; Ông già với các con; Ngày 11 tháng 9 năm 2001 Sự kiện 11 tháng 9. Các phần tử Al-Qaeda thực hiện các vụ tiến công tự sát nhằm vào các mục tiêu tại khu vực thành phố New York và Washington, D.C. tại Hoa Kỳ, làm 2.974 người thiệt mạng và 24 người liệt kê mất tích xem như đã chết Theo phúc trình của Ủy ban Quốc gia về vụ Khủng bố tại Hoa Kỳ, 19 không tặc đã biến những chiếc máy bay thành những quả bom tự sát lớn nhất trong lịch sử. Vụ khủng bố ngày 11 tháng 9 là một trong những sự kiện quan trọng đáng chú ý nhất trong thế kỷ 21, và là một trong những vụ khủng bố gây thiệt hại nhiều nhất về tất cả các mặt kinh tế, xã hội, chính trị, văn hóa, và quân sự của lịch sử Hoa Kỳ cũng như những nơi khác trên thế giới. Tháp Tự do (hình) là Tòa Trung tâm Thương mại Thế giới được khởi công vào ngày 27/4/2006, tọa lạc gần vị trí cũ của Tòa tháp đôi, trở thành tòa nhà cao nhất tại Mỹ khi hoàn thành. Ngày 11 tháng 9 năm 1792,  Viên kim cương Hope xanh đen saphir đẹp lộng lẫy phi thường và lớn nhất thế giới, cùng những châu báu vương thất bị đánh cắp trong tình hình hỗn loạn của Cách mạng Pháp. Hope lưu lạc với lời nguyền và nay được trưng bày tại Thủ đô Washington D.C của Mỹ trong Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Smithsonian với giá khoảng 250 triệu USD. Ngày 11 tháng 9 năm 1961, Quỹ Quốc tế Bảo vệ Thiên nhiên mở cửa văn phòng đầu tiên tại Thụy Sỹ. Bài chọn lọc ngày 11 tháng 9: Nam Mỹ trong mắt tôi; Nhiều bạn tôi ở đấy; Châu Mỹ chuyện không quên; Sóc Trăng Lương Định Của; Trung Quốc một suy ngẫm; Nguyễn Trãi kiệt tác thơ văn; Hoa Bình Minh Hoa Lúa; Câu chuyện ảnh tháng Chín; Lúa siêu xanh Việt Nam; Hoàng Trung Trực đời lính; Một gia đình yêu thương; Ông bà và con cháu; Ông già với các con; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.comhttp://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-11-thang-9/

          KiminCIATColombia2003

          NAM MỸ TRONG MẮT TÔI
          Hoàng Kim


          Rừng mưa ẩm Amazon; sắn khoai đậu ngô bí, Không gian thật trong lành; Tộc người Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha ưu thế; Lịch sử, địa chính trị, văn hóa và sắc tộc; sân sau của Hoa Kỳ;
          Đồng thuận Washington; “Thủy triều hồng” ngày nay;Thế sự bàn cờ vây; Thế giới trong mắt ai;

          Nam Mỹ và Việt Nam xa quá ! Tôi cơ may qua đó thầm nghĩ thật hiếm có, đời ít dịp trở lại. Thế nhưng, người đồng niên với tôi, con sư tử phương Đông thức dậy, lại đang liên kết “
          Thủy triều hồng“, làm sân sau Đồng thuận Washington nay không còn sự yên tĩnh nữa.

          Kim Notes ghi chú ấn tượng
          Châu Mỹ chuyện không quên là ký ức lắng đọng, tôi xin được lưu lại cho chính mình và bạn; Vận mệnh và may mắn giúp cho ta cơ hội. Nhớ bạn nhớ châu Phi là minh chứng kỳ lạ cho lời nguyền từ Nam Mỹ, phúc lành sử thi linh cảm tạo duyên may; xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/nam-my-trong-mat-toi/

          NHIỀU BẠN TÔI Ở ĐẤY
          Hoàng Kim


          “Được mùa chớ phụ ngô khoai”
          Hoàng Kim thơ cho con, tôi đã từng viết: “Lớn lên Con sẽ hỏi Cha/ Sao Cha đặt tên Con là Hoàng Long?/Con ơi! /Tên Con là khúc hát yêu thương / Của lòng Cha Mẹ/ Cha Mẹ thương nhau/ Vì qúy trọng những điều ân nghĩa/ Sự nghiệp và tình yêu /Những ngày gian khổ/ Cùng nghiên cứu củ sắn, củ khoai / Con là giống khoai Hoàng Long/ Tỏa rộng nhiều vùng đất nước/ Dẫu không là trái thơm qủa ngọt /Nhưng là niềm vui người nghèo / Để Cha nhớ về quê hương / Khoai sắn bốn mùa vất vả/ Để Cha nhớ những ngày gian khổ /Năm năm / Cơm ngày một bữa/ Khoai sắn không phụ lòng /Để Cha nhớ về / Lon khoai nghĩa tình / Nắm khoai bè bạn / Gom góp giúp Cha ăn học /Khi vào đời /Cha gặp Mẹ con / Cho nên:/ Cha muốn Con /Trước khi làm những điều lớn lao / Hãy biết làm củ khoai, củ sắn / Hãy hướng tới những người lao động / Nhớ quê nghèo cắt rốn, chôn rau”. CIP khoai tây khoai lang / Peru và Philippines/ Nam Mỹ trong mắt tôi / Nhiều bạn tôi ở đấy;. Kim Notes ghi chú tuyển chọn hình ảnh nông nghiệp sinh thái lịch sử văn hóa du lịch ; xem tiếp http://hoangkimlong.wordpress.com/category/nhieu-ban-toi-o-day/.

          CHÂU MỸ CHUYỆN KHÔNG QUÊN
          Hoàng Kim
          Tôi đã nhiều lần tới châu Mỹ, tới cả Trung Mỹ, Bắc Mỹ và Nam Mỹ. Đó là kinh nghiệm sống quý giá cho sự nghiên cứu và giảng dạy khoa học cây trồng, đặc biệt là cây lương thực. Tôi nhớ thầy Norman Boulaug và nhiều thầy bạn ở nơi ấy, nhớ đất. nhớ người. Tôi có thói quen chép lại ghi chú ngắn và ghi hình về kỷ niệm sau mỗi chuyến đi, lần này mới có dịp hệ thống lại. “Châu Mỹ chuyện không quên” lắng đọng trong lòng tôi những ký ức sâu sắc về công việc chuyên môn khoa học cây trồng, cây lương thực yêu thích, kết nối với đất nước, con người, bạn hữu, và nền văn hóa châu Mỹ. Tôi kể từ chuyến đi Mỹ lần đầu tiên năm 1988, cho tới nhiều lần về sau lắng đọng chuỗi trãi nghiệm thân thương với thầy bạn ở bên kia bờ đại dương. Ba nơi chính của châu Mỹ mà tôi may mắn được tới, đó là vùng vật liệu di truyền ở ba trung tâm khởi nguyên cây trồng toàn cầu của chúng tại Châu Mỹ gồm Trung tâm ngô và lúa mì quốc tế CIMMYT ở Mê hi cô. Trung tâm khoai lang và khoai tây quốc tế CIP ở Peru. Trung tâm Quốc tế Nông nghiệp Nhiệt đới CIAT về sắn, đậu thực phẩm, lúa gạo châu Mỹ ở Côlômbia. Những điểm đến này tương tự như Viện Nông nghiệp Nhiệt đời Quốc tế IITA ở Nigeria châu Phí, Viện Nghiên cứu Cây trồng Quốc tế cho vùng Nhiệt đới Bán khô cằn ICRISAT ở Ấn Độ, và Viện Lúa quốc tế IRRI ở Philippines. Những chốn ấy cũng thật thân thuộc với tôi. Tại đấy sách chuyên khảo cây trồng, tạp chí, trang web, video thật phong phú, sâu sắc và thật đáng ao ước. Cũng từ đấy mà tôi may mắn được đi thăm thú rộng ra các vùng lân cận theo điều kiện và hoàn cảnh của mỗi chuyến đi.

          “Châu Mỹ chuyện không quên” là các bài học tình yêu cuộc sống trãi nghiệm cá nhân của các chuyến đi thực tế, với mục đích cung cấp các điểm nhấn tư liệu nông nghiệp sinh thái về cây lương thực châu Mỹ cho bạn đọc. Tác phẩm gồm 36 đường dẫn, tựa đề thơ ngũ ngôn, để dễ đọc dễ nhớ, ảnh chi tiết bấm link.

          Mục đích sau cùng của DẠY VÀ HỌC là thấu suốt bản chất sự vật, có lời giải đúng và LÀM được việc.
          Lời Thầy dặn thung dung.

          Châu Mỹ chuyện không quên
          Hoàng Kim

          Niềm tin và nghị lực
          Về lại mái trường xưa
          Hưng Lộc nôi yêu thương
          Năm tháng ở trời Âu

          Vòng qua Tây Bán Cầu
          CIMMYT tươi rói kỷ niệm
          Mexico ấn tượng lắng đọng
          Lời Thầy dặn không quên

          Ấn tượng Borlaug và Hemingway
          Con đường di sản Lewis Clark
          Sóng yêu thương vỗ mãi
          Đối thoại nền văn hóa

          Truyện George Washington
          Minh triết Thomas Jefferson
          Mark Twain nhà văn Mỹ
          Đi để hiểu quê hương

          500 năm nông nghiệp Brazil
          Ngọc lục bảo Paulo Coelho
          Rio phố núi và biển
          Kiệt tác của tâm hồn

          Giấc mơ thiêng cùng Goethe
          Chuyện Henry Ford lên Trời
          Bài đồng dao huyền thoại
          Bảo tồn và phát triển

          Sắn Việt Nam và Kawano
          Sắn Việt Nam và Howeler
          Một ngày với Hernán Ceballos
          CIAT Colombia thật ấn tượng
          Martin Fregenexa mà gần

          Châu Mỹ chuyện không quên
          CIP khoai tây khoai lang
          Nam Mỹ trong mắt ai
          Nhiều bạn tôi ở đấy

          Machu Picchu di sản thế giới
          Mark Zuckerberg và Facebook
          Lời vàng Albert Einstein
          Bill Gates học để làm

          Thomas Edison một huyền thoại
          Toni Morrison nhà văn Mỹ
          Walt Disney bạn trẻ thơ
          Lúa Việt tới Châu Mỹ.

          CIAT COLOMBIA THẬT ẤN TƯỢNG

          Ở Colombia, tôi ấn tượng nhất ba nơi là 1) CIAT tại Cali, 2) sông Magdalena và đền thần Mặt trời, với dãy núi Andes và nhiều đồn điền cà phê; 3) thủ đô Bogota tại Zona Rosa nổi tiếng với các nhà hàng và cửa hiệu, có Cartagena một khu phố cổ trên bờ biển Caribê gợi nhớ biển Nha Trang của Việt Nam. Tôi thích nhất CIAT tại Cali là vườn sắn lai. Tôi nhiều ngày luôn cặm cụi ở đấy. Tôi đã kể lại trong bài “Nhớ châu Phi” lời nhắn của giáo sư tiến sĩ Martin Fregene: “Kim thân. Mình hiểu rằng CMD, bệnh virus khảm lá sắn, đã vô tình được du nhập vào Việt Nam. Mình khuyến khích bạn nhập các giống sắn nuôi cấy mô MNG-19, MNG-2 và 8-9 C-series từ CIAT để đánh giá chúng về hàm lượng tinh bột và năng suất bột. Nếu hàm lượng tinh bột và năng suất tinh bột của những giống sắn kháng bệnh CMD này đủ cao, hãy nhân lên và phân phối giống sắn mới này đến các khu vực bị ảnh hưởng. Hãy cho mình biết nếu mình có thể trợ giúp thêm”. (Dear Kim, I understand that CMD has been accidentally introduced into Vietnam. I encourage you to import tissue culture plants of MNG-19, MNG-2, and the 8-9 C-series from CIAT and evaluate them for starch content. If they are high enough, multiply and distribute to affected areas. Let me know if I can be if more help). Tôi đã trả lời: “Cám ơn bạn. Tôi đã mang nguồn gen giống sắn kháng CMD về Việt Nam rồi, nay mình đang cùng các cộng sự của mình lai tạo giống kháng này với những giống sắn ưu tú năng suất tinh bột cao của Việt Nam”.

          MACHU PICCHU DI SẢN THẾ GIỚI

          Bạn hỏi tôi ấn tượng nhất điều gì ở Nam Mỹ?. Tôi ấn tượng nhất là Machu Picchu di sản thế giới UNESCO ở Peru, nơi được Tổ chức New7Wonders chọn là một trong bảy kỳ quan thế giới mới. Đó là di sản nền văn minh Inca, người da đỏ Inca  và thần Mặt trời. Đấy thực sự là một kho báu kỳ bí vĩ đại tâm linh khoa học kỳ bí chưa thể giải thích được đầy đủ. Đền thờ thần Mặt trời tựa lưng vào cột chống trời “Cổ Sơn”, theo tiếng quechua của người Inca; thỉnh thoảng được gọi là “Thành phố đã mất của người Inca” một khu tàn tích Inca thời tiền Columbo trong tình trạng bảo tồn tốt ở độ cao 2.430 m trên một quả núi có chóp nhọn tại thung lũng Urubamba ở Peru, khoảng 70 km phía tây bắc Cusco. Tại thủ đô Lima có một đường bay nội địa dẫn tới Cusco. CIP gần trung tâm Lima và sân bay nên bạn rỗi hai ngày là có thể đi thăm được. Tất cả các chuyến bay tới Machu Picchu đều xuất phát từ Cusco.

          Châu Mỹ chuyện không quên lắng đọng trong tôi nhiều ký ức sâu sắc về  đất nước, con người, bạn hữu, nền văn hóa.ở đó. Tôi ghi chép được ít bài viết sẽ sắp xếp và xâu chuỗi lại, Biên khảo này có mục đích nhằm cung cấp thông tin,  bài học kinh nghiệm tình yêu cuộc sống cho bạn đọc, đặc biệt là các bạn trẻ nghèo hiếu học có thể chọn được một số tri thức bổ ích và bài học quý cho riêng mình.

          MỘT NGÀY VỚI HERNAN CEBALLOS
          Hoàng Kim

          Những ảnh này ghi lại
          Châu Mỹ chuyện không quên tình bạn của chúng ta, Một ngày với Hernán Ceballos, tại vườn nhà bạn ở Colombia, thiên nhiên trong lành, thung dung cùng với cỏ hoa, ngày chủ nhật yêu thích năm 2003..

          Một ngày với Hernán Ceballos; Châu Mỹ chuyện không quên; Đi để hiểu quê hương; (xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/mot-ngay-voi-hernan-ceballos/


          SÓC TRĂNG LƯƠNG ĐỊNH CỦA
          Hoàng Kim

          Mai Hạc vầng trăng soi
          Sóc Trăng Lương Định Của
          Chuyện thầy Tôn Thất Trình
          Thầy Quyền thâm canh lúa

          Thầy lúa Bùi Bá Bổng
          Lúa siêu xanh Hòa Bình
          Lúa siêu xanh Việt Nam
          Tính sáng thấm
          Hoàng Kim.

          Cánh cò bay trong mơ
          Con đường lúa gạo ViệtXem tiếp >>

            Dạy và học 10 tháng 9(10-09-2021)


          DẠY VÀ HỌC 10 THÁNG 9
          Hoàng Kim
          CNM365 Tình yêu cuộc sốngNguyễn Trãi kiệt tác thơ văn; Nguyễn Trọng Tạo đồng dao; Hoàng Trung Trực đời lính; Minh triết cho mỗi ngày; Châu Mỹ chuyện không quên; Trung Quốc một suy ngẫm; Bình sinh Tập Cận Bình; Trung Quốc thời ông Tập; Nhớ lớp học trên đồng; Đền Ngọc Sơn Hồ Gươm; Trạng Trình; Ngày 10 tháng 9 năm 1385, ngày sinh Lê Lợi, vua khai sáng nhà Hậu Lê, lãnh tụ khởi nghĩa chống quân Minh. Ngày 10 tháng 9 năm 1960, Lê Duẩn được bầu làm Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương của Đảng Lao động Việt Nam, ông giữ chức vụ này đến năm 1986. Ngày 10 tháng 9 năm 1823, Simón Bolívar nhà cách mạng nổi tiếng người Venezuela, trở thành tổng thốngPeru. Bài chọn lọc ngày 10 tháng 9 Nguyễn Trãi kiệt tác thơ văn; Nguyễn Trọng Tạo đồng dao; Hoàng Trung Trực đời lính; Minh triết cho mỗi ngày; Châu Mỹ chuyện không quên; Trung Quốc một suy ngẫm; Bình sinh Tập Cận Bình; Trung Quốc thời ông Tập; Nhớ lớp học trên đồng; Đền Ngọc Sơn Hồ Gươm; Trạng Trình; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-10-thang-9/

          NGUYỄN TRÃI KIỆT TÁC THƠ VĂN
          Hoàng Kim

          Nguyễn Trãi đã có nhiều tôn vinh, nhưng như lời giáo sư Phan Huy Lê đã nhận xét trong bài “Nguyễn Trãi, 560 năm sau vụ án Lệ Chi Viên“: ”Cho đến nay, sử học còn mang một món nợ đối với lịch sử, đối với Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ là chưa khám phá và đưa ra ánh sáng những con người cùng với những âm mưu và hành động lợi dụng việc từ trần đột ngột của vua Lê Thái Tông ở Lệ Chi Viên để vu oan giá họa dựng nên vụ án kết liễu thảm khốc cuộc đời của một anh hùng vĩ đại, một nữ sĩ tài hoa, liên lụy đến gia đình ba họ. Với tình trạng tư liệu quá ít ỏi lại bị chính sử che đậy một cách có dụng ý, thì quả thật khó hi vọng tìm ra đủ chứng cứ để phá vụ án bí hiểm này. Nhưng lịch sử cũng rất công bằng. Với thời gian và những công trình nghiên cứu của nhiều thế hệ các nhà sử học, nhà văn học, nhà tư tưởng, nhà văn hóa…, lịch sử càng ngày càng làm sáng rõ và nâng cao nhận thức về con người và sự nghiệp của Nguyễn Trãi, về những công lao, cống hiến, những giá trị đích thực của ông trong lịch sử cứu nước và dựng nước, lịch sử văn hóa của dân tộc”. Dẫu vậy, trong tất cả những tư liệu lịch sử để lại thì tư liệu sáng giá nhất, rõ rệt nhất, sâu sắc nhất để minh oan cho Người lại chính là Những kiệt tác thơ văn Nguyễn Trãi, “Họa phúc có nguồn đâu bổng chốc, Anh hùng để hận mãi nghìn năm” “Số khó lọt vành âu bởi mệnh.Văn chưa tàn lụi cũng do trời “. Bài thơ thần “Yên Tử “của Nguyễn Trãi “Non thiêng Yên Tử đỉnh kỳ phong. Trời mới ban mai đã rạng hồng. Vũ trụ mắt soi ngoài biển cả. Nói cười lồng lộng giữa không trung…” (thơ Nguyễn Trãi trên Yên Tử, hình ảnh và cẩn dịch Hoàng Kim). Những kiệt tác thơ văn Nguyễn Trãi lưu bài “Yên Tử” “Ngôn chí,” “Quan hải”, “Oan than” của Người kèm cảm nhận “Trời ban tối biết về đâu?” của Vũ Bình Lục; xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/nguyen-trai-kiet-tac-tho-van/

          Nguyễn Trãi là bậc anh hùng dân tộc, nhà chính trị kiệt xuất và danh nhân văn hóa lỗi lạc của dân tộc Việt, Nguyễn Trãi hiệu là Ức Trai, người làng Nhị Khê, huyện Thượng Phúc nay là huyện Thường Tín, Hà Nội, sinh năm 1380 , mất năm 1442,. cha là Nguyễn Phi Khanh, nguyên quán làng Chi Ngại , huyện Phương So8n (Chí Linh, Hải Dương) mẹ là Trần Thị Thái, con gái của Trần Nguyên Đán. Nguyễn Trãi thi đỗ Thái học sinh (tiến sĩ) năm 1400, cha con đều từng làm quan dưới triều Hồ. Sau khi Việt Nam bị rơi vào sự cai trị của nhà Minh, Nguyễn Trãi tham gia vào cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo. Ông trở thành mưu sĩ bày tính mưu kế về mọi mặt chính trị, quân sự, ngoại giao của nghĩa quân Lam Sơn. Ông là khai quốc công thần của nhà Hậu Lê, được ban quốc tính, năm 1428 viết Bình Ngô đại cáo thiên cổ hùng văn, năm 1433 ông đã viết văn bia Vĩnh Lăng nổi tiếng khi Lê Lợi mất. Tuy nhiên, năm 1442, toàn thể gia đình Nguyễn Trãi bị tru di tam tộc trong vụ án Lệ Chi Viên. Năm 1464, vua Lê Thánh Tông xuống chiếu giải oan cho ông. Ức Trai tâm thượng quang Khuê tảo (Lòng Ức Trai sáng như sao Khuê).

          Dưới đây là năm bài thơ trong Những kiệt tác thơ văn Nguyễn Trãi và cảm nhận “Trời ban tối biết về đâu?” của Vũ Bình Lục

          YÊN TỬ

          Nguyên văn chữ Hán

          題 安子山花煙寺

          安山山上最高峰,
          纔五更初日正紅。
          宇宙眼窮滄海外,
          笑談人在碧雲中。
          擁門玉槊森千畝,
          掛石珠流落半空。
          仁廟當年遺跡在,
          白毫光裏睹重瞳。

          Ðề Yên Tử sơn Hoa Yên tự

          Yên Sơn sơn thượng tối cao phong
          Tài ngũ canh sơ nhật chính hồng
          Vũ trụ nhãn cùng thương hải ngoại
          Tiếu đàm nhân tại bích vân trung
          Ủng môn ngọc sóc sâm thiên mẫu
          Quải thạch châu lưu lạc bán không
          Nhân miếu đương niên di tích tại
          Bạch hào quang lý đổ trùng đồng.

          YÊN TỬ

          Đề chùa Hoa Yên, núi Yên Tử
          Nguyễn Trãi

          Non thiêng Yên Tử đỉnh kỳ phong
          Trời mới ban mai đã rạng hồng
          Vũ trụ mắt soi ngoài biển cả
          Nói cười lồng lộng giữa không trung
          Giáo trúc quanh chùa giăng nghìn mẫu
          Cỏ cây chen đá rũ tầng không
          Nhân Tông bảo tháp còn lưu dấu
          Mắt sáng hào quang tỏa ánh đồng

          (Bản dịch của Hoàng Kim)

          Trên dải Yên Sơn đỉnh tuyệt vời
          Đầu canh năm đã sáng trưng rồi
          Mắt ngoài biển cả ôm trời đất
          Người giữa mây xanh vẳng nói cười
          Giáo ngọc quanh nhà giăng vạn khoảnh
          D4i châu treo đá rũ lưng trời
          Nhân Tông còn miếu thời nao đó
          Thấy rõ đôi ngươi giữa ánh ngời (1)

          (1) Tương truyền vua Trần Nhân Tông mắt có hai con ngươi
          (Bản dịch của Khương Hữu Dụng)

          Trên núi Yên Tử chòm cao nhất
          Vừa mới canh năm đã sáng trời
          Tầm mắt bao trùm nơi biển tận
          Từng mây nghe thoảng tiếng ai cười
          Rừng vươn giáo dựng tre nghìn mẫu
          Đá rũ rèm buông nhũ nửa vời
          Miếu cổ Nhân Tông hằng để dấu
          Mắt còn trắng tỏa ánh đôi ngươi.

          (Bản dịch của Lê Cao Phan)

          Trên non Yên Tử chòm cao nhất,
          Trời mới canh năm đã sáng tinh.
          Vũ trụ mắt đưa ngoài biển cả,
          Nói cười người ở giữa mây xanh.
          Muôn hàng giáo ngọc tre gài cửa,
          Bao dãi tua châu đá rủ mành.
          Dấu cũ Nhân tôn còn vẫn đấy,
          Trùng đồng thấy giữa áng quang minh.

          (Bản dịch của nhóm Đào Duy Anh)
          Nguồn: Nguyễn Trãi toàn tập, Đào Duy Anh,
          NXB Khoa học xã hội, 1976

          Trên non Yên Tử ngọn cao nhất
          Chỉ mới canh năm sáng đỏ trời!
          Ngoài vũ trụ xanh màu biển thẳm
          Giữa mây biếc rộn tiếng người cười.
          Cửa cài ngọc dựng, ken nghìn mẫu
          Đá rũ châu rơi, rớt nửa vời!
          Miếu cổ Nhân Tông di tích đó
          Đôi mày sáng trắng rực hai ngươi!

          (Bản dịch của Lâm Trung Phú)

          NGÔN CHÍ

          Am trúc, hiên mai ngày tháng qua
          Thị phi nào đến chốn yên hà
          Cơm ăn dù có dưa muối
          Áo mặc nài chi gấm là
          Nước dưỡng cho thanh, trì thưởng nguyệt
          Đất cày ngõ ải luống ương hoa
          Trong khi hứng động bề đêm tuyết
          Ngâm được câu thần dững dưng ca

          Tà dương bóng ngả thuở giang lâu
          Thế giới đông nên ngọc một bầu
          Tuyết sóc treo cây điểm phấn
          Cõi đông giãi nguyệt in câu.
          Khói chìm thuỷ quốc quyên phẳng
          Nhạn triện hư không gió thâu
          Thuyền mọn còn chèo chẳng khứng đỗ
          Trời ban tối biết về đâu?

          QUAN HẢI

          Nguyên văn chữ Hán

          樁木重重海浪前
          沉江鐵鎖亦徒然
          覆舟始信民猶水
          恃險難憑命在天
          禍福有媒非一日
          英雄遺恨幾千年
          乾坤今古無窮意
          卻在滄浪遠樹烟

          Thung mộc trùng trùng hải lãng tiền
          Trầm giang thiết tỏa diệt đồ nhiên
          Phúc chu thủy tín dân do thủy
          Thị hiểm nan bằng mệnh tại thiên.
          Họa phúc hữu môi phi nhất nhật
          Anh hùng [3] di hận kỷ thiên niên.
          Càn khôn kim cổ vô cùng ý,
          Khước tại thương lang viễn thụ yên.

          Dịch nghĩa : NGẮM BIỂN

          Cọc gỗ lớp lớp trồng trước sóng biển
          Xích sắt ngầm dưới sông cũng vậy thôi.
          Thuyền bị lật mới tin rằng dân là như nước
          Cậy đất hiểm cũng khó dựa, mệnh là ở trời.
          Họa phúc có manh mối không phải một ngày
          Anh hùng để mối hận mấy nghìn năm sau.
          Lẽ của trời đất và xưa nay, thực là vô cùng
          Vẫn là ở chỗ sắc nước bát ngát, cây khói xa vời

          CỬA BIỂN

          Lớp lớp cọc ngăn giữa sóng nhồi
          Thêm ngầm dây sắt – uổng công thôi !
          Lật thuyền, thấm thía dân như nước
          Cậy hiểm, mong manh : mệnh ở trời
          Hoạ phúc có nguồn, đâu bỗng chốc?
          Anh hùng để hận, dễ gì nguôi?
          Xưa nay trời đất vô cùng ý
          Nơi sóng xanh cây khói tuyệt vời

          (Bản dịch của HƯỞNG TRIỀU)

          OAN THÁN

          Nguyên văn chữ Hán

          浮俗升沉五十年
          故山泉石負情緣
          虛名實禍殊堪笑
          眾謗孤忠絕可憐
          數有難逃知有命
          大如未喪也關天
          獄中牘背空遭辱
          金闕何由達寸箋

          Phù tục thăng trầm ngũ thập niên ;
          Cố sơn tuyền thạch phụ tình duyên.
          Hư danh thực họa thù kham tiếu ;
          Chúng báng cô trung tuyệt khả liên.
          Số hữu nan đào tri thị mệnh ;
          Văn như vị táng dã quan thiên.
          Ngục trung độc bối [1] không tao nhục ;
          Kim khuyết hà do đạt thốn tiên ?

          Dịch nghĩa THAN NỔI OAN

          Nổi chìm trong phù tục đã năm chục năm,
          Đành phụ tình duyên với khe và đá của núi cũ.
          Danh hư mà họa thực, rất đáng buồn cười ;
          Lắm kẻ ghét một mình trung, rất đáng thương hại.
          Khó trốn được số mình, biết là vì mệnh ;
          Tư văn như chưa bỏ, cũng bởi ở trời.
          Trong ngục viết ở lưng tờ, khi không bị nhục ;
          Cửa khuyết vàng làm thế nào mà đạt được tờ giấy lên ?

          Dịch Thơ: THAN NỔI OAN:

          Biển tục thăng trầm nữa cuộc đời
          Non xưa suối đá phụ duyên rồi
          Trung côi , ghét lắm, bao đau xót
          Họa thực, danh hư , khéo tức cười
          Số khó lọt vành âu bởi mệnh
          Văn chưa tàn lụi cũng do trời
          Trong lao độc bối cam mang nhục
          Cửa khuyết làm sao tỏ khúc nhôi?

          Bản dịch của Thạch Cam

          Năm mươi năm thế tục bình bồng
          Khe núi lòng cam bội ước chung
          Cười nạn hư danh, trò thực họa
          Thương phường báng bổ kẻ cô trung
          Mạng đà định số, làm sao thoát
          Trời chửa mất văn, vẫn được dùng
          Lao ngục đau nhìn lưng mảnh giấy
          Oan tình khó đạt tới hoàng cung.

          Bản dịch của Lê Cao Phan

          TRỜI BAN TỐI, BIẾT VỀ ĐÂU?

          Vũ Bình Lục

          (Về bài thơ NGÔN CHÍ – SỐ13 của Nguyễn Trãi)

          Tà dương bóng ngả thuở giang lâu
          Thế giới đông nên ngọc một bầu
          Tuyết sóc treo cây điểm phấn
          Cõi đông giãi nguyệt in câu.
          Khói chìm thuỷ quốc quyên phẳng
          Nhạn triện hư không gió thâu
          Thuyền mọn còn chèo chẳng khứng đỗ
          Trời ban tối biết về đâu?

          Nguyễn Trãi sống cách chúng ta khoảng sáu trăm năm. Riêng nói về thơ Nôm, dẫu thất lạc sau thảm hoạ tru di năm 1442, cũng còn được hơn 250 bài. Có thể nói, Nguyễn Trãi đã dựng lên một tượng đài sừng sững bằng thơ, mà trước hết là thơ viết bằng ngôn ngữ dân tộc-Thơ Nôm. Chùm thơ “Ngôn chí” có rất nhiều bài hay, đọc kỹ, nghiền ngẫm kỹ mới thấy cái hay, bởi chữ Nôm cách nay sáu trăm năm, rất nhiều từ nay không còn dùng nữa, hoặc rất ít dùng. Phải tra cứu một số từ, một số điển tích, mới dần sáng tỏ một hồn thơ lớn, lớn nhất, trong lịch sử thơ ca Việt Nam!

          Đây là bài Ngôn chí số 13, do những người biên soạn sách Tuyển tập thơ văn Nguyễn Trãi sắp xếp.

          Hai câu đầu: Tà dương bóng ngả thuở giang lâu
          Thế giới đông nên ngọc một bầu

          Hai câu thơ đơn thuần chỉ là tả cảnh, đặc tả một buổi chiều, mà gam màu chủ đạo là màu vàng thẫm rất quen mà huyễn hoặc. Bóng chiều tà đã ngả, đang quấn lấy một ngôi lầu ở bên sông, hay đang trùm lên ngôi lầu bên sông một màu vàng thẫm. Nhưng có điều cần lưu ý, đây là ngôi lầu giành cho đàn bà con gái thuộc tầng lớp quý tộc giàu sang, trong một không gian rộng lớn và yên tĩnh, rất yên tĩnh. Câu tiếp theo mới thật diễm lệ: Thế giới đông nên ngọc một bầu. Vậy thế giới đông là gì? Theo điển dẫn, đông chính là khí tốt, khí thiêng của thế giới, của vũ trụ đông đặc lại mà thành phong cảnh đẹp như ngọc. Thế đấy! Còn như Bầu, cũng theo điển sách Đạo gia, kể rằng Trương Thân thường treo một quả bầu rất lớn, hoá làm trời đất, ở trong cũng có mặt trời mặt trăng, đêm chui vào đó mà ngủ, gọi là trời bầu, hay bầu trời cũng vậy…Quả là một bức tranh được vẽ bằng ngôn ngữ, rất xưa, tinh khiết và tráng lệ, dường như đã đạt đến mức cổ điển!

          Đấy là hai câu thất ngôn. Hai câu tiếp theo, lại là lục ngôn, vẫn tiếp tục tả cảnh:
          Tuyết sóc treo cây điểm phấn
          Cõi đông giải nguyệt in câu.

          Tuyết sóc, nghĩa là tuyết ở phương bắc (sóc) chả biết gieo xuống từ bao giờ, mà còn giăng mắc trên những cành cây như những bông hoa trắng muốt, như điểm phấn cho cây, trang trí làm đẹp cho cây. Có người bảo nước ta làm gì có tuyết, chỉ là ước lệ cho đẹp văn chương mà thôi. Nhưng họ nhầm đấy! Các tỉnh phía Bắc nước ta như Lào Cai, Hà Giang và chắc là còn một số nơi khác nữa ngày nay vẫn có tuyết, nhiều nữa kia. Vậy thì sao thơ văn ngày xưa các cụ ta nói đến tuyết, con cháu lại hàm hồ bác bỏ? Cách đây mấy trăm năm, sao lại không thể không có tuyết mà các cụ phải đi mượn của người? Phía bắc là tuyết, là hoa tuyết điểm phấn cho cây, thì Cõi đông giải nguyệt in câu. Phương đông in một giải lụa trăng vàng óng. Thế là cả một không gian rực rỡ sắc màu. Màu trắng của tuyết hoa tương ánh cùng màu vàng của ánh nguyệt in bóng nước, của chiều tà vàng thẫm, tạo một bức tranh vừa rộng vừa sâu, gợi một khoảnh khắc giao thoa hỗn mang rất nhiều tâm trạng.

          Hai câu tiếp theo, vẫn cấu trúc bằng lục ngôn:
          Khói chìm thuỷ quốc quyên phẳng
          Nhạn triện hư không gió thâu

          Bây giờ là sương khói trong chiều muộn. Cúi xuống nhìn dòng nước, thấy khói chiều in xuống mặt nước trong veo phẳng lặng. Quyên, từ cổ là mặt nước trong, do đó quyên phẳng nghĩa là mặt nước trong phẳng lặng, như thể nhìn rõ khói chiều đang chìm dưới đáy nước. Rõ là nước lộn trời, vàng gieo đáy nước, “Long lanh đáy nước in trời / Thành xây khói biếc, non phơi bóng vàng”. Có lẽ Nguyễn Du mấy trăm năm sau đã tiếp thu tinh thần của câu thơ Nguyễn Trãi mà sáng tạo lại trong Truyện Kiều câu thơ trên, khi mà tiếng Việt đã đạt đến độ nhuần nhuyễn và trang nhã chăng? Còn trên trời thì đàn chim nhạn đang xếp hình chữ triện mà mỏi mệt bay về rừng tìm chốn ngủ. Và gió nhẹ, thổi rỗng cả trời…

          Cảnh chỉ là điểm xuyết, mà gợi nên bức tranh đủ sắc màu, rất sống động, và tiếp đó, nó như thể đang chuyển động dần về phía đêm tối, về phía lụi tàn.

          Hai câu cuối, tác giả viết:
          Thuyền mọn còn chèo chẳng khứng đỗ
          Trời ban tối ước về đâu?

          Con thuyền nhỏ nhoi (Thuyền mọn) của Tiên sinh, hay con thuyền của một vị khách nào đó, vẫn còn đang mải miết chèo trên sông, như chẳng muốn dừng lại. Trong nhập nhoạng bóng tà, con thuyền mọn như càng nhỏ bé hơn, chưa muốn, hay chưa tìm được nơi đỗ lại mà nghỉ ngơi, hay bởi vì Trời ban tối, ước về đâu, biết về đâu? Câu bảy thất ngôn, dàn trải thêm, biểu hiện sự buông thả, lửng lơ, phân vân… Câu tám bỗng đột ngột thu lại lục ngôn, như một sự dồn nén tâm sự.

          ‘NHẬT NGUYỆT HỐI RỒI LẠI MINH’
          Trăng che mặt trời đêm rồi lại sáng
          Thơ Nguyễn Trãi ngàn năm linh cảm
          Ngày 9 tháng 3 bao chuyện lạ lùng
          Hoàng Kim

          Ngày 9 tháng 3 năm 141 trước công nguyên
          Thời Hán Vũ Đế Lưu Triệt lên ngôi.
          Nước Nam Việt bị nhập vào nhà Hán
          Ngàn năm (sau) vết nhục nhã (mới) sạch làu.

          “Như nước Đại Việt ta từ trước
          Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
          Núi sông bờ cõi đã chia
          Phong tục Bắc Nam cũng khác

          Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần
          bao đời xây nền độc lập
          Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên
          mỗi bên hùng cứ một phương
          Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau
          Song hào kiệt thời nào cũng có”

          “Càn khôn bĩ rồi lại thái
          Nhật nguyệt hối rồi lại minh
          Ngàn năm vết nhục nhã sạch làu
          Muôn thuở nền thái bình vững chắc

          Âu cũng nhờ trời đất tổ tông
          linh thiêng đã lặng thầm phù trợ“
          Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi
          Văn bia Vĩnh Lăng di sản rõ ràng.

          (Sách sử nay Đinh Lê Lý Trần
          thay thế cho Triệu Đinh Lý Trần
          Trăng che trời, sửa thơ Nguyễn Trãi ???
          Đối sao được Hàn Đường Tống Nguyên)

          Nước Nam Việt Triệu Đà tích xưa còn đó
          Thời Hán Nam Việt bị nhập vào nhà Hán
          Ngàn năm (sau) vết nhục nhã (mới) sạch làu.
          Chính sử vẫn còn, sự thật ở đâu???

          Soi gương kim cổ
          Tích truyện xưa
          Ghi lại đôi lời
          Trăng giao với trời
          Nhật thực hôm nay.

          NGUYỄN TRỌNG TẠO ĐỒNG DAO
          Hoàng Kim

          Cảm ơn anh Duy-Man Vu đã chuyển tải tác phẩm ‘Hội ngộ Văn chương’ ưng ý và lắng đọng nhất, dường như là ‘bài giảng cuối cùng’, của nhà thơ nhạc sĩ tài hoa Nguyễn Trọng Tạo, tác giả ‘khúc hát sông quê’ sang tiếng Anh với văn phong hay chuẩn mực. Hôm nay là ngày đặc biệt Nguyễn Trọng Tạo bài giảng cuối cùng tham luận đọc tại Liên hoan văn học ASEAN lần thứ 2, Indonesia: “Chủ nghĩa tiêu dùng với tác phẩm văn học” là tuyên ngôn văn chương sau cùng và hay nhất của anh, mà những người lính chiến trường và các bạn hữu, người thân của anh ở mũi nhọn của trận tuyến dân trí, không thể không đọc lại và suy ngẫm

          “… Vấn đề quan trọng là nhà văn có tin những điều mình viết ra là sự thật, là nhân văn, là hấp dẫn người đọc và dẫn dắt tâm hồn, tư tưởng của họ hay không. Đó là điều không dễ dàng. Tôi cũng đã nhiều lần nghiền ngẫm về điều đó. Tin hay không tin? Và tôi đã viết nó thành bài thơ “Tin thì tin không tin thì thôi”. Tôi xin đọc bài thơ này thay cho lời kết thúc bài phát biểu của mình:

          TIN THÌ TIN KHÔNG TIN THÌ THÔI
          Nguyễn Trọng Tạo

          bốn lăm bậc thời gian dốc ngược
          tôi đã vượt qua
          em cách một sợi tơ
          tôi đã không qua được
          tin thì tin không tin thì thôi
          tôi đã tới hang động yến sào tôi đã thèm ăn yến
          vậy mà chưa được nếm bao giờ
          hàng quốc cấm
          nghe nói từ xưa làm vua sướng lắm
          mà đôi khi tôi cũng sợ làm vua
          tin thì tin không tin thì thôi
          có anh hề đã nói với tôi
          – đời thằng hề buồn lắm anh ơi
          và tôi đã khóc
          tin thì tin không tin thì thôi
          nhưng tôi người cầm bút, than ôi
          không thể không tin gì mà viết.
          tin thì tin không tin thì thôi!

          1991

          “… it is important whether the writer believes what he wrote are truth, are human, are compelling to the reader and guide their soul and their thought or not. This is not easy. I also have mulled several times about it. Believe it or not? And I wrote the poem “Believe or don’t believe it’s alright.” I would like to read this poem as my closing words:

          BELIEVE OR DON’T BELIEVE IT´S ALRIGHT

          forty-five steps of time upside down
          I have overcome
          you are just a fine line of silk away
          I have not overcome
          believe or don’t believe it’s alright
          I have come to the bird’s cave, I have longed to eat the bird’s nest
          but I have not tasted
          the national forbidden food
          I have heard from old time it’s great to be king
          but sometimes I am afraid to be king
          believe or don’t believe it’s alright
          there is a clown who told me
          – a clown’s life is so sad, my brother
          and I have cried
          believe or don’t believe it’s alright
          but me, a writer, oh dear
          I can’t write without belief.
          Believe or don’t believe it’s alright!
          1991

          Poet Nguyen Trong Tao
          (Vietnam)

          see more đọc toàn văn tại NGUYỄN TRONG TẠO ĐỒNG DAO https://hoangkimlong.wordpress.com/category/nguyen-trong-tao-dong-dao/

          *

          Nhà thơ nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo sinh ngày 25 tháng 8 năm 1947 tại làng Tràng Khê, Diễn Hoa, Diễn Châu, Nghệ An. Cư trú tại P308, tòa nhà HH2A Linh Đàm Hà Nội đã từ trần ngày 7 tháng 1 năm 2019, an táng tại làng quê Nghệ An. Nguyễn Trọng Tạo tham luận đọc tại Liên hoan văn học ASEAN lần thứ 2, Indonesia: Chủ nghĩa tiêu dùng với tác phẩm văn học” là tuyên ngôn văn chương sau cùng và hay nhất của anh mà những người lính chiến trường và các bạn hữu người thân của anh ở mũi nhọn của trận tuyến dân trí, không thể không đọc lại và suy ngẫm. ‘
          Nguyễn Trọng Tạo nhịp đồng dao’ ấn tượng nhất trong tôi các tác phẩm “Khúc hát sông quê”, “Biển” “Tin thì tin không tin thì thôi ” “Ngày không em” “Đi bộ cùng quá khứ

          BIỂN
          Nguyễn Trọng Tạo


          Anh trót để ngôi sao bay khỏi cát
          Biếc xanh em mãi chớp sáng bầu trời
          Điều có thể đã hóa thành không thể
          Biển bạc đầu nông nổi tuổi hai mươi.

          Bài “BIỂN” của anh Nguyễn Trọng Tạo hình như tôi chưa thấy in chính thức tại đâu, cũng như TỪ TUYỆT KHÔNG ĐỀ của anh Phan Chí Thắng dưới đây hình như tôi cũng chưa hề thấy ở sách Phan Chí Thắng nào cả. Hình như là các tác giả đã quên lãng nhưng sự ghi chép ‘
          Thơ hay về biển‘ và ‘Bài thơ Viên đá Thời gian‘ là nhịp đồng dao có thật.

          phanchithang

          TỨ TUYỆT KHÔNG ĐỀ
          Phan Chí Thắng

          Không có rượu sao mà say đến thế
          Giải Ngân Hà mờ tỏ  bóng thời gian
          Ta đã được một lần say lặng lẽ
          Giữa cuộc đời tỉnh táo đến khôn ngoan.

          Anh Tạo nói đúng: “Có thể các bạn đã biết, Việt Nam chúng tôi có 64 nhà xuất bản sách, mỗi năm xuất bản gần 20.000 đầu sách với hàng trăm triệu bản sách. Nhưng sách văn học chỉ chiếm 10%, trong đó sách dịch của nước ngoài chiếm quá nửa. Và phần lớn độc giả bị rơi vào cái bẫy của chủ nghĩa tiêu dùng, mà chúng tôi gọi là “văn học thị trường” hay “văn học giải trí”, loại sách này ở Trung Quốc còn gọi mỉa mai là “văn học giấy vệ sinh”. Tôi không nghĩ đó là câu chuyện riêng của nước tôi, mà đó cũng là câu chuyện của những quốc gia khác. Đó là một vấn nạn trong văn hóa đọc, làm đau đầu các nhà văn luôn coi “Văn chương là ngôi đền thiêng”… “Văn học thị trường” hay “văn học giải trí” cũng tạo ra áp lực lớn cho nhà văn, anh phải chạy theo nó, hay anh phải thoát khỏi nó để sáng tạo ra những giá trị văn học thực sự mang tư tưởng thời đại và có sức sống lâu dài. Thực tế ở Việt Nam cũng đã có một số nhà xuất bản và nhà văn chạy theo thị hiếu tiêu dùng để kiếm tiền, một số đông tác giả khác không thành danh thì tự bỏ tiền ra in tác phẩm để kiếm tìm cảm giác “tự sướng”, và họ cũng ném vào thị trường văn học khá nhiều rác, khiến độc giả càng trở nên loạn chuẩn … Nhà văn chân chính, phải hóa giải những nỗi sợ đó để tự vượt lên chính mình trong sáng tạo, nghĩa là nhà văn phải trung thành với tư tưởng nghệ thuật của mình, và văn chương của anh ngày càng phải hấp dẫn hơn, với hy vọng cải tạo, và giải thoát thị hiếu của tầng lớp độc giả đang đóng đinh vào “chủ nghĩa tiêu dùng”. Biết vậy, nhưng các bạn biết không, tôi vẫn rất sợ những độc giả như thế. Tôi yêu độc giả – người sáng tạo thứ 2

          Quyen Ngo với ‘Đêm nghe khúc hát sông quê‘ và Vũ Thanh Hoa với “Giao hưởng biển‘ là hai bài thơ hay, có trường liên tưởng thật rộng. Câu thơ: ‘biết sông nào đọng phù sa… sông nào’ hay nhất trong số ấy .Cảm ơn Quyen Ngo.

          ĐÊM NGHE KHÚC HÁT SÔNG QUÊ
          Gió Phương Nam


          Đêm nghe khúc hát Sông Quê
          Tự dưng nước mắt lăn về tuổi thơ
          Khát khao nào có bến bờ
          Sóng xô năm tháng dại khờ sóng ơi

          Đêm buồn, sông chảy ngang môi
          Giấc mơ không vớt nổi thời đắm xa
          Tuổi thơ Người, tuổi thơ Ta
          Biết sông nào đọng phù sa…sông nào!

          Trịnh Công Sơn, Bữu Ý, Nguyễn Trọng Tạo và Hoàng Phủ Ngọc Tường (ảnh internet) trong khảo luận ‘Trịnh Công Sơn tình yêu cuộc sống‘.

          Nhạc sĩ nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo viết vậy, bạn bè anh vậy, nên anh đi xa rồi nhưng anh vẫn sống trong lòng tôi. Hôm nay nữa, một hình ảnh và mẫu thoại ngắn của tôi THÍCH CÁI KHOE CỦA NGƯỜI TỬ TẾ từ ngày 9 Tháng 9, 2017 được các bạn nhắc lại mà bùi ngùi nhớ: .”Giản dị thế mà sống, cần đếch gì chụp giật, phỏng ạ, Niềm vui cứ nho nhỏ thế thôi…” Văn Công Hùng viết vậy còn Phan Chi thì viết “lão Hâm ghét ông Nguyễn Trọng Tạo thêm 5 phút nữa. (Không kiếm được vé đi nghe đêm nhạc Nguyễn Trọng Tạo nên post bài này lên cho… bõ tức). Lão nông Trần Duy Quý thì khoe “Dân phấn khởi quá, vì so với giống Bắc Thơm 7 năng suất Sơn Lâm 1 vượt ít nhất 80 kg/ sào mà gạo hai giống ngon như nhau. Giá bán gạo đều 16-18 k trên kg nên hiệu quả rõ rệt. Dân tuyên bố sẽ trồng Sơn Lâm 1 thay cho Bắc Thơm 7 cả vụ xuân lẫn vụ mùa”. Cô Nguyễn Thị Trúc Mai thì khoe: “Bốn tháng sau trồng, không cần quảng cáo”. Anh Trần Mạnh Báo thì viết: “Sau nửa tháng đi công tác, hôm nay lại về với cánh đồng Trung tâm nghiên cứu thân yêu! Cảm ơn Mr Diệp (người e lệ đứng bên bờ ruộng) về ý tưởng trồng hoa trên bờ ruộng!”. Tôi thích cái khoe này. “Tốt đẹp khoe ra, xấu xa đậy lại”. Cái khoe của họ là tiền tươi thóc thật của người tử tế. (Hoàng Kim)

          Xem tiếp >>

            Dạy và học 9 tháng 9(09-09-2021)

           

           

          DẠY VÀ HỌC 9 THÁNG 9
          Hoàng Kim

          CNM365 Tình yêu cuộc sốngĐền Ngọc Sơn Hồ Gươm; Chợt gặp mai đầu suối;Trạng Trình; Lev Tonstoy năm kiệt tác; Đập Tam Hiệp Tam Tuyến; Hoàng Thành đến Trúc Lâm; Bình sinh Mao Trạch Đông; Bình sinh Tập Cận Bình; A Na Bình Minh An; Ngày 9 tháng 9 năm 1791, Thủ đô Washington, D.C. được đặt tên theo tên Tổng thống Hoa Kỳ đầu tiên George Washington. Ngày 9 tháng 9 năm 1828 ngày sinh Lev Tolstoy, nhà văn Nga. Ngày 9 tháng 9 năm 1872 ngày sinh Phan Châu Trinh, chí sĩ, nhà văn, nhà thơ Việt Nam (mất năm 1926). Ngày 9 tháng 9 năm 1976 ngày mất Mao Trạch Đông, lãnh tụ của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Bài chọn lọc ngày 9 tháng 9: Đền Ngọc Sơn Hồ Gươm; Chợt gặp mai đầu suối; Trạng Trình; Lev Tonstoy năm kiệt tác; Đập Tam Hiệp Tam Tuyến; Hoàng Thành đến Trúc Lâm; Bình sinh Mao Trạch Đông; Bình sinh Tập Cận Bình; A Na Bình Minh An; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-9-thang-9/

          HỒ GƯƠM
          Minh Sơn Hoàng Bá Chuân


          Tô điểm Hà Thành một hạt châu
          Ấy hồ Lục Thủy tiếng từ lâu
          Trăng vờn cổ thụ mây lồng nước
          Tháp hướng trời xanh gió lộng cầu
          Kiếm bạc hưng bang rùa vẫn ngậm
          Bút son kiến quốc hạc đương chầu
          Trùng trùng lá biếc hoa phơi gấm
          Kìa tượng Vua Lê chót vót cao

          1966
          (Đã in trong tuyển tập Ngàn năm thương nhớ
          NXB Hội Nhà Văn xuất bản năm 2004 nhân kỷ
          niệm 1000 năm Thăng Long Hà Nội)

          Quadeochotgapmaidausuoi

          CHỢT GẶP MAI ĐẦU SUỐI
          Hoàng Kim

          Nghìn dặm tìm anh chẳng gặp anh/ Đường về vó ngựa dẫm mây xanh/ Qua đèo chợt gặp mai đầu suối/ Đóa đóa vàng tươi xuân thắm cành“. Tôi biết bài thơ kỳ lạ này của Bác Hồ đăng trên báo khoảng năm 1970 do một chuyện ngẫu nhiên tình cờ nên nhớ mãi. Bài thơ kỳ lạ vì ẩn chứa nhiều triết lý sâu sắc không dễ thấy, vì nó là thơ của Bác Hồ mà ít thấy sách báo nào nhắc đến gần nửa thế kỷ qua.Thuở ấy, tôi mười bảy tuổi, đã cùng người anh trai Hoàng Ngọc Dộ ra thăm đèo Ngang. Chúng tôi vừa đi xe đạp vừa đi bộ từ chân núi lên đến đỉnh đèo. Gần cột mốc địa giới hai tỉnh trên đỉnh đường xuyên sơn, cạnh khe suối ven đỉnh dốc sườn đèo có cây mai rừng rất đẹp. Chúng tôi đang thưởng ngoạn thì chợt gặp xe của Bộ trưởng Xuân Thủy và  bí thư tỉnh ủy Quảng Bình Nguyễn Tư Thoan vừa tới. Họ đã xuống xe ngắm nhìn trời, biển, hoa, núi và bộ trưởng Xuân Thuỷ đã bình bài thơ trên.

          Bộ trưởng Xuân Thủy là nhà ngoại giao có kiến thức rộng, bạn thơ của Hồ Chí Minh, giỏi dịch thơ chữ Hán. Ông cũng là người đã dịch bài thơ “Nguyên tiêu” nổi tiếng, nên khi tôi tình cờ được nghe lời bình phẩm trực tiếp của ông về bài thơ trên thì tôi đã nhớ rất lâu. Tôi cũng hiểu nghĩa rõ ràng cụm từ “Trung Nam Hải” từ dịp ấy.

          Ba mươi năm sau, khi anh Gia Dũng sưu tầm, tuyển chọn và giới thiệu bài thơ “Tìm bạn không gặp” trong tập thơ “Ngàn năm thương nhớ” tuyển thơ một nghìn năm Thăng Long, Hà Nội. Bài thơ “Tầm hữu vị ngộ” của Bác do nhà Hán học nổi tiếng Phan Văn Các diễn nghĩa và dịch thơ. Nội dung tuy vẫn thế nhưng bản dịch mới lời dịch sát nghĩa chữ Hán hơn so với bản tự dịch thoáng ý của chính Bác và có khác MỘT chữ so với bài mà tôi được nghe bình trước đây. Đó là từ “nghìn dặm” được thay bằng từ “trăm dặm” (“bách lý tầm quân vị ngộ quân” thay vì “thiên lý tầm quân vị ngộ quân”). Bản dịch mới có lời ghi chú, nghe nói là của Bác. Bài thơ viết năm 1950 nhưng cảm xúc thực sự của Người khi thăng hoa bài thơ nổi tiếng này thì nay vẫn còn để ngỏ.

          Hồ Chí Minh tầm hữu vị ngộ

          Thiên lý tầm quân vị ngộ quân,
          Mã đề đạp toái lĩnh đầu vân.
          Quy lại ngẫu quá sơn mai thụ,
          Mỗi đoá hoàng hoa nhất điểm xuân.

          尋友未遇

          千里尋君未遇君,
          馬蹄踏碎嶺頭雲。
          歸來偶過山梅樹,
          每朵黃花一點春。

          Nghìn Trăm dặm tìm anh chẳng gặp anh,
          Đường về vó ngựa dẫm mây xanh.
          Qua đèo chợt gặp mai đầu suối
          Đóa đóa vàng tươi xuân thắm cành.

          (Bản tự dịch của Hồ Chí Minh, theo Xuân Thủy)

          “Trăm dặm tìm không gặp cố nhân
          Mây đèo dẫm vỡ ngựa dồn chân
          Đường về chợt gặp cây mai núi
          Mỗi đoá hoa vàng một nét xuân”
          (Bản dịch thơ của
          Phan Văn Các)

          Bác ra nước ngoài từ đầu năm 1950 đến đầu tháng Tư mới về nước theo hồi ức “Chiến đấu trong vòng vây” của đại tướng Võ Nguyên Giáp. Bác lúc đó đã sáu mươi tuổi, bí mật đi đến Bắc Kinh gặp chủ tịch Đảng Cộng sản Trung Quốc Mao Trạch Đông rồi đi luôn sang Matxcơva gặp đồng chí Stalin. Bác cũng đi tìm gặp đại tướng Trần Canh khi chuẩn bị chiến dịch Biên giới. Trong cơn lốc của các sự kiện, Bác khẳng định: “ Tổng phản công của ta sẽ là một giai đoạn lâu dài. Rồi đây, có sự chi viện của Liên Xô và Trung Quốc về vật chất, vũ khí, trang bị, ta sẽ đỡ khó khăn hơn, nhưng giành được thắng lợi là phải do sức nỗ lực của chính bản thân ta quyết định”.

          “Nghìn dặm” hay “trăm dặm”? “gặp bạn” hay “không gặp” hoặc “gặp nhưng không gặp về cách làm”? Ngữ nghĩa của câu thơ “Bách lý tầm quân vị ngộ quân” khác hẳn với “thiên lý tầm quân vị ngộ quân” và không đơn giản dịch là “Tìm bạn không gặp”. Dường như Bác đang đề cập một vấn đề rất lớn của định hướng chiến lược đối ngoại. Nhiều sự kiện lịch sử hiện tại đã được giải mã nhưng còn nhiều ẩn ý sâu sắc trong thơ Bác cần được tiếp tục tìm hiểu, khám phá thêm. Những năm tháng khó khăn của cách mạng Việt Nam “chiến đấu trong vòng vây”; Những tổn thất và sai lầm trong cải cách ruộng đất do sự thúc ép từ phía Liên Xô và sự vận dụng không phù hợp kinh nghiệm của Trung Quốc; Quan hệ của nước nhỏ đối với các nước lớn. Nhiều điều tinh tế ẩn chứa trong thơ Bác.

          Ý tứ trong bài thơ của Bác rất gần với với một bài thơ cổ của Trung Quốc thời nhà Tống: “Tận nhật tầm xuân bất kiến xuân/ Mang hài đạp phá lãnh đầu vân/ Quy lai khước phá mai hoa hạ/ Xuân tại chi đầu vị thập phân”. Bài thơ tả một ni cô mang hài trèo đèo vượt núi cực khổ tìm xuân suốt ngày mà vẫn chẳng gặp xuân. Đến khi trở về mới thấy xuân đang hiện trên những cành mai trong vườn nhà.

          Bác Hồ cũng vượt vòng vây phong tỏa, chịu nhiều gian khổ suốt bốn tháng ròng để tìm sự ủng hộ quốc tế cho cách mạng Việt Nam đang “chiến đấu trong vòng vây”. Trên đường về, qua đèo, Bác chợt gặp cây mai đầu suối và Bác đã ngộ ra được những vấn đề sâu sắc của phương pháp cách mạng. Đối diện với mặt trời đỏ “đông phương hồng, mặt trời lên” là mặt TRĂNG hiền hoà (rằm xuân lồng lộng trăng soi) và gốc MAI vàng cổ thụ bên SUỐI nguồn tươi mát (bên suối một nhành mai). Trăng, suối, hoa mai là những cụm từ quan trọng trong thơ Bác. Nó là triết lý ứng xử tuyệt vời của một nước nhỏ đối với các nước lớn trong quan hệ quốc tế phức tạp. Trời càng sáng, trăng càng trong, nước càng mát, mai càng nở rộ.

          Hồ Chí Minh Thướng Sơn

          “Thướng sơn”; là bài thơ Ngôn chí đặc sắc của Hồ Chí Minh viết ở Lũng Dẻ năm 1942, in tại: Thơ chữ Hán Hồ Chí Minh, Nhà Xuất bản Văn học, Hà Nội, 1990, trang 14. Bài thơ ẩn ngữ lấy ý chủ đạo “nhành mai” đối “mặt trời hồng“. “bên suối một nhành mai.”

          Thướng sơn

          Lục nguyệt nhị thập tứ,
          Thướng đáo thử sơn lai.
          Cử đầu hồng nhật cận,
          Đối ngạn nhất chi mai.

          上山





          Dịch nghĩa

          Ngày hai mươi bốn tháng sáu,
          Lên đến núi này.
          Ngẩng đầu thấy mặt trời đỏ gần lại,
          Bờ bên kia có một nhành mai.

          Dịch thơ

          Hai mươi tư tháng sáu,
          Lên ngọn núi này chơi.
          Ngẩng đầu: mặt trời đỏ,
          Bên suối một nhành mai.
          (Bản dịch của Tố Hữu)

          Hăm tư tháng sáu hôm nay
          Trèo lên trên đỉnh núi này dạo chơi
          Ngẩng lên đỏ chói mặt trời
          Bên kia khe một nhành mai xanh rờn
          (Bản dịch của Xuân Thủy)

          Ngày 24 tháng 6 là ngày gì trong lịch sử? Ngày 24 tháng 6 năm 1812 là ngày đại quân của Hoàng đế Pháp Napoléon Bonaparte vượt sông Neman, khởi đầu xâm chiếm Đế quốc Nga. Ngày 24 tháng 6 năm 1942 là ngày khởi đầu của chiến dịch Voronezh đại quân Đức Quốc Xã Adolf Hitler tấn công Voronezh, thành phố có tầm quan trọng chiến lược đặc biệt quan trọng bên bờ sông Đông, (là nguyên quán của Nikolai Fyodorovich Vatutin tư lệnh Phương diện quân Tây Nam, lực lượng phòng thủ chính của Liên Xô trong Chiến dịch phòng thủ Valuiki – Rossosh năm 1942). Về sau Adolf Hitler cho rằng hai ngày chậm trễ trong chiến dịch này đã làm Tập đoàn quân thiết giáp số 4 không kịp đến, làm giảm sức công phá và để cho Liên Xô kịp phòng thủ cứu nguy Stalingrad, thay đổi cục diện chiến tranh. Ngày 24 tháng 6 năm 1942 tại Lũng Dẻ, Hồ Chí Minh lên núi.

          “Thướng sơn” và “Tầm hữu vị ngộ” là ẩn ngữ, câu thơ lưu lạc giữa đời thường. Hồ Chí Minh là người chuộng kinh Dịch và rất tinh tế, thường có những ứng xử ngẫu nhiên phù hợp với quy luật tất nhiên. Hồ Chí Minh trọn đời minh triết viết và nói thường có ẩn ý. Như 19 tháng 5 là ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, cũng là ngày thành lập Việt Minh, cũng là ngày khai sinh  đường Hồ Chí Minh trong lịch sử. Chuỗi ba sự kiện lớn này đóng mốc son ngày 19 tháng 5 vào lịch sử Việt Nam và thế giới đối với nền độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và sự nghiệp thống nhất Tổ quốc Việt Nam.

          “Thướng sơn” (lên núi) là lên non thiêng ‘chống gậy lên non xem trận địa”, để xác định đúng tình thế, thời cơ và phương pháp cách mạng “tùy cơ, tùy vận, tùy thiên mệnh, tùy thời, tùy thế lại tùy nghi” là minh triết Hồ Chí Minh.”Đi đường mới biết gian lao. Núi cao rồi lại núi cao chập chùng . Núi cao lên đến tận cùng. thu vào tầm mắt muôn trùng nước non” (Đi đường, Hồ Chí Minh) Lên núi là để xem thế trận biến ảo khôn lường dự báo kêết quả thắng thua của Chiến tranh thế giới thứ hai. Tôn Trung Sơn thời Trung Hoa Dân Quốc, đưa ra đại kế “Liên Nga, thân Cộng, ủng hộ Công Nông, Tam Dân chủ thuyết” Uông Tinh Vệ nối nghiệp Tôn Trung Sơn cùng Mao Trạch Đông và Tưởng Giới Thạch.là “tam hùng”. Uông Tinh Vệ trước tả sau hữu, kết giao người Nhật và trở thành Hán gian vì Uông Tinh Vệ cho rằng Đức Nhật Ý sẽ thắng Nga Mỹ Anh Trung Hoa Dân Quốc.

          Hồ Chí Minh nguyên tiêu

          Nhân nói thêm dịch bài thơ “Nguyên tiêu” Hồ Chí Minh, kiệt tác trong “100 bài thơ hay nhất Việt Nam thế kỷ 20” thì bản dịch thơ của Xuân Thủy được nhiều người yêu thích hơn cả. Tuy vậy nghe nói là Cụ Hồ đã hỏi vui Bộ trưởng Xuân Thủy rằng câu thơ “Xuân giang, xuân thủy tiếp xuân thiên” (sông xuân, nước xuân tiếp trời xuân) khi dịch là “Sông xuân nước lẫn bầu trời thêm xuân” thì ba chữ xuân sao chỉ còn lại hai chữ xuân? Đó cũng là sự tinh tế (như Bộ trưởng Xuân Thủy làm Bộ trưởng không Bộ vậy).

          Rằm Tháng Giêng
          Hồ Chí Minh

          Rằm xuân lồng lộng trăng soi,
          Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân.
          Giữa dòng bàn bạc việc quân,
          Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền.

          (Bản dịch thơ của Xuân Thuỷ)

          Nguyên tác




          滿

          Nguyên tiêu

          Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên,
          Xuân giang, xuân thủy tiếp xuân thiên.
          Yên ba thâm xứ đàm quân sự,
          Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền.

          Dịch nghĩa

          Đêm nay, rằm tháng giêng, trăng vừa tròn,
          Nước sông xuân tiếp liền với màu trời xuân.
          Giữa nơi khói sóng thăm thẳm, bàn bạc việc quân,
          Nửa đêm trở về, thuyền chở đầy ánh trăng.

          Tháng 2 năm 1948.

          Nguồn:
          1. Hồ Chí Minh – Thơ, NXB Văn học, Hà Nội, 1975
          2. Hồ Chí Minh toàn tập (tập 5), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000

          Nhành mai trong thơ Bác

          Bài thơ “Tầm hữu vị ngộ” Hồ Chí Minh câu thơ nguyên tác cuối bài là  “Mỗi đóa hoàng hoa nhất điểm xuân”. Giáo sư tiến sĩ Hán học Phan Văn Các, nguyên Viện trưởng Viện Hán Nôm đã dịch là “Mỗi đóa hoa vàng một nét xuân”. So câu chữ là rất chuẩn và rất sát nghĩa. Thế nhưng, tôi lại nghe cố bộ trưởng nhà thơ Xuân Thủy, người đã dịch kiệt tác bài thơ “Nguyên tiêu” ra tiếng Việt, nói năm 1970 thì “Ông Cụ” đã tự mình dịch câu thơ trên là “đóa đóa vàng tươi xuân thắm cành”.

          Câu thơ “Đình tiền tạc dạ nhất chi mai” của Thiền sư Mãn Giác (Lý Trường,1051-1096) theo Minh Đức Triều Tâm Ảnh được dẫn lại và phân tích sâu thêm của Nguyễn Khôi, thì đáng chú ý nhất và khó dịch nhất là “nhất chi mai”.

          Nhiều người dịch “nhất chi mai” là “một nhành mai, một nhánh mai, một cành mai”, thật ra phải hiểu “nhất chi mai” còn có nghĩa là “một đóa mai” mới thấu hiểu hết nghĩa thâm thúy. Một đóa là đủ cho cái tối thiểu, là đủ đại biểu cho mùa xuân, như một câu thơ có trước đó của Thiền sư Tề Kỷ (864-937) bạn của Thi sĩ Trịnh Cốc (849-911) đời nhà Đường đã sáng tác bài:

          TẢO MAI

          Vạn mộc đống dục chiết
          Cô căn noãn độc hồi
          Tiền thôn thâm tuyết lý
          Tạc dạ nhất chi khai.
          Phong đệ u hương khứ
          Cầm khuy tố diễm lai
          Minh niên như ưng luật
          Tiên phát ánh xuân đài.

          MAI NỞ SỚM

          Vạn cây băng giá chết
          Một cội ấm mọc ra
          Đầu xóm trong tuyết đặc
          Một cành đêm nở hoa.
          Gió xa đem hương ẩn
          Chim ngắm hoa trắng ngà
          Năm tới như đúng tiết
          Mừng Xuân sáng ánh tà.

          Chuyện kể rằng: Khi thiền sư Sư Tề Kỷ, sau khi viết xong, vốn tính khiêm tốn đã đem sang nhờ Thi sĩ Trịnh Cốc “góp ý kiến”, Trịnh Cốc đọc nhanh, rồi nói “sổ chi” phi “tảo” dã, vị nhược “nhất chi” giai (“mấy cành” chưa phải là sớm, chưa hay bằng “một cành”). Thiền sư Sư Tề Kỷ bèn sửa thành “Tạc dạ nhất chi khai”(một cành đêm nở hoa) bất hủ.

          Bài thơ của Mãn Giác so với Tề Kỷ thì tương tự, nhưng có phần thâm viễn hơn. Với ý muốn nhắn gửi với đời về lẽ chuyển dịch vô thường không dao động đến tâm an nhiên của ta (theo Trần Tuấn Kiệt); Còn theo Ngộ Không thì nên hiểu: ở đây “xuân tàn” là trầm luân, “hoa lạc tận” là hư vô, giữa mê và Ngộ, phân ra hữu và vô, có và không. “nhất chi mai” chính là giác ngộ với trong sinh có diệt, trong diệt có sinh.”

          “Mỗi đóa hoàng hoa nhất điểm xuân” là “nhành mai” điểm nhấn tinh tế trong thơ Bác. Tại đây, Hồ Chí Minh chỉ rõ là “đóa” cụ thể là “một đóa mai” (nhất chi mai) nhưng Hồ Chí Minh tài tình chỉ rõ là “hoàng hoa” “đóa mai vàng” rất phù hợp và thông dụng ở Việt Nam, khác với mơ, mận, mai trắng, có nhiều ở xứ lạnh nhưng ít thông dụng ở xứ ấm như Việt Nam. Hồ Chí Minh lại viết ba chữ “nhất điểm xuân” đồng nghĩa nhưng khác sự diễn đạt với “nhất chi mai”, lời dịch nghĩa lại thoáng nghĩa “đóa đóa vàng tươi xuân thắm cành” thuần Việt hoàn toàn và khẳng định chân lý “toàn thể mới làm nên mùa xuân đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công thành công đại thành công.

          Qua đèo chợt gặp mai đầu suối là tuyệt phẩm. “đóa đóa vàng tươi xuân thắm cành” là câu thơ kiệt tác của Hồ Chí Minh.

           

           

          TRẠNG TRÌNH
          Hoàng Trung Trực

          Hiền nhân tiền bối xưa nay
          Xem thường danh vọng chẳng say tham tiền
          Chẳng màng quan chức uy quyền
          Không hề nghĩ đến thuyết truyền duy tâm.

          Đức hiền lưu giữ ngàn năm
          Vì Dân vì Nước khó khăn chẳng sờn
          Hoàn thành sứ mạng giang sơn
          Lui về ở ẩn sáng thơm muôn đời.

          Tầm nhìn hơn hẳn bao người
          Trở thành Sấm Trạng thức thời gương soi.

          https://hoangkimlong.wordpress.com/category/hoang-trung-truc-doi-linh/

           

           

          LEV TONSTOY NĂM KIỆT TÁC
          Hoàng Kim

          Lev Tolstoy (1828 – 1910) là nhà hiền triết và đại văn hào Nga danh tiếng bậc nhất lịch sử nhân loại với năm kiệt tác lắng đọng mãi với thời gian: 1) Chiến tranh và Hòa bình, 2) Ana Karenina, 3) Phục sinh; 4) Đường sống; 5) Suy niệm mỗi ngày. Riêng hai tác phẩm Đường sống và Suy niệm mỗi ngày / Minh triết cho mỗi ngày (Wise Thoughts for Every Day) được coi là hai công trình trọng yếu cuối cùng của Lev Tonstoy và ông đã xem nó là đóng góp quan trọng nhất của ông cho nhân loại.

           

           

          LEV TOLSTOY SUY NIỆM MỖI NGÀY

          Theo Peter Serikin tại lời giới thiệu của tác phẩm Suy niệm mỗi ngày / Minh triết cho mỗi ngày (Wise Thoughts for Every Day) là công trình trọng yếu cuối cùng của Lev Tonstoy.Ông xem nó là đóng góp quan trọng nhất của ông cho nhân loại. “Tonstoy giữ cái ‘cẩm nang’ cho một cuộc sống tốt này trên bàn làm việc của ông trong suốt những năm cuối cùng đời mình cho đến phút cuối (thậm chí ông còn yêu cầu trợ lý cùa mình V. Chertkov, đưa cho ông xem bản in thử trên giường chết của ông) Chi tiết nhỏ này cho thấy Tonstoy yêu quý tác phẩm này xiết bao!”.

          Cũng theo Peter Serikin bộ ba tập sách ‘Minh triết của hiền nhân’ 1903  (The Thoughts of Wise Men) ; Một chu kỳ đọc (A Circle of Reading’ 1906; Minh triết cho mỗi ngày 1909 (Wise Thoughts for Every Day) dường như phát triển sau khi Lev Tolstoy bệnh nặng và phục sinh như một phép lạ cuối năm 1902. Bộ ba này của Tolstoy hết sức phổ biến từ lần xuất bản thừ nhất vào năm 1903 cho đến năm 1917. Rồi cả ba cuốn đều không được xuất bản trong suốt thời kỳ gần 80 năm vì nội dung tôn giáo của chúng, Và nó được xuất hiện trở lại gần đây sau sup đổ của Liên bang Xô Viết.

          Sách ‘Suy niệm mỗi ngày’ nguyên tác tiếng Nga của Lev Tonstoy do Đỗ Tư Nghĩa dịch từ bản tiếng Anh ‘Wise Thoughts for Every Day’ của Peter Serikin xuất bản ở New York Mỹ từ năm 2005 và, Bản quyền bản tiếng Việt của Công ty THHH Văn Hóa Khai Tâm 2017. Hành trình cuốn sách này đến Việt Nam khá muộn  nhưng may mắn thay những tư tưởng minh triết của nhà hiền triết Lev Tonstoy đã tới chúng ta gợi mở cho sự suy ngẫm ‘minh triết cho mỗi ngày’ cùng đồng hành với người thầy hiền triết vĩ đại.

          Lev Tonstoy ‘Suy niệm mỗi ngày’ 365 ngày, mỗi ngày ông viết một mục suy ngẫm ngắn và sâu sắc. Trung Quốc thời kỳ đại cách mạng văn hóa có một câu chuyện khác tương tự, Lâm Bưu người được coi là nhà đầu tư quyền lực hiệu quả nhất và phát kiến thiên tài khi ông tạo dựng nên được cơn sốt sùng bái cá nhân đối với Mao Trạch Đông đã tuột mất đại quyền và thành phe thiểu số để cân bằng quyền lực, chọi với đỉnh cao thế lực Đảng Chính quyền phái đa số Lưu Đặng khi ấy Lưu Thiếu Kỳ đã làm Chủ tịch Nước và Đặng Tiểu Bình nắm cương vị Tổng Bí Thư Đảng. Lâm Bưu với tư cách Bộ trưởng Bộ Quốc Phòng đã chọn lọc phát hành 5 triệu cuốn sách đỏ Mao tuyển cho toàn quân và Hồng vệ binh. Cuốn sách đỏ nhỏ bỏ túi này với những danh ngôn tuyển chọn của Mao Trạch Đông có giá trị hiện thực như thế nào trong lật ngược thế cờ bạn đã thấy rõ. Bây giờ chúng ta hãy Đọc lại và suy ngẫm “Đức tin” và “Tình yêu” của Lev Tonstoy trong CNM365 ngày của ông:

          Lev Tonstoy viết  ĐỨC TIN. Quy luật của Thượng đế tất yếu bao hàm đòi hỏi việc chu toàn ý chí của Ngài. Bởi về tất cả mọi con người đều được Thượng đế sáng tạo ra một cách bình đẳng, nên quy luật của Ngài là Một, chung cho tất cả chúng ta. Đời chúng ta chỉ có thể tốt đẹp khi nào chúng ta hiểu quy luật của Thượng đế và tuân theo nó.

          Có một câu cách ngôn cổ của Do Thái: “Linh hồn của một người là ngọn đèn của Thượng đế” Khi ngọn đèn ấy chưa được thắp lên thì một cá nhân sẽ vẫn mãi bơ vơ; nhưng khi nó được thắp lên, y trở nên mạnh mẽ và tự do. Dĩ nhiên, điều này không thể khác, bởi vì đó không phải là quyền lực của chính y, mà là của Thượng đế.

          Mặc dù chúng ta không biết sự thiện phổ quát là gì, chúng ta thực sự biết rằng, tất cả chúng ta nên tuân theo quy luật của sự thiện, vốn hiện hữu cả trọng sự khôn ngoan của con người lẫn trong trái tim chúng ta.

          Nếu chúng ta tin rằng, họ có thể làm hài lòng Thượng đế thông qua những nghi lễ và những lời cầu nguyện thôi – chứ không phải bằng hành động- thì họ đã nói dối với cả thượng đế lẫn chính họ

          Lev Tonstoy khuyên chúng ta về ĐỨC TIN. “Hãy luôn luôn hạnh phúc và sung sướng”  hãy  tuân theo quy luật của sự thiện và luôn nhớ câu cách ngôn cổ của người Do Thái: “Linh hồn của một người là ngọn đèn của Thượng đế“.  Minh triết cho mỗi ngày là một kho tàng minh triết tinh túy.

          Lev Tonstoy viết  về TÌNH YÊU. Ông Lev Tonstoi khi về già nhớ những kỷ niệm cũ. Ông đã viết “Suy niệm mỗi ngày” cho 365 ngày để tự nhìn lại kiệt tác “Tự thú” mà ông đã viết trước đó. Ông đã đúc kết, chắt lọc, hòa trộn tác phẩm cũ và nâng lên cao hơn trong mục từ TÌNH YÊU. Ông viết: “Người ta hỏi một hiền triết phương Đông: Khoa học là gì? Ông đáp: Biết người. Họ hỏi Cái Thiện là gì? Ông đáp: Yêu người. Để sống theo quy luật của Thượng đế, một con chim phải bay, một con cá phải bơi và một con người phải yêu thương. Cách tốt nhất để cải thiện cuộc đời của nhau là qua tình yêu Yêu là biểu lộ cái tốt lành. Tình yêu không chỉ thực hiện trong lời nói mà còn trong những hành động chúng ta thực hiện vì kẻ khác“.

          Hoàng Kim noi theo người Thầy lớn minh triết, thắp lên ngọn đèn trí tuệ của chính mình. Tôi diễn đạt ĐỨC TIN và TÌNH YÊU của tôi theo sự trãi nghiệm cuộc đời niềm tin và nghị lực

          NIỀM TIN VÀ NGHỊ LỰC
          Hoàng Kim

          Minh triết đời người là yêu thương
          Cuối dòng sông là biển
          Niềm tin thắp lên nghị lực
          Yêu thương mở cửa thiên đường.

          LEV TONSTOY CHIẾN TRANH VÀ HÒA BÌNH

          Lev Tolstoy đại văn hào Nga, là cha đẻ của kiệt tác “Chiến tranh và hòa bình”, đỉnh cao của trí tuệ con người. Tiểu thuyết sử thi vĩ đại này đưa Lev Tolstoy vào trái tim của nhân loại và được yêu mến ở khắp mọi nơi trên thế giới. Tác phẩm “Chiến tranh và hòa bình được bình chọn là kiệt tác trong sách “Một trăm kiệt tác“ của hai nhà văn Nga nổi tiếng I.A.A-Bra- mốp và V.N. Đê-min do Nhà xuất bản Vê tre Liên bang Nga phát hành năm 1999, Nhà xuất bản Thế Giới Việt Nam phát hành sách này năm 2001 với tựa đề “Những kiệt tác của nhân loại“, dịch giả là Tôn Quang Tính, Tống Thị Việt Bắc và Trần Minh Tâm. “Chiến tranh và hòa bình” cũng được xây dựng thành bộ phim cùng tên do đạo diễn là Sergey Fedorovich Bondarchuk, công chiếu lần đầu năm 1965 và được phát hành ngày 28 tháng 4 năm 1968 tại Hoa Kỳ. Phim đoại giải thưởng Oscar phim nói tiếng nước ngoài xuất sắc nhất năm 1968.

          Tóm tắt tác phẩm Chiến tranh và hòa bình

          Tác phẩm mở đầu với khung cảnh một buổi tiếp tân, nơi có đủ mặt các nhân vật sang trọng trong giới quý tộc Nga của Sankt Peterburg. Bên cạnh những câu chuyện thường nhật của giới quý tộc, người ta bắt đầu nhắc đến tên của Napoléon và cuộc chiến tranh sắp tới mà Nga sắp tham gia. Trong số những tân khách hôm ấy có công tước Andrei Bolkonsky một người trẻ tuổi, đẹp trai, giàu có, có cô vợ Liza xinh đẹp mới cưới và đang chờ đón đứa con đầu lòng. Và một vị khách khác là Pierre người con rơi của lão bá tước Bezukhov, vừa từ nước ngoài trở về. Tuy khác nhau về tính cách, một người khắc khổ về lý trí, một người hồn nhiên sôi nổi song Andrei và Pierre rất quý mến nhau và đều là những chàng trai trung thực, luôn khát khao đi tìm lẽ sống. Andrei tuy giàu có và thành đạt nhưng chán ghét tất cả nên chàng chuẩn bị nhập ngũ với hy vọng tìm được chỗ đứng của một người đàn ông chân chính nơi chiến trường. Còn Pierre từ nước ngoài trở về nước Nga, tham gia vào các cuộc chơi bời và bị trục xuất khỏi Sankt Peterburg vì tội du đãng. Pierre trở về Moskva, nơi cha chàng đang sắp chết. Lão bá tước Bezukhov rất giàu có, không có con, chỉ có Pierre là đứa con rơi mà ông chưa công nhận. Mấy người bà con xa của ông xúm quanh giường bệnh với âm mưu chiếm đoạt gia tài. Pierre đứng ngoài các cuộc tranh chấp đó vì chàng vốn không có tình cảm với cha, nhưng khi chứng kiến cảnh hấp hối của người cha lúc lâm chung thì tình cảm cha con đã làm chàng rơi nước mắt. Lão bá tước mất đi để lại toàn bộ gia sản cho Pierre và công nhận chàXem tiếp >>

            Dạy và học 8 tháng 9(08-09-2021)


          DẠY VÀ HỌC 8 THÁNG 9
          Hoàng Kim
          CNM365 Tình yêu cuộc sốngNhững câu thơ lưu lạc; Chợt gặp mai đầu suối; Thầy nghề nông chiến sĩ; Thầy bạn là lộc xuân; Trường tôi nôi yêu thương; Đùa vui cùng Thuận Nghĩa; Ngôi sao mai chân trời; Đến Thái Sơn nhớ Người; Ngọc lục bảo Paulo Coelho; 500 năm nông nghiệp Brazil; Ngày 8 tháng 9 là ngày Đức Mẹ theo đức tin Công giáoChính thống giáo; ngày Lễ Tạ ơn tại MỹCanada, được tổ chức lần đầu vào ngày 8 tháng 9 năm 1565, cũng là Ngày Quốc tế biết Chữ; ngày Độc lập tại Macedonia (1991). Ngày 8 tháng 9 năm 1902 là ngày sinh Vũ Ngọc Phan (1902- 1987) nhà văn, nhà nghiên cứu văn học hiện đại và văn học dân gian Việt Nam, với các tác phẩm nổi tiếng Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam (sưu tầm, nghiên cứu, 2 tập, 1956), được tái bản nhiều lần; Nhà văn hiện đại (4 tập, 1942- 1945). Ngày 8 tháng 9 năm 1902 là ngày mất của Bạch Cư Dị là nhà thơ Trung Quốc rất nổi tiếng thời nhà Đường, xếp hàng đầu của thi ca Trung Quốc, chỉ sau Lý BạchĐỗ Phủ. Ngày 8 tháng 9 năm 1504 kiệt tác David của Michelangelo là một trong hai tác phẩm điêu khắc nghệ thuật vĩ đại nhất của ông, được khánh thành tại Florence, Ý. Bài chọn lọc ngày 8 tháng 9: Những câu thơ lưu lạc; Chợt gặp mai đầu suối; Thầy nghề nông chiến sĩ; Thầy bạn là lộc xuân; Trường tôi nôi yêu thương; Đùa vui cùng Thuận Nghĩa; Ngôi sao mai chân trời; Đến Thái Sơn nhớ Người; Ngọc lục bảo Paulo Coelho; 500 năm nông nghiệp Brazil; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-8-thang-9/

          MaiHacNguyenDu

          NHỮNG CÂU THƠ LƯU LẠC
          Hoàng Kim


          Ai viết cho ai những câu thơ lưu lạc.
          Giữa trần gian thầm lặng tháng năm dài ?

          “Thập tải luân giao cầu cổ kiếm.
          Nhất sinh đê thủ bái hoa mai”
          (1)
          (Mười năm lưu lạc tìm gươm báu
          Đời ta chỉ cúi lạy hoa mai ).

          “Nghêu ngao vui thú yên hà.
          Mai là bạn cũ, hạc là người quen”
          . (2)

          Trống lủng” (3) nghe tục giảng thanh
          Cận nhân tình, như không như có.
          Đình tiền tạc dạ nhất chi mai” (4)
          Bảng lãng như khói mây sương sớm

          Cao vọi “Thướng sơn”“Tầm hữu vị ngộ” (5)
          Núi cõng đường mòn, cha cõng con”.(6)
          Thăm thẳm những câu thơ lưu lạc
          Biển là ao lớn, thuyền là con bò”. (7)

          Dưỡng sinh thi“, “Sấm Trạng Trình“,
          Chí thiện“, “An nhàn vô sự là tiên“.
          :“Đông chinh thiên tử xuất”
          “Bất chiến tự nhiên thành”
          (8)

          Kinh Dịch xem chơi, yêu tính sáng yêu hơn châu báu.
          Sách Nhàn đọc giấu, trọng lòng rồi trọng nữa hoàng kim“. (9)

          KIM NOTES
          Hoàng Kim ghi chú

          (1) “Thập tải luân giao cầu cổ kiếm / Nhất sinh đê thủ bái hoa mai” (Mười năm lưu lạc tìm gươm báu / Đời ta chỉ cúi lạy hoa mai)  là hai câu thơ của Nguyễn Du. Trước đó, người đời cho là của Chu Thần Cao Bá Quát nhưng thực tế trong đời Cao Bá Quát không có mười năm lưu lạc “thập tải luân giao”.  Theo “Như Thanh nhật ký của Nguyễn Tử Giản thì năm Mậu Thìn (1868) phó chánh sứ Nguyễn Tử Giản được tri phủ Hán Dương là Ngải Tuấn Mỹ đón tiếp và tặng đôi câu đối trên. Hai câu thơ này không phải là do Ngãi Tuấn Mễ sáng tác mà có trên gốm sứ Hoa Bắc được Nguyễn Du lưu lại khi ông đóng vai nhà sư lưu lạc mười năm ở Trung Quốc. Ông cùng Hà Mỗ Quản Vũ Hầu Nguyễn Đăng Tiến lên Yên Kinh (Bắc Kinh) và cung Nhiệt Hà gặp Càn Long để chuyển hóa thời vận.  Nguyễn Du tính tình khoan hòa, điềm tĩnh, trọng “quân đức, dân tâm, học pháp”, có những câu thơ “thập tải luân giao”, ông chỉ bái lạy bậc hiền minh như cúi lạy trước hoa mai, “mai cốt cách, tuyết tinh thần”; xem
          Nguyễn Du thơ chữ Hán; Nguyễn Du Hồ Xuân Hương; Nguyễn Du tiếng tri âm; Nguyễn Du trăng huyền thoại

          (2) “Nghêu ngao vui thú yên hà. Mai là bạn cũ, hạc là người quen” trên đĩa Mai Hạc, sản phẩm gốm sứ Quảng Tây, truyền là của Nguyễn Du khi ông ở Trung Quốc. xem ghi chú 1

          (3) “
          Trống lủng“, “Vịnh Đồ Sơn“, “Núi Kẽm Trống” là những kiệt tác thơ Hồ Xuân Hương cận nhân tình, đa ngữ nghĩa, như có như không, như khói mây sương sớm; xem Nguyễn Du Hồ Xuân Hương.

          (4) “Đình tiền tạc dạ nhất chi mai” thơ Mãn Giác thiền sư; xem Gốc mai vàng trước ngõ

          (5) “Thướng sơn” “Tầm hữu vị ngộ” mời đọc ẩn ngữ ở bài “Chợt gặp mai đầu suối

          (6) “Núi cõng con đường mòn. Cha thì cõng theo con” “Núi nằm yên một chỗ” “Con thì chạy lon ton” “Cha siêng hơn ngọn núi” “Con đường lười hơn con” thơ đồng dao của Nguyễn Sinh Cung (Nguyễn Tất Thành, tên thuở nhỏ của Hồ Chí Minh) lúc 5 tuổi, tại đèo Ngang, trong chuyện kể “Tất Đạt tự ngôn” được Sơn Tùng ghi lại.  Ngày 19 tháng 5 thành lập mặt trận Việt Minh trùng ngày khai sinh đường Hồ Chí Minh và cũng trùng ngày sinh chủ tịch Hồ Chí Minh; xem Sơn Tùng chuyện Bác Hồ 

          (7)Biển là ao lớn. Thuyền là con bò” Thuyền ăn gió no” “Lội trên mặt nước” “Em trông thấy trước” “Anh nhìn thấy sau” “Chúng ta lớn mau” “Vượt qua ao lớn” Lời đồng dao này là của cậu bé Nguyễn Sinh Cung “nói” năm 1895 mà  Sơn Tùng đã ghi lại và in trên báo Cứu Quốc lần đầu năm 1950 Biển là ao lớn. Thuyền là con bò” trùng với “đường lưỡi bò” hiện nay. Câu chuyện trẻ con đan xen những ẩn khuất lịch sử chưa được giải mã đầy đủ về Quốc Cộng hợp tác, tầm nhìn Hoàng Sa, Trường Sa của Tưởng Giới Thạch, Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh trong giai đoạn 1424-1427, lúc mà Nguyễn Ái Quốc lấy tên là Lý Thụy làm phiên dịch cho Borodin trưởng đoàn cố vấn của chính phủ Liên Xô tới Quảng Châu giúp chính phủ Trung Hoa Dân quốc của Tưởng Giới Thạch; xem
          Sơn Tùng chuyện Bác Hồ

          (8) “Dưỡng sinh thi“, “Sấm Trạng Trình”,”Chí thiện“, “An nhàn vô sự là tiên”, “Đông chinh thiên tử xuất” ,”Bất chiến tự nhiên thành” là kiệt tác thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm, xem 
          Ngày xuân đọc Trạng Trình.

          (9) “Kinh Dịch xem chơi, yêu tính sáng yêu hơn châu báu. Sách Nhàn đọc giấu, trọng lòng rồi trọng nữa hoàng kim“. Thơ Thiền Trần Nhân Tông, “Cư trần lạc đạo phú” xem
          Lên Trúc Lâm Yên Tử; Trúc Lâm Trần Nhân Tông

          Quadeochotgapmaidausuoi

          CHỢT GẶP MAI ĐẦU SUỐI
          Hoàng Kim

          Nghìn dặm tìm anh chẳng gặp anh/ Đường về vó ngựa dẫm mây xanh/ Qua đèo chợt gặp mai đầu suối/ Đóa đóa vàng tươi xuân thắm cành“. Tôi biết bài thơ kỳ lạ này của Bác Hồ đăng trên báo khoảng năm 1970 do một chuyện ngẫu nhiên tình cờ nên nhớ mãi. Bài thơ kỳ lạ vì ẩn chứa nhiều triết lý sâu sắc không dễ thấy, vì nó là thơ của Bác Hồ mà ít thấy sách báo nào nhắc đến gần nửa thế kỷ qua.Thuở ấy, tôi mười bảy tuổi, đã cùng người anh trai Hoàng Ngọc Dộ ra thăm đèo Ngang. Chúng tôi vừa đi xe đạp vừa đi bộ từ chân núi lên đến đỉnh đèo. Gần cột mốc địa giới hai tỉnh trên đỉnh đường xuyên sơn, cạnh khe suối ven đỉnh dốc sườn đèo có cây mai rừng rất đẹp. Chúng tôi đang thưởng ngoạn thì chợt gặp xe của Bộ trưởng Xuân Thủy và  bí thư tỉnh ủy Quảng Bình Nguyễn Tư Thoan vừa tới. Họ đã xuống xe ngắm nhìn trời, biển, hoa, núi và bộ trưởng Xuân Thuỷ đã bình bài thơ trên.

          Bộ trưởng Xuân Thủy là nhà ngoại giao có kiến thức rộng, bạn thơ của Hồ Chí Minh, giỏi dịch thơ chữ Hán. Ông cũng là người đã dịch bài thơ “Nguyên tiêu” nổi tiếng, nên khi tôi tình cờ được nghe lời bình phẩm trực tiếp của ông về bài thơ trên thì tôi đã nhớ rất lâu. Tôi cũng hiểu nghĩa rõ ràng cụm từ “Trung Nam Hải” từ dịp ấy.

          Ba mươi năm sau, khi anh Gia Dũng sưu tầm, tuyển chọn và giới thiệu bài thơ “Tìm bạn không gặp” trong tập thơ “Ngàn năm thương nhớ” tuyển thơ một nghìn năm Thăng Long, Hà Nội. Bài thơ “Tầm hữu vị ngộ” của Bác do nhà Hán học nổi tiếng Phan Văn Các diễn nghĩa và dịch thơ. Nội dung tuy vẫn thế nhưng bản dịch mới lời dịch sát nghĩa chữ Hán hơn so với bản tự dịch thoáng ý của chính Bác và có khác MỘT chữ so với bài mà tôi được nghe bình trước đây. Đó là từ “nghìn dặm” được thay bằng từ “trăm dặm” (“bách lý tầm quân vị ngộ quân” thay vì “thiên lý tầm quân vị ngộ quân”). Bản dịch mới có lời ghi chú, nghe nói là của Bác. Bài thơ viết năm 1950 nhưng xuất xứ và cảm xúc thực sự của Người khi thăng hoa bài thơ nổi tiếng này thì nay vẫn còn để ngỏ.

          Tầm hữu vị ngộ, thơ Hồ Chí Minh

          尋友未遇

          千里尋君未遇君,
          馬蹄踏碎嶺頭雲。
          歸來偶過山梅樹,
          每朵黃花一點春。

          (Bản chữ Hán trên Thi Viện của Đào Trung Kiên)

          Tầm hữu vị ngộ

          Thiên lý tầm quân vị ngộ quân,
          Mã đề đạp toái lĩnh đầu vân.
          Quy lại ngẫu quá sơn mai thụ,
          Mỗi đoá hoàng hoa nhất điểm xuân.

          Nghìn Trăm dặm tìm anh chẳng gặp anh,
          Đường về vó ngựa dẫm mây xanh.
          Qua đèo chợt gặp mai đầu suối
          Đóa đóa vàng tươi xuân thắm cành.

          (Bản tự dịch của Hồ Chí Minh, theo lời Xuân Thủy)

          “Trăm dặm tìm không gặp cố nhân
          Mây đèo dẫm vỡ ngựa dồn chân
          Đường về chợt gặp cây mai núi
          Mỗi đoá hoa vàng một nét xuân”
          (Bản dịch thơ của
          Phan Văn Các)

          Bác ra nước ngoài từ đầu năm 1950 đến đầu tháng Tư mới về nước theo hồi ức “Chiến đấu trong vòng vây” của đại tướng Võ Nguyên Giáp. Bác lúc đó đã sáu mươi tuổi, bí mật đi đến Bắc Kinh gặp chủ tịch Đảng Cộng sản Trung Quốc Mao Trạch Đông rồi đi luôn sang Matxcơva gặp đồng chí Stalin. Bác cũng đi tìm gặp đại tướng Trần Canh khi chuẩn bị chiến dịch Biên giới. Trong cơn lốc của các sự kiện, Bác khẳng định: “ Tổng phản công của ta sẽ là một giai đoạn lâu dài. Rồi đây, có sự chi viện của Liên Xô và Trung Quốc về vật chất, vũ khí, trang bị, ta sẽ đỡ khó khăn hơn, nhưng giành được thắng lợi là phải do sức nỗ lực của chính bản thân ta quyết định”.

          “Nghìn dặm” hay “trăm dặm”? “gặp bạn” hay “không gặp” hoặc “gặp nhưng không gặp về cách làm”? Ngữ nghĩa của câu thơ “Bách lý tầm quân vị ngộ quân” khác hẳn với “thiên lý tầm quân vị ngộ quân” và không đơn giản dịch là “Tìm bạn không gặp”. Dường như Bác đang đề cập một vấn đề rất lớn của định hướng chiến lược đối ngoại. Nhiều sự kiện lịch sử hiện tại đã được giải mã nhưng còn nhiều ẩn ý sâu sắc trong thơ Bác cần được tiếp tục tìm hiểu, khám phá thêm. Những năm tháng khó khăn của cách mạng Việt Nam “chiến đấu trong vòng vây”; Những tổn thất và sai lầm trong cải cách ruộng đất do sự thúc ép từ phía Liên Xô và sự vận dụng không phù hợp kinh nghiệm của Trung Quốc; Quan hệ của nước nhỏ đối với các nước lớn. Nhiều điều tinh tế ẩn chứa trong thơ Bác.

          Ý tứ trong bài thơ của Bác rất gần với với một bài thơ cổ của Trung Quốc thời nhà Tống: “Tận nhật tầm xuân bất kiến xuân/ Mang hài đạp phá lãnh đầu vân/ Quy lai khước phá mai hoa hạ/ Xuân tại chi đầu vị thập phân”. Bài thơ tả một ni cô mang hài trèo đèo vượt núi cực khổ tìm xuân suốt ngày mà vẫn chẳng gặp xuân. Đến khi trở về mới thấy xuân đang hiện trên những cành mai trong vườn nhà.

          Bác Hồ cũng vượt vòng vây phong tỏa, chịu nhiều gian khổ suốt bốn tháng ròng để tìm sự ủng hộ quốc tế cho cách mạng Việt Nam đang “chiến đấu trong vòng vây”. Trên đường về, qua đèo, Bác chợt gặp cây mai đầu suối và Bác đã ngộ ra được những vấn đề sâu sắc của phương pháp cách mạng. Đối diện với mặt trời đỏ “đông phương hồng, mặt trời lên” là mặt TRĂNG hiền hoà (rằm xuân lồng lộng trăng soi) và gốc MAI vàng cổ thụ bên SUỐI nguồn tươi mát (bên suối một nhành mai). Trăng, suối, hoa mai là những cụm từ quan trọng trong thơ Bác. Nó là triết lý ứng xử tuyệt vời của một nước nhỏ đối với các nước lớn trong quan hệ quốc tế phức tạp. Trời càng sáng, trăng càng trong, nước càng mát, mai càng nở rộ.

          Ngày xuân, hiểu sâu thêm một bài thơ hay của Bác và góp thêm một tản văn về trăng, suối nguồn, hoa mai.

          *

          “Qua đèo chợt gặp mai đầu suối” là bài viết được nhiều người yêu thích và trao đổi. Nay tôi bổ sung thêm năm tìm tòi mới:

          1) Tầm hữu vị ngộ thơ Hồ Chí Minh (đúc kết mới sau chín năm tìm hiểu);
          2) Nhành mai điểm nhấn tinh tế trong thơ Bác;
          3) Đèo Ngang và những tuyệt phẩm thơ cổ;
          4) Đèo Ngang nơi lưu dấu những huyền thoại.
          5) Suy ngẫm về những câu thơ lưu lạc.

          Tầm hữu vị ngộ thơ Hồ Chí Minh

          “Tầm hữu vị ngộ” Hồ Chí Minh là ẩn ngữ sâu sắc của phương pháp cách mạng, tôi đã đưa thông tin liên tục chín năm nay (2006-2015) tại bài viết “Qua đèo chợt gặp mai đầu suối”. Đối diện với mặt trời đỏ “đông phương hồng, mặt trời lên” là mặt TRĂNG hiền hoà (rằm xuân lồng lộng trăng soi) và gốc MAI vàng cổ thụ bên SUỐI nguồn tươi mát (bên suối một nhành mai). Trăng, suối, hoa mai là những cụm từ quan trọng trong thơ Bác. Nó là triết lý ứng xử tuyệt vời của một nước nhỏ đối với các nước lớn trong quan hệ quốc tế phức tạp. Trời càng sáng, trăng càng trong, nước càng mát, mai càng nở rộ.

          Bài thơ “Tầm hữu vị ngộ” Hồ Chí Minh liên quan chặt chẽ đến bài thơ “Thướng sơn”; là bài thơ Ngôn chí đặc sắc của Hồ Chí Minh viết ở Lũng Dẻ năm 1942, in tại: Thơ chữ Hán Hồ Chí Minh, Nhà Xuất bản Văn học, Hà Nội, 1990, trang 14. Hai bài thơ ẩn ngữ đều lấy ý chủ đạo “nhành mai” đối “mặt trời hồng“. “Qua đèo chợt gặp mai đầu suối.”
          Hoàng Kim bình thêm bài “Thướng sơn” để góp phần hiểu rõ thêm “Tầm hữu vị ngộ”.

          上山





          (Bản chữ Hán trên Thi Viện của Đào Trung Kiên)

          Thướng sơn

          Lục nguyệt nhị thập tứ,
          Thướng đáo thử sơn lai.
          Cử đầu hồng nhật cận,
          Đối ngạn nhất chi mai.

          Dịch nghĩa

          Ngày hai mươi bốn tháng sáu,
          Lên đến núi này.
          Ngẩng đầu thấy mặt trời đỏ gần lại,
          Bờ bên kia có một nhành mai.

          Dịch thơ

          Hai mươi tư tháng sáu,
          Lên ngọn núi này chơi.
          Ngẩng đầu: mặt trời đỏ,
          Bên suối một nhành mai.
          (Bản dịch của Tố Hữu)

          Hăm tư tháng sáu hôm nay
          Trèo lên trên đỉnh núi này dạo chơi
          Ngẩng lên đỏ chói mặt trời
          Bên kia khe một nhành mai xanh rờn
          (Bản dịch của Xuân Thủy)

          Ngày hăm tư tháng sáu
          Lên đến ngọn núi này
          Thấy gần mặt trời đỏ
          Bờ trước một nhành mai
          (Bản dịch của Nguyễn Thế Nữu)

          Ngày 24 tháng 6 là ngày gì trong lịch sử? Ngày 24 tháng 6 năm 1812 là ngày đại quân của Hoàng đế Pháp Napoléon Bonaparte vượt sông Neman, khởi đầu xâm chiếmĐế quốc Nga. Ngày 24 tháng 6 năm 1942 là ngày khởi đầu của chiến dịch Voronezhđại quân Đức Quốc XãAdolf Hitler tấn công Voronezh, thành phố có tầm quan trọng chiến lược đặc biệt quan trọng bên bờ sông Đông, (là nguyên quán của Nikolai Fyodorovich Vatutin tư lệnh Phương diện quân Tây Nam, lực lượng phòng thủ chính của Liên Xô trong Chiến dịch phòng thủ Valuiki – Rossosh năm 1942). Về sau Adolf Hitler cho rằng hai ngày chậm trễ trong chiến dịch này đã làm Tập đoàn quân thiết giáp số 4 không kịp đến, làm giảm sức công phá và để cho Liên Xô kịp phòng thủ cứu nguy Stalingrad, thay đổi cục diện chiến tranh. Ngày 24 tháng 6 năm 1942 tại Lũng Dẻ, Hồ Chí Minh lên núi.

          “Thướng sơn” và “Tầm hữu vị ngộ” là ẩn ngữ, những câu thơ lưu lạc giữa đời thường. Hồ Chí Minh là người chuộng kinh Dịch và rất tinh tế, thường có những ứng xử ngẫu nhiên phù hợp với quy luật tất nhiên. Hồ Chí Minh trọn đời minh triết viết và nói thường có ẩn ý. Ví như 19 tháng 5 là ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, cũng là ngày thành lập Việt Minh, cũng là ngày khai sinh  đường Hồ Chí Minh trong lịch sử. Chuỗi ba sự kiện lớn này đóng mốc son ngày 19 tháng 5 vào lịch sử Việt Nam và thế giới đối với nền độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và sự nghiệp thống nhất Tổ quốc Việt Nam.

          “Thướng sơn” (lên núi) ví như lên non để quan sát thế trận biến ảo khôn lường của
          Chiến tranh thế giới thứ hai mà người thường khó đánh giá kết quả thắng thua. Uông Tinh Vệ tưởng là nối nghiệp Tôn Trung Sơn thời Trung Hoa Dân Quốc, “tam hùng” so với Mao Trạch Đông và Tưởng Giới Thạch. Uông Tinh Vệ trước hướng tả theo đại kế Tôn Trung Sơn “Quốc Cộng hợp tác” “Liên Nga, thân Cộng, ủng hộ Công Nông, Tam Dân chủ thuyết” nhưng về sau đã sai lầm chuyển sang hữu, kết giao với người Nhật và trở thành Hán gian vì Uông Tinh Vệ đánh giá sai kết cục Chiến tranh thế giới thứ hai là Đức Nhật Ý sẽ thắng vì có tương quan mạnh hơn Nga Mỹ Anh Trung Hoa Dân Quốc.

          “Thướng sơn” và “Tầm hữu vị ngộ” là lên non thiêng, tìm về chính mình. “Đi đường mới biết gian lao. Núi cao rồi lại núi cao chập chùng . Núi cao lên đến tận cùng. thu vào tầm mắt muôn trùng nước non” (Đi đường, Hồ Chí Minh). Giác ngộ, tìm về chính minh, xác định đúng tình thế, thời cơ và phương pháp cách mạng phù hợp “tùy cơ, tùy vận, tùy thiên mệnh, tùy thời, tùy thế lại tùy nghi là minh triết Hồ Chí Minh.

          Nhành mai trong thơ Bác

          Qua đèo chợt gặp mai đầu suối” “Gốc mai vàng trước ngõ” Hoàng Kim đã đúc kết thơ danh sĩ viết về hoa mai. Bài này là “Nhành mai trong thơ Bác”.

          Nghìn dặm tìm anh chẳng gặp anh. Đường về vó ngựa dẫm mây xanh. Qua đèo chợt gặp mai đầu suối . Đóa đóa vàng tươi xuân thắm cành” Tầm hữu vị ngộ Hồ Chí Minh nhành mai trong thơ Hồ Chí Minh giống và khác gì so với các bài khác? như “Đêm qua sân trước một nhành mai” (Mãn Giác 1052-1096) “Lâm râm mưa bụi gội cành mai” (Trần Quang Khải 1241-1294); “Ngự sử mai hai hàng chầu chắp/ Trượng phu tùng mấy rặng phò quanh” (Huyền Quang 1254-1334); Quét trúc bước qua lòng suối/ Thưởng mai về đạp bóng trăng” (Nguyễn Trãi 1380-1442); “Cốt cách mai rừng nguyên chẳng tục”( Nguyễn Trung Ngạn 1289-1370); “Mai cốt cách, tuyết tinh thần” (Nguyễn Du 1765-1820) “Nhờ chúa xuân ưu ái/ Xếp đứng đầu trăm hoa/ Chỉ vì lòng khiêm tốn/ Nên hẵng nở tà tà” (Phan Bội Châu 1867-1940); “Mộng mai đình” (Trịnh Hoài Đức 1725-1825) ; “Non mai rồi gửi xương mai nhé/ Ước mộng hồn ta hóa đóa mai” (Đào Tấn 1845-1907); “Một đời chỉ biết cúi đầu vái trước hoa mai” (Cao Bá Quát 1809- 1855) “Hững hờ mai thoảng gió đưa hương” (Hàn Mặc Tử 1912-1940) “Tìm em tôi tìm/ Mình hạc xương mai”(Trịnh Công Sơn 1939-2001), …

          Bài thơ “Tầm hữu vị ngộ” Hồ Chí Minh câu thơ nguyên tác cuối bài là  “Mỗi đoá hoàng hoa nhất điểm xuân” . Giáo sư tiến sĩ Hán học Phan Văn Các, nguyên Viện trưởng Viện Hán Nôm đã dịch là “Mỗi đoá hoa vàng một nét xuân”. So câu chữ là rất chuẩn và rất sát nghĩa. Thế nhưng, tôi lại nghe cố bộ trưởng nhà thơ Xuân Thủy, người đã dịch kiệt tác bài thơ “Nguyên tiêu” ra tiếng Việt, nói năm 1970 thì “Ông Cụ” đã tự mình dịch câu thơ trên là “đóa đóa vàng tươi xuân thắm cành”.

          (*) Nhân nói thêm dịch bài thơ “Nguyên tiêu” Hồ Chí Minh, kiệt tác trong “100 bài thơ hay nhất Việt Nam thế kỷ 20” thì bản dịch thơ của Xuân Thủy được nhiều người yêu thích hơn cả. Tuy vậy nghe nói là Cụ Hồ đã hỏi vui Bộ trưởng Xuân Thủy rằng câu thơ “Xuân giang, xuân thủy tiếp xuân thiên” (sông xuân, nước xuân tiếp trời xuân) khi dịch là “Sông xuân nước lẫn bầu trời thêm xuân” thì ba chữ xuân sao chỉ còn lại hai chữ xuân?
          Đó cũng là điều tinh tế (ví như Bộ trưởng Xuân Thủy là Bộ trưởng không Bộ vậy).

          RẰM THÁNG GIÊNG
          Hồ Chí Minh

          Rằm xuân lồng lộng trăng soi,
          Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân.
          Giữa dòng bàn bạc việc quân,
          Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền.

          (Bản dịch thơ của Xem tiếp >>

            Dạy và học 7 tháng 9(07-09-2021)


          DẠY VÀ HỌC 7 THÁNG 9
          Hoàng Kim
          CNM365 Tình yêu cuộc sốngNông lịch Tiết Bạch Lộ; Đến Thái Sơn nhớ Người; Tương lai trong tay ta; Năm tháng đó là em; Đùa vui cùng Thuận Nghĩa;Ngôi sao mai chân trời; Ngọc lục bảo Paulo Coelho; 500 năm nông nghiệp Brazil;. 24 tiết khí lịch nhà nông; Ngày 7 tháng 9 năm 1822 Ngày Độc lập tại Brasil; Bắt đầu tiết khí Bạch lộ (nắng nhạt). Ngày 7 tháng 9 năm 1442, Vụ án Lệ Chi Viên: Lê Thái Tông mất tại Trại Vải, Chí Linh, Hải Dương, sau đó Nguyễn Trãi và gia đình bị án tru di tam tộc vì tội thí quân (4 tháng 8 năm Nhâm Tuất). Ngày 7 tháng 9 năm 1812, Chiến tranh Pháp- Nga: Trận Borodino, giữa quân đội Pháp do Napoléon I chỉ huy và quân đội Nga dưới sự chỉ huy của tướng M. I. Kutuzov. Đây là trận chiến đẫm máu nhất trong các cuộc chiến tranh của Napoléon diễn ra gần Moskva. Bài chọn lọc ngày 7 tháng 9 Nông lịch Tiết Bạch Lộ; Đến Thái Sơn nhớ Người; Tương lai trong tay ta; Năm tháng đó là em; Đùa vui cùng Thuận Nghĩa;Ngôi sao mai chân trời; Ngọc lục bảo Paulo Coelho; 500 năm nông nghiệp Brazil;. 24 tiết khí lịch nhà nông; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/ http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-7-thang-9/

          NÔNG LỊCH TIẾT BẠCH LỘ
          Hoàng Kim


          Nông lịch Tiết Bạch Lộ
          Đến Thái Sơn nhớ Người
          Tương lai trong tay ta
          Năm tháng đó là em

          24 TIẾT KHÍ NÔNG LỊCH
          Hoàng Kim


          Khuyên em đừng quên nhất thì nhì thục
          Di sản Việt Nam học mãi không cùng
          Mình học để làm hai bốn tiết khí
          Mộc mạc hát vần bài học đầu tiên.

          Đất cảm trời thương lòng người gắn bó
          Dẫu khó vạn lần khéo liệu cũng xong
          Mùa xuân tới tự tiết xuân sẽ đến
          Bởi biết rằng năm tháng đó là em.

          6 tháng Một bắt đầu rét nhẹ
          21 tháng Một trời lạnh cắt da
          4 tháng Hai ngày xuân mới đến
          20 tháng Hai Thiên Địa Nhân hòa.

          Đồng dao cho em khuyên em đừng tưởng
          Câu chuyện mùa xuân
          thêm cho mồng Ba
          Trải Cốc Vũ qua ngày Hạ Chí
          Đại Thử rồi Sương Giáng thành hoa.

          6 tháng Năm là ngày Hè đến
          22 tháng Năm mưa nhỏ, vào mùa
          5 tháng Sáu ngày Tua Rua mọc
          21 tháng Sáu là chính giữa Hè.

          7 tháng Bảy là ngày nắng nhẹ
          23 tháng Bảy là tiết nóng oi
          7 tháng Tám Lập Thu rồi đó
          23 tháng 8 trời đất mưa Ngâu

          Qua Xử Thử đến tiết trời Bạch Lộ
          Sau Mưa Ngâu đến Nắng sớm đấy em.
          Tiết Thu Phân khoảng 23 tháng 9
          Đối lịch nhà nông em nhớ đừng quên.

          Tiết Hàn Lộ nghĩa là trời mát mẻ
          Kế tiếp theo là Sương Giáng (sương mù)
          23 tháng 10 mù sa dày đặc
          Thuyền cỏ mượn tên nhớ chuyện Khổng Minh.

          Ngày 7 tháng 11 là tiết lập đông
          23 tháng 11 là ngày tiểu tuyết
          8 tháng 12 là ngày đại tuyết
          22 tháng 12 là chính giữa đông.

          Khuyên em đừng quên nhất thì nhì thục
          Di sản Việt Nam học mãi không cùng
          Mình học để làm 24 tiết khí
          Mộc mạc hát vần bài học đầu tiên.

          Mùa vụ trồng cây, kinh nghiệm nghề nông
          Xin em đừng quên điều ông bà dạy
          Xuân Hạ Thu Đông hai bốn tiết khí
          Khoa học thiên văn ẩn ngữ đời người.

          Đất cảm trời thương, lòng người gắn bó
          Dẫu khó vạn lần khéo liệu cũng xong
          Mùa xuân tới tự tiết xuân sẽ đến
          Bởi biết rằng
          năm tháng đó là em.

          ĐẾN THÁI SƠN NHỚ NGƯỜI
          Hoàng Kim

          Thật sung sướng biết bao
          Trong các chuyến đi xa
          Được ngắm núi Thái Sơn
          Đi thuyền trên Trường Giang
          Dạo sông nước Hoàng Hà
          Viếng mộ đức Khổng Tử
          Thăm quê Hán Cao Tổ
          Lên Vạn Lý Trường Thành
          Ngẫm bài học Tần Vương
          Qua cửa Thiên An Môn
          Hiểu hai bài học lớn

          Tiếc chưa đến Định Quân
          Thăm ông Gia Cát Lượng
          Chưa qua Miêu Đài Tử
          Đàm đạo với Lưu Hầu.

          Hổ Khẩu trên Hoàng Hà
          Đập Tam Hiệp Trường Giang
          Trung Nam Hải Tam Tuyến
          Thăm thẳm nước sông sâu.

          Thật sung sướng hôm nay
          Cha con ta lên Thái Sơn ngắm núi
          Thăm thẳm trời Nam gió thổi
          Lòng sông gương sáng bụi không mờ (**)

          Qua Trường Giang nhớ Mekong
          Đến Vũ Hán thăm Hoàng Hạc Lâu,
          Tới Hàng Châu
          Tô Đông Pha Tây Hồ
          Đến Thái Sơn nhớ Người
          Nhớ Yên Tử, Đền Hùng
          Nghe sóng nhạc Linh Giang
          Mekong cuồn cuộn chảy

          Trung Quốc một suy ngẫm
          Ngẫm bài học Tần Vương
          Đau buốt Minh Thành Tổ
          Ngọc Phương Nam ngày mới
          Nguyễn Du trăng huyền thoại
          Dụng câu Kiều
          thon thả
          một khúc ngâm ..

          Hoàng Kim
          (Tiết Bạch Lộ nắng sớm)

          *

          KhongTu2

          KHỔNG TỬ DẠY VÀ HỌC
          Hoàng Kim

          Hồ Chí Minh hữu ý hay vô tình đã chọn ngày 19 tháng 5 để thăm Khổng Tử. Ngày 19 tháng 5 là ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, cũng là ngày thành lập Việt Minh, khai sinh đường Hồ Chí Minh trong lịch sử. Chuỗi ba sự kiện lớn này đóng mốc son ngày 19 tháng 5 vào lịch sử Việt Nam và thế giới đối với nền độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và sự nghiệp thống nhất Tổ quốc Việt Nam. Tôi có viết bài “
          Hồ Chí Minh trọn đời minh triết” với ba ý: Việt Nam Hồ Chí Minh biểu tượng Việt; Bác Hồ nói đi đôi với làm mẫu mực đạo đức; Bác Hồ rất ít trích dẫn. Hồ Chí Minh bình sinh rất ít trích dẫn nhưng đối với Khổng Tử, Hồ Chí Minh có riêng hai bài đánh giá kỹ và sâu về di sản Khổng Tử. Tới Bắc Kinh lần này, tôi ước nguyện thăm lúa siêu xanh và thăm Khúc Phụ.

          Khổng Tử sinh năm 551 mất năm 479 Trước Công Nguyên là nhà hiền triết phương Đông nổi tiếng người Trung Hoa, suốt đời dạy người không mỏi, học người không chán. Các bài giảng và triết lý của ông, đặc biệt là đạo làm người và tu dưỡng đạo đức cá nhân, đã ảnh hưởng sâu rộng đến tư tưởng và đời sống của nhiều nước Đông Á suốt hai mươi thế kỷ qua.  Người Trung Hoa đời sau đã tôn xưng ông là Vạn thế Sư biểu (Bậc Thầy muôn đời). Chính phủ Trung Quốc hiện nay, trong nỗ lực truyền bá văn hóa Trung Hoa ra thế giới, đã thành lập hàng trăm Học viện Khổng Tử khắp toàn cầu.

          Khổng Tử là người thế nào? Viết về Khổng Tử liệu có thức thời không? Học để làm điều gì ở Khổng Tử? xem tiếp

          https://hoangkimlong.wordpress.com/2018/05/19/khong-tu-day-va-hoc/

          KhongTu1

          HỌC ĐỂ LÀM ĐIỀU GÌ Ở KHỔNG TỬ?

          Đức Khổng Tử có nhiều triết lý sâu sắc. Khổng Tử suốt đời dạy người không mỏi, học người không chán, ưu tiên dạy và học đạo làm người, đạo đức cá nhân. Khổng Tử là vầng trăng cổ tích, bậc Thầy muôn đời. Tôi tự suy ngẫm, nhận thức mới và thấm thía: Học mà không hành, dạy nhiều vô ích. Sống không phúc hậu, cố gắng vô ích.

          Học để làm điều gì ở Khổng Tử của Hồ Chí Minh là trí tuệ Việt Nam. Sâu sắc thay thơ  “Thăm Khúc Phụ/ Hồ Chí Minh/ Mười chín tháng năm thăm Khúc Phụ,/ Thông già, miếu cổ thảy lu mờ./ Uy quyền họ Khổng giờ đâu nhỉ?/ Bia cũ còn soi chút nắng tà”. “Nếu Khổng Tử sống ở thời đại chúng ta và nếu ông khăng khăng giữ những quan điểm cũ thì ông sẽ trở thành phần tử phản cách mạng. Chính phủ Trung Quốc đã làm mất đi một thể chế cũ trái với dân chủ. Còn những người An Nam chúng ta hãy tự hoàn thiện mình, về mặt tinh thần bằng đọc các tác phẩm của Khổng Tử và về mặt cách mạng thì cần đọc các tác phẩm của Lênin!”. “Chúa Giêsu dạy: Đạo đức là bác ái. Phật Thích Ca dạy: Đạo đức là từ bi. Khổng Tử dạy: Đạo đức là nhân nghĩa” (Báo Nhân Dân ngày 14/6/1951). Sự tu dưỡng đạo đức cá nhân và tự nguyện thực hành trọn đời của Hồ Chí Minh về “cần kiệm liêm chính, chí công vô tư” là có noi theo Khổng Tử.

          NHẬN THỨC ĐÚNG VỀ KHỔNG TỬ

          Nhận thức đúng về Khổng Tử, chọn lọc, bảo tồn và phát triển tinh hoa Khổng Tử được lưu lại chủ yếu trong tài liệu chính  là Luận Ngữ của nhà giáo họ Khổng để ứng dụng và thực hành cho phù hợp thời thế, đó là việc làm căn bản và cần thiết. Mục đích sau cùng của DẠY VÀ HỌC là thấu suốt bản chất sự vật, có lời giải đúng và LÀM được việc.

          Tư Mã Thiên dành một thiên trong Thế gia của Sử Ký (từ trang 208 đến trang 247) để viết rất kỹ về Khổng Tử, với lời bình cuối bài:  “Kinh Thi nói: Núi cao ta trông, đường rộng ta đi Tuy chưa đến đích, nhưng lòng hướng về. Tôi đọc sách của họ Khổng, tưởng tượng như thấy người. Đến khi đến nước Lỗ xem nhà thờ Trọng Ni, nào xe cộ, nào áo, nào đồ tế lễ, học trò tập về lễ nghi ở nhà Khổng Tử theo đúng từng mùa, tôi bồi hồi nán lại bỏ đi không dứt. Trong thiên hạ, các vua chúa và người tài giỏi rất nhiều, khi sống thì vinh hiển, nhưng lúc chết là hết. Khổng Tử là một người áo vải thế mà truyền hơn mười đời, các học giả đều tôn làm thầy, từ thiên tử đến vương hầu ở Trung Quốc hể nói đến lục nghệ đều lấy Khổng Tử làm tiêu chuẩn. Có thể gọi là bậc chí thánh vậy.”

          Hồ Chí Minh trong tài liệu “Hồ Chí Minh về vấn đề tôn giáo và tín ngưỡng”, Nhà Xuất Bản Khoa học Xã hội, Hà Nội năm 1996, trang 152 đã viết: “Học thuyết của Khổng Tử có ưu điểm là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tôn giáo của Jê su có ưu điểm của nó là lòng nhân ái cao cả. Chủ nghĩa Mác có ưu điểm là phương pháp làm việc biện chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm là chính sách của nó thích hợp với điều kiện nước ta. Khổng Tử, Jê su, Mác, Tôn Dật Tiên chẳng có ưu điểm chung đó sao? Họ đều mưu cầu hạnh phúc cho loài người, mưu cầu hạnh phúc cho xã hội. Nếu hôm nay họ còn sống trên đời này, tôi tin rằng họ nhất định sống chung với nhau rất hoàn mỹ như những người bạn thân thiết. Tôi cố gắng làm một người học trò nhỏ của các vị ấy.”

          Nguyễn Hiến Lê tại trang đầu của sách “Khổng Tử”, Nhà Xuất Bản Văn Hóa, Hà Nội năm 1991 đã đánh giá: ” Triết thuyết nào cũng chỉ để cứu cái tệ của một thời thôi. Muốn đánh giá một triết thuyết thì phải đặt nó vào thời của nó, xem nó giải quyết được những vấn đề của thời đó không, có là một tiến bộ so với các thời khác, một nguồn cảm hứng cho các thời sau không. Và nếu sau mươi thế hệ, người ta thấy nó vẫn còn làm cho đức trí con người được nâng cao thì phải coi nó là một cống hiến lớn cho nhân loại rồi”.

          Sách về Khổng Tử thật nhiều nhưng Luận Ngữ là đáng tin cậy hơn cả. Sự ngụy tạo, lợi dụng Khổng Tử, giảng giải, diễn dịch và viết thêm của đời sau cũng nhiều. Chào ngày mới 2 tháng 8 đúc kết thông tin vắn tắt về Khổng Tử theo Từ Điển Bách Khoa Mở Wikipedia

          VIẾT VỀ KHỔNG TỬ LIỆU CÓ THỨC THỜI KHÔNG?

          Khổng Tử lúc đương thời không ông vua nào nghe lời khuyên của ông, không nước nào dung nạp được ông và ông hoàn toàn thất bại về chính trị. Nguyễn Hiến Lê nhận xét đại ý là Khổng Tử cũng không đạt được mục tiêu về giáo dục. Vì ông chủ trương đức trị, muốn đào tạo những người vừa có đức vừa có tài để cho ra làm quan nhưng ba ngàn đệ tử thì chỉ có vài ba người có đức hoặc chết sớm như Nhan Hồi hoặc không chịu ra làm quan như Mẫn Tử Khiên, năm bảy người có tài và có tư cách như Tử Cống, Trọng Do, Nhiễm Cầu, … khoảng mươi người khác là gượng dùng. Dạy học suốt ba bốn chục năm mà thành nhân được ngần ấy là đáng nãn nhưng Không Tử vẫn bình tâm. Bọn pháp gia thì chú trọng kinh tế, hành chính , pháp luật chỉ cầu quốc gia phú cường không giáo dục dân bất chấp nguyện vọng của dân và họ đã thành công trong thời họ, hạ được sự đối kháng để lên thay.

          Đương thời Khổng Tử là vậy, các đời sau thì vua chúa tôn vình Khổng học phần lớn chỉ là lợi dụng học thuyết của ông để tuyên truyền mạnh mẽ có lợi cho họ. Thời Trung Quốc Dân Quốc, chính phủ Tưởng Giới Thạch tuyên bố biến mọi nơi thờ phụng Khổng Tử thành trường học, xoá bỏ những nghi lễ liên quan đến Khổng học. Thời Mao Trạch Đông cầm quyền cũng từng phát động “Phê Lâm, phê Khổng, phê ông Chu” gần đây thì trào lưu thành lập các Học viện Khổng Tử khắp toàn cầu để truyền bá văn hóa Trung Hoa ra thế giới đang được Chính phủ Trung Quốc nỗ lực thực hiện.

          Đọc lại và suy ngẫm về bài viết của Bác Hồ về “Khổng Tử” đăng trên báo “Thanh Niên”, cơ quan huấn luyện của tổ chức Việt Nam Thanh Niên Cách mạng Đồng chí Hội ở Quảng Châu ngày 20/2/1927:

          Từ rất xa xưa, người An Nam và các vua chúa An Nam rất tôn kính nhà hiền triết này… Nhưng hãy xem Không Tử là người thế nào? Tại sao các hoàng đế lại tôn sùng đến thế? Tại sao được tôn sùng đến thế mà Chính phủ Trung Hoa lại vứt bỏ đi…

          Khổng Tử sống ở thời Chiến quốc. Đạo đức của ông, học vấn của ông và những kiến thức của ông làm cho những người cùng thời và hậu thế phải cảm phục… Nhưng cách đây 20 thế kỷ, chưa có chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa đế quốc và các dân tộc bị áp bức như chúng ta ngày nay, cho nên bộ óc Khổng Tử không bao giờ bị khuấy động vì các học thuyết cách mạng.

          Đạo đức của ông là hoàn hảo, nhưng nó không thể dung hợp được với các trào lưu tư tưởng hiện đại, giống như một cái nắp tròn làm thế nào để có thể đậy kín được cái hộp vuông?

          Những ông vua tôn sùng Khổng Tử không phải chỉ vì ông không phải là người cách mạng mà còn vì ông tiến hành cuộc tuyên truyền mạnh mẽ có lợi cho họ… Khổng giáo dựa trên ba sự phục tùng: Quân – thần; phụ – tử; phu – phụ và năm đức là: “ Nhân, nghĩa, lễ, trí, tín”.

          Khổng Tử đã viết “Kinh Xuân Thu” để chỉ trích “những thần dân nổi loạn” và “những đứa con hư hỏng”, nhưng ông không viết gì để lên án những tội ác của “những người cha tai ác” hay “những ông hoàng thiển cận”. Nói tóm lại, ông rõ ràng là người phát ngôn bênh vực những người bóc lột chống lại những người bị áp bức…

          Nếu Khổng Tử sống ở thời đại chúng ta và nếu ông khăng khăng giữ những quan điểm cũ thì ông sẽ trở thành phần tử phản cách mạng. Chính phủ Trung Quốc đã làm mất đi một thể chế cũ trái với dân chủ. Còn những người An Nam chúng ta hãy tự hoàn thiện mình, về mặt tinh thần bằng đọc các tác phẩm của Khổng Tử và về mặt cách mạng thì cần đọc các tác phẩm của Lênin!”.

          Ngày 19 tháng 5 năm năm 1965, Hồ Chí Minh thăm Khúc Phụ về, đã viết bài thơ

          Thăm Khúc Phụ

          Mười chín tháng năm thăm Khúc Phụ,
          Thông già, miếu cổ thảy lu mờ.
          Uy quyền họ Khổng giờ đâu nhỉ?
          Bia cũ còn soi chút nắng tà.

          Nguyên văn chữ Hán:

          訪曲阜

          五月十九訪曲阜
          古松古廟两依稀
          孔家勢力今何在
          只剩斜陽照古碑

          Phiên âm:

          Phỏng Khúc Phụ

          Ngũ nguyệt thập cửu phỏng Khúc Phụ,
          Cổ tùng cổ miếu lưỡng y hi.
          Khổng gia thế lực kim hà tại,
          Chỉ thặng tà dương chiếu cổ bi.

          Dịch nghĩa:

          Thăm Khúc Phụ

          Ngày 19 tháng 5 thăm Khúc Phụ,
          Cây thông già và ngôi miếu cổ đều đã mờ nhạt.
          Uy quyền họ Khổng giờ ở đâu?
          Chỉ còn chút ánh nắng tà chiếu trên tấm bia cũ.

          Không hiểu hữu ý hay vô tình Hồ Chí Minh chọn ngày 19 tháng 5 để thăm Khổng Tử. Ngày 19 tháng 5 là ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, cũng là ngày thành lập Việt Minh, khai sinh đường Hồ Chí Minh trong lịch sử. Chuỗi ba sự kiện lớn này đóng mốc son ngày 19 tháng 5 vào lịch sử Việt Nam và thế giới đối với nền độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và sự nghiệp thống nhất Tổ quốc Việt Nam. Tôi có viết bài “Hồ Chí Minh trọn đời minh triết” với ba ý: Việt Nam Hồ Chí Minh biểu tượng Việt; Bác Hồ nói đi đôi với làm mẫu mực đạo đức; Bác Hồ rất ít trích dẫn.

          Bình sinh Hồ Chí Minh rất ít trích dẫn nhưng đối với Khổng Tử, Người có riêng hai bài viết đánh giá kỹ và sâu về di sản Khổng Tử. Trong đó, bài văn của Bác viết vào lúc Hồ Chí Minh tráng niên 36 tuổi và sự phê phán Khổng Tử đang lên cao trào, bài thơ “Thăm Khúc Phụ” thì lại trùng khớp với ngày 19 tháng 5 lúc Bác 74 tuổi và là bài thơ cuối cùng của Người viết về Khổng Tử. Đó là hai thời điểm quan trọng trong đời người để đánh giá đúng mức về một con người. Hồ Chí Minh trong tư cách là một chính khách với tầm nhìn lịch sử đã chú trọng Khổng Tử về đạo đức nhiều hơn là chính trị. Bác nói: “Chúa Giêsu dạy: Đạo đức là bác ái. Phật Thích Ca dạy: Đạo đức là từ bi. Khổng Tử dạy: Đạo đức là nhân nghĩa” (Báo Nhân Dân ngày 14/6/1951).

          Sự tu dưỡng đạo đức cá nhân và tự nguyện thực hành trọn đời của Hồ Chí Minh về “cần kiệm liêm chính, chí công vô tư” là có noi theo Khổng Tử.

          Viết về Khổng Tử liệu có thức thời không? khi nhiều trường đại học phương Tây quyết định chia tay với các trung tâm Khổng Tử vì lo ngại họ bị chính quyền Trung Quốc can thiệp thái quá (BBC 13.1.2015), và ngay tại Việt Nam hiện nay những động thái của chính phủ Trung Quốc đối với biển Đông cùng các Học Viện Khổng Tử đang gây nên sự tranh luận.

          Học Viện Khổng Tử ở Việt Nam hợp hay chưa thích hợp vào lúc này ? nhưng mỗi cá nhân để tự hoàn thiện mình về mặt đạo đức, tinh thần thì rất nên đọc các tác phẩm của Khổng Tử. Tôi đã đến thăm Không Tử và viết bài ‘Đào Duy Từ còn mãi với non sông”, thấm thoắt đã hai mươi năm. Dịp này có đạt may mắn? “Tận nhân lực tri thiên mệnh”.

          Bài viết của tôi về Người vẫn nợ chưa xong.

          (còn tiếp…)

          Hoàng Kim:

          **

          MỚI RA TÙ TẬP LEO NÚI
          Hồ Chí Minh

          Núi ấp ôm mây, mây ấp núi
          Lòng sông gương sáng bụi không mờ
          Bồi hồi dạo bước Tây Phong lĩnh
          Trông lại trời Nam, nhớ bạn xưa”.


          Mây ôm núi núi ôm mây,
          Lòng sông sạch chẳng mảy may bụi hồng;
          Bùi ngùi dạo đỉnh Tây Phong,
          Trông về cố quốc chạnh lòng nhớ ai.

          Nguyên tác

          新出獄學登山

          雲擁重山山擁雲
          江心如鏡淨無塵
          徘徊獨步西風岭
          遙望南天憶故人

          Vân ủng trùng sơn, sơn ủng vân,
          Giang tâm như kính, tịnh vô trần.
          Bồi hồi độc bộ Tây Phong lĩnh,
          Dao vọng Nam thiên ức cố nhân

          (Người dịch: T.Lan) Bài này Hồ Chí Minh sáng tác khoảng giữa tháng 9-1943 khi được trả lại tự do song vẫn bị giam lỏng ở Liễu Châu. Bài thơ này nguyên không có đầu đề, cũng không có trong tập Ngục trung nhật ký. Trong hồ sơ còn lưu giữ ở Viện văn học có bút tích của chính tác giả viết đầu đề này gửi cho Tiểu ban biên tập vào đầu năm 1960. Vậy, có thể đây là đầu đề do tác giả mới đặt về sau. Bản dịch này của T. Lan in trong tập Vừa đi đường vừa kể chuyện. In lần thứ hai, Nxb. Sự Thật, Hà Nội, 1976, tr.84.

          ” Núi cao ta trông
          Đường rộng ta đi
          Dẫu chưa đến đích
          Nhưng lòng hướng về.”
          Nhan Hồi

          “Thiện căn ở tại lòng ta
          Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài. “
          Nguyễn Du

          ĐÙA VUI CÙNG THUẬN NGHĨA
          Hoàng Kim

          I
          Ta thích được đùa vui cùng Thuận Nghĩa
          Lắng nghe tiêu, học trực tuyến cùng thầy
          Học xong bài thấy bình an dễ chịu
          Hơi thở an lành khoan khoái phiêu diêu

          Nguyễn Văn Hưởng thầy dưỡng sinh luyện thở
          Phương pháp Dưỡng sinh hay giữa đời thường
          Nhớ cụ Nguyễn Khắc Viện luyên thở
          Thầy Nguyễn Bình Khiêm với Dưỡng sinh thi

          Giữ khí, gìn tinh, lại dưỡng thần
          Ít lo, ít muốn, ít lao thân.
          Cơm nên vừa bụng, đừng nhiều vị,
          Rượu chỉ vài phân, chớ qúa từng.
          Miệng cứ câu đùa, vui miệng mãi,
          Bụng thường nghĩ tốt, bụng lâng lâng.
          Bốc đồng, biến trá, thôi đừng hỏi,

          Để tớ tiêu dao đến tuổi trăm.”
          (Bản dịch của GS. Lê Trí Viễn


          “TRUNG DUNG THUYẾT MỘNG” LUẬN GIẢI.
          Khí công sư Lê Thuận Nghĩa


          Khác với tiêu Shakuhachi hiện đại, các thang âm được chia theo quảng 7: Đồ- rê- mi- pha- son- la- xi/ C- D-E- F- G- A- B. Tiêu Shakuhachi cổ truyền của Nhật Bản theo truyền thống của phái Thiền Hư Vô từ thế kỷ 7 được chia thành hệ thống âm thanh Ngũ Âm, như nhạc dân ca cổ truyền của Trung Quốc, Việt Nam và một số nước Châu Á khác… Tiêu Shakuhachi cổ truyền trước đây của Nhật Bản thường chỉ dùng cho các Lễ hội Phật giáo và chủ yếu là hỗ trợ việc tụng Kinh, Chú.Mà tiêu Shakuhachi cổ truyền của Nhật Bản lại có xuất xứ từ loại tiêu Lục Mạch, một loại Pháp khí của Phật Giáo Tây Vực. Tiêu Lục Mạch của Tây Vực chia thang âm thành 6 nốt theo hệ thống Lục Mạch trong học thuyết Thai Tạng của Mật Tông. Bao gồm các nốt: Thức- Địa- Thủy- Hỏa- Phong- Không (Địa đại, Thủy đại, Hỏa đại, Phong đại, Không đại và Thức đại)Tiêu lục mạch của Tây Vực chủ yếu dùng để trì luyện Tantra (Mật chú), ngày xưa chỉ truyền thừa trong giới Hành giả của Mật Tông Tôi sẽ có bài viết kỹ càng về đề tài này sau, hôm nay tôi chỉ luận bàn sơ về tiêu phổ Trung Dung Thuyết Mộng mà hôm trước tôi đã có đưa lên Youtube.Trung Dung Thuyết Mộng là bản tiêu phổ chỉ dành riêng cho loại Tiêu lục mạch, tiêu Shakuhachi hiện đại hay cổ truyền đều không thể thổi được bản tiêu phổ này vì cấu trúc thang âm hoàn toàn khác nhau. Trung Dung Thuyết Mộng là bản phổ do tôi dựa vào bản tiêu phổ trì tụng Chú Dược Sư (Medicine Buddha Mantra) trên tiêu Lục Mạch của kinh cổ.Bản phổ này do có một sự cố về mối quan hệ trong bổn môn, nên tôi tùy cảm mà phối ra nó. Sau này tôi hoàn thiện lại cảm âm và viết thành tiêu phổ dành cho Thất thương tiêu. Thất thương tiêu là một biến tấu khác của Tiêu lục mạch, gần hệ âm với tiêu Shakuhachi cổ truyền của Nhật Bản hơn. Sở dĩ tôi phối bản phổ “Trung dung Thuyết mộng” trên Thất thương tiêu là vì biến tấu cho phù hợp với cách phát âm khi trì Chú “Dược Sư Quán Đảnh Chân Ngôn” của người Việt và người Hoa.Bản phổ “Trung dung Thuyết mộng” hôm tôi đưa lên trên Youtube thực ra là một bản “Dao động âm thanh” dựa trên nền tảng của “Chú Dược Sư” có tác dụng “Bình tâm, giải uất”… giúp loại bỏ các hiệu ứng bệnh lý do áp lực Tâm lý, Thần kinh đưa lại và cũng giúp người nghe có giấc ngủ được sâu hơn… Vì là bản “Dao động Âm thanh” được phát ra trên nền tảng của nội hàm Hơi thở, cho nên tôi có lồng thêm tiếng sóng biển để phá vỡ bớt âm lực tương tác lên người nghe.Bản tiêu phổ này, cũng là nền tảng kỹ thuật cho người sử dụng tiêu Lục mạch. Vì vậy học viên của “Thuận Nghĩa Dưỡng Sinh Đường”, ai đã nhận tiêu Lục mạch từ tôi, thì nên có sự quan tâm đặc biệt với bản tiêu phổ này.Khoảng 16 giờ, giờ Châu Âu hôm nay, tức là 21 giờ Việt Nam, tôi sẽ trực tiếp lý giải về Âm lực của bản tiêu phổ này trên Livestream. Ai có hứng thú thì vào xem nhé.Để tiện cho việc theo giỏi các bạn có thể tìm hiểu về “Chú Dược Sư” và “Dược Sư Lưu Ly Quang Phật” trước nhé.Bản “Dược Sư Quán Đảnh Chân Ngôn” phiên âm theo tiếng Việt dưới đây: “Nam mô bạt đà phạt đế, bệ sát xả, lụ rô Thích lưu ly, bát lạc hà, hắc ra xà dã, đát tha yết đa da, a ra hắt đế, tam miệu tam bột đà da, đắc diệt tha, Án, bệ sát thệ, bệ sát thệ, bệ sát xã, tam một yến đế tá ha”Bản “Trung Dung Thuyết Mộng” dựa vào Âm lực của bản Chân ngôn này để thiết lập các tiết tấu của Âm thanh. Vì vậy các bạn phải có sự chuẩn bị tham khảo trước.Nhớ theo dõi buổi Livetream hôm nay nhé.

          04.09.20
          Thuận Nghĩa

          LỜI THƯƠNG
          Hoàng Kim


          Ta đi về chốn trong ngần
          Để thương sỏi đá cũng cần có nhau.


          Chùm thơ
          Xem tiếp >>

            Dạy và học 6 tháng 9(05-09-2021)


          Sankt Petersburg Auferstehungskirche 2005 a.jpg

          DẠY VÀ HỌC 6 THÁNG 9
          Hoàng Kim
          CNM365 Tình yêu cuộc sốngBảy Nhị kênh ông Kiệt và tôi, Thầy Xuân canh tác lúa; Giữ trong sáng Tiếng Việt; Truyện Pie Đại đế; Nhớ lời vàng Albert Einstein; Mai vàng bền mưa nắng; Tứ quý hoa bốn mùa; Kim Notes lắng ghi chú; Nhớ lớp học trên đồng; Chuyện đời ngày hạnh phúc;Lời thương cùng tháng năm; Chợt gặp mai đầu suối; Chung sức trên đường xuân; Ngày 6 tháng 9 năm 1991, Sankt-Peterburgthành phố lớn thứ hai của Nga phục hồi tên gọi, sau khi được đổi tên thành “Leningrad” từ năm 1924. Sankt-Peterburg là thủ đô phía Bắc của Nga, được UNESCO công nhận là thành phố du lịch hấp dẫn thứ 8 của thế giới. Đây là căn cứ chính hải quân Nga, cửa chính nước Nga nhìn ra thế giới, thành tựu lớn nhất của  Pyotr Đại Đế nhân vật lịch sử vĩ đại nhất nước Nga. Ngày 6 tháng 9 năm 1968, Swaziland trở thành một quốc gia độc lập từ Anh Quốc. Ngày 6 tháng 9 năm 1957, ngày sinh  Y Moan, Ca sỹ, Nghệ sỹ Nhân dân, người Ê Đê Việt Nam. Bài chọn lọc ngày 6 tháng 9: Bảy Nhị kênh ông Kiệt và tôi, Thầy Xuân canh tác lúa; Giữ trong sáng Tiếng Việt; Truyện Pie Đại đế; Nhớ lời vàng Albert Einstein; Mai vàng bền mưa nắng; Tứ quý hoa bốn mùa; Kim Notes lắng ghi chú; Nhớ lớp học trên đồng; Chuyện đời ngày hạnh phúc; Lời thương cùng tháng năm; Chợt gặp mai đầu suối; Chung sức trên đường xuân; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlong https://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-6-thang-9/

          MAI VÀNG BỀN MƯA NẮNG
          Hoàng Kim

          Gốc mai vàng trước ngõ
          Cánh cò bay trong mơ
          Chim Phượng về làm tổ
          Giấc mơ lành yêu thương


          TỨ QUÝ HOA BỐN MÙA
          Hoàng Kim


          Ngọc Phương Nam ngày mới
          Đồng xuân lưu dấu hiền
          Chín điều lành hạnh phúc
          Chuyện đồng dao cho em

          Chuyện đời ngày hạnh phúc
          Lời thương cùng tháng năm
          Chợt gặp mai đầu suối
          Chung sức trên đường xuân

          Mai vàng bền mưa nắng
          Tứ quý hoa bốn mùa
          Về với vùng cát đá
          Vui đi dưới mặt trời

          xem tiếp
          https://hoangkimlong.wordpress.com/category/tu-quy-hoa-bon-mua/https://hoangkimlong.wordpress.com/category/tu-quy-hoa-bon-mua/

          THẦY BẠN TRONG ĐỜI TÔI
          Hoàng Kim

          với
          Trần Ngọc Ngoạn, Van Quyen Mai, Hieu Nguyenminh, Mai Trúc Nguyễn Thị trong đêm thiêng tháng Bảy mưa ngâu giấc mơ hạnh phúc tại Vĩ Dạ Xưa.

          Tháng Bảy năm 2017 Lịch Vạn Niên có 5 ngày thứ Bảy, 5 ngày Chủ nhật, 5 ngày Thứ Hai mà 823 năm mới lặp lại một lần. Theo thiên thư cổ văn đây là “điều kỳ diệu” “nhóm ngày may mắn” hành thiện những việc đặc biệt tốt đẹp đầy đặn yêu thương. Thầy bạn trong đời tôi là chùm bài viết chuyện đời tự kể, nối tiếp chuỗi thông tin các bài viết trước https://hoangkimlong.wordpress.com/category/thay-ban-trong-doi-toi/

          THẦY QUYỀN NGHỀ NÔNG CỦA CHÚNG TÔI

          Giáo sư tiến sĩ Mai Văn Quyền là nhà khoa học xanh, chuyên gia hàng đầu Việt Nam về lĩnh vực thâm canh lúa, hệ thống nông nghiệp, sinh lý thực vật và quản lý bền vững đất nước cây trồng. Giáo sư là thầy hướng dẫn đã bảo vệ thành công của 12 tiến sĩ khoa học nông nghiệp, nhiều thạc sỹ, kỹ sư nông học, tác giả của sáu sách chuyên khảo và nhiều bài báo, bài viết đăng trên các tạp chí, sách ở trong và ngoài nước. Giáo sư Mai Văn Quyền từ năm 2007 đến nay là cộng tác viên thường xuyên của đài VOV 2 phát thanh mỗi tuần 2 lần các nội dung về phân bón trong khuôn khổ hợp tác giữa Đài VOV2 với công ty Cổ phần phân bón Binh Điền. Giáo sư là chuyên gia của chương trình VTV “Đồng hành và chia sẻ” hàng tuần trả lời các câu hỏi của nông dân cả nước qua thư bạn nghe đài, là cộng tác viên của báo Nông nghiệp Việt Nam và các báo nông nghiệp, viết bài phổ biến khoa học trong lĩnh vực phân bón và cây trồng. Với cương vị là chủ tịch Hội đồng khoa học của Công ty Cổ phần phân bón Bình Điền, hàng năm tổ chức nhiều lớp tập huấn chuyển giao kỹ thuật sử dụng phân bón cho nông dân Việt Nam, Campuchia, và Myanmar, qua đó tạo thêm điều kiện tăng thêm sự hiểu biết và thắt chặt mối quan hệ giữa nhân dân và chính phủ các nước với nhân dân và chính phủ Việt Nam. Thầy là tấm gương phúc hậu, minh triết, tận tâm trong nghiên cứu, giảng dạy nông học, đồng hành cùng nông nghiệp, nông dân, nông thôn Việt Nam. Bước vào năm 2016, giáo sư Mai Văn Quyền sang tuổi 80 và Thầy vẫn đang sung sức đi tới trong tốp đầu của các chuyên gia nông nghiệp Việt Nam thời hiện đại.

          Thầy Mai Văn Quyền là thầy hướng dẫn khoa học của tôi làm nghiên cứu sinh ở Viện Khoa học Nông nghiệt Việt Nam khóa 1988-1991. Đó là người thầy minh triết, phúc hậu, tận tâm mà suốt đời tôi tôn kính và tự hào. Các bạn Đặng Kim Sơn, Mai Thành Phụng, Nguyễn Đăng Nghĩa, Nguyễn Thị Sinh với tôi là bạn học cùng khóa. Thuở ấy thầy Quyền khuyên tôi nên sớm đúc kết đề tài nghiên cứu trồng xen đậu rồng, đậu xanh, lạc với sắn ở Đông Nam Bộ và duyên hải Nam Trung Bộ, xác định giống sắn, đậu xanh, đậu nành, lạc tốt và xác định phương thức trồng xen thích hợp điều kiện sinh thái của vùng. Tôi được thầy minh triết chỉ dẫn sâu sát thực tiễn nên đã thành công. Câu chuyện về thầy tôi đã kể ở bài viết ‘Thầy Quyền nghề nông của chúng tôi‘:  Ơn Thầy. Hoàng Kim, kính tặng thầy Mai Văn Quyền và những người Thầy quý mến. Cha ngày xưa nuôi con đi học. Một nắng hai sương trên những luống cày, Trán tư lự, cha thường suy nghĩ,  Phải dạy con mình như thế nào đây? Cha mất sớm, bom thù rung mặt đất, Cái chết giằng cha ra khỏi tay con, Mắt cha lắng bao niềm ao ước, Vẫn lo cho con đến phút cuối cùng. Giặc giết cha, cha chưa kịp thấy, Tương lai con đi, sự nghiệp con làm. Cha có biết, luống cày cha bỏ dỡ, Cha ngã xuống rồi trao lại tay con. Trên luống cày này, đường cày con vững. Bởi có dáng Thầy thay bóng cha xưa. Hiểu mảnh đất máu đào cha nhuộm đỏ. Thôi thúc tim con học tập phút giờ …

          Giáo sư Mai Văn Quyền năm 1987 là trưởng chương trình thâm canh lúa Việt Nam trưởng đề tài hệ thống canh tác và Phó Viện trưởng Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam. Thầy đã cùng tiến sĩ Carangal là Trưởng dự án Hệ thống Canh tác Viện Nghiên cứu Lúa Quốc tế IRRI, tiến sĩ Phạm Sĩ Tân là Phó Viện trưởng Viện Lúa Đồng Bằng Sông Cửu Long và Hoàng Kim, đi thăm mô hình “trồng ngô xen đậu trong hệ thống cây trồng vùng Đông Nam Bộ”.

          Mô hình này cùng với mô hình “nghiên cứu phát triển đậu rồng ở các tỉnh phía Nam” và “giống khoai lang mới Hưng Lộc 4” năm 1987 là ba tiến bộ kỹ thuật nông nghiệp của Trung tâm Nghiên cứu Thực nghiệm Nông nghiệp Hưng Lộc, Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam được Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn công nhận là giống mới và tiến bộ kỹ thuật mới, được ứng dụng rộng ở nhiều tỉnh phía Nam. Khoai lang Hưng Lộc 4 có năng suất cao, vỏ củ màu đỏ, thịt củ màu cam đậm, phẩm chất ngon, bộ lá xanh đậm, phủ luống nhanh, gọn, ít sâu bệnh, được dân ưa thích vì củ nấu cà ri hoặc luộc khá ngon, khoai là thực phẩm sạch dễ ăn, được tiêu thụ rộng rãi và dây lang dùng cho chăn nuôi.  Đặc biệt là hai công trình ‘đậu rồng giống mới năng suất cao, quy trình kỹ thuật trồng xen đậu rồng với sắn và ngô, sử dựng quả đậu rồng làm rau xanh và hạt làm bánh dinh dưỡng’ cùng với công trình ‘ngô xen đậu xanh đậu nành lạc và gối thuốc lá’  thời bấy giờ tại tỉnh Đồng Nai với nhiều tỉnh Đông Nam Bộ và Tây Nguyên là rất phổ biến và hiệu quả. Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp Phát triển Nông thôn Nguyễn Ngọc Trìu đã cùng giáo sư Trần Thế Thông xuống đồng ruộng trực tiếp đánh giá và thật khen ngợi.

          GIÁO SƯ PAVEL VALICEK THẦY CÂY TRỒNG

          Tôi có duyên may suýt được cả thầy Pavel Valicek giúp hướng dẫn luận án hổ trợ thầy Mai Văn Quyền là hướng dẫn chính. Sau này do không có điều kiện hợp tác tiếp với Tiệp Khắc nên tôi không còn được đi học tiếp ở Tiệp mà làm đề tài trong nước chỉ một mình thầy Quyền hướng dẫn thôi . Trước đó, tôi được du học năm tháng ở Tiệp Khắc nhờ thực hiện tốt đề tài đậu rồng và chị Magdalena Buresova thầy Pavel Valicek là người giúp đỡ thực tập sinh từ cuối năm 1985 đến giữa năm 1986 với sự tận tâm hổ trợ của giáo sư Viện trưởng Trần Thế Thông. Dịp học ở Praha, thầy Pavel Valicek có mời chị Magdalena Buresova và tôi đến thăm nhà thầy ở tại Nymburk và cùng ăn cơm. Trong bữa cơm thầy lắng nghe rất kỹ câu chuyện tôi kể về hai tuần khảo sát các nơi ở Tiệp Khắc, tâm tư của tôi và những điều mà sau này tôi đã ghi nhận tại Tiệp Khắc kỹ niệm một thời;  Praha Goethe và lâu đài cổ; Giấc mơ thiêng dạo chơi cùng Goethe; … Thầy khen ngợi tôi đã có buổi seminar ‘đậu rồng ở Việt Nam’ thật tốt trước một đội ngũ chuyên gia giàu kinh nghiệm của Viện Nhiệt đới và Á Nhiệt đới. Thầy tin tưởng rằng nếu tôi được thầy Quyền hướng dẫn chính chung với thầy Pavel Valicek là đồng hướng dẫn  thực hiện tốt đề tài tiến sĩ ở Việt Nam và sang học nâng cao ở Viện của thầy thì tôi sẽ rất sớm bảo vệ luận án tiến sĩ ở Tiệp Khắc.


          Giáo sư tiến sĩ Pavel Valicek (giữa), giáo sư tiến sĩ Trần Thế Tục (phải) và giáo sư tiến sĩ NGUT Nguyễn Viết Tùng (trái) Hiệu trưởng Học Viện Nông nghiệp Việt Nam nhiệm kỳ 1996- 2001 là một tấm ảnh quý.  Tôi muốn kể thêm với phó giáo sư Nguyễn Văn Hoan về câu chuyện này

          Thầy Pavel Valíček sinh ngày 13 tháng 5 năm 1939, năm nay 79 tuổi. Thầy ở Nymburk, còn gọi là Neuenburg an der Elbe, một thành phố cổ, một thị trấn ở khu vực miền Trung của sông Elbe, cách Praha khoảng 45 km về phía đông. Thành phố này có diện tích trên 20 km² với khoảng một vạn rưỡi dân. Đó là nơi thật đẹp. Giáo sư Pavel Valíček là nhà thực vật học người Czech, cũng là nhà nông học và nông dân. Thầy tập trung tinh lực trọn đời nghiên cứu cây nhiệt đới cây cận nhiệt đới và cây thuốc châu Á. Thầy là Viện trưởng Viện Nhiệt đới và Á Nhiệt đới, thuộc Trường Đại học Nông nghiệp Praha ở Prague 6 Suchdol, là tác giả của nhiều bài báo rất nổi tiếng trong đó có bài ‘Đậu rồng hôm qua, hôm nay và ngày mai’ công bố năm 1989 (The Winged Bean Psophocarpus tetragonolobus: Past, Present, and Future’) thầy khuyến khích trồng cây đậu rồng rau sạch, dễ trồng, giàu đạm và đặc biệt giàu dinh dưỡng này. Thầy đã làm việc tại Viện Nhiệt đới và Á Nhiệt đới, Trường Đại học Nông nghiệp Praha trên ba mươi năm, và nghĩ hưu từ năm 2000. Thầy nay vẫn tiếp tục cống hiến cho những khu vườn cây chữa bệnh ở Třebíč và Sádka, các bài giảng và xuất bản. Thầy Pavel Valíček là tác giả của hàng chục ấn phẩm, chuyên luận và sách phổ biến rộng rãi ở Tiệp, cũng là tác giả chính của nhiều ấn phẩm phong phú về cây nhiệt đới, cây cận nhiệt đới, cây thực vật cổ thụ và cây làm thuốc, đặc biệt là những cây thuốc Trung Quốc và Việt Nam.


          “Hoàng Kim có kết quả đồng ruộng rất tốt và cậu sẽ hoàn thành luận án thật nhanh. Ba bài báo cậu đã đăng là thật tốt”. Thầy khen tôi như vậy và chị Buresova cũng xác nhận điều đó.  (1) Kim H.; Buresova, M, 1986. Growing winged bean on natural supports under the conditions of South Vietnam. In Agricultura Tropica et Subtropica, Universitas Agriculturae Praga, No. 19; p. 225 – 236 En. Sum. En. 14 Ref. In CIAT 1990 National Bibliographies Cassava in Asia East and Southeast Asia, p. 416 ;  2)  Buresova, M.; Kim, H.; Quyen, T.N.,1987. The economics og winged bean on manioc as natural supports under the conditions of South Vietnam. In: Agricultura Tropica et Subtropica, Universitas Agriculturae Praga, No. 20; p. 101 – 114 En. Sum. En.; Sk., Ru.,8 Ref. In: CIAT 1990 National Bibliographies Cassava in Asia East and Southeast Asia, p. 416; 3) Hoang Kim, M. Buresova, Tran Ngoc Quyen and Nguyen Van Chuong, 1988 Economic of Winged bean on Maize as natural support in South Vietnam. In: Agricultura Tropica et Subtropica, Universitas Agriculturae Praga, No. 21; p. 45 – 59 En. Sum. En.; Sk., Ru.,9 Ref. Thầy truyền cho tôi cảm hứng và thật lạ lùng, cho đến sau này khi tôi hướng dẫn luận án tiến sĩ cho các em Nguyễn Việt Hưng, Trần Công Khanh, Nguyễn Xuân Kỳ, Nguyễn Thị Trúc Mai,  Nguyễn Bạch Mai, … với 18 thạc sĩ và 98 kỹ sư nông học tôi cũng bị ‘lây’ cảm hứng hợp tác quốc tế say mê đó.

          Tiến sĩ Kazuo Kawano và Reinhardt Howeler là những chuyên gia CIAT sau này khi tới Việt Nam cũng có những đánh giá thật tốt đối với những thí nghiệm của đề tài nghiên cứu trồng xen đậu rồng, đậu xanh, lạc với sắn của tôi thực hiện ở trên đồng ruộng và các bài báo nông học công bố tốt tại Việt Nam về vấn đề này giống như giáo sư Pavel Valicek. Sau này khi nhìn lại những hình ảnh đồng ruộng và trang viết cũ, tôi thấy thật là có phúc lành, duyên lành khi được sớm đồng hành với những người thầy, người bạn quý như thế. Khoa học nông nghiệp là khoa học thực tiễn, kỹ năng thực hành và đánh giá kết quả trên đồng ruộng, biết tổng kết số liệu và bài học thực tiễn là quan trọng biết bao.

          Câu chuyện ảnh không quên

          Congviecnaytraolaichoem3
          XuanKy1
          XuanKy2

          BẢY NHỊ KÊNH ÔNG KIỆT VÀ TÔI
          Hoàng Kim

          Tôi có câu chuyện không quên
          Bảy Nhị kênh ông Kiệt và tôi , nay ngắm lại các bức ảnh và trang văn tìm lại chính mình mà xúc động nghĩ về một thời với một lớp người. Tôi nhờ ơn tri ngộ ‘cầu hiền’ của ông Bảy và sự dẫn dắt trước đó của giáo sư Mai Văn Quyền, giáo sư Nguyễn Văn Luật, giáo sư Võ Tòng Xuân, giáo sư Đào Thế Tuấn trong Chương trình Hệ thống Canh tác Việt Nam với lối Học để Làm (Learning by Doing) rất thiết thực. Sự hợp tác thân thiện giữa Viện Lúa ĐBSCL với Trường Đại học Nông Lâm TP Hồ Chí Minh, Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam, Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam, Trường Đại học Cần Thơ, Nông trường Sông Hậu, Trung tâm Giống Cây trồng Sóc Trăng, Trung tâm Giống và Kỹ thuật Cây trồng Phú Yên, …là bài học lớn để chúng tôi vượt lên chính mình, đóng góp được những thành tựu và cống hiến tốt hơn cho sản xuất.

          BẢY NHỊ

          Ông Bảy Nhị tên thật là Nguyễn Minh Nhị, nguyên chủ tịch tỉnh An Giang. Ông vừa có bài viết “Giá lúa nằm ngoài hạt gạo” mà tôi đã chọn đưa vào bài giảng cây lúa. Suy tư về thương hiệu gạo Việt (trích dẫn cuối bài này) cũng không thể không nhớ ông Bảy.

          Bạn xuống An Giang hỏi ông Bảy Chủ tịch ai cũng biết. Tôi gọi trõng tên ông biết là không phải nhưng với tôi thì ông tuy còn khỏe và đang sống sờ sờ nhưng đã là người lịch sử, tựa như Mạc Cữu, Mạc Thiên Tích xưa, oai chấn Hà Tiên góp sức mộ dân mở cõi, làm phên dậu đất phương Nam của dân tộc Việt. Ông Bảy là nhân vật lịch sử trong lòng tôi.

          Tôi có một kỷ niệm quí rất khó quên. Ông Bảy Nhị ba lần lặn lội lên Trung tâm Nghiên cứu Thực nghiệm Nông nghiệp Hưng Lộc tìm tôi là giám đốc Trung tâm để hỏi cách đưa cây gì vào khai hoang phục hóa hiệu quả cho vùng đất hoang hóa Tri Tôn, Tịnh Biên. Ông đồng tình với tôi việc ứng dụng canh tác giống lúa thơm Khao Dawk Mali 105 (KDM 105) nhưng trồng cây gì luân canh lúa hiệu quả trong các tháng mùa khô thì đó vẫn là bài toán khó?

          Mờ sớm một ngày đầu tháng mười một. Trời se lạnh. Nhà tôi có chim về làm tổ. Buổi khuya, tôi mơ hồ nghe chim khách líu ríu lạ trên cây me góc vườn nên thức dậy. Tôi bước ra sân thì thấy một chiếc xe ô tô đậu và cậu lái xe đang ngủ nướng. Khi tôi ra, cậu lái xe thức dậy nói: “Chú Bảy Nhị, chủ tịch tỉnh An Giang lên thăm anh nhờ tuyển chọn giống mì ngắn ngày để giúp An Giang né lũ. Đợt trước chú đã đi cùng chú Tùng (là ông Lê Minh Tùng sau này làm Phó Chủ Tịch Tỉnh, Hiệu trưởng Trường Đại học An Giang) lên làm việc với anh rồi. Nay mì đã được năm tháng tuổi, chú muốn lên coi kỹ ở trên ruộng xem củ to bằng ngần nào. Chú Bảy giờ hành chính bận họp nên thăm sớm. Đến nhà anh, thấy sớm quá chú ngại nên ra thẳng ngoài đồng rồi, nhờ tui đón anh ra sau”.

          Tôi giật mình nghĩ: “Cái ông này không thể xạo được. Mình nói là có giống mì bảy tháng. Năm tháng ông lên kiểm tra đồng ruộng nhổ thử, thiệt chu đáo. Ông thật biết cách kiểm tra sâu sát”. Chợt dưng tôi nhớ đến MỘT LỐI ĐI RIÊNG của Bác Hồ trong thơ Hải Như: “ Chúng ta thích đón đưa/ Bác Hồ không thích/ Đến thăm chúng ta Bác Hồ thường “đột kích”/ Chữ “đột kích” vui này Người nói lại cùng ta/ Và đường quen thuộc/ Bác chẳng đi đâu/ Đường quen thuộc thường xa/ Bác hiện đến bằng lối tự tìm ra:/ Ngắn nhất/ Bác không muốn giẫm lên mọi đường mòn có sẵn/ Khi đích đã nhắm rồi/ Người luôn luôn tạo cho mình:/ Một lối đi riêng”. Sau này hiếm có đồng chí lãnh đạo nào học được cách làm như Bác. Họ đi đâu đều thường xếp lịch hành chính và đưa đón đàng hoàng, chẳng cần một lối đi riêng. Tôi thầm chợt cảm phục ông Bảy.

          Suy tư về thương hiệu gạo Việt, tôi đọc đi đọc lại nhiều lần thư của ông Bảy Nhị đã viết cho tôi : “Hoàng Kim thân mến. Sang năm mới, nhìn lại năm cũ, thấy giống khoai mì của Hoàng Kim củ to và nhiều quá chừng. Phải hồi anh Bảy có Nhà máy tinh bột Lương An Trà thì mê hết hồn với giống nầy rồi. Chúc mừng Hoàng Kim nhé! Nhân đây anh trích gởi đoạn nhật ký mới nhất ghi lại sự kiên anh đến xã Vĩnh Phước huyện Tri Tôn trên vùng đất “rún phèn” Tứ giác Long Xuyên của An Giang mà Chánh phủ điều chỉnh địa giới cho An Giang hơn 20 năm trước. Nơi này, Ngô Vi Nghĩa và anh em Nông trường Khoai mì Afiex đã cực khổ khai hoang làm rõ phèn, chuyển đổi vùng đất hoang hóa, phèn nặng, thành nơi canh tác giống lúa thơm Khao Dawk Mali 105 (KDM 105) luân canh với giống khoai mì ngắn ngày né lũ KM98-1. Cho đến nay, sau 20 năm vùng này đã  thành cánh đồng trù phú. Anh hay quay về kỷ niệm cũ, những nơi ngày xưa cực khổ để tìm lại dấu tích cái đẹp của hồn người! Thân thiết, Bảy Nhị

          Ông Bảy Nhị trích Nhật ký đầu xuân 2017, đã viết:  “Ngày 30-12-2016 dự “ngày hội thu hoạch lúa mùa nổi lần 3” với bà con xã Vĩnh Phước (Tri Tôn) trên vùng đất “rún phèn” Tứ giác Long Xuyên của An Giang mà Chánh phủ điều chỉnh địa giới cho An Giang hơn 20 năm trước. Đồng ruộng kiến thiết khá hiện đại, đi lại bằng xe máy không bị cách trở, đất, nước không còn màu phèn, lúa Thần nông xanh tươi ước chừng năng suất trên 6 tấn/ha. Đất nầy trước chưa từng được canh tác vì là cái “rún phèn”. Nay sản xuất lúa Thần nông trên vùng đất khai hoang trồng khoai mì, đất được rõ phèn, ngọt hóa sau khi Nông trường của Nhà máy tinh bột Công ty AFIEX đã giải thể năm 2004. Khi lúa gạo thừa, lúa bị nhiễm thuốc bảo vệ thực vật, người dân theo gợi ý của thị trường chuyển qua sản xuất lúa mùa nổi từ năm 2014. Nhưng không dễ! Năm trước nước nhỏ, chuột phá đến gần như mất giống, năm nay lại bị bịnh đạo ôn cổ bông, cháy lá, bạc bông, lem lép hạt … như lúa Thần nông, nhưng không dám xài thuốc, vì như vậy thì không ai mua. Hiện còn duy trì sản xuất 30 ha trong vùng theo mô hình một vụ lúa mùa, một vụ màu trên nền rạ. Đứng trên ruộng lúa mùa nổi đang vào thu hoạch, bồi hồi nhớ lại cũng trên cánh đồng nầy, 56 năm về trước (12-1960), tôi một mình suy nghĩ một mình đi”, đi qua cánh đồng lúa mùa cũng đang vào mùa gặt thế nầy đến ngọn núi trước mặt  –  Núi Dài Vạn Liên – Bây giờ, ngọn núi sau lưng tôi trong tấm hình nầy. Trong ảnh, tôi đang hỏi người gặt thì được biết công cắt 140 kg lúa/ha, và đám lúa nầy năng suất chừng 1,4 tấn/ha. Hỏi giá bán chưa ai biết. Nhưng báo An Giang (02-01-17) đăng bài về sự kiện nầy nói giá 14.000đ/kg do Tổ chức phi lợi nhuận Đức mua (giá lúa IR 50404 giá 4.500đ/kg). Một bài toán chuyển dịch cơ cấu sản xuất không dễ! Tôi buồn vì mình không còn có điều kiện cùng bà con tháo gở khó khăn trong chuyển dịch cơ cấu sản xuất mà tôi tin rằng nếu làm thì tôi sẽ làm được như những năm Đổi mới 1988 –  2004 tôi đã cùng làm với bà con nông dân trên cương vị Giám đốc Sở Nông nghiệp, Phó Chủ tịch phụ trách Nông nghiệp rồi Chủ tịch – Vực dậy nông nghiệp An Giang 2002 – 2004 rồi mới về hưu, kết thúc phút 89’ – Một chặng đường!” “Con đường qua, lúc ban đầu do ta định hướng và bước đi thế nào đó mà kết quả thu được và hệ quả phải nhận là rất bất cập! Ta thi đua làm cho ra năng suất, sản lượng cao nhất mà không quan tâm môi trường thiên nhiên trong lành bị nhiễm hóa chất nông dược, thiên địch không còn, cá tôm, chim thú bị tận diệt, bây giờ quay lại sản xuất hữu cơ trong điều kiện cân bằng tự nhiên không còn không khác nào đi tìm “hành tinh mới”! Khó hơn là trong lòng người đã mất chữ TIN thì làm sao trị căn bịnh “dối trá” đang thành” đại dịch”? Hơn 20 năm xuất khẩu gạo mà gạo không có tên thương hiệu, thì tái cơ cấu cái gì đây cho có chữ TÍN?

          KenhVoVanKiet

          KÊNH ÔNG KIỆT

          “Vẫn là Thủ tướng của nhân dân / Vẫn là anh Sáu mọi gia đình/ Lồng lộng bóng soi miền sông nước/ Đời nặng ân tình, đất nặng chân”. Đó là những câu thơ cảm khái khóc tiễn cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt của ông Bảy Nhị, nguyên Chủ tịch tỉnh An Giang (kênh Võ Văn Kiệt, ảnh Thanh Dũng).

          Một năm sau khi cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt từ trần, Hội đồng nhân dân tỉnh An Giang khóa VII đã Quyết nghị đặt tên công trình kênh T5 là kênh Võ Văn Kiệt và đặt bia lưu niệm tại đầu kênh để ghi nhớ công lao của cố Thủ tướng với hệ thống kênh huyết mạch, tháo chua, rửa phèn, mở mang vùng đất hoang hóa của khu vực Tứ giác Long Xuyên.

          Báo An Giang, Trường Đại học An Giang đã đăng bài Kênh “ông Kiệt” tắm mát đồng bằng của tác giả Bảo Trị – Thành Chinh. Báo Đất Việt đăng bài Kênh ông Kiệt của tác giả Võ Ngọc- Bảo Châu. Báo Tuổi Trẻ đăng loạt bài Từ kênh Vĩnh Tế đến kênh Võ Văn Kiệt của tác giả Quốc Việt. Kỳ 1: Hào lũy đất phương Nam ; Kỳ 2: Trấn giữ biên giới ; Kỳ 3: Thương hồ Vĩnh Tế ; Kỳ 4: Dấu chân lấm bùn của ông Sáu Dân; Kỳ 5: Đào kênh T5 . Tôi đã viết bài thơ Kênh ông Kiệt giữa lòng dân với lòng biết ơn sâu sắc.††††

          Kênh ông Kiệt giữa lòng dân
          Hoàng Kim

          Thơ cho em giữa tháng năm này
          Là lời người dân nói vể kênh ông Kiệt
          Là con kênh xanh mang dòng nước mát
          Làm ngọt ruộng đồng Tứ giác Long Xuyên

          Con kênh T5 thoát lũ xả phèn
          Dẫn nước ngọt về vùng quê nghèo khó
          Tri Tôn, Tịnh Biên trong mùa mưa lũ
          Giữa hoang hóa, sình lầy, thấm hiểu lòng dân

          Nguyễn Công Trứ xưa khẩn hoang đất dinh điền
          Thoại Ngọc Hầu mở mang kênh Vĩnh Tế
          Kênh ông Kiệt giữa lòng dân bền bỉ
          Ân nghĩa cuộc đời lưu dấu nghìn năm

          Em ơi khi nuôi dạy con
          Hãy dạy những điều vì dân, vì nước
          Người ta sinh ra cho đến khi nhắm mắt
          Đọng lại trong nhau vẫn chỉ những CON NGƯỜI.

          Kênh Vĩnh Tế và Kênh Võ Văn Kiệt

          Hai công trình kênh Vĩnh Tế và kênh ông Kiệt sống mãi với thời gian trong lòng dân.

          Kênh Vĩnh Tế dài gần 100km chạy dọc biên giới hai tỉnh An Giang, Kiên Giang với vương quốc Campuchia. Kênh do Thượng đạo Khâm sai, trấn thủ Vĩnh Thanh Thoại Ngọc Hầu Nguyễn Văn Thoại chỉ huy hơn 80.000 dân binh đào ròng rã 5 năm liền (1819-1824). Sau khi hoàn thành, vua Minh Mạng đã lấy tên vợ của Thoại Ngọc Hầu , bà Châu Thị Vĩnh Tế, đặt tên cho con kênh này là kênh Vĩnh Tế. Thượng nguồn con kênh tiếp dòng sông Hậu ở thị xã Châu Đốc, hạ nguồn nhập sông Giang Thành ở Hà Tiên để ra biển Tây. Kênh Vĩnh Tế hiện rộng khoảng 40-70m, sâu 3-4m so với mực nước biển tùy từng đoạn. Kênh Vĩnh Tế là tuyến thủy lộ, tuyến kênh biên giới đặc biệt quan trọng mở mang vùng đất Tây Nam Bộ mang tầm vóc của một công trình chiến lược nhất thế kỷ 19 hào lũy đất phương Nam, khẳng định chủ quyền lãnh thổ, mở mang vùng đất mới.

          Kênh Võ Văn Kiệt (kênh T5) dài 48km, rộng 30-36m và sâu 3m, thông kênh Vĩnh Tế ở Tri Tôn, An Giang, chảy qua Hòn Đất, Kiên Giang rồi đổ ra vịnh Thái Lan. Đây là một cụm “công trình thủy lợi cấp bách” mang dấn ấn Thủ tướng Võ Văn Kiệt, “bác Sáu Dân” nhằm “thoát lũ biển Tây” ngọt hóa vùng đất năng lác hoang hóa sình lầy của hai tỉnh An Giang, Kiên Giang biến thành đất sản xuất nông nghiệp…. Ông Bảy Nhị đã chia sẻ: “Thời điểm trước năm 1997 (trước khi tuyến kênh T5 hoàn thành) cứ dạo lũ về là các cấp, các ngành lo ngai ngái. Lũ về là những vùng trũng, đầu nguồn lại phải lo cảnh sơ tán dân, cứu đói, cắt lúa chạy lũ. Từ khi hệ thống kênh mương cấp 2, 3 hoàn thành theo Quyết định 99/TTg như: Nạo vét kênh Tám Ngàn, H7, các kênh 5, 13, 16… , phần nào lũ đã khống chế. Tuy vậy, những vùng như Tứ giác Long Xuyên, cảnh lũ trắng đồng vẫn là nỗi lo lớn, buộc những người lãnh đạo phải bàn quyết sách tháo gỡ vấn đề”. “Tứ giác Long Xuyên, vùng đất trũng phèn có diện tích gần 500.000 ha đất nông nghiệp vẫn còn hoang hóa nhiễm phèn, trong đó An Giang chiếm diện tích khá lớn chính là vùng đất chúng ta bỏ quên bấy lâu nay chưa khai phá. Đất không phụ người, chỉ sợ người phụ đất mà thôi”.

          Thủ tướng Võ VXem tiếp >>

            Dạy và học 5 tháng 9(05-09-2021)

          HoChiMinhvoihocsinh

          DẠY VÀ HỌC 5 THÁNG 9
          Hoàng Kim
          CNM365 Tình yêu cuộc sốngSớm thu thơ giữa lòng; Đức sáng Trần Thái Tông; Trần Thánh Tông minh quân; Lời dặn của Thánh Trần, Giữ trong sáng Tiếng Việt; Lời thương; Ngày 5 tháng 9. Ngày khai trường của các trường học tại Việt Nam. Ngày 5 tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh có Thư gửi các học sinh trong ngày khai trường đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.  Ngày 5 tháng 9 năm 1962, Thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hòaVương quốc Lào, sau năm 1975 thay thế là Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào Ngày 5 tháng 9 năm 1945, Bộ trưởng nội vụ Chính phủ Cách mạng lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Võ Nguyên Giáp ký sắc lệnh giải thể Đại Việt Quốc gia Xã hội ĐảngĐại Việt Quốc dân đảng với cáo buộc hai đảng này âm mưu tiến hành các hoạt động làm hại nền độc lập. Bài chọn lọc ngày 5 tháng 9: Sớm thu thơ giữa lòng; Đức sáng Trần Thái Tông; Trần Thánh Tông minh quân; Lời dặn của Thánh Trần, Giữ trong sáng Tiếng Việt; Lời thương; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlong https://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-5-thang-9/

          SỚM THU THƠ GIỮA LÒNG
          Hoàng Kim

          Ai thương núi nhớ biển
          Vui thu măng mỗi ngày
          Ai chợp mắt Tam Đảo
          Nắng lên là sương tan
          Ai tỏ Ngọc Quan Âm
          Vui bước tới thảnh thơi

          Kim Notes ghi chú ngắn, bấm đường links để đọc:
          Ai thương núi nhớ biểnhttps://hoangkimlong.wordpress.com/category/vui-thu-mang-moi-ngay/https://hoangkimlong.wordpress.com/category/ai-chop-mat-tam-dao/ https://hoangkimlong.wordpress.com/category/nang-len-la-suong-tan/https://hoangkimlong.wordpress.com/category/ai-to-ngoc-quan-am/https://hoangkimlong.wordpress.com/category/vui-buoc-toi-thanh-thoi/

          Tỉnh thức ban mai đã sớm thu
          Sương đêm giữ ngọc ướt cành tơ
          Ai ơi gieo đậu vừa rồi đấy
          Lộc biếc me xanh chín đợi chờ.

          *

          Sớm thu trên đồng rộng
          Em cười trời đất nghiêng
          Lúa ngậm đòng con gái
          Em đang thì làm duyên.

          Sớm thu trên đồng rộng
          Cây đời xanh thật xanh
          Lúa siêu xanh tỏa rộng
          Hương lúa thơm mông mênh.

          Sớm thu trên đồng rộng
          Trời đất đẹp lạ lùng
          Bản nhạc vui an lành
          Ơi đồng xanh yêu dấu…

          *

          Thích thơ hay bạn quý
          Yêu sương mai đầu cành
          Bình minh chào ngày mới
          Vườn nhà bừng nắng lên

          Cà phê vui bầu bạn
          Trung thu bánh tình thân
          Phố núi cao thu sớm
          Gia an nguyên lộc gần.

          *

          Thanh thản an vui dạo dọn vườn
          Vui thầy mừng bạn ngát thêm hương
          Đường xuân nhàn hạ phai mưa nắng
          Tâm sáng an lành trãi gió sương
          Thoắt đó vườn thơm nhiều quả ngọt
          Mới hay nhà phước lắm con đường
          An nhiên vô sự là tiên cảnh
          Sớm thu mai nở nắng thu vương

          Sớm thu thơ giữa lòng
          https://hoangkimlong.wordpress.com/category/som-thu-tho-giua-long/Kim Notes ghi chú nhỏ CNM365 thơ liên vận ngày này năm ấy của Hoàng Kim lưu chung với “Mùa thu trong thi ca” gồm 19 bài thơ tinh tuyển chọn lọc: Chớm thu Hoàng Gia Cương; Thu mưa Đỗ Phủ; Thu mưa Nguyễn Hoài Nhơn; Thu vịnh Nguyễn Khuyến; Thu buồn Đỗ Phủ; Thu hứng Đỗ Phủ; Thu sơn Bạch Cư Dị; Chiều thu Nguyễn Bính; Tiếng thu Lưu Trọng Lư; Thu tứ Bạch Cư Dị; Đêm thu Trần Đăng Khoa; Đêm thu Quách Tấn; Thu ẩm Nguyễn Khuyến; Thu ca Chanson d’automne (Paul Verlaine);Thu vàng Alexxandr Puskin; Thu vàng Thu Bồn; Giọt mưa thu Thái Lượng; Nắng thu Nam Trân; Thơ gửi mùa thu Nguyễn Hoài Nhơn; Thư tình gửi mùa thu, nhạc Phan Huỳnh Điểu phổ thơ Xuân Quỳnh.

          CHỚM THU
          Hoàng Gia Cương

          Ban mai rười rượi – thu vừa chớm
          Gió lạc vườn ai bỡn trái hồng
          Khóm trúc dáng chừng đang độ lớn
          Ngỡ ngàng lối ngõ đẫm hơi sương!

          Mây bông lặng vén rèm che mỏng
          Để nắng non nghiêng liếc trộm vườn
          Hàng cúc xốn xang gờn gợn sóng …
          Hình như trời đất biếc xanh hơn!

          Qua bao giông bão bao mưa lũ
          Đất lại hồi sinh lại mượt mà
          Chấp chới cánh diều loang loáng đỏ
          Cố giữ tầm cao, níu khoảng xa!

          1998
          [1] Chớm thu, Hoàng Gia Cương THEO DÒNG THỜI GIAN
          Thơ tuyển chọn 2013. NXB Văn Học Hà Nội, tr.101

          VƯỜN THU
          Hoàng Thanh Luận

          Nhỏ nhỏ con con một mảnh vườn
          Bầu trời xanh ngắt đượm mùi hương
          Phong lam một nhánh đang khoe sắc
          Gốc bưởi nhiều cành trĩu nặng sương
          Sớm sớm chim về vui hội mới
          Chiều chiều ong đến rộn gia đường
          Môi trường sinh thái ru nhè nhẹ
          Cảnh ấy người đây cứ vấn vương

          THU MƯA
          Đỗ Phủ
          Dịch thơ Khương Hữu Dụng

          Hết gió liền mưa bời bời thu,
          Tám hướng tứ bề mây mịt mù.
          Ngựa lại trâu qua thấy loáng thoáng,
          Vị trong Kinh đục trông xô bồ.
          Lúa ngâm nứt mông ngô nếp thối,
          Nhà nông già trẻ ai dám nói.
          Trong thành đấu gạo so áo chăn,
          Hơn thiệt kể gì miễn được đổi.

          Nguồn: Thơ Đỗ Phủ, Hoàng Trung Thông, NXB Văn học, 1962

          THU MƯA
          Nguyễn Hoài Nhơn

          Thu về vườn lá chớm xanh
          Ngõ cũ mưa đưa gọi nhớ
          Ai người hạnh phúc bất thành
          Ai người tình yêu dang dở?

          Mưa rây tận cùng ướt lạnh
          Thấm tháp gì tôi mưa ơi
          Úp mặt vào tay cóng buốt
          Đi hoang xa, vắng cõi người

          Nỗi quê nửa đời thao thức
          Hạt mưa tha hương phương nào
          Ta như đất và…như cỏ
          Như chẳng còn ta nữa sao ?

          Chiếc lá ngập ngừng xoay, rớt
          Mùa đi ai nỡ giữ mùa
          Em về hòan nguyên hòai ước
          Hãy giữ giùm tôi thu mưa.

          THU VỊNH
          Nguyễn Khuyến

          Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao,
          Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu.
          Nước biếc trông như tầng khói phủ,
          Song thưa để mặc bóng trăng vào.
          Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái,
          Một tiếng trên không ngỗng nước nào?
          Nhân hứng cũng vừa toan cất bút,
          Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào.

          Rút từ Quốc văn tùng ký (AB.383), Nam âm thảo (VHv.2381), Quế Sơn thi tập (A.469). Tiêu đề trong Nam âm thảo chép là Mùa thu ngồi mát ngâm thơ.. Ông Đà: tức Đào Tiềm, tự Uyên Minh, từ quan về ở ẩn đời nhà Tấn, nổi tiếng thanh cao.

          Nguồn:
          1. Thơ văn Nguyễn Khuyến, NXB Văn học, 1971 (tái bản 1979)
          2. Nguyễn Khuyến – Tác phẩm, Nguyễn Văn Huyền chủ biên, NXB Khoa học xã hội, 1984
          3. Thi hào Nguyễn Khuyến: đời và thơ, Nguyễn Huệ Chi chủ biên, NXB Giáo dục, 1994

          THU BUỒN
          Đỗ Phủ
          Dịch thơ
          Phan Ngọc

          Gió bụi nổi vạn dặm,
          Giặc giã đang hoành hành.
          Nhà xa gửi thư lắm,
          Thư đến, khách buồn tênh.
          Chim bay, cao buồn ngắm,
          Già lưu lạc theo người.
          Bụng muốn đến Tam Giáp,
          Về hai kinh chịu thôi.

          Nguồn: Phan Ngọc, Đỗ Phủ – Nhà thơ thánh với hơn một ngàn bài thơ, NXB Văn hoá thông tin, 2001

          THU HỨNG 1
          Đỗ Phủ
          Dịch thơ
          Thích Quảng Sự


          Thê lương sương phủ ủ rừng phong
          Vu Giáp Vu Sơn ảm đạm buồn.
          Ải tiếp gió mây hòa đất lạnh
          Sóng đùa sông nước hợp trời tung.
          Hai mùa cúc nở còn vương lệ
          Một chiếc thuyền tình mãi sắt son.
          Đan áo nơi nơi cho giá rét
          Giục chày thành Bạch mỗi chiều buông.

          THU HỨNG 4
          Đỗ Phủ
          Dịch thơ
          Trương Việt Linh

          Nghe nói Trường An rối cuộc cờ
          Trăm năm thế sự não lòng chưa
          Lâu đài khanh tướng thay người mới
          Áo mũ công hầu khác thưở xưa
          Xe ngựa xứ tây tin rộn đến
          Cõi bờ đất bắc trống vang đưa
          Cá rồng quạnh quẽ sông thu lạnh
          Nước cũ mơ màng chuyện gió mưa

          THU SƠN (Núi thu)
          Bạch Cư Dị
          Dịch thơ
          Trương Việt Linh

          Ốm lâu,trong bụng cũng lười
          Sáng nay lên núi dạo chơi một lần
          Núi thu mây cảnh lạnh lùng
          Xanh xao cũng tựa mặt mình như in
          Dây xanh dựa bước dễ vin
          Trắng tinh gối đá ta nằm ta chơi
          Trải lòng thoả dạ mừng vui
          Cuối ngày nhưng chửa muốn lui về nhà
          Trăm năm trong cõi người ta
          Cái thân nhăng nhít đáng là chi đâu
          Chuyện xưa khéo nghĩ bạc đầu
          Một ngày có được mấy hồi thảnh thơi
          Lưới trần khi gỡ ra rồi
          Về đây khép cửa nghỉ ngơi thanh nhàn

          CHIỀU THU
          Nguyễn Bính

          Thăm thẳm trời xanh lộng đáy hồ,
          Mùi hoa thiên lý thoảng chiều thu.
          Con cò bay lả trong câu hát,
          Giấc trẻ say dài nhịp võng ru.

          Lá thấp cành cao gió đuổi nhau,
          Góc vườn rụng vội chiếc mo cau.
          Trái na mở mắt, nhìn ngơ ngác,
          Đàn kiến trường chinh tự thủa nào.

          Lúa trổ đòng tơ, ngậm cốm non,
          Lá dài vươn sắc lưỡi gươm con.
          Tiếng chim mách lẻo cây hồng chín,
          Điểm nhạt da trời những chấm son.

          Hai cánh chia quân chiếm mặt gò,
          Bê con đùa mẹ bú chưa no.
          Cờ lau súng sậy giam chân địch,
          Trận Điện Biên này lại thắng to.

          Sông đỏ phù sa, nước lớn rồi,
          Nhà bè khói bếp lững lờ trôi.
          Đường mòn rộn bước chân về chợ,
          Vú sữa đẫy căng mặt yếm sồi.

          Thong thả trăng non dựng cuối làng,
          Giữa nhà cây lá bóng xiên ngang.
          Chiều con, cặm cụi đôi ngày phép,
          Ngồi bẻ đèn sao, phất giấy vàng.

          Nguồn: Hoàng Xuân, Nguyễn Bính – thơ và đời, NXB Văn học, 2003

          TIẾNG THU
          Lưu Trọng Lư

          Tặng bạn Văn

          Em không nghe mùa thu
          Dưới trăng mờ thổn thức?
          Em không nghe rạo rực
          Hình ảnh kẻ chinh phu
          Trong lòng người cô phụ?

          Em không nghe rừng thu
          Lá thu kêu xào xạc
          Con nai vàng ngơ ngác
          Đạp trên lá vàng khô?
          Bài thơ này đã được nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc thành bài hát cùng tên.

          Nguồn:
          1. Lưu Trọng Lư, Tiếng thu, 1939, Librairie Centrale ấn hành, 1939
          2. Tuyển tập Lưu Trọng Lư, NXB Văn học, 1987
          3. Hoài Thanh, Hoài Chân, Thi nhân Việt Nam (1932-1941), NXB Văn học, 2007
          4. Nguyễn Tấn Long, Nguyễn Hữu Trọng, Việt Nam thi nhân tiền chiến, quyển thượng, NXB Sống Mới, 1968

          THU TỨ (Ý thu)
          Bạch Cư Dị
          Dịch thơ
          Hải Đà

          Ưng ửng chiều hôm tỏa ánh hồng
          Trời quang cảnh sắc biếc thanh trong
          Mây bay lơ lửng muôn hình thú
          Bóng nguyệt thu mình lộ dáng cong
          Trời Bắc bâng khuâng chờ cánh nhạn
          Suối Nam dồn dập tiếng chày buông
          Trời thu hiu hắt tình muôn ý
          Đợi tuổi già chi mới cảm lòng ?

          ĐÊM THU
          Trần Đăng Khoa

          Thu về lành lạnh trời mây
          Bỗng nhiên thức giấc nào hay mấy giờ
          Ánh trăng vừa thực vừa hư
          Vườn sau gió nổi nghe như mưa rào
          1972

          Nguồn: Trần Đăng Khoa, Góc sân và khoảng trời, NXB Văn hóa dân tộc, 1999

          ĐÊM THU
          Quách Tấn

          Vườn thu óng ả nét thuỳ dương,
          Đưa nhẹ đêm thu cánh hải đường.
          Lóng lánh rẻo vàng gieo bến nguyệt,
          Phất phơ tơ nhện tủa ngàn sương.
          Chim hồi hộp mộng cơn mưa lá,
          Cúc vẩn vơ hồn ngọn gió hương.
          Say khướt hơi men thời Lý Bạch,
          Non xa mây phới nếp nghê thường.
          Nguồn:
          1. Quách Tấn, Mùa cổ điển (tái bản lần thứ 1), NXB Tân Việt, Sài Gòn, 1960
          2. Quách Tấn, Mùa cổ điển, NXB Thuỵ Ký, 1941
          3. Phạm Thanh, Thi nhân Việt Nam hiện đại – quyển thượng, NXB Xuân Thu tái bản, 1990

          THU ẨM
          Nguyễn Khuyến

          Năm gian nhà cỏ thấp le te,
          Ngõ tối đêm sâu đóm lập loè.
          Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt,
          Làn ao lóng lánh bóng trăng loe.
          Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt?
          Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe.
          Rượu tiếng rằng hay, hay chẳng mấy.
          Độ năm ba chén đã say nhè.

          Rút từ Quốc văn tùng ký (AB.383), Nam âm thảo (VHv.2381), Quế Sơn thi tập (A.469), Quế Sơn Tam nguyên thi tập (A.3160). Tiêu đề trong Nam âm thảo chép là Mùa thu ngồi mát uống rượu, trong Quế Sơn Tam nguyên thi tập chép là Dạ toạ ngẫu tác 夜坐偶作 (Chợt làm khi ngồi trong đêm).

          Nguồn:
          1. Thơ văn Nguyễn Khuyến, NXB Văn học, 1971 (tái bản 1979)
          2. Nguyễn Khuyến – Tác phẩm, Nguyễn Văn Huyền chủ biên, NXB Khoa học xã hội, 1984
          3. Thi hào Nguyễn Khuyến: đời và thơ, Nguyễn Huệ Chi chủ biên, NXB Giáo dục, 1994

          THU CA
          Chanson d’automne (Paul Verlaine)
          Dịch thơ
          Kiều Văn


          Tiếng vĩ cầm nức nở
          Của mùa thu ngân dài
          Giọng đều đều buồn tẻ
          Cứa mãi vào tim tôi.

          Tất cả chợt lịm đi
          Trong giây phút tái tê
          Khi chuông giờ gõ điểm.

          Tôi miên man tưởng niệm
          Những ngày xưa xa xôi
          Và nước mắt tôi rơi.

          Rồi tôi đi, đi mãi
          Giữa cơn gió phũ phàng
          Cuốn tôi mang đây đó
          Như chiếc lá úa vàng.
          Nguồn: Mùa thu trong thi ca, tuyển thơ nhiều tác giả, NXB Hội nhà văn, 2007

          THU VÀNG
          Alexxandr Puskin
          Dịch thơ Hồ Quốc Vĩ

          Thu buồn, – cặp mắt đắm say,
          Tôi yêu sắc đẹp em ngày chia phôi.
          Thiên nhiên tàn úa bỗng tươi,
          Rừng thay áo mới, cả trời vàng au.
          Ồn ào hơi gió thở mau,
          Bầu trời gợn sóng như màu khói sương.
          Vài tia nắng hiếm nhớ thương
          Sợ mùa đông sớm quen đường đến nhanh.
          Đắm trong yên tĩnh ngọt lành,
          Tôi quên thế giới thức thành tiếng thơ.

          Tâm hồn xáo động ngẩn ngơ,
          Tơ lòng run rẩy, mộng chờ đợi ai.

          Nguồn: Alexxandr Puskin, Tuyển tập tác phẩm – Thơ và trường ca, NXB Văn học, Trung tâm VHNN Đông Tấy, 1999

          THU VÀNG
          Thu Bồn

          Tặng T. A.

          ập thoáng chốc… thu về như lá rụng
          ngoài hiên em đã đến tự bao giờ
          trời xanh ngắt anh không còn trẻ nữa
          cây sấu cho hè hết cả trái chua

          thế là hạ đã qua trong giây lát
          giọt thơ anh thánh thót đã thu vàng
          em đã đến mà như chưa đến
          tiếng chim kêu se sắt muộn màng

          mắt le lói nhìn sao khuya rụng
          Hà Nội trôi sông Hồng đêm nay
          nghe hơi thở đất trời trong tiếng dế
          nâng trái tim mình lên uống để mà say

          em nhanh quá anh về chậm quá
          trái đất vô tư níu giữ vòng quay
          chân anh mỏi âm thầm mặc cảm
          véo von em lảnh lót giữa đời bay

          mầm nhú ban đêm lá úa ban ngày
          anh lẩn thẩn mài đời lên trang giấy
          thời gian cứ lạnh lùng như viên tẩy
          chút thu vàng mờ nhạt lẩn đâu đây

          đừng hát nữa thu vàng em hãy ngủ
          để anh nghe lá rụng cọ tim mình
          xào xạc đấy những trời yên tĩnh lạ
          tay mơ hồ đang chạm những lời ru…
          (Hà Nội đêm 29-08-1990)

          Nguồn: 100 bài thơ tình nhờ em đặt tên (thơ), Thu Bồn, NXB Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, 1992

          GIỌT MƯA THU
          Thái Lượng


          Mưa thu rơi, rơi đều trong đêm vắng
          Tiếng mưa buồn sâu lắng giữa canh thâu
          Mưa từ đâu tí tách những giọt sầu
          Như nức nở vọng lầu thương bóng nguyệt

          Đêm cô tịch mưa kéo dài cay nghiệt
          Thương dòng đời ru nghịch cảnh trái ngang
          Mưa thu rơi như lệ chảy từng hàng
          Nghe lạnh lẽo những lời than vô vọng

          Mặt đường phố giọt mưa còn khơi đọng
          Nỗi lạnh lùng cây cỏ cũng buồn tênh
          Giữa lưng trời giọt nhớ mãi lênh đênh
          Như khắc khoải không ngừng câu ai oán

          Mưa thu rơi giọt sầu thêm ngao ngán
          Tiếng ngậm ngùi đang vỗ giấc tương tư
          Biết nói sao cho hết được ngôn từ
          Đêm hoang lạnh lòng chìm trong thương nhớ

          Mưa rơi nhẹ nhịp hoà cùng hơi thở
          Giữa vũng lầy bỡ ngỡ những bước chân
          Tiếng mưa rơi não nuột chẳng ngại ngần
          Sầu phong kín nỗi lòng người lữ thứ

          Thu man mác gợi thêm sầu cô lữ
          Gió muộn màng thổi nhẹ lá vàng rơi
          Mưa thu ơi xin trút hết cho đời
          Bao nỗi nhớ trôi về nơi xa ấy…

          NẮNG THU
          Nam Trân

          Tặng Hoàng Khôi

          Hát bài hát ngô nghê và êm ái,
          Bên sườn non, mục tử cỡi trâu về,
          Nắng chiều rây vàng bột xuống dân quê,
          Lúa chín đỏ theo gió nồm sắp mái.

          Trên suối nhỏ, chiếc cầu treo hẻo lánh
          Tốp người qua, lẩy bẩy vịn thanh ngang
          Lũ trẻ con sung sướng nổ cười vang
          Đùa với bóng chảy theo giòng nước lạnh.

          Dãy núi tím bỗng thay mầu xanh ngắt
          Rồi ố làn trong giây khắc nhá nhem.
          Âm thầm cảnh vật vào Đêm:
          Vết ráng đỏ, tiếng còi xa cũng tắt.
          Nguồn:
          1. Nam Trân, Huế, đẹp và thơ, 1939
          2. Hoài Thanh, Hoài Chân, Thi nhân Việt Nam, NXB Văn học, 2007
          3. Phạm Thanh, Thi nhân Việt Nam hiện đại (quyển thượng), NXB Xuân Thu, 1990

          THƠ GỬI MÙA THU
          Nguyễn Hoài Nhơn


          Thu ạ, tôi như lọn mây phiêu lạc
          Đắp đỗi cho em vụng dại mấy mươi mùa
          Đôi mắt sẽ muộn phiền trăm năm nữa
          Ba ngả sông đời nghẹn chảy xót xa chưa ?

          Thị trấn nhỏ lắm bùn, nhiều cát thế
          Để bước chân lỡ hẹn với Ngân Hà
          Triền đê gió dỗi hờn, ai ru dỗ
          Đêm lạc loài sương cỏ dấu em qua

          Quán trọ tình yêu tôi về tạ lỗi
          Cùng cơn mơ tiền kiếp đắng cay đầy
          Em tỉnh giấc trắng trời mưa lông ngỗng
          Và con đường buôn buốt gió heo may.

          THƠ TÌNH CUỐI MÙA THU
          Xuân Quỳnh


          Cuối trời mây trắng bay
          Lá vàng thưa thớt quá
          Phải chăng lá về rừng
          Mùa thu đi cùng lá
          Mùa thu ra biển cả
          Theo dòng nước mênh mang
          Mùa thu vào hoa cúc
          Chỉ còn anh và em

          Chỉ còn anh và em
          Là của mùa thu cũ
          Chợt làn gió heo may
          Thổi về xao động cả:
          Lối đi quen bỗng lạ
          Cỏ lật theo chiều mây
          Đêm về sương ướt má
          Hơi lạnh qua bàn tay

          Tình ta như hàng cây
          Đã qua mùa gió bão
          Tình ta như dòng sông
          Đã yên ngày thác lũ

          Thời gian như là gió
          Mùa đi cùng tháng năm
          Tuổi theo mùa đi mãi
          Chỉ còn anh và em

          Chỉ còn anh và em
          Cùng tình yêu ở lại…
          – Kìa bao người yêu mới
          Đi qua cùng heo may

          Nguồn: Thơ tình cuối mùa thu; trong Tự hát, Xuân Quỳnh, NXB Tác phẩm mới, 1984. Bài thơ này đã được nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu phổ nhạc thành bài hát Thư tình cuối mùa thu.

          TRẦN THÁNH TÔNG MINH QUÂN
          Hoàng Kim

          Trần Thánh Tông sinh ngày 12 tháng 10 năm 1240, mất ngày 3 tháng 7 năm 1290 là  vị Hoàng đế thứ hai của nhà Trần, ở ngôi từ năm 1258 đến 1278 và làm Thái thượng hoàng từ năm 1278 đến năm 1290 lúc qua đời (hình Lăng Trần Thánh Tông ở Long Hưng, Thái Bình)Trần Thánh Tông là vua thánh nhà Trần: Vua nổi tiếng có lòng thương dân và đặc biệt thân thiết với anh em trong Hoàng tộc, điều hiếm thấy từ trước đến nay; Trần Thánh Tông có công rất lớn lúc làm Thái thượng hoàng đã cùng với con trai là vua Trần Nhân Tông lãnh đạo quân dân Đại Việt giành chiến thắng trong hai cuộc chiến cuối cùng chống lại quân đội nhà Nguyê
          n sang thôn tính nước ta lần thứ hai năm1285 và lần thứ ba năm 1287; Nước Đại Việt suốt thời Trần Thánh Tông làm vua và làm Thái Thượng hoàng là rất hưng thịnh, hùng mạnh, phát triển toàn diện chính trị, kinh tế, quân sự, ngoại giao, văn hóa, giáo dục không để cho nhà Nguyên thôn tính.

          Trần Thánh Tông cuộc đời và di sản

          Vua Trần Thánh Tông tên thật Trần Hoảng là con trai thứ hai của vua Trần Thái Tông (Trần Cảnh), mẹ là Hiển Từ Thuận Thiên hoàng hậu Lý thị, công chúa nhà Lý, con gái của Lý Huệ Tông và Linh Từ Quốc mẫu. Anh trai lớn của ông, Tĩnh Quốc đại vương Trần Quốc Khang tuy danh nghĩa là con lớn nhất, nhưng thực tế là con của Khâm Minh đại vương Trần Liễu. Như vậy, ông là Hoàng đích trưởng tử (con trai lớn nhất và do chính thất sinh ra) của Trần Thái Tông hoàng đế.

          Vua Trần Thánh Tông sinh ngày 25 tháng 9 âm lịch, năm Thiên Ứng Chính Bình thứ 9 (1240), và ngay lập tức được lập làm Hoàng thái tử, ngự ở Đông cung. Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư, trước khi Hiển Từ Thuận Thiên hoàng hậu mang thai ông, Thái Tông hoàng đế nằm mơ thấy Thượng Đế trao tặng bà một thanh gươm báu.

          Vua Trần Thánh Tông có vợ là  Nguyên Thánh hoàng hậu Trần Thiều (?– 1287), con gái An Sinh Vương Trần Liễu, mới đầu phong làm Thiên Cảm phu nhân, sau phong lên làm Hoàng hậu. Năm 1278, Trần Nhân Tông tôn làm Nguyên Thánh Thiên Cảm Hoàng Thái hậu

          Vua Trần Thánh Tông có bốn con: 1) đích trưởng tử là Trần Khâm, tức Nhân Tông Duệ Hiếu hoàng đế, mẹ là Nguyên Thánh hoàng hậu; 2) Tá Thiên đại vương Trần Đức Việp (1265 – 1306), mẹ là Nguyên Thánh hoàng hậu. 3) Thiên Thuỵ công chúa, chị gái Nhân Tông, mất cùng ngày với Nhân Tông (3 tháng 11 âm lịch, 1308), lấy Hưng Vũ vương Trần Quốc Nghiễn, con trai Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn, mẹ là Nguyên Thánh hoàng hậu;4)  Bảo Châu công chúa, lấy con trai thứ của Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải, mẹ là Nguyên Thánh hoàng hậu.

          Nhà Trần đánh bại quân Nguyên Mông lần thứ nhất năm 1257, vào ngày 24 tháng 12 năm Nguyên Phong thứ 7 (1257), Thái tử Trần Hoảng đã cùng với vua Trần Thái Tông ngự lâu thuyền mà kéo quân đến Đông Bộ Đầu, đập tan tác quân Nguyên Mông trong Trận Đông Bộ Đầu, buộc họ phải rút chạy và chấm dứt cuộc xâm lược Đại Việt.

          Vua Trần Thái Tông nhường ngôi cho Thái tử Trần Hoảng ngày 24 tháng 2, năm 1258 (Nguyên Phong thứ 8). Vua Trần Thánh Tông đổi niên hiệu là Thiệu Long, xưng làm Nhân Hoàng, tôn vua chalàm Thái thượng hoàng, tôn hiệu là Hiển Nghiêu Thánh Thọ Thái Thượng Hoàng Đế .

          Vua Trần Thánh Tông ở ngôi 21 năm, đất nước được yên trị . Vua nổi tiếng là vị hoàng đế nhân hậu, hòa ái đối với mọi người từ trong ra ngoài. Ông thường nói rằng: “Thiên hạ là của ông cha để lại, nên để anh em cùng hưởng phú quý chung”.Do vậy, các hoàng thân trong nội điện thường ăn chung cỗ và ngủ chơi chung nhà rất đầm ấm, chỉ khi có việc công, hay buổi chầu, thì mới phân thứ tự theo phép nước .

          Tĩnh Quốc đại vương Trần Quốc Khang, trên danh nghĩa là con trưởng của vua Trần Thái Tông, nhưng thực ra là con trai của An Sinh đại vương Trần Liễu cùng Hiển Từ Thuận Thiên hoàng hậu. Trần Quốc Khang tuy là con trưởng  của vua Trần Thái Tông, nhưng  xuất thân đặc biệt nên chịu mọi sự suy xét trong hoàng tộc. Sử cũ kể lại, có lần Trần Thánh Tông cùng với người anh cả là Trần Quốc Khang chơi đùa trước mặt Thái thượng hoàng. Thượng hoàng mặc áo bông trắng, Trần Quốc Khang múa kiểu người Hồ, Thượng hoàng bèn cởi áo ban cho. Vua Trần Thánh Tông thấy vậy cũng múa kiểu người Hồ để đòi thưởng áo bông. Quốc Khang bèn nói:Quý nhất là ngôi vua, tôi đã không tranh với chú hai rồi. Nay đức chí tôn cho tôi thứ nhỏ mọn này mà chú hai cũng muốn cướp sao?

          Thượng hoàng Thái Tông cười nói với Quốc Khang:

          Vậy ra con coi ngôi vua cũng chỉ như cái áo choàng này thôi à?

          Thượng hoàng Thái Tông khen Quốc Khang, rồi ban áo cho ông. Trong Hoàng gia, cha con, anh em hòa thuận không xảy ra xích mích.] Vào tháng 9 năm 1269, Vua Trần Thánh Tông phong cho Trần Quốc Khang làm Vọng Giang phiêu kỵ Đô thượng tướng quân. Một lần khác, vào mùa xuân năm 1270, Trần Quốc Khang xây vương phủ hoành tráng tại Diễn Châu, vua Trần Thánh Tông bèn cho người đến xem. Hoảng sợ, Quốc Khang đành phải dựng tượng Phật tại nơi này – sau trở thành chùa Thông.

          Vua Trần Thánh Tông rất quan tâm giáo dục, Trần Ích Tắc, em trai Trần Thánh Tông nổi tiếng là một người hay chữ trong nước được cử mở trường dạy học để các văn sĩ học tập. Danh nho Mạc Đĩnh Chi, người đỗ trạng nguyên đời Trần Anh Tông sau này cũng học ở trường ấy.

          Thời vua Trần Thánh Tông nhân sự cũng được thay đổi. Ông xuống chiếu kén chọn văn học sĩ sung vào quan ở Quán và Các. Trước đó, theo quy chế cũ: “không phải người trong họ vua thì không được làm chức Hành khiển“. Nhưng bắt đầu từ đấy, nho sĩ văn học được giữ quyền bính làm hành khiển, như Đặng Kế làm Hàn lâm viện học sĩ, Đỗ Quốc Tá làm Trung thư sảnh trung thư lệnh, đều là nho sĩ văn học.  Vua Trần Thánh Tông cho phép các vương hầu, phò mã họp các dân nghèo để khẩn hoang]. Vương hầu có điền trang bắt đầu từ đấy.

          Năm 1262, vua Trần Thánh Tông xuống lệnh cho quan quân chế tạo vũ khí và đúc thuyền. Tại chín bãi phù sa ở sông Bạch Hạc, Lục quân và Thủy quân nhà Trần đã tổ chức tập trận. Vào tháng 9 (âm lịch) năm ấy, ông truyền lệnh cho rà soát ngục tù, và thẳng tay xử lý những kẻ đã đầu hàng quân xâm lược Nguyên trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ nhất thời Nguyên Phong.

          Vua Trần Thánh Tông còn cho Lê Văn Hưu tiếp tục biên soạn sách Đại Việt sử ký. Lê Văn Hưu đã làm được bộ sử sách gồm 30 quyển, chép từ đời Triệu Vũ Vương đến Lý Chiêu Hoàng. Việc biên tập bộ sử này được khởi đầu từ đời vua Trần Thái Tông, đến năm 1271 đời Thánh Tông mới hoàn thành.

          Năm 1258, sau khi Nhà Trần đánh bại quân Nguyên Mông lần thứ nhất, Trần Thánh Tông sai sứ sang Nam Tống báo việc lên ngôi và được phong làm An Nam quốc vương. Mặc dù Nam Tống đã suy yếu trước sự uy hiếp của Mông Cổ, ông vẫn giữ quan hệ bang giao với Nam Tống ngoài ý nghĩa giao hảo nước lớn còn nhằm mục đích nắm tình hình phương bắc. Khi Thánh Tông sai sứ mang đồ cống sang, vua Tống cũng tặng lại các sản vật của Trung Quốc như chè, đồ sứ, tơ lụa; không những gửi cho Thánh Tông mà còn tặng cả sứ giả.  Sau này khi Nam Tống bị nhà Nguyên đánh bại, phải rút vào nơi hiểm yếu, mới không còn qua lại với Đại Việt. Nhiều quan lại và binh sĩ Tống không thần phục người Mông đã sang xin nương nhờ Đại Việt. Trần Thánh Tông tiếp nhận họ, ban cho chức tước và cử người quản lý.

          Năm 1260, hoàng đế nhà Nguyên sai Mạnh Giáp, Lý Văn Tuấn mang chiếu chỉ sang Đại Việt tuyên dụ, với yêu cầu hệ thống chính quyền Đại Việt phải theo lối hoạt động của Thiên triều, không được dấy binh xâm lấn bờ cõi. Vào năm Tân Dậu 1261, niên hiệu Thiệu Long thứ 4, vua Trần Thánh Tông được vua Mông Cổ phong làm An Nam Quốc Vương, lại được trao cho 3 tấm gấm tây cùng với 6 tấm gấm kim thục. Trần Thánh Tông duy trì lệ cống nhà Nguyên 3 năm 1 lần, mỗi lần đều phải cống nho sĩ, thầy thuốc, thầy bói và thợ thuyền mỗi hạng ba người, cùng với các sản vật như là sừng tê, ngà voi, đồi mồi, châu báu…

          Vua nhà Nguyên lại đặt chức quan Darughachi tại Đại Việt để đi lại giám trị các châu quận Đại Việt; ý muốn can thiệp chính trị, tìm hiểu nhân vật, tài sản Đại Việt để liệu đường mà đánh chiếm. Thánh Tông bề ngoài tuy vẫn chịu thần phục, nhưng ông biết ý đồ của vua Mông, nên tiếp tục luyện binh dụng võ để chuẩn bị chiến tranh. Ông cho tuyển đinh tráng các lộ làm lính, phân làm quân và đô, bắt phải luyện tập luôn.

          Năm 1271, Hốt Tất Liệt đặt quốc hiệu là Nguyên, bình định nốt miền nam Trung Quốc và dụ vua Đại Việt sang hàng, để khỏi cần động binh. Nhà Nguyên cứ vài năm lại cho sứ sang sách nhiễu và dụ vua Đại Việt sang chầu, nhưng vua Trần lấy cớ thoái thác.

          Năm 1272, hoàng đế nhà Nguyên cho sứ sang lấy cớ tìm cột đồng trụ của Mã Viện trồng ngày trước, nhưng vua Thánh Tông sai quan sang nói rằng: cột Xem tiếp >>

            Dạy và học 4 tháng 9(04-09-2021)

           

          DẠY VÀ HỌC 4 THÁNG 9
          Hoàng Kim
          CNM365 Tình yêu cuộc sốngĐức sáng Trần Thái Tông; Trần Thánh Tông minh quân; Lời dặn của Thánh Trần; Yên Tử Trần Nhân Tông; Nhà Trần trong sử Việt; Ai chợp mắt Tam Đảo; Nắng lên là sương tan; Ai tỏ Ngọc Quan Âm; Vui bước tới thảnh thơi; Ngày 4 tháng 9 năm 626, Đường Thái Tông Lý Thế Dân lên ngôi hoàng đế nhà Đường, sau sự biến Huyền Vũ môn. Ông là vị hoàng đế lập nên sự cường thịnh của nhà Đường phát triển về kinh tế và hùng mạnh về quân sự nhất trên thế giới thời bấy giờ, nhưng sự so sánh Chuyện hai vua Thái Tông Trung Quốc Việt Nam thì đức độ của vua Trần Thái Tông Việt Nam được người Việt tôn kính hơn “Sáng nghiệp Việt, Đường hai Thái Tông, Đường xưng: Trinh Quán, Việt: Nguyên Phong. Kiến Thành bị giết, An Sinh sống, Miếu hiệu tuy đồng, đức chẳng đồng“. Ngày 4 tháng 9 năm 1958, Thủ tướng Quốc vụ viện Chu Ân Lai ra tuyên bố về hải phận của Trung Quốc, bao gồm cả Các quần đảo trên biển Đông. Tháng 6 năm 1950 nhà văn Sơn Tùng được cụ Nguyễn Sinh Khiêm anh ruột Bác Hồ tặng sách “ Tất Đạt tự ngôn” kể chuyện Bài đồng dao huyền thoại: Năm 1895 Hồ Chí Minh lúc ấy là Nguyễn Sinh Cung đã có bài thơ “Biển là ao lớn Thuyền là con bò Thuyền ăn gió no Lội trên mặt nước Em nhìn thấy trước Anh trông thấy sau Ta lớn mau mau Vượt qua ao lớn”. Ngày 4 tháng 9 năm 1998, Googlecông cụ tìm kiếm web được Larry PageSergey Brin thành lập và phát triển từ khi họ còn là sinh viên Đại học Stanford.Bài chọn lọc ngày 4 tháng 9 Đức sáng Trần Thái Tông; Trần Thánh Tông minh quân; Lời dặn của Thánh Trần; Yên Tử Trần Nhân Tông; Nhà Trần trong sử Việt; Ai chợp mắt Tam Đảo; Nắng lên là sương tan; Ai tỏ Ngọc Quan Âm; Vui bước tới thảnh thơi; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-4-thang-9/

          ĐỨC SÁNG TRẦN THÁI TỒNG
          Hoàng Kim

          Đức sáng Trần Thái Tông
          Minh quân Trần Thánh Tông
          Lời dặn của Thánh Trần
          Yên Tử Trần Nhân Tông
          Nhà Trần trong sử Việt

          “Sáng nghiệp Việt, Đường hai Thái Tông/ Đường xưng: Trinh Quán, Việt: Nguyên Phong/ Kiến Thành bị giết, An Sinh sống/ Miếu hiệu tuy đồng, đức chẳng đồng”. Vua Trần Thái Tông (1218- 1277) người sáng nghiệp nhà Trần là bậc minh quân đức tài Việt Nam vô song . Người được so sánh với Đường Thái Tông Lý Thế Dân (598- 649) là vị vua giỏi Trung Hoa sáng nghiệp nhà Đường thời trước đó. Đường Thái Tông đã thiết lập nên sự cường thịnh của nhà Đường phát triển về kinh tế và hùng mạnh về quân sự bậc nhất của thế giới lúc ấy, và được hậu thế đánh giá là một trong những vị vua giỏi nhất Trung Hoa mọi thời đại; thế.nhưng so đức độ với vua Trần Thái Tông thì vua Việt được người đời ca ngợi hơn. Đức sáng Trần Thái Tông; được tiếp nối là
          Minh quân Trần Thánh TôngYên Tử Trần Nhân Tông đã trọng dụng được bậc thiên tài chính trị, quân sự, nhà văn Trần Quốc Tuấn. Quốc Công Tiết chế Hưng Đạo Đại Vương đã tổ chức quân dân Việt ba lần đánh tan đội quân Nguyên Mông mạnh nhất thế giới thời ấy . Thái Tông Thánh Tông Quốc Tuấn là ba đỉnh cao vọi của của tâm đức và trí tuệ. “Vua tôi đồng lòng, toàn dân gắng sức” Vua Trần Nhân Tông khi lên đỉnh Yên Tử có hỏi về ba đỉnh cao vọi trong dãy núi Nham Biền thăm thẳm kia là gì thì được trả lời đó là dãy núi Yên Phụ của vòng cung Đông Triều trấn Bắc. Đức Nhân Tông đã lạy Yên Phụ và chọn Yên Tử làm chốn an nghĩ nơi Cư trần lạc đạo của mình. Câu chuyện Trần Thái Tông và Trần Quốc Tuấn, minh quân ấy và thiên tài ấy lưu dấu muôn đời nơi đất Việt thật lạ lùng và sâu sắc thay.

          Vua Trần Thái Tông người sáng nghiệp nhà Trần đã để lại cho đời câu nói nổ tiếng: “Nếu chỉ để lời nói suông cho đời sau, sao bằng đem thân mình đảm nhận trọng trách cho thiên hạ trước đã”. Thiên tài Trần Quốc Tuấn không thể phát lộ tỏa sáng nếu không có vua Trần Thái Tông minh quân đặc biệt hiếm có và tiếp nối là vua giỏi Trần Thánh Tông và vua Phật Trần Nhân Tông hết lòng “Vua tôi đồng lòng, toàn dân gắng sức” mới đạt được thành tựu như vậy.

          Vua Trần Thái Tông không chỉ tha cho An Sinh Vương Trần Liễu là người chống lại Thái Tông và hận thù giữa họ sâu đến nỗi Trần Liễu còn di nguyện cho Trần Quốc Tuấn sau này nhất thiết phải đoạt lại ngôi vua. Vua Trần Thái Tông trước việc yêu thương của hai trẻ là Quốc Tuấn và Thiên Thành: Người con trai Quốc Tuấn thì dám lẻn vào cung Nhân Đạo Vương ngủ với người mình yêu mà không sợ cái chết. Người con gái là công chúa Thiên Thành thì đã dám chọn cái chết mà trao thân cho người mình yêu ngay trước hôm vua Trần Thái Tông đã sắp làm đám cưới cho Trung Thành Vương, con trai của Nhân Đạo Vương một vị quan đầu triều. Tình yêu đó, khí phách đó thật lớn lao.

          Vua Trần Thái Tông tiếc tài của Trần Quốc Tuấn nên quyết không làm ngơ để Quốc Tuấn bị giết. Vua chủ động kết nối lương duyên cho hai người Thiên Thành và Quốc Tuấn bất chấp lẽ thường tình và bao dung không giết Trần Quốc Tuấn, con của Trần Liễu kẻ đang thù hận mình và đang “cố tình phạm tội ngông cuồng” trái nhân tình. Câu chuyện ứng xử mau lẹ và tuyệt vời của vua Trần Thái Tông với lòng yêu thương và trí tuệ cao cả đã ứng xử đặc biệt kiệt xuất và chủ động tác thành hạnh phúc cho công chúa Thiên Thành và Quốc Tuấn nên vợ chồng, hóa giải mọi điều, thu phục được tấm lòng của bậc anh hùng và giữ lại được cho non sông Việt một bậc kỳ tài muôn thuở là Đức Thánh Trần.

          Chuyện lạ và hay hiếm thấy !

          Mẹ tôi họ Trần. Tôi về dâng hương Đức Thánh Trần tại đền Tổ. Chùa cổ Thắng Nghiêm là nơi Đức Thánh Trần thuở nhỏ theo công chúa Thụy Bà về đây để tìm minh sư học phép Chọn người, Đạo làm tướng và viết nên kiệt tác quân sự chính trị kiệt xuất Binh thư Yếu lược, một trong hai tác phẩm quân sự cổ đại xuất sắc nhất Việt Nam từ trước đến nay (mời đọc Lời dặn lại của Đức Thánh Trần).

          Trần Quốc Tuấn Quốc Công Tiết Chế Hưng Đạo Đại Vương là một trong mười nhà quân sự kiệt xuất nhất lịch sử Thế Giới và Việt Nam. Vương là nhà chính trị, nhà văn, tư lệnh tối cao của Việt Nam thời nhà Trần, đã ba lần đánh thắng đội quân Nguyên – Mông đế quốc hùng mạnh nhất thế giới thời đó.

          Trần Hưng Đạo sinh năm 1232, mất ngày 20 tháng 8 âm lịch năm 1300, ông là con thứ ba của An Sinh Vương Trần Liễu, gọi Trần Thái Tông bằng chú ruột, mẹ ông là Thiện Đạo quốc mẫu, một người trong tôn thất họ Trần. Ông có người mẹ nuôi đồng thời là cô ruột là Thụy Bà công chúa [1]. Ông sinh ra ở kinh đô Thăng Long, quê quán ở thôn Tức Mặc, phường Lộc Vượng, thành phố Nam Định ngày nay[2]. Năm 1237, khi lên 5 tuổi ông làm con nuôi của người cô ruột là Thụy Bà công chúa, vì cha ông là Trần Liễu chống lại triều đình (Trần Thủ Độ). Đại Việt sử ký toàn thư mô tả ông là người có dung mạo khôi ngô, thông minh hơn người, nhờ được những người tài giỏi đến giảng dạy mà ông sớm trở thành người đọc thông hiểu rộng, có tài văn võ [3]

          Vua Trần Thái Tông tên thật là Trần Cảnh, sinh ngày 16 tháng 6 năm 1218 mất ngày 1 tháng 4 năm 1277, là vị hoàng đế đầu tiên của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam. Ông ở ngôi hơn 32 năm (1225 – 1258), làm Thái thượng hoàng trong 19 năm. Trần Cảnh sinh ra dưới thời kỳ nhà Lý còn tại vị, ông cùng tuổi với vị Nữ hoàng nhà Lý lúc bấy giờ là Lý Chiêu Hoàng. Ông được Chiêu Hoàng yêu mến, hay gọi vào vui đùa, Trần Cảnh khi ấy không nói năng gì nhưng khi về đều nói lại với chú họ là Trung Vũ Vương Trần Thủ Độ. Nhà Lý thuở ấy loạn cung đình đã vào đỉnh điểm. Vua Lý tuy có hai con gái rất giỏi và thông minh, hiền hậu nhưng không có con trai nối dõi, trong khi hoàng tộc nhà Lý dòm ngó ngôi báu đều là những kẻ mưu mô và kém đức. Nước Đại Việt lúc đó bên ngoài thì họa ngoại xâm từ đế quốc Nguyên Mông đang rình rập rất gần, bên trong thì biến loạn bùng nổ liên tục nhiều sự kiện rất nguy hiểm. Trần Thủ Độ nắm thực quyền chốn cung đình, nhận thấy Trần Cảnh cháu mình cực kỳ thông minh đỉnh ngộ, thiên tư tuyệt vời xứng là một minh quân, lại được Lý Chiêu Hoàng yêu mến nên đã đặt cược việc sắp đặt hôn nhân giữa Trần Cảnh và Lý Chiêu Hoàng với họa diệt tộc Trần “tru di chín họ” nếu CHỌN LẦM NGƯỜI. Trần Thủ Độ đánh giá cao Trần Cảnh sau này là vua Trần thái Tông để quyết tâm thực hiện cuộc đổi họ trong lịch sử thực hiện chính biến cung đình. Sự kiện này xảy ra vào năm 1225, chấm dứt triều đại nhà Lý đã tồn tại hơn 200 năm và khai sáng nhà Trần.

          Trớ trêu thay, Trần Thái Tông không có người kế vị chính danh phận, trong lúc sự chỉ trích và chống đối của tôn thất nhà Lý do Hoàng Thái hậu cầm đầu lại đẩy lên cao trào và rất nặng nề do Lý hoàng hậu (tức Lý Chiêu Hoàng) vợ Trần Thái Tông sinh con nhưng người con lại bị chết yểu ngay sau khi sinh. Sự dòm ngó cướp ngôi của nhiều kẻ tôn thất mượn tiếng có con trai nối dõi âm ưu phế vua đoạt quyền trong khi giặc ngoài lăm le sát biên ải, chỉ chờ trong nước có biến là hành động. Thuận Thiên công chúa là vợ của Trần Liễu khi ấy lại đang mang thai được 3 tháng. Năm 1237, Thái sư Trần Thủ Độ đang nắm thực quyền phụ chính đã ép Trần Liễu là cha của Trần Quốc Tuấn phải nhường vợ Thuận Thiên công chúa (chị của Lý Chiêu Hoàng) thay làm Chính cung Hoàng hậu cho Trần Thái Tông, đồng thời giáng Lý hoàng hậu xuống làm công chúa. Việc này khiến Trần Thái Tông bỏ lên tu ở núi Yên Tử. Người sau này đã chứng ngộ vận nước lâm nguy, cường địch bên ngoài câu kết nội gián bên trong không thể không xử thời biến “non sông đất nước Việt trên hết “. Người đã chấp nhận quay về “Nếu chỉ để lời nói suông cho đời sau, sao bằng đem thân mình đảm nhận trọng trách cho thiên hạ trước đã”. Trần Thái Tông đã chấp nhận sự sắp xếp của Triều đình. Sau này ngày 24 tháng 2 năm 1258, ông truyền ngôi cho Thái tử Trần Hoảng, là con thứ, (em của Trần Quốc Khang vốn con Trần Liễu) để lui về làm Thái thượng hoàng, Trần Thái Tông được tôn làm Hiển Nghiêu Thánh Thọ Thái Thượng Hoàng Đế. Trần Hoảng lên ngôi tức Trần Thánh Tông. Tước vị và thông lệ Thái thượng hoàng của nhà Trần từ đấy đã trở thành truyền thống, vừa rèn luyện cho vị Hoàng đế mới cai trị đất nước càng sớm càng tốt vừa tránh được việc tranh giành ngôi báu giữa các con do chính danh sớm được định đoạt, nhưng cái chính là xử lý được thực việc chính danh của vua con là con của Lý hoàng hậu tránh được thảm họa tranh chấp cung đình. Việc làm thái thượng hoàng sau này thành điển lệ tốt của triều Trần

          Trần Liễu gửi con là Trần Quốc Tuấn cho Thụy Bà công chúa mai danh ẩn tích ở chùa Thắng Nghiêm tìm minh sư luyện rèn văn võ (Chùa cổ Thắng Nghiêm lưu nhiều dấu tích Trần Hưng Đạo mà sau này tôi may mắn được chứng kiến và giác ngộ . HK. Sau khi Trần Liễu gửi con, ông đã dấy binh làm loạn ở sông Cái, cuối cùng bị thất thế, phải xin đầu hàng. Trần Thủ Độ toan chém nhưng Trần Thái Tông liều chết đưa thân mình ra ngăn cãn buộc lòng Thủ Độ phải tự mình ném bảo kiếm xuống sông. Trần Liễu được tha tội nhưng quân lính theo ông làm phản đều bị giết sạch và vua Thái Tông đã đổi ông làm An Sinh vương ở vùng đất Yên Phụ, Yên Tử thuộc tỉnh Quảng Ninh ngày nay.

          Trần Quốc Tuấn từ 5 tuổi đã được minh sư rèn luyện tỏ ra và một vị nhân tướng lỗi lạc phi phàm lúc trở về sớm được Trần Thái Tông quý trọng vì đức độ và tài năng vượt bậc so trong số con cháu vương thất. Qua sự biến Trần Quốc Tuấn yêu thương công chúa Thiên Thành, là con gái của vua Trần Thái Tông, nhân lễ hội trăng rằm nửa đêm đã lẻn vào chỗ ở của công chúa và thông dâm với nàng[5]. Thời nhà Trần đã có quy định, để tránh ngôi vua truyền ra ngoài, chỉ có người trong tộc mới được lấy nhau nên kết hôn cùng huyết thống là điều không lạ và chuyện “quái” ấy cũng là để khuất tất việc Trần Thái Tông lấy vợ Trần Liễu không bị người đời đàm tiếu.

          Thật oái oăm sự lựa chọn sinh tử, công chúa Thiên Thành, người mà Trần Quốc Tuấn yêu say đắm, là con vua Trần Thái Tông năm 1251 đã đính ước gả cho Trung Thành Vương là con trai của Nhân Đạo Vương, vị vương đầu triều. Vua đã nhận sính lễ, thông báo đến mọi đại thần và đã chuẩn bị tiệc cưới. Trần Quốc Tuấn nửa đêm trăng rằm đột nhập vào phòng riêng công chúa tại dinh thự của Nhân Đạo Vương. Đôi trai gái trẻ đã đồng lòng dâng hiến cho nhau và Quốc Tuấn nói với công chúa Thiên Thành sai thị nữ đi gặp Công chúa Thụy Bà cấp báo với vua ngay trong đêm về việc Quốc Tuấn Thiên Thành đồng lòng làm việc ấy. Vua hỏi có việc gì, Thụy Bà trả lời:“Không ngờ Quốc Tuấn ngông cuồng càn rỡ, đang đêm lẻn vào chỗ Thiên Thành, Nhân Đạo đã bắt giữ hắn rồi, e sẽ bị hại, xin bệ hạ rủ lòng thương, sai người đến cứu”. Trần Thái Tông vội sai người đến dinh Nhân Đạo vương, vào chỗ Thiên Thành, thì thấy Trần Quốc Tuấn đã ở đấy. Hôm sau, Thụy Bà công chúa dâng 10 mâm vàng sống đến chỗ Trần Thái Tông xin làm lễ cưới Thiên Thành công chúa cho Trần Quốc Tuấn. Thái Tông bắt đắc dĩ phải gả công chúa cho ông và lấy 2000 khoảnh ruộng ở phủ Ứng Thiên để hoàn lại sính vật cho Trung Thành vương[5].Tháng 4 năm đó, Trần Liễu ốm nặng. Lúc sắp mất, Trần Liễu cầm tay Trần Quốc Tuấn, trăng trối rằng: “Con không vì cha lấy được thiên hạ, thì cha chết dưới suối vàng cũng không nhắm mắt được”. Trần Quốc Tuấn ghi để trong lòng, nhưng không cho là phải.

          Câu chuyện Trần Quốc Tuấn yêu thương công chúa Thiên Thành và đã dám lấy tính mạng của mình để làm liều, mấy ai thấu hiểu đó là phép biến Dịch của quy tắc “Chọn người” tin yêu mình trong thực tiễn trước khi trao sinh mệnh đời mình cho Người đó.

          Tôi ghi thêm ngoại truyện về hai chuyện ‘quái’ có thật trong lịch sử để làm rõ hơn câu chuyện và bài học lịch sử của Trần Thái Tông và Trần Quốc Tuấn, với chiến công nhà Trần ba lần đánh thắng quân Nguyên và những trang binh thư kiệt tác muôn đời của nhân loại.

          Trần Thái Tông và Trần Quốc Tuấn vua tôi đồng lòng, toàn dân đồng sức’ có minh quân ấy và có lương tướng thiên tài ấy đã tỏa sáng và trao lại cho hậu thế muôn đời dân Việt một bài học lịch sử vô giá. ‘KẾ SÁCH MỘT CHỮ ĐỒNG‘ minh quân lương tướng đồng lòng cố kết lòng dân thì mọi nguy khó đều vượt qua.

          xem thêm

          CHUYỆN HAI VUA THÁI TÔNG
          Huyền Viêm
          Nguồn: Hồn Việt
          http://honvietquochoc.com.vn/bai-viet/935-chuyen-hai-vua-thai-tong.aspx

          Trung Hoa và Việt Nam cùng có vua Thái Tông. Nhà Đường có vua Đường Thái Tông húy là Lý Thế Dân, niên hiệu Trinh Quán, là vua thứ hai của nhà Đường. Việt Nam có vua Trần Thái Tông húy là Trần Cảnh, niên hiệu Nguyên Phong, là vua đầu tiên của nhà Trần. Miếu hiệu tuy giống nhau nhưng đức độ lại khác nhau.

          ĐƯỜNG THÁI TÔNG (627-650)

          Vua Đường Cao Tổ (Lý Uyên) có ba con trai, con trưởng là Lý Kiến Thành, kế đến là Lý Thế Dân và Lý Nguyên Cát.

          Sau khi dứt được nhà Tùy, Lý Uyên lên ngôi tức là Đường Cao Tổ (618-627), phong cho con trưởng là Lý Kiến Thành làm Thái tử, con thứ là Lý Thế Dân làm Tần Vương và Lý Nguyên Cát làm Tề Vương.

          Trong ba người con thì Lý Thế Dân có công hơn cả, giỏi võ nghệ, có tài thao lược và theo cha đánh thắng nhiều trận lớn. Việc khởi binh chiếm Thái Nguyên phủ rồi Trường An để lập căn cứ đều do ông đề xuất. Trong những cuộc chiến sau đó, ông lập được nhiều chiến công hiển hách. Nguyên Cát cũng khá, chỉ có Kiến Thành là kém nhất.

          Lý Thế Dân là viên tướng biết trọng dụng nhân tài. Dưới trướng ông, bên văn có mười tám học sĩ tên tuổi như Phòng Huyền Linh, Đỗ Như Hối, Ngụy Trưng… bên võ có các dũng tướng danh tiếng vang lừng như Uất Trì Kính Đức, Tần Thúc Bảo, Trình Giảo Kim… Thái tử Kiến Thành biết mình kém thế, e rằng cái ngôi Thái tử không vững nên hợp cùng Nguyên Cát để loại trừ Lý Thế Dân.

          Có lần Kiến Thành mời Thế Dân đến Đông cung uống rượu. Bị trúng độc, Thế Dân đau bụng dữ dội, thủ hạ phải vực về cung, ông bị thổ huyết, thuốc thang mãi mới khỏi. Ông biết bị anh mình đầu độc nhưng không phản ứng gì. Kiến Thành còn dùng một xe vàng bạc mua chuộc Uất Trì Kính Đức nhưng thất bại.

          Nhân lúc rợ Đột Quyết xâm phạm Trung Nguyên, Kiến Thành tâu vua cha cử Nguyên Cát đem binh đi chinh phạt thay cho Lý Thế Dân. Đường Cao Tổ chuẩn tấu. Sau khi được phong làm chủ soái, Lý Nguyên Cát xin ba viên đại tướng của Thế Dân là Uất Trì Kính Đức, Tần Thúc Bảo và Trình Giảo Kim cùng binh lính dưới quyền họ sáp nhập vào đạo quân của mình, cốt để lực lượng của Thế Dân suy yếu.

          Biết được âm mưu đó, Thế Dân lập tức cho mời người con cậu là Trưởng Tôn Vô Kỵ và Uất Trì Kính Đức đến bàn bạc. Hai người khuyên Thế Dân nên ra tay trước, nếu không thì chết cả nút. Thế Dân ban đầu còn do dự vì ngại anh em tàn sát lẫn nhau, nhưng trước quyết tâm của hai người, cuối cùng ông cũng phải nghe theo.

          Ngay đêm đó, Thế Dân vào cung tâu với vua cha về việc Kiến Thành và Nguyên Cát âm mưu hại mình. Đường Cao Tổ truyền cho ba con sáng hôm sau phải vào cung để ông xét hỏi.

          Sáng sớm hôm sau, Thế Dân sai Trưởng Tôn Vô Kỵ và Uất Trì Kính Đức dẫn một toán tinh binh mai phục tại cửa Huyền Vũ phía bắc hoàng cung. Lát sau, Kiến Thành và Nguyên Cát cưỡi ngựa tới, thấy tình hình có vẻ khác thường liền quay ngựa bỏ chạy. Lý Thế Dân phóng ngựa ra kêu to: – “Điện hạ đừng đi”. Nguyên Cát quay lại định bắn chết Thế Dân, nhưng vì run quá không giương cung lên được. Thế Dân nhanh tay bắn một phát giết chết Kiến Thành trên lưng ngựa. Ngay lúc đó, Uất Trì Kính Đức dẫn kỵ binh xông ra bắn chết Nguyên Cát.

          Vua Cao Tổ đang chờ ba con đến thì Uất Trì Kính Đức hộc tốc chạy vào báo tin: “Thái tử và Tề Vương nổi loạn, Tần Vương đã giết chúng rồi”, vua Cao Tổ đau xót, ngồi lặng đi không nói nên lời (1).

          Sau đó, Thế Dân được phong làm Thái tử và được vua cha nhường ngôi. Năm 627, ông lên ngôi, niên hiệu Trinh Quán, tức là vua Đường Thái Tông. Vẫn biết Thế Dân ở vào cái thế chẳng đặng đừng, nhưng việc ông giết cả anh và em ruột của mình để tranh ngôi Thái tử cũng bị người đương thời và đời sau phê phán.

          TRẦN THÁI TÔNG (1225-1258)

          Trần Thái Tông huý là Trần Cảnh, lên ngôi năm 1225 do vợ là Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi. Ông lấy niên hiệu Kiến Trung, Thiên Ứng Chính Bình rồi Nguyên Phong (1251-1258). Lúc lên ngôi ông mới 8 tuổi, mọi việc trong triều đều do một tay Trần Thủ Độ quyết đoán.

          Khi Chiêu Hoàng mới lên ngôi, Thái hậu là Trần thị cùng với người anh họ là Trần Thủ Độ nắm chính trị bên trong, bên ngoài, chọn con em các quan viên đưa vào cung chầu hầu hoàng đế. Thủ Độ lại đưa cháu mình là Trần Cảnh vào hầu Chiêu Hoàng. Chiêu Hoàng rất yêu thích Trần Cảnh, mỗi khi buồn thì cho gọi Trần Cảnh vào chơi, khi thì trêu chọc, khi thì tặng Cảnh chiếc khăn trầu, tình cảm giữa hai người ngày càng thêm đằm thắm. Từ đó họ cùng ở với nhau như vợ chồng.

          Thủ Độ sợ việc tiết lộ mới đem gia thuộc thân thích vào trong cung cấm, sai đóng cửa thành và các cửa cung, cắt người coi giữ, các quan không được vào chầu.

          Một hôm Thủ Độ loan báo với các quan rằng: “Bệ hạ đã có chồng rồi”, các quan xin vào lạy mừng. Ngày 11, tháng 12, Chiêu Hoàng đặt hội lớn ở điện Thiên An, ngự trên bảo sàng, các quan vào chầu lạy ở dưới sân. Chiêu Hoàng trút bỏ ngự bào, mời Trần Cảnh lên ngôi hoàng đế tức là vua Trần Thái Tông, đổi niên hiệu là Kiến Trung năm thứ nhất (1225).

          Lý Chiêu Hoàng trở thành Chiêu Thánh Hoàng hậu. Bà lấy vua Thái Tông đã 12 năm mà không có con, tuy mới 19 tuổi. Trần Thủ Độ rất lo không có người kế vị, bèn bắt vua Thái Tông phải bỏ bà, giáng xuống làm Chiêu Thánh công chúa, rồi bắt chị bà là vợ của Hoài vương Trần Liễu (anh Trần Cảnh) đem vào cung phong làm Thuận Thiên Hoàng hậu vì bà này đang có thai ba tháng (bắt vua lấy chị dâu) sau sinh ra Quốc Khang (2).

          Trần Liễu rất phẫn nộ vì mất vợ, họp quân ngoài sông lớn làm loạn. Vua Thái Tông lòng cũng không yên, đêm trốn ra khỏi thành đến ở nhà Kinh Vân quốc sư (quốc sư là bạn cũ của Thái Tông) trên núi Yên Tử.

          Hôm sau Thủ Độ đem các quan đến đón vua về. Vua nói : “Trẫm còn ít tuổi, không kham nổi việc lớn, Thượng hoàng (Trần Thừa) đã vội lìa bỏ, sớm mất chỗ nhờ cậy, không dám ở ngôi vua để làm nhục xã tắc”. Thủ Độ cố nài xin, vua vẫn không nghe. Thủ Độ bèn bảo các quan rằng: “Vua ở đâu thì triều đình ở đó”. Bèn cắm nêu trong núi, bắt chước các tên như điện Thiên An, các Đoan Minh… sai thợ xây dựng. Quốc sư nghe thấy vội xin vua rằng: “Bệ hạ nên gấp trở về, đừng để làm nát núi rừng của đệ tử”, vua mới chịu về cung (Theo Đại Việt sử ký tiền biên) (3).

          Được hai tuần, Trần Liễu biết mình thế cô, sức không địch nổi Thủ Độ nên nhân khi vua Thái Tông ngự thuyền vãn cảnh trên sông, ông mới ngầm đi thuyền độc mộc, giả làm người đánh cá, lẻn đến thuyền ngự tạ tội. Hai anh em ôm nhau mà khóc. Thủ Độ nghe thấy, đến thẳng thuyền vua, rút gươm thét lớn “Giết thằng giặc Liễu”. Vua vội vàng giấu Liễu trong thuyền rồi bảo Thủ Độ rằng: “Phụng Càn vương (Phụng Càn là hiệu của Liễu thời Lý) đến hàng rồi đấy”, đoạn lấy thân mình che cho Liễu nên Thủ Độ không chém được.

          Thủ Độ giận lắm, quăng gươm xuống sông nói: “Thủ Độ này chỉ là con chó săn cho các người thôi. Thế này thì còn hiểu thế nào là lẽ thuận nghịch!”. Vua hòa giải rồi bảo Thủ Độ mang quân về. Thủ Độ sai giết hết những binh lính theo Trần Liễu làm loạn.

          Vua Thái Tông biết nếu để Trần Liễu ở kinh đô thì khó toàn tính mạng với Thủ Độ nên cắt đất Yên Phụ, Yên Dưỡng, Yên Sinh, Yên Hưng và Yên Bang (thuộc tỉnh Hải Dương) cấp cho Trần Liễu làm thái ấp và phong làm An Sinh Vương.

          THƠ VỀ HAI VUA THÁI TÔNG

          Do việc vua Đường Thái Tông của Trung Hoa giết anh là Kiến Thành để đoạt ngôi Thái tử, còn vua Trần Thái Tông của Đại Việt không ngại nguy hiểm, lấy thân mình để che đỡ cho anh là Trần Liễu khỏi bị Thủ Độ giết nên hậu duệ của vua Trần Thái Tông là vua Trần Dụ Tông (1341-1369) làm thơ ca ngợi cái đức của tiên vương mình:

          Phiên âm:

          Đường Thái Tông dữ bản triều Thái Tông
          Đường, Việt khai cơ lưỡng Thái Tông,
          Bỉ xưng Trinh Quán, ngã Nguyên Phong.
          Kiến Thành tru tử, An Sinh tại,
          Miếu hiệu tuy đồng, đức bất đồng.

          Dịch nghĩa:

          Vua Thái Tông nhà Đường với vua Thái Tông triều ta
          Đường và Việt đều có vua mở mang cơ nghiệp thụy là Thái Tông,
          Bên họ xưng là Trinh Quán, bên ta xưng là Nguyên Phong.
          Kiến Thành bị giết chết, An Sinh thì được sống,
          Miếu hiệu tuy giống nhau nhưng đức độ lại khác nhau.

          Đào Phương Bình dịch thơ:

          Sáng nghiệp Việt, Đường hai Thái Tông,
          Đường xưng: Trinh Quán, Việt: Nguyên Phong.
          Kiến Thành bị giết, An Sinh sống,
          Miếu hiệu tuy đồng, đức chẳng đồng.


          (1) Sách Đại Việt sử ký toàn thư (NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1985) cho rằng: Biến cố ở cửa Huyền Vũ (Thế Dân giết Kiến Thành và Nguyên Cát) xảy ra sau khi Đường Cao Tổ chết (tập II, trang 40, trong phần chú thích) nhưng theo bộ Lịch sử Trung Quốc 5000 năm của Lâm Hán Đạt và Tào Dư Chương (Trung Quốc) thì việc ấy xảy ra khi Đường Cao Tổ còn sống (NXB Văn Hóa Thông Tin, Hà Nội, tập II trang 309). Cuốn Sử Trung Quốc của Nguyễn Hiến Lê (NXB Văn Hóa Thông Tin, Hà Nội, 1997) cũng viết như bộ Lịch sử Trung Quốc 5000 năm (tập II trang 294).
          (2) Quốc Khang là con của Trần Liễu và Thuận Thiên công chúa. Khoảng năm 1267 (Thiệu Long thứ 10) vào mùa đông, vua (Thánh Tông – Trần Hoảng) vào chầu Thượng hoàng. Vua cùng với anh là Quốc Khang đùa nhau trước mặt Thượng hoàng. Quốc Khang múa kiểu người Hồ, Thượng hoàng cởi áo bông đang mặc ban cho Quốc Khang. Vua cũng múa kiểu người Hồ để xin áo. Quốc Khang nói: “Cái quí nhất là ngôi hoàng đế, thần không dám tranh với chú hai. Nay đức chí tôn cho thần vật nhỏ này mà chú hai lại muốn cướp lấy chăng? Thượng hoàng cả cười nói: “Mày coi ngôi vua với chiếc áo thường này không hơn kém nhau sao?” rồi cho Quốc Khang cái áo ấy. Họ thỏa chí vui đùa rồi về (theo Đại Việt sử ký tiền biên).
          (3) Theo Ngoại truyện: Giờ Tý, ngày rằm, tháng tư năm Bính Thân, Thái Tông cùng bảy cận thần bơi qua sông Bàn Than đến chùa Hoa Yên trên núi Yên Tử gặp Trúc Lâm thiền sư muốn xin được trụ trì ở đó. Không bao lâu, Thủ Độ cùng quần thần đến đón vua về. Vua hỏi thiền sư, thiền sư tâu rằng: “Kể ra người làm vua phải lấy lòng dân làm lòng mình, ý muốn của dân làm ý muốn của mình. Nay dân tình như thế, xin xe vua hãy tạm trở về, những việc kê cứu về nội điển thì nên chớ quên tu tâm luyện tính. Sau này hoàng tử khôn lớn, có thể nhường được ngôi thì lúc đó hãy vào núi tu luyện cũng được”. Vua cho lời nói đó là phải mới trở về kinh. Sau này, khi nhường ngôi cho Thánh Tông, vua mới hơn 40 tuổi đã có ý chán trần tục, muốn tu luyện, cho nên các vua triều Trần đều noi theo việc cũ. Có lẽ đó là hiểu được cái bí quyết của Trúc Lâm. Nhà Trần sùng Phật, trọng tăng cũng bắt đầu từ đó (theo Đại Việt sử ký tiền biên).

          Yên Sinh Vương trước đây vốn có hiềm khích với Chiêu Lăng [Vua Trần Thái Tông] , mang lòng hậm hực, tìm khắp những người tài nghệ để dạy Quốc Tuấn. Lúc sắp mất, Yên Sinh cầm tay Quốc Tuấn giối giăng rằng:

          “Con không vì cha lấy được thiên hạ, thì cha chết dưới suối vàng cũng không nhắm mắt được?.

          Quốc Tuấn ghi điều đó trong lòng, nhưng không cho là phải.” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 6.

          BÀI ĐỒNG DAO HUYỀN THOẠI
          Hoàng Kim

          Tháng 6 năm 1950 nhà văn Sơn Tùng được cụ Nguyễn Sinh Khiêm anh ruột Bác Hồ tặng sách “ Tất Đạt tự ngôn” kể chuyện Bài đồng dao huyền thoại: Năm 1895 Hồ Chí Minh lúc ấy là Nguyễn Sinh Cung đã có bài thơ “Biển là ao lớn Thuyền là con bò Thuyền ăn no gió Lội trên mặt nước Em nhìn thấy trước Anh trông thấy sau Ta lớn mau mau Vượt qua ao lớn” xem tiếp http://lethuy.edu.vn/index.aspx?u=nws&su=d&cid=350&id=3478

          TanVien

          AI CHỢP MẮT TAM ĐẢO
          Hoàng Kim


          Anh thích đưa em về Sa Pa
          Nơi núi gặp sông, nơi trời gặp đất
          Nơi mây trắng quyện hồn thiêng dân tộc
          Suối nước trong veo tình tự bên rừng

          Em chợp mắt dưới trời Tam Đảo
          Trùng điệp Nham Biền mờ mịt khói sương
          Lênh đênh Thần Phù , bâng khuâng Bái Đính
          Chìm nổi ba đào chẳng vụng đường tu

          Anh thích đưa em đi xa hơn …
          Tới những miền rộng mở
          Nơi cõi riêng của miền thương nhớ
          Khát khao xanh hạnh phúc an lành.

          Hoàng Kim

          Sapa1
          Sapa2
          Sapa3
          HoCoc1
          HoCoc2

          (*)  Trong bài thơ “Dạo chơi non nước Việt“, tác giả Hoàng Kim đã trích dẫn tổng kết Lịch sử Việt Nam của giáo sư sử học Đào Duy Anh” Dân tộc Việt trên bốn ngàn năm dựng nước và mở nước được chia làm hai giai đoạn đó là “đấu tranh giành quyền sống với vạn vật” trọng điểm ở vùng tam giác châu Bắc Bộ và “sự nghiệp gian nan tiến thủ của tổ tiên để mở rộng hy vọng tương lai dân tộc” bằng công cuộc Nam Tiến.

          Xem tiếp >>

            Dạy và học 3 tháng 9(03-09-2021)


          Statue of Tran Hung Dao, Ho Chi Minh City, Vietnam.jpg

          CHÀO NGÀY MỚI 3 THÁNG 9
          Hoàng Kim
          CNM365 Tình yêu cuộc sốngLời dặn của Thánh Trần; Lời thề trên sông Hóa; Bảy Núi Thiên Cấm Sơn; Có lớp sinh viên như thế; Giữ trong sáng Tiếng Việt; Ngày 3 tháng 9 năm 1300, ngày mất Trần Quốc Tuấn, nhà chính trị, quân sự, nhà văn kiệt xuất thời nhà Trần. Chiến công đánh bại quân đội nhà Nguyên năm 1285 và 1288 đã đưa ông vào hàng đại danh nhân nổi tiếng nhất của lịch sử Việt Nam. Ngày 3 tháng 9 năm 1883, ngày mất  Ivan Sergeyevich Turgenev  đại văn hào Nga với tiểu thuyết Cha và con được coi là một trong những tác phẩm lớn nhất thế kỉ 19. Ngày 3 tháng 9 năm 1868, kinh đô Tōkyō (Đông Kinh) được xây dựng do Thiên hoàng Minh Trị, vị minh quân có công lớn nhất của Nhật Bản. Bài chọn lọc ngày 3 tháng 9 Lời dặn của Thánh Trần; Lời thề trên sông Hóa; Bảy Núi Thiên Cấm Sơn; Có lớp sinh viên như thế; Giữ trong sáng Tiếng Việt; Minh triết Hồ Chí Minh; Dân tộc và Tôn giáo; Trung Đông với Hồi Giáo; Việt Nam con đường xanh; Con đường tơ lụa mới; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-3-thang-9/

          LỜI DẶN CỦA THÁNH TRẦN
          Hoàng Kim
          Quốc Công Tiết chế Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn mất ngày 20 tháng 8 âm lịch năm 1300. Người được dân Việt tôn kính gọi là Đức Thánh Trần và thường dâng lễ tạ ơn sớm từ 20 tháng 8 dương lịch đến ngày lễ chính. Vua Trần Anh Tông lúc Đức Thánh Trần sắp lâm chung có ân cần ngự tới nhà thăm, hỏi rằng: “Nếu có điều chẳng may, mà giặc phương Bắc lại sang xâm lược thì kế sách như thế nào?”. Đức Thánh Trần  trả lời: “khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước vậy”. Nguyên văn: “Ngày xưa Triệu Vũ Đế (tức Triệu Đà) dựng nước, vua nhà Hán cho quân đánh, nhân dân làm kế thanh dã (vườn không nhà trống), đại quân ra Khâm Châu, Liêm Châu đánh vào Trường Sa, Hồ Nam, còn đoản binh thì đánh úp phía sau. Đó là một thời. Đời nhà Đinh, nhà Tiền Lê dùng người tài giỏi, đất phương nam mới mạnh mà phương bắc thì mệt mỏi suy yếu, trên dưới một dạ, lòng dân không lìa, xây thành Bình Lỗ mà phá được quân Tống. Đó lại là một thời. Vua nhà Lý mở nền, nhà Tống xâm phạm địa giới, dùng Lý Thường Kiệt đánh Khâm, Liêm, đến tận Mai Lĩnh là vì có thế. Vừa rồi Toa Đô, Ô Mã Nhi bốn mặt bao vây. Vì vua tôi đồng tâm, anh em hòa mục, cả nước góp sức, giặc phải bị bắt. Đó là trời xui nên vậy. Đại khái, nó cậy trường trận, ta dựa vào đoản binh. Dùng đoản binh chế trường trận là sự thường của binh pháp. Nếu chỉ thấy quân nó kéo đến như lửa, như gió thì thế dễ chế ngự. Nếu nó tiến chậm như các tằm ăn, không cầu thắng chóng, thì phải chọn dùng tướng giỏi, xem xét quyền biến, như đánh cờ vậy, tùy thời tạo thế, có được đội quân một lòng như cha con thì mới dùng được. Vả lại, khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước vậy”
          * (Đại Việt sử ký toàn thư tập 2 trang 76 -77).

          Trần Hưng Đạo giành chiến thắng trước quân Nguyên trên sông Bạch Đằng, kết thúc chiến tranh Nguyên Mông – Đại Việt lần 3 vào ngày 9 tháng 4 năm 1288, tức 8 tháng 3 năm Mậu Tý. Sau ba lần thắng giặc, đất nước thanh bình, ông lui về Vạn Kiếp và mất ngày 20 tháng 8 năm 1300 tại vườn An Lạc. Đền Kiếp Bạc ( Hải Dương) là nơi đền thờ chính của đức Thánh Trần.

          Chùa Thắng Nghiêm (Hà Nội) nơi Trần Hưng Đạo lúc nhỏ tu học, là nơi Người hiển thánh.

          Đức Thánh Trần gương soi kim cổ

          Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn là nhà chính trị, quân sự, nhà văn kiệt xuất thời nhà Trần. Chiến công kiệt xuất đánh bại quân đội nhà Nguyên năm 1285 và 1287 đã đưa Đức Thánh Trần thành đại danh tướng lừng lẫy nhất của thế giới và Việt Nam. “CHỌN TƯỚNG” là một chương trong Binh thư Yếu lược của Trần Quốc Tuấn, kiệt tác súc tích và sâu sắc lạ lùng.

          “Người quân tử tiến thoái quả quyết, xem người thì thanh thản vui tươi, chí thì ở trừ tàn bạo, đó là khí độ của người tướng quốc. Thấy ác không giận, thấy lành không mừng, nhan sắc không thay đổi, đó là lượng của người thiên tử.

          Được sự thắng nhỏ, gặp sự thua nhỏ, mà mừng lo hình ra nét mặt, hễ thấy động thì động, thấy tĩnh thì tĩnh, nhát mà không tính toán gì, cất chân thì thần sắc không định, mà hay lấy lời nói để thắng người, đó là tướng ngu vậy.

          Bảy phép để biết người:

          1. Hỏi bằng lời nói xem trả lời có rõ ràng không
          2. Lấy lời cật vấn đến kỳ cùng để xem cách ứng biến của họ.
          3.  Cho gián điệp thử xem có trung thành không.
          4. Hỏi rõ ràng tường tất để xem đức hạnh thế nào.
          5. Lấy của mà thử để xem có thanh liêm không
          6. Lấy sắc đẹp mà thử để xem có đứng đắn không.
          7. Lấy việc khó khăn mà thử để xem có dũng cảm không.
          8. Đem rượu cho họ uống say để xem có giữ được thái độ không.

          Tướng ngu có tám điều tệ:

          1. Lòng tham mà không chán
          2. Ghen người hiền, ghét người tài
          3. Tin lời dèm pha, thích lời nịnh hót
          4. Xét người mà không xét mình
          5. Do dự không quả quyết
          6. Say đắm rượu và sắc đẹp
          7. Thích xảo trá mà lòng nhút nhát
          8. Nói lời viễn vông mà không giữ lễ

          Gia Cát Lượng sách Tướng Uyển chỉ bảy phép biết người.

          Biết tính tình của người, chẳng gì khó bằng xem xét, lành dữ tuy khác nhau, tính tình và vẻ mặt chẳng phải một: có kẻ thì ôn hoà, hiền lành nhưng làm việc trộm cắp;có kẻ bề ngoài thì cung kính nhưng trong bụng thì vô lễ, dối trá; có kẻ bề ngoài thì mạnh dạn nhưng trong bụng thì khiếp sợ;có kẻ làm việc tận lực nhưng bụng không trung thành;

           

          Bảy phép sau đây để biết người

          1. Hỏi việc phải trái để dò chí hướng;
          2. Lấy lời cật vấn để biết ứng biến;
          3. Đem mưu kế hỏi để lường kiến thức;
          4. Giao chuyện hiểm nguy để soi dũng cảm;
          5. Mời rượu cho uống say để xét tính tình;
          6. Đưa lợi gái thử để rõ thanh liêm chính trực;
          7. Đem việc cậy nhờ để xét sự trung thành, tin thật.

           

          Tám hạng tướng và bậc đại tướng

          Nhân tướng là người dùng đức để đem đường cho người, dùng lễ để xếp việc cho họ, hiểu thấu sự đói rét của người dưới, biết rõ khó nhọc của đồng sự, đó là nhân tướng.

          Nghĩa tướng là người làm việc không cẩu thả, thấy lợi mà không tham, biết chết vinh hơn sống nhục.

          Lễ tướng là người có địa vị cao quý mà không kiêu căng, công hơn người mà không cậy, tài năng mà biết hạ mình, cứng cỏi mà biết nhẫn nhịn.

          Trí tướng là người gặp biến bất ngờ mà chí không đổi, ứng phó linh hoạt với việc khó khăn, có thể đổi họa thành phúc, gặp cơn nguy biến mà sắp đặt thành thắng thế.

          Tín tướng là người thưởng phạt nghiêm minh công bằng, khen thưởng không chậm trễ và không bỏ sót, trừng phạt không buông tha cho kẻ cao quý.

          Bộ tướng thủ hạ của đại tướng phải chọn người tay chân lẹ làng, võ nghệ tuyệt luân,  giỏi đánh gần, ứng biến di chuyển mau lẹ, để bảo vệ an toàn cao nhất cho chủ soái.

          Kỵ tướng là người có thể vượt núi non cheo leo, từng trải việc nguy hiểm, cưỡi ngựa bắn tên mau lẹ như chim bay, tới thì đi trước, lui thì về sau.

          Mãnh tướng là người khí thế vượt hẳn ba quân, dám coi thường địch mạnh, gặp đánh nhỏ vẫn luôn cẩn trọng, gặp đánh lớn thì can đảm quả quyết.

          Bậc đại tướng là người bao trùm và vượt hẳn tám hạng tướng kể trên, gặp hiền tài thì tôn trọng lắng nghe, biết tỏ ý mình không theo kịp người, biết nghe lời can ngăn như thuận theo dòng nước, lòng rộng rãi nhưng chí cương quyết, giản dị và nhiều mưu kế.”

          Vạn Kiếp tông bí truyền thư (萬劫宗秘傳書) của Quốc Công Tiết Chế Hưng Đạo Đại Vương, tác phẩm này còn gọi là Vạn Kiếp binh thư đã thất truyền. Bài tựa của Trần Khánh Dư trong cuốn sách này giải thích bí truyền đại sư là người thế nào:

          “Phàm người khéo cầm quân thì không cần bày trận, khéo bày trận thì không cần giao chiến, khéo giao chiến thì không thể thất bại, khéo thất bại thì không thương vong. Xưa kia, Cao Dao làm chức sĩ sư mà mọi người không dám trái mệnh, Văn Vương và Vũ Vương nhà Chu là bậc thầy về văn và về võ, ngấm ngầm sửa đức để khuynh loát quyền bính của nhà Thương mà lấy nghiệp vương. Đó đều có thể gọi là những người giỏi cầm quân, không cần bày trận vậy. Vua Thuấn múa lá mộc và lông trĩ mà họ Hữu Miêu tự mình tìm đến, Tôn Vũ nước Ngô đem mỹ nhân trong cung thử tập trận mà phía tây phá nước Sở hùng cường, phía Bắc ra uy với nước Tần nước Tấn, nổi tiếng khắp chư hầu. Đó đều có thể gọi là những người giỏi bày trận, không cần giao chiến vậy. Cho đến Mã Ngập nước Tấn dựa vào bát trận đồ chuyển đánh nghìn dặm, phá được Thụ Cơ Năng mà lấy lại Lương Châu. Thế gọi là người giỏi giao chiến không bao giờ thất bại vậy.Cho nên, trận nghĩa là bày ra, là khéo léo. Ngày xưa, vua Hiên Viên lập ra phép “tỉnh điền” để đặt binh chế, Gia Cát Lượng xếp đá bên sông để làm bát trận, Vệ công sửa lại làm trận Lục Hoa, Hoàn Ôn định ra trận Xà Thế, trước sau đều có trận đồ nổi tiếng, trình bày tuần tự, thành phép tắc rõ ràng. Nhưng người đương thời ít ai thông hiểu, muôn vàn đầu mối nhìn vào dường như rối loạn, chưa từng nắm được lẽ biến dịch bên trong. Ví như những phép tắc và suy luận của Lý Thuyên, người sau không ai hiểu nghĩa là gì. Vì thế, Quốc công ta bèn so sánh, kê cứu trận đồ và binh pháp của các nhà, tổng hợp lại thành một bộ sách. Tuy chép cả những điều chi tiết, nhưng người sử dụng thì nên bỏ bớt những chỗ rườm, tóm lấy thực chất. Rồi lấy năm hành ứng với nhau, chín cung câu với nhau, phối hợp cương và nhu, xoay vần chẵn và lẽ, không làm hỗn loạn âm dương và thần sát, phương lợi và sao tốt, hung thần và ác tướng, ba cát và năm hung, việc nào việc ấy thực phân minh rõ rệt. Quốc công lại còn thêm bớt với chiến thuật của thời Tam đại, nhờ đó trăm trận trăm thắng. Cho nên đương thời phía bắc làm cho Hung Nô phải sợ, phía tây làm cho Lâm Ấp phải kinh. Rồi ông đem sách này dạy bảo con em làm gia truyền, không tiết lộ cho người ngoài biết. Lại có lời dặn rằng: “Sau này con cháu và bề tôi phò tá của ta có học được bí thuật này thì nên lấy đầu óc sáng suốt, linh hoạt mà thực hành và sắp đặt nó, chứ không nên lấy đầu óc cứng nhắc, tối tăm mà cất giữ và lưu truyền. Nếu trái điều đó thì sẽ mang vạ vào thân, lại hại lây đến cả con cháu. Đó gọi là tiết lậu cơ trời vậy.”

          Bài tựa của Trần Khánh Dư cho Vạn Kiếp tông bí truyền thư, còn như sách Binh thư yếu lược mà người đời ngờ rằng bản thật đã bị cướp và thất lạc, đời sau chỉ có chân truyền lời này.

          Chùa Thắng Nghiêm (Hà Nội) nơi Trần Hưng Đạo lúc nhỏ tu học, là nơi Người hiển thánh.

          Ôi, đọc lại “Binh Thư Yếu lược” “Hịch Tướng Sĩ Văn” và Vạn Kiếp tông bí truyền thư, gương soi kim cổ, lắng nghe cuộc sống, để biết sửa mình;

          Hoàng Kim

          Danghuong

          LỜI THỀ TRÊN SÔNG HÓA
          Hoàng Kim


          Sông Hóa ơi Bạch Đằng Giang
          Ta đến nơi đây chẳng một lần
          Lời thề sông núi trời đất hiểu
          Lời dặn của Thánh Trần (*)

          Sông Hóa ơi hời, ơi Linh Giang
          Quê hương liền dải tụ trời Nam
          Minh Lệ, Hưng Long hai bầu sữa
          Hoàng Gia trung chính một con đường.

          Rào Nan Đá Dựng chốn sông thiêng
          Nguồn Son Chợ Mới đẹp ân tình
          Minh Lệ đình xưa thương làng cũ
          Nguyện làm hoa đất của quê hương.

          Đất nặng ân tình đất nhớ thương
          Ta làm hoa đất của quê hương
          Để mai mưa nắng con đi học
          Lưu dấu chân trần với nước non.

          (*) Trương Hán Siêu “Phú sông Bạch Đằng” đã thuật lại cuộc chiến sông Bạch Đằng nơi voi chiến sa lầy rơi nước mắt và lời thề trên sông Hóa 1288 của Hưng Đạo Vương. Lời thơ lẫm liệt hào hùng bi tráng: “Thuyền bè muôn đội, tinh kỳ phấp phới/ Hùng dũng sáu quân, giáo gươm sáng chói/[…] / Trận đánh được thua chửa phân/ Chiến lũy bắc nam đối chọi/ […] / Tất Liệt thế cường, Lưu Cung chước dối / Những tưởng gieo roi một lần/ Quét sạch Nam bang bốn cõi/ […] /Trời cũng chiều người / Hung đồ hết lối! ” Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải viết: ‘Thái bình tu nổ lực/ Vạn cổ thử giang san”.— cùng với Tình yêu cuộc sống, Kim Hoàng, Nguyễn Thanh Bình, Nguyễn Thị ThủyHoang Long.

          Đá Dựng chốn sông thiêng

          BẢY NÚI THIÊN CẤM SƠN
          Hoàng Kim

          An Giang có Bảy Núi
          Cổ tích giữa đời thường
          Núi Nguyễn Vương thoát hiểm
          Huế có Thiên Thụ Sơn

          Đỉnh Mồ Côi năm nao
          Thiên Cấm Sơn có phải
          Ngắm ảnh sắn An Giang
          Nhớ hoài kênh ông Kiệt

          Tu Phật tới Phú Yên
          Tu Tiên lên Bảy Núi
          Đức lớn nuôi chí bền
          Đường trần đi không mỏi

          Cám ơn Ngốc PhươngNam, Huỳnh Lý, Trúc Mai, Huỳnh Hồng, Chin Duong, Võ Đắc Danh … đã đồng cảm https://dayvahoc.blogspot.com/…/bay-nui-co-tich-giua-oi-thu…

          Bảy Núi là bảy ngọn núi tiêu biểu trong số 37 ngọn núi ở hai huyện Tri Tôn Tịnh Biên tỉnh An Giang. Tôi có một thuở đi về dưới chân núi này. Theo Nguyễn Văn Hầu 1955 trong sách “Thất Sơn mầu nhiệm” thì Bảy Núi gồm “Tượng, Tô, Cấm, Trà Sư, Két, Dài, Bà Đội Ôm” là vùng đất thiêng nơi lưu truyền câu ca cổ “Tu Phật Phú Yên, tu tiên Bảy Núi” Vùng Bảy Núi xưa kia là đất của Chân Lạp, Chúa của đất Chân Lạp là Nặc Ông Tôn được chúa Nguyễn giúp đỡ đã trở lại được ngôi vua. Nặc Ông Tôn để ta ơn đạ hiến đất Tầm Phong Long, trong đó có Bảy Núi cho chứa Nguyễn vào năm 1757. Thiên Cấm Sơn (núi Cấm) nghe nói thuở xưa rất hoang vu, có câu chuyện rắn thần đánh cọp và Thái Thượng Vương Nguyễn Phúc Thuần và Tân Chính Vương Nguyễn Phúc Dương đã về lánh ẩn ở đất này và đều bị Long Nhương thượng tướng quân Nguyễn Huệ truy bắt đuổi cùng giết tận tại đất này, chỉ còn người cháu của Thái Thượng Vương là Nguyễn Phúc Ánh chạy thoát được, sau này diệt nhà Tây Sơn và nối nghiệp nhà Nguyễn.

          Bảy Núi là phên dậu nơi chốn biên thùy, vua Gia Long đã từng nói: “Địa thế Châu Đốc, Hà Tiên, Long Xuyên không kém Bắc Thành“.

          Năm 1997-2003, tôi làm đề tài ở vùng này và đã có kể chuyện
          Bảy Nhị kênh ông Kiệt và tôi với bạn đọc trong dịp trước. Thuở đó, ông Cao Đức Phát sau là Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn cũng có thời gian ngắn “luân chuyển cán bộ” về An Giang, anh Lê Minh Tùng sau này là Phó Chủ tịch tỉnh kiêm Hiệu trưởng Trường Đại học An Giang và anh Ngô Vi Nghĩa, anh Bảy Dế vẫn thường lội ruộng cùng chúng tôi. Trong những câu chuyện miên man về văn hóa xã hội vùng Bảy Núi, tôi có loáng thoáng biết chuyện dì Ba trên đỉnh núi Mồ Côi Thiên Cấm Sơn, nhưng do mãi bận việc thực hiện các thí nghiệm dưới chân núi, như hình đầu trang, nên tôi chưa để ý.

          Sau này vua Gia Long tại Huế đã chọn Thiên Thụ Sơn là hướng núi cho quần thể di tích cung điện và quần thể lăng mộ của triều đại vua chúa nhà Nguyễn , âu cũng là một câu chuyện kỳ thú. đầu tiên là hướng chính cho quần thể thể di tích kinh đô Huế đế lăng Trường cơ của chúa Nguyễn Hoàng và sau cùng là lăng mô của vua Gia Long Nguyễn Phúc Anh

          Huế có Thiên Thụ Sơn là một câu chuyện dài

          Trước hết chúng ta hãy tìm hiểu Thiên Câm Sơn. Võ Đắc Danh có hai bài ký “Cổ tích trên đỉnh Mồ Côi” và “Người đàn bà mê núi” kể về Bảy Núi. Bạn hãy cùng tôi đọc lời cảm nhận của Nguyễn Quang Lập: “Cổ tích trên đỉnh mồ côi” kể về hai má con dì Ba và anh Bông đã nhận nuôi 12 đứa trẻ bị bỏ rơi từ các bệnh viện. Cái kí đọc một lần là nhớ đời. Mình là chúa hay quên tên, đến tên nhân vật tiểu thuyết của mình cũng phải nhờ thằng Nguyên (Phạm Xuân Nguyên) nhắc giùm nhưng tên hai má con dì Ba và anh Bông khiến mình nhớ mãi. Thằng này viết thật khéo, nó cứ kể tưng tửng vậy thôi mà ứa nước mắt. Nhớ nhất câu nói của anh Bông, khi người ta hỏi sao không lấy vợ, anh nói: “Tụi nó đã khổ từ trong bào thai rồi, tôi không muốn tụi nó phải khổ vì mẹ ghẻ”. Cái câu này mình cũng nhớ như in, vì lời nói chân chất của anh Bông lại chính là một câu thoại rất đặc sắc, nó vừa đưa thông tin, vừa thể hiện tính cách nhân vật và chứa đựng cái “ý tại ngôn ngoại” về tấm lòng một người cha của những đứa trẻ mồ côi”.

          Bạn đọc cũng hẳn nhớ Võ Đắc Danh là người viết “Hạt bụi nghiêng mình nhớ đất quê” mà tôi đã từng kể trong
          Sơn Nam ông già Nam Bộ. Cái anh nhà báo Võ Đắc Danh có lối viết thân phận thật đằm và sâu: “Dường như với Sơn Nam, mọi thứ đều rất thực tế và rất đơn giản. Trong câu chuyện Âm dương cách trở của ông cách nay gần 20 năm, tôi vẫn bị ám ảnh một chi tiết: “Ông già hớt tóc vỉa hè bị công an khu vực xét hộ khẩu, ông nói: “Tôi sống ở đây gần trọn một đời người, chỉ biết mình là công dân của Tổ quốc Việt Nam thôi”. Anh công an hỏi: “Vậy theo ông thế nào là Tổ quốc?”. Ông già nói: “Với tôi, Tổ quốc là một nơi kiếm sống được bằng một việc lương thiện nào đó, không bị ai làm khó dễ, có vài người bạn chơi được, không ba trợn”. Ông già hớt tóc sau đó qua đời, được một người bạn thầy tu cho hỏa táng và mang hũ hài cốt về quê ở U Minh”.

          Nay mời bạn hãy cùng tôi đọc ba cái ký sau đây của Võ Đắc Danh để biết thêm một câu chuyện về Bảy Núi Thiên Cấm Sơn. Xưa và nay Bảy Núi Thiên Cấm Sơn “ngọa hổ tàng long” vẫn ẩn tàng nhiều huyền thoại, như chuyện
          Kênh ông Kiệt giữa lòng dân vậy.

          CÓ LỚP SINH VIÊN NHƯ THẾ
          Hoàng Kim


          “Lắng nghe chăm chú, hỏi thông minh, học và làm sáng tạo”. Câu chuyện về họ là chuyện thực đời thường như suối nguồn tươi trẻ, thao thiết chảy mãi không ngừng. Chúc các bạn nổ lực học tập để khởi nghiệp thành công. Tôi trò chuyện với
          Văn Công Hùng, nhà văn Tây Nguyên, tác giả của “Lời vĩnh cửu” và “Tây Nguyên của tôi” rằng, sinh viên Tây Nguyên hôm nay đã hỏi tôi: Thưa Thầy, Thầy đi nhiều hãy cho chúng em biết nơi nào đáng sống nhất và đáng học nhất?; Thưa Thầy, quê em ở …. ruộng nửa khô nửa nước, đất ương điền canh tác khó khăn, thầy giúp ý kiến nuôi trồng để dân thoát nghèo có lợi nhất?”… Những câu hỏi thông minh đến vậy đã làm cho sự trả lời không đơn giản, đánh thức trong tôi việc tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và đúc kết di sản lý luận để đáp ứng. Dạy và học không chỉ là sự trao truyền kiến thức chuyên môn mà còn thắp lên ngọn lửa, đánh thức tiềm lực, giúp học viên tìm tòi, suy nghĩ đối thoại tìm ra định hướng để khai mở vùng năng lượng to lớn của con người và thiên nhiên nơi mình đang sống. Bởi định hướng quan trọng hơn tốc độ.

          Tôi đã trả lời câu hỏi “Nơi nào đáng sống nhất và đáng học nhất ” rằng tôi từng nghĩ đến Thụy Sĩ và Bắc Âu là nơi có chất lượng cuộc sống cao và môi trường sống an lành nhất, người dân hiền lành thân thiện, đáng sống và đáng học hỏi nhất. Nhưng, tôi đã có bài viết dài Đêm trắng và bình minh kể về câu chuyện này sau khi tự mình trãi nghiệm  hơn sáu mươi nước và điểm đến đã đi qua để chiêm nghiệm và tự rút ra kết luận là: “Đi đâu cũng không bằng Tổ quốc mình. Nói gì, làm gì cũng không bằng dạy, học và làm cho đồng bào đất nước mình. Đi khắp quê người để hiểu đất quê hương. Mục đích sau cùng của dạy và học là thấu suốt bản chất sự vật, có lời giải đúng và làm được việc. Dạy và học thực tiễn trên chính Tổ quốc mình. Việt Nam quê hương tôi! Đó là đất nước của biết bao nhiêu thế hệ xả thân vì nước để quyết giành cho được độc lập, thống nhất, tự do và toàn vẹn lãnh thổ. “Nếu chỉ để lại lời nói suông cho đời sau sao bằng đem thân đảm nhận trọng trách cho thiên hạ trước đã” nhưng “sức một người thì có hạn, tài trí thiên hạ là vô cùng”. Làm nhà khoa học xanh người thầy chiến sĩ hướng đến bát cơm ngon của người dân nghèo, đó là điều tôi tâm đắc nhất !

          Quan niệm nhân sinh này của tôi cũng hợp với suy nghĩ của người Thầy đáng kính Nguyễn Hiến Lê sao sáng trời Nam. Cụ đã viết “Tự bạch” về nhân sinh: “Hồi trẻ, quan niệm của tôi về hạnh phúc là được tự do, độc lập, làm một công việc hữu ích mà mình thích, gia đình êm ấm, con cái học được, phong lưu một chút chứ đừng giàu quá. Nhưng hồi năm mươi tuổi tôi thấy bấy nhiêu chưa đủ, cần thêm điều kiện này nữa: sống trong một xã hội lành mạnh, ổn định và tương đối thịnh vượng “. Nguyễn Hiến Lê (1912–1984) là nhà giáo, nhà văn, học giả, dịch giả, với 120 tác phẩm sáng tác, biên soạn và dịch thuật thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau. Ông là người được giới trí thức và nhân dân lao động kính trọng vì nhân cách cao qúy, cuộc sống thanh bạch, học vấn uyên bác và hiệu qủa lao động hiếm thấy. Trong “Lời mở đầu” tác phẩm “Đời viết văn của tôi” Nguyễn Hiến Lê đã viết: “Đời tôi có thể tóm tắt trong hai chữ HỌC và VIẾT. Hai việc đó liên quan mật thiết với nhau gần suốt đời. Tôi VIẾT ĐỂ HỌC và HỌC ĐỂ VIẾT”. Nguyễn Hiến Lê trí tuệ bậc Thầy, ngọn đèn văn hóa, sao sáng trời Nam. Cuộc đời và di sản của Nguyễn Hiến Lê là mẫu mực nhân cách người hiền còn mãi với thời gian.

          Chọn nơi gắn bó phần lớn cuộc đời mình làm nơi đáng sống nhất và đáng học nhất, cũng hợp với tâm sự của nhà văn Văn Công Hùng trong ‘Tây Nguyên của tôi’ : “Tôi sống ở đất này đã hơn ba mươi năm. Đã có nhiều cơ hội để đi, đến những thành phố lớn hơn, như Huế, Hà Nội, Sài Gòn… nhưng rồi đều đã dằng díu mà ở lại. Té ra mình yêu nó đến mức không dứt ra mà đi được rồi… Bài viết này tôi viết trong nỗi yêu thương và cả đắng đót xót xa đến đớn đau về cái vùng đất mình đã gắn với nó hơn nửa đời người. Và là bài viết về Tây Nguyên ưng ý nhất từ xưa đến nay, nhiều bạn bè văn chương đã đọc và đều… khen, huhu…

          Cũng có những suy tư khác như tôi đã kể trong Chuyện tử tế phim học làm người: “Cách đây hơn mười năm Trần Văn Thủy đã xuất bản cuốn sách có nhan đề Nếu Đi Hết Biển, nêu lên một thắc mắc vừa cụ thể vừa siêu hình: nếu đi hết biển thì sẽ tới đâu? Thoạt đầu với khái niệm trái đất tròn, tác giả cho rằng “nếu đi hết biển, qua các đại dương và các châu lục, đi mãi, đi mãi thì cuối cùng lại trở về quê mình, làng mình”. Nhưng nhiều năm sau, khi tác giả đã đi đến đất Mỹ thì mới thấy rằng người Việt xa xứ “qua các đại dương và các châu lục, đi mãi, đi mãi” mà cuối cùng không thể “trở về quê mình, làng mình” được. Cuốn sách mới nhất Trong Đống Tro Tàn này cho chúng ta cảm tưởng tác giả không còn điều thắc mắc ấy nữa. Con đường địa lý của quả địa cầu dù trên mặt đất hay mặt biển thì rất rõ ràng, đi mãi thì có thể trở về nơi mình xuất phát. Nhưng con đường của lòng người, với bao nhiêu thứ hệ lụy của cuộc sống thì không thể vạch một lộ trình đơn giản nào”.

          Trong Nhớ Sơn Nam ông già Nam Bộ có mẫu chuyện “Hạt bụi nghiêng mình nhớ đất quê” của Võ Đắc Danh:  “Dường như với Sơn Nam, mọi thứ đều rất thực tế và rất đơn giản. Trong câu chuyện Âm dương cách trở của ông cách nay gần 20 năm, tôi vẫn bị ám ảnh một chi tiết: Ông già hớt tóc vỉa hè bị công an khu vực xét hộ khẩu, ông nói: “Tôi sống ở đây gần trọn một đời người, chỉ biết mình là công dân của Tổ quốc Việt Nam thôi”. Anh công an hỏi: “Vậy theo ông thế nào là Tổ quốc?”. Ông già nói: “Với tôi, Tổ quốc là một nơi kiếm sống được bằng một việc lương thiện nào đó, không bị ai làm khó dễ, có vài người bạn chơi được, không ba trợn”. Ông già hớt tóc sau đó qua đời, được một người bạn thầy tu cho hỏa táng và mang hũ hài cốt về quê ở U Minh”. Cho đến bây giờ, khát vọng đơn giản của ông già kia vẫn đang là khát vọng của hàng triệu con người. Càng nghĩ càng thấy “đáng sợ” một Sơn Nam.”

          Tôi nói với các em sinh viên Nông Học 14 Gia Lai: Trên đây là một số góc nhìn  trãi nghiệm về nơi nào đáng sống nhất và đáng học nhất ?. Đối với Thầy (Hoàng Kim), đi đâu cũng không bằng Tổ quốc mình. Nói gì, làm gì cũng không bằng dạy, học và làm cho đồng bào đất nước mình.  Đi khắp quê người để hiểu đất quê hương. Mục đích sau cùng của dạy và học là thấu suốt bản chất sự vật, có lời giải đúng và làm được việc. Dạy và học thực tiễn trên chính Tổ quốc mình.

          Hành trình dạy và học là quay về tự thân, tìm lại chính mình.

          Câu hỏi: Làm thế nào để dân thoát nghèo có lợi nhất nơi đất ruộng nửa khô nửa nước, đất ương điền canh tác khó khăn? bạn hãy nghe Bảy Nhị chuyện cổ tích cho người lớn để thấu hiểu hành trình đi tìm câu trả lời cho việc đánh thức tiềm năng của một vùng đất rốn phèn năn lác hoang hóa vùng tứ giác Long Xuyên sau hơn 20 năm, nay thành vựa lúa. Bạn sau đó hãy tự mình suy ngẫm, tìm tòi lời giải cho bài toán của chính bạn. (xem tiếp…)

          Xem tiếp >>

            Dạy và học 2 tháng 9(02-09-2021)


          Vị trí của Việt Nam

          DẠY VÀ HỌC 2 THÁNG 9
          Hoàng Kim
          CNM365 Tình yêu cuộc sốngViệt Nam con đường xanh; Việt Nam Tổ Quốc tôi; Minh triết Hồ Chí Minh; Con đường tơ lụa mới; Phố núi cao yêu thương; Đêm Vu Lan; Borlaug và Hemingway; Hoa Đất thương lời  hiền; Thầy Quyền thâm canh lúa; Ngày 2 tháng 9 Việt Nam Ngày Quốc Khánh. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tuyên ngôn độc lập tại quảng trưởng Ba Đình Hà Nội, tuyên bố nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. Ngày 2 tháng 9 năm 1969, ngày mất Hồ Chí Minh, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhà cách mạng, người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, một trong những người đặt nền móng và lãnh đạo công cuộc đấu tranh giành độc lập, toàn vẹn lãnh thổ cho Việt Nam trong thế kỷ 20, một chiến sỹ cộng sản quốc tế (sinh năm 1890). Ngày 2 tháng 9 năm 47 TCN, Nữ hoàng Cleopatra, một trong những nhân vật nổi tiếng nhất lịch sử thế giới, tuyên bố con trai bà, Caesarion, là đồng quân chủ của triều đại Ptolemaios. Bài chọn lọc ngày 2 tháng 9: Việt Nam con đường xanh; Việt Nam Tổ Quốc tôi; Minh triết Hồ Chí Minh; Con đường tơ lụa mới; Phố núi cao yêu thương; Đêm Vu Lan; Borlaug và Hemingway; Hoa Đất thương lời  hiền; Thầy Quyền thâm canh lúa; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-2-thang-9/

          MINH TRIẾT HỒ CHÍ MINH
          Hoàng Kim

          Tôi viết minh triết Hồ Chí Minh theo chính kiến và nhận thức của riêng mình. Ngày 2 tháng 9 là ngày Quốc Khánh Việt Nam, ngày khai sinh  nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng là ngày mất của Chủ tịch Hồ Chí Minh. 19 tháng 5 là ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, cũng là ngày thành lập Việt Minh, ngày khai sinh đường Hồ Chí Minh trong lịch sử. Chuỗi năm sự kiện lớn này trong lịch sử như ngôi sao vàng năm cánh, như năm ngón tay trên một bàn tay, đóng mốc son ngày 2 tháng 9 và ngày 19 tháng 5 vào lịch sử Việt Nam và Thế Giới đối với nền độc lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và thống nhất Tổ quốc Việt Nam. Hồ Chí Minh trọn đời minh triết. Việt Nam Hồ Chí Minh là biểu tượng Việt; Hồ Chí Minh nói đi đôi với làm mẫu mực đạo đức có lý có tình; Hồ Chí Minh rất ít trích dẫn, thực tiễn, quyền biến, năng động ; Hồ Chí Minh kiên quyết khôn khéo trong tổ chức tuyên truyền cách mạng, giỏi thu phục tập hợp hiền tài. Nước Việt Nam mới khi hình thành vì sao không có được giải pháp hợp tác giữa Hồ Chí Minh với Bảo Đại, Ngô Đình Diêm, Nguyễn Trường Tam, Phạm Quỳnh, Phan Văn Giáo … Vì sao chưa thuyết phục được Nguyễn Hải Thần, Trần Trọng Kim, Hoàng Xuân Hãn,… ? Đó đều là các nhân vật lịch lịch sử lớn chi phối sâu sắc đối với thời cuộc. Bài học lịch sử là khối vàng ròng giá trị to lớn cần thấu hiểu và cắt nghĩa cho đúng. Sự thật lịch sử đang sáng tỏ dần. Đọc lại và suy ngẫm.

          VIỆT NAM HỒ CHÍ MINH LÀ BIỂU TƯỢNG VIỆT

          Bác Hồ là biểu tượng của thế giới người hiền, là tinh hoa văn hóa Việt gốc và văn hóa tương lai. Minh triết Hồ Chí Minh là ưu tiên đạo đức, cải tiến lề lối làm việc ‘cần kiệm liêm chính’. Đó là thước đo đầu tiên và quan trọng nhất để đào tạo, rèn luyện và trọng dụng cán bộ. Mục tiêu, quốc kế và chiến lược vàng cho Việt Nam mới là: “Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa. Độc Lập Tự Do Hạnh Phúc”.“Nhân dân có quyền đôn đốc và phê bình Chính phủ. Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ. Từ Chủ tịch nước đến giao thông viên cũng vậy. Nếu không làm được việc cho dân thì dân không cần đến nữa”. (Hồ Chí Minh, tập 4. trang 283). “”Nay, tôi chỉ có một tin tưởng vào Dân tộc độc lập. Nếu (tôi) cần có đảng phái thì sẽ là Đảng dân tộc Việt Nam. Đảng đó sẽ chỉ có một mục đích làm cho dân tộc ta hoàn toàn độc lập. Đảng viên của đảng đó sẽ là tất cả quốc dân Việt Nam, trừ những kẻ phản quốc và những kẻ tham ô ra ngoài“.(Báo Cứu Quốc số 147 ngày 21.1 1946). Minh triết Hồ Chí Minh, bài học mới thấm thía trong câu chuyện cũ

          Giáo sư Trần Văn Giàu trong bài viết “Nhân cách lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh” đã luận về bảy phẩm chất nhân cách mà cũng là minh triết của Bác Hồ được con dân nước Việt và thế giới ngợi ca. Đó là: 1) Ưu tiên đạo đức, 2)Tận tụy quên mình, 3) Kiên trì bất khuất, 4) Khiêm tốn giản dị, 5) Hài hòa kết hợp, 6) Thương, quý người, nâng đỡ con người, thấu tình đạt lý, 7) Yêu thiên nhiên, hòa hợp với thiên nhiên. Bác Hồ thật tâm huyết khi nhấn mạnh hàng đầu đạo đức cách mạng.

          Giáo sư Trần Văn Giàu kết luận: “Xin mượn ý của một nhà báo ở châu Đại Dương để tạm kết chủ đề luận về nhân cách Hồ Chủ tịch: Người ta không thể trở thành một Cụ Hồ Chí Minh, nhưng ở Cụ Hồ, mỗi người có thể học một số điều làm cho mình trở thành tốt hơn”.

          Bác sĩ Vũ Đình Tụng đã kể câu chuyện Bức thư huyết lệ trong hàng vạn chuyện đời thường về Bác Hồ, xin được trích nguyên văn: 8 giờ đêm – một đêm tháng Chạp năm 1946 – bác sĩ Vũ Đình Tụng phải mổ một trường hợp chiến thương quá đặc biệt và rất đau lòng: một chiến sĩ “sao vuông” rất trẻ, tuy vết thương nặng, đạn xé tung cả một khúc ruột mà miệng vẫn mỉm cười, cái nụ cười quá quen thuộc và thân thương đối với bác sĩ. Anh tự vệ Thủ đô ấy, người chiến sĩ gan góc ấy lại chính là Vũ Văn Thành, con trai út của bác sĩ.

          Suốt ngày hôm ấy, tôi đã phải mổ cưa gắp đạn và khâu vết thương cho hàng chục chiến sĩ nhưng đến trường hợp con tôi, thần kinh tôi căng lên một cách kinh khủng. Mấy người giúp việc khuyên tôi nên nghỉ tay, nhưng tôi vẫn cố kìm mình để giữ bình tĩnh gắp mảnh đạn cuối cùng trong thân thể người con. Xong việc, tôi loạng choạng rời khỏi bàn mổ.

          Các bác sĩ và những người giúp việc đã cố gắng nhiều, nhưng vết thương do quân thù gây ra quá nặng đã cướp đi mất Thành, con trai của tôi, anh của Thành là Vũ Đình Tín, tự vệ chiến đấu cũng vừa bị mất sau ngày Tổng khởi nghĩa, tôi đau đớn đến bàng hoàng.

          Một buổi chiều trời rét lắm, sau đêm Nôen cuối cùng ở bệnh viện Bạch Mai, bị bom đạn tàn phá, vào lúc tôi mổ xong một ca thương binh nhẹ thì bác sĩ Trần Duy Hưng, lúc bấy giờ giữ chức Thứ trưởng Bộ Nội vụ trân trọng trao cho tôi một bức thiếp của Hồ Chủ tịch. Tôi cảm động quá. Mới đầu tôi cứ ngỡ là một mệnh lệnh mới của Người. Nhưng thật không ngờ, đó lại là một bức thư riêng đầy tình cảm lớn lao của Bác chia đau thương với gia đình tôi. Khi đó, Bác gọi tôi là “Ngài”.

          “Thưa Ngài,
          Tôi được báo cáo rằng: con giai Ngài đã oanh liệt hy sinh cho Tổ quốc.

          Ngài biết rằng tôi không có gia đình, cũng không có con cái. Nước Việt Nam là gia đình của tôi. Tất cả thanh niên Việt Nam là con cháu của tôi. Mất một thanh niên thì hình như tôi đứt một đoạn ruột.

          Nhưng cháu và anh em thanh niên khác dũng cảm hy sinh để giữ gìn đất nước – Thế là họ đã làm rạng rỡ dân tộc, vẻ vang giống nòi. Họ chết cho Tổ quốc sống mãi, tinh thần họ luôn luôn sống với non sông Việt Nam.

          Họ là con thảo của Đức Chúa, họ đã thực hiện cái khẩu hiệu: Thượng đế và Tổ quốc. Những thanh niên đó là anh hùng dân tộc. Đồng bào và Tổ quốc sẽ không bao giờ quên ơn họ.

          Ngài đã đem món quà quý báu nhất là con của mình, sẵn sàng hiến cho Tổ quốc. Từ đây, chắc Ngài sẽ thêm ra sức giúp việc kháng chiến để bảo vệ nước nhà thì linh hồn cháu ở trên trời cũng bằng lòng và sung sướng.

           

          Tôi thay mặt Chính phủ cảm ơn Ngài, và gửi Ngài lời chào thân ái và quyết thắng.
          Tháng 1-1947
          Hồ Chí Minh”

          Đọc xong bức thư, tôi thấy bàng hoàng. Bác bận trăm công nghìn việc, thế mà Bác vẫn nghĩ đến tôi, một gia đình đang có cái tang đau lòng như hàng vạn gia đình khác.

          Tôi thấy nỗi đau thương và sự hy sinh của gia đình mình trở thành nhỏ bé trong cái tình thương mênh mông và sự hy sinh cao cả của Bác đối với cả dân tộc. Tôi nhủ mình sẽ phải làm tốt công việc để xứng đáng với sự hy sinh của các con và khỏi phụ lòng Bác.

          Sau đó, tôi theo Bác lên Việt Bắc – căn cứ thần thánh của cách mạng Việt Nam. Từ một người thầy thuốc của xã hội cũ, một giáo dân ngoan đạo, tôi đã trở thành một người thầy thuốc tốt, một Bộ trưởng Bộ Thương binh xã hội của nước Việt Nam mới.

          Vũ Đình Tụng kể, Lê Thân ghi, theo báo Nghệ An, tháng 9-1994

          Tổ chức UNESCO tại kỳ họp Đại hội đồng lần thứ 24 ở Paris năm 1987 đã tôn vinh Chủ tịch Hồ Chí Minh  là “Anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa“ do các đóng góp quan trọng và nhiều mặt của Người trong các lĩnh vực văn hóa, giáo dục, nghệ thuật, và Người đã dành cả cuộc đời mình cho sự giải phóng nhân dân Việt Nam, đóng góp cho cuộc đấu tranh chung vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội của các dân tộc.

          19 tháng 5 là ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng là ngày thành lập Việt Minh và khai sinh đường Hồ Chí Minh trong lịch sử. Hành trình đến tự do hạnh phúc của dân tộc Việt đã trãi qua giành độc lập dân tộc và đấu tranh  thống nhất Tổ quốc trong cuộc trường chinh thế kỷ . Minh triết của Chủ tịch Hồ Chí Minh là đã hiến dâng trọn đời mình cho sự nghiệp đấu trang giải phóng dân tộc và thống nhất Tổ quốc quy non sông vào một mối. Những việc khác Bác có Di chúc để lại cho đời sau.  Công lao và những biến đổi phần sau không thể và không nên quy hết về Người. Có một số uẩn khúc đời người cần có đủ tư liệu mới đánh giá đầy đủ.

          Bác Hồ có bài thơ “Chơi chữ” rất lạ vào những ngày đầu khởi lập nước Việt Nam mới.Đó  là một kỳ thư, kinh Dịch độc đáo, một luận giải sứ mệnh và SỰ tự đánh giá mình của Bác:

          Chơi  chữ
          Hồ Chí Minh
          (Bản dịch của Nam Trân):

          Người thoát khỏi tù ra dựng nước,
          Qua cơn hoạn nạn, rõ lòng ngay;
          Người biết lo âu, ưu điểm lớn,
          Nhà lao mở cửa, ắt rồng bay!

          Nguyên tác:
          Tù nhân xuất khứ hoặc vi quốc,
          Hoạn quá đầu thì thuỷ kiến trung;
          Nhân hữu ưu sầu ưu điểm đại,
          Lung khai trúc sản, xuất chân long.

          折字
          Chiết tự
          Chơi chữ
          囚人出去或為國
          患過頭時始見 忠
          人有憂愁優點大
          籠開竹閂出真龍

          Chiết tự là một hình thức phân tích chữ Hán ra từng bộ phận để thành những chữ mới, có ý nghĩa khác với ý nghĩa ban đầu. Theo lối chiết tự, bài thơ này còn có nghĩa đen như sau: chữ tù (囚) bỏ chữ nhân (人), cho chữ hoặc (或) vào, thành chữ quốc (國). Chữ hoạn (患) bớt phần trên đi thành chữ trung (忠). Thêm bộ nhân (人) đứng vào chữ ưu (憂) trong “ưu sầu” thành chữ ưu (優) trong “ưu điểm”. Chữ lung (籠) bỏ bộ trúc đầu (竹) thành chữ long (龍).

          BÁC HỒ NÓI ĐI ĐÔI VỚI LÀM, CÓ LÝ CÓ TÌNH, MẪU MỰC ĐẠO ĐỨC

          Hồ Chí Minh là một nhà cách mạng chuyên nghiệp, mẫu mực về đạo đức cách mạng, là tấm gương sáng về tự học suốt đời. Người nói: “Học ở đâu? Học ở trường, học trong sách vở, học lẫn nhau và học ở dân“. Người luôn nói và làm đi đôi., học không biết mỏi, dạy không biết chán.

          Bác viết: “Học thuyết của Khổng Tử có ưu điểm là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tôn giáo của Jêsu có ưu điểm của nó là lòng nhân ái cao cả. Chủ nghĩa Mác có ưu điểm là phương pháp làm việc biện chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm là chính sách của nó thích hợp với điều kiện nước ta. Khổng Tử, Jêsu, Mác, Tôn Dật Tiên chẳng có ưu điểm chung đó sao? Họ đều mưu cầu hạnh phúc cho loài người, mưu cầu hạnh phúc cho xã hội. Nếu hôm nay họ còn sống trên đời này, tôi tin rằng họ nhất định sống chung với nhau rất hoàn mỹ như những người bạn thân thiết. Tôi cố gắng làm một người học trò nhỏ của các vị ấy..” Trích “Hồ Chí Minh về vấn đề tôn giáo và tín ngưỡng”, NXB Khoa học xã hội, H.1996, trang 152. (Ảnh: Chủ tịch Hồ Chí Minh và Thủ tướng Phạm Văn Đồng).

          Nói và làm của Hồ Chí Minh điều gì cũng minh triết và thiết thực. Từ bài “Tâm địa thực dân” viết ở Pháp năm 1919 đến “Tuyên ngôn độc lập” năm 1945. Từ “Những nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa” năm 1945 đến “Lời kêu gọi sau khi hội nghị Giơnevơ thành công” năm 1954. Từ “Lời phát biểu trong buổi đón tiếp Ủy ban Quốc tế” năm 1954 sau cuộc chiến tranh Đông Dương tàn khốc và dai dẳng 8,9 năm  đến “Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh” công bố năm 1969 lúc cuộc chiến tranh Việt Nam đang ở giai đoạn dữ dội và ác liệt nhất. Việc làm nào, lời nói nào của Bác Hồ đều là nói đi đôi với làm, là khuôn vàng thước ngọc của đạo đức cách mạng “cần, liêm, chính, chí công vô tư“. Trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất Tổ Quốc, tự do và hạnh phúc của dân. Người viết: “Ngày nay, chúng ta đã xây dựng nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nhưng nếu nước được độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”  Tư tưởng xuyên suốt của Người là “Việc gì lợi cho dân , ta phải hết sức làm. Việc gì hạicho dân ta phải hết sức tránh” “Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi” “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công

          Hồ Chí Minh có nhiều bài chuyên bàn về đạo đức và đạo đức cách mạng. Đó là các bài “Đạo đức công dân” (1-1955), Đạo đức cách mạng (6-1955; 12-1958), “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân” (2-1969). Người chủ trương phát triển văn hóa gắn liền với đời sống mới, kêu gọi thực hành đời sống mới trong mọi lĩnh vực, mọi tầng lớp và trong từng con người. Hồ Chí Minh chỉ ra rằng: ” Đời sống mới không phải là cái gì cũ cũng bỏ hết không phải cái gì cũng làm mới. Cái gì cũ mà xấu thì phải bỏ. Cái gì cũ mà không xấu nhưng phiền phức thì phải sửa đổi lại cho hợp lý…; Cái gì cũ mà tốt thì phải phát triển thêm …; Cái gì mới mà hay thì ta phải làm

          BÁC HỒ THỰC TIỄN, QUYỀN BIẾN, NĂNG ĐỘNG, RẤT ÍT TRÍCH DẪN

          Ông Trường Chinh nói với ông Hà Đăng khi chiêm nghiệm về phong cách văn chương của chủ tịch Hồ Chí Minh: Bác Hồ rất ít trích dẫn. Lúc đầu tôi cũng cho là ngẫu nhiên. Về sau, hỏi trực tiếp, Bác nói: Mác, Ang ghen, Lê Nin nói rất đúng. Nhưng hoàn cảnh Mác, Ang ghen, Lê Nin hoàn toàn khác hoàn cảnh của chúng ta. Vậy nên muốn nói gì, trước hết phải hiểu cho thật rõ điều mà các vị ấy muốn nói, nói cho phù hợp với hoàn cảnh của mình, cho dân mình dễ hiểu. Do đó, Bác viết bằng sự suy nghĩ của mình. Bác rất ít trích dẫn”. (Hà Đăng 2002. Trường Chinh, người anh cả trong làng báo. Trong sách: Trường Chinh, một nhân cách lớn, một nhà lãnh đạo kiệt xuất của cách mạng Việt Nam. Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia, trang 320). Ông Trường Chinh là một trong những người làm việc lâu nhất, thường xuyên nhất với Bác. Những chắt lọc và nhận xét trên đây chắc chắn là điều cần cho chúng ta suy ngẫm.

          “Bác viết bằng sự suy nghĩ của mình. Bác rất ít trích dẫn” đó là phong cách văn chương của Hồ Chí Minh. Những người thông hiểu lịch sử, văn hóa, hiểu sâu các điển cố văn chương, chuyện hay tích cổ sẽ có thể chỉ ra vô số những điều trùng khớp của những lời hay ý đẹp từ xa xưa đã được Bác vận dụng một cách hợp lý hợp tình trong thời đại mới. Bác là người chú trọng ngôn ngữ giản dị, ngắn gọn, dễ hiểu, có tính thuyết phục cao, có nhịp điệu. Một thí dụ nhỏ như câu: “Yêu Tổ quốc, yêu đồng bào/ Học tập tốt, lao động tốt/ Đoàn kết tốt, kỹ luật tốt/ Giữ gìn vệ sinh thật tốt/ Khiêm tốn, thật thà, dũng cảm” là câu sáu chữ có nhịp điệu như câu thơ cổ.

          Bác Hồ nói: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Suốt đời Bác làm hai việc chính là kiến tạo Việt Nam Độc lập Đồng minh (gọi tắt là Việt Minh) thành một mặt trận rộng rãi “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công thành công, đại thành công” thực hiện “kế sách một chữ đồng” giành độc lập dân tộc và mở đường thống nhất Việt Nam.

          GSTranTheThong1

          HỒ CHÍ MINH TRỌN ĐỜI MINH TRIẾT

          “Thế giới còn đổi thay nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh sẽ sống mãi”. Đại tướng Võ Nguyên Giáp phát biểu tại cuộc Hội thảo Quốc tế Hồ Chí Minh Việt Nam và Hòa Bình Thế Giới, Calcutta Ấn Độ 14-16 tháng 1 năm 1991. Lưu bút của đại tướng Võ Nguyên Giáp thân tặng Trần Thế Thông, (Viện trưởng Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam) Xuân Tân Mùi năm 1991.

          Bác Hồ thật đúng là: “Bình sinh đầu ngẩng tới trời xanh. Khuất núi hồn THƠM quyện đất lành. Anh hùng HỒ dễ nên nghiệp ấy. Tâm hồn bình dị CHÍ anh MINH”.

          Một số vĩ nhân còn lầm lẫn và khuyết điểm vào một thời điểm nào đó trong đời, riêng Bác Hồ thì sự lầm lẫn và khuyết điểm chưa tìm thấy.

          Hồ Chí Minh trọn đời minh triết.

          Vietnammoitulieulichsu

          HỒ CHÍ MINH VỚI VIỆT NAM MỚI

          Việt Nam mới được tính từ ngày 2 tháng 9 năm 1945, đó là Việt Nam Dân chủ Cộng hòaBác Hồ đọc tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Sự cân nhắc đúng tầm mức chi phối thời cuộc của Pháp, Trung Hoa Dân Quốc, Anh, Trung Hoa Cộng sản, Mỹ, Nga. Sự lợi dụng mau lẹ và kiên quyết trước phong trào vô sản quốc tế và cộng sản đang trỗi dậy, ngọn nến hoàng cung vương triều Nhà Nguyễn phong kiến đang suy tàn nhưng có những lực cản thật mạnh mẽ, hệ thống thuộc địa thực dân cũ đã lung lay và hệ thống thực dân mới đang chuyển đổi nhanh chóng. Sự cần thiết đánh giá đúng tầm vóc và vị thế lịch sử của Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp, Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng,  Huỳnh Thúc Kháng, Hoàng Đế Duy Tân, Bảo Đại, Trần Trọng Kim, Ngô Đình Diệm, Hoàng Xuân Hãn, Trần Văn Giàu, Phạm Quỳnh,  Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Trường Tam, Phan Văn Giáo, … Bài học lịch sử là khối vàng ròng giá trị to lớn cần thấu hiểu và cắt nghĩa cho đúng. Sự thật lịch sử sáng tỏ dần.

          Giành thời cơ vàng nghìn năm có một

          Ngày 2 tháng 9 là ngày khai sinh Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng là ngày mất của Chủ tịch Hồ Chí Minh. 70 năm nhìn lại lịch sử trước và trong những ngày cách mạng tháng tám, đánh giá tầm vóc lịch sử của ngày Việt Nam độc lập.

          Hồ Chí Minh chọn “Đường kách mệnh” phát động “Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta“, làm cách mạng theo Lê Nin, mà không chọn cải lương tôn quân theo Không Tử. Người chọn theo phe Đồng Minh mà không chọn theo phe Trục của Nhật, Đức, Ý như vua Bảo Đại và chính quyền Trần Trọng Kim. Người chọn Liên Xô, Quốc tế Cộng sản và Đảng Cộng Sản Trung Quốc làm chỗ dựa “giành và giữ chính quyền” chứ không chọn Trung Hoa Dân Quốc, Pháp, Anh để duy trì chế độ quân chủ và sự cai trị trở lại của Pháp như cũ.

          Đọc lại và suy ngẫm bài viết của Bác Hồ về “Khổng Tử” đăng trên báo “Thanh Niên”, cơ quan huấn luyện của tổ chức Việt Nam Thanh Niên Cách mạng Đồng chí Hội ở Quảng Châu ngày 20/2/1927. Hồ Chí Minh chọn đường lối cách mạng thì theo phương pháp và cách tổ chức của Lê Nin mặc dù suốt đời Người ưu tiên đạo đức thực hành đức trị theo Khổng Tử.

          Bác viết: “Khổng Tử đã viết “Kinh Xuân Thu” để chỉ trích “những thần dân nổi loạn” và “những đứa con hư hỏng”, nhưng ông không viết gì để lên án những tội ác của “những người cha tai ác” hay “những ông hoàng thiển cận”. Nói tóm lại, ông rõ ràng là người phát ngôn bênh vực những người bóc lột chống lại những người bị áp bức… Nếu Khổng Tử sống ở thời đại chúng ta và nếu ông khăng khăng giữ những quan điểm cũ thì ông sẽ trở thành phần tử phản cách mạng. Chính phủ Trung Quốc đã làm mất đi một thể chế cũ trái với dân chủ. Còn những người An Nam chúng ta hãy tự hoàn thiện mình, về mặt tinh thần bằng đọc các tác phẩm của Khổng Tử và về mặt cách mạng thì cần đọc các tác phẩm của Lênin!”.

          Hồ Chí Minh sọạn thảo Báo cáo của Việt Nam gửi Quốc tế Cộng sản ngày 12 tháng 7 năm 1940. Tài liệu tổng hợp, phân tích và đánh giá đầy đủ, toàn diện tình hình và cực kỳ súc tích, thể hiện tầm nhìn thiên tài và nhãn quan chính trị kiệt xuất, sâu sắc hiếm thấy. Người viết:

          Tóm lại, những điều kiện khách quan cho phép chúng tôi có hi vọng thành công. Song, lực lượng chủ quan- lực lượng của Đảng còn quá yếu. Như trên đã nói, một đảng mới mười tuổi lại trãi qua hai lần khủng bố lớn, số cán bộ có kinh nghiệm đấu tranh hiện còn đang rên xiết trong tù ngục, khiến đảng viên và quần chúng như “rắn mất đầu” không thể tận dụng cơ hội tốt “nghìn năm có một”.

          Chúng tôi liệu có khả năng làm thay đổi hoàn cảnh đó, khắc phục khó khăn đó, giúp Đảng hoàn thành sứ mạng lịch sử của nó hay không? Có.

          Chúng tôi nhất định không thể từ trong đánh ra. Chúng tôi chỉ có cách từ ngoài đánh vào. Nếu chúng tôi có được: 1) Tự do hành động ở biên giới; 2) Một ít súng đạn; 3) Một chút kinh phí; 4) Vài vị cố vấn thì chúng tôi nhất định có thể lập ra và phát triển một căn cứ địa chống Pháp, chống Nhật – đó là hi vọng thấp nhất. Nếu chúng tôi có thể mở rộng Mặt trận thống nhất các dân tộc bị áp bức, có thể lợi dụng mâu thuận giữa các nước đế quốc thì tiền đồ tươi sáng là có thể nhìn thấy được. Tôi rất hi vọng các đồng chí giúp tôi nhanh chóng giải quyết vấn đề này. 12.7.40.” (Hồ Chí Minh Toàn tập t. 3 tr. 162-174).

          Tháng 5 năm 1941 các lực lượng ái quốc, trong đó nòng cốt là Đảng Cộng Sản Đông Dương, dẫn đầu bởi Hồ Chí Minh, tập họp tại một địa điểm gần biên giới Việt- Trung, tham gia một tổ chức đứng về phía Đồng Minh giành độc lập cho Việt Nam gọi là Việt Nam Độc lập Đồng minh, thường được gọi vắn tắt là Việt Minh. Tổ chức này xây dựng một chiến khu do họ kiểm soát ở biên giới Việt Trung. Ngày 22 tháng 12 năm 1944, Võ Nguyên Giáp thành lập một trung đội 34 người mang tên Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân (một trong những tiền thân của Quân đội Nhân dân Việt Nam), ngay sau khi thành lập đã tiến đánh quân Nhật, mở rộng chiến khu. Trước khi Nhật đầu hàng Đồng Minh, chiến khu đã bao gồm nhiều tỉnh vùng đông Bắc Bắc Bộ, gọi là chiến khu Việt Bắc. Phản ứng trước sự kiện Nhật đảo chính Pháp, ngày 12 tháng 3 năm 1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam ra chỉ thị “Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” nhằm phát động cao trào kháng Nhật cứu nước.

          Trước tình thế này, Nhật đề nghị giúp đỡ chính quyền vua Bảo Đại vãn hồi trật tự và ổn định tình hình, nhưng vua Bảo Đại đã từ chối, ông đã nói một câu nói nổi tiếng: “Ta không muốn một quân đội nước ngoài làm đổ máu thần dân ta”. Vua Bảo Đại và chính phủ Trần Trọng Kim đã trói tay quân Nhật, để nhường lợi thế lại cho “người nhà” mình.

          Cách mạng tháng Tám là việc Việt Minh tiến hành khởi nghĩa buộc chính phủ Đế quốc Việt Nam do vua Bảo Đại phê chuẩn, được Nhật bảo hộ, bàn giao chính quyền trung ương và các địa phương cho lực lượng này trong tháng 8 năm 1945. Việc chuyển giao quyền lực được chính phủ Đế quốc Việt Nam thực hiện cơ bản trong hoà bình, ít có đụng độ dù xảy ra tranh chấp với lực lượng Nhật, Đại Việt, Hòa Hảo,… ở một số địa phương. Lực lượng quân đội Nhật tại Việt Nam không có phản ứng đáng kể trước những hoạt động của Việt Minh vì lúc này Nhật đã tuyên bố đầu hàng đồng minh và đang chờ quân đồng minh tới giải giáp, hơn nữa vua Bảo Đại và Thủ tướng Đế quốc Việt Nam Trần Trọng Kim đã từ chối lời đề nghị của Tư lệnh quân đội Nhật giúp chính phủ chống lại Việt Minh.

          Tại thời điểm cách mạng tháng Tám  thì các đảng phái khác như Đại Việt, Việt Nam Quốc dân đảng… cũng có hành động tương tự buộc chính quyền Đế quốc Việt Nam tại một số ít địa phương trao quyền lực cho họ. Trừ một số địa phương tỉnh lỵ Hải Ninh (nay thuộc Quảng Ninh), Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu, Vĩnh Yên nằm trong tay Việt Quốc, Việt Cách và quân Tưởng; còn lại chính quyền Việt Minh đã được thiết lập trên toàn bộ các tỉnh lỵ (muộn nhất 28/8: Đồng Nai Thượng, Hà Tiên), hầu hết địa phương trong cả nước. Một số nơi có khó khăn hơn như Hà Giang, quân Tưởng bức rút quân Nhật (29/8), Cao Bằng (giành chính quyền 21/8 nhưng sau đó quân Tưởng tràn vào), Lạng Sơn (giành chính quyền sau đó Tưởng tràn vào, tháng 10 mới thành lập chính quyền cách mạng), Vĩnh Yên (Quốc dân đảng nắm giữ), Hải Ninh – Móng Cái (Cách mệnh Đồng Minh hội nắm), một số địa bàn ở Quảng Ninh (do Đại Việt, Cách mệnh Đồng Minh hội nắm), ở Đà Lạt (quân Nhật còn kháng cự mạnh như ngày 3/10)…

          Kết quả sau khi cướp chính quyền và vua Bảo Đại thoái vị, “Đáp ứng lời kêu gọi của Ủy ban, tôi sẵn sàng thoái vị. Trước giờ quyết định này của lịch sử quốc gia, đoàn kết là sống, chia rẽ là chết. Tôi sẵn sàng hy sinh tất cả mọi quyền lợi, để cho sự đoàn kết được thành tựu, và yêu cầu đại diện của Ủy ban sớm tới Huế, để nhận bàn giao.” (thư của vua Bảo Đại gửi Việt Minh).  “Trẫm muốn được làm Dân một nước tự do, hơn làm Vua một nước bị trị” (Chiếu Thoái vị của vua Bảo Đại). Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập Việt Nam khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

          Việt Minh đã mời vua Bảo Đại tham gia làm cố vấn tối cao của Chính phủ Hồ Chí Minh. Sau này, khi vua Bảo Đại ra nước ngoài thì việc trở về hay không là do sự quyết định của vua như hồi ký của vua Bảo Đại kể lại. Đặc biệt là tài liệu Một cơn gió bụi, cuốn Hồi ký nổi tiếng của nhà sử học, thủ tướng Trần Trọng Kim (1883–1953) xuất bản năm 1949, đã chỉ rõ tóm lược quãng đời làm chính trị của ông từ năm 1942 đến năm 1948. Chủ tịch Hồ Chí Minh trong hai năm 1945 – 1946, cũng đã có 8 thư và điện gửi Tổng thống Hoa Kỳ Harry Truman. Thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Tổng thống Harry Truman ngày 16/2/1946 (Hồ Chí Minh toàn tập, tập 4, tr 91- 91), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ chính nghĩa của cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam giành độc lập dân tộc, đứng về phía đồng minh chống phát xít; sự phi nghĩa của cuộc xâm lược mà thực dân Pháp đang đẩy mạnh ở Đông Dương trái ngược những lập trường Mỹ đã nêu trong các hội nghị quốc tế.

          HoChiMinh VoNguyenGiap

          Bình sinh kẻ phi thường giữ nước

          Chủ tịch Hồ Chí Minh và đại tướng Võ Nguyên Giáp là ẩn số Chính Trung. Cách mạng là sửa lại cho đúng để hợp thời thế. Chí Thiện là Chính Trung dĩ bất biến ứng vạn biến. Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491– 1585) trong Trung Tân quán bi ký, viết năm 1543 có nói: Vẹn toàn điều Thiện là Trung, không vẹn toàn điều Thiện thì không phải là Trung. Tân là cái bến, biết chỗ dừng lại là bến chính, không biết chỗ dừng lại là bến mê… Nghĩa chữ Trung chính là ở chỗ Chí Thiện (xem thêm:
          Ngày xuân đọc Trạng Trình). Tướng Giáp biết nhiều, tâm đắc với “dĩ công vi thượng”. Tướng Giáp hiểu rõ Chính Trung là Chí Thiện của Hồ Chí Minh.

          “Kẻ phi thường” xin thưa, đó là chữ của Bác Hồ nói về vua Lý Công Uẩn và vua Quang Trung, nhưng chính Bác Hồ cũng tỏ rõ chí hướng việc chính của đời mình là noi theo gương sáng của tiền nhân để làm Người “áo vải cờ đào. giúp dân dựng nước xiết bao công trình”.Bác Hồ bình đẳng với con dân Việt. Bác tự coi mình như người lính vâng mệnh quốc dân ra mặt trận. Bác Hồ Chí Minh uy nghi như tượng đài của chính những người lính vô danh hiến mình cho Tổ Quốc quyết sinh. Hình tượng của Bác với CON NGƯỜI bình đẳng một nhân xưng. Hồ Chí Minh tuyển tập, bài Lịch sử nước ta, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia Hà Nội năm 2002, trang 596, Bác Hồ đã viết về Lý Công Uẩn:

          “Công Uẩn là kẻ phi thườnXem tiếp >>

            Dạy và học 1 tháng 9(01-09-2021)


           

           

          DẠY VÀ HỌC 1 THÁNG 9
          Hoàng Kim
          CNM365 Tình yêu cuộc sống  Tin nổi bật quan tâm; COVID-19 Thế giớiViệt Nam; Thế sự bàn cờ vây; Chuyển đổi số Quốc gia; Borlaug và Hemingway; Đêm Vu Lan; Nghê Việt am Ngọa Vân; Nghê Việt trong Hồn Việt; Hoàng Tố Nguyên album ảnh; Chín điều lành hạnh phúc; Lúa siêu xanh Việt Nam; Ngày 1 tháng 9 năm 1952, Tiểu thuyết Ông già và biển cả của Ernest Hemingway được xuất bản lần đầu tiên. Ernest Hemingway là nhà văn nổi tiếng người Mỹ, đoạt Giải Pulitzer năm 1953 và Giải Nobel Văn học năm 1954. Ngày 1 tháng 9 năm 1898 , ngày mất Trương Vĩnh Ký, nhà ngôn ngữ học và nhà báo nổi tiếng Việt Nam (sinh năm 1837). Ngày 1 tháng 9 năm 1920, ngày sinh Bùi Xuân Phái, họa sĩ tài danh người Việt (mất năm 1988). Bài chọn lọc ngày 1 tháng 9. Tin nổi bật quan tâm; COVID-19 Thế giớiViệt Nam; Thế sự bàn cờ vây; Chuyển đổi số Quốc gia; Borlaug và Hemingway; Đêm Vu Lan; Nghê Việt am Ngọa Vân; Nghê Việt trong Hồn Việt; Hoàng Tố Nguyên album ảnh; Chín điều lành hạnh phúc; Lúa siêu xanh Việt Nam; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-1-thang-9/

          BORLAUG VÀ HEMINGWAY
          Hoàng Kim

          Năm 1988, tôi đến CIANO thăm nơi làm việc của nhà khoa học xanh Norman Borlaug nhà nhân đạo người Mỹ đã ‘cứu sống nhiều người hơn bất cứ ai khác trong lịch sử’ và thăm nơi lưu dấu di sản Ernest Hemingway, tác giả của kiệt tác Ông già và biển cả là bài học tự do sáng tạo sống giữa thiên nhiên. Tôi mang theo suốt đời ấn tượng sâu sắc với Borlaug và Hemingway. Tôi chỉ mới chép đôi điều về họ trên Wikipedia Tiếng Việt, nay lưu điểm nhấn này để thỉnh thoảng quay lại chiêm nghiệm sâu hơn về di sản của hai người thầy kỳ dị và bạn lớn này.

           

           

          Thầy Norman Borlaug là nhà nhân đạo, nhà nông học Mỹ, cha đẻ của cuộc cách mạng xanh được tặng giải Nobel và Tổng thống Mỹ trao tặng huân chương cao quý nhất của nước Mỹ, thế giới tôn vinh là nhà bác học số một của nhân loại trong  cuộc chiến chống nghèo đói. Thầy đã suốt đời nghiên cứu giảng dạy về chọn tạo và phát triển cây lương thực, góp phần cải thiện đời sống và nâng cao thu nhập cho hàng trăm triệu nông dân nghèo ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ Latinh. Thầy là người sáng lập Giải thưởng Lương thực Thế giới và tổ chức nhiều hoạt động thiết thực thắp sáng niềm tin yêu cuộc sống. Tôi được Thầy ghé thăm gần trọn buổi chiều tại phòng riêng ở CIMMYT, Mexico ngày 29 tháng 8 (âm lịch) năm 1988. Thầy đã đi một mình ghé thăm người trò nhỏ duy nhất của châu Á trong lớp học “Quản lý Trung tâm/ Trạm trại Nông nghiệp”. Khi Thầy đến, tôi đang thắp nến trên giá sách trong phòng đề tưởng nhớ ngày mất của cha tôi. Biết cha tôi bị bom Mỹ giết hại tại làng nhỏ ở Quảng Bình của buổi chiều này hai mươi năm trước (1968) lúc tôi còn là học sinh trung học của Trường cấp Ba Bắc Quảng Trạch. Thầy bối rối xin lỗi và thật bất ngờ tôi đã có được một buổi chiều vô giá riêng tư bên Thầy. Điều này tôi đã kể tại bài viết “Thầy bạn là lộc xuân cuộc đời” đăng ở kỷ yếu Khoa Nông học Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh năm 2010 và bảo tồn trên trang Thầy bạn là lộc xuân

           

           

          Norman Borlaug nhà khoa học xanh, lời Thầy dặn thật thấm thía “Đời người tối thiểu phải ăn, kế đến là học tập, công việc, nhà ở, quần áo và chăm sóc sức khỏe. Quanh ta còn nhiều mảnh đời bất hạnh. Hiểm họa nghèo đói vẫn bùng phát bất cứ lúc nào. Hãy luôn nhớ điều đó”; “Hãy vươn tới những vì sao. Cho dù không chạm được vào nó, nhưng nếu cố gắng hết sức, ít ra, chúng ta cũng chạm được những hạt bụi của ngôi sao”; “Việc chính đời người chỉ ít thôi. Chuyên tâm đừng bận chuyện trời ơi. Phúc hậu suốt đời làm việc thiện. Di sản muôn năm mãi sáng ngời

          Đời người có những dịp may kỳ lạ khó cắt nghĩa, Tôi đã lưu lại câu chuyện
          Giấc mơ thiêng cùng Goethe.kể về duyên may từ một cậu bé chân đất làng Minh Lệ có cơ hội học Goethe ở châu Âu và được đàm đạo với Thầy Norman Borlaug khai tâm đường vào khoa học. Noi gương Goethe, Borlaug dạy học, viết sử thi về đất nước con người văn hóa giáo dục Việt Nam, Cây Lương thực Việt Nam khoa học cây trồng, lĩnh vực am hiểu sâu của chính mình

           

           

          GIẤC MƠ THIÊNG CÙNG GOETHE
          Người già kể chuyện sử thi
          Kalovi Vary, Roma, Oregon
          Thắp lên trong tôi ngọn lửa
          Hoàng Kim

          Mọi lý thuyết đều là màu xám,
          chỉ có cây đời mãi mãi xanh tươi
          Goethe trao tặng cho tôi
          Ngọc minh triết của Người.

          Tôi giấc mơ gặp
          Goethe
          Kalovi Vary, Czechoslovakia
          trong rừng thiêng cổ tích.
          Người kể chuyện sử thi

          Tiệp Khắc kỷ niệm một thời
          Praha Goethe và lâu đài cổ
          Những khát khao của
          Faust,
          Nỗi đau của chàng Werther

          Người nhắc tôi đừng quên
          kể chuyện sử thi dân mình
          Cho dù học gì làm gì
          Cũng đừng quên chuyện đó !

          Người hỏi tôi trong mơ
          Con có dám học
          Faust?
          Chọn minh triết làm Thầy
          Suốt đời theo Trí Tuệ ?

          Tôi trả lời.trong mơ
          Có con xin theo Người !
          Con xin theo học Goethe
          Người kể chuyện sử thi

          Ta bàng hoàng gặp Goethe
          Trên cầu đi bộ Charles
          Trong 30 tượng thánh trầm tư
          Tôi ngắm hình tượng
          Faust

          Quảng trường Old Town Square
          Đế Quốc La Mã Thần Thánh
          Goethe lắng đọng tại
          Praha
          Trong huyền thoại muôn đời

          Tôi nhớ Người ở Frankfurt,
          Di sản Người
          Leipzig, Strasbourg
          Ông già hiền triết châu Âu
          Tại bao nhiêu điểm đến …

          Tôi học Goethe qua thơ Xuân Diệu
          Mọi lý thuyết đều là màu xám,
          chỉ có cây đời mãi mãi xanh tươi
          Thơ Người đi cùng tôi bao tháng năm.

          Tôi gặp Goethe ở châu Âu
          Trong hình bóng người hiền
          Cũng gặp Người tại
          Oregon
          Nơi Miền Tây Nước Mỹ.

          Tôi gặp Goethe ở châu Mỹ
          Tại
          Ciudad Obregon
          Hồ lớn ba tỷ khối nước
          Cây xanh đất nước giao hòa

          Tôi  gặp Người ở CIMMYTMexico
          phía cuối trời Tây
          GoetheNorman Borlaug dạy cho tôi
          Đi khắp quê người để hiểu đất quê hương

          Người hóa thân
          trong thanh thản
          bóng cây xanh
          Người đàm đạo
          với
          Norman Borlaug
          và cậu học trò nghèo
          Về ý tưởng xanh
          Con đường xanh
          Hành trình xanh
          Sự nghiệp xanh
          Nhà khoa học xanh
          giấc mơ hạnh phúc

          Goethe là vòm cây xanh
          Goethe cũng là lão nông
          ngồi cùng chúng ta
          chuyện trò
          trên cánh đồng xanh
          hạnh phúc.

          Goethe Norman Borlaug
          là những trí tuệ bậc Thầy.
          Họ không màng hư vình
          mà hướng tới đỉnh cao hòa bình
          sự an lành tiến bộ.

           

          Hoàng Kim ở Roma, Italia.

           

          Anh và em cùng Goethe
          Ở FAO, Rome,
          Italy
          Người hóa thân
          thành nữ thần Tình Yêu

          Trời xanh tuyệt vời !
          Trời nhân loại mênh mông !

           

           

          Ernest HemingwayÔng già và biển cả, sinh ngày 21 tháng 7 năm 1899, mất ngày 2 tháng 7 năm 1961, là một tiểu thuyết gia người Mỹ, một nhà văn viết truyện ngắn, và là một nhà báo. Ông là một người xa xứ Paris và một cựu quân nhân. Ông đã nhận được Giải Nobel Văn học năm 1954 và Giải Pulitzer năm 1953 với tiểu thuyết Ông già và biển cả. Ngày 21 tháng 10 là ngày ông đã phát hành lần đầu cuốn tiểu thuyết kiệt tác Chuông nguyện hồn ai.

           

           

          Ngôi nhà nơi Hemingway sinh ra tại Oak Park, Illinois là nơi lưu dấu tuổi thơ dữ dội của ông nay là chứng tích nơi Hemingway viết những kiệt tác Giã từ vũ khí, Chuông nguyện hồn ai. Ông già và biển cả. Hemingway là một người lính đã đi qua hai cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất và thứ hai ở những chiến trường và thời điểm khốc liệt nhất, ông có có một cuộc đời giàu trãi nghiệm nên kịp trao lại cho đời một di sản văn chương đồ sộ

          Hemingway sinh tại Oak Park, Illinois, một vùng ngoại ô của Chicago, Mỹ. Hemingway lúc ở tuổi mười tám đã bắt đầu sự nghiệp viết văn của mình với tư cách là một phóng viên cho báo The Kansas City Star. Tờ báo này đã ghi danh ông là phóng viên hàng đầu của báo trong một trăm năm qua,

          Hemingway có phong cách văn chương nổi bật “Sử dụng những câu văn ngắn. Sử dụng những đoạn mở đầu ngắn. Sử dụng thứ tiếng Anh hùng hồn. Phải khẳng định, không phủ nhận” (“Use short sentences. Use short first paragraphs. Use vigorous English. Be positive, not negative.”). Lối văn ấy, sau này tôi nghiệm thấy, người đã học và dùng thật khéo, thật giỏi và thật nhuyễn lối phong cách văn chương độc đáo ấy là tổng thống Mỹ Trump (cho dù ông có nhìn nhận điều ấy hay không.

          Hemingway ngừng làm phóng viên chỉ sau đó một vài tháng và tình nguyện gia nhập Quân đội Mỹ vào hàng ngũ quân y sang chiến đấu ờ Pháp và Italia. Ông bị thương khi đang lái xe chuyển thương binh và được huân chương từ chính phủ Ý. Sau chiến tranh thế giới thứ nhất ông trở về Mỹ lấy vợ là Hadley Richardson và sống một cuộc đời nghèo túng ở quê. Từ năm 1921 gia đình ông định cư ở Pari Pháp. Sau nhiều thành công với tư cách là thông tín viên nước ngoài, Hemingway trở lại Toronto, Canada năm 1923. ông có người con trai đầu tên là Jack. Hemingway. Ông chia tay người vợ đầu năm 1927 và cưới Pauline Pfeiffer, một phóng viên thời trang không thường xuyên, người sùng đạo Thiên Chúa đến từ Piggott, Arkansas. Họ có với nhau hai người con năm 1928 và 1930.

          Hemingway năm 1929 viết tác phẩm “Giả từ vũ khí” thành công nên thu nhập sau đò khá hơn. Năm 1931 Hemingway quay về Key West, Florida và sống ở đó đến năm 1940 ông thường đi câu cá và nhiều lần sang Tây Ban Nha để tìm tư liệu và đi săn ở châu Phi để lấy cảm hứng viết văn ở Mombasa, Nairobi Machakos tại Kenya, Tanganyika. Serengeti, quanh Hồ Manyara và vùng phía tây và đông nam của Công viên Quốc gia Tarangire ngày nay. Hemingway đã bị bệnh trong chuyến đi này. Sự sa sút sức khỏe và tình hình gia đình xã hội chính trị tôn giáo luôn không thể dung hòa đã làm ông kiệt sức. Bố Hemingway nghèo khó quản bách tài chính phải tự sát. Ông đã viết ‘Chuông nguyện hồn ai ‘ năm 1940 trong hoàn cảnh đó.

           

           

          Hemingway là mẫu mực kinh điển trong văn học Mỹ với đặc trưng văn chương chuẩn mực, kiệm lời, sáng tạo, khắc họa vĩnh cữu những từ chìa khóa (Key words). Hemingway là một người theo chủ nghĩa khắc kỷ (stoicism), vui lòng chịu sức ép (grace under pressure), thuận theo tự nhiên và nghịch cảnh. Ông là một cựu quân nhân trãi gần trọn đời trong chiến tranh và nghèo đói, nên ông đã mô tả người như ông là “Thế hệ bỏ đi” (Lost Generation) của cộng đồng người Paris xa xứ.

          Điều thú vị là tôi thật nhiều năm hiểu nhưng chưa tìm được một lối diễn đạt nào để mô tả phong cách Hemingway trong bản lĩnh người lính khi phải bộc lộ sự thật quan điểm lính của mình đối mặt với một quyết định sinh tử để không bị lợi dụng cho một mưu đồ chính trị trái lòng mình. Hemingway tôn trọng Cu Ba không đồng tình chiến tranh lạnh..Cho đến khị tôi tình cờ đọc được một đoản văn ngắn của Lưu Huy Chiêm một người bạn nghề thủy lợi, nghiệp nhà văn đã nói về Hemingway đúng tính cách ông ấy, của “Thế hệ bỏ đi”. Nguyên văn đoạn văn ấy như sau:

          LÒNG TỰ TRỌNG CAO QUÍ.
          Chiêm Lưu Huy Năm 1953, Stalin chết. Nikita Khrushchev (1894 – 1971) lên cầm quyền Liên bang xô viết. Ông quyết định cải tổ. Việc đầu tiên trong quan hệ ngoại giao, ông chọn cách bắt tay chung sống và thi đua hòa bình với cường quốc thù địch ý thức hệ Hoa kỳ. Chuyến thăm chính thức có hàng tấn thông tin từ cả hai phía, đầy ắp sự kiện. Bài viết này chỉ chú ý đến chi tiết nhỏ nhặt gần như bị lãng quên. Nikita khrushchev mang theo nhà văn Nga – Mikhail Aleksandrovich Solokhov (1905 -1984). Nikita ngầm cho người Mỹ hiểu rằng văn hóa Liên xô yêu chuộng hòa bình, lên án chiến tranh mà Sông Đông êm đềm của Solokhov đại diện làm sứ giả – Sứ giả Hòa bình!

          Đáp lễ, chuẩn bị cho chuyến thăm chính thức Liên bang cộng hòa xã hội chủ nghĩa xô viết, Tổng thống Hoa kỳ Dwight F Eisenhower (1890 -1969) muốn có tác giả lừng danh thiên hạ với tác phẩm Ông già và biển cả, được viết ở Cu Ba (cánh tay nối dài của Liên xô ở ngay sát nách Mỹ!) là Ernest Hemingway (1899 – 1961) tháp tùng. Bất ngờ, nhận được lời mời, Ernest Hemingway mỉm cười nói: Tại sao Ernest Hemingway lại phải tháp tùng Dwight F. Eisenhower. Lẽ ra ông ấy phải tháp tùng tôi chứ !? Và, dĩ nhiên Ernest từ chối thẳng thừng một cơ hội ngàn vàng, ngàn năm mong đợi của không ít người!?

          3 – Không ai biết có 1001 lý do từ chối, nhưng chắc chắn có một cái gì… như là lòng tự trọng cao quý của Người Văn…!

          Đây là chân dung Người Văn có lòng tự trọng cao quý mà tôi hiến tặng các bạn, trong đó có Tình Yêu Của Tôi…

           

           

          Tôi dự tiệc cưới con một người bạn lính thuộc Lớp thanh niên xếp bút nghiên lên đường chiến đấu và trở về trường học sau chiến tranh. Thế hệ của chúng tôi cũng trãi gần trọn đời trong cuộc chiến chống lại giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm, cùng những biến thái của điều này sau chiến tranh, theo cách nói Hemingway là “Thế hệ bỏ đi” (Lost Generation) vì thế hệ chúng tôi Hemingway văn chương ông dường như có sự đồng cảm và thấu hiểu tâm trạng.

          Chúng tôi cũng là quân nhân, cũng là người xa xứ ‘cuốn theo chiều gió’, cũng sống thuận theo tự nhiên và nghịch cảnh, cũng vui lòng chịu sức ép. Đọc “Những người lính sinh viện” của Lê Anh Quốc FB Phan Chi dưới đây, đã nói lên thật đúng và thật đồng cảm kỳ lạ tâm trạng chúng tôi , và cũng thật sâu sắc khi đối thoại thầm lặng với tác giả của kiệt tác “Giã từ vũ khí”:

          “Những người lính có bao giờ định liệu Cái giá mình trước Tổ Quốc, Nhân Dân! “Vì Nhân Dân quên mình! Vì Nhân Dân hy sinh!” Lẽ sống ấy làm nên Nhân cách Lính.Ngay cả khi mình không mang quân phục, Nhưng Lính thì chẳng lẫn với ai đâu? Không biết người ta sống mai sau, Có đời hơn thời chúng tôi đang sống? Rồi đến lúc phải quên đi tiếng súng, Ta vẫn tin! Đồng đội chẳng quên nhau! Nhân Dân mình sống có trước có sau. Cứ nhìn những Nghĩa trang, những Tượng đài thì biết. Và cả những Tượng đài thơm hương tha thiết, Cho người sống,Cho người còn mà chết tuổi thanh xuân. Nếu Cuộc đời biết vì Nhân Dân Thì Nhân Dân cũng vì ta năm tháng. Như mặt trời cho cỏ cây nguồn sáng, Cỏ cây nào chẳng cho đất những mùa hoa? Bom đạn tạnh đi rồi Chiến tranh đã lùi xa! Cuộc sống mới bảo chúng tôi đổi mới!”

          Tôi học Norman, noi theo Norman bởi những lời Thầy dặn tôi mãi mãi làm người Thầy nhà nông chiến sĩ, đã khai tâm cho tôi làm thay đổi chính cuộc đời mình, nhưng tôi thật thích Hemingway về văn chương kiệm lời trong như ngọc chắt lọc từ khóa (key word) Ông già và biển cả; Giả từ vũ khí; Chuông nguyện hồn ai; “Sử dụng những câu văn ngắn. Sử dụng những đoạn mở đầu ngắn. Sử dụng thứ tiếng Anh hùng hồn. Phải khẳng định, không phủ nhận”; “Thế hệ bỏ đi” Hemingway với những tác phẩm để đời và các câu văn ngắn gây ám ảnh và ấn tượng đặc biệt sâu sắc trong lòng tôi.và say mê đến kỳ lạ của ông ham thích tự do. Đó là đại dương khát vọng “Ông già và biển cả” khai mở tự do tâm thức tình yêu cuộc sống. Tôi cũng vẫn thường quay lại với Nguyễn Khải, với các tác phẩm văn chương ưng ý  mà Nguyễn Khải đã trao lại ngọc cho đời và những lời thương nhớ Nguyễn Khải của các bạn văn, người đọc viết về Nguyễn Khải để tìm câu giải thích cho điều tâm đắc ông viết: “Trên cuộc đời không có bước đường cùng, chỉ có những ranh giới, điều cốt yếu là phải vượt qua được những ranh giới ấy”. “Tôi viết vậy thì tôi tồn tại ! Viết văn không chỉ do nhu cầu kiếm sống, viết văn cũng không chỉ do những bức xúc khôn khuây của cá nhân, mà viết còn là mong muốn được trao trở về với cái vô hạn”.

          CHÀO NGÀY MỚI YÊU THƯƠNG
          Hoàng Kim

          Thơ yêu thương là thơ hoa hồng
          Đỏ của máu và xanh hi vọng.
          Ngày ghi nhớ trong trái tim tôi
          Ngày mới nhớ về mạch sống

          Thoáng chốc tháng năm nhìn trở lại
          An nhiên chào ngày mới yêu thương.
          Đi qua chiến tranh mừng hạnh phúc
          Bạn học chung mâm nhớ lớp trường.

          Borlaug và Hemingway là câu chuyện thú vị làm vui cả ngày

          Hoàng Kim

           

           

          Đọc NHỮNG NGƯỜI LÍNH SINH VIÊN của Lê Anh Quốc
          FB Phan Chi


          Tôi hoàn toàn không quen biết người lính Lê Anh Quốc, càng không biết có nhà thơ tên là Lê Anh Quốc. Vô tình đọc được thơ anh trên Facebook, tôi không thể làm được việc gì khác ngoài việc viết cảm nhận về trường ca hơn 500 câu “Những người lính sinh viên” của anh.Tôi rất ít khi bình thơ, phải xúc động lắm mới viết.

          Được biết anh nhập ngũ năm 1971, khi đang là sinh viên. Một người lính sinh viên, một nhà thơ lính. Một người trong số hơn 10.000 sinh viên các trường đại học của Hà Nội lên đường vào Nam chiến đấu từ năm 1970 đến năm 1972. Hơn một nửa đã hy sinh tại các mặt trận, nhưng nhiều hơn cả là hy sinh tại chiến dịch bảo vệ Thành cổ Quảng Trị những tháng ngày đỏ lửa.

          Tôi gõ tên anh cùng tên bài trường ca của anh trong Google. Không thấy.Nghĩa là anh không nổi tiếng, thơ anh thuộc loại “chưa được xếp hạng” theo cách xếp hạng của giới tự phong cho mình là chuyên nghiệp.

          Thơ về chiến tranh có hai giai đoạn. Giai đoạn trong chiến tranh và giai đoạn sau chiến tranh.

          Thơ chiến tranh trong chiến tranh mang tính động viên ca ngợi với âm hưởng chủ đạo là cảm hứng sử thi. Phạm Tiến Duật: “Đường ra trận mùa này đẹp lắm!” hay Nam Hà “Chúng con chiến đấu cho Người sống mãi Việt Nam ơi!”.

          Thời kì hậu chiến, khi đã có độ lùi của thời gian, bối cảnh xã hội và tâm thế sáng tạo cho phép người viết được tái hiện chiến tranh thiên về chất trữ tình triết lí, chiêm nghiệm. Cốt truyện không còn là điều quan trọng như trong trường ca truyền thống mà mang yếu tố tự sự nhiều hơn.

          Trường ca Những người lính sinh viên nằm trong số đó.Tác giả không nhận mình là thi sĩ chuyên nghiệp:“Chúng tôi đi đánh giặc những tháng năm dài Phút khuây khỏaLàm thơ trên báng súng.Đời chẳng tĩnh Nên câu thơ quá động.Lục bát trèo Lên võng Đung đưa…”

          Lục bát trèo lên võng đung đưa là thơ nó tự trèo lên người lính. Câu thơ thật hay, chuyên nghiệp chắc gì nghĩ ra.Thơ anh tự sự nhưng không phải tự sự của “tôi” mà là của “chúng tôi”, những người người lính có học mà anh gọi là lính sinh viên, từ ruột gan người lính.

          Những vần thơ mộc mạc, tự nhiên như chính đời lính gian khổ, đói rét, hy sinh, ngời sáng tình đồng đội thiêng liêng cao thượng.

          Nói về thế hệ mình, anh tự hào:

          “Thế hệ chúng tôi ! Ai cũng dễ thương,Thơm thảo như hoa,Ngọt ngào như trái.Tình đồng đội lòng không cỏ dại, Nghĩa đồng bào – Bầu, Bí thương nhau.”

          Anh nói về sự hy sinh của các chị các em các mẹ mà anh cho là cao cả hơn sự hy sinh của người đàn ông:

          “Thế hệ chúng tôi phụ nữ muộn chồng Nhiều đứa quá thì nên cầm lòng vậy Đời con gái chín dần trong cây gậy Rụng xuống đường lọc cọc tiếng đơn côi.”

          Chỉ người đàn ông đích thực mới nhìn thấy cái mất mát đáng sợ do chiến tranh mang lại cho người đàn bà:

          “Con dâu nằm chung với mẹ chồng,Tay bó gối phòng lúc mình mê ngủ.Hai cái thiếu chẳng làm nên cái đủ.Dưới mái nghèo năm tháng vắng đàn ông.”

          Hình ảnh chiếc võng được lính liên tưởng như vầng trăng khuyết, như con thuyền chở lòng căm thù giặc, như cánh cung mà mỗi người lính là một mũi tên. Người lính còn biết mơ mộng một ngày đỗ đạt vinh quy bái tổ ngồi trên võng. Thương quá những chàng sinh viên gác bút nghiên đi đánh giặc! Nói về sự lạc quan của người lính, khó ai có thể nói hay hơn:

          “Chúng tôi cười Cười chật đất Cười chật sông Cười chật suối…”

          Về cái đói của lính, anh cũng có cách nói rất độc đáo đồng thời lại rất thật:

          “Không sợ giặc, không sợ đạn bom rơi,Cái sợ nhất lúc này là đói.Đói vàng mắt, Đói long đầu gối, Đói phạc phờ,Đói thừa cả chân tay…!Mà lạ chưa?Vào chính lúc này,Chúng tôi lại đánh lui quân giặc.”

          Kết thúc chiến tranh, anh không quá say sưa chiến thắng mà nói về làng quê, về đời sống của người dân và đương nhiên là nói về mẹ:

          “Bây giờ mắt mẹ đã mờ,Nhìn tôi bằng “ngón tay rờ” run run”

          Câu thơ tuyệt hay. Cần gì phải nói bao năm chờ đợi mẹ khóc đến mù hai mắt, chỉ cần hình ảnh nhìn bằng tay là đủ lay động lòng người.Anh có một “nỗi buồn chiến tranh” giống mọi người:

          “Bao cô gái Bao chàng trai Lứa tuổi đôi mươi Đã nằm xuống dưới bạt ngàn nấm mộ Những cái tên…ngày nào xanh nhãn vở Giờ xếp hàng Đỏ rực nghĩa trang.”

          Không phải rất nhiều nấm mộ mà là chỉ một nấm mộ thôi nhưng bạt ngàn. Thơ đấy chứ đâu, nghệ thuật đấy chứ đâu nữa! Và một nỗi buồn rất khác. Các anh trở về với luống cày cây lúa. Thời trai trẻ đã qua đi, không được học hành như mơ ước. Trong thời đại công nghệ, tiến bộ khoa học kỹ thuật, các anh bị lạc hậu:

          “Không thể đem việc đổi xạ – bóp cò,Làm công nghiệp trong thời mở cửa.Ta sẽ chẳng vượt qua đói khổ,Nếu chân mình còn nặng đế cao su!”

          Đau hơn cả là cái tương lai tươi sáng mà vì nó các anh đã chiến đấu hy sinh vẫn còn xa chưa đến:

          “Ta đã qua dài rộng rừng sâu,Chân đã thuộc những nẻo đường ngang dọc,Mà bây giờ trước đồng, trước ruộng Sao ta đi, đi mãi… chẳng đến bờ? Vẫn chỉ là muôn thuở: Đói hay No? Mà lăn lóc cả đời với đất Từ mặt trận, mang Cái còn – Cái mấtTrở về làng đánh đổi Cái có – Cái không…

          *

          Tôi bỏ cả ăn sáng, viết cho xong bài này.Hãy cho tôi một lần được làm người bình thơ, hãy cho tôi thắp nén tâm nhang cho anh, người lính thơ, nhà thơ lính.Có thể anh không có danh xưng nhà thơ (tôi không rõ lắm) nhưng anh là nhà thơ trang trọng trong tôi, trong những người bình thường và những người yêu thơ.Chúng ta căm ghét chiến tranh, chúng ta mong con cháu mình không bao giờ phải cầm súng, không muốn rồi sẽ có những người lính sinh viên như anh. Nhưng để mong muốn đó thành hiện thực, chúng ta phải trân quý những người như anh – người lính vô danh, nhà thơ thầm lặng! Bài thơ rất dài nhưng tôi khuyên bạn nên đọc

          KHOẢNG TRỜI NGƯỜI LÍNH
          Chương 1 :
          KHÚC DẠO ĐẦU
          Thế hệ chúng tôi!
          Chưa kịp lớn lên,
          Bom đạn Mỹ xé rách trời, nát đất.
          Vừa buông nách đứa em bé nhất,
          Trên đầu mình,
          Già dặn khoảng trời xanh.

          Thế hệ chúng tôi-
          Thế hệ chiến tranh.
          Hoa lau trắng những ngày tiễn biệt
          Người lên đường –
          Đất Nước là Tiền tuyến
          Người ở nhà
          – Tổ quốc hóa Hậu phương

          Thế hệ chúng tôi !
          Ai cũng dễ thương,
          Thơm thảo như hoa,
          Ngọt ngào như trái.
          Tình đồng đội lòng không cỏ dại,
          Nghĩa đồng bào
          – Bầu, Bí thương nhau.

          Thế hệ chúng tôi con gái cũng “mày râu”
          Chẻ lạt lợp nhà, đốn cây, bổ củi
          Đêm trăng lên nhoi nhói câu thầm hỏi:
          – Mình đàn bà sao bóng tựa đàn ông?

          Thế hệ chúng tôi phụ nữ muộn chồng
          Nhiều đứa quá thì nên cầm lòng vậy
          Đời con gái chín dần trong cây gậy
          Rụng xuống đường lọc cọc tiếng đơn côi.

          Thế hệ chúng tôi…
          Meo mốc bình vôi,
          Mùa cau lại vàng,
          Mùa trầu lại đỏ,
          Mẹ cần chổi gom những mùa lá đổ,
          Đợi con về …
          Run rẩy quét thời gian.
          Ngôn ngữ Tình Yêut
          hời của chúng tôi:
          Một đôi chim bay trên áo gối,
          Một bông hồng thả hương bối rối,
          Một khoảng tròn quanh những chiếc khung thêu.
          Thế là thương
          Là nhớ
          Là yêu
          Là gánh vác việc nhà người ra trận.
          Dẫu không hóa làm thân Núi Vọng,
          Cũng một đời chín đợi, mười trông.
          Đêm.Con dâu nằm chung với mẹ chồng,
          Tay bó gối phòng lúc mình mê ngủ.
          Hai cái thiếu chẳng làm nên cái đủ.
          Dưới mái nghèo năm tháng vắng đàn ông.

          Thệ hệ chúng tôi,
          Ra ngõ gặp Anh hùng.
          Đâu cũng thấy hy sinh cho Tổ quốc.
          Người trước ngã,
          Người sau không bỏ cuộc.
          Trận đánh này,Phải TOÀN THẮNG ngày mai …
          Ngày mai
          Ngày mai
          Ngày mai…
          Có thể là gần
          Có thể xa vời vợi…
          Sẽ chẳng tới nếu ta ngồi chờ đợi.
          Chỉ con đường duy nhất phải vượt lên !

          Dù ngày mai sẽ chẳng vẹn nguyên,
          Những cô gái, chàng trai tuổi xuân hơ hớ.
          Dù ngày mai sẽ bạt ngàn nấm mộ.
          Những con người của thế hệ chúng tôi.
          Mặc gian nan!
          Mặc đạn bom rơi!
          Đích phải đến là TỰ DO – ĐỘC LẬP.
          Là Đất Nước sạch bóng quân xâm lược.
          Là Bắc – Nam sum họp một nhà.
          Mẹ sẽ vui
          Ngày mai .Khải hoàn ca !
          Chúng con hát dọc đường về thăm mẹ.
          Ta tưng bừng,Ta thương người lặng lẽ.
          Bởi Mất – Còn,
          Cũng đến một ngày mai…

          Chương hai:
          KHOẢNG TRỜI NGƯỜI LÍNH
          1- ĐƯỜNG VÀO
          Đêm đầu tiên, Ngủ giữa rừng cây Chúng tôi níu rừng vào hai đầu cánh võng.Chống chếnh thế, Những ngôi nhà của Lính,Gió hướng nào thổi đến cũng thông thênh.Khoảng trời vuông trên mỗi “mái tăng” Không che được hạt mưa xiên xối xả.Đêm đầu tiên nên ai cũng lạ,Giấc ngủ chập chờn như lá rừng rơi …Anh lính gác hết đứng lại ngồi, Nghe tí tách mưa rơi trên áo bạt;Cách dăm nhà có ai khe khẽ hát. Đêm bỗng òa…Một thoáng nhớ xôn xao …Lại đằng kia có tiếng rít thuốc lào, Đêm vo lại, đỏ lừ mắt điếu.Ước gì có chiếc Hồ lô Kì diệu, Hút Đêm vào cho Lính khỏi chờ lâu…Đêm không ngủ. Là đêm rất sâu, Lính hóm hỉnh nghĩ ra đủ chuyện. Đứa thì bảo,Võng như hình trăng khuyết Treo giữa rừng và thức với ngàn cây.Đứa thì bảo, Võng như con thuyền đầy, Chở hờn căm trên dòng sông cạn.Dòng sông ấy là Đường ra Mặt trận. Bao Con Thuyền mải miết vượt bằng chân…Đứa lại nói Võng như cánh cung.Đêm để ngửa, bình minh lên sẽ “úp” Còn Người Lính là mũi tên vun vút, Ph&uacutXem tiếp >>

            Dạy và học 31 tháng 8(31-08-2021)


           

          MARDI30

           

          DẠY VÀ HỌC 31 THÁNG 8
          Hoàng Kim
          CNM365 Tình yêu cuộc sốngTin nổi bật quan tâm; COVID-19 Thế giớiViệt Nam; Thế sự bàn cờ vây; Chuyển đổi số Quốc gia; Lúa cao cây Trung Quốc; Lúa siêu xanh Hòa Bình; Bill Gates học để làm; MARDI và những người bạn; Chuyện đồng dao cho em; Nghê Việt am Ngọa Vân; Thầy Tuệ Trung Thượng Sĩ; Sớm Thu thơ giữa lòng; Ngày Độc lập tại Malaysia (1957) Trinidad và Tobago (1962), Kyrgyzstan (1991). Ngày 31 tháng 8 năm 1957, Liên bang Malaya giành được độc lập từ Anh Quốc.Ngày 31 tháng 8 năm 1963, Sabah được Vương thất Anh trao quyền tự trị đã tham gia hình thành Malaysia nửa tháng sau đó, Bài chọn lọc ngày 31 tháng 8: Tin nổi bật quan tâm; COVID-19 Thế giớiViệt Nam; Thế sự bàn cờ vây; Chuyển đổi số Quốc gia; Lúa cao cây Trung Quốc; Lúa siêu xanh Hòa Bình; Bill Gates học để làm; MARDI và những người bạn; Chuyện đồng dao cho em; Nghê Việt am Ngọa Vân; Thầy Tuệ Trung Thượng Sĩ; Sớm Thu thơ giữa lòng; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-31-thang-8/

           

           

          LÚA CAO CÂY TRUNG QUỐC
          Hoàng Kim Long (điểm tin)


          Theo Thời báo Hoàn Cầu, được trích dẫn bởi
          báo Tuổi trẻ ngày 30 8 2021 và FBNC, Trung Quốc trồng thành công ‘lúa khổng lồ’ cao tới 2m. Giống lúa này thân cây cao và cứng cáp, có khả năng chống ngập úng và đất mặn, năng suất đạt 11,25-13,50 tấn/ha (750- 900 kg/ mẫu TQ, 15 mẫu TQ là 1 ha). Ông Chen Yangpiao, phó giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và phát triển lúa lai Trung Quốc chi nhánh Trùng Khánh hi vọng giống lúa này có thể trồng ở những vùng trũng ruộng ngập sâu 60-80cm, và có thể nuôi cá tôm trong ruộng lúa. Ông Viên Long Bình Lúa siêu xanh Hòa Bình từng ao ước và chia sẻ khi còn sống: “Tôi đã luôn mơ một ngày nào đó cây lúa sẽ cao như cao lương, hạt to như đậu phộng. Lúc đó chắc tôi và cộng sự sẽ ngồi dưới tán lúa, tận hưởng những ngày mát mẻ”

           

           

          LÚA CAO CÂY TRUNG QUỐC.

          Ngày 25 tháng 10 năm 2017, China’s People’s Daily cho biết Trung Quốc tạo giống lúa cao hơn đầu người cho năng suất lớn. Giống lúa có tên gọi “lúa khổng lồ” được các chuyên gia ở Viện Nông nghiệp Cận Nhiệt đới thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Trung Quốc lai tạo với hy vọng có thể cung cấp lương thực cho nhiều người hơn. Giống lúa mới được chính thức giới thiệu hôm 16/10 sau 10 nghiên cứu, có năng suất cao hơn 50% so với các giống lúa thông thường. Nhóm nghiên cứu đã trồng thử cây lúa khổng lồ và thu hoạch trên một cánh đồng nằm ở thị trấn Jinjing thuộc huyện Trường Sa, tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc. Cây lúa thân cao trung bình 1,8 mét, những cây lớn nhất cao tới 2,2 mét. Xia Xinjie, một nhà nghiên cứu trong dự án cho biết năng suất dự kiến có thể đạt trên 11,5 tấn/hecta. Số hạt có thể thu hoạch từ một gốc lúa là hơn 500 hạt. Các nhà khoa học Trung Quốc đã sử dụng một loạt công nghệ mới để tạo ra giống lúa mới, bao gồm đột biến, lai hữu tính và lai xa giữa nhiều loại lúa dại. Lúa khổng lồ có thể đem lại lợi ích lớn cho Trung Quốc, quốc gia đang phải đối mặt với tình trạng thiếu nông dân và dân số ngày càng tăng. “Lượng thóc lúa cần sản xuất thêm vào năm 2030 cao hơn 60% so với năm 1995. Hiện nay, một hecta đất trồng lúa cung cấp đủ thức ăn cho 27 người. Vào năm 2050, mỗi hecta phải đáp ứng nhu cầu lương thực cho 43 người”, Yuan Longping, nhà nông nghiệp học nổi tiếng ở Trung Quốc, nhấn mạnh trong một cuộc phỏng vấn vào tháng trước.

          Tin liên quan Lúa CLT:

           

           

          LÚA C4 TRƯỜNG ĐẠI HỌC OXFORD ANH

          Ngày 25 tháng 10 năm 2017 thông tin Lúa C4 của trường đại học Oxford năng suất tăng 50%. Các nhà khoa học làm việc trong Dự án Lúa C4 của trường đại học Oxford đã cải thiện quá trình quang hợp trong lúa gạo và tăng năng suất cây trồng, bằng cách đưa một gen ngô đơn lẻ vào lúa, tiến tới trồng lúa ‘supercharging’ tới mức hiệu quả hơn. Cây lúa sử dụng con đường quang hợp C3, trong môi trường nóng và khô ít hiệu quả hơn con đường C4 được sử dụng trong các thực vật khác như ngô và lúa miến. Gạo ‘chuyển đổi’ sử dụng quang hợp C4, năng suất sẽ tăng khoảng 50%.Các nhà nghiên cứu đã thực hiện phương pháp giải phẫu ‘proto-Kranz’ chuyển gen ngô GOLDEN2-LIKE tới cây lúa làm tăng lượng lạp lục và ty lạp thể có chức năng trong các tế bào vỏ bọc xung quanh lá. Giáo sư Jane Langdale thuộc Đại học Oxford, và nhà nghiên cứu chính về giai đoạn này của dự án lúa gạo C4 cho biết: “Nghiên cứu này giới thiệu một gen duy nhất cho cây lúa để tái tạo bước đầu tiên dọc theo con đường tiến hoá từ C3 đến C4. Đó là một sự phát triển thực sự đáng khích lệ, và thách thức bây giờ là xây dựng trên đó và tìm ra những gen thích hợp để tiếp tục hoàn các bước còn lại trong quá trình “. Thông tin chi tiết tại Đại học Oxford Tin tức & Sự kiện. xem tiếp Lúa C4 và lúa cao cây (Hoàng Kim Long điểm tin chọn lọc Cây Lương Thực Việt Nam)

           

          Philippines cho trồng đại trà gạo vàng biến đổi gene - Ảnh 1.

           

          Hạt gạo vàng biến đổi gene so với gạo trắng bình thường – Ảnh: IRRI

          GOLDEN RICE BIẾN ĐỔI GEN

          Theo Hãng tin Reuters, được trích dẫn bởi báo Tuổi trẻ
          Philippines cho trồng đại trà ‘gạo vàng’ biến đổi gene ngày 26 tháng 8 năm 2021: “Philippines là quốc gia đầu tiên trên thế giới cho phép trồng đại trà gạo biến đổi gene Golden Rice. Theo Reuters, Viện Nghiên cứu lúa gạo quốc tế (IRRI) có trụ sở tại Philippines đã hỗ trợ phát triển giống gạo vàng đặc biệt này.Trong thông báo ngày 25-8, Bộ Nông nghiệp Philippines (DA) và Viện Nghiên cứu lúa Philippines (PhilRice) xác nhận đã cấp phép an toàn sinh học cho giống Golden Rice.”Sau giấy chứng nhận an toàn sinh học, DA và PhilRice sẽ bắt đầu trồng lấy hạt giống. Thường thì quá trình này sẽ mất 3-4 vụ canh tác”, ông Ronan Zagado – một quan chức phụ trách dự án Golden Rice – cho biết thêm. Được biết giống gạo vàng đã được thử nghiệm thực địa gần một thập kỷ. Golden Rice sẽ được trồng đại trà ở các khu vực có tỉ lệ thiếu vitamin A cao vào quý 3-2022 trước khi bán rộng rãi. Philippines lên kế hoạch trồng đại trà gạo vàng từ năm 2011, nhưng phải trì hoãn vì vấp phải các phản đối và lo ngại từ người dân cũng như các tổ chức nông nghiệp. Tổ chức Hòa bình xanh (Greenpeace) nổi tiếng vì các chiến dịch chống săn bắt cá voi cũng lên tiếng phản đối quyết định của Chính phủ Philippines.Tuy nhiên, người đứng đầu PhilRice đã trấn an các lo ngại và khẳng định Golden Rice đáp ứng được các tiêu chuẩn an toàn quốc gia và quốc tế. Theo IRRI, Golden Rice đã nhận được giấy chứng nhận an toàn thực phẩm từ các cơ quan quản lý ở Úc, New Zealand, Canada và Mỹ. Hiện giống gạo này đang trải qua quá trình xem xét cuối cùng ở Bangladesh. Thực phẩm biến đổi gene từ lâu đã là một đề tài gây tranh cãi. Mục đích biến đổi gene nhằm tạo ra các loại nông sản bổ dưỡng hơn, kháng bệnh tốt hơn. Các cơ quan quản lý bác bỏ các thuyết âm mưu như thực phẩm biến đổi gene gây ung thư, ức chế hệ miễn dịch.Tuy nhiên, người tiêu dùng vẫn e dè trước loại thực phẩm này và kêu gọi các cơ quan quản lý yêu cầu nhà sản xuất dán nhãn cảnh báo thực phẩm biến đổi gene”.

           

          Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là tho-moc-tuong-hop-800-nam.jpg
          Thổ Mộc tương hợp năm 2021

           

          THẾ SỰ BÀN CỜ VÂY
          Hoàng Kim

          Chuyển đổi số quốc gia Tin nổi bật thời sự
          SARD COVI 2 Thế giớiViệt Nam. Taliban là Tiểu vương quốc Hồi giáo Afghanistan (IEA) https://youtu.be/WHeeEYprrOs những ngày qua đã giành được chính quyền trong nước này sau mấy chục năm chiến tranhthánh chiến, chống lại chính quyền Karzai được Mỹ hậu thuẫn và ISAF do NATO lãnh đạo trong chiến tranh ở Afghanistan. Taliban trước đây chỉ được ba quốc gia Pakistan, Ả Rập Xê-útCác Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất. thừa nhận, nhưng ngày nay, Trung Quốc, Nga bắt tay Taliban xây dựng chính quyền mới. Thế sự bàn cờ vây. https://youtu.be/CH4VppzT21c. Bài viết này xâu chuỗi Trung Quốc một suy ngẫmVành đai và con đường Trung Nga với Trung ÁThế sự bàn cờ vây; Đọc lại và suy ngẫm.

          Sáng kiến “Vành đai, Con đường” của Trung Quốc: 5 năm nhìn lại, tác giả Nguyễn Thu Hà, Học viện Chính trị Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh đăng trên Tạp chí Cộng sản ngày 27 tháng 3 năm 2019 theo số liệu trang Chinadaily: http://www.chinadaily.com.cn/a/201809/05/WS5b8f09bfa310add14f3899b7.html Trong 5 năm qua, sáng kiến “Vành đai, Con đường” do Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình lần đầu tiên đưa ra vào tháng 9 năm 2013 cho đến nay tuy đã đạt được nhiều thành công trên các lĩnh vực, song cũng vấp phải không ít thách thức, nhất từ các nước lớn trên thế giới. Toàn văn câu chuyện ấy được lược khảo tại đây

          Thế sự bàn cờ vây, nước Việt Nam ngày nay có quan hệ đặc biệt với Lào Cămpuchia Cu ba; quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với Trung Quốc, Nga, Ấn Độ; quan hệ đối tác chiến lược với Nhật Bản, Hàn Quốc, Tây Ban Nha; Anh ; Đức, Italy; Thái Lan, Indonesia, Singapore, Pháp; Malaysia, Philippines; Úc; New Zealand; quan hệ đối tác toàn diện với Nam Phi; Chile, Brazil, Venezuela; Argentina; Ukraina; Mỹ, Đan Mạch; Myanmar, Canada; Hungary; Brunei, Hà Lan; quan hệ đối tác lĩnh vực trước đây với Hà Lan năm 2010 về Quản lý nước và Ứng phó với biến đổi khí hậu, năm 2014 thêm Nông nghiệp và An ninh lương thực, năm 2019 quan hệ hợp tác lĩnh vực với Hà Lan đã nâng cấp thành đối tác toàn diện. quan hệ đối tác bạn hữu ‘cùng có lợi’ với Mông Cổ, Triều Tiên, các nước khác ở Đông Âu, Tây Âu, Bắc Âu, Trung Á, Tây Á, Trung Đông, Châu Phi, các chiến lược hợp tác Nam Nam, hợp tác, song phương và đa phương. Việt Nam khi nâng cấp quan hệ với các đại cường là chúng ta đang đứng giữa giao lộ có sự tính toán cân bằng nhiều lợi ích khác nhau.

          Nhớ bài học lớn
          Angkor nụ cười suy ngẫm .

          Hoàng Kim

          (*) Thế sự bàn cờ vây, tài liệu chọn đọc lại

          Việt Nam thời Biden-Harris: Phó Tổng Thống Mỹ thăm Việt Nam, Đọc bên lề chính sử tại đây; Lưu Bích viết “Đây là một cuộc dọn đường ngoạn mục để bà Harris trở thành nữ Tổng thống đầu tiên của Hoa Kỳ trong nhiệm kỳ tới khi mà Biden khó có khả năng đam đương nhiệm kỳ 2 do vấn đề sức khoẻ và tuổi tác… Biden-Harris lại đặt trọng tâm ngoại giao châu Á vào vấn đề biển Đông. Biển Đông là nơi trung chuyển hàng hoá lớn nhất từ châu Á qua Mỹ, chiếm gần 60%, qua cảng Singapore (đây cũng là lý do cả Bộ trưởng Quốc phòng và Harris đều đến thăm Singapore)“.
          Phan Chí viết “Người đàn bà Hoa Sen” “Bà Kamala Harris chắc chắn cũng là một chính trị gia mạnh mẽ nhưng lại ẩn dưới bề ngoài mềm mại rất nữ tính. Ngay tên của bà là tên một loài hoa ở Việt Nam rất được ưa chuộng là HOA SEN.Ngày 20/10/1964, một cặp đôi tại Oakland, California chào đón sự ra đời của cô con gái đầu lòng. Cô bé ấy được mẹ đặt tên là “Kamala” nhằm thể hiện niềm tự hào với quê hương Ấn Độ, vì trong tiếng Hindi thì Kamala có nghĩa là “hoa sen”, và cũng là một tên gọi khác của nữ thần Lakshmi của Ấn Độ giáo.Cha của Kamala, Donald Harris, là một nhà kinh tế học gốc Jamaica, còn mẹ của bà, Shyamala Gopalan, là một nhà nghiên cứu về ung thư gốc Ấn Độ. Cả hai đều là người nhập cư. Họ gặp gỡ nhau khi tham gia vào các cuộc biểu tình đòi quyền bầu cử cho người da màu.57 năm sau, vào ngày 21/1/2021, Kamala Harris – cô bé năm xưa giờ đã trở thành một người phụ nữ thành công trên chính trường Mỹ – tuyên thệ nhậm chức phó tổng thống, đánh một dấu mốc quan trọng trong lịch sử nước Mỹ khi đây là lần đầu tiên nền kinh tế số một thế giới có một nữ phó tổng thống da màu.Mang theo hoài bão vươn lên vị trí cao nhất trong chính trường Mỹ, bà Harris từng tuyên bố tranh cử tổng thống vào tháng 1/2019, và có lúc được coi là người dẫn đầu trong cuộc đua lựa chọn ứng viên tổng thống của đảng Dân chủ.Tuy nhiên, tháng 12/2019, Harris tuyên bố chấm dứt chiến dịch vì thiếu kinh phí. Bà tuyên bố ủng hộ ông Joe Biden trở thành ứng viên tổng thống vào tháng 3/2020. Bà Harris được coi là ứng cử viên tiềm năng vào chức tổng thống Hoa Kỳ năm 2024.“.

          

          SÁNG KIẾN “VÀNH ĐAI VÀ CON ĐƯỜNG” CỦA TRUNG QUỐC: 5 NĂM NHÌN LẠI
          Nguyễn Thu Hà
          Học viện Chính trị Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh
          Tạp chí Cộng sản ngày 27 tháng 3 năm 2019

          TCCS – Tháng 9-2013, Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình lần đầu tiên đưa ra sáng kiến “Vành đai, Con đường”. Mặc dù trong 5 năm qua, sáng kiến này đạt được nhiều thành công trên các lĩnh vực, song cũng vấp phải không ít thách thức, nhất từ các nước lớn trên thế giới.

          Về sáng kiến “Vành đai, Con đường”

          Sáng kiến ban đầu có tên là “ Một vành đai, Một con đường” (OBOR), sau này được đổi tên thành “Vành đai, Con đường” (BRI). BRI xuất phát từ mong muốn tăng cường kết nối giữa Trung Quốc và nhiều quốc gia khác trên tuyến đường từ châu Á sang châu Âu, với nội dung hướng đến 5 phương diện: chính sách, kết cấu hạ tầng, thương mại, tài chính và kết nối con người.

          BRI gồm có hai hợp phần chính: Vành đai và Con đường. “Vành đai” có nghĩa là “Vành đai kinh tế con đường tơ lụa” (Silk Road Economic Belt); “Con đường” có nghĩa là “Con đường tơ lụa trên biển thế kỷ XXI” (21st Century Maritime Silk Road). “Vành đai kinh tế con đường tơ lụa” được thiết kế với ba nhánh chính nối từ Trung Quốc qua Trung Á và Nga tới châu Âu; từ Trung Quốc qua Trung Á, Tây Á, Vịnh Péc-xích đến Địa Trung Hải; từ Trung Quốc đến Đông Nam Á, Nam Á và Ấn Độ Dương. “Con đường tơ lụa trên biển thế kỷ XXI” với nội dung cơ bản là sự phục hưng con đường tơ lụa cổ đại trên biển, nối liền hệ thống cảng biển của Trung Quốc với các cảng chính ở khu vực Đông Nam Á, Nam Á, châu Phi và châu Âu; kết hợp sự phát triển hành lang kinh tế qua Ấn Độ Dương.

          BRI được coi là một đại dự án của Trung Quốc, hay theo một số chuyên gia, đây còn là một chiến lược toàn cầu khi mà Sáng kiến này sẽ là mạng lưới kết nối các tuyến đường bộ, đường biển, đường sắt của khoảng 65 quốc gia với nhau với tổng GDP khoảng 23.000 tỷ USD, tương đương 1/3 GDP toàn cầu, liên kết 62% toàn bộ số dân thế giới. So với Kế hoạch Mác-san mà Mỹ thực hiện nhằm tái thiết châu Âu sau Chiến tranh thế giới thứ hai thì quy mô và phạm vi của BRI lớn hơn rất nhiều lần.

          Để hiện thực hóa BRI, Trung Quốc đã thành lập ba thiết chế tài chính để rót vốn cho Sáng kiến này, bao gồm Quỹ Con đường Tơ lụa (SRF) (năm 2014) với số vốn dự tính ban đầu 40 tỷ USD, Ngân hàng Đầu tư kết cấu hạ tầng châu Á (AIIB) với nguồn vốn 100 tỷ USD và Ngân hàng Phát triển mới (NDB) khởi đầu với số vốn 50 tỷ USD. Các thiết chế tài chính này sẽ cung cấp nguồn vốn cho việc xây dựng và phát triển các lĩnh vực, như điện, năng lượng, giao thông, viễn thông, xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn, cung cấp nước, các dự án bảo vệ môi trường, phát triển đô thị và dịch vụ logistic.

          BRI – sáng kiến hạ tầng mà theo Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình là nhằm thúc đẩy thương mại và phát triển kinh tế toàn cầu. Tuy nhiên theo nhận định của Trung tâm Nghiên cứu quốc phòng cấp tiến (C4ADS), sáng kiến này nhằm mở rộng ảnh hưởng chính trị, duy trì sự ổn định của khu vực và khẳng định ảnh hưởng của Trung Quốc đối với các quốc gia láng giềng thông qua BRI. Các khoản đầu tư của Trung Quốc dường như để tạo ra ảnh hưởng chính trị, giúp Trung Quốc mở rộng hiện diện quân sự và tạo ra một môi trường chiến lược có lợi cho Trung Quốc trong khu vực. Sáng kiến phản ánh tham vọng của Chính phủ Trung Quốc là phát triển “đất nước khá giả toàn diện” và thực hiện “giấc mộng Trung Hoa”, vươn lên thành cường quốc đứng đầu thế giới.

          Những kết quả đạt được

          Theo đánh giá của Chính phủ Trung Quốc, trong 5 năm triển khai Sáng kiến, BRI đã đạt được những kết quả tích cực và mang lại nhiều lợi ích thiết thực cho Trung Quốc và các nước tham gia. Sau khi hoàn thành, dự án xây dựng kết cấu hạ tầng đồ sộ này sẽ tăng cường khả năng kết nối của Trung Quốc với các khu vực khác, cả trên đất liền lẫn trên biển, mở rộng lĩnh vực thương mại và công nghệ của Trung Quốc sang các thị trường mới.

          Về thương mại, sau 5 năm thực hiện, BRI đã nhận được sự hưởng ứng tích cực và tham gia sâu rộng của hơn 100 quốc gia, vùng lãnh thổ và các tổ chức quốc tế. Tính đến tháng 4-2018, Trung Quốc đã cùng với 86 quốc gia thuộc phạm vi Sáng kiến và tổ chức quốc tế ký kết trên 100 thỏa thuận triển khai các dự án hợp tác trên nhiều lĩnh vực thuộc khuôn khổ BRI. Trung Quốc cùng với 24 quốc gia và vùng lãnh thổ, như Hàn Quốc, Pa-ki-xtan, ASEAN, Pê-ru, Chi-lê và nhiều nước khác ký 16 hiệp định thương mại tự do (FTA). Tổng kim ngạch thương mại giữa Trung Quốc với các nước dọc các tuyến BRI trong 5 năm qua đã vượt trên 5.000 tỷ USD(1). Thêm vào đó, Trung Quốc cũng đã đầu tư trực tiếp ra nước ngoài hơn 50 tỷ USD vào 53 quốc gia và vùng lãnh thổ. Chỉ tính riêng trong năm 2017, Trung Quốc đã nhập khẩu trên 666 tỷ USD hàng hóa từ các nước tham gia BRI, chiếm 25% tổng giá trị nhập khẩu của Trung Quốc, đồng thời, tổng kim ngạch thương mại giữa Trung Quốc với các nước này đã tăng ở mức kỷ lục là 14,2%. Trung Quốc đã xây dựng trên 50 khu hợp tác kinh tế, thương mại tại khoảng 20 nước tham gia BRI, giúp các nước tăng nguồn thu thuế, thu nhập thêm 1,1 tỷ USD và tạo 180.000 việc làm mới.

          Về việc sử dụng các thiết chế tài chính chuyên biệt cho BRI, theo một cuộc khảo sát về các nền kinh tế mới nổi và đang chuyển đổi, các tổ chức tài chính của Trung Quốc, như SRF hay AIIB, tạo động lực thúc đẩy quan trọng cho đa số các nước tham gia BRI nhiều hơn các tổ chức tài chính của chính các nước đó, thậm chí còn nhiều hơn cả Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) hay các tổ chức tài chính quốc tế khác. Tính đến tháng 6-2018, đã có 86 quốc gia trở thành thành viên của AIIB. Theo báo cáo công khai thường niên của AIIB, trong năm 2017 tổng số vốn đã cấp và đợi phê duyệt mà AIIB đã triển khai là 4,22 tỷ USD cho 12 dự án, tăng thêm 5 dự án so với năm 2016. So với ADB, IMF, WB – đều chịu sự kiểm soát của Mỹ và chậm cải cách – thì AIIB là một lựa chọn phù hợp cho cả các nước thành viên và các nước nhận đầu tư.

          Về các dự án kết cấu hạ tầng, Trung Quốc đẩy mạnh đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng ra bên ngoài, trong đó có dự án đường sắt và các cảng biển.

          Về đường sắt, Theo trang The Diplomat (Nhật Bản), Trung Quốc sẽ xây dựng 81.000km đường sắt cao tốc đi qua các quốc gia tham gia BRI – nhiều hơn tổng chiều dài đường sắt cao tốc trên thế giới hiện nay và đã tuyên bố kế hoạch chi 35.000 tỷ nhân dân tệ (tương đương 503 tỷ USD) để mở rộng mạng lưới đường sắt quốc gia vào năm 2020 với tổng số hơn 30.000km, kết nối 80% các thành phố lớn ở Trung Quốc. Các dự án tiêu biểu mà Trung Quốc đang thực hiện, như dự án đường sắt Môm-ba-sa – Nai-rô-bi của Kê-ni-a với tổng chiều dài khoảng 2.700km, trị giá 3,8 tỷ USD, hoàn thành năm 2017, đã giúp người dân nước này giảm thời gian đi từ ga đầu Môm-ba-sa tới ga cuối – Thủ đô Nai-rô-bi chỉ còn 5 giờ đồng hồ thay vì 10 giờ đồng hồ như trước; tuyến đường sắt Viên-chăn – Bô-ten dự kiến hoàn thành vào năm 2021 với tổng chi phí lên đến 7,2 tỷ USD; dự án đường sắt cao tốc Gia-các-ta – Băng-đung tại In-đô-nê-xi-a có tổng chiều dài 142km với tổng vốn đầu tư là 5,13 tỷ USD.

          Về dự án cảng biển, tính đến hết năm 2017, Trung Quốc đã đầu tư một phần hoặc giành được quyền kinh doanh, vận hành trong dài hạn với 76 cảng biển trên toàn thế giới. Trung Quốc không chỉ đầu tư vào các cảng lớn mà còn tìm cách kinh doanh vận hành nhiều cảng nhỏ trên toàn thế giới. Các dự án cảng biển tiêu biểu, như dự án cảng Goa-đa (Gwadar) ở Pa-ki-xtan, dự án cảng Cô-lôm-bô ở Xri Lan-ca, dự án cảng Pi-ra-ớt (Piraeus) ở Hy Lạp và rất nhiều dự án khác.

          Về kết nối con người, Trung Quốc đã đạt được rất nhiều thành tựu trong trao đổi văn hóa và dân tộc giữa Trung Quốc và các nước tham gia BRI. Trung Quốc đã và đang xúc tiến trao đổi văn hóa và dân cư với các nước dọc theo BRI. Kể từ năm 2014, chương trình đào tạo chuyên gia về tội phạm học trẻ do Bộ Văn hóa và Du lịch tổ chức đã mời được 360 chuyên gia về tội phạm từ 95 quốc gia, Trung Quốc đã thành lập 16 trung tâm văn hóa ở các nước tham gia BRI, tổ chức hơn 1.600 sự kiện văn hóa. Trung Quốc đã đạt được thỏa thuận hợp tác sản xuất phim với 21 quốc gia và khu vực tham gia BRI. Ngày 17-10-2018 để kỷ niệm 5 năm thực hiện tăng cường kết nối người dân, Trung Quốc đã thực hiện cuộc triển lãm ảnh được tổ chức tại các đại sứ quán, trung tâm văn hóa và các tổ chức ở những nước tham gia.

          Mặc dù đạt được những bước tiến hướng tới các mục tiêu dài hạn mà Trung Quốc đặt ra, nhưng BRI cũng vấp phải không ít khó khăn, khiến nhiều dự án chậm trễ và thậm chí thất bại. Xét quy mô đồ sộ của BRI với nhiều dự án lớn, việc trì hoãn, hủy bỏ hay thất bại cũng là những việc đã được tính đến. Những nguyên nhân dẫn đến sự chậm trễ (trong một số trường hợp là do sự hoài nghi và phản đối nhằm vào các mục tiêu chiến lược của Trung Quốc gia tăng) sẽ tiếp tục góp phần định hình sự phát triển trong tương lai của Sáng kiến.

          Những trở ngại khi thực hiện Sáng kiến

           

          Những khó khăn nội bộ

           

          Tham vọng của Trung Quốc trong BRI ngày càng bị hạn chế bởi các phương pháp tiếp cận và mục tiêu chiến lược riêng của nước này. Mặc dù BRI đã đạt được thành công lớn ở các nước đang phát triển, nhưng những thách thức về khả năng tài chính và bất ổn chính trị ở các nước tiếp nhận đầu tư đã nhiều lần gây ra sự chậm trễ, thậm chí là hủy bỏ các khoản đầu tư, như một số dự án giao thông và năng lượng ở Ca-dắc-xtan, Băng-la-đét, Mi-an-ma và Pa-ki-xtan.

          Tham nhũng và bất ổn chính trị tại một số quốc gia tham gia BRI không chỉ khiến các dự án thuộc BRI bị đưa ra phán xét mà còn bị chậm trễ. Và chính Trung Quốc cũng phải gánh chịu những khoản nợ do tình trạng trên gây ra.

          Cuối cùng, sự “nhiệt tình” lôi kéo các nước của Trung Quốc đã tạo cho các nước này lợi thế khi họ cố giành các khoản đầu tư từ các đối thủ của Trung Quốc. Các nước, như Thái Lan, In-đô-nê-xi-a và một số quốc gia Nam Á có thể khuyến khích Nhật Bản và Ấn Độ cạnh tranh với Trung Quốc trong các dự án đường sắt và thủy điện để ngăn cản mục tiêu của Trung Quốc trở thành nước có ảnh hưởng nhất trong khu vực.

           

          Ngoại giao “bẫy nợ” của Trung Quốc

           

          Không giống Kế hoạch Mác-san (chủ yếu là cung cấp các khoản tài trợ), việc đẩy mạnh đầu tư kết cấu hạ tầng của Trung Quốc phụ thuộc rất nhiều vào các khoản vay. Theo tờ The New York Times, các khoản vay này thường có lãi suất cao hơn các khoản vay từ các nhà tài trợ lớn khác. Và các khoản vay từ các ngân hàng nhà nước Trung Quốc cuối cùng có thể khiến các nước trở nên phụ thuộc hơn khi họ buộc phải bàn giao các cảng, đường sắt, đường bộ và các mạng lưới thông tin liên lạc thiết yếu để thoát khỏi những khoản nợ khổng lồ của các công ty cho vay và các công ty Trung Quốc.

          Trung Quốc có nhiều lý do để tập trung vào các quốc gia đang phát triển nhưng có vị trí chiến lược quan trọng. Chính các nước đang phát triển, trong đó có nhiều nước có nền tảng kinh tế yếu và năng lực điều hành của chính phủ không hiệu quả, đã nhiệt tình hưởng ứng BRI. Trong những quốc gia này, có 11 quốc gia được Liên hợp quốc xác định là nước kém phát triển nhất thế giới. Các nước này thiếu hệ thống kết cấu hạ tầng nên mong muốn tránh các khoản hỗ trợ tài chính gắn với nhiều yêu cầu, ràng buộc của các tổ chức phương Tây. Vì cách tiếp cận tài trợ của Trung Quốc nhấn mạnh vào việc không can thiệp và nói chung là vô điều kiện, không phân biệt chế độ nên Trung Quốc đã có được quyền tiếp cận và nhận được sự thiện chí nhiều hơn so với các nước phương Tây. Phương pháp của Trung Quốc là lôi kéo những quốc gia nhỏ hơn này vào khuôn khổ BRI, qua đó tận dụng các vị trí chiến lược của họ và cân bằng quyền lực với các nước lớn trong khu vực, như Nga, Ấn Độ và Liên minh châu Âu (EU).

          Sự hỗ trợ cho vay trong các dự án chiến lược quan trọng cũng gia tăng mức độ ảnh hưởng của Trung Quốc. Trong khi đó, các nước tham gia BRI lo lắng về khả năng đó là một “cái bẫy nợ”, từ đó Trung Quốc có thể nắm giữ quyền kiểm soát quá mức đối với nền kinh tế của đất nước họ.

          Xri Lan-ca và Pa-ki-xtan đều đang đối mặt với việc trả nợ và các cuộc đàm phán tài chính, phải ký kết thỏa thuận cho thuê đất “làm tài sản bảo đảm nợ” với các công ty Trung Quốc. Tại Xri Lan-ca, cảng Ham-ban-tô-ta hiện được cho thuê trong 99 năm, trong khi các khu vực quanh cảng Goa-đa ở Pa-ki-xtan được cho thuê trong 43 năm. Đối với các nước khác có nợ nước ngoài cao hoặc phụ thuộc quá nhiều vào đầu tư trực tiếp, Trung Quốc đã sử dụng hình thức giảm nợ hoặc các hình thức hỗ trợ khác, như ký kết các hợp đồng dài hạn về việc mua bán tài nguyên thiên nhiên hoặc dầu mỏ để bù đắp cho các khoản vay. Chính vì vậy, ngày càng nhiều suy đoán rằng liệu Trung Quốc có sử dụng lợi thế tài chính của mình tại các cảng nước sâu chiến lược ở các nước để giành lợi thế trong các tuyến vận chuyển ở Ấn Độ Dương hay không?

           

          Phản ứng từ các cường quốc khác

           

          Mặc dù một trong những mục tiêu mà Trung Quốc tuyên bố là thúc đẩy hội nhập Âu – Á thông qua BRI, nhưng cho đến nay, Sáng kiến này tập trung vào các nước đang phát triển, đặc biệt là các nước vùng Trung Âu, Đông Âu, Nam Á, Đông Nam Á và Trung Á, mà chưa thu hút được các quốc gia phát triển như Nhật Bản hay các nước lớn ở châu Âu. Xét cho cùng, dù các nước này có thể chia sẻ lợi ích thương mại với Trung Quốc, nhưng họ vẫn rất dè chừng, thậm chí còn hoài nghi rằng đó là phương tiện để Trung Quốc tăng khả năng cạnh tranh của mình và là “chương trình nghị sự” để Trung Quốc mở rộng chiến lược trên toàn cầu.

          Ngoài những lo ngại từ các quốc gia đang phát triển, các “đối thủ chiến lược” của Trung Quốc cũng như các nước phát triển, đặc biệt là Mỹ vẫn duy trì, thậm chí ngày càng phản kháng mạnh mẽ đối với Sáng kiến này.

          Là đối trọng lớn nhất của Trung Quốc, Mỹ cùng một số đồng minh, đối tác khác đang điều chỉnh chính sách, thực hiện các chiến lược dài hạn của mình, trong số đó sẽ có những chính sách, chiến lược tác động đến hành lang dọc theo BRI. Mặc dù tại các cuộc gặp gỡ song phương, Trung Quốc và Mỹ đã đạt được sự đồng thuận về việc “xây dựng quan hệ nước lớn kiểu mới Trung Quốc – Mỹ”, tuy nhiên hai nước vẫn liên tục có sự va chạm, và mất đi lòng tin chiến lược. Tháng 7-2018, Mỹ đã “khai hỏa” cuộc chiến thương mại giữa hai nền kinh tế lớn nhất thế giới, chính thức tiến hành áp thuế 25% lên 34 tỷ USD đối với hàng hóa nhập từ Trung Quốc. Cuộc chiến thương mại này sẽ gây khó khăn không nhỏ đối với Trung Quốc vì sẽ làm cho Xem tiếp >>

            Dạy và học 30 tháng 8(30-08-2021)


           

          DẠY VÀ HỌC 30 THÁNG 8
          Hoàng Kim

           

          CNM365 Tình yêu cuộc sốngNắng gió lành thuốc quý; Minh triết cho mỗi ngày; Tiếng Việt thuyền và biển; Tiếng Việt lung linh sáng; Tỉnh thức cùng tháng năm; Cẩn trọng giữ sức khỏe; Mình về thăm nhau thôi; Biết câu có câu không; Hiểu sách nhàn đọc giấu, Bài ca yêu thương; Sắn Việt Nam và Kawano; Vietnamese cassava today; Bảo tồn và phát triển. Ngày 30 tháng 8 là Ngày Hiến pháp tại Kazakhstan. Ngày 30 tháng 8 năm 1917 Khởi nghĩa Thái Nguyên ở Bắc Kỳ của lính khố xanh người Việt do Trịnh Văn Cấn chỉ huy chống lại thực dân Pháp, sau đó làm chủ tỉnh lị. Ngày 30 tháng 8 năm 1984 Tàu con thoi Discovery trong Chương trình tàu con thoi, khởi hành chuyến đi đầu tiên của nó từ Trung tâm vũ trụ Kennedy, Florida. Bài chọn lọc ngày 30 tháng 8 Nắng gió lành thuốc quý; Minh triết cho mỗi ngày; Tiếng Việt thuyền và biển; Tiếng Việt lung linh sáng; Tỉnh thức cùng tháng năm; Cẩn trọng giữ sức khỏe; Mình về thăm nhau thôi; Biết câu có câu không; Hiểu sách nhàn đọc giấu, Bài ca yêu thương; Sắn Việt Nam và Kawano; Vietnamese cassava today; Bảo tồn và phát triển. Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.comhttp://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-30-thang-8/

           

           

          NẮNG GIÓ LÀNH THUỐC QUÝ
          Hoàng Kim

          Thung dung cùng với cỏ hoa
          An nhiên đèn sách, nhẫn nha dọn vườn
          Gió lành nắng mới sương tan
          Măng tre lộc trúc thanh nhàn tháng năm.

           

           

          Giáo sư Mai Văn Quyền nêu câu hỏi “Ngẫu nhiên hay quy luật ?”; tiến sĩ bác sĩ Nguyễn Đỗ Ngọc Linh trao đổi ” Tản mạn về virus Corona“, chị Trần Thường Nga nhắn tin “Không khí trong lành và ánh nắng mặt trời, “thuốc kháng sinh” tự nhiên“; xin lưu chung tại “Nắng gió lành thuốc quý” để “Đọc lại và suy ngẫm” .

          Các lời khuyên phòng bệnh COVID tiến sĩ bác sĩ Nguyễn Đỗ Ngọc Linh: Ngoài các thuốc theo phác đồ của Bộ y tế và các phác đồ quốc tế, nên áp dụng các biện pháp không dùng thuốc để hỗ trợ:- Ngồi thiền mỗi ngày có thể giúp cho chúng ta giữ được sự bình thản, tăng sức đề kháng, giảm stress và vì thế phòng ngừa phần nào những tác hại của virus.- Tập thở tích cực: Ra ngoài sân thoáng (không nên ngồi trong phòng kín). Hít thở bằng miệng, mở miệng ra để thở. Hít vào thật sâu, hai tay giơ lên, cúi xuống thở ra hai tay đưa xuống, khi đến gần cuối thì thở ra, thì thở hắt mạnh ra để đẩy nốt phần khí cặn trong phổi ra.- Súc miệng nước muối hàng ngày và tránh không để cho cổ họng bị khô.- Tập thể dục mỗi ngày.- Mở cửa để không khí lưu thông thông thoáng cho nơi ở.- Trong trường hợp không may bị nhiễm virus, có thể xông các loại lá có tinh dầu: đun sôi lá sả, chanh, vỏ bưởi, hoa cứt lợn, lá bạc hà, lá tía tô… ngày 2 lần, nếu thấy khó thở thì có thể xông nhiều hơn 3-4 lần. Vùng miền nào có các loại lá có tinh dầu đều có thể dùng được hết. Khi nước đã sôi già, khi chuẩn bị xông, bỏ vài giọt dầu gió vào nồi và xông, khi đó hơi bốc lên cùng với dầu gió làm tăng hiệu quả xông. Hoặc chỉ đun nóng nước rồi cho dầu vào nếu không có cây lá tinh dầu.- Ăn uống: Cố gắng tìm mọi cách ăn uống đầy đủ trong hoàn cảnh của mình. Một số gợi ý thêm: Nước đậu đeno Nước lá tía tô giúp giải cảm rất tốt. Uống như trà, có thể thay nước lọc. Nước gừng, chanh, sả, mật ong cũng rất tốt.- Và cuối cùng, Yếu tố tinh thần là quan trọng nhất.

          Bài viết cùng chủ đề:

           

          Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là tieu-ngao-voi-lan-hoa-hoc-thai-at-than-kinh.jpg

           

          TIẾU NGẠO VỚI LAN HOA
          Hoàng Kim


          Ngày xuân đọc Trạng Trình
          Học Thái Ất Thần Kinh
          Đùa vui cùng Thuận Nghĩa
          Tiếu ngạo với
          Lan Hoa

          *

          Nhớ hôm trước qua rừng thiêng cổ tích
          Gặp Lan Hoa chuỗi ngọc kết Càn Khôn
          Đá năng lượng người tâm thành trao tặng
          Lịch Việt Thường ta phước đức dùng luôn.

          Nhậm Thái Ất trung cung kỳ Ngũ Phúc
          Tâm Thần Cơ địa ất đại du Cầm
          Vui nhị thập nhân duyên theo nghề ruộng
          Mừng thời trời tiết khí lịch nhà nông.

          Luân xa mở những điều hay đáng học
          Minh triết mỗi ngày, con mắt thứ ba
          Dạy và học suốt đời chăm chí thiện
          Thái Ất Thần Kinh Thiên Địa Nhân Hòa

          ĐÙA VUI CÙNG THUẬN NGHĨA
          Hoàng Kim

          Ta về lại thăm rừng xưa Thuannghia
          Chuyện cùng Lão Phu đàm đạo Thần Thông
          Thập nhị nhân duyên mười hai tuyệt kỹ
          Khả năng thích nghi năng lực siêu phàm

          Tha tâm thông hiểu hành vi người khác
          Thiên nhãn thông nhìn thấu suốt nơi xa
          Thiên nhĩ thông nghe những lời kín tiếng
          Khinh công thông nhanh gió dục mây vần

          Thủy thượng phiêu lướt bay trên mặt nước
          Tâm thức chuyển di thoắt ở thoắt về
          Huyền nhiệt luyện ngọn lửa thiêng Tam muội
          Lôi hỏa điện thân phát điện ngàn vôn

          Thiết bố sam luyện mình đồng, thân sắt
          Sư tử hống tiếng gầm chúa sơn lâm
          Truyền âm nhập mật thâm sâu thấu tỏ
          Năng lực thích nghi bí ẩn sinh tồn

          Ta chợt thấu những chuyện đời khó giải
          Tình thế Biển Đông tiến thoái lưỡng nan
          Mèo vờn chuột thuận thiên và kế hiểm
          Bức tranh nhân gian thiện ác khó bàn.

          Ta về lại rừng xưa cùng Thuannghia
          Gặp Lão Phu múa gậy dưới trăng rằm
          Thuận thời Càn Khôn, Hàm Hằng chính đạo
          Kí Tế xong rồi, Vị Tế chưa xong …

          Thích Tiếu Ngạo Giang Hồ qua bể ái
          Cưỡi hạc tung tăng chơi chốn Bồng Lai
          Thung dung cuộc đời, thảnh thơi trời đất
          Vô sự an nhàn sống giữa thiên nhiên.

          Thích cùng lão
          dạo chơi VÔ PHƯƠNG CÚ
          Dấu chân hoang
          Thong thả lạc non ngàn
          Chẳng e ngại chông chênh hay tâm bão
          Bởi tâm hồn tĩnh lặng thật an nhiên

          Hoa của Đất
          duyên may còn sức khỏe
          Nẻo Âm Dương xin Bụt ước ba điều
          Con và cháu
          thêm ba nguồn trí huệ
          Ngọc cho đời
          Thành Phước Đức cho Dân

          Tâm an định
          nên lòng không vướng bận
          trí an hòa xử thế thật thung dung
          khi kho báu
          trong lòng ta đã rõ
          chẳng Ưu Tư mặc gió dục mây vần

          dẫu như vậy
          đôi khi bâng khuâng hỏi
          cửa Thần Phù
          khéo giữ trọn đường tu
          lênh đênh nước
          lênh đênh con thuyền nhỏ
          chốn nhân gian ước được thế nhân phù.

          những lúc ấy
          mới hay duyên tiền định
          trong thâm tâm
          mới tỏ sự luân hồi
          luật Nhân Quả
          lật Sách Trời gạn hỏi
          Mới hiểu đời học mãi vẫn chưa thôi

          Vô Phương Cú
          Câu thơ thần tĩnh lặng
          Vòm trời xanh
          thăm thẳm một thinh không
          Ta chợt ngộ
          Ban mai chào trước ngõ
          Bình minh lên
          Trời đất thật VÔ CÙNG…

          Sách “VĂN HÓA ĐÔNG -TÂY” của GS Nguyễn Hoàng Phương nói gì ?
          Phan Lan Hoa 7. 2. 2020 lúc 10:57

          Sách “Văn hóa Đông Tây” của GS Nguyễn Hoàng Phương là nội dung tích hợp tất tần tật từ Ngũ hành – Bát quái – Dịch số – Thái ất thần kinh – và một số nội dung của phương Tây tương ứng. Trong đó nói gi?

          – Năm 2020: Ngũ phúc ở Trung cung (Tí – Mẹo – Ngọ – Dậu) ở kỳ Lý Thiên. Lý Thiên là do Trời hành Đạo. Một hệ thống sao Thái Ất bao gồm chính tinh và phụ tinh. Lê Quý Đôn luận giải sách Trạng Trình cũng cho rằng: Hệ thống sao Thái Ất rọi vào nước vua có Đạo thì nước Thịnh; rọi vào nước vua bất Đạo thì suy.

          – Chủ toán 24 / Khách toán 25: Chủ toán gặp số Vô địa. Ngôi sao này đang ở quẻ Ly, bất lợi cho người cầm quân phương Nam.

          – Khách tham tướng – Khách Đại tướng : đồng cung phương Bắc. Năm sau hai ngôi sao này vẫn đồng cung, nghĩa là tranh chấp quyền lực chưa chấm dứt được ở năm này, còn xảy tới năm sau.

          – Có điều buồn cười là theo cách an sao của Trạng Trình và cách lý giải của Lê Quý Đôn, thì Quân cơ năm 2020 chả phải là vua trong nước ? Thần cơ chả phải là tướng đương nhiệm? Nghĩa là quyền lực không nằm trong tay người được phong. Quân cơ trở thành ngôi sao lẻ loi, ẩn dật dưới sự theo dõi của sao Thủy Kích.

          – Đại Du Thái Ất ở phương Đông: Trạng Trình nói khi Đại du Thái Ất đồng cung với Ngũ phúc, thì Phúc do Ngũ phúc đem đến bị giảm một nửa. Đồng cung phương Đông có Thiên Cầm là ngôi sao Pháp sư. Khi tôi gieo quẻ Dịch thì gặp quẻ Tụng. Liệu các nước có biển Đông bị lấn chiếm có đủ bản lĩnh để đưa phương Bắc ra tòa hay không ? Xảy ra trong năm này. (Ghi chú: Quẻ Dịch tôi gieo không dùng để phán xấu tốt, mà dụng để xem xét hướng giải quyết ạ). Đại Du Thái Ất vào các năm 10,20,30, sách nói bất lợi cho quân lính và nhân dân.

          – Cuối cùng là hệ Nhị Thập Bát Tú: năm nay sao Tất, sách nói : “chinh phạt binh lính ngoài biên cương”

           

           

          MÌNH VỀ THĂM NHAU THÔI
          Hoàng Kim

          Mình về thăm nhau thôi
          không thể chờ nhau mà hóa đá.

          Nơi ấy
          khắc khoải
          một niềm thương
          thật lạ
          ta như con trẻ
          kiếm tìm nhau
          suốt cuộc đời này.

          II

          Mình về thăm nhau thôi
          Nơi ấy
          vùng cổ tích hoang sơ
          hoa gạo đỏ
          tháng Ba
          lúa xuân thì
          mơn mởn.

          Nơi ấy
          líu ríu
          mưa xuân
          ngôi đền thiêng
          trấn quốc
          bóng chùa
          non nước ngân nga.

          Nơi ấy
          không lo toan
          không quay cuồng
          không bộn bề
          mọi khó nhọc bỏ qua
          chỉ ngọt lịm
          hương trời hương đất.

          Nơi ấy
          biển trời
          xanh tím
          ngẫn ngơ đời

          khát khao xanh.

          III

          Mình về thăm nhau thôi
          Thương hoài Tương Tiến Tửu
          Ai áo cừu ngàn vàng
          Đưa ra đem đổi rượu?

          Ai tri kỷ thân thiết
          Mang mang đi trong đời
          Ai là người tỉnh thức
          Mai Hôm vầng trăng soi

          Anh Hai xưa đã khuất
          Trăng soi “Cuốc đất đêm”
          Anh Tư nay lớn tuổi
          Đau “Mảnh đạn trong người”

          Chú Út ngày tảo mộ
          Về làng chật quân nhân
          Thương các đêm đói ngủ
          Nhớ những ngày hành quân.

          Qua thuở đầy gian lao
          Mừng non sông một dãi
          Vui trường xưa trở lại
          Bùi ngùi chuyện mất còn

          IV

          Ta “Về với ruộng đồng”
          Mãi mê cùng năm tháng
          Giã từ thời cầm súng
          Học lại nghề làm nông.

          Thương hạt ngọc trắng trong
          Dãi dầu bao mưa nắng
          Dẻo thơm chén cơm ngon
          Lắng mồ hôi hạn mặn

          Minh triết sống phúc hậu
          Thanh thản và an vui
          Chia may rủi ở đời
          Chẳng màng chi danh vọng

          V

          Trạng Trình xưa vui sống
          An nhàn vô sự tiên
          Ai thương núi nhớ biển
          Hoa Đất thương lời hiền

          Lúa đồng xuân vàng óng
          Nắng thái dương lam trời
          Mưa phương Nam mát đất
          Người và cây xanh thôi.

          (**) Vui đùa
          Hoàng Đình Quang
          Thơ không màng đoạt giải

          EM Ở NƠI NÀO
          Hoàng Đình Quang

          Em ở nơi nào trong nỗi nhớ của anh
          Dù đi hết một mùa đầy gió bão
          Vẫn không thể đến bầu trời huyền ảo
          Tưởng đã gần hơn, mà xa thẳm mịt mù.

          Anh biết mỗi người còn có một mùa thu
          Mùa thu em không có anh trong đó
          Dù chiếc lá gói bầu trời bé nhỏ
          Đã làm rơi bông hoa tím cuối cùng.

          Mùa chia tay nhìn bóng đứng triền sông
          Người ngoảnh lại nhớ người không ngoái lại
          Hoa rạo rực suốt một thời con gái
          Anh trở về say đắm một mình anh.

          Biết cầm tay rồi dừng lại không đành
          Mỗi chuyến đi xa lại phải lòng người lạ
          Ai bất chợt hát một mình trong lá
          Lại ngỡ mình đang hát với mùa thu!

          8-2013

          xem tiếp tại đây

           

          Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn chi đồ năm 1363, bức họa Phật Hoàng Trần Nhân Tông do Trần Giám Như vẽ

           

          BIẾT ‘CÂU CÓ CÂU KHÔNG’
          Hoàng Kim

          Đêm Yên Tử  rừng trúc thăm thẳm huyền thoại, vững chãi cây tre Việt Nam ngoan cường, như Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn chi đồ năm 1363, bức họa Phật Hoàng Trần Nhân Tông do Trần Giám Như vẽ, trôi nổi trong nhân gian, như Nghê Việt ẩn tàng sức mạnh văn hóa Việt.

           

           

          Vị Thiền sư Trúc Lâm Yên Tử hỏi và tôi trả lời: “- Người đi đâu tối qua? – Con trở về tự thân. – Người thấy gì đêm thiêng? – Con ngộ khi ngày mới. Đêm Yên Tử là bài học lớn. Tình yêu cuộc sống thật kỳ diệu. Nghê Việt là rồng thiêng ẩn ngữ. Sách Nhàn đọc dấu lúc có lúc không”. Yên Tử là hình ảnh không lời. Trúc Lâm Yên Tử là tìm lại chính mình.

           

           


          Hữu cú vô cú -有句無句- của Trần Nhân Tông
          Nguyên văn chữ Hán phiên âm Hán Việt

          有句無句,Hữu cú vô cú,
          藤枯樹倒。Đằng khô thụ đảo.
          幾個衲僧,Kỷ cá nạp tăng,
          撞頭嗑腦。Chàng đầu hạp não,
          有句無句,Hữu cú vô cú,
          體露金風。Thể lộ kim phong.
          兢伽沙數,Căng già sa số.
          犯刃傷鋒。Phạm nhẫn thương phong.
          有句無句,Hữu cú vô cú
          立宗立旨。Lập tông lập chỉ.
          打瓦鑽龜,Đả ngõa toàn quy,
          登山涉水。Đăng sơn thiệp thủy.
          有句無句,Hữu cú vô cú,
          非有非無。Phi hữu phi vô.
          刻舟求劍,Khắc chu cầu kiếm,
          索驥按圖。Sách ký án đồ.
          有句無句,Hữu cú vô cú,
          互不回互。Hỗ bất hồi hỗ.
          笠雪鞋花,Lạp tuyết hài hoa,
          守株待兔。Thủ chu đãi thố.
          有句無句,Hữu cú vô cú,
          自古自今。Tự cổ tự kim.
          執指忘月,Chấp chỉ vong nguyệt,
          平地陸沉。Bình địa lục trầm.
          有句無句,Hữu cú vô cú,
          如是如是。Như thị như thị.
          八字打開,Bát tự đả khai,
          全無巴鼻。Toàn vô ba tị.
          有句無句,Hữu cú vô cú,
          顧左顧右。Cố tả cố hữu.
          阿刺刺地,A thích thích địa,
          鬧聒聒地。Náo quát quát địa.
          有句無句,Hữu cú vô cú,
          忉忉怛怛。Điêu điêu đát đát.
          截斷葛藤,Tiệt đoạn cát đằng,
          彼此快活。Bỉ thử khoái hoạt.

          —- DỊCH NGHĨA
          Câu hữu câu vô,
          Như cây đổ,
          dây leo héo khô.
          Mấy gã thầy tăng,
          Đập đầu mẻ trán.
          Câu hữu câu vô,
          Như thân thể lộ ra trước gió thu.
          Vô số cát sông Hằng,
          Phạm vào kiếm,
          bị thương vì mũi nhọn.
          Câu hữu câu vô,
          Lập công phái, ý chỉ.
          Cũng là dùi rùa, đập ngói,
          Trèo núi lội sông.
          Câu hữu câu vô,
          Chẳng phải hữu, chẳng phải vô,
          Khác nào anh chàng khắc mạn thuyền mò gươm,
          Theo tranh vẽ đi tìm ngựa ký.
          Câu hữu câu vô,
          Tác động qua lại với nhau.
          Nón tuyết giày hoa,
          Ôm gốc cây đợi thỏ.
          Câu hữu câu vô,
          Từ xưa đến nay,
          Chỉ chấp ngón tay mà quên vầng trăng,
          Thế là chết đuối trên đất bằng.
          Câu hữu câu vô,
          Như thế như thế!
          Tám chữ mở ra rồi,
          Hoàn toàn không còn điều gì lớn nữa.
          Câu hữu câu vô,
          Quay bên phải, ngoái bên trái.
          Thuyết lý ầm ĩ,
          Ồn ào tranh cãi.
          Câu hữu câu vô,
          Khiến người rầu rĩ.
          Cắt đứt mọi duyên quấn quýt như dây leo,
          Thì hữu và vô đều hoàn toàn thông suốt.

          Nguồn:
          Wikisource 
          xem tiếp
          hình ảnh và thông tin tại đây

           

           

          HIỂU ‘SÁCH NHÀN ĐỌC GIẤU
          Hoàng Kim

          Kinh Dịch xem chơi,

          365 ngày
          mê mãi.
          Sách Nhàn đọc giấu,
          câu có câu không.

          Nhà Trần trong sử Việt
          Trúc Lâm Trần Nhân Tông
          Trước đèn bảy trăm năm,
          thăm thẳm một tầm nhìn.

          *

          1
          “Câu hữu câu vô,
          Quay bên phải, ngoái bên trái.
          Thuyết lý ầm ĩ,
          Ồn ào tranh cãi.
          Câu hữu câu vô,
          Khiến người rầu rĩ.
          Cắt đứt mọi duyên quấn quýt như dây leo,
          Thì hữu và vô đều hoàn toàn thông suốt”.
          2.
          Kinh Dịch xem chơi
          Yêu TÍNH SÁNG yêu hơn châu báu>
          Sách Nhàn đọc giấu
          Trọng LÒNG NGƯỜI trọng nữa hoàng kim”
          3.
          “Ở đời vui đạo thả tùy duyên
          Đói cứ ăn đi , mệt ngủ liền
          Kho báu trong nhà thôi tìm kiếm
          Vô tâm đối cảnh hỏi chi thiền”

          (Trúc Lâm Trần Nhân Tông)

          “Sách nhàn đọc dấu câu CÓ câu KHÔNG”. Thời nhà Tùy, sách vở chưa có dấu chấm câu. Bình thường vì không có dấu chấm nên một câu văn thường xuất hiện nhiều loại nghĩa khác nhau. Trịnh Ngôn Khánh đọc Luận Ngữ đành sắp xếp lại đặt dấu câu vào trong đó. “Soán Đường là sách mới của tác giả Canh Tân trên trang đọc truyện online. Sống trong thời loạn thế, thân thế khó bề phân biệt. Trong lòng ta không hướng tới phú quý nhưng không biết vì sao phú quý lại liên tục xuất hiện. Đây là một câu chuyện một người hiện đại xuyên Việt về Tùy Đường“. Hoàng Kim đọc chơi trang sách, chợt dưng lại nhớ về đời Trần và đức Nhân Tông “Đường Trần ta lại rong chơi. Vui thêm chút nữa, buồn thôi lại về“. “Sách nhàn đọc dấu câu CÓ câu KHÔNG”, “giấu” hay là “dấu” đây?

          Hiểu ‘sách nhàn đọc giấu là bài 6, trong 14 ghi chú (Notes) YÊN TỬ TRẦN NHÂN TÔNG của Hoàng Kim gồm bài 1 Ngọc Phương Nam , bài 2 Lên non thiêng Yên Tử, bài 3 Trúc Lâm Trần Nhân Tông, bài 4 Lời dặn của Thánh Trần, bài 5 Thầy Tuệ Trung Thượng Sĩ, bài 6 Hiểu ‘sách nhàn đọc giấu, bài 7 Biết ‘câu có câu không, bài 8 Nghê Việt am Ngọa Vân, bai 9 Tảo Mai nhớ Nhân Tông, bài 10 Nhà Trần trong sử Việt, bài 11 Ân tình Đất Phương Nam, bài 12 Nhân Tông Đêm Yên Tử, bài 13 Hoa Đất thương lời hiền, bài 14 Yên Tử Trần Nhân Tông

           

           

          BÀI CA YÊU THƯƠNG
          Hoàng Kim

          Thương nước biết ơn bao người ngọc (1)
          Vì dân qua bến nhẹ tênh lòng
          Nhớ bao tài đức đời thanh thản
          Ân tình lưu dấu những dòng sông.

          “Mây núi nào không bay cạnh núi,
          Sóng nào chẳng ở chốn xa khơi.” (2)
          Ban mai nắng hửng Tiên Sơn đẹp
          Vàng sáng trời quang Biển Hồ ơi.

          Linh Giang Kỳ Lộ tới Đồng Nai
          Mỗi chốn đều ghi chuyện cảm hoài
          Đá Bia núi Nhạn vùng huyền thoại
          Nam Tiến ân tình thương nhớ ai.

          Vì nước đâu nề cảnh biệt ly
          Nghìn trùng thăm thẳm buổi ra đi
          Thanh Lương an tĩnh hiền thoát tục
          Lương Chánh thanh nhàn đức từ bi

          Chí thiện cha nêu gương trung hiếu
          Yêu thương người chấp mọi thị phi
          Chuông chùa vang vọng niềm an lạc
          Sông núi trời Nam mãi mãi ghi.

          Trúc Lâm thăm thẳm đức Hoàng Thành
          A Na bà chúa Ngọc Phương Nam
          Đất phú trời yên người hạnh phúc
          Hồn Việt đường vui tới cõi hiền.

          (1) An Tư, Huyền Trân, Ngọc Hoa, Ngọc Vạn, …
          (2) Bạch Ngọc tiếp dẫn thơ Tuệ Trung Thượng Sĩ

          Huyền Trân công chúa Đại Việt kết duyên với vua Chế Mân Chiêm Thành nhiều người cho rằng đó là mưu lược chính trị nhờ vậy mà Đại Việt thêm được hai châu Ô Lý. Sự thật đó là một liên minh của dân tộc Việt mà nếu không thành thì hai nước khó có thể tồn tại. Chế Mân là vị vua Chiêm Thành trong hoàn cảnh đất nước bị đế quốc Angkor sát nách luôn muốn thôn tính và vó ngựa quân Nguyên Mông đang thần tốc tràn xuống phương Nam. Ông đã bỏ qua vinh nhục bản thân nhiều lần tỏ lòng thành liên kết với Đại Việt bằng cách dâng lễ vật là hai châu Ô Lý để xin cầu hôn với Huyền Trân công chúa con vua Trần Nhân Tông. Hai châu Ô Lý thực chất là chiến phí cho công cuộc liên kết kháng chiến chống kẻ địch mạnh đến cướp đất cướp dân, trả ơn cho Đại Việt đã hai lần gánh chịu tổn thất nặng nề làm tiền phương chống trả quân Nguyên Mông, cản đường của kẻ đã lấy cớ mượn đường Đại Việt để đánh Chiêm Thành.

          Chế Mân là vị vua anh minh ưu tú xứng đáng và thực lòng yêu thương Huyền Trân. Các vị vương mưu lược tài năng và các danh thần triều Trần hiểu rõ vận nước và sự chân thành đó của ông nên mới tán đồng cuộc hôn nhân, khi công chúa Huyền Trân đã bén duyên Trần Khắc Chung và mang ơn cứu mạng của chàng đối với cả cha và con trong trận chiến đẫm máu mà hai vua Trần và Huyền Trân xuýt bị giết. Thiết tưởng việc dành sự trong trắng của một cô gái đang độ xuân thì phải lìa bỏ người yêu để dấn thân cứu nạn nước và thực tâm yêu người khác làm chồng đó là một sự hi sinh lớn lao. Hậu thế cần một đánh giá công bằng đối với Chế Mân và Huyền Trân để thấu hiểu trọn vẹn những uẩn khúc sau này lúc Huyền Trân đi tu, thực thấu hiểu cuộc tình duyên nổi tiếng này trong lịch sử.

          Tác giả Sao Khuê trong bài “Cảm nhận Huyền Trân” đã cho rằng: “Công chúa Huyền Trân là người đoan chính, chuyện bà tư thông với danh tướng Trần Khắc Chung là vô lý. Có năm lý do để Sao Khuê tin như thế, vì:

          1) Trần Nhân Tông là một vị vua lỗi lạc từng lập kỳ tích chiến thắng quân Nguyên 2 lần. Sau đó khi còn rất trẻ đã từ bỏ danh lợi, thoái vị trao ngai vàng lại cho con mà xuất gia quy y Phật pháp, trở thành tôn sư sáng lập một Thiền phái Phật giáo. “Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh” – Có người cha anh hùng xuất chúng như thế thì Công chúa Huyền Trân khó thể là đứa con hư hỏng làm ô danh hoàng tộc.

          2) Trần Khắc Chung là Xem tiếp >>

            Dạy và học 29 tháng 8(29-08-2021)


          DẠY VÀ HỌC 29 THÁNG 8
          Hoàng Kim
          CNM365 Tình yêu cuộc sốngTiếng Việt thuyền và biển; Tiếng Việt lung linh sáng; Chuyện đồng dao cho em; Một vùng trời nhân văn; Minh triết cho mỗi ngày; Yên Tử Trần Nhân Tông; Lời dặn của Thánh Trần; Thầy Tuệ Trung Thượng Sĩ; Thế sự bàn cờ vây; Đọc lại và suy ngẫm; Ngày 29 tháng 8 năm 1831, Michael Faraday khám phá hiện tượng cảm ứng điện khi tiến hành thí nghiệm. Ngày 29 tháng 8 năm 1988 ngày mất Lưu Quang Vũ, nhà soạn kịch, nhà thơ và nhà văn hiện đại Việt Nam (sinh năm 1948) và Xuân Quỳnh, nhà thơ Việt Nam (sinh năm 1942). Ngày 29 tháng 8 năm 2003 ,ngày mất Nguyễn Xuân Oánh, trí thức Việt Nam yêu nước, nhà nhân sĩ được cả hai chế độ trọng dụng. Bài chọn lọc ngày 29 tháng 8: Tiếng Việt thuyền và biển; Tiếng Việt lung linh sáng; Chuyện đồng dao cho em; Một vùng trời nhân văn; Minh triết cho mỗi ngày; Yên Tử Trần Nhân Tông; Lời dặn của Thánh Trần; Thầy Tuệ Trung Thượng Sĩ; Thế sự bàn cờ vây; Đọc lại và suy ngẫm; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-29-thang-8/

          TIẾNG VIỆT THUYỀN VÀ BIỂN
          Hoàng Kim

          Tổ Quốc và Tình yêu
          Tiếng Việtthuyền và biển
          Thiên nhiên với Gia đình
          Tím một trời yêu thương

          Lưu Quang Vũ Xuân Quỳnh
          Hai bài thơ kiệt tác
          Một chuyện tình không quên.
          Thăm thẳm lời cảm mến..

          Sớm Thu thơ giữa lòng.

          Tiếng Việt
          Lưu Quang Vũ

          Tiếng mẹ gọi trong hoàng hôn khói sẫm
          Cánh đồng xa cò trắng rủ nhau về
          Có con nghé trên lưng bùn ướt đẫm
          Nghe xạc xào gió thổi giữa cau tre.

          Tiếng kéo gỗ nhọc nhằn trên bãi nắng
          Tiếng gọi đò sông vắng bến lau khuya
          Tiếng lụa xé đau lòng thoi sợi trắng
          Tiếng dập dồn nước lũ xoáy chân đê.

          Tiếng cha dặn khi vun cành nhóm lửa
          Khi hun thuyền, gieo mạ, lúc đưa nôi
          Tiếng mưa dội ào ào trên mái cọ
          Nón ai xa thăm thẳm ở bên trời.

          “Ðá cheo leo trâu trèo trâu trượt…”
          Ði mòn đàng dứt cỏ đợi người thương
          Ðây muối mặn gừng cay lòng khế xót
          Ta như chim trong tiếng Việt như rừng.

          Chưa chữ viết đã vẹn tròn tiếng nói
          Vầng trăng cao đêm cá lặn sao mờ
          Ôi tiếng Việt như bùn và như lụa
          Óng tre ngà và mềm mại như tơ.

          Tiếng tha thiết, nói thường nghe như hát
          Kể mọi điều bằng ríu rít âm thanh
          Như gió nước không thể nào nắm bắt
          Dấu huyền trầm, dấu ngã chênh vênh.

          Dấu hỏi dựng suốt ngàn đời lửa cháy
          Một tiếng vườn rợp bóng lá cành vươn
          Nghe mát lịm ở đầu môi tiếng suối
          Tiếng heo may gợi nhớ những con đường.

          Một đảo nhỏ ngoài khơi nhiều kẻ nhận
          Vẫn tiếng làng tiếng nước của riêng ta
          Tiếng chẳng mất khi Loa thành đã mất
          Nàng Mỵ Châu quỳ xuống lạy cha già.

          Tiếng thao thức lòng trai ôm ngọc sáng
          Dưới cát vùi sóng dập chẳng hề nguôi
          Tiếng tủi cực kẻ ăn cầu ngủ quán
          Thành Nguyễn Du vằng vặc nỗi thương đời.

          Trái đất rộng giàu sang bao thứ tiếng
          Cao quý thâm trầm rực rỡ vui tươi
          Tiếng Việt rung rinh nhịp đập trái tim người
          Như tiếng sáo như dây đàn máu nhỏ.

          Buồm lộng sóng xô, mai về trúc nhớ
          Phá cũi lồng vời vợi cánh chim bay
          Tiếng nghẹn ngào như đời mẹ đắng cay
          Tiếng trong trẻo như hồn dân tộc Việt.

          Mỗi sớm dậy nghe bốn bề thân thiết
          Người qua đường chung tiếng Việt cùng tôi
          Như vị muối chung lòng biển mặn
          Như dòng sông thương mến chảy muôn đời.

          Ai thuở trước nói những lời thứ nhất
          Còn thô sơ như mảnh đá thay rìu
          Ðiều anh nói hôm nay, chiều sẽ tắt
          Ai người sau nói tiếp những lời yêu?

          Ai phiêu bạt nơi chân trời góc biển
          Có gọi thầm tiếng Việt mỗi đêm khuya?
          Ai ở phía bên kia cầm súng khác
          Cùng tôi trong tiếng Việt quay về.

          Ôi tiếng Việt suốt đời tôi mắc nợ
          Quên nỗi mình quên áo mặc cơm ăn
          Trời xanh quá môi tôi hồi hộp quá
          Tiếng Việt ơi tiếng Việt xót xa tình…
          Đây là một bài thơ hiếm hoi của Lưu Quang Vũ được đăng báo trong những năm người ta từ chối thơ anh. Để đăng được trên báo Văn nghệ, nhà thơ Phạm Tiến Duật khi đó đã phải biên tập sửa ba chỗ như chú thích trong bài. Bản được công bố được coi là bản chính nên các tuyển thơ Lưu Quang Vũ về sau đều in theo bản này. Bản ở đây được chép căn cứ theo bản thảo viết tay gốc của tác giả và được công bố sau này.

          Trích đoạn bài thơ này được sử dụng trong đề thi tốt nghiệp THPT quốc gia môn Ngữ văn năm 2016.

          Nguồn: Trích dẫn từ Thi Viện.
          1. Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi, NXB Hội nhà văn, 2010
          2. Lưu Quang Vũ, thơ tình, NXB Văn học, 2002
          3. Lưu Quang Vũ – thơ và đời, NXB Văn hoá – Thông tin, 1999
          4. Thơ Việt Nam 1945-1985, NXB Giáo dục, 1985

          Thuyền và biển
          Xuân Quỳnh

          Em sẽ kể anh nghe
          Chuyện con thuyền và biển:

          “Từ ngày nào chẳng biết
          Thuyền nghe lời biển khơi
          Cánh hải âu, sóng biếc
          Đưa thuyền đi muôn nơi

          Lòng thuyền nhiều khát vọng
          Và tình biển bao la
          Thuyền đi hoài không mỏi
          Biển vẫn xa… còn xa

          Những đêm trăng hiền từ
          Biển như cô gái nhỏ
          Thầm thì gửi tâm tư
          Quanh mạn thuyền sóng vỗ

          Cũng có khi vô cớ
          Biển ào ạt xô thuyền
          (Vì tình yêu muôn thuở
          Có bao giờ đứng yên?)

          Chỉ có thuyền mới hiểu
          Biển mênh mông nhường nào
          Chỉ có biển mới biết
          Thuyền đi đâu, về đâu

          Những ngày không gặp nhau
          Biển bạc đầu thương nhớ
          Những ngày không gặp nhau
          Lòng thuyền đau – rạn vỡ

          Nếu từ giã thuyền rồi
          Biển chỉ còn sóng gió”

          Nếu phải cách xa anh
          Em chỉ còn bão tố
          4-1963

          Bài thơ này đã được các nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu, Hữu Xuân phổ nhạc thành các bài hát cùng tên.

          Nguồn: Xuân Quỳnh, Chồi biếc, NXB Văn học, 1963, trích dẫn và bảo tồn bởi Thi Viện

          TIẾNG VIỆT LUNG LINH SÁNG
          Hoàng Kim


          Giữ trong sáng tiếng Việt
          Ca dao lọc tinh hoa
          Dân ca truyền di sản
          Đồng dao lời tháng năm

          Mãn Giác thơ Hoa Mai
          Trần Khánh Dư “Bán than”
          Nguyễn Trãi Dục Thúy Sơn
          Đặng Dung thơ Cảm hoài

          Ca dao Việt “Cày đồng”
          Tiếng Việt lung linh sáng
          Đầu tiên tới cuối cùng
          Học ăn và học nói

          Cụ Nguyễn Quốc Toàn “mọt sách đền văn học, Lão Quán Lục Vân Tiên”, ngày 5 tháng 4 lúc 14:59 có bài viết DỊCH HAY PHÓNG TÁC ?? nguyên văn như sau:

          1- Trong số ca dao Việt Nam nói về nghề nông và giá trị hạt gạo thì bài: “Cày đồng đang buổi ban trưa. Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày. Ai ơi! bưng bát cơm đầy. Dẻo thơm một hột, đắng cay muôn phần” có mặt trong nhiều tuyển tập, như: • Tục ngữ ca dao dân ca VIỆT NAM của Vũ Ngọc Phan (1). • Tục ngữ ca dao VIỆT NAM của Hồng Khánh – Kỳ Anh sưu tầm biên soạn (2), • Ca dao VIỆT NAM do Bích Hằng tuyển chọn (3). Các tác giả của ba tập sách trên tuyệt nhiên không có chú thích gì về bài ca dao đó, làm người đọc đinh ninh là ca dao Việt Nam. Nhà phê bình danh tiếng Hoài Thanh cũng yên trí “đó là một trong những bài ca dao hay nhất của xứ ta từ trước” (4).***

          2- Thực ra bài ca dao “Cày đồng đang buổi ban trưa…” là của Tàu, chưa rõ ai là tác giả. Một số bảo của Lí Thân, (李紳,772 – 846) người Vô Tích tỉnh Giang Tô, số khác cho là của Nhiếp Di Trung (聶夷中, 837 – 884) người Hà Đông. Có điều lạ, trong “Toàn Đường thi” (全唐詩) (5) bốn câu trên được xếp vào ngũ ngôn tứ tuyệt vừa để ở mục Nhiếp Di Trung vừa để ở mục Lí Thân. ***

          3- Tui tìm thấy bản chữ Hán bài ca dao trên trong bộ “Đường thi tuyển dịch” của ông Lê Nguyễn Lưu gồm hai tập, kê cứu 1409 bài thơ của 173 nhà thơ Tàu. Lí Thân ở trang 1097, với hai bài thơ Cổ phong kỳ1 và Cổ phong kỳ kỳ 2. Dưới đây là bài Cổ phong kỳ 1 tui đang bàn tới 古風其一鋤禾日當午汗滴禾下土誰知 盤中餐粒粒 皆辛苦* Phiên âm Thơ Cổ phong Bài 1 Sừ hòa nhật đương ngọ Hãn trích hòa hạ thổ Thùy tri bàn trung xan Lạp lạp giai tân khổ *** Ông Lê Nguyễn Lưu dịch xuôi:Cày xới lúa đang lúc giữa trưa Mồ hôi giọt xuống đất dưới cây lúa Ai nghỉ đến bữa cơm dọn trong mâm Mỗi hột đều chứa nỗi đắng cay gian khổ Và ông Lưu dịch thơ:Cấy lúa giữa ban trưa Mồ hôi ngoài ruộng đổ Ai hay một bát cơm Hạt hạt đầy tân khổ*** Để thấy dịch giả Lê Nguyễn Lưu vừa lúng túng vừa tiền hậu bất nhất trong cách dịch của mình, tui phân tích hai chữ sừ (鋤) và hòa (禾) trong câu thứ nhất “sừ hòa nhật đương ngọ”.- Sừ (鋤) có hai trạng thái diễn đạt. Khi là danh từ, sừ (鋤) chỉ cái cuốc. Ví dụ Nguyễn Trãi nói với bạn là Hữu Nhân: 他年淽溪約, 短笠荷春鋤 : “Tha niên Nhị Khê ước, Đoản lạp hạ xuân sừ”, nghĩa là: Năm nào hẹn về Nhị Khê đội nón lá, vác cuốc đi làm vụ xuân”. Khi là động từ, sừ (鋤) chỉ sự cuốc, như cuốc đất cuốc cỏ.- Hòa (禾) là lúa chưa tuốt ra khỏi bông, chưa cắt ra khỏi rơm rạ. Kinh thi có câu: Thập nguyệt nạp hòa giá 十月納禾稼 Tháng mười thu vào thóc lúa.*** Nếu căn cứ vào tự dạng chữ Hán thì sừ hòa (鋤禾) phải dịch là cuốc lúa, nhưng cuốc lúa là sự vô lý nên ông Lưu thay cuốc bằng “cày” và thêm vào chữ “xới” thành ra “cày xới lúa đang lúc giữa trưa”. Ý dịch giả là người nông dân cày xới cỏ giữa những hàng lúa. Điều đó dẫn đến sự thậm vô lý khác. Là lúa (禾=hòa) đã chắc hạt, đợi tuốt ra khỏi bông cớ sao còn phải cày cỏ. Khi dịch ra thơ, học giả Lê Nguyên Lưu tùy tiện bỏ cuốc lúa,cày lúa, mà gọi là “cấy lúa giữa ban trưa” ***

          Một nông dân Việt (hoặc một nhà thông thái Việt) nào đó thấy “sừ hòa nhật đương ngọ” có cái gì đó không ổn, nên dựa vào ý thơ để sáng tác thành một tác phẩm khác theo thể thơ lục bát truyền thống Việt, ai đọc vào cũng hiểu và thuộc nằm lòng ngay.

          Cày đồng đang buổi ban trưa
          Mồ hôi thảnh hót như mưa ruộng cày
          Ai ơi bưng bát cơm đầy
          Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần.***

          Tiếc là cho đến nay chưa thấy một học giả nào tìm ra thân thế người phóng tác thiên tài đó. Chỉ biết là bốn câu ca dao trên đã thuộc về tài sản dân ca Việt Nam trong các tuyển tập. —————————–
          (1) Nxb Khoa học xã hội Hà Nội 1971
          (2) Nxb Đà Nẵng 2007
          (3) Nxb Văn hóa Thông tin 2011
          (4)
          http://www.thivien.net/viewwriting.php?ID=250
          (5)
          huynhchuonghung.com
          Bộ sách Đường thi tuyển dịch của Lê Nguyễn Lưu

          Cụ Nguyễn Quốc Toàn còn nói thêm: Có một sự thực ta phải chấp nhận, hàng ngày ta nói và viết đã dùng đến 80% âm Hán Việt. May mắn là chúng ta vẫn là người Việt của nước Việt Nam.

          Anh
          Ruc Hung có hai nhận xét thật tuyệt vời xin được chép lại :

          1. Bài ca dao “Cày đồng…” từ lâu đã được nhiều học giả, nhiều tờ báo, trang Web…trong nước cùng xác định là có nguồn gốc từ bài thơ Đường “Mẫn nông (憫農)” của Trung Quốc rồi bác ạ. Trước sau đã có rất nhiều bản dịch bài “Mẫn nông” sang tiếng Việt và tất cả các bản dịch này đều gắn với tên dịch giả, chỉ duy nhất bản dịch “Cày đồng…” phiên bản ca dao mà bác NQT đang bàn là khuyết danh mà thôi. Tuy nhiên, điều lạ lùng là vượt lên tất cả, chính bản dịch khuyết danh phiên bản ca dao này mới là bản được nhiều thế hệ người Việt biết đến và ngưỡng mộ nhất, thậm chí còn đinh ninh đó là sản phẩm cổ phong bản địa và quyết không rời nó, dù sau này nhiều người đã biết nguyên tác có nguồn gốc ngoại lai! Tại sao vậy? Đó là một câu chuyện dài…Hình dung rằng, bản dịch thoạt đầu được TRUYỀN KHẨU bằng TIẾNG VIỆT trong dân gian, trải thời gian, được nhiều thế hệ tác giả vô danh kế tiếp chỉnh sửa, gọt dũa, đồng sáng tạo theo phong cách dân gian mà thành bản dịch hoàn chỉnh hơn, rất THOÁT, rất HAY, rất THUẦN VIỆT so với nguyên tác. Khi người Việt chưa có chữ viết, cũng như bao tác phẩm sáng tạo dân gian khác, bài “Cày đồng…” tồn tại trong ký ức cộng đồng và TRUYỀN KHẨU trong nhân gian cho đến khi các nhà sưu tầm, nghiên cứu văn học dân gian bắt gặp/nghe được, ghi chép lại, văn bản hoá vào công trình sưu tầm, nghiên cứu của mình và từ đó bài “Cày đồng…” trở thành một đơn vị trong dòng văn học dân gian (văn học trước khi có chữ viết) Việt Nam. Thế nên, không thể, thậm chí không cần đi tìm tác giả bản dịch bài “Cày đồng…” nữa, bởi bài thơ đã được sáng tạo lại, được dân gian hoá.

          2. Vì lý do lịch sử, lý do tiếp xúc, tiếp biến văn hoá, không riêng gì bài ca dao “Cày đồng…” mà còn nhiều thể loại văn học dân gian Việt Nam khác cũng ảnh hưởng văn học Trung Quốc, nhưng không ai đặt vấn đề xem xét lại, hoặc gỡ bỏ khỏi kho tàng văn học dân gian nước nhà, bởi nó đã được Việt hoá cao độ và ăn sâu vào đời sống văn học, văn hoá, giao tiếp của người Việt. Chẳng hạn như trong hệ thống thành ngữ Việt Nam có không ít thành ngữ Trung Quốc được dịch và dân gian hoá (Việt hoá) để dùng (mà các nhà nghiên cứu cho là tương đồng):- Y cẩm dạ hành / Áo gấm đi đêm.- Cô thụ bất thành lâm / Một cây làm chẳng nên non.- Diệp lạc quy căn / Lá rụng về cội.- Gia miếu bất linh / Bụt chùa nhà không thiêng- Bão noãn tư dâm dật / No cơm ấm cật dậm dật khắp nơi- Bất cộng đái thiên / Không đội trời chung-….

          Hoàng Kim có một câu hỏi nghi vấn: “Sáng tác Việt hay dịch?” Ví như “Tết Việt và Tết Trung” là xuất phát từ “Tiết Lập Xuân” hướng chính Đông của Việt Thường La Bàn Việt.

          ĐỜI NGƯỜI TRONG MẮT AI
          Hoàng Kim

          Đời người lúc thịnh lúc suy
          Lúc khỏe lúc yếu lúc đi lúc dừng
          Đắng cay chua ngọt đã từng
          Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau.

          Ở đời nhân nghĩa làm đầu
          Thủy chung sau trước tình sâu nghĩa bền
          Học làm người việc đầu tiên
          Hiếu trung phúc hậu đừng quên nối vần

          “Lênh đênh qua cửa Thần Phù
          Khéo tu thì nổi , vụng tu thì chìm”
          “Người trồng cây hạnh mà chơi
          Ta trồng cây đức để đời mai sau” (*)

          CHUYỆN ĐỒNG DAO CHO EM
          Hoàng Kim


          Đồng dao là chuyện tháng năm
          Lời ru của mẹ
          Trăng rằm thảnh thơi
          Biết tìm bạn quý mà chơi
          Học ăn học nói làm người siêng năng

          Hiểu nhàn biết đủ thời an
          Thung dung minh triết thanh nhàn thảnh thơi
          Người sung sướng biết sống vui
          Những người hiếu hạnh được đời yêu thương.

          Việc chính là học làm người
          Khắc sâu nhân nghĩa nhớ đời đừng quên
          Hiếu trung phải học đầu tiên
          Đừng tham tưởng bở mà quên ân tình.

          Đừng tưởng cứ đẹp là tiên
          Cứ trên là sáng cứ tiền là xong
          Đừng tưởng không nói là câm
          Không nghe tưởng điếc không trông tưởng mù

          Đừng tưởng cứ trọc là sư
          Cứ vâng là chịu cứ ừ là ngoan
          Đừng tưởng có của là sang
          Cứ im lặng tưởng là vàng nguyên cây.

          Đừng tưởng cứ uống là say
          Tai trâu đàn gẩy lời hay ham bàn
          Đừng tưởng giàu hết gian tham
          Không thời chẳng vận lạm bàn chuyện dân

          Đừng tưởng cứ mới là tân
          Cứ hứa là chắc cứ ân là tình
          Đừng tưởng cứ thấp là khinh
          Cứ chùa là tĩnh cứ đình là to.

          Đừng tưởng già hết hồ đồ
          Cứ trẻ là chẳng âu lo buồn phiền
          Đừng tưởng cứ quyết là nên
          Cứ mạnh là thắng cứ mềm là thua.

          Đừng tưởng đã dấm là chua
          Sấm rền là sẽ có mưa ngập trời
          Đừng tưởng vui chỉ có cười
          Buồn thì ủ rũ chỉ ngồi khóc than

          Đừng tưởng cứ lớn là khôn
          Cứ bé là dại cứ hôn là chồng
          Đừng tưởng bịa có thành không
          Nhìn gà hóa cuốc lẫn ông với thằng

          Lúc vui tham bát bỏ mâm
          Đến khi hoạn nạn tần mần bỏ đi
          Đừng tưởng không nhất thì nhì
          Phò thịnh sung sướng giúp suy nghèo hèn

          Gặp trăng thì vội quên đèn
          Hám tiền quên nghĩa đỏ đen lạc đường
          Đừng tưởng giàu hết cô đơn
          Cao sang hết ốm gian tham hết nghèo.

          Đừng tưởng cứ núi là cao
          Cứ sông là chảy, cứ ao là tù
          Đừng tưởng cứ dưới là ngu
          Tham giành là được thấy tu tưởng hiền.

          Đừng tưởng cứ thấp là hèn
          Cứ sang là trọng cứ tiền là xong
          Đừng tưởng quan chức là rồng
          Dân thường thấp cổ thì không biết gì.

          Đời người lúc thịnh lúc suy
          Lúc khỏe lúc yếu lúc đi lúc dừng
          Đắng cay chua ngọt đã từng
          Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau.

          Ở đời nhân nghĩa làm đầu
          Thủy chung sau trước tình sâu nghĩa bền
          Học làm người việc đầu tiên
          Hiếu trung phúc hậu đừng quên nối vần

          “Lênh đênh qua cửa Thần Phù
          Khéo tu thì nổi , vụng tu thì chìm”
          “Người trồng cây hạnh mà chơi
          Ta trồng cây đức để đời mai sau”


          2

          Thật vui thích nghe thầy Quyền kể
          Chuyện đời người như thể chuyện này
          Chó Khỉ Bò Người lên Trời
          Cầu xin tuổi thọ cho Đời lên hương.

          Chó nhanh nhẹn cầu xin Trời trước
          Được Trời ban: “Ngồi trước cửa nhà
          Sủa vào mặt ai vào ra
          Cho Chó việc sủa được là … 20 năm
          “.

          Chó thưa Trời: “Chán òm việc sủa
          20 năm sủa vậy quá dài
          Chó xin sống 10 năm thôi
          Cần chi dài quá để Đời mệt thêm


          Khỉ tới lượt được Trời phán bảo:
          “Ngươi hãy làm trò Khỉ cho đời
          Luôn xét nét chỉnh sửa người

          Cho Khỉ việc sửa được thời … 20 năm

          Khỉ thưa Trời: “Chán òm việc sửa
          20 năm sửa vậy quá dài
          Khỉ xin sống 10 năm thôi
          Cần chi dài quá để Đời mệt thêm


          Bò đến lượt Trời ban cày ruộng
          Ra đồng cày cùng với nông dân
          Siêng năng cố gắng sớm hôm
          Lộc Trời bò sống đời thường … 60 năm”

          Bò thưa Trời: “20 năm là đủ
          Kéo dài chi khổ sở sáu mươi
          Tham chi tuổi thọ ở đời
          Bò xin tặng Người dư … 40 năm


          Người được Trời ban quyền sung sướng
          Với Lộc Trời được hưởng … 20 năm
          Người gào lên: “xin Trời thêm
          Chó, Khỉ, Bò trả,
          Người xin nhận về

          Trời độ lượng chiều lòng tất cả
          Họp xong rồi tất cả đều vui
          Chó 10, Khỉ 10, Bò 20
          Phần dư dồn hết cho Người 80

          Đời Người được Lộc Trời là vậy
          20 năm Người sung sướng vô lo
          40 năm giữa cày như Bò
          10 năm làm Khỉ chuyên lo chuyện …Người

          10 năm làm Chó tu thôi
          Tu tâm dưỡng tánh kiếm lời thì hơn
          Ba trăm sáu lăm ngày thong thả
          Đường trần vui nhàn nhã thung dung.

          đọc tiếp
          Chuyện đồng dao cho emhttps://hoangkimlong.wordpress.com/category/chuyen-dong-dao-cho-em/

          DẤU XƯA VÀ BẠN QUÝ
          Đầy đặn niềm tin yêu

          “Tay nâng hòn đất lặng yên
          để nguyên là đất cất nên là nhà”
          Nguyễn Duy cát trắng bụi
          Chuyện đồng dao cho em.

          Chúc mừng Lễ ký kết hợp đồng dự án “Trung tâm học tập và phòng ngừa thảm họa ở xã Hồng Hạ, huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế” do Chính phủ Nhật Bản (GGP) tài trợ Sáng ngày 11.03.2021, trường Đại học Nông Lâm (ĐHNL), Đại học Huế (ĐHH) cùng UBND xã Hồng Hạ, huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế đã tham gia buổi lễ ký kết trực tuyến Dự án “Trung tâm học tập và phòng ngừa thảm họa ở xã Hồng Hạ, huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế” được đề xuất trong khuôn khổ Chương trình viện trợ không hoàn lại của Chính phủ Nhật Bản (GGP), thông qua Đại Sứ quán Nhật Bản tại Việt Nam. Nguồn: Cổng Thông tin Diện tử Trường Đại học Nông Lâm HuếChuyện đồng dao cho em; An Le Van Giáo sư tiến sĩ, cựu Hiệu trưởng Trường Đại học Nông Lâm Huế viết trên FB Ông YAMADA Takio Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Chính phủ Nhật Bản tại Việt Nam nói “ngày hôm nay cách đây 10 năm trước thảm hoạ động đất và sóng thần ở Nhật Bản đã cướp đi sinh mạng của rất nhiều người…”. Và hôm nay ngày 11/3/2021 Chính phủ Nhật Bản đã ký tài trợ cho xã Hồng Hạ, huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế dự án “Trung tâm học tập và phòng ngừa thảm hoạ”. Đây là món quà rất cảm động, nhân văn và sâu sắc! Xin cảm ơn Ngài Đại sứ, Đại sứ quán Nhật Bản tại Việt Nam, văn phòng JICA Hà Nội và Đại học Kyoto.

          An Le Van @ Kim Hoàng trưa qua ông Bí thư xã nhắc lại câu chuyện về cây sắn “kilomet 94”. Nay KM 94 vẫn là nguồn thu nhập chính của người dân ở đây đó anh.

          Kim Hoàng@An Le Van DẤU XƯA VÀ BẠN QUÝ Các thầy cô chăn nuôi đã tham gia Chương trình Sắn Việt Nam (VNCP) với tính chất cộng đồng thật vui vẻ và tự nguyện, thanh thản và bình tâm, chẳng chút đắn đo, như thầy Dương Thanh Liêm, thầy Lưu Trọng Hiếu, thầy Trần Thế Thông, Thầy Bùi Xuân An, thầy Lê Văn An (nay là giáo sư Hiệu trưởng Trường Đại học Nông Lâm Huế), TS. Nguyễn Thị Hoa Lý, PGS.TS Lê Đức Ngoan (nay là phó Hiệu Trưởng Đại học Nông Lâm Huế, chuyên gia chăn nuôi nghiên cứu tiếp nối cụm công trình bột lá của thầy Dương Thanh Liêm về sử dụng sắn làm thức ăn gia súc)… Quý Thầy dấn thân làm ‘người trong cuộc’, cũng đứng báo cáo, cũng bò ra thảo luận (như thầy Lê Văn An ở hình trên đây) thật hòa đồng, nên mới có sự thấu hiểu sâu sắc đến vậy. Những kỷ niệm một thời không quên
          xem tiếp
          https://hoangkimlong.wordpress.com/category/thay-duong-thanh-liem/

          Kim Hoàng@ An Le Van DẤU XƯA VÀ BẠN QUÝ Trúc Mai cùng với Hoàng Kim và 15 người khác tại Huế ngày 5 Tháng 12, 2017 Ngày Hạnh Phúc của em là một ngày thật đặc biệt https://www.facebook.com/TrucMainaby/posts/1938762286139708 Hình ảnh này lắng đọng trong bài viết Chuyện đồng dao cho em. Đó là một sự đúc kết giáo dục và thực tiễn quý giá

          CHUYỆN ĐỒNG DAO CHO EM
          Hoàng Kim


          Đồng dao là chuyện tháng năm
          Lời ru của mẹ Trăng rằm thảnh thơi
          Biết tìm bạn quý mà chơi
          Học ăn học nói làm người siêng năng

          Hiểu nhàn biết đủ thời an
          Thung dung minh triết thanh nhàn thảnh thơi
          Người sung sướng biết sống vui
          Những người hiếu hạnh được đời yêu thương.

          NGÀY HẠNH PHÚC CỦA EM
          Hoàng Kim


          Ngày Hạnh Phúc của em
          Một niềm tin thắp lửa
          Thầy bạn và đồng đội
          Cha Mẹ và Quê hương.

          Em đi chơi cùng Mẹ
          Trăng rằm vui chơi giăng
          Thảo thơm vui đầy đặn
          Ân tình cùng nước non.
          Ngày hạnh phúc của em

          MỘT NIỀM TIN THẮP LỬA
          Hoàng Kim


          Nhìn đàn em ngời niềm vui rạng rỡ.
          Chợt thấy lòng rưng rưng.
          Công việc nghề nông cực mà hạnh phúc.
          Cố lên em nổ lực không ngừng !

          Hột mồ hôi lắng vào hạt gạo.
          Câu ca ông bà theo suốt tháng năm.
          Thêm bữa cơm ngon cho người lao động.
          Nâng chén cơm thơm, qúy trọng người trồng.

          Em ơi hãy học làm ruộng giỏi.
          Nghề nông thời nào cũng quý kỹ năng.
          Người dân khá hơn là niềm ao ước
          Công việc này giao lại cho em.

          Có một mùa Vu Lan hạnh phúc
          Ơn mẹ cha lam lũ sớm hôm
          Thương con vạc gọi sao Mai dậy sớm
          Một niềm tin thắp lửa giữa tâm hồn.

          Bước tiếp bước giữa trường đời gian khó
          HỌC ĐỂ LÀM người lao động siêng năng
          Rèn nhân cách vượt lên bao cám dỗ
          Đức và Tài tử tế giữa Nhân Dân.

          xem tiếp Ngày Hạnh Phúc của em; Chuyện đồng dao cho em; Hoàng Thành đến Trúc Lâm

          CHUYỆN ĐỒNG DAO CHO EM
          Hoàng Kim


          Chủ tịch Hồ Chí Minh từ thời là Nguyễn Ái Quốc Đường Kách mệnh năm 1927 đã viết Tư cách một người cách mệnh: Tự mình phải: Cần kiệm. Hoà mà không tư. Cả quyết sửa lỗi mình. Cẩn thận mà không nhút nhát. Hay hỏi. Nhẫn nại (chịu khó). Hay nghiên cứu, xem xét. Vị công vong tư. Không hiếu danh, không kiêu ngạo. Nói thì phải làm. Giữ chủ nghĩa cho vững. Hy sinh. Ít lòng ham muốn về vật chất. Bí mật. Đối người phải: Với từng người thì khoan thứ. Với đoàn thể thì nghiêm. Có lòng bày vẽ cho người. Trực mà không táo bạo. Hay xem xét người. Làm việc phải: Xem xét hoàn cảnh kỹ càng. Quyết đoán. Dũng cảm. Phục tùng đoàn thể.

          5 điều Bác Hồ dạy thiếu niên nhi đồng là “Yêu Tổ quốc, yêu đồng bào Học tập tốt, lao động tốt Đoàn kết tốt, kỷ luật tốt  Giữ gìn vệ sinh thật tốt, Khiêm tốn, thật th&agXem tiếp >>

            Dạy và học 28 tháng 8(28-08-2021)


          DẠY VÀ HỌC 28 THÁNG 8
          Hoàng Kim
          CNM365 Tình yêu cuộc sốngThế sự bàn cờ vây; Minh triết Hồ Chí Minh; A Na bà chúa Ngọc; Trúc Lâm Trần Nhân Tông; Lên Trúc Lâm Yên Tử; Hoa Đất thương lời hiền; Hoàng Đình Quang bạn tôi; Minh triết cho mỗi ngày; Sớm thu. Ngày 28 tháng 8 năm 1828, ngày sinh Lev Nikolayevich Tolstoy, Đại văn hào Nga. Ngày 28 tháng 8 năm 1963, Nhà hoạt động dân quyền Martin Luther King đọc bài phát biểu Tôi có một giấc mơ tại thủ đô Washington, D.C., Hoa Kỳ. Ngày 28 tháng 8 năm 1789, vệ tinh Enceladus của sao Thổ, lần đầu tiên được phát hiện bởi nhà thiên văn học William Herschel khi sử dụng kính thiên văn lớn nhất thế giới đương thời. Bài chọn lọc ngày 28 tháng 8: Thế sự bàn cờ vây; Minh triết Hồ Chí Minh; A Na bà chúa Ngọc; Trúc Lâm Trần Nhân Tông; Lên non thiêng Yên Tử; Hoa Đất thương lời hiền; Hoàng Đình Quang bạn tôi; Minh triết cho mỗi ngày..Sớm thu; Thông tin tại: https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-28-thang-8/

          TRÚC LÂM TRẦN NHÂN TÔNG
          Hoàng Kim

          Trần Nhân Tông (1258-1308)  là một trong những vị vua anh minh nhất của lịch sử Việt Nam. Người tên thật là Trần Khâm, vua Trần thứ ba (sau vua cha Trần Thánh Tông và trước vua Trần Anh Tông). Với 50 năm cuộc đời, vua Phật Trần Nhân Tông đã kịp làm được ít nhất năm việc lớn hiếm thấy và khó ai bì kịp ở mọi dân tộc và mọi thời đại: 1) Minh quân lỗi lạc, làm vua 15 năm (1278 – 1293) trực tiếp lãnh đạo cuộc kháng chiến hai lần đánh thắng quân Nguyên Mông là đội quân xâm lược hùng mạnh nhất thời đó; 2) Tổ sư thiền phái Trúc Lâm và Thái Thượng Hoàng 15 năm (1294-1306) là vua Phật Việt Nam. 3) Nhà văn hóa và nhà thơ kiệt xuất với kiệt tác thơ Thiền Trần Nhân Tông và thắng tích Trúc Lâm Yên Tử; 4) Người thầy chiến lược vĩ đại muôn đời của kế sách một chữ “đồng” “vua tôi đồng lòng, toàn dân đồng sức”, nhược thắng cường, yếu thắng mạnh, nước nhỏ thắng nước lớn, sự nghiệp mở nước và thống nhất non sông Việt bằng vương đạo, thuận thời, thuận người . 5) Nhà trị loạn kỳ tài đã hưng thịnh nhà Trần và cứu nguy cho nước Việt ở thời khắc quyết định, biến nguy thành an, biến những điều không thể thành có thể.

          Kiệt tác thơ thiền đức Nhân Tông là đỉnh cao thơ Thiền thời Trần:

          Cư trần lạc đạo phú
          Đại Lãm Thần Quang tự
          Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca
          Đăng Bảo Đài sơn
          Đề Cổ Châu hương thôn tự
          Đề Phổ Minh tự thủy tạ
          Động Thiên hồ thượng
          Họa Kiều Nguyên Lãng vận
          Hữu cú vô cú
          Khuê oán
          Lạng Châu vãn cảnh
          Mai
          Nguyệt
          Nhị nguyệt thập nhất nhật dạ
          Quỹ Trương Hiển Khanh xuân bính
          Sơn phòng mạn hứng
          I
          II
          Sư đệ vấn đáp
          Tán Tuệ Trung thượng sĩ
          Tảo mai
          I
          II
          Tặng Bắc sứ Lý Tư Diễn
          Tây chinh đạo trung (tái chinh Ai Lao)
          Thiên Trường phủ
          Thiên Trường vãn vọng
          Tống Bắc sứ Lý Trọng Tân, Tiêu Phương Nhai
          Tống Bắc sứ Ma Hợp, Kiều Nguyên Lãng
          Trúc nô minh
          Tức sự
          I
          II
          Vũ Lâm thu vãn
          Xuân cảnh
          Xuân hiểu
          Xuân nhật yết Chiêu Lăng
          Xuân vãn

          Lên non thiêng Yên Tử, khảo sát điền dã những chứng tích lịch sử văn hóa lưu dấu mãi với thời gian. “Soi sáng lại chính mình là phận sự gốc, chẳng từ nơi khác mà được.” (Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc.). Đức Nhân Tông viết về sự đạt ngộ với người thầy là Tuệ Trung Thượng Sĩ . “Nghe xong, tôi thông suốt được đường vào, bèn vén áo thờ Ngài làm thầy”. “Soi sáng lại chính mình” chứ không tìm kho báu ở đâu khác là trí tuệ siêu việt của vua Phật Trúc Lâm Yên Tử Trần Nhân Tông.

          TRÚC LÂM TRẦN NHÂN TÔNG
          Hoàng Kim

          Kinh Dịch xem chơi,
          365 ngày mê mãi.
          Sách Nhàn đọc giấu,
          câu có câu không.
          Trước đèn 700 năm,
          Yên Tử
          Trúc Lâm
          thăm thẳm tầm nhìn.

          1
          “Câu hữu câu vô,
          Quay bên phải, ngoái bên trái.
          Thuyết lý ầm ĩ,
          Ồn ào tranh cãi.
          Câu hữu câu vô,
          Khiến người rầu rĩ.
          Cắt đứt mọi duyên quấn quýt như dây leo,
          Thì hữu và vô đều hoàn toàn thông suốt”.

          2.
          “Kinh Dịch xem chơi
          Yêu tính sáng yêu hơn châu báu.
          Sách Nhàn đọc giấu
          Trọng lòng rồi trọng nữa hoàng kim”

          3.
          “Ở đời vui đạo thả tùy duyên
          Đói cứ ăn đi, mệt ngủ liền
          Kho báu trong nhà thôi tìm kiếm
          Vô tâm đối cảnh hỏi chi thiền”

          (Trúc Lâm Trần Nhân Tông)

          Hứng mật đời
          thành thơ
          Việc nghìn năm hữu lý
          Trạng Trình

          Đến trúc lâm
          Đạt năm việc lớn hoàng thành
          Đất trời xanh
          Yên Tử …

          xem tiếp: Trúc Lâm Trần Nhân Tông https://hoangkimlong.wordpress.com/category/truc-lam-tran-nhan-tong/Nhà Trần trong sử Việt https://hoangkimlong.wordpress.com/category/nha-tran-trong-su-viet/

          Trần Nhân Tông
          Kinh Dịch xem chơi, yêu tính sáng yêu hơn châu báu.
          Sách Nhàn đọc giấu, trọng lòng rồi trọng nữa hoàng kim…

          LÊN TRÚC LÂM YÊN TỬ
          Hoàng Kim

          Người ơi con đến đây tìm
          Non thiêng Yên Tử như tranh họa đồ
          Núi cao trùng điệp nhấp nhô
          Trời xuân bảng lãng chuông chùa Hoa Yên

          Thầy còn dạo bước cõi tiên
          Con ươm mầm sống xanh thêm ruộng vườn
          Mang cây lộc trúc về Nam
          Ken dày phên giậu ở miền xa xôi

          Cư trần lạc đạo Người ơi
          Tùy duyên vui đạo sống đời thung dung
          Hành trang Thượng sĩ Tuệ Trung
          Kỳ Lân thiền viện cành vươn ra ngoài

          An Kỳ Sinh trấn giữa trời
          Thơ Thiền lưu dấu muôn đời nước non …

          YÊN TỬ TRẦN NHÂN TÔNG
          Ngọc Phương Nam

          Lên non thiêng Yên Tử
          Trúc Lâm Trần Nhân Tông
          Lời dặn của Thánh Trần
          Thầy Tuệ Trung Thượng Sĩ

          Hiểu ‘sách nhàn đọc giấu
          Biết ‘câu có câu không
          Nghê Việt am Ngọa Vân

          Tảo Mai nhớ Nhân Tông

          Nhân Tông Đêm Yên Tử
          Ân tình Đất Phương Nam
          Nhà Trần trong sử Việt
          Hoa Đất thương lời hiền

          Yên Tử Trần Nhân Tông

          LÊN NON THIÊNG YÊN TỬ
          Hoàng Kim

          Tỉnh thức giữa đêm thiêng Yên Tử
          Để thấm hiểu đức Nhân Tông
          Ta thành tâm đi bộ
          Lên tận đỉnh chùa Đồng
          Tâm sáng Ức Trai trong tựa ngọc

          “Yên sơn sơn thượng tối cao phong
          Tài ngũ canh sơ nhật chính hồng
          Vũ trụ nhãn cùng thương hải ngoại
          Tiếu đàm nhân tại bích vân trung
          Ủng môn ngọc sóc sâm thiên mẫu
          Quải ngọc châu lưu lạc bán không
          Nhân miếu đương niên di tích tại
          Bạch hào quang lý đổ trùng đồng”
          (1)

          Non thiêng Yên Tử đỉnh kỳ phong
          Trời mới ban mai đã rạng hồng
          Vũ trụ mắt soi ngoài biển cả
          Nói cười lồng lộng giữa không trung
          Giáo ngọc quanh nhà giăng vạn khoảnh
          Cỏ cây chen đá rũ tầng không
          Nhân Tông bảo tháp còn lưu dấu
          Mắt sáng hào quang tỏa ánh đồng. (2)

          *

          Non thiêng Yên Tử
          Nghìn năm Thăng Long, Đông Đô, Hà Nôi
          Bảy trăm năm đức Nhân Tông
          Non sông bao cảnh đổi
          Kế sách một chữ Đồng
          Lồng lộng gương trời buổi sớm
          Trong ngần, thăm thẳm, mênh mông …

          (1) Nguyễn Trãi, đề Yên Tử sơn Hoa Yên tự
          (2) Hoàng Kim bản dịch thơ Nguyễn Trãi, bài thơ ‘đề Yên Tử sơn Hoa Yên tự’

          MINH TRIẾT CHO MỖI NGÀY
          Hoàng Kim


          Lev Tolstoy (1828 – 1910) là nhà hiền triết và đại văn hào Nga danh tiếng bậc nhất lịch sử nhân loại với những kiệt tác Chiến tranh và Hòa bình, Ana Karenina, Đường sống, Phục sinh. Minh triết cho mỗi ngày. Trước đây tôi thích ông theo tuần tự trên. Nhưng nay qua thời gian trãi nghiệm và lắng đọng tôi lại thích trình tự ngược lại. Minh triết cho mỗi ngày (Wise Thoughts for Every Day) lắng đọng tinh hoa hơn. Yêu thích là tự mình tỉnh thức.

          Minh triết cho mỗi ngày là công trình trọng yếu cuối cùng của Lev Tonstoy và ông đã xem nó là đóng góp quan trọng nhất của ông cho nhân loại. Theo Peter Serikin tại lời giới thiệu của tác phẩm này “Tonstoy giữ cái ‘cẩm nang’ cho một cuộc sống tốt này trên bàn làm việc của ông trong suốt những năm cuối cùng đời mình cho đến phút cuối (thậm chí ông còn yêu cầu trợ lý cùa mình V. Chertkov, đưa cho ông xem bản in thử trên giường chết của ông) Chi tiết nhỏ này cho thấy Tonstoy yêu quý tác phẩm này xiết bao!”. Cũng theo Peter Serikin bộ ba tập sách ‘Minh triết của hiền nhân’ 1903  (The Thoughts of Wise Men) ; Một chu kỳ đọc (A Circle of Reading’ 1906; Minh triết cho mỗi ngày 1909 (Wise Thoughts for Every Day) dường như phát triển sau khi Lev Tonstoy bệnh nặng và phục sinh như một phép lạ cuối năm 1902. Bộ ba này của Tonstoy hết sức phổ biến từ lần xuất bản thứ nhất vào năm 1903 cho đến năm 1917. Rồi cả ba cuốn đều không được xuất bản trong suốt thời kỳ gần 80 năm vì nội dung tôn giáo của chúng, và nó được xuất hiện trở lại gần đây sau sự sup đổ của Liên bang Xô Viết. Sách ‘Suy niệm mỗi ngày’ nguyên tác tiếng Nga của Lev Tonstoy do Đỗ Tư Nghĩa  dịch từ bản tiếng Anh ‘Wise Thoughts for Every Day’ của Peter Serikin xuất bản ở New York Mỹ từ năm 2005 và, Bản quyền bản tiếng Việt của Công ty THHH  Văn Hóa Khai Tâm 2017. Hành trình cuốn sách này đến Việt Nam khá muộn  nhưng may mắn thay những tư tưởng minh triết của nhà hiền triết Lev Tonstoy đã tới chúng ta gợi mở cho sự suy ngẫm ‘minh triết cho mỗi ngày’ cùng đồng hành với người thầy hiền triết vĩ đại.

          Lev Tonstoy viết: “Nguồn hạnh phúc chân thực nằm trong trái tim bạn. Sẽ là ngốc nghếch nếu bạn tìm kiếm nó ở nơi nào khác. Bạn sẽ giống như kẻ chăn cừu tìm kiếm một con chiên lạc, trong khi nó được nhét vào ngay bên trong áo sơ mi của y (1). Quy tắc thứ nhất của minh triết, là biết chính bạn (2). Tuy nhiên đây là cái khió làm nhất. Quy tắc thứ nhất của đức hạnh là hạnh phúc với những điều nhỏ bé (3). Điều này nữa cũng khó làm. Chỉ có những ai tuân theo những quy tắc này, mới đủ mạnh để là một tấm gương đức hạnh cho người khác. Nếu bạn chỉ yêu chính mình, bạn không thể thực sự hạnh phúc. Hãy sống cho kẻ khác, rồi thì bạn sẽ tìm thấy hạnh ohúc chân thực. Các bạn đang lang thang tới đâu, hỡi những  con người bất hạnh? Đang tìm kiếm một cuộc sống tốt hơn ? Bạn đang chạy đi xa, nhưng hạnh phúc phải được tìm thấy bên trong bạn. Nếu nó không có mặt ở bên trong, thì nó không có mặt ở bất cứ nơi nào khác. Hạnh phúc nằm trong khả năng yêu kẻ khác của bạn”. (Suy niệm mỗi ngày, trang 53) (1) Nguồn hạnh phúc chân thực nằm trong trái tim bạn. Phật nói ‘phật tại tâm’ Chúa Jesu nói ‘Vương quốc của thượng đế ở bên trong các ngươi’ (2) Minh triết trước hết là tự biết mình. (3) Phúc hậu là hạnh phúc với những điều nhỏ bé.

          Lev Tonstoy viết tiếp: Có một câu cách ngôn cổ của Do Thái: “Linh hồn của một người là ngọn đèn của Thượng đế” Khi ngọn đèn ấy chưa được thắp lên thì một cá nhân sẽ vẫn mãi bơ vơ; nhưng khi nó được thắp lên, y trở nên mạnh mẽ và tự do. Dĩ nhiên, điều này không thể khác , bởi vì đó không phải là quyền lực của chính y, mà là của Thượng đế. Mặc dù chúng ta không biết sự thiện phổ quát là gì, chúng ta thực sự biết rằng, tất cả chúng ta nên tuân theo quy luật của sự thiện, vốn hiện hữu cả trọng sự khôn ngoan của con người lẫn trong trái tim chúng ta. Nếu chúng ta tin rằng, họ có thể làm hài lòng Thượng đế thông qua những nghi lễ và những lời cầu nguyện thôi – chứ không phải bằng hành động- thì họ đã nói dối với cả thượng đế lẫn chính họ

          Hoàng Kim noi gươngThầy, tự mình thắp lên ngọn đèn trí tuệ chính mình “Hãy luôn luôn hạnh phúc và sung sướng”  tuân theo quy luật của sự chí thiện và luôn nhớ câu cách ngôn cổ của người Do Thái: “Linh hồn của một người là ngọn đèn của Thượng đế“.  Minh triết cho mỗi ngày là một kho tàng tinh hoa lắng đọng
          .
          MINH TRIẾT CHO MỖI NGÀY

          Minh triết đời người là yêu thương
          Cuối dòng sông là biển
          Niềm tin thắp lên nghị lực
          Yêu thương mở cửa thiên đường.

          HOA ĐẤT THƯƠNG LỜI HIỀN
          Hoàng Kim


          Việt Nam con đường xanh
          Yên Tử Trần Nhân Tông
          Lời dặn của Thánh Trần
          Chuyện cổ tích người lớn

          Mẫu phương Nam Tao Đàn
          Đường Huyền Trân Công Chúa
          Nam tiến của người Việt
          Hoa Đất thương lời hiền

          Ngày mới đầy yêu thương
          Chuyện cũ chưa hề cũ
          Nhà Trần trong sử Việt
          Thoáng chốc tròn tháng năm

          Ban mai chào ngày mới 
          Vui bạn hiền người thân 
          An nhiên nhàn nét bút
          Thảnh thơi gieo đôi vần.

          HOA ĐẤT
          Hoàng Kim

          Đất nặng ân tình đất nhớ thương
          Ta làm hoa đất của quê hương
          Để mai mưa nắng con đi học
          Lưu dấu chân trần với nước non.

          II

          Mình là hoa của đất
          Ươm mầm xanh cho đời.
          Gieo yêu thương hi vọng
          Gặt hái những niềm vui.

          Thấm thoắt bao xuân qua
          Cùng nhau từ thuở ấy
          Lộc muộn ngày hôm nay
          Nhớ buổi đầu gieo cấy.

          Hàng trăm ngàn hecta
          Bội thu từ giống mới .
          Nhìn bà con hân hoan
          Đường trần vui quên mỏi.

          III

          Người ta hoa đất
          An nhàn vô sự là tiên
          Thung dung cỏ hoa
          Thế giới người hiền

          Điền trúc măng ngon
          hôm qua chăm mai
          sớm nay hái nấm
          chiều về thu măng.

          Thung dung thanh nhàn
          sống giữa thiên nhiên
          Đọc bài cho em
          vui cùng bạn quý.

          Đọc sách dọn vườn
          lánh chốn bon chen
          thảnh thơi cuộc đời
          Chơi cùng hoa cỏ.

          Xưa lên non Yên Tử
          Mang lộc trúc về Nam
          Nay đến chốn thung dung
          Vui nhởn nhơ hái nấm.

          Ơn Thầy Ơn Bạn
          lộc xuân cuộc đời
          thung dung
          Hoa Lúa
          phúc hậu, an nhiên,

          Minh triết, tận tâm
          Hoa Người Hoa Đất
          Làm ngọc cho đời
          Đạo ẩn vô danh.

          SỚM THU
          Hoàng Kim

          I
          Thích thơ hay bạn quý
          Yêu sương mai đầu cành
          Bình minh chào ngày mới
          Vườn nhà bừng nắng lên

          Cà phê nhớ thầy bạn
          Trung thu bánh tình thân
          Phố Núi Cao thu sớm
          Gia an nguyên lộc gần.

          SỚM THU

          II

          Tỉnh thức ban mai đã sớm thu
          Sương đêm giữ ngọc ướt cành tơ
          Ai ơi gieo đậu vừa rồi đấy
          Lộc biếc me xanh chín đợi chờ.

          https://hoangkimlong.wordpress.com/category/som-thu/

          Video nhạc tuyển

          Bài ca thời gian

          Tình Thiên thu
          KimYouTube

          Trở về trang chính
          Hoàng Kim Long, Ngọc Phương NamThung dungDạy và Học, Việt Nam Học, Cây Lương thực Việt Nam, Tình yêu Cuộc sống, CNM365; Kim on LinkedIn Kim on Facebook Kim on Twitter

          Xem tiếp >>

            Dạy và học 27 tháng 8(27-08-2021)

          DẠY VÀ HỌC 27 THÁNG 8
          Hoàng Kim
          CNM365 Tình yêu cuộc sốngThế sự bàn cờ vây; Minh triết Hồ Chí Minh; A Na bà chúa Ngọc; Ngọc Phương Nam ngày mới; Lên non thiêng Yên Tử; Hoàng Đình Quang bạn tôi; Ngày 27 tháng 8 năm 1945, Cách mạng tháng Tám Chính phủ lâm thời của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập; khởi nghĩa giành chính quyền tại các tỉnh lỵ: Rạch Giá, Quảng Ngãi Ngày 27 tháng 8 năm 1770 ngày sinh Georg Wilhelm Friedrich Hegel, nhà triết học người Đức (mất năm 1831). Ngày 27 tháng 8 năm 1883, ngọn núi lửa Krakatoa tại Indonesia, phun trào làm 1.000 người chết. Sóng xung kích sau vụ nổ đã gây nên sóng thần cao 30 mét làm chết 36.000 người trên khắp thế giới và tạo nên vụ nổ âm thanh 180 dBSPL.là to nhất từng đo được Bài chọn lọc ngày 27 tháng 8 Thế sự bàn cờ vây; Minh triết Hồ Chí Minh; A Na bà chúa Ngọc; Ngọc Phương Nam ngày mới; Lên non thiêng Yên Tử; Hoàng Đình Quang bạn tôi; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-27-thang-8/

          Thổ Mộc tương hợp năm 2021

          THẾ SỰ BÀN CỜ VÂY
          Hoàng Kim

          Afghanistan Taliban là tin thời sự nóng không kém
          SARD COVI 2 những ngày này trên Thế giớivà Việt Nam. Taliban là Tiểu vương quốc Hồi giáo Afghanistan (IEA) https://youtu.be/WHeeEYprrOs những ngày qua đã giành được chính quyền trong nước này sau mấy chục năm chiến tranhthánh chiến, chống lại chính quyền Karzai được Mỹ hậu thuẫn và ISAF do NATO lãnh đạo trong chiến tranh ở Afghanistan. Taliban trước đây chỉ được ba quốc gia Pakistan, Ả Rập Xê-útCác Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất. thừa nhận, nhưng ngày nay, Trung Quốc, Nga bắt tay Taliban xây dựng chính quyền mới. Thế sự bàn cờ vây. https://youtu.be/CH4VppzT21c. Bài viết này xâu chuỗi Trung Quốc một suy ngẫmVành đai và con đường Trung Nga với Trung ÁThế sự bàn cờ vây; Đọc lại và suy ngẫm.

          Sáng kiến “Vành đai, Con đường” của Trung Quốc: 5 năm nhìn lại, tác giả Nguyễn Thu Hà, Học viện Chính trị Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh đăng trên Tạp chí Cộng sản ngày 27 tháng 3 năm 2019 theo số liệu trang Chinadaily: http://www.chinadaily.com.cn/a/201809/05/WS5b8f09bfa310add14f3899b7.html Trong 5 năm qua, sáng kiến “Vành đai, Con đường” do Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình lần đầu tiên đưa ra vào tháng 9 năm 2013 cho đến nay tuy đã đạt được nhiều thành công trên các lĩnh vực, song cũng vấp phải không ít thách thức, nhất từ các nước lớn trên thế giới. Toàn văn câu chuyện ấy được lược khảo tại đây

          Thế sự bàn cờ vây, nước Việt Nam ngày nay có quan hệ đặc biệt với Lào Cămpuchia Cu ba; quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với Trung Quốc, Nga, Ấn Độ; quan hệ đối tác chiến lược với Nhật Bản, Hàn Quốc, Tây Ban Nha; Anh ; Đức, Italy; Thái Lan, Indonesia, Singapore, Pháp; Malaysia, Philippines; Úc; New Zealand; quan hệ đối tác toàn diện với Nam Phi; Chile, Brazil, Venezuela; Argentina; Ukraina; Mỹ, Đan Mạch; Myanmar, Canada; Hungary; Brunei, Hà Lan; quan hệ đối tác lĩnh vực trước đây với Hà Lan năm 2010 về Quản lý nước và Ứng phó với biến đổi khí hậu, năm 2014 thêm Nông nghiệp và An ninh lương thực, năm 2019 quan hệ hợp tác lĩnh vực với Hà Lan đã nâng cấp thành đối tác toàn diện. quan hệ đối tác bạn hữu ‘cùng có lợi’ với Mông Cổ, Triều Tiên, các nước khác ở Đông Âu, Tây Âu, Bắc Âu, Trung Á, Tây Á, Trung Đông, Châu Phi, các chiến lược hợp tác Nam Nam, hợp tác, song phương và đa phương. Việt Nam khi nâng cấp quan hệ với các đại cường là chúng ta đang đứng giữa giao lộ có sự tính toán cân bằng nhiều lợi ích khác nhau.

          Nhớ bài học lớn Afghanistan lời nguyền địa lý
          https://youtu.be/WHeeEYprrOs; Đe dọa bủa vây Trung Quốc khi Taliban cai trị Afghanistan https://youtu.be/wvpRMp5tnJIAngkor nụ cười suy ngẫm. https://hoangkimlong.wordpress.com/category/angkor-nu-cuoi-suy-ngam/

          Thế sự bàn cờ vây; Minh triết Hồ Chí Minh; Đọc lại và suy ngẫm

          Hoàng Kim

          (*) Tài liệu chọn đọc lại

          SÁNG KIẾN “VÀNH ĐAI VÀ CON ĐƯỜNG” CỦA TRUNG QUỐC: 5 NĂM NHÌN LẠI
          Nguyễn Thu Hà
          Học viện Chính trị Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh
          Tạp chí Cộng sản ngày 27 tháng 3 năm 2019

          TCCS – Tháng 9-2013, Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình lần đầu tiên đưa ra sáng kiến “Vành đai, Con đường”. Mặc dù trong 5 năm qua, sáng kiến này đạt được nhiều thành công trên các lĩnh vực, song cũng vấp phải không ít thách thức, nhất từ các nước lớn trên thế giới.

          Về sáng kiến “Vành đai, Con đường”

          Sáng kiến ban đầu có tên là “ Một vành đai, Một con đường” (OBOR), sau này được đổi tên thành “Vành đai, Con đường” (BRI). BRI xuất phát từ mong muốn tăng cường kết nối giữa Trung Quốc và nhiều quốc gia khác trên tuyến đường từ châu Á sang châu Âu, với nội dung hướng đến 5 phương diện: chính sách, kết cấu hạ tầng, thương mại, tài chính và kết nối con người.

          BRI gồm có hai hợp phần chính: Vành đai và Con đường. “Vành đai” có nghĩa là “Vành đai kinh tế con đường tơ lụa” (Silk Road Economic Belt); “Con đường” có nghĩa là “Con đường tơ lụa trên biển thế kỷ XXI” (21st Century Maritime Silk Road). “Vành đai kinh tế con đường tơ lụa” được thiết kế với ba nhánh chính nối từ Trung Quốc qua Trung Á và Nga tới châu Âu; từ Trung Quốc qua Trung Á, Tây Á, Vịnh Péc-xích đến Địa Trung Hải; từ Trung Quốc đến Đông Nam Á, Nam Á và Ấn Độ Dương. “Con đường tơ lụa trên biển thế kỷ XXI” với nội dung cơ bản là sự phục hưng con đường tơ lụa cổ đại trên biển, nối liền hệ thống cảng biển của Trung Quốc với các cảng chính ở khu vực Đông Nam Á, Nam Á, châu Phi và châu Âu; kết hợp sự phát triển hành lang kinh tế qua Ấn Độ Dương.

          BRI được coi là một đại dự án của Trung Quốc, hay theo một số chuyên gia, đây còn là một chiến lược toàn cầu khi mà Sáng kiến này sẽ là mạng lưới kết nối các tuyến đường bộ, đường biển, đường sắt của khoảng 65 quốc gia với nhau với tổng GDP khoảng 23.000 tỷ USD, tương đương 1/3 GDP toàn cầu, liên kết 62% toàn bộ số dân thế giới. So với Kế hoạch Mác-san mà Mỹ thực hiện nhằm tái thiết châu Âu sau Chiến tranh thế giới thứ hai thì quy mô và phạm vi của BRI lớn hơn rất nhiều lần.

          Để hiện thực hóa BRI, Trung Quốc đã thành lập ba thiết chế tài chính để rót vốn cho Sáng kiến này, bao gồm Quỹ Con đường Tơ lụa (SRF) (năm 2014) với số vốn dự tính ban đầu 40 tỷ USD, Ngân hàng Đầu tư kết cấu hạ tầng châu Á (AIIB) với nguồn vốn 100 tỷ USD và Ngân hàng Phát triển mới (NDB) khởi đầu với số vốn 50 tỷ USD. Các thiết chế tài chính này sẽ cung cấp nguồn vốn cho việc xây dựng và phát triển các lĩnh vực, như điện, năng lượng, giao thông, viễn thông, xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn, cung cấp nước, các dự án bảo vệ môi trường, phát triển đô thị và dịch vụ logistic.

          BRI – sáng kiến hạ tầng mà theo Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình là nhằm thúc đẩy thương mại và phát triển kinh tế toàn cầu. Tuy nhiên theo nhận định của Trung tâm Nghiên cứu quốc phòng cấp tiến (C4ADS), sáng kiến này nhằm mở rộng ảnh hưởng chính trị, duy trì sự ổn định của khu vực và khẳng định ảnh hưởng của Trung Quốc đối với các quốc gia láng giềng thông qua BRI. Các khoản đầu tư của Trung Quốc dường như để tạo ra ảnh hưởng chính trị, giúp Trung Quốc mở rộng hiện diện quân sự và tạo ra một môi trường chiến lược có lợi cho Trung Quốc trong khu vực. Sáng kiến phản ánh tham vọng của Chính phủ Trung Quốc là phát triển “đất nước khá giả toàn diện” và thực hiện “giấc mộng Trung Hoa”, vươn lên thành cường quốc đứng đầu thế giới.

          Những kết quả đạt được

          Theo đánh giá của Chính phủ Trung Quốc, trong 5 năm triển khai Sáng kiến, BRI đã đạt được những kết quả tích cực và mang lại nhiều lợi ích thiết thực cho Trung Quốc và các nước tham gia. Sau khi hoàn thành, dự án xây dựng kết cấu hạ tầng đồ sộ này sẽ tăng cường khả năng kết nối của Trung Quốc với các khu vực khác, cả trên đất liền lẫn trên biển, mở rộng lĩnh vực thương mại và công nghệ của Trung Quốc sang các thị trường mới.

          Về thương mại, sau 5 năm thực hiện, BRI đã nhận được sự hưởng ứng tích cực và tham gia sâu rộng của hơn 100 quốc gia, vùng lãnh thổ và các tổ chức quốc tế. Tính đến tháng 4-2018, Trung Quốc đã cùng với 86 quốc gia thuộc phạm vi Sáng kiến và tổ chức quốc tế ký kết trên 100 thỏa thuận triển khai các dự án hợp tác trên nhiều lĩnh vực thuộc khuôn khổ BRI. Trung Quốc cùng với 24 quốc gia và vùng lãnh thổ, như Hàn Quốc, Pa-ki-xtan, ASEAN, Pê-ru, Chi-lê và nhiều nước khác ký 16 hiệp định thương mại tự do (FTA). Tổng kim ngạch thương mại giữa Trung Quốc với các nước dọc các tuyến BRI trong 5 năm qua đã vượt trên 5.000 tỷ USD(1). Thêm vào đó, Trung Quốc cũng đã đầu tư trực tiếp ra nước ngoài hơn 50 tỷ USD vào 53 quốc gia và vùng lãnh thổ. Chỉ tính riêng trong năm 2017, Trung Quốc đã nhập khẩu trên 666 tỷ USD hàng hóa từ các nước tham gia BRI, chiếm 25% tổng giá trị nhập khẩu của Trung Quốc, đồng thời, tổng kim ngạch thương mại giữa Trung Quốc với các nước này đã tăng ở mức kỷ lục là 14,2%. Trung Quốc đã xây dựng trên 50 khu hợp tác kinh tế, thương mại tại khoảng 20 nước tham gia BRI, giúp các nước tăng nguồn thu thuế, thu nhập thêm 1,1 tỷ USD và tạo 180.000 việc làm mới.

          Về việc sử dụng các thiết chế tài chính chuyên biệt cho BRI, theo một cuộc khảo sát về các nền kinh tế mới nổi và đang chuyển đổi, các tổ chức tài chính của Trung Quốc, như SRF hay AIIB, tạo động lực thúc đẩy quan trọng cho đa số các nước tham gia BRI nhiều hơn các tổ chức tài chính của chính các nước đó, thậm chí còn nhiều hơn cả Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) hay các tổ chức tài chính quốc tế khác. Tính đến tháng 6-2018, đã có 86 quốc gia trở thành thành viên của AIIB. Theo báo cáo công khai thường niên của AIIB, trong năm 2017 tổng số vốn đã cấp và đợi phê duyệt mà AIIB đã triển khai là 4,22 tỷ USD cho 12 dự án, tăng thêm 5 dự án so với năm 2016. So với ADB, IMF, WB – đều chịu sự kiểm soát của Mỹ và chậm cải cách – thì AIIB là một lựa chọn phù hợp cho cả các nước thành viên và các nước nhận đầu tư.

          Về các dự án kết cấu hạ tầng, Trung Quốc đẩy mạnh đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng ra bên ngoài, trong đó có dự án đường sắt và các cảng biển.

          Về đường sắt, Theo trang The Diplomat (Nhật Bản), Trung Quốc sẽ xây dựng 81.000km đường sắt cao tốc đi qua các quốc gia tham gia BRI – nhiều hơn tổng chiều dài đường sắt cao tốc trên thế giới hiện nay và đã tuyên bố kế hoạch chi 35.000 tỷ nhân dân tệ (tương đương 503 tỷ USD) để mở rộng mạng lưới đường sắt quốc gia vào năm 2020 với tổng số hơn 30.000km, kết nối 80% các thành phố lớn ở Trung Quốc. Các dự án tiêu biểu mà Trung Quốc đang thực hiện, như dự án đường sắt Môm-ba-sa – Nai-rô-bi của Kê-ni-a với tổng chiều dài khoảng 2.700km, trị giá 3,8 tỷ USD, hoàn thành năm 2017, đã giúp người dân nước này giảm thời gian đi từ ga đầu Môm-ba-sa tới ga cuối – Thủ đô Nai-rô-bi chỉ còn 5 giờ đồng hồ thay vì 10 giờ đồng hồ như trước; tuyến đường sắt Viên-chăn – Bô-ten dự kiến hoàn thành vào năm 2021 với tổng chi phí lên đến 7,2 tỷ USD; dự án đường sắt cao tốc Gia-các-ta – Băng-đung tại In-đô-nê-xi-a có tổng chiều dài 142km với tổng vốn đầu tư là 5,13 tỷ USD.

          Về dự án cảng biển, tính đến hết năm 2017, Trung Quốc đã đầu tư một phần hoặc giành được quyền kinh doanh, vận hành trong dài hạn với 76 cảng biển trên toàn thế giới. Trung Quốc không chỉ đầu tư vào các cảng lớn mà còn tìm cách kinh doanh vận hành nhiều cảng nhỏ trên toàn thế giới. Các dự án cảng biển tiêu biểu, như dự án cảng Goa-đa (Gwadar) ở Pa-ki-xtan, dự án cảng Cô-lôm-bô ở Xri Lan-ca, dự án cảng Pi-ra-ớt (Piraeus) ở Hy Lạp và rất nhiều dự án khác.

          Về kết nối con người, Trung Quốc đã đạt được rất nhiều thành tựu trong trao đổi văn hóa và dân tộc giữa Trung Quốc và các nước tham gia BRI. Trung Quốc đã và đang xúc tiến trao đổi văn hóa và dân cư với các nước dọc theo BRI. Kể từ năm 2014, chương trình đào tạo chuyên gia về tội phạm học trẻ do Bộ Văn hóa và Du lịch tổ chức đã mời được 360 chuyên gia về tội phạm từ 95 quốc gia, Trung Quốc đã thành lập 16 trung tâm văn hóa ở các nước tham gia BRI, tổ chức hơn 1.600 sự kiện văn hóa. Trung Quốc đã đạt được thỏa thuận hợp tác sản xuất phim với 21 quốc gia và khu vực tham gia BRI. Ngày 17-10-2018 để kỷ niệm 5 năm thực hiện tăng cường kết nối người dân, Trung Quốc đã thực hiện cuộc triển lãm ảnh được tổ chức tại các đại sứ quán, trung tâm văn hóa và các tổ chức ở những nước tham gia.

          Mặc dù đạt được những bước tiến hướng tới các mục tiêu dài hạn mà Trung Quốc đặt ra, nhưng BRI cũng vấp phải không ít khó khăn, khiến nhiều dự án chậm trễ và thậm chí thất bại. Xét quy mô đồ sộ của BRI với nhiều dự án lớn, việc trì hoãn, hủy bỏ hay thất bại cũng là những việc đã được tính đến. Những nguyên nhân dẫn đến sự chậm trễ (trong một số trường hợp là do sự hoài nghi và phản đối nhằm vào các mục tiêu chiến lược của Trung Quốc gia tăng) sẽ tiếp tục góp phần định hình sự phát triển trong tương lai của Sáng kiến.

          Những trở ngại khi thực hiện Sáng kiến

           

          Những khó khăn nội bộ

          Tham vọng của Trung Quốc trong BRI ngày càng bị hạn chế bởi các phương pháp tiếp cận và mục tiêu chiến lược riêng của nước này. Mặc dù BRI đã đạt được thành công lớn ở các nước đang phát triển, nhưng những thách thức về khả năng tài chính và bất ổn chính trị ở các nước tiếp nhận đầu tư đã nhiều lần gây ra sự chậm trễ, thậm chí là hủy bỏ các khoản đầu tư, như một số dự án giao thông và năng lượng ở Ca-dắc-xtan, Băng-la-đét, Mi-an-ma và Pa-ki-xtan.

          Tham nhũng và bất ổn chính trị tại một số quốc gia tham gia BRI không chỉ khiến các dự án thuộc BRI bị đưa ra phán xét mà còn bị chậm trễ. Và chính Trung Quốc cũng phải gánh chịu những khoản nợ do tình trạng trên gây ra.

          Cuối cùng, sự “nhiệt tình” lôi kéo các nước của Trung Quốc đã tạo cho các nước này lợi thế khi họ cố giành các khoản đầu tư từ các đối thủ của Trung Quốc. Các nước, như Thái Lan, In-đô-nê-xi-a và một số quốc gia Nam Á có thể khuyến khích Nhật Bản và Ấn Độ cạnh tranh với Trung Quốc trong các dự án đường sắt và thủy điện để ngăn cản mục tiêu của Trung Quốc trở thành nước có ảnh hưởng nhất trong khu vực.

           

          Ngoại giao “bẫy nợ” của Trung Quốc

          Không giống Kế hoạch Mác-san (chủ yếu là cung cấp các khoản tài trợ), việc đẩy mạnh đầu tư kết cấu hạ tầng của Trung Quốc phụ thuộc rất nhiều vào các khoản vay. Theo tờ The New York Times, các khoản vay này thường có lãi suất cao hơn các khoản vay từ các nhà tài trợ lớn khác. Và các khoản vay từ các ngân hàng nhà nước Trung Quốc cuối cùng có thể khiến các nước trở nên phụ thuộc hơn khi họ buộc phải bàn giao các cảng, đường sắt, đường bộ và các mạng lưới thông tin liên lạc thiết yếu để thoát khỏi những khoản nợ khổng lồ của các công ty cho vay và các công ty Trung Quốc.

          Trung Quốc có nhiều lý do để tập trung vào các quốc gia đang phát triển nhưng có vị trí chiến lược quan trọng. Chính các nước đang phát triển, trong đó có nhiều nước có nền tảng kinh tế yếu và năng lực điều hành của chính phủ không hiệu quả, đã nhiệt tình hưởng ứng BRI. Trong những quốc gia này, có 11 quốc gia được Liên hợp quốc xác định là nước kém phát triển nhất thế giới. Các nước này thiếu hệ thống kết cấu hạ tầng nên mong muốn tránh các khoản hỗ trợ tài chính gắn với nhiều yêu cầu, ràng buộc của các tổ chức phương Tây. Vì cách tiếp cận tài trợ của Trung Quốc nhấn mạnh vào việc không can thiệp và nói chung là vô điều kiện, không phân biệt chế độ nên Trung Quốc đã có được quyền tiếp cận và nhận được sự thiện chí nhiều hơn so với các nước phương Tây. Phương pháp của Trung Quốc là lôi kéo những quốc gia nhỏ hơn này vào khuôn khổ BRI, qua đó tận dụng các vị trí chiến lược của họ và cân bằng quyền lực với các nước lớn trong khu vực, như Nga, Ấn Độ và Liên minh châu Âu (EU).

          Sự hỗ trợ cho vay trong các dự án chiến lược quan trọng cũng gia tăng mức độ ảnh hưởng của Trung Quốc. Trong khi đó, các nước tham gia BRI lo lắng về khả năng đó là một “cái bẫy nợ”, từ đó Trung Quốc có thể nắm giữ quyền kiểm soát quá mức đối với nền kinh tế của đất nước họ.

          Xri Lan-ca và Pa-ki-xtan đều đang đối mặt với việc trả nợ và các cuộc đàm phán tài chính, phải ký kết thỏa thuận cho thuê đất “làm tài sản bảo đảm nợ” với các công ty Trung Quốc. Tại Xri Lan-ca, cảng Ham-ban-tô-ta hiện được cho thuê trong 99 năm, trong khi các khu vực quanh cảng Goa-đa ở Pa-ki-xtan được cho thuê trong 43 năm. Đối với các nước khác có nợ nước ngoài cao hoặc phụ thuộc quá nhiều vào đầu tư trực tiếp, Trung Quốc đã sử dụng hình thức giảm nợ hoặc các hình thức hỗ trợ khác, như ký kết các hợp đồng dài hạn về việc mua bán tài nguyên thiên nhiên hoặc dầu mỏ để bù đắp cho các khoản vay. Chính vì vậy, ngày càng nhiều suy đoán rằng liệu Trung Quốc có sử dụng lợi thế tài chính của mình tại các cảng nước sâu chiến lược ở các nước để giành lợi thế trong các tuyến vận chuyển ở Ấn Độ Dương hay không?

           

          Phản ứng từ các cường quốc khác

          Mặc dù một trong những mục tiêu mà Trung Quốc tuyên bố là thúc đẩy hội nhập Âu – Á thông qua BRI, nhưng cho đến nay, Sáng kiến này tập trung vào các nước đang phát triển, đặc biệt là các nước vùng Trung Âu, Đông Âu, Nam Á, Đông Nam Á và Trung Á, mà chưa thu hút được các quốc gia phát triển như Nhật Bản hay các nước lớn ở châu Âu. Xét cho cùng, dù các nước này có thể chia sẻ lợi ích thương mại với Trung Quốc, nhưng họ vẫn rất dè chừng, thậm chí còn hoài nghi rằng đó là phương tiện để Trung Quốc tăng khả năng cạnh tranh của mình và là “chương trình nghị sự” để Trung Quốc mở rộng chiến lược trên toàn cầu.

          Ngoài những lo ngại từ các quốc gia đang phát triển, các “đối thủ chiến lược” của Trung Quốc cũng như các nước phát triển, đặc biệt là Mỹ vẫn duy trì, thậm chí ngày càng phản kháng mạnh mẽ đối với Sáng kiến này.

          Là đối trọng lớn nhất của Trung Quốc, Mỹ cùng một số đồng minh, đối tác khác đang điều chỉnh chính sách, thực hiện các chiến lược dài hạn của mình, trong số đó sẽ có những chính sách, chiến lược tác động đến hành lang dọc theo BRI. Mặc dù tại các cuộc gặp gỡ song phương, Trung Quốc và Mỹ đã đạt được sự đồng thuận về việc “xây dựng quan hệ nước lớn kiểu mới Trung Quốc – Mỹ”, tuy nhiên hai nước vẫn liên tục có sự va chạm, và mất đi lòng tin chiến lược. Tháng 7-2018, Mỹ đã “khai hỏa” cuộc chiến thương mại giữa hai nền kinh tế lớn nhất thế giới, chính thức tiến hành áp thuế 25% lên 34 tỷ USD đối với hàng hóa nhập từ Trung Quốc. Cuộc chiến thương mại này sẽ gây khó khăn không nhỏ đối với Trung Quốc vì sẽ làm cho Trung Quốc thiệt hại về kinh tế và bận tâm đối phó với Mỹ mà không tập trung thực hiện BRI. Thêm vào đó, Mỹ cũng tuyên bố về sáng kiến “Tầm nhìn Kinh tế Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương” (Indo-Pacific Economic Vision) với tham vọng vừa củng cố chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương của mình ở khía cạnh kinh tế, vừa gia tăng ảnh hưởng của Mỹ ở khu vực này và đối trọng với BRI của Trung Quốc.

          Tại châu Âu, các thành viên chủ chốt của EU, như Đức và Pháp nhận thấy sự tiếp cận của Trung Quốc ở Trung và Đông Âu mang tính cạnh tranh nhiều hơn tính hợp tác, xem BRI như là một nỗ lực làm lu mờ quy tắc và chương trình nghị sự của Khối. Đại sứ của 27 nước EU tại Trung Quốc đã ký vào văn bản phản đối dự án kết cấu hạ tầng đồ sộ này trong khi lo lắng về ảnh hưởng của Trung Quốc ngày một gia tăng. Điều này dẫn đến việc các hoạt động đầu tư hay các dự án của Trung Quốc ở Trung và Đông Âu bị chỉ trích không ngớt và bị tăng cường giám sát. Dự án tuyến đường sắt giữa Bu-đa-pét và Ben-grát (một phần quan trọng trong chiến lược của Trung Quốc liên kết với cảng Pi-ra-ớt ở Địa Trung Hải) cũng không nằm ngoài tầm ngắm.

          Ở một số nước phát triển, cách tiếp cận của Trung Quốc cũng đạt được một số thành công. Ban đầu Nga cũng dè dặt về BRI, sau đó Nga đã cởi mở hơn vì nhận ra cách đầu tư của Trung Quốc có thể mang lại lợi ích cho nền kinh tế của chính mình và thúc đẩy phát triển ở các nước vùng Trung Á mà Nga có ảnh hưởng đáng kể. Do vậy, Nga bắt đầu hỗ trợ và thậm chí tham gia một số dự án của BRI. Mới đây, Nga đã ký một thỏa thuận cùng với Trung Quốc đồng tài trợ cho gần 70 dự án thuộc Liên minh kinh tế Á – Âu (EAEU). Đây là một động thái giúp giảm bớt rào cản đối với đầu tư của Trung Quốc ở một số nước Đông Âu và Trung Á cũng như khu vực Bắc Cực.

          Về phía Nhật Bản, nước này tiếp tục kiềm chế việc công khai ủng hộ Sáng kiến, nhưng khuyến khích các công ty Nhật Bản tham gia một số dự án của Trung Quốc. Điều này có thể nhận thấy ở các khu vực, như Trung Á và châu Phi, nơi Nhật Bản hy vọng sẽ tăng cường sự hiện diện của các tập đoàn Nhật Bản.

          Như vậy, dù đã có những thành công, nhưng cách tiếp cận ẩn chứa nhiều mong muốn của Trung Quốc sẽ tiếp tục gây ra sự hoài nghi và chống đối của các nước lớn, khiến chương trình nghị sự của Trung Quốc càng thêm phức tạp, đặc biệt khi chương trình nghị sự đó nhằm để đối phó với sức ép không ngừng gia tăng từ Mỹ. Nhật Bản và Ấn Độ đã bắt tay nhau để tìm ra ý tưởng thay thế cho BRI ở lục địa châu Phi do Mỹ khởi xướng; EU đề xuất “Chiến lược kết nối châu Á”; tháng 7-2018 Mỹ đã công bố kế hoạch “Tầm nhìn Kinh tế Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương” với các sáng kiến đầu tư cho các lĩnh vực công nghệ mới, năng lượng và kết cấu hạ tầng; Ô-xtrây-li-a cam kết một chiến dịch viện trợ, thương mại và ngoại giao quy mô lớn ở Nam Thái Bình Dương, hy vọng sẽ lấy lại được vị thế mà họ để rơi vào tay Trung Quốc ngay ở khu vực mà nước này coi là “sân sau” truyền thống của mình.

          Trên thực tế, không có đề xuất nào của các nước này có thể vượt qua kế hoạch xây dựng kết cấu hạ tầng đồ sộ và với nguồn vốn dồi dào từ Trung Quốc. Đối với các nước tham gia BRI, lợi ích lâu dài của các dự án đầu tư và xây dựng kết cấu hạ tầng từ Trung Quốc lớn hơn rủi ro. Vì vậy, có thể nói rằng Trung Quốc tiếp tục trải qua những khó khăn, thách thức trong các dự án của BRI, nhưng nhìn tổng thể, Sáng kiến này đang chuyển động và có những thành công nhất định./.

          VÀNH ĐAI VÀ CON ĐƯỜNG
          Hoàng Kim

          Trung Quốc một suy ngẫm
          Vành đai và con đường
          Trung Nga với Trung Á
          Thế sự bàn cờ vây


          TRUNG QUỐC MỘT SUY NGẪM

          Đường trần thênh thênh bước
          Đỉnh xanh mờ sương đêm
          Hoàng Thành Trúc Lâm sáng
          Phước Đức vui kiếm tìm.

          Tuyết rơi trên Vạn Lý
          Trường Thành bao đổi thay
          Ngưa già thương đồng cỏ
          Đại bàng nhớ trời mây.

          Ngược gió đi không nản
          Rừng thông tuyết phủ dày
          Ngọa Long cương đâu nhỉ
          Đầy trời hoa tuyết bay.

          Hồ Khẩu trên Hoàng Hà
          Đại tuyết thành băng giá
          Thế nước và thời trời
          Rồng giữa mùa biến hóa.

          Lên Thái Sơn hướng Phật
          Chiếu đất ở Thái An
          Đi thuyền trên Trường Giang
          Nguyễn Du trăng huyền thoại

          Khổng Tử dạy và học
          Đến Thái Sơn nhớ Người
          Kho báu đỉnh Tuyết Sơn
          Huyền Trang tháp Đại Nhạn

          Tô Đông Pha Tây Hồ
          Đỗ Phủ thương đọc lại
          Hoa Mai thơ Thiệu Ung
          Ngày xuân đọc Trạng Trình

          Quảng Tây nay và xưa
          Lên đỉnh Thiên Môn Sơn
          Ngày mới vui xuân hiểu
          Kim Dung trong ngày mới

          Bình sinh Mao Trạch Đông
          Bình sinh Tập Cận Bình
          Lời dặn của Thánh Trần
          Trung Quốc một suy ngẫm

          Lên Thái Sơn hướng Phật, cha con tôi có 20 ghi chú về
          Trung Quốc một suy ngẫm . Chúng tôi trò chuyện những bàn luận của các học giả, nhà văn khả kính Việt Nam về Trung Quốc ngày nay. Trong đó, có phiếm đàm của Trần Đăng Khoa “Tào lao với Lão Khoa” Tiếng là phiếm đàm nhưng sự thực là những việc quốc kế dân sinh, tuy là ‘tào lao’ mà thật sự nóng và hay và nghiêm cẩn.

          VÀNH ĐAI VÀ CON ĐƯỜNG

          Sáng kiến Vành đai và Con đường (Belt and Road Initiative, BRI) được chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình khởi xướng năm 2013. Một vành đai, Một con đường – Wikipedia tiếng Việt là tài liệu do chuyên gia Tian Shaohui biên tập ngày 28 tháng 3 năm 2015. “Chronology of China’s Belt and Road Initiative”. Xinhua. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 2 năm 2017 cung cấp một thông tin khái quát. Cấu trúc, cốt lõi, mối quan hệ và mục tiêu của sáng kiến Vành đai và Con đường của Trung Quốc đãđược tiến sĩ Trịnh Văn Định, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Đại học Quốc gia Hà Nội đúc kết thông tin trên tạp chí lý luận chính trị Việt Nam. Vành đai và Con đường (BRI) là “sáng kiến” kết nối cơ sở hạ tầng gồm đường bộ, đường biển và đường không giữa Trung Quốc Xem tiếp >>

            Dạy và học 26 tháng 8(27-08-2021)

          Mẫu Phương Nam Tao Đàn (ảnh Hoàng Kim)

          DẠY VÀ HỌC 26 THÁNG 8
          Hoàng Kim
          CNM365 Tình yêu cuộc sống. Mẫu phương Nam Tao Đàn; A Na bà chúa Ngọc; Việt Nam Tổ Quốc tôi; Ai thương núi nhớ biển, Gõ ban mai vào phím; Vị tướng của lòng dân; Nguyễn Đức Trung Hoa Đất; Ngày 26 tháng 8 năm 2005, là ngày thành lập thành phố Quảng Ngãi (trước là thị xã Quảng Ngãi), tỉnh Quảng Ngãi, Việt Nam được nâng cấp lên thành phố trực thuộc tỉnh bằng quyết định số 112/2005/NĐ-CP của Chính phủ Việt Nam. Ngày 26 tháng 8 năm 1992 là ngày mất Nguyễn Thị Định, nữ tướng Việt Nam (sinh năm 1920). Ngày 26 tháng 8 năm 1980 các đặc khu kinh tế Thâm Quyến, Chu Hải, Sán Đầu và Hạ Môn được Ủy ban Thường vụ Đại hội đại biểu Nhân dân toàn quốc Trung Quốc quyết định thiết lập Bài chọn lọc ngày 26 tháng 8: Mẫu phương Nam Tao Đàn; A Na bà chúa Ngọc; Việt Nam Tổ Quốc tôi; Ai thương núi nhớ biển, Gõ ban mai vào phím; Vị tướng của lòng dân; Nguyễn Đức Trung Hoa Đất; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-26-thang-8/

          HOA ĐẤT THƯƠNG LỜI HIỀN
          Hoàng Kim

          Mẫu Phương Nam Tao Đàn
          Đường Huyền Trân Công Chúa
          Nam tiến của người Việt
          Hoa Đất thương lời hiền

          xem tiếp Hoa Đất thương lời hiềnChuyện đồng dao cho emPhục sinh giữa tối sángTỉnh lặng với chính mìnhVui đi dưới mặt trờiVui bước tới thảnh thơiVui sống giữa thiên nhiênĐọc “Ngụ ngôn thời @” Mười năm ở Bạc LiêuChuyện cổ tích người lớn

          cropped-dsc00927.jpg

          A NA BÀ CHÚA NGỌC
          Hoàng Kim

          Ngọc Phương Nam. A Na bà chúa Ngọc tại tháp Po Nagar, Nha Trang, có văn bia do cụ Phan Thanh Giản soạn ngày 20 tháng 5 năm Tự Đức thứ 9 (1857) , bản dịch của Quách Tấn, ông bà Lê Vinh tạc năm 1970. Hình tượng Mẹ thật tuyệt vời này trong tín ngưỡng Đạo Mẫu Việt Nam với văn hóa Việt Chăm. Những công trình nghiên cứu lịch sử văn hóa gần đây của các tác giả Ngô Đức Thịnh 2009, Lê Đình Phụng 2015, Huỳnh Thiệu Phong 2016 và những người khác giúp soi thấu nhiều góc khuất để tích cũ viết lạị bài A Na bà chúa Ngọc. Cám ơn các tác giả của những tài liệu đã trích dẫn (HK).

          A Na bà chúa Ngọc (bài và ảnh Hoàng Kim)

          BÀ THIÊN Y A NAN
          Lược sử

          Xưa tại núi Đại An (Đại điển) có hai vợ chồng Ông tiều đến cất nhà và vỡ rẫy trồng dưa nơi triền núi. Dưa chín thường hay bị mất.

          Một hôm ông rình, bắt gặp một thiếu nữ trạc chừng chín mười tuổi hái dưa rồi giỡn dưới trăng. Thấy cô gái dễ thương ông đem về nuôi. Hai ông bà vốn không con cái, nên đối với thiếu nữ thương yêu như con ruột.

          Một hôm trời mưa lụt lớn, cảnh vật tiêu điều buồn bã thiếu nữ lấy đá chất ba hòn dã sơn và hái hoa lá cắm vào, rồi đứng ngắm làm vui. Cho rằng hành vi của con không hợp với khuê tắc, ông tiều nặng tiếng rầy la. Không ngờ đó là một tiên nữ giáng trần đang nhớ cảnh Bồng lai. Đã buồn thêm bực nhân thấy khúc kỳ nam theo nước nguồn trôi đến tiên nữ bèn biến thân vào khúc kỳ, để mặc cho sóng đưa đẩy. Khúc kỳ trôi ra biển cả rồi tấp vào đất Trung Hoa. Mùi hương bay ngào ngạt. Nhân dân địa phương lấy làm lạ rũ đến xem. Thấy gỗ tốt xứm nhau khiêng, nhưng người đông bao nhiêu cũng không giở nổi.

          Thái tử Bắc Hải nghe tin đồn, tìm đến xem hư thực, thấy khúc gỗ không lớn lắm lẽ gì nặng đến nỗi giở không lên, Thái Tử bèn lấy tay nhấc thử. Chàng hết sức lạ lùng vì khúc gỗ nhẹ như tờ giấy, bèn đem về cung, trân trọng như một bảo vật.

          Một đêm, dưới bóng trăng mờ. Thái Tử thấy có bóng người thấp thoáng nơi để khúc kỳ nam. Nhưng lại gần xem thì tứ bề vắng vẻ, bên mình chỉ phảng phất mùi hương thanh thanh từ khúc kỳ bay ra. Chàng quyết rình xem mấy đêm liền không hề thấy khác lạ. Chàng không nản chí. Rồi một hôm, đêm vừa quá nửa, bốn bề im phăng phắc, một giai nhân tuyệt sắc theo ngọn gió hương ngào ngạt từ trong khúc kỳ nam bước ra.

          Thái Tử vụt chạy đến ôm choàng. Không biến kịp, giai nhân đành theo Thái Tử về cung và gho biết rõ lai lịch.

          Giai nhân xưng là Thiên Y A Na.

          Thái Tử vốn đã trưởng thành nhưng chưa có lứa đôi vì chưa chọn được người xứng ý. Nay thấy A Na xinh đẹp khác thường bèn tâu phụ hoàng xin cưới làm vợ. Nhà vua xin bói cát hung. Trúng quẻ “đại cát” liền cử lễ thành hôn.

          Vợ chồng ăn ở với nhau rất tương đắc và sanh được hai con, một trai, một gái, trai tên Trí, gái tên Quý, dung mạo khôi ngô.

          Thời gian qua trong êm ấm Nhưng một hôm lòng quê thúc giục Thiên Y bồng hai con nhập vào kỳ nam trở về làng cũ.

          Núi Đại An còn đó nhưng vợ chồng ông tiều đã về cõi âm Thiên Y bèn xây đắp mồ mã cha mẹ nuôi và sửa sang nhà cửa để phụng tự. Thấy dân địa phương còn dã man, bà đem văn minh Trung Hoa ra giáo hóa, dạy cày cấy, dạy kéo vải, đệt sợi .. và đặt ra lễ nghi .. từ ấy ruộng nương mở rộng đời sống của nhân dân mỗi ngày mỗi thêm phúc túc phong lưu công khai phá của bà chẳng những ở trong địa phương và các vùng lân cận cũng được nhờ. Rồi một năm vào ngày lành tháng tốt, trời quang mây tạnh một con chim hạc từ trên mây bay xuống, bà cùng hai con lên lưng hạc bay về tiên.

          Nhân dân địa phương nhớ ơn đức xây tháp tạc tượng vào năm 817 phụng thờ và mỗi năm vào ngày bà thăng thiên 23. 3 âm lịch tổ chức lễ múa bóng dâng hương hoa rất long trọng. Ở Bắc hải Thái Tử trông đợi lâu ngày không thấy vợ con trở về bèn sai một đạo binh dong thuyền sang Đại an tìm kiếm. Khi thuyền đã đến nơi thì bà đã trở về Bồng đảo. Người Bắc hải ỷ đông hà hiếp dân địa phương ngờ rằng dân địa phương nói dối bèn hành hung không giữ lễ xúc phạm thần tượng, nhân dân bèn thắp nhang khấn vái. Liền đó gió thổi đá bay đánh đắm thuyền của Thái Tử Bắc hải.

          Nơi đây nổi lên một hòn đá lớn tục gọi là đá chữ.

          Ngày 20 5 năm Tự Đức thứ 9 ‘1857’ PHAN THANH GIẢN
          Thượng thư Lễ nghi thảo văn, theo bản dịch Quách Tấn

          A Na bà chúa Ngọc (bài và ảnh Hoàng Kim)

          Văn bia viết về Thiên Y A Na tại tháp Po Nagar, Nha Trang do cụ  Phan Thanh Giản soạn ngày 20 tháng 5 năm Tự Đức thứ 9 (1857) – bản dịch của Quách Tấn – ông bà Lê Vinh tạc năm 1970 (Thiên Y A NA Wikipedia Tiếng Việt), văn bản đánh máy của Hoàng Kim sao y văn bản tại tháp Po Nagar, Nha Trang.

          NgoDucThinh2009DaoMauVietNam

          ĐẠO MẪU VIỆT NAM (tập 1 & tập 2)
          Ngô Đức Thịnh 2009 (NXB Tôn Giáo 2009)

          Bộ sách gồm 2 tập gần 1000 trang giấy khổ lớn này là công trình nghiên cứu qua nhiều năm của Giáo sư Tiến sĩ Ngô Đức Thịnh, thuộc Trung tâm Nghiên cứu và bảo tồn tín ngưỡng Việt Nam, bao gồm hầu hết những vấn đề liên quan đến tục thờ Mẫu ở Việt Nam từ xưa đến nay và trên khắp ba miền Nam, Trung, Bắc, tất nhiên là được trình bày dưới sự nhìn nhận và đánh giá của khoa học hiện đại.

          Sách chia làm 6 phần. Phần thứ nhất trình bày những thành tựu nghiên cứu hiện nay về những vấn đề chung nhất đối với đạo Mẫu. Phần thứ hai, thứ ba và thứ tư tuần tự phân tích chi tiết về đạo Mẫu ở miền Bắc, miền Trung và miền Nam. Phần thứ năm đánh giá chung về đạo Mẫu và các giá trị tích cực cũng như tiêu cực của nó. Cuối cùng, phần thứ sáu là phần sưu tầm các bản văn thơ, tư liệu bằng văn bản được lưu truyền trong đạo Mẫu.Link Download eBook có trong tuyển tập DVD Văn Hóa
          https://www.scribd.com/doc/239678283/Dao-Mau-Viet-Nam

          LeDinhPhung

          ĐỐI THOẠI VỚI NỀN VĂN MINH CỔ CHĂM PA
          Lê Đình Phụng 2015 (Bảo tàng lịch sử Việt Nam)

          Tác giả Lê Đình Phụng; Nhà Xuất bản Khoa học xã hội; Khổ sách 16 cm x 24 cm; Số lượng 302 trang; Năm 2015.

          Văn hóa Champa là một nền văn hóa lớn, độc đáo, mang bản sắc riêng, có nhiều đóng góp quan trọng vào văn hóa dân tộc trong lịch sử và tỏa sáng đến ngày nay. Kế thừa từ văn hóa cội nguồn của tộc người và sự tiếp thu hội nhập từ văn minh Ấn Độ đưa lại, người Chăm đã xây dựng và phát triển tạo nên một nền văn hóa rực rỡ có mặt từ Nam đèo Ngang (tỉnh Quảng Bình) chạy dài theo dải đất miền Trung đến bờ Bắc sông Đồng Nai (tỉnh Bình Thuận), lan tỏa lên vùng cao nguyên đại ngàn hùng vĩ cùng hệ thống các đảo ven biển miền Trung.Lê Đình Phùng là một cán bộ nghiên cứu công tác tại Viện Khảo cổ. Ông được phân công nghiên cứu về khảo cổ học Champa. Sau hơn 30 năm nghiên cứu về nền văn hóa này, với lòng yêu nghề và niềm đam mê  đã thôi thúc tác giả luôn tìm hiểu, tự đặt ra những câu hỏi và tự tìm kiếm câu trả lời. Cuốn sách “ Đối thoại với nền văn minh cổ Champa” như sự tự độc thoại với nền văn minh trong quá khứ.  Tác giả không nêu các thành tựu nghiên cứu đã đạt được mà chỉ nêu những vấn đề còn chưa có lời giải thỏa đáng.

          Tác phẩm gồm 4 nội dung chính:

          Phần  I: Đối thoại với chủ nhân nền văn hóa Champa – Người Chăm
          Phần  II : Đối thoại với lịch sử Champa
          Phần III : Đối với tín ngưỡng và tôn giáo Champa
          Phần IV : Đối thoại với di sản vật chất Champa

          Thư viện Bảo tàng Lịch sử quốc gia (số 25 Tông Đản – Hoàn Kiếm – Hà Nội) xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc!

          Nguồn: Phạm Trang Nhung (Phòng Tư liệu – Thư viện)

          Thien_Y_A_Na

          TỪ YANG PO INÂ NÂGAR ĐẾN THIÊN YANA DIỄN NGỌC PHI: DẤU ẤN CỦA SỰ GIAO THOA VĂN HÓA VIỆT – CHĂM TRONG DÒNG CHẢY VĂN HÓA VIỆT NAM

          Huỳnh Thiệu Phong
          Nguồn:
          Nghiên cứu Lịch sử

          Dân tộc Chăm – một trong số 54 dân tộc anh em đang sinh sống trên lãnh thổ dân tộc Việt Nam đã từng có một thời kỳ huy hoàng trong lịch sử dân tộc. Ngày nay, mặc dù Vương quốc Chăm Pa đã không còn nữa, người Chăm hiện diện với tư cách là một tộc người bộ phận trong đại gia đình các dân tộc anh em của Việt Nam; song, những giá trị cả về lịch sử lẫn văn hóa mà Vương quốc Chăm nói chung, con người Chăm nói riêng để lại vẫn còn nguyên vẹn. Có những giá trị đã được phơi bày trước ánh sáng khoa học; nhưng đồng thời cũng có những giá trị vẫn còn là một dấu chấm hỏi đặt ra để thử thách giới khoa học.

          Một quá trình hỗn cư vì điều kiện lịch sử quy định đã cho phép quá trình giao lưu và tiếp biến văn hóa diễn ra giữa hai nền văn hóa Việt – Chăm. Giới nghiên cứu trong nước đã có những công trình khoa học nghiên cứu nghiêm túc và có giá trị về sự giao lưu và tiếp biến văn hóa giữa hai nền văn hóa này.

          Trong quá trình học tập, sự tìm hiểu về văn hóa Chăm là cần thiết và thường xuyên đối với bản thân tác giả. Điều kiện của tác giả hiện nay tốt hơn những bậc tiên bối đi trước, vì tôi có được sự kế thừa những thành quả nghiên cứu của họ. Tiếp nối những thành quả đó, bài viết này mang tính kế thừa là chủ yếu. Tôi tập trung làm rõ diễn trình “biến hóa” của Mẹ Nữ thần Xứ sở Yang Po Inâ Nâgar để trở thành Thiên Yana Diễn Ngọc Phi thông qua việc tập trung giải quyết 3 câu hỏi: Hình tượng Mẹ Xứ sở trong tâm thức người Chăm là như thế nào? – Cơ sở biến đổi từ Mẹ Xứ sở sang Nữ thần Thiên Yana là gì? – Dấu ấn của sự giao thoa đó được biểu hiện trên những bình diện nào?

          Với 3 vấn đề đó, cá nhân tôi nghĩ cũng là tạm đủ trong khuôn khổ một bài viết mang tính kế thừa như vậy. Hi vọng sẽ là hữu ích cho người đọc.

          *

          Vương quốc Chăm Pa trong lịch sử là vương quốc được hình thành từ sự hợp nhất của bộ tộc Cau và bộ tộc Dừa. Sự hình thành của Vương quốc Chăm được đánh mốc từ năm 192, sau khi Khu Liên (Kurung) nổi lên chống lại phong kiến nhà Đông Hán và thành lập Vương quốc Lâm Ấp – tiền thân của Chăm Pa. Với việc hình thành nhà nước từ sớm, trải qua quá trình phát triển lâu dài, người Chăm có đời sống văn hóa rất phát triển, đặc biệt là đời sống tinh thần. Trong đó, vì nằm trên địa bàn thuận lợi về giao thông biển cho nên “… từ văn hóa Sa Huỳnh, cư dân nơi đây đã có mối liên hệ giao lưu trao đổi với văn hóa Ấn Độ…” [6: 147]. Cho đến hiện nay, về cơ bản thì các nhà nghiên cứu tạm chia người Chăm ra làm 4 nhóm: Chăm Ahier – Chăm Awal – Chăm Islam – Chăm H’roi. Sự phân chia này được đề xuất dựa trên cơ sở tôn giáo. Tôi không có tham vọng làm rõ việc phân chia đó là hợp lý hay chưa trong bài viết này.

          Tôn giáo và tín ngưỡng là hai nội hàm khái niệm hoàn toàn khác biệt nhau. Nếu tôn giáo là một tổ chức có hệ thống phân chia rõ ràng thì tín ngưỡng chỉ dừng lại ở mức là một niềm tin vào một lực lượng siêu nhiên nào đó, chưa có một hệ thống rõ ràng để lý giải và chúng chủ yếu lưu truyền trong dân gian. Cũng như người Việt, bên cạnh việc ảnh hưởng từ yếu tố tôn giáo (có thể là nội sinh hoặc ngoại nhập), người Chăm cũng có tín ngưỡng bản địa của riêng mình. Một trong số đó là tín ngưỡng thờ Mẹ. Điều này được thể hiện qua hình tượng Yang Po Inâ Nâgar – vị Mẫu thần mà người Chăm tôn thờ và gọi bà là Mẹ Nữ thần Xứ sở. Việc “lựa chọn” này của người Chăm đã trùng với sự “lựa chọn” của người Việt để rồi sau này, khi điều kiện lịch sử chi phối thì hình tượng Thiên Yana Diễn Ngọc Phi đã ra đời như một sự khẳng định cho dấu ấn giao thoa hai nền văn hóa Việt – Chăm.

          Trong phân tích về nguồn gốc chế độ Mẫu hệ của người Chăm, Phú Văn Hẳn đã căn cứ đến 4 yếu tố mà theo ông, chính đó là nguyên nhân lý giải cho việc người Chăm theo Mẫu hệ. Bốn yếu tố đó bao gồm: Nguồn gốc lịch sử, chính trị – kinh tế, nguồn gốc nhân chủng – yếu tố tình cảm [1: 34]. Trong đó, cá nhân tác giả bài viết đặc biệt quan tâm đến nguyên nhân thứ nhất là nguồn gốc lịch sừ; “Về nguồn gốc lịch sử, theo truyền thuyết, dân tộc Champa tôn xưng Nữ thần Po Inâ Nâgar là “Thần mẹ của xứ sở”, người đã khai sáng ra giang sơn gấm vóc của dân tộc Champa… Phải chăng vì nhân vật đầu tiên khai sáng ra non sông Champa là một nữ thần nên dân tộc Champa từ trong quá khứ của cội nguồn?” [1: 34]. Giả định này của Phú Văn Hẳn có lẽ còn cần phải xem xét lại về độ tin cậy. Tuy nhiên, việc đặt giả định như vậy cũng cho thấy ảnh hưởng của nữ thần Yang Po Inâ Nâgar trong tâm thức người Chăm là lớn đến nhường nào.

          Về nguồn gốc của vị nữ thần này, căn cứ vào các nguồn tư liệu, Ngô Đức Thịnh đã phân thành hai nhánh truyền thuyết: Một mang tính vũ trụ luận tôn giáo, một mang tính dân gian phi tôn giáo. Sau đây, xin được trích dẫn hai dị bản mang tính vũ trụ luận tôn giáo về truyền thuyết của Bà.

          “… Bà là vị thần từ cõi trời xuống trần gian, Bà có 97 người chồng, 36 người con tượng trưng cho 37 màu máu, 37 màu máu biến thành 37 giống cây trồng, vật nuôi và các tục lệ cúng thần khác. Thân thể bà đồng nhất và tượng trưng cho các phần khác nhau của vũ trụ: Thân của bà chính là bầu trời, đầu của bà chính là mũ đội của các vị vua, của các sư cả Bàlamôn, cánh tay của bà tượng trưng cho Sao Cày, đôi chân bà là sao Bắc Đẩu, răng của bà rìu đá của thần Sấm Sét, …” [7: 203, 204]. Một dị bản khác thì cho rằng: “Theo người Chàm, nữ thần Pô Nagar với tên gọi đầy đủ là Pô Yang Ino Nagara được sinh ra từ mây trời và từ bọt biển, nữ thần đã hiện thân dưới hình dáng một khúc gỗ kỳ nam nổi trên mặt biển. Bà có 97 người chồng, trong đó Po Yang Amô là người yêu có nhiều mãnh lực nhứt, và bà đã sinh 38 người con gái, đều cũng đã trở thành nữ thần như mẹ. Bà đã tạo sinh ra đất đai, cây kỳ nam và lúa gạo, không khí chung quanh bà đượm mùi thơm của lúa và chính bà đã đem sinh khí cho cây sung thần” [3: 225, 226].Như vậy, hai truyền thuyết về vị nữ thần này dù có sự khác nhau đôi chút về phương diện mô tả, song tất cả đều hướng đến một mục đích là khẳng định vai trò to lớn của Yang Po Inâ Nâgar trong việc lập quốc.

          Hiện nay, tại một số di tích đền tháp Chăm còn sót lại, ngoài các vị thần “ngoại lai” được du nhập vào tôn giáo của người Chăm từ việc tiếp nhận Bàlamôn giáo, Yang Po Inâ Nâgar vẫn là vị nữ thần được tôn thờ nhiều nhất trong các đền tháp. Những di tích đền tháp này tập trung chủ yếu ở khu vực Bình Thuận, Ninh Thuận, Khánh Hòa, Phú Yên [7: 209]. Trong những di tích đó, đáng kể nhất là tại Nha Trang với quần thể di tích Tháp Bà. Một điểm khá thú vị mà Ngô Đức Thịnh đã rút ra được trong công trình Đạo Mẫu Việt Nam (tập 1) chính là: “… các di tích thờ Pô Inư Nưgar từ Nha Trang trở ra đến Huế đã bị Việt hóa, thành nơi thờ phụng các nữ thần mang danh thần Việt, như Thiên Yana, Bà Chúa Ngọc…” [7: 209]. Đến đây, một vị nữ thần khác là Thiên Yana đã xuất hiện và có thể xem đây là dấu ấn to lớn nhất trong quá trình giao lưu và tiếp biến văn hóa Việt – Chăm. Sự giao thoa này cần phải được xem xét trước tiên ở góc độ lịch sử.

          “Hoành Sơn, một dãy núi ngang, ở vào 10 thế kỷ trước, nó chẳng những là ranh giới giữa hai nước Đại Việt và Chiêm Thành mà còn là ranh giới giao tiếp của hai nền văn hóa lớn của nhân loại: phía Bắc là vùng ảnh hưởng của văn hóa chữ Hán, phía nam chịu ành hưởng của văn hóa Ấn Độ giáo” [3: 225]. Tuy nhiên, những biến thiên của lịch sử đã biến vị thế của ngọn núi ấy, tưởng chừng như là rào cản lớn lao, trở nên vô nghĩa. Sự mở rộng lãnh thổ của Đại Việt và thu hẹp lãnh thổ của vương quốc Chăm về phương Nam đã tạo nên một hình tượng mới trong văn hóa tín ngưỡng dân gian của người Việt. Và, Thiên Yana “ra đời” như một điều tất yếu. Quá trình đi về phương Nam của người Việt đã đồng hành với quá trình Nho giáo hóa ở vùng đất mới; tuy nhiên, vốn là vùng đất từng tồn tại một nền văn hóa rực rỡ, không đơn giản cho những người chủ mới (người Việt)biến đổi tính bản địa của văn hóa khu vực này một cách nhanh chóng mà ngược lại, “… người Việt đã tiếp xúc với việc thờ cúng nguyên mẫu các thần Chăm, trong đó có thần Pô Yang Ino Nagar”[3: 230].

          Thiên Yana là ai ? Nói như Ngô Văn Doanh, Bà là một nữ thần bản địa của người Chăm đã được Việt hóa, là một Thượng đẳng thần và được người dân địa phương tôn kính thờ phụng [5: 272]. Đây có lẽ là câu trả lời ngắn gọn nhất nhưng chưa phải là rõ ràng nhất, nhất là trong việc ta muốn làm rõ tính hỗn dung văn hóa Việt – Chăm. Hiện nay, đa phần các nhà nghiên cứu đều thống nhất rằng hình tượng Thiên Yana và Yang Po Inâ Nâgar chính là một chỉnh thể duy nhất, song là hai vị nữ thần của hai dân tộc khác nhau. Cơ sở của sự tiếp nhận hình tượng Yang Po Inâ Nâgar của người Chăm thành nữ thần Thiên Yana theo tôi bắt nguồn từ hai nguyên nhân chính: (1) Sự trùng hợp về việc tôn trọng vai trò người phụ nữ trong văn hóa truyền thống – (2) Sự hỗn cư của hai tộc người Việt – Chăm trong lịch sử.

          • Việt Nam vốn là quốc gia nông nghiệp, vai trò người phụ nữ luôn được đề cao. Sự ảnh hưởng của Nho giáo sau này mới làm cho vai trò và vị trí của người phụ nữ bị giảm sút. Trong khi đó, như đã đề cập, người phụ nữ trong văn hóa Chăm vốn dĩ đã trở nên vĩ đại với việc họ tôn sùng người khai sinh ra dân tộc là một vị nữ thần – Nữ thần Yang Po Inâ Nâgar.
          • Sự hỗn cư của hai tộc người Việt – Chăm trong lịch sử đã tạo ra bước ngoặc trong việc giao lưu và tiếp biến văn hóa.“… Lâu nay, khi nói về quá trình Nam tiến đó, thì nhiều người nghĩ đơn giản là cứ mỗi lần mở rộng phạm vi lãnh thổ quốc gia Đại Việt, người Việt tiến sâu về phương nam thì người Chăm càng co dần rút về tụ cư ở vùng đất Ninh Thuận Bình Thuận ngày nay. Thực ra không hoàn toàn là như vậy, mà cơ bản người Chăm vẫn bám trụ đất cũ, cùng cộng cư với người Việt mới tới và diễn ra quá trình người Chăm đồng hóa người Việt…” [7: 227].

          Còn một nguyên nhân phụ khác, theo tôi cũng nên đề cập mặc dù nó không phải là nguyên nhân chính. Đó chính là việc tiếp nhận hình tượng Yang Po Inâ Nâgar  lúc ban đầu của người Việt chính là biểu hiện của việc tôn trọng tổ tiên của vùng đất này trước đây. Hai nguyên nhân chính và một nguyên nhân phụ chính là tiền đề cho việc hình thành hình tượng “Thiên Yana Diễn Ngọc Phi”.

          Danh xưng đầy đủ của vị nữ thần này là “Thiên Yana Diễn Ngọc Phi”. Trong việc phân tích danh xưng đầy đủ của vị nữ thần người Việt này, Nguyễn Hữu Hiếu đã có những kiến giải rất hợp lý. Thiên Yana là sự Việt hóa từ khái niệm Devayana, trong đó Thiên = Yang = Deva = Trời; Yana = phần còn lại của Devayana. “Diễn Ngọc Phi” hay “Diễn Phi Chúa Ngọc” phản ánh sự kiện vào năm 1797, Tổng trấn Nguyễn Văn Thành cho xây dựng đền thờ Bà Chúa Ngọc trên núi Diễn (Khánh Hòa) để mong vùng đất này không bị cọp quấy nhiễu [3]. Như vậy, ngay trong danh xưng của hai vị nữ thần này ta đã thấy có sự trùng hợp về mặt ngôn ngữ.

          Sự tiếp nhận hình tượng Yang Po Inâ Nâgar của người Chăm và đưa vào hệ thống điện thờ của người Việt đã vấp phải những rào cản nhất định. Thực chất hiện nay, ở mỗi địa phương khác nhau, hình tượng Thiên Yana đã có sự biến đổi tương đối. Sự biến đổi ở đây có thể là biến đổi về danh xưng (Thiên Yana – Bà Chúa Ngọc – Bà Bô Bô – Bà Thu Bồn – Bà Mẹ Đất) hoặc có thể là biến đổi về chức năng thờ cúng (có thể Bà là Mẹ Đất, Mẹ Sông, …) [6, 7]. Theo tôi, đặc điểm này được quy định bởi yếu tố địa – văn hóa. Bởi vì, ở một số địa phương, Thiên Yana được thờ phụng cạnh một số dòng sông và khi đó, danh xưng lẫn chức năng của vị nữ thần này cũng đồng thời bị biến đổi. Mặt khác, ở địa phương không có sông suối, bà lại trở lại thành Bà Chúa Ngọc hay Thiên Yana.

          Dấu ấn của sự giao thoa văn hóa được thể hiện rõ nét nhất chính là tại quần thể di tích Tháp Bà ở Nha Trang. Ai trong chúng ta cũng đều biết, đây vốn là một công trình đền tháp của người Chăm xây dựng nhằm tôn thờ Mẹ Nữ thần Xứ sở của họ. Tuy nhiên, hiện nay, tại đây lại để cụm chữ “Tháp – Thiên – Y – Thánh – Mẫu” và có vẻ như đã phủ nhận hoàn toàn hình tượng Yang Po Inâ Nâgar (?).Và một thực tế là du khách khi đến tham quan tại quần thể di tích Tháp Bà hiện nay quan sát đều có thể thấy, cộng đồng người Chăm tại khu vực này còn tập trung rất ít, các nghi lễ thờ cúng do người Việt phụ trách là đa số.

          Nói tóm lại, có thể xem thờ Mẫu là một điểm chung giữa hai nền văn hóa Việt – Chăm: “… sự hỗn cư giữa người Chăm và người Việt, thì tín ngưỡng thờ Mẹ [của người Chăm – HTP] vẫn được duy trì bảo lưu và có sự gia nhập của người Việt, mang trong tinh thần Việt tục thờ Mẫu hội nhập với tục thờ Mẹ của người Chăm…” [6: 146]. Vì điều kiện lịch sử, giữa hai nền văn hóa này đã diễn ra sự chung đụng, quá trình tiếp biến văn hóa đã diễn ra như một quy luật tất yếu như nhận định của Nguyễn Thừa Hỷ “Trên thế giới, các nền văn hóa không đứng cô lập và bất biến” [4: 12]. Ta có quyền tự hào về hình tượng Thiên Yana – một sản phẩm minh chứng rõ nét cho quá trình giao lưu văn hóa Việt – Chăm trong dòng chảy lịch sử văn hóa dân tộc./.

          TÀI LIỆU THAM KHẢO

          [1]: Chi hội Dân tộc Chăm (2014), Những vấn đề văn hóa – xã hội người Chăm ngày nay, NXB Trẻ.
          [2]: Ngô Văn Doanh (2006), Lễ hội Chuyển mùa của người Chăm, NXB Trẻ.
          [3]: Nguyễn Hữu Hiếu (2010), Diễn trình văn hóa vùng đồng bằng sông Cửu Long, NXB Thời đại.
          [4]: Nguyễn Thừa Hỷ (2012), Văn hóa Việt Nam truyền thống một góc nhìn, NXB Thông tin và Truyền thông.
          [5]: Nhiều tác giả (2013), Văn hóa một số vùng miền ở Việt Nam, NXB Thời đại.
          [6]: Lê Đình Phụng (2015), Đối thoại với nền văn minh cổ Chămpa, NXB Khoa học Xã hội.
          [7]: Ngô Đức Thịnh (2009), Đạo Mẫu Việt Nam – tập 1, NXB Tôn giáo.

          AI THƯƠNG NÚI NHỚ BIỂN
          Hoàng Kim

          Ai thương núi nhớ biển
          A Na bà chúa Ngọc
          Ai tỏ Ngọc Quan Âm
          An vui cụ Trạng Trình

          Loc xuan

          NHỚ MIỀN ĐÔNG
          Hoàng Kim

          Giữa ngày vui nhớ miền Đông
          Nôn nao lòng lại giục lòng nhớ thương
          Chân đi muôn dặm nẻo đường
          Phải đâu cứ đất quê hương mới là

          Đêm nằm nghe gió thoảng qua
          Nồng thơm hương lúa, đậm đà tình quê
          Chợt dưng lòng lại gọi về
          Vùng quê xa với gió hè miền Đông

          Vục đầu uống ngụm nước trong
          Nhớ sao Vàm Cỏ ngọt dòng sông xanh
          Nhớ từ xóm Giữa xa em
          Nhớ lên Bù Đốp, Lộc Ninh, xóm Chùa

          Xa em từ bấy đến chừ
          Một vầng trăng sáng xẻ chia đôi miền
          Em về Châu Đốc, Long Xuyên
          Anh lên Sêrêpốc với niềm nhớ thương

          Nằm đêm lưng chẳng tới giường
          Nghe chao cánh võng giữa rừng đêm khuya
          Chăm chăm theo nét bản đồ
          Cùng anh cùng bạn tiến vô Sài Gòn

          Giữa ngày vui nhớ miền Đông
          Nhớ em nhớ bạn, thuỷ chung vẹn toàn
          Phải vì vất vả gian nan
          Của bao năm đặm nhớ thương đến rày …

          Non sông những tháng năm này
          Lọc muôn sắc đỏ đón ngày hội vui
          Nhớ em trong dạ bùi ngùi …
          Trông trời hoa, nhớ đất trời miền Đông.

          NẮM CHẶT TAY ANH ĐI EM
          Hoàng Kim

          Đừng ngớ ngẩn lạc mất nhau em nhé.
          Ta thương nhau thăm thẳm tháng năm dài.
          Khi thoáng chốc trăm năm nhìn trở lại.
          Suốt trọn đời tay nắm chặt bàn tay.

          Nắm chặt tay anh đi em!
          Anh ước mong em đến đây
          Giữa hoa lá cỏ cây
          Của mùa Xuân ngập nắng
          Trời hóa xanh trong
          Sau cơn mưa chiều bất ngờ rơi nặng
          Gió mang hương đồng tha thiết tặng em.

          Đừng hỏi anh sao mãi ước mong thêm
          Dù mình đã trao những lời hạnh phúc
          Biết bao yêu thương,
          giận hờn, cơ cực
          Dẫu trao nhận hoài
          cũng chẳng đủ cho nhau.

          Trong cái nắng chiều,
          Dòng người đang đi  vội vã
          Sao anh nhớ em đến vậy!
          Ước được nắm tay em
          Mặc dòng người xô đẩy,
          Vượt qua phố đông
          ngã năm, ngả bảy…
          Đi đến tận cùng
          Hạnh phúc tình yêu.

          Là điều anh ước mơ bấy lâu
          (Và chắc em cũng vậy).
          Đừng cười anh, em nhé!
          Ước mơ của anh nhỏ nhoi, bình dị.
          Mong cho những lứa đôi như mình
          Mãi mãi yêu thương!

          Nắm chặt tay anh đi em!
          Bằng lòng theo anh
          Cho dẫu cuộc đời
          Nhiều khi xô ta ngã
          Anh nguyện suốt đời
          làm chỗ dựa của đời em.
          Em mãi là ngôi nhà
          hạnh phúc bình yên!

          Giữ chặt tay anh đi em!
          Bởi khi mình đã trong nhau
          Thì vất vả đọa đầy
          cũng không chia cắt nổi
          Mình đã tri kỷ với nhau rồi
          Thì chẳng thể nào
          Vuột khỏi đời nhau.

          Xem tiếp >>

            Dạy và học 25 tháng 8(27-08-2021)


          Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là topographic-map-of-vietnam.-created-with-gmt-from-publicly-released-globe-data.jpg
          Bản đồ địa hình Việt Nam. Được tạo với GMT từ dữ liệu GLOBE được phát hành công khai Topographic map of Vietnam. Created with GMT from publicly released GLOBE data

          DẠY VÀ HỌC 25 THÁNG 8
          Hoàng Kim
          CNM365 Tình yêu cuộc sống .Việt Nam tổ quốc tôi, Vị tướng của lòng dân; Nguyễn Đức Trung Hoa Đất; Gia đình thương nhớ Em; Mưa Ngâu rằm Vu Lan; Quốc khánh Uruguay Ngày 25 tháng 8 năm 1825.Uruguay tuyên bố độc lập từ Brasil. Ngày 25 tháng 8 năm 1911 ngày sinh Võ Nguyên Giáp, chính khách và danh tướng Việt Nam. Ngày 25 tháng 8 năm 1776 ngày mất David Hume, triết gia, nhà kinh tế học và nhà sử học nổi tiếng người Scotland (sinh năm 1711). Ngày 25 tháng 8 năm 1883 Chính phủ Pháp và triều Nguyễn ký kết Hòa ước Quý Mùi, xác lập quyền bảo hộ lâu dài của Pháp trên toàn bộ Việt Nam. Ngày 25 tháng 8 năm 1945 Cách mạng tháng Tám: Bảo Đại đọc chiếu thoái vị tại Huế, kết thúc nhà Nguyễn. Bài chọn lọc ngày 25 tháng 8: Việt Nam tổ quốc tôi, Vị tướng của lòng dân; Nguyễn Đức Trung Hoa Đất; Gia đình thương nhớ Em; Mưa Ngâu rằm Vu Lan; Nông lịch Tiết Xử Thử; Chuyện cổ tích người lớn; Sắn Việt Lúa Siêu Xanh; Sớm Thu thơ giữa lòng; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/ và http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-25-thang-8/

          VIỆT NAM TỔ QUỐC TÔI
          Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim

          VIỆT NAM HỌC Tổng quan văn hoá và kinh tế xã hội Việt Nam là tập tài liệu giảng dạy nghiên cứu Việt Nam Học người Việt, tiếng Việt, nông nghiệp Việt Nam, văn hóa, kinh tế xã hội, du lịch sinh thái. Mục đích nhằm đúc kết kiến thức nền Việt Nam Học giúp cho sự hiểu biết đất nước con người Việt Nam “vốn xưng nền văn hiến đã lâu; núi sông bờ cõi đã chia, phong tục Bắc Nam cũng khác” (Nguyễn Trãi, 1428) với phẩm chất văn hóa thân thiện, tốt đẹp. Việt Nam Học bài này giới thiệu tóm tắt Thông tin nhanh về Việt Nam Bài đọc thêm: Việt Nam đất lành chim đậu Nha Trang và A Yersin

          Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là ban-do-cac-vung-du-lich-o-viet-nam.jpg

          VIỆT NAM MỘT THOÁNG NHÌN
          Hoàng Tố Nguyên

          Việt Nam là một đất nước yêu độc lập, tự do và hạnh phúc. Đất nước Việt Nam hình chữ S, nằm ở trung tâm khu vực Đông Nam Á, ở phía đông bán đảo Đông Dương, phía bắc giáp Trung Quốc, phía tây giáp Lào, Campuchia, phía đông nam trông ra biển Đông và Thái Bình Dương. Việt Nam có diện tích 331.211,6 km², dân số Việt Nam có 95.929.429 người (18.2.2018) Thủ đô là Hà Nội. Ba thành phố chính nổi tiếng nhất của Việt Nam là Hà Nội, Huế và thành phố Hồ Chí Minh. Bờ biển Việt Nam dài 3 260 km, biên giới đất liền dài 4 510 km. Trên đất liền, từ điểm cực Bắc đến điểm cực Nam (theo đường chim bay) dài 1 650km, từ điểm cực Đông sang điểm cực Tây nơi rộng nhất 600km (Bắc bộ), 400 km (Nam bộ), nơi hẹp nhất 50km (Quảng Bình). Kinh tuyến Việt Nam từ 102º 08′ đến 109º 28′ đông,Vĩ tuyến Việt Nam từ 8º 02′ – 23º 23′ bắc. Việt Nam là đầu mối giao thông từ Ấn Độ Dương sang Thái Bình Dương. Khí hậu Việt Nam là khí hậu của nước nhiệt đới gió mùa; Địa hình lãnh thổ Việt Nam phần đất liền bao gồm 3 phần 4 là đồi núi; Tài nguyên Việt Nam có những nguồn tài nguyên vô cùng phong phú như tài nguyên rừng, tài nguyên thủy hải sản, tài nguyên du lịch và nhiều loại khoáng sản đa dạng, nhưng trên hết trước hết đó là tài nguyên con người hiền hòa, thân thiện, anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang, năng động, sáng tạo, sống có trách nhiệm với mái nhà chung Trái Đất, thích làm bạn với nhân dân thế giới.  Đơn vị hành chính Việt Nam có 65 tỉnh và thành phố. Bảy vùng sinh thái kinh tế nông nghiệp Việt Nam (hình).

          Bài viết mới
          Dạo chơi non nước Việt
          Dạy và học thời Covid19
          Vườn Quốc gia Việt Nam
          Di sản thế giới tại Việt Nam
          Nông nghiệp sinh thái Việt Nam

          VỊ TƯỚNG CỦA LÒNG DÂN
          Hoàng Kim

          Võ Nguyên Giáp vị tướng của lòng dân. Người dĩ công vi thượng, biết người biết mình, dám đánh và biết đánh thắng. Đại tướng Võ Nguyên Giáp có những câu nói bất hủ:Thế giới còn đổi thay nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh sẽ sống mãi”; “Ý định của tôi là ra lệnh hoãn cuộc tiến công ngay chiều hôm nay, thu quân về vị trí tập kết, chuẩn bị lại theo phương châm đánh chắc, tiến chắc”; “Ngày hôm đó, tôi đã thực hiện được một quyết định khó khăn nhất trong cuộc đời chỉ huy của mình!”; “Thần tốc, thần tốc hơn nữa; táo bạo, táo bạo hơn nữa; tranh thủ từng phút, từng giờ; xốc tới mặt trận; giải phóng miền Nam. Quyết chiến và toàn thắng!”; Chúng tôi đánh theo cách đánh khác, cách đánh của Việt Nam, và chúng tôi sẽ thắng”; “Vị tướng dù có công lao lớn đến đâu cũng chỉ là giọt nước trong biển cả. Chỉ có nhân dân Việt Nam là người đánh thắng Mỹ. Các ngài gọi tôi là vị tướng thần thoại, nhưng tôi tự nghĩ tôi bình đẳng với những người lính của mình”; “Tôi sống ngày nào, cũng là vì đất nước ngày đó” Cuộc đời Người là 103 mùa xuân huyền thoại, còn mãi với non sông.

          VÕ NGUYÊN GIÁP 103 MÙA XUÂN HUYỀN THỌAI

          Đại tướng Võ Nguyên Giáp sinh ngày 25 tháng 8 năm 1911 tại làng An Xá, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình, qua đời ngày 4 tháng 10 năm 2013, lúc 18 giờ 9 phút và an táng ngày 9 tháng 9 năm Quý Tỵ (nhằm ngày 13 tháng 10 năm 2013) tại mũi Rồng- đảo Yến, xã Quảng Đông, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình. Người trãi cuộc trường chinh thế kỷ với 103 mùa xuân huyền thoại, là nhà chỉ huy quân sự và hoạt động chính trị lỗi lạc bên cạnh chủ tịch Hồ Chí Minh.

          Đại tướng Võ Nguyên Giáp là người chỉ huy chính trong Chiến tranh Đông Dương (1946– 1954) và chiến tranh Việt Nam (1960–1975) đã trực tiếp hoặc tham gia chỉ huy Chiến dịch Việt Bắc (thu đông 1947), Chiến dịch Biên giới (thu đông năm 1950), Chiến dịch Trung Du (tháng 12 năm 1950), Chiến dịch Đông Bắc (năm 1951, Chiến dịch Đồng Bằng (tháng 5 năm 1951), Chiến dịch Hòa Bình (tháng 12 năm 1951), Chiến dịch Tây Bắc (tháng 9 năm 1952), Chiến dịch Thượng Lào (tháng 4 năm 1953), Chiến dịch Điện Biên Phủ (tháng 3 – 5 năm 1954), Chiến dịch Tết Mậu Thân (1968), Chiến dịch đường Chín Nam Lào (1971), Chiến dịch Trị Thiên – Huế (1972), Chiến dịch Hồ Chí Minh (1975). Nhiều tài liệu lịch sử gần đây từ hai phía đã soi thấu những góc khuất, càng thể hiện tài năng kiệt xuất của Đại tướng Võ Nguyên Giáp về chiến lược, chiến dịch, chiến thuật trong suốt Chiến tranh Đông Dương (1946–1954) và chiến tranh Việt Nam (1960–1975). Sau khi Việt Nam thống nhất, đại tướng Võ Nguyên Giáp thôi giữ chức Bộ trưởng Bộ Quốc phòng năm 1980 nhưng vẫn tiếp tục là Ủy viên Bộ Chính trị đến năm 1982 và Phó Thủ tướng phụ trách Khoa học – Kỹ thuật. Năm 1983 ông được Hội đồng Bộ trưởng phân công kiêm nhiệm thêm vai trò Chủ tịch Ủy ban quốc gia dân số và sinh đẻ có kế hoạch. Năm 1991, đại tướng nghỉ hưu ở tuổi 80. Thời gian cuối đời, đại tướng vẫn quan tâm đến những vấn đề cơ bản và cấp bách của đất nước, với một loạt những tác phẩm, kiến nghị, đề xuất còn mãi với thời gian như: Thế giới còn đổi thay nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn sống mãi; Để cho khoa học thật sự trở thành động lực phát triển kinh tế xã hội, Đổi mới, tiếp tục đổi mới, dân chủ, dân chủ hơn nữa, nâng cao trí tuệ, đoàn kết tiến lên trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, Đổi mới nền giáo dục và đào tạo Việt Nam; yêu cầu kiểm định và báo cáo Đại hội Đảng Cộng sản X về Vụ PMU18; gặp gỡ và khuyến khích doanh nhân làm xuất khẩu nông sản; đề nghị dừng chủ trương xây dựng Nhà Quốc hội ở khu di tích 18 Hoàng Diệu; viết thư yêu cầu thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tạm dừng Dự án khai thác bô xít ở Tây Nguyên vì lý do an ninh quốc gia và  môi trường; đúc kết Tổng tập Võ Nguyên Giáp;…

          Đại tướng Võ Nguyên Giáp có các tác phẩm chính:  Tổng tập Võ Nguyên Giáp (2010); Điện Biên Phủ 50 năm nhìn lại (2004); Tổng hành dinh trong mùa xuân đại thắng (2000); Điện Biên Phủ điểm hẹn lịch sử (2000); Đường tới Điện Biên Phủ (2001); Chiến đấu trong vòng vây (1995,2001); Chiến tranh giải phóng dân tộc và chiến tranh bảo vệ Tổ quốc (1979); Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam (Võ Nguyên Giáp chủ biên, 2000); Những chặng đường lịch sử (1977); Vũ trang quần chúng cách mạng, xây dựng quân đội nhân dân (1972); Những năm tháng không thể nào quên (1970, 2001) Mấy vấn đề đường lối quân sự của Đảng (1970); Từ nhân dân mà ra (1964); Đội quân giải phóng (1950); Vấn đề dân cày (Trường Chinh,Võ Nguyên Giáp (1938);

          VÕ NGUYÊN GIÁP VỊ TƯỚNG CỦA LÒNG DÂN

          “Văn lo vận nước Văn thành Võ/ Võ thấu lòng dân, Võ hoá Văn”. Đó là đôi câu đối của cụ Hồ Cơ trên 90 tuổi, từng là Hiệu trưởng trường Trung học Nguyễn Nghiêm, huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi, nay sống ở phường Láng Hạ, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội, khái quát tài năng, đức độ của vị Đại tướng huyền thoại, đăng trong bài” Một câu đối – Một đời người ” của VOV. Sự ra đi của Võ Đại tướng đã mở đầu cho những giá trị mới của cuộc sống như một câu đối khác cũng của nhà giáo Hồ Cơ ngưỡng vọng Người: “Trăm tuổi lừng danh Văn Đại tướng/ Nghìn thu vang tiếng Võ Anh hùng”.

          Nhà văn Sơn Tùng có bức trướng: “Võ nghiệp dẹp xong ba đế quốc/ Văn tài xây đắp một nhà chung/ Võ Văn minh đạo chân Nguyên Giáp/ Nhật nguyệt vô thường một sắc không”.

          Bộ Nội vụ tặng Đại tướng đôi lộc bình trên đó có ghi đôi câu đối mang ý nghĩa sâu xa : “Tâm sáng Đảng tin, đời trường thọ/ Trí cao Dân mến, sử lưu danh.” mà tài liệu Soha.vn đã trích dẫn. Nhiều bài thơ văn nhạc viết về Người và đồng đội “Lính Cụ Hồ” theo chân Người. Nhà thơ Hoàng Gia Cương (**) viết

          Mãi mãi là Anh
          Kính tặng anh Văn – Đại tướng Võ Nguyên Giáp

          Anh đã là Anh – mãi mãi Anh
          Người Anh của lớp lớp hùng binh
          Song toàn văn võ, thông kim cổ
          Vững chí bền gan đạp thác ghềnh!

          Nhiều người ứa nước mắt xúc động tiễn Bác Giáp về cõi vĩnh hằng và thấm thía lời nói của Người về lòng yêu nước và sức mạnh toàn dân:”Có lòng dân là có tất cả”.

          Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam, đại tá tiến sĩ Vũ Tang Bồng đúc kết: “MÃI LÀ ANH CẢ CỦA QUÂN ĐỘI, ĐẠI TƯỚNG CỦA NHÂN DÂN. Ngày 4-10-2013, Đại tướng Võ Nguyên Giáp – Người Anh Cả của Quân đội nhân dân Việt Nam, Đại tướng của nhân dân, được cả dân tộc ngưỡng mộ, đã qua đời. Là người có may mắn được gặp và giúp việc cho Đại tướng trong một số lần, trong 5 năm qua, cứ vào dịp kỷ niệm ngày mất của Đại tướng, tôi thường đọc lại những bài viết, hình ảnh trên báo chí những ngày ấy, và lần nào tôi cũng không kìm nổi lòng mình. Tôi còn nhớ, ngay sau khi biết tin Đại tướng từ trần, anh Hoàng Anh, một họa sĩ trẻ đã sáng tác poster “Chào đồng bào, tôi đi” và được Báo Lao động sử dụng làm tranh bìa trong số báo ra ngày 5-10-2013. Đúng 45 phút sau, poster đó được đưa lên Facebook và lập tức gây được sự chú ý đặc biệt. Poster “Chào đồng bào, tôi đi” của người họa sĩ trẻ gây được hiệu ứng lay động bởi hình ảnh của Đại tướng rất giản dị với nụ cười thanh thản. Câu chữ trên poster cũng rất độc đáo với hai chữ “đồng bào”, mà sinh thời Bác Hồ rất thường dùng với nghĩa kêu gọi, gắn kết cội nguồn thân thương, ruột thịt. Poster ấy đã khiến mọi người khi xem đều xúc động mạnh mẽ. Nó cho thấy sự cống hiến và thanh thản của Đại tướng lúc còn sống, cũng như khi về với tổ tiên.”Qua hồi ức của các tướng lĩnh và qua các tác phẩm quân sự của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, chúng ta ngày càng thấy rõ rằng, trong suốt cuộc đời cầm quân, Đại tướng không bao giờ chấp nhận một chiến thắng phải trả bằng bất cứ giá nào, hoặc phải trả bằng cái giá quá đắt xương máu của cán bộ, chiến sĩ, do những quyết định tùy tiện, hoặc thiếu thận trọng gây nên. Đừng nghĩ Đại tướng “sợ” hy sinh xương máu, hay thiếu tinh thần cách mạng tiến công! Không, hoàn toàn không! Đại tướng chưa bao giờ nhân danh việc thực hành quan điểm, cách mạng tiến công để đưa ra những mệnh lệnh chủ quan, gây thương vong nghiêm trọng cho bộ đội. Nguyên tắc bất di bất dịch trong chỉ huy và chỉ đạo cuộc chiến tranh cách mạng của Đại tướng là: Tầm cao mỗi chiến thắng phải tỷ lệ nghịch với tổng số tử sĩ, thương binh trong chiến thắng ấy.  Là một vĩ nhân, một vị tướng huyền thoại, một nhà văn hóa lớn, nên ngay cả sau khi đã nghỉ hưu, hằng ngày Đại tướng vẫn đón nhiều đoàn khách đến thăm hỏi, làm việc, gồm khách quốc tế, khách ở các cơ quan Đảng, Nhà nước, các ban ngành đoàn thể…, nhưng Đại tướng luôn dành sự ưu tiên đặc biệt cho các đoàn của cấp ủy, chính quyền và nhân dân các địa phương, trong đó nhiều đoàn không có lịch trước. Ông luôn dặn các cán bộ giúp việc tìm mọi cách bố trí để Ông có thể gặp được đồng bào, dù chỉ trong ít phút. Nhiều lần, Đại tướng phải xin lỗi các đoàn khách quan trọng, hoặc tranh thủ thời gian giải lao giữa các buổi làm việc để tiếp nhân dân. Những lời ân cần thăm hỏi, dặn dò, nhắc nhở, động viên của Đại tướng khiến đồng bào rất xúc động. Đại tướng cũng luôn nhắc các đồng chí giúp việc chụp ảnh kỷ niệm với bà con dưới gốc cây muỗm cổ thụ trong vườn; sau khi có ảnh thì gửi tặng ngay cho bà con. Đại tướng luôn chinh phục người khác bằng cách ứng xử tự nhiên và bằng tình cảm chân thành. Được chứng kiến lòng dân trong những ngày diễn ra lễ tang Đại tướng, chúng ta thấy rõ, cả dân tộc đã cùng xích lại gần nhau trong nỗi đau chung. Nhìn dòng người vào viếng Đại tướng trong những ngày đầu tháng 10-2013 cứ ngày một dài thêm, có thể thấy, không thước đo nào bằng thước đo lòng dân. Hàng triệu người dân từ già đến trẻ ở khắp mọi miền đất nước, từ miền núi đến đồng bằng, nông thôn, hải đảo đã vượt mọi khó khăn, xa xôi, vất vả, lặng lẽ, kính cẩn xếp hàng ở khu vực nhà riêng của Đại tướng và Nhà tang lễ quốc gia, chờ đến lượt vào viếng vị anh hùng, đã cho thấy cả dân tộc nắm tay nhau kết thành một khối thống nhất; qua đó, tinh thần dân tộc trong mỗi người Việt Nam càng được khơi dậy, phát huy. Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã đi xa, nhưng vẫn mãi là Người Anh Cả của Quân đội, Đại tướng của nhân dân, là ngọn lửa không bao giờ tắt, là nguồn cảm hứng sống và cống hiến của các thế hệ người Việt Nam hôm nay và mai sau.”

          Bác Giáp là vị tướng của lòng dân mà hầu như ai cũng yêu kính rất mực.

          Gia đình tôi cũng vậy. Buổi tối về nhà, nghe tin Bác Giáp mất, chúng tôi đã dừng hết mọi việc để lên thắp hương trên bàn thờ Cha Mẹ để tưởng nhớ Người và tưởng nhớ Bác Giáp. Bài viết này vào lúc một giờ khuya và nối tiếp vào sáng hôm sau. Cha tôi sinh năm 1913 nhỏ hơn Bác Giáp ba tuổi, bị máy bay Mỹ bắn chết năm 1968 vào ngày 29 tháng 8 âm lịch, trước Bác Giáp mất (30/8 al) một ngày. Sinh thời cha tôi là lính Vệ Quốc Đoàn cùng tiểu đội với bác Lê Văn Tri sau này là Phó Tư Lệnh Quân chủng Phòng Không Không Quân. Anh trai tôi là Hoàng Trung Trực và tôi sau này cũng đều tham gia quân đội. Cha vợ tôi, cụ Nguyễn Đức Hà 91 tuổi ở Đức Long, Phan Thiết, nghe tin Bác Giáp mất, cụ đã đi xe đò từ lúc 2 giờ khuya để mờ sáng kịp vào Đồng Nai cùng con cháu đi viếng Bác. Cụ là chiến sĩ quân báo của đơn vị 415 ban 2 trung đoàn anh hùng 812 tỉnh đội Bình Thuận. Cụ đã bị lao tù hai lần và chỉ được ra khỏi tù khi bộ đội vào giải phóng lao xá năm 1975. Cụ đã rất xúc động khi viết vào sổ tang của người anh Cả quân đội.

          Tôi lần đầu tiên và dường như duy nhất trong đời đeo huân chương đi viếng Bác. Giáo sư Nhật Kazuo Kawano một người thân của gia đình sắn Việt Nam, người Thầy danh tiếng này đã xúc động viết về bác Giáp :”Mười năm hợp tác chặt chẽ với các đồng nghiệp chọn tạo giống sắn của tôi từ những năm 1990 và nay gặp lại họ trong chuyến đi này đã hoàn toàn thay đổi sự đánh giá của tôi về Việt Nam. Bằng chứng trong hàng loạt các báo cáo của tôi ở đây, thì họ thật siêng năng, sâu sắc, chu đáo và dường như không biết mệt mỏi để noi theo gương của Đại tướng Võ Nguyên Giáp“.(My ten years of close collaboration with my cassava breeding colleagues in the 1990s and the reunion with them in this trip completely changed my assessment of the Vietnamese. As evidenced by the series of my reporting here, they are industrious, insightful, considerate and indefatigable, as if to emulate General Vo Nguyen Giap …”.  In: Cassava and Vietnam: Now and Then)…

          VÕ NGUYÊN GIÁP CÒN MÃI VỚI NON SÔNG

          “Phải thật công khai, thật công phu, thật công bằng và thật công tâm khi nghiên cứu về Võ Nguyên Giáp”, câu nói này của thượng tướng Trần Văn Trà thật minh triết và thật ám ảnh. Bài viết của Lê Mai ‘Võ Nguyên Giáp trong mắt Trần Văn Trà’, tôi thường đọc lại.  Trần Văn Trà nhận định: “Suốt hai cuộc kháng chiến, tôi chưa hề thầy Bí thư Quân ủy Trung ương kiêm Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp mắc một sai lầm nào về chiến lược và chiến thuật quân sự; tôi chỉ thấy Anh Văn đi những nước cờ bậc thầy để vây hãm và tiến công quân địch”. Đó thật sự là một tổng kết rất sâu sắc của một danh tướng Việt Nam đối với Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp. Ngày 20 tháng 4 năm 1996 là ngày mất của Thượng tướng Trần Văn Trà (1919-1996).“Ra đi hai bàn tay trắng. Trở về một dải giang san. “Trăng xưa, hạc cũ”, dòng sông lặng. Mây nước yên bình, thiên mã thăng”.

          Nhà sử học Dương Trung Quốc nhận định: “Võ Nguyên Giáp là một tên tuổi lớn trong lịch sử dân tộc Việt Nam và càng lớn hơn trong tâm thức những người sống cùng thời với ông. Cuộc đời Võ Nguyên Giáp là một tấm gương phản chiếu của gần trọn thế kỷ XX, thế kỹ dữ dội nhất và cũng bi hùng nhất của dân tộc Việt Nam.”

          John Kennedy phỏng vấn đại tướng Võ Nguyên Giáp và đã viết bài “Trí tuệ bậc Thầy” đăng trên tạp chí George tháng 11 năm 1998, bản tiếng Việt trong sách Hữu Mai 2011 “Không là huyền thoại” (tái bản lần thứ tư) trang 564-569. John Kennedy đã viết: “Giáp từng nói: Chúng ta sẽ đánh bại địch ngay lúc chúng đông quân nhất, nhiều vũ khí nhất, nhiều hi vọng chiến thắng nhất. Bởi vì tất cả sức mạnh đó sẽ làm thành áp lực nặng nề cho địch” Bởi vậy ông chiến đấu theo cách của riêng ông, không theo kiểu của người Mỹ , giao chiến với địch ngay tại nơi và ngay khi địch ít ngờ tới nhất. Ông đã huy động tất cả mọi người tham gia cuộc chiến, làm cho lính Mỹ xa nhà hàng ngàn dặm, không bao giờ có thể cảm thấy an toàn. Ông đã duy trì cuộc chiến đấu dai dẵng, làm cho nguồn lực và nhuệ khí của địch cạn kiệt, trong khi phong trào phản chiến ở Mỹ bùng phát“. Đó là một cách lý giải về nghệ thuật chiến tranh toàn dân, toàn diện, trường kỳ mà tướng Giáp là trí tuệ bậc Thầy.

          Trần Đăng Khoa kể về một ông già bản mà nhà thơ đã gặp trên đường vào Mường Phăng. Ông già hồ hởi: ” Chuyện Đại tướng chứ gì? Đại tướng thì tôi biết. Tôi cũng đã mấy lần gặp Đại tướng rồi. Vùng này là quê của Đại tướng đấy. Năm nọ Đại tướng có về quê. Đại tướng nói chuyện với đồng bào bằng tiếng dân tộc. Đại tướng là già làng của chúng tôi đấy. Nhà Đại tướng ở chỗ kia kìa…” Nói rồi, ông già chỉ lên núi Mường Phăng. Một dải rừng xanh um giữa mênh mông đồi trọc. Ở Điện Biên và cả mấy vùng lân cận, rừng cơ bản đã bị phá xong. Nửa đêm, tôi còn thấy những dải lửa cháy rừng rực vắt giữa lưng chừng trời. Đồng bào đốt nương đấy. Chẳng còn cách nào ngăn được. Đói thì phải phá rừng. Rừng núi nhiều nơi đã trơ trụi, nhưng Mường Phăng thì vẫn um tùm rậm rạp như rừng nguyên sinh. Tôi đã đi dưới những tầng cây ấy, nghe chim rừng hót ríu ran. Một làn suối âm thanh trong trẻo và mát rượi rót xuống từ lưng chừng trời. Không một rảnh cây nào bị chặt phá hay bị bẻ gẫy. Ở đây, người dân còn đói cơm, thiếu mặc, nhưng họ vẫn nâng niu gìn giữ khu rừng. Họ tự đặt tên cho khu rừng là “Rừng Đại tướng”. Đấy là ngôi đền thiêng, ngôi đền xanh thiên nhiên mà người dân đã tự lập để thờ ông. Đối với vị tướng trận, đó là hạnh phúc lớn. Một hạnh phúc mà không phải ai cũng có được trong cõi trần này…

          Bác Giáp từng khoác áo dân sự, như ảnh chụp và lời ông Đoàn Sự nguồn VOA, nhưng dường như ngôi vị lãnh đạo tối cao ở Việt Nam, và những quyết sách quan trọng nhất về bảo tồn phát triển quốc gia còn bị chi phối bởi nhiều mối tương quan, tầm nhìn khác.

          Chiến tranh đã qua lâu, đã có cả núi sách của phương Tây và Việt Nam viết về cuộc chiến này với nhiều nghiên cứu công phu về đánh giá thời cuộc. Sự khai sinh của nước Việt Nam mới và cuộc chiến giành độc lập thống nhất Tổ quốc gắn liền với tên tuổi của Võ Nguyên Giáp, con người đã sống chết trung hiếu với đất nước mình.

          vonguyengiap4

          VÕ NGUYÊN GIÁP TỰ TRONG SÂU THẲM

          Võ Nguyên Giáp, Văn Cao  “Im lặng mà bão giông, khoảnh khắc mà trường cửu, tưởng như vô định nhưng đang thấu mọi cõi…” bức ảnh của Nguyễn Đình Toán thật đẹp và cảm khái.  Tôi cũng tưởng sẽ có một khoảng lặng mới quay lại với những bài viết về đại tướng Võ Nguyên Giáp khi tôi đã đăng liên tục mười bài về Người trên DANH NHÂN VIỆT (***) nhưng tự trong sâu thẳm vẫn không thể cưỡng được ý muốn viết tiếp đôi lời.

          Giáo sư Nguyễn Huệ Chi trong bài viết “Tướng Giáp, người anh hùng của độc lập Việt Nam, đã qua đời”  có những lời thật thấm thía: “Giải tỏa tấn bi kịch vô hình khủng khiếp đè lên con người đó, bỏ qua mọi thứ “công tội” do chính cái chủ nghĩa mà con người đó theo đuổi, trả lại cho con người đó cái giá trị đích thực của một vị tướng đánh trận tài năng, phải nói chính là vòng tay ân nghĩa của nhân dân“.“Về nghỉ là thượng sách. Thử điểm lại lịch sử xưa nay có tướng nào giành được chiến công lẫm liệt mà không đi kèm thân bại danh liệt hay không?”.

          Võ Nguyên Giáp ẩn số Chính Trung tinh anh của dân tộc Việt.

          Võ Nguyên Giáp còn mãi với non sông. Vị tướng của lòng dân.

          Hoàng Kim

          Ghi chú và trích dẫn

          Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là e26af-vonguyengiap1.jpg

          VỊ TƯỚNG CỦA LÒNG DÂN
          Hoàng Kim

          Hôm nay ngày Chín tháng Chín Quý Tỵ.
          Bác Văn ơi thành kính tiễn Người
          “Cái tôi hoàn lại đất trời
          Trả tôi mặt mũi muôn đời chưa sanh”

          Bác về vùng đất địa linh
          Mũi Rồng Đảo Yến, Quảng Bình quê ta.

          Người là Võ Đại Thánh
          Hộ Quốc Đại Tướng Quân
          Ở chính đạo Trung tâm
          Hoành Sơn Linh Giang
          Đèo Ngang gánh hai đầu Đất Nước.

          Người về gặp các bậc chí nhân
          Trần Quốc Tuấn,
          Trần Nhân Tông,
          Hồ Chí Minh, …
          Thanh thản giấc muôn đời.
          “Tôi bình đẳng với những người lính của tôi”

          Lớp lớp cháu con
          thành kính tiễn biệt Người
          Lớp lớp cháu con
          noi gương Người
          ra chiến hào cầm súng.
          Đất nước bình yên
          lại trở về đời thường
          cầm bút cầm cày
          trong yêu thương, thanh thản.
          Gìn giữ “non sông muôn thuở vững âu vàng“.
          Tiễn biệt Người, vị tướng của lòng dân.

          Bác Văn, vị tướng của lòng dân: Dân nhớ
          Kết thúc cuộc
          chiến tranh Đông Dương
          Thương đêm thiêng hạnh phúc
          Tôi cô đơn như một ngọn cờ
          Văn Cao
          Mùa xuân đầu tiên
          Bác Văn cùng  bác Giàu
          cặp song sinh thế kỷ
          Thích
          Vị tướng già
          Bác Văn đệm đàn
          cho Trần Tiến hát
          Tổng tập hồi ký
          Bác lưu danh
          Dạy và Học
          Làm Người.
          Bác Văn ơi
          thành kính
          tiễn Người

          Hoàng Kim

          Tư liệu

          Chùm ảnh gia đình cùng nhân dân cả nước tiễn biệt Đại tướng

          Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là 0fc7c-dsc02453.jpg
          ViengbacGiap1

          Báo Tuổi Trẻ ngày 13.10 Nhân dân khóc tướng Võ, đất nước tiễn anh Văn

          Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là aa2c6-vonguyengiap4.jpg

          Báo Tiin (Theo: Quân đội nhân dân) trực tiếp lễ viếng

          Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là e7632-nhe1bb9bngc6b0e1bb9di2.jpg

          Báo Dân Trí: Lễ viếng Đại tướng

          Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là eaf8b-dsc02467.jpg
          Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là 79c15-dsc02491.jpg

          Đại tướng Võ Nguyên Giáp trên Danh nhân Việt

          Đại tướng Võ Nguyên Giáp trên Danh nhân Việt

          1)
          Nhân cách lớn của đại tướng Võ Nguyên Giáp
          2)
          Tướng Giáp trí tuệ bậc Thầy
          3)
          Võ Nguyên Giáp sao sáng trời Nam
          4)
          Võ Nguyên Giáp vị nhân tướng khuyến học
          5)
          Võ Nguyên Giáp thiên tài quân sự
          6)
          Xem tiếp >>

            Dạy và học 24 tháng 8(24-08-2021)


          DẠY VÀ HỌC 24 THÁNG 8
          Hoàng Kim
          CNM365 Tình yêu cuộc sốngChuyển đổi số Quốc gia; Học không bao giờ muộn; Gõ ban mai vào phím; Chuyện cổ tích người lớn; Sớm Thu thơ giữa lòng; Sắn Việt Lúa Siêu Xanh; Nông lịch Tiết Xử Thử; Mưa Ngâu rằm Vu Lan. Ngày 24 tháng 8 năm 2006, Hiệp hội Thiên văn Quốc tế (IAU) định nghĩa lại khái niệm hành tinh, sao Diêm Vương do vậy trở thành hành tinh lùn. Ngày 24 tháng 8 năm 1117, ngày mất  Nguyên phi Ỷ Lan, Hoàng thái hậu triều Lý. Ngày 24 tháng 8 năm 1631 Hoàng Thái Cực thân chinh dẫn quân Kim xuất phát đánh thành Đại Lăng Hà của quân Minh. Bài chọn lọc ngày 24 tháng 8: Chuyển đổi số Quốc gia; Học không bao giờ muộn; Gõ ban mai vào phím; Chuyện cổ tích người lớn; Sớm Thu thơ giữa lòng; Sắn Việt Lúa Siêu Xanh; Nông lịch Tiết Xử Thử; Mưa Ngâu rằm Vu Lan. Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-24-thang-8/

          Sao Diêm Vương

          Ngày 24 tháng 8 năm 2006, Hiệp hội Thiên văn Quốc tế (IAU) định nghĩa lại khái niệm hành tinh, sao Diêm Vương do vậy trở thành hành tinh lùn.

          CHUYỂN ĐỔI SỐ QUỐC GIA
          Hoàng Kim


          Việt Nam con đường xanh
          Vui đi dưới mặt trời
          Một niềm tin thắp lửa
          Chuyển đổi số Quốc gia

          (*)
          https://hoangkimlong.wordpress.com/category/chuyen-doi-so-viet-nam/

          Thông điệp từ Việt Nam về chuyển đổi số:
          PHÁT BIỂU CỦA CHỦ TỊCH QUỐC HỘI VIỆT NAM VƯƠNG ĐÌNH HUỆ TẠI ĐẠI HỘI ĐỒNG AIPA-42
          Nguồn:
          https://quochoi.vn/ct-vuong-dinh-hue/Pages/qua-trinh-cong-tac.aspx?ItemID=58167 23/08/2021

          Tiếp tục chương trình Đại hội đồng AIPA-42, chiều 23/8, theo giờ Hà Nội, các đại biểu họp Phiên toàn thể thứ nhất, thảo luận về chủ đề “Phát triển quan hệ hợp tác nghị viện trong lĩnh vực kỹ thuật số bao trùm hướng tới Cộng đồng ASEAN năm 2025”. Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã có bài phát biểu quan trọng. Cổng TTĐT Quốc hội trân trọng giới thiệu toàn văn:

          Thưa Ngài Pehin Dato Abdul Rahman Taib, Chủ tịch Hạ viện Hội đồng Lập pháp Vương quốc Brunei Darussalam, Chủ tịch Đại hội đồng AIPA-42,

          Thưa các vị Chủ tịch, các vị Trưởng đoàn Nghị viện thành viên, Nghị viện quan sát viên AIPA,

          Thưa các Quý vị đại biểu,

          Thay mặt Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, tôi xin gửi lời chào trân trọng nhất đến Ngài Chủ tịch AIPA, các vị Chủ tịch, Phó Chủ tịch Nghị viện thành viên AIPA, các Nghị viện Quan sát viên, Tổng thư ký AIPA, Tổng thư ký ASEAN và các vị đại biểu tham dự Đại hội đồng AIPA lần thứ 42. Nhân dịp bước sang Năm mới của Người Hồi giáo, tôi xin gửi lời chúc tốt đẹp nhất đến Ngài Chủ tịch AIPA, Vương quốc Brunei Darussalam và các bạn bè Hồi giáo trong ASEAN. Cảm ơn nỗ lực và chuẩn bị tích cực của Hội đồng Lập pháp Brunei Darussalam để tổ chức Đại hội đồng AIPA-42 theo hình thức trực tuyến.

          Thưa toàn thể Quý vị,

          Hơn một năm qua, thế giới và khu vực ASEAN tiếp tục đối mặt với những khó khăn, thách thức to lớn của đại dịch Covid-19, gây ra những tổn thất về người và nguy cơ đứt gãy chuỗi sản xuất, cung ứng, tác động mạnh nghiêm trọng tới tăng trưởng kinh tế, làm trầm trọng hơn bất bình đẳng xã hội, trong đó có bất bình đẳng về kỹ thuật số và an sinh, phúc lợi xã hội của người dân. Hơn bao giờ hết, đại dịch Covid-19 đặt ra những yêu cầu cấp bách đối với các quốc gia cần đổi mới quản trị đất nước, điều chỉnh chính sách và những mực tiêu phát triển, trong đó có yêu cầu về chuyển đổi kỹ thuật số, xây dựng nền kinh tế số nhằm kịp thời ứng phó với đại dịch, duy trì phát triển kinh tế-xã hội ổn định.

          Trước diễn biến phức tạp của đại dịch Covid-19 cùng với chuyển động khó lường của môi trường địa chính trị khu vực và quốc tế, chúng ta vui mừng nhận thấy Cộng đồng ASEAN tiếp tục khẳng định tinh thần đoàn kết, thống nhất, năng lực tự cường, bản lĩnh vững vàng và vai trò trung tâm của mình, đã hành động kịp thời, chung tay ứng phó đại dịch ngay từ khi mới bùng phát. Càng qua sóng gió, bản sắc của Cộng đồng, tình cảm tương thân, tương ái giữa các quốc gia thành viên và người dân càng được củng cố và bồi đắp. Thông qua các sáng kiến lập Quỹ ứng phó Covid-19, Kho dự phòng vật tư y tế khẩn cấp, lập Quy trình chuẩn ứng phó dịch bệnh, đặc biệt là việc triển khai Kế hoạch chung của ASEAN mua vắc-xin hỗ trợ người dân và thúc đẩy năng lực tự cường về vắc xin ở khu vực, các nước ASEAN đã và đang tích cực phối hợp chặt chẽ nhằm nâng cao khả năng ứng phó chủ động của từng quốc gia, hỗ trợ lẫn nhau từng bước đẩy lùi dịch bệnh. Với cách tiếp cận toàn diện, song song với kiểm soát đại dịch, ASEAN đang đẩy mạnh các biện pháp theo Khung phục hồi tổng thể ASEAN, trong đó, đổi mới, sáng tạo, chuyển đổi số, đổi mới mô hình phát triển được xem là đòn bẩy để sớm khôi phục đà tăng trưởng bền vững.

          Đại dịch Covid-19 cũng là chất xúc tác để ASEAN tăng cường số hóa nền kinh tế, thích ứng và tận dụng hiệu quả Cách mạng công nghiệp 4.0, thu hẹp khoảng cách về số và đảm bảo bình đẳng số trong khu vực. Tôi hoan nghênh Hội nghị Bộ trưởng số của ASEAN nhóm họp tháng 01/2021 đã thông qua Kế hoạch tổng thể về Số của ASEAN đến năm 2025; ủng hộ nỗ lực thông qua và sớm đưa vào triển khai Chiến lược về Cách mạng công nghiệp 4.0 của ASEAN nhằm tạo lập một Cộng đồng ASEAN đổi mới, sáng tạo, nâng cao sức cạnh tranh trong nền kinh tế thế giới.

          Thưa Quý vị,

          Với tinh thần Chủ đề của Đại hội đồng AIPA-42 tập trung thúc đẩy hợp tác nghị viện trong lĩnh vực số, để phát huy hơn nữa vai trò quan trọng của AIPA và các Nghị viện thành viên đẩy mạnh công cuộc chuyển đổi số, đảm bảo tăng trưởng ổn định, phục hồi bền vững của ASEAN, tiếp tục là hạt nhân đóng góp cho hòa bình, ổn định và phát triển thịnh vượng ở khu vực, tôi xin chia sẻ một số ý kiến sau:

          Một là, các Nghị viện thành viên AIPA cần tích cực hỗ trợ hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, gỡ bỏ các rào cản, tạo điều kiện thực thi chính sách chuyển đổi số, góp phần hoàn thiện Chính phủ điện tử hướng đến Chính phủ số, nâng cao chất lượng dịch vụ công trực tuyến của Chính phủ, Quốc hội, tăng cường tiếp cận bình đẳng các dịch vụ số của người dân và doanh nghiệp, đẩy mạnh phổ cập số đối với các đối tượng yếu thế, cung cấp dịch vụ số công bằng, bình đẳng, phù hợp với mức thu nhập của người dân, thúc đẩy phát triển kinh tế số, xã hội số.

          Hai là, cần tích cực thúc đẩy và ủng hộ Chính phủ các nước ASEAN triển khai các chương trình, kế hoạch và chiến lược về số trong ASEAN, cũng như tăng cường hợp tác với các đối tác, các tổ chức quốc tế để đẩy mạnh kết nối hạ tầng kỹ thuật số, bảo đảm hệ sinh thái kỹ thuật số bao trùm, rút ngắn khoảng cách số. Tôi xin nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tăng cường kết nối số, thu hẹp khoảng cách số giữa các quốc gia, các vùng, miền nhằm đảm bảo phát triển đồng đều, bền vững trong ASEAN. Đề nghị AIPA tích cực hỗ trợ Chính phủ các nước ASEAN đẩy mạnh triển khai các nội dung liên quan thúc đẩy kết nối số, phổ cập số ở các khu vực kém phát triển, trong đó có các tiểu vùng của ASEAN, trong khuôn khổ Kế hoạch tổng thể về Kết nối ASEAN (MPAC) 2025, Kế hoạch công tác thực hiện Sáng kiến Hội nhập ASEAN (IAI) giai đoạn IV.

          Ba là, cần khuyến khích các nguồn lực xã hội để phát triển hệ sinh thái số thông qua hình thức hợp tác công-tư, tạo môi trường vườn ươm doanh nghiệp để phát triển doanh nghiệp số, doanh nghiệp khởi nghiệp số. Đặc biệt, cần tạo điều kiện lồng ghép triển khai Khung phục hồi tổng thể ASEAN vào các kế hoạch của từng quốc gia hỗ trợ doanh nghiệp tăng cường đổi mới, sáng tạo và chuyển đổi số nhằm ổn định và phục hồi sản xuất, kinh doanh.

          Bốn là, tăng cường các chính sách và khung pháp lý, ủng hộ các sáng kiến trong khuôn khổ các kênh hợp tác của ASEAN cũng như với các đối tác về đảm bảo an ninh mạng, an toàn thông tin, dữ liệu, tạo lập niềm tin trong không gian số. Hạ tầng số hiện đại cùng với niềm tin số sẽ tạo ra một không gian mới rộng mở cho sự phát triển nhanh và bền vững của các nước ASEAN.

          Năm là, trước diễn biến phức tạp hiện nay của đại dịch Covid-19, tôi kêu gọi tinh thần đoàn kết, trách nhiệm chung của AIPA trong hợp tác, chia sẻ kinh nghiệm, nhất là việc ứng dụng khoa học, công nghệ để kiểm soát hiệu quả đại dịch Covid-19; đề nghị tăng cường hợp tác nội khối và với các đối tác trong nghiên cứu, phát triển và chia sẻ công bằng vắc-xin, thuốc và trang thiết bị phòng, chống dịch bệnh Covid-19. Tôi cũng đề nghị Nghị viện các nước trao quyền nhiều hơn cho các Chính phủ để chủ động, linh hoạt ứng phó hiệu quả với dịch bệnh, giảm thiểu các thiệt hại và mau chóng phục hồi kinh tế, xã hội sau đại dịch Covid-19 (như Quốc hội Việt Nam, khóa XV đã thực hiện trong kỳ họp đầu tiên vào tháng 7 vừa qua).      

          Thưa Quý vị,

          Mọi nỗ lực phục hồi và phát triển của các quốc gia sẽ không thể thiếu điều kiện tiên quyết, đó là môi trường hòa bình, an ninh và ổn định ở khu vực. Tôi hoan nghênh và đánh giá cao nỗ lực của Chính phủ các nước ASEAN thời gian qua, với sự đồng hành và ủng hộ tích cực của các Nghị viện thành viên AIPA trong việc duy trì và thúc đẩy các tiến trình đối thoại, hợp tác, xây dựng lòng tin, đề cao tuân thủ luật pháp quốc tế, giúp ngăn ngừa và giảm thiểu các nguy cơ gây bất ổn, qua đó, góp phần gìn giữ hòa bình, an ninh và ổn định bền vững ở khu vực, trong đó có Biển Đông, phù hợp với luật pháp quốc tế và Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển 1982, không có hành động làm phức tạp thêm tình hình thực hiện DOC và sớm đàm phán đề ký kết COC.

          Thưa Ngài Chủ tịch và các Quý vị,

          Vượt qua mọi khó khăn của đại dịch Covid-19, Việt Nam đã tổ chức rất thành công Bầu cử Quốc hội và HĐND các cấp. Quốc hội Việt Nam vừa bắt đầu nhiệm kỳ mới, đang nỗ lực không ngừng tự đổi mới, tự hoàn thiện để nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động nhằm góp phần đưa Việt Nam đạt mục tiêu đến năm 2030 (kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam) là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước, trở thành nước phát triển, thu nhập cao. Quốc hội Việt Nam cam kết tiếp tục là thành viên tích cực, chủ động và có trách nhiệm của AIPA, vì sự phát triển của ngoại giao nghị viện và quyền lợi của mọi người dân trong ASEAN.

          Nhân dịp này, xin chúc Ngài Chủ tịch và các Quý vị đại biểu sức khỏe, thành công trên cương vị cao cả của mình, cùng đồng hành với Chính phủ và người dân vượt qua mọi khó khăn, thách thức để xây dựng Cộng đồng ASEAN đoàn kết, vững mạnh và thịnh vượng.

          Tôi tin tưởng rằng, dưới sự chủ trì của Ngài Chủ tịch, sự tham gia tích cực của các Quý vị đại biểu, Đại hội đồng AIPA-42 sẽ thành công tốt đẹp!

          Xin trân trọng cảm ơn!

          Chuyển đổi số nông nghiệp

          CHUYỂN ĐỔI SỐ NÔNG NGHIỆP
          Hoàng Kim


          Vui thu hoạch khoai mì
          Sự thật hơn lời nói
          https://youtu.be/XDM6i8vLHcI
          https://youtu.be/kjWwyW0hkbU
          Ai, giống gì, nơi nào?
          Quy mô sự chuyển đổi

          Đồng bộ hóa dữ liệu
          Có lợi cho người dân
          Minh bạch rõ thông tin
          Ban mai lặng lẽ sáng.

          (*) Chuyển đổi số để đồng bộ hóa dữ liệu cho người nông dân, video nguồn Báo Nông nghiệp Việt Nam đăng ý kiến chỉ đạo của Bộ trưởng Lê Minh Hoan về cấp bách Chuyển đổi số nông nghiệp xem tiếp tại đây https://nongnghiep.vn/video/chuyen-doi-so-de-dong-bo-hoa-du-lieu-cho-nguoi-nong-dan-tv299186.html

          ĐỌC LẠI VÀ SUY NGẪM
          Hoàng Kim


          Bài đồng dao huyền thoại (1)
          Di Tản (2), Li Nông Li Hương (3)
          Chuyện cụ Lê Huy Ngọ (4)
          Đọc lại và suy ngẫm (5)
          Chuyển đổi số nông nghiệp (6).

          Sự chậm rãi minh triết
          Vui đi dưới mặt trời
          Gõ ban mai vào phím
          Mặt trời nào đang lên

          Hóng chuyện với cao sỹ
          Lục Tích á khẩu, câm
          Lượng chất đủ tích lũy
          Chuyển đổi số thật cần.

          Ngược gió đi không nản
          Rừng thông tuyết phủ dày
          Ngọa Long cương đâu nhỉ
          Đầy trời hoa tuyết bay.

          Giấc mơ lành yêu thương
          Ban mai lặng lẽ sáng
          Một gia đình yêu thương
          Ngày mới bình minh an.

          (1)
          BÀI ĐỒNG DAO HUYỀN THOẠI
          Hoàng Kim

          “Dây dã tường vi thật dẻo dai
          Ba con ngỗng trong một đàn
          Một bay về Đông, một bay Tây
          Và một bay trên tổ chim cúc cu”.

          Bài đồng dao huyền thoại.

          xem tiếp
          https://hoangkimlong.wordpress.com/category/chuyen-doi-so-quoc-gia/

          HỌC KHÔNG BAO GIỜ MUỘN
          Hoàng Kim

          Mục đích sau cùng của DẠY và HỌC là thấu suốt bản chất sự vật, có lời giải đúng và LÀM được việc.

          TRẠNG TRÌNH DƯỠNG SINH THI
          Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491–1585)


          Giữ khí, gìn tinh, lại dưỡng thần
          Ít lo, ít muốn, ít lao thân.
          Cơm nên vừa bụng, đừng nhiều vị,
          Rượu chỉ vài phân, chớ qúa từng.
          Miệng cứ câu đùa, vui miệng mãi,
          Bụng thường nghĩ tốt, bụng lâng lâng.
          Bốc đồng, biến trá, thôi đừng hỏi,
          Để tớ tiêu dao đến tuổi trăm.

          (Bản dịch của GS. Lê Trí Viễn)

          CHÍN ĐIỀU LÀNH HẠNH PHÚC
          Hoàng Kim.

          Cười nhiều Giận ít
          Vui nhiều Lo ít
          Làm nhiều Nói ít
          Đi nhiều Ngồi ít
          Rau nhiều Thịt ít
          Chay nhiều Mặn ít
          Chua nhiều Ngọt ít
          Tắm nhiều Lười ít
          Thiện nhiều Tham ít

          Mặt trời và thiên nhiên
          Môi trường sống an lành
          Gia đình thầy bạn quý
          Minh triết cho mỗi ngày

          An nhiên và phúc hậu
          Thức ngủ cần hài hòa
          Lao động và nghỉ ngơi
          Gieo lành thì gặt thiện

          Yêu thương trong tầm tay

          MƯỜI THÓI QUEN MỖI NGÀY
          Hoàng Kim

          1. Vui khỏe phúc hậu, an nhàn vô sự là tiên
          2. Biết dưỡng sinh, sống quen thanh đạm nhẹ mình
          3. Hưởng ánh nắng, khí trời và sương mai mỗi sáng
          4. Dạy và học tình yêu cuộc sống cnm365 mỗi ngày
          5. Đi bộ và dọn vườn, tập thể dục mỗi ngày nữa giờ
          6. Tắm rửa sạch sẽ mỗi ngày có lợi cho sức khỏe
          7. Luyện thói quen đi lại ít phút sau mỗi giờ làm việc
          8. Sau khi đi làm về cần nghĩ ngơi 15 phút mới tắm
          9. Khi người mệt mỏi tốt nhất ngủ ngon và nghỉ ngơi
          10 Buông bỏ những dư thừa và hư danh giả tạm

          MƯỜI TƯ DUY TÍCH CỰC

          Ai đúng ai sai, mình không sai là được
          Người già người trẻ, cứ vui khỏe là được
          Việc nhiều lộc ít, làm xong việc là được
          Tận tâm tiết kiệm, đừng lãng phí là được
          Bất kể giàu nghèo, cứ hoà thuận là được
          Không kén ngon dở, cứ sạch nóng là được
          Bất luận đẹp xấu, cứ tốt duyên là được
          Nhà lớn nhà nhỏ, cứ ấm no là được
          Xe mới xe cũ, cứ chạy tốt là được
          Sung túc hay nghèo, cứ bình an là được

          Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là minh-triet-cho-moi-ngay.jpg

          MINH TRIẾT CHO MỖI NGÀY
          Hoàng Kim

          Minh triết đời người là yêu thương
          Cuối dòng sông là biển
          Niềm tin thắp lên nghị lực
          Yêu thương mở cửa thiên đường.

          Lev Tolstoy (1828 – 1910) là nhà hiền triết và đại văn hào Nga danh tiếng bậc nhất lịch sử nhân loại với những kiệt tác Chiến tranh và Hòa bình, Ana Karenina, Đường sống, Phục sinh. Minh triết cho mỗi ngày. Trước đây tôi thích ông theo tuần tự trên. Nhưng nay qua thời gian trãi nghiệm và lắng đọng tôi lại thích trình tự ngược lại. Minh triết cho mỗi ngày (Wise Thoughts for Every Day) lắng đọng tinh hoa hơn. Yêu thích là tự mình tỉnh thức.

          Minh triết cho mỗi ngày là công trình trọng yếu cuối cùng của Lev Tonstoy và ông đã xem nó là đóng góp quan trọng nhất của ông cho nhân loại. Theo Peter Serikin tại lời giới thiệu của tác phẩm này “Tonstoy giữ cái ‘cẩm nang’ cho một cuộc sống tốt này trên bàn làm việc của ông trong suốt những năm cuối cùng đời mình cho đến phút cuối (thậm chí ông còn yêu cầu trợ lý cùa mình V. Chertkov, đưa cho ông xem bản in thử trên giường chết của ông) Chi tiết nhỏ này cho thấy Tonstoy yêu quý tác phẩm này xiết bao!”. Cũng theo Peter Serikin bộ ba tập sách ‘Minh triết của hiền nhân’ 1903  (The Thoughts of Wise Men) ; Một chu kỳ đọc (A Circle of Reading’ 1906; Minh triết cho mỗi ngày 1909 (Wise Thoughts for Every Day) dường như phát triển sau khi Lev Tonstoy bệnh nặng và phục sinh như một phép lạ cuối năm 1902. Bộ ba này của Tonstoy hết sức phổ biến từ lần xuất bản thứ nhất vào năm 1903 cho đến năm 1917. Rồi cả ba cuốn đều không được xuất bản trong suốt thời kỳ gần 80 năm vì nội dung tôn giáo của chúng, và nó được xuất hiện trở lại gần đây sau sự sup đổ của Liên bang Xô Viết. Sách ‘Suy niệm mỗi ngày’ nguyên tác tiếng Nga của Lev Tonstoy do Đỗ Tư Nghĩa  dịch từ bản tiếng Anh ‘Wise Thoughts for Every Day’ của Peter Serikin xuất bản ở New York Mỹ từ năm 2005 và, Bản quyền bản tiếng Việt của Công ty THHH  Văn Hóa Khai Tâm 2017. Hành trình cuốn sách này đến Việt Nam khá muộn  nhưng may mắn thay những tư tưởng minh triết của nhà hiền triết Lev Tonstoy đã tới chúng ta gợi mở cho sự suy ngẫm ‘minh triết cho mỗi ngày’ cùng đồng hành với người thầy hiền triết vĩ đại.

          Lev Tonstoy viết: “Nguồn hạnh phúc chân thực nằm trong trái tim bạn. Sẽ là ngốc nghếch nếu bạn tìm kiếm nó ở nơi nào khác. Bạn sẽ giống như kẻ chăn cừu tìm kiếm một con chiên lạc, trong khi nó được nhét vào ngay bên trong áo sơ mi của y (1). Quy tắc thứ nhất của minh triết, là biết chính bạn (2). Tuy nhiên đây là cái khó làm nhất. Quy tắc thứ nhất của đức hạnh là hạnh phúc với những điều nhỏ bé (3). Điều này nữa cũng khó làm. Chỉ có những ai tuân theo những quy tắc này, mới đủ mạnh để là một tấm gương đức hạnh cho người khác. Nếu bạn chỉ yêu chính mình, bạn không thể thực sự hạnh phúc. Hãy sống cho kẻ khác, rồi thì bạn sẽ tìm thấy hạnh phúc chân thực. Các bạn đang lang thang tới đâu, hỡi những  con người bất hạnh? Đang tìm kiếm một cuộc sống tốt hơn ? Bạn đang chạy đi xa, nhưng hạnh phúc phải được tìm thấy bên trong bạn. Nếu nó không có mặt ở bên trong, thì nó không có mặt ở bất cứ nơi nào khác. Hạnh phúc nằm trong khả năng yêu kẻ khác của bạn”. (Suy niệm mỗi ngày, trang 53) (1) Nguồn hạnh phúc chân thực nằm trong trái tim bạn. Phật nói ‘ phật tại tâm ’ Chúa Jesu nói ‘Vương quốc của thượng đế ở bên trong các ngươi ’ (2) Minh triết trước hết là tự biết mình. (3) Phúc hậu là hạnh phúc với những điều nhỏ bé.

          Lev Tonstoy viết tiếp: Có một câu cách ngôn cổ của Do Thái: “Linh hồn của một người là ngọn đèn của Thượng đế” Khi ngọn đèn ấy chưa được thắp lên thì một cá nhân sẽ vẫn mãi bơ vơ; nhưng khi nó được thắp lên, y trở nên mạnh mẽ và tự do. Dĩ nhiên, điều này không thể khác , bởi vì đó không phải là quyền lực của chính y, mà là của Thượng đế. Mặc dù chúng ta không biết sự thiện phổ quát là gì, chúng ta thực sự biết rằng, tất cả chúng ta nên tuân theo quy luật của sự thiện, vốn hiện hữu cả trọng sự khôn ngoan của con người lẫn trong trái tim chúng ta. Nếu chúng ta tin rằng, họ có thể làm hài lòng Thượng đế thông qua những nghi lễ và những lời cầu nguyện thôi – chứ không phải bằng hành động- thì họ đã nói dối với cả thượng đế lẫn chính họ

          Hoàng Kim noi gương Thầy, tự mình thắp lên ngọn đèn trí tuệ chính mình “Hãy luôn luôn hạnh phúc và sung sướng”  tuân theo quy luật của sự chí thiện và luôn nhớ câu cách ngôn cổ của người Do Thái: “Linh hồn của một người là ngọn đèn của Thượng đế“.  Minh triết cho mỗi ngày là một kho tàng tinh hoa lắng đọng.

          VUI ĐI DƯỚI MẶT TRỜI
          Hoàng Kim

          Hãy lên đường đi em
          Ban mai lặng lẽ sáng
          Vui đi dưới mặt trời
          Một niềm tin thắp lửa

          Ta như ong làm mật
          Cuộc đời đầy hương hoa
          Thời an nhiên vẫy gọi
          Vui khỏe đời cho ta.

          Vui sống giữa thiên nhiên
          Học không bao giờ muộn.
          Một niềm tin thắp lửa.
          Lời Thầy dặn thung dung;
          https://www.youtube.com/embed/zH7UNyMaUy4?version=3&rel=1&showsearch=0&showinfo=1&iv_load_policy=1&fs=1&hl=vi&autohide=2&wmode=transparent

          Đình Lạc Giao Hồ LắkLời Thầy dặn thung dunghttps://youtu.be/zH7UNyMaUy4 Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlong

          Kim Hoàng @ Cong Kien Phan cùng với Kim Hoàng tại Ninh Thuận.19 tháng 8 lúc 11:56

          Dạy và học mỗi ngày Thầy bạn là lộc xuân Vui đi dưới mặt trời Một niềm tin thắp lửa VUI ĐI DƯỚI MẶT TRỜI Hoàng Kim Hãy lên đường đi em Ban mai vừa mới rạng Vui đi dưới mặt trời Một niềm tin thắp lửa Ta như ong làm mật Cuộc đời đầy hương hoa Thời an nhiên vẫy gọi Vui đời khỏe cho ta.

          Trần Đình Lý cùng với Trần Duy Hùng27 người khác. 13 giờ  · TÌNH QUÊ Quê hương nếu ai không nhớ..Sẽ không lớn nổi thành người.Các hình ảnh nói lên tất cả. Thương lắm quê hương (Cảm ơn các hình ảnh từ hội đồng hương và CLB những người làm báo QB tại TPHCM và các tỉnh phía Nam) xem tiếp https://www.baoquangbinh.vn/xa-hoi/202108/que-huong-ngay-tro-ve-2192502/

          Kim Hoàng23 tháng 8, 2020  · Đã chia sẻ với Bạn bè của bạn và bạn bè của Hoàng HỌC KHÔNG BAO GIỜ MUỘN Hoàng Kim Cám ơn giáo sư Trần Đăng Hòa đã chép lại “Lời thề Socrates dành cho giảng viên trong Viện Đại học Nghiên cứu (A Socratic Oath for Faculty of Research Universities). https://hoangkimlong.wordpress.com/category/hoc-khong-bao-gio-muon/

          Xem tiếp >>

            Dạy và học 23 tháng 8(23-08-2021)


          DẠY VÀ HỌC 23 THÁNG 8
          Hoàng Kim
          CNM365 Tình yêu cuộc sốngMưa Ngâu rằm Vu Lan; Nông lịch Tiết Xử Thử; Học không bao giờ muộn; Quản lý bền vững sắn châu Á; Vui đi dưới mặt trời; Đến với Tây Nguyên mới, Gõ ban mai vào phím; Bài thơ Viên đá Thời gian; Giếng Ngọc vườn Tao Đàn; Ngày 23 tháng 8 năm 1907, ngày mất Đào Tấn, vị quan thanh liêm nhà Nguyễn, nhà soạn tuồng nổi tiếng, ông tổ hát bội Việt Nam (sinh năm 1845). Ngày 23 tháng 8 năm 634 ,Omar bin Khattab kế vị khalip của Abu Baka, ông là một trong các khalip hùng mạnh và có ảnh hưởng nhất. Ngày 23 tháng 8 năm 1958, Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc bắt đầu pháo kích Kim Môn, khởi đầu Khủng hoảng eo biển Đài Loan lần 2. Bài viết chọn lọc ngày 23 tháng 8. Mưa Ngâu rằm Vu Lan; Nông lịch Tiết Xử Thử; Học không bao giờ muộn; Quản lý bền vững sắn châu Á; Vui đi dưới mặt trời; Đến với Tây Nguyên mới, Gõ ban mai vào phím; Bài thơ Viên đá Thời gian; Giếng Ngọc vườn Tao Đàn; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-23-thang-8/

          MƯA NGÂU RẰM VU LAN
          Hoàng Kim

          Tối thì trăng
          Khuya thì mưa
          Mưa Ngâu rằm Vu Lan
          Trầm và huệ thơm hương
          Cúc vàng thương thạch thảo
          Trắng trời rằm tháng Bảy
          Thánh thót giọt mưa Ngâu
          Nông lịch tiết Xử Thử
          Trời đất người tâm giao.

          VIẾNG MỘ CHA MẸ
          Hoàng Trung Trực

          “Dưới lớp đất này là mẹ là cha
          Là khởi phát đời con từ bé bỏng
          Là lời mẹ ru dịu dàng cánh võng
          Là gươm đao cha một thuở đau đời.

          Hành trang cho con đi bốn phương trời
          Là nghĩa khí của cha, là nhân từ của mẹ
          Vẫn bầu sữa tinh thần không ngừng không nghỉ
          Để hành trang cho con đi tiếp cuộc đời

          Cuộc đời con bươn chải bốn phương trời
          Nay về lại nơi cội nguồn sinh trưởng
          Dâng nén hương mà lòng hồi hồi tưởng
          Thuở thiếu thời trong lồng cánh mẹ cha

          “Ước hẹn anh em một lời nguyền
          Thù nhà đâu sá kể truân chiên
          Bao giờ đền được ơn trung hiếu
          Suối vàng nhắm mắt mới nằm yên” (6)

          “Không vì danh lợi đua chen
          Công Cha nghĩa Mẹ quyết rèn bản thân !”

          HOÀNG NGỌC DỘ KHÁT VỌNG
          Hoàng Ngọc Dộ và Hoàng Kim


          Hoàng Ngọc Dộ (1937-1994) là nhà giáo. Ông quê ở xã Quảng Minh, huyện Quảng Trạch (nay là thị xã Ba Đồn), tỉnh Quảng Bình. Mẹ mất sớm. Nhà nghèo. Cha bị bom Mỹ giết hại. Ông đã nổ lực nuôi dạy các em vượt qua gian khổ, nghèo đói và chiến tranh để vươn lên trở thành những gia đình thành đạt và hạnh phúc. Gương nghị lực vượt khó hiếm thấy, ăn ngày một bữa suốt năm năm, nuôi hai em vào đại học với sự cưu mang của thầy bạn và xã hội đã một thời lay động sâu xa tình cảm thầy trò Trường Cấp Ba Bắc Quảng trạch (Quảng Bình). Ông mất sớm, hiện còn lưu lại gần 100 bài thơ. Lời thơ trong sáng, xúc động, ám ảnh, có giá trị khích lệ những em học sinh nhà nghèo, hiếu học. Anh Hai Hoàng Ngọc Dộ cũng là người Thầy dạy học đầu tiên cho
          Hoàng Kim: “Dặn con cháu khiêm nhu cần kiệm”; “Cảnh mãi đeo người được đâu em Hết khổ, hết cay, hết vận hèn Nghiệp sáng đèn giời đà chỉ rõ Rồi đây cay đắng chẳng buồn chen”;”Không vì danh lợi đua chen. Thù nhà nợ nước quyết rèn bản thân”; “Soi mặt mình trong gương không bằng soi mặt mình trong lòng người”; “Có những di sản tỉnh thức cùng lương tâm, không thể để mất vì không thể tìm lại Hoàng Ngọc Dộ Khát vọng

          ÁNH SAO
          Hoàng Ngọc Dộ


          Bóng đêm trùm kín cả không trung
          Lấp lánh phương Đông sáng một vừng
          Mây bủa, mây giăng còn chẳng ngại
          Hướng nhìn trần thế bạn văn chương.

          LỜI NGUYỀN
          Hoàng Ngọc Dộ

          Không vì danh lợi đua chen
          Thù nhà, nợ nước, quyết rèn bản thân!

          Ước hẹn anh em một lời nguyền
          Thù nhà đâu sá kể truân chiên
          Bao giờ đền được ơn trung hiếu
          Suối vàng nhắm mắt mới nằm yên.

          CHÙM THƠ VỀ MẠ
          Hoàng Ngọc Dộ

          Chẵn tháng

          Đã chẵn tháng rồi, ôi Mạ ôi!
          Tuần trăng tròn khuyết đã hết rồi
          Mà con không thấy đâu bóng Mạ
          Thấy trăng vắng Mạ dạ bùi ngùi.

          Năm mươi ngày

          Năm mươi ngày chẵn thấm thoắt trôi
          Mạ về cỏi hạc để con côi
          Vầng trăng tròn trặn vừa hai lượt
          Vắng Mạ, lòng con luống ngậm ngùi.

          Đọc sách

          Con đọc sách khuya không nghe tiếng Mạ
          Nỗi tâm tư con nghĩ miên man
          Lúc Mạ còn, con bận việc riêng con
          Không đọc được để Mạ nghe cho thỏa dạ.

          Nay con đọc, vắng nghe tiếng Mạ
          Nỗi bùi ngùi lòng dạ con đau
          Sách mua về đọc Mạ chẵng nghe đâu
          Xót ruôt trẻ lòng sầu như cắt.

          Mạ ơi Mạ, xin Mạ hãy nghe lời con đọc.

          Buồn

          Buồn khi rão bước đồng quê
          Buồn khi chợp mắt Mạ về đâu đâu
          Buồn khi vắng Mạ dạ sầu
          Buồn khi mưa nắng giải dầu thân Cha
          Buồn khi sớm tối vào ra
          Ngó không thấy Mạ, xót xa lòng buồn.

          CHIA TAY BẠN QÚY
          Hoàng Ngọc Dộ

          Đêm ngày chẳng quản đói no
          Thức khuya dậy sớm lo cho hai người
          Chăm lo văn sách dùi mài
          Thông kim bác cổ, giúp đời cứu dân

          Ngày đêm chẵng quản nhọc nhằn
          Tối khuyên, khuya dục, dạy răn hai người
          Mặc ai quyền quý đua bơi
          Nghèo hèn vẫn giữ trọn đời thủy chung

          Vận nghèo giúp kẻ anh hùng
          Vận cùng giúp kẻ lạnh lùng vô danh
          Mặc ai biết đến ta đành
          Dăm câu ca ngợi tạc thành lời thơ

          Hôm nay xa vắng đồng hồ
          Bởi chưng hết gạo, tớ cho thay mày
          Mày tuy gặp chủ tốt thay
          Nhớ chăng hôm sớm có người tri ân.

          THỨC EM DẬY
          Hoàng Ngọc Dộ

          Đã bốn giờ sáng
          Ta phải dậy rồi
          Sao mai chơi vơi
          Khoe hào quang sáng

          Ta kêu Kim dậy
          Nó đã cựa mình
          Vớ vẫn van xin
          Cho thêm chút nữa.

          Thức, lôi, kéo, đỡ
          Nó vẫn nằm ỳ
          Giấc ngủ say lỳ
          Biết đâu trời đất

          Tiếc giấc ngủ mật
          Chẳng chịu học hành
          Tuổi trẻ không chăm
          Làm sao nên được

          Đêm ni, đêm trước
          Biết bao là đêm
          Lấy hết chăn mền
          Nó say sưa ngủ

          Ta không nhắc nhủ
          Nó ra sao đây
          Khuyên em đã dày
          Nó nghe chẳng lọt

          Giờ đây ta quyết
          Thực hiện nếp này
          Kêu phải dậy ngay
          Lay phải trở dậy

          Quyết tâm ta phải
          Cố gắng dạy răn
          Để nó cố chăm
          Ngày đêm đèn sách

          Ta không chê trách
          Vì nó tuổi thơ
          Ta không giận ngờ
          Vì nó tham ngủ

          Quyết tâm nhắc nhủ
          Nhắc nhủ, nhắc nhủ …

          NẤU ĂN
          Hoàng Ngọc Dộ

          Ngày một bữa đỏ lửa
          Ngày một bữa luốc lem
          Ngày một bữa thổi nhen
          Ngày một bữa lường gạo
          Ngày một bữa tần tảo
          Ngày một bữa nấu ăn.

          (*) 5 năm cơm ngày một bữa

          NỖI LÒNG
          Hoàng Ngọc Dộ

          Nhá củ lòng anh nhớ các em
          Đang cơn lửa tắt khó thắp đèn
          Cảnh cũ chưa lìa đeo cảnh mới
          Vơi ăn, vơi ngủ, với vơi tiền

          Cảnh mãi đeo người được đâu em
          Hết khổ, hết cay, hết vận hèn
          Nghiệp sáng đèn giời đang chỉ rõ
          Rồi đây cay đắng chẳng buồn chen.

          DỰ LIÊN HOAN
          Hoàng Ngọc Dộ

          Hôm nay anh được chén cơm ngon
          Cửa miệng anh ăn, nuốt chả trơn
          Bởi lẽ ngày dài em lam lũ
          Mà sao chỉ có bữa cơm tròn.

          NHỚ NGƯỜI XƯA
          Hoàng Ngọc Dộ

          Ông Trình, ông Trãi, ông Du ơi
          Chí cả ngày xưa Cụ trả rồi
          Có biết giờ đây ai khắc khoải
          Năm canh nguyệt giãi gợi lòng tôi

          Bó gối mười năm ở nội thành
          Thầy xưa đã rạng tiết thanh danh
          Tớ nay vương nợ mười năm lẽ
          Sự nghiệp Thầy ơi rạng sử xanh.

          EM ỐM
          Hoàng Ngọc Dộ

          Bồn chồn khi được tin nhà
          Rằng người xương thịt nay đà bị đau
          Nghĩ mình là kẻ đỡ đầu
          Mà sao phải chịu lao đao chốn này.

          ĐÊM RÉT THƯƠNG EM
          Hoàng Ngọc Dộ

          Đêm này trời rét, rét ghê
          Ta thương chiến sĩ dầm dề gió sương
          Thương em lặn lội chiến trường
          Chăn không, áo mỏng, gió sương dạn dày.

          EM VỀ
          Hoàng Ngọc Dộ

          Em về anh biết nấu chi
          Ba lần khoai sắn, kể chi cá gà
          Thương em lặn lội đường xa
          Về nhà khoai sắn, dưa cà cùng anh

          Bao giờ giặc Mỹ sạch sanh
          Em về anh thết cơm canh cá gà
          Mùng vui kể chuyện nước nhà
          Gia đình đoàn tụ thật là đượm vui.

          LÀM ĐỒNG
          Hoàng Ngọc Dộ

          Làm đồng đang buổi ban trưa
          Mồ hôi thánh thót, say sưa với đồng
          Chung tay liềm hái cuốc chòng
          Ngày nay nhỏ giọt, mai lòng sướng vui.

          Làm đồng nắng sém, da hui
          Ai ơi xin chớ tham hời của dân
          Khổ cay nắng sém da hồng
          Xuân xanh già dặn với đồng, ai ơi!
          NGẮM TRĂNG
          Hoàng Ngọc Dộ

          Nằm ngữa trong nhà ngắm Hằng Nga
          Hợp cảnh, hợp tình, Hằng ngắm lại
          Hợp nhà, hợp cửa, ả rọi hoa
          Từng đám vòng tròn nằm giữa chiếu
          Chiếu thế mà ra lại chiếu hoa
          Hậu Nghệ thuở xưa sao chị ghét
          Ngày nay mới biết ả yêu ta.

          NHÀ DỘT
          Hoàng Ngọc Dộ

          Lã chã đêm đông giọt mưa phùn
          Lách qua tranh rạ nhỏ lung tung
          Chiếu giường ướt đẫm, thân đâu thoát
          Nghĩ cảnh nhà hoa thật não nùng.

          QUA ĐÈO NGANG
          Hoàng Ngọc Dộ

          Qua đèo Ngang, qua đèo Ngang
          Rừng thẳm Hoành Sơn giống bức màn
          Tường thành hai dãy nhiều lũy nhỏ
          Gió chiều lướt thổi nhẹ hơi hương
          Cổng dinh phân định đà hai tỉnh
          Cheo leo tầng đá, giá hơi sương
          Người qua kẻ lại đều tức cảnh
          Ta ngẫm thơ hay của Xuân Hương (1)

          (1) Thơ Xuân Hương:
          “Một đèo, một đèo, lại một đèo
          Khen ai khéo tạc cảnh cheo leo …”

          CUỐC ĐẤT ĐÊM
          Hoàng Ngọc Dộ

          Mười lăm trăng qủa thật tròn
          Anh hùng thời vận hãy còn gian nan
          Đêm trăng nhát cuốc xới vàng
          Trăng dòm, ta hẹn, trăng càng dòm thêm
          Đất vàng, vàng ánh trăng đêm
          Đêm khuya, ta với nàng quên nhọc nhằn.

          Trích: Khát vọng I Thi Viện
          http://www.thivien.net/…/Kh%C3…/topic-jvbfrjspi2Y6S8b3jeqzpA

          Đọc thơ trong đêm thiêng
          ĐẾN VỚI BÀI THƠ HAY
          Hoàng Kim

          “Trạng Trình” lời thương hay ám ảnh
          Hoàng Trung Trực nhớ điều anh dặn
          Đọc Dấu chân người lính thấm thía nghĩa tình
          Đến với bài thơ hay” thăm thẳm một tầm nhìn

          Đến núi Ngự sông Hương kinh kỳ Huế
          Lắng thơ hay Lê Đình Cánh ‘May mà’
          Vui dạo bước về Lam Kinh cầu Bạch
          Bức tranh quê sông Ngọc ảnh Đỗ Dung

          Nguyễn Quốc Toàn lời bình thật tuyệt
          Khiến thơ hay đọng mãi giữa tâm hồn
          Nguyễn Chu Nhạc ‘Bảy Núi miền ký ức’
          Hoàng Kim ‘
          Về miền Tây yêu thương

          ‘Thành Nam chiều chớm Đông’
          Cậu
          Hoàng Gia Cương thơ hiền
          Theo dòng thời gian lắng đọng:
          trí phải minh, công phải trọng,
          biết tầm sư học đạo nghệ càng tinh

          Đọc “Em tôi”
          Đùa vui cùng Thuận Nghĩa
          Nguyên Hùng bạn xứ Nghệ “Biển và Em”
          “Ở đâu?”
          Bài thơ Viên đá Thời gian Phan Chí Thắng
          Nguyễn Duệ Mai nốt lặng bên đời.

          Mượn và trả, thơ hay đong cõi thực
          Bến trần gian đò mỏng, Thiếu mùa đông
          Tiếng chuông chùa, nghe đêm, nốt lặng
          Rụng nắng, Vòng quay, chầm chậm trời chiều.

          “Em nào có hững hờ” Mai Khoa Thu Hà Nội
          “Đôi lời với sông Đồng Nai” Nguyễn Hoài Nhơn
          “Uống rượu ở quán Hàm Hanh:Trần Quang Đạo
          “Đãi trắng” “Hát vu vơ” “Tháng Ba” Lâm Cúc

          Về với vùng cát đá
          Giấc mơ lành yêu thương
          Trường tôi nôi yêu thương
          Vui đi dưới mặt trời
          Một niềm tin thắp lửa

          TRẠNG TRÌNH
          Hoàng Trung Trực

          Hiền nhân tiền bối xưa nay
          Xem thường danh vọng chẳng say tham tiền
          Chẳng màng quan chức uy quyền
          Không hề nghĩ đến thuyết truyền duy tâm
          Đức hiền lưu giữ ngàn năm
          Vì Dân vì Nước khó khăn chẳng sờn
          Hoàn thành sứ mạng giang sơn
          Lui về ở ẩn sáng thơm muôn đời
          Tầm nhìn hơn hẳn bao người
          Trở thành Sấm Trạng thức thời gương soi.

          Cầu Bạch sông Ngọc Lam Kinh (ảnh Đỗ Dung)

          MAY MÀ…
          Lê Đình Cánh 

          May mà Huế ở Thừa Thiên
          Kinh kỳ thuở trước còn nguyên cổ thành
          Tháp xưa còn tiếng chuông lành
          Tường rêu còn nhuộm sứ sành sắc lam.

          May mà Huế ở trời Nam
          Còn câu đối cũ dựng am sách nghèo
          Nhà vườn còn gác trăng treo
          Còn diều khuê các bơi chèo gió xanh.

          Nếu mà Huế ở xứ Thanh
          Lầu son ngói nát, Cổ thành gạch tan
          Hán Nôm nghìn tuổi thành than
          Nền xưa dấu cũ hoang tàn nắng mưa.

          Lời bình của Bulukhin (Nguyễn Quốc Toàn)

          Lê Đình Cánh là một trong những nhà thơ mà tôi yêu thich. Trong khi lục bát Đồng Đức Bốn xuất thần, bạo liệt, có lúc bụi bặm… Lục bát Nguyễn Duy tài hoa mà hóm hỉnh, thì lục bát Lê Đình Cánh cứ rỉ rả mà thâm trầm sâu cay. Thọ Xuân là quê ông,”May mà” là bài thơ ông nói về quê mình?? Ở đó có Lam Kinh, một khu di tích rộng khoảng 30 ha ở xã Xuân Lam. Lam Kinh có đến 14 công trình di tích như Ngọ môn, Sân rồng, Chính điện Lam Kinh, Khu thái miếu triều Lê sơ, Lăng mộ các vua và hoàng hậu, Vĩnh lăng, Bia Vĩnh Lăng, Hựu lăng, Chiêu lăng, Dụ lăng, Kinh lăng, Khu đền thờ Lê Lợi, Khu đền thờ Lê Lai, Đền thờ Bố Vệ. Nhà nước đã bỏ ra vô số công sức và tiền của để tôn tạo phục chế lại Lam Kinh nhưng rồi không hiểu sao vong linh các vua Lê cứ hỏi nhau nơi đây là đâu nhỉ? Có phải là Lam Kinh vàng son trên đất Thọ Xuân không? Lê Đình Cánh làm thơ chứ không làm vua nên ông không hỏi thế. Mà hỏi ai? và ai trả lời? ông chỉ hú vía thốt lên “may mà” nghe sao mà ai oán. 

          May mà Huế ở Thừa Thiên
          Kinh kỳ thuở trước còn nguyên cổ thành 

          Đọc đến đó chưa ai hiểu nhà thơ nói gì. Thì Huế vẫn còn cho nên Unesco mới phong tặng danh hiệu Di sản văn hoá của nhân loại chứ sao. Tiếp theo tác giả vẫn tiếp tục rỉ rả với cố đô Huế

          May mà Huế ở trời Nam
          Còn câu đối cũ dựng am sách nghèo…

          Thế rồi đột ngột như cầu thủ nhà nghề phạt trực tiếp 11 mét. Tác giả cho bóng vào gôn 

          Nếu mà Huế ở xứ Thanh 
          Lầu son ngói nát cổ thành gạch tan

          Lê Đình Cánh tuyệt nhiên không nói đến Lam Kinh, vì sao vậy? vì Xứ Thanh là phát tích nhiều triều đại vua chúa chứ đâu chỉ có các đời vua thời hậu Lê. Có lẽ những Lê Hoàn, những chúa Trịnh, chúa Nguyễn rồi vua Nguyễn cũng không còn lăng tẩm mà về vì hậu duệ thời a còng đang làm cái việc gọi là duy tu và tôn tạo các di tích lich sử và văn hoá…

          BẢY NÚI MIỀN KÝ ỨC
          Nguyễn Chu Nhạc


          (6)
          Bảy Núi,
          những chóp mái
          chùa Khơ-me vời vợi
          vươn lên trời xanh
          những phum sóc quây quần,
          nơi nương náu
          tình thần mộ đạo
          những dân lành Phật giáo
          quanh năm cày ruộng làm nương,
          vất vả sớm hôm
          chẳng một lời than
          bao nhiêu của cải
          sẵn lòng dâng cửa Phật,
          chỉ giữ lại tấm lòng chân thật,
          làm vốn riêng cho mình,
          tự biết phận chúng sinh,
          nương cửa Phật
          làm những điều phúc đức,
          tự răn lòng
          chờ làm điều gì ác,
          đến rắn thần Nagar, chằn tinh Yeak
          dẫu hung dữ bao nhiêu
          cũng quy Phật
          hiền từ.
          hãy như chim thần Krud
          giang cánh lấy thân đỡ mái chùa,
          hay tiên nữ Apsara ca múa
          hay như thần Bayon canh bốn phía,
          giữ lành cõi Phật an vui
          giữ bình yên cho cuộc sống con người,
          được cấy trồng mùa vụ tốt tươi,
          niềm hạnh phúc dưới mái nhà no ấm.
          để mỗi mùa mưa
          hội đua bò náo nhiệt
          để tết Đôn-ta
          nhà đầy bánh trái
          dâng lên lễ bái ông bà,
          để tết Cholchnam Thmay
          té nước thỏa thuê
          người người dày thêm phúc lộc,

          Bày Núi,
          dưới bóng núi Dài, núi Tượng
          tự bao giờ
          sinh đạo Tứ ân,
          những người đàn ông,
          trang phục bà ba đen
          bới tóc, râu chòm guốc mộc,
          lấy Hiếu nghĩa ở đời làm trọng,
          ân tổ tiên,
          ân đất nước hàng đầu,
          ân Tam bảo gốc rễ bền sâu,
          ân đồng bào
          và bao la nhân loại,
          Đức Bổn sư, Ngô Lợi,
          xưa kia kháng giặc Tây
          lập đạo chiêu nhân,
          theo chiếu Cần vương
          lập ấp khẩn hoang,
          nuôi chí bền gây dựng,
          dẫu chẳng thể dời non lấp biển,
          đạo còn đây
          ân tiên tổ, non sông,
          học Phật tu nhân,
          giữ đạo làm dân,
          chuyện thường tình,
          âu cũng là trọn nghĩa,…

          (trích Trường ca)

          oitiengvietnhubunvanhulua

          VỀ MIỀN TÂY YÊU THƯƠNG
          Hoàng Kim

          Sao anh chưa về lại miền Tây.
          Nơi một góc đời anh ở đó.
          Cần Thơ Sóc Trăng sông Tiền Sông Hậu,…
          Tên đất tên người chín nhớ mười thương.

          Anh có về Bảy Núi Cửu Long,
          Nắng đồng bằng miên man bao nỗi nhớ.
          Kênh ông Kiệt thương mùa mưa lũ….
          Anh có về nơi ấy với em không?

          *

          Mình về với đất phương Nam.
          Ninh Kiều thắm nước, Sóc Trăng xanh đồng.
          Về nơi ấy với em không ?
          Bình minh Yên Tử mênh mông đất trời.

          Ta đi cuối đất cùng đời
          Ngộ ra hạnh phúc thảnh thơi làm Người.

          THÀNH NAM CHIỀU CHỚM ĐÔNG
          Hoàng Gia Cương


          Thành Nam buổi ấy tôi về
          Nhẫn nha chuối ngự, nhâm nhi kẹo Sìu (*)
          Góc hồ gió thổi đìu hiu
          Thoảng đâu tiếng ếch cuối chiều bâng quơ…

          Người xưa trong cõi sa mù
          Đơn sơ nấm mộ bên bờ nắng mưa
          Trăm năm khuất một đời thơ
          Nhân tình thấm đẫm chát chua mặn mà .

          Ngẫm nhìn thế sự gần xa
          Biết là cốt cách, biết là đắng cay-
          Những nhà trào lộng xưa nay
          Bông phèng mong để lấp đầy khổ đau!

          Gắng tìm chẳng thấy hương đâu
          Chắp tay tôi đứng nghiêng đầu vái ông
          Trời tây một vệt ráng hồng
          Còn mưa còn gió nên lòng còn se!

          Lời nối vần Hoàng Kim:

          Trí minh tâm sáng thơ nghề
          Đức cao công trọng phước về chính tâm

          DSC09855

          EM TÔI
          Lê Thuận Nghĩa


          (Đến với bài thơ hay. Hoàng Kim. Đọc “
          Em tôi” của Lê Thuận Nghĩa “Bao người miếng ngập giữa làng. Hạt mè hột đậu em rang đợi người. Trúc xinh đình rộng phỡn phơi. Em tôi lặng chín cả thời xưa nay.”,  tôi nhớ Hoàng Ngọc Dộ trang thơ khát vọngHôm nay anh được chén cơm ngon. Cửa miệng anh ăn nuốt chả trơn. Bởi lẽ ngày dài em lam lũ. Mà sao chỉ được bữa cơm tròn.“)

          Bao người cũ đã mới rồi
          Chỉ còn em vẫn kín thời ngày xưa
          Đèo heo mấy bận mút mùa
          Mờ môi hút gió nhặt thưa nụ cười

          Bao người đã bỏ cuộc chơi
          Riêng em nhặt nắng cuối trời ra hong…
          Bò hóc mắm ủ lòng tong
          Để cho bò tó ấm cùng hốc hang

          Bao người miếng ngập giữa làng
          Hạt mè hột đậu em rang đợi người
          Trúc xinh đình rộng phỡn phơi
          Em tôi lặng chín cả thời xưa nay

          Không lời gửi cuối đuôi mày
          Mà nghe đến tận ngất ngây mùa màng
          Không lời yểm dụ kim thang
          Em tôi bí rợ tập tàng hồn Quê

          Em tôi
          Cõi mộng
          Tôi về…..

          BIỂN VÀ EM
          Nguyên Hùng

          Anh lớn lên trên sóng
          Nên say hoài biển xanh
          Biển đưa ngàn chiếc võng
          Ru bồng bềnh hồn anh.

          Em chỉ là giọt nhỏ
          Giữa dòng đời lặng trôi
          Mà trước em anh ngỡ
          Trước muôn trùng biển khơi.

          (Đọc tiếp
          Nguyên Hùng bạn xứ Nghệ)

          Ở ĐÂU?
          Phan Chí Thắng

          Ở đâu có một ngôi nhà bé
          Cửa sổ đèn khuya bóng em ngồi
          Giai điệu dân ca ngân nhè nhẹ
          Tự tình dạ khúc gửi xa xôi

          Ở đâu có một khuôn vườn lặng
          Em nở dùm tôi những nụ hồng
          Chim hót chào reo bình minh nắng
          Sương mòn xao xuyến như mắt mong

          Ở đâu có một trời thương nhớ
          Em thấu dùm tôi nỗi cháy lòng

          Ở đâu có một con thuyền nhỏ
          Chở những vần thơ tôi sang sông                                          

          Đá Dựng Đại Lãnh

          NỐT LẶNG BÊN ĐỜI
          Hoàng Kim

          Ta vừa mới Đùa vui cùng Thuận Nghĩa
          Nay thung dung dạo gót ngắm Đôi bờ
          Nốt lặng bên đời sớm xuân thưởng thức
          Nghe tơ trời gió mát lẫn vào thơ.

          Mượn và trả, thơ hay đong cõi thực
          Bến trần gian đò mỏng, Thiếu mùa đông
          Tiếng chuông chùa, nghe đêm, nốt lặng
          Rụng nắng, Vòng quay, chầm chậm trời chiều.

          NÔNG LỊCH TIẾT XỬ THỬ
          Hoàng Kim

          Mưa Ngâu rằm Vu Lan

          Tối thì trăng
          Khuya thì mưa
          Mưa Ngâu rằm Vu Lan
          Trầm và huệ thơm hương
          Cúc vàng thương thạch thảo
          Trắng trời rằm tháng Bảy
          Thánh thót giọt mưa Ngâu
          Nông lịch tiết Xử Thử
          Trời đất người tâm giao.

          Đợi Anh ngày trở lại

          Anh như cơn mưa ngọt đầu mùa
          Mang đến niềm vui của ngày gieo hạt
          Mai Việt nở bừng khoe sắc
          Đằm thắm lời thì thầm của dòng sông.

          Anh và em như bức tranh tĩnh vật treo tường
          Một đôi bình gốm qúy
          Cặp bình giản dị
          sang trọng
          khiêm nhường
          tỏa sáng cho nhau.

          Anh mang đến cho em giấc ngủ nhiệm màu
          Xoá đi ưu tư phiền muộn
          Anh vỗ về em
          bằng lời ru ngọt ngào cảm động
          Tìm những nét cao quý nhất trong em
          mà trân trọng giãi bày.

          Anh thân yêu
          Nay anh đã xa rồi
          Em vẫn ước mong anh
          Đợi anh ngày trở lại.

          24 TIẾT KHÍ NÔNG LỊCH
          Hoàng Kim


          Khuyên em đừng quên nhất thì nhì thục
          Di sản Việt Nam học mãi không cùng
          Mình học để làm hai bốn tiết khí
          Mộc mạc hát vần bài học đầu tiên.

          Đất cảm trời thương lòng người gắn bó
          Dẫu khó vạn lần khéo liệu cũng xong
          Mùa xuân tới tự tiết xuân sẽ đến
          Bởi biết rằng năm tháng đó là em.

          6 tháng Một bắt đầu rét nhẹ
          21 tháng Một trời lạnh cắt da
          4 tháng Hai ngày xuân mới đến
          20 tháng Hai Thiên Địa Nhân hòa.

          Đồng dao cho em khuyên em đừng tưởng
          Câu chuyện mùa xuân
          thêm cho mồng Ba
          Trải Cốc Vũ qua ngày Hạ Chí
          Đại Thử rồi Sương Giáng thành hoa.

          6 tháng Năm là ngày Hè đến
          22 tháng Năm mưa nhỏ, vào mùa
          5 tháng Sáu ngày Tua Rua mọc
          21 tháng Sáu là chính giữa Hè.

          7 tháng Bảy là ngày nắng nhẹ
          23 tháng Bảy là tiết nóng oi
          7 tháng Tám Lập Thu rồi đó
          23 tháng 8 trời đất mưa Ngâu

          Qua Xử Thử đến tiết trời Bạch Lộ
          Sau Mưa Ngâu đến Nắng nhạt đấy em.
          Tiết Thu Phân khoảng 23 tháng 9
          Đối lịch nhà nông em nhớ đừng quên.

          Tiết Hàn Lộ nghĩa là trời mát mẻ
          Kế tiếp theo là Sương Giáng (sương mù)
          23 tháng 10 mù sa dày đặc
          Thuyền cỏ mượn tên nhớ chuyện Khổng Minh.

          Ngày 7 tháng 11 là tiết lập đông
          23 tháng 11 là ngày tiểu tuyết
          8 tháng 12 là ngày đại tuyết
          22 tháng 12 là chính giữa đông.

          Khuyên em đừng quên nhất thì nhì thục
          Di sản Việt Nam học mãi không cùng
          Mình học để làm 24 tiết khí
          Mộc mạc hát vần bài học đầu tiên.

          Mùa vụ trồng cây, kinh nghiệm nghề nông
          Xin em đừng quên điều ông bà dạy
          Xuân Hạ Thu Đông hai bốn tiết khí
          Khoa học thiên văn ẩn ngữ đời người.

          Đất cảm trời thương, lòng người gắn bó
          Dẫu khó vạn lần khéo liệu cũng xong
          Mùa xuân tới tự tiết xuân sẽ đến
          Bởi biết rằng
          năm tháng đó là em.

          DSC02002

          NHỚ THÁNG BẢY MƯA NGÂU
          Hoàng Kim

          Tháng Bảy mưa Ngâu
          Trời thương chúng mình
          Mưa giăng
          Ướt đầm vạt áo
          Bảy sắc cầu vồng
          Lung linh huyền ảo
          Mẹ thương con
          Đưa em về cùng anh.

          Chuyến xe tốc hành
          Chạy giữa trăm năm
          Chở đầy kỷ niệm
          Chở đầy ắp tình em
          Từ nơi chân trời
          Góc biển

          Chàng Ngưu hóa mình vào dân ca
          Con ngựa, con trâu
          Suốt đời siêng năng làm lụng.
          Thương con gà luôn dậy sớm
          Biết ơn con chó thức đêm trường.

          Em ơi !
          Những câu thơ ông bà gửi lại
          Đã theo chúng mình đi suốt thời gian.

          Xem tiếp >>

            Dạy và học 22 tháng 8(22-08-2021)


           

           

          CHÀO NGÀY MỚI 22 THÁNG 8
          Hoàng Kim
          CNM365 Tình yêu cuộc sốngĐêm Vu Lan; Trò chuyện với Hoàng Kim, Chọn giống sắn kháng CMD; Chọn giống sắn kháng CWBD; Cây Lương thực Việt Nam; Gõ ban mai vào phím; Bài thơ Viên đá Thời gian; Giếng Ngọc vườn Tao Đàn; Trời mưa trong mắt ai;Nhớ Người; Đêm trắng và bình minh. Ngày 22 tháng 8 năm 1875 Đế quốc Nga và Đế quốc Nhật Bản, phê chuẩn Hiệp ước Sankt-Peterburg, theo đó đảo Sakhalin thuộc về Nga còn quần đảo Kuril thuộc về Nhật Bản. Ngày 22 tháng 8 năm 564, quái vật ở hồ Loch Ness, Scotland được nhà truyền giáo Columba thuật rằng ông đã trông thấy. Ngày 22 tháng 8 năm 1941 là ngày mất của tướng Phùng Chí Kiên, tiền bối cách mạng và quân sự Việt Nam (sinh năm 1901), người mà đại tướng Võ Nguyên Giáp ngậm ngùi rơi lệ khi nhắc lại. Bài chọn lọc ngày 22 tháng 8: Đêm Vu Lan; Trò chuyện với Hoàng Kim, Chọn giống sắn kháng CMD; Chọn giống sắn kháng CWBD; Cây Lương thực Việt Nam; Gõ ban mai vào phím; Bài thơ Viên đá Thời gian; Giếng Ngọc vườn Tao Đàn; Trời mưa trong mắt ai;Nhớ Người; Đêm trắng và bình minh. Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.comhttp://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-22-thang-8/

           

           

          ĐÊM VU LAN
          Hoàng Kim

          Chẳng thể nào ngủ được đêm nay
          Đêm Vu Lan mờ tỏ
          Trăng rằm khuya lồng lộng giữa trời
          Thăm thẳm một lời Người nói …

          Mẹ cũ như ngôi nhà cũ
          Chiếc áo mẹ mang bạc phếch tháng năm
          Cha cũ như con thuyền cũ
          Dòng sông quê hương thao thiết đời con

          Anh chị cũ tình vẹn nghĩa
          Trọn đời thương nhau lồng lộng
          trăng rằm
          Em tôi hồn quê dáng cũ
          Con cháu niềm vui thơm thảo tháng năm

          Thầy bạn lộc xuân đầy đặn
          Bài ca thời gian ngời ngợi trăng rằm.

          Ngày mới và đêm Vu Lan
          Vầng trăng Sao Hôm
          Sao Kim thân thiết.
          Loanh quanh tìm tòi cái mới
          Đêm Vu Lan thức về lại chính mình.

           

           

          CHỌN GIỐNG SẮN KHÁNG CMD
          Nguyễn Thị Trúc Mai, Hoàng Kim, Hoàng Long, và đồng sự (*)
          Selection of cassava varieties resistant to CMD

          Ở Việt Nam, giống sắn KM419 và KM440 đến nay là phổ biến nhất, sau cả áp lực nặng của bệnh khảm lá CMD và bệnh chổi rồng CWBD.
          https://youtu.be/XDM6i8vLHcIhttps://youtu.be/kjWwyW0hkbU chúng tôi khuyên nông dân nên trồng các loại giống sạch bệnh KM568, KM535, KM419, KM440, KM94, KM140, KM98-1, HN5, HLS14 để khảo nghiệm DUS và VCU. Sắn Việt Nam bảo tồn và phát triển bền vững: xem thêm https://hoangkimlong.wordpress.com/category/chon-giong-san-khang-cmd/

          In  Vietnam, up to now, cassava varieties KM419 and KM440 are popular,  after even CMD and CWBD, https://youtu.be/XDM6i8vLHcI and https://youtu.be/kjWwyW0hkbU planting clean KM568, KM535, KM419, KM440, KM94, KM140, KM98-1, HN5, HLS14 for DUS and VCU trials remains our advice to farmer at this stage.  Cassava conservation and sustainable development in Vietnam: https://youtu.be/XMHEa-KewEk; https://youtu.be/5l9xPES76fU;

           

           

          Bệnh virus khảm lá CMD từ ban đầu Tây Ninh (2017) lan rộng trên 15 tỉnh thành Việt Nam (2018) là thách thức của các nhà khoa học. “V/v sử dụng giống sắn KM419 trong sản xuất” đã được Bộ NNPTNT xác định tại công văn chỉ đạo của Bộ Nông nghiệp Phát triển Nông thôn, Cục Bảo vệ Thực vật số 1068/ BVTV ngày 3 tháng 5 năm 2019. Giống sắn KM419 có năng suất tinh bột cao nhất và diện tích trồng phổ biến nhất hiện nay ở Việt Nam. Giống sắn KM419 chống chịu trung bình bệnh CMD và bệnh chổi rồng (CWBD), trong điều kiện áp lực hai bệnh này ở Việt Nam là rất cao. Sự cần thiết cấp bách lai tạo KM419 đưa thêm gen kháng bệnh của giống C39, KM440 (KM94 đột biến); KM397 vào giống sắn ưu tú này .

           

          Giống sắn KM419 bìa trái thấp cây, tán gọn, cọng đỏ, chống chịu trung bình với bệnh CMD và CWBD , và các dòng sắn lai ít bệnh CMD và CWBD, so với HLS 11 giữa, cao cây, cọng xanh, nhiễm nặng bệnh CMD

           

          Chọn giống sắn Việt Nam giải pháp tiếp nối hiệu quả là sử dụng giống sắn KM419 năng suất tinh bột cao sạch bệnh tiếp tục lai tạo với các giống sắn kháng bệnh CMD đã có. Bài viết Chọn giống sắn kháng CMD kết nối Chọn giống sắn kháng CWBDChọn giống sắn Việt Nam đúc kết tóm tắt thông tin đã có và định hướng cho sự nổ lực Trúc Mai, Hoang Long, BM Nguyễn, Nguyen Van Nam, Nhan Pham, Hung Nguyenviet, Hoàng Kim, Jonathan Newby … đang lai hữu tính và bồi dục nâng cao tính kháng cho các giống sắn KM419, KM440, KM397, tốt nhất hiện nay

           

           

          Chúng tôi khuyên nông dân nên trồng các loại giống sạch bệnh KM568, KM535, KM419, KM440, KM94, KM140, KM98-1, HN5, HLS14 để khảo nghiệm DUS và VCU , bảo tồn và phát triển những giống sắn tốt nhất có năng suất cao và ít sâu bệnh.

           

           

          CHỌN GIỐNG SẮN KHÁNG CWBD
          Nguyễn Bạch Mai, Hoàng Kim, Nguyễn Thị Trúc Mai, Hoàng Long, Nguyễn Văn Phu
          Selection of cassava varieties resistant to CWBD *

          Chọn giống sắn kháng CWBD. “Ở Việt Nam, giải pháp chủ yếu ngăn chặn lây lan CWBD là phòng trừ tổng hợp: sử dụng giống sắn KM419, KM440, KM397, KM98-1, ít nhiễm bệnh hơn so với KM94 và dùng nguồn giống sạch bệnh; vệ sinh đồng ruộng tiêu hủy nguồn bệnh kịp thời; diệt rầy lá, rầy thân, nhện đỏ, rệp sáp và các loại côn trùng lây lan bệnh; cần chăm sóc sắn tốt, bón phân và làm cỏ 3 lần để tăng sức đề kháng cho cây, bố trí mùa vụ thích hợp để hạn chế dịch hại; tiêu hủy nguồn bệnh kịp thời khi bệnh xuất hiện; xem thêm http://cayluongthuc.blogspot.com/2012/07/muoi-ky-thuat-tham-canh-san.htmlhttps://hoangkimlong.wordpress.com/category/chon-giong-san-khang-cmd/ Trò chuyện với Hoàng Kim https://hoangkimlong.wordpress.com/category/tro-chuyen-voi-hoang-kim/ (*)

          Selection of cassava varieties resistant to CWBD. In Vietnam, the main solution to prevent the spread of CWBD is integrated control: using cassava varieties KM419, KM397, KM440, … less infected than KM94 and using disease-free seed sources; field sanitation to destroy disease sources in a timely manner; kill leafhoppers, stem planthoppers, red spiders, mealybugs and other disease-spreading insects; it is necessary to take good care of cassava, fertilize and weed 3 times to increase the resistance of the plants, arrange appropriate seasons to limit pests; promptly destroy the source of the disease when the disease appears; see more http://cayluongthuc.blogspot.com/2012/07/muoi-ky-thuat-tham-canh-san.html and https://hoangkimlong.wordpress.com/category/chon-giong-san-khang-cmd/ Conversations with Hoang Kim https://hoangkimlong.wordpress.com/category/tro-chuyen-voi-hoang-kim/https://www.youtube.com/embed/0MVPGxOpoPY?version=3&rel=1&showsearch=0&showinfo=1&iv_load_policy=1&fs=1&hl=vi&autohide=2&wmode=transparent

          CAVAC Cách chọn thân cây sắn để trồng (Video hướng dẫn về bệnh khảm trên cây sắn)https://youtu.be/0MVPGxOpoPY Video của Australian Embassy, Cambodia 18 8 2021 đã viết. “Bạn có biết sắn là cây trồng lớn thứ hai của Campuchia và mang lại sinh kế cho hơn 90.000 hộ gia đình, đóng góp hàng trăm triệu đô la cho nền kinh tế? Điều này cũng có nghĩa là sâu bệnh có thể có tác động tàn phá. Australia thông qua chương trình Chuỗi Giá trị Nông nghiệp Campuchia-Australia (CAVAC) và Trung tâm Nông nghiệp Nhiệt đới Quốc tế (CIAT) đang làm việc với Bộ Nông nghiệp, Lâm nghiệp và Thủy sản để ngăn chặn sự lây lan của bệnh Chổi rồng (CWBD), một mối đe dọa lớn đối với cây sắn. Bệnh CWBD làm giảm hàm lượng tinh bột và sản lượng sắn 80%). Australian Embassy, Cambodia 18 tháng 8 lúc 13:05 “Eradicating Disease from Cambodia’s Cash Crop (ភាសាខ្មែរនៅខាងក្រោម) Did you know cassava is Cambodia’s second biggest crop and provides a livelihood for more… than 90,000 households, contributing hundreds of millions of dollars to the economy? This also means that pests and diseases can have a devastating impact. Australia through the Cambodia-Australia Agricultural Value Chain (CAVAC) program and the International Centre for Tropical Agriculture (CIAT) is working with the Ministry of Agriculture, Forestry and Fisheries to stop the spread of Cassava Witches’ Broom Disease, a major threat to cassava that reduces its starch content and yields by 80%” Australian Embassy, Cambodia said. https://www.youtube.com/embed/-MA3hDJezAg?version=3&rel=1&showsearch=0&showinfo=1&iv_load_policy=1&fs=1&hl=vi&autohide=2&wmode=transparent

          *

          Chọn giống sắn kháng CWBD Ở Việt Nam, giải pháp chủ yếu ngăn chặn lây lan CWBD và CMD là phòng trừ tổng hợp: sử dụng giống sắn KM419, KM440,KM397, KM98-1 ít nhiễm bệnh hơn so với KM94 và dùng nguồn giống sạch bệnh; vệ sinh đồng ruộng tiêu hủy nguồn bệnh kịp thời; diệt rầy lá, rầy thân, nhện đỏ, rệp sáp và các loại côn trùng lây lan bệnh; cần chăm sóc sắn tốt, bón phân và làm cỏ 3 lần để tăng sức đề kháng cho cây, bố trí mùa vụ thích hợp để hạn chế dịch hại; tiêu hủy nguồn bệnh kịp thời khi bệnh xuất hiện; xem thêm
          http://cayluongthuc.blogspot.com/2012/07/muoi-ky-thuat-tham-canh-san.html

          Selection of cassava varieties resistant to CWBD. In Vietnam, the main solution to prevent the spread of CWBD is integrated control: using cassava varieties KM419, KM440, KM397, KM98-1 less infected than KM94 and using disease-free seed sources; field sanitation to destroy disease sources in a timely manner; kill leafhoppers, stem planthoppers, red spiders, mealybugs and other disease-spreading insects; it is necessary to take good care of cassava, fertilize and weed 3 times to increase the resistance of the plants, arrange appropriate seasons to limit pests; promptly destroy the source of the disease when the disease appears; (Hoang Kim and the Team, said. Conversations with Hoang Kim
          https://hoangkimlong.wordpress.com/category/tro-chuyen-voi-hoang-kim/ )

          Chọn giống sắn kháng CMDhttps://hoangkimlong.wordpress.com/category/chon-giong-san-khang-cmd/

           

          Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là km98-1-cassava-breeding-in-viet-nam-1.jpg

           

          CÂY LƯƠNG THỰC VIỆT NAM
          Hoàng Kim, Hoàng Long (chủ biên) và đồng sự
          http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlong

          Bài viết mới (đọc thêm, ngoài giáo trình, bài giảng)

          Cách mạng sắn Việt Nam
          Chọn giống sắn Việt Nam
          Chọn giống sắn kháng CMD
          Giống sắn KM419 và KM440
          Mười kỹ thuật thâm canh sắn
          Sắn Việt bảo tồn phát triển
          Sắn Việt Lúa Siêu Xanh
          Sắn Việt Nam bài học quý
          Sắn Việt Nam sách chọn
          Sắn Việt Nam và Howeler
          Sắn Việt Nam và Kawano
          Sắn Việt và Sắn Thái
          Quản lý bền vững sắn châu Á
          Cassava and Vietnam: Now and Then

          Lúa siêu xanh Việt Nam
          Giống lúa siêu xanh GSR65
          Giống lúa siêu xanh GSR90
          Gạo Việt và thương hiệu
          Hồ Quang Cua gạo ST
          Cơm Niêu Vàng Gạo Đông A
          Con đường lúa gạo Việt
          Chuyện cô Trâm lúa lai
          Chuyện thầy Hoan lúa lai
          Lúa C4 và lúa cao cây
          Lúa sắn Cămpuchia và Lào
          Lúa sắn Việt Châu Phi
          Lúa Việt tới Châu Mỹ

          Giống ngô lai VN 25-99
          Giống lạc HL25 Việt Ấn


          Giống khoai lang Việt Nam
          Giống khoai lang HL518
          Giống khoai lang HL491
          Giống khoai Hoàng Long
          Giống khoai lang HL4
          Giống khoai Bí Đà Lạt

          Việt Nam con đường xanh
          Việt Nam tổ quốc tôi
          Vườn Quốc gia Việt Nam
          Nông nghiệp công nghệ cao
          Nông nghiệp sinh thái Việt
          Nông nghiệp Việt trăm năm
          IAS đường tới trăm năm
          Viện Lúa Sao Thần Nông
          Hoàng Thành đến Trúc Lâm
          Ngày Hạnh Phúc của em
          Có một ngày như thế

          Thầy bạn là lộc xuân
          Thầy bạn trong đời tôi
          Trường tôi nôi yêu thương
          IAS đường tới trăm năm
          Sóc Trăng Lương Định Của
          Thầy lúa Bùi Bá Bổng
          Thầy Quyền thâm canh lúa
          Thầy nghề nông chiến sĩ
          Thầy Norman Borlaug
          Thầy Luật lúa OMCS OM
          Thầy Tuấn kinh tế hộ
          Thầy Tuấn trong lòng tôi
          Thầy Vũ trong lòng tôi
          Thầy lúa xuân Việt Nam
          Thầy Ngoạn Hồ Núi Cốc
          Thầy bạn Vĩ Dạ xưa
          Thầy là nắng tháng Ba
          Thầy Dương Thanh Liêm
          Thầy Hiếu Đêm Giáng Sinh
          Thầy Nguyễn Hoàng Phương
          Thầy Nguyễn Lân Dũng
          Thầy nhạc Trần Văn Khê
          Thầy ơi
          Thắp đèn lên đi em
          Thầy Tuệ Trung Thượng Sĩ
          Ngày xuân đọc Trạng Trình
          Nguyễn Du trăng huyền thoại
          Lê Quý Đôn tinh hoa
          Trần Công Khanh ngày mới
          Phạm Trung Nghĩa Viện Lúa
          Phạm Quang Khánh Hoa Đất
          Phạm Văn Bên Cỏ May

          24 tiết khí nông lịch
          Nông lịch tiết Lập Xuân
          Nông lịch tiết Vũ Thủy
          Nông lịch tiết
          Kinh Trập
          Nông lịch tiết Xuân Phân
          Nông lịch tiết Thanh Minh
          Nông lịch tiết Cốc vũ
          Nông lịch tiết Lập Hạ
          Nông lịch tiết Tiểu Mãn
          Nông lịch tiết Mang Chủng
          Nông lịch tiết Hạ Chí
          Nông lịch tiết Tiểu Thử
          Nông lịch tiết Đại Thử
          Nông lịch tiết Lập Thu
          Nông lịch tiết
          Xử Thử
          Nông lịch tiết
          Bạch Lộ
          Nông lịch tiết
          Thu Phân
          Nông lịch tiết
          Hàn Lộ
          Nông lịch tiết
          Sương Giáng
          Xem tiếp >>

            Dạy và học 21 tháng 8(21-08-2021)

          DẠY VÀ HỌC 21 THÁNG 8
          Hoàng Kim
          CNM365 Tình yêu cuộc sốngVành đai và con đường; Trung Quốc một suy ngẫm; Trung Nga với Trung Á; Thế sự bàn cờ vây; Đọc lại và suy ngẫm; Giếng Ngọc vườn Tao Đàn; Nhớ Người; Đêm trắng và bình minh Ngày 21 tháng 8 năm 1810,Thống chế Pháp Jean-Baptiste Bernadotte được lựa chọn làm thái tử mới của Thụy Điển. Ông sau này trở thành Vua Thụy Điển và Vua Na Uy. Ngày 21 tháng 8 năm 1192, Minamoto no Yoritomo trở thành Chinh Di đại tướng quân, khởi đầu chính quyền Mạc phủ, thế lực cai trị Nhật Bản trên thực tế gần 700 năm cho đến năm 1867. Ngày 21 tháng 8 năm 1959, Tổng thống Dwight D. Eisenhower ký một lệnh hành chính tuyên bố Hawaii trở thành tiểu bang thứ 50 của Hoa Kỳ. Bài chọn lọc ngày 21 tháng 8: Vành đai và con đường; Trung Quốc một suy ngẫm; Trung Nga với Trung Á; Thế sự bàn cờ vây; Đọc lại và suy ngẫm; Giếng Ngọc vườn Tao Đàn; Nhớ Người; Đêm trắng và bình minh Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-21-thang-8/

          VÀNH ĐAI VÀ CON ĐƯỜNG
          Hoàng Kim

          Trung Quốc một suy ngẫm
          Vành đai và con đường
          Trung Nga với Trung Á
          Thế sự bàn cờ vây


          TRUNG QUỐC MỘT SUY NGẪM

          Đường trần thênh thênh bước
          Đỉnh xanh mờ sương đêm
          Hoàng Thành Trúc Lâm sáng
          Phước Đức vui kiếm tìm.

          Tuyết rơi trên Vạn Lý
          Trường Thành bao đổi thay
          Ngưa già thương đồng cỏ
          Đại bàng nhớ trời mây.

          Ngược gió đi không nản
          Rừng thông tuyết phủ dày
          Ngọa Long cương đâu nhỉ
          Đầy trời hoa tuyết bay.

          Hồ Khẩu trên Hoàng Hà
          Đại tuyết thành băng giá
          Thế nước và thời trời
          Rồng giữa mùa biến hóa.

          Lên Thái Sơn hướng Phật
          Chiếu đất ở Thái An
          Đi thuyền trên Trường Giang
          Nguyễn Du trăng huyền thoại

          Khổng Tử dạy và học
          Đến Thái Sơn nhớ Người
          Kho báu đỉnh Tuyết Sơn
          Huyền Trang tháp Đại Nhạn

          Tô Đông Pha Tây Hồ
          Đỗ Phủ thương đọc lại
          Hoa Mai thơ Thiệu Ung
          Ngày xuân đọc Trạng Trình

          Quảng Tây nay và xưa
          Lên đỉnh Thiên Môn Sơn
          Ngày mới vui xuân hiểu
          Kim Dung trong ngày mới

          Bình sinh Mao Trạch Đông
          Bình sinh Tập Cận Bình
          Lời dặn của Thánh Trần
          Trung Quốc một suy ngẫm

          Lên Thái Sơn hướng Phật, cha con tôi có 20 ghi chú về
          Trung Quốc một suy ngẫm . Chúng tôi trò chuyện những bàn luận của các học giả, nhà văn khả kính Việt Nam về Trung Quốc ngày nay. Trong đó, có phiếm đàm của Trần Đăng Khoa “Tào lao với Lão Khoa” Tiếng là phiếm đàm nhưng sự thực là những việc quốc kế dân sinh, tuy là ‘tào lao’ mà thật sự nóng và hay và nghiêm cẩn.

          VÀNH ĐAI VÀ CON ĐƯỜNG

          Sáng kiến Vành đai và Con đường (Belt and Road Initiative, BRI) được chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình khởi xướng năm 2013. Một vành đai, Một con đường – Wikipedia tiếng Việt là tài liệu do chuyên gia Tian Shaohui biên tập ngày 28 tháng 3 năm 2015. “Chronology of China’s Belt and Road Initiative”. Xinhua. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 2 năm 2017 cung cấp một thông tin khái quát. Cấu trúc, cốt lõi, mối quan hệ và mục tiêu của sáng kiến Vành đai và Con đường của Trung Quốc đãđược tiến sĩ Trịnh Văn Định, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Đại học Quốc gia Hà Nội đúc kết thông tin trên tạp chí lý luận chính trị Việt Nam. Vành đai và Con đường (BRI) là “sáng kiến” kết nối cơ sở hạ tầng gồm đường bộ, đường biển và đường không giữa Trung Quốc với thế giới. Sáng kiến này công bố chính thức ngày 28 tháng 3 năm 2015. BRI có hai kế hoạch thành phần, một trên đất liền “Vành đai Kinh tế Con đường tơ lụa” (đường màu đỏ) và một trên biển “Con đường tơ lụa trên biển” (đường màu xanh). BRI khái niệm, cấu trúc, mối quan hệ, cốt lõi và mục tiêu đã được đề cập trong thông tin của tiến sĩ Trịnh Văn Định nhằm tham vấn đối với Đảng và Nhà nước Việt Nam ,để đề ra chính sách thích ứng phù hợp với Vành đai và Con đường.

          Theo tiến sĩ Lê Hồng Hiệp Việt Nam là một quốc gia đang phát triển và có nhu cầu rất lớn về đầu tư cơ sở hạ tầng. Qua một số ước tính, như của Trung Tâm Cơ Sở Hạ Tầng Toàn cầu, nhu cầu đầu tư cơ sở hạ tầng ở Việt Nam từ năm 2016 đến năm 2040 là khoảng 605 tỉ đô la Mỹ. Trong bối cảnh đó, Sáng kiến Vành Đai và Con Đường của Trung Quốc cũng là một nguồn vốn tiềm năng mà Việt Nam có thể tìm hiểu, cân nhắc để có thể khai thác nếu nó phù hợp. Chính vì vậy, Việt Nam tỏ ý ủng hộ về mặt ngoại giao sáng kiến này. Tuy nhiên, trên thực tế, việc vận dụng là rất cẩn trọng cân nhắc trên nguồn lực Việt Nam và thục tiễn.

          TRUNG NGA VỚI TRUNG Á
          Vành đai và con đường” là câu chuyện dài. Nhân chuyện Taliban và Afghanistan mới đây, tôi đọc kỹ lại chương 2: “Tây Tiến; Kinh tế học về quyền lực ở Trung Á” sách “Giấc mộng châu Á của Trung Quốc”, tác phẩm nổi tiếng của Tom Miller, và bài hay của anh Phan Chí Thắng “Suy nghĩ nhân kết thúc chiến tranh của Afghanistan

          Thổ Mộc tương hợp năm 2021

          THẾ SỰ BÀN CỜ VÂY

          Afghanistan Taliban là tin thời sự nóng không kém SARD COVI 2 những ngày này trên Thế giớivà Việt Nam. Taliban là Tiểu vương quốc Hồi giáo Afghanistan (IEA) những ngày qua đã giành được chính quyền trong nước này sau mấy chục năm chiến tranhthánh chiến, chống lại chính quyền Karzai được Mỹ hậu thuẫn và ISAF do NATO lãnh đạo trong chiến tranh ở Afghanistan. Taliban trước đây chỉ được ba quốc gia Pakistan, Ả Rập Xê-útCác Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất. thừa nhận, nhưng ngày nay, Trung Quốc, Nga bắt tay Taliban xây dựng chính quyền mới. Thế sự bàn cờ vây. https://youtu.be/CH4VppzT21c. Bài viết này xâu chuỗi Trung Quốc một suy ngẫmVành đai và con đường Trung Nga với Trung ÁThế sự bàn cờ vây; Đọc lại và suy ngẫm.

          Sáng kiến “Vành đai, Con đường” của Trung Quốc: 5 năm nhìn lại, tác giả Nguyễn Thu Hà, Học viện Chính trị Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh đăng trên Tạp chí Cộng sản ngày 27 tháng 3 năm 2019 theo số liệu trang Chinadaily: http://www.chinadaily.com.cn/a/201809/05/WS5b8f09bfa310add14f3899b7.html Trong 5 năm qua, sáng kiến “Vành đai, Con đường” do Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình lần đầu tiên đưa ra vào tháng 9 năm 2013 cho đến nay tuy đã đạt được nhiều thành công trên các lĩnh vực, song cũng vấp phải không ít thách thức, nhất từ các nước lớn trên thế giới. Toàn văn câu chuyện ấy được lược khảo xem thêm tại đây (*)

          SÁNG KIẾN “VÀNH ĐAi VÀ CON ĐƯỜNG” CỦA TRUNG QUỐC: 5 Na*M NHÌN LẠI
          Nguyễn Thu Hà
          Học viện Chính trị Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh
          Tạp chí Cộng sản ngày 27 tháng 3 năm 2019

          TCCS – Tháng 9-2013, Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình lần đầu tiên đưa ra sáng kiến “Vành đai, Con đường”. Mặc dù trong 5 năm qua, sáng kiến này đạt được nhiều thành công trên các lĩnh vực, song cũng vấp phải không ít thách thức, nhất từ các nước lớn trên thế giới.

          Về sáng kiến “Vành đai, Con đường”

          Sáng kiến ban đầu có tên là “ Một vành đai, Một con đường” (OBOR), sau này được đổi tên thành “Vành đai, Con đường” (BRI). BRI xuất phát từ mong muốn tăng cường kết nối giữa Trung Quốc và nhiều quốc gia khác trên tuyến đường từ châu Á sang châu Âu, với nội dung hướng đến 5 phương diện: chính sách, kết cấu hạ tầng, thương mại, tài chính và kết nối con người.

          BRI gồm có hai hợp phần chính: Vành đai và Con đường. “Vành đai” có nghĩa là “Vành đai kinh tế con đường tơ lụa” (Silk Road Economic Belt); “Con đường” có nghĩa là “Con đường tơ lụa trên biển thế kỷ XXI” (21st Century Maritime Silk Road). “Vành đai kinh tế con đường tơ lụa” được thiết kế với ba nhánh chính nối từ Trung Quốc qua Trung Á và Nga tới châu Âu; từ Trung Quốc qua Trung Á, Tây Á, Vịnh Péc-xích đến Địa Trung Hải; từ Trung Quốc đến Đông Nam Á, Nam Á và Ấn Độ Dương. “Con đường tơ lụa trên biển thế kỷ XXI” với nội dung cơ bản là sự phục hưng con đường tơ lụa cổ đại trên biển, nối liền hệ thống cảng biển của Trung Quốc với các cảng chính ở khu vực Đông Nam Á, Nam Á, châu Phi và châu Âu; kết hợp sự phát triển hành lang kinh tế qua Ấn Độ Dương.

          BRI được coi là một đại dự án của Trung Quốc, hay theo một số chuyên gia, đây còn là một chiến lược toàn cầu khi mà Sáng kiến này sẽ là mạng lưới kết nối các tuyến đường bộ, đường biển, đường sắt của khoảng 65 quốc gia với nhau với tổng GDP khoảng 23.000 tỷ USD, tương đương 1/3 GDP toàn cầu, liên kết 62% toàn bộ số dân thế giới. So với Kế hoạch Mác-san mà Mỹ thực hiện nhằm tái thiết châu Âu sau Chiến tranh thế giới thứ hai thì quy mô và phạm vi của BRI lớn hơn rất nhiều lần.

          Để hiện thực hóa BRI, Trung Quốc đã thành lập ba thiết chế tài chính để rót vốn cho Sáng kiến này, bao gồm Quỹ Con đường Tơ lụa (SRF) (năm 2014) với số vốn dự tính ban đầu 40 tỷ USD, Ngân hàng Đầu tư kết cấu hạ tầng châu Á (AIIB) với nguồn vốn 100 tỷ USD và Ngân hàng Phát triển mới (NDB) khởi đầu với số vốn 50 tỷ USD. Các thiết chế tài chính này sẽ cung cấp nguồn vốn cho việc xây dựng và phát triển các lĩnh vực, như điện, năng lượng, giao thông, viễn thông, xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn, cung cấp nước, các dự án bảo vệ môi trường, phát triển đô thị và dịch vụ logistic.

          BRI – sáng kiến hạ tầng mà theo Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình là nhằm thúc đẩy thương mại và phát triển kinh tế toàn cầu. Tuy nhiên theo nhận định của Trung tâm Nghiên cứu quốc phòng cấp tiến (C4ADS), sáng kiến này nhằm mở rộng ảnh hưởng chính trị, duy trì sự ổn định của khu vực và khẳng định ảnh hưởng của Trung Quốc đối với các quốc gia láng giềng thông qua BRI. Các khoản đầu tư của Trung Quốc dường như để tạo ra ảnh hưởng chính trị, giúp Trung Quốc mở rộng hiện diện quân sự và tạo ra một môi trường chiến lược có lợi cho Trung Quốc trong khu vực. Sáng kiến phản ánh tham vọng của Chính phủ Trung Quốc là phát triển “đất nước khá giả toàn diện” và thực hiện “giấc mộng Trung Hoa”, vươn lên thành cường quốc đứng đầu thế giới.

          Những kết quả đạt được

          Theo đánh giá của Chính phủ Trung Quốc, trong 5 năm triển khai Sáng kiến, BRI đã đạt được những kết quả tích cực và mang lại nhiều lợi ích thiết thực cho Trung Quốc và các nước tham gia. Sau khi hoàn thành, dự án xây dựng kết cấu hạ tầng đồ sộ này sẽ tăng cường khả năng kết nối của Trung Quốc với các khu vực khác, cả trên đất liền lẫn trên biển, mở rộng lĩnh vực thương mại và công nghệ của Trung Quốc sang các thị trường mới.

          Về thương mại, sau 5 năm thực hiện, BRI đã nhận được sự hưởng ứng tích cực và tham gia sâu rộng của hơn 100 quốc gia, vùng lãnh thổ và các tổ chức quốc tế. Tính đến tháng 4-2018, Trung Quốc đã cùng với 86 quốc gia thuộc phạm vi Sáng kiến và tổ chức quốc tế ký kết trên 100 thỏa thuận triển khai các dự án hợp tác trên nhiều lĩnh vực thuộc khuôn khổ BRI. Trung Quốc cùng với 24 quốc gia và vùng lãnh thổ, như Hàn Quốc, Pa-ki-xtan, ASEAN, Pê-ru, Chi-lê và nhiều nước khác ký 16 hiệp định thương mại tự do (FTA). Tổng kim ngạch thương mại giữa Trung Quốc với các nước dọc các tuyến BRI trong 5 năm qua đã vượt trên 5.000 tỷ USD(1). Thêm vào đó, Trung Quốc cũng đã đầu tư trực tiếp ra nước ngoài hơn 50 tỷ USD vào 53 quốc gia và vùng lãnh thổ. Chỉ tính riêng trong năm 2017, Trung Quốc đã nhập khẩu trên 666 tỷ USD hàng hóa từ các nước tham gia BRI, chiếm 25% tổng giá trị nhập khẩu của Trung Quốc, đồng thời, tổng kim ngạch thương mại giữa Trung Quốc với các nước này đã tăng ở mức kỷ lục là 14,2%. Trung Quốc đã xây dựng trên 50 khu hợp tác kinh tế, thương mại tại khoảng 20 nước tham gia BRI, giúp các nước tăng nguồn thu thuế, thu nhập thêm 1,1 tỷ USD và tạo 180.000 việc làm mới.

          Về việc sử dụng các thiết chế tài chính chuyên biệt cho BRI, theo một cuộc khảo sát về các nền kinh tế mới nổi và đang chuyển đổi, các tổ chức tài chính của Trung Quốc, như SRF hay AIIB, tạo động lực thúc đẩy quan trọng cho đa số các nước tham gia BRI nhiều hơn các tổ chức tài chính của chính các nước đó, thậm chí còn nhiều hơn cả Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) hay các tổ chức tài chính quốc tế khác. Tính đến tháng 6-2018, đã có 86 quốc gia trở thành thành viên của AIIB. Theo báo cáo công khai thường niên của AIIB, trong năm 2017 tổng số vốn đã cấp và đợi phê duyệt mà AIIB đã triển khai là 4,22 tỷ USD cho 12 dự án, tăng thêm 5 dự án so với năm 2016. So với ADB, IMF, WB – đều chịu sự kiểm soát của Mỹ và chậm cải cách – thì AIIB là một lựa chọn phù hợp cho cả các nước thành viên và các nước nhận đầu tư.

          Về các dự án kết cấu hạ tầng, Trung Quốc đẩy mạnh đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng ra bên ngoài, trong đó có dự án đường sắt và các cảng biển.

          Về đường sắt, Theo trang The Diplomat (Nhật Bản), Trung Quốc sẽ xây dựng 81.000km đường sắt cao tốc đi qua các quốc gia tham gia BRI – nhiều hơn tổng chiều dài đường sắt cao tốc trên thế giới hiện nay và đã tuyên bố kế hoạch chi 35.000 tỷ nhân dân tệ (tương đương 503 tỷ USD) để mở rộng mạng lưới đường sắt quốc gia vào năm 2020 với tổng số hơn 30.000km, kết nối 80% các thành phố lớn ở Trung Quốc. Các dự án tiêu biểu mà Trung Quốc đang thực hiện, như dự án đường sắt Môm-ba-sa – Nai-rô-bi của Kê-ni-a với tổng chiều dài khoảng 2.700km, trị giá 3,8 tỷ USD, hoàn thành năm 2017, đã giúp người dân nước này giảm thời gian đi từ ga đầu Môm-ba-sa tới ga cuối – Thủ đô Nai-rô-bi chỉ còn 5 giờ đồng hồ thay vì 10 giờ đồng hồ như trước; tuyến đường sắt Viên-chăn – Bô-ten dự kiến hoàn thành vào năm 2021 với tổng chi phí lên đến 7,2 tỷ USD; dự án đường sắt cao tốc Gia-các-ta – Băng-đung tại In-đô-nê-xi-a có tổng chiều dài 142km với tổng vốn đầu tư là 5,13 tỷ USD.

          Về dự án cảng biển, tính đến hết năm 2017, Trung Quốc đã đầu tư một phần hoặc giành được quyền kinh doanh, vận hành trong dài hạn với 76 cảng biển trên toàn thế giới. Trung Quốc không chỉ đầu tư vào các cảng lớn mà còn tìm cách kinh doanh vận hành nhiều cảng nhỏ trên toàn thế giới. Các dự án cảng biển tiêu biểu, như dự án cảng Goa-đa (Gwadar) ở Pa-ki-xtan, dự án cảng Cô-lôm-bô ở Xri Lan-ca, dự án cảng Pi-ra-ớt (Piraeus) ở Hy Lạp và rất nhiều dự án khác.

          Về kết nối con người, Trung Quốc đã đạt được rất nhiều thành tựu trong trao đổi văn hóa và dân tộc giữa Trung Quốc và các nước tham gia BRI. Trung Quốc đã và đang xúc tiến trao đổi văn hóa và dân cư với các nước dọc theo BRI. Kể từ năm 2014, chương trình đào tạo chuyên gia về tội phạm học trẻ do Bộ Văn hóa và Du lịch tổ chức đã mời được 360 chuyên gia về tội phạm từ 95 quốc gia, Trung Quốc đã thành lập 16 trung tâm văn hóa ở các nước tham gia BRI, tổ chức hơn 1.600 sự kiện văn hóa. Trung Quốc đã đạt được thỏa thuận hợp tác sản xuất phim với 21 quốc gia và khu vực tham gia BRI. Ngày 17-10-2018 để kỷ niệm 5 năm thực hiện tăng cường kết nối người dân, Trung Quốc đã thực hiện cuộc triển lãm ảnh được tổ chức tại các đại sứ quán, trung tâm văn hóa và các tổ chức ở những nước tham gia.

          Mặc dù đạt được những bước tiến hướng tới các mục tiêu dài hạn mà Trung Quốc đặt ra, nhưng BRI cũng vấp phải không ít khó khăn, khiến nhiều dự án chậm trễ và thậm chí thất bại. Xét quy mô đồ sộ của BRI với nhiều dự án lớn, việc trì hoãn, hủy bỏ hay thất bại cũng là những việc đã được tính đến. Những nguyên nhân dẫn đến sự chậm trễ (trong một số trường hợp là do sự hoài nghi và phản đối nhằm vào các mục tiêu chiến lược của Trung Quốc gia tăng) sẽ tiếp tục góp phần định hình sự phát triển trong tương lai của Sáng kiến.

          Những trở ngại khi thực hiện Sáng kiến

           

          Những khó khăn nội bộ

          Tham vọng của Trung Quốc trong BRI ngày càng bị hạn chế bởi các phương pháp tiếp cận và mục tiêu chiến lược riêng của nước này. Mặc dù BRI đã đạt được thành công lớn ở các nước đang phát triển, nhưng những thách thức về khả năng tài chính và bất ổn chính trị ở các nước tiếp nhận đầu tư đã nhiều lần gây ra sự chậm trễ, thậm chí là hủy bỏ các khoản đầu tư, như một số dự án giao thông và năng lượng ở Ca-dắc-xtan, Băng-la-đét, Mi-an-ma và Pa-ki-xtan.

          Tham nhũng và bất ổn chính trị tại một số quốc gia tham gia BRI không chỉ khiến các dự án thuộc BRI bị đưa ra phán xét mà còn bị chậm trễ. Và chính Trung Quốc cũng phải gánh chịu những khoản nợ do tình trạng trên gây ra.

          Cuối cùng, sự “nhiệt tình” lôi kéo các nước của Trung Quốc đã tạo cho các nước này lợi thế khi họ cố giành các khoản đầu tư từ các đối thủ của Trung Quốc. Các nước, như Thái Lan, In-đô-nê-xi-a và một số quốc gia Nam Á có thể khuyến khích Nhật Bản và Ấn Độ cạnh tranh với Trung Quốc trong các dự án đường sắt và thủy điện để ngăn cản mục tiêu của Trung Quốc trở thành nước có ảnh hưởng nhất trong khu vực.

           

          Ngoại giao “bẫy nợ” của Trung Quốc

          Không giống Kế hoạch Mác-san (chủ yếu là cung cấp các khoản tài trợ), việc đẩy mạnh đầu tư kết cấu hạ tầng của Trung Quốc phụ thuộc rất nhiều vào các khoản vay. Theo tờ The New York Times, các khoản vay này thường có lãi suất cao hơn các khoản vay từ các nhà tài trợ lớn khác. Và các khoản vay từ các ngân hàng nhà nước Trung Quốc cuối cùng có thể khiến các nước trở nên phụ thuộc hơn khi họ buộc phải bàn giao các cảng, đường sắt, đường bộ và các mạng lưới thông tin liên lạc thiết yếu để thoát khỏi những khoản nợ khổng lồ của các công ty cho vay và các công ty Trung Quốc.

          Trung Quốc có nhiều lý do để tập trung vào các quốc gia đang phát triển nhưng có vị trí chiến lược quan trọng. Chính các nước đang phát triển, trong đó có nhiều nước có nền tảng kinh tế yếu và năng lực điều hành của chính phủ không hiệu quả, đã nhiệt tình hưởng ứng BRI. Trong những quốc gia này, có 11 quốc gia được Liên hợp quốc xác định là nước kém phát triển nhất thế giới. Các nước này thiếu hệ thống kết cấu hạ tầng nên mong muốn tránh các khoản hỗ trợ tài chính gắn với nhiều yêu cầu, ràng buộc của các tổ chức phương Tây. Vì cách tiếp cận tài trợ của Trung Quốc nhấn mạnh vào việc không can thiệp và nói chung là vô điều kiện, không phân biệt chế độ nên Trung Quốc đã có được quyền tiếp cận và nhận được sự thiện chí nhiều hơn so với các nước phương Tây. Phương pháp của Trung Quốc là lôi kéo những quốc gia nhỏ hơn này vào khuôn khổ BRI, qua đó tận dụng các vị trí chiến lược của họ và cân bằng quyền lực với các nước lớn trong khu vực, như Nga, Ấn Độ và Liên minh châu Âu (EU).

          Sự hỗ trợ cho vay trong các dự án chiến lược quan trọng cũng gia tăng mức độ ảnh hưởng của Trung Quốc. Trong khi đó, các nước tham gia BRI lo lắng về khả năng đó là một “cái bẫy nợ”, từ đó Trung Quốc có thể nắm giữ quyền kiểm soát quá mức đối với nền kinh tế của đất nước họ.

          Xri Lan-ca và Pa-ki-xtan đều đang đối mặt với việc trả nợ và các cuộc đàm phán tài chính, phải ký kết thỏa thuận cho thuê đất “làm tài sản bảo đảm nợ” với các công ty Trung Quốc. Tại Xri Lan-ca, cảng Ham-ban-tô-ta hiện được cho thuê trong 99 năm, trong khi các khu vực quanh cảng Goa-đa ở Pa-ki-xtan được cho thuê trong 43 năm. Đối với các nước khác có nợ nước ngoài cao hoặc phụ thuộc quá nhiều vào đầu tư trực tiếp, Trung Quốc đã sử dụng hình thức giảm nợ hoặc các hình thức hỗ trợ khác, như ký kết các hợp đồng dài hạn về việc mua bán tài nguyên thiên nhiên hoặc dầu mỏ để bù đắp cho các khoản vay. Chính vì vậy, ngày càng nhiều suy đoán rằng liệu Trung Quốc có sử dụng lợi thế tài chính của mình tại các cảng nước sâu chiến lược ở các nước để giành lợi thế trong các tuyến vận chuyển ở Ấn Độ Dương hay không?

           

          Phản ứng từ các cường quốc khác

          Mặc dù một trong những mục tiêu mà Trung Quốc tuyên bố là thúc đẩy hội nhập Âu – Á thông qua BRI, nhưng cho đến nay, Sáng kiến này tập trung vào các nước đang phát triển, đặc biệt là các nước vùng Trung Âu, Đông Âu, Nam Á, Đông Nam Á và Trung Á, mà chưa thu hút được các quốc gia phát triển như Nhật Bản hay các nước lớn ở châu Âu. Xét cho cùng, dù các nước này có thể chia sẻ lợi ích thương mại với Trung Quốc, nhưng họ vẫn rất dè chừng, thậm chí còn hoài nghi rằng đó là phương tiện để Trung Quốc tăng khả năng cạnh tranh của mình và là “chương trình nghị sự” để Trung Quốc mở rộng chiến lược trên toàn cầu.

          Ngoài những lo ngại từ các quốc gia đang phát triển, các “đối thủ chiến lược” của Trung Quốc cũng như các nước phát triển, đặc biệt là Mỹ vẫn duy trì, thậm chí ngày càng phản kháng mạnh mẽ đối với Sáng kiến này.

          Là đối trọng lớn nhất của Trung Quốc, Mỹ cùng một số đồng minh, đối tác khác đang điều chỉnh chính sách, thực hiện các chiến lược dài hạn của mình, trong số đó sẽ có những chính sách, chiến lược tác động đến hành lang dọc theo BRI. Mặc dù tại các cuộc gặp gỡ song phương, Trung Quốc và Mỹ đã đạt được sự đồng thuận về việc “xây dựng quan hệ nước lớn kiểu mới Trung Quốc – Mỹ”, tuy nhiên hai nước vẫn liên tục có sự va chạm, và mất đi lòng tin chiến lược. Tháng 7-2018, Mỹ đã “khai hỏa” cuộc chiến thương mại giữa hai nền kinh tế lớn nhất thế giới, chính thức tiến hành áp thuế 25% lên 34 tỷ USD đối với hàng hóa nhập từ Trung Quốc. Cuộc chiến thương mại này sẽ gây khó khăn không nhỏ đối với Trung Quốc vì sẽ làm cho Trung Quốc thiệt hại về kinh tế và bận tâm đối phó với Mỹ mà không tập trung thực hiện BRI. Thêm vào đó, Mỹ cũng tuyên bố về sáng kiến “Tầm nhìn Kinh tế Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương” (Indo-Pacific Economic Vision) với tham vọng vừa củng cố chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương của mình ở khía cạnh kinh tế, vừa gia tăng ảnh hưởng của Mỹ ở khu vực này và đối trọng với BRI của Trung Quốc.

          Tại châu Âu, các thành viên chủ chốt của EU, như Đức và Pháp nhận thấy sự tiếp cận của Trung Quốc ở Trung và Đông Âu mang tính cạnh tranh nhiều hơn tính hợp tác, xem BRI như là một nỗ lực làm lu mờ quy tắc và chương trình nghị sự của Khối. Đại sứ của 27 nước EU tại Trung Quốc đã ký vào văn bản phản đối dự án kết cấu hạ tầng đồ sộ này trong khi lo lắng về ảnh hưởng của Trung Quốc ngày một gia tăng. Điều này dẫn đến việc các hoạt động đầu tư hay các dự án của Trung Quốc ở Trung và Đông Âu bị chỉ trích không ngớt và bị tăng cường giám sát. Dự án tuyến đường sắt giữa Bu-đa-pét và Ben-grát (một phần quan trọng trong chiến lược của Trung Quốc liên kết với cảng Pi-ra-ớt ở Địa Trung Hải) cũng không nằm ngoài tầm ngắm.

          Ở một số nước phát triển, cách tiếp cận của Trung Quốc cũng đạt được một số thành công. Ban đầu Nga cũng dè dặt về BRI, sau đó Nga đã cởi mở hơn vì nhận ra cách đầu tư của Trung Quốc có thể mang lại lợi ích cho nền kinh tế của chính mình và thúc đẩy phát triển ở các nước vùng Trung Á mà Nga có ảnh hưởng đáng kể. Do vậy, Nga bắt đầu hỗ trợ và thậm chí tham gia một số dự án của BRI. Mới đây, Nga đã ký một thỏa thuận cùng với Trung Quốc đồng tài trợ cho gần 70 dự án thuộc Liên minh kinh tế Á – Âu (EAEU). Đây là một động thái giúp giảm bớt rào cản đối với đầu tư của Trung Quốc ở một số nước Đông Âu và Trung Á cũng như khu vực Bắc Cực.

          Về phía Nhật Bản, nước này tiếp tục kiềm chế việc công khai ủng hộ Sáng kiến, nhưng khuyến khích các công ty Nhật Bản tham gia một số dự án của Trung Quốc. Điều này có thể nhận thấy ở các khu vực, như Trung Á và châu Phi, nơi Nhật Bản hy vọng sẽ tăng cường sự hiện diện của các tập đoàn Nhật Bản.

          Như vXem tiếp >>

            Dạy và học 20 tháng 8(20-08-2021)

           

           

          TranHungDao1

           

          DẠY VÀ HỌC 20 THÁNG 8
          Hoàng Kim
          CNM365 Tình yêu cuộc sống Lời dặn của Thánh Trần; Vắt ngang thế kỷ trồng cây đức; Bài thơ Viên đá Thời gian; Nhớ tháng bảy mưa ngâu; Thăm nhà cũ của Darwin; Tỉnh thức cùng tháng năm; Việt Nam đối thoại biển; Sắn Việt Lúa Siêu Xanh; Hoa và Ong Hoa Người; Chuyện đồng dao cho em; Ngày mới Ngọc cho đời; Hoa Mai với Thiền sư; Ngày 20 tháng 8 năm 1300, ngày mất Trần Hưng Đạo , nhà chính trị, nhà văn, và là tư lệnh tối cao (Quốc Công Tiết Chế) của Việt Nam thời nhà Trần. Ngày 20 tháng 8 năm 1858, Charles Darwin lần đầu tiên công bố học thuyết Tiến hóa thông qua chọn lọc tự nhiên của ông, đồng thời với học thuyết tương tự của Alfred Russel Wallace. Ngày 20 tháng 8 năm 1864, ngày mất Trương Định, thủ lĩnh nghĩa quân Việt Nam chống Pháp giữa thế kỷ 19, tuẩn tiết (ông sinh năm 1820). Ngày 20 tháng 8 Ngưu Lang Chức Nữ hoặc vợ chồng Ngâu gặp nhau (Ngày Thất Tịch 7/7 âm lịch nhằm ngày 14/8 /2021 và rằm tháng Bảy nhằm ngày 22/8 /2021) trong huyền thoại Việt và văn hóa phương Đông, Bài chọn lọc ngày 20 tháng 8: Lời dặn của Thánh Trần; Vắt ngang thế kỷ trồng cây đức Bài thơ Viên đá Thời gianNhớ tháng bảy mưa ngâu; Thăm nhà cũ của Darwin; Tỉnh thức cùng tháng năm; Việt Nam đối thoại biển; Sắn Việt Lúa Siêu Xanh; Hoa và Ong Hoa Người; Chuyện đồng dao cho em; Ngày mới Ngọc cho đời; Hoa Mai với Thiền sư; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/ http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-20-thang-8/

           

           

           

           

          LỜI DẶN CỦA THÁNH TRẦN
          Hoàng Kim
          Quốc Công Tiết chế Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn mất ngày 20 tháng 8 âm lịch năm 1300. Người được dân Việt tôn kính gọi là Đức Thánh Trần và thường dâng lễ tạ ơn sớm từ 20 tháng 8 dương lịch đến ngày lễ chính. Vua Trần Anh Tông lúc Đức Thánh Trần sắp lâm chung có ân cần ngự tới nhà thăm, hỏi rằng: “Nếu có điều chẳng may, mà giặc phương Bắc lại sang xâm lược thì kế sách như thế nào?”. Đức Thánh Trần  trả lời: “khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước vậy”. Nguyên văn: “Ngày xưa Triệu Vũ Đế (tức Triệu Đà) dựng nước, vua nhà Hán cho quân đánh, nhân dân làm kế thanh dã (vườn không nhà trống), đại quân ra Khâm Châu, Liêm Châu đánh vào Trường Sa, Hồ Nam, còn đoản binh thì đánh úp phía sau. Đó là một thời. Đời nhà Đinh, nhà Tiền Lê dùng người tài giỏi, đất phương nam mới mạnh mà phương bắc thì mệt mỏi suy yếu, trên dưới một dạ, lòng dân không lìa, xây thành Bình Lỗ mà phá được quân Tống. Đó lại là một thời. Vua nhà Lý mở nền, nhà Tống xâm phạm địa giới, dùng Lý Thường Kiệt đánh Khâm, Liêm, đến tận Mai Lĩnh là vì có thế. Vừa rồi Toa Đô, Ô Mã Nhi bốn mặt bao vây. Vì vua tôi đồng tâm, anh em hòa mục, cả nước góp sức, giặc phải bị bắt. Đó là trời xui nên vậy. Đại khái, nó cậy trường trận, ta dựa vào đoản binh. Dùng đoản binh chế trường trận là sự thường của binh pháp. Nếu chỉ thấy quân nó kéo đến như lửa, như gió thì thế dễ chế ngự. Nếu nó tiến chậm như các tằm ăn, không cầu thắng chóng, thì phải chọn dùng tướng giỏi, xem xét quyền biến, như đánh cờ vậy, tùy thời tạo thế, có được đội quân một lòng như cha con thì mới dùng được. Vả lại, khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước vậy”
          * (Đại Việt sử ký toàn thư tập 2 trang 76 -77).

          Trần Hưng Đạo giành chiến thắng trước quân Nguyên trên sông Bạch Đằng, kết thúc chiến tranh Nguyên Mông – Đại Việt lần 3 vào ngày 9 tháng 4 năm 1288, tức 8 tháng 3 năm Mậu Tý. Sau ba lần thắng giặc, đất nước thanh bình, ông lui về Vạn Kiếp và mất ngày 20 tháng 8 năm 1300 tại vườn An Lạc. Đền Kiếp Bạc ( Hải Dương) là nơi đền thờ chính của đức Thánh Trần.

          Chùa Thắng Nghiêm (Hà Nội) nơi Trần Hưng Đạo lúc nhỏ tu học, là nơi Người hiển thánh.

          Đức Thánh Trần gương soi kim cổ

          Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn là nhà chính trị, quân sự, nhà văn kiệt xuất thời nhà Trần. Chiến công kiệt xuất đánh bại quân đội nhà Nguyên năm 1285 và 1287 đã đưa Đức Thánh Trần thành đại danh tướng lừng lẫy nhất của thế giới và Việt Nam. “CHỌN TƯỚNG” là một chương trong Binh thư Yếu lược của Trần Quốc Tuấn, kiệt tác súc tích và sâu sắc lạ lùng.

          “Người quân tử tiến thoái quả quyết, xem người thì thanh thản vui tươi, chí thì ở trừ tàn bạo, đó là khí độ của người tướng quốc. Thấy ác không giận, thấy lành không mừng, nhan sắc không thay đổi, đó là lượng của người thiên tử.

          Được sự thắng nhỏ, gặp sự thua nhỏ, mà mừng lo hình ra nét mặt, hễ thấy động thì động, thấy tĩnh thì tĩnh, nhát mà không tính toán gì, cất chân thì thần sắc không định, mà hay lấy lời nói để thắng người, đó là tướng ngu vậy.

          Bảy phép để biết người:

          1. Hỏi bằng lời nói xem trả lời có rõ ràng không
          2. Lấy lời cật vấn đến kỳ cùng để xem cách ứng biến của họ.
          3.  Cho gián điệp thử xem có trung thành không.
          4. Hỏi rõ ràng tường tất để xem đức hạnh thế nào.
          5. Lấy của mà thử để xem có thanh liêm không
          6. Lấy sắc đẹp mà thử để xem có đứng đắn không.
          7. Lấy việc khó khăn mà thử để xem có dũng cảm không.
          8. Đem rượu cho họ uống say để xem có giữ được thái độ không.

          Tướng ngu có tám điều tệ:

          1. Lòng tham mà không chán
          2. Ghen người hiền, ghét người tài
          3. Tin lời dèm pha, thích lời nịnh hót
          4. Xét người mà không xét mình
          5. Do dự không quả quyết
          6. Say đắm rượu và sắc đẹp
          7. Thích xảo trá mà lòng nhút nhát
          8. Nói lời viễn vông mà không giữ lễ

          Gia Cát Lượng sách Tướng Uyển chỉ bảy phép biết người.

          Biết tính tình của người, chẳng gì khó bằng xem xét, lành dữ tuy khác nhau, tính tình và vẻ mặt chẳng phải một: có kẻ thì ôn hoà, hiền lành nhưng làm việc trộm cắp;có kẻ bề ngoài thì cung kính nhưng trong bụng thì vô lễ, dối trá; có kẻ bề ngoài thì mạnh dạn nhưng trong bụng thì khiếp sợ;có kẻ làm việc tận lực nhưng bụng không trung thành;

           

          Bảy phép sau đây để biết người

           

          1. Hỏi việc phải trái để dò chí hướng;
          2. Lấy lời cật vấn để biết ứng biến;
          3. Đem mưu kế hỏi để lường kiến thức;
          4. Giao chuyện hiểm nguy để soi dũng cảm;
          5. Mời rượu cho uống say để xét tính tình;
          6. Đưa lợi gái thử để rõ thanh liêm chính trực;
          7. Đem việc cậy nhờ để xét sự trung thành, tin thật.

           

          Tám hạng tướng và bậc đại tướng

           

          Nhân tướng là người dùng đức để đem đường cho người, dùng lễ để xếp việc cho họ, hiểu thấu sự đói rét của người dưới, biết rõ khó nhọc của đồng sự, đó là nhân tướng.

          Nghĩa tướng là người làm việc không cẩu thả, thấy lợi mà không tham, biết chết vinh hơn sống nhục.

          Lễ tướng là người có địa vị cao quý mà không kiêu căng, công hơn người mà không cậy, tài năng mà biết hạ mình, cứng cỏi mà biết nhẫn nhịn.

          Trí tướng là người gặp biến bất ngờ mà chí không đổi, ứng phó linh hoạt với việc khó khăn, có thể đổi họa thành phúc, gặp cơn nguy biến mà sắp đặt thành thắng thế.

          Tín tướng là người thưởng phạt nghiêm minh công bằng, khen thưởng không chậm trễ và không bỏ sót, trừng phạt không buông tha cho kẻ cao quý.

          Bộ tướng thủ hạ của đại tướng phải chọn người tay chân lẹ làng, võ nghệ tuyệt luân,  giỏi đánh gần, ứng biến di chuyển mau lẹ, để bảo vệ an toàn cao nhất cho chủ soái.

          Kỵ tướng là người có thể vượt núi non cheo leo, từng trải việc nguy hiểm, cưỡi ngựa bắn tên mau lẹ như chim bay, tới thì đi trước, lui thì về sau.

          Mãnh tướng là người khí thế vượt hẳn ba quân, dám coi thường địch mạnh, gặp đánh nhỏ vẫn luôn cẩn trọng, gặp đánh lớn thì can đảm quả quyết.

          Bậc đại tướng là người bao trùm và vượt hẳn tám hạng tướng kể trên, gặp hiền tài thì tôn trọng lắng nghe, biết tỏ ý mình không theo kịp người, biết nghe lời can ngăn như thuận theo dòng nước, lòng rộng rãi nhưng chí cương quyết, giản dị và nhiều mưu kế.”

          Vạn Kiếp tông bí truyền thư (萬劫宗秘傳書) của Quốc Công Tiết Chế Hưng Đạo Đại Vương, tác phẩm này còn gọi là Vạn Kiếp binh thư đã thất truyền. Bài tựa của Trần Khánh Dư trong cuốn sách này giải thích bí truyền đại sư là người thế nào:

          “Phàm người khéo cầm quân thì không cần bày trận, khéo bày trận thì không cần giao chiến, khéo giao chiến thì không thể thất bại, khéo thất bại thì không thương vong. Xưa kia, Cao Dao làm chức sĩ sư mà mọi người không dám trái mệnh, Văn Vương và Vũ Vương nhà Chu là bậc thầy về văn và về võ, ngấm ngầm sửa đức để khuynh loát quyền bính của nhà Thương mà lấy nghiệp vương. Đó đều có thể gọi là những người giỏi cầm quân, không cần bày trận vậy. Vua Thuấn múa lá mộc và lông trĩ mà họ Hữu Miêu tự mình tìm đến, Tôn Vũ nước Ngô đem mỹ nhân trong cung thử tập trận mà phía tây phá nước Sở hùng cường, phía Bắc ra uy với nước Tần nước Tấn, nổi tiếng khắp chư hầu. Đó đều có thể gọi là những người giỏi bày trận, không cần giao chiến vậy. Cho đến Mã Ngập nước Tấn dựa vào bát trận đồ chuyển đánh nghìn dặm, phá được Thụ Cơ Năng mà lấy lại Lương Châu. Thế gọi là người giỏi giao chiến không bao giờ thất bại vậy.Cho nên, trận nghĩa là bày ra, là khéo léo. Ngày xưa, vua Hiên Viên lập ra phép “tỉnh điền” để đặt binh chế, Gia Cát Lượng xếp đá bên sông để làm bát trận, Vệ công sửa lại làm trận Lục Hoa, Hoàn Ôn định ra trận Xà Thế, trước sau đều có trận đồ nổi tiếng, trình bày tuần tự, thành phép tắc rõ ràng. Nhưng người đương thời ít ai thông hiểu, muôn vàn đầu mối nhìn vào dường như rối loạn, chưa từng nắm được lẽ biến dịch bên trong. Ví như những phép tắc và suy luận của Lý Thuyên, người sau không ai hiểu nghĩa là gì. Vì thế, Quốc công ta bèn so sánh, kê cứu trận đồ và binh pháp của các nhà, tổng hợp lại thành một bộ sách. Tuy chép cả những điều chi tiết, nhưng người sử dụng thì nên bỏ bớt những chỗ rườm, tóm lấy thực chất. Rồi lấy năm hành ứng với nhau, chín cung câu với nhau, phối hợp cương và nhu, xoay vần chẵn và lẽ, không làm hỗn loạn âm dương và thần sát, phương lợi và sao tốt, hung thần và ác tướng, ba cát và năm hung, việc nào việc ấy thực phân minh rõ rệt. Quốc công lại còn thêm bớt với chiến thuật của thời Tam đại, nhờ đó trăm trận trăm thắng. Cho nên đương thời phía bắc làm cho Hung Nô phải sợ, phía tây làm cho Lâm Ấp phải kinh. Rồi ông đem sách này dạy bảo con em làm gia truyền, không tiết lộ cho người ngoài biết. Lại có lời dặn rằng: “Sau này con cháu và bề tôi phò tá của ta có học được bí thuật này thì nên lấy đầu óc sáng suốt, linh hoạt mà thực hành và sắp đặt nó, chứ không nên lấy đầu óc cứng nhắc, tối tăm mà cất giữ và lưu truyền. Nếu trái điều đó thì sẽ mang vạ vào thân, lại hại lây đến cả con cháu. Đó gọi là tiết lậu cơ trời vậy.”

          Bài tựa của Trần Khánh Dư cho Vạn Kiếp tông bí truyền thư, còn như sách Binh thư yếu lược mà người đời ngờ rằng bản thật đã bị cướp và thất lạc, đời sau chỉ có chân truyền lời này.

           

           

           

           

          Chùa Thắng Nghiêm (Hà Nội) nơi Trần Hưng Đạo lúc nhỏ tu học, là nơi Người hiển thánh.

          Ôi, đọc lại “Binh Thư Yếu lược” “Hịch Tướng Sĩ Văn” và Vạn Kiếp tông bí truyền thư, gương soi kim cổ, lắng nghe cuộc sống, để biết sửa mình;

          Hoàng Kim

          LỜI THỀ TRÊN SÔNG HÓA
          Hoàng Kim


          Sông Hóa ơi Bạch Đằng Giang
          Ta đến nơi đây chẳng một lần
          Lời thề sông núi trời đất hiểu
          Lời dặn của Thánh Trần (*)

          Sông Hóa ơi hời, ơi Linh Giang
          Quê hương liền dải tụ trời Nam
          Minh Lệ, Hưng Long hai bầu sữa
          Hoàng Gia trung chính một con đường.

          Rào Nan Đá Dựng chốn sông thiêng
          Nguồn Son Chợ Mới đẹp ân tình
          Minh Lệ đình xưa thương làng cũ
          Nguyện làm hoa đất của quê hương.

          Đất nặng ân tình đất nhớ thương
          Ta làm hoa đất của quê hương
          Để mai mưa nắng con đi học
          Lưu dấu chân trần với nước non.

          (*) Trương Hán Siêu “Phú sông Bạch Đằng” đã thuật lại cuộc chiến sông Bạch Đằng nơi voi chiến sa lầy rơi nước mắt và lời thề trên sông Hóa 1288 của Hưng Đạo Vương. Lời thơ lẫm liệt hào hùng bi tráng: “Thuyền bè muôn đội, tinh kỳ phấp phới/ Hùng dũng sáu quân, giáo gươm sáng chói/[…] / Trận đánh được thua chửa phân/ Chiến lũy bắc nam đối chọi/ […] / Tất Liệt thế cường, Lưu Cung chước dối / Những tưởng gieo roi một lần/ Quét sạch Nam bang bốn cõi/ […] /Trời cũng chiều người / Hung đồ hết lối! ” Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải viết: ‘Thái bình tu nổ lực/ Vạn cổ thử giang san”.


           

           

           

          NHỚ CỤ NGUYỄN ĐỨC HÀ
          (Cụ Đỗ Hoàng Phong 95 tuổi mến tặng)


          Cụ về tiên cảnh đã tròn năm
          Đứt đoạn dây tơ rối ruột tằm
          Nỗi nhớ bâng khuâng còn đọng mãi
          Niềm đau vương vấn vẫn thương thầm
          Tâm hồn trong sáng dân vì nể
          Đạo đức.kiên trung Nước tri ân
          Di ảnh còn đây người vắng bóng
          Lưu đời, dấu ấn trí nhân tâm

          Tháng 8 /2018 Nhân ngày Kỵ Nhật (29 tháng 6 âm lịch nhằm ngày 20 tháng 8 năm 2017), mấy lời vương vấn đến cụ
          (*) Cảm ơn cụ Đỗ Hoàng Phong 95 tuổi đã có thơ hay tưởng nhớ cụ Nguyễn Đức Hà là ba vợ của cháu. Gia đính các cháu xin chép lại

           

           

           

           

          VẮT NGANG THẾ KỶ TRỒNG CÂY ĐỨC
          Cụ Đỗ Hoàng Phong
          mừng thọ Cụ Nguyễn Đức Hà

          Chín sáu mùa xuân ai bảo nhầm
          Đối nhân xử thế đúng phương châm
          Vắt ngang thế kỷ trồng cây Đức
          Xẻ dọc biên niên dệt chữ Tâm
          Dũng sĩ so tài không kém sức
          Anh hùng đọ trí cũng ngang tầm
          Huân chương Nước tặng hồng trên ngực
          Bách tuế ghi tên vẫn nhớ thầm

          NHỚ CHA NGUYỄN ĐỨC HÀ
          Hoàng Kim
          nhân ngày giỗ cha vợ
          tiếp nối thơ cụ Đỗ Hoàng Phong

          Qua chín lăm xuân vượt mọi nhầm
          Cha Anh theo Bác vững phương châm
          Dòng họ mến thương vì tốt bụng
          Bà con quý trọng bởi nhân tâm
          Bảy con hạnh phúc bền son sắt
          Hai Cụ yêu thương ngưỡng mộ tầm.
          Trọn vẹn một đời Cha thật sướng
          Tháng Bảy mưa Ngâu mãi nhớ thầm.

          Đoc tiếp
          Vắt ngang thế kỷ trồng cây đức

           

           

          DSC02002

           

           

          NHỚ THÁNG BẢY MƯA NGÂU
          Hoàng Kim

          Tháng Bảy mưa Ngâu
          Trời thương chúng mình
          Mưa giăng
          Ướt đầm vạt áo
          Bảy sắc cầu vồng
          Lung linh huyền ảo
          Mẹ thương con
          Đưa em về cùng anh.

          Chuyến xe tốc hành
          Chạy giữa trăm năm
          Chở đầy kỷ niệm
          Chở đầy ắp tình em
          Từ nơi chân trời
          Góc biển

          Chàng Ngưu hóa mình vào dân ca
          Con ngựa, con trâu
          Suốt đời siêng năng làm lụng.
          Thương con gà luôn dậy sớm
          Biết ơn con chó thức đêm trường.

          Em ơi !
          Những câu thơ ông bà gửi lại
          Đã theo chúng mình đi suốt thời gian.

          Tháng Bảy mưa Ngâu
          Đầy trời mưa giăng giăng
          Thương nàng Chức Nữ
          Em là tiên đời thường
          Đầy đặn yêu thương

           

           

          DSC02003

           

           

          Tháng Bảy mưa Ngâu
          Nhớ thương ai góc biển chân trời
          Những cuộc chia ly
          Đong đầy nỗi nhớ …

          Chiêm bao mơ về chuyện cũ
          Khói sương mờ ký ức thời gian
          Chốn nào chúng mình hò hẹn
          Nơi em cùng anh xao xuyến yêu thương

          Ngắm mưa Ngâu tháng Bảy
          Mưa, mưa hoài, mưa mãi
          Mưa trong lòng người
          Nên mưa rất lâu…

          Mưa rơi như dòng lệ trắng
          Đất trời thương nối một nhịp cầu.

          Em ơi
          Lời tình tự của nghìn năm dân tộc.
          Như sắc cầu vồng
          Nối hai miền xa cách
          Để xa nên gần
          Vời vợi nhớ thương.

          “Nhớ tháng Bảy mưa Ngâu” là bài thơ tình của Hoàng Kim viết tặng cho những đôi lứa yêu thương cách xa nhau và khát khao ngày gặp mặt. Bài thơ là chuyện tình cảm động Ngưu Lang Chức Nữ có trong dân gian Việt Nam. Truyện về nàng tiên Chức Nữ xinh đẹp, phúc hậu, nết na yêu thương chàng trai Ngưu Lang khôi ngô, hiền lành, chăm chỉ. Họ yêu nhau say đắm, bất chấp sự xa xôi nghìn trùng của cõi Trời và cõi Người. Cảm động trước tình yêu son sắt thủy chung của hai người, mỗi năm Trời Phật đã nối duyên cho họ găp nhau một lần vào tiết tháng Bảy mưa ngâu trước rằm Trung Thu tháng Tám. Đó là dịp Trời gom góp của nhà Trời và sự cần mẫn suốt năm của Ngưu Lang Chức Nữ để làm thành chiếc cầu vồng bảy màu nối liền đôi bờ thăm thẳm cho họ được gặp nhau. Muôn vạn con quạ, con cò, con vạc, bồ nông, ngỗng trời đã hợp lực ken kín cầu Ô Thước để giúp Ngưu Lang và Chức Nữ gặp nhau. Những giọt nước mắt mừng tủi của hai người và sự cảm động của trời đất, chim muông đã hóa thành mưa ngâu.

           

           

          Darwin

           

           

          THĂM NHÀ CŨ CỦA DARWIN
          Hoàng Kim

          Đôi mắt Darwin soi thấu nguồn gốc các loài. “Kẻ sống sót không phải là kẻ mạnh nhất hay thông minh nhất, mà là kẻ thích nghi tốt nhất” Charles Darwin đã nói vậy: “It is not the strongest of the species that survives, nor the most intelligent that survives. It is the one that is most adaptable to change” Bảo tồn và phát triển bền vững, thích nghi để tồn tại là câu chuyện lớn của mỗi người và nhân loại, là lời nhắc của quá khứ hiện tại và tương lai cho nhân loại và chính cộng đồng người dân Việt Nam để không bao giờ được phép quên lãng. Thích nghi để tồn tại mới là người thắng sau cùng. Cân bằng hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế, bảo vệ môi trường, tiến bộ và công bằng an sinh xã hội, giữ vững độc lập thống nhất chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia là vấn đề trọng yếu trong chính sách kinh tế xã hội tự nhiên và an sinh.

           

           

           

           

          Thăm nhà cũ của Darwin là tìm đến tư duy mạch lạc của một trí tuệ lớn “Darwin thích nghi để tồn tại” nhằm vận dụng soi tỏ “Niên biểu lịch sử Việt Nam“, ” Nông nghiệp Việt 500 năm”, “Nông nghiệp Việt trăm năm” (1925 -2025); lần tìm trong sự rối loạn và góc khuất lịch sử dòng chủ lưu tiến hóa, chấn hưng văn hóa, giáo dục và nông nghiệp Việt. Down House  là ngôi nhà cũ của nhà tự nhiên học người Anh Charles Darwin (12 tháng 2, 1809 – 9 tháng 4, 1882) và gia đình ông. Nơi đây Darwin đã làm việc về thuyết tiến hóa bởi chọn lọc tự nhiên và nhiều thí nghiệm khác. “Nguồn gốc các loài” của Charles Darwin xuất bản lần đầu tiên ngày 24 tháng 11 năm 1859 là ấn phẩm khoa học tiêu biểu và là tác phẩm nòng cốt của ngành sinh học tiến hóa, chứng minh rằng mọi loài đều tiến hóa theo thời gian từ những tổ tiên chung qua quá trình chọn lọc tự nhiên. Hiện nay học thuyết tiến hóa của Darwin đang được tôn vinh và phê phán dữ dội. Vượt qua mọi khen chê của nhân loại và thời đại biến đổi, triết lý của Charles Darwin thật sâu sắc. “Mọi loài đều tiến hóa theo thời gian từ những tổ tiên chung qua quá trình chọn lọc tự nhiên“, “thích nghi để tồn tại” bài học tình yêu cuộc sống đắt giá của tự nhiên, chính mỗi người, cộng đồng dân tộc và nhân loại.

           

           

           

           

          Nông nghiệp Việt trăm năm (1925-2025) thao thức trong tôi. “Trăm năm trong cõi người ta” cụ Nguyễn Du khởi đầu kiệt tác Truyện Kiều hồn Việt, đất Việt, người Việt bằng câu này. Nông nghiệp Việt trăm năm bảo tồn và phát triển là bài học lớn Nông nghiệp Việt thích nghi để tồn tại kết nối và hội nhập nhưng không quên bản sắc mình là ai và ở đâu trong thế giới phát triển. Nông nghiệp Việt 100 năm bảo tồn và phát triển chúng ta sẽ lắng đọng các bài học lý luận và thực tiễn đúc kết chuỗi hệ thống lịch sử địa lý sinh thái kinh tê xã hội tầm nhìn dài hạn 100 năm.Tôi duyên may gặp được các trang vàng của những người thầy lớn, có tầm nhìn xa rộng, sức khái quát cao và tài năng khoa học phi thường, để tự mình đọc kỹ lại và suy ngẫm. Tôi vì giới hạn nhiều điều chưa kịp chiêm nghiệm chép lại, nay soạn lại chùm ảnh tư liệu cũ “một thời để nhớ” bỗng bâng khuâng ngưỡng mộ sức khái quát trong đúc kết Thật thú vị khi được trãi nghiệm một phần đời mình gắn bó máu thịt với Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh và Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam; Thật yêu thích được dạy và học bảo tồn và phát triển, tìm dòng chủ lưu tiến hóa chấn hưng đất nước.

           

           

           

           

          (*) Cây Cỏ Việt Nam, giáo sư Phạm Hoàng Hộ

          Cây cỏ Việt Nam gồm hai Tập, mỗi Tập 3 Quyển, tổng cộng khoảng 3,600 trang, chưa kể Phần Từ Vựng tên Việt Nam và Từ Vựng tên Khoa học các Giống (Chi) bao gồm thêm cả công trình của những năm tháng giáo sư rời quê hương Việt Nam sang Pháp, vẫn tiếp tục cặm cụi làm việc Theo Giáo sư Phạm Hoàng Hộ thì bộ sách Cây cỏ Việt Nam đã được thực hiện qua 4 giai đoạn: Nghiên cứu giai đoạn một:hợp tác với GS Nguyễn Văn Dương về phần dược tính,  Cây cỏ Miền Nam Việt Nam, do bộ Quốc gia Giáo dục ấn hành năm 1960 mô tả 1,650 loài thông thường của Miền Nam, “Đó là giai đoạn còn mò mẫm, học hỏi một thực-vật-chúng chưa quen thuộc đối với một sinh viên vừa tốt nghiệp từ vùng xa lạ mới về. Nghiên cứu giai đoạn hai: kỳ tái bản lần hai 1970 bộCây cỏ Miền Nam Việt Nam, số loài lên được 5,328 loài… ; Nghiên cứu giai đoạn ba:tiếp tục công việc nghiên cứu sau 1975, đưa thêm được vào bộ sách Cây cỏ Miền Nam Việt Nam 2,500 loài và bộ được nới rộng cho toàn cõi Việt Nam. Nghiên cứu giai đoạn bốn: bộ sách Cây cỏ Việt Nam được bổ sung trên 3000 loài. Số loài mô tả khoảng 10,500. Sau khi hoàn tất bộ sách Cây Cỏ Việt Nam, Giáo sư Phạm Hoàng Hộ đã bày tỏ lòng tri ân sâu xa đối với Viện Bảo Tàng Thiên nhiên Quốc gia Paris và các bạn đồng sự Pháp, ông đã rất chân thành tâm sự: “thực hiện những điều mà lúc nhỏ dù điên rồ tới đâu tôi cũng không dám mơ ước: nô lệ của một thuộc địa, học ở một trường thường, ở một tỉnh nhỏ, bao giờ dám nghĩ đến tạo một quyển sách dù nhỏ bé, mê cây cỏ xung quanh nhưng bao giờ nghĩ đến biết cây cỏ cả nước!” Người “trí thức đau khổ” Phạm Hoàng Hộ đã vươn lên và hoàn tất được “giấc mơ điên rồ” tưởng như không thể được ấy và trở thành cây “đại thụ” trong Khoa học Thực vật của Việt Nam và cả Thế giới.”

           

           

           

           

          (**) Nhớ cụ Nguyễn Ngọc Trìu

          Bộ Trưởng Nguyễn Ngọc Trìu đến Trung tâm Hưng Lộc năm 1987 thăm thành tựu tiến bộ kỹ thuật “trồng ngô lai xen đậu ở vùng Đông Nam Bộ” và mô hình “nghiên cứu phát triển đậu rồng ở các tỉnh phía Nam. Hai công trình này do Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam giới thiệu, đã được Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn công nhận là tiến bộ kỹ thuật nông nghiệp và được phát triển rộng rãi trong sản xuất. Cụ Trứ Nguyễn Ngọc Trìu là một chính khách lớn, có cuộc đời và sự nghiệp dường như là cụ Nguyễn Công Trứ của thời đại Hồ Chí Minh. Mọi người khi nhắc đến Cụ đều nhớ ngay đến vị Chủ tịch tỉnh Thái Bình sinh ở Tây Giang, Tiền Hải đã làm rạng ngời “quê hương 5 tấn”, nhớ ông Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp trí tuệ, xông xáo và rất biết lắng nghe, sau này làm Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng phụ trách mảng Nông – Lâm – Ngư nghiệp và Đặc phái viên của Thủ tướng Phạm Văn Đồng đối với vùng Nam Bộ . Cụ Trìu cũng là Chủ tịch Hội làm vườn Việt Nam, nơi tâm nguyện của ông được bạn thơ Thợ Rèn mến tặng’ “Danh vọng hão huyền như mây khói . Làm vườn cây trái để ngàn năm”, như nhà văn Nguyễn Tuân nhận xét: “Trìu làm lãnh đạo nhưng trước hết là một Con Người”.

           

           

           

           

          GS Trần Thế Thông nay đã qua tuổi 94, trò chuyện về Viện

           

           

          Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là tham-ngoi-nha-cu-cua-darwin-3a.jpg

           

           

          GS Trần Thế Thông, GS Vũ Công Hậu làm việc cùng chuyên gia Viện Vavilop Liên Xô.

           

           

          Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là tham-ngoi-nha-cu-cua-darwin-3b.jpg

           

           

          TS. Hoàng Kim giám đốc Trung tâm Hưng Lộc cùng với GS.Vũ Công Hậu và chuyên gia viện Vavilop Liên Xô trong chương trình thu thập bảo tồn tài nguyên cây trồng.

           

           

          Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là tham-ngoi-nha-cu-cua-darwin-3c.jpg

           

           

          Mô hình trồng xen lạc, đậu xanh, đậu nành, đậu rồng với ngô lai, sắn có hiệu quả cao ở vùng Đông Nam Bộ và Duyên hải miền Trung. TS. Hoàng Kim đang báo cáo kết quả nghiên cứu và phát triển mô hình trồng xen ngô đậu với bộ trưởng Nguyễn Ngọc Trìu.

           

           

          Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là tham-ngoi-nha-cu-cua-darwin-3d.jpg

           

           

          GS Mai Văn Quyền hướng dẫn chuyên gia IRRI và chuyên gia Viện Lúa ĐBSCL thăm mô hình trồng xen ngô đậu trong hệ thống cây trồng vùng Đông Nam Bộ.

           

           

          Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là tham-ngoi-nha-cu-cua-darwin-4a.jpg

           

           

          Những người bạn Sắn Việt Nam với Những người bạn lớn của nông dân trồng sắn châu Á

           

           

          Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là tham-ngoi-nha-cu-cua-darwin-4b.jpg

           

           

           Viện trưởng GS. Phạm Văn Biên với chuyên gia CIAT và các lãnh đạo Mạng lưới Sắn châu Á, châu Mỹ La tinh tại Hội thảo Sắn châu Á tổ chức tại TP. Hồ Chí Minh năm 2000

           

           

          Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là tham-ngoi-nha-cu-cua-darwin-4c.jpg

           

           

          Viện trưởng GS. Phạm Văn Biên hướng dẫn Bộ trưởng Lê Huy Ngọ thăm các giống điều ghép PN1 và các giống điều mới chọn tạo tại Trung tâm Hưng Lộc, Đồng Nai

           

           

          Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là tham-ngoi-nha-cu-cua-darwin-4d.jpg

           

           

          Viện Trưởng GS. Bùi Chí Bửu hướng dẫn Tổng Giám đốc CIAT thăm các giống sắn mới.

           

           

          Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là tham-ngoi-nha-cu-cua-darwin-5a.jpg

           

           

          Quyền Viện Trưởng TS. Ngô Quang Vình cùng các chuyên gia CIAT đánh giá các giống sắn mới (KM419 bên phải và KM140 bên trái)

           

           

          Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là tham-ngoi-nha-cu-cua-darwin-5b.jpg

           

           

          Viện trưởng TS. Trần Thanh Hùng (giữa) nhận hoa chúc mừng của các đồng nghiệp.

           

           

          Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là tham-ngoi-nha-cu-cua-darwin-5c.jpg
          Xem tiếp >>

            Dạy và học 19 tháng 8(19-08-2021)


           

           

          DẠY VÀ HỌC 19 THÁNG 8
          Hoàng Kim
          CNM365 Tình yêu cuộc sốngTỉnh thức cùng tháng năm; Việt Nam đối thoại biển; Hoa và Ong Hoa Người; Nhớ Ông Bà Cậu Mợ; Chuyện đồng dao cho em; Ngày mới Ngọc cho đờiĐối thoại với Thiền sư; Một niềm tin thắp lửa; Ngày 19 tháng 8 năm 1945 Cách mạng tháng Tám thành công, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngày 19 tháng 8 năm 1588, Nữ hoàng Elizabeth đọc diễn văn chiến thắng trước Hạm đội Tây Ban Nha, khởi điểm cho thế thượng phong của Anh Quốc trên các đại dương. Ngày 19 tháng 8 năm 1853, ngày sinh Aleksei Brusilov, vị thống soái vĩ đại nhất của Quân đội Nga trong chiến tranh thế giới thứ nhất. Bài chọn lọc 19 tháng 8: Tỉnh thức cùng tháng năm; Việt Nam đối thoại biển; Hoa và Ong Hoa Người; Nhớ Ông Bà Cậu Mợ; Chuyện đồng dao cho em; Ngày mới Ngọc cho đời; Đối thoại với Thiền sư; Một niềm tin thắp lửa; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-19-thang-8/

           

           

          TỈNH THỨC CÙNG THÁNG NĂM
          Hoàng Kim


          Đạt Ma
          Úp mặt vào tường
          Chín năm diện bích chẳng thương … thân mình

          Văn chương
          Giáo ngoại biệt truyền
          Nay tâm trực chỉ, chẳng buông lời thừa

          Hoa sen
          Trắng một giấc mơ
          Kiến tính thành Phật thờ ơ danh nhàm

          Thung dung
          Bước tới an nhiên
          Thiền môn, võ thuật … quẩy trên
          Dép trần
          Đêm 18 8 2021

          vui cùng cậu Hoàng Gia Cương

           

           

          BÀI THƠ … THỜI MẮC DỊCH
          Hoàng Gia Cương


          Làm chi?
          Tớ chẳng làm chi
          Suốt ngày lùi lũi chỉ vì … nghiện thơ!

          Thờ ơ?
          Tớ chẳng thờ ơ
          Xưa – gì cũng muốn nhưng giờ lại không!

          Lông bông?
          Tớ chẳng lông bông
          Chỉ vì Covid nên mong … sổng chuồng!

          Phát cuồng?
          Tớ chẳng phát cuồng
          Chỉ mong được … đấm vào chuông
          Kêu trời!

          Đêm 16/8/2021

          TĨNH THỨC HOA SEN TRẮNG
          Hoa sen trắng
          Nhà văn Triết gia Ấn độ Osho


          Tổ sư Bồ đề đạt ma đến với một chiếc giầy.

          Triết gia Osho nổi tiếng người Ấn độ nói: Tôi cực lạc vì tên của Tổ sư Bồ đề đạt ma đã làm cho tôi phiêu diêu. Đã từng có nhiều chư phật trên thế giới, nhưng Tổ sư Bồ đề đạt ma sừng sững như đỉnh Everest. Cách hiện hữu của ông ấy, cách sống, và cách diễn đạt chân lí đơn giản là của ông ấy; nó là vô song.

          Trong các chùa ở Miền tây thường bên cạnh thờ tượng Đức Phật, có thờ tượng của Tổ sư Bồ đề đạt ma. Tượng Tổ sư dễ nhận biết. Gương mặt một người hung dữ, vai đeo gậy. Trên gậy có chỉ một chiếc giày.Tổ sư Bồ đề đạt ma đã du hành từ Ấn Độ sang Trung Quốc để truyền bá thông điệp của Đức Phật, người thầy của mình, mặc dầu họ sống cách nhau một nghìn năm.

          Khi Tổ sư Bồ đề đạt ma đến Trung Quốc, Vũ Đế ra đón ông ấy ở biên ải. Mọi ngưỡi nghĩ rằng một chứng ngộ lớn đang tới! Và tất nhiên Vũ Đế đã tưởng tượng Tổ sư có nét gì đó giống như Đức Phật: rất hoà nhã, duyên dáng, vương giả. Tuy nhiên khi ông ta thấy Bồ đề đạt ma thì ông đã bị choáng. Tổ sư Bồ đề đạt ma trông rất thô thiển. Không chỉ thế, ông ấy còn có vẻ rất ngớ ngẩn. Ông ấy đến cây gậy đeo trên vai chỉ có một chiếc giầy.Vũ Đế bối rối. Ông ta đã tới cùng với cả đoàn triều đình với các hoàng hậu quí phi. Họ sẽ nghĩ gì khi ta ra đón một loại người như thế này? Ông cố gắng vì lịch sự bỏ qua điều đó. Và ông đã không muốn hỏi “Sao ông lại đến nước chúng tôi chỉ với một chiếc giầy?

          Nhưng Tổ sư Bồ đề đạt ma đã không để Vũ Đế yên. Ông ấy nói: -Đừng cố bỏ qua nó. Hãy hỏi và thẳng thắn ngay từ chính lúc đầu đi. Ta đã đọc được câu hỏi trong đầu ông rồi.Vũ Đế đâm ra lúng túng; sau cùng ông nói:-Vâng, ông đúng, câu hỏi này đã nảy sinh trong ta: Sao ông đến mà chỉ mang một chiếc giày?

          Tổ sư Bồ đề đạt ma nói, -Để mọi thứ vào cảnh quan đúng như từ chính lúc đầu. Ta là người vô lí! Ông phải hiểu điều đó từ chính lúc bắt đầu. Ta không muốn tạo ra bất kì rắc rối nào về sau. Hoặc ông chấp nhận ta như ta vậy hoặc ông đơn giản nói rằng ông không thể chấp nhận được ta. Và ta sẽ rời khỏi vương quốc của ông. Ta sẽ đi lên núi. Ta sẽ đợi ở đó đến khi người của ta đến với ta. Vũ Đế lúng túng. Ông đã mang theo nhiều câu hỏi khi đến đón Tổ sư. Nhưng ông băn khoăn có nên đưa chúng ra hay không? Ông nghi ngai câu trả lời là lố bịch. Nhưng Tổ sư Bồ đề đạt ma một mức khăng khăng:-Ông hãy nên hỏi những câu ông đã mang tới đây.

          Vũ Đế gượng gạo hỏi:-Câu hỏi đầu: Ta đã làm được nhiều phước đức…. Tổ sư Bồ đề đạt ma nhìn sâu vào trong đôi mắt của Vũ Đế. Một cơn lạnh toát chạy dọc sống lưng nhà vua. Ông nói:-Toàn những điều vô nghĩa! Làm sao ông có thể làm được nhiều phước đức ? Ông còn chưa nhận biết phước đức được hình thành từ nhận biết . Mà ông ngụ ý phước đức nào? Làm sao ông có thể tạo ra được phước đức? Phước đức chỉ được tạo ra từ Đức Phật.

          Vũ Đế ngại ngần:-Việc ta nói làm nhiều phước đức. Ta ngụ ý rằng ta đã làm nhiều đến chùa, nhiều điện thờ cho Phật. Ta đã làm nhiều đạo tràng cho các khất sĩ Phật tử, các tín đồ, và tì kheo. Ta đã thu xếp cho hàng nghìn học sĩ để dịch kinh sách Phật sang tiếng Trung Quốc. Ta đã tiêu tốn hàng triệu đồng bạc cho việc phục vụ Đức Phật. Nhiều triệu khất sĩ xin ăn mọi ngày từ cung điện này nọ này trên khắp nước.

          Và Tổ sư Bồ đề đạt ma cười. Vũ Đế chưa từng bao giờ nghe thấy tiếng cười như thế. Tiếng cười bụng có thể làm rung chuyển cả núi. Tổ sư cười sằng sặc và nói:-Ông đã hành động một cách ngu xuẩn. Mọi nỗ lực của ông đều đã là cực kì phí hoài. Sẽ không tạo ra kết quả nào từ nó cả. Đừng cố, và đừng tưởng tượng rằng ông sẽ được lên cõi trời thứ bẩy như các khất sĩ Phật giáo đã nói cho ông. Họ chỉ khai thác ông thôi.

          Đây là chiến lược khai thác những người ngu như ông. Họ khai thác lòng tham của ông về thế giới bên kia, Họ vẽ cho ông những hứa hẹn lớn. Và lời hứa của họ không thể chứng minh là sai được vì không ai quay trở về từ thế giới bên kia để nói liệu những lời hứa đó có được hoàn thành hay không. Ông đã bị họ lừa rồi. Không có cái gì sẽ xảy ra từ điều mà ông nghĩ là việc làm phước đức. Thực ra, ông sẽ rơi vào địa ngục thứ bẩy, vì một người sống với những ham muốn sai như thế, người sống có ham muốn như thế, đều sẽ rơi vào địa ngục.

          Vũ Đế e ngại. Ông cố gắng lái câu chuyện sang một chủ đề khác: -Vậy có cái gì linh thiêng hay không? Tổ sư Bồ đề đạt ma nói, -Không có cái gì linh thiêng, cũng như không có cái gì là báng bổ. Linh thiêng và báng bổ, đều là thái độ của tâm trí, của định kiến. Mọi việc đều đơn giản như chúng vậy. Không cái gì sai và không cái gì đúng, không cái gì tội lỗi và không cái gì phước đức. Vũ Đế buồn bực:-Ông thật quá thể đối với ta và người của ta. Sau đó, Tổ sư Bồ đề đạt ma nói lời tạm biệt, quay lưng lại và đi lên núi.

          Trong chín năm trên núi ông ấy ngồi quay mặt vào tường. Mọi người đến với ông bởi vì đã được nghe, biết về cuộc đối thoại này. Dù khoảng cách sống giữa Tổ sư và Đức Phật trong hơn một nghìn năm, nhưng về trung tâm Tổ Sư vẫn ở cùng Đức Phật. Tổ sư nói điều tinh tuý của Đức Phật – tất nhiên theo cách riêng của ông ấy, theo phong cách của ông ấy, Ngay cả Phật cũng sẽ thấy cách trình bày này đó là kì lạ.

          Đức Phật là người văn hoá, phức tạp, và duyên dáng. Còn Tổ sư Bồ đề đạt ma chính là cái đối lập trong cách diễn đạt của Đức Phật. Tổ sư không là người mà là con sư tử. Tổ sư không nói, mà ông ấy gầm lên. Tổ sư không có cái duyên dáng mà Đức Phật có. Cái mà ông ấy có là sự thô thiển, dữ dằn. Không thanh nhã như kim cương; Tổ sư hệt như vĩa quặng: thô ráp tuyệt đối , không có một sự đánh bóng. Và đó là cái đẹp của ông ấy. Đức Phật có cái đẹp rất nữ tính, lịch sự, mảnh mai. Còn Tổ sư Bồ đề đạt ma có cái đẹp riêng . Cái đẹp của một tảng đá – mạnh mẽ, nam tính, không thể phá huỷ được, cái đẹp của một sức mạnh lớn lao.

          Đức Phật toả sức mạnh, nhưng sức mạnh của Đức Phật rất im lặng, như tiếng thì thào, như làn gió mát. Còn Tổ sư Bồ đề đạt ma là cơn bão, sấm rền và chớp giật. Đức Phật đến cửa nhà bạn nhẹ nhàng không một tiếng động, bạn thậm chí sẽ không nghe thấy tiếng bước chân của ông ấy. Còn Tổ sư Bồ đề đạt ma, khi ông ấy đến nhà bạn, ông ấy sẽ làm rung chuyển cả ngôi nhà từ tận móng của nó. Đức Phật sẽ không lay bạn dậy ngay cả khi bạn đang ngủ. Còn Tổ sư Bồ đề đạt ma? Ông ấy sẽ dựng bạn dậy từ trong nấm mồ! Ông ấy đánh mạnh, ông ấy là chiếc búa.

          Tổ sư là chính cái đối lập của Đức Phật trong cách diễn đạt, nhưng thông điệp của ông ấy với Đức Phật là một. Tổ sư cúi mình trước Đức Phật là thầy của mình. Tổ sư chưa bao giờ nói “Đây là thông điệp của ta”. Tổ sư đơn giản nói:-Điều này thuộc về chư phật, chư phật cổ đại. Ta chỉ là sứ giả. Không cái gì là của ta, bởi vì ta không có. Ta như cây trúc hồng được chư phật chọn để làm chiếc sáo cho họ. Họ hát: ta đơn giản để cho họ hát qua ta.

           

           

          TỈNH THỨC CÙNG THÁNG NĂM
          Phan Chi Thắng, Hoàng Kim


          Lão Hâm thơ cảm khái

          Ngày ấy tóc còn xanh
          Nụ cười khoe sắc thắm
          Bây giờ tóc hết rậm
          Lên men màu khói sương

          Tao nhân cõi vô thường
          Chén rượu nồng xin cạn
          Uống cho mình, cho bạn
          Ai biết được ngày mai?

          Một khắc cũng rất dài
          Một đời thành ra ngắn
          Câu thơ cười trăng lặn
          Sáng hơn cả đêm rằm!

          TỈNH THỨC CÙNG THÁNG NĂM
          Hoàng Kim thơ nối vần

          II
          Mãi vui cùng tháng năm
          Quên nhọc nhằn ngày tháng
          Nhớ hôm nao tiễn bạn
          Thương ngày anh đến thăm …

          Đêm xòe một bình minh (1)
          Đi bộ cùng quá khứ (2)
          Sương sớm mờ xe buýt
          Thấm chuyện cười lão Hâm

          Bóng nắng rạng ban mai
          Câu thơ vàng dát ngọc
          Mưa Ngâu suốt đêm rồi
          Ngày mới mừng tỉnh thức

          Những bài cùng chủ đề
          Bài thơ Viên đá Thời gian (1)
          Về với vùng văn hóa (2)
          Tỉnh thức cùng tháng năm (3)

           

           

          TỈNH THỨC CÙNG THÁNG NĂM
          Hoàng Kim


          Thiên hà trong vắt khuya
          chuyển mùa/ tự nhiên tỉnh
          Ta ngắm trời, ngắm biển
          chòm sao em
          vầng sáng anh,
          dưới vòm trời lấp lánh
          khoảnh khắc thời gian
          thăm thẳm
          một tầm nhìn.

          (Get up /Greeting from Hoàng Kim Vietnam to Kenny Rogers/ Clear late galaxies/ transfer season/ natural awakening/ I watch the sun, watching the sea/ watching the constellations./ glow from where he/ under the sparkling sky/ moment of time/ chasms/ a vision.’. Ngày này mấy năm trước tôi ốm nặng. Huỳnh Hồng, Nguyễn Bạch Mai và các bạn lúc ban ngày đến thăm. Buổi tối, tôi lên sân thượng bệnh viện ngắm sao. Nhớ lại bức ảnh đẹp nổi tiếng của Kenny Rogers. Tôi bật ra tứ thơ trên và nhắn gửi ông. Rất nhanh sau đó, tôi đã kết nối được với Kenny Rogers, lắng nghe từ ông lời cảm ơn. I love you all… thank you. -Kenny; Sự Tỉnh thức trong tôi. Thế giới phẳng chưa bao giờ gần đến thế Tôi vào trang của ông và sáng lên trang văn CNM365 Tình yêu cuộc sống của ngày này.

          Mỗi nhân cách tự tỏa sáng khi khai mở chính mình. Cảm ơn Kenny Rogers đã giúp tôi học cách thông minh để làm cho Hoàng Kim biết tương tác tốt hơn với bạn hữu và mọi người. Mỗi chúng ta là một thế giới. Dạy, học và làm từ bài học của chính bản thân mình.

           

           

          TỈNH THỨC VỚI KENNY ROGERS

          Kenneth Donald “Kenny” Rogers sinh ngày 21 tháng 8 năm 1938, mất ngày 20 tháng 3 năm 2020, thọ 82 tuổi, Ông là một ca sĩ, nhạc sĩ, nhiếp ảnh gia, nhà sản xuất thu âm, diễn viên, doanh nhân người Mỹ, và là thành viên của Country Music Hall of Fame. Kenny Rogers là nghệ sĩ có nhạc bán chạy nhất mọi thời đại.Ông thành công nhất với thể loại nhạc đồng quê, dẫu vậy ông đã ghi hơn 120 đĩa đơn trên các thể loại âm nhạc khác nhau, đứng đầu các quốc gia và bảng xếp hạng album pop cho hơn 200 tuần ở Hoa Kỳ và đã bán được hơn 165 triệu bản trên toàn thế giới. Hai trong số các album của ông, The Gambler và Kenny, được nêu tên trong cuộc thăm dò “200 Albums có ảnh hưởng nhất từ trước tới nay” của About.com.[4] Ông được bình chọn là “Ca sĩ được yêu thích nhất mọi thời đại” trong một cuộc thăm dò năm 1986 của độc giả hai tạp chí USA Today và People. Ông đã nhận được nhiều giải thưởng như AMAs, giải Grammy, ACMs , CMA, và một giải thưởng thành tựu trọn đời cho sự nghiệp của Kenny Rogers một ca sĩ, nhạc sĩ, nhiếp ảnh gia, nhà sản xuất thu âm, diễn viên, doanh nhân người Mỹ được trao tặng theo ghi nhận của Wikipedia Tiếng Việt.

           

           


          Kenny Rogers lắng đọng CHUYỆN CỦA CHÚNG TÔI thật cảm động: ” Siêu sao đồng quê và biểu tượng âm nhạc từng đoạt giải thưởng GRAMMY Kenny Rogers đã gặt hái thành công lớn trong suốt sự nghiệp kéo dài hơn sáu thập kỷ.

          Thành viên của Đại sảnh vinh danh nhạc đồng quê và siêu sao nhạc pop đã làm say mê những người yêu nhạc trên toàn cầu với những bài hát tuyệt vời, những màn trình diễn chân thành, giọng hát đặc biệt, món quà kể chuyện và sự hấp dẫn phổ quát, và năm 2016, Rogers bắt đầu chuyến lưu diễn thế giới cuối cùng của mình với một chương trình sẽ ca ngợi di sản âm nhạc của anh ấy: Thỏa thuận cuối cùng của người đánh bạc.

          Rogers đã chơi cho hàng triệu người hâm mộ trên khắp thế giới, biểu diễn các bài hát đứng đầu bảng xếp hạng từ một danh mục các bản hit phong phú, bao gồm: “The Gambler,” “Lady,” “Islands In The Stream,” “Lucille,” “Coward of the County,” “She Believes In Me,” “Ruby, Don’t Take Your Love To Town,” “We’ve Got Tonight,” “Daytime Friends,” “Through The Years,” “Love Will Turn You Around,” “You Decorated My Life,” “Crazy,” “Every Time Two Fools Collide,” and “Buy Me A Rose.”

          Nghệ sĩ đồng quê đầu tiên liên tục bán hết đấu trường, Rogers đã chơi cho hàng triệu người hâm mộ trên khắp thế giới. Thật đáng kinh ngạc, ông đã lập một kỷ lục trong vòng bảy thập kỷ qua (các thập kỷ 50, 60, 70, 80, 90, 2000, 2010), trong khi gửi 24 bài hát đến vị trí số 1 của bảng xếp hạng. Rogers đã bán được hơn 120 triệu album trên toàn thế giới, đưa anh ấy trở thành một trong mười nghệ sĩ solo nam bán chạy nhất mọi thời đại, theo RIAA. Rogers đã giành được nhiều giải thưởng cho công việc âm nhạc và từ thiện của mình, bao gồm ba giải thưởng GRAMMY, 21 giải thưởng âm nhạc Mỹ, 11 giải thưởng lựa chọn của mọi người, 10 giải thưởng của Viện âm nhạc quốc gia, sáu giải thưởng Hiệp hội âm nhạc quốc gia (bao gồm giải thưởng thành tựu trọn đời CMA năm 2013) và Giải thưởng Nghệ sĩ của một đời trong chương trình trao giải Nghệ sĩ của năm 2015 CMT. Rogers đã nhận được giải thưởng Thành tựu trọn đời từ Hiệp hội người mua giải trí quốc tế, giải thưởng Cliffie Stone Pioneer từ Học viện âm nhạc quốc gia và giải thưởng Horatio Alger, được trao cho những người nổi bật dù khởi đầu khiêm tốn. Vào ngày 29 tháng 2 năm 2016, Rogers đã được vinh danh với Giải thưởng Thành tựu Giải trí trọn đời Tony Martell 2016 tại TJ Martell Foundation Columbia Honors Gala lần thứ 8. Vào ngày 5 tháng 11 năm 2017, Rogers đã nhận được giải thưởng SESAC Legacy tại Nashville.

          Rogers đã giành được một đề cử giải thưởng GRAMMY® và đề cử giải thưởng CMA năm 2014, cùng với người bạn và cộng tác viên lâu năm Dolly Parton, cho bản song ca của họ,
          https://www.youtube.com/embed/jT4_ohTS3Os?version=3&rel=1&fs=1&autohide=2&showsearch=0&showinfo=1&iv_load_policy=1&wmode=transparent.

          Tôi không hề có năng khiếu âm nhạc nhưng cảm phục về cách ông và Facebook © 2020 tổ chức trang văn lắng đọng bảo tồn những giá trị vàng của ông. Đó là bài học lớn. Đọc Kenny Rogers @KennyRogersOfficial

           

           

          LAO ĐỘNG VÀ NGHỈ NGƠI
          Hoàng Kim


          Ngủ thuốc bổ trường sinh
          Sự trút bỏ căng thẳng
          Làm việc và thư giản
          Ngủ tốt người khỏe hơn.

          Chớ coi thường sự ngủ
          Lao động và nghỉ ngơi
          Ngủ đúng và ngủ đủ
          Tránh mối lo cho đời.

          Làm nhiều thì mệt mỏi
          Buông làm người tự do
          Chọn tinh hoa yêu thích
          Hiệu quả cho mỗi ngày

          Phật Từ Bi Hỷ Xả
          Trí huệ vui thanh nhàn
          Phúc hậu bài học quý
          Vui khỏe và ngủ ngon

          Thiền là biết an nhiên
          Xả là trút gánh nặng
          Vứt bỏ mọi chuyện đời
          Không vướng dạ an thôi

          Giữa bao nổ lực lo toan cần ngủ ngon và tỉnh thức. Nhạc thiền tỉnh tâm an nhiên tự tại

          OSHO CON ĐƯỜNG HOÀN HẢO
          Hoàng Kim


          Osho (11/12/1931- 19/1/1990) là vị thiền sư nổi tiếng người Ấn Độ, được nhắc tới nhiều nhất và gây ra nhiều tranh luận nhất trong thời hiện đại, với bài giảng nổi tiếng “Con đường hoàn hảo” thuật lại câu chuyện của chính ông bảy ngày đêm tỉnh lặng với những bạn đồng hành. “Hạnh phúc tại tâm” bản chất sự sống, khả năng hạnh phúc và hạnh phúc chân thật của con người, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong toàn bộ những tác phẩm của Osho.“Osho là bậc thầy chứng ngộ đang làm việc với tất cả mọi khả năng để giúp cho nhân loại vượt qua giai đoạn khó khăn trong sự phát triển tâm thức“. Dailai Latma đã viết như vậy về người thầy lỗi lạc này cuối trang bìa của tác phẩm Osho “Con đường của nhà huyền môn“.

          Osho con đường hoàn hảo là sự thực hành ngủ ngon và tỉnh thức. Tôi may mắn đã có được bảy ngày đêm tĩnh lặng đối thoại và thực hành với vị Thiền sư người Thầy tâm linh lỗi lạc này. Osho dẫn ta đi vào thế giới tịch lặng, thiền định sâu, chỉ dẫn cho ta bí quyết thiết yếu Năng lượng tích tụ và giải phóng giúp ta tâm thế tỉnh lặng, an nhiên tự tại, thung dung trong cuộc sống. Ta chạm đáy sự thật, đối diện với sinh tử, về nơi tịch lặng, đến chốn thung dung để thấu hiểu sự sống.

          Tôi nhớ ký ức Bảy ngày đêm tỉnh lặng. Đời người là một chuỗi trãi nghiệm.Trãi nghiệm sự sống chính là hiện tại. Tỉnh lặng là sự chứng ngộ ám ảnh nhất. Bạn đã bao giờ về trong tịch lặng, xuống đáy địa ngục, đối diện sinh tử, lạc vào thế giới vô thức, hoàn toàn khác thế giới thường nhật, trút bỏ bận tâm, lo âu phiền muộn, danh vị chức phận, không trò chuyện, không điện thoại, không email, chỉ nổ lực duy nhất bảo tồn sự sống.

          Tôi đã từng Dạo chơi non nước Việt: về Nghĩa Lĩnh đền Hùng ở Việt Trì, Phú Thọ; lên non thiêng Yên Tử viếng mộ đức Nhân Tông; về thủ đô Hà Nội thăm dấu xưa đức Trần Hưng Đạo và chùa Thắng Nghiêm; đến Kiếp Bạc Côn Sơn ngưỡng vọng đức thánh Trần và thấu hiểu sâu sắc hơn Những kiệt tác thơ văn Nguyễn Trãi; vào Tràng An Thần Phù Ninh Bình “Lênh đênh trên cửa Thần Phù, khéo tu thì nổi vụng tu thì chìm“, Ngày xuân đọc Trạng Trình, Nhớ Đào Duy Từ; đức thánh Nguyễn Minh Không huyền thoại Bái Đính ; trọn đời làm nhà khoa học xanh người thầy chiến sĩ; Lương Định Của con đường lúa gạo; Thầy bạn là lộc xuân cuộc đời; Con theo Người nguyện làm hoa lúa, …

          Tôi đã từng đi Praha, Goethe và lâu đài cổ, Dạo chơi cùng Goethe; Học để làm ở Ấn Độ; Đến Neva nhớ Pie Đại Đế; Đến Thái Sơn; Thăm Borlaug và Hemingway ở CIANO; Đi khắp quê người để hiểu đất quê hương; Qua Ghent nhớ … Di sản Walter Scott; Những người Việt lỗi lạc ở FAO; Đêm trắng và bình minh; Đến với các nước châu Phi; Vua Solomon và sách Khôn ngoan; Sông Nin và hồ Victoria; Mười hai ngày ở Ghana

          Tôi cũng đã Câu cá bên dòng Sêrêpok, nhưng Bảy ngày đêm tỉnh lặng là sâu đậm nhất. Sau tĩnh lặng tôi nhìn cuộc đời dường như mới hơn, nhẹ nhàng hơn, thanh thản hơn…Cám ơn đời, hôm nay là ngày mới.

           

           

          ĐI NHƯ MỘT DÒNG SÔNG
          Hoàng Kim


          Linh Giang sông quê hương
          Đời dòng sông độ lượng
          Đèo Ngang câu thơ cũ
          Chọn lọc nhớ và quên.

          Quá khứ thành seo biển
          Nước mát chảy vào trong
          Mọi lý thuyết đều xám
          Chỉ cây đời tươi xanh

          Sóc Trăng Lương Định Của
          Nguyễn Du trăng huyền thoại
          Ngày xuân đọc Trạng Trình
          Lên Trúc Lâm Yên Tử
          Đi như một dòng sông

           

           

          SỰ THẬT TỐT HƠN NGÀN LỜI NÓI
          Hoàng Kim


          Sự thật tốt hơn ngàn lời nói
          Theo Người con đường xanh
          Lúa, sắn Việt Nam bài học lớn
          Vui chào ngày mới, cố lên em !

          https://hoangkimlong.wordpress.com/category/su-that-tot-hon-ngan-loi-noi/https://hoangkimlong.wordpress.com/category/tinh-thuc-cung-thang-nam/

           

           

          VIẾT NAM ĐỐI THOẠI BIÊN
          Hoàng Kim
          Nguyen Chien Thang, Minh Dục
          Đối thoại biển hôm nay
          Tổ Quốc nhìn từ biển
          Chào Hải Âu
          Bay lên !

           

           

          HOA VÀ ONG
          Hoàng Kim


          Chào ngày mới ong vàng say làm mật
          Mãi mê ôm nhụy nõn,
          sớm xuân về
          Hoa nở thắm đón mừng ong cần mẫn
          Đợi giao mùa kết trái để sinh sôi.

          Xin chào chú chim sâu mùa cũ
          Lo mà chi dù bão chớp rất gần
          Chim vẫn hót và bướm vàng vẫn lượn
          Thung dung đời và mãi
          khát khao xanh.

           

           

          HOA VÀ ONG
          Hoàng Kim


          Thanh thản, an nhàn giữa tự nhiên
          Hoa và ong, sách quý, bạn hiền
          Nắng mới thung dung vườn cổ tích
          Dạy học mỗi ngày vui khỏe thêm

           

           

          HOA NGƯỜI
          Hoàng Kim

          (Liên khúc thơ)
          1
          Đầu xuân gặp bạn thật mừng vui
          Rượu ngọt trà thơm sóng sánh mời
          NƯỚC suối ban mai trong tựa ngọc
          OANH vàng CÚC tím nắng xuân tươi.

          MÂY TRẮNG quyện lưng trời lãng đãng
          Thiên NGA từng cặp nhởn nhơ bay
          Nhớ xưa CHIẾN SỰ vùng đất lửa
          HÒA bình về lại Chứa Chan nay.

          Sóng nhạc yêu thương lời cảm mến
          KIM Kiều tái ngộ rộn ràng vui
          Anh HÙNG thanh thản mừng “Xuân cảm”
          “Đè nghiêng ngọn gió đọc thơ chơi”.

          2
          Tui chỉ mới là thuộc sách (TS) thôi.
          Giảng sách (GS) xem ra chửa tới nơi.
          Vui việc cứ LÀM chưa vội DẠY
          Nói nhiều làm ít sợ chê cười.

          Cổ điển honda không biết chạy
          Canh tân blog viết đôi bài
          Quanh quẩn chỉ là ngô khoai sắn
          Vô bờ biển HỌC dám đơn sai.

          Ước noi cụ Trạng ưa duyên thắm
          Nịnh vợ không quên việc trả bài
          An nhàn vô sự là tiên đấy
          Thung dung đèn sách, thảnh thơi chơi.

          3

          Ta tìm gặp bạn đường xa
          Tưởng là thăm bạn hoá ra thăm mình
          Đêm dài xoè một bình minh …’
          Tháng Ba nhớ bạnÂn tìnhSớm Đông.

          4

          Thủy vốn mạch sông nước có nguồn.
          Chính Trung tiền hậu đổi nhau luôn.
          Nụ cười Nghê Việt luôn đầy đặn.
          Mai với Bồ Đề ẩn sau lưng.

          Tóc nhuốm bạch kim phơi nắng hửng
          Da pha hồng ngọc trãi mưa nhuần.
          Hoa NgườiHoa Đất vui thầy bạn.
          Phước Đức mừng ai thắng tuổi trăm.

          5

          Ngày xuân đọc Trạng Trình
          Tô Đông Pha Tây Hồ
          Khổng Tử dạy và học
          Nguyễn Du trăng huyền thoại

          Minh triết Hồ Chí Minh
          Vị tướng của lòng dân
          Thái Tông và Hưng Đạo
          Yên Tử Trần Nhân Tông

           

           

          6

          Nhà tôi giấc mơ xanh
          Thầy bạn trong đời tôi
          Cuối dòng sông là biển
          Việt Nam con đường xanh

           

          Thầy bạn là lộc xuân; Vườn Quốc gia Việt Nam; Trường tôi nôi yêu thương (Đinh Trung Chánh sinh nhật 19 8)

           

           

          TỰ VỊNH VƯỢT BÁT TUẦN
          Minh Sơn Hoàng Bá Chuân


          Bát tuần đã trãi việc đời nhiều
          Chân chính bao nhiêu phúc bấy nhiêu
          Nhân hậu thói nhà in một nếp
          Trung kiên việc nước đủ trăm chiều
          Lòng son phơi phới vầng trăng dọi
          Tóc bạc phơ phơ ngọn gió phiêu
          Hôm sớm sân Lai (*) thêm sắc mới
          Sum vầy con cháu tiếng vui reo !

           

           

          HOÀNG THÚC CẢNH THƠ TRĂM TUỔI
          cảm xúc sau buổi liên hoan
          mừng thọ 100 tuổi


          Hôm nay mười một tháng tư
          Biết bao kỷ niệm được ghi trong lòng
          Các em khắp cả Tây Đông
          Cháu chắt Nam Bắc quây quần bên nhau
          Chúc cho còn được sống lâu
          Nhiều lần gặp nữa biết đâu mà lường
          Nghe lời chúc cũng động lòng
          Thương người còn sống , nhớ người đã xa
          Cuộc đời nghĩ thật bao la
          Nhờ ơn Tiên Tổ cao xa đỡ đầu
          Mỗi lời ước hẹn ghi sâu…

          Hoàng Thúc Cảnh

           

           

          Một trăm năm hiếu nghĩa vẹn toàn
          Mười thập kỷ chính trung kiên định


          Cậu Hoàng Thúc Cảnh 100 tuổi, là Lão thành cách mạng, nguyên Cố vắn Văn phòng Chính phủ, sắp được trao huy hiệu 75 năm tuổi Đảng. Cậu Hoàng Gia Cương kính tặng anh ruột

          Trăm năm vóc hạc mừng Người khỏe
          Chân chính bao nhiêu phúc bấy nhiêu


          NHỚ ÔNG BÀ CẬU MỢ
          cháu Hoàng Kim kính mừng Cậu

          Minh Lễ thái hòa (*) Minh Lệ đây
          Lời vàng bóng hạc lắng thơ hay
          “Tổ tiên công đức muôn đời thịnh
          Con cháu thảo hiền vạn kiếp vinh” (**)
          “Mạc tộc dựng xây thiên kỷ tạc.
          Hoàng gia bồi đắp vạn đời ghi”
          (***)
          Chân thiện mỹ đức dày tâm sáng
          Phước lộc thọ trí huệ anXem tiếp >>

            Dạy và học 18 tháng 8(18-08-2021)

          DẠY VÀ HỌC 18 THÁNG 8
          Hoàng Kim
          CNM365 Tình yêu cuộc sốngViệt Nam con đường xanh; Sự chậm rãi minh triết;Chuyện đồng dao cho em; Ngày mới vui xuân hiểu; Một niềm tin thắp lửa; Hoa và Ong; Đối thoại với Thiền sư; Đêm Vu Lan; Nhớ Ông Bà Cậu Mợ; Ngày Khoa học quốc gia tại Thái Lan. Ngày 18 tháng 8 năm 1850 là ngày mất  Honoré de Balzac (1799–1850) là Đại văn hào Pháp, nhà văn hiện thực Pháp lớn nhất nửa đầu thế kỷ 19, bậc thầy của tiểu thuyết văn học hiện thực. Ông là tác giả của bộ tiểu thuyết đồ sộ Tấn trò đời (La Comédie humaine). Ngày 18 tháng 8 năm 1877 Phobos vệ tinh của sao Hỏa được nhà thiên văn học Asaph Hall phát hiện tại Đài thiên văn Hải quân Hoa Kỳ. Bài viết chọn lọc ngày 18 tháng 8: Việt Nam con đường xanh; Sự chậm rãi minh triết; Chuyện đồng dao cho em; Ngày mới vui xuân hiểu; Một niềm tin thắp lửa; Hoa và Ong; Đối thoại với Thiền sư; Đêm Vu Lan; Nhớ Ông Bà Cậu Mợ; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-18-thang-8/

          Việt Nam con đường xanh

          VIỆT NAM CON ĐƯỜNG XANH
          Vietnam Green Road
          Hoàng
          Kim
          Bình Minh An Ngày Mới
          Suy tư sông Dương Tử
          Trung Quốc một suy ngẫm
          Việt Nam con đường xanh

          SARD COVID 2 với Animal Virus, CMD Cassava Virus đều có cùng một nguyên lý giải pháp phòng trừ là: cách ly tiêu hủy virus + sử dụng giống kháng/ gen kháng, căn cứ vào lý luận và thực tiễn về tính kháng của hệ gen với sử dụng kháng nguyên kháng thể thích hợp. Nano Covax cho người Việt và sắn KM568, KM535, KM419, KM440, KM98-1 đều tuân theo nguyên lý này, và là bài học kinh nghiệm quý của Việt Nam trên con người và cho cây sắn Việt Nam. Chọn giống sắn kháng CMD. Sự thật tốt hơn ngàn lời nói. https://hoangkimlong.wordpress.com/category/chon-giong-san-khang-cmd/

          SỰ CHẬM RÃI MINH TRIẾT
          Hoàng Kim


          Chậm rãi học cô đọng
          Giản dị văn là người
          Lời ngắn mà gợi nhiều
          Nói ít nhưng ngân vang .

          Đi bộ trong đêm thiêng
          Sự chậm rãi minh triết
          Tỉnh thức một đôi điều
          Việt Nam con đường xanh

          Cây Lương thực Việt Nam

          CÂY LƯƠNG THỰC VIỆT NAM
          Hoàng Kim, Hoàng Long (chủ biên) và đồng sự
          http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlong

          Bài viết mới (đọc thêm, ngoài giáo trình, bài giảng)

          Cách mạng sắn Việt Nam
          Chọn giống sắn Việt Nam
          Chọn giống sắn kháng CMD
          Giống sắn KM419 và KM440
          Mười kỹ thuật thâm canh sắn
          Sắn Việt bảo tồn phát triển
          Sắn Việt Lúa Siêu Xanh
          Sắn Việt Nam bài học quý
          Sắn Việt Nam sách chọn
          Sắn Việt Nam và Howeler
          Sắn Việt Nam và Kawano
          Sắn Việt và Sắn Thái
          Quản lý bền vững sắn châu Á
          Cassava and Vietnam: Now and Then

          Lúa siêu xanh Việt Nam
          Giống lúa siêu xanh GSR65
          Giống lúa siêu xanh GSR90
          Gạo Việt và thương hiệu
          Hồ Quang Cua gạo ST
          Cơm Niêu Vàng Gạo Đông A
          Con đường lúa gạo Việt
          Chuyện cô Trâm lúa lai
          Chuyện thầy Hoan lúa lai
          Lúa C4 và lúa cao cây
          Lúa sắn Cămpuchia và Lào
          Lúa sắn Việt Châu Phi
          Lúa Việt tới Châu Mỹ

          Giống ngô lai VN 25-99
          Giống lạc HL25 Việt Ấn


          Giống khoai lang Việt Nam
          Giống khoai lang HL518
          Giống khoai lang HL491
          Giống khoai Hoàng Long
          Giống khoai lang HL4
          Giống khoai Bí Đà Lạt

          Việt Nam con đường xanh
          Việt Nam tổ quốc tôi
          Vườn Quốc gia Việt Nam
          Nông nghiệp công nghệ cao
          Nông nghiệp sinh thái Việt
          Nông nghiệp Việt trăm năm
          IAS đường tới trăm năm
          Viện Lúa Sao Thần Nông
          Hoàng Thành đến Trúc Lâm
          Ngày Hạnh Phúc của em
          Có một ngày như thế

          Thầy bạn là lộc xuân
          Thầy bạn trong đời tôi
          Trường tôi nôi yêu thương
          IAS đường tới trăm năm
          Sóc Trăng Lương Định Của
          Thầy lúa Bùi Bá Bổng
          Thầy Quyền thâm canh lúa
          Thầy nghề nông chiến sĩ
          Thầy Norman Borlaug
          Thầy Luật lúa OMCS OM
          Thầy Tuấn kinh tế hộ
          Thầy Tuấn trong lòng tôi
          Thầy Vũ trong lòng tôi
          Thầy lúa xuân Việt Nam
          Thầy Ngoạn Hồ Núi Cốc
          Thầy bạn Vĩ Dạ xưa
          Thầy là nắng tháng Ba
          Thầy Dương Thanh Liêm
          Thầy Hiếu Đêm Giáng Sinh
          Thầy Nguyễn Hoàng Phương
          Thầy Nguyễn Lân Dũng
          Thầy nhạc Trần Văn Khê
          Thầy ơi
          Thắp đèn lên đi em
          Thầy Tuệ Trung Thượng Sĩ
          Ngày xuân đọc Trạng Trình
          Nguyễn Du trăng huyền thoại
          Lê Quý Đôn tinh hoa
          Trần Công Khanh ngày mới
          Phạm Trung Nghĩa Viện Lúa
          Phạm Quang Khánh Hoa Đất
          Phạm Văn Bên Cỏ May

          24 tiết khí nông lịch
          Nông lịch tiết Lập Xuân
          Nông lịch tiết Vũ Thủy
          Nông lịch tiết Kinh Trập
          Nông lịch tiết Xuân Phân
          Nông lịch tiết Thanh Minh
          Nông lịch tiết Cốc vũ
          Nông lịch tiết Lập Hạ
          Nông lịch tiết Tiểu Mãn
          Nông lịch tiết Mang Chủng
          Nông lịch tiết Hạ Chí
          Nông lịch tiết Tiểu Thử
          Nông lịch tiết Đại Thử
          Nông lịch tiết Lập Thu
          Nông lịch tiết
          Xử Thử
          Nông lịch tiết
          Bạch Lộ
          Nông lịch tiết
          Thu Phân
          Nông lịch tiết
          Hàn Lộ
          Nông lịch tiết
          Sương Giáng
          Nông lịch tiết Lập Đông
          Nông lịch tiết Tiểu tuyết
          Nông lịch tiết Đại tuyết
          Nông lịch tiết giữa Đông
          Nông lịch Tiết Tiểu Hàn
          Nông lịch tiết Đại Hàn

          Nhà sách Hoàng Gia

          Video tài liệu tham khảo chọn lọc :

          Cây Lương thực Việt NamChuyển đổi số nông nghiệp, Học không bao giờ muộnCách mạng sắn Việt Namhttps://youtu.be/81aJ5-cGp28; Mười kỹ thuật thâm canh sắn : Cassava in Vietnam Save and Grow 1Daklak; Cassava in Vietnam: Save and Grow 2Daklak; Cassava in Vietnam: Save and Grow 3Daklak; Giống sắn KM410 và KM440 ở Phú Yên https://youtu.be/XDM6i8vLHcI; Giống sắn KM419, KM440 ở Đăk Lăk https://youtu.be/EVz0lIJv2N4; Giống sắn KM419, KM440 ở Tây Ninh https://youtu.be/XMHEa-KewEk; https://youtu.be/kjWwyW0hkbU; https://youtu.be/9mZHm08MskE; Trồng sắn KM419, KM98-5, KM98-1 ở Cappuchia https://youtu.be/TpTIxv9LaFQ; Trồng khoai lang ở Hàn Quốc https://youtu.be/J_6xW3j47Sw ; Trồng lúa đặc sản ở Trung Quốc https://youtu.be/rJSZfrJFluw; Trồng khoai lang tím ở Trung Quốc https://youtu.be/0CHOG3r64xs; Làm măng ngọt giá cao ở Trung Quốc https://youtu.be/i1oFFqFMlvI; Phim tài liệu NƯỚC TRỜI VTV1 https://vtv.vn/video/phim-tai-lieu-nuoc-troi-508247.htm; Nông nghiệp CHỦ ĐỘNG VƯỢT KHÓ https://vtv.vn/video/toa-dam-chu-dong-vuot-kho-503919.htm Tích hợp mạnh mẽ cố gắng: Chủ động phối hợp tìm giống mì kháng bệnh khảm lá | NÔNG NGHIỆP TÂY NINH | TayNinhTV https://youtu.be/TM1cXzqJF1Ehttps://youtu.be/TM1cXzqJF1E

          *
          Việt Nam con đường xanh
          NÔNG NGHIỆP CÔNG NGHỆ CAO
          Hoàng Long, Nguyễn Văn Phu,
          Nguyễn Thị Trúc Mai, Hoàng Kim
          thu thập, tuyển chọn, đúc kết thông tin, tích hợp và giới thiệu

          Mục đích sau cùng của DẠY VÀ HỌC là thấu suốt bản chất sự vật, có lời giải đúng và LÀM được việc. “
          Việt Nam con đường xanh ” và ” Nông nghiệp công nghệ cao” là chuyên mục thông tin địa chỉ xanh tin cậy của bạn đọc, có trên các trang http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://hoangkimlong.wordpress.com/category/nong-nghiep-cong-nghe-cao/https://hoangkimlong.wordpress.com/category/viet-nam-con-duong-xanh/; và https://www.csruniversal.org/viet-nam-con-duong-xanh/. Ứng dụng công nghệ nâng cao chuỗi giá trị nông nghiệp (Technological application enhances agriculture value chain), là chủ đề được Phó Giáo sư Tiến sĩ Đào Thế Anh, Phó Viện trưởng Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam, giới thiệu tại diễn đàn MALICA (Markets and Agriculture Linkages for Cities in Asia Kết nối Thị trường và Nông nghiệp các thành phố châu Á) và VTV4 https://vtv.vn/video/bizline-15-3-2020-427424.htm.

          Việt Nam con đường xanh, Nông nghiệp công nghệ cao bài viết kỳ này giới thiệu Định hướng chiến lược quốc gia, phương hướng nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế xã hội 2021-2030 (* Đảng Cộng Sản Việt Nam 2020, Dự thảo các văn kiện trình đại hội Đảng XIII của Đảng) xác định 10 giải pháp cơ bản; 5 nhóm hệ thống giải pháp chính để đảm bảo phát huy hiệu quả giá trị của khối 13 sản phẩm chủ lực nông nghiệp Việt Nam nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân lao động. Ba trụ cột cốt lõi của một quốc gia là cân đối hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế, bảo vệ môi trường và thực hiện tiến bộ công bằng xã hội.theo kết luận của Hội nghị thượng đỉnh toàn cầu về Phát triển bền vững tại Cộng hòa Nam Phi năm 2002 với Định hướng và tầm nhìn Việt Nam con đường xanh. Năm bài viết chọn lọc, gồm: 1) Nông nghiệp hữu cơ hiện trạng và giải pháp nghiên cứu phát triển của tác giả PGS..TS Nguyễn Văn Bộ, TS Ngô Doãn Đảm 2) Đào tạo nguồn nhân lực và nghiên cứu khoa học ứng dụng phục vụ phát triển nông nghiệp công nghệ cao và công nghệ thực phẩm tại Trường Đại học Văn Lang” của tác giả PGS.TS Phan Phước Hiền và TS Châu Tấn Phát, 3) “Nghiên cừu ứng dụng công nghệ sinh học cho phát triển nông nghiệp công nghệ cao” của PGS.TS. Dương Hoa Xô, Trung Tâm Công nghệ Sinh học TP. HCM; 4) Một số thông tin chọn lọc điểm sáng nông nghiệp nông dân nông thôn nông nghiệp công nghệ cao; 5) Chọn giống sắn kháng CMD hiện trạng và triển vọng

          Nông nghiệp công nghệ cao liên kết chuỗi thông tin chuyên đề tại các đường link Việt Nam con đường xanh; Nông nghiệp sinh thái Việt; Nông nghiệp Việt trăm năm; Viện Lúa Sao Thần Nông; IAS đường tới trăm năm; Trường tôi nôi yêu thương; Chọn giống sắn kháng CMD; Giống sắn KM419 và KM440; Cách mạng sắn Việt Nam; Chọn giống sắn Việt Nam; Mười kỹ thuật thâm canh sắn; Quản lý bền vững sắn châu Á; Xem tiếp >>

            Dạy và học 17 tháng 8(18-08-2021)

          Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là 1-mot-niem-tin-thap-lua-1a.jpg

          DẠY VÀ HỌC 17 THÁNG 8
          Hoàng Kim
          CNM365 Tình yêu cuộc sống Một niềm tin thắp lửa; Hoa và Ong; Đối thoại với Thiền sưChuyện thầy Tôn Thất Trình; Thầy Xuân nông thôn mới; Đêm Vu Lan; Ngày 17 tháng 8 năm 1441 là ngày sinh Lương Thế Vinh, Trạng nguyên, đại thần Viện Hàn Lâm thời vua Lê Thánh Tông. Ông là nhà toán học, Phật học, nhà thơ người Việt  (mất năm 1496). Ngày 17 tháng 8 năm 2007, Chính phủ Việt Nam cấp đăng ký hoạt động tôn giáo cho giáo hội Minh Sư Đạo. Ngày 17 tháng 8 năm 1786: ngày mất Friedrich II Đại Đế, vua nước Phổ, (sinh năm 1712) vị thống soái, nhà chính trị kiệt xuất, nhà tư tưởng quân sự lỗi lạc góp phần thành lập nước Đức hiện đại, người mà Napoleon từng ca ngợi “Ta phải nói ông vua này thật vĩ đại trong hoàn cảnh khó khăn: đây là một điều mà người ta phải nhớ nhất khi nói đến ông”.. Bài chọn lọc ngày 17 tháng 8: Một niềm tin thắp lửa; Hoa và Ong; Đối thoại với Thiền sưChuyện thầy Tôn Thất Trình; Thầy Xuân nông thôn mới; Đêm Vu Lan Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-17-thang-8/

          Congviecnaytraolaichoem

          MỘT NIỀM TIN THẮP LỬA
          Hoàng Kim

          Nhìn đàn em ngời niềm vui rạng rỡ.
          Chợt thấy lòng rưng rưng.
          Công việc nghề nông cực mà hạnh phúc.
          Cố lên em nổ lực không ngừng !

          Hột mồ hôi lắng vào hạt gạo.
          Câu ca ông bà theo suốt tháng năm.
          Thêm bữa cơm ngon cho người lao động.
          Nâng chén cơm thơm, qúy trọng người trồng.

          Em ơi hãy học làm ruộng giỏi.
          Nghề nông thời nào cũng quý kỹ năng.
          Người dân khá hơn là niềm ao ước
          Công việc này giao lại cho em.

          Có một mùa Vu Lan hạnh phúc
          Ơn mẹ cha lam lũ sớm hôm
          Thương con vạc gọi sao mai dậy sớm
          Một niềm tin thắp lửa giữa tâm hồn.

          Bước tiếp bước giữa trường đời gian khó
          HỌC ĐỂ LÀM người lao động siêng năng
          Rèn nhân cách vượt lên bao cám dỗ
          Đức và Tài tử tế giữa Nhân Dân.


          ĐỐI THOẠI VỚI THIỀN SƯ
          Hoàng Kim


          Vui việc thiện lắng nghe kinh
          Ngắm hoa mai nở giữ mình thảnh thơi
          Mới hay mọi việc trên đời
          Thung dung phúc hậu là nơi tìm về.

          Vu Lan năm nay muộn
          Tháng nhuận ngày vắn dài
          Trời đất gió Bắc thổi
          Vần vũ mây gió hoài

          Nắng mưa chuyện của trời
          An nhiên vui khỏe sống
          Thung dung ngày tháng rộng
          Mai sớm thành rừng thôi

          ĐỐI THOẠI VỚI THIỀN SƯ
          Hoàng Trung Trực

          Vất bỏ ngoài tai mọi chuyện đời
          Lòng không vướng bận dạ an thôi
          Ráng vun đạo đức tròn nhân nghĩa
          Huệ trí bùng khai tỏa sáng ngời

          Lòng lộng đêm nghe tiếng mõ kinh
          Bao nhiêu ham muốn bỗng an bình
          Tâm tư trãi rộng ngàn thương mến
          Mong cả nhân loài giữ đức tin.

          Thượng Đế kỳ ba gíáo đô đời
          Vô minh cố chấp tại con người
          Thánh Tiên tùy hạnh tùy công đức
          Ngôi vị thiêng liêng tạo bởi Người.

          Vững trụ đức tin đạo chí thành
          Vô cầu vô niệm bả công danh
          Sớm hôm tu luyện rèn thân chí
          Đạo cốt tình thương đức mới thành

          ĐỐI THOẠI VỚI THIỀN SƯ
          Hoàng Kim cùng với Chua Buu Minh

          “Triết thuyết nào cũng chỉ để cứu cái tệ của một thời thôi. Muốn đánh giá một triết thuyết thì phải đặt nó vào thời của nó, xem nó giải quyết được những vấn đề của thời đó không, có là một tiến bộ so với các thời khác, một nguồn cảm hứng cho các thời sau không. Và nếu sau mươi thế hệ, người ta thấy nó vẫn còn làm cho đức trí con người được nâng cao thì phải coi nó là một cống hiến lớn cho nhân loại rồi” (Nguyễn Hiến Lê, 1991)”

          BƯỚC TỚI THẢNH THƠI
          Hoàng Kim

          Chân trần bước tới thảnh thơi
          Trăng rằm cổ tích nhớ lời của Anh:

          “Cảnh mãi theo người được đâu em
          Hết khổ hết cay hết vận hèn
          Nghiệp sáng đèn giời đang chỉ rõ
          Rồi đây cay đắng chẳng buồn chen”.
          (Hoàng Ngọc Dộ)

          Đến chốn thung dung
          Sống giữa thiên nhiên
          Về với ruộng đồng
          Tổ ấm Rồng Tiên
          Trở lại với mình.
          Bước tới thảnh thơi
          Trăng rằm cổ tích
          Giấc mơ hạnh phúc.

          Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là ta-ve-song-giua-thien-nhien.jpg

          ĐẾN CHỐN THUNG DUNG
          Hoàng Kim

          Thăm người ngọc nơi xa vùng tỉnh lặng
          Chốn ấy non xanh người đã chào đời
          Nơi
          sỏi đá giữa miền thiêng hoa cỏ
          Thiên nhiên an lành,
          bước tới thảnh thơi.

          Sống giữa đời vui giấc mơ hạnh phúc
          Cổ tích đời thường đằm thắm yêu thương
          Con cái quây quần thung dung tự tại
          Minh triết cuộc đời phúc hậu an nhiên.

          Xuân Hạ Thu Đông bốn mùa luân chuyển
          Say chân quê
          ngày xuân đọc Trạng Trình
          Ngày ra ruộng đêm thì đọc sách
          Ngọc cho đời giữ trọn niềm tin.

          (*) Nhạc Trịnh

          SỐNG GIỮA THIÊN NHIÊN
          Hoàng Kim

          Người rất muốn đi về trong tịch lặng
          Quẳng lại sau lưng nhân thế muộn phiền
          Ta đến chốn thung dung tìm
          hoa lúa
          Rong chơi đường trần sống giữa thiên nhiên.

          Tâm thanh thản buồn vui cùng nhân thế
          Đời Đạo thịnh suy sương sớm đầu cành
          Lòng hiền dịu và trái tim nhẹ nhõm
          Kho báu chính mình phúc hậu an nhiên.

          Trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt (*)
          Trăng rằm xuân lồng lộng bóng tri âm
          Người tri kỷ cùng ta và năm tháng.
          Giác Tâm
          ta về còn trọn niềm tin.

          VỀ VỚI RUỘNG ĐỒNG
          Hoàng Kim

          Người khôn về chốn đông người
          Cái nhìn thì mỏng cái cười thì nông
          Ta vui về với ruộng đồng
          Để gieo tục ngữ để trồng dân ca.

          Thỏa thuê cùng với cỏ hoa
          Thung dung đèn sách, nhẫn nha dọn vườn
          Mặc ai tính thiệt so hơn
          Bát cơm gạo mới vẫn thơm láng giềng

          Thiên nhiên là thú thần tiên
          Chân quê là chốn bình yên đời mình
          Bạn hiền bia miệng anh linh
          Thảnh thơi hưởng trọn ân tình thế gian.

          Nước trong ngập ánh trăng vàng
          Ta ra cởi bỏ nhọc nhằn âu lo
          Lợi danh một thực mười hư
          Trăm điều ước vọng chỉ phù du thôi.

          Thung dung thanh thản cuộc đời
          Tình quê bồi đắp về nơi sâu đằm
          Ta vui hạnh phúc trăm năm
          Chọn tìm giống tốt đêm nằm chiêm bao.

          TA VỀ TRỜI ĐẤT HỒNG LAM
          Hoàng Kim

          Ta về trời đất Hồng Lam
          Bâng khuâng bước dưới trăng vàng lộng soi
          Ngực trần chạm tới thảnh thơi
          Nghe lưng thấu đến bồi hồi đất quen.

          Linh miêu chốn Tổ Rồng Tiên
          Quấn quanh trao gửi nổi niềm Thái Sơn
          Hỡi ai là kẻ phi thường
          Đỉnh chung dâng nén tâm hương nhớ Người.


          VỀ LẠI CHÍNH MÌNH
          Hoàng Kim

          Mình về với chính mình thôi
          Ở nơi bếp núc nói lời yêu thương
          Hành trình của chính linh hồn
          Giấc mơ hạnh phúc con đường tình yêu.

          Thênh thênh đồng rộng trời chiều
          Nụ cười mãn nguyện bao điều ước mong
          Dẫu rằng xuân đến tự xuân
          Vượt qua đông lạnh đã dần sương tan.

          Lời nguyền cùng với nước non
          Hiếu trung trọn nghĩa lòng son vẹn tình
          Yêu thương phúc hậu hi sinh
          Đường xuân chung lối hương linh muôn đời.

          CHÙA GIÁNG GIỮA ĐỒNG XUÂN
          Hoàng Kim


          Nơi cổ tự mây lành che xóm vắng
          Viên Minh xưa chùa Giáng ở đây rồi
          Bụt thư thái chim rừng nghe giảng đạo
          Trời trong lành gió núi lắng xôn xao.

          Nhớ Pháp Chủ người hiền Thích Phổ Tuệ
          Viên ngọc lành tính sáng gửi tin yêu:
          “Mưa thuận gió hòa chăm bón đúng
          Nhân tươi quả tốt được thu nhiều”

          Thương hạt ngọc trắng ngần vui Bạch Ngọc
          Phước nhân duyên thơm thảo học làm người
          “Thơm hương lúa ngậm đòng chăm bón đúng
          Mưa thuận gió hòa nhân quả tốt tươi”

          Ngát hương sen lồng lộng bóng trúc mai
          Đồng xuân đất lành trời xanh bát ngát
          Hoa Đất, Hoa Người tổ tiên phước đức
          Con biết ơn Người hiếu thảo ghi ơn …

          Những trang đời lắng đọng
          TĨNH THỨC HOA SEN TRẮNG
          Hoa sen trắng
          Nhà văn Triết gia Ấn độ Osho


          Tổ sư Bồ đề đạt ma đến với một chiếc giầy. –

          Triết gia Osho nổi tiếng người Ấn độ nói: Tôi cực lạc vì tên của Tổ sư Bồ đề đạt ma đã làm cho tôi phiêu diêu. Đã từng có nhiều chư phật trên thế giới, nhưng Tổ sư Bồ đề đạt ma sừng sững như đỉnh Everest. Cách hiện hữu của ông ấy, cách sống, và cách diễn đạt chân lí đơn giản là của ông ấy; nó là vô song.

          Trong các chùa ở Miền tây thường bên cạnh thờ tượng Đức Phật, có thờ tượng của Tổ sư Bồ đề đạt ma. Tượng Tổ sư dễ nhận biết. Gương mặt một người hung dữ, vai đeo gậy. Trên gậy có chỉ một chiếc giày.Tổ sư Bồ đề đạt ma đã du hành từ Ấn Độ sang Trung Quốc để truyền bá thông điệp của Đức Phật, người thầy của mình, mặc dầu họ sống cách nhau một nghìn năm.

          Khi Tổ sư Bồ đề đạt ma đến Trung Quốc, Vũ Đế ra đón ông ấy ở biên ải. Mọi ngưỡi nghĩ rằng một chứng ngộ lớn đang tới! Và tất nhiên Vũ Đế đã tưởng tượng Tổ sư có nét gì đó giống như Đức Phật: rất hoà nhã, duyên dáng, vương giả. Tuy nhiên khi ông ta thấy Bồ đề đạt ma thì ông đã bị choáng. Tổ sư Bồ đề đạt ma trông rất thô thiển. Không chỉ thế, ông ấy còn có vẻ rất ngớ ngẩn. Ông ấy đến cây gậy đeo trên vai chỉ có một chiếc giầy.Vũ Đế bối rối. Ông ta đã tới cùng với cả đoàn triều đình với các hoàng hậu quí phi. Họ sẽ nghĩ gì khi ta ra đón một loại người như thế này? Ông cố gắng vì lịch sự bỏ qua điều đó. Và ông đã không muốn hỏi “Sao ông lại đến nước chúng tôi chỉ với một chiếc giầy?

          Nhưng Tổ sư Bồ đề đạt ma đã không để Vũ Đế yên. Ông ấy nói: -Đừng cố bỏ qua nó. Hãy hỏi và thẳng thắn ngay từ chính lúc đầu đi. Ta đã đọc được câu hỏi trong đầu ông rồi.Vũ Đế đâm ra lúng túng; sau cùng ông nói:-Vâng, ông đúng, câu hỏi này đã nảy sinh trong ta: Sao ông đến mà chỉ mang một chiếc giày?

          Tổ sư Bồ đề đạt ma nói, -Để mọi thứ vào cảnh quan đúng như từ chính lúc đầu. Ta là người vô lí! Ông phải hiểu điều đó từ chính lúc bắt đầu. Ta không muốn tạo ra bất kì rắc rối nào về sau. Hoặc ông chấp nhận ta như ta vậy hoặc ông đơn giản nói rằng ông không thể chấp nhận được ta. Và ta sẽ rời khỏi vương quốc của ông. Ta sẽ đi lên núi. Ta sẽ đợi ở đó đến khi người của ta đến với ta. Vũ Đế lúng túng. Ông đã mang theo nhiều câu hỏi khi đến đón Tổ sư. Nhưng ông băn khoăn có nên đưa chúng ra hay không? Ông nghi ngai câu trả lời là lố bịch. Nhưng Tổ sư Bồ đề đạt ma một mức khăng khăng:-Ông hãy nên hỏi những câu ông đã mang tới đây.

          Vũ Đế gượng gạo hỏi:-Câu hỏi đầu: Ta đã làm được nhiều phước đức…. Tổ sư Bồ đề đạt ma nhìn sâu vào trong đôi mắt của Vũ Đế. Một cơn lạnh toát chạy dọc sống lưng nhà vua. Ông nói:-Toàn những điều vô nghĩa! Làm sao ông có thể làm được nhiều phước đức ? Ông còn chưa nhận biết phước đức được hình thành từ nhận biết . Mà ông ngụ ý phước đức nào? Làm sao ông có thể tạo ra được phước đức? Phước đức chỉ được tạo ra từ Đức Phật.

          Vũ Đế ngại ngần:-Việc ta nói làm nhiều phước đức. Ta ngụ ý rằng ta đã làm nhiều đến chùa, nhiều điện thờ cho Phật. Ta đã làm nhiều đạo tràng cho các khất sĩ Phật tử, các tín đồ, và tì kheo. Ta đã thu xếp cho hàng nghìn học sĩ để dịch kinh sách Phật sang tiếng Trung Quốc. Ta đã tiêu tốn hàng triệu đồng bạc cho việc phục vụ Đức Phật. Nhiều triệu khất sĩ xin ăn mọi ngày từ cung điện này nọ này trên khắp nước.

          Và Tổ sư Bồ đề đạt ma cười. Vũ Đế chưa từng bao giờ nghe thấy tiếng cười như thế. Tiếng cười bụng có thể làm rung chuyển cả núi. Tổ sư cười sằng sặc và nói:-Ông đã hành động một cách ngu xuẩn. Mọi nỗ lực của ông đều đã là cực kì phí hoài. Sẽ không tạo ra kết quả nào từ nó cả. Đừng cố, và đừng tưởng tượng rằng ông sẽ được lên cõi trời thứ bẩy như các khất sĩ Phật giáo đã nói cho ông. Họ chỉ khai thác ông thôi.

          Đây là chiến lược khai thác những người ngu như ông. Họ khai thác lòng tham của ông về thế giới bên kia, Họ vẽ cho ông những hứa hẹn lớn. Và lời hứa của họ không thể chứng minh là sai được vì không ai quay trở về từ thế giới bên kia để nói liệu những lời hứa đó có được hoàn thành hay không. Ông đã bị họ lừa rồi. Không có cái gì sẽ xảy ra từ điều mà ông nghĩ là việc làm phước đức. Thực ra, ông sẽ rơi vào địa ngục thứ bẩy, vì một người sống với những ham muốn sai như thế, người sống có ham muốn như thế, đều sẽ rơi vào địa ngục.

          Vũ Đế e ngại. Ông cố gắng lái câu chuyện sang một chủ đề khác: -Vậy có cái gì linh thiêng hay không? Tổ sư Bồ đề đạt ma nói, -Không có cái gì linh thiêng, cũng như không có cái gì là báng bổ. Linh thiêng và báng bổ, đều là thái độ của tâm trí, của định kiến. Mọi việc đều đơn giản như chúng vậy. Không cái gì sai và không cái gì đúng, không cái gì tội lỗi và không cái gì phước đức. Vũ Đế buồn bực:-Ông thật quá thể đối với ta và người của ta. Sau đó, Tổ sư Bồ đề đạt ma nói lời tạm biệt, quay lưng lại và đi lên núi.

          Trong chín năm trên núi ông ấy ngồi quay mặt vào tường. Mọi người đến với ông bởi vì đã được nghe, biết về cuộc đối thoại này. Dù khoảng cách sống giữa Tổ sư và Đức Phật trong hơn một nghìn năm, nhưng về trung tâm Tổ Sư vẫn ở cùng Đức Phật. Tổ sư nói điều tinh tuý của Đức Phật – tất nhiên theo cách riêng của ông ấy, theo phong cách của ông ấy, Ngay cả Phật cũng sẽ thấy cách trình bày này đó là kì lạ.

          Đức Phật là người văn hoá, phức tạp, và duyên dáng. Còn Tổ sư Bồ đề đạt ma chính là cái đối lập trong cách diễn đạt của Đức Phật. Tổ sư không là người mà là con sư tử. Tổ sư không nói, mà ông ấy gầm lên. Tổ sư không có cái duyên dáng mà Đức Phật có. Cái mà ông ấy có là sự thô thiển, dữ dằn. Không thanh nhã như kim cương; Tổ sư hệt như vĩa quặng: thô ráp tuyệt đối , không có một sự đánh bóng. Và đó là cái đẹp của ông ấy. Đức Phật có cái đẹp rất nữ tính, lịch sự, mảnh mai. Còn Tổ sư Bồ đề đạt ma có cái đẹp riêng . Cái đẹp của một tảng đá – mạnh mẽ, nam tính, không thể phá huỷ được, cái đẹp của một sức mạnh lớn lao.

          Đức Phật tỏa sức mạnh, nhưng sức mạnh của Đức Phật rất im lặng, như tiếng thì thào, như làn gió mát. Còn Tổ sư Bồ đề đạt ma là cơn bão, sấm rền và chớp giật. Đức Phật đến cửa nhà bạn nhẹ nhàng không một tiếng động, bạn thậm chí sẽ không nghe thấy tiếng bước chân của ông ấy. Còn Tổ sư Bồ đề đạt ma, khi ông ấy đến nhà bạn, ông ấy sẽ làm rung chuyển cả ngôi nhà từ tận móng của nó. Đức Phật sẽ không lay bạn dậy ngay cả khi bạn đang ngủ. Còn Tổ sư Bồ đề đạt ma? Ông ấy sẽ dựng bạn dậy từ trong nấm mồ! Ông ấy đánh mạnh, ông ấy là chiếc búa.

          Tổ sư là chính cái đối lập của Đức Phật trong cách diễn đạt, nhưng thông điệp của ông ấy với Đức Phật là một. Tổ sư cúi mình trước Đức Phật là thầy của mình. Tổ sư chưa bao giờ nói “Đây là thông điệp của ta”. Tổ sư đơn giản nói:-Điều này thuộc về chư phật, chư phật cổ đại. Ta chỉ là sứ giả. Không cái gì là của ta, bởi vì ta không có. Ta như cây trúc hồng được chư phật chọn để làm chiếc sáo cho họ. Họ hát: ta đơn giản để cho họ hát qua ta.

          PHÁP TRẦN, QUAY ĐẦU LÀ BỜ
          Thích Thanh Từ (Sư Ông Trúc Lâm)

          Trong nhà thiền thường nói, khi ngộ đạo rồi mắt thấy như mù, tai nghe như điếc. Như mù nhưng không phải mù, như điếc nhưng không phải điếc. Giả sử chúng ta đi chợ, nghe người ta xôn xao đủ thứ, nhưng mình không dính, không chú ý. Khi về người nhà hỏi: “Bữa nay đi chợ thấy cái gì?” Mình nói: “Không thấy gì hết”. Nhưng sự thật mình có thấy không? Có thấy nhưng không dính thành ra như không thấy. Còn nếu ta để tâm vào việc gì thì khi được hỏi, mình liền trả lời: “Thấy thế này, thế kia”. Đó là ta đã tích lũy vào pháp trần trong tâm rồi.

          Cho nên việc tu có nhiều điểm rất hay mà chúng ta không biết. Như ra đường bị ai nói xúc phạm tới danh dự mình, về nhà ít nhất ta cũng kể lại với người thân nghe. Kể một người nghe mình cũng chưa vừa lòng, phải kể cho người này người kia nghe chừng một trăm lần, như vậy mình đã thuộc lòng trong ký ức sâu quá rồi. Vì vậy khi ngồi thiền nó trồi lên, bỏ được một lát nó trồi lên nữa. Đó là vì chúng ta đã ghi nhớ quá sâu đậm.

          Giống như lúc còn bé đi học, mỗi khi muốn thuộc bài, mình phải đọc tới đọc lui nhiều lần mới thuộc. Đem vô sâu là do ôn tới ôn lui nhiều lần. Lỡ nhớ rồi, khi muốn quên cũng phải tập bỏ thường xuyên mới quên được, không có cách nào khác hơn. Vậy mà vừa có chuyện buồn, chuyện giận là chúng ta đem ra kể liền. Gặp ai kể nấy, kể hoài như vậy quên sao được. Khi ngồi thiền nó trồi lên lại than: “Khổ quá! Con tu khó”. Khó là tại ai? Tại mình chứ tại ai, tích lũy nhiều thì nó trồi lên nhiều.

          Bây giờ chúng ta thấy chỉ thấy, không thèm quan tâm chú ý gì cả. Thấy tất cả mà tâm không giữ, không dính thì tu dễ không khó. Nếu tu là tìm cái gì ở đâu xa thì khó, đằng này nó đã sẵn nơi mình rồi, chỉ quay lại là hiện tiền. Chúng ta không thấy được cái chân thật là do pháp trần đầy cứng bên trong, nên quay lại thấy toàn tạp nhạp.

          Những giờ ngồi thiền là những giờ quay lại, mình thấy pháp trần lăng xăng lộn xộn nên nói thấy loạn tưởng nhiều quá. Thấy loạn tưởng nhiều là tu tiến nhiều. Vì ngày xưa, mỗi khi chúng dấy lên mình chạy theo nên không thấy chúng, bây giờ chúng dấy lên mình biết liền bỏ, đó là tu tiến. Tuy nó còn nhưng mình đã làm chủ được chút chút. Hồi xưa nó dẫn mình chạy theo hoàn toàn, bây giờ nó trồi lên mình từ chối không theo, đó là tiến rõ ràng. Nhưng nhiều khi Phật tử thấy nó rồi sợ, tu gì mà vọng tưởng quá chừng. Sự thật có tiến, tiến từng bước, chứ không phải không tiến.

          Bước tiến tiếp theo là ngoài giờ ngồi thiền, khi tiếp xúc với mọi cảnh mọi vật, chúng ta thấy biết rõ ràng nhưng bỏ qua, không chú tâm, đó là ta tu trong mọi lúc mọi nơi. Không phải tay lần chuỗi, thân tọa thiền mới tu. Lần chuỗi tọa thiền mà ai động tới liền la hét là không phải tu. Người không tỏ vẻ tu hành gì hết, nhưng đi đứng tự nhiên thoải mái, ai nói gì thì nói, bỏ qua không để lòng, ấy mới thật là chân tu.

          Nhiều khi chúng ta như điên khùng với nhau. Thí dụ mình tưởng mình thông minh, sáng suốt, nhưng ai vừa nói “Chị ngu quá!”, mình liền la đông đổng lên, để nói rằng ta không ngu. Nhưng thật ra như vậy là đã chứng tỏ mình đang ngu. Nếu không ngu, ta chỉ cười, nói: “Phải, tôi ngu” Nói vậy còn gì nữa để la, thì đâu có khổ. Vậy mà ai nói mình ngu liền cự lộn, rồi đủ thứ chuyện thưa kiện … có khổ không? Thế là cả hai đàng đều khùng điên với nhau hết.

          Những chuyện hết sức nhỏ như vậy, nhưng mình không biết tu, nên cứ tích lũy trong tâm thành ra sanh bệnh. Bây giờ muốn bỏ, chúng ta phải gỡ lần những thứ đó, từ từ ngồi thiền sẽ được nhẹ nhàng yên ổn. Ai nói gì mình cũng cười. Đức Phật ngày xưa bị Bà la môn theo sau mắng chửi, Ngài im lặng không nói, không nhận, thế mà Bà la môn phải chịu phép, không dám mắng chửi nữa, khỏe khoắn làm sao.

          Phật là bậc giác ngộ nên thấy người mê Ngài thương, không phản đối, không chống cự gì cả nhưng lại nhiếp phục được họ. Còn chúng ta bây giờ nghe nói một câu không vừa lòng liền phản đối, chống cự, rốt cuộc càng thêm lớn chuyện. Như vậy ta cùng những người mê kia, không hơn không kém, phải không? Mình là người tỉnh thì phải hơn kẻ mê. Họ nói bậy mình chỉ cười thôi thì không xảy ra chuyện gì hết. Như vậy có khỏe không ?

          Cho nên người biết tu xả bỏ hết những gì không quan trọng. Quan trọng là đừng để sáu trần lôi dẫn đi, phải quay về với cái chân thật của chính mình. Cái chân thật ấy ai cũng có nhưng vì vọng tưởng che lấp nên mình không nhận ra. Cho nên Thiền sư Nam Tuyền Phổ Nguyện nói, người tu thiền như con ngỗng chúa uống sữa chừa nước lại. Câu nói nghe muốn bể cả đầu! Làm sao mà uống sữa chừa nước được? Hai thứ ấy hòa lẫn nhau, lọc thế nào ?

          Những câu như vậy, tôi cũng mất nhiều năm lắm mới thấy rõ ý nghĩa của nó. Cái gì là sữa?. Cái gì là nước ? Vọng tâm và chân tâm nơi mình hòa lẫn nhau, không phải một cũng không phải hai. Vậy làm sao để lọc chân tâm ra khỏi vọng tâm? Ở đây, chúng ta chỉ cần khéo một chút là thấy liền. Cái biết trong sáng hiện tiền đó là sữa, còn cái biết lăng xăng lộn xộn là nước. Cái biết lăng xăng lộn xộn thì chúng ta không theo, chỉ sống với cái biết yên tĩnh, trong sáng. Đó là mình đã loại nước, uống sữa. Được thế ta là ngỗng chúa.

          Những giây phút yên tĩnh, chúng ta ngồi chơi không nghĩ gì hết. Lúc đó tai vẫn nghe, mắt vẫn thấy mà không nghĩ suy điều chi. Như vậy cái biết đó mình đã có sẵn, nhưng vừa dấy nghĩ cái này cái nọ liền quên mất cái biết hằng hữu. Bây giờ chỉ cần không chạy theo các thứ xao động thì nó hiện tiền. Nếu chúng ta đừng đuổi theo những gì mắt thấy, tai nghe, mũi ngửi, lưỡi nếm … ăn cứ ăn uống cứ uống, làm tất cả việc mà đừng dính, nếu không phải Phật thì ít nhất mình cũng là Bồ tát con rồi.

          Vì vậy không dính với sáu trần là biết quay đầu, còn dính với sáu trần là đã lao đi trong sanh tử, không có gì khó khăn hết. Trong nhà thiền có câu chuyện của anh hàng thịt, khi nghe một câu nói của vị Thiền sư, liền tỉnh ngộ và làm bài kệ:
          Tạc nhật dạ xoa tâm
          Kim triêu Bồ tát diện
          Dạ xoa dữ Bồ tát
          Bất cách nhất điều tuyến.
          Dịch:
          Hôm qua tâm dạ xoa
          Bữa nay mặt Bồ tát
          Dạ xoa và Bồ tát
          Không cách một đường tơ.

          Bồ tát và Dạ xoa chỉ cách nhau ở một cái nhìn. Nhìn ra là mê, xoay lại là giác, dễ như trở bàn tay, không có gì ngăn cản hết. Vậy mà chúng ta làm không nổi, cứ ì ạch hoài. Thiền đặc biệt ở chỗ đó, nhưng vẫn phù hợp với những gì Phật dạy ngày xưa. Tôi sẽ dẫn kinh để chứng tỏ điều này.

          Trong kinh A Hàm kể lại, một hôm, sau thời tọa thiền trong rừng, Đức Phật xả thiền ngồi chơi tự tại. Chợt Ngài thấy có một con rùa bò về phía mình, phía sau con dã can đuổi theo định cắn đuôi con rùa, con rùa liền rút đuôi vào trong mai. Dã can chụp lấy chân, con rùa liền rút chân vào trong mai. Cứ như vậy dã can chụp cắn tứ tung, rùa cũng rút hết các bộ phận vào trong mai. Con dã can chụp hoài không được bèn bỏ đi.

          Kết thúc câu chuyện, Phật nói: “Người tu cũng thế, nếu biết giữ sáu căn không cho chạy theo sáu trần thì không có ma vương nào bắt được”. Còn nếu chạy theo sáu trần bị nó cắn đứt đầu đứt cổ. Chuyện thật là hay.

          Thêm một câu chuyện nữa. Phật kể trong một đàn khỉ, có con khỉ nhỏ đi sau đàn thấy mấy con lớn đi trước ăn nhiều trái cây ngon, còn mình thiệt thòi quá. Nó bèn tách đàn, đi một mình để được ăn ngon. Khi thấy miếng mồi ngon, nó liền đưa tay chụp, không ngờ đó là cái bẫy nhựa, nên tay nó bị dính nhựa. Nó liền đưa tay kia gỡ nên tay kia bị dính luôn. Con khỉ liền lấy chân phải quào, chân phải dính; lấy chân trái quào, chân dính luôn. Nó quật cái đuôi để gỡ, đuôi cũng dính. Cuối cùng còn cái miệng, nó liền đưa miệng cạp, thế là miệng dính luôn. Như vậy tổng cộng sáu bộ phận đều dính nhựa hết. Gã thợ săn chỉ cần tới lượm con khỉ bỏ vô giỏ là xong.

          Phật nói: “Cũng vậy, nếu người nào sáu căn dính với sáu trần, cũng như con khỉ kia để sáu bộ phận dính với nhựa, người đó sẽ bị ma vương dẫn đi dễ dàng, không nghi ngờ”. Như vậy Phật dạy chúng ta tu như thế nào? Là giữ sáu căn đừng cho dính mắc với sáu trần. Đây là một lẽ thật chứ không phải tưởng tượng. Đó là tôi đã dẫn trong kinh A Hàm.

          Đến kinh Kim Cang, Lục Tổ ngộ được từ câu: “Bất ưng trụ sắc sanh tâm, bất ưng trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp sanh tâm; ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”, tức là không dính mắc vào các trần mà sanh tâm Bồ đề. Tâm Bồ đề là tâm thanh tịnh, không dính mắc thì tâm Bồ đề hiện tiền. Còn dấy niệm là tâm sanh diệt. Sau khi ngộ rồi, Lục Tổ thốt lên: “Đâu ngờ tâm mình xưa nay thanh tịnh!. Vì thanh tịnh nên không sanh diệt, còn loạn tưởng là tâm sanh diệt. Ngay đó Ngũ Tổ truyền tâm ấn và trao y bát cho ngài.

          Sự tu chẳng có gì lạ hết. Phật Tổ không hai đường, chỉ vì phương tiện truyền bá khác nhau thôi. Thấy như vậy, hiểu như vậy, chúng ta mới nhận ra việc tu không phải chuyện quanh co, khó khăn, mà trái lại rất đơn giản. Ngài Lâm Tế nói: “Đâu ngờ Phật pháp của Hoàng Bá rất ít”, nghĩa là rất đơn giản. Cho nên trọng tâm của việc tu là nghe và hiểu được ý Phật dạy, rồi ứng dụng thực hành. Đó mới là người biết tu.

          Thơ Thiền Thích Nhất Hạnh
          CẦU HIỂU, CẦU THƯƠNG
          Thích Nhất Hạnh (Sư Ông Làng Mai)


          Lắng lòng nghe tiếng gọi quê hương
          Sông núi trông ra đẹp lạ thường
          Về tới quê xưa tìm gốc cũ
          Qua rồi cầu Hiểu, tới cầu Thương.

          Tôi (Hoàng Kim:) nghe nói ‘ đạo Phật dấn thân’ “Có một đạọ Phật như thế” (lời Bùi Tín) với Làng Mai của thiền sư Thích Nhất Hạnh có những điểm dị biệt nên chính quyền hai phía xưa và nay chưa thực lòng ủng hộ. Tôi không chấp nhân Bùi Tín và các vị mưu toan ‘li tâm’ xa rời đường sống của dân tộc, nhưng dẫu vậy sự thực hành các thức chánh niệm: ”Từng bước chân thảnh thơi”, ”An lạc ngay lúc này”, ”Vui với từng hơi thở”, ”Bụt ở ngay trong ta” “
          Thơ thiền Thích Nhất Hạnh” là những tuyệt phẩm Phật học thật đáng đọc lại và suy ngẫm.

          Biển Hồ Chùa Bửu Minh

          VỀ TRONG TỊCH LẶNG
          Thích Giác Tâm

          Ta rất muốn đi về trong tịch lặng.
          Quẳng lại sau lưng nhân thế muộn phiền
          Lòng thao thức Đạo Đời luôn vướng nặng
          Mũ ni che tai, tâm lại hóa bình yên.

          Xem tiếp >>

            Dạy và học 16 tháng 8(16-08-2021)


          DẠY VÀ HỌC 16 THÁNG 8
          Hoàng Kim

          CNM365 Tình yêu cuộc sốngĐối thoại với Thiền sư; Đêm Vu Lan; Thắp đèn lên đi em; Chuyện thầy Tôn Thất Trình; Thầy Xuân nông thôn mới; Ngày 16 tháng 8 năm 1945, Quốc dân đại hội đầu tiên do Đảng Cộng Sản Việt Nam tổ chức họp tại Chiến khu Tân Trào (hình: Cây đa Tân Trào) thông qua 10 chính sách lớn của Việt Minh, chủ trương tổng khởi nghĩa, quy định Quốc kỳ, Quốc ca Việt Nam. Ngày 16 tháng 8 năm 1563, ngày sinh chúa sãi Nguyễn Phúc Nguyên, một trong những minh chúa của Đàng Trong, sau được nhà Nguyễn suy tôn miếu hiệu là Hy Tông hiếu văn hoàng đế. Ngày 16 tháng 8 năm 1949, ngày mất Margaret Mitchell, nhà văn Mỹ nổi tiếng, tác giả Cuốn theo chiều gió (sinh năm 1900). Bài viết chọn lọc ngày 16 tháng 8: Đối thoại với Thiền sư; Đêm Vu Lan; Thắp đèn lên đi em; Chuyện thầy Tôn Thất Trình; Thầy Xuân nông thôn mới; Việt Nam con đường xanh; Sự chậm rãi minh triết; Sự thật tốt hơn ngàn lời nói; Địa chỉ xanh Ấn Độ; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.comhttp://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimhttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-16-thang-8/


          ĐỐI THOẠI VỚI THIỀN SƯ
          Hoàng Kim


          Vui việc thiện lắng nghe kinh
          Ngắm hoa mai nở giữ mình thảnh thơi
          Mới hay mọi việc trên đời
          Thung dung phúc hậu là nơi tìm về.

          Vu Lan năm nay muộn
          Tháng nhuận ngày vắn dài
          Trời đất gió Bắc thổi
          Vần vũ mây gió hoài

          Nắng mưa chuyện của trời
          An nhiên vui khỏe sống
          Thung dung ngày tháng rộng
          Mai sớm thành rừng thôi

          ĐỐI THOẠI VỚI THIỀN SƯ
          Hoàng Trung Trực

          Vất bỏ ngoài tai mọi chuyện đời
          Lòng không vướng bận dạ an thôi
          Ráng vun đạo đức tròn nhân nghĩa
          Huệ trí bùng khai tỏa sáng ngời

          Lòng lộng đêm nghe tiếng mõ kinh
          Bao nhiêu ham muốn bỗng an bình
          Tâm tư trãi rộng ngàn thương mến
          Mong cả nhân loài giữ đức tin.

          Thượng Đế kỳ ba gíáo đô đời
          Vô minh cố chấp tại con người
          Thánh Tiên tùy hạnh tùy công đức
          Ngôi vị thiêng liêng tạo bởi Người.

          Vững trụ đức tin đạo chí thành
          Vô cầu vô niệm bả công danh
          Sớm hôm tu luyện rèn thân chí
          Đạo cốt tình thương đức mới thành

          ĐỐI THOẠI VỚI THIỀN SƯ
          Hoàng Kim cùng với Chua Buu Minh

          “Triết thuyết nào cũng chỉ để cứu cái tệ của một thời thôi. Muốn đánh giá một triết thuyết thì phải đặt nó vào thời của nó, xem nó giải quyết được những vấn đề của thời đó không, có là một tiến bộ so với các thời khác, một nguồn cảm hứng cho các thời sau không. Và nếu sau mươi thế hệ, người ta thấy nó vẫn còn làm cho đức trí con người được nâng cao thì phải coi nó là một cống hiến lớn cho nhân loại rồi” (Nguyễn Hiến Lê, 1991)”

          BƯỚC TỚI THẢNH THƠI
          Hoàng Kim

          Chân trần bước tới thảnh thơi
          Trăng rằm cổ tích nhớ lời của Anh:

          “Cảnh mãi theo người được đâu em
          Hết khổ hết cay hết vận hèn
          Nghiệp sáng đèn giời đang chỉ rõ
          Rồi đây cay đắng chẳng buồn chen”.
          (Hoàng Ngọc Dộ)

          Đến chốn thung dung
          Sống giữa thiên nhiên
          Về với ruộng đồng
          Tổ ấm Rồng Tiên
          Trở lại với mình.
          Bước tới thảnh thơi
          Trăng rằm cổ tích
          Giấc mơ hạnh phúc.

          Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là ta-ve-song-giua-thien-nhien.jpg

          ĐẾN CHỐN THUNG DUNG
          Hoàng Kim

          Thăm người ngọc nơi xa vùng tỉnh lặng
          Chốn ấy non xanh người đã chào đời
          Nơi
          sỏi đá giữa miền thiêng hoa cỏ
          Thiên nhiên an lành,
          bước tới thảnh thơi.

          Sống giữa đời vui giấc mơ hạnh phúc
          Cổ tích đời thường đằm thắm yêu thương
          Con cái quây quần thung dung tự tại
          Minh triết cuộc đời phúc hậu an nhiên.

          Xuân Hạ Thu Đông bốn mùa luân chuyển
          Say chân quê
          ngày xuân đọc Trạng Trình
          Ngày ra ruộng đêm thì đọc sách
          Ngọc cho đời giữ trọn niềm tin.

          (*) Nhạc Trịnh

          SỐNG GIỮA THIÊN NHIÊN
          Hoàng Kim

          Người rất muốn đi về trong tịch lặng
          Quẳng lại sau lưng nhân thế muộn phiền
          Ta đến chốn thung dung tìm
          hoa lúa
          Rong chơi đường trần sống giữa thiên nhiên.

          Tâm thanh thản buồn vui cùng nhân thế
          Đời Đạo thịnh suy sương sớm đầu cành
          Lòng hiền dịu và trái tim nhẹ nhõm
          Kho báu chính mình phúc hậu an nhiên.

          Trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt (*)
          Trăng rằm xuân lồng lộng bóng tri âm
          Người tri kỷ cùng ta và năm tháng.
          Giác Tâm
          ta về còn trọn niềm tin.

          VỀ VỚI RUỘNG ĐỒNG
          Hoàng Kim

          Người khôn về chốn đông người
          Cái nhìn thì mỏng cái cười thì nông
          Ta vui về với ruộng đồng
          Để gieo tục ngữ để trồng dân ca.

          Thỏa thuê cùng với cỏ hoa
          Thung dung đèn sách, nhẫn nha dọn vườn
          Mặc ai tính thiệt so hơn
          Bát cơm gạo mới vẫn thơm láng giềng

          Thiên nhiên là thú thần tiên
          Chân quê là chốn bình yên đời mình
          Bạn hiền bia miệng anh linh
          Thảnh thơi hưởng trọn ân tình thế gian.

          Nước trong ngập ánh trăng vàng
          Ta ra cởi bỏ nhọc nhằn âu lo
          Lợi danh một thực mười hư
          Trăm điều ước vọng chỉ phù du thôi.

          Thung dung thanh thản cuộc đời
          Tình quê bồi đắp về nơi sâu đằm
          Ta vui hạnh phúc trăm năm
          Chọn tìm giống tốt đêm nằm chiêm bao.

          TA VỀ TRỜI ĐẤT HỒNG LAM
          Hoàng Kim

          Ta về trời đất Hồng Lam
          Bâng khuâng bước dưới trăng vàng lộng soi
          Ngực trần chạm tới thảnh thơi
          Nghe lưng thấu đến bồi hồi đất quen.

          Linh miêu chốn Tổ Rồng Tiên
          Quấn quanh trao gửi nổi niềm Thái Sơn
          Hỡi ai là kẻ phi thường
          Đỉnh chung dâng nén tâm hương nhớ Người.


          VỀ LẠI CHÍNH MÌNH
          Hoàng Kim

          Mình về với chính mình thôi
          Ở nơi bếp núc nói lời yêu thương
          Hành trình của chính linh hồn
          Giấc mơ hạnh phúc con đường tình yêu.

          Thênh thênh đồng rộng trời chiều
          Nụ cười mãn nguyện bao điều ước mong
          Dẫu rằng xuân đến tự xuân
          Vượt qua đông lạnh đã dần sương tan.

          Lời nguyền cùng với nước non
          Hiếu trung trọn nghĩa lòng son vẹn tình
          Yêu thương phúc hậu hi sinh
          Đường xuân chung lối hương linh muôn đời.

          CHÙA GIÁNG GIỮA ĐỒNG XUÂN
          Hoàng Kim


          Nơi cổ tự mây lành che xóm vắng
          Viên Minh xưa chùa Giáng ở đây rồi
          Bụt thư thái chim rừng nghe giảng đạo
          Trời trong lành gió núi lắng xôn xao.

          Nhớ Pháp Chủ người hiền Thích Phổ Tuệ
          Viên ngọc lành tính sáng gửi tin yêu:
          “Mưa thuận gió hòa chăm bón đúng
          Nhân tươi quả tốt được thu nhiều”

          Thương hạt ngọc trắng ngần vui Bạch Ngọc
          Phước nhân duyên thơm thảo học làm người
          “Thơm hương lúa ngậm đòng chăm bón đúng
          Mưa thuận gió hòa nhân quả tốt tươi”

          Ngát hương sen lồng lộng bóng trúc mai
          Đồng xuân đất lành trời xanh bát ngát
          Hoa Đất, Hoa Người tổ tiên phước đức
          Con biết ơn Người hiếu thảo ghi ơn …

          Những trang đời lắng đọng
          TĨNH THỨC HOA SEN TRẮNG
          Hoa sen trắng
          Nhà văn Triết gia Ấn độ Osho


          Tổ sư Bồ đề đạt ma đến với một chiếc giầy. –

          Triết gia Osho nổi tiếng người Ấn độ nói: Tôi cực lạc vì tên của Tổ sư Bồ đề đạt ma đã làm cho tôi phiêu diêu. Đã từng có nhiều chư phật trên thế giới, nhưng Tổ sư Bồ đề đạt ma sừng sững như đỉnh Everest. Cách hiện hữu của ông ấy, cách sống, và cách diễn đạt chân lí đơn giản là của ông ấy; nó là vô song.

          Trong các chùa ở Miền tây thường bên cạnh thờ tượng Đức Phật, có thờ tượng của Tổ sư Bồ đề đạt ma. Tượng Tổ sư dễ nhận biết. Gương mặt một người hung dữ, vai đeo gậy. Trên gậy có chỉ một chiếc giày.Tổ sư Bồ đề đạt ma đã du hành từ Ấn Độ sang Trung Quốc để truyền bá thông điệp của Đức Phật, người thầy của mình, mặc dầu họ sống cách nhau một nghìn năm.

          Khi Tổ sư Bồ đề đạt ma đến Trung Quốc, Vũ Đế ra đón ông ấy ở biên ải. Mọi ngưỡi nghĩ rằng một chứng ngộ lớn đang tới! Và tất nhiên Vũ Đế đã tưởng tượng Tổ sư có nét gì đó giống như Đức Phật: rất hoà nhã, duyên dáng, vương giả. Tuy nhiên khi ông ta thấy Bồ đề đạt ma thì ông đã bị choáng. Tổ sư Bồ đề đạt ma trông rất thô thiển. Không chỉ thế, ông ấy còn có vẻ rất ngớ ngẩn. Ông ấy đến cây gậy đeo trên vai chỉ có một chiếc giầy.Vũ Đế bối rối. Ông ta đã tới cùng với cả đoàn triều đình với các hoàng hậu quí phi. Họ sẽ nghĩ gì khi ta ra đón một loại người như thế này? Ông cố gắng vì lịch sự bỏ qua điều đó. Và ông đã không muốn hỏi “Sao ông lại đến nước chúng tôi chỉ với một chiếc giầy?

          Nhưng Tổ sư Bồ đề đạt ma đã không để Vũ Đế yên. Ông ấy nói: -Đừng cố bỏ qua nó. Hãy hỏi và thẳng thắn ngay từ chính lúc đầu đi. Ta đã đọc được câu hỏi trong đầu ông rồi.Vũ Đế đâm ra lúng túng; sau cùng ông nói:-Vâng, ông đúng, câu hỏi này đã nảy sinh trong ta: Sao ông đến mà chỉ mang một chiếc giày?

          Tổ sư Bồ đề đạt ma nói, -Để mọi thứ vào cảnh quan đúng như từ chính lúc đầu. Ta là người vô lí! Ông phải hiểu điều đó từ chính lúc bắt đầu. Ta không muốn tạo ra bất kì rắc rối nào về sau. Hoặc ông chấp nhận ta như ta vậy hoặc ông đơn giản nói rằng ông không thể chấp nhận được ta. Và ta sẽ rời khỏi vương quốc của ông. Ta sẽ đi lên núi. Ta sẽ đợi ở đó đến khi người của ta đến với ta. Vũ Đế lúng túng. Ông đã mang theo nhiều câu hỏi khi đến đón Tổ sư. Nhưng ông băn khoăn có nên đưa chúng ra hay không? Ông nghi ngai câu trả lời là lố bịch. Nhưng Tổ sư Bồ đề đạt ma một mức khăng khăng:-Ông hãy nên hỏi những câu ông đã mang tới đây.

          Vũ Đế gượng gạo hỏi:-Câu hỏi đầu: Ta đã làm được nhiều phước đức…. Tổ sư Bồ đề đạt ma nhìn sâu vào trong đôi mắt của Vũ Đế. Một cơn lạnh toát chạy dọc sống lưng nhà vua. Ông nói:-Toàn những điều vô nghĩa! Làm sao ông có thể làm được nhiều phước đức ? Ông còn chưa nhận biết phước đức được hình thành từ nhận biết . Mà ông ngụ ý phước đức nào? Làm sao ông có thể tạo ra được phước đức? Phước đức chỉ được tạo ra từ Đức Phật.

          Vũ Đế ngại ngần:-Việc ta nói làm nhiều phước đức. Ta ngụ ý rằng ta đã làm nhiều đến chùa, nhiều điện thờ cho Phật. Ta đã làm nhiều đạo tràng cho các khất sĩ Phật tử, các tín đồ, và tì kheo. Ta đã thu xếp cho hàng nghìn học sĩ để dịch kinh sách Phật sang tiếng Trung Quốc. Ta đã tiêu tốn hàng triệu đồng bạc cho việc phục vụ Đức Phật. Nhiều triệu khất sĩ xin ăn mọi ngày từ cung điện này nọ này trên khắp nước.

          Và Tổ sư Bồ đề đạt ma cười. Vũ Đế chưa từng bao giờ nghe thấy tiếng cười như thế. Tiếng cười bụng có thể làm rung chuyển cả núi. Tổ sư cười sằng sặc và nói:-Ông đã hành động một cách ngu xuẩn. Mọi nỗ lực của ông đều đã là cực kì phí hoài. Sẽ không tạo ra kết quả nào từ nó cả. Đừng cố, và đừng tưởng tượng rằng ông sẽ được lên cõi trời thứ bẩy như các khất sĩ Phật giáo đã nói cho ông. Họ chỉ khai thác ông thôi.

          Đây là chiến lược khai thác những người ngu như ông. Họ khai thác lòng tham của ông về thế giới bên kia, Họ vẽ cho ông những hứa hẹn lớn. Và lời hứa của họ không thể chứng minh là sai được vì không ai quay trở về từ thế giới bên kia để nói liệu những lời hứa đó có được hoàn thành hay không. Ông đã bị họ lừa rồi. Không có cái gì sẽ xảy ra từ điều mà ông nghĩ là việc làm phước đức. Thực ra, ông sẽ rơi vào địa ngục thứ bẩy, vì một người sống với những ham muốn sai như thế, người sống có ham muốn như thế, đều sẽ rơi vào địa ngục.

          Vũ Đế e ngại. Ông cố gắng lái câu chuyện sang một chủ đề khác: -Vậy có cái gì linh thiêng hay không? Tổ sư Bồ đề đạt ma nói, -Không có cái gì linh thiêng, cũng như không có cái gì là báng bổ. Linh thiêng và báng bổ, đều là thái độ của tâm trí, của định kiến. Mọi việc đều đơn giản như chúng vậy. Không cái gì sai và không cái gì đúng, không cái gì tội lỗi và không cái gì phước đức. Vũ Đế buồn bực:-Ông thật quá thể đối với ta và người của ta. Sau đó, Tổ sư Bồ đề đạt ma nói lời tạm biệt, quay lưng lại và đi lên núi.

          Trong chín năm trên núi ông ấy ngồi quay mặt vào tường. Mọi người đến với ông bởi vì đã được nghe, biết về cuộc đối thoại này. Dù khoảng cách sống giữa Tổ sư và Đức Phật trong hơn một nghìn năm, nhưng về trung tâm Tổ Sư vẫn ở cùng Đức Phật. Tổ sư nói điều tinh tuý của Đức Phật – tất nhiên theo cách riêng của ông ấy, theo phong cách của ông ấy, Ngay cả Phật cũng sẽ thấy cách trình bày này đó là kì lạ.

          Đức Phật là người văn hoá, phức tạp, và duyên dáng. Còn Tổ sư Bồ đề đạt ma chính là cái đối lập trong cách diễn đạt của Đức Phật. Tổ sư không là người mà là con sư tử. Tổ sư không nói, mà ông ấy gầm lên. Tổ sư không có cái duyên dáng mà Đức Phật có. Cái mà ông ấy có là sự thô thiển, dữ dằn. Không thanh nhã như kim cương; Tổ sư hệt như vĩa quặng: thô ráp tuyệt đối , không có một sự đánh bóng. Và đó là cái đẹp của ông ấy. Đức Phật có cái đẹp rất nữ tính, lịch sự, mảnh mai. Còn Tổ sư Bồ đề đạt ma có cái đẹp riêng . Cái đẹp của một tảng đá – mạnh mẽ, nam tính, không thể phá huỷ được, cái đẹp của một sức mạnh lớn lao.

          Đức Phật tỏa sức mạnh, nhưng sức mạnh của Đức Phật rất im lặng, như tiếng thì thào, như làn gió mát. Còn Tổ sư Bồ đề đạt ma là cơn bão, sấm rền và chớp giật. Đức Phật đến cửa nhà bạn nhẹ nhàng không một tiếng động, bạn thậm chí sẽ không nghe thấy tiếng bước chân của ông ấy. Còn Tổ sư Bồ đề đạt ma, khi ông ấy đến nhà bạn, ông ấy sẽ làm rung chuyển cả ngôi nhà từ tận móng của nó. Đức Phật sẽ không lay bạn dậy ngay cả khi bạn đang ngủ. Còn Tổ sư Bồ đề đạt ma? Ông ấy sẽ dựng bạn dậy từ trong nấm mồ! Ông ấy đánh mạnh, ông ấy là chiếc búa.

          Tổ sư là chính cái đối lập của Đức Phật trong cách diễn đạt, nhưng thông điệp của ông ấy với Đức Phật là một. Tổ sư cúi mình trước Đức Phật là thầy của mình. Tổ sư chưa bao giờ nói “Đây là thông điệp của ta”. Tổ sư đơn giản nói:-Điều này thuộc về chư phật, chư phật cổ đại. Ta chỉ là sứ giả. Không cái gì là của ta, bởi vì ta không có. Ta như cây trúc hồng được chư phật chọn để làm chiếc sáo cho họ. Họ hát: ta đơn giản để cho họ hát qua ta.

          PHÁP TRẦN, QUAY ĐẦU LÀ BỜ
          Thích Thanh Từ (Sư Ông Trúc Lâm)

          Trong nhà thiền thường nói, khi ngộ đạo rồi mắt thấy như mù, tai nghe như điếc. Như mù nhưng không phải mù, như điếc nhưng không phải điếc. Giả sử chúng ta đi chợ, nghe người ta xôn xao đủ thứ, nhưng mình không dính, không chú ý. Khi về người nhà hỏi: “Bữa nay đi chợ thấy cái gì?” Mình nói: “Không thấy gì hết”. Nhưng sự thật mình có thấy không? Có thấy nhưng không dính thành ra như không thấy. Còn nếu ta để tâm vào việc gì thì khi được hỏi, mình liền trả lời: “Thấy thế này, thế kia”. Đó là ta đã tích lũy vào pháp trần trong tâm rồi.

          Cho nên việc tu có nhiều điểm rất hay mà chúng ta không biết. Như ra đường bị ai nói xúc phạm tới danh dự mình, về nhà ít nhất ta cũng kể lại với người thân nghe. Kể một người nghe mình cũng chưa vừa lòng, phải kể cho người này người kia nghe chừng một trăm lần, như vậy mình đã thuộc lòng trong ký ức sâu quá rồi. Vì vậy khi ngồi thiền nó trồi lên, bỏ được một lát nó trồi lên nữa. Đó là vì chúng ta đã ghi nhớ quá sâu đậm.

          Giống như lúc còn bé đi học, mỗi khi muốn thuộc bài, mình phải đọc tới đọc lui nhiều lần mới thuộc. Đem vô sâu là do ôn tới ôn lui nhiều lần. Lỡ nhớ rồi, khi muốn quên cũng phải tập bỏ thường xuyên mới quên được, không có cách nào khác hơn. Vậy mà vừa có chuyện buồn, chuyện giận là chúng ta đem ra kể liền. Gặp ai kể nấy, kể hoài như vậy quên sao được. Khi ngồi thiền nó trồi lên lại than: “Khổ quá! Con tu khó”. Khó là tại ai? Tại mình chứ tại ai, tích lũy nhiều thì nó trồi lên nhiều.

          Bây giờ chúng ta thấy chỉ thấy, không thèm quan tâm chú ý gì cả. Thấy tất cả mà tâm không giữ, không dính thì tu dễ không khó. Nếu tu là tìm cái gì ở đâu xa thì khó, đằng này nó đã sẵn nơi mình rồi, chỉ quay lại là hiện tiền. Chúng ta không thấy được cái chân thật là do pháp trần đầy cứng bên trong, nên quay lại thấy toàn tạp nhạp.

          Những giờ ngồi thiền là những giờ quay lại, mình thấy pháp trần lăng xăng lộn xộn nên nói thấy loạn tưởng nhiều quá. Thấy loạn tưởng nhiều là tu tiến nhiều. Vì ngày xưa, mỗi khi chúng dấy lên mình chạy theo nên không thấy chúng, bây giờ chúng dấy lên mình biết liền bỏ, đó là tu tiến. Tuy nó còn nhưng mình đã làm chủ được chút chút. Hồi xưa nó dẫn mình chạy theo hoàn toàn, bây giờ nó trồi lên mình từ chối không theo, đó là tiến rõ ràng. Nhưng nhiều khi Phật tử thấy nó rồi sợ, tu gì mà vọng tưởng quá chừng. Sự thật có tiến, tiến từng bước, chứ không phải không tiến.

          Bước tiến tiếp theo là ngoài giờ ngồi thiền, khi tiếp xúc với mọi cảnh mọi vật, chúng ta thấy biết rõ ràng nhưng bỏ qua, không chú tâm, đó là ta tu trong mọi lúc mọi nơi. Không phải tay lần chuỗi, thân tọa thiền mới tu. Lần chuỗi tọa thiền mà ai động tới liền la hét là không phải tu. Người không tỏ vẻ tu hành gì hết, nhưng đi đứng tự nhiên thoải mái, ai nói gì thì nói, bỏ qua không để lòng, ấy mới thật là chân tu.

          Nhiều khi chúng ta như điên khùng với nhau. Thí dụ mình tưởng mình thông minh, sáng suốt, nhưng ai vừa nói “Chị ngu quá!”, mình liền la đông đổng lên, để nói rằng ta không ngu. Nhưng thật ra như vậy là đã chứng tỏ mình đang ngu. Nếu không ngu, ta chỉ cười, nói: “Phải, tôi ngu” Nói vậy còn gì nữa để la, thì đâu có khổ. Vậy mà ai nói mình ngu liền cự lộn, rồi đủ thứ chuyện thưa kiện … có khổ không? Thế là cả hai đàng đều khùng điên với nhau hết.

          Những chuyện hết sức nhỏ như vậy, nhưng mình không biết tu, nên cứ tích lũy trong tâm thành ra sanh bệnh. Bây giờ muốn bỏ, chúng ta phải gỡ lần những thứ đó, từ từ ngồi thiền sẽ được nhẹ nhàng yên ổn. Ai nói gì mình cũng cười. Đức Phật ngày xưa bị Bà la môn theo sau mắng chửi, Ngài im lặng không nói, không nhận, thế mà Bà la môn phải chịu phép, không dám mắng chửi nữa, khỏe khoắn làm sao.

          Phật là bậc giác ngộ nên thấy người mê Ngài thương, không phản đối, không chống cự gì cả nhưng lại nhiếp phục được họ. Còn chúng ta bây giờ nghe nói một câu không vừa lòng liền phản đối, chống cự, rốt cuộc càng thêm lớn chuyện. Như vậy ta cùng những người mê kia, không hơn không kém, phải không? Mình là người tỉnh thì phải hơn kẻ mê. Họ nói bậy mình chỉ cười thôi thì không xảy ra chuyện gì hết. Như vậy có khỏe không ?

          Cho nên người biết tu xả bỏ hết những gì không quan trọng. Quan trọng là đừng để sáu trần lôi dẫn đi, phải quay về với cái chân thật của chính mình. Cái chân thật ấy ai cũng có nhưng vì vọng tưởng che lấp nên mình không nhận ra. Cho nên Thiền sư Nam Tuyền Phổ Nguyện nói, người tu thiền như con ngỗng chúa uống sữa chừa nước lại. Câu nói nghe muốn bể cả đầu! Làm sao mà uống sữa chừa nước được? Hai thứ ấy hòa lẫn nhau, lọc thế nào ?

          Những câu như vậy, tôi cũng mất nhiều năm lắm mới thấy rõ ý nghĩa của nó. Cái gì là sữa?. Cái gì là nước ? Vọng tâm và chân tâm nơi mình hòa lẫn nhau, không phải một cũng không phải hai. Vậy làm sao để lọc chân tâm ra khỏi vọng tâm? Ở đây, chúng ta chỉ cần khéo một chút là thấy liền. Cái biết trong sáng hiện tiền đó là sữa, còn cái biết lăng xăng lộn xộn là nước. Cái biết lăng xăng lộn xộn thì chúng ta không theo, chỉ sống với cái biết yên tĩnh, trong sáng. Đó là mình đã loại nước, uống sữa. Được thế ta là ngỗng chúa.

          Những giây phút yên tĩnh, chúng ta ngồi chơi không nghĩ gì hết. Lúc đó tai vẫn nghe, mắt vẫn thấy mà không nghĩ suy điều chi. Như vậy cái biết đó mình đã có sẵn, nhưng vừa dấy nghĩ cái này cái nọ liền quên mất cái biết hằng hữu. Bây giờ chỉ cần không chạy theo các thứ xao động thì nó hiện tiền. Nếu chúng ta đừng đuổi theo những gì mắt thấy, tai nghe, mũi ngửi, lưỡi nếm … ăn cứ ăn uống cứ uống, làm tất cả việc mà đừng dính, nếu không phải Phật thì ít nhất mình cũng là Bồ tát con rồi.

          Vì vậy không dính với sáu trần là biết quay đầu, còn dính với sáu trần là đã lao đi trong sanh tử, không có gì khó khăn hết. Trong nhà thiền có câu chuyện của anh hàng thịt, khi nghe một câu nói của vị Thiền sư, liền tỉnh ngộ và làm bài kệ:
          Tạc nhật dạ xoa tâm
          Kim triêu Bồ tát diện
          Dạ xoa dữ Bồ tát
          Bất cách nhất điều tuyến.
          Dịch:
          Hôm qua tâm dạ xoa
          Bữa nay mặt Bồ tát
          Dạ xoa và Bồ tát
          Không cách một đường tơ.

          Bồ tát và Dạ xoa chỉ cách nhau ở một cái nhìn. Nhìn ra là mê, xoay lại là giác, dễ như trở bàn tay, không có gì ngăn cản hết. Vậy mà chúng ta làm không nổi, cứ ì ạch hoài. Thiền đặc biệt ở chỗ đó, nhưng vẫn phù hợp với những gì Phật dạy ngày xưa. Tôi sẽ dẫn kinh để chứng tỏ điều này.

          Trong kinh A Hàm kể lại, một hôm, sau thời tọa thiền trong rừng, Đức Phật xả thiền ngồi chơi tự tại. Chợt Ngài thấy có một con rùa bò về phía mình, phía sau con dã can đuổi theo định cắn đuôi con rùa, con rùa liền rút đuôi vào trong mai. Dã can chụp lấy chân, con rùa liền rút chân vào trong mai. Cứ như vậy dã can chụp cắn tứ tung, rùa cũng rút hết các bộ phận vào trong mai. Con dã can chụp hoài không được bèn bỏ đi.

          Kết thúc câu chuyện, Phật nói: “Người tu cũng thế, nếu biết giữ sáu căn không cho chạy theo sáu trần thì không có ma vương nào bắt được”. Còn nếu chạy theo sáu trần bị nó cắn đứt đầu đứt cổ. Chuyện thật là hay.

          Thêm một câu chuyện nữa. Phật kể trong một đàn khỉ, có con khỉ nhỏ đi sau đàn thấy mấy con lớn đi trước ăn nhiều trái cây ngon, còn mình thiệt thòi quá. Nó bèn tách đàn, đi một mình để được ăn ngon. Khi thấy miếng mồi ngon, nó liền đưa tay chụp, không ngờ đó là cái bẫy nhựa, nên tay nó bị dính nhựa. Nó liền đưa tay kia gỡ nên tay kia bị dính luôn. Con khỉ liền lấy chân phải quào, chân phải dính; lấy chân trái quào, chân dính luôn. Nó quật cái đuôi để gỡ, đuôi cũng dính. Cuối cùng còn cái miệng, nó liền đưa miệng cạp, thế là miệng dính luôn. Như vậy tổng cộng sáu bộ phận đều dính nhựa hết. Gã thợ săn chỉ cần tới lượm con khỉ bỏ vô giỏ là xong.

          Phật nói: “Cũng vậy, nếu người nào sáu căn dính với sáu trần, cũng như con khỉ kia để sáu bộ phận dính với nhựa, người đó sẽ bị ma vương dẫn đi dễ dàng, không nghi ngờ”. Như vậy Phật dạy chúng ta tu như thế nào? Là giữ sáu căn đừng cho dính mắc với sáu trần. Đây là một lẽ thật chứ không phải tưởng tượng. Đó là tôi đã dẫn trong kinh A Hàm.

          Đến kinh Kim Cang, Lục Tổ ngộ được từ câu: “Bất ưng trụ sắc sanh tâm, bất ưng trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp sanh tâm; ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”, tức là không dính mắc vào các trần mà sanh tâm Bồ đề. Tâm Bồ đề là tâm thanh tịnh, không dính mắc thì tâm Bồ đề hiện tiền. Còn dấy niệm là tâm sanh diệt. Sau khi ngộ rồi, Lục Tổ thốt lên: “Đâu ngờ tâm mình xưa nay thanh tịnh!. Vì thanh tịnh nên không sanh diệt, còn loạn tưởng là tâm sanh diệt. Ngay đó Ngũ Tổ truyền tâm ấn và trao y bát cho ngài.

          Sự tu chẳng có gì lạ hết. Phật Tổ không hai đường, chỉ vì phương tiện truyền bá khác nhau thôi. Thấy như vậy, hiểu như vậy, chúng ta mới nhận ra việc tu không phải chuyện quanh co, khó khăn, mà trái lại rất đơn giản. Ngài Lâm Tế nói: “Đâu ngờ Phật pháp của Hoàng Bá rất ít”, nghĩa là rất đơn giản. Cho nên trọng tâm của việc tu là nghe và hiểu được ý Phật dạy, rồi ứng dụng thực hành. Đó mới là người biết tu.

          Thơ Thiền Thích Nhất Hạnh
          CẦU HIỂU, CẦU THƯƠNG
          Thích Nhất Hạnh (Sư Ông Làng Mai)


          Lắng lòng nghe tiếng gọi quê hương
          Sông núi trông ra đẹp lạ thường
          Về tới quê xưa tìm gốc cũ
          Qua rồi cầu Hiểu, tới cầu Thương.

          Tôi (Hoàng Kim:) nghe nói ‘ đạo Phật dấn thân’ “Có một đạọ Phật như thế” (lời Bùi Tín) với Làng Mai của thiền sư Thích Nhất Hạnh có những điểm dị biệt nên chính quyền hai phía xưa và nay chưa thực lòng ủng hộ. Tôi không chấp nhân Bùi Tín và các vị mưu toan ‘li tâm’ xa rời đường sống của dân tộc, nhưng dẫu vậy sự thực hành các thức chánh niệm: ”Từng bước chân thảnh thơi”, ”An lạc ngay lúc này”, ”Vui với từng hơi thở”, ”Bụt ở ngay trong ta” “
          Thơ thiền Thích Nhất Hạnh” là những tuyệt phẩm Phật học thật đáng đọc lại và suy ngẫm.

          Biển Hồ Chùa Bửu Minh

          VỀ TRONG TỊCH LẶNG
          Thích Giác Tâm

          Ta rất muốn đi về trong tịch lặng.
          Quẳng lại sau lưng nhân thế muộn phiền
          Lòng thao thức Đạo Đời luôn vướng nặng
          Mũ ni che tai, tâm lại hóa bình yên.

          Đời chộn rộn sao còn theo chộn rộn?
          Đạo hưng suy ta mất ngủ bao lần.
          Đời giả huyễn thịnh suy luôn bề bộn.
          Đạo mất còn ta cứ mãi trầm ngâm.

          Vai này gánh cho vai kia nhẹ bớt .
          Tìm tri âm ta nặng bước âm thầm.
          Sợi tóc bạc trên đầu còn non nớt.
          Tháng năm nào ta thấy lại nguồn tâm?

          ĐỐI THOẠI VỚI THIỀN SƯ
          Hoàng Kim

          cảm ơn bài viết hay TẢN MẠN CÀ PHÊ PHỐ NÚI của Thượng tọa Thích Giác Tâm, xin phép được chia sẻ, bảo tồn và phát triển: Ảnh đẹp thanh khiết sang trọng, lãng đãng giữa tối sáng ban mai Biển Hồ. Văn chương tiếng nhạc trong lành, ngân nga trong đất trời bình minh Phố Núi. Thật hạnh phúc, an nhiên, thư thái. Ta về còn trọn niềm tin . xem tiếp
          https://hoangkimlong.wordpress.com/category/doi-thoai-voi-thien-su/

          ĐÊM VU LAN
          Hoàng Kim

          Chẳng thể nào ngủ được đêm nay
          Đêm Vu Lan mờ tỏ
          Trăng rằm khuya lồng lộng giữa trời
          Thăm thẳm một lời Người nói …

          Mẹ cũ như ngôi nhà cũ
          Chiếc áo mẹ mang bạc phếch tháng năm
          Cha cũ như con thuyền cũ
          Dòng sông quê hương thao thiết đời con

          Anh chị cũ tình vẹn nghĩa
          Trọn đời thương nhau lồng lộng
          trăng rằm
          Em tôi hồn quê dáng cũ
          Con cháu niềm vui thương thảo tháng năm.

          Thầy bạn lộc xuân đầy đặn
          Bài ca thời gian ngời ngợi trăng rằm.

          Thắp đèn lên đi em

          Đêm Vu Lan gặp bạn
          Thương nhớ bài thơ cũ
          Chuyện đời không nỡ quên …

          Ngày mới và đêm Vu Lan
          Vầng trăng Sao Hôm
          Sao Kim thân thiết.
          Loanh quanh tìm tòi cái mới
          Đêm Vu Lan thức về lại chính mình.

          Đêm Vu Lan nhớ mùa thu đi học
          Nhớ ngọn đèn mờ tỏ giấc mơ xưa
          Thương con vạc gọi sao mai mọc sớm
          Vầng trăng khuya thăm thẳm giữa tâm hồn

          Thắp đèn lên đi em (1)
          Gốc mai vàng trước ngõ (2)
          Tháng bảy mưa ngâu (3)
          Đến chốn thung dung (4)

          Đối thoại với Thiền sư (5)
          Giấc mơ lành yêu thương (6)
          Đêm Vu LanThơ về Mẹ (7)
          Hoa Đất (8) Hoa Người (9)

          Đêm Vu Lan nhớ bài thơ đi học
          Thấm nhọc nhằn củ sắn củ khoai
          Nhớ tay chị gối đầu khi mẹ mXem tiếp >>

            Dạy và học 15 tháng 8(15-08-2021)

          DẠY VÀ HỌC 15 THÁNG 8
          Hoàng Kim
          CNM365 Tình yêu cuộc sốngViệt Nam con đường xanh; Sự chậm rãi minh triết; Sự thật tốt hơn ngàn lời nói; Địa chỉ xanh Ấn Độ; Đêm Vu Lan; Liên kết nông thôn mới; Taj Mahal, Uttar Pradesh một trong số 37 Di sản thế giới ở Ấn Độ theo danh sách Ủy ban Di sản thế giới UNESCO.  Ngày độc lập Ấn Độ. Ngày 15 tháng 8 năm 1947,  Ấn Độ giành lại độc lập từ Đế quốc Anh. Ngày 15 tháng 8 hàng năm là ngày Lễ Đức Mẹ Lên Trời,  ngày nghỉ lễ chính thức tại các nước Áo, Bỉ, Pháp, Hy Lạp, Ý, Malta, Ba Lan, Bồ Đào Nha, Croatia, Litva, Luxembourg, Tây Ban Nha, Thụy Sĩ (một phần), Chile, Ecuador, Liban, Sénégal.  Ngày 15 tháng 8 năm 1914 kênh đào Panama là kênh đào chính cho tàu thuyền đi qua, cắt ngang eo đất Panama tại Trung Mỹ, bắt đầu cho phép tàu thuyền qua lại, rút ngắn hải trình giữa Đại Tây Dương và Thái Bình Dương. Bài chọn lọc ngày 15 tháng 8: Việt Nam con đường xanh; Sự chậm rãi minh triết; Sự thật tốt hơn ngàn lời nói; Địa chỉ xanh Ấn Độ; Liên kết nông thôn mới; Đêm Vu Lan; Cây Lương thực Việt Nam; Walter Scott bút hơn gươm; Suy tư sông Dương Tử, Chuyện cổ tích người lớn; Ân tình đất phương Nam; Học không bao giờ muộn; Sơn Nam ông già Nam Bộ; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-15-thang-8

          Việt Nam con đường xanh

          VIỆT NAM CON ĐƯỜNG XANH
          Vietnam Green Road
          Hoàng
          Kim
          Bình Minh An Ngày Mới
          Suy tư sông Dương Tử
          Trung Quốc một suy ngẫm
          Việt Nam con đường xanh

          SARD COVID 2 với Animal Virus, CMD Cassava Virus đều có cùng một nguyên lý giải pháp phòng trừ là: cách ly tiêu hủy virus + sử dụng giống kháng/ gen kháng, căn cứ vào lý luận và thực tiễn về tính kháng của hệ gen với sử dụng kháng nguyên kháng thể thích hợp. Nano Covax cho người Việt và sắn KM568, KM535, KM419, KM440, KM98-1 đều tuân theo nguyên lý này, và là bài học kinh nghiệm quý của Việt Nam trên con người và cho cây sắn Việt Nam. Chọn giống sắn kháng CMD. Sự thật tốt hơn ngàn lời nói. https://hoangkimlong.wordpress.com/category/chon-giong-san-khang-cmd/

          CÂY LƯƠNG THỰC VIỆT NAM
          Hoàng Kim, Hoàng Long (chủ biên) và đồng sự
          http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlong

          Bài viết mới (đọc thêm, ngoài giáo trình, bài giảng)

          Cách mạng sắn Việt Nam
          Chọn giống sắn Việt Nam
          Chọn giống sắn kháng CMD
          Giống sắn KM419 và KM440
          Mười kỹ thuật thâm canh sắn
          Sắn Việt bảo tồn phát triển
          Sắn Việt Lúa Siêu Xanh
          Sắn Việt Nam bài học quý
          Sắn Việt Nam sách chọn
          Sắn Việt Nam và Howeler
          Sắn Việt Nam và Kawano
          Sắn Việt và Sắn Thái
          Quản lý bền vững sắn châu Á
          Cassava and Vietnam: Now and Then

          Lúa siêu xanh Việt Nam
          Giống lúa siêu xanh GSR65
          Giống lúa siêu xanh GSR90
          Gạo Việt và thương hiệu
          Hồ Quang Cua gạo ST
          Cơm Niêu Vàng Gạo Đông A
          Con đường lúa gạo Việt
          Chuyện cô Trâm lúa lai
          Chuyện thầy Hoan lúa lai
          Lúa C4 và lúa cao cây
          Lúa sắn Cămpuchia và Lào
          Lúa sắn Việt Châu Phi
          Lúa Việt tới Châu Mỹ

          Giống ngô lai VN 25-99
          Giống lạc HL25 Việt Ấn


          Giống khoai lang Việt Nam
          Giống khoai lang HL518
          Giống khoai lang HL491
          Giống khoai Hoàng Long
          Giống khoai lang HL4
          Giống khoai Bí Đà Lạt

          Việt Nam con đường xanh
          Việt Nam tổ quốc tôi
          Vườn Quốc gia Việt Nam
          Nông nghiệp công nghệ cao
          Nông nghiệp sinh thái Việt
          Nông nghiệp Việt trăm năm
          IAS đường tới trăm năm
          Viện Lúa Sao Thần Nông
          Hoàng Thành đến Trúc Lâm
          Ngày Hạnh Phúc của em
          Có một ngày như thế

          Thầy bạn là lộc xuân
          Thầy bạn trong đời tôi
          Trường tôi nôi yêu thương
          IAS đường tới trăm năm
          Sóc Trăng Lương Định Của
          Thầy lúa Bùi Bá Bổng
          Thầy Quyền thâm canh lúa
          Thầy nghề nông chiến sĩ
          Thầy Norman Borlaug
          Thầy Luật lúa OMCS OM
          Thầy Tuấn kinh tế hộ
          Thầy Tuấn trong lòng tôi
          Thầy Vũ trong lòng tôi
          Thầy lúa xuân Việt Nam
          Thầy Ngoạn Hồ Núi Cốc
          Thầy bạn Vĩ Dạ xưa
          Thầy là nắng tháng Ba
          Thầy Dương Thanh Liêm
          Thầy Hiếu Đêm Giáng Sinh
          Thầy Nguyễn Hoàng Phương
          Thầy Nguyễn Lân Dũng
          Thầy nhạc Trần Văn Khê
          Thầy ơi
          Thắp đèn lên đi em
          Thầy Tuệ Trung Thượng Sĩ
          Ngày xuân đọc Trạng Trình
          Nguyễn Du trăng huyền thoại
          Lê Quý Đôn tinh hoa
          Trần Công Khanh ngày mới
          Phạm Trung Nghĩa Viện Lúa
          Phạm Quang Khánh Hoa Đất
          Phạm Văn Bên Cỏ May

          24 tiết khí nông lịch
          Nông lịch tiết Lập Xuân
          Nông lịch tiết Vũ Thủy
          Nông lịch tiết
          Kinh Trập
          Nông lịch tiết Xuân Phân
          Nông lịch tiết Thanh Minh
          Nông lịch tiết Cốc vũ
          Nông lịch tiết Lập Hạ
          Nông lịch tiết Tiểu Mãn
          Nông lịch tiết Mang Chủng
          Nông lịch tiết Hạ Chí
          Nông lịch tiết Tiểu Thử
          Nông lịch tiết Đại Thử
          Nông lịch tiết Lập Thu
          Nông lịch tiết
          Xử Thử
          Nông lịch tiết
          Bạch Lộ
          Nông lịch tiết
          Thu Phân
          Nông lịch tiết
          Hàn Lộ
          Nông lịch tiết
          Sương Giáng
          Nông lịch tiết Lập Đông
          Nông lịch tiết Tiểu tuyết
          Nông lịch tiết Đại tuyết
          Nông lịch tiết giữa Đông
          Nông lịch Tiết Tiểu Hàn
          Nông lịch tiết Đại Hàn

          Nhà sách Hoàng Gia

          Video yêu thích chọn lọc :

          Cây Lương thực Việt NamChuyển đổi số nông nghiệp, Học không bao giờ muộnCách mạng sắn Việt Namhttps://youtu.be/81aJ5-cGp28; Mười kỹ thuật thâm canh sắn : Cassava in Vietnam Save and Grow 1Daklak; Cassava in Vietnam: Save and Grow 2Daklak; Cassava in Vietnam: Save and Grow 3Daklak; Giống sắn KM410 và KM440 ở Phú Yên https://youtu.be/XDM6i8vLHcI; Giống sắn KM419, KM440 ở Đăk Lăk https://youtu.be/EVz0lIJv2N4; Giống sắn KM419, KM440 ở Tây Ninh https://youtu.be/XMHEa-KewEk; https://youtu.be/kjWwyW0hkbU; https://youtu.be/9mZHm08MskE; Trồng sắn KM419, KM98-5, KM98-1 ở Cappuchia https://youtu.be/TpTIxv9LaFQ; Trồng khoai lang ở Hàn Quốc https://youtu.be/J_6xW3j47Sw ; Trồng lúa đặc sản ở Trung Quốc https://youtu.be/rJSZfrJFluw; Trồng khoai lang tím ở Trung Quốc https://youtu.be/0CHOG3r64xs; Làm măng ngọt giá cao ở Trung Quốc https://youtu.be/i1oFFqFMlvI; Phim tài liệu NƯỚC TRỜI VTV1 https://vtv.vn/video/phim-tai-lieu-nuoc-troi-508247.htm; Nông nghiệp CHỦ ĐỘNG VƯỢT KHÓ https://vtv.vn/video/toa-dam-chu-dong-vuot-kho-503919.htm Tích hợp mạnh mẽ cố gắng: Chủ động phối hợp tìm giống mì kháng bệnh khảm lá | NÔNG NGHIỆP TÂY NINH | TayNinhTV https://youtu.be/TM1cXzqJF1Ehttps://youtu.be/TM1cXzqJF1E

          *
          Việt Nam con đường xanh
          NÔNG NGHIỆP CÔNG NGHỆ CAO
          Hoàng Long, Nguyễn Văn Phu,
          Nguyễn Thị Trúc Mai, Hoàng Kim
          thu thập, tuyển chọn, đúc kết thông tin, tích hợp và giới thiệu

          Mục đích sau cùng của DẠY VÀ HỌC là thấu suốt bản chất sự vật, có lời giải đúng và LÀM được việc. “
          Việt Nam con đường xanh ” và ” Nông nghiệp công nghệ cao” là chuyên mục thông tin địa chỉ xanh tin cậy của bạn đọc, có trên các trang http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://hoangkimlong.wordpress.com/category/nong-nghiep-cong-nghe-cao/https://hoangkimlong.wordpress.com/category/viet-nam-con-duong-xanh/; và https://www.csruniversal.org/viet-nam-con-duong-xanh/. Ứng dụng công nghệ nâng cao chuỗi giá trị nông nghiệp (Technological application enhances agriculture value chain), là chủ đề được Phó Giáo sư Tiến sĩ Đào Thế Anh, Phó Viện trưởng Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam, giới thiệu tại diễn đàn MALICA (Markets and Agriculture Linkages for Cities in Asia Kết nối Thị trường và Nông nghiệp các thành phố châu Á) và VTV4 https://vtv.vn/video/bizline-15-3-2020-427424.htm.

          Việt Nam con đường xanh, Nông nghiệp công nghệ cao bài viết kỳ này giới thiệu Định hướng chiến lược quốc gia, phương hướng nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế xã hội 2021-2030 (* Đảng Cộng Sản Việt Nam 2020, Dự thảo các văn kiện trình đại hội Đảng XIII của Đảng) xác định 10 giải pháp cơ bản; 5 nhóm hệ thống giải pháp chính để đảm bảo phát huy hiệu quả giá trị của khối 13 sản phẩm chủ lực nông nghiệp Việt Nam nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân lao động. Ba trụ cột cốt lõi của một quốc gia là cân đối hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế, bảo vệ môi trường và thực hiện tiến bộ công bằng xã hội.theo kết luận của Hội nghị thượng đỉnh toàn cầu về Phát triển bền vững tại Cộng hòa Nam Phi năm 2002 với Định hướng và tầm nhìn Việt Nam con đường xanh. Năm bài viết chọn lọc, gồm: 1) Nông nghiệp hữu cơ hiện trạng và giải pháp nghiên cứu phát triển của tác giả PGS..TS Nguyễn Văn Bộ, TS Ngô Doãn Đảm 2) Đào tạo nguồn nhân lực và nghiên cứu khoa học ứng dụng phục vụ phát triển nông nghiệp công nghệ cao và công nghệ thực phẩm tại Trường Đại học Văn Lang” của tác giả PGS.TS Phan Phước Hiền và TS Châu Tấn Phát, 3) “Nghiên cừu ứng dụng công nghệ sinh học cho phát triển nông nghiệp công nghệ cao” của PGS.TS. Dương Hoa Xô, Trung Tâm Công nghệ Sinh học TP. HCM; 4) Một số thông tin chọn lọc điểm sáng nông nghiệp nông dân nông thôn nông nghiệp công nghệ cao; 5) Chọn giống sắn kháng CMD hiện trạng và triển vọng

          Nông nghiệp công nghệ cao liên kết chuỗi thông tin chuyên đề tại các đường link Việt Nam con đường xanh; Nông nghiệp sinh thái Việt; Nông nghiệp Việt trăm năm; Viện Lúa Sao Thần Nông; IAS đường tới trăm năm; Trường tôi nôi yêu thương; Chọn giống sắn kháng CMD; Giống sắn KM419 và KM440; Cách mạng sắn Việt Nam; Chọn giống sắn Việt Nam; Mười kỹ thuật thâm canh sắn; Quản lý bền vững sắn châu Á; Cassava and Vietnam: Now and Then; Lúa siêu xanh Việt Nam; Gạo Việt và thương hiệu; Xem tiếp >>

            Dạy và học 14 tháng 8(14-08-2021)

           

           

          DẠY VÀ HỌC 14 THÁNG 8
          Hoàng Kim
          CNM365 Tình yêu cuộc sốngCây Lương thực Việt Nam; Walter Scott bút hơn gươm; Suy tư sông Dương Tử, Chuyện cổ tích người lớn; Ân tình đất phương Nam; Học không bao giờ muộn; Sơn Nam ông già Nam Bộ; Ngày 14 tháng 8 năm 1771 là ngày sinh Walter Scott, nhà thơ trữ tình nổi tiếng người Scotland (mất năm 1832) với kiệt tác “Cánh đồng Waterloo’ (The Field of Waterloo) lan truyền rộng khắp thế giới, chinh phục lòng người qua nhiều thế hệ.  Ngày 14 tháng 8 năm 1947 là Ngày Độc lập tại Pakistan. Ngày 14 tháng 8 năm1848 , Quốc hội Hoa Kỳ thông qua đạo luật thành lập chính quyền Lãnh thổ Oregon. Ngày 14 tháng 8 năm 1900, Liên quân tám nước tổng công kích kinh đô Bắc Kinh của triều Thanh nhằm dập tắt phong trào Nghĩa Hòa Đoàn, Hoàng đế Quang Tự, người chủ trương thực hiện chính pháp Mậu Tuất (1898) phải chạy trốn. Bài chọn lọc ngày 14 tháng 8: Cây Lương thực Việt Nam;  Walter Scott bút hơn gươm; Suy tư sông Dương Tử, Chuyện cổ tích người lớn; Ân tình đất phương Nam; Học không bao giờ muộn; Sơn Nam ông già Nam Bộ; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-14-thang-8;

           

           

          CÂY LƯƠNG THỰC VIỆT NAM
          Hoàng Kim, Hoàng Long (chủ biên) và đồng sự
          http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlong

          Bài viết mới (đọc thêm, ngoài giáo trình, bài giảng)

          Cách mạng sắn Việt Nam
          Chọn giống sắn Việt Nam
          Chọn giống sắn kháng CMD
          Giống sắn KM419 và KM440
          Mười kỹ thuật thâm canh sắn
          Sắn Việt bảo tồn phát triển
          Sắn Việt Lúa Siêu Xanh
          Sắn Việt Nam bài học quý
          Sắn Việt Nam sách chọn
          Sắn Việt Nam và Howeler
          Sắn Việt Nam và Kawano
          Sắn Việt và Sắn Thái
          Quản lý bền vững sắn châu Á
          Cassava and Vietnam: Now and Then

          Lúa siêu xanh Việt Nam
          Giống lúa siêu xanh GSR65
          Giống lúa siêu xanh GSR90
          Gạo Việt và thương hiệu
          Hồ Quang Cua gạo ST
          Cơm Niêu Vàng Gạo Đông A
          Con đường lúa gạo Việt
          Chuyện cô Trâm lúa lai
          Chuyện thầy Hoan lúa lai
          Lúa C4 và lúa cao cây
          Lúa sắn Cămpuchia và Lào
          Lúa sắn Việt Châu Phi
          Lúa Việt tới Châu Mỹ

          Giống ngô lai VN 25-99
          Giống lạc HL25 Việt Ấn


          Giống khoai lang Việt Nam
          Giống khoai lang HL518
          Giống khoai lang HL491
          Giống khoai Hoàng Long
          Giống khoai lang HL4
          Giống khoai Bí Đà Lạt

          Việt Nam con đường xanh
          Việt Nam tổ quốc tôi
          Vườn Quốc gia Việt Nam
          Nông nghiệp công nghệ cao
          Nông nghiệp sinh thái Việt
          Nông nghiệp Việt trăm năm
          IAS đường tới trăm năm
          Viện Lúa Sao Thần Nông
          Hoàng Thành đến Trúc Lâm
          Ngày Hạnh Phúc của em
          Có một ngày như thế

          Thầy bạn là lộc xuân
          Thầy bạn trong đời tôi
          Trường tôi nôi yêu thương
          IAS đường tới trăm năm
          Sóc Trăng Lương Định Của
          Thầy lúa Bùi Bá Bổng
          Thầy Quyền thâm canh lúa
          Thầy nghề nông chiến sĩ
          Thầy Norman Borlaug
          Thầy Luật lúa OMCS OM
          Thầy Tuấn kinh tế hộ
          Thầy Tuấn trong lòng tôi
          Thầy Vũ trong lòng tôi
          Thầy lúa xuân Việt Nam
          Thầy Ngoạn Hồ Núi Cốc
          Thầy bạn Vĩ Dạ xưa
          Thầy là nắng tháng Ba
          Thầy Dương Thanh Liêm
          Thầy Hiếu Đêm Giáng Sinh
          Thầy Nguyễn Hoàng Phương
          Thầy Nguyễn Lân Dũng
          Thầy nhạc Trần Văn Khê
          Thầy ơi
          Thắp đèn lên đi em
          Thầy Tuệ Trung Thượng Sĩ
          Ngày xuân đọc Trạng Trình
          Nguyễn Du trăng huyền thoại
          Lê Quý Đôn tinh hoa
          Trần Công Khanh ngày mới
          Phạm Trung Nghĩa Viện Lúa
          Phạm Quang Khánh Hoa Đất
          Phạm Văn Bên Cỏ May

          24 tiết khí nông lịch
          Nông lịch tiết Lập Xuân
          Nông lịch tiết Vũ Thủy
          Nông lịch tiết
          Kinh Trập
          Nông lịch tiết Xuân Phân
          Nông lịch tiết Thanh Minh
          Nông lịch tiết Cốc vũ
          Nông lịch tiết Lập Hạ
          Nông lịch tiết
          Tiểu Mãn
          Nông lịch tiết
          Mang Chủng
          Nông lịch tiết Hạ Chí
          Nông lịch tiết
          Tiểu Thử
          Nông lịch tiết
          Đại Thử
          Nông lịch tiết Lập Thu
          Nông lịch tiết
          Xử Thử
          Nông lịch tiết
          Bạch Lộ
          Nông lịch tiết
          Thu Phân
          Nông lịch tiết
          Hàn Lộ
          Nông lịch tiết
          Sương Giáng
          Nông lịch tiết Lập Đông
          Nông lịch tiết Tiểu tuyết
          Nông lịch tiết Đại tuyết
          Nông lịch tiết giữa Đông
          Nông lịch Tiết Tiểu Hàn
          Nông lịch tiết Đại Hàn

          Nhà sách Hoàng Giahttps://nhasachhoanggia.blogspot.com

          Video tài liệu tham khảo chọn lọc :

          Cây Lương thực Việt NamChuyển đổi số nông nghiệp, Học không bao giờ muộnCách mạng sắn Việt Namhttps://youtu.be/81aJ5-cGp28; Mười kỹ thuật thâm canh sắn : Cassava in Vietnam Save and Grow 1Daklak; Cassava in Vietnam: Save and Grow 2Daklak; Cassava in Vietnam: Save and Grow 3Daklak; Giống sắn KM410 và KM440 ở Phú Yên https://youtu.be/XDM6i8vLHcI; Giống sắn KM419, KM440 ở Đăk Lăk https://youtu.be/EVz0lIJv2N4; Giống sắn KM419, KM440 ở Tây Ninh https://youtu.be/XMHEa-KewEk; https://youtu.be/kjWwyW0hkbU; https://youtu.be/9mZHm08MskE; Trồng sắn KM419, KM98-5, KM98-1 ở Cappuchia https://youtu.be/TpTIxv9LaFQ; Trồng khoai lang ở Hàn Quốc https://youtu.be/J_6xW3j47Sw ; Trồng lúa đặc sản ở Trung Quốc https://youtu.be/rJSZfrJFluw; Trồng khoai lang tím ở Trung Quốc https://youtu.be/0CHOG3r64xs; Làm măng ngọt giá cao ở Trung Quốc https://youtu.be/i1oFFqFMlvI;

          Bài viết liên quan (Bộ môn Cây Lương thực Rau Hoa Quả)

           

          Ong va Hoa

           

          CÂY TÁO BÀI CA THỜI GIAN
          Hoàng Kim

          William Cullen Bryant (1794-1878) nhà thơ và nhà báo Mỹ đã viết “Bài ca cây táo” rất nổi tiếng. Lời vàng của bài thơ này đã tạc cây táo vào văn chương Anh Mỹ và văn hóa nhân loại nhưng sự dịch bài thơ này sang tiếng Việt hay và chuẩn là khó đến nản lòng. Mời bạn tham gia dịch thuật. Nguyên văn bài thơ và Bài thơ này Hoàng Kim tạm dịch như dưới đây, có nguyên tác tiếng Anh:và tạm dịch ý kèm theo

          Cây táo bài ca thời gian
          William Cullen Bryant ((1794-1878) nguyên tác tiếng Anh
          Hoàng Kim tạm dịch thơ tiếng Việt

          Cây táo này của chúng ta.
          Ngọt ngào trăm suối rừng hoa xuân về.
          Gió trời tải cánh đam mê,
          Khi hương táo ngát tình quê gọi mời
          Mở toang cánh cửa đất trời
          Ong say làm mật bồi hồi bên hoa,
          Hoa em mòn mỏi đợi chờ,
          Nhánh hoa mừng trẻ mong chờ ngày sinh,
          Hoa xuân của tiết Thanh Minh
          Chúng ta trồng táo gieo lành phước duyên.

          Nguyên tác tiếng Anh

          “What plant we in this apple tree?
          Sweets for a hundred flowery springs
          To load the May-wind’s restless wings,
          When, from the orchard-row,
          he pours Its fragrance through our open doors;
          A world of blossoms for the bee,
          Flowers for the sick girl’s silent room,
          For the glad infant sprigs of bloom,
          We plant with the apple tree”

          Nguồn: Classic Quotes by William Cullen Bryant
          (1794-1878) US poet and newspaper editor
          http://www.arcamax.com/knowledge/quotes/s-14832?ezine=2&#8243;

          Tạm dịch ý:

          Cây táo này của chúng ta.
          Ngọt ngào cho trăm suối hoa xuân.
          Tải cánh bồn chồn của gió tháng năm,
          Khi các hàng táo đưa hương thơm
          qua những cánh cửa mở;
          Một thế giới của hoa cho ong,
          hoa cho phòng tĩnh lặng của cô gái mòn mỏi đợi chờ,
          nhánh hoa mừng cho trẻ sơ sinh,
          Chúng ta trồng cây táo.

           

           

          TÁO TÂY, TÁO TA VÀ TÁO TÀU

          Cây Táo trên Thế giới và Việt Nam được phân biệt Táo Tây, Táo Ta và Táo Tàu. Táo Tây có tên khoa học là Malus domestica, tiếng Anh gọi là Apple, tiếng Việt gọi là Táo Tây hoặc bôm, phiên âm từ pomme tiếng Pháp. Cây táó trong tiếng Việt là gồm cả táo tây, táo ta và táo tàu; đó là một trong những loại trái cây phổ biến nhất trên thế giới. Cây táo đã gợi cảm hứng cho Steve Jobs đặt tên Apple cho thương hiệu “Quả táo khuyết’ ngày nay trở thành thương hiệu giá trị nhất hành tinh. Cây táo cũng đã gợi cảm hứng cho William Cullen Bryant (1794-1878) là nhà thơ và nhà báo Mỹ viết “Bài ca cây táo” nổi tiếng lưu danh tại thế giới thi ca Viện Hàn Lâm Khoa học Nhận văn của Mỹ. Lời vàng của bài thơ này đã tạc cây táo vào văn chương Anh Mỹ và vào văn hóa nhân loại .

          Táo Tây Malus domestica là một loài cây thân gỗ trong họ Hoa hồng ( Rosaceae) được biết đến vì quả ngọt của nó (quả táo tây). Nó là loài được trồng rộng rãi nhất trong chi Hải đường (Malus).và là một loài cây ăn quả chủ lực của toàn thế giới.

           

           

          Cây Táo Tây có nguồn gốc ở Trung Á, nơi tổ tiên của nó là loài táo dại Tân Cương vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.

           

           

          Họ Táo (Rhamnaceae) là một họ lớn trong thực vật có hoa, chủ yếu là cây gỗ, cây bụi và một số dây leo. Họ này chứa khoảng 50-60 chi và khoảng 870-950 loài (APG II công nhận 52 chi với 925 loài [1]). Họ Rhamnaceae phân bố rộng khắp thế giới, nhưng là phổ biến hơn trong khu vực cận nhiệt đới và nhiệt đới.

           

           

          Họ Táo Rhamnaceae, có chi Prunus, tiếng Việt Nam Bộ gọi là táo, tiếng Việt Bắc Bộ gọi là mận. Hai hình minh hoa dưới đây là quả táo ta.

          Táo ta hay còn gọi là táo chua (tên khoa học Ziziphus mauritiana) là loài táo nhiều phổ biến hơn trong các loài táo ở Việt Nam, là loại cây ăn quả của vùng nhiệt đới, thuộc về họ Táo. Nó được gọi là táo chua, táo Ấn Độ, táo Điền Vân Nam,hay táo gai Vân Nam.

           

          Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là tao-ta-2.jpg

           

          Cây Táo chua có thể lớn rất nhanh thậm chí trong các khu vực khô và cao tới 12 mét và đạt tuổi thọ 25 năm. Nó có nguồn gốc ở châu Á, chủ yếu là Ấn Độ, mặc dù cũng có thể tìm thấy ở châu Phi. Một loài táo khác tên khoa học Ziziphus nummularia, cũng được gọi là táo ta.

           

          Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là tao-tau.jpg

           

          Táo Tàu trên thị trường thường hay gọi lẫn với táo Tây xanh vì vỏ quả phổ biến màu xanh (gọi là Táo xanh) và nguồn gốc địa lý mua bán loại táo xanh này chủ yếu sản xuất tại Trung Quốc Sự thật thì Táo Tàu hay đại táo hoặc hồng táo (tiếng Trung: 枣, 棗, 红枣), (tiếng Triều Tiên:대추), tiếng Nhật: 棗 natsume) (danh pháp khoa học: Ziziphus jujuba) là để chỉ một loài cây thân gỗ nhỏ hay cây bụi với lá sớm rụng, thuộc họ Rhamnaceae (họ Táo). Theo sự đúc kết của Wikipedia Ttiếng Việt, Táo Tàu được cho rằng nó có nguồn gốc từ Bắc Phi và Syria, nhưng đã dịch chuyển về phía đông, qua Ấn Độ tới Trung Quốc, là khu vực nó đã được trồng trên 4.000 năm. Cây Táo Tàu có thể cao khoảng 5–12 m, với các lá xanh bóng, và đôi khi có gai. Các hoa nhỏ, màu trắng hoặc ánh lục, khó thấy, quả hình trứng, kích cỡ tự quả ô liu, thuộc loại quả hạch. Dạng cây và dạng quà theo như hai hình dưới đây. Quả của Táo Tàu được sử dụng khá phổ biến trong y học truyền thống của người Trung Quốc, Triều Tiên và Việt Nam

           

          Táo Tàu (Jujube) theo Fanghonghttps://vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%A1o_t%C3%A0u#/media/T%E1%BA%ADp_tin:ZiziphusJujubaVarSpinosa.jpg
          Giới (regnum) Plantae
          (không phân hạng) Angiospermae
          (không phân hạng) Eudicots
          (không phân hạng) Rosids
          Bộ (ordo) Rosales
          Họ (familia) Rhamnaceae
          Chi (genus) Ziziphus
          &nXem tiếp >>

            Dạy và học 13 tháng 8(13-08-2021)

           

          DẠY VÀ HỌC 13 THÁNG 8
          Hoàng Kim
          CNM365 Tình yêu cuộc sốngDi sản thế giới tại Việt Nam; Học không bao giờ muộn; Câu chuyện ảnh tháng Tám; Nhớ bạn nhớ châu Phi; Sơn Nam ông già Nam Bộ; Trung Quốc một suy ngẫm; Suy tư sông Dương Tử; Đi thuyền trên Trường Giang; Trận Vũ Hán lịch sử; Ngày Độc lập tại Cộng hòa Trung Phi năm 1960. Ngày 13 tháng 8 năm 2008 là ngày mất của cụ Sơn Nam. Ngày 13 tháng 8 năm 100 trước CN, ngày sinh Julius Ceasar nhà lãnh đạo quân sự và chính khách người Ý (mất năm 44 trước CN). Ngày 13 tháng 8 năm 1937, Chiến tranh Trung Nhật Quân đội Nhật Bản bắt đầu tấn công Thượng Hải, chiếm được thành phố sau đó vài tháng.Trận Thượng Hải là trận đánh lớn nhất và đẫm máu nhất trong Chiến tranh Trung-Nhật. Hai bên đã huy động tới 90 vạn quân tham chiến và số thương vong của cả hai bên trong trận này lên đến 32 vạn người. Bài chọn lọc ngày 13 tháng 8: Di sản thế giới tại Việt NamHọc không bao giờ muộn; Câu chuyện ảnh tháng Tám; Sơn Nam ông già Nam Bộ; Đi thuyền trên Trường Giang; Suy tư sông Dương Tử; Trận Vũ Hán lịch sử; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-13-thang-8

          HỌC KHÔNG BAO GIỜ MUỘN
          Hoàng Kim

          Mục đích sau cùng của DẠY và HỌC là thấu suốt bản chất sự vật, có lời giải đúng và LÀM được việc.

          TRẠNG TRÌNH DƯỠNG SINH THI
          Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491–1585)


          Giữ khí, gìn tinh, lại dưỡng thần
          Ít lo, ít muốn, ít lao thân.
          Cơm nên vừa bụng, đừng nhiều vị,
          Rượu chỉ vài phân, chớ qúa từng.
          Miệng cứ câu đùa, vui miệng mãi,
          Bụng thường nghĩ tốt, bụng lâng lâng.
          Bốc đồng, biến trá, thôi đừng hỏi,
          Để tớ tiêu dao đến tuổi trăm.

          (Bản dịch của GS. Lê Trí Viễn)

          CHÍN ĐIỀU LÀNH HẠNH PHÚC
          Hoàng Kim.

          Cười nhiều Giận ít
          Vui nhiều Lo ít
          Làm nhiều Nói ít
          Đi nhiều Ngồi ít
          Rau nhiều Thịt ít
          Chay nhiều Mặn ít
          Chua nhiều Ngọt ít
          Tắm nhiều Lười ít
          Thiện nhiều Tham ít

          Mặt trời và thiên nhiên
          Môi trường sống an lành
          Gia đình thầy bạn quý
          Minh triết cho mỗi ngày

          An nhiên và phúc hậu
          Thức ngủ cần hài hòa
          Lao động và nghỉ ngơi
          Gieo lành thì gặt thiện

          Yêu thương trong tầm tay

          MƯỜI THÓI QUEN MỖI NGÀY
          Hoàng Kim

          1. Vui khỏe phúc hậu, an nhàn vô sự là tiên
          2. Biết dưỡng sinh, sống quen thanh đạm nhẹ mình
          3. Hưởng ánh nắng, khí trời và sương mai mỗi sáng
          4. Dạy và học tình yêu cuộc sống cnm365 mỗi ngày
          5. Đi bộ và dọn vườn, tập thể dục mỗi ngày nữa giờ
          6. Tắm rửa sạch sẽ mỗi ngày có lợi cho sức khỏe
          7. Luyện thói quen đi lại ít phút sau mỗi giờ làm việc
          8. Sau khi đi làm về cần nghĩ ngơi 15 phút mới tắm
          9. Khi người mệt mỏi tốt nhất ngủ ngon và nghỉ ngơi
          10 Buông bỏ những dư thừa và hư danh giả tạm

          MƯỜI TƯ DUY TÍCH CỰC

          Ai đúng ai sai, mình không sai là được
          Người già người trẻ, cứ vui khỏe là được
          Việc nhiều lộc ít, làm xong việc là được
          Tận tâm tiết kiệm, đừng lãng phí là được
          Bất kể giàu nghèo, cứ hoà thuận là được
          Không kén ngon dở, cứ sạch nóng là được
          Bất luận đẹp xấu, cứ tốt duyên là được
          Nhà lớn nhà nhỏ, cứ ấm no là được
          Xe mới xe cũ, cứ chạy tốt là được
          Sung túc hay nghèo, cứ bình an là được

          Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là minh-triet-cho-moi-ngay.jpg

          MINH TRIẾT CHO MỖI NGÀY
          Hoàng Kim

          Minh triết đời người là yêu thương
          Cuối dòng sông là biển
          Niềm tin thắp lên nghị lực
          Yêu thương mở cửa thiên đường.

          Lev Tolstoy (1828 – 1910) là nhà hiền triết và đại văn hào Nga danh tiếng bậc nhất lịch sử nhân loại với những kiệt tác Chiến tranh và Hòa bình, Ana Karenina, Đường sống, Phục sinh. Minh triết cho mỗi ngày. Trước đây tôi thích ông theo tuần tự trên. Nhưng nay qua thời gian trãi nghiệm và lắng đọng tôi lại thích trình tự ngược lại. Minh triết cho mỗi ngày (Wise Thoughts for Every Day) lắng đọng tinh hoa hơn. Yêu thích là tự mình tỉnh thức.

          Minh triết cho mỗi ngày là công trình trọng yếu cuối cùng của Lev Tonstoy và ông đã xem nó là đóng góp quan trọng nhất của ông cho nhân loại. Theo Peter Serikin tại lời giới thiệu của tác phẩm này “Tonstoy giữ cái ‘cẩm nang’ cho một cuộc sống tốt này trên bàn làm việc của ông trong suốt những năm cuối cùng đời mình cho đến phút cuối (thậm chí ông còn yêu cầu trợ lý cùa mình V. Chertkov, đưa cho ông xem bản in thử trên giường chết của ông) Chi tiết nhỏ này cho thấy Tonstoy yêu quý tác phẩm này xiết bao!”. Cũng theo Peter Serikin bộ ba tập sách ‘Minh triết của hiền nhân’ 1903  (The Thoughts of Wise Men) ; Một chu kỳ đọc (A Circle of Reading’ 1906; Minh triết cho mỗi ngày 1909 (Wise Thoughts for Every Day) dường như phát triển sau khi Lev Tonstoy bệnh nặng và phục sinh như một phép lạ cuối năm 1902. Bộ ba này của Tonstoy hết sức phổ biến từ lần xuất bản thứ nhất vào năm 1903 cho đến năm 1917. Rồi cả ba cuốn đều không được xuất bản trong suốt thời kỳ gần 80 năm vì nội dung tôn giáo của chúng, và nó được xuất hiện trở lại gần đây sau sự sup đổ của Liên bang Xô Viết. Sách ‘Suy niệm mỗi ngày’ nguyên tác tiếng Nga của Lev Tonstoy do Đỗ Tư Nghĩa  dịch từ bản tiếng Anh ‘Wise Thoughts for Every Day’ của Peter Serikin xuất bản ở New York Mỹ từ năm 2005 và, Bản quyền bản tiếng Việt của Công ty THHH  Văn Hóa Khai Tâm 2017. Hành trình cuốn sách này đến Việt Nam khá muộn  nhưng may mắn thay những tư tưởng minh triết của nhà hiền triết Lev Tonstoy đã tới chúng ta gợi mở cho sự suy ngẫm ‘minh triết cho mỗi ngày’ cùng đồng hành với người thầy hiền triết vĩ đại.

          Lev Tonstoy viết: “Nguồn hạnh phúc chân thực nằm trong trái tim bạn. Sẽ là ngốc nghếch nếu bạn tìm kiếm nó ở nơi nào khác. Bạn sẽ giống như kẻ chăn cừu tìm kiếm một con chiên lạc, trong khi nó được nhét vào ngay bên trong áo sơ mi của y (1). Quy tắc thứ nhất của minh triết, là biết chính bạn (2). Tuy nhiên đây là cái khó làm nhất. Quy tắc thứ nhất của đức hạnh là hạnh phúc với những điều nhỏ bé (3). Điều này nữa cũng khó làm. Chỉ có những ai tuân theo những quy tắc này, mới đủ mạnh để là một tấm gương đức hạnh cho người khác. Nếu bạn chỉ yêu chính mình, bạn không thể thực sự hạnh phúc. Hãy sống cho kẻ khác, rồi thì bạn sẽ tìm thấy hạnh phúc chân thực. Các bạn đang lang thang tới đâu, hỡi những  con người bất hạnh? Đang tìm kiếm một cuộc sống tốt hơn ? Bạn đang chạy đi xa, nhưng hạnh phúc phải được tìm thấy bên trong bạn. Nếu nó không có mặt ở bên trong, thì nó không có mặt ở bất cứ nơi nào khác. Hạnh phúc nằm trong khả năng yêu kẻ khác của bạn”. (Suy niệm mỗi ngày, trang 53) (1) Nguồn hạnh phúc chân thực nằm trong trái tim bạn. Phật nói ‘ phật tại tâm ’ Chúa Jesu nói ‘Vương quốc của thượng đế ở bên trong các ngươi ’ (2) Minh triết trước hết là tự biết mình. (3) Phúc hậu là hạnh phúc với những điều nhỏ bé.

          Lev Tonstoy viết tiếp: Có một câu cách ngôn cổ của Do Thái: “Linh hồn của một người là ngọn đèn của Thượng đế” Khi ngọn đèn ấy chưa được thắp lên thì một cá nhân sẽ vẫn mãi bơ vơ; nhưng khi nó được thắp lên, y trở nên mạnh mẽ và tự do. Dĩ nhiên, điều này không thể khác , bởi vì đó không phải là quyền lực của chính y, mà là của Thượng đế. Mặc dù chúng ta không biết sự thiện phổ quát là gì, chúng ta thực sự biết rằng, tất cả chúng ta nên tuân theo quy luật của sự thiện, vốn hiện hữu cả trọng sự khôn ngoan của con người lẫn trong trái tim chúng ta. Nếu chúng ta tin rằng, họ có thể làm hài lòng Thượng đế thông qua những nghi lễ và những lời cầu nguyện thôi – chứ không phải bằng hành động- thì họ đã nói dối với cả thượng đế lẫn chính họ

          Hoàng Kim noi gương Thầy, tự mình thắp lên ngọn đèn trí tuệ chính mình “Hãy luôn luôn hạnh phúc và sung sướng”  tuân theo quy luật của sự chí thiện và luôn nhớ câu cách ngôn cổ của người Do Thái: “Linh hồn của một người là ngọn đèn của Thượng đế“.  Minh triết cho mỗi ngày là một kho tàng tinh hoa lắng đọng.

          VUI ĐI DƯỚI MẶT TRỜI
          Hoàng Kim

          Hãy lên đường đi em
          Ban mai vừa mới rạng
          Vui đi dưới mặt trời
          Một niềm tin thắp lửa

          Ta như ong làm mật
          Cuộc đời đầy hương hoa
          Thời an nhiên vẫy gọi
          Vui đời khỏe cho ta.

          Vui sống giữa thiên nhiên
          Học không bao giờ muộn.
          Một niềm tin thắp lửa.
          Lời Thầy dặn thung dung.

          Đình Lạc Giao Hồ LắkLời Thầy dặn thung dunghttps://youtu.be/zH7UNyMaUy4. Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlongHọc không bao giờ muộnhttps://hoangkimlong.wordpress.com/category/hoc-khong-bao-gio-muon/

          GSR PY1

          CÂU CHUYỆN ẢNH THÁNG TÁM
          Hoàng Kim

          Câu chuyện ảnh tháng Támhttps://hoangkimlong.wordpress.com/category/cau-chuyen-anh-thang-tam/

          GSR PY3
          GSR PY4
          GSR PY5
          GSR PY7
          GSR PY8

          SƠN NAM ÔNG GIÀ NAM BỘ
          Hoàng Kim

          Cụ Sơn Nam lưu lại trong tôi nhiều câu văn thật cảm động: “Cố gắng viết ngắn, câu nào cũng có thông tin”. “Khuyến nông tức là cách giữ đạo làm nông, thì dân mới giàu mạnh được”. “Người tứ xứ về tứ giác sinh cơ lập nghiệp, thì cần giữ cái đạo làm người, thì kinh tế thị trường ở đây mới nên bộ mặt nông thôn mới”.“Đến với văn chương để mong nổi danh thì đừng có hòng. Nền văn học của ta hơn nửa thế kỷ qua, nhìn lại ở một góc độ nào đó, coi như lấy rổ múc nước”. “Vì vậy mà phải viết cho đàng hoàng, phải có lương tâm nghề nghiệp thì các báo, các nhà xuất bản họ mới mua của mình, độc giả họ mới đọc của mình”. “Cái cốt cách người Việt Nam mình là nhân nghĩa” “”Với tôi, Tổ quốc là một nơi kiếm sống được bằng một việc lương thiện nào đó, không bị ai làm khó dễ, có vài người bạn chơi được, không ba trợn” “Hạt bụi nghiêng mình nhớ đất quê. Cụ Sơn Nam là nhà văn, nhà báo, nhà khảo cứu Nam Bộ, “ông già Nam Bộ”, “ông già Ba Tri”, “ông già đi bộ’, “pho từ điển sống về miền Nam”, “nhà Nam Bộ học”.

          Cụ Sơn Nam đã giã từ cõi nhân sinh ngày 13 tháng 8 năm 2008 và kịp để lại cho đời một sự nghiệp trước tác đồ sộ trên 8000 trang sách của hơn 44 đầu sách đã in và trên 10.000 trang sách chưa in. Bài thơ “Thay lời tựa” của Cụ Sơn Nam trong “Hương rừng Cà Mau” hay ám ảnh: “Trong khói sóng mênh mông/ Có bóng người vô danh/ Từ bên này sông Tiền/ Qua bên kia sông Hậu/ Mang theo chiếc độc huyền/ Điệu thơ Lục Vân Tiên/ Với câu chữ:/ Kiến nghĩa bất vi vô dõng giả/ Tới Cà Mau – Rạch Giá/ Cất chòi đốt lửa giữa rừng thiêng/ Muỗi vắt nhiều hơn cỏ/ Chướng khí mù như sương/ Thân không là lính thú/ Sao chưa về cố hương?…”. Lời điếu của cụ Sơn Nam khóc cụ Bùi Giáng sao mà chân tình, văn hóa, tri âm, tri kỹ đến vậy: “Anh Giáng ơi! Sinh thời anh ăn mặc xốc xếch, áo trong dài hơn áo ngoài,…nhưng văn thơ của anh ngay ngắn đường hoàng. Anh có nề gì cháo chợ cơm hàng, cả cơm thừa canh cặn, nhưng câu chữ anh xài sạch sẽ, ý tứ sáng trong. Cả đời anh lang thang khi chùa khi chợ có cố định đâu đâu, mà bữa nay đưa anh đi có quân canh lính gác, có vòng hoa của Thành ủy – Ủy Ban, có Hội Nhà văn, dậy là anh có hộ khẩu Sài Gòn rồi đó nghe anh Giáng!.” Cụ Sơn Nam cũng chân thành ngợi ca cụ Trương Vĩnh Ký đã dành thời gian cuối đời để viết chuyện hay cho con nít đọc.“Viết chuyện hay con nít tìm đọc là khó lắm đó nghe” chứ không chỉ là những công trình bác học đồ sộ. Nhớ Sơn Nam ông già Nam Bộ, chúng ta nhớ những trang văn, những chuyện đời thấm đẫm tính nhân văn của ông.

          Viết về Sơn Nam, tôi thích hơn cả là của Đoàn Nam Sinh, Huỳnh Kim, Võ Đắc Danh, Trần Thị Hồng Hạnh, Lê Văn Thảo, Lam Điền, Trần Mạnh Hảo và chùm Sơn Nam video nhạc tuyển. Hãy học thái độ của nước mà đi như dòng sông! Tôi từ trước đã tâm đắc điều này, và ngộ ra những người hiền thường thung dung, an nhiên với đời thường. Những người hiền phương Nam như Sơn Nam, Bùi Giáng, Võ Hồng, Trang Thế Hy… đều thật là hiền hòa, chất phác.

          NHỚ SƠN NAM

          Đoàn Nam Sinh

          Hồi còn nhỏ, thập kỷ sáu mươi về trước, trong làng ấp xa xăm, tôi đã được đọc những bài viết của chú trên tờ Hương Quê, giấy báo trắng láng với màu mè, hình vẽ minh họa rất đẹp. Mẫu chuyện mà tôi nhớ đời là bà con xứ Nam kỳ đã lập thế nhử vịt câu sấu như thế nào, với giọng văn giản dị, tưng tửng. Ba tôi, người cũng từng dầu dãi sông nước giải thích chuyện trẻ nhỏ nghịch ý với cha mẹ thì thường bị quở là “đem câu sấu cho rồi”, tụi nhỏ tôi sợ lắm.

          Ông cậu vợ tôi sau này, ngày còn nhỏ nhà ngoại khá giả cho đi học trên Nam Vang, chắc có Pri-me rồi về Rạch Giá đi dạy học. Đổi vùng khắp chốn đến sau khởi nghĩa mới biết là đi theo cộng sản từ thời ông Giàu gây dựng đâu bên Xiêm bên Lèo. Cậu làm chủ tịch một xã ở Gò Quao, mà cái bằng “đẹp trai” không giấu được. Ở đâu chị em cũng bu theo. Cậu có lần kể “tao đi công tác với hai cô, mùa nước nổi chun nóp ngủ trên chòi gò, lần quần rồi tao quất cả hai”. Không biết có phải vì đào hoa, lăng nhăng hay sao đó cậu ở lại, không tập kết. Rồi tù tội liên miên. Có lần cậu nói “thằng cha này là Minh Tài, nó viết văn hay lắm, ham đi xuống thực tế, rồi ham viết, chẳng kể gì giờ giấc, chưng dọn. Người hổng biết nói chả ở dơ, lúc 9 năm chả hay về đây, tiếng Tây chỉ có mấy người biết, đủ để nói thầm, chả thân cậu lắm!”. Sau này tôi kể lại với chú cậu Trần Kỳ Ứng dưới Gò Quao hỏi thăm, chú nói chuyện “hồi đó ai cũng yêu nước, đánh Tây đặng giành độc lập. Có mấy người biết chữ đâu. Lớp đó là người theo đạo Thiên chúa cũng vào Đảng, làm lãnh đạo Việt Minh. Khi định biên lại khoảng năm 53, làm theo kiểu mấy anh Tàu nên nhiều người chán nãn…”.

          Lớn lên trong thời chiến, lại lo chuyện học hành, chuyện kiếm hiệp/võ hiệp kỳ tình tràn lan rồi phong trào hip-pi, phản chiến đến triết lý hiện sinh hiện tồn,…Mỹ đã đổ quân vào Đà Nẵng, đảo chính, tăng quân, leo thang đánh phá,…Làng quê ứng phó bằng tích trữ khô muối, dầu đèn, trảng-sê hầm hào trước bom sai đạn lạc; phố chợ lung lay trước bao cuộc biểu tình, đình công bãi thị, học sinh bãi khóa, chống đàn áp Phật giáo rồi chống hiến chương Vũng Tàu, đả đảo Nguyễn Khánh bán nước, đả đảo Thiệu-Kỳ-Có,…khiến tụi nhỏ tôi chẳng còn thời gian và lòng dạ nào dòm đến văn học miền Nam nữa.

          Sau 68, anh em tan tác người một ngã. Ngọn lửa tàn độc tràn qua thôn ấp ngày một hung tợn, ác liệt. Làn sóng tỵ nạn chiến tranh lan ra, người dân tản cư chạy vào khu dồn, lớp trẻ chúng tôi về Sài Gòn. Mấy năm sau tôi thấy chú trong phong trào chống chế độ kiểm duyệt báo chí của Sở Phối hợp Nghệ thuật, tổ chức biểu tình với khẩu hiệu “Ký giả đi ăn mày”, nhưng mỗi người một việc.

          Bẵng đi có chục năm liền, cũng vì mưu sinh chen chúc, tuy không xa nhưng khó dịp hàn huyên. Có lần gặp nhau tôi hỏi nghe chuyện vợ con chú sao đó, chú Sơn Nam buồn buồn ̶ “mình viết văn mà không hay thì ai đọc, làm sao sống? Mà lo chuyện viết lách thì bỏ bê, vợ con mấy người thông cảm”…Tới 97, đợt 300 năm Sài Gòn chú nhờ tôi tiếp mấy chuyện vặt. Lúc này chú thuê nhà ở Phan Văn Trị, một cái buồng dài và hẹp, bốn bề nước đái khai um. Cũng chỉ cái máy Olivetti gõ cọc cạch và bộn bề sách vở xếp chung quanh lan cả lên chiếc giường tám tấc. Gần đến ngày trả tiền nhà chú lúng túng, xốn xang cùng nổi lo trễ nãi bà chủ phiền.

          Chú Sơn Nam lúc này đã thấy già, nói chuyện vẫn bông lơn nhưng có phần cam chịu. Có bữa được ít tiền nhuận bút, “chú em chở dùm qua đi gửi cho thằng con, nó khổ lắm”. Lần khác thì “thằng con dưới Mỹ Tho hẹn lên xin mấy trăm về lo chuyện nhà”.

          Mấy lần chú xuất hiện trên phim, và khi đi ra quê Bắc tế cụ Nguyễn Hữu Cảnh, với bộ nam phục lụa màu xanh thấy ngồ ngộ, khác xa với “ông già đi bộ” thường ngày, lưng chú đã hơi còng rồi.

          Vài năm sau nữa, tôi nhớ bữa đưa tang Bùi Giáng ở Gò Dưa, sau bài ai điếu của Cung Văn là điếu văn của Hội Nhà Văn thành phố. Chú moi ra bài viết sẵn trên túi áo vét xanh nhầu nhỉ, sửa lại đôi kính cũng rầu rĩ như ông chủ và chú run run nói: “Anh Giáng ơi! Sáng nay anh NQS nói với tui anh là lớp trước, lại ở trong này, cũng ít dịp gần gũi. Anh đại diện cho Hội đọc dùm điếu văn này. Dậy đây là phần của Hội nghe anh Giáng…Tui đọc dậy là xong rồi, còn đây là của tui. Anh Giáng ơi! Sinh thời anh ăn mặc xốc xếch, áo trong dài hơn áo ngoài,…nhưng văn thơ của anh ngay ngắn đường hoàng. Anh có nề gì cháo chợ cơm hàng, cả cơm thừa canh cặn, nhưng câu chữ anh xài sạch sẽ, ý tứ sáng trong. Cả đời anh lang thang khi chùa khi chợ có cố định đâu đâu, mà bữa nay đưa anh đi có quân canh lính gác, có vòng hoa của Thành ủy – Ủy Ban, có Hội Nhà văn, dậy là anh có hộ khẩu Sài Gòn rồi đó nghe anh Giáng!…”.

          Có lần hội thảo khoa học về cụ Trương Vĩnh Ký, như những lần hội thảo danh nhân Nam bộ khác, chú đã đọc tham luận. Không phải về những công trình bác học, đồ sộ hoặc luận về công/tội, chú nói đến chuyện sau cùng cụ TVK đã dành thời gian viết chuyện cho con nít đọc, “mà viết chuyện hay con nít tìm đọc là khó lắm đó nghe”.

          Lúc Bé Tư mới ra cuốn Cánh đồng bất tận, một ông lão nghe chuyện hỏi tôi NQS ủng hộ lắm hả, cháu có không? Tui nghe chú Sơn Nam có bản photo. Mà lúc này ổng về ở dưới Lăng Ông rồi. Chở chú lại thăm giả chút. Hai người lớn nói chuyện văn chương, tôi mãi mê đọc báo. Chỉ nghe thoáng khúc cuối chú Sơn Nam nói “nó muốn đặt tên cho đứa nhỏ là Hiền, Lành gì đó chứ không Thù, Hận,…nghĩ lại không biết tụi mình là con hoang của vụ hiếp dâm nào?” Tôi xin phép hai ông chú ra về trước.

          Tự nhiên mấy năm gần cuối đời hai dái tai của chú dày ra, rộng hơn phát đỏ hồng, anh em mừng. Thì cũng có chuyện hợp đồng bán được tác quyền, sách được in lại đẹp đẽ, chú cũng mừng. Nhưng thường bữa, trừ đợt bịnh nặng, chú vẫn đến thư viện Gò Vấp cạnh cầu Hang tìm sách đọc, viết và nhờ mấy cháu đánh máy lại. Rủng rỉnh thì mời mấy cô bé đi ăn trưa, cơm dĩa. Sáng sáng lại ngồi cà phê đen xéo phía kia đường.

          Khúc cuối cùng cuộc đời, do có chuyện bình chọn để lãnh giải thưởng gì đó ngoài trung ương mới có chuyện “…Sơn Nam không được, vì nhờ biết tiếng Tây, đọc các bài viết cũ rồi viết lại chứ không có công trình gì…”. Từ hồi chữ quốc ngữ thịnh lên tới giờ, có biết bao nhà văn đọc rồi phóng tác; có bao người đọc để biết mà tránh viết giống người trước? Tôi thì biết rõ là chú Sơn Nam không đạo văn như cái án oan kiểu gây dư luận đó.

          Lại rủi cho chú khi đi đường bị xe của bọn trẻ chạy vong mạng làm gãy chân, chú chỉ nói buồn “tụi nhỏ chúc thọ ông già kiểu này ngặt quá!”.

          Mới đó mà chú đã đi xa một năm rồi, ngày đưa tang chú tôi từ Gia Lai về, mệt quá ngủ quên, khi anh em nhắc thì đã xong mọi việc. Tiếc và buồn! Thôi, đêm nay tôi nhớ chú, ngồi viết gọn mấy dòng dâu bể.

          Bình Dương, 10/08/09
          Nguồn :
          http://www.viet-studies.info/DoanNamSinh_NhoSonNam.htm

          BÀI THƠ “HƯƠNG RỪNG CÀ MAU”
          Huỳnh Kim

          Bài “Thay lời tựa” tập truyện ngắn nổi tiếng “Hương Rừng Cà Mau” của nhà văn Sơn Nam là một bài thơ hay. Bài thơ dài 28 câu viết về cái thuở tiền nhân xưa từ miền Trung tha hương vào khai hoang mở cõi phương Nam. Đó là một bài thơ độc đáo hiếm thấy của nhà văn Sơn Nam mà nhiều người đã thuộc lòng vì cái điệu buồn chất chứa trong từng âm điệu, câu chữ.

          Nhưng có lẽ ít ai biết bài thơ đó nhà văn viết khi nào và ở đâu. Một hôm, cuối năm 2000, gần Tết, tôi nhớ vào ngày 15-1-2001, ông ghé thăm báo Cần Thơ và nhắn tôi qua chơi. Tôi chở ông về nhà mình, giở cuốn “Hương rừng Cà Mau” do nhà xuất bản Trẻ tái bản năm 1986, có chữ ký tặng bằng mực đỏ của ông ngày nào, rồi hỏi:

          – Bài thơ này chú Tám làm hồi nào vậy? 

          Ông nheo nheo mắt, nói:

          – Viết từ năm 1961, trong nhà tù Phú Lợi. Hồi đó chánh quyền Sài Gòn bỏ tù cái tội mình vẫn theo kháng chiến.

          Rồi ông ngồi chép lại cả bài thơ trên mặt sau một tờ lịch lớn. Nét chữ của một ông già 75 tuổi mà bay bướm quá chừng. Cuối bài thơ, ông ghi: “Viết thơ này từ năm 1961, nay chép lại tặng Huỳnh Kim, bờ sông Hậu”. Tôi đã nhờ thợ phủ la-mi-na và ép tờ lịch ấy lên một tấm gỗ để lưu giữ được lâu dài bút tích của nhà văn Sơn Nam.

          Tôi treo kỉ vật này trên tường kế bên kệ sách và gắn kề bên nét chữ của ông, một chiếc lá cây khô hoang dã đã lìa cành tự khi nào. Chiếc lá ấy, nét chữ ấy, mỗi lần nhìn lên, như nghe có tiếng người xưa vọng lại:

          Trong khói sóng mênh mông
          Có bóng người vô danh
          Từ bên này sông Tiền
          Qua bên kia sông Hậu
          Mang theo chiếc độc huyền
          Điệu thơ Lục Vân Tiên
          Với câu chữ:
          Kiến nghĩa bất vi vô dõng giả
          Tới Cà Mau – Rạch Giá
          Cất chòi đốt lửa giữa rừng thiêng
          Muỗi vắt nhiều hơn cỏ
          Chướng khí mù như sương
          Thân không là lính thú
          Sao chưa về cố hương?

          Chiều chiều nghe vượn hú
          Hoa lá rụng buồn buồn
          Tiễn đưa về cửa biển
          Những giọt nước lìa nguồn
          Đôi tâm hồn cô tịch
          Nghe lắng sầu cô thôn
          Dưới trời mây heo hút
          Hơi vọng cổ nương bờ tre bay vút
          Điệu hò… ơ theo nước chảy chan hòa

          Năm tháng đã trôi qua
          Ray rứt mãi đời ta
          Nắng mưa miền cố thổ
          Phong sương mấy độ qua đường phố
          Hạt bụi nghiêng mình nhớ đất quê…

           Huỳnh Kim bài đăng báo Tuổi Trẻ cuối tuần (tháng 8-2018)
          (
          click vào hình để có bản chính trên blog Huỳnh Kim)

          GẶP LẠI NHÀ VĂN SƠN NAM
          Huỳnh Kim

          Nhà văn Sơn Nam đã về với đất, nhẹ như câu thơ của ông “Hạt bụi nghiêng mình nhớ đất quê”. Sáng nay, lục tìm trong ký ức và trong Thời báo Kinh tế Sài Gòn (TBKTSG), như gặp lại ông…

          1.

          Năm bảy năm trước, khi còn khỏe, nhà văn Sơn Nam có viết lai rai cho TBKTSG, thường là vào dịp Tết. Có một bài mà bây giờ đọc lại, thấy như ông nói chuyện đang xảy ra. Đó là bài “Làm tiền và xài tiền”. Mở đầu bài báo, ông viết: “Tuy không rành về kinh tế tài chính nhưng tôi dám phát biểu rằng không phải có nhiều vàng trong tay là mặc nhiên được đứng vào hàng ngũ tư sản Việt Nam trong giai đoạn mở cửa này”. Rồi ông nhận xét: “Mấy năm gần đây, phát sinh một hiện tượng ăn xài hoang phí trong một bộ phận dân cư ở Sài Gòn và các tỉnh, đến mức mà chính những nhà kinh doanh nước ngoài phải ngạc nhiên, thậm chí coi khinh. Trúng mối vài dịch vụ sang nhượng nhà đất, buôn lậu, tráo trở chứng từ, dành dụm được năm, mười cây vàng, hoặc hơn, làm tiền không đổ mồ hôi thì dĩ nhiên cần tiêu xài vô lý, dịp may hiếm có. Tiền sẽ vào túi, dễ dàng, cóc nằm há mồm là sung rụng ngay vào miệng, muốn khạc ra cũng không được. Đó là chưa kể một số cán bộ tiêu cực có bài bản, ăn chơi một buổi bằng một năm lương bổng của người làm công. Xài ô-tô hạng sang, quần áo thứ tốt, nhà cửa trang trí toàn đồ ngoại”.

          Một chỗ khác, ông mô tả rành rọt: “Rượu mạnh với nhãn hiệu đắt tiền, nốc vài chai đã là tốn bạc triệu. Gọi thức ăn đủ món, nhưng món nào cũng gắp thử một vài đũa, hoặc không gắp rồi chờ đem món khác! Ăn để phá của, vì của cải ấy làm ra không đổ mồ hôi, lắm khi không tiêu xài thì không phải lẽ, vì đó là tiền thù lao tập thể cho phép cả nhóm kết nghĩa! Tiêu xài để cho người đồng lõa thấy mình là người hào hiệp, thừa tiềm năng và thừa bản lãnh. Đến mức những người phục vụ cửa hàng tuy cười tươi ra mặt nhưng khi vào nhà bếp, họ cũng lắc đầu, khinh bỉ cái phong cách điên khùng của “thời đại”. Chưa hết! Ăn uống bừa bãi, nửa ăn nửa bỏ, nôn mửa, lắm khi để xóa mặc cảm tội lỗi, họ lại cởi áo, dùng những lời lẽ phàm tục, nhờ điện thoại cầm tay để nói láo với bạn bè, với vợ con hoặc trêu chọc cô gái nào đó để ra vẻ mình… có máu văn nghệ. Chưa kể trường hợp say quá mức, họ lại đùa giỡn bằng cách chế diễu các cơ quan nhà nước và tự chế diễu mình”.

          Ông quan sát thấu đáo cả những kiểu sống như thế này: “Có tiền nhiều, nhưng không tin nơi ngày mai, hoặc quá tin vào tử vi, tuổi con rồng, gặp tháng con chuột. Họ cầu mong làm giàu thêm, không bỏ những dịp may có thể thoáng qua rồi mất. Con cái của họ cần được nổi danh trong khu phố, với bạn bè cùng trang lứa. Nào khiêu vũ, nào ăn điểm tâm ở khách sạn sang trọng nhất, xài đô-la chớ không xài tiền Việt, trong khăn mù-soa nhung nhúc những khoen lớn khoen nhỏ. Mất chiếc xe gắn máy đắt tiền này, lập tức cho con số tiền to để sắm trở lại chiếc khác, lắm khi còn đắt tiền và hợp thời trang hơn”.Gần cuối bài đó, nhà văn nhắc nhẹ: “Ở Việt Nam, xưa kia đã từng có xuất hiện vài nhà tư sản xứng đáng cho đời sau ghi nhớ. Thí dụ như ông Trương Văn Bền. Khi rảnh rang, ông tranh thủ đọc sách, nghiên cứu cách tiếp thị, phân phối sản phẩm theo đường dây hợp lý. Mỗi sáng, ông không quên tập thể dục”.

          2.

          Nhà văn Sơn Nam viết báo kinh tế như vậy đó. Còn các nhà báo kinh tế và doanh nhân thì lại hay trích văn của ông. Trong mấy chục bài của họ đã đăng trên TBKTSG, dễ gặp lại hình ảnh “ông già Nam bộ” Sơn Nam.

          Tỉ như trong bài “Như ngày xưa tiền nhân đi mở cõi”, ông Trần Kim Chung – Tổng giám đốc Công ty cổ phần Quốc tế C&T – đại diện Tập đoàn Mỹ phẩm Amore – Pacific Hàn Quốc, tâm sự: “Có một bài thơ của nhà văn Sơn Nam luôn làm tôi liên tưởng rằng, chuyện khởi nghiệp kinh doanh ngày nay cũng tựa như chuyện tiền nhân ta ngày xưa đi mở cõi. Đó là đoạn đầu trong bài thay lời tựa tập truyện ngắn “Hương rừng Cà Mau” của nhà văn: Trong khói sóng mênh mông / Có bóng người vô danh / Từ bên này sông Tiền / Qua bên kia sông Hậu / Mang theo chiếc độc huyền / Điệu thơ Lục Vân Tiên / Với câu chữ: “Kiến nghĩa bất vi vô dõng giả” / Tới Cà Mau, Rạch Giá / Cất chòi đốt lửa giữa rừng thiêng…”.

          Hoặc trong bài “Quán Sơn Nam”, nhà báo Võ Đắc Danh kể: “Sáng thứ bảy, tôi tìm đến địa chỉ liên lạc thường nhật của ông, tức cái quán cà phê trong khuôn viên nhà truyền thống quận Gò Vấp. Khác với lệ thường, hôm nay sau khi uống xong ly sữa tươi và ly cà phê đen, nhà văn Sơn Nam ăn thêm một gói bắp nấu, rắc lên một ít đường cát và dừa nạo. Bắp nấu là món ăn sáng của người nghèo, hồi trước bắp nấu được gói bằng lá chuối, múc ăn bằng một miếng sóng lá dừa. Bây giờ là cây muỗng nhựa, bắp nấu gói trong bọc ny lông, bên ngoài gói thêm lớp giấy báo.

          Thấy ông ăn một cách ngon lành, tôi hỏi: “Tía tìm đâu ra món này, đã lâu rồi tôi không thấy?”. &OciXem tiếp >>

            Dạy và học 12 tháng 8(12-08-2021)


          DẠY VÀ HỌC 12 THÁNG 8
          Hoàng Kim
          CNM365 Tình yêu cuộc sốngChuyển đổi số nông nghiệp; Đọc lại và suy ngẫm; Ban mai lặng lẽ sáng; Sớm Thu thơ giữa lòng; Đi thuyền trên Trường Giang; Chiếu đất ở Thái An; Nhớ bạn nhớ châu Phi; Ân tình đất phương Nam; Ngày 12 tháng 8 là ngày Quốc tế Thanh Thiếu niên (International Youth Day) của Liên Hiệp Quốc. Ngày 12 tháng 8 năm 30 TCN, là ngày mất của Nữ Hoàng Ai Cập Cleopatra VII Philopator, vị vua cuối cùng của triều đại Ptolemaios đã tự tử bằng cách để rắn độc cắn. Ngày 12 tháng 8 năm 1877, Asaph Hall nhà thiên văn học người Mỹ đã khám phá được vệ tinh Deimos của Sao Hỏa; Bài chọn lọc ngày 12 tháng 8: Chuyển đổi số nông nghiệp; Đọc lại và suy ngẫm; Ban mai lặng lẽ sáng; Sớm Thu thơ giữa lòng; Đi thuyền trên Trường Giang; Chiếu đất ở Thái An; Nhớ bạn nhớ châu Phi; Ân tình đất phương Nam; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-12-thang-8

          https://nongnghiep.vn/video/chuyen-doi-so-de-dong-bo-hoa-du-lieu-cho-nguoi-nong-dan-tv299186.html

          CHUYỂN ĐỔI SỐ NÔNG NGHIỆP
          Hoàng Kim


          Vui thu hoạch khoai mì
          Sự thật hơn lời nói
          https://youtu.be/XDM6i8vLHcI
          https://youtu.be/kjWwyW0hkbU
          Ai, giống gì, nơi nào?
          Quy mô sự chuyển đổi

          Đồng bộ hóa dữ liệu
          Có lợi cho người dân
          Minh bạch rõ thông tin
          Ban mai lặng lẽ sáng.

          ĐỌC LẠI VÀ SUY NGẪM
          Hoàng Kim


          Bài đồng dao huyền thoại (1)
          Di Tản (2), Li Nông Li Hương (3)
          Chuyện cụ Lê Huy Ngọ (4)
          Đọc lại và suy ngẫm (5)
          Chuyển đổi số nông nghiệp (6).

          Sự chậm rãi minh triết
          Vui đi dưới mặt trời
          Gõ ban mai vào phím
          Mặt trời nào đang lên

          (1)
          BÀI ĐỒNG DAO HUYỀN THOẠI
          Hoàng Kim

          “Dây dã tường vi thật dẻo dai
          Ba con ngỗng trong một đàn
          Một bay về Đông, một bay Tây
          Và một bay trên tổ chim cúc cu”.

          Bài đồng dao huyền thoại

          (2)
          DI TẢN
          Hoàng Đình Quang

          Mỗi dòng tin làm ta rơi nước mắt
          Bạn về quê bạn biết nơi mô mà tìm?
          Tiếng xe chạy chỉ nhìn qua kính chắn
          Vẫy chào ngày ở lại với lặng im.

          Rồi khốn khó tháng ngày sàng sẩy
          Mưa vẫn giăng mưa, bão vẫn bão bùng
          Cây cầu nối trong với ngoài thành phố
          Chỉ một đầu tiễn biệt thủy chung!

          Ta vẫn biết tai ương tràn phố thị
          Trốn nỗi đau, đi gặp nỗi buồn
          Ngồi mặc cả với rủi may thời thượng
          Phía quê nhà cánh cổng khép hoàng hôn!

          Ta đành vậy! Cắt ra từng gan ruột
          Lúc bơ vơ, bấu víu tiếng nhà quê
          Chỉ nước mắt nuốt vào miền quên lãng
          Mái thềm ơi! Dù đi bộ cũng xin về! (*)

          Làm sao khác, cái vòng tròn cơm áo
          Lúc cơ hồ, danh vọng khuất nhân tình
          Rồi quên nhớ, ít nhiều, thua được
          Rất hồn nhiên, tai họa rập rình!

          Nào! Thôi nhé, chuyến xe đò không hẹn
          Hay đôi chân biết định hướng chân trời
          Phía nước mắt sẽ khô dần, di tản
          Đón nhau về chập choạng chiều cánh dơi!

          27.7.2021
          (*). Mượn ý Olga Bergon: “Pushkin ơi! Dù đi bộ cũng xin về”!

          (3)
          LI NÔNG, LI HƯƠNG
          Truong Huy San

          Chúng ta đang chứng kiến cuộc hồi hương của những người nông dân lớn nhất trong lịch sử Việt Nam. Cuộc hồi hương lý giải vì sao lâu nay ở nhiều vùng nông thôn không còn nông dân, không còn thanh niên trai tráng và ở nhiều ngõ xóm không còn cả bóng trẻ thơ. Cuộc hồi hương không chỉ cho thấy khủng hoảng nhân đạo trên đường Cái mà rồi sẽ còn phát sinh nhiều vấn đề kinh tế xã hội trong những tháng năm tới sau các lũy tre làng.

          Những địa phương có người về từ Sài Gòn, Bình Dương… không chỉ phải ngăn chặn dịch lây lan ra cộng đồng từ những F0 rất có thể có trong dòng người trở về, vừa phải đảm trách các sứ mệnh nhân đạo; mà còn, phải tiên liệu, họ sẽ sống ra sao cho đến khi Sài Gòn, Bình Dương… trở lại bình thường và có thể nhiều người trong số họ không còn trở lại Sài Gòn, Bình Dương… nữa.

          Không giống các quốc gia ở vào thời kỳ công nghiệp hóa khác (tôi không dùng ví dụ Trung Quốc). Cải cách ruộng đất, hợp tác hóa… đã làm kiệt quệ nông thôn Việt Nam ở cả khả năng sản xuất nông phẩm và cả nền tảng văn hóa, đạo đức con người. Chính sách đất đai nửa vời trong thời kỳ chuyển đổi không chỉ đánh vào nông nghiệp mà còn đặt nông dân trở thành lực lượng dễ bị tước đoạt quyền lợi nhất.

          Trong tình thế của Việt Nam đầu thập niên 1990s, đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (FDI) là con đường giúp người Việt thoát nghèo nhanh nhất. FDI còn mang vào những mô hình giúp các doanh nghiệp Việt Nam học hỏi và là những đầu mối giúp kết nối với bên ngoài. Nhưng FDI cũng lấy đi nhiều bờ xôi, ruộng mật của nông thôn và bằng cách thu hút lao động giá rẻ, đã kéo theo một làn sóng nông dân li hương.Trong số các loại đất, đất nông nghiệp được giao cho nông dân là với thời hạn ngắn nhất, dễ bị thu hồi nhất và được định giá rẻ mạt nhất. Bằng một quyết định hành chánh (thay đổi mục đích sử dụng) ruộng lúa từ giá (được nhà nước định) vài chục, vài trăm nghìn có thể được phân lô bán với giá hàng chục triệu đồng. Bằng một quyết định hành chánh, nông dân có thể bị tước đi tư liệu sản xuất và ngay lập tức chứng kiến những người xa lạ trở thành triệu phú trên chính mảnh đất của mình.

          Phải tích tụ ruộng đất thì nông dân và các doanh nghiệp trong nông nghiệp mới có thể hiện đại hóa trong trồng trọt và công nghiệp hóa trong bảo quản, chế biến các sản phẩm từ nông nghiệp. Một bộ phận lớn nông dân vẫn được li nông mà không phải li hương. Nhưng, chính sách hạn điền đã đánh mất cơ hội tích tụ ruộng đất trong thập niên 1990s, khi phân lô bán nền chưa làm cho đất nông nghiệp tăng giá tới mức mà nếu mua ruộng để canh tác thì không thể nào có lãi như giá đất bây giờ.

          Không có cái gì bán được (Luật gọi là chuyển nhượng) mà không phải là tài sản. Ruộng đất là thứ tài sản của người nông dân ít được Nhà nước bảo hộ nhất. Nếu như “sở hữu toàn dân” vẫn còn là một trong những niềm an ủi chính trị cho “định hướng xã hội chủ nghĩa” thì chúng tôi sẽ không bàn. Nhưng cần thay “quyền thu hồi đất” của Nhà nước bằng “quyền trưng mua” quyền sử dụng đất.

          Những thay đổi trong nông nghiệp, nông thôn, vì thế, không thể chỉ chờ đợi từ các nhà lãnh đạo địa phương.

          Tôi đọc tất cả những phát biểu của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn Lê Minh Hoan, một nhà lãnh đạo từng gây ấn tượng ở địa phương. Đồng ý với ông, “nông nghiệp là một ngành kinh tế, chứ không chỉ là sản xuất đơn thuần”. Nhưng, rất tiếc, giải pháp quan trọng nhất mà ông kêu gọi lại chỉ là sự thay đổi ở người nông dân thay vì từ Nhà nước.

          Về phía nông dân, ông Hoan yêu cầu: “Người nông dân cần nhận thức rằng cuộc đời của mình là do chính mình quyết định. Muốn vậy, người nông phải có ý chí mạnh mẽ, suy nghĩ tích cực, thay vì than thân, trách phận hay trông chờ ỷ lại”. Trong khi về phía Nhà nước, ông Hoan chỉ đưa ra các giải pháp: xây dựng “chuỗi giá trị ngành hàng”, “hệ sinh thái ngành hàng”; kêu gọi nhiều nhà đầu tư tham gia vào các “Cụm liên kết công – nông nghiệp”.

          Thay vì chỉ sử dụng kinh nghiệm có được từ Đồng Tháp và sự hiểu biết về nông nghiệp và nông thôn miền Tây. Ông Lê Minh Hoan cần trang bị cho mình một tầm nhìn rộng hơn. Nông nghiệp phải được coi là một ngành kinh tế, rất đúng. Nhưng sự thay đổi đó không chỉ bắt đầu từ nông dân. Phải có những thay đổi chính sách cần sự hợp tác liên ngành. Vai trò “nhà nước” mà ông Hoan nêu ra chỉ là tư duy từ vai trò của “doanh nghiệp nhà nước”.

          Nông nghiệp không đơn giản chỉ là một mô hình kinh tế mà còn gắn với nông thôn, một mô hình sống. Phải có chính sách để 10 – 15 năm nữa, người dân không phải làm nhà nhao ra mặt đường hay xé lẻ ruộng vườn mà tạo thành các cụm dân cư (thành LÀNG) – mọc lên ở những nơi cao ráo và đất ở đó ít màu mỡ nhất. Phải có chính sách để những nơi đất đang cho giá trị kinh tế nông nghiệp cao không bị các nhà kinh doanh địa ốc bắt tay với chính quyền biến thành các Ecopark, Văn Giang…

          LÀNG phải trở thành một không gian sống, không gian văn hóa của người dân ở các vùng nông thôn. LÀNG hình thành từng cụm để tối ưu khi đầu tư hạ tầng y tế, văn hóa, giáo dục và điện, nước…

          LÀNG như thế chỉ có thể hình thành trên một nền tảng người dân có quyền quyết định mảnh đất của mình và ruộng đất được tích tụ (bằng mua bán, sang nhượng, hoặc bằng sự tự nguyện hợp tác của các chủ ruộng…) để hiện đại hóa sản xuất nông nghiệp, công nghiệp hóa sản phẩm nông nghiệp. LÀNG như thế mới trở thành một đảm bảo cho người nông dân, muốn li nông không phải li hương, giảm bớt những thảm họa nhân đạo như chúng ta đang chứng kiến.

          Mời chị
          Vu Kim Hanh đọc

          (4)

          CHUYỆN CỤ LÊ HUY NGỌ
          Hoàng Kim

          Cụ Lê Huy Ngọ sinh năm 1938 tại phường Tĩnh Hải, thị xã Nghi Sơn Thanh Hóa. Cụ nguyên là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Phó Trưởng ban Thường trực Ban Tổ chức Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Phú, Bí thư tỉnh ủy Thanh Hóa. Cụ cũng nguyên là Bộ trưởng Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam, sau đó làm Trưởng ban Phòng chống Bão lụt Trung ương.

          Cụ Lê Huy Ngọ lưu ấn tượng rộng khắp toàn quốc và sâu trong lòng dân là từ khi cụ làm Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn từ năm 1997 cho đến năm 2004 thì cụ xin từ chức sau vụ tai tiếng bị cảnh cáo đảng vì trách nhiệm buông lỏng quản lý trong vụ án Lã Thị Kim Oanh, tuy cụ không trực tiếp ký vào các văn bản làm trái, mà người ta cho rằng cụ chẳng phải chịu trách nhiệm nhiều đến như thế nhưng cụ vẫn quyết định ra đi. Cụ sau đó đã được Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm vào chức Trưởng ban Phòng chống Lụt bão Trung ương.và chính thức nghỉ hưu từ tháng 10 năm 2007.

          Người dân Việt Nam cho đến nay nhớ về cụ dường như là nhớ ngay đến người bộ trưởng nông nghiệp ấn tượng “Đội sấm Đội chớp Đội cả trời mưa”. Cụ có lối nghĩ, lối nói, lối viết trực canh và thân tình. Tôi lưu một trích đoạn trong bài phỏng vấn có ghi âm của anh Dương Đình Tường phóng viên Báo Nông nghiệp Việt Nam để đọc lại và suy ngẫm (xem toàn văn bài trao đổi này
          https://www.facebook.com/groups/136513926973822/posts/479319609359917/ ).

          *

          Nguyên Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp & PTNT Lê Huy Ngọ:
          ĐỪNG TƯỞNG XE HƠI, NHÀ LẦU MÀ ĐÃ SƯỚNG!
          Dương Đình Tường ghi

          Đừng tưởng xe hơi, nhà lầu mà đã sướng. Chưa chắc đã sướng bằng anh nông dân có ruộng đất, có ao, có vườn, có sản xuất hàng hóa, bán được, có tiền xây nhà to, một số đã có ô tô, có giúp việc. Bây giờ rất nhiều người đã ra thành phố không chịu nổi áp lực lại quay về mua ruộng, thuê ruộng làm nông nghiệp, đó là cách sống chứ không hoàn toàn là kiếm sống. Sống chậm, gắn với thiên nhiên, nấu một nồi cơm, hái một ít rau của mình làm ra mà ăn sướng hơn đi mua rất nhiều…

          Nhiều người nhìn vào khuôn mặt khắc khổ của ông là thấy mênh mông biển nước lũ và một Bộ trưởng quần xắn lên tận đùi lội bì bõm còn tôi thì nhìn thấy một người cha già ngồi câm nín chăm sóc cho đứa con dị tật trong những ngày tháng không phải đi đâu đó. Là người rất cẩn trọng, nói gì cũng phải cho ông xem lại nên nhiều phóng viên rất ngại bởi lúc chuyện trò thì nhiệt huyết nhưng đến khi xem xong lại bảo: “Thôi chuyện này tế nhị, bác xin rút”. Và bài này khi lên báo đã được ông chỉnh sửa cắt gọt lại rất kỹ nhưng tôi cứ mạo muội xin post nguyên gốc theo bản ghi âm…

          Nông hộ bây giờ có gì khác?

          Vừa rồi chúng ta bằng phương thức nông hộ nhỏ nhưng đã sản xuất hàng hóa lớn, tạo ra 6-7 hàng hóa có vị thế trong khu vực và trên thế giới như lúa gạo, cà phê, tiêu, điều, tôm, cá tra. Đó là sự thật. Tuy nhiên vấn đề bức xúc hiện nay của nông hộ là nhỏ lẻ, năng suất thấp, chất lượng thấp, khả năng cạnh tranh rất yếu.

          Sản xuất nông hộ nhỏ là sự kế tục và phát huy của khoán hộ, trao lại ruộng đất cho nông dân để họ có quyền sử dụng đất đai của mình, để họ được hưởng thụ thành quả lao động của mình. Khát vọng về đất đai được giải tỏa phần lớn, tuy rằng chưa hết. Nông dân có quyền được sử dụng, được chuyển nhượng đất. Ruộng đất coi như tài sản của họ tuy không phải là sở hữu. Nó thấp hơn sở hữu nhưng dù sao cũng thỏa mãn khát vọng của người nông dân với đất đai.

          Nông hộ bây giờ so với trước có gì khác? Nông hộ gắn liền với vấn đề đất đai, đặc biệt gắn với quyền sở hữu về đất. Chính vì thế mà ngay khi cách mạng thành công, người ta chia ra, tôi nói về mặt quy mô sản xuất hàng hóa thôi chứ không nói đến chính trị có: Địa chủ quy mô sản xuất lớn sử dụng đất đai và có thuê lao động. Đại chủ là nhân tố lớn, sử dụng đất vượt qua khả năng lao động của họ, còn chuyện địa tô thì là câu chuyện khác. Có hộ phú nông tức là tuy giàu có nhưng tự làm lấy là chính, manh nha sản xuất hàng hóa lớn. Có hộ trung nông hoàn toàn là tự túc về tổ chức sản xuất, về lao động, về đầu tư. Có bần, cố nông những người ít ruộng hoặc không ruộng phải đi làm thuê cho địa chủ, cho phú nông.

          Làm nông nghiệp tức là kinh doanh nông nghiệp. Hộ gia đình có sức mạnh bởi nó gắn với sở hữu. Đất đai là tài sản lớn, là động lực lớn của người nông dân. Ngoài đất đai ra nông thôn còn có cái gì? Đất đai là động lực thúc đẩy sản xuất.

          Trong nông nghiệp, cho đến bây giờ, dù có những bước phát triển rất lớn về khoa học, về công nghệ, về trình độ quản trị sản xuất vẫn phải thông qua sinh vật sống, rất nhạy cảm. Nông nghiệp gắn với thời tiết thiên tai bởi thế có thể cần cù, chịu khó đấy nhưng chưa chắc đã có thu hoạch.

          Trực canh, trực tiếp quản lý, trực tiếp lao động trong nông nghiệp trở thành một phương sách về quản trị. Cho đến bây giờ dù chúng ta đã trải qua biết bao thăng trầm ngày hôm nay vẫn thế. Tưởng tập đoàn lớn trong nông nghiệp thế nào nhưng cũng là trực canh theo hộ, vẫn là của hộ quản lý nhưng bằng phương tiện khoa học kỹ thuật mới. Dù là hộ lớn, hộ vừa, hộ nhỏ thì trực canh vẫn là hiệu quả nhất.

          Hộ nhỏ gắn với việc sử dụng lao động rất khôn khéo, có hiệu quả. Người khỏe có việc khỏe, người yếu có việc yếu. Chồng có việc chồng , vợ có việc vợ, con có việc con, già có việc của già. Tổng hợp sức lao động và năng suất lao động của một hộ cao hơn rất nhiều. Khoán hộ của Vĩnh Phú ra đời trong hoàn cảnh năm 1968 thanh niên trai trẻ ra tiền tuyến, lực lượng khỏe đi thanh niên xung phong còn lại chỉ người già, phụ nữ. Làm nông nghiệp lúc đó máy móc chưa có gì nên ông Kim Ngọc bắt đầu suy nghĩ đến vấn đề quản lý lao động như thế nào để làm nông nghiệp.

          Còn cứ đánh kẻng, cứ sử dụng hợp tác xã thì không thể nào được vì lao động trẻ khỏe ít, thứ nữa là không gắn với quyền lợi của người ta nên không nhiệt tình. Thậm chí làm ra lúa mà còn phải huy động bộ đội ra gặt, cày bừa cấy hái phải huy động lực lượng ra hỗ trợ. Muốn sử dụng hiệu quả hộ nông nghiệp thì phải khoán hộ. Khoán hộ còn có ẩn ý là thông qua khoán cả gia đình được hưởng sản phẩm theo kết quả lao động. Kết quả đó không phải của một người mà của cả nhà từ ông bà, bố mẹ, con cháu tạo nên sức mạnh của hộ nông nghiệp.

          Hộ gắn với phương thức sản xuất kéo dài trong suốt quá trình lịch sử là tự túc tự cấp. Thực ra ở ta phương thức sản xuất nông nghiệp hàng hóa ban đầu cũng có một số địa chủ, phú nông thực hiện nhưng không phổ biến. Giờ bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, đang thu hút nhiều lao động trẻ khỏe của nông nghiệp, thu hút đất đai của nông nghiệp nhưng bền chặt vẫn cứ là hộ. Hộ nếu chỉ nói về mặt kinh tế không thôi thì đúng là họ chán, họ cho mượn ruộng hưởng dăm bảy cân thóc sạch, họ bỏ ruộng nhưng bỏ ruộng mà lại không bán ruộng, đó là mâu thuẫn. Vì sao? Phải là người nông dân mới hiểu được vấn đề này.

          Hiểu và cảm thông với nông dân:

          Đã thành truyền thống, thửa ruộng gắn bó với người nông dân như một thứ song hành trong quá trình lịch sử. Thửa ruộng là nơi sản xuất, là văn hóa, là cuộc sống của họ. Có một bộ phận làm ở thành phố thất bại quay về làm nông nghiệp để kiếm sống nhưng cũng có một bộ phận không nhỏ quay về làm nông nghiệp như một cách sống phù hợp với tạng người của mình. Một cái nhà ba gian hai chái, có giếng nước, vài ba sào ruộng, một cái ao nuôi cá, một cái vườn trồng cây, thả gà, rau quả tự trồng khi ăn cảm thấy sung sướng. Người ta không kỳ vọng nhà lầu, xe hơi hay phải có những doanh nghiệp to lớn. Một phong cách sống gắn với nông nghiệp, với môi trường, với thiên nhiên mà người ta chấp nhận phong cách sống dù mức sống thấp hơn so với thành thị. Phải nhìn như thế mới lý giải được tại sao đói nghèo mà vẫn khư khư giữ ruộng.

          Nông hộ hiện nay còn có nguồn không dễ nhìn thấy được là do đô thị, do công nghiệp mang lại. Con cái đi làm trên thành phố rồi gửi về cho bố mẹ ở quê tiền để thuê cày bừa, gặt hái, xay xát. Gạo ngon, cây trái ngon, cái gì ngon thì bán tại nhà chứ không bán ở chợ. Cho nên việc người ta giữ đất, giữ nông nghiệp còn có một lý do nữa là được cung cấp một “nguồn lực chìm”. Làm nông nghiệp bằng tiền của công nghiệp, bằng nguồn lực nhỏ của từng hộ chứ không phải nguồn lực lớn.

          Nhìn nhận sự tồn tại, níu giữ của nông hộ có lý do kinh tế, có lý do xã hội, có lý do thuộc về quan niệm sống, cách sống. Làm nông nghiệp để kiếm sống và làm nông nghiệp để có một cách sống phù hợp với từng tạng người.

          Cho nên ngày hôm nay vẫn còn tồn tại nông nghiệp hộ, ngày mai vẫn còn tồn tại nông nghiệp hộ, ngày kia vẫn còn tồn tại nông nghiệp hộ nhưng mà quy mô và phương thức quản trị có khác. Làm trang trại kiểu TH vẫn là hộ nhưng được quản trị theo phương pháp sản xuất hàng hóa lớn và công nghiệp. Sở hữu gắn với trực canh là một nguyên lý. Giao đất cho ai thì giao nhưng vẫn phải trực canh, không được dùng đất đai như một thứ hàng hóa để quản lý.

          Nếu nói nông nghiệp mà không nói đến nông dân sẽ không hiểu được vì sao ba sào ruộng bỏ hoang đó không bán mà lại chỉ cho thuê. Không bán ruộng đất cũng còn một lý do nữa đất nước mình có nhiều cuộc bể dâu. Thiên tai đã đành còn chiến tranh xâm lược, còn những sự cố như cải cách ruộng đất, giao đất vào HTX kiểu cũ, chạy đi đâu? Về quê dựa vào ba sào ruộng là yên tâm. Ruộng đất là sự đảm bảo. Phải thương nông dân, thông cảm với họ, đừng chê họ bảo thủ, thâm canh cố đế. Họ có nhiều phẩm chất tốt lắm.

          Sắp tới nông hộ ra sao?

          Trong thời kỳ công nghiệp hóa thì nông nghiệp cũng bước vào công nghiệp hóa (cơ giới hóa, hiện đại hóa, công nghệ cao) chứ không phải chỉ có công nghiệp hóa nói chung. Quan điểm của tôi là nông hộ luôn đồng hành cùng nông nghiệp hàng hóa quy mô lớn, kể cả hội nhập thì nông hộ vẫn tồn tại. Nhưng nông hộ sẽ có nhiều loại chứ không phải chỉ một loại bình quân chủ nghĩa như trước đây (đất chia bình quân theo khẩu). Nông hộ sẽ có bước phát triển khác so với trước đây. Khuyến khích tích tụ ruộng đất nhưng phải tôn trọng quyền tài sản mà tốt hơn là quyền sở hữu ruộng đất của nông dân.

          Thứ nhất, hiện nay tôi cho rằng nông hộ nhỏ vẫn còn phù hợp ở những nơi như miền núi, ruộng bậc thang. Ruộng bậc thang là cách lam nông nghiệp bền vững nhất ở đây, vừa hợp với môi trường sinh thái vừa hợp với điều kiện kinh tế xã hội. Không thể đem cày máy ra mà san phẳng được.Công nghệ cao cũng rất cần cho miền núi nhưng phải thích nghi được với điều đó.

          Nhật nông nghiệp chỉ chiếm 1% GDP với tổng số hộ làm khoảng 3 triệu, chiếm 6,4% số hộ). Ở đó hộ nhỏ vẫn giữ, vẫn làm nông nghiệp công nghệ cao nhờ vào hệ thống các doanh nghiệp dịch vụ nông nghiệp. Hộ nông nghiệp của họ không phải chơi vơi một mình trong biển cả mà nằm trong một liên kết sản xuất bằng ba liên kết lớn: Thứ nhất là hộ nhỏ tự họ liên kết với nhau thành HTX. HTX tôn trọng sản xuất hộ và hỗ trợ bằng tất cả dịch vụ đầu vào, đầu ra đồng thời quảng bá thương hiệu. Anh cứ yêu mảnh ruộng của anh đi nhưng anh phải làm theo tôi, theo yêu cầu của thị trường.

          Hồi ấy khi làm Chủ tịch tỉnh Vĩnh Phú tôi đã sang Nhật nghiên cứu về chè, tôi tưởng họ làm bạt ngàn nhưng không phải. Vẫn là hộ nhỏ thôi nhưng tất cả phải chấp hành quy trình kỹ thuật giống như thế nào, khoảng cách như thế nào, chăm bón như thế nào, ra sản phẩm HTX sẽ đảm bảo tiêu thụ cho. Đảm bảo quyền sở hữu của nông dân là động lực lớn nhất của sản xuất nông nghiệp.

          Thứ hai là hộ sản xuất vừa. Đó chính là hệ thống trang trại của Việt Nam hiện nay đang có mấy vạn trang trại được quyền sử dụng ruộng đất lâu dài. Họ cũng bắt đầu đi vào quản trị theo hướng doanh nghiệp và có nhiều nơi đã thuê chuyên gia, thuê kỹ sư. Tôi chỉ tiếc một điều là chúng ta hô phát triển trang trại nhưng lại không hô được phần chính sách hỗ trợ nó như đất đai, vốn, khoa học công nghệ và thúc đẩy thị trường.

          Thứ ba là xin mời các doanh nghiệp sản xuất hàng hóa, công nghệ cao, gắn với thị trường vào đầu tư. Các doanh nghiệp nông nghiệp khác với doanh nghiệp công nghiệp, phải gắn với đặc điểm sinh lý của từng đối tượng cây trồng, vật nuôi, phải gắn với thời tiết, lợi thế của từng vùng, phải gắn với quyền về đất đai của nông dân.Hãy giúp đỡ nông hộ, hỗ trợ họ kiếm sống được và sống được theo cách của mình chứ đừng lăm le xóa đi.

          Những thứ lạ của Việt Nam ta

          Các chuyên gia Nhật Bản từng bảo với tôi rằng ở nông thôn Việt Nam có hai điều lạ. Thứ nhất là tại sao người nông dân giỏi đến như thế mà lại rất sợ liên kết, sợ liên doanh. Chẳng qua theo tôi là bởi họ bị lừa nhiều quá.

          Thứ hai là đến Việt Nam trông thấy rừng mà không trông thấy cây. Cánh đồng lúa rất rộng, các vườn cà phê rất tuyệt vời nhưng hỏi ra có ai ở trong cánh đồng đó được diện tích lớn không? Không có. Vì sao? Đó là hậu quả của việc chúng ta chia đất hồi khoán hộ. Xưa có bần nông, cố nông, trung nông, địa chủ là chủ đất nhưng đến HTX chẳng có ai làm chủ mà chỉ có HTX là chủ, đến khi chia ra theo đầu người, bình quân chủ nghĩa có gần có xa, có xấu có tốt. Cứng nhắc như thế thì làm gì có hộ nông dân lớn? Cho đến bây giờ lại bắt đầu bỏ tiền ra để dồn điền đổi thửa, cho chuyển nhượng, cho thuê là phải làm lại cho đúng quy luật trực canh, cho đúng quy luật sinh học, cho đúng quy luật sở hữu gắn với quyền.

          Vậy ta có khôi phục nông nghiệp theo hướng đó, chỉ nói về quy mô chứ không nói chính trị? Đã có rồi, thứ nhất là tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đầu tư, có hàng trăm doanh nghiệp, đó chính là “địa chủ”. Các trang trại là trung nông. Còn các nông hộ nhỏ nữa. Phải tìm cách để cho họ không chỉ sống được mà còn sống khá giả, tôn trọng những người không chỉ kiếm sống mà cả cách sống của họ nữa.

          Phải công nghiệp hóa nông nghiệp. Phải tạo ra hệ thống dịch vụ nông nghiệp phát triển bền vững từ giống, phân bón, thuốc trừ sâu. Phải tổ chức HTX để mà liên kết các hộ lại, tạo ra sản xuất hàng hóa lớn. Phải có chính sách hỗ trợ cho các nông hộ nhỏ, nhất là đối với miền núi.

          Đó là đoạn trường tân thanh. Nông nghiệp là trụ đỡ, là vấn đề cơ bản của xã hội thì đúng cả. Nhưng nói nông nghiệp là một chủ thể phải được hỗ trợ trong quá trình công nghiệp hóa này. Máy móc của ta có gì? Toàn nhập. Phân bón cũng nhập. Từ những thứ nhỏ nhất như máy băm cỏ, máy sấy chè đều phải nhập tất. Chúng ta muốn có một nền nông nghiệp hiện đại mà lại không có một công nghiệp hiện đại về nông nghiệp làm sao mà có được?

          Phải tổ chức lại nền sản xuất nông nghiệp theo hướng nông hộ có liên kết, có liên doanh, có kết quả gắn trong chuỗi giá trị và gắn với thị trường. Muốn tích tụ được phải công nhận đất đai là tài sản của nông dân và phải thương lượng trên cơ sở thỏa thuận giá thị trường chứ không phải chính quyền địa phương thích thì làm, thì ra quyết định thu hồi. Cứ dựa vào mấy ông to bà lớn, thích làm nông nghiệp lớn rồi ra quyết định thu hồi rồi trả cho người ta không có thương lượng là không được. Tích tụ ruộng đất cần phải có nguyên tắc là trực canh chứ không được phát canh thu tô.

          Xem tiếp Đọc lại và suy nghẫm
          https://hoangkimlong.wordpress.com/category/doc-lai-va-suy-ngam/

          BAN MAI LẶNG LẼ SÁNG
          Hoàng Kim


          Ban mai lặng lẽ sáng
          Phúc hậu tới thảnh thơi
          Minh triết và sáng tạo
          Vui đi dưới mặt trời

          Hiền lành ẩn trí tuệ
          Đức độ là tinh anh
          Bảo tồn và trưởng thành
          Một niềm tin thắp lửa

          Sách hay là bạn quý
          Lời ngọc học để làm
          Tỉnh thức nhớ chuyện cũ
          Chiếu đất ở Thái An

          Ban mai lặng lẽ sáng
          Ngày mới bình minh an

          Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là chao-don-binh-minh-an-1.jpg

          Ban mainắng mới lên
          Hoa bình minh tỉnh thức
          Long lanh hương trời đất
          Lộc non xanh mướt cành.

          Chào đón bình minh an
          Bà cõng cháu nấu cơm
          Ông cùng con dọn vườn
          Vui khỏe cùng trẻ thơ …

          Gõ ban mai vào phím
          Mặt trời nào đang lên ?

          Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là 2-nhatoi.jpg
          Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là binh-minh-1.jpg
          Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là an-vien-nuoc-hoang-gia.jpg

          SỚM THU THƠ GIỮA LÒNG
          Hoàng Kim

          Tỉnh thức ban mai đã sớm thu
          Sương đêm giữ ngọc ướt cành tơ
          Ai ơi gieo đậu vừa rồi đấy
          Lộc biếc me xanh chín đợi chờ.

          *

          Sớm thu trên đồng rộng
          Em cười trời đất nghiêng
          Lúa ngậm đòng con gái
          Em đang thì làm duyên.

          Sớm thu trên đồng rộng
          Cây đời xanh thật xanh
          Lúa siêu xanh tỏa rộng
          Hương lúa thơm mông mênh.

          Sớm thu trên đồng rộng
          Trời đất đẹp lạ lùng
          Bản nhạc vui an lành
          Ơi đồng xanh yêu dấu…

          *

          Thích thơ hay bạn quý
          Yêu sương mai đầu cành
          Bình minh chào ngày mới
          Vườn nhà bừng nắng lên

          Cà phê vui bầu bạn
          Trung thu bánh tình thân
          Phố núi cao thu sớm
          Gia an nguyên lộc gần.

          *

          Thanh thản an vui dạo dọn vườn
          Vui thầy mừng bạn ngát thêm hương
          Đường xuân nhàn hạ phai mưa nắng
          Tâm sáng an lành trãi gió sương
          Thoắt đó vườn thơm nhiều quả ngọt
          Mới hay nhà phước lắm con đường
          An nhiên vô sự là tiên cảnh
          Sớm thu mai nở nắng thu vương.

          https://hoangkimlong.wordpress.com/category/som-thu-tho-giua-long/

          Sớm thu thơ giữa lòng gồm thơ tác giả lưu chung với 19 bài thơ tinh tuyển chọn lọc “Mùa thu trong thi ca” gồm: Chớm thu Hoàng Gia Cương; Thu mưa Đỗ Phủ; Thu mưa Nguyễn Hoài Nhơn; Thu vịnh Nguyễn Khuyến; Thu buồn Đỗ Phủ; Thu hứng Đỗ Phủ; Thu sơn Bạch Cư Dị; Chiều thu Nguyễn Bính; Tiếng thu Lưu Trọng Lư; Thu tứ Bạch Cư Dị; Đêm thu Trần Đăng Khoa; Đêm thu Quách Tấn; Thu ẩm Nguyễn Khuyến; Thu ca Chanson d’automne (Paul Verlaine);Thu vàng Alexxandr Puskin; Thu vàng Thu Bồn; Giọt mưa thu Thái Lượng; Nắng thu Nam Trân; Thơ gửi mùa thu Nguyễn Hoài Nhơn; Thư tình gửi mùa thu, nhạc Phan Huỳnh Điểu phổ thơ Xuân Quỳnh.

          CHỚM THU
          Hoàng Gia Cương

          Ban mai rười rượi – thu vừa chớm
          Gió lạc vườn ai bỡn trái hồng
          Khóm trúc dáng chừng đang độ lớn
          Ngỡ ngàng lối ngõ đẫm hơi sương!

          Mây bông lặng vén rèm che mỏng
          Để nắng non nghiêng liếc trộm vườn
          Hàng cúc xốn xang gờn gợn sóng …
          Hình như trời đất biếc xanh hơn!

          Qua bao giông bão bao mưa lũ
          Đất lại hồi sinh lại mượt mà
          Chấp chới cánh diều loang loáng đỏ
          Cố giữ tầm cao, níu khoảng xa!

          1998
          [1] Chớm thu, Hoàng Gia Cương THEO DÒNG THỜI GIAN
          Thơ tuyển chọn 2013. NXB Văn Học Hà Nội, tr.101

          VƯỜN THU
          Hoàng Thanh Luận

          Nhỏ nhỏ con con một mảnh vườn
          Bầu trời xanh ngắt đượm mùi hương
          Phong lam một nhánh đang khoe sắc
          Gốc bưởi nhiều cành trĩu nặng sương
          Sớm sớm chim về vui hội mới
          Chiều chiều ong đến rộn gia đường
          Môi trường sinh thái ru nhè nhẹ
          Cảnh ấy người đây cứ vấn vương

          THU MƯA
          Đỗ Phủ
          Dịch thơ Khương Hữu Dụng

          Xem tiếp >>

            Dạy và học 11 tháng 8(11-08-2021)

           

           

          International Webinar on Cassava Virus 10 8 2021 (online), photograph by Hoang Kim, see more https://hoangkimlong.wordpress.com/category/chon-giong-san-viet-nam/

           

          DẠY VÀ HỌC 11 THÁNG 8
          Hoàng Kim
          CNM365 Tình yêu cuộc sốngChọn giống sắn Việt Nam; Chọn giống sắn kháng CMD; MARDI và những người bạn. Trung Quốc một suy ngẫm; Lên Thái Sơn hướng  Phật; Chiếu đất ở Thái An; Phú Yên online:TS Nguyễn Thị Trúc Mai gửi đam mê vào cây sắn; Một niềm tin thắp lửa; Kuala Lumpur (hình) trở thành thủ đô liên bang và là điểm dân cư đầu tiên của Malaysia được trao địa vị này ngày 1 tháng 2 năm 1972 sau khi độc lập theo chiếu chỉ Quốc vương Yang di-Pertuan Agong của Malaysia Ngày 11 tháng 8 năm 1960 là ngày Độc lập của nước Cộng hòa Tchadlà một quốc gia không giáp biển, có dân số trên 12 triệu người tai Trung Phi. Tchad giáp với Libya ở phía bắc, với Sudan ở phía đông, với Cộng hòa Trung Phi ở phía nam, với Cameroon và Nigeria ở phía tây nam và với Niger ở phía tây. Ngày 11 tháng 8 năm 1947,  Muhammad Ali Jinnah đọc một diễn văn trước Hội đồng Lập pháp Pakistan, trình bày viễn kiến của Jinnah về tương lai của Nhà nước Pakistan; Bài chọn lọc ngày 11 tháng 8:Chọn giống sắn Việt Nam; Chọn giống sắn kháng CMD; MARDI và những người bạn. Trung Quốc một suy ngẫm; Lên Thái Sơn hướng  Phật; Chiếu đất ở Thái An; Phú Yên online:TS Nguyễn Thị Trúc Mai gửi đam mê vào cây sắn; Một niềm tin thắp lửa; Thông tin tại  https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-11-thang-8

           

           

          Chọn giống sắn Việt Namhttps://hoangkimlong.wordpress.com/category/chon-giong-san-viet-nam/ Cassava in Vietnam conservation and sustainable development
          Nguyen Thi Truc Mai, Hoang Kim, Hoang Long, et al., an overview

          CHỌN GIỐNG SẮN VIỆT NAM
          Hoàng Kim
          , Hoàng Long, Nguyễn Thị Trúc Mai, Nguyễn Bạch Mai, Nguyễn Việt Hưng, Trần Công Khanh (Bài tổng hợp dùng để giảng dạy sắn trong nhà trường và làm tài liệu khuyến nông)

          Việt Nam có tổng diện tích sắn thu hoạch năm 2018 là 513.000 ha, với năng suất sắn củ tươi bình quân 19,2 tấn/ ha, sản lượng sắn củ tươi 9,84 triệu tấn. Hai giống sắn chủ lưc KM419 và KM94 chiếm lần lượt 38% và 31,7% tổng diện tích sắn Việt Nam, là hai giống sắn thương mại phổ biến nhất Việt Nam hiện nay.
          RTB Newsletter 2016. Assessment reveals that most cassava grown in Vietnam has a CIAT pedigree, http://www.rtb.cgiar.org/2016-annual-report/assessment-reveals-that-most-cassava-grown-in-vietnam-has-a-ciat-pedigree/ .
          Nguồn gốc và đặc điểm của hai giống sắn chủ lực KM419, KM94 và bốn giống sắn có diện tích trồng phổ biến rộng tại Việt Nam KM140, KM98-5, KM98-1, SM937-26 như sau

          Giống sắn KM419
          Giống sắn KM 419 được chọn tạo từ tổ hợp lai BKA900 x KM 98-5. Giống do Trường Đại học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh phối hợp với Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Phú Yên, Trường Đại học Nông Lâm Huế tuyển chọn và giới thiệu (Hoàng Kim, Trần Ngọc Ngoạn, Nguyễn Thị Trúc Mai, Võ Văn Quang, Nguyễn Bạch Mai, Nguyễn Thị Lệ Dung, Nguyễn Phương, Hoàng Long, Nguyễn Minh Cường, Đào Trọng Tuấn, Trần Công Khanh, Nguyễn Minh Hiếu, Nguyễn Văn Bộ, Nguyễn Thị Cách, Nguyễn Trọng Hiển, Lê Huy Ham, H. Ceballos and M. Ishitani. (2016), Giống được Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn công nhận sản xuất thử tại Quyết định số 85 / QĐ-BNN-TT Hà Nội ngày 13 tháng 1 năm 2016 cho vùng sinh thái Bắc Trung Bộ, Duyên hải Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ).

           

           

          Giống sắn KM419 là giống sắn chủ lực của Việt Nam có diện tích thu hoạch năm 2016 chiếm 38 % so với giống sắn KM94 chiếm 31,7% (RTB Newsletter 2016. Assessment reveals that most cassava grown in Vietnam has a CIAT pedigree), và năm 2019 giống sắn KM419 chiếm khoảng 42% tổng diện tích sắn toàn Việt Nam

           

           

          Giống KM419 có đặc điểm:

          + Thân xanh xám thẳng, ngọn xanh cọng đỏ, lá xanh đậm, không phân nhánh.
          + Năng suất củ tươi: 34,9-54,9 tấn/ha.
          + Tỷ lệ chất khô: 35,1- 39.0%.
          + Hàm lượng tinh bột: 27,8 – 30,7%.
          + Năng suất tinh bột: 10,1-15,8 tấn/ ha
          + Chỉ số thu hoạch: 62 %.
          + Thời gian thu hoạch: 7-10 tháng.
          + Nhiễm trung bình bệnh chồi rồng và bệnh khảm lá virus CMD
          + Cây cao vừa, nhặt mắt, tán gọn, thích hợp trồng mật độ dày 12,500- 14.000 gốc/ ha .

           

           

          Giống sắn KM419 đã phát triển rộng rãi tại Tây Ninh, Đồng Nai, Đắk Lắk, Phú Yên,…được nông dân các địa phương ưa chuộng với tên gọi sắn giống cao sản siêu bột Nông Lâm. Đặc biệt tại tỉnh Phú Yên giống sắn KM419 được trồng trên 85% tổng diện tích sắn của toàn tỉnh mang lại bội thu năng suất và hiệu quả cao về kinh tế xã hội. Tại Tây Ninh, năm 2019 diện tích sắn bị nhiễm bệnh CMD tuy vẫn còn cao nhưng mức độ hại giảm mạnh, lý do vì KM419 và KM94 là giống chủ lực chiếm trên 76% diện tích mỗi vụ của toàn tỉnh (KM419 chiếm 45% ở vụ Đông Xuân và 54,2% ở vụ Hè Thu; KM94 chiếm 31% ở vụ Đông Xuân và 21,6% ở vụ Hè Thu). Tại Đăk Lắk, năm 2019 diện tích sắn KM419 chiếm trên 70% diện tích mỗi vụ của toàn tỉnh.

          Sự bùng nổ về năng suất sản lượng và hiệu quả kinh tế sắn đã trùng hợp với sự xuất hiện, lây lan của các bệnh hại bệnh sắn nghiêm trọng. Đặc biệt bệnh khảm lá CMD do virus gây hại (Sri Lanka Cassava Mosaic Virus) lây lan rất nhanh và gây hại khủng hoảng các vùng trồng sắn. Tại Việt Nam, bệnh này được phát hiện vào tháng 5/2017 trên giống sắn HLS11, đến tháng 7/ 2019 bệnh đã gây hại các vùng trồng sắn của 15 tỉnh, thành phố, trên hầu hết các giống sắn hiện có ở Việt Nam. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Cục BVTV đã có văn bản 1068 ngày 9/5/2019 xác định “Việc hướng dẫn nông dân mua giống KM419 sạch bệnh là giải pháp an toàn, kinh tế nhất hiện nay” .

          Nghiên cứu tuyển chọn giống sắn năng suất tinh bột cao, kháng được sâu bệnh hại chính (CMD, CWBD) phù hợp với điều kiện sản xuất tại tỉnh Phú Yên và vùng phụ cận (Nguyễn Thị Trúc Mai, Hoàng Kim, Hoàng Long và đồng sự 2020). Sử dụng giống sắn KM419 năng suất tinh bột cao và nhiểm trung bình bệnh CMD và bệnh chồi rồng (CWBD) để đưa thêm vào gen mục tiêu (C39) kháng bệnh. Chọn tạo và phát triển 1-2 các giống sắn mới trong phả hệ các giống sắn triển vọng KM568, KM537, KM536, KM535, KM534 là nội dung nghiên cứu quan trọng “Chọn tạo sắn Việt Nam” cấp thiết, có tính khả thi cao, tính mới cao, kế thừa và phát triển bền vững giống sắn ở Việt Nam tốt nhất hiện nay.

          Giống sắn KM 94

          Tên gốc KU50 (hoặc Kasetsart 50) được nhập nội từ CIAT/Thái Lan trong bộ giống khảo nghiệm Liên Á năm 1990. Giống do Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam, Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam, Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên nhập nội, tuyển chọn và giới thiệu (Trần Ngọc Quyền, Hoàng Kim, Võ Văn Tuấn, Kazuo Kawano 1995, Trịnh Phương Loan, Trần Ngọc Ngoạn và ctv. 1995). Giống được Bộ Nông nghiệp và PTNT công nhận giống quốc gia năm 1995 trên toàn quốc tại Quyết định số 97/NN-QLCN/QĐ ngày 25/11/1995. Giống sắn KM94 là giống sắn chủ lực của Việt Nam có diện tích thu hoạch năm 2008 chiếm 75, 54% (Hoang Kim Nguyen Van Bo et al. 2010), năm 2016 chiếm 31,8 % và năm 2019 chiếm khoảng 37% tổng diện tích sắn toàn Việt Nam

           

           

          Giống KM94 có đặc điểm:

          + Thân xanh xám, ngọn tím, không phân nhánh.
          + Năng suất củ tươi: 33,0 tấn/ha.
          + Tỷ lệ chất khô: 35,1- 39.0%.
          + Hàm lượng tinh bột: 28,7%.
          + Năng suất tinh bột: 7,6-9,5 tấn/ ha
          + Chỉ số thu hoạch: 58 %.
          + Thời gian thu hoạch: 9-11 tháng.
          + Nhiễm trung bình bệnh chồi rồng, bệnh khảm lá sắn CMD và bệnh cháy lá
          + Cây cao, cong ở phần gốc, thích hợp trồng mật độ 10.000-11 000 gốc/ ha .

           

           

          Giống sắn KM 140

          Giống sắn KM140 là con lai của tổ hợp KM 98-1 x KM 36 do Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam tuyển chọn và giới thiệu (Trần Công Khanh, Hoàng Kim, Võ Văn Tuấn, Nguyễn Hữu Hỷ, Phạm Văn Biên, Đào Huy Chiên, Reinhardt Howeler và Hernan Ceballos 2007, 2009). Giống KM140 được Bộ Nông nghiệp & PTNT, cho phép sản xuất thử trên toàn quốc (Quyết định số 3468/ QĐ- BNN- TT, ngày 05/ 11/ 2007) và công nhận chính thức tại Quyết định số 358 ngày 20 tháng 09 năm 2010 và cho phép sản xuất hàng hoá trên toàn Quốc theo Thông tư số 65. 65/2010/TT-BNNPTNT, ngày 05 tháng 11 năm 2010 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn. 0714-10-10-00.và đoạt giải Nhất Hội thi sáng tạo kỹ thuật toàn quốc VIFOTECH năm 2010. Giống KM140 được trồng nhiều tại các tỉnh phía Nam với diện tích thu hoạch năm 2008 trên 30.000 ha, năm 2010 trồng trên 150.000 ha; hiện là giống phổ biến.

           

           

          Đặc điểm giống:
          + Thân xanh, thẳng, ngọn xanh, cây cao vừa phải, không phân nhánh.
          + Năng suất củ tươi: 33,4 – 35,0 tấn/ha.
          + Tỷ lệ chất khô: 34,8 – 40,2%.
          + Hàm lượng tinh bột: 26,1- 28,7%.
          + Năng suất bột : 9,5 -10,0 tấn/ha
          + Chỉ số thu hoạch: 58 -65 %.
          + Thời gian thu hoạch: 8-10 tháng.
          + Nhiễm nhẹ bệnh cháy lá.
          + Thời gian giữ bột ngắn hơn KM94

          Giống sắn KM 98-5
          Nguồn gốc: Giống sắn KM98-5 là con lai của tổ hợp KM 98-1 x Rayong 90 do Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam tuyển chọn và giới thiệu (Trần Công Khanh, Hoàng Kim, Võ Văn Tuấn, Nguyễn Hữu Hỷ, Phạm Văn Biên, Đào Huy Chiên, Reinhardt Howeler và Hernan Ceballos 2006, 2009). Giống được UBND tỉnh Tây Ninh và UBND tỉnh Đồng Nai công nhận kết quả đề tài ứng dụng KHKT cấp Tỉnh năm 2006. Bộ Nông nghiệp và PTNT công nhận giống năm 2009 cho các vùng Đông Nam Bộ, Duyên hải miền Trung và Tây Nguyên tại Quyết định số 358 ngày 20 tháng 09 năm 2010 Giống KM98-5 được trồng tại các tỉnh phía Nam với diện tích thu hoạch năm 2008 trên 25.000 ha, năm 2010 trồng trên 100.000 ha; hiện là giống phổ biến..

           

           

          Đặc điểm giống:
          + Thân xanh, hơi cong ở gốc, ngọn xanh, ít phân nhánh.
          + Giống sắn KM98-5 có cây cao hơn và dạng lá dài hơn so với KM419
          + Năng suất củ tươi: 34,5 tấn/ha.
          + Tỷ lệ chất khô: 39,2%.
          + Hàm lượng tinh bột: 28,5%.
          + Năng suất bột : 9,8 tấn/ha
          + Chỉ số thu hoạch: 63 %.
          + Thời gian thu hoạch: 8-10 tháng.
          + Thời gian giữ bột tương đương KM94
          + Nhiễm nhẹ bệnh cháy lá.

          Giống sắn KM98-1

          Nguồn gốc: KM98-1 là con lai Rayong 1x Rayong 5 (= giống sắn KU 72 của Thái Lan hình trên, nhưng việc lựa chọn giống bố mẹ, lai tạo và chọn dòng thực hiện hoàn toàn tại Việt Nam) do Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam tuyển chọn và giới thiệu (Hoàng Kim, Kazuo Kawano, Trần Hồng Uy, Trần Ngọc Quyền, Võ Văn Tuấn, Trần Công Khanh, 1999). Giống KM98-1 được Bộ Nông nghiệp và PTNT công nhận giống năm 1999 cho các vùng Đông Nam Bộ, Duyên hải miền Trung và Tây Nguyên (MARD Certificate No. 3493/QD-BNN–KHKT, Sep 9, 1999). Giống KM98-1 được trồng phổ biến tại các tỉnh Tây Ninh, Đồng Nai, Nghệ An, Thừa Thiên Huế…. với diện tích thu hoạch năm 2008 trên 18.000 ha, năm 2010 trồng trên 20.000 ha, hiện là giống phổ biến..

           

           

          Đặc điểm giống:
          + Thân xanh, tai lá rõ, lá xanh, cọng tím
          + Năng suất củ tươi: 32,5 – 40,0 tấn/ha.
          + Tỷ lệ chất khô: 35,8%.
          + Hàm lượng tinh bột: 27,2- 28,3 %.
          + Năng suất bột : 8,9 tấn/ha
          + Chỉ số thu hoạch: 66 %.
          + Thời gian thu hoạch: 8-10 tháng.
          + Nhiễm nhẹ bệnh cháy lá.
          + Bảo quản giống ngắn hơn KM94

          Giống sắn SM 937-26

          Nguồn gốc: Tên gốc SM937 của CIAT/Clombia được nhập nội bằng hạt từ CIAT/Thái Lan năm 1990. Giống do Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam tuyển chọn và giới thiệu (Trần Ngọc Quyền, Hoàng Kim, Võ Văn Tuấn, Kazuo Kawano 1995). Giống SM937-26 được Bộ Nông nghiệp và PTNT công nhận tạm thời năm 1995 cho các vùng Đông Nam Bộ, Duyên hải miền Trung và Tây Nguyên tại Quyết định số 98/NN-QLCN/QĐ ngày 25/11/1995.. Giống SM937-26 được trồng nhiều tại các tỉnh Bình Định, Quảng Ngãi với diện tích thu hoạch năm 2008 trên 15.000 ha, năm 2010 trồng trên 20.000 ha, hiện là giống phổ biến.

           

           

          Đặc điểm giống:
          + Thân nâu đỏ, thẳng, không phân nhánh
          + Năng suất củ tươi: 32,5 tấn/ha.
          + Tỷ lệ chất khô: 37,9%.
          + Hàm lượng tinh bột: 28,9%.
          + Năng suất bột : 9,4 tấn/ha
          + Chỉ số thu hoạch: 61 %.
          + Thời gian thu hoạch: 8-10 tháng.
          + Nhiễm nhẹ bệnh cháy lá.
          + Vỏ củ dày và cứng hơn KM94

           

           

          CHỌN GIỐNG SẮN KHÁNG CMD
          Nguyễn Thị Trúc Mai, Hoàng Kim, Hoàng Long và đồng sự

          Bệnh virus khảm lá CMD từ ban đầu Tây Ninh (2017) lan rộng trên 15 tỉnh thành Việt Nam (2018) là thách thức của các nhà khoa học. “V/v sử dụng giống sắn KM419 trong sản xuất” đã được Bộ NNPTNT xác định tại công văn chỉ đạo của Bộ Nông nghiệp Phát triển Nông thôn, Cục Bảo vệ Thực vật số 1068/ BVTV ngày 3 tháng 5 năm 2019. Giống sắn KM419 có năng suất tinh bột cao nhất và diện tích trồng phổ biến nhất Việt Nam. Giống sắn KM419 chống chịu trung bình bệnh CMD và bệnh chổi rồng (CWBD), trong điều kiện áp lực 2 bệnh này ở Việt Nam hiện nay là rất cao. Sự cần thiết cấp bách lai tạo KM419 đưa thêm gen kháng bệnh của giống C39, KM440 (KM94 đột biến); KM397 vào giống sắn ưu tú này .

           

          Giống sắn KM419 bìa trái thấp cây, tán gọn, cọng đỏ, chống chịu trung bình với bệnh CMD và CWBD , và các dòng sắn lai ít bệnh CMD và CWBD, so với HLS 11 giữa, cao cây, cọng xanh, nhiễm nặng bệnh CMD

           

          Giải pháp chọn giống sắn Việt Nam tiếp nối hiệu quả là sử dụng giống sắn KM419 năng suất tinh bột cao sạch bệnh tiếp tục lai tạo với các giống sắn kháng bệnh CMD đã có. Bài viết CHỌN GIỐNG SẮN VIỆT NAM đúc kết tóm tắt thông tin đã có và định hướng cho sự nổ lực Trúc Mai, Hoang Long, BM Nguyễn, Nguyen Van Nam, Nhan Pham, Hung Nguyenviet, Hoàng Kim, Jonathan Newby … đang lai hữu tính và bồi dục nâng cao tính kháng cho các giống sắn KM419, KM440, KM397, tốt nhất hiện nay

           

           

          Hình ảnh và tài liệu dẫn

          Cập nhật tiến bộ mới

          Hội thảo CMD Quốc tế trực tuyến tại Ấn Độ ngày 10 tháng 8, 2021 lúc 10:30 (giờ Hà Nội)
          Từ:
          Makeshkumar Thangaraj; Sheela Mn (India) Tới: Hoang Kim and VNCP Team <hoangkimvietnam1953@gmail.com>

           

           

          Giống sắn mới kháng bệnh khảm lá, năng suất đạt 36 tấn/ha | VTC16 ngày 28 thg 7, 2021 Viện Di truyền Nông nghiệp giới thiệu khảo nghiệm giống sắn mới kháng bệnh khảm lá HN3 HN5 https://youtu.be/Id-xpvgHrG0; Thông tin được tích hợp tại Chọn giống sắn kháng CMD https://hoangkimlong.wordpress.com/category/chon-giong-san-khang-cmd/

          Bệnh khảm lá nguy cơ xóa sổ loài cây tỷ đô | VTC16 ngày 6 thg 1, 2021 https://youtu.be/5TLcWmn2rIM

          Cambodia’s efforts to eradicate Cassava Mosaic Disease 16 thg 12, 2020https://youtu.be/OcTRSCWXI9I

          ພະຍາດໃບດ່າງມັນຕົ້ນ ຫຼື Cassava mosaic disease ( CMD in Lao PDR)ngày 4 tháng 2 năm 2021https://youtu.be/tp7nZBedj54

           

           

          Nguồn gen sắn kháng CMD
          Jonathan Newby với Ed Sarobol và 3 người khác ngày 15 tháng 8 năm 2020 đã thông tin: tại “Giải pháp bền vững bệnh hại sắn ở Đông Nam Á” Webinar Series: No 1: Các hàng sắn ở Tây Ninh minh chứng phát huy được sức mạnh của di truyền học (hình). “Giữ niềm tin: Tiến bộ trong việc phát triển các loại chống CMD khả thi thương mại cho châu Á”. Bài thuyết trình https://cassavadiseasesolutionsasia.net/webinar-series/ từ buổi hội thảo sáng nay có thể được tải xuống tại đây và đã được tích hợp tại đây New progress in cassava breedinghttps://foodcrops.blogspot.com/2020/08/new-progress-in-cassava-breeding.html.

          Chúc mừng tiến bộ mới đề tài qua thông tin này.Thật tuyệt vời nguồn gen kháng bệnh CMD.

          Hai câu hỏi đối với
          Jonathan Newby 1) Giống sắn HLS 11 nhiễm nặng bệnh CMD (giữa) so sánh với giống sắn kháng bệnh CMD ( ở bên cạnh giống HLS11) của hình trên là giống sắn gì? có nguồn gốc di truyền như thế nào đối với giống sắn “KM419 siêu bột cọng đỏ”, tác giả giống, năm và nơi phóng thích giống? 2) Giống sắn này có điểm mới gì về đặc tính nông sinh học trong sự so sánh năng suất tinh bột, năng suất sắn lát khô so giống sắn thương mại chủ lực KM419 và KM94 hiện chiếm tỷ lệ trồng 42% và 31% diện tích sắn Việt Nam ?

          Chọn giống sắn kháng CMD niềm tin, nổ lực và sự hợp tác.

           

          Sắn Thái Lan thương mại, vỏ củ chủ yếu đỏ nâu (nguồn ảnh được trích dẫn tại The Star Thailand
          Tuesday, 22 Dec 2020 4:59 PM MYT
          Thailand finds ways to shore up falling tapioca price)

           

          Màu da vỏ ngoài củ sắn thương phẩm Thái Lan chủ yếu là màu nâu đỏ, có tương đồng với màu vỏ ngoài của củ giống HLS 11 của Việt Nam, cũng có màu nâu đỏ, xem hình trong bài “Thái Lan tìm cách chống sự giảm giá sắn ”

           

           

          Màu sắc vỏ ngoài sắn Việt Nam và Campuchia, chủ yếu là màu xám trắng, xem hình trong bài “Sắn lên giá khi thu hoạch muộn” của tờ báo The Phnom Peng Post ngày 13 tháng 12 năm 2020. Đây là màu sắc đặc trưng của giống sắn chủ lực KM419 chiếm trên 50% diện tích trồng ở cả Việt Nam và Campuchia, kế tiếp là các giống KM98-5 và KM140 cũng rất phổ biến ở Campuchia. Xem thêm https://www.phnompenhpost.com/…/cassava-prices-delayed…

           

          HLS11 nhiễm nặng bệnh CMD ở mức 5 Photo by Jonathan Newby FB 21 10 2020 confirm by (Nhan Pham) Phạm Thị Nhạn

           

          CẢNH BÁO: Giống sắn HLS11 nhiễm nặng bệnh CMD ở mức 5, cao hơn so với giống KM419, KM140 và giống sắn KM98-5 đạt mức 2-3 nhiễm nhẹ CMD đến trung bình, do đã có gen kháng CMD của giống sắn C39, được tích hợp trong sơ đồ tuyển chọn phả hệ giống sắn Việt Nam, Hiện nay chúng tôi đang tiếp tục chọn giống sắn kháng CMD theo hướng này. Xem thêm KM568, Chọn giống sắn kháng CMD; Chọn giống sắn Việt Nam

           

          1 Hoàng Kim @Jonathan Newby, BM Nguyễn, Trúc Mai, Hoang Long: The outer skin color of Thai commercial cassava tubers, see the picture in the article "Thailand finds ways to shore up falling tapioca price" is reddish brown, similar to the skin color of Vietnam HLS 11 tubers, also red brown, See more https://www.thestar.com.my/.../thailand-finds-ways-to...This is very different from the outer color of commercial cassava roots in Vietnam and Cambodia, see picture in the article "Cassava prices up on delayed harvest" is gray-white. This is the characteristic color of the main cassava variety KM419 occupies over 50% of the planted area in both Vietnam and Cambodia, followed by the varieties KM98-5 and KM140, which are also very popular in Cambodia. The outer color of root is gray-white. See more https://www.phnompenhpost.com/.../cassava-prices-delayed... Warnings about the level of CMD infection of the HLS11 cassava varieties at 4-5 levels, higher than that of the KM419, KM140, and KM98-5 cassava varieties to reach 2-3 micro levels, which had the CMD resistance gene of C39, and today are continue to choose the same resistant CMD in this direction. See more KM568, selecting CMD-resistant cassava varieties (Nguyen Thi Truc Mai, Hoang Kim, Hoang Long et al. 2020)

           

          KM98-1 = Rayong 72

          Hoàng Kim22 tháng 12, 2020 lúc 17:57  @Jonathan Newby, BM Nguyễn, Trúc Mai, Hoang Long; Nhan Pham:

          Hoang Kim, K. Kawano, Tran Hong Uy, Tran Ngoc Quyen, Vo Van Tuan and Tran Cong Khanh.1999. Result of selection KM98-1 cassava variety. Recognition document report of KM98-1 variety. Scientific Conference of Agriculture and Rural Development, held in Da Lat. July 29-31, 1999. 29 p.

          The KM98-1 cassava variety is a Rayong 1x Rayong 5 hybrid 😊 Thai KU 72 in the picture above, but the selection of the parent variety, crossbreeding and line selection is entirely done in Vietnam) by the Institute of Science and Technology. Southern Agriculture techniques selected and introduced (Hoang Kim, Kazuo Kawano, Tran Hong Uy, Tran Ngoc Quyen, Vo Van Tuan, Tran Cong Khanh, 1999). The variety KM98-1 was recognized by the Ministry of Agriculture and Rural Development in 1999 for the Southeast, Central Coast and Central Highlands regions. Like KM98-1 is popularly grown in the provinces of Tay Ninh, Dong Nai, Nghe An, Thua Thien Hue…. with the harvested area in 2008 of over 18,000 hectares, in 2010 planted over 20,000 hectares. There is a popular variety now. The cassava variety KM98-1 released to Laos in the Vietnam-Laos cooperation program contributed very effectively to CIAT.

          Hoang Kim, K. Kawano, Pham Van Bien, Tran Ngoc Ngoan, Tran Ngoc Quyen and Trinh Phuong Loan. 2001. Cassava breeding and varietal dissemination in Vietnam from 1975 to 2000. In: R.H. Howeler and S.L. Tan (Eds.). Cassava’s Potential in the 21st Century: Present Situation and Future Research and Development Needs. Proc. 6th Regional Workshop, held in Ho Chi Minh city, Vietnam. Feb. 21-25, 2000. pp. 147-160. http://danforthcenter.org/iltab/cassavanet

          Hoang Kim, Pham Van Bien and R. Howeler 2003. Status of cassava in Vietnam: Implications for future research and development. In: A review of cassava in Asia with country case studies on Thailand and Viet Nam. FAO-IFAD-CIAT-CIRAD-IITA-NRI. Proc. Validation Forum on theGlobal Cassava Development Strategy, held in FAO, Rome, Italy. April 26-28, 2000. Vol/3.Rome, Italy. pp. 103-184 http://www.globalcassavastrategy.net

          Hoang Kim, Tran Ngoc Quyen, Nguyen Thi Thuy, Vo Van Tuan, Tran Cong Khanh, Nguyen Thi Sam, Truong Van Ho, Nguyen Thanh Binh, Nguyen Dang Mai, Luong Thi Quyet, Hoang Thi Hien, K. Kawano, R. Howeler, P. Vanderzaag, E. Chujoy, Il Gin Mok, Zhang Dapheng and YehFang Ten. 2006a. Final Report, Breeding of Cassava and Sweet Potatoes Suitable for Agroecological Regions of South Vietnam (1981-2006). Institute of Agricultural Sciences for Southern Vietnam, Proc. 90th Establishment Anniversary (1925-2015).

          Hoang Kim, Pham Van Bien, R. Howeler, H. Ceballos, Joel J. Wang, Tran Ngoc Ngoan, Tran Cong Khanh, Nguyen Huu Hy, Nguyen Thi Thuy, Tran Ngoc Quyen, Vo Van Tuan, Trinh Phuong Loan, Nguyen Trong Hien, Nguyen Thi Sam, Tran Thi Dung, Tran Van Minh, Dao Huy Chien,Nguyen Thi Cach, Nguyen Thi Bong, Nguyen Viet Hung, Le Van Luan, Ngo Vi Nghia, Tran Quang Phuoc and Nguyen Xuan Thuong. 2006b. Cassava Development Project Summary (2001-2005). In: Institute of Agricultural Sciences for Southern Vietnam, Proc. 90th Establishment Anniversary (1925-2015).

          see more Cassava conservation and sustainable development in Vietnam In: Share book https://cgspace.cgiar.org/handle/10568/72642 Sustainable cassava production in Asia for multiple uses and for multiple markets: Proceedings of the ninth regional workshop held in Nanning, Guangxi, China PR, 27 Nov – 3 Dec 2011

          See more:
          Chọn giống sắn kháng CMD; Chọn giống sắn Việt Nam Thông tin tại http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-22-thang-12;

          xem tiếpNhững bài viết liên quan
          Chọn giống sắn kháng CMD
          Chọn giống sắn Việt Nam
          Cách mạng sắn Việt Nam
          Giống sắn tốt Phú Yên
          Sắn Việt và Sắn Thái
          Lúa sắn Cămpuchia và Lào
          Lúa sắn Việt Châu Phi
          Quản lý bền vững sắn châu Á
          Từ Sắn Việt Nam đến Lúa Siêu Xanh
          Cassava and Vietnam: Now and Then

           

          Xem tiếp >>

            Dạy và học 10 tháng 8(10-08-2021)

          DẠY VÀ HỌC 10 THÁNG 8
          Hoàng Kim
          CNM365 Tình yêu cuộc sốngPhú Yên online:TS Nguyễn Thị Trúc Mai gửi đam mê vào cây sắn (hình); Chọn giống sắn kháng CMD; Một niềm tin thắp lửa; Trung Quốc một suy ngẫm; Tỉnh thức cùng tháng năm; Nhớ Ông Bà Cậu MợGiống khoai lang Hoàng Long; Lên Thái Sơn hướng Phật; Đọc lại và suy ngẫm; Ngày 10 tháng 8 năm 1675, Đài thiên văn Hoàng gia Greenwich được vua Charles II của Anh cho xây dựng. Kinh tuyến số 0 được chọn là đường kinh tuyến đi qua Đài thiên văn này; Ngày 10 tháng 8 năm 1809 Quốc khánh nước Cộng hoà Ecuador tuyên bố độc lập từ Tây Ban Nha; Ngày 10 tháng 8 năm 1961, Chiến tranh Việt Nam: Quân đội Hoa Kỳ bắt đầu sử dụng Chất độc da cam tại Việt Nam; Ngày này Việt Nam kỷ niệm ngày vì nạn nhân chất độc màu da cam; Ngày 10 tháng 8 năm 1893, chiếc động cơ Diesel do Rudolf Diesel phát triển tại Ausburg tự chạy lần đầu tiên. Bài chọn lọc ngày 10 tháng 8: Phú Yên online:TS Nguyễn Thị Trúc Mai gửi đam mê vào cây sắn; Chọn giống sắn kháng CMD; Một niềm tin thắp lửa; Trung Quốc một suy ngẫm; Tỉnh thức cùng tháng năm; Nhớ Ông Bà Cậu Mợ; Giống khoai lang Hoàng Long; Lên Thái Sơn hướng Phật; Đọc lại và suy ngẫm; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-10-thang-8;

          TS Nguyễn Thị Trúc Mai: Gửi đam mê vào cây sắn

          Trong suốt 10 năm công tác, TS Nguyễn Thị Trúc Mai, cán bộ Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật Phú Yên đã ghi dấu ấn đậm nét đối với ngành Nông nghiệp của tỉnh. Một trong những đóng góp nổi bật của Trúc Mai là đã nghiên cứu chọn tạo giống sắn có năng suất tinh bột cao, biện pháp kỹ thuật thâm canh phù hợp, mang lại hiệu quả kinh tế cao cho người dân vùng trồng sắn.

          TS Nguyễn Thị Trúc Mai kiểm tra mô hình trồng sắn KM419 tại huyện Sông Hinh. Ảnh: CTV
          Nguồn Phú Yên online

          Miệt mài đi về với người dân

          TS Nguyễn Thị Trúc Mai sinh năm 1987 tại xã Xuân Sơn Nam, huyện Đồng Xuân. Chị tốt nghiệp ngành Nông nghiệp, Trường đại học Nông lâm TP Hồ Chi Minh và về công tác tại Phòng NN-PTNT huyện Đồng Xuân trước khi trở thành một chuyên gia về cây sắn.

          Chia sẻ về những ngày đầu công tác, TS Mai cho biết: “Ban đầu tôi nghĩ ngành học này không phù hợp với mình và rất phân vân không biết sẽ gắn bó được bao lâu nhưng sau khi về quê công tác, tôi được đi nhiều nơi, tiếp xúc với rất nhiều người dân, nhìn họ thật thà, chất phác luôn trăn trở tìm kiếm các giống cây mang lại hiệu quả kinh tế, tôi cảm thấy cần phải có trách nhiệm giải đáp thắc mắc của họ cũng như tìm kiếm các giải pháp để công việc của họ hiệu quả hơn”.

          Duyên may trong quá trình học thạc sĩ, Mai gặp được TS Hoàng Kim, chuyên gia hàng đầu về cây sắn tại Việt Nam và được giao cho nhiều nhiệm vụ quan trọng, trong đó có nhiệm vụ tìm ra giống sắn KM419 từ dòng sắn triển vọng. Từ đó, Trúc Mai dành nhiều thời gian, tâm huyết, nỗ lực nghiên cứu lai tạo và cho ra giống sắn có nhiều ưu điểm vượt trội sau đó được sử dụng rộng rãi trên cả nước.

          Nhớ lại thời gian ấy, nữ tiến sĩ không biết mình lấy đâu ra nhiều sức lực đến vậy. Trong hai năm rưỡi, mỗi tuần, Trúc Mai đều sắp xếp vài ngày chạy xe máy từ Đồng Xuân sang huyện Sông Hinh theo dõi mô hình chọn tạo giống sắn, mặc cho nắng đổ lửa hay mưa gió. “Mọi người cứ bảo cây sắn phá đất, trồng nó rồi thì đất trở nên bạc màu, không làm gì được nữa. Vì vậy, tôi đã tổ chức nhiều hội thảo, giới thiệu các giống sắn mới, giới thiệu cách canh tác hiệu quả và khẳng định rằng cây sắn vốn có khả năng thích ứng và chịu đựng rất tốt trong những điều kiện tự nhiên bất lợi, cứ canh tác theo đúng kỹ thuật là đất sẽ không bị bạc màu”, TS Mai chia sẻ.

          Còn nhớ rất rõ những ngày TS Mai về xã Đức Bình Đông chuyển giao giống sắn mới và kỹ thuật canh tác sắn cho bà con, ông Bùi Văn Nhương (xã Đức Bình Đông, huyện Sông Hinh) cho biết, suốt thời gian thực hiện mô hình, TS Mai đi về địa phương liên tục để kiểm tra tình hình phát triển của cây sắn và chuyển giao cho người dân kỹ thuật canh tác. Cô ấy làm việc rất trách nhiệm và nhiệt tình nên ai cũng quý. Riêng gia đình tôi, ban đầu tham gia mô hình với diện tích nhỏ nhưng sau đó thấy hiệu quả nên dùng cả 10ha đất của gia đình và thuê thêm 15ha nữa để canh tác sắn”.

          Trong thời gian công tác, Trúc Mai tranh thủ vừa làm, vừa học, lần lượt bảo vệ thạc sĩ, rồi tiến sĩ khoa học cây trồng tại Trường Đại học Nông Lâm Huế. Tháng 12/2017, Trúc Mai xin chuyển công tác về làm việc ở Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật Phú Yên (thuộc Sở NN-PTNT).

          TS Mai thực hiện mô hình trồng sắn KM419 tại huyện Sông Hinh. Ảnh: CTV Nguồn Phú Yên online

          Giữ vững vị thế cho cây sắn

          Theo TS Mai, sắn là cây trồng chủ lực, là nguồn thu nhập chính của nhiều hộ nông dân nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số của tỉnh nhưng trước đây người dân canh tác chưa hiệu quả. Từ khi bắt đầu thực hiện đề tài (năm 2014) về cây sắn KM419 và chuyển giao thành công cho người dân, các vùng trồng sắn trên địa bàn tỉnh đã khoát lên mình diện mạo mới.

          Nếu như ban đầu TS Mai và nhóm cộng sự khảo nghiệm sản xuất chỉ với quy mô 4ha thì sau 3 năm diện tích canh tác giống sắn KM419 đã lên đến 500-750ha. Năng suất giống sắn mới vượt hơn 6-8 tấn/ha so với giống sắn truyền thống. Bắt đầu từ năm 2015, giống sắn KM419 đã được chuyển giao rộng rãi khắp các vùng trồng sắn trên địa bàn tỉnh. Trong niên vụ sắn 2019-2020, KM419 là giống sắn chủ lực trong cơ cấu bộ giống sắn của Phú Yên, chiếm gần 85% diện tích sản xuất sắn toàn tỉnh. Hiện nay, KM419 là giống sắn thương mại tốt nhất trong bộ giống sắn hiện có của Việt Nam, chiếm 42% diện tích trồng sắn của cả nước.

          Để có được một giống sắn mang lại hiệu quả kinh tế cho người nông dân, TS Mai cho biết, ngoài nỗ lực bản thân, cô còn nhận được sự dìu dắt, chỉ bảo của TS Hoàng Kim, người thầy đồng tác giả trong các đề tài về cây sắn và đồng hành cùng Mai nhiều năm liền trong công tác nghiên cứu về cây sắn. Hiểu và rất yêu mến học trò của mình, TS Hoàng Kim cho biết: “Mai có niềm đam mê nghiên cứu khoa học và năng lực chuyên môn giỏi; lại rất nghị lực và cố gắng vượt lên hoàn cảnh, điều kiện khó khăn để làm công tác nghiên cứu. Mai được thầy cô tín nhiệm, quý trọng và đánh giá tốt. Em là tác giả chính đã chọn tạo được giống sắn KM419 và xây dựng được quy trình canh tác sắn thích hợp tại tỉnh Phú Yên, giúp nông dân canh tác sắn hiệu quả. Hiện, giống sắn KM419 không chỉ chủ lực ở Phú Yên mà còn là giống sắn phổ biến nhất ở Việt Nam”.

          Nói về hiệu quả mà công trình nghiên cứu của TS Nguyễn Thị Trúc Mai mang lại, ông Đào Lý Nhĩ, Phó Giám đốc Sở NN-PTNT Phú Yên, cho biết TS Mai đã tìm ra giống sắn phù hợp, mang lại hiệu quả kinh tế. Công trình nghiên cứu của TS Mai mang tính ứng dụng cao, được các huyện miền núi áp dụng rất rộng rãi. TS Trúc Mai đã nhận được nhiều giấy khen của ngành NN-PTNT, được UBND tỉnh tặng bằng khen và trong năm 2019, giải pháp “Nghiên cứu tuyển chọn giống sắn năng suất tinh bột cao và kỹ thuật thâm canh tại tỉnh Phú Yên” của TS Mai đoạt giải nhất Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật tỉnh Phú Yên lần thứ 8 (2018-2019).

          Dù đã thực hiện khá nhiều đề tài, dự án liên quan đến cây sắn; đã chọn tạo được giống sắn phù hợp và kỹ thuật canh tác hiệu quả nhưng TS Mai cho biết, công cuộc đi tìm những giống sắn thích nghi với biến đổi khí hậu, có khả năng kháng bệnh vẫn là một nhiệm vụ cấp bách, đầy khó khăn và thử thách. “Thời gian qua, Phú Yên và nhiều tỉnh thành khác bị ảnh hưởng nặng nề vì bệnh khảm lá trên cây sắn, trong đó, giống sắn KM419 cũng bị giảm năng suất rõ rệt. Tôi vẫn đang tiếp tục làm các nghiên cứu chọn tạo để tìm ra giống sắn có khả năng kháng bệnh và thích nghi tốt với các điều kiện thời tiết bất lợi. Với tôi, làm khoa học tuy vất vả nhưng luôn mang lại niềm hạnh phúc và sự say mê”, TS Mai chia sẻ.

          THÁI HÀ
          Báo Phú Yên onlinehttp://www.baophuyen.com.vn/419/243264/ts-nguyen-thi-truc-mai–gui-dam-me-vao-cay-san.html

          CHỌN GIỐNG SẮN KHÁNG CMD
          Nguyễn Thị Trúc Mai, Hoàng Kim, Hoàng Long và đồng sự

          Bệnh virus khảm lá CMD từ ban đầu Tây Ninh (2017) lan rộng trên 15 tỉnh thành Việt Nam (2018) là thách thức của các nhà khoa học. “V/v sử dụng giống sắn KM419 trong sản xuất” đã được Bộ NNPTNT xác định tại công văn chỉ đạo của Bộ Nông nghiệp Phát triển Nông thôn, Cục Bảo vệ Thực vật số 1068/ BVTV ngày 3 tháng 5 năm 2019. Giống sắn KM419 có năng suất tinh bột cao nhất và diện tích trồng phổ biến nhất Việt Nam. Giống sắn KM419 chống chịu trung bình bệnh CMD và bệnh chổi rồng (CWBD), trong điều kiện áp lực 2 bệnh này ở Việt Nam hiện nay là rất cao. Sự cần thiết cấp bách lai tạo KM419 đưa thêm gen kháng bệnh của giống C39, KM440 (KM94 đột biến); KM397 vào giống sắn ưu tú này .

          Giống sắn KM419 bìa trái thấp cây, tán gọn, cọng đỏ, chống chịu trung bình với bệnh CMD và CWBD , và các dòng sắn lai ít bệnh CMD và CWBD, so với HLS 11 giữa, cao cây, cọng xanh, nhiễm nặng bệnh CMD

          Giải pháp chọn giống sắn Việt Nam tiếp nối hiệu quả là sử dụng giống sắn KM419 năng suất tinh bột cao sạch bệnh tiếp tục lai tạo với các giống sắn kháng bệnh CMD đã có. Bài viết CHỌN GIỐNG SẮN VIỆT NAM đúc kết tóm tắt thông tin đã có và định hướng cho sự nổ lực Trúc Mai, Hoang Long, BM Nguyễn, Nguyen Van Nam, Nhan Pham, Hung Nguyenviet, Hoàng Kim, Jonathan Newby … đang lai hữu tính và bồi dục nâng cao tính kháng cho các giống sắn KM419, KM440, KM397, tốt nhất hiện nay

          Hình ảnh và tài liệu dẫn

          Cập nhật tiến bộ mới

          Giống sắn mới kháng bệnh khảm lá, năng suất đạt 36 tấn/ha | VTC16 ngày 28 thg 7, 2021 Viện Di truyền Nông nghiệp giới thiệu khảo nghiệm giống sắn mới kháng bệnh khảm lá HN3 HN5 https://youtu.be/Id-xpvgHrG0; Thông tin được tích hợp tại Chọn giống sắn kháng CMD https://hoangkimlong.wordpress.com/category/chon-giong-san-khang-cmd/

          Bệnh khảm lá nguy cơ xóa sổ loài cây tỷ đô | VTC16 ngày 6 thg 1, 2021 https://youtu.be/5TLcWmn2rIMCambodia’s efforts to eradicate Cassava Mosaic Disease 16 thg 12, 2020ພະຍາດໃບດ່າງມັນຕົ້ນ ຫຼື Cassava mosaic disease ( CMD in Lao PDR)ngày 4 tháng 2 năm 2021

          Từ: Kim Hoang <hoangkimvietnam1953@gmail.com>
          Ngày: Th 3, 10 thg 8, 2021 lúc 11:43
          Chủ đề: Hội thảo CMD trực tuyến
          Tới: <
          hoangkimvietnam1953@gmail.com>


          TRUNG QUỐC MỘT SUY NGẪM
          Hoàng KimHoang Long

          Đường trần thênh thênh bước
          Đỉnh xanh mờ sương đêm
          Hoàng Thành Trúc Lâm sáng
          Phước Đức vui kiếm tìm.

          Tuyết rơi trên Vạn Lý
          Trường Thành bao đổi thay
          Ngưa già thương đồng cỏ
          Đại bàng nhớ trời mây.

          Ngược gió đi không nản
          Rừng thông tuyết phủ dày
          Ngọa Long cương đâu nhỉ
          Đầy trời hoa tuyết bay.

          Hồ Khẩu trên Hoàng Hà
          Đại tuyết thành băng giá
          Thế nước và thời trời
          Rồng giữa mùa biến hóa.

          *

          Lên Thái Sơn hướng Phật
          Chiếu đất ở Thái An
          Đi thuyền trên Trường Giang
          Nguyễn Du trăng huyền thoại

          Khổng Tử dạy và học
          Đến Thái Sơn nhớ Người
          Kho báu đỉnh Tuyết Sơn
          Huyền Trang tháp Đại Nhạn

          Tô Đông Pha Tây Hồ
          Đỗ Phủ thương đọc lại
          Hoa Mai thơ Thiệu Ung
          Ngày xuân đọc Trạng Trình

          Quảng Tây nay và xưa
          Lên đỉnh Thiên Môn Sơn
          Ngày mới vui xuân hiểu
          Kim Dung trong ngày mới

          Bình sinh Mao Trạch Đông
          Bình sinh Tập Cận Bình
          Lời dặn của Thánh Trần
          Trung Quốc một suy ngẫm

          lên Thái Sơn hướng Phật, cha con tôi có 20 ghi chú về
          Trung Quốc một suy ngẫm trò chuyện những bàn luận của các học giả, nhà văn khả kính Việt Nam về Trung Quốc ngày nay. Trong đó có phiếm đàm của Trần Đăng Khoa “Tào lao với Lão Khoa” Tiếng là phiếm đàm nhưng sự thực là những việc quốc kế dân sinh, tuy là ‘tào lao’ mà thật sự nóng và hay và nghiêm cẩn.

          Khoa viết đúng sự thật của Trung Quốc ngày nay: “Trung Quốc là một nước phát triển rất hùng mạnh về tất cả mọi lĩnh vực, trong đó có truyền thông, thông tin. Thế kỷ XXI này là Thế kỷ Trung Quốc. Ở đâu cũng truy cập được internet, nhưng tiếc ở đó không dùng được Email, Google, Blog và cả Facebook. Vì thế, tôi như kẻ lạc rừng. Trung Quốc có gần trăm kênh truyền hình. Kênh nào cũng rất đẹp. Nhưng toàn truyền hình nội bộ của các tỉnh thành Trung Quốc, tuyệt không có một kênh nào của nước ngoài.” “Đúng là chúng tôi cũng còn nhiều hạn chế. Chúng tôi đang mở cửa. Nhưng mở cửa theo quy trình. Mở cửa từng bước…”. Sự đánh giá này của Khoa về Trung Quốc trong sự quản lý xây dựng, giao thông, du lịch văn hóa cũng thật chí lý: “Cái chúng ta còn phải phấn đấu để vươn tới thì Trung Quốc lại có cả một kho kinh nghiệm. Nói như một đồng chí ở Đại sứ quán ta, Trung Quốc có một đội ngũ cán bộ lãnh đạo rất giỏi. Ngay một cán bộ ở địa phương cũng có tầm nhìn của trung ương. Lấy tư duy của trung ương để xử lý cả những việc cỏn con ở cơ sở. Vì thế họ có được sự đồng bộ và nhất quán xuyên suốt từ Trung ương đến địa phương. Chúng tôi qua Lệ Giang rồi Đại Lý, một thành phố cổ của Trung Quốc ở tỉnh Vân Nam. Thành phố này đã bị phá hủy vào năm 1996 trong trận động đất 7,5 độ richte. Vậy mà họ vẫn khôi phục lại được. Một thành phố rất đẹp, cổ kính. Nhiều ngôi nhà dựng lại mà trông cổ kính như có tuổi thọ hàng ngàn năm tuổi. Phải nói là rất tài. Trung Quốc là thế đấy. Họ kỹ lưỡng đến từng chi tiết nhỏ. Bởi thế, Trung Quốc là đất nước của du lịch. Thành phố nào cũng có những vẻ đẹp bí ẩn khiến người ta muốn chiêm ngưỡng, khám phá. Đó là những vẻ đẹp không chỉ chinh phục du khách nước ngoài mà còn có thể mê hoặc được cả chính người dân Trung Quốc. Chỉ riêng khách du lịch Trung Quốc cũng đã đủ “nuôi” ngành du lịch Trung Quốc rồi.

          Tôi thích văn phong của Khoa “giản dị, xúc động, ám ảnh” và lối viết tưng tửng nhưng rất sát sự thật. Dẫu vậy, tôi thấy có điều đánh giá này cần phải đàm luận: Khoa đã nói: “Trung Quốc to mà vẫn không lớn. Vì rất không đàng hoàng. Ông bạn này cứ như một anh hàng xóm rất giàu có nhưng lại có cái tính rất khó chịu là cứ thích ăn cắp vặt. Nhà có hàng núi vàng, nhưng vẫn thích thó của những anh hàng xóm trái cam hay quả trứng gà. Nếu không lấy được thì khó chịu. Cái việc họ lấn đất, lấn biển lấn đảo cũng thế. Giả thiết nếu không có mấy hòn đảo ăn cắp, hay cả Biển Đông nữa, họ vẫn cứ lớn, vẫn giầu có, ở không ít mặt họ còn vượt cả Nga, cả Mỹ. Thế mà vẫn cứ càm cắp những thứ bé hin hin chẳng phải của mình. Khó chịu là thế!“.

          Theo tôi thì nói như vậy lập luận vậy là đúng mà chưa rõ. Tôi thích lối lập luận của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm hơn. Cụ Trạng nói: Muốn BÌNH sao chẳng lấy nhân. Muốn An sao lại bắt dân ghê mình?” . “Mấy hòn đảo ăn cắp, hay cả Biển Đông nữa” sao có thể coi là nhỏ khi so sánh 2,5 triệu kilomet vuông kinh tế biển với 9,3 triệu kilomet vuông đất liền? Trung Quốc ngày nay có luận thuyết Trung Nam Hải, “nắm vững Trung, hướng về Nam, tranh chấp Hải” đó là luận thuyết “biển lịch sử”, là cửa “sinh đạo” của Trung Quốc trong Dịch lý, ngược hướng với “Tử Cấm Thành”. Thuyết này là khâu trọng yếu của ‘giấc mộng Trung Hoa vành đai và con đường’ để Trung Hoa trỗi dây, đâu có thể lấy lý lẽ ‘trộm vặt’ ‘ăn cắp vặt’ để lý giải, mà cần là một hệ thống lý luận sâu hơn.

          Tôi thích minh triết Hồ Chí Minh, ‘Bình Ngô’ của cụ Nguyễn Trãi, ý thơ của cụ Trạng Trình, Nguyễn Du, Giáp Hải và triết lý của Engels hơn.

          Minh triết Hồ Chí Minh khác sự diễn đạt trên. Bác Hồ là người ở bên cạnh Borodin tại Trung Quốc thời thống chế Trung Hoa Dân Quốc Tưởng Giới Thạch bắt đầu thò ra “đường chín đoạn” khởi đầu của tầm nhìn học thuyết mà sau này chủ tịch Trung Quốc phát triển thành chủ thuyết “Trung Nam Hải” và “biển lịch sử” “nắm vững Trung, hướng về Nam, tranh chấp Hải”. Bác Hồ không nói nhưng lại để cho anh trai là Nguyễn Tất Đạt kể chuyện cho Sơn Tùng để đăng trên báo Cứu Quốc năm 1950 kể về lời đồng dao huyền thoại:

          “Biển là ao lớn
          Thuyền là con BÒ
          Thuyền ăn gió no
          Lội trên mặt nước
          Em trông thấy trước
          Anh trông thấy sau
          Chúng ta lớn mau
          Vượt qua ao lớn.”

          (Thơ Nguyễn Sinh Cung, rút trong tập”Tất Đạt tự ngôn, Sơn Tùng công bố và Báo Cứu Quốc phát hành)

          ‘Bình Ngô’ của cụ Nguyễn Trãi viết rất hay, là tuyên ngôn độc lập của Việt Nam:

          Thay trời hành hoá, hoàng thượng truyền rằng.
          Từng nghe:
          Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
          Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
          Như nước Đại Việt ta từ trước
          Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
          Núi sông bờ cõi đã chia
          Phong tục Bắc Nam cũng khác
          Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
          Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương
          Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau
          Song hào kiệt thời nào cũng có.”

          (Bình Ngô đại cáo của
          Nguyễn Trãi, do Ngô Tất Tố dịch)

          Cụ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm thì thông điệp ngoại giao nhắn gửi con cháu về lý lẽ giữ nước thật thông suốt ” Biển Đông vạn dặm giang tay giữ. Đất Việt muôn năm vững trị bình”. (Vạn lý Đông minh quy bá ác Ức niên Nam cực điện long bình). Từ xưa đến nay, điều nhân là vô địch, Cần gì phải khư khư theo đuổi chiến tranh. Cổ lai nhân giả tri vô địch, Hà tất khu khu sự chiến tranh) Nếu nhà vua có bó đuốc sáng thì nên soi đến dân ở nơi nhà nát xóm nghèo (Quân vương như hữu quang minh chúc, ủng chiếu cùng lư bộ ốc dân) Trời sinh ra dân chúng, sự ấm no, ai cũng có lòng mong muốn cả. Muốn bình sao chẳng lấy nhân. Muốn an sao lại bắt dân ghê mình. Đạo lý, Dịch lý, Ẩn ngữ Việt thật sâu sắc thay !

          Nguyễn Du trong uẩn khúc lịch sử Bí mật kho báu trên đỉnh Tuyết Sơn, Vua Càn Long sau thất bại nặng nề của nhà Thanh trong chiến tranh với Tây Sơn đã sai danh tướng Phúc Khang An thay thế Tôn Sĩ Nghị làm Tổng đốc Lưỡng Quảng định điều động thêm 50 vạn quân để ứng chiến vùng biên giới phía Nam nhưng nhà Thanh đang phải đối mặt với một vấn đề đặc biệt cơ mật và tối quan trọng tại Tây Tang là kho vàng tại tu viện Mật Tông bị quân Khuếch Nhĩ Khách Mông Cổ dòm ngó tấn công.Trong khi, nước Nam Nguyễn Huệ anh dũng thiện chiến không thể xem thường nên vua Càn Long lựa ý hòa hoãn với nhà Tây Sơn và tặng áo cho Nguyễn Huệ, sau đó đã dùng kế dập tắt hi vọng phục quốc của vua nhà Hậu Lê và các trung thần. Vua Càn Long viết.

          Nước Phiên đến lúc ta đi tuần
          Mới gặp mà như đã rất thân
          Nước Tượng chưa từng nghe triều cận
          Việc cống người vàng thật đáng khinh
          Nhà Thanh coi trọng việc đi sứ
          Chín đạo thường có đạo vỗ yên
          Xếp võ tu văn thuận thiên đạo
          Đại Thanh còn mãi vạn ngàn xuân.

          Nguyễn Du kiệt tác thơ chữ Hán chạm thấu những vấn đề sâu sắc nhất của tình yêu thương con người và nhân loại các giá trị sử thi văn hóa ngoại giao xuất chúng có một không hai. Lời nhận xét của giáo sư Mai Quốc Liên “Thơ chữ Hán của Nguyễn Du là những áng văn chương nghệ thuật trác tuyệt, ẩn chứa một tiềm năng vô tận về ý nghĩa. Nó mới lạ và độc đáo trong một nghìn năm thơ chữ Hán của ông cha ta đã đành, mà cũng độc đáo so với thơ chữ Hán của Trung Quốc nữa”. Nguyễn Du kiệt tác thơ chữ Hán “Kỳ Lân mộ” .

          Kỳ Lân Mộ
          Nguyễn Du

          Phương Chi Yên Đệ người thế nào?
          Cướp ngôi của cháu, đồ bất nhân.
          Mỗi khi nổi giận giết mười họ,
          Cổn to vạc lớn hại trung thần
          Năm năm giết người hơn trăm vạn
          Xương chất thành núi máu chảy tràn
          Nếu bảo thánh nhân Kỳ Lân xuất
          Buổi ấy sao không đi về Nam?

          Nguyên văn chữ Hán

          Hà huống Yên Đệ hà như nhân
          Đoạt điệt tự lập phi nhân quân
          Bạo nộ nhân sinh di thập tộc
          Đại bỗng cự hoạch phanh trung thần
          Ngũ niên sở sát bách dư vạn
          Bạch cốt thành sơn địa huyết ân
          Nhược đạo năng vị Thánh nhân xuất
          Đương thế hà bất Nam du tường?

          “Kỳ Lân mộ” được công bố vào năm Quý Dậu (1813) khi Nguyễn Du làm Chánh sứ của đoàn sứ thần nhà Nguyễn sang thông hiếu với nhà Thanh năm Gia Long thứ 12 và Gia Khánh thứ 17. “Kỳ Lân mộ” là văn kiện ngoại giao “ý tại ngôn ngoại” thể hiện quan điểm và đường lối chính trị của Việt Nam triều Nguyễn. “Kỳ Lân mộ” lấy từ điển tích đã được ghi trong chính sử:  “Năm Vĩnh Lạc thứ 4 (1406) có con Kỳ Lân xuất hiện ở Nam Dương. Quan trấn sai mang lên Bắc Kinh dâng Minh Thành Tổ. Nào ngờ đến đây Kỳ Lân chết. Viên quan sai chôn ở đây và lập bia để ghi lại chuyện đó. Mộ bị mưa gió san phẳng còn lại tấm bia này.” Nguyễn Du dùng bài thơ này để dâng lên vua Càn Long tỏ rõ chính kiến và thông điệp ngoại giao  khéo gửi vua Càn Long và vua Gia Khánh. Bài thơ căm phẫn mắng chửi thẳng Yên Đệ Minh Thành Tổ là đồ bất nhân không xứng đáng là một ông vua. Yên Đệ  Minh Thành Tổ là một nhân vật lịch sử nổi bật của Trung Quốc. Sử gia Trung Quốc cho đến nay vẫn gọi Minh Thành Tổ là Vĩnh Lạc Đế hay Vĩnh Lạc đại đế là một trong các Hoàng đế kiệt xuất nhất của triều đại nhà Minh và lịch sử của Trung Quốc. Thời kỳ của Yên Đệ được ca ngợi gọi là Vĩnh Lạc thịnh thế, khiến nhà Minh phát triển đỉnh cao về quyền lực trong lịch sử. Nguyễn Du qua tác phẩm “Kỳ Lân mộ” trong Bắc Hành tạp lục, đã mắng thẳng Yên Đệ Minh Thành Tổ chẳng phải là minh quân mà là kẻ bá đạo dẫu có giành được ngai vàng, xô lệch lịch sử, thắng được cuộc chiến. cướp được nước người, xóa được di sản, nhưng không thể đoạt được lòng người, bia miệng muôn đời vẫn lưu tiếng xấu.

          Giai thoại “Bài thơ vịnh bèo“ của Giáp Hải cũng ẩn chứa thông điệp ngoại giao sâu sắc. Năm Đinh Dậu, nhà Minh mư­ợn cớ phò Lê diệt Mạc đã sai đô đốc Cừu Loan và tư­ớng Mao Bá Ôn đem quân tiến vào ải Pha Luỹ. Mao Bá Ôn gửi chiến thư và bài thơ Bèo :

          Mọc theo ruộng n­ước hóp như­ kim
          Trôi dạt lênh đênh chẳng đứng im
          Nào có gốc sâu, nào có lá
          Dám sinh cành nhánh, dám sinh tim
          Tụ rồi đã chắc không tan tác
          Nổi đó nào hay chẳng đắm chìm
          Đến lúc trời cao bùng gió dữ
          Quét về hồ bể hẳn khôn tìm

          Nguyên văn chữ Hán
          Tuỳ điền trục thuỷ mạc ­ương châm
          Đáo xứ khan lai thực bất thâm
          Không hữu căn miêu không hữu diệp
          Cảm sinh chi tiết, cảm sinh tâm
          Đồ chi tụ sứ ninh chi tán
          Đản thức phù thời ná thứ­c trầm
          Đại để trung thiên phong khí ác
          Tảo quy hồ hải tiện nan tầm.

          Trạng nguyên Giáp Hải chịu mệnh vua Mạc Đăng Dung lên biên ải tiếp sứ đã họa đáp:

          Ken dầy vải gấm khó luồn kim
          Rễ lá liền nhau, động vẫn im
          Tranh với bóng mây che mặt n­ước
          Chẳng cho tia nắng rọi xuyên tim
          Sóng dồi muôn lớp thư­ờng không vỡ
          Gió táp ngàn cơn cũng chẳng chìm
          Nào cá nào rồng trong ấy ẩn
          Cần câu Lã Vọng biết đâu tìm.

          Nguyên văn chữ Hán
          Cẩm lâm mật mật bất dung châm
          Đái diệp liên căn khởi kế thâm
          Thư­ờng dữ bạch vân tranh thuỷ diện
          Khẳng giao hồng nhật truỵ ba tâm
          Thiên trùng lãng đả thành nan phá
          Vạn trận phong xuy vĩnh bất trầm
          Đa thiểu ngư­ long tàng giá lý
          Thái công vô kế hạ câu tầm.

          Mao Bá Ôn và Cừu Loan tiếp thư của Trạng nguyên Giáp Hải, bàn bạc với nhau, nhận định rằng nư­ớc Nam có thực lực, ch­ưa thể nuốt trôi đư­ợc, nên lặng lẽ có trật tự cho lui binh về.

          Engels triết gia người Đức trong học thuyết Mác Engels cũng nói: “Tự do là cái nhìn sâu sắc vào sự cần thiết.” (Engels 1878. freedom is the insight into necessity. Anti-Dühring, pt. 1, ch. 11). “Nền kinh tế hay khoa học làm giàu sinh ra ghen tị lẫn nhau và sự tham lam của các thương gia chính trị này, mang trên trán của nó là dấu hiệu của sự ích kỷ đáng ghét nhất.”. (This political economy or science of enrichment born of the merchants’ mutual envy and greed, bears on its brow the mark of the most detestable selfishness. Outlines of a Critique of Political Economy (1844).

          Nhiều người dân Trung Quốc lương thiện trung hậu khác với một cộng đồng ‘diều hâu’ toan tính trỗi dậy bá quyền. Trung Quốc mộng tạo dựng một đế quốc Á Châu với cam kết ‘Trung Quốc sẽ không áp đặt QUÁ KHỨ BI THẢM CỦA CHÍNH HỌ lên các quốc gia khác’ ‘ Nhân dân Trung Quốc kiên trì theo đuổi các mối giao thiệp hữu hảo với toàn bộ các quốc gia khác”. “Giấc mộng Trung Hoa vành đai và con đường” là một thế lực phi chính thức và phần lớn dựa vào kinh tế để cố kết cơ sở hạ tầng cứng thuộc vòng ảnh hưởng của Trung Quốc mà Mỹ , Nga, cộng đồng cXem tiếp >>

            Dạy và học 9 tháng 8(09-08-2021)

           

           

          DẠY VÀ HỌC 9 THÁNG 8
          Hoàng Kim
          CNM365 Tình yêu cuộc sống  Giống khoai lang Hoàng Long; Lên Thái Sơn hướng Phật; Trung Quốc một suy ngẫm; Nguyên Ngọc về Tây Nguyên; Kho báu đỉnh Tuyết Sơn; Tỉnh thức; Đọc lại và suy ngẫm; Ngày 9 tháng 8 năm 48 TCN, Danh tướng Julius Caesar giành chiến thắng quyết định trước Pompey trong trận Pharsalus tại Farsala, Pompey chạy đến Ai Cập. Ngày 9 tháng 8 năm 1942,  Mahatma Gandhi nhà lãnh đạo người Ấn Độ bị quân Anh bắt giữ tại Bombay, khởi đầu phong trào đấu tranh bất bạo động nổi tiếng ở Ấn Độ”. Ngày 9 tháng 8 năm 1997 ngày mất Trần Đại Nghĩa, Thiếu tướng, Giáo sư, Viện sĩ, nhà khoa học quân giới nổi tiếng Việt Nam (sinh năm 1913) ; Bài chọn lọc ngày 9 tháng 8: Giống khoai lang Hoàng Long; Lên Thái Sơn hướng Phật; Trung Quốc một suy ngẫm; Nguyên Ngọc về Tây Nguyên; Kho báu đỉnh Tuyết Sơn; Tỉnh thức; Đọc lại và suy ngẫm; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-9-thang-8 

           

           

          GIỐNG KHOAI LANG HOÀNG LONG
          Hoàng Kim

          Giống khoai lang Hoàng Long là Giống khoai lang Việt Nam phổ biến có nguồn gốc ở Thái An, Sơn Đông, Trung Quốc đã được nhập nội vào Việt Nam năm 1968 do đoàn chuyên gia nông nghiệp Trung Quốc và các chuyên gia nông nghiệp Việt Nam có ông Quách Ngọc Ân đưa về trồng  đầu tiên tại Cẩm Lương, Cẩm Thủy, Thanh Hóa. Giống khoai lang Hoàng Long đã được Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn công nhận giống năm 1981, do Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh với Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam tuyển chọn và giới thiệu (Hoàng Kim, Nguyễn Thị Thủy, 1981, Hoàng Kim, Trần Ngọc Quyền, Nguyễn Thị Thủy 1990; Hoàng Kim, Trần Ngọc Quyền, Nguyễn Thị Thủy, Võ Văn Tuấn, Trần Công Khanh, Nguyễn Thị Sâm, Trương Văn Hộ, Nguyễn Thanh Bình, Nguyễn Đăng Mãi, Lương Thị Quyết, Hoàng Thị Hiền, Kazuo Kawano, Reinhardt Howeler, Peter Vander Zaag, Enrique Chujoy, Il Gin Mok, Zhang Dapheng, Yen Fang Ten 2015). Giống có đặc điểm: Thời gian sinh trưởng 85-95 ngày. Năng suất củ tươi 15 – 27 tấn/ ha, tỷ lệ chất khô 27-30%, chất lượng củ luộc khá, vỏ củ màu hồng sẫm, thịt củ màu vàng cam, dạng củ đều đẹp, dây xanh tím phủ luống gọn, mức độ nhiễm sùng và sâu đục dây trung bình.

           

           

          “Kỷ yếu Khoa học giai đoạn 1975- 2015 Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam” thông tin thành tựu “Chọn tạo giống sắn, khoai lang thích hợp với các vùng sinh thái nông nghiệp miền Nam (1981-2006)” được tóm tắt như sau:

          Trước năm 1975, giống sắn và khoai lang ở Việt Nam chủ yếu được tiêu thụ tươi và làm thức ăn gia súc. Giống khoai lang phổ biến ở miền Nam là Trùi Sa, Trà Đõa, Dương Ngọc lá tròn, Dương Ngọc lá tím, Tàu Nghẹn, Bí Đế, Đạc Lý, Bí mật Đà Lạt và Okinawa 100. Giống sắn phổ biến là Gòn, H34 và Xanh Vĩnh Phú thích nghi tốt với địa phương nhưng năng suất thấp.

          Đề tài “Chọn tạo giống sắn, khoai lang thích hợp với các vùng sinh thái nông nghiệp miền Nam ” là đề tài thuộc chương trình cấp Bộ 1981-1990, sau đó tiếp tục 1991-2006, và kết nối hợp tác Quốc tế với CIAT, VEDAN (sắn), CIP (khoai lang), Việt Tiệp (sắn xen đậu rồng), IRRI (hệ thống cây trồng cây có củ trên nền lúa) … với nhiều tổ chức Quốc tế khác. Mục tiêu: nhập nội, thu thập, lai tạo, bảo tồn, tuyển chọn và phát triển các giống sắn và khoai lang có năng suất cao, chất lượng tốt, thịch hợp với các vùng sinh thái nông nghiệp miền Nam.

          Kết quả “Tiến bộ mới trong chọn tạo giống khoai lang sắn ở các tỉnh phía Nam” (1981- 2006) đã tuyển chọn được bảy giống khoai lang và mười giống sắn:

           

           

          Bảy giống khoai lang gồm: Hoàng Long, Chiêm Dâu, Khoai Gạo, Bí Đà Lạt (Bộ Nông nghiệp Công nghiệp Thực phẩm công nhận giống năm 1981), HL4 (Bộ Nông nghiệp Công nghiệp Thực phẩm công nhận giống năm 1987), HL518, HL491 (Bộ Nông nghiệp Phát triển Nông thôn công nhận giống năm 1997). Đây là những giống khoai lang chủ lực trong sản xuất tại thời điểm, HL518 (Nhật đỏ) và HL491 ( nhật tím) đột phá về chất lượng khoai ngon. Những tỉnh trồng hai giống khoai lang này nhiều là Vĩnh Long, Kiên Giang, Đà Lạt, Đăk Nông, Gia Lai, Đồng Nai và Sóc Trăng. Điển hình tỉnh Vĩnh Long sản lượng khoai lang năm 2000 là 46,2 ngàn tấn, diện tích khoai lang 2,5 ngàn ha, năng suất bình quân 18,4 tấn / ha, năm 2011 sản lượng khoai lang là 248,7 ngàn tấn, diện tích khoai lang 8,5 ngàn ha, năng suất khoai lang 29,2 tấn / ha (Tổng cục Thống kê 2014) do trồng thâm canh Nhật tím HL491 và Nhật đỏ HL518.

          Mười giống sắn HL20, HL23 và HL24 (Bộ Nông nghiệp Công nghiệp Thực phẩm công nhận giống năm 1990) và phát triển trên diện tích 70.000 – 80.000 ha mỗi năm, chủ yếu ở các tỉnh phía Nam; KM60 (Bộ NN & PTNT công nhận giống tạm thời năm 1992, công nhận giống chính thức 1995); KM94 (Bộ NN & PTNT công nhận giống chính thức đặc cách năm 1995), SM937-26, KM95-3 (Bộ NN & PTNT công nhận giống tạm thời năm 1995), KM98-1 (Bộ NN & PTNT công nhận giống tạm thời năm 1998), KM 98-5 (UBND tỉnh Đồng Nai và Tây Ninh quyết định cho phép sản xuất nhân giống đại trà năm 2005, Bộ NN & PTNT công nhận giống tạm thời năm 2007, công nhận giống chính thức năm 2008), KM 140 (UBND tỉnh Đồng Nai và Tây Ninh quyết định cho phép sản xuất nhân giống đại trà năm 2005, Bộ NN & PTNT công nhận giống tạm thời năm 2007, công nhận giống chính thức năm 2009; giải pháp chọn tạo và phát triển giống sắn KM140 đoạt giải Nhất VIFOTEC hội thi sáng tạo khoa học kỹ thuật toàn quốc năm 2010, Chính phủ Việt Nam trao giải tại thủ đô Hà Nội ngày 17 tháng 1 năm 2010) (trích “Kỷ yếu Khoa học giai đoạn 1975- 2015 Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam” trang 51-51.

           

           

          Giống khoai lang Hoàng Long sau hơn nửa thế kỷ nhập nộị hiện vẫn trồng rất phổ biến ở các tỉnh phía Bắc với diện tích trồng trong sản xuất đạt tỷ trọng cao nhất, kế đến là K51 và KB1. Ở các tỉnh phía Nam giống khoai lang HL518 (Nhật đỏ), HL491 (Nhật tím) Kokey 14 (Nhật vàng), Bí Đà Lạt, Đạc Lý là những giống được trồng phổ biến.

          Trong 44 năm qua (1975-2019) Bộ Nông nghiệp Phát triển Nông thôn đã công nhận 15 giống khoai lang tốt. Những giống này được tuyển chọn theo ba hướng chính: 1) Nhóm giống khoai lang năng suất củ tươi cao, ngắn ngày, chịu lạnh, thích hợp vụ đông (K1, K2, K3, K4, K7, K8, VX37-1, Cực nhanh). 2) Nhóm giống khoai lang năng suất củ cao, nhiều dây lá thích hợp chăn nuôi (K51, KL1, KL5). 3) Nhóm giống khoai lang năng suất củ cao, phẩm chất ngon Hoàng Long, HL518 (Nhật đỏ), HL491 (Nhật tím), KB1, Kokey 14 (Nhật vàng), Bí Đà Lạt, Gạo , HL4.

          Nhu cầu thị trường và thực tiễn sản xuất ngày nay đang dịch chuyển theo hướng khoai lang ngon nên khoai Hoàng Long và nhóm giống khoai lang năng suất củ cao, phẩm chất ngon nên bảo tồn phục tráng và phá triển.

          Thơ cho con” và ‘Đến Thái Sơn nhớ Đào Duy Từ” (Nhớ Người) cảm hứng được lấy từ giống khoai lang Hoàng Long và Thái Sơn nơi phát sinh giống khoai này.

           

           


          THƠ CHO CON
          Hoàng Kim

          Thương yêu tặng hai con
          Tố Nguyên Hoàng Long

          Con!
          Thân thương một tiếng gọi
          Hạnh phúc bật nên lời
          Lòng Cha bồi hồi
          Sung sướng gọi:
          Con!

          Cha đi công tác xa
          Mong đợi Con, từng ngày chờ thư Mẹ
          Thư đến!
          Con ra đời!
          Cha run lên vì mừng
          Thao thức suốt đêm
          Không ngủ

          Bạn bè vây quanh Cha
          Trân trọng niềm vui thiêng liêng
          Nâng cốc chúc Cha
          Hạnh phúc!

          Tiếng Con ngọt ngào môi Cha
          Dào dạt lòng Cha vỗ mãi
          Có Con
          Nối cuộc đời Cha
          Gấp đôi
          Có Con
          Đan giữa cuộc đời
          Hạnh phúc

          Con là sợi dây máu thịt
          Yêu thương gắn Mẹ và Cha
          Có Con
          Cha thấy cuộc đời ý nghĩa hơn
          Cuộc sống – Tình yêu – Sự nghiệp
          Hai Con là hai con mắt
          Cửa sổ tâm hồn Cha
          Dẫu đời Cha nhiều chông gai
          Trái chín cuộc đời vẫn ngọt
          Con là giấc mơ trong trẻo
          Là ban mai tươi vui
          Là viên ngọc trao đời
          Là hương hoa hạnh phúc

          Ước vọng cuộc đời Cha
          Có Con đi nối con đường sự nghiệp
          Con đứng trên vai Cha
          Vươn tới những chân trời mơ ước

          Hai Con
          Hai viên ngọc
          Chị con và Con
          Mẹ con dịu hiền hơn
          Mẹ con đảm đang hơn
          Cha bớt vụng về mỗi việc làm nho nhỏ
          Con trở thành ngọn lửa
          Sưởi ấm lòng Mẹ Cha
          Khi mỗi ngày khó khăn
          Trong trẻo tiếng Con
          Mẹ Cha hết mệt
          Con là niềm vui lớn nhất
          “Con hơn Cha nhà có phúc”
          Cha mong dồn cho Con.

          Lớn lên
          Con sẽ hỏi Cha
          Sao Cha đặt tên Con là Hoàng Long?
          Con ơi!
          Tên Con là khúc hát yêu thương
          Của lòng Cha Mẹ
          Cha Mẹ thương nhau
          Vì qúy trọng những điều ân nghĩa
          Sự nghiệp và tình yêu
          Những ngày gian khổ
          Cùng nghiên cứu củ sắn, củ khoai
          Con là giống khoai Hoàng Long
          Tỏa rộng nhiều vùng đất nước
          Dẫu không là trái thơm qủa ngọt
          Nhưng là niềm vui người nghèo
          Để Cha nhớ về quê hương
          Khoai sắn bốn mùa vất vã
          Để Cha nhớ những ngày gian khổ
          Năm năm
          Cơm ngày một bữa
          Khoai sắn không phụ lòng
          Để Cha nhớ về
          Lon khoai nghĩa tình
          Nắm khoai bè bạn
          Gom góp giúp Cha ăn học
          Khi vào đời
          Cha gặp Mẹ con
          Cho nên:
          Cha muốn Con
          Trước khi làm những điều lớn lao
          Hãy biết làm củ khoai, củ sắn
          Hãy hướng tới những người lao động
          Nhớ quê nghèo cắt rốn, chôn rau

          Lớn lên
          Con sẽ hỏi cha
          Sao Cha đặt tên con Hoàng Long?
          Long là rồng
          Con là đậu rồng
          Là công trình thứ hai Mẹ Cha nghiên cứu
          Mẹ con chọn hạt
          Cha gieo nên con
          Vất vả gian nan
          Hứa hẹn một mùa gặt hái
          Con là tháng ngày mong đợi
          Là niềm vui đóng góp cho đời
          Từ hạt đậu củ khoai
          Cha Mẹ trao Con sự nghiệp
          Cha nhớ câu đối trăm năm
          Về một gia đình hạnh phúc
          “Sáng khoai, trưa khoai, tối khoai
          ngày khoai ba bữa
          Cha đỗ, mẹ đỗ, con đỗ
          đều đỗ cả nhà”
          Chị con và Con
          Là mong ước
          Của Mẹ và Cha

          Lớn lên
          Con sẽ hỏi Cha
          Sao Cha đặt tên con Hoàng Long?
          Long là rồng
          Nghĩa mẹ tạo nền
          Công cha xây móng
          Trước mắt con là sông dài, biển rộng
          Ước mong con bay lên
          Con hãy đi đến cùng
          Mục đích của con
          Làm được những điều cao cả
          Hãy cố gắng không ngừng
          Kiên gan
          Bền chí
          Ước mơ và hiện thực
          Hôm nay và mai sau
          Nghị lực là thước đo cuộc đời
          Hai chữ đầu tiên Con học làm người
          Phải học hai điều NHÂN NGHĨA

          Cha mong Con lớn lên
          Ít nếm trãi khó khăn, vất vả
          Nhưng đừng bao giờ quên
          Những ngày đói khổ
          Thời thơ ấu của Cha
          Mồng Ba tháng Giêng ngày mất của Bà
          Hai mươi tháng Mười ngày ông Mỹ giết
          Ngày mà cửa nhà tan nát
          Đói nghèo Bác dắt dìu Cha
          Tuổi thơ thì bắt ốc, mò cua
          Lớn một chút trồng khoai, dạy học
          Qua danh lợi hiểu vinh, hiểu nhục
          Trãi đói nghèo biết nghĩa, biết ân
          Phan Thiết là nơi Mẹ đã sinh Con
          Ông Bà ngoại nuôi cho Con khôn lớn
          Tuổi thơ của Con lớn trong yên ấm
          Tao nôi êm ả, thanh bình
          Ru cho Con “uống nước nhớ nguồn”
          Khi con lớn đừng quên điều HIẾU THẢO

          Cha say viết về Con
          Kể về Con
          Thơ cho Con
          Cô bác vây quanh Cha
          Gật gù
          Thông cảm

          Thơ chắp mối
          Từng vần,
          Từng mảng
          Câu thơ chưa chỉnh lời
          Nhưng tứ thơ
          Dồn dập
          Bối hồi
          Hạnh phúc lớn
          Trong lòng Cha
          Ngân mãi

          Praha, 17.2.1986
          (Hoàng Long sinh đêm Giáng sinh 24 tháng 12 năm 1985 nhưng Thư đến Praha ngày 17.2.1986)

           

           

          ĐẾN THÁI SƠN NHỚ NGƯỜI
          Hoàng Kim

          Ngược gió đi không nản
          Rừng thông tuyết phủ dày
          Ngọa Long Cương đâu nhỉ
          Đầy trời hoa tuyết bay.

           

           

          So với giống khoai lang Hoàng Long Trung Quốc (ảnh) thì giống khoai lang Hoàng Long Việt Nam ngày nay, sau hơn nửa thế kỷ nhập nội tuyển chọn đã ‘Việt Nam hóa, thích hợp điều kiện Việt Nam, với những đặc điểm khác xưa

          So với giống khoai lang Hoàng Long Trung Quốc (ảnh) thì giống khoai lang Hoàng Long Việt Nam ngày nay, sau hơn nửa thế kỷ nhập nội tuyển chọn đã ‘Việt Nam hóa; với những đặc điểm khác xưa, kế thừa và phát triển. Giống khoai lang Hoàng Long tuyển chọn có đặc điểm năng suất cao, phẩm chất ngon, vỏ hồng đỏ, ruột củ vàng ươm hoặc vàng cam, được nông dân ưa chuộng và trồng phổ biến tại các tỉnh Thanh Hóa, Hải Dương, Nghệ An, Ninh Bình… khoai Hoàng Long được phục tráng.

           

           

          Khoai lang Hoàng Long trên Yên Tử” củ vàng ươm hơn, dẽo ngọt hơn và ít bột hơn so với bản tả kỹ thuật trước đây. Ba bài viết “Giống khoai lang ở Việt Nam” “Khoai lang Hoàng Long trên Yên Tử”, “Khoai lang Việt Nam từ giống tốt đến thương hiệu” cung cấp một góc nhìn liên quan tới sự nghiên cứu phát triển giống khoai lang Việt Nam.

           

           

          Khoai Hoang Long, Lúa Siêu Xanh, Núi Thái Sơn là ba điểm đến yêu thích nhất của tôi tại đất nước Trung Hoa“. Tôi đã tâm đắc nói với thầy Li và thầy Zheng như vậy. “Tôi bắt đầu sự nghiệp nghiên cứu của mình bằng giống khoai Hoàng Long và lấy tên khoai Hoàng Long đặt tên cho con trai Hoang Long của mình. Con trai tôi bắt đầu sự nghiệp của cuộc đời con bằng lúa siêu xanh, học và làm 8 năm cùng hai Thầy. Hai cha con tôi đã leo núi Thái Sơn đêm trăng rằm Phật Đản 2018 ở đất nước Trung Hoa”.

          Giáo sư viện sĩ Zhikang Li là nhà di truyền chọn giống cây trồng hàng đầu Trung Quốc, IRRI và Thế giới, nhà khoa học chính của Dự án IRRI Green Super Rice GSR. Phó Giáo sư Tiến sĩ Tian Qing Zheng là Trưởng nhóm nghiên cứu GSR vùng Châu Á và Châu Phi, quản lý nguồn gen lúa gạo GSR của Viện Hàn lâm Khoa học Nông nghiệp Trung Quốc, Bắc Kinh, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. 

          Lên Thái Sơn hướng Phật Đêm Thái Sơn cha con tôi đã có một chuyến leo núi thật tuyệt vời, một trãi nghiệm không bao giờ quên và một giấc ngủ thật ngon dưới gốc tùng ở Thái An, Sơn Đông. Tôi tích hợp Giống khoai lang Việt NamThơ cho con‘, Đến Thái Sơn nhớ Người trong bài viết này với một số hình ảnh đẹp thuở xưa chụp ảnh thu hoạch khoai lang Hoàng Long  tại Sơn Đông cùng với nông dân và các chuyên gia khoai lang Trung Quốc, CIP năm 1996, ảnh đẹp chụp ở ‘Khổng miếu’ với giáo sư khoai lang  Ấn Độ, ảnh đẹp chụp ‘Khổng Lâm’ với giáo sư khoai lang nổi tiếng  Rasco người Philippine cùng với một số kỷ niệm khác không quên

           

           

          Giống khoai lang ở Việt Nam có nhiều loại với năng suất, chất lượng, thời gian sinh trưởng và hiệu quả kinh tế khác nhau. Khoai lang HL518 Nhật đỏ, (hình trên) với khoai lang  HL491 Nhật tím và khoai lang Hoàng Long là ba giống khoai lang được trồng phổ biến nhất ở Việt Nam.và ấn tượng trong tôi thật lắng đọng.

           

           

          Ông Đỗ Quý Hạo với doanh nghiệp trồng khoai lang tạo dựng thương hiệu khoai lang Ba Hạo (Hạo Đỗ Quý ) vang bóng một thời Kỳ tích từ cây lúa, củ khoai ở Hòn Ðất tỉnh Kiên Giang . Anh Đỗ Quý Hạo đã được Nhà nước Việt Nam vinh danh trong Đại hội thi đua yêu nước toàn quốc năm 2010 và nay anh đang thành chuyên gia khoai lang giúp nhiều tỉnh “xây dựng mô hình khoai lang Nhật”.

          Khó khăn chính trong sản xuất khoai lang hiện nay là: Giống khoai lang lẫn tạp và thoái hóa; Kỹ thuật canh tác khoai lang chưa thật phù hợp (từ thời vụ trồng, chọn đất, chọn hom giống tốt, kỹ thuật làm đất, bón phân NPK và hữu cơ vi sinh, kỹ thuật trồng, mật độ trồng, phòng trừ sùng khoai lang, sâu đục dây và bệnh hại, đến các biện pháp làm cỏ, nhấc dây, tổ chức sản xuất kinh doanh và tiêu thụ khép kín…); Chưa kiểm soát tốt sùng hà gây hại; Ít đầu tư thâm canh; Chưa tổ chức sản xuất kinh doanh tiêu thụ khép kín. Khoai lang Việt từ giống tốt đến thương hiệu vẫn còn là một câu chuyện dài….

           

           

          Hai giống khoai lang HL518 (Nhật đỏ) và HL491 (Nhật tím) đã được Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn công nhận giống năm 1997 (Nguyễn Thị Thủy, Hoàng Kim và ctv. 1997) hiện đã được trồng khá phổ biến và mang lại sự thay đổi căn bản về năng suất cao và chất lượng ngon cho sự canh tác khoai lang tại nhiều tỉnh của Việt Nam. Bảy giống khoai lang Hoàng Long, Chiêm Dâu, Khoai Gạo, Bí Đà Lạt , HL4, HL518 Nhật đỏ, HL491 Nhật tím là những ấn tượng kỷ niệm không quên. Việt Nam con đường xanh, câu chuyện vui tiếp nối.

           

           

          LÊN THÁI SƠN HƯỚNG PHẬT
          Hoàng Kim

          Đường trần thênh thênh bước
          Đỉnh xanh mờ sương đêm
          Hoàng Thành, Trúc Lâm sáng
          Phước Đức vui kiếm tìm.

          Giống khoai lang Hoang Long
          HL518 (Nhật đỏ), HL491 (Nhật tím)
          Khởi đầu một ước vọng
          Giống khoai lang Việt Nam

          https://hoangkimlong.wordpress.com/category/giong-khoai-lang-viet-nam/

           

           

          NHỚ BẠN THƯƠNG LỜI NHẮN
          Hoàng Kim

          Nhớ bạn thương lới nhắn
          Lúa siêu xanh Việt Nam
          Ngẫm núi Xanh Bắc Kinh
          Nhớ Trạng TrìnhNội Tán

          Lên Thái Sơn hướng Phật
          Chiếu đất ở Thái An
          Đi thuyền trên Trường Giang
          Nguyễn Du trăng huyền thoại

          Khổng Tử dạy và học
          Kho báu đỉnh Tuyết Sơn
          Huyền Trang tháp Đại Nhạn
          Hoa Mai thơ Thiệu Ung

          Ngày mới vui xuân hiểu
          Quảng Tây nay và xưa
          Lên đỉnh Thiên Môn Sơn
          Trung Quốc một suy ngẫm

          (*) Tấm hình này là Giáo sư viện sĩ Zhikang Li nhà di truyền chọn giống cây trồng hàng đầu Trung Quốc, IRRI và Thế giới, nhà khoa học chính của Dự án IRRI Green Super Rice GSR với Phó Giáo sư Tiến sĩ Tian Qing Zheng là Trưởng nhóm nghiên cứu GSR vùng Châu Á và Châu Phi, quản lý nguồn gen lúa gạo GSR của Viện Hàn lâm Khoa học Nông nghiệp Trung Quốc, Bắc Kinh, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.  Tôi đã tâm đắc nói với thầy Li và thầy Zheng: “Khoai Hoang Long, Lúa Siêu Xanh, Núi Thái Sơn là ba điểm đến yêu thích nhất của tôi tại đất nước Trung Hoa“. “Tôi bắt đầu sự nghiệp nghiên cứu của mình bằng giống khoai Hoàng Long và lấy tên khoai Hoàng Long đặt tên cho con trai Hoang Long của mình. Con trai tôi bắt đầu sự nghiệp của cuộc đời con bằng lúa siêu xanh, học và sau 8 năm làm việc cùng hai Thầy nay đã thành tựu. Hai cha con tôi trước khi về nước sẽ lên núi Thái Sơn hướng Phật đêm trăng rằm Phật Đản 2018 ở đất nước Trung Hoa”.

           

          Thái An núi Thái Sơn

           

          NHỚ BẠN THƯƠNG LỜI NHẮN
          Hoàng Kim

          Ai viết cho ai câu thơ thăm thẳm
          Đường trần ai đằng đẳng tháng năm dài
          “Thập tải luân giao cầu cổ kiếm
          Nhất sinh đê thủ bái hoa mai”.

          Mười năm xuôi ngược tìm gươm báu

          Một đời chỉ cúi trước hoa mai.
          “Nghêu ngao vui thú yên hà
          Mai là bạn cũ, hạc là người quen”.

          Thái Sơn nhớ bạn thương lời nhắn
          ‘Lúa siêu xanh và khoai Hoàng Long’
          Ngắm ảnh thương yêu ngày tháng cũ
          Núi Thái mừng ai biết trở về.

          Mời bạn ghé thăm hình ảnh mới
          Bắc
          Trung Nam xuân suốt bốn mùa
          Phúc hậu hiền lành là
          khắc thịnh
          Mười năm
          kiếm cổ nhớ người xưa.

          Ngược gió suốt đời đi không nản
          Rừng thông
          mai núi tuyết phủ dày
          Ngọa
          Long cương Đào Công đâu nhỉ
          Đầy trời
          TrungViệt gió mưa bay.

           

           

          CHIẾU ĐẤT Ở THÁI AN
          Hoàng Kim

          Tỉnh thức lên Thái Sơn
          Thung dung ngủ cội tùng
          Chiếu đất ở Thái An
          Đêm thiêng chào ngày mới

          Ai uống rượu Hàm Hanh
          Lòng tưởng nhớ Lỗ Tấn
          Ta mang rượu Thái Sơn
          Ngon xách về chẳng dễ

          “Núi cao ta trồng
          Đường rộng ta đi
          Tuy đích chưa đến
          Nhưng lòng hướng về”

          Lên Thái Sơn hướng Phật
          Về ngủ bên cội tùng
          Trãi một cơn gió bụi
          Thoáng chốc ba mươi năm

          https://hoangkimlong.wordpress.com/…/len-thai-son…/

          THÁI AN NÚI THÁI SƠN
          Thái An là nơi trung tâm quần thể du lịch Thái Sơn. Tôi xách rượu Thái Sơn và khoai lang Hoàng Long (hình) định mang về Trường Đại Học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh để làm quà cho thầy bạn quý. Trong ảnh phía sau lưng tôi là gốc tùng nơi Hoàng Long và tôi đã nằm ngủ suốt đêm qua ngoài trời vì không Xem tiếp >>

            Dạy và học 8 tháng 8(08-08-2021)


          DẠY VÀ HỌC 8 THÁNG 8
          Hoàng Kim
          CNM365 Tình yêu cuộc sốngTrà sớm nhắn bạn hiền; Sớm Thu; 24 tiết khí nông lịch; Giấc mơ lành yêu thương; Niềm tin và nghị lực; Tagore Thánh sư Ấn Độ; Châu Mỹ chuyện không  quên; Nguyên Ngọc về Tây Nguyên; Kho báu đỉnh Tuyết Sơn; Trung Quốc một suy ngẫm; Ngày 8 tháng 8 năm 1967 là ngày thành lập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) tại Bangkok, Thái Lan. Ngày 8 tháng 8 năm 2008  khai mạc Thế vận hội Bắc Kinh 2008. Ngày Toàn dân rèn luyện sức khoẻ tại Trung Quốc. Ngày 8 tháng 8 năm 1975, do mưa lớn từ hoàn lưu bão Nina làm hàng chục đập bị vỡ tại lưu vực Hoài Hà thuộc tỉnh Hà Nam, khiến khoảng 22,9 vạn người thiệt mạng; Bài chọn lọc ngày 8 tháng 8: Trà sớm nhắn bạn hiền; Sớm Thu; 24 tiết khí nông lịch; Giấc mơ lành yêu thương; Niềm tin và nghị lực; Tagore Thánh sư Ấn Độ; Châu Mỹ chuyện không  quên; Nguyên Ngọc về Tây Nguyên; Kho báu đỉnh Tuyết Sơn; Trung Quốc một suy ngẫm; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-8-thang-8/

          TRÀ SỚM NHẮN BẠN HIỀN
          Hoàng Kim


          Phòng bệnh hơn chữa bệnh
          Dịch bệnh quá dữ dội
          Triệt để việc cách ly
          Xa lánh bệnh lây lan

          Biết mình người yếu thế
          Chẳng thể đi tiêm phòng
          Đồng Nai lo thành phố
          Tự mình thương mình thôi

          Đoàn kết chung chống dịch
          Hi vọng và an nhiên
          Viết bài giữ sức khỏe
          Chăm cháu và làm vườn.

          Sao tình yêu may mắn
          Ban mai sáng chân trời
          “Vô đề” Gia Cát Lượng
          Bình sinh mình biết mình

          (*) Thông tin của Đặng Chương Ngạnhttps://www.facebook.com/DangChuongNgan/posts/968545970371436 trích dẫn bài viết của nhà báo Nguyễn Đức Hiển, phó tổng biên tập báo Pháp luật TP.HCM. Các thông tin kịp thời trung thực này đã giúp cho chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh kịp thời điều chỉnh các quyết sách chống dịch và kết nối các nổ lực dập dịch https://www.facebook.com/DangChuongNgan/posts/968768367015863

          VÔ ĐỀ
          Gia Cát Lượng


          Mơ màng ai tỉnh trước,
          Bình sinh ta biết ta.
          Thềm tranh giấc xuân đẫy,
          Ngoài song bóng xế tà.

          Bản dịch lưu hành trong Tam Quốc diễn nghĩa, dịch bởi Phan Kế Bính

          無題
          大夢誰先覺,
          平生我自知。
          草堂春睡足,
          窗外日遲遲。

          Vô đề

          Đại mộng thuỳ tiên giác,
          Bình sinh ngã tự tri.
          Thảo đường xuân thuỵ túc,
          Song ngoại nhật trì trì.

          Dịch nghĩa

          Trong giấc mộng lớn, ai là người tỉnh trước?
          Trong cuộc đời này ta tự biết ta.
          Đang yên giấc ngủ xuân trong ngôi nhà tranh,
          Bên ngoài cửa sổ mặt trời (ngày tháng) cứ chậm rãi trôi qua.

          ThaiDuonghe

          GÕ BAN MAI VÀO PHÍM
          Ngôi sao may mắn chân trời
          Hoàng Kim

          ta gõ ban mai vào bàn phím
          gõ vào khuya ngơ ngẫn kiếm tìm
          biết em ngủ đợi chờ em tỉnh thức
          như ánh sao trời ở chốn xa xôi.

          em em em giá mà em biết được
          những yêu thương hóa đá chốn xa mờ
          sợi tóc bạc vì em mà xanh lại
          lời ru và nỗi nhớ ngấm vào thơ.

          em thăm thẳm một vườn thiêng cổ tích
          chốn ấy cõi riêng khép mở chân trời
          ta như chim đại bàng trở về tổ ấm
          lại khát Bồng Lai ước vọng mù khơi.

          ta gõ ban mai vào bàn phím
          dậy em ơi ngày mới đến rồi. (**)

          (**) Sao Kim kỳ thú. Gõ ban mai vào phím, Hoàng Kim họa đối thơ Văn Công Hùng

           

          GÕ CHIỀU VÀO BÀN PHÍM
          Văn Công Hùng

          tôi gõ buổi chiều vào bàn phím
          hiện lên em ngơ ngác xa xăm
          tôi tìm tôi trong mật khẩu
          những chấm tròn đen lạnh lùng


          tôi tôi tôi giá mà em biết được
          nỗi cô đơn lớn biết chừng nào
          muốn ho khẽ nhưng mà không ho nỗ
          chiếc lá khô lão đỏo ở sau hè


          em ở phía không thể nào tới được
          một con sông đã khóa những nhịp cầu
          giá có thể lấp sông bằng nỗi nhớ
          một phía bờ sẽ lại hóa dòng sông


          tôi gõ buổi chiều vào bàn phím
          một đôi mắt buồn hiện ở chốn xa xăm .

          VanCongHung

          Nhà thơ Văn Công Hùng

          DinhTuyetSon

          KHO BÁU ĐỈNH TUYẾT SƠN
          Hoàng Kim

          Bí mật kho báu trên đỉnh Tuyết Sơn góp phần giải mã ba tồn nghi lớn của lịch sử: Vì sao Trung Quốc quyết không cho Tây Tạng tự trị? Lý Tự Thành và kho báu đời Minh? Bí mật ngoại giao thời vua Càn Long với nhà Tây Sơn? Bài viết này được đăng trên trang Nghiên cứu lịch sử ngày 1.8. 2016 và được bảo tồn phát triển tại đây https://hoangkimlong.wordpress.com/category/kho-bau-dinh-tuyet-son/

          Tuyết Sơn phi hồ là bộ tiểu thuyết đầu tiên trong 14 bộ tiểu thuyết nổi tiếng của nhà văn Kim Dung, một trong ba văn hào được nhiều người đọc nhất của Trung Quốc đương đại. Tác phẩm Tuyết Sơn phi hồ của Kim Dung là một trong những đỉnh cao văn chương Trung Hoa và Thế Giới đã chuyển thể nghệ thuật điện ảnh và được nhiều nhà văn tài năng ao ước chinh phục, .

          Đỉnh Everest và truyện Tuyết Sơn phi hồ

          Đỉnh Everest (còn gọi là đỉnh Chomolungma) là nóc nhà cao vọi của thế giới. Đây là đỉnh núi cao nhất Trái Đất với độ cao 8848 mét so với mực nước biển. Đỉnh Everest thuộc biên giới giữa Nepal và Tây Tạng (Trung Quốc) là nơi được nhiều người leo núi mơ ước khám phá. Đỉnh Everest được Andrew Scott Waugh, người Anh, tổng trưởng quan trắc của Ấn Độ đặt tên tiếng Anh là Everest. Ông viết: …”Tôi được Ngài đại tá George Everest quan cấp trên và là người tiền nhiệm đáng kính của tôi, dạy rằng cần đặt cho mỗi đối tượng địa lý bằng tên địa phương hoặc tên riêng thổ ngữ xứ đó. Ngọn núi này có lẽ là ngọn núi cao nhất thế giới, nhưng không có tên địa phương hoặc tên riêng thổ ngữ nào mà chúng tôi biết đến, mà nếu như được biết đến, thì cũng không biết là đến khi nào mới chắc chắn trước khi chúng tôi được cho phép đi xuyên qua Nepal… Tạm thời tôi xin mạn phép đặt tên… một cái tên mà sẽ được biết đến giữa các công dân và trở thành một từ thông dụng giữa các quốc gia văn minh.

          Đỉnh Everest tiếng Tây Tạng gọi  là Chomolangma  (Thánh mẫu của vũ trụ), tiếng Trung Quốc gọi là Thánh Mẫu Phong “đỉnh núi của Thánh mẫu” do phiên âm từ tiếng Tây Tạng. Đỉnh Everest tiếng Nepan dịch nghĩa được gọi là “trán trời”. Edmund Hillary và Tenzing Norgay trở thành những người đầu tiên lên đến đỉnh Everest ngày 29 tháng 5 năm 1953.  Junko Tabei người Nhật là phụ nữ đầu tiên trên đỉnh núi vào 16 tháng 5 năm 1975; Erik Weihenmayer là người mù đầu tiên leo tới đỉnh của Everest ngày 25 tháng 5 năm 2001. Trước ngày 29 tháng 5 năm 1953 và từ ngày đó đến nay đã có nhiều người mạo hiểm chinh phục đỉnh núi Tuyết nhưng nhiều người không trở về.

          Mai Lý tuyết sơn (Meili Xue Shan) là dãy núi ở Khu tự trị dân tộc Tạng Địch Khánh, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc. Đỉnh Kawagebo cao 6.740 mét, trên dãy núi trùng điệp này, nằm ở huyên lỵ Đức Khâm, của biên giới Tây Tạng, Địch Khánh và gần biên giới với Myanma . Đỉnh núi Kawagebo tuy thấp hơn đỉnh Everest nhưng cho đến nay vẫn chưa có ai leo đến tới đỉnh mà không thiệt mạng, do hiểm trở với sáu ngọn núi cao hơn 6000 m tuyết phủ vĩnh cữu.

          Tuyết Sơn phi hồ  (Flying Fox of Snowy Mountain) là bộ tiểu thuyết võ hiệp đầu tay của Kim Dung  đăng trên Minh báo năm1959,  Phi hồ ngoại truyện được viết năm 1960 (sau Tuyết Sơn Phi Hồ một năm) kể về điển tích võ học tinh hoa của Hồ Phỉ nhân vật chính truyện. Tuyết Sơn phi hồ là bộ sách đầu tiên và Lộc Đỉnh Ký là bộ sách cuối cùng tâm đắc nhất của Kim Dung. Ông nói rằng ông gửi gắm những điều vi diệu tâm đắc nhất của ông vào hai bộ sách khai tập và kết thúc này. Tôi e rằng những người đọc và hiểu hết những điều thâm hậu của ông là không nhiều. Tuyết Sơn phi hồ  kể lại câu chuyện tranh giành bảo đao Thiên Long của Sấm Vương  Lý Tự Thành  vào năm Càn Long thứ 48 thời nhà Thanh, thực chất là sự tranh giành kho báu trên đỉnh núi Tuyết.

          Nguồn gốc câu chuyện khởi đầu khi Lý Tự Thành thất bại ở Bắc Kinh phải rút về núi Cửu Cung và bị vây. Ông cùng bốn cận vệ thân tín, võ công cao cường là Hồ, Miêu, Phạm, Điền chôn giấu kho báu trên Ngọc Bút Sơn của đỉnh núi Tuyết, bí mật chìa khóa kho báu giấu ở thanh bảo đao Thiên Long và cây trâm của Ngọc Lan. Sau khi ba người Miêu, Phạm, Điền phá vây đi cầu viện binh trở về thì  Lý Tự Thành mất tích, người họ Hồ, ngoại hiệu Phi thiên hồ ly, đã trá hàng Ngô Tam Quế để mưu cứu Lý Tự Thành, nhưng bị ba người em hiểu lầm và ám hại. Ông cam chịu chết mà không chống trả. Câu chuyện ân oán giữa con cháu họ kéo dài đến năm 48 thời Càn Long nhà Thanh  với Phúc Khang An. Nhân vật võ lâm lẫy lừng danh tiếng Miêu Nhân Phụng “đi khắp thiên hạ không có ai địch thủ” đã chấp nhận quyết đấu với Tuyết Sơn Phi Hồ ngoại hiệu của  Hồ Phỉ trẻ tuổi tài cao danh chấn Tuyết Sơn. Câu chuyện về họ là một khúc ca bi tráng với một thiên tình sử cảm động.

          Năm 2007, một đoạn trích trong tác phẩm này đã được đưa vào chương trình sách giáo khoa môn ngữ văn tại Trung Quốc, thay thế AQ chính truyện, đã gây nên nhiều dư luận rất khác nhau.
          MaotrennuiTuyet

          Trung Quốc đang muốn vẽ lại biểu tượng người Trung Hoa mới thay thế  AQ.

          Hình tượng Mao Trạch Đông thời trẻ nay sừng sững trên núi Tuyết khiến người ta liên tưởng trận đấu sinh tử của Hồ Phỉ tuổi trẻ anh hùng nghĩa hiệp và nhân ái trên đỉnh Tuyết Sơn. Mao Trạch Đông có bài thơ Tuyết – Thẩm Viên Xuân – mô tả về núi sông hùng vĩ , đánh giá về hào kiệt các thời của đất nước Trung Hoa và bài thơ Côn Lôn – Niệm Nô Kiều – chính là ngầm ý nói về sự hùng vĩ của Tuyết Sơn và hùng tâm tráng khí cách mạng của ông cải tạo Trung Hoa và Thế Giới

          TUYẾT

          Mao Trạch Đông

          Cõi bắc xinh thay
          Nghìn dặm băng dày
          Vạn dặm tuyết gieo
          Ngắm Trường Thành bát ngát
          Trong, ngoài trắng dải
          Đại Hà trên, dưới
          Bỗng sóng ngừng reo
          Núi: rắn bạc vờn
          Gò: voi sáp ruổi
          Muốn thách trời ai kẻ thấp cao
          Khi trời hửng
          Ánh hồng lồng ánh bạc
          Rất đỗi yêu kiều

          Non sông xinh đẹp dường bao
          Khiến vô số anh hùng cúi rạp theo
          Tiếc Tần hoàng, Hán Vũ
          Kém phần văn vẻ
          Đường tông, Tống tổ
          Thiếu mực phong tao
          Khét tiếng một thời
          Thành Cát Tư Hãn
          Chỉ biết giương cung bắn ó, diều
          Xưa đã khuất
          Nhìn trời nay hẳn thấy
          Nhân vật phong lưu.

          (bản dịch của Hoàng Trung Thông, Nam Trân)

          Nguyên văn chữ Hán

          沁園春-雪

          北國風光,
          千里冰封,
          萬里雪飄。
          望長城內外,
          唯餘莽莽;
          大河上下,
          頓失滔滔。
          山舞銀蛇,
          原馳蜡象,
          欲與天公試比高。
          須晴日,
          看紅裝素裹,
          分外妖嬈。

          江山如此多嬌,
          引無數英雄競折腰。
          惜秦皇漢武,
          略輸文采;
          唐宗宋祖,
          稍遜風騷。
          一代天驕,
          成吉思汗,
          只識彎弓射大雕。
          俱往矣,
          數風流人物,
          還看今朝。

          Dịch nghĩa

          Thấm viên xuân – Tuyết

          Bắc quốc phong quang,
          Thiên lý băng phong,
          Vạn lý tuyết phiêu.
          Vọng Trường thành nội ngoại,
          Duy dư mãng mãng;
          Đại hà thượng hạ,
          Đốn thất thao thao.
          Sơn vũ ngân xà,
          Nguyên trì lạp tượng,
          Dục dữ thiên công thí tỷ cao.
          Tu tình nhật,
          Khán hồng trang tố lý,
          Phân ngoại yêu nhiêu.

          Giang sơn như thử đa kiều,
          Dẫn vô số anh hùng cạnh chiết yêu.
          Tích Tần Hoàng Hán Võ,
          Lược thâu văn thái;
          Đường Tông Tống Tổ,
          Tiêu tốn phong tao.
          Nhất đại thiên kiêu,
          Thành Cát Tư Hãn,
          Chỉ thức loan cung xạ đại điêu.
          Câu vãng hĩ,
          Sổ phong lưu nhân vật,
          Hoàn khán kim triêu.

          CÔN LÔN
          Mao Trạch Đông

          Dọc ngang trời đất
          Ngút Côn Lôn thấy khắp cõi đời xuân sắc
          Cuộn bay rồng ngọc ba trăm vạn
          Khuấy cả bầu trời lạnh ngắt
          Mùa hạ tuyết tan
          Hai sông tràn ngập
          Lắm kẻ thành cá tôm
          Công tội nghìn năm
          Ai đã cùng ngươi chỉ vạch?

          Mà nay ta bảo Côn Lôn:
          Không cần quá cao, không cần bấy nhiêu tuyết
          Sao tựa được trời rút bảo kiếm
          Đem ngươi chặt làm ba khúc?
          Một gửi Châu Âu
          Một tặng Châu Mỹ
          Một trả về Đông quốc
          Thế giới thái bình
          Ấm lạnh chung đều quả đất.

          Nguyên văn chữ Hán

          念奴嬌-崑崙

          橫空出世,
          莽崑崙,閱盡人間春色。
          飛起玉龍三百萬,
          攪得周天寒徹。
          夏日消溶,
          江河橫溢,
          人或為魚鱉。
          千秋功罪,
          誰人曾與評說?

          而今我謂崑崙:
          不要這高,不要這多雪。
          安得倚天抽寶劍,
          把汝裁為三截?
          一截遺歐,
          一截贈美,
          一截還東國。
          太平世界,
          環球同此涼熱。

          Dịch nghĩa

          Niệm nô kiều – Côn Lôn

          Hoành không xuất thế,
          Mãng Côn Lôn, duyệt tận nhân gian xuân sắc.
          Phi khởi ngọc long tam bách vạn,
          Giảo đắc chu thiên hàn triệt.
          Hạ nhật tiêu dung,
          Giang Hà hoành dật,
          Nhân hoặc vi ngư miết.
          Thiên thu công tội,
          Thuỳ nhân tằng dữ bình thuyết?

          Nhi kim ngã vị Côn Lôn:
          Bất yếu giá cao, bất yếu giá đa tuyết.
          An đắc ỷ thiên trừu bảo kiếm,
          Bả nhữ tài vi tam tiệt?
          Nhất tiệt di Âu,
          Nhất tiệt tặng Mỹ,
          Nhất tiệt hoàn Đông quốc.
          Thái bình thế giới,
          Hoàn cầu đồng thử lương nhiệt.

          Kho báu trên núi Tuyết

          Những hé lộ về bí mật kho báu trên núi Tuyết đã giúp tư liệu đánh giá ba vấn đề lớn tồn nghi trong lịch sử: 1) Ngoại giao thời vua Càn Long với nhà Tây Sơn. 2) Lý Tự Thành và kho báu nhà Minh 3) Vì sao Trung Quốc quyết không cho Tây Tạng tự trị?.

          1) Ngoại giao thời vua Càn Long với nhà Tây Sơn

          Vua Càn Long sau thất bại nặng nề của nhà Thanh trong chiến tranh với Tây Sơn đã sai danh tướng Phúc Khang An thay thế Tôn Sĩ Nghị làm Tổng đốc Lưỡng Quảng. Phúc Khang An được giao quyền tùy cơ hành xử và phao tin điều động thêm 50 vạn quân để ứng chiến vùng biên giới nhằm hư trương thanh thế. Phúc Khang An nguyên là đặc sứ phụ trách hậu cần cho đội quân của Tôn Sĩ Nghị là người mà vua Càn Long đặc biệt yêu quý và tin cẩn. Phúc Khang An dân gian cho rằng đó là con ngoài giá thú của vua Càn Long với em gái của Hoàng Hậu.

          Sự thật là, vua Càn Long đang cố tìm kiếm một thắng lợi ngoại giao với nhà Tây Sơn cho “thập toàn đại công” của ông thay vì tìm kiếm một thắng lợi quân sự vừa rất khó khan trong lúc nhà Thanh đang phải xử lý một vấn đề cơ mật tối quan trọng tại Tây Tang.

          Theo chính sử, năm 1789, kho vàng tại tu viện Mật Tông ở Tây Tạng là điểm quan tâm lớn nhất của vua Càn Long vì bị quân Khuếch Nhĩ Khách Mông Cổ dòm ngó chuẩn bị tấn công. Vua Càn Long đã 78 tuổi, ông có tính toán riêng về người kế vị là Hoàng tử Gia Khánh và phúc tướng Phúc Khang An nên việc cơ mật này không thể cử ai khác mà phải chính là Phúc Kháng An đảm nhiệm. Lưỡng Quảng và Đại Việt tuy cũng cần sớm an định, nhưng điểm nóng Cam Túc là bệnh gan ruột làm vua Thanh rất lo nghĩ, trong khi nước Nam ở xa xôi, Nguyễn Huệ anh dũng thiện chiến không thể xem thường nên vua Càn Long lựa ý vỗ về hơn là đem binh thảo phạt.

          Phúc Khang An và Thang Hùng Nghiệp sớm biết tình thế nên đã đón ý hoặc phân vai mật trao đổi với nhà Tây Sơn. Nguyễn Huệ thấy rõ chỗ yếu của quân Thanh và biết họ đang tìm cách để giảng hòa, trong khi ông cũng đang bận tâm xử lý phía Nam. Do vậy sau khi Nguyễn Huệ thắng trận đã sai mang nhiều vàng bạc hối lộ Phúc Khang An và Tả giang Binh bị đạo Thang Hùng Nghiệp để nghị hòa và cho cháu là Nguyễn Quang Hiển lên cửa ải Nam Quan cầu phong và xin cho Nguyễn Huệ được về Bắc Kinh triều kiến Càn Long. Mưu mẹo này là sự thông đồng giữa hai bên với sự thách giá trả giá bên trong và cách qua mặt vua Lê Chiêu Thống cùng số cựu thần nhà Lê chỉ là sự hợp lý hóa. Bài viết “Ngoại giao Việt Nam thời Tây Sơn” là tư liệu quý trong chính sử đề nghị xem kỹ để hiểu rõ.

          Lê Chiêu Thống tiếp tục xin nhà Thanh cho quân cứu viện. Nhà Thanh, phần sợ Quang Trung, phần đã ngán ngẩm việc chinh chiến, nên chỉ hứa hão với Chiêu Thống mà không cho quân. Thân vương nhà Thanh là Phúc Khang An hứa giúp quân cho Chiêu Thống, nhưng lại tâu với vua Thanh Càn Long rằng Chiêu Thống không còn muốn trở về nước nữa. Phúc Khang An được hưởng nhiều lợi từ nhà Tây Sơn, nhận rõ tình thế và có dụng ý riêng, nên đã dâng biểu xin hoàng đế Càn Long bãi binh, đồng thời ông cũng chỉ thị cho Thang Hùng Nghiệp gửi mật thư cho Quang Trung gợi ý nên hoà hiếu, tránh binh đao và lập các mẹo mực bang giao để giữ thể diện cho vua Càn Long mà tránh được chiến tranh.

          Thư ngoại giao “Trần tình biểu” của vua Quang Trung lúc đầu khá cứng rắn nhưng với sự mưu kế của Thang Hùng Nghiệp nên đã nhẹ đi rất nhiều. Tây Sơn theo phương lược vạch sẵn, với tài ngoại giao khéo léo của Ngô Thì Nhậm, đã nhanh chóng bình thường hóa bang giao với phương Bắc.Nhà Thanh đồng ý hủy bỏ việc động binh để trả thù, và tiếp nhận sứ thần của Tây Sơn. Vua Quang Trung phải dâng biểu “Nộp lòng thành”, nộp cống phẩm. Nhà Thanh đã chịu chấm dứt chiến tranh, nhưng vẫn chưa chịu thừa nhận Nguyễn Huệ làm An Nam quốc vương. Phúc Khang An viết cho vua Quang Trung một bức thư dài báo cho vua Quang Trung biết là vua Càn Long đã ban cho Quang Trung một chuỗi hạt trai, “Ơn trời cao đất dày đến thế là tốt lắm” lại báo cho vua Quang Trung biết rằng: bọn Lê Duy Kỳ đã bị róc tóc, mặc quần áo kiểu người Thanh, đã bị đưa đi an trí ở “ngoại biên” “quyết không cho về nước nữa”. Rồi sau đó Phúc Khang An đòi Tây Sơn phải làm miếu thờ Hứa Thế Hanh, Sầm Nghi Đống. Lại cho biết là khoảng tháng bảy, tháng tám năm Canh Tuất (1790) nhà Thanh sẽ làm lễ bát tuần vạn thọ vua Càn Long “Có hàng vạn nước vượt biển trèo non đem ngọc xe lễ vật đến chầu“. Phúc Khang An yêu cầu vua Quang Trung đến ngày đó cũng phải “chỉnh trang” sang chầu, và như thế phải khởi hành vào tháng tư năm Canh Tuất (1790)

          Đáng chú ý là sau đó, vua Càn Long xuống chỉ cho vua Quang Trung đại ý nói: do quân Thanh vượt biên giới đến Thăng Long, Nguyễn Huệ phải đem quân ra để hỏi Lê Duy Kỳ vì cớ gì cầu cứu thiên binh; vì bị quân Thanh đánh, quân Tây Sơn bất đắc dĩ phải đánh lại; gặp lúc cầu phao đứt, nên quân Thanh bị chết hại nhiều. Trong tờ chỉ Càn Long còn nhận rằng Nguyễn Huệ đã bắt và giết hết những người đã giết Hứa Thế Hanh và Sầm Nghi Đống. Ông còn cho rằng khi quân Thanh vào Thăng Long, ông đã ra lệnh cho Tôn Sĩ Nghị rút quân về nước, vì Sĩ Nghị không tuân lệnh, cho nên có trận đại bại vào đầu năm Kỷ Dậu. Ông lại đòi lập đền thờ Hứa Thế Hanh và Sầm Nghi Đống, và đòi vua Quang Trung phải đích thân sang Yên Kinh triều cận vào dịp Càn Long làm lễ bát tuần vạn thọ năm Canh Tuất. Ông lại nhắc rằng “Lê Duy Kỳ hèn lười, không tài, bỏ ấn trốn đi, chiểu theo pháp luật của Thiên triều phải tội nặng; rằng ông quyết an trí bọn chúng ở Quế Lâm, không bao giờ cho về nước nữa; rằng ông đã ra lệnh cho Phúc Khang An đưa phái đoàn Nguyễn Quang Hiển đến xem chỗ bọn Lê Duy Kỳ ở” Nhưng rồi vua Quang Trung viện cớ là mình chưa được phong vương, sợ có điều bất tiện khi gặp các vị quốc vương các nước ở Yên Kinh. Thế là Càn Long đành phải phong cho Nguyễn Huệ làm An Nam quốc vương để có điều kiện đến Yên Kinh triều cận một cách đàng hoàng.  Vua Càn Long qua Phúc Khang An lại ra điều kiện đòi triều Tây Sơn phải đúc người vàng đem cống như các triều đại trước. Ngô Thì Nhậm đã viết cho Phúc Khang An bức thư, trong đó có đoạn:

          Quốc trưởng nước tôi vùng lên từ thủa áo vải, nhân thời biết việc, đối với vua Lê vốn không có danh phận vua tôi. Mất hay còn là do số trời; theo hay bỏ là do lòng người. Quốc trưởng tôi có ý cướp ngôi của nhà Lê đâu mà lại coi như kẻ thoán đoạt. Trước đây Tôn bộ đường đem quân đến, quốc trưởng nước tôi bất đắc dĩ phải đem quân ra ứng chiến, không hề có ý xâm phạm biên cảnh để mang tội. Nay đại nhân theo lệ cũ của Trần, Lê, Mạc bắt cống người vàng, như vậy chẳng hóa ra quốc trưởng nước tôi được nước một cách quang minh chính đại mà lại bị coi như hạng ngụy Mạc hay sao? Như thế thì tấm lòng kính thuận sợ trời thờ nước lớn cũng bị coi như việc nhà Trần bắt Ô Mã Nhi, nhà Lê giết Liễu Thăng hay sao?…Mong đại nhân noi theo mệnh lớn, miễn cho nước tôi lệ đúc người vàng để tiến cống…”

          Nguyễn Huệ trong thư này đã nói rõ rằng các vua Việt Nam thời trước sở dĩ phải cống người vàng là để chuộc một tội lỗi nào đó đối với Thiên triều còn Nguyễn Huệ tự coi không có tội gì với nhà Lê và cũng không có tội gì với nhà Thanh nên Tây Sơn không thể đúc người vàng để tiến cống.

          Tháng 7 năm 1789, Càn Long ra chỉ dụ phong Nguyễn Huệ làm An Nam quốc vương. Tháng 1 năm 1790, Hoàng đế Quang Trung giả (do Phạm Công Trị, cháu gọi Nguyễn Huệ bằng cậu đóng) đã sang triều kiến và dự lễ mừng thọ 80 tuổi của vua Càn Long. Đoàn sứ bộ Tây Sơn gồm 159 người có giả vương Nguyễn Huệ và Nguyễn Quang Thùy (mà vua Càn Long tưởng là hoàng thái tử của Nguyễn Huệ). Mục đích khác của đoàn sứ là thăm dò thái độ của nhà Thanh đối với vị vua lưu vong Chiêu Thống của nhà Lê. Đại quan nhà Thanh là Phúc Khang An, từng sang chiến trường Đại Việt, đứng sau lưng đoàn sứ bộ, nên nhiều tướng lĩnh nhà Thanh biết người cầm đầu sứ bộ không phải Nguyễn Huệ, nhưng ngại gây hấn nên không nói ra.

          Sứ thần Tây Sơn đi đợt đó có Ngô Văn Sở,  Phan Huy Ích (thượng thư, nhà ngoại giao, quê Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh,  tiền bối của nhà sử học Phan Huy Lê, giáo sư nhà giáo nhân dân, là một trong những chuyên gia hàng đầu về lịch sử Việt Nam hiện đại, người có ảnh hưởng lớn đến chính sử hiện tại trong sự đánh giá nhà Nguyễn và nhà Tây Sơn), Vũ Huy Tấn ( Thị lang bộ Công, tước , sau khi đi sứ về ông được phong làm Thượng thư bộ Công, tước Hạo Trạch hầu. Dưới triều Cảnh Thịnh, ông được đặc cách lên hàng Thượng trụ quốc, Thị trung đãi chiếu Thượng thư). Sứ đoàn Tây Sơn lần đó cũng có Nguyễn Nể là anh cùng cha khác mẹ với Nguyễn Du và  Đoàn Nguyễn Tuấn là anh vợ Nguyễn Du. Dọc đường đi, đoàn sứ giả có gặp hành tung của một số người họ Nguyễn ở Quảng Tây và sau đó cùng đi lên Yên Kinh. Người đời sau ngờ rằng đó chính là Nguyễn Du và Hà Mỗ.

          Đoàn sứ thần Tây Sơn có giả vương Nguyễn Huệ làm thế nào để che mắt sứ đoàn vua Lê Chiêu Thống hiển nhiên có mặt?. Phúc Khang An đã ngầm thông đồng mưu kế với Tây Sơn: “Tìm một người diện mạo giống quốc vương đi thay. Việc này chỉ có Công gia, Thang đại nhân, Vương đại nhân và ta là bốn người biết mà thôi. Nếu sợ Lê Duy Kỳ biết, ta bẩm ngay với Công gia đem 1000 người bọn ấy giữ kỹ không cho ra ngoài, còn ai biết được nữa”. (theo Bang giao tập, ngoại giao nhà Tây Sơn).

          Ngoại giao Việt Nam thời Tây Sơn thực chất là như vậy!  Người đời sau vốn tin vào “Hoàng Lê Nhất thống chí”, các chứng cứ của Phan Huy Ích và Bang giao tập, mà ít để ý đến bí mật kho báu Tây Tạng, Cam Túc trong sự chuyển giao ngai vàng. Phúc Khang An cần nhanh chóng lập được đại công quản lý Lưỡng Quảng và vỗ yên Đại Việt để tính toán vị thế đối trọng danh chính ngôn thuận với ngôi vua mà vua Càn Long chuyển giao cho Gia Khánh đang đến rất gần. Điều này đã ảnh hưởng sâu sắc tới kế sách, thái độ của vua Càn Long và Phúc Khang An đối với Lê Duy Kỳ.

          Lê Duy Kỳ và các cựu thần nhà Lê có đối sách ngoại giao gì? sách Cương mục viết:“Nhà vua căm giận vì bị người Thanh lừa gạt, bèn cùng các bầy tôi là bọn Phạm Như Tùng, Hoàng Ích Hiểu, Lê Hân, Nguyễn Quốc Đống, Nguyễn Viết Triệu, Lê Quý Thích, Nguyễn Đình Miên, Lê Văn Trương, Lê Tùng và Lê Thức mười người uống máu ăn thề, làm bài biểu định đưa lên vua Thanh để xin quân cứu viện, nếu không được thì xin được đất hai châu Tuyên Quang và Thái Nguyên để quay về giữ việc thờ cúng tổ tiên hay là cùng nhau lén về Gia Định nương nhờ triều ta (triều Nguyễn Ánh) để dần dà toan tính việc khôi phục, chứ quyết không chịu sống thừa ở đất Bắc.”

          Năm 1791, Lê Duy Kỳ thấy không thể mong chờ viện binh của quân Thanh nên đã trở về chiếm đất Tuyên Quang, Cao Bằng dựa vào thế lực của tù trưởng Nùng Phúc Tấn, Hoàng Văn Đồng, liên kết với Trình Cao, Quy Hợp, các vùng Trấn Ninh của Vạn Tượng mưu đánh Nghệ An.  Nguyễn Huệ sai trấn tướng Nguyễn Quang Diệu và đô đốc Nguyễn Văn Uyển đem năm nghìn tinh binh theo đường thượng lộ Nghệ An tiến đánh chiếm được Trấn Ninh, diệt Trịnh Cao, Quy Hợp. Vua nước Vạn Tượng phải bỏ thành mà chạy. Quang Diệu thừa thắng đuổi dài đến tận Xiêm La, chém tướng Vạn Tượng là tả súy Phan Dung và hữu súy Phan Siêu, sau đó kéo quân về Bảo Lộc. Nùng Phúc Tấn và Hoàng Văn Đồng thế cùng không chống đỡ nổi đều bị quân Quang Diệu giết chết. Nguyễn Quýnh em Nguyễn Du quay trở về Hồng Lĩnh khởi nghĩa bị bắt và bị giết năm 1791 tròn 30 tuổi, dinh thự và làng Tiên Điền bị đốt sạch. Vua Lê Chiêu Thống cô thế với các cựu thần trung thành lại phải về Yên Kinh.

          Nguyễn Huệ sau khi đã được nhà Thanh phong làm An Nam quốc vương và truy sát đuổi dài tận diệt những mầm mống hồi phục nhà Lê và các cựu thần nhà Lê ứng nghĩa, đã đặt thể chế Hoàng Đế, lập Lê Thị Ngọc Hân làm Bắc Chính cung Hoàng hậu, phong con trưởng là Nguyễn Quan Toản làm thái tử, chọn Nghệ An làm thủ đô với tên Phượng Hoàng trung đô, đắp thành đất ở núi Kỳ Lân, dựng lầu điện, chia cả nước thành các trấn để cai trị, định quan danh, làm sổ ba tịch đinh điền, phát thẻ tín lệnh (tương tự CMND ngày nay) để quan lý hộ tịch hộ khẩu. Về đối ngoại xin mở cửa ải hải quan giao thương với nhà Thanh ở Cao Bằng, Lạng Sơn để dân hai nước họp chợ thông thương, lại xin đặt phái bộ đại diện ở phủ Nam Ninh trong nội địa Trung Quốc, xin cưới công chúa nhà Thanh. Tất cả những điều Nguyễn Huệ đề đạt với vua Càn Long đều được vua Càn Long đồng ý.

          Thương thay, Nguyễn Du quyết ý không theo nhà Tây Sơn “Phượng bay cao phi ngô đồng không đỗ. Sỹ ẩn minh phi minh chủ không thờ” do nhìn thấu những bất hòa trong nội tình nhà Tây Sơn và phương thức xử lý đại cục nên không chịu ra làm quan. Vua Càn Long sau này khi Nguyễn Du làm chánh sứ triều Nguyễn đã đích thân tự tay viết bức đại tự tặng Nguyễn Du nay lưu lại ở di tích lịch sử Nguyễn Tiên Điền quả là sâu sắc.

          Kim Dung Tuyết Sơn Phi Hồ đã góp phần vén bức màn lịch sử ấy.

          2) Lý Tự Thành và kho báu nhà Minh

          Phúc Khang An chết. Sấm Vương Lý Tự Thành cùng bốn thủ hạ thân tín lộ diện trong kho báu trên đỉnh núi Tuyết vào năm Càn Long thứ 48 thời nhà Thanh, là những bài học tinh tế của cuộc sống. Lời bình luận xin nhường cho bạn đọc.

          3) Vì sao Trung Quốc quyết không cho Tây Tạng tự trị ?.

          Kho báu chôn giấu ở đâu? nguồn tài chính, cổ vật, báu vật của các triều đại, dòng họ giữ ở đâu khi thời thế thay đổi. Núi cao, đảo xa, trung tâm tài chính ổn định là những điểm chính.

          Tài liệu Rampa Đức Đạt – lai Lạt – ma tiên tri và tái sinh đã hé mở những bí mật về kho báu Lasha Tây Tạng.

          Rampa viết:  “Rampa đi nhiều quốc gia trên thế giới và bùi ngùi nhìn lại đất nước Tây Tạng của mình, tự nhận xét: Bề ngoài Tây Tạng không có nguồn lợi kinh tế nào đáng kể, vì mặt đất cằn cỗi toàn đá cứng, đồng ruộng núi đồi quanh năm tuyết phủ. Nhưng thực ra, trong lòng đất “Tây Tạng cũng có đủ những mỏ vàng, mỏ bạc và uranium”, nhiều không kể xiết “những tượng Phật đúc bằng vàng khối, những đĩa vàng, chén vàng, những xác ướp bọc vàng- tại xứ này vàng không phải là một kim loại hiếm quý – mà là một kim khí linh thiêng”. Người dân bao đời giữ niềm tin mỏ vàng mỏ bạc “là long mạch của quốc gia” nên nếu khai quật sẽ mang lại tai ương không lường trước được. Tài nguyên ẩn kín và vị trí chiến lược của Tây Tạng trên dãy Hymalaya thu hút “lòng tham không đáy” của các quốc gia quen lấy “sự chiếm đoạt tài sản của nước khác” làm tài sản của mình, đã nâng các cuộc xâm lược đẫm máu lên hàng quốc sách (L. Rampa – sđd. tr. 88).

          Trung Quốc đang khuấy động Hymalaya – Tây Tạng (tổ sơn) và khuấy nhiễu biển Đông (tổ long), sẽ phải gánh chịu hậu quả khủng khiếp“.

          Kim Dung Tuyết Sơn phi hồ là những bài học thú vị.

          Bí mật kho báu trên núi Tuyết với ba tồn nghi lớn của lịch sử: Vì sao Trung Quốc quyết không cho Tây Tạng tự trị? Lý Tự Thành và kho báu đời Minh nay ở đâu? Hệ lụy ngoại giao thời vua Càn Long với nhà Tây Sơn? Đó là một chuỗi lịch sử lớn cần được nghiên cứu, giải mã thấu đáo. Sự nghiên cứu lịch sử này liên quan rất mật thiết đến Việt Nam: thế Tam Quốc trong thời Nguyễn Du, vua Lê Chiêu Thống bị bán đứng, vua Quang Trung cái chết bí ẩn, Nguyễn Du cuộc đời và thời thế, Nguyễn Du 250 năm nhìn lại.

          Nguồn: Nghiên cứu lịch sử ngày 1.8. 2016 và được bảo tồn phát triển tại đây
          https://hoangkimlong.wordpress.com/category/kho-bau-dinh-tuyet-son/

          Nguyen Ngoc ve Tay Nguyen

          Xem tiếp >>

            Dạy và học 7 tháng 8(07-08-2021)


          DẠY VÀ HỌC 7 THÁNG 8
          Hoàng Kim
          CNM365 Tình yêu cuộc sống24 tiết khí nông lịch; Giấc mơ lành yêu thương; Niềm tin và nghị lực; Tagore Thánh sư Ấn Độ; Sớm ThuChùa Bửu Minh Biển Hồ; Ngày 7 tháng 8 năm 1941 là ngày mất của  Rabindranath Tagore, thánh sư nhà thơ nổi tiếng Ấn Độ người Bengal, triết gia Bà La Môn và nhà dân tộc chủ nghĩa, người châu Á đầu tiên năm 1913 đoạt giải Nobel Văn chương, (ông sinh năm 1861); Ngày Lập thu trong 24 tiết khí nông lịch; Ngày Quốc khánh tại Cộng hòa Côte d’Ivoire Bờ Biển Ngà là một quốc gia nằm ở Tây Phi. Ngày 7 tháng 8 năm 1960 Bờ Biển Ngà tuyên bố độc lập từ Pháp;  Bài chọn lọc ngày 7 tháng 8:24 tiết khí nông lịch; Giấc mơ lành yêu thương; Niềm tin và nghị lực; Tagore Thánh sư Ấn Độ; Sớm ThuChùa Bửu Minh Biển Hồ; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-7-thang-8;

          NÔNG LỊCH TIẾT LẬP THU
          Hoàng Kim

          Lập Thu
          nắng sớm mây quang
          Chăm cây
          đọc sách
          thanh nhàn thắng năm

          Thương người
          như thể thương thân
          Nghe tin
          dịch bệnh
          rất gần
          mà thương …

          24 TIẾT KHÍ NÔNG LỊCH
          Hoàng Kim


          Khuyên em đừng quên nhất thì nhì thục
          Di sản Việt Nam học mãi không cùng
          Mình học để làm hai bốn tiết khí
          Mộc mạc hát vần bài học đầu tiên.

          Đất cảm trời thương lòng người gắn bó
          Dẫu khó vạn lần khéo liệu cũng xong
          Mùa xuân tới tự tiết xuân sẽ đến
          Bởi biết rằng năm tháng đó là em.

          6 tháng Một bắt đầu rét nhẹ
          21 tháng Một trời lạnh cắt da
          4 tháng Hai ngày xuân mới đến
          20 tháng Hai Thiên Địa Nhân hòa.

          Đồng dao cho em khuyên em đừng tưởng
          Câu chuyện mùa xuân
          thêm cho mồng Ba
          Trải Cốc Vũ qua ngày Hạ Chí
          Đại Thử rồi Sương Giáng thành hoa.

          6 tháng Năm là ngày Hè đến
          22 tháng Năm mưa nhỏ, vào mùa
          5 tháng Sáu ngày Tua Rua mọc
          21 tháng Sáu là chính giữa Hè.

          7 tháng Bảy là ngày nắng nhẹ
          23 tháng Bảy là tiết nóng oi
          7 tháng Tám Lập Thu rồi đó
          23 tháng 8 trời đất mây mưa.

          Qua Xử Thử đến tiết trời Bạch Lộ
          Sau Mưa Ngâu đến Nắng nhạt đấy em.
          Tiết Thu Phân khoảng 23 tháng 9
          Đối lịch nhà nông em nhớ đừng quên.

          Tiết Hàn Lộ nghĩa là trời mát mẻ
          Kế tiếp theo là Sương Giáng (sương mù)
          23 tháng 10 mù sa dày đặc
          Thuyền cỏ mượn tên nhớ chuyện Khổng Minh.

          Ngày 7 tháng 11 là tiết lập đông
          23 tháng 11 là ngày tiểu tuyết
          8 tháng 12 là ngày đại tuyết
          22 tháng 12 là chính giữa đông.

          Khuyên em đừng quên nhất thì nhì thục
          Di sản Việt Nam học mãi không cùng
          Mình học để làm 24 tiết khí
          Mộc mạc hát vần bài học đầu tiên.

          Mùa vụ trồng cây, kinh nghiệm nghề nông
          Xin em đừng quên điều ông bà dạy
          Xuân Hạ Thu Đông hai bốn tiết khí
          Khoa học thiên văn ẩn ngữ đời người.

          Đất cảm trời thương, lòng người gắn bó
          Dẫu khó vạn lần khéo liệu cũng xong
          Mùa xuân tới tự tiết xuân sẽ đến
          Bởi biết rằng
          năm tháng đó là em.

          Conduongdaukho

          CHỈ TÌNH YÊU Ở LẠI
          Hoàng Kim

          “Năm tháng đi qua,

          những cuộc chiến tranh đã thôi tàn phá,
          những cuộc cách mạng đã thôi gào thét,
          chỉ đọng lại không phôi pha,
          tấm lòng em
          nhân hậu dịu dàng
          và tràn đầy yêu thương…”

          Ba lần ngập trong nước trong,
          Ba lần tắm trong máu đỏ,
          Ba lần nấu trong nước giặt,
          Ta trong sạch hơn những người trong sạch nhất !

          Con đường đau khổ” tác phẩm văn học nổi tiếng của nhà văn Aleksey Nikolayevich Tolstoy, đã được chuyển thể thành nhiều phim,  là câu chuyện số phận của người trí thức Liên Xô trong bối cảnh sụp đổ của Đế quốc NgaNội chiến khốc liệt xảy ra.

          Con đường đau khổ là đỉnh cao chói lọi của tài năng Alexei Tolstoi, là cuốn tiểu thuyết của nền văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa. A.Tolstoi đã viết bộ ba tiểu thuyết này trong hơn 20 năm (1919-1941) và quá trình viết cuốn tiểu thuyết cũng là quá trình lớn lên trong tầm nhận thức của nhà văn đối với cách mạng.

          Tập đầu của bộ tiểu thuyết, cuốn Hai chị em viết khi A.Tolstoi còn ở nước ngoài và chưa đi theo cách mạng, có thể xem là một thiên tự sự về vận mệnh cá nhân của các nhân vật trí thức đang đi tìm đường giữa những biến động dữ dội của cuộc sống. Mở đầu A.Tolstoi đưa ta vào không khí của kinh thành Peterburg năm 1914, những ngày trước chiến tranh. Peterburg và cả nước Nga đang sống trong những ngày tháng hấp hối của xã hội tư sản, những ngày tháng chán chường, phờ phạc, sặc nồng mùi vốtka và ái ân không tình yêu. Xã hội tư sản đang sống những ngày tàn của nó và những người trí thức tiểu tư sản, như những con bướm, không dính dáng gì đến khía cạnh nào của nước Nga cả, đang khắc khoải, hoảng hốt đi tìm “con đường thứ ba” làm giải pháp phá vỡ bế tắc của cuộc sống.

          Sống trong không khí xã hội ấy, các nhân vật của A.Tolstoi do bản chất của mình, cũng đã dấn mình vào những cuộc tình phù du, những cuộc “dạ đàm” triết học và nghệ thuật, vào những suy tư dằn vặt vô vọng và đau đớn để tìm cách thoát ra khỏi xã hội và thoát ra khỏi chính mình. Katia, Dasa, Rotsin… kẻ ít người nhiều, đều đã sống như những “thân phận cô đơn”, những kẻ bị “lưu đày” trong xã hội ấy. Cuối cùng, họ sẽ đi tới đâu với những ưu tư ấy? Như tác giả sau này cho thấy, con đường của họ sẽ là con đường lạc lối, nếu không có một giải pháp thực sự cách mạng.

          Mặc dù trong tập đầu, A.Tolstoi không có ý định mô tả quá trình lịch sử và có ý định viết một tiểu thuyết sử thi về nội chiến và cách mạng, Hai chị em vẫn không phải là tiểu thuyết thuộc loại sinh hoạt gia đình tầm thường. “Đó là hình ảnh thời đại qua những ấn tượng riêng tư” (A.Tolstoi). A.Tolstoi đã chú ý xác định mối quan hệ giữa trí thức và cách mạng hơn là mô tả những biến cố đang diễn ra trên dòng lịch sử. Các nhân vật của Hai chị em thấy cách mạng, chiến tranh, lịch sử như là một cái gì trớ trêu, thù địch, thay đổi bất thường và họ cố đem đối lập tính chất bấp bênh của lịch sử với sự vững vàng của hạnh phúc cá nhân. Âm điệu của tiểu thuyết là âm điệu của triết lý xã hội đi đôi với trữ tình cá nhân và điều đó được thể hiện ngay từ những trang đầu của tiểu thuyết. Sức hấp dẫn của tác phẩm trước hết là ở chỗ vận mệnh cá nhân các nhân vật đã được A.Tolstoi thể hiện trong sự tha thiết đối với vận mệnh của nước Nga, trong nhiệt hứng cải biến cách mạng, mặc dù chính tác giả đã không hiểu rõ thực chất của cách mạng. Nghệ thuật của tác giả trong việc tạo ra những bức tranh giàu màu sắc, trong việc sử dụng ngôn từ và chất thơ trữ tình, đằm thắm, sự “miêu tả lý thú và tinh tế tâm lý của một người con gái Nga đến tuổi yêu đương” như lời nhận xét của Gorki… Tất cả đã góp phần tạo nên hứng thú đặc biệt của cuốn sách.

          Viết cuốn Năm 1918, A.Tolstoi đã chuyển hẳn cách nhìn và cách miêu tả đời sống nhân vật. Quá khứ đang còn nóng bỏng được tái hiện và tác phẩm bản lề này chuyển hẳn tác phẩm ba tập thành tác phẩm sử thi, anh hùng ca. A.Tolstoi đã thể nghiệm lại cuộc sống của đất nước Xô Viết trong một giai đoạn đột biến, ông phải suy nghĩ lại, cảm xúc lại tất cả dưới một cái nhìn mới và bản thân tầm rộng lớn của cuộc sống chiến đấu định tái hiện vào tác phẩm đã đòi hỏi một dung lượng tiểu thuyết rộng lớn, buộc phải chuyển sang sử dụng thể loại anh hùng ca. Trong Năm 1918, những sự kiện lịch sử dường như đối lập với số phận cá nhân các nhân vật. Trong tác phẩm, các nhân vật của A.Tolstoi đã đi vào cuộc sống và sự tiếp xúc với nhân dân đã dần dần thủ tiêu những mâu thuẫn cá nhân và xã hội, cuối cùng hòa hợp lại trong tình yêu đối với Tổ quốc và nhân dân.

          Cùng với việc miêu tả chính quá trình lịch sử của đất nước Nga, trong Năm 1918, và sau đó trong Buổi sáng ảm đạm đã xuất hiện hàng loạt những nhân vật cộng sản đầy sức sống và có ý nghĩa lớn lao. Những con người này, những người đã cứu đất nước và nhân dân ra khỏi bàn tay của bọn phản động và bọn can thiệp nước ngoài, đã là “tinh hoa, lực lượng và tương lai của đất nước” (Lênin). Đấy là những người yêu nước chân chính, chiến đấu kiên định, những người thông minh mà giản dị, đôn hậu, được tôi luyện vững vàng trong chính cuộc chiến đấu sinh tử với kẻ thù.

          Ivan Gora, người công nhân cộng sản có ý thức, người chính ủy đã giương cao ngọn cờ đỏ trong trận ác liệt trên bờ sông Manyts và khi hy sinh rồi, anh vẫn còn “dang rộng hai tay ra như muốn ôm lấy đất, chết rồi mà vẫn không chịu để cho quân thù chiếm mảnh đất này”. Tsugai, người cán bộ tổ chức quần chúng thông minh, giàu kinh nghiệm đã để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc. Số phận của Anyxya tượng trưng khát vọng vươn tới cái đẹp và chứng tỏ cách mạng đã mở rộng, thức tỉnh những khát vọng chưa từng có đối với văn học của nhân dân lao động. Cô thanh niên cộng sản Maruxya được miêu tả chỉ trong vài trang, nhưng hình bóng của cô thấm nhuần chất thơ của sự trong trắng và niềm tin ở lý tưởng… Qua tất cả những nhân vật này, cũng như qua việc thể hiện một cách chân xác hình tượng đám đông thủy thủ, hình tượng của những người lao động, A.Tolstoi muốn vạch rõ ảnh hưởng và tác động của họ đối với những người trí thức, vạch rõ sự xuất hiện con người mới.

          Năm 1939, A.Tolstoi viết cuốn Buổi sáng ảm đạm, tập cuối của bộ ba Con đường đau khổ và đã đặt dấu chấm hết vào đúng ngày nổ ra chiến tranh vệ quốc vĩ đại – ngày 22.6.1941. Nối tiếp nhiệm vụ mô tả những biến cố lịch sử của Năm 1918, trong phần cuối này của bộ tiểu thuyết, A.Tolstoi đã sáng tạo một cách thể hiện độc đáo. Trong khi thu hẹp nhiệm vụ mô tả các sự kiện lịch sử vào vùng Ukrain và vùng xung quanh Saritxun, A.Tolstoi đi vào chiều sâu nội tâm của nhân vật, chiều sâu do cuộc cách mạng và nội chiến, do cuộc sống tác động vào ý thức và tâm lý của hàng triệu người…

          Buổi sáng ảm đạm trong năm 1918, A.Tolstoi đã sử dụng rộng rãi những tài liệu lưu trữ lịch sử. Và do đó có thể gọi Buổi sáng ảm đạm và Năm 1918 là biên niên sử của cuộc nội chiến.

          A.Tolstoi  bằng tất cả sự thâm thúy của một nghệ sỹ lớn, đã nói lên qua tác phẩm của mình như một lời tâm sự: Cuộc sống không có con đường thứ ba, chỉ có hai con đường đi với nhân dân hoặc chống lại nhân dân. Chỉ có đi với nhân dân, cùng với cách mạng, người trí thức mới tìm được vị trí của mình trong cuộc sống chung và mới có được hạnh phúc chân chính.

          Tư tường chính của tác phẩm, cũng là thông điệp của cuộc sống, qua lời nhân vật Rotsin: “Năm tháng đi qua, những cuộc chiến tranh đã thôi tàn phá, những cuộc cách mạng đã thôi gào thét, chỉ đọng lại không phôi pha tấm lòng em nhẫn nại dịu dàng và chan chứa tình yêu thương…

          “Con đường đau khổ” là một trong Một trăm kiệt tác của nhân loại.

          Ngày tôi viết bài này là ngày sinh của A. Tolstoy, người đã viết nên những trang sách “Con đường đau khổ” ám ảnh nhiều thế hệ bạn đọc của người dân Nga cũng như toàn thế giới, cũng là ngày sinh của danh tướng Lê Trọng Tấn, một trong những vị tướng đánh trận giỏi nhất trong chiến tranh Việt Nam là ngày phát  hành Lẽ Thông Thường, một cuốn sách mỏng của Thomas Paine nhưng đã truyền cảm hứng cho mười ba thuộc địa ở châu Mỹ vùng lên đấu tranh giành độc lập làm sụp đổ hệ thống thuộc địa của Đế quốc Anh. Lẽ Thông Thường là tác phẩm ngắn “phổ biến nhất và mạnh mẽ nhất trong suốt thời kỳ cách mạng Mỹ” theo đánh giá của nhà sử học Gordon S. Wood.[5]   cũng là ngày hội sách làng Minh Lệ, một mô hình mới về việc sinh hoạt văn hóa làng xã ở xã Quảng Minh, thị xã Ba Đồn, tỉnh Quảng Bình. Lịch sử làng Minh Lệ đã có hơn 600 năm. Truyền thống cha ông đánh giặc giữ nước, bảo vệ quê hương, tình làng nghĩa xóm, đã ăn sâu trong máu thịt của mỗi người. Nơi đây có những người con trung hiếu tỏa đi muôn phương nhưng luôn nhớ về quê cha đất tổ. Những bài học lịch sử, giá trị nhân văn, truyền thống quê hương, được chung tay tìm tòi, bảo tồn và phát triển.

          Tôi  tìm thấy sự liên hệ và thức tỉnh của lớp người trong thời đại mình. Đó là một thế hệ cầm súng, trãi qua nội chiến chống ngoại xâm, diệt giặc đói, lại dấn thân vào việc diệt giặc dốt, nâng cao dân trí, bị vây giữa các xu hướng thực dụng bon chen, cố giàu bằng mọi giá, đua đòi, tham nhũng, để giữ được dòng chính minh triết, phúc hậu, yêu thương và phát triển.

          HoangKim999
          VUI ĐI DƯỚI MẶT TRỜI
          Hoàng Kim

          Hãy lên đường đi em
          Ban mai vừa mới rạng
          Vui đi dưới mặt trời
          Một niềm tin thắp lửa

          Ta như ong làm mật
          Cuộc đời đầy hương hoa
          Thời an nhiên vẫy gọi
          Vui khỏe đời cho ta.

          Vui đi dưới mặt trời
          Nắng dát vàng trên đồng xuân
          Mưa ướt vệt bóng mây, tím sắc trời cuối hạ
          Đất ước, cây trông, lòng nhớ …

          Em trốn tìm đâu trong giấc mơ tâm tưởng
          Ngôi nhà con hạnh phúc trăm năm
          Bếp lửa ngọn đèn khuya
          Vận mệnh cuộc đời cố gắng

          Tình yêu là người thầy tốt hơn trách nhiệm
          Đồng lòng đất cảm trời thương
          Phúc hậu minh triết tận tâm
          Cố gắng làm người có ích

          Tháng năm tròn đầy vườn thiêng cổ tích
          Mừng ban mai mỗi ngày tỉnh thức bình an
          Chào ngày mới CNM365 Tình yêu cuộc sống
          Thảnh thơi vui cõi phúc được thanh nhàn.

          GIẤC MƠ LÀNH YÊU THƯƠNG
          Hoàng Kim

          nhắm mắt lại đi em
          để thấy rõ giấc mơ hạnh phúc
          trời thanh thản xanh
          đêm nồng nàn thở
          ta có nhau trong cuộc đời này
          nghe hương tinh khôi đọng mật
          quyến rũ em và khát khao anh
          mùi ngây ngất đằm sâu nỗi nhớ
          một tiếng chuông ngân
          thon thả đầu ghềnh

          nhắm mắt lại đi em
          hạnh phúc đâu chỉ là đích đến
          hạnh phúc là con đường trãi nghiệm
          vỗ về, chờ đợi, nhớ thương

          nhắm mắt lại đi em
          trong giấc mơ của anh
          có em và rừng thiêng cổ tích
          có suối nước trong veo như ngọc
          có vườn trúc và ngôi nhà tranh
          có một đàn trẻ thơ tung tăng
          heo gà chó mèo ngựa trâu
          nhởn nhơ trên đồng cỏ
          tươi xanh

          nhắm mắt lại đi em,
          tận hưởng thú an lành.

          Nhắm mắt lại đi em
          Giấc ngủ ngoan
          giấc mơ hạnh phúc
          Em mãi bên anh,
          Đồng hành với anh
          Bài ca yêu thương
          Bài ca hạnh phúc
          Giấc mơ lành yêu thương

          I have a dream

          Nhắm mắt lại đi em
          Giấc mơ cuộc đời
          giấc mơ hạnh phúc
          ngôi nhà tâm thức
          Giấc mơ lành yêu thương
          Có cánh cửa khép hờ
          Có bãi cỏ xanh non.
          Đất nước cây và hoa
          Một khu vườn tĩnh lặng.
          Chim sóc chó mèo gà
          luôn quấn quýt sớm hôm.
          Ban mai ửng
          nghe chim trời gọi cửa.
          Hoàng hôn buông
          trăng gió nhẹ lay màn.
          Ta
          về với ruộng đồng
          Vui giấc mơ hạnh phúc
          Vui một giấc mơ con
          Hoa LúaHoa NgườiHoa Đất 
          Giấc mơ lành yêu thương.


          Hà Nội ngày trở lại
          Thăng Long sen Tây Hồ
          Vui trong ngày tình yêu
          Thấm bài thơ nghị lực
          Một gia đình hạnh phúc
          Giấc mơ lành yêu thương

          xem tiếp Một gia đình yêu thương
          https://hoangkimlong.wordpress.com/category/mot-gia-dinh-yeu-thuong/

          NIỀM TIN VÀ NGHị LỰC
          Hoàng Kim

          Minh triết là yêu thương
          Cuối dòng sông là biển
          Niềm tin thắp lên nghị lực
          Yêu thương mở cửa thiên đường.

          Hoàng Thị Huyền Hoàng Kim, ảnh Chị và Em 1971

          “Hãy luôn luôn hạnh phúc và sung sướng” Lev Tonstoy khuyên chúng ta hãy  tuân theo quy luật của sự chí thiện và luôn nhớ câu cách ngôn cổ của người Do Thái: “Linh hồn của một người là ngọn đèn của Thượng đế“ … biết noi theo gương người Thầy lớn để thắp lên ngọn đèn trí tuệ của chính mình.

          VỀ LẠI MÁI TRƯỜNG XƯA
          Hoàng Kim

          Đâu phải bây giờ ta mới quý thời gian
          Mỗi ngày đi qua
          Mỗi tháng đi qua
          Mỗi năm đi qua
          Thấm thoắt thời gian
          Nhìn sự vật đổi thay ta biết rõ

          Mái tóc Thầy ta đã bạc đi già nữa
          Hàng trăm bạn bè thuở ấy đã đi xa
          Ta lại về đây với mái trường xưa
          Thân thiết quá nhưng sao hồi hộp thế
          Trăm khuôn mặt trông vừa quen vừa lạ
          Ánh mắt chào đọng sáng những niềm vui

          Ta chỉ là hạt cát nhỏ nhoi
          Trong trùng điệp triệu người lên tuyến lửa
          Giá độc lập giờ đây thêm hiểu rõ
          Thắng giặc rồi càng biết quý thời gian

          Đất nước ba mươi năm chiến đấu gian nan
          Mỗi tấc đất đều đậm đà nghĩa lớn
          Bao xương máu cho tự do toàn vẹn
          Bao đồng bào, đồng chí đã hi sinh.

          Ta dâng cho Tổ Quốc tuổi thanh xuân
          Không tiếc sức cho cuối cùng trận thắng
          Xếp bút nghiên để đi cầm khẩu súng
          Càng tự hào làm người lính tiên phong

          Nay trở về khi giặc đã quét xong
          Trách nhiệm trao tay tiếp cầm ngọn bút
          Nâng cuốn sách lòng bồi hồi cảm xúc
          Ta hiểu những gì ta phải gắng công

          Trận thắng hôm qua bạn góp máu hồng
          Lớp học hôm nay bạn không trở lại
          Trách nhiệm trong mình nhân lên gấp bội
          Đồng đội ơi tôi học cả phần anh.

          Biết ơn thầy cô giáo dịu hiền
          Bằng khích lệ động viên lòng vượt khó
          Trăm gian nan buổi ban đầu bở ngỡ
          Có bạn thầy càng bền chí vươn lên

          Trước mỗi khó khăn có bạn luôn bên
          Như đồng đội trong chiến hào chia lửa
          Ôi thân thiết những bàn tay tập thể
          Ta nhủ lòng cần xứng đáng hơn

          Đâu phải bây giờ ta mới quý thời gian
          Hiểu mất mát, biết tự hào phải cố
          Trận tuyến mới nguyện xứng là chiến sĩ
          Thiêng liêng lời thề, vững một niềm tin.


          HƯNG LỘC NÔI YÊU THƯƠNG
          Hoàng Kim


          Sắn đâu rồng leo quấn quýt thân
          Ngô trồng xen đậu, lúa khoai chăm
          Ngày vui đồng ruộng, đêm đọc sách
          Mưa nắng an nhiên học kiệm cần.

          Nhớ Miền Đông
          Mảnh đất nơi này lắm máu xương…

          Giữa ngày vui nhớ miền Đông
          Nôn nao lòng lại giục lòng nhớ thương
          Chân đi muôn dặm nẻo đường
          Phải đâu cứ đất quê hương mới là

          Đêm nằm nghe gió thoảng qua
          Nồng thơm hương lúa, đậm đà tình quê
          Chợt dưng lòng lại gọi về
          Vùng quê xa với gió hè miền Đông

          Vục đầu uống ngụm nước trong
          Nhớ sao Vàm Cỏ ngọt dòng sông xanh
          Nhớ từ xóm Giữa xa em
          Nhớ lên Bù Đốp, Lộc Ninh, xóm Chùa

          Xa em từ bấy đến chừ
          Một vầng trăng sáng, xẽ chia đôi miền
          Em về Châu Đốc, Long Xuyên
          Anh lên Srêpốc với niềm nhớ thương

          Nằm đêm lưng chẳng tới giường
          Nghe chao cánh võng giữa rừng đêm khuya
          Chăm chăm theo nét bản đồ
          Cùng anh, cùng bạn tiến vô Sài Gòn

          Giữa ngày vui nhớ miền Đông
          Nhớ em, nhớ bạn, thuỷ chung vẹn toàn
          Phải vì vất vả gian nan
          Của bao năm đặm nhớ thương đến rày …

          Non sông những tháng năm này
          Lọc muôn sắc đỏ cho ngày hội vui
          Nhớ em trong dạ bùi ngùi …
          Trông trời hoa, nhớ đất trời miền Đông.

          Hưng Lộc nôi yêu thương

          Ôi quê hương thân thiết tự bao giờ
          Mỗi bước đi xa càng thêm yêu Tổ Quốc
          Nhớ quê nhà nửa đêm ta tỉnh thức
          Ngóng phương trời vợi vợi nhớ mênh mông

          Biết ơn quê nghèo cắt rốn chôn rau
          Nơi mẹ cha xưa suốt đời lam lũ
          Cha giặc giết luống cày còn bỏ dỡ
          Sự nghiệp này trao lại tay con

          Biết ơn anh tần tảo sớm hôm
          Năm năm học mỗi ngày cơm một bữa
          Bắt ốc mò cua bền gan vững chí
          Nhắc thù nhà nợ nước cho em.

          Sống giữa lòng dân những tháng những ngày
          Anh chị góp công, bạn thầy giúp sức
          Đêm trăn trở ngọn đèn khuya tỉnh thức
          Nhớ một thời thơ ấu gian nan …

          Biết ơn em người bạn gái thủy chung
          Thương cha mẹ quý rể nghèo vẫn gả
          Em gánh vác mọi việc nhà vất vả
          Dành cho anh nghiên cứu được nhiều hơn

          Biết ơn trại nhà mảnh đất yêu thương
          Nơi suốt đời ta nghĩa tình gắn bó
          Mảnh đất thiêng chim phượng hoàng làm tổ
          Lúa ngô sắn khoai hoa qủa dâng đời

          Hoa Đất

          Đất nặng ân tình đất nhớ thương
          Ta làm hoa đất của quê hương
          Để mai mưa nắng con đi học
          Lưu dấu chân trần với nước non.

          NĂM THÁNG Ở TRỜI ÂU
          Hoàng Kim

          Đi giữa Praha rực rỡ nắng vàng
          Gió bớt thổi nên lòng người bớt lạnh
          Phố xá nguy nga, nhịp đời hối hả
          Gợi lòng ta uẩn khúc những suy tư

          *

          Tháng năm là tháng của hoa
          Anh đi dạo giữa bao la đất trời
          Nghe lòng thư thái thảnh thơi
          Ngắm ai từng cặp trao lời yêu thương

          Hoa xuân bừng nở kháp đường
          Công viên ngợp giữa một rừng đầy hoa
          Bên dòng sông nhỏ quanh co
          Bạch dương rọi nắng lơ thơ liễu mềm

          Anh đi mỗi bước bình yên
          Bùi ngùi lại nhớ thương em ở nhà …

          VÒNG QUA TÂY BÁN CẦU
          Hoàng Kim

          Khi chiều hôm nắng tắt ở chân trời
          Tạm ngưng học, tắm rồi em hãy dạo
          Bước khoan thai nhận hương trời chiều tối
          Nghĩ suy về năm tháng đã đi qua

          Em đã xa cái tuổi học trò
          Nhưng việc học có bao giớ là muộn?
          Nấc thang học càng vươn cao càng muốn
          Bao cuộc đời nhờ học để thành công

          Nhớ nghe em những năm tháng không quên
          Năm năm học mỗi ngày cơm một bữa
          Đêm tỉnh thức đói cồn cào trong dạ
          Vẫn gan vàng, dạ sắt, lòng son

          Nhớ ngày cha ngã xuống vì bom
          Tấm áo máu suốt đời ta nhớ mãi
          Trong thương đau nhân quyết tâm gấp bội
          Phải làm gì để trả mối thù sâu.

          Nhớ ngọn đèn chong giữa canh thâu
          Những đêm lạnh của trời Hà Bắc
          “Thắp đèn lên đi em!” thơ của thời đi học
          Xốn xang lòng đã mấy chục năm qua

          Ôi vầng trăng, vầng trăng quê ta
          Và ngôi sao Mai đã thành đốm lửa
          Một giọt máu tim ta treo giữa trời nhắc nhở
          Em bên Người năm tháng lớn khôn lên

          Nhớ những mùa chiến dịch thức bao đêm
          Thèm một bữa cơm rau và giấc ngủ
          Sau trận đánh lại miệt mài cuốn vở
          Tin có ngày trở lại mái trường yêu

          Bao bạn bè của năm tháng không quên
          Nay vĩnh viễn nằm sâu trong lòng đất
          Về thăm quê cũng người còn, người mất
          Bài học trường đời chắp nối bấy năm qua

          Nay em như chim trời bay cao, bay xa
          Điều kiện học khác xưa, một phòng riêng ngọai quốc
          Những tháng học này là niềm mơ ước
          Em cần miệt mài tranh thủ thời gian

          Dẫu mỗi ngày hơn tám tiếng học căng
          Ngôn ngữ mới buổi đầu chưa hiểu kịp
          Em hãy học dẫu đêm về có mệt
          Mỗi ngày này là vốn quý nghe em!

          Chốn phồn hoa bao cám dỗ thấp hèn
          Bao thèm muốn khiến người ta lùn xuống
          Những dễ dãi khiến lòng người dao động
          Em hãy cầm lòng bền chí học chăm.


          ĐI ĐỂ HIỂU QUÊ HƯƠNG
          Hoàng Kim

          Tạm biệt
          Oregon !
          Tạm biệt
          Obregon California !
          Cánh bay đưa ta về
          CIMMYT
          Bầu trời xanh bát ngát
          Lững lờ mây trắng bay
          Những ngọn núi cao nhấp nhô
          Những dòng sông dài uốn khúc
          Xem tiếp >>

            Dạy và học 6 tháng 8(06-08-2021)


          DẠY VÀ HỌC 6 THÁNG 8
          Hoàng Kim
          CNM365 Tình yêu cuộc sốngĐọc lại và suy ngẫm; Minh triết sống phúc hậu; Chùa Giáng giữa đồng xuân; Câu chuyện ảnh tháng tám; Châu Mỹ chuyện không quên. Thầy Luật lúa OMCS OM; Nhớ Viên Minh; Thầy bạn trong đời tôi; Ai tỏ Ngọc Quan Âm; Chuyện cổ tích người lớn; Bài đồng dao huyền thoại; Ngày thế giới chống vũ khí nguyên tử. Ngày 6 tháng 8 năm 1945, Hoa Kỳ ném bom nguyên tử xuống Hiroshima cướp đi sinh mạng hơn 14 vạn người. Ngày 6 tháng 8 năm 1813, Quân đội của Simón Bolívar đã tiến vào giải phóng Caracas là thủ đô của Venezuela ngày nay. Ngày 6 tháng 8 năm 1824, Simón Bolívar đã đánh bại quân đội nhà vua Tây Ban Nha tại Junín trong chiến dịch giải phóng hoàn toàn Perú; Bài chọn lọc ngày 6 tháng 8: Đọc lại và suy ngẫm; Minh triết sống phúc hậu; Chùa Giáng giữa đồng xuân; Câu chuyện ảnh tháng tám; Châu Mỹ chuyện không quên; Thầy Luật lúa OMCS OM; Nhớ Viên Minh; Thầy bạn trong đời tôi; Ai tỏ Ngọc Quan Âm; Chuyện cổ tích người lớn; Bài đồng dao huyền thoại; Minh triết cho mỗi ngày; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-6-thang-8

          HoangKim2017a

          ĐỌC LẠI VÀ SUY NGẪM
          Hoàng Kim


          Bài đồng dao huyền thoại (1)
          Di Tản (2), Li Nông Li Hương (3)
          Đọc lại và suy ngẫm.
          Sự chậm rãi minh triết
          Vui đi dưới mặt trời

          (1)
          BÀI ĐỒNG DAO HUYỀN THOẠI
          Hoàng Kim

          “Dây dã tường vi thật dẻo dai
          Ba con ngỗng trong một đàn
          Một bay về Đông, một bay Tây
          Và một bay trên tổ chim cúc cu”.

          Bài đồng dao huyền thoại

          (2)
          DI TẢN
          Hoàng Đình Quang

          Mỗi dòng tin làm ta rơi nước mắt
          Bạn về quê bạn biết nơi mô mà tìm?
          Tiếng xe chạy chỉ nhìn qua kính chắn
          Vẫy chào ngày ở lại với lặng im.

          Rồi khốn khó tháng ngày sàng sẩy
          Mưa vẫn giăng mưa, bão vẫn bão bùng
          Cây cầu nối trong với ngoài thành phố
          Chỉ một đầu tiễn biệt thủy chung!

          Ta vẫn biết tai ương tràn phố thị
          Trốn nỗi đau, đi gặp nỗi buồn
          Ngồi mặc cả với rủi may thời thượng
          Phía quê nhà cánh cổng khép hoàng hôn!

          Ta đành vậy! Cắt ra từng gan ruột
          Lúc bơ vơ, bấu víu tiếng nhà quê
          Chỉ nước mắt nuốt vào miền quên lãng
          Mái thềm ơi! Dù đi bộ cũng xin về! (*)

          Làm sao khác, cái vòng tròn cơm áo
          Lúc cơ hồ, danh vọng khuất nhân tình
          Rồi quên nhớ, ít nhiều, thua được
          Rất hồn nhiên, tai họa rập rình!

          Nào! Thôi nhé, chuyến xe đò không hẹn
          Hay đôi chân biết định hướng chân trời
          Phía nước mắt sẽ khô dần, di tản
          Đón nhau về chập choạng chiều cánh dơi!

          27.7.2021
          (*). Mượn ý Olga Bergon: “Pushkin ơi! Dù đi bộ cũng xin về”!

          (3)
          LI NÔNG, LI HƯƠNG
          Truong Huy San

          Chúng ta đang chứng kiến cuộc hồi hương của những người nông dân lớn nhất trong lịch sử Việt Nam. Cuộc hồi hương lý giải vì sao lâu nay ở nhiều vùng nông thôn không còn nông dân, không còn thanh niên trai tráng và ở nhiều ngõ xóm không còn cả bóng trẻ thơ. Cuộc hồi hương không chỉ cho thấy khủng hoảng nhân đạo trên đường Cái mà rồi sẽ còn phát sinh nhiều vấn đề kinh tế xã hội trong những tháng năm tới sau các lũy tre làng.

          Những địa phương có người về từ Sài Gòn, Bình Dương… không chỉ phải ngăn chặn dịch lây lan ra cộng đồng từ những F0 rất có thể có trong dòng người trở về, vừa phải đảm trách các sứ mệnh nhân đạo; mà còn, phải tiên liệu, họ sẽ sống ra sao cho đến khi Sài Gòn, Bình Dương… trở lại bình thường và có thể nhiều người trong số họ không còn trở lại Sài Gòn, Bình Dương… nữa.

          Không giống các quốc gia ở vào thời kỳ công nghiệp hóa khác (tôi không dùng ví dụ Trung Quốc). Cải cách ruộng đất, hợp tác hóa… đã làm kiệt quệ nông thôn Việt Nam ở cả khả năng sản xuất nông phẩm và cả nền tảng văn hóa, đạo đức con người. Chính sách đất đai nửa vời trong thời kỳ chuyển đổi không chỉ đánh vào nông nghiệp mà còn đặt nông dân trở thành lực lượng dễ bị tước đoạt quyền lợi nhất.

          Trong tình thế của Việt Nam đầu thập niên 1990s, đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (FDI) là con đường giúp người Việt thoát nghèo nhanh nhất. FDI còn mang vào những mô hình giúp các doanh nghiệp Việt Nam học hỏi và là những đầu mối giúp kết nối với bên ngoài. Nhưng FDI cũng lấy đi nhiều bờ xôi, ruộng mật của nông thôn và bằng cách thu hút lao động giá rẻ, đã kéo theo một làn sóng nông dân li hương.Trong số các loại đất, đất nông nghiệp được giao cho nông dân là với thời hạn ngắn nhất, dễ bị thu hồi nhất và được định giá rẻ mạt nhất. Bằng một quyết định hành chánh (thay đổi mục đích sử dụng) ruộng lúa từ giá (được nhà nước định) vài chục, vài trăm nghìn có thể được phân lô bán với giá hàng chục triệu đồng. Bằng một quyết định hành chánh, nông dân có thể bị tước đi tư liệu sản xuất và ngay lập tức chứng kiến những người xa lạ trở thành triệu phú trên chính mảnh đất của mình.

          Phải tích tụ ruộng đất thì nông dân và các doanh nghiệp trong nông nghiệp mới có thể hiện đại hóa trong trồng trọt và công nghiệp hóa trong bảo quản, chế biến các sản phẩm từ nông nghiệp. Một bộ phận lớn nông dân vẫn được li nông mà không phải li hương. Nhưng, chính sách hạn điền đã đánh mất cơ hội tích tụ ruộng đất trong thập niên 1990s, khi phân lô bán nền chưa làm cho đất nông nghiệp tăng giá tới mức mà nếu mua ruộng để canh tác thì không thể nào có lãi như giá đất bây giờ.

          Không có cái gì bán được (Luật gọi là chuyển nhượng) mà không phải là tài sản. Ruộng đất là thứ tài sản của người nông dân ít được Nhà nước bảo hộ nhất. Nếu như “sở hữu toàn dân” vẫn còn là một trong những niềm an ủi chính trị cho “định hướng xã hội chủ nghĩa” thì chúng tôi sẽ không bàn. Nhưng cần thay “quyền thu hồi đất” của Nhà nước bằng “quyền trưng mua” quyền sử dụng đất.

          Những thay đổi trong nông nghiệp, nông thôn, vì thế, không thể chỉ chờ đợi từ các nhà lãnh đạo địa phương.

          Tôi đọc tất cả những phát biểu của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn Lê Minh Hoan, một nhà lãnh đạo từng gây ấn tượng ở địa phương. Đồng ý với ông, “nông nghiệp là một ngành kinh tế, chứ không chỉ là sản xuất đơn thuần”. Nhưng, rất tiếc, giải pháp quan trọng nhất mà ông kêu gọi lại chỉ là sự thay đổi ở người nông dân thay vì từ Nhà nước.

          Về phía nông dân, ông Hoan yêu cầu: “Người nông dân cần nhận thức rằng cuộc đời của mình là do chính mình quyết định. Muốn vậy, người nông phải có ý chí mạnh mẽ, suy nghĩ tích cực, thay vì than thân, trách phận hay trông chờ ỷ lại”. Trong khi về phía Nhà nước, ông Hoan chỉ đưa ra các giải pháp: xây dựng “chuỗi giá trị ngành hàng”, “hệ sinh thái ngành hàng”; kêu gọi nhiều nhà đầu tư tham gia vào các “Cụm liên kết công – nông nghiệp”.

          Thay vì chỉ sử dụng kinh nghiệm có được từ Đồng Tháp và sự hiểu biết về nông nghiệp và nông thôn miền Tây. Ông Lê Minh Hoan cần trang bị cho mình một tầm nhìn rộng hơn. Nông nghiệp phải được coi là một ngành kinh tế, rất đúng. Nhưng sự thay đổi đó không chỉ bắt đầu từ nông dân. Phải có những thay đổi chính sách cần sự hợp tác liên ngành. Vai trò “nhà nước” mà ông Hoan nêu ra chỉ là tư duy từ vai trò của “doanh nghiệp nhà nước”.

          Nông nghiệp không đơn giản chỉ là một mô hình kinh tế mà còn gắn với nông thôn, một mô hình sống. Phải có chính sách để 10 – 15 năm nữa, người dân không phải làm nhà nhao ra mặt đường hay xé lẻ ruộng vườn mà tạo thành các cụm dân cư (thành LÀNG) – mọc lên ở những nơi cao ráo và đất ở đó ít màu mỡ nhất. Phải có chính sách để những nơi đất đang cho giá trị kinh tế nông nghiệp cao không bị các nhà kinh doanh địa ốc bắt tay với chính quyền biến thành các Ecopark, Văn Giang…

          LÀNG phải trở thành một không gian sống, không gian văn hóa của người dân ở các vùng nông thôn. LÀNG hình thành từng cụm để tối ưu khi đầu tư hạ tầng y tế, văn hóa, giáo dục và điện, nước…

          LÀNG như thế chỉ có thể hình thành trên một nền tảng người dân có quyền quyết định mảnh đất của mình và ruộng đất được tích tụ (bằng mua bán, sang nhượng, hoặc bằng sự tự nguyện hợp tác của các chủ ruộng…) để hiện đại hóa sản xuất nông nghiệp, công nghiệp hóa sản phẩm nông nghiệp. LÀNG như thế mới trở thành một đảm bảo cho người nông dân, muốn li nông không phải li hương, giảm bớt những thảm họa nhân đạo như chúng ta đang chứng kiến.

          Mời chị
          Vu Kim Hanh đọc (Nguồn: Li Nông, Li Hương của Truong Huy San)

          xem tiếp
          Đọc lại và suy ngẫmhttp://hoangkimlong.wordpress.com/category/doc-lai-va-suy-ngam/

          MINH TRIẾT SỐNG PHÚC HẬU
          Hoàng Kim


          Bản chất cuộc sống là hạnh phúc và đau khổ, vui vẻ và phiền muộn, sự thiếu hoàn thiện và vô thường. Minh triết của đời người hạnh phúc là biết sống thung dung, phúc hậu, thanh thản, an nhiên tự tại, nhận ra kho báu vô giá của chính mình, không lo âu, không phiền muộn, sống với tinh thần dịu hiền và trái tim nhẹ nhõm.

          Bài giảng đầu tiên của Phật

          Tứ Diệu đế – Sự khổ: Nguyên nhân, Kết quả và Giải pháp – là bài giảng đầu tiên của Phật (Thích ca Mầu ni -Siddhartha Gamtama), nhà hiền triết phương đông cổ đại. Người là hoàng tử Ấn Độ, đã có vợ con xinh đẹp nhưng trăn trở trước sự đau khổ, thiếu hoàn thiện và vô thường (Dukkha) của đời người mà Phật đã xuất gia vào năm hai mươi chín tuổi để đi tìm sự giác ngộ. Người đã dấn thân suốt sáu năm trời tự mình đi tìm kiếm những vị hiền triết nổi tiếng khắp mọi nơi trong vùng để học hỏi và thực hành những phương pháp khác nhau nhưng vẫn chưa đạt ngộ. Cho đến một buổi chiều ngồi dưới gốc bồ đề, thốt nhiên Người giác ngộ chân lý mầu nhiệm lúc ba mươi lăm tuổi. Sau đó, Người đã có bài giảng đầu tiên cho năm người bạn tu hành. Mười năm sau, Phật thuyết pháp cho mọi hạng người và đến 80 tuổi thì mất ở Kusinara (Uttar Pradesh ngày nay). Học thuyết Phật giáo hiện có trên 500 triệu người noi theo.

          Bài giảng đầu tiên của Phật là thấu hiểu sự khổ (dukkha), nguyên nhân (samudaya), kết quả (nirodha) và giải pháp (magga). Tôn giáo được đức Phật đề xuất là vụ nổ Big Bang trong nhận thức, san bằng mọi định kiến và khác hẵn với tất cả các tôn giáo khác trước đó hoặc cùng thời trong lịch sử Ấn Độ cũng như trong lịch sử nhân loại. Phật giáo chủ trương bình đẳng giai cấp, bình đẳng giữa con người có máu cùng đỏ, nước mắt cùng mặn, hết thảy các pháp là vô ngã. Mục đích là vô ngã là sự chấm dứt đau khổ và phiền muộn để đạt sự chứng ngộ bất tử, Niết bàn.

          Kinh Phật với triết lý vô ngã: Chân lý là suối nguồn, chứ không phải là con người thần thánh hoặc chân lý tuyệt đối. Vị trí độc đáo của Phật giáo là một học thuyết mang đầy đủ tính cách mạng tư tưởng và cách mạng xã hội. Tiến sĩ triết học Walpola Rahula là giáo sư Trường Đại học Tổng hợp Ceylan (Pháp) đã tìm tòi văn bản cổ và giới thiệu tài liệu nghiêm túc, đáng tin cậy này (Lời Phật dạy. Lê Diên biên dịch).

          Suối nguồn tươi trẻ Thiền tông

          ‘Bất lập văn tự. Giáo ngoại biệt truyền.
          Trực chỉ nhân tâm. Kiến tánh thành Phật’. Không lập giáo điều, truyền dạy ngoài sách, vào thẳng lòng người, giác ngộ thành Phật Thiền sư Bồ-đề-đạt-ma (?-532) đã nêu ra triết lý căn bản Thiền tông để Dạy và Học.Thiền tông Phật giáo Đại thừa nguồn gốc từ đức Phật Thích-ca Mâu-ni đã đạt được sự giác ngộ dưới gốc cây Bồ-đề ở Ấn Độ. Thiền sư Bồ-đề-đạt-ma là Tổ sư Ấn Độ đời thứ 28 đã truyền bá và phát triển Thiền tông lớn mạnh tại Trung Quốc. “Thiền” nhấn mạnh  kinh nghiệm thực tiễn chứng ngộ ‘trực chỉ nhân tâm, kiến tính thành Phật’ . Nhà Ấn Độ học và Phật học người Đức Hans Wolfgang Schumann trong tác phẩm Đại thừa Phật giáo (Mahāyāna-Buddhismus) đã viết:“Thiền tông có một người cha Ấn Độ nhưng đã chẳng trở nên trọn vẹn nếu không có người mẹ Trung Quốc.Cái ‘dễ thương’,cái hấp dẫn của Thiền tông chính là những thành phần văn hoá nghệ thuật, những đặc điểm sắc thái riêng của Trung Quốc, không phải của Ấn Độ. Những gì Phật giáo mang đến Trung Quốc, với tư tưởng giải thoát tuyệt đối, trình bày một cách nghiêm nghị khắt khe với một ngón tay trỏ chỉ thẳng, những điều đó được các vị Thiền sư thừa nhận, hấp thụ với một nụ cười thầm lặng đầy thi vị. Thành tựu lớn lao của các Đại luận sư Ấn Độ là nhét ‘con ngỗng triết lý’ vào cái lọ ‘ngôn từ, thì  chính nơi đây tại Trung Quốc, con ngỗng này được thả về với thiên nhiên mà không hề mang thương tích.” Thiền tông là sự “truyền pháp ngoài kinh điển” đạt ‘giác ngộ tức thì’ tại đây, ngay lúc này, chứng ngộ ‘kiến tính thành Phật’ do bản ngã chân tính và nhân duyên. Phật Thích Ca trên núi Linh Thứu im lặng đưa lên cành hoa, Thiền sư Ca Diếp mỉm cười thấu hiểu và đức Phật Thích Ca đã ấn chứng cho Thiền sư Ca Diếp là Sơ tổ của Thiền tông Ấn Độ.

          Thiền tông Việt Nam có từ rất sớm tại Luy Lâu do Thiền tông Ấn Độ truyền bá vào Việt Nam trước tiên ở thế kỷ thứ 2 và thứ 3, rước cả Trung Quốc (thế kỷ thứ 6) Nhật Bản (thế kỷ 11, 12) và các nước châu Á khác. Các Sơ Tổ Thiền tông Việt Nam là thiền sư Khương Tăng HộiMâu Tử. Thiền tông Việt Nam nguồn gốc lâu đời trong lịch sử Việt Nam và phát triển rực rỡ nhất thời nhà Trần với Thiền phái Trúc Lâm.  Trần Nhân Tông (Trần Khâm 1258- 1308) là vua Phật đời Trần (sau vua cha Trần Thánh Tông và trước vua Trần Anh Tông). Người là tổ sư Trúc Lâm Yên Tử, nhà chiến lược kỳ tài, nhà văn hóa kiệt xuất, nhà thơ lớn Con Người Hoàn Hảo dân tộc Việt Nam. Người đã viết: Cư trần lạc đạo, triêt lý nhân sinh rất nổi tiếng “Ở đời vui đạo, mặc tùy duyên/ Hễ đói thì ăn, mệt ngủ liền/ Kho báu trong nhà thôi tìm kiếm/ Vô tâm đối cảnh hỏi chi thiền.

          Trúc Lâm Yên Tử, Trần Nhân Tông

          Trần Nhân Tông (Trần Khâm 1258- 1308) là vua Phật đời Trân (sau vua cha Trần Thánh Tông và trước vua Trần Anh Tông). Người là tổ sư Trúc Lâm Yên Tử, nhà chiến lược kỳ tài, nhà văn hóa kiệt xuất, nhà thơ lớn và Con Người Hoàn Hảo của dân tộc Việt Nam. Người đã viết: Cư trần lạc đạo, triêt lý nhân sinh rất nổi tiếng “Ở đời vui đạo, mặc tùy duyên/ Hễ đói thì ăn, mệt ngủ liền/ Kho báu trong nhà thôi tìm kiếm/ Vô tâm đối cảnh hỏi chi thiền.”

          Trần Nhân Tông với 50 năm cuộc đời đã kịp làm được năm việc lớn không ai sánh kịp trong mọi thời đại của tất cả các dân tộc trên toàn thế giới: Minh quân lỗi lạc, làm vua 15 năm (1278 – 1293) trực tiếp lãnh đạo cuộc kháng chiến hai lần đánh thắng quân Nguyên Mông là đội quân xâm lược hùng mạnh nhất thế giới của thời đó; Vua Phật Việt Nam, tổ sư thiền phái Trúc Lâm Yên Tử và Thái Thượng Hoàng 15 năm (1294-1306). Nhà văn hóa và nhà thơ kiệt xuất với thắng tích Trúc Lâm Yên Tử và kiệt tác Trần Nhân Tông còn mãi với thời gian, hoàn thành sư mệnh của bậc chuyển pháp luân, mang sự sống trường tồn vươt qua cái chết; Người Thầy của chiến lược vĩ đại yếu chống mạnh, ít địch nhiều bằng thế đánh tất thắng “vua tôi đồng lòng, toàn dân đồng sức”tạo lập sự nghiệp mở nước và thống nhất non sông Việt, mở đất phương Nam bằng vương đạo, thuận thời, thuận người; Con người hoàn hảo, đạo đức trí tuệ, kỳ tài trị loạn, đã hưng thịnh nhà Trần và cứu nguy cho nước Việt tại thời khắc đặc biêt hiểm nghèo, chuyển nguy thành an, biến những điều không thể thành có thể.

          Giáo sư sử học Trần Văn Giàu nhận định: “… chưa tìm thấy lịch sử nước nào có một người đặc biệt như Trần Nhân Tông ở Việt Nam. Tại nước Tàu lúc bấy giờ Triều đình nhà Tống rất hùng mạnh nhưng quân Nguyên Mông đã tràn xuống đánh thắng thần tốc, đến nỗi vua quan nhà Tống phải chạy ra biển và nhảy xuống biển tự vẫn. Tại Tây Á, Trung Á và một phần châu Âu cũng thua thảm hại, đến nỗi Giáo hoàng La Mã cũng lên tiếng sợ hãi. Trong lúc ấy Việt Nam so với phương Bắc thì quá nhỏ bé và quá nghèo yếu, thế mà Người dám không cho Nguyên Mông mượn đường xâm lược Chiêm Thành. Lại còn đánh bại ba lần Nguyên Mông xâm lược. Sau khi thắng giặc, Người lại lên núi sống. Người dám nghĩ, dám làm những việc không ai dám nghĩ chứ đừng nói đến làm”

          Phật giáo Khoa học và Việt Nam

          Nhà bác học Anhstanh, cha đẻ của Thuyết tương đối, đã nhận định: “Nếu có một tôn giáo nào đương đầu với các nhu cầu của khoa học hiện đại thì đó là Phật giáo. Phật giáo không cần xét lại quan điểm của mình để cập nhật hóa với những khám phá mới của khoa học. Phật giáo không cần phải từ bỏ quan điểm của mình để xu hướng theo khoa học, vì Phật giáo bao hàm cả khoa học cũng như vượt qua khoa học” . “Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo toàn cầu, vượt lên trên mọi thần linh, giáo điều và thần học. Tôn giáo ấy phải bao quát cả phương diện tự nhiên lẫn siêu nhiên, đặt trên căn bản của ý thức đạo lý, phát xuất từ kinh nghiệm tổng thể gồm mọi lĩnh vực trên trong cái nhất thể đầy đủ ý nghĩa. Phật giáo sẽ đáp ứng được các điều kiện đó” . “Khoa học mà thiếu tôn giáo là khập khiễng. Tôn giáo mà không có khoa học thì mù quáng” . Cả ba câu này đều được trích từ Những câu nói nổi tiếng của Anhstanh (Collected famous quotes from Albert), và được dẫn lại trong bài Minh triết sống thung dung phúc hậu của Hoàng Kim

          Khoa học và thực tiễn giúp ta tìm hiểu những phương pháp thực tế để thể hiện ước mơ, mục đích sống của mình nhằm sống yêu thương, hạnh phúc,vui khỏe và có ích. Đọc rất kỹ lại Ki tô giáo, Hồi giáo,Do Thái giáo,Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo, … và chiêm nghiệm thực tiễn , tôi thấm thía câu kinh Phật với triết lý vô ngã: Chân lý là suối nguồn chứ không phải là con người thần thánh hay chân lý tuyệt đối. Trúc Lâm Yên Tử Trần Nhân Tông có minh triết: Hãy quay về tự thân chứ không tìm ở đâu khác. Luật Hấp Dẫn, Thuyết Tương đối, Thành tựu Khoa học và Thực tiễn giúp ta khai mở nguồn năng lượng vô tận của chính bản thân con người và thiên nhiên. Đó là ba ngọn núi cao vọi của trí tuệ, là túi khôn của nhân loại. Bí mật Tâm linh (The Meta Secret) giúp ta khám phá sâu sắc các quy luật của vũ trụ liên quan đến Luật Hấp Dẫn đầy quyền năng. Những lời tiên tri của các nhà thông thái ẩn chứa trong Kinh Vệ đà, Lời Phật dạy, Kinh Dịch, Kinh Thánh, Kinh Koran …, cũng như xuyên suốt cuộc đời của những con người vĩ đại trên thế giới đã được nghiên cứu, giải mã dưới ánh sáng khoa học; Bí mật Tâm linh là sự khai mở những nguồn năng lượng vô tận của chính bản thân mỗi con người đối với đồng loại, các loài vật và thiên nhiên. Suối nguồn chân lý trong di sản văn hóa, lịch sử, giáo dục, kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao của mỗi dân tộc và nhân loại lưu giữ nhiều điều sâu sắc cần đọc lại và suy ngẫm.Qua đèo chợt gặp mai đầu suối. Gốc mai vàng trước ngõ.

          Việt Nam là chốn tâm thức thăm thẳm của đạo Bụt (Phật giáo) trãi suốt hàng nghìn năm. Lịch sử Phật giáo Việt Nam theo sách Thiền Uyển tập anh xác nhận là đạo Phật được truyền trực tiếp từ Ấn Độ theo đường biển vào Việt Nam, gồm Giao Chỉ ở phía bắc và Chăm pa ở phía nam, khoảng thế kỉ thứ ba đến thế kỉ thứ hai trước Công nguyên, chứ không phải từ Trung Hoa như một số quan niệm trước đây. Phật giáo đồng hành chung thủy, lâu bền với dân tộc Việt, dẫu trãi nhiều biến cố nhưng được dẫn dắt bởi những nhà dẫn đạo sáng suốt và các đấng minh vương, lương tướng chuộng nhân ái của các thời nên biết thể hiện sự tốt đạo, đẹp đời. Việt Nam là nước biết tiếp thu, chắt lọc tri thức tinh hoa của nhân loại, chuộng sự học, đồng thời biết quay về với tự thân tổng kết thực tiễn, chứ không tìm ở đâu khác.

          Việt Nam, Khoa học và Phật giáo là ba nhận thức căn bản của tôi.

          Bản chất cuộc sống là hạnh phúc và đau khổ, vui vẻ và phiền muộn, sự thiếu hoàn thiện và vô thường. Minh triết của đời người hạnh phúc là biết sống thung dung, phúc hậu, thanh thản, an nhiên tự tại, nhận ra kho báu vô giá của chính mình, không lo âu, không phiền muộn, sống với tinh thần dịu hiền và trái tim nhẹ nhõm

          Hoàng Kim

          Chua Giang giua dong xuan

          CHÙA GIÁNG GIỮA ĐỒNG XUÂN
          Hoàng Kim

          Nơi cổ tự mây lành che xóm vắng
          Viên Minh xưa chùa Giáng ở đây rồi
          Bụt thư thái chim rừng nghe giảng đạo
          Trời trong lành gió núi lắng xôn xao.

          Nhớ Pháp Chủ người hiền Thích Phổ Tuệ
          Viên ngọc lành tính sáng gửi tin yêu:
          “Mưa thuận gió hòa chăm bón đúng
          Nhân tươi quả tốt được thu nhiều”

          Thương hạt ngọc trắng ngần vui Bạch Ngọc
          Phước nhân duyên thơm thảo học làm người
          “Thơm hương lúa ngậm đòng chăm bón đúng
          Mưa thuận gió hòa nhân quả tốt tươi”

          Ngát hương sen lồng lộng bóng trúc mai
          Đồng xanh đất lành trời xanh bát ngát
          Hoa Đất, Hoa Người tổ tiên phước đức
          Con biết ơn Người hiếu thảo ghi ơn …

          https://hoangkimlong.wordpress.com/category/hoa-binh-minh-hoa-lua/

          Mua thuan gio hoa cham bon dung
          Ngat huong sen long long bong truc mai

          HÈ SANG
          Hoàng Kim

          Xuân mãn hè sang cảnh đổi thay
          Thanh minh tiết lớn phước đong đầy
          Trời thay biển động mưa lam gió
          Đất lành chim đậu nắng xanh cây
          Đêm xuân nhẹ nhõm vui ngon giấc
          Ngày hè thanh thản khỏe phô bày
          Tâm tĩnh lặng an nhiên 1 phúc hậu
          Thung dung dạy và học2 tầm tay

          1.
          https://youtu.be/zCFGN2XT54E
          2.
          https://hoangkimlong.wordpress.com/category/thung-dung-day-va-hoc/

          XUÂN MÃN
          Hoàng Thanh Luận

          Cảnh vật đa màu sắc đổi thay
          Diệu kỳ biến ảo nắng hong đầy
          Tơ trời vương vấn dăng sương bạc
          Muông thú hò hẹn đậu kín cây
          Trình tự nhịp nhàng đua tiếng hót
          Đua tranh sau trước cố tô bày
          Cà phê bạn đợi vui bao chuyện
          Xuân mãn hè sang chỉ sải tay

          (*) Cảm ơn cậu
          Hoàng Thanh Luận thơ XUÂN MÃN , cháu Hoàng Kim họa đối HÈ SANG và xin phép tích hợp về trang Thung dung dạy và học https://hoangkimlong.wordpress.com/category/thung-dung-day-va-hoc/

          MINH TRIẾT CHO MỖI NGÀY
          Hoàng Kim

          Minh triết sống phúc hậu Tâm tĩnh lặng an nhiên. Một gia đình yêu thươngChín điều lành hạnh phúcMinh triết cho mỗi ngàyhttps://youtu.be/zCFGN2XT54E Cuộc đời như mắt trong. Mắt thứ nhất soi mình, tâm nguyện mình yêu thích. Mắt thứ hai soi người. Người thân thầy bạn quý. Mắt thứ ba tuệ nhãn. Ánh sáng soi tâm hồn. Sức khỏe và tình yêu. Lao động và nghĩ ngơi Điều độ và hài hòa An nhiên vui khỏe sống https://hoangkimlong.wordpress.com/category/minh-triet-cho-moi-ngay/

          THẦY BẠN TRONG ĐỜI TÔI
          Hoàng Kim

          https://hoangkimlong.wordpress.com/category/thay-ban-trong-doi-toi/

          Cảm ơn Nguyễn Viết Hưng, Hà Thủy Hà và các cháu. Có một ngày như thế, Thầy bạn trong đời tôi, các em và các cháu, đường xa tìm về thăm. Thật Hạnh Phúc.

          TẢN MẠN CÂY XANH THĂM THẲM ANH
          Hoàng Kim mừng anh Nguyễn Quốc Toàn

          Anh lên Tây Bắc chào các mế
          Trời suối gần thêm giấc mơ lành
          Mây trắng đường xưa thênh thênh bước
          Tản mạn cây xanh thăm thẳm anh.

          TẢN MẠN CÂY XANH
          Nguyễn Quốc Toàn (6.8.2019)
          1- Màu xanh chiếm gần hết diện tích quả địa cầu chúng ta đang sống. Biển xanh, dòng sông xanh, đồng ruộng xanh, rừng cây xanh… Sự tham lam quá đáng của con người đã làm quả đất đổ bệnh bởi rác thải, bởi nạn chặt phá cây xanh. Bấy giờ người ta mới tá hỏa tôn vinh màu xanh: Resort xanh, khách sạn xanh, siêu thị xanh, con đường xanh, điện máy xanh, cuộc tình xanh… Ngọn lá xanh simsapa trong tay đức Phật Thích ca cách nay 2500 năm là đạo cụ để ngài thuyết giáo KINH LÁ RỪNG mà ngày nay chúng sinh vẫn tụng đọc.

          2- Chính đức Phật Thích ca thuyết trong kinh Đại Bản về sự thành tựu của 7 vị phật trên thế gian không phải từ trong lầu son gác tía mà từ bên những gốc cây xanh. Các trang 21, 22 kinh Đại Bản cho ta biết:
          – Ngài Tì bà thi thành phật dưới gốc cây ba ba la
          – Ngài Thi khí thành Phật dưới gốc cây phân đà lị
          – Ngài Tì xá bà thành phật dưới gốc cây sa la
          – Ngài Câu lâu tôn thành Phật dưới gốc cây thi lị sa
          – Ngài Câu na hàm thành phật dưới gốc cây ô tam bà la
          – Ngài Ca diếp thành Phật dưới gốc cây ni câu luật
          – Ngài Tất đạt đa thành Phật Thích ca dưới gốc cây assatha. (sau khi Phật thích ca hoằng dương Phật pháp cây assatha được đổi tên là cây bồ đề (trí tuệ)
          Mới hay từ xa xưa cây xanh đã song hành với các vị A la hán cho đến đắc đạo. Nó chứng kiến giây phút con người rũ bỏ vô minh đi vào giải thoát, hết còn sinh lão bệnh tử, hết còn tái sinh luân hồi, hết khổ.

          3- Thuyết “Y Chánh bất nhị” của đạo Phật cho rằng cây xanh và thực vật nói chung không đứng ngoài thân xác con người. Y Chánh gồm Y báo và Chánh báo. Y báo là thế giới ta đang sống. Chánh báo là nhân lọai. Hai thực thể này không hể hai mà chỉ là một. Vậy nên con người tàn phá biển xanh, tàn phá rừng xanh là tự giết chính mình.
          Xem tiếp >>

            Dạy và học 5 tháng 8(05-08-2021)


          DẠY VÀ HỌC 5 THÁNG 8
          Hoàng Kim
          CNM365 Tình yêu cuộc sốngChùa Giáng giữa đồng xuân; Thầy Luật lúa OMCS OM; Nhớ Viên Minh; Thầy bạn trong đời tôi; Ai tỏ Ngọc Quan Âm; Chuyện cổ tích người lớn; Bài đồng dao huyền thoại; Ngày 5 tháng 8, Ngày truyền thống của Quân chủng Hải quân Nhân dân Việt Nam. Ngày 5 tháng 8 năm 1964, sau sự kiện vịnh Bắc Bộ trong Chiến tranh Việt Nam, Hoa Kỳ tiến hành Chiến dịch Mũi Tên Xuyên, ném bom Miền Bắc Việt Nam. Ngày 5 tháng 8 năm 1962, Nelson Mandela, người sau này là Tổng thống “già làng” Nam Phi, bị cảnh sát bắt giữ với lời buộc tội kích động đình công và ra nước ngoài khi chưa được phép, ông phải ở trong tù cho đến năm 1990. Ngày 5 tháng 8 năm 1895, ngày mất Friedrich Engels, triết gia người Đức (sinh năm 1820); Bài chọn lọc ngày 5 tháng 8: Chùa Giáng giữa đồng xuân; Thầy Luật lúa OMCS OM; Nhớ Viên Minh; Ai tỏ Ngọc Quan Âm; Chuyện cổ tích người lớn; Bài đồng dao huyền thoại; Ngọc di sản Việt Nam; Di sản thế giới tại Việt Nam; Nông nghiệp sinh thái Việt; Ân tình đất phương Nam; Nghê Việt am Ngọa Vân; Linh Nhạc thương lời hiền; Thầy bạn trong đời tôi; Trần Đăng Khoa trong tôi; Lão Mai Đinh Đình Chiến; Nhớ bạn Đào Trung Kiên; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/ và http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-5-thang-8

          Ngat huong sen long long bong truc mai

          CHÙA GIÁNG GIỮA ĐỒNG XUÂN
          Hoàng Kim

          Nơi cổ tự mây lành che xóm vắng
          Viên Minh xưa chùa Giáng ở đây rồi
          Bụt thư thái chim rừng nghe giảng đạo
          Trời trong lành gió núi lắng xôn xao.

          Nhớ Pháp Chủ người hiền Thích Phổ Tuệ
          Viên ngọc lành tính sáng gửi tin yêu:
          “Mưa thuận gió hòa chăm bón đúng
          Nhân tươi quả tốt được thu nhiều”

          Thương hạt ngọc trắng ngần vui Bạch Ngọc
          Phước nhân duyên thơm thảo học làm người
          “Thơm hương lúa ngậm đòng chăm bón đúng
          Mưa thuận gió hòa nhân quả tốt tươi”

          Ngát hương sen lồng lộng bóng trúc mai
          Đồng xanh đất lành trời xanh bát ngát
          Hoa Đất, Hoa Người tổ tiên phước đức
          Con biết ơn Người hiếu thảo ghi ơn …

          https://hoangkimlong.wordpress.com/category/hoa-lua/

          Mua thuan gio hoa cham bon dung
          vienluathambacgiap

          THẦY LUẬT LÚA OMCS OM
          Hoàng Kim

          Giáo sư Nguyễn Văn Luật, anh hùng lao động là tác giả chính của cụm công trình đoạt Giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học công nghệ 10 nhà khoa học được nhận năm 2000. Tập thể Viện Lúa là anh hùng lao động thời kỳ đổi mới năm 2000, đến năm 2014 Viện Lúa phát huy truyền thống và được nhận Huân chương Độc Lập hạng Nhất cao quý nhất của Việt Nam. Thầy là một người lính và danh tướng lỗi lạc của mặt trận nông nghiệp Điện Biên Nam Bộ. Trong câu chuyện đời thường của giáo sư Luật có ba câu chuyện tiếu lâm, học mà vui, vui mà học. Đó là “Ôm em và ôm em cực sướng”, “Nuôi heo trồng so dũa nuôi dê”, “Thầy Luật bạn và thơ”.. Chuyện được tình tự kể như dưới đây.

          Thầy Nguyễn Văn Luật (phải) là giáo sư tiến sĩ anh hùng lao động, cựu Viện trưởng Viện Lúa ĐBSCL, tác giả chính của OMCS OM trên đồng lúa mới với kỹ sư Hồ Quang Cua (trái) anh hùng lao động, tác giả chính thương hiệu gạo thơm Sóc Trăng nổi tiếng Việt Nam .

          Thế hệ chúng tôi may mắn được kết nối với những người Thầy trí thức lớn, những bạn nhà nông tâm huyết, trí tuệ, gắn bó suốt đời với nông dân đồng nghiệp, sinh viên cây llương thực và nghề nông.Khi nói đến họ là nói đến một đội ngũ thầm lặng dấn thân cho hạt ngọc Việt và sự đi tới không ngưng nghỉ của Việt Nam con đường xanh, tỏa sáng nhân cách và trí tuệ Việt. “Con đường lúa gạo Việt Nam” là chuỗi giá trị sản phẩm kết nối những thế hệ vàng nông nghiệp Việt Nam làm rạng danh Tổ Quốc. Đó là Lương Định Của lúa ViệtThầy Tuấn kinh tế hộ; Thầy Luật lúa OMCS OM; Thầy Quyền thâm canh lúa; Những người Việt lỗi lạc ở FAO; Chuyện cô Trâm lúa lai; Chuyện thầy Hoan lúa lai; Hồ Quang Cua gạo thơm Sóc Trăng; Thầy nghề nông chiến sĩ. Hôm nay chúng tôi tự hào giới thiệu một góc nhìn ‘Thầy Luật lúa OMCS OM’ người Thầy đã lưu dấu nhiều ấn tượng sâu xa trong cây lúa Việt Nam Nam và vùng lúa Nam Bộ. Câu chuyện là sự nối dài tỏa rộng thêm “Con đường lúa gạo Việt Nam” từ Đại Ngãi Long Phú Sóc Trăng quê hương của nhà bác học nông dân anh hùng lao động Lương Định Của, người thầy nghề lúa, đến Viện Lúa Ô Môn, nôi khai sinh thương hiệu OM và OMCS nổi tiếng đến làng OM, cầu OM, cầu Nhót Hà Nội quê hương của thầy Luật.

          Giáo sư Nguyễn Văn Luật là tác giả chính của thương hiệu lúa giống OMCS OM, đến nay trong thương hiệu OM lúa giống đã có trên 166 giống lúa của nhiều tác giả Viện Lúa được Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn công nhận, mà phần lớn đều mang tên OM. GS Nguyễn Văn Luật cũng là tác giả chủ biên của bộ sách đồ sộ gần 1.500 trang “Cây lúa Việt Nam thế kỷ 20” ba tập do Nhà Xuất Bản Nông nghiệp, Hà Nội. xuất bản năm 2001, 2002, 2003 mà bất cứ chuyên gia nông nghiệp Việt Nam nào khi soát xét cây lúa Việt Nam của một thời và ‘Việt Nam chốn tổ của nghề lúa’ đều không thể bỏ qua. Bài học lớn hơn hết, sâu đậm hơn hết là bài học tập hợp và phát huy được năng lực của một đội ngũ chuyên gia tuyệt vời đầy tài năng và một đội ngũ các lãnh đạo qua các thời kỳ thật tâm huyết. Bài học cao quý của sự đoàn kết một lòng hoàn thành tốt nhiệm vụ của các thế hệ cán bộ viên chức người lao động Viện Lúa, sự quan tâm của Đảng, Chính phủ và các cấp lãnh đạo Trung ương, địa phương và doanh nghiệp, sự cộng hưởng, giúp đỡ và liên kết thật tuyệt vời của thầy cô, bạn hữu, đồng nghiệp bạn nhà nông cùng với đông đảo nông dân từ khắp mọi miền đất nước.

          ÔM EM VÀ ÔM EM CỰC SƯỚNG

          Thủ tướng Chính phủ Võ Văn Kiệt thời đó cũng như Thủ tướng Phạm Văn Đồng tiền nhiệm đều ham làm lúa, thăm lúa vì … dân đói. Thủ tướng Chính phủ Võ Văn Kiệt thăm Viện Lúa giữa năm 1997 và hỏi Viện trưởng Nguyễn Văn Luật: ‘Vì sao anh đặt tên lúa giống là OM và OMCS?’

          Giáo sư Nguyễn Văn Luật trả lời: “Thưa Thủ tướng, để tỏ lòng biết ơn lãnh đạo và nhân dân địa phương tạo điều kiện cho Viện hoạt động, chúng tôi lấy tên huyện Ô Môn của địa phương làm tên của giống lúa do Viện tạo chọn”.

          Trong không khí vui vẻ, nhiều người đã bổ sung những ý kiến tốt đẹp. Chủ tịch tỉnh Ba Xinh cười nói OM nghĩa là Ôm Em, một phóng viên ngồi ở vòng ngoài nói xen vào OMCS nghĩa là Ôm Em Cực Sướng, đoàn tháp tùng có một cán bộ ở Hà Nội nói là địa danh quê của Viện trưởng là làng OM, cầu OM cầu Nhót Hà Nội, nên OM cũng có nghĩa là làng OM, cầu OM.Thủ tướng tóm tắt ; Vậy OM là O EM, O BẾ EM !

          Ngài Ngài đại sứ Ấn Độ có lần đến thăm Viện biết chuyện có bổ xung: dân Ấn Độ chúng tôi khi phát âm Ô Ô ÔM ÔM… , hai tay chắp lại, là để tỏ lòng thành kính cầu phúc!

          Có một chuyện vui liên quan là giáo sư Luật một lần đi với cố nhà báo Nhật Ninh, gặp anh xe ôm dọc đường gọi là “anh hai ôm em”..! và chuyện này đã đăng báo Nhân Dân mà tác giả là Nhật Ninh!

          OM và OMCS là những câu chuyện như suối nguồn tươi trẻ thao thiết chảy giữa vùng quê Nam Bộ và xuống nông thôn càng có thêm nhiều huyền thoại thú vị.

          Nghe nói có một lần cố đại tướng Võ Nguyên Giáp khi đang làm Phó Thủ Tướng phụ trách Khoa học Kỹ thuật và Chương trình Kế họach hóa Gia đình, trong một chuyến thăm một đơn vị rất thành công ở miền Tây, bác Văn đã hỏi về bài học kinh nghiệm thành công. Vị giám đốc đơn vị vui vẻ trình bày: Em có bốn bài học thấm thía nhất: một là o bế dân, được lòng dân nên được tất cả; hai là o bế địa phương, mất lòng thổ địa thì chẳng thể anh hùng; ba là o bế hiền tài và các vị cao minh, sự nghiệp phát triển được là nhờ họ; bốn là o bế em, thuận vợ thuận chồng tát biển đông cũng cạn.

          Thầy Viện trưởng khác của tôi kể chuyện là cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt nói vậy không là nói vui mà thực sự chính cụ đã trãi nghiệm sâu sắc về sự O bế Em thành công, mà chính mối tình này làm ông còn một người con Phan Thanh Nam sinh ngày ngày 25 tháng 2 năm 1952, người đã thay mặt gia đình đọc lời cảm tạ trong lễ tang của ông. Mẹ của Nam là bà Hồ Thị Minh, chủ bút đầu tiên của tờ Phụ nữ cứu quốc Nam bộ. Cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt có người vợ đầu cùng hai người con út, một trai một gái, đã thiệt mạng khi quân đội Hoa Kỳ bắn chìm tàu Thuận Phong trong một cuộc càn quét qua chiến khu Củ Chi và người con trai đầu của ông là Phan Chí Dũng đã hi sinh ngày 29 tháng 4 năm 1972 tại Sóc Trăng trong một lần đi trinh sát. Câu chuyện đời thường và lời cụ Kiệt thật thấm thía. Đó là một sự trãi nghiệm.

          OM hay ÔM, O hay Ô, chữ nào hay hơn? Hóa ra hai chữ đều hay. “Om mầm nên nõn lá” việc lặt lá mai và cái lạnh giá mùa đông là sự om mầm để cây nẩy lộc xuân. Con đường lúa gạo Việt Nam, Viện Lúa 40 năm xây dựng phát triển có nhiều những dâng hiến lặng lẽ mà giáo sư Luật là một trong những con người ấy.

          Trong bài “Thầy bạn là lộc xuân của cuộc đời” tôi có kể về giáo sư Bùi Chí Bửu tâm sự với tôi: Anh Bổng (Bùi Bá Bổng) và mình đều rất thích bài thơ này của Sơn Nam :

          Trong khói sóng mênh mông
          Có bóng người vô danh
          Từ bên này sông Tiền
          Qua bên kia sông Hậu
          Tay ôm đàn độc huyền
          Điệu thơ Lục Vân Tiên
          Với câu chữ
          Kiến nghĩa bất vi vô dõng giả
          Từ Cà Mau Rạch Giá
          Dựng chòi đốt lửa giữa rừng thiêng
          Muỗi vắt nhiều hơn cỏ
          Chướng khí mờ như sương
          Thân chưa là lính thú
          Sao không về cố hương ?

          Nhớ Thầy Luật lúa OM và OMCS là nhớ thầy Hai Lúa ‘anh hai ôm em’ trong số những dâng hiến lặng lẽ đó.

          “NUÔI HEO, TRỒNG SO ĐŨA, NUÔI DÊ”

          Ông Nguyễn Khôi phó Vụ trưởng Vụ Dân tộc Văn phòng Quốc hội có bài thơ ‘Giáo sư Lúa’ tặng GSTS Nguyễn Văn Luật.

          GIÁO SƯ LÚA

          Trai Hà Nội đi Nông Lâm buổi ấy
          Bạn bè cười cày đường nhựa được chăng?
          Rồi ở Viện suốt đời vì cây lúa
          Đem sông Hồng vào với Cửu Long.

          Đất Ô Môn đồng chua cỏ lác,
          Ôi Cần Thơ đất rộng Tây Đô
          Xứ Nam Bộ hai mùa mưa nắng,
          Kết 20 triệu tấn lúa ước mơ …

          Anh Kỹ sư rồi thành ông Tiến sĩ,
          Vị Giáo sư lội ruộng suốt ngày.
          Lại nhớ thời Hải Dương – Ô Mễ
          Làm bèo dâu, cấy thẳng mê say.

          Nay lúa vượt 25 triệu tấn,
          Ôi Việt Nam, sức sống diệu kỳ.
          Sông Hồng với Cửu Long hòa sóng,
          Bạn bè đùa ‘ông Tiến sĩ nhà quê”.

          Mùi hạnh phúc đượm bao sương mấy nắng,
          Trai Hà Thành đen nhẽm ngỡ nông dân.
          Cũng xởi lởi như Bác Hai Nam Bộ
          Viết vần thơ ca ngợi ruộng đồng.

          Tôi xin giải thích thêm bài thơ của cụ Nguyễn Khôi về 25 triệu tấn lúa này là 25 triệu tấn lúa mà toàn quốc Việt Nam đạt được năm 1995. Viện Lúa 40 năm xây dựng phát triển đã góp phần đưa sản lượng lúa ở ĐBSCL từ khoảng 4 triệu tấn/ năm 1977 vượt trên 25 triệu tấn/ năm 2016, tăng hơn gấp 6 lần, và điều kì diệu là  25 triệu tấn lúa trên năm tại ĐBSCL năm 2016 bằng toàn bộ sản lượng lúa Việt Nam năm 1995.   Chùm thơ cuối của tác giả Nguyễn Khôi thật thấm thía: “Mùi hạnh phúc đượm bao sương mấy nắng,/ Trai Hà Thành đen nhẽm ngỡ nông dân/ Cũng xởi lởi như Bác Hai Nam Bộ/ Viết vần thơ ca ngợi ruộng đồng”.

          Trong những câu chuyện tiếu lâm cười vui một thời có chuyện Viện Lúa Viện Dê Viện Trưởng Dê mà tôi tần ngần không dám đặt tên này mà kể chệch đi một chút là “nuôi heo, trồng so đũa, nuôi dê”. Hồi đó, cán bộ công nhân viên của các Viện nghiên cứu và Trung tâm Nông nghiệp đều quá vất vả và thiếu thốn. Hầu như nhà nào cũng nuôi heo,  phải tăng gia sản xuất mới có đồng gia đồng vào, vợ đẻ con bệnh không lo bằng heo đẻ, heo bệnh. Cán bộ công nhân ra đồng làm ruộng, vui vè chuyện trò thì thường đầu tiên là kể chuyện vợ chồng con cái, kế đến là việc nuôi heo, trồng so đũa, nuôi dê thật hợp với Viện Lúa, sau đó là đến chuyện tiếu lâm nam nữ.

          Giáo sư Luật kể rằng một hôm ông đi qua dãy nhà lá trên đoạn đê cụt trong Viện chợt nghe tiếng ục ịch, sột soạt, hổn hển, ông dừng lại nghe và dòm qua cửa sổ mở thì hóa ra đó là tiếng động của hai cô kế toán trường trung cấp Xuân Mai về Viện đang vuốt ve … hai con lợn trắng hồng độ 45 – 50 kg. Cô Hinh nhanh nhẩu tự giới thiệu đây là nhà ở của Hồng heo, Hồng Hinh, Hồng Hay ! Hai cô này đến nay đã thành bà nội bà ngoại, nhà cửa khang trang, con cháu học hành thành đạt, nhưng chắc vẫn nhớ một thời gian khó đã dành nơi tốt nhất cho heo ở.

          Nhiều gia đình ở Viện lúa thuở đó đều trồng so đũa và nuôi dê sữa. Nhà giáo sư Viện trưởng cũng nuôi vài con heo và một con dê Bách Thảo mỗi sáng vắt được đến 5 – 6 lít sữa, dư dùng. Lộc, Thành và Thu Hiền là con của giáo sư Luật sáng sáng thay nhau đi bỏ sữa cho các nhà cần và đi học về là vác câu liêm lấy lá so đũa để nuôi dê. Viện Lúa hồi đó, đất nền nhà và đường sá trụ sở mới được tôn lên từ đất ruộng chua phèn nên rất ít cây phát triển được, ngoại trừ rau muống dại, chuối, mía, và trồng so đũa để lấy hoa nấu canh, thân cây đục lỗ cấy nấm mèo (mộc nhĩ), lấy lá nuôi dê.

          Viện Lúa ĐBSCL một thời không chỉ vang danh lúa mới OM, OMCS mà còn vang danh là Viện Dê, Viện Trưởng Dê. Bộ trưởng Nguyễn Công Tạn, Bí thư Tỉnh Ủy Tám Thanh và các cán bộ đi cùng khi đến tham quan Viện Lúa, ngoài việc thăm đồng đều không quên đến thăm các mô hình trồng so đũa  – nuôi dê, cũng như sau thăm mô hình con cá con tôm ôm cây lúa ‘canh tác bền vững trong vuông’. Một số gia đình kỹ sư giỏi nuôi dê như gia đình kỹ sư Bình Thủy có thêm tên gọi thân mật Bình dê, tương tự như nhiều cặp vợ chồng của Bổng Hòa lúa, Bửu Lang lúa quen thuộc với nông dân miền Tây.

          Tôi có một kỷ niệm vui với Viện Lúa là trồng sắn ngô xen thêm đậu xanh, lạc, đậu rồng và tôi khuân về từ Viện Lúa hai con dê Bách Thảo để làm mô hình kinh tế hộ gia đình. Các con tôi Nguyên Long còn quá bé, thuở đó vợ chồng đều bận rộn suốt ngày mà dê Bách Thảo phá quá, gặm cỏ và cây cối rất miệt mài. Tôi có sáng kiến buộc hai con dê lại với nhau và treo bao cỏ trên gác bếp cao để dê rút cỏ ăn dần. Thế nhưng một hôm một con leo lên cao rút cỏ, con ở dưới giật kéo làm con ở trên ngã vật xuống và bị … ‘chấn thương sọ não’ như anh em trong cơ quan nói vui. Chúng tôi mua hai can rượu và xẻ thịt dê gõ kẽng ‘báo động’ mời anh em về liên hoan và chia thịt dê cho mọi nhà. Câu chuyện ‘mổ dê đãi tiệc’ nghe thật hoành tráng và nhớ quá một thời.

          Đến Long Phú, Sóc Trăng bạn sẽ gặp con đường Trường Khánh - Đại Ngãi nối vựa lúa chất lượng ngon và năng suất cao nhất nước.

          Con đường lúa gạo Việt Nam đang tỏa rộng nhiều vùng đất nước, kết nối lớp lớp những dâng hiến lặng lẽ tôn vinh hạt ngọc Việt. Cây lúa Việt Nam nửa thế kỷ nhìn lại (1977 – 2017) có tốc độ tăng năng suất vượt 1,73 lần so với thế giới. Thành tựu này có cống hiến hiệu quả của nhà bác học nông dân Lương Định Của ở chặng đường đầu của nước Việt Nam mới và lớp lớp những tài danh nông nghiệp Việt trong đó có giáo sư tiến sĩ Nguyễn Văn Luật anh hùng lao động, Bác Hai Nam Bộ, ‘anh Hai ôm em’  là một điểm đến đặc biệt ấn tượng .

          THẦY LUẬT BẠN VÀ THƠ

          Giáo sư Lê Văn Tố nhắn trên Facebook: “Tôi kính nể hai người anh hùng chân chính này và vinh dự được đàm đao với hai anh hùng tại nhà. Nói đến nông sản mà không nói đến công nghệ sau thu hoạch là việt vị nên sau khi thành lập cơ sở nghiên cứu theo đề nghị của GS Luật, tôi đã viết phần này”. Câu chuyện của thầy Tố, tôi chỉ lưu được một chút nhỏ trong bài Chuyện đời giáo sư Lê Văn Tố và mong thầy trao đổi thêm đôi lời về lĩnh vực chuyên sâu đầy thách thức và cơ hội này đối với lớp trẻ.

          Giáo sư Trịnh Xuân Vũ người thầy đại thụ sinh học và sinh lý thực vật, hôm chấm luận văn thạc sĩ mới đây, đã kể chuyện và bàn luận với chúng tôi về sự vào cuộc của các đại gia kinh tài cho Nông sản Việt, chuyện quen và lạ mà anh Nam Sinh Đoàn đã bàn. Giáo sư Nguyễn Thơ góp vui: “Đi họp với các Cụ ớn nhất là các Cụ mang thơ đến tặng. Một hội nghề nghiệp đã đùa “Xin mọi người hãy để giày dép và thơ ở ngoài”.Thế nhưng ‘thầy Luật bạn và thơ Lúa mới’ là không hề cũ và không thể quên. Nhớ và quên là hai mặt của nhận thức, minh triết của đời thường. Văn hóa là gì còn lắng đọng khi người ta đã quên đi tất cả.

          Tôi may mắn trong số những người bạn vong niên của thầy Luật “Em Hoàng Kim nhớ nhất là lúc lần đầu đi cùng thầy Van Quyen Mai về Ô Môn và về Cần Thơ cùng thầy Nguyễn Văn Luật, thầy Võ Tòng Xuân (là thân phụ của thầy giáo Võ-Tòng Anh) những người đã cùng cố giáo sư viện sĩ Đào Thế Tuấn chung sức xây dựng Chương trình Hệ thống Canh tác Việt Nam là điểm sáng một thời Nông Nghiệp Việt Nam (mà thầy Phạm Văn Hiền của Nong Lam University in Ho Chi Minh city, Nong Hoc Web nay đã phát triển thành giáo trình tâm đắc). Một số thầy ở Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam thuộc Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam đùa là nhóm thầy Van Quyen Mai và chúng tôi là về Cần Thơ Ô Môn để làm “lô đối chứng”.Nhưng chính nhờ sự giao lưu học tập ấy (về cách tập hợp dấn thân của tập thể Viện Lúa đạo quân tiên phong của Điện Biên Nam Bộ) để rồi chúng ta đã tiếp nối làm nên cuộc Cách mạng sắn ở Việt NamHoa Lúa; Hoa Đất , Hoa Người …Thật biết ơn quý Thầy khoa học nông nghiệp đầu ngành, biết ơn Viện Lúa xây dựng và phát triển

          Giáo sư tiến sĩ Nguyễn Văn Luật anh hùng lao động, Bác Hai Nam Bộ, ‘anh Hai ôm em’  là một điểm đến đặc biệt ấn tượng .

          Hoàng Kim chép lưu lại bài thơ ‘Thăm bạn Ô Môn’ của PTS Nguyễn Hữu Ước, Viện trưởng Viện Mía Đường, tại Ô Môn đêm 14 12 1992 cùng bài thơ “Giáo sư Lúa” của ông Nguyễn Khôi là Phó Vụ trưởng Vụ Dân tộc Văn phòng Quốc hội (đã trích dẫn trong bài “Thầy Luật lúa OMCS OM” phần hai) và bốn bài thơ đầu, giữa và cuối tập thơ “Lúa mới” của giáo sư Nguyễn Văn Luật

          THĂM BẠN Ô MÔN
          Nguyễn Hữu Ước
          Thân mến tặng GSTS Nguyễn Văn Luật
          và các bạn Viện Lúa ĐBSCL Ô Môn

          Ô Môn ơi thế là đã đến
          Bao chờ trông nay mới thỏa lòng
          Trời Cần Thơ dạt dào gió nắng
          Lúa ngập đồng gợn sóng mênh mông …

          Giống lai nào bình chọn – tay em
          Vần thơ nào dưới trăng anh viết?
          Để ta say màu xanh mái tóc
          Say con diều nghiêng cánh gọi trăng.

          Chất dẻo thơm hạt gạo “Ô Môn”
          Những chắt lọc công trình trí tuệ
          Nuôi cuộc đời năng mưa vất vả
          Xây niềm tin đi tới tương lai.

          Gặp đây rồi – Vui quá đêm nay
          Ly rượu nồng ấm tình bầu bạn
          Không còn cách sông Tiền, sông Hậu
          Trái tim ta làm nhịp nối bờ xa …

          HOA NGỌC TRÂM
          Luat Nguyen

          Ngọc Trâm trong trắng thơm lâu
          Chẳng khoe sắc thắm, chẳng sầu gió mưa
          Trông hoa nhớ mẹ năm xưa
          Hoa thanh tao ấy bây giờ còn đây.
          11. 1983
          Lúa mới, Nguyễn Văn Luật 1997 (bài đầu).

          NHÀ NÔNG HỌC
          Luat Nguyen

          Là nhà nông học của nghề nông
          Như những nhà thơ của ruộng đồng
          Chữ tâm trong anh đầy sức sống
          Tình anh như biển lúa mênh mông.
          1961

          TRÊN SÂN CHIM BẠC LIÊU
          Luat Nguyen
          Tặng ngài TLS Ấn Độ N.Dayakar

          Anh với tôi trên đài quan sát
          Canh rừng xanh, giữ biển Thái
          Bình
          Đàn cò mang nắng bình minh
          Ngao du kết bạn tâm tình khắp nơi
          1991
          Lúa mới, Nguyễn Văn Luật 1997 (bài giữa).

          XUÂN
          Luat Nguyen

          Xuân thời gian, xuân bất tái lai
          Hương sắc tình xuân đâu có phai
          Sức xuân trong anh từ em đến
          Viết bản tình ca -tha thiết – không lời.
          22 2 1997
          Lúa mới, Nguyễn Văn Luật 1997 (bài cuối).

          Tôi dừng lâu trước bài thơ xúc động của anh Nguyễn Hữu Ước viết tại Ô Môn đêm 14 12 1992. Anh Ước thăm Ô Môn chậm hơn nhiều so với chúng tôi, không được làm “lô đối chứng” hoạt động chung chương trình lúa và hệ thống canh tác kết nối từ rất sớm với Viện Lúa Ô Môn.. Giáo sư Vũ Công Hậu nói “Được làm đối chứng là tốt lắm đấy cậu ạ. Cậu phải tâm huyết lắm mới tạo được sự đột phá. Cậu thay đổi thói quen ưa thích và thị trường tiêu dùng của người dân, đặc biệt là đối với lão nông tri điền, để chọn được một giống tốt thực sự trong sản xuất là thật khó. Làm việc thật và bước đi hàng đầu là điều không dễ dàng. Người ta nhiều khi phải ‘né’ đối chứng thật tốt ‘nước sông không phạm nước giếng” đấy cậu ạ. Giáo sư Vũ Công Hậu và anh Nguyễn Huy Ước ngày nay đều là người thiên cổ nhưng những sự quý mến, trân trọng công sức của một thế hệ vàng tâm huyết và lời tâm tình thật đáng quý.

          DẠY VÀ HỌC không chỉ là trao truyền kiến thức mà còn thắp lên ngọn lửa. Chừng nào mỗi chúng ta chưa ứa nước mắt thấm hiểu sự nhọc nhằn của người nông dân một nắng hai sương làm ra hạt gạo. Chừng nào những giá trị lao động khoa học cao quý, liên tục, âm thầm chưa mang lại đủ niềm vui cho bữa ăn của người dân nghèo. Chừng đó chúng ta sẽ còn phải DẠY VÀ HỌC. Cái gốc của sự học là HỌC LÀM NGƯỜI.

          Các sâu sắc của sự học làm người là noi theo gương sáng (mặt tốt) của những bậc thầy minh triết, phúc hậu, tận tâm với Người với Đời. Sức lan tỏa của một người Thầy là tình yêu thương con người, sức tập hợp và cảm hóa. Thầy Nguyễn Văn Luật trở thành nhân vật lịch sử của em để đón nhận mọi sự khen chê của đời thường, nhưng riêng em luôn nhớ về Thầy với những điều cảm phục ngưỡng mộ”.

          Thầy Luật lúa OMCS OM một thời sôi nổi

          Hoàng Kim

          NHỚ VIÊN MINH
          Hoàng Kim

          Tay men bệ đá sân chùa
          Tổ tiên cha mẹ đều xưa chốn này
          Đình làng chùa cũ nơi đây
          Nuôi đêm phúc ấm dưỡng ngày nhân sinh

          Mình về với đức Viên Minh
          Thơm hương Hoa Lúa nặng tình nước non
          Đêm Yên Tử sáng trăng rằm
          Ban mai ngày mới an nhiên cuộc đời

          ThungXem tiếp >>

            Dạy và học 4 tháng 8(04-08-2021)

           

           

          DẠY VÀ HỌC 4 THÁNG 8
          Hoàng Kim
          CNM365 Tình yêu cuộc sống  Ngọc di sản Việt Nam; Di sản thế giới tại Việt Nam; Nông nghiệp sinh thái Việt; Ân tình đất phương Nam; Nghê Việt am Ngọa Vân; Linh Nhạc thương lời hiền; Thầy bạn trong đời tôi; Trần Đăng Khoa trong tôi; Lão Mai Đinh Đình Chiến; Nhớ bạn Đào Trung Kiên; Ngày 4 tháng 8 năm 1867, ngày mất  Phan Thanh Giản, đại thần danh sĩ nhà Nguyễn (sinh năm 1796). Ông là người nổi tiếng về đạo đức, có nhiều đóng góp trong lịch sử dân tộc nhưng mang bi kịch nỗi đau trăm năm. Ngày 4 tháng 8 năm 1961, ngày sinh  Barack Obama, Tổng thống Hoa Kỳ, chính trị gia và luật sư người Mỹ. Ngày 4 tháng 8 năm 1969, đại diện của Hoa Kỳ là Henry Kissinger và đại diện của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là Xuân Thủy bắt đầu các cuộc đàm phán hòa bình bí mật tại Paris, thông qua nhà trung gian Jean Sainteny; Bài chọn lọc ngày 4 tháng 8: Ngọc di sản Việt Nam; Di sản thế giới tại Việt Nam; Nông nghiệp sinh thái Việt; Ân tình đất phương Nam; Nghê Việt am Ngọa Vân; Linh Nhạc thương lời hiền; Thầy bạn trong đời tôi; Trần Đăng Khoa trong tôi; Lão Mai Đinh Đình Chiến; Nhớ bạn Đào Trung Kiên Thông tin tại: https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-4-thang-8;

           

          Di sản thế giới tại Việt Nam 1 Hoàng Thành Thăng Long, ảnh Hoàng Thành Thăng Long xưa và nay  nguồn BQLDT Hà Nội, (trích dẫn bởi Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim 2018)

           

          DI SẢN THẾ GIỚI TẠI VIỆT NAM
          Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim

          Tiếng Việt văn hóa kinh tế 学中越文 Tổng quan văn hoá và kinh tế xã hội Việt Nam 越南社会经济和文化概述 là tập tài liệu giảng dạy nghiên cứu Việt Nam Học Người Việt, Tiếng Việt, Nông nghiệp Việt Nam, văn hóa, kinh tế xã hội, du lịch sinh thái. Mục đích nhằm hổ trợ hệ thống hóa kiến thức nền Việt Nam Học, giúp bạn trẻ ham học hỏi, và người nước ngoài, cập nhật các hiểu biết khái quát về đất nước con người Việt Nam với phẩm chất văn hóa thân thiện, tốt đẹp “vốn xưng nền văn hiến đã lâu; núi sông bờ cõi đã chia, phong tục Bắc Nam cũng khác” (Bình Ngô Đại Cáo, Nguyễn Trãi, năm 1428). Nông nghiệp sinh thái Việt; Di sản thế giới tại Việt Nam; Du lịch sinh thái Việt; Vườn Quốc gia Việt Nam; Nông nghiệp công nghệ cao; Nông nghiệp Việt trăm năm; Ngôn ngữ văn hóa Việt; Dạo chơi non nước Việt; … rút trong tập tài liệu này là một số chủ đề giao lưu nông nghiệp sinh thái, ngôn ngữ, văn hóa,… xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/di-san-the-gioi-tai-viet-nam/.

          Di sản thế giớilà danh hiệu cao quý và lâu đời nhất trong các danh hiệu của UNESCO. Di sản thế giới gồm ba loại hình di sản văn hóa thế giới, di sản thiên nhiên thế giới và di sản hỗn hợp văn hóa và thiên nhiên thế giới. Việt Nam hiện có 8 di sản được UNESCO công nhận di sản thế giới gồm 5 di sản văn hóa thế giới là Hoàng Thành Thăng Long,  cố đô Huế, Vịnh Hạ Long, Vườn Quốc gia Phong Nha Kẻ Bàng, Quần thể danh thắng Tràng An, Thánh địa Mỹ Sơn, phố cổ Hội An, Thành Nhà Hồ. Ngoài 8 di sản thế giới ở Việt Nam được UNESCO công nhận còn có 1 di sản thế giới Cao nguyên đá Đồng Văn công viên địa chất toàn cầu thuộc Vườn Quốc Gia ở Việt Nam với 11 di sản văn hóa thế giới phi vật thể và 6 di sản tư liệu. Tổng cộng có 26 di sản thế giới tại Việt Nam.

           

          Hoàng Thành Thăng Long di sản thế giới tại Việt Nam di tích Đoan Môn.  Ngày 10 tháng 12 năm 1427 nhằm ngày 22 tháng 11 năm Đinh Mùi tại Đoan Môn Hoàng Thành Thăng Long thủ đô Hà Nội ngày nay, Hội thề Đông Quan được tổ chức giữa thủ lĩnh nghĩa quân Lam Sơn Lê Lợi và chủ tướng quân Minh là Vương Thông,  Đại Việt giành lại độc lập hoàn thành cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Vua Minh sai La Nhữ Kính mang thư sang phong Trần Cảo làm An Nam Quốc Vương, bãi bỏ quân nam chinh, ra lệnh cho Vương Thông trở về Bắc, trả lại đất cho An Nam, cho sứ thần đi lại, việc triều cống thực hiện theo lệ cũ năm Hồng Vũ.  Quân Minh tổng cộng 10 vạn người đã được hồi hương an toàn. Bình Ngô đại cáo do Nguyễn Trãi viết theo ý chỉ của Lê Lợi đã khẳng định: Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng Thần Vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc, Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà vẫn tim đập chân run. Họ đã tham sống sợ chết mà hoà hiếu thực lòng Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức. Chẳng những mưu kế kì diệu Cũng là chưa thấy xưa nay

           

          1. HOÀNG THÀNH THĂNG LONG

          Hoàng thành Thăng Long Hà Nội khu di tích Trung tâm được Ủy ban di sản thế giới (thuộc UNESCO) chính thức công nhận là di sản văn hóa thế giới ngày 31-07-2010 tại Hội nghị lần thứ 34, tổ chức tại thủ đô Brasilia của Braxin. Khu di tích Trung tâm Hoàng thành Thăng Long- Hà Nội nằm trong khu vực thuộc quận Ba Đình – Hà Nội với tổng diện tích là 18,395 ha. Trong đó bao gồm khu khảo cổ học được khai quật (ở số 18 đường Hoàng Diệu) và các di tích còn lưu giữ được trong khu di tích Thành cổ Hà Nội như: cột cờ Hà Nội, Đoan Môn, Điện Kính thiên, Hậu Lâu, Bắc Môn cùng phần tường bao và 8 cổng hành cung được xây dựng thời Nguyễn. Khu di tích Trung tâm Hoàng thành Thăng Long – Hà Nội được hình thành từ thời nhà Lý, từ sau những năm 1011 cùng với kinh thành Thăng Long. Kinh thành Thăng long được xây dựng theo mô hình “Tam Trùng Thành Quách”, bao gồm có 3 vòng thành: La thành hay còn gọi là Kinh thành bao quanh kinh đô men theo 3 con sông: sông Hồng, Tô Lịch và sông Kim Ngưu. Tiếp đến là Hoàng thành (vòng thành thứ 2) và trong cùng là Tử Cấm thành (vòng thành thứ 3). Trải qua hơn 10 thế kỷ với nhiều triều đại phong kiến cũng như bao biến cố thăng trầm trong lịch sử Việt Nam, Hoàng thành Thăng Long đã có nhiều sự thay đổi, song riêng khu vực Tử Cấm thành hầu như không thay đổi, chỉ có các kiến trúc bên trong là có sự tu sửa, xây dựng thêm. Vì vậy các di tích ở đây đã có mối liên hệ liên kết khá chặt chẽ tạo nên một tổng thể liên hoàn rất phức tạp nhưng rất phong phú và có sức hấp dẫn đặc biệt trong việc nghiên cứu về vấn đề quy hoạch đô thị và không gian kiến trúc tiếp nối giữa các triều đại trong lịch sử Việt Nam. Đây cũng chính là giá trị độc đáo nhất của khu di tích.

           

          Di sản thế giới tại Việt Nam 2 Cố đô Huế, ảnh tư liệu nguồn BQLDT Cố đô Huế, (trích dẫn bởi Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim 2018)

           

          2. CỐ ĐÔ HUẾ

          Quần thể di tích cố đô Huế được  tổ chức UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới ngày 03/7/1993 tại hội nghị tổ chức ở Colombia. Đây là di sản văn hóa đầu tiên của Việt Nam được vinh danh là Di sản văn hóa thế giới. Quần thể di tích cố đô Huế được phân bố dọc theo tả ngạn và hữu ngạn sông Hương, thuộc thành phố Huế và một vài vùng ngoại ô thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế. Nơi đây là kinh đô của Việt Nam thời  Phong kiến – Triều đại nhà Nguyễn từ năm 1802 đến 1945.  Trải qua 143 năm dưới sự trị vì của 13 đời vua, kinh đô Huế đã hình thành một hệ thống kiến trúc biểu thị cho quyền uy của chế độ quân chủ trung ương tập quyền Nhà Nguyễn ở Việt Nam thời bấy giờ. Đó là một hệ thống thành quách mẫu mực, những công trình kiến trúc, lịch sử văn hóa vừa mang đậm dấu ấn của nghệ thuật kiến trúc phương Đông vừa có sự giao thoa với nghệ thuật kiến trúc phương Tây. Tất cả được sắp đặt ở những vị thế đặc biệt lồng trong khung cảnh thiên nhiên thơ mộng toát  lên một vẻ đẹp cổ kính, uy nghiêm nhưng vẫn rất trữ tình. Một vẻ  đẹp độc đáo của kinh đô “rất Việt Nam” với những công trình tiêu biểu như: Hoàng Thành, Tử Cấm Thành, Nghinh Lương Đình, Phu Văn Lâu, Kỳ Đài, Ngọ Môn và các ngôi điện Thái Hòa, Cần Chánh, Kiến Trung,..Ngoài ra còn có 7 cụm lăng tẩm của 9 vị vua, Đàn Nam Giao, Hổ quyền, cùng nhiều kiến trúc đình, điện, chùa phật giáo cổ kính và nhiều địa danh thiên nhiên kỳ thú, thơ mộng như chùa Thiên Mụ, điện Hòn Chén, Lăng Cô, núi Ngự, sông Hương,…đã góp phần tô điểm thêm vẻ đẹp rất đặc trưng của cố đô Huế.

           

          Di sản thế giới tại Việt Nam 3 Vịnh Hạ Long, ảnh tư liệu nguồn BQLDT Vịnh Hạ Long, (trích dẫn bởi Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim 2018)

           

          3. VỊNH HẠ LONG

          Di sản thiên nhiên Thế giới Vịnh Hạ Long  Việt Nam được tổ chức UNESCO 2 lần công nhận là Di sản thiên nhiên Thế giới. Lần 1 vào ngày 17/12/1994, lần 2 vào ngày 02/12/2000 với giá trị ngoại hạng về thẩm mỹ và giá trị địa chất, địa mạo. Vịnh Hạ Long là một phần của Vịnh Bắc bộ, nằm ở vùng Đông Bắc Việt Nam. Vịnh có diện tích 1.553 km2 với 1969 đảo lớn, nhỏ. Trong đó vùng di sản được công nhận bao gồm 775 hòn đảo có diện tích là 434km2. Đây là di sản độc đáo được đánh gía độc nhất vô nhị trên thế giới. Nó không những chứa đựng nhiều dấu tích quan trọng trong quá trình hình thành và phát triển của trái đất, là cái nôi cư trú của người Việt cổ mà còn là một tuyệt tác nghệ thuật của thiên nhiên với hàng trăm, nghìn đảo đá “muôn hình vạn trạng”, cùng nhiều hang động kỳ bí tuyệt đẹp có tuổi kiến tạo địa chất cách đây từ 250-28 triệu năm. Vịnh Hạ Long không những là kỳ quan thiên nhiên của thế giới mà còn là một bảo tàng địa chất quý giá được gìn giữ ngoài trời đến 300 triệu năm. Bên cạnh đó Vịnh còn là nơi tập trung đa dạng sinh học với các hệ sinh thái của vùng biển nhiệt đới rất phong phú, đa dạng trong đó có nhiều loài động thực vật quý hiếm nằm trong Sách đỏ Việt Nam và Thế giới. Vịnh Hạ Long còn là vùng đất được coi là cái nôi của loài người với nền văn hóa Hạ Long qua những di chỉ khảo cổ nổi tiếng như Đồng Mang, Xích Thổ, Thoi Giếng cùng nhiều địa danh gắn với lịch sử đấu tranh oanh liệt, hào hùng của dân tộc như thương cảng Ba Đồn, núi Bài Thơ, sông Bạch Đằng.

           

          Di sản thế giới tại Việt Nam 4 Vườn Quốc Gia Phong Nha Kẻ Bàng, Động Phong Nha Quảng Bình, ảnh tư liệu nguồn BQLDT VQGPNKB, (trích dẫn bởi Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim 2018)

           

          4. VƯỜN QUỐC GIA PHONG NHA KẺ BÀNG

          Vườn Quốc gia Phong Nha Kẻ Bàng nằm trên địa bàn các huyện Bố Trạch, Quảng Ninh, Minh Hóa của tỉnh Quảng Bình, có tổng diện tích 343.300 ha. Nơi đây được ví như một bảo tàng địa chất khổng lồ bởi cấu trúc địa hình, địa mạo rất phức tạp trải qua quá trình kiến tạo địa chất từ 4 triệu năm trước của trái đất với những cảnh quan thiên nhiên kỳ bí cùng hơn 300 hang động lớn nhỏ đẹp nổi tiếng như Phong Nha, Tiên Sơn, Thiên Đường. Đặc biệt là hang Sơn Đoòng được đánh giá là hang động lớn và dài nhất thể giới (hang cao 250m, rộng 200m, dài 8,5km). Vườn Quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng còn là nơi có hệ động thực vật phong phú, đa dạng và độc đáo với 2400 loài thực vật bậc cao, 140 loài thú, 356 loài chim và hàng trăm loài lưỡng thể cá côn trùng trong đó có nhiều loài quý hiếm được ghi trong Sách đỏ Việt Nam và IUCN của thế giới như: sao la, mang lớn, mang Trường Sơn, Voọc Hà Tĩnh … Có thể nói, Vườn Quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng vừa là một bảo tàng địa chất và cũng là một bảo tàng sinh học khổng lồ ở Việt Nam. Nó có nhiều giá trị to lớn không những đối với Việt Nam mà còn mang ý nghĩa toàn cầu. Vườn Quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng cũng từng được UNESCO công nhận 2 lần là  Di sản thiên nhiên Thế giới (Lần 1 vào ngày 3/7/2003 tại Hội nghị Pari – Pháp; lần 2 vào tháng 7/2015 tại Hội nghị họp tại Bon- Đức).

           

          Di sản thế giới tại Việt Nam 5 Quần thể danh thắng Tràng An, ảnh HK (trích dẫn bởi Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim 2018)

           

          5. QUẦN THỂ DANH THẮNG TRÀNG AN

          Quần thể danh thắng Tràng An Bái Đính là di sản thế giới hỗn hợp đầu tiên của Việt Nam được UNESCO chính thức công nhận vào ngày 23/6/2014 dựa trên 3 tiêu chí về văn hóa, thẩm mỹ và các giá trị địa chất, địa mạo. thuộc địa bàn các huyện Hoa Lư, Gia Viễn, Nho Quan và Thành phố Ninh Bình, với tổng diện tích khoảng 10.000 ha trong đó vùng lõi của di sản gồm: khu sinh thái Tràng An, cố đô Hoa Lư, Tam Cốc – Bích Động, ở đây có khoảng 100 hang động vừa là động khô, vừa là động nước. Các hang động xuyên thủy thông giữa các thung được thiên nhiên tạo tác muôn hình muôn vẻ, xung quanh được bao bọc bởi những ngọn núi đá vôi dựng đứng với những hình thù ký thú. Mỗi địa danh hang động nơi đây đều mang ý nghĩa gắn với những câu chuyện, sự kiện lịch sử dựng nước và giữ nước của cha ông từ triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần. Xen lẫn giữa các tuyệt tác thiên nhiên còn có cả những công trình kiến trúc cổ kính do bàn tay con người tạo nên, chúng hòa quyện với nhau trong một không gian huyền ảo, thơ mộng tạo nên vẻ đẹp linh thiêng, huyền bí cho Tràng An. Với sự đa dạng về địa chất địa mạo, về hệ thống cảnh quan hang động được kiến tạo trong thời gian kéo dài hàng triệu năm, Tràng An cũng là khu vực có hệ sinh thái phong phú, đa dạng, vừa trên cạn, vừa dưới nước. ở đây có hàng trăm đến hàng nghìn loài động thực vật khách nhau tropng đó có nhiều loài được ghi trong sách đỏ Việt Nam và Thế giới. Không những chỉ có môi trường thiên nhiên đa dạng, cảnh quan kỳ bí, thơ mộng, Tràng An còn mang trong mình nhiều giá trị lịch sử văn hóa vô giá với những di tích lịch sử thời nguyên thủy đến các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần. Tràng An đã từng là nơi cu trú của người tiền sử, là mảnh đất vua Đinh chọn xây dựng kinh đô đầu tiên của nhà nước Việt Nam phong kiến độc lập: Đại Cồ Việt. Nơi đây cũng từng là thủ đô kháng chiến của vua tôi nhà Trần trong 2 lần chống quân Nguyên xâm lược.  Qua đó có thể nói thật hiếm thấy một di sản văn hóa nào hội đủ các giá trị lịch sử, khoa học, thẩm mỹ, sinh thái và môi truờng như Quần thể danh thắng Tràng An của Việt Nam. 

           

          Di sản thế giới tại Việt Nam 6 Thánh địa Mỹ Sơn, ảnh VietHa (trích dẫn bởi Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim 2018)

           

          6. THÁNH ĐỊA MỸ SƠN

          Khu đền tháp Mỹ Sơn được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới ngày 01-12-1999.  Khu đền tháp Mỹ Sơn được phân bố tập trung trong một thung lũng được bao bọc xung quanh là đồi núi có đường kính khoảng 2km, từ Đông Trường Sơn đến kinh đô Trà Kiệu (nay thuộc xã Duy Phú, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam). Đây chính là khu thánh địa Ấn Độ giáo của vương quốc Chăm Pa được xây dựng và tồn tại từ thế kỷ VII đến thế kỷ XIII. Đền tháp ở Mỹ Sơn được xây theo từng cụm. Mỗi cụm thường có một đền thờ chính và bao quanh có nhiều tháp nhỏ hoặc một số công trình phụ. Đền tháp được xây bằng gạch, có ghép những mảng trang trí bằng sa thạch. Với kỹ thuật xây tường rất độc đáo (kỹ thuật mài chập xếp khít). Sau khi xây xong tường mới điêu khắc chạm trổ hình hoa lá, người, thú linh lên tháp. Theo đánh giá của các nhà nghiên cứu thì Mỹ Sơn là nơi nghệ thuật kiến trúc Chăm Pa hội tụ một cách đầy đủ nhất. Các phong cách được phát triển liên tục mà chủ yếu nhất là từ thế kỷ VII – XIII. Mỹ Sơn tập trung đến 70 đền tháp, 32 bia ký tồn tại ở nhiều dạng khác nhau.  Mặc dù trải qua bao thăng trầm của lịch sử và tác động của mưa nắng, thời gian chúng không còn được hoàn toàn nguyên vẹn nhưng đây vẫn là những cứ liệu tốt và rất quan trọng để nghiên cứu tìm hiểu về nghệ thuật Chăm. Đặc biệt là nghệ thuật điêu khắc Chăm, một nền nghệ thuật độc đáo chịu ảnh hưởng sâu sắc của Ấn Độ giáo có vẻ đẹp mang đậm nét văn hóa dân tộc hấp dẫn đến lạ kỳ.

           

          Di sản thế giới tại Việt Nam 7 Phố cổ Hội An, ảnh tư liệu nguồn BQLDT Hội An, (trích dẫn bởi Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim 2018)

           

          7. PHỐ CỔ HỘI AN

          Đô thị cổ Hội An được Ủy ban di sản thế giới (thuộc UNESCO) chính thức công nhận là Di sản văn hóa thế giới ngày 04-12-1999 tại Hội nghị thứ 23 tổ chức ở Maroc. Đô thị cổ Hội An nằm ở vùng hạ lưu ngã ba sông Thu Bồn, cách thành phố Đà Nằng 30km về phía Nam, thuộc địa phận tỉnh Quảng Nam. Đây là một cảng thị truyền thống Đông Nam Á duy nhất ở Việt Nam và hiếm có trên thế giới. Theo đánh giá của các nhà nghiên cứu thì “các kiến trúc cổ của đô thị cổ Hội An hầu hết được làm mới từ thế kỷ XIX mặc dù năm khởi dựng xưa hơn nhiều”. Ở đây còn lưu giữ và bảo tồn gần như nguyên vẹn được trên 1000 di tích kiến trúc cổ bao gồm: các khu phố, nhà cửa, các hội quán, nhà thờ họ tộc, đình chùa, miếu mạo, giếng cổ,… Các kiến trúc cổ ở đây hầu hết được xây bằng vật liệu truyền thống như gạch, gỗ, phong cách kiến trúc vừa mang yếu tố nghệ thuật Việt Nam vừa có sự tiếp thu tinh hoa kiến trúc của các nước phương Đông( như Nhật Bản, Trung Hoa) và phương Tây. Điều đặc biệt của Hội An là mặc dù đã trải qua bao thế kỷ nhưng những phong tục tập quán, sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng lễ hội, những món ăn truyền thống, nghề thủ công truyền thống vẫn được người dân gìn giữ, bảo tồn và lưu truyền qua nhiều thế hệ cho đến ngày nay. Hội An từng là một thương cảng, nơi có điều kiện giao lưu với nhiều nền văn hóa khác nhau nên người Hội An ngoài những giá trị văn hóa truyền thống đã tiếp thu tinh hoa của các nền văn hóa các dân tộc khác hình thành nên một bản sắc văn hóa phong phú, đa dạng rất riêng và độc đáo. Người Hội An hồn hậu, dễ gần và rất mến khách. Đây cũng là một trong những yếu tố tạo nên sự hấp dẫn đối với du khách khi tới khám phá khu đô thị cổ Hội An.

           

          Di sản thế giới tại Việt Nam 8: Thành nhà Hồ, cổng Nam ảnh Geoff Steven, nguồn BQLDT, Bảo tàng Thanh Hóa (trích dẫn bởi Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim 2018)

           

          8. THÀNH NHÀ HỒ

          Thành nhà Hồ được Ủy ban di sản thế giới (thuộc UNESCO) chính thức công nhận là di sản văn hóa thế giới ngày 27-06-2011 tại hội nghị lần thứ 35 tổ chức tại Paris (Pháp). Phạm vi phân bố của Thành nhà Hồ gồm các xã Vĩnh Tiến, Vĩnh Long, Vĩnh Quang, Vĩnh Yên, Vĩnh Phúc, Vĩnh Ninh, Vĩnh Khang, vĩnh Thành và thị trấn Vĩnh Lộc thuộc huyện Vĩnh lộc, tỉnh Thanh Hóa. Thành nhà Hồ là kinh đô của Việt Nam giai đoạn từ 1398 đến 1407. Thành được Hồ Quý Ly xây dựng năm 1397. Trong lịch sử Thành còn có nhiều tên gọi khác như: Thành An Tôn, Tây Đô, Tây Kinh, Tây Nhai, Tây Giai. Khu di tích Thành nhà Hồ bao gồm: khu Thành nội, Hào thành, La thành và Đàn tế Nam Giao. Trong đó Thành nội được xây dựng hình vuông, tất cả phần tường thành và 4 cổng chính được xây dựng bằng đá phiến xanh với kỹ thuật xây dựng và điêu khắc rất tinh xảo. Hào thành được đào đắp bao quanh khu Thành nội có 4 cửa đá bắc vào 4 cửa của Thành nội. La thành của Thành nhà Hồ dài khoảng 10km là vòng thành ngoài được xây dựng để che chắn, bảo vệ cho thành nội được dựa theo địa hình sông núi tự nhiên và chủ yếu là đắp bằng đất, tường tre gai bao vệ. Đàn tế Nam Giao được xây dựng năm 1402, đây là một kiến trúc cung đình quan trọng – nơi các vua tế lễ tạ ơn trời đất, cầu quốc thái dân an. Đàn Nam Giao có diện tích khoảng 43.000m2, có 5 nền đất với 5 bậc cấp. Từ nền Đàn cao nhất đến nền thấp nhất có độ chênh lệch nhau tới 7,80m. Thành nhà Hồ được đánh giá là “một công trình kỳ vĩ bởi  kỹ thuật và nghệ thuật xây dựng đá lớn và sự kết hợp các truyền thống xây dựng độc đáo có một không hai ở Việt Nam, khu vực Đông Á và Đông Nam Á trong thời kỳ cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV”.

          9. CAO NGUYÊN ĐÁ ĐỒNG VĂN

          Công viên địa chất toàn cầu Cao nguyên đá Đồng Văn là công viên địa chất đầu tiên của Việt Nam và thứ 2 ở khu vực Đông Nam Á được Hội đồng tư vấn mạng lưới công viên địa chất toàn cầu  (GGN) công nhận là công viên địa chất toàn cầu ngày 3/ 10/ 2010,  nằm ở độ cao trung bình từ 1000-1600m so với mực nước biển, có diện tích gần 2356km2 thuộc địa bàn 4 huyện: Đồng Văn, Mèo Vạc, Yên Minh, Quảng Bạ của tỉnh Hà Giang, Cao nguyên đá Đồng Văn mang trong mình nhiều di sản về địa chất, địa tầng, kiến trúc phong phú, đa dạng: điển hình như các vườn đá, rừng đá Khâu Vai, Lũng Pù (Mèo Vạc). Cao nguyên đá Đồng Văn được đánh giá là một trong những vùng có hệ địa sinh thái núi đá đẹp, độc đáo và đa dạng nhất trên thế giới. Đặc biệt nơi đây còn phát hiện được 4 di chỉ khảo cổ thời tiền sử thuộc thời kỳ đồ đá cách đây hàng vạn năm. Đây cũng là nơi sinh sống lâu đời cử 17 dân tộc thiểu số vùng cao Bắc Việt Nam có nhiều nét văn hóa độc đáo mang đậm bản sắc văn hóa vùng miền.

          10. TÍN NGƯỠNG THỜ CÚNG HÙNG VƯƠNG

          Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương  ở Phú Thọ là di sản văn hóa phi vật thể đầu tiên của Việt Nam được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại ngày 6/12/2012. Phạm  vi công nhận của di sản này được xác định gồm: 109 làng có đình, đền thờ vua Hùng thuộc địa phận Tp.Việt Trì, thị xã Phú Thọ và các huyện Cẩm Khê, Đoan Hùng, Hạ Hòa, Lâm Thao, Phú Ninh, Tam Nông, Thanh Sơn, Thanh Ba, Thanh Thủy, Yên Lộc của tỉnh Phú Thọ. Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương được khởi nguồn từ thời đại các vua Hùng sau đó đã được phát triển mạnh và rất được chú trọng ở các triều đại phong kiến Việt Nam trước đây, đặc biệt thời Hậu Lê, Tây Sơn, nhà Nguyễn đã liên tục sắc phong cho các đền thờ tại Phú Thọ, pháp điển hóa nghi thức thờ cúng, cấp ruộng đất để thu hoa lợi phục vụ cho việc thờ cúng, coi sóc. Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương được gắn với truyền thuyết Lạc Long Quân – Âu Cơ “bọc trăm trứng”, cả dân tộc cùng chung giống nòi, nguồn cội. đồng thời thể hiện đạo lý “uống nuớc nhớ nguồn”, sự gắn kết cộng đồngcũng như tinh thần đoàn kết dân tộc của người Việt Nam. Hàng năm lễ Giỗ tổ Hùng Vương được tổ chức ở các đền thờ vua Hùng trên khắp cả nước trong đó nghi lễ lớn nhất diễn ra tại khu di tích lịch sử đền Hùng tại Phú Thọ. Trong thời gian diễn ra lễ hội còn có nhiều trò chơi dân gian truyền thống như bịt mắt, bát dê, Kéo co, bắt vịt, bắt chạch thi bơi… Ngày nay Đảng và nhà nước ta cũng rất quan tâm đến công tác bảo tồn các di sản văn hóa đặc biệt là tín ngưỡng thờ Quốc tổ Hùng vương và đã đưa vào Quốc lễ. hằng năm cứ vào ngày 10/3 âm lịch nhân dân cả nước đều được nghỉ lễ để tham gia các hoạt động giỗ tổ được tổ chức trọng thể tại các đình, đền thờ vua Hùng ở các địa phương và nô nức hành hương về đất tổ Phú Thọ để tham dự nghi lễ tại khu di tích lịch sử đền Hùng.

           

          Di sản thế giới tại Việt Nam 11: Nhã nhãc âm nhạc cung đình Việt Nam, ảnh Nhã nhạc,  Ban Đại nhac cung đình Huế đang trình tấu tại sân Thế Tổ Miếu, nguồn Bảo tàng cổ vật Huế (trích dẫn bởi Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim 2018)

           

          11. NHÃ NHẠC CUNG ĐÌNH HUẾ

          Nhã nhạc – âm nhạc cung đình Việt Nam là di sản văn hóa phi vật thể đầu tiên của Việt Nam được UNESCO công nhận là kiệt tác di sản văn hóa phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại tại một phiên họp được tổ chức tại Paris nước Pháp ngày 07-11-2003. Nhã nhạc – âm nhạc cung đình Huế bao gồm nhiều thể loại khác nhau: Nhạc lễ nghi sử dụng riêng cho việc cúng tế và triều chính, các ngày quốc lễ và Yến nhạc dùng cho sinh hoạt vui chơi giải trí trong cung của vua chúa và hoàng tộc. Trong đó có cả thể loại ca nhạc đi kèm với múa và kịch hát (múa cung đình, tuồng cung đình). Nhạc cung đình Huế xưa có nhiều thể loại: Giao nhạc, Miếu nhạc, Ngũ Tự nhạc dùng trong các dịp cúng tế trời đất; tổ tông; Đại triều nhạc dùng trong dịp lễ lớn, nghênh tiếp sứ thần; Triều nhạc và Yến nhạc phục vụ nội cung.  Múa cung đình Huế tiêu biểu có: Bát Dật, Lục Cung, Tam Tinh, Đấu Chiến Thắng Phật, Tứ Linh, Trình Tường,Tập Khách, Lục Triệt Hoa Mã Đăng… được phân định và sử dụng phù hợp vào các dịp, mục đích khác nhau. Các dàn nhạc và các bản nhạc cung đình triều Nguyễn cũng rất phong phú được biên soạn khá công phu bao gồm nhiều loại có biên chế khác nhau nhằm phục vụ các Nghi lễ và nhu cầu giải trí trong cung như: Nhã Nhạc, Huyền Nhạc, Ti Trúc Tế Nhạc, Tiểu nhạc, Đại nhạc, Nhạc Thiểu, Cổ Xúy Đại Nhạc, … Có thể nói “Nhã nhạc Huế là di sản văn hóa âm nhạc cổ điển bác học Việt Nam” được hình thành trên cơ sờ kế thừa thành tựu của dòng nhạc cung đình, các triều đại quân chủ trước đó ở Việt Nam và có sự sáng tạo phát triển lên một đỉnh cao mới, đây cũng chính là những giá trị vô giá và trường tồn của dân tộc Việt Nam . 

          12. KHÔNG GIAN VĂN HÓA CỒNG CHIÊNG TÂY NGUYÊN

          Không gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên được UNESCO chính thức công nhận là di sản văn hóa phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại vào ngày 25- 11- 2005. Đây là một di sản văn hóa độc đáo của đồng bào các dân tộc Vùng Tây Nguyên Việt Nam. Phạm vị phân bố của “ Không gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên bao gồm 5 tỉnh: Từ KonTum, Gia Lai, Đăk Lăk, Đăk Nông, Lâm Đồng. Chủ nhân của di sản văn hóa độc đáo này là 12 dân tộc tụ cư lâu đời nơi đây: Bana, Ê đê, Xê Đăng, Mơ Nông, Rơ Măm, Mạ, Cơho, Gia Rai…  Cồng Chiêng Tây Nguyên là một loại nhạc cụ độc đáo được chế tác chủ yếu bằng đồng có pha thêm một số kim loại khác như vàng, bạc, đồng đen.  Các tộc người Tây Nguyên sử dụng cồng chiêng làm nhạc cụ nhưng không tự đúc được Cồng Chiêng mà phải mua của các dân tộc láng giềng. Nhưng sau khi mua về với bàn tay khéo léo, óc sáng tạo, đôi tai thính các nghệ nhân đã biết chỉnh âm lại phù hợp theo hàng âm của tộc người. Chiêng sau khi đã được chỉnh âm sẽ được tổ chức một lễ hiến sinh mời thần Chiêng về trú ngụ trong Chiêng và từ đó “Chiêng mới thật sự là của cải vật chất và tinh thần của con người”,vì vậy Cồng Chiêng mang đậm bản sắc văn hóa tộc người. Đối với người Tây Nguyên, cồng chiêng là cầu nối giao tiếp giữa con người với thần linh. Vì vậy nó được sử dụng nhiều trong các nghi lễ và lệ hội. Thường mỗi tộc người Tây Nguyên đều có một biên chế dàn Chiêng riêng, bản nhạc riêng tùy theo tính chất đặc trưng của từng nghi Lễ mà có nhưng dàn chiêng và bài chiêng phù hợp. Dàn Chiêng và bài Chiêng dùng trong các nghi thức cúng thần khác với dàn Chiêng và bài Chiêng dùng trong nghi thức cầu màu, cầu sức khỏe… Đối với các tộc người Tây Nguyên cồng chiêng là biểu tượng cho sự quyền lực và sự giàu có. Người sở hữu nhiều cồng chiêng không chỉ là người giàu có của cải mà hơn thế còn là người có sức mạnh linh thiêng lớn hơn người khác. Bởi có thần chiêng làm bạn.Chiêng càng cổ thì quyền lực của vị thần càng cao.  Tự lâu đời, cồng Chiêng có sự gắn bó mật thiết và không thể thiếu trong đời sống tinh thần  của người Tây Nguyên. Cồng Chiêng và không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên là tài sản vô giá về văn hóa lẫn âm nhạc, là di sản văn hóa độc đáo của nhân loại.

           

          Di sản thế giới tại Việt Nam 13: Ca trù Việt Nam, ảnh Ca trù, nguồn BQLDT Hà Nội (trích dẫn bởi Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim 2018)

           

          13. CA TRÙ

          Ca trù là di sản văn hóa phi vật thể của Việt Nam được tổ chức UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại cần được bảo vệ khẩn cấp vào ngày 01-10-2009. Đây là một di sản văn hóa phi vật thể có phạm vi ảnh hưởng lớn nhất, nó có mặt ở 15 tỉnh thành trong cả nước nhưng nhiều nhất ở phía Bắc Việt Nam. Tiêu biểu như ở Hà Nội, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hải Phòng, Hưng Yên, Nam Định, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Tp. Hồ Chí Minh. Được khởi nguồn từ trong dân ca dân vũ dân nhạc Việt Nam, Ca trù là “một bộ môn nghệ thuật tổng hợp với nét độc đáo là sự phối hợp đa dạng tinh tế, nhuần nhuyễn giữa thi ca và âm nhạc, đôi khi có cả múa”. Nó được ra đời từ thế kỉ XI và được phát triển rộng rãi từ thế kỉ XV nhưng mãi đến cuối thể kỷ XX mới được thế giới biết đến và được các nhà Nhạc gia, nhạc sĩ nước ngoài tìm hiểu, nghiên cứu giới thiệu tại nhiều trường đại học nổi tiếng trên thế giới. Ca trù còn được gọi là hát Ả đào, hát Cô Đầu, hát Cửa Đình, hát Nhà Trò, … hát Ca trù thường có 5 không gian trình diễn chính, mỗi không gian đều có lối hát và cách thức trình diễn riêng. Để biểu diễn ca trù ít nhất phải có 3 người: một “Đào nương” hay còn gọi là “Ca Nương” vừa hát vừa gõ phách, một “Kép” (Nam nhạc Công) đệm đàn đáy cho người hát và một “Quan Viên” là người điểm trống chầu. Trong đó ca nương là người được đánh giá cao nhất nhưng cũng là người phải khổ luyện và trải qua nhiều thử thách mới được công nhận. Ca trù xưa được tổ chức khá chặc chẽ và có những quy định cụ thể về sự truyền nghề, học đàn, hát, chọn đào nương đi thi hát…  Ca trù là một bộ môn nghệ thuật độc đáo uyên bác. Ca Trù phong phú về lối hát, tinh tế, công phu trong kĩ thuật hát. Ca trù là một trong những kết tinh, nghệ thuật văn hóa tinh tế của tâm hồn người Việt Nam qua bao thế kỷ. Nó mãi là niềm tự hào và xứng đáng là Di sản Văn hóa Phi vật thể và Truyền Khẩu của Việt Nam và nhân loại.

           

          Di sản thế giới tại Việt Nam 13: Quan họ Bắc Ninh, ảnh Quan họ Bắc Ninh nguồn Sở VHTT& DL Bắc Ninh (trích dẫn bởi Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim 2018)

           

          14. QUAN HỌ BẮC NINH

          Quan họ Bắc Ninh được tổ chức UNESCO công nhận là: Di sản văn hóa phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại vào ngày 30-9-2009. Phạm vi được công nhận chính thức gồm có 49 làng quan họ ở hai tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang, nhưng tập trung nhiều nhất là ở Bắc Ninh (có 44 làng quan họ). Quan họ Bắc Ninh là những làn điệu dân ca mượt mà, trữ tình của người dân vùng đồng bằng Bắc bộ, với lối hát giao duyên dân dã mộc mạc nhưng mang đậm nghĩa tình của trai gái thông qua những “Liền Anh” “Liền Chị” hát quan họ. Quan Họ Bắc Ninh cũng là môn nghệ thuật được hợp thành từ những yếu tố như: âm nhạc, lời ca, trang phục và lễ hội. Đây cũng là một trong những thể loại dân ca phong phú nhất về mặt giai điệu trong dân ca Việt Nam. Xem tiếp >>

            Dạy và học 3 tháng 8(03-08-2021)

          DẠY VÀ HỌC 3 THÁNG 8
          Hoàng Kim
          CNM365 Tình yêu cuộc sốngBài ca nhịp thời gian, Nông nghiệp sinh thái Việt; Di sản thế giới tại Việt NamQuả táo Apple Steve Jobs; Một vùng trời nhân văn; Lê Quý Đôn tinh hoa; Bài ca nhịp thời gian; Giấc mơ lành yêu thương; Sớm Thu thơ giữa lòng; Tìm về đức Nhân Tông; Ân tình; Đêm Yên Tử; Dạy và học để làm; Ngày 3 tháng 8 năm 2018, Apple trở thành công ty đại chúng nghìn tỷ USD đầu tiên trên thế giới, với việc đạt giá trị vốn hóa một nghìn tỷ USD; Giá trị của Apple hiện nay đã lớn hơn GDP của nhiều quốc gia phát triển, trong đó có Hà Lan, Thụy Điển, Thụy Sỹ, Argentina (theo số liệu của CIA); Trong năm tài khóa 2019, doanh thu Apple đạt 260,2 tỷ USD, gần bằng GDP Việt Nam, theo Axios; so với Alphabet đạt 161,19 tỷ USD, gần bằng GDP Ukraine; Facebook đạt 70,7 tỷ USD, tương đương GDP của Venezuela. Quả táo Apple Steve Jobs là niềm tự hào của nước Mỹ và nhân loại. Ngày 3 tháng 8 năm 1492 là ngày Cristoforo Colombo khởi hành từ Palos de la Frontera, Tây Ban Nha trong hành trình viễn dương đầu tiên của ông. Ngày này được coi là “ngày Colombo, người tìm ra Tân Thế Giới Châu Mỹ”. Ngày 3 tháng 8 năm 1929 là ngày mất của Thorstein Veblen, nhà kinh tế học nổi tiếng người Hoa Kỳ (sinh năm 1857); Bài chọn lọc ngày 3 tháng 8: Bài ca nhịp thời gian; Nông nghiệp sinh thái Việt; Di sản thế giới tại Việt NamQuả táo Apple Steve Jobs; Một vùng trời nhân văn; Lê Quý Đôn tinh hoa; Bài ca nhịp thời gian; Giấc mơ lành yêu thương; Sớm Thu thơ giữa lòng; Tìm về đức Nhân Tông; Ân tình; Đêm Yên Tử; Dạy và học để làm; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.comhttp://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-3-thang-8

          Bài ca nhịp thời gian
          CNM365 TÌNH YÊU CUỘC SỐNG
          Hoàng Kim

          Ta vui đếm nhịp thời gian
          Thung dung nhàn giữa gian nan đời thường.

          CNM365 Tình yêu cuộc sốnghttps://hoangkimlong.wordpress.com/category/cnm365-tinh-yeu-cuoc-song/

          NÔNG NGHIỆP SINH THÁI VIỆT
          Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim

          Tiếng Việt văn hóa kinh tế 学中越文 Tổng quan văn hoá và kinh tế xã hội Việt Nam 越南社会经济和文化概述 là tập tài liệu giảng dạy nghiên cứu Việt Nam Học Người Việt, Tiếng Việt, Nông nghiệp Việt Nam, văn hóa, kinh tế xã hội, du lịch sinh thái. Mục đích nhằm hổ trợ hệ thống hóa kiến thức nền Việt Nam Học, giúp bạn trẻ ham học hỏi, và người nước ngoài, cập nhật các hiểu biết khái quát về đất nước con người Việt Nam với phẩm chất văn hóa thân thiện, tốt đẹp “vốn xưng nền văn hiến đã lâu; núi sông bờ cõi đã chia, phong tục Bắc Nam cũng khác” (Bình Ngô Đại Cáo, Nguyễn Trãi, năm 1428).
          Nông nghiệp sinh thái Việt; Di sản thế giới tại Việt Nam; Du lịch sinh thái Việt; Vườn Quốc gia Việt Nam; Nông nghiệp công nghệ cao; Nông nghiệp Việt trăm năm; Ngôn ngữ văn hóa Việt; Dạo chơi non nước Việt; … rút trong tập tài liệu này là một số chủ đề giao lưu nông nghiệp sinh thái, ngôn ngữ, văn hóa,… xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/nong-nghiep-sinh-thai-viet.

          Người Việt, tiếng Việt và nông nghiệp Việt Nam là ba di sản quý nhất của dân tộc Việt được bảo tồn và phát triển. Người Việt gồm cộng đồng 54 dân tộc và 1 nhóm “người nước ngoài’ trong Danh mục các dân tộc Việt Nam, theo Quyết định số 421, ngày 2/3/1979 Tổng cục Thống kê). Người Việt bản địa là chủ nhân của nền văn hóa thời đồ đá tại Việt Nam từ 7.000 – 20.000 năm trước, là chủ nhân của tiếng Việt và nền văn minh lúa nước, chốn tổ của nghề trồng lúa nước trên thế giới. Tiếng Việt là ngôn ngữ chính tiếng nói theo nhóm Việt-Mường của 8 nhóm ngôn ngữ Việt. Nông nghiệp Việt Nam là một trong ba ngành kinh tế, chiếm tỷ trọng trong tổng GDP Việt Nam năm 2015 ước tính: Nông nghiệp (nông lâm thủy sản) 17.4%; Công nghiệp (khai thác khoáng sản, công nghiệp chế biến, công nghiệp vật liệu xây dựng, sản xuất phân phối khí, điện, nước,…) 38.8%; Dịch vụ (thương mại, tài chính, du lịch, văn hóa, giáo dục, y tế) 43.7%.

          Nông nghiệp sinh thái Việt Nam là bài giảng của tiến sĩ Hoàng Tố Nguyên, giảng viên khoa Ngữ văn Trung Quốc, Trừờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, được đào tạo chuyên ngành tiếng Trung hiện đại tại Trường Đại học Sư phạm Hoa Trung (Trung Quốc), với sự hổ trợ đúc kết thông tin liên ngành của tiến sĩ Hoàng Long, giảng viên Cây Lương thực, Bộ môn Cây Lương thực Rau Hoa Quả Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh và tiến sĩ nông học Hoàng Kim. Bài giảng này là tài liệu học tập cho sinh viên nước ngoài đang giao lưu ngôn ngữ văn hóa Việt Trung Anh và tìm hiểu kinh tế xã hội, nông nghiệp sinh thái, giáo dục, du lịch Việt Nam tại Trường. Đề cương bài giảng chương Nông nghiệp sinh thái Việt Nam gồm 9 nội dung tóm tắt: 1) Nông nghiệp sinh thái Việt Nam là nền tảng của kinh tế; 2) Bảy vùng nông nghiệp sinh thái Việt Nam; 3) Đặc điểm bảy vùng nông nghiệp sinh thái Việt Nam; 4) Hiện trạng tầm nhìn lao động nông nghiệp sinh thái Việt Nam;  5) Du lịch nông nghiệp sinh thái Việt Nam; 6) Nông nghiệp sinh thái Việt Nam ngày nay; 7) Tết Việt khởi đầu 24 tiết khí lịch nhà nông; 8) Việt Nam con đường xanh Ứng dụng công nghệ nâng cao chuỗi giá trị nông nghiệp (Technological application enhances agriculture value chain); 9) Nông nghiệp sinh thái Việt Nam điểm đến yêu thích của bạn. Thông tin được đúc kết, cập nhật, tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://hoangkimlong.wordpress.com/category/nong-nghiep-sinh-thai-viet/

          I. Nông nghiệp sinh thái Việt Nam là nền tảng của kinh tế

          1.1 Người Việt trọng nông 
          Thành ngữ Việt Nam: “dĩ nông vi bản” (lấy nghề nông làm gốc). Nông nghiệp sinh thái Việt Nam là nền tảng kinh tế vì đất nước là môi trường sống, là nguồn sống, nguồn thức ăn căn bản của đời sống con người. Việt Nam là chốn tổ của nền văn minh lúa nước với các di tích khảo cổ về người tiền sử với các nền văn hóa Hòa Bình, Bắc Sơn từ 7.000- 20.000 năm trước Công nguyên đã chứng tỏ sự xuất hiện của một nền nông nghiệp và chăn nuôi rất sớm. Nông nghiệp Việt Nam ngày nay đang vượt ra khỏi sản xuất nông nghiệp truyền thống để không chỉ tạo ra lương thực thực phẩm cho con người (food) thức ăn cho các con vật (feed) mà còn làm nguyên liệu cho các ngành công nghiệp chế biến, may mặc, sợi dệt, chất đốt, cây cảnh và sinh vật cảnh, chất hóa học, cơ giới hóa nông nghiệp,  sinh hóa học nông nghiệp. các loại phân bón, thuốc trừ sâu, diệt cỏ.

          1.2 Ba di sản lớn nhất  Việt Nam
          Người Việt, Tiếng Việt và Nông nghiệp sinh thái Việt Nam là Ba di sản lớn nhất Việt Nam được nhà nước và nhân dân Việt Nam trọng tâm bảo tồn và phát triển. Việt Nam là đất nước của 54 dân tộc anh em với một nhóm “người nước ngoài”, trong
          Danh mục các dân tộc Việt Nam, theo Quyết định số 421, ngày 2/3/1979 Tổng cục Thống kê. Thông tin của Viện Nghiên cứu hệ gene, Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam, do Giáo sư Nông Văn Hải, công bố nguồn:Báo Tin Sáng 27 5 2020 Nghiên cứu đa dạng di truyền hệ gene ngưởi Việt Nam: Những viên gạch đầu tiên” với nhiều thư mục dẫn liệu kèm theo, đã có thể hé mở một phần câu trả lời. “đỉnh cao tập trung sự đa dạng DNA ty thể (của Người Việt cổ là) vào khoảng thời gian trùng với nền Văn hóa Đông Sơn, “có một sự tập trung gene cổ vào vùng đồng bằng sông Hồng khoảng 2.500-3.000 năm về trước”. Như vậy, không phải chỉ tổ tiên của người Kinh tập trung ở đồng bằng sông Hồng mà tổ tiên của các tộc người thuộc 5 nhóm ngữ hệ ngày nay đều có dấu vết tập trung dân cư đông đúc ở đây vào thời Đông Sơn. Nghĩa là nền văn hóa Đông Sơn là chung của các dân tộc này trong quá khứ. Đây là bằng chứng khoa học mới, đầu tiên trên thế giới về di truyền phân tử người cho thấy sự đa dạng di truyền liên quan đến khoảng thời gian ra đời của văn hóa Đông Sơn. Và điều này có thể đem lại một phần lời giải cho khẳng định của các nhà nghiên cứu khảo cổ học tiền sơ sử như TS Nguyễn Việt về các cư dân thời Đông Sơn và tiền Đông Sơn là một khối Bách Việt

          Người Việt chủ yếu là dân tộc Kinh (chiếm 86,2 % dân số) sinh sống trên khắp toàn thể nước Việt Nam và một số nước khác nhưng đông nhất vẫn là các vùng đồng bằng và thành thị trong nước. Người Kinh sống rải rác trên khắp lãnh thổ Việt Nam, nhưng tập trung nhiều nhất ở các đồng bằng và châu thổ các con sông. 53 dân tộc Việt Nam thiểu số còn lại sinh sống chủ yếu ở miền núi và trung du, trải dài từ Bắc vào Nam; hầu hết trong số họ sống xen kẽ nhau, điển hình là cộng đổng dân tộc thiểu số ở phía Bắc và Bắc Trung Bộ. Các dân tộc thiểu số đông dân và có số lượng dao động trên dưới một triệu người gồm Tày, Thái, Mường, Khmer, H’Mông,  Nùng, Hoa, người Dao, Gia Rai, Ê Đê, Chăm, Sán Dìu, Ra Glai,  Đa số các dân tộc này sống ở miền núi và vùng sâu vùng xa ở miền Bắc, Tây Nguyên, miền Trung và đồng bằng sông Cửu Long. Các dân tộc dân số ít nhất chỉ trên 300 người như Brâu, Ơ đu và Rơ Măm.  Các dân tộc thiểu số có trình độ phát triển không đồng đều. Ở Trung du và miền núi phía Bắc, các cư dân ở vùng thấp như Mường, Thái, Tày, Nùng sinh sống chủ yếu bằng canh tác lúa nước và nương rẫy, chăn nuôi gia súc và gia cầm, có một phần hái lượm, săn bắn, có nghề thủ công khá tinh xảo. Các dân tộc thiểu số ở phía Nam sống biệt lập hơn. Các dân tộc thiểu số ởTây Nguyên phần lớn sống theo tổ chức buôn-làng, kiếm sống dựa vào thiên nhiên mang tính tự cung tự cấp. Người dân tộc Chăm, Hoa và Khmer sống ở vùng duyên hải miền Trung và Nam Bộ có trình độ phát triển cao hơn, tạo thành những cụm dân cư xen kẽ với người Kinh.  Tất cả các nhóm dân tộc đều có nền văn hóa riêng biệt và độc đáo. Tín ngưỡng và tôn giáo của các dân tộc cũng khác biệt. Người Việt theo truyền thuyết dân tộc Kinh là con cháu của một thần rồng tên là Lạc Long Quân và một vị tiên tên là Âu Cơ. Hai người này lấy nhau và đẻ ra một bọc 100 trứng và nở ra 100 người con. Những người con sinh ra cùng một bọc gọi là “cùng bọc” (hay còn gọi là đồng bào) và “đồng bào” là cách gọi của người Việt để nói rằng tất cả người Việt Nam đều cùng có chung một nguồn gốc. Về nhân chủng học, có ba luồng quan điểm về nguồn gốc của người Việt. Các nhà nghiên cứu văn hóa lịch sử khảo cổ học Việt Nam với dẫn liệu trống đồng và nỏ thần, các di chỉ khảo cổ tin rằng người Việt đầu tiên có gốc bản địa . Một số học giả khác thì truy nguyên nguồn gốc và cho rằng tộc Việt khởi đầu dần dần Một số học giả tin rằng người Việt đầu tiên dần dần chuyển từ quần đảo Indonesia thông qua bán đảo Mã Lai và Thái Lan cho đến khi họ định cư trên các cạnh của sông Hồng ở Đồng bằng Bắc Bộ bằng cách lần theo con đường của các công cụ đá từ cuối Thế Pleistocen (600,000-12,000 trước Công nguyên), trên Java, Malaysia, Thái Lan và phía bắc Miến Điện. Những công cụ bằng đá được cho là các công cụ con người đầu tiên được sử dụng trong khu vực Đông Nam Á. Các nhà khảo cổ tin rằng vào thời điểm này Hy Mã Lạp Sơn, một dãy núi ở miền bắc Miến Điện và Trung Quốc, tạo ra một rào cản băng giá cô lập người dân Đông Nam Á. Một số khác cho rằng người Việt đầu tiên vốn là một bộ tộc gốc Mông Cổ ở Tây Tạng, di cư xuống phía nam từ thời đồ đá cũ. Nhóm dân tộc này định cư tại vùng Bắc Bộ, thượng nguồn sông Hồng ngày nay và tạo nên nền văn minh Đông Sơn. Nhóm bộ tộc này cũng có sự tương đồng rất lớn về nhân chủng, văn hóa với các tộc người ở phía Nam Trung Quốc, mà sử Trung Quốc còn gọi là cộng đồng Bách Việt.

          Người Việt, tiếng Việt và ngữ hệ Nam Á (Hoàng Tố Nguyên và đồng sự 2018).

          Tiếng Việt là ngôn ngữ chính tiếng nói theo nhóm Việt-Mường của 8 nhóm Ngôn ngữ Việt gồm : Việt-Mường; Tày-Thái; Dao-Hmông; Tạng-Miến; Hán; Môn-Khmer; Mã Lai-Đa đảo: hỗn hợp Nam Á, khác). Tiếng Việt là ngôn ngữ của người Việt (người Kinh) và là ngôn ngữ chính thức tại Việt Nam. Đây là tiếng mẹ đẻ của khoảng 85% dân cư Việt Nam, cùng với hơn bốn triệu người Việt hải ngoại. Tiếng Việt còn là ngôn ngữ thứ hai của các dân tộc thiểu số tại Việt Nam. Mặc dù tiếng Việt có một số từ vựng vay mượn từ tiếng Hán và trước đây dùng chữ Nôm, một hệ chữ dựa trên chữ Hán để viết nhưng tiếng Việt được coi là một trong số các ngôn ngữ thuộc ngữ hệ Nam Á có số người nói nhiều nhất (nhiều hơn một số lần so với các ngôn ngữ khác cùng hệ cộng lại) có nguồn gốc với ngôn ngữ Nam Á về mặt
          từ vựng kết hợp với ngôn ngữ Tày-Thái về mặt thanh điệu. Ngày nay, tiếng Việt dùng bảng chữ cái Latinh, gọi là chữ Quốc ngữ (do Alexandre de Rhodes sáng lập), cùng các dấu thanh để viết.  Tiếng Việt trong quá trình phát triển đã tiếp thu và đồng hoá nhiều từ Hán thành từ Hán-Việt, và tiếp thu một số lượng khá lớn các từ khoa học kỹ thuật của các ngôn ngữ Pháp, Nga, Anh từ đầu thế kỷ 20 đến nay. Ngữ hệ Nam Á là một tổng hợp bao gồm khoảng 168 ngôn ngữ tại miền nam của châu Á, tập trung tại Đông Nam Á và rải rác tại Ấn Độ cùng Bangladesh. Ngôn ngữ có nhiều người dùng nhất trong hệ thống này là tiếng Việt, với trên 80 triệu người, sau đó là tiếng Khmer, với khoảng 16 triệu người. Trong các ngôn ngữ của ngữ hệ Nam Á  thì  tiếng Việt, tiếng Khmer và tiếng Môn là có lịch sử được ghi chép lại lâu dài và tiếng Việt là ngôn ngữ chính thức tại Việt Nam.

          Nông nghiệp sinh thái Việt Nam là môi trường sống và nôi văn hóa Việt. Người Việt bản địa là chủ nhân của nền văn hóa thời đồ đá tại Việt Nam thời kỳ từ 7.000 đến 20.000 năm trước. Người Việt là chủ nhân của tiếng Việt và nền văn minh lúa nước, chốn tổ của nghề trồng lúa nước trên thế giới. Các dân tộc Việt khác với cộng đồng ít người hơn có nguồn gốc thiên di từ Tây Tạng, Hoa Nam,… di cư đến Việt Nam sau thời kỳ đồ đá muộn. Nông nghiệp sinh thái Việt Nam bản địa gắn liền với Lịch sử Việt Nam. Người Việt tiền sử sinh sống tại đất Việt thì đã có hàng vạn năm trước công nguyên, còn tính từ khi cơ cấu nhà nước được hình thành thì khoảng từ năm 2879 TCN đến nay (năm 2020) là 4899 năm (gần 5000 năm) Tại Việt Nam các nhà khảo cổ đã tìm thấy các di tích chứng minh loài người đã từng sống từ nền văn hóa Tràng An, Ngườm, Sơn Vi và Soi Nhụ thời kỳ Đồ đá cũ. Trong nền văn hóa Hòa Bình, văn hóa Bắc Sơn thời kỳ Đồ đá mới; văn hóa Phùng Nguyên ở xã Kinh Kệ huyện Lâm Thao tỉnh Phú Thọ thuộc sơ kỳ thời đại đồ đồng, cuối thời đại đồ đá mới, cách đây chừng 4.000 năm đến 3.500 năm; Văn hóa Đồng ĐậuVăn hóa Gò Mun ở thời đại đồ đồng, cách đây khoảng 3000 năm, di chỉ tại khu di tích Đồng Đậu ở thị trấn Yên Lạc, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc, người tiền sử tại vùng này đã phát triển chăn nuôi, nông nghiệp, đặc biệt là kỹ thuật trồng lúa nước.Văn hóa Đông Sơn, Văn hóa Sa Huỳnh, và Văn hóa Óc Eo khoảng 1200 TCN, cách ngày nay 3218 năm, đã có sự phát triển của kỹ thuật trồng lúa nước và đúc đồ đồng trong khu vực sông Mã và đồng bằng sông Hồng đã dẫn đến sự phát triển của nền văn hóa Đông Sơn, nổi bật với các trống đồng. Các vũ khí, dụng cụ và trống đồng được khai quật của văn hóa Đông Sơn minh chứng cho việc kỹ thuật đúc đồ đồng bắt nguồn từ đây, nhiều mỏ đồng nhỏ xưa đã được khai quật ở miền Bắc Việt Nam. Ở đây các nhà khảo cổ đã tìm thấy quan tài và lọ chôn hình thuyền, nhà sàn, và bằng chứng về phong tục ăn trầu và nhuộm răng đen. Những người Việt tiền sử trên vùng đồng bằng sông Hồng đã trồng lúa, trồng trọt và đắp đê chống nước lụt đã tạo nên nền văn minh lúa nước và văn hóa làng xã.Nhà nước Văn Lang của các vua Hùng người Việt đã xuất hiện nhà nước đầu tiên trên miền Bắc Việt Nam ngày nay vào thời kỳ đồ sắt, vào khoảng thế kỷ VII TCN với truyền thuyết Con Rồng cháu Tiên mà người Việt Nam tự hào truyền miệng từ đời này qua đời khác.

          1.3. Nông nghiệp sinh thái Việt Nam là sớm nhất, căn bản nhất, giá đỡ của kinh tế Việt
          Quá trình hình thành dân tộc và nông nghiệp Việt Nam theo các tài liệu phổ biến trong thế kỷ XX thì có thể chia thành ba giai đoạn:

          1. Vào thời kỳ đồ đá giữa khoảng 20.000-10.000 năm trước, có một bộ phận thuộc Đại chủng Á, sống ở tiểu lục địa Ấn Độ di cư về phía đông, tới vùng ngày nay là Đông Dương thì dừng lại. Tại đây, bộ phận của Đại chủng Á kết hợp với bộ phận của Đại chủng Úc bản địa và kết quả là sự ra đời của chủng Cổ Mã Lai.
          2. Cuối thời kỳ đồ đá mới, đầu thời kỳ đồ đồng khoảng 5.000 năm trước, chủng Cổ Mã Lai tiếp xúc thường xuyên với Đại chủng Á từ phía bắc tràn xuống,  hình thành chủng Nam Á
          3. Chủng Nam Á tại khu vực bắc Việt Nam và nam Trung Quốc (từ sông Dương Tử trở xuống) mà cổ thư Việt Nam và Trung Hoa gọi là Bách Việt. Ban đầu, họ nói một số thứ tiếng như: Môn-Khmer, Việt-Mường, Tày-Thái, H’Mông-Dao,… Sau này quá trình chia tách này tiếp tục để hình thành nên các dân tộc và các ngôn ngữ như ngày nay. Phía nam Việt Nam, dọc theo dải Trường Sơn, trong khi đó, vẫn là địa bàn cư trú của người Cổ Mã Lai. Theo thời gian họ chuyển biến thành chủng Nam Đảo. Đó là tổ tiên của các dân tộc thuộc nhóm Chăm.

          Nông nghiệp sinh thái Việt Nam là căn bản nhất, giá đỡ của kinh tế Việt Nam. Điều này hiển nhiên đến mức mà hầu như tất cả mọi người dân Việt đều hiểu, không cần phải phân tích.

          II. Bảy vùng sinh thái nông nghiệp Việt Nam

          Nông nghiệp sinh thai Việt Nam liên quan chặt chẽ với bảy vùng sinh thái nông nghiệp (cần nên cập nhật thông tin chỉ dẫn đia lý sinh thái thường xuyên có hệ thống bằng cách bấm vào để khai thác trực tiệp theo các thông tin quan trọng này:

          1. Vùng núi và trung du phía Bắc, có tiểu vùng Tây Bắc gồm 4 tỉnhLai Châu, Điện Biên, Sơn La, Hoà Bình., với tiểu vùng Đông Bắc: gồm 11 tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Quảng Ninh, Bắc Giang, Lào Cai, Yên Bái, Hà Giang, Tuyên Quang, Phú Thọ.
          2. Vùng đồng bằng sông Hồng: gồm 11 tỉnh Hải Phòng, Hải Dương, Bắc Ninh, Hưng Yên, Hà Nội, Hà Tây, Thái Bình, Nam Định, Hà Nam, Ninh Bình, Vĩnh Phúc.
          3. Vùng Bắc Trung bộ: gồm 6 tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên – Huế.
          4. Vùng Nam Trung bộ: gồm 6 tỉnh Đà Nẵng,Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà.
          5. Vùng Tây Nguyên: gồm 5 tỉnh Lâm Đồng, Đắk Nông, Đắc Lắc, Gia Lai, Kon Tum.
          6. Vùng Đông Nam bộ: gồm 8 tỉnh Đồng Nai, Bình Dương, Bình Phước, Tây Ninh, Thành phố Hồ Chí Minh, Ninh Thuận, Bình Thuận, Bà rịa – Vũng Tàu.
          7. Vùng Tây Nam bộ: gồm 13 tỉnh Long An, Bến Tre, Đồng Tháp, Sóc Trăng, Vĩnh Long, Cần Thơ, Hậu Giang, Tiền Giang, Bạc Liêu, Cà Mau, Xem tiếp >>

              Dạy và học 2 tháng 8(02-08-2021)


             

             

             

             

            DẠY VÀ HỌC 2 THÁNG 8
            Hoàng Kim
            CNM365 Tình yêu cuộc sốngMột vùng trời nhân văn; Nông nghiệp sinh thái Việt; Lê Quý Đôn tinh hoa; Bài ca nhịp thời gian; Giấc mơ lành yêu thương; Sớm Thu thơ giữa lòng; Tìm về đức Nhân Tông; Ân tình; Đêm Yên Tử; Dạy và học để làm; Trần Đăng Khoa trong tôi; Ngày 2 tháng 8 năm 1729, tại Văn Miếu Quốc Tử Giám Hà Nội, tượng thờ đức Khổng Tử, nhà giáo dục nổi tiếng “vạn thế sư biểu” đã được làm bởi Nguyễn Kim Hoa, quê ở xã Bá Thuỷ, huyện Gia Phúc, quyền tri phủ phủ Thuận An, đề ngày 8 tháng 8 năm Vĩnh Khánh thứ nhất. Ngày 2 tháng 8 năm 1726, ngày sinh Lê Quý Đôn, bảng nhãn, nhà bác học, danh thần thời Hậu Lê, Việt Nam (mất năm 1784). Ngày 2 tháng 8 năm 1884, tại Điện Thái Hòa, cố đô Huế, vua Hàm Nghi là Nguyễn Phúc Ưng Lịch đăng quang hoàng đế thứ 8 của triều Nguyễn. Bài chọn lọc ngày 2 tháng 8: Một vùng trời nhân văn; Nông nghiệp sinh thái Việt; Lê Quý Đôn tinh hoa; Bài ca nhịp thời gian; Giấc mơ lành yêu thương; Sớm Thu thơ giữa lòng; Tìm về đức Nhân Tông; Ân tình; Đêm Yên Tử; Dạy và học để làm; Trần Đăng Khoa trong tôi; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.comhttp://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-2-thang-8

             

             

             

             

            MỘT VÙNG TRỜI NHÂN VĂN
            Hoàng Kim

            Gương trời lồng lộng ban mai
            Thung dung ta đến vùng trời nhân văn
            Thịnh suy thế nước ngàn năm
            Anh hùng là kẻ vì dân vì đời.

            Bên lề chính sử dạo chơi
            Rùa ơi thương Cụ biết nơi chọn về.
            Kỳ Lân mộ, Tháp Rùa bia
            Bia đời, bia miệng khắc ghi lòng người.

            Tìm nơi tỉnh lặng ta ngồi
            Tình yêu cuộc sống là nơi thư nhàn
            Câu thơ lưu lạc trần gian.
            Hoàng Thành Cổ Kiếm Hồ Gươm gọi về.

             

             

             

             

            NÔNG NGHIỆP SINH THÁI VIỆT
            Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim

            Tiếng Việt văn hóa kinh tế 学中越文 Tổng quan văn hoá và kinh tế xã hội Việt Nam 越南社会经济和文化概述 là tập tài liệu giảng dạy nghiên cứu Việt Nam Học Người Việt, Tiếng Việt, Nông nghiệp Việt Nam, văn hóa, kinh tế xã hội, du lịch sinh thái. Mục đích nhằm hổ trợ hệ thống hóa kiến thức nền Việt Nam Học, giúp bạn trẻ ham học hỏi, và người nước ngoài, cập nhật các hiểu biết khái quát về đất nước con người Việt Nam với phẩm chất văn hóa thân thiện, tốt đẹp “vốn xưng nền văn hiến đã lâu; núi sông bờ cõi đã chia, phong tục Bắc Nam cũng khác” (Bình Ngô Đại Cáo, Nguyễn Trãi, năm 1428). Nông nghiệp sinh thái Việt; Di sản thế giới tại Việt Nam; Du lịch sinh thái Việt; Vườn Quốc gia Việt Nam; Nông nghiệp công nghệ cao; Nông nghiệp Việt trăm năm; Ngôn ngữ văn hóa Việt; Dạo chơi non nước Việt; … rút trong tập tài liệu này là một số chủ đề giao lưu nông nghiệp sinh thái, ngôn ngữ, văn hóa,… xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/nong-nghiep-sinh-thai-viet.

            Người Việt, tiếng Việt và nông nghiệp Việt Nam là ba di sản quý nhất của dân tộc Việt được bảo tồn và phát triển. Người Việt gồm cộng đồng 54 dân tộc và 1 nhóm “người nước ngoài’ trong Danh mục các dân tộc Việt Nam, theo Quyết định số 421, ngày 2/3/1979 Tổng cục Thống kê). Người Việt bản địa là chủ nhân của nền văn hóa thời đồ đá tại Việt Nam từ 7.000 – 20.000 năm trước, là chủ nhân của tiếng Việt và nền văn minh lúa nước, chốn tổ của nghề trồng lúa nước trên thế giới. Tiếng Việt là ngôn ngữ chính tiếng nói theo nhóm Việt-Mường của 8 nhóm ngôn ngữ Việt. Nông nghiệp Việt Nam là một trong ba ngành kinh tế, chiếm tỷ trọng trong tổng GDP Việt Nam năm 2015 ước tính: Nông nghiệp (nông lâm thủy sản) 17.4%; Công nghiệp (khai thác khoáng sản, công nghiệp chế biến, công nghiệp vật liệu xây dựng, sản xuất phân phối khí, điện, nước,…) 38.8%; Dịch vụ (thương mại, tài chính, du lịch, văn hóa, giáo dục, y tế) 43.7%.

            Nông nghiệp sinh thái Việt Nam là bài giảng của tiến sĩ Hoàng Tố Nguyên, giảng viên khoa Ngữ văn Trung Quốc, Trừờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, được đào tạo chuyên ngành tiếng Trung hiện đại tại Trường Đại học Sư phạm Hoa Trung (Trung Quốc), với sự hổ trợ đúc kết thông tin liên ngành của tiến sĩ Hoàng Long, giảng viên Cây Lương thực, Bộ môn Cây Lương thực Rau Hoa Quả Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh và tiến sĩ nông học Hoàng Kim. Bài giảng này là tài liệu học tập cho sinh viên nước ngoài đang giao lưu ngôn ngữ văn hóa Việt Trung Anh và tìm hiểu kinh tế xã hội, nông nghiệp sinh thái, giáo dục, du lịch Việt Nam tại Trường. Đề cương bài giảng chương Nông nghiệp sinh thái Việt Nam gồm 9 nội dung tóm tắt: 1) Nông nghiệp sinh thái Việt Nam là nền tảng của kinh tế; 2) Bảy vùng nông nghiệp sinh thái Việt Nam; 3) Đặc điểm bảy vùng nông nghiệp sinh thái Việt Nam; 4) Hiện trạng tầm nhìn lao động nông nghiệp sinh thái Việt Nam;  5) Du lịch nông nghiệp sinh thái Việt Nam; 6) Nông nghiệp sinh thái Việt Nam ngày nay; 7) Tết Việt khởi đầu 24 tiết khí lịch nhà nông; 8) Việt Nam con đường xanh Ứng dụng công nghệ nâng cao chuỗi giá trị nông nghiệp (Technological application enhances agriculture value chain); 9) Nông nghiệp sinh thái Việt Nam điểm đến yêu thích của bạn. Thông tin được đúc kết, cập nhật, tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://hoangkimlong.wordpress.com/category/nong-nghiep-sinh-thai-viet/ và https://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-19-thang-7/

            I. Nông nghiệp sinh thái Việt Nam là nền tảng của kinh tế

            1.1 Người Việt trọng nông 
            Thành ngữ Việt Nam: “dĩ nông vi bản” (lấy nghề nông làm gốc). Nông nghiệp sinh thái Việt Nam là nền tảng kinh tế vì đất nước là môi trường sống, là nguồn sống, nguồn thức ăn căn bản của đời sống con người. Việt Nam là chốn tổ của nền văn minh lúa nước với các di tích khảo cổ về người tiền sử với các nền văn hóa Hòa Bình, Bắc Sơn từ 7.000- 20.000 năm trước Công nguyên đã chứng tỏ sự xuất hiện của một nền nông nghiệp và chăn nuôi rất sớm. Nông nghiệp Việt Nam ngày nay đang vượt ra khỏi sản xuất nông nghiệp truyền thống để không chỉ tạo ra lương thực thực phẩm cho con người (food) thức ăn cho các con vật (feed) mà còn làm nguyên liệu cho các ngành công nghiệp chế biến, may mặc, sợi dệt, chất đốt, cây cảnh và sinh vật cảnh, chất hóa học, cơ giới hóa nông nghiệp,  sinh hóa học nông nghiệp. các loại phân bón, thuốc trừ sâu, diệt cỏ.

            1.2 Ba di sản lớn nhất  Việt Nam
            Người Việt, Tiếng Việt và Nông nghiệp sinh thái Việt Nam là Ba di sản lớn nhất Việt Nam được nhà nước và nhân dân Việt Nam trọng tâm bảo tồn và phát triển. Việt Nam là đất nước của 54 dân tộc anh em với một nhóm “người nước ngoài”, trong
            Danh mục các dân tộc Việt Nam, theo Quyết định số 421, ngày 2/3/1979 Tổng cục Thống kê. Thông tin của Viện Nghiên cứu hệ gene, Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam, do Giáo sư Nông Văn Hải, công bố nguồn:Báo Tin Sáng 27 5 2020 Nghiên cứu đa dạng di truyền hệ gene ngưởi Việt Nam: Những viên gạch đầu tiên” với nhiều thư mục dẫn liệu kèm theo, đã có thể hé mở một phần câu trả lời. “đỉnh cao tập trung sự đa dạng DNA ty thể (của Người Việt cổ là) vào khoảng thời gian trùng với nền Văn hóa Đông Sơn, “có một sự tập trung gene cổ vào vùng đồng bằng sông Hồng khoảng 2.500-3.000 năm về trước”. Như vậy, không phải chỉ tổ tiên của người Kinh tập trung ở đồng bằng sông Hồng mà tổ tiên của các tộc người thuộc 5 nhóm ngữ hệ ngày nay đều có dấu vết tập trung dân cư đông đúc ở đây vào thời Đông Sơn. Nghĩa là nền văn hóa Đông Sơn là chung của các dân tộc này trong quá khứ. Đây là bằng chứng khoa học mới, đầu tiên trên thế giới về di truyền phân tử người cho thấy sự đa dạng di truyền liên quan đến khoảng thời gian ra đời của văn hóa Đông Sơn. Và điều này có thể đem lại một phần lời giải cho khẳng định của các nhà nghiên cứu khảo cổ học tiền sơ sử như TS Nguyễn Việt về các cư dân thời Đông Sơn và tiền Đông Sơn là một khối Bách Việt

            Người Việt chủ yếu là dân tộc Kinh (chiếm 86,2 % dân số) sinh sống trên khắp toàn thể nước Việt Nam và một số nước khác nhưng đông nhất vẫn là các vùng đồng bằng và thành thị trong nước. Người Kinh sống rải rác trên khắp lãnh thổ Việt Nam, nhưng tập trung nhiều nhất ở các đồng bằng và châu thổ các con sông. 53 dân tộc Việt Nam thiểu số còn lại sinh sống chủ yếu ở miền núi và trung du, trải dài từ Bắc vào Nam; hầu hết trong số họ sống xen kẽ nhau, điển hình là cộng đổng dân tộc thiểu số ở phía Bắc và Bắc Trung Bộ. Các dân tộc thiểu số đông dân và có số lượng dao động trên dưới một triệu người gồm Tày, Thái, Mường, Khmer, H’Mông,  Nùng, Hoa, người Dao, Gia Rai, Ê Đê, Chăm, Sán Dìu, Ra Glai,  Đa số các dân tộc này sống ở miền núi và vùng sâu vùng xa ở miền Bắc, Tây Nguyên, miền Trung và đồng bằng sông Cửu Long. Các dân tộc dân số ít nhất chỉ trên 300 người như Brâu, Ơ đu và Rơ Măm.  Các dân tộc thiểu số có trình độ phát triển không đồng đều. Ở Trung du và miền núi phía Bắc, các cư dân ở vùng thấp như Mường, Thái, Tày, Nùng sinh sống chủ yếu bằng canh tác lúa nước và nương rẫy, chăn nuôi gia súc và gia cầm, có một phần hái lượm, săn bắn, có nghề thủ công khá tinh xảo. Các dân tộc thiểu số ở phía Nam sống biệt lập hơn. Các dân tộc thiểu số ởTây Nguyên phần lớn sống theo tổ chức buôn-làng, kiếm sống dựa vào thiên nhiên mang tính tự cung tự cấp. Người dân tộc Chăm, Hoa và Khmer sống ở vùng duyên hải miền Trung và Nam Bộ có trình độ phát triển cao hơn, tạo thành những cụm dân cư xen kẽ với người Kinh.  Tất cả các nhóm dân tộc đều có nền văn hóa riêng biệt và độc đáo. Tín ngưỡng và tôn giáo của các dân tộc cũng khác biệt. Người Việt theo truyền thuyết dân tộc Kinh là con cháu của một thần rồng tên là Lạc Long Quân và một vị tiên tên là Âu Cơ. Hai người này lấy nhau và đẻ ra một bọc 100 trứng và nở ra 100 người con. Những người con sinh ra cùng một bọc gọi là “cùng bọc” (hay còn gọi là đồng bào) và “đồng bào” là cách gọi của người Việt để nói rằng tất cả người Việt Nam đều cùng có chung một nguồn gốc. Về nhân chủng học, có ba luồng quan điểm về nguồn gốc của người Việt. Các nhà nghiên cứu văn hóa lịch sử khảo cổ học Việt Nam với dẫn liệu trống đồng và nỏ thần, các di chỉ khảo cổ tin rằng người Việt đầu tiên có gốc bản địa . Một số học giả khác thì truy nguyên nguồn gốc và cho rằng tộc Việt khởi đầu dần dần Một số học giả tin rằng người Việt đầu tiên dần dần chuyển từ quần đảo Indonesia thông qua bán đảo Mã Lai và Thái Lan cho đến khi họ định cư trên các cạnh của sông Hồng ở Đồng bằng Bắc Bộ bằng cách lần theo con đường của các công cụ đá từ cuối Thế Pleistocen (600,000-12,000 trước Công nguyên), trên Java, Malaysia, Thái Lan và phía bắc Miến Điện. Những công cụ bằng đá được cho là các công cụ con người đầu tiên được sử dụng trong khu vực Đông Nam Á. Các nhà khảo cổ tin rằng vào thời điểm này Hy Mã Lạp Sơn, một dãy núi ở miền bắc Miến Điện và Trung Quốc, tạo ra một rào cản băng giá cô lập người dân Đông Nam Á. Một số khác cho rằng người Việt đầu tiên vốn là một bộ tộc gốc Mông Cổ ở Tây Tạng, di cư xuống phía nam từ thời đồ đá cũ. Nhóm dân tộc này định cư tại vùng Bắc Bộ, thượng nguồn sông Hồng ngày nay và tạo nên nền văn minh Đông Sơn. Nhóm bộ tộc này cũng có sự tương đồng rất lớn về nhân chủng, văn hóa với các tộc người ở phía Nam Trung Quốc, mà sử Trung Quốc còn gọi là cộng đồng Bách Việt.

             

             

             

             

            Người Việt, tiếng Việt và ngữ hệ Nam Á (Hoàng Tố Nguyên và đồng sự 2018).

            Tiếng Việt là ngôn ngữ chính tiếng nói theo nhóm Việt-Mường của 8 nhóm Ngôn ngữ Việt gồm : Việt-Mường; Tày-Thái; Dao-Hmông; Tạng-Miến; Hán; Môn-Khmer; Mã Lai-Đa đảo: hỗn hợp Nam Á, khác). Tiếng Việt là ngôn ngữ của người Việt (người Kinh) và là ngôn ngữ chính thức tại Việt Nam. Đây là tiếng mẹ đẻ của khoảng 85% dân cư Việt Nam, cùng với hơn bốn triệu người Việt hải ngoại. Tiếng Việt còn là ngôn ngữ thứ hai của các dân tộc thiểu số tại Việt Nam. Mặc dù tiếng Việt có một số từ vựng vay mượn từ tiếng Hán và trước đây dùng chữ Nôm, một hệ chữ dựa trên chữ Hán để viết nhưng tiếng Việt được coi là một trong số các ngôn ngữ thuộc ngữ hệ Nam Á có số người nói nhiều nhất (nhiều hơn một số lần so với các ngôn ngữ khác cùng hệ cộng lại) có nguồn gốc với ngôn ngữ Nam Á về mặt
            từ vựng kết hợp với ngôn ngữ Tày-Thái về mặt thanh điệu. Ngày nay, tiếng Việt dùng bảng chữ cái Latinh, gọi là chữ Quốc ngữ (do Alexandre de Rhodes sáng lập), cùng các dấu thanh để viết.  Tiếng Việt trong quá trình phát triển đã tiếp thu và đồng hoá nhiều từ Hán thành từ Hán-Việt, và tiếp thu một số lượng khá lớn các từ khoa học kỹ thuật của các ngôn ngữ Pháp, Nga, Anh từ đầu thế kỷ 20 đến nay. Ngữ hệ Nam Á là một tổng hợp bao gồm khoảng 168 ngôn ngữ tại miền nam của châu Á, tập trung tại Đông Nam Á và rải rác tại Ấn Độ cùng Bangladesh. Ngôn ngữ có nhiều người dùng nhất trong hệ thống này là tiếng Việt, với trên 80 triệu người, sau đó là tiếng Khmer, với khoảng 16 triệu người. Trong các ngôn ngữ của ngữ hệ Nam Á  thì  tiếng Việt, tiếng Khmer và tiếng Môn là có lịch sử được ghi chép lại lâu dài và tiếng Việt là ngôn ngữ chính thức tại Việt Nam.

             

             

             

             

            Nông nghiệp sinh thái Việt Nam là môi trường sống và nôi văn hóa Việt. Người Việt bản địa là chủ nhân của nền văn hóa thời đồ đá tại Việt Nam thời kỳ từ 7.000 đến 20.000 năm trước. Người Việt là chủ nhân của tiếng Việt và nền văn minh lúa nước, chốn tổ của nghề trồng lúa nước trên thế giới. Các dân tộc Việt khác với cộng đồng ít người hơn có nguồn gốc thiên di từ Tây Tạng, Hoa Nam,… di cư đến Việt Nam sau thời kỳ đồ đá muộn. Nông nghiệp sinh thái Việt Nam bản địa gắn liền với Lịch sử Việt Nam. Người Việt tiền sử sinh sống tại đất Việt thì đã có hàng vạn năm trước công nguyên, còn tính từ khi cơ cấu nhà nước được hình thành thì khoảng từ năm 2879 TCN đến nay (năm 2020) là 4899 năm (gần 5000 năm) Tại Việt Nam các nhà khảo cổ đã tìm thấy các di tích chứng minh loài người đã từng sống từ nền văn hóa Tràng An, Ngườm, Sơn Vi và Soi Nhụ thời kỳ Đồ đá cũ. Trong nền văn hóa Hòa Bình, văn hóa Bắc Sơn thời kỳ Đồ đá mới; văn hóa Phùng Nguyên ở xã Kinh Kệ huyện Lâm Thao tỉnh Phú Thọ thuộc sơ kỳ thời đại đồ đồng, cuối thời đại đồ đá mới, cách đây chừng 4.000 năm đến 3.500 năm; Văn hóa Đồng ĐậuVăn hóa Gò Mun ở thời đại đồ đồng, cách đây khoảng 3000 năm, di chỉ tại khu di tích Đồng Đậu ở thị trấn Yên Lạc, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc, người tiền sử tại vùng này đã phát triển chăn nuôi, nông nghiệp, đặc biệt là kỹ thuật trồng lúa nước.Văn hóa Đông Sơn, Văn hóa Sa Huỳnh, và Văn hóa Óc Eo khoảng 1200 TCN, cách ngày nay 3218 năm, đã có sự phát triển của kỹ thuật trồng lúa nước và đúc đồ đồng trong khu vực sông Mã và đồng bằng sông Hồng đã dẫn đến sự phát triển của nền văn hóa Đông Sơn, nổi bật với các trống đồng. Các vũ khí, dụng cụ và trống đồng được khai quật của văn hóa Đông Sơn minh chứng cho việc kỹ thuật đúc đồ đồng bắt nguồn từ đây, nhiều mỏ đồng nhỏ xưa đã được khai quật ở miền Bắc Việt Nam. Ở đây các nhà khảo cổ đã tìm thấy quan tài và lọ chôn hình thuyền, nhà sàn, và bằng chứng về phong tục ăn trầu và nhuộm răng đen. Những người Việt tiền sử trên vùng đồng bằng sông Hồng đã trồng lúa, trồng trọt và đắp đê chống nước lụt đã tạo nên nền văn minh lúa nước và văn hóa làng xã.Nhà nước Văn Lang của các vua Hùng người Việt đã xuất hiện nhà nước đầu tiên trên miền Bắc Việt Nam ngày nay vào thời kỳ đồ sắt, vào khoảng thế kỷ VII TCN với truyền thuyết Con Rồng cháu Tiên mà người Việt Nam tự hào truyền miệng từ đời này qua đời khác.

            1.3. Nông nghiệp sinh thái Việt Nam là sớm nhất, căn bản nhất, giá đỡ của kinh tế Việt
            Quá trình hình thành dân tộc và nông nghiệp Việt Nam theo các tài liệu phổ biến trong thế kỷ XX thì có thể chia thành ba giai đoạn:

            1. Vào thời kỳ đồ đá giữa khoảng 20.000-10.000 năm trước, có một bộ phận thuộc Đại chủng Á, sống ở tiểu lục địa Ấn Độ di cư về phía đông, tới vùng ngày nay là Đông Dương thì dừng lại. Tại đây, bộ phận của Đại chủng Á kết hợp với bộ phận của Đại chủng Úc bản địa và kết quả là sự ra đời của chủng Cổ Mã Lai.
            2. Cuối thời kỳ đồ đá mới, đầu thời kỳ đồ đồng khoảng 5.000 năm trước, chủng Cổ Mã Lai tiếp xúc thường xuyên với Đại chủng Á từ phía bắc tràn xuống,  hình thành chủng Nam Á
            3. Chủng Nam Á tại khu vực bắc Việt Nam và nam Trung Quốc (từ sông Dương Tử trở xuống) mà cổ thư Việt Nam và Trung Hoa gọi là Bách Việt. Ban đầu, họ nói một số thứ tiếng như: Môn-Khmer, Việt-Mường, Tày-Thái, H’Mông-Dao,… Sau này quá trình chia tách này tiếp tục để hình thành nên các dân tộc và các ngôn ngữ như ngày nay. Phía nam Việt Nam, dọc theo dải Trường Sơn, trong khi đó, vẫn là địa bàn cư trú của người Cổ Mã Lai. Theo thời gian họ chuyển biến thành chủng Nam Đảo. Đó là tổ tiên của các dân tộc thuộc nhóm Chăm.

            Nông nghiệp sinh thái Việt Nam là căn bản nhất, giá đỡ của kinh tế Việt Nam. Điều này hiển nhiên đến mức mà hầu như tất cả mọi người dân Việt đều hiểu, không cần phải phân tích.

             

             

             

             

            II. Bảy vùng sinh thái nông nghiệp Việt Nam

            Nông nghiệp sinh thai Việt Nam liên quan chặt chẽ với bảy vùng sinh thái nông nghiệp (cần nên cập nhật thông tin chỉ dẫn đia lý sinh thái thường xuyên có hệ thống bằng cách bấm vào để khai thác trực tiệp theo các thông tin quan trọng này:

            1. Vùng núi và trung du phía Bắc, có tiểu vùng Tây Bắc gồm 4 tỉnhLai Châu, Điện Biên, Sơn La, Hoà Bình., với tiểu vùng Đông Bắc: gồm 11 tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Quảng Ninh, Bắc Giang, Lào Cai, Yên Bái, Hà Giang, Tuyên Quang, Phú Thọ.
            2. Vùng đồng bằng sông Hồng: gồm 11 tỉnh Hải Phòng, Hải Dương, Bắc Ninh, Hưng Yên, Hà Nội, Hà Tây, Thái Bình, Nam Định, Hà Nam, Ninh Bình, Vĩnh Phúc.
            3. Vùng Bắc Trung bộ: gồm 6 tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên – Huế.
            4. Vùng Nam Trung bộ: gồm 6 tỉnh Đà Nẵng,Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà.
            5. Vùng Tây Nguyên: gồm 5 tỉnh Lâm Đồng, Đắk Nông, Đắc Lắc, Gia Lai, Kon Tum.
            6. Vùng Đông Nam bộ: gồm 8 tỉnh Đồng Nai, Bình Dương, Bình Phước, Tây Ninh, Thành phố Hồ Chí Minh, Ninh Thuận, Bình Thuận, Bà rịa – Vũng Tàu.
            7. Vùng Tây Nam bộ: gồm 13 tỉnh Long An, Bến Tre, Đồng Tháp, Sóc Trăng, Vĩnh Long, Cần Thơ, Hậu Giang, Tiền Giang, Bạc Liêu, Cà Mau, Kiên Giang, Xem tiếp >>

                Dạy và học 1 tháng 8(01-08-2021)

              Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là ha-noi-thu-do-viet-nam.jpg

              DẠY VÀ HỌC 1 THÁNG 8
              Hoàng Kim
              CNM365 Tình yêu cuộc sốngTìm về đức Nhân Tông; Dạy và học để làm; Nhớ thương cánh chim trời; Chuyện cổ tích người lớn; Nhà tôi chim làm tổ; Vườn nhà sớm mai nay; Vĩ Dạ thương Miên Thẩm; Nơi vườn thiêng cổ tích; Minh triết Hồ Chí Minh; Việt Nam con đường xanh; Hà Nội thủ đô Việt Nam ngàn năm văn hiến. Ngày 1 tháng 8 năm 2008, toàn bộ tỉnh Hà Tây, 4 xã thuộc huyện Lương Sơn (Hòa Bình), và huyện Mê Linh (tỉnh Vĩnh Phúc) được sát nhập vào thủ đô Hà Nội. Ngày 1 tháng 8 năm 1498, Christopher Columbus trở thành người Châu Âu đầu tiên đến Venezuela. Ngày 1 tháng 8 năm 1901 Báo Nông cổ mín đàm ra số đầu tiên ở Nam Kỳ; Ngày 1 tháng 8 năm 1927, Khởi nghĩa Nam Xương là cuộc đấu tranh vũ trang đầu tiên của Đảng Cộng sản Trung Quốc lãnh đạo chạm súng với Quốc dân Đảng, nên ngày này được coi là ngày thành lập Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc; Bài chọn lọc ngày 1 tháng 8: Tìm về đức Nhân Tông; Dạy và học để làm; Nhớ thương cánh chim trời; Chuyện cổ tích người lớn; Nhà tôi chim làm tổ; Vườn nhà sớm mai nay; Vĩ Dạ thương Miên Thẩm; Nơi vườn thiêng cổ tích; Minh triết Hồ Chí Minh; Việt Nam con đường xanh; Thông tin tại: https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-1-thang-8

              Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là tran-nhan-tong-4.jpg

              Kinh Dịch xem chơi, yêu tính sáng yêu hơn châu báu.
              Sách Nhàn đọc giấu, trọng lòng rồi trọng nữa hoàng kim…
              (Trần Nhân Tông)

              TÌM VỀ ĐỨC NHÂN TÔNG
              Hoàng Kim


              Người ơi con đến đây tìm
              Non thiêng Yên Tử như tranh họa đồ
              Núi cao trùng điệp nhấp nhô
              Trời xuân bảng lãng chuông chùa Hoa Yên

              Thầy còn dạo bước cõi tiên
              Con ươm mầm sốngxanh thêm ruộng vườn
              Mang cây lộc trúc về Nam
              Ken dày phên giậu ở miền xa xôi

              Cư trần lạc đạo (1)Người ơi
              Tùy duyên vui đạo sống đời thung dung
              Hành trang Thượng sĩ Tuệ Trung
              Kỳ Lân thiền viện cành vươn ra ngoài

              An Kỳ Sinhtrấn giữa trời
              Thơ Thiền lưu dấu muôn đời nước non …

              Hoàng Kim

              Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là af5a5-yentu246.jpg

              Chùa Hoa Yên

              Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là 61070-yentu053.jpg

              Con ươm mầm sống xanh thêm ruộng vườn

              Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là b6e50-yentu583.jpg

              Mang cây lộc trúc về Nam

              Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là fc24a-yentu279.jpg

              Kỳ Lân thiền viện

              Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là f321d-yentu504.jpg

              An Kỳ Sinh nối chùa Đồng

              Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là cc51a-yentu219.jpg

              Khoai Hoàng Long nơi Yên Tử

              Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là tran-nhan-tong-3.jpg
              Trúc Lâm Đại sĩ xuất sơn đồ vua Trần Nhân Tông dời núi Vũ Lâm được Trần Giám Như vẽ năm 1363, nay được lưu giữ tại bảo tàng Liêu Ninh Trung Quốc

              Bức họa thư Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn đồ

              Theo nhà nghiên cứu Trịnh Quang Vũ 2013 tại Tạp chí. BBT TCMT số 242 (2-2013) và 243 (3-2013) bức họa thư cổ Trúc Lâm Đại sĩ xuất sơn đồ dài 3,1m, rộng 0,4m là báu vật lưu hi hữu của Đại Việt với nội dung về vua Trần Nhân Tông dời núi Vũ Lâm được Trần Giám Như vẽ năm 1363, nay được lưu giữ tại bảo tàng Liêu Ninh Trung Quốc. Công ty đấu giá quốc tế Poly (Bảo Lợi Bắc Kinh) tổ chức đấu giá các tinh phẩm thư họa, trong đó có bức Trúc Lâm Đại sĩ (nguyên do một công ty ở Bắc Kinh năm 2006 phối hợp với Bảo tàng Liêu Ninh phục chế những kiệt tác mỹ thuật trong cố cung triều Thanh để triển lãm năm 2006). Bản phục chế Trúc Lâm Đại sĩ xuất sơn đồ nhưng đã được mua với giá cao bất ngờ 1,8 triệu USD gây chấn động dưluận . Chủ nhân mua bức họa phẩm này giữ kín tên để bảo vệ bức tranh.

              Động Vũ Lâm căn cứ chỉ huy cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông. Năm Giáp Ngọ Hưng Long thứ 7 (1294) Đại sĩ về thăm lại Vũ Lâm- Bích động. Năm sau (1295) Đại sĩ về lại Động Vũ Lâm tu hành, Ngài đã làm bài thơ “Vũ Lâm thu vãn”. Bài thơ như sau:

              Hoa kiều đảo ảnh trám khê hoành
              Nhất mạt tà dương thủy ngoại minh
              Tịch tịch thiên sơn hồng diệp lạc
              Thấp vân như mộng viền chung thanh

              Nghĩa là:
              Lòng khe in ngược bóng cầu hoa
              Hắt sáng bờ khe vệt nắng tà
              Lặng lẽ nghìn non rơi lá đỏ
              Mây giăng như mộng tiếng chuông xa
              (PGS- TS Trần Thị Băng Thanh dịch (thơ văn Lý Trần)

              Hình ảnh thơ Vũ Lâm thu vãn của Phật hoàng đã được họa sĩ sáng tác từ cây cầu đã bắc qua bờ khe của sông Ngô Đồng ở hành cung lúc chiều tà, non nước rơi đầy lá đỏ, nghe tiếng chuông chùa Sở ở Văn lâm do vua Trần Thái Tông xây. Thời Thái Tông đã cho mở bến thuyền, gọi là bến Thánh, phía trái sông Ngô Đồng nơi hai trái núi đứng sát bờ sông. Núi đứng bên còn gọi là Bến Thánh. Năm Bảo Phù (1273-1278) vua Trần Thái Tông cho xây cung điện Thái Vi. Phong cảnh thiên nhiên ở động Vũ Lâm tuyệt đẹp đã được họa sĩ vẽ làm nền tranh, bố cục khéo léo, tạo nhịp điệu sống động khi Trúc Lâm đại sĩ xuất núi trở thành một họa phẩm lịch sử đầy ấn tượng, chuyển tài nhiều thông điệp văn hóa của thiền phái Trúc Lâm ban đầu. Những nhân vật lịch sử: Phật hoàng Trần Nhân Tông, đạo sĩ Lâm, các nhà sư người Hồ, vua Anh Tông cùng đoàn tùy tùng nghênh đón, cho ngày nay thấy rõ cụ thể di ảnh lịch sử của quá khứ, từ trang phục, nghi chế, quân lính, voi ngựa cách đây ngót 700 năm là vô cùng quý giá.

              Bức tranh đã được đánh giá cao ở Trung Quốc là báu vật thư họa lưu giữ trong cố cung nhà Thanh và bảo tàng Liêu Ninh. Điều đó càng chứng minh giá trị về tranh đề tài lịch sử được lưu giữ bằng hội họa của mỹ thuật Đại Việt thời Trần. Hiện nay, đền Thái vi còn bia dựng năm Vĩnh Thịnh 11 (1715) thời Lê Trịnh viết: “Nơi đây sơn thủy hữu tình, quả như Bồng Lai xuất hiện. Vua cho xây cung điện, thập phương noi theo. Phía phải, suối khe khuất khúc, nước bạc lấp lánh. Phía trái núi non trùng điệp đã xếp chênh vênh… đẹp tựa thiên đình”.

              Những bí mật chìm nổi của bức họa thư Trúc lâm đại sĩ xuất sơn đồ

              Nguồn gốc xuất hiện của bức họa thư tàng ẩn nhiều bí mật của lịch sử. Cuối thế kỷ XIII, quân Mông Cổ đánh úp quân Tống ở Nhai Sơn, quân Tống đại bại. Tả thừa tướng Lục Tú Phu cõng vua Tống nhảy xuống biển chết. Hậu cung và các quan chết theo rất nhiều. Qua 7 ngày có đến hơn 10 vạn xác chết trôi nổi trên mặt biển. Xác vua Tống cũng có trong số đó (Đại Việt sử ký toàn thư trang 45 tập II). Hốt Tất Liệt diệt xong nhà Nam Tống đặt ách thống trị trên toàn Trung Hoa lập ra nhà Nguyên. Trong cảnh mất nước các nho sĩ người Hán bị nhấn chìm dưới đáy xã hội, giới nho sĩ văn nhân thành lập hội tương tế. Nhà Nguyên xếp nhà nho dưới gái điếm (Hội họa cổ Trung Hoa NXB Mỹ Thuật/T140-1993), kẻ sĩ bị bạc đãi. Hội họa Nguyên không có gì đặc sắc. Trong hoàn cảnh đó các tác phẩm hội họa được coi là sản phẩm kiếm sống, khởi sinh ra một phong cách “văn nhân họa” còn gọi là đại phu họa (hội họa của các đại phu). Tuy nhiên, vẫn nổi lên Triệu Mạnh Phủ, sau này có Nguyên tứ gia: Hoàng Công Vọng, Ngô Trấn, Nghê Toản và Vương Mông. Họ đều là người vùng Giang Nam chuyên vẽ Sơn thạch, thủy mặc và trúc thạch mang phong cách ẩn sĩ. Ngoài ra còn hàng chục họa sĩ cũng theo lối này. Cuối triều Nguyên (giữa thế kỷ XV) nhà Nguyên suy thoái, đại loạn, dân Hán nổi lên chống Nguyên khắp nơi. Từ 1345 có ba cuộc khởi nghĩa chống xâm lược Nguyên lớn như: Trần Hữu Lượng, Trương Hữu Thành và Chu Nguyên Chương. Trần Hữu Lượng khởi nghĩa ở Bái Trạch năm 1354 thắng lợi, chiếm cứ một vùng rộng lớn các tỉnh Giang Tô, Hồ Quảng (Hồ Nam, Quảng Tây, Quảng Đông). Cùng năm đó sai sứ xin hòa thân với Đại Việt (TT/T2/134). Năm 1355 Chu Đức Dụ nổi lên đến năm 1359 cũng sai sứ sang thông hiếu với Đại Việt (lúc đó đổi tên là Chu Nguyên Chương Vua Minh). Bấy giờ vua Minh đang cầm cự với Trần Hữu Lượng chưa phân được thua. Vua Trần sai người lên phía Bắc để dò la xem hư thực (Trần Hữu Lượng là con trai thứ hai Trần Ích Tắc, cháu ruột vua Trần Nhân Tông nên sau khi khởi nghĩa đã có giao hảo với nhà Trần). Theo Trần gia ngọc phả thì Trần Ích Tắc là con thứ năm vua Trần Thánh Tông, em vua Trần Nhân Tông. Trần Hữu Lượng đã giấu gốc tích, hoàng tộc Việt của mình để khởi nghĩa và có một số nguyên do như sau: Khi Trần Ích Tắc đem gia quyến và quân đội đến đầu hàng nhà Nguyên năm 1295 đã được phong làm An Nam quốc vương. Quân Nguyên xâm lược đưa Ích Tắc về nước đã thất bại, phải chạy về Tầu. Khi Nguyên thế tổ chết (1294) con nối ngôi là Nguyên Thành Tông thấy vai trò lịch sử của Ích Tắc đã hết nên đã hạ chỉ thu hồi ruộng đất đã cấp cho Ích Tắc và đưa về Ngạc Châu. Sự thay đổi đột ngột lớn này đã làm cho đời sống thiếu thốn, con cái li tán. Điều đó đã ảnh hưởng tới Trần Hữu Lượng. Cha con Ích Tắc vẫn có mộng làm vua do thần nhân báo mộng “khi vua Thái Tông sinh Ích Tắc, vụ thần ba mắt từ trên trời xuống nói bị thượng đế quở trách, xin thác sinh là con vua, sau lại trở về phương bắc”. Khi Ích Tắc ra đời, giữa trán có vết lờ mờ hình con mắt, hình dáng giống hệt người trong mộng… (TT/T2/55). Sau năm khởi nghĩa, tháng 6 năm 1360 Trần Hữu Lượng xưng đế quốc hiệu là Hán, đặt niên hiệu Đại Nghĩa, kinh đô ở Nam Kinh, chiếm cứ một vùng rộng lớn Chiết Giang, Hồ Quảng (Hồ Nam, Quảng Tây, Quảng Đông). Trần Giám Như ở Hàng Châu thuộc vùng đất của Trần Hữu Lượng nên mới có thể vẽ tranh ca ngợi vua Trần Nhân Tông vị anh hùng đã hai lần chiến thắng giặc Nguyên xâm lược Đại Việt. Là họa sĩ vẽ chân dung nhưng ông đã sáng tác bức Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn đồ năm 1363 với ý đồ ca ngợi truyền thống Đông A (Trần) oai hùng để cổ vũ Trần Hữu Lượng khi đã xưng đế được 3 năm. Ông tuy nổi tiếng vẽ chân dung hàng đầu ở Hàng Châu nhưng vẫn giữ kín gốc tích của mình, nên sử liệu thời Nguyên Minh cũng không rõ lai lịch nhưng nói rõ là ngụ cư ở Hàng Châu. Trần Giám Như cũng có quan hệ với Triệu Mạnh Phủ một họa sĩ nổi danh lúc bấy giờ. Ông còn để lại một bức chân dung vẽ danh sĩ nổi tiếng nước Cao Ly (Triều Tiên) là Lý Tế Hiền vẽ năm Nguyên Nhân Tông (1319). Tranh vẽ cả người ngồi trên ghế tựa, áo choàng dài đội mũ tam sơn bên đôn gỗ cao (khổ tranh lớn 1,77mx 0,93m). Ông sống ở Trung Quốc từ năm 1315 đến 1341.

              Cuộc tranh hùng của Trần Hữu Lượng với Chu Nguyên Chương bất phân thắng bại trong nhiều năm. Năm 1366 Hữu Lượng đánh nhau với Chu Nguyên Chương ở hồ Phiên Dương. Hữu Lượng bị tên bắn lén chết trận. Chu Nguyên Chương đem quân đến vây thành Vũ Xương. Con Lượng là Trần Lý đầu hàng năm 1366. Năm sau nhà Nguyên mất, Chu Nguyên Chương trở thành Minh Thái Tổ (1367). Bức tranh Trúc Lâm Đại sĩ xuất sơn đồ đã trở thành báu vật của các hậu duệ Trần lưu lạc ở Trung Nguyên, nhưng lại là đối thủ của Minh Thái Tổ nên bức tranh đã được giấu kín 60 năm sau. Qua hai đời vua đến năm Vĩnh Lạc thứ 18 (1420) nhà Minh thịnh trị, đã cướp xong nước ta, ổn định xâm lược bức tranh được tái xuất hiện do hai chủ nhân tranh được truyền tiếp theo là Trung thư xá nhân Trần Đăng và nhà sư già Giao Chỉ (Giao Chỉ học Phật nhân) Trần Quang Chỉ là hậu duệ nhà Trần.

              Ông Trần Quang Chỉ đã có bài tán viết vào dưới tranh để giới thiệu. “Đại sĩ là con vua Trần Thái Tông, trước khi sinh, vua cha đã mơ thấy Thượng đế ban cho thanh bảo kiếm. Khi sinh, Vua đẹp đẽ thông thái (mỗi ngày có thể đọc vạn lời, khi lớn lên thông tam giáo nhưng yêu thích đạo phật. Vương thông hiểu lịch số, binh pháp, y dược, âm luật, các môn đều thấu hiểu đến chỗ uyên bác. Trong việc trị nước, lấy tinh thần nhân ái để giải quyết mọi việc, lấy lòng thành thực đối đãi với bề tôi, coi họ như tay chân, phủ dụ trăm họ như con ruột, nhẹ hình phạt, thuế mà, giữ chữ tín trong việc thưởng công, phạt tội. Tuổi hơn 40 thì “siêu nhiên”, bỏ ngai vàng, truyền ngôi cho thế tử, vào động Vũ Lâm tu đạo, mặc áo sư, rồi làm am trên đỉnh núi Yên Tử ở, 6 năm không xuống núi, mặc áo cỏ, ăn lá cây cần khổ tích hạnh chân tu “các độ”. Sau đó trải rộng tính tình ở gò núi đi khắp nơi trong nước, nay các danh sơn thắng cảnh đâu cũng còn lưu dấu vết “trác tích” (tu hành) của người. Bấy giờ có đạo sĩ Lâm Thời Vũ trong nước cùng theo Đại sĩ đi khắp nơi, có lúc viễn du hóa độ lân quốc đến Chiêm thành, khất thực trong quốc đô. Vua nước đó lấy lễ đón mời, đối đãi hết sức kính cẩn, lại sắm sửa thuyền bè, nghi trượng đầy đủ thân hành tiễn về nước. Sau đem đất hai châu cúng dàng nay là hai châu Thuận, châu Hóa vậy. Đến năm sau, đi không ngồi xe, đầu không đội nón, hình dung khô khan, áo bỏ vai lam lũ, người trong nước gặp không ai biết đấy là vua. Thiền Tông của Đại sĩ vốn từ hậu duệ của Thần Hội đời Đường, trong nước chưa phát triển thiền học rộng, đến Đại sĩ thì tông môn đại hưng thịnh, cho nên dòng áo đen một nước suy tôn là sơ tổ…khi nhập thất ngồi ngay ngắn lặng lẽ mà hóa…khi đốt có thần quang ngũ sắc bốc lên, suốt đêm không tan…người trong nước thấy cảm ứng linh thiêng, khắp nơi các chùa đều thờ phụng cúng dâng, cầu đảo đều ứng nghiệm. Sự tích Đại sĩ đã có sách truyền đăng lục ghi chép, người Giao Chỉ có thể truyền đạt. Tôi nhận thấy bức tranh này, dám biểu đạt một vài điều đại quát dưới tranh, may chi mọi người xem được khiến cho công hạnh của Đại sĩ không bị mai một. Vĩnh lạc năm 18, ngày thượng nguyên năm Canh tý
              Người học Phật ở Lô Giang Trần Quang Chỉ
              Tích phủ lạy hai lạy kính cẩn ghi.
              ..

              Giá trị nghệ thuật bức tranh Trúc lâm đại sĩ xuất sơn đồ

              Bức tranh cuộn theo lối hiện thực, cụ thể Vẽ Phật hoàng Trần Nhân Tông tu ở động Vũ Lâm dời núi. Bố cục tranh gồm 2 trường đoạn:

              Trường đoạn 1: Trúc Lâm đại sĩ xuất núi. Ngài ngồi trên kiệu võng đốt trúc đã xuống tóc, tuổi trạc 50, trán cao, mày dài, ánh mắt sáng ngời thông tuệ, nhân từ, ngồi tọa thiền, mặc áo cổ tràng vạt, tay phải lần tràng hạt, xung quanh có đoàn tùy tùng, kẻ vác lọng tết bằng lá cọ, người gánh theo bộ đồ uống trà, kẻ cầm gậy long trúc, các nhà sư người Hồ mặc áo trật vai, thiền phái Nam tông, có hạc dẫn đường. Theo phía sau là đạo sĩ Lâm Thời Vũ cưỡi “đâu tử”, người tâm giao với Đại sĩ phía sau. Các lão sư người Hồ dung mạo khác thường, đầu hói, râu quai nón, dáng điệu thanh nhã, khoan thai, người cầm tích trượng, người bưng sách kim sách, đặc biệt có vị đại sư kém mắt được dẫn qua cầu đá, gió lộng thổi bay áo thiền, làm lộ rõ đôi vòng bạc ở cổ chân nơi Ấn Độ xa xôi, tất cả đều đi chân không. Theo đoàn có voi trắng chở kinh, trang hoàng lộng lẫy cầu kỳ với đôi ngà cong dài, các dải ruy băng trang trí gắn các hạt châu, hoa cúc, đỉnh đầu voi trắng có gắn hình hoa sen cách điệu và chạm mặt trời. Trên lưng voi phủ thảm xứ Ba Tư, trên đặt bành voi hai tầng, chạm khắc hình trang trí rộng, các giao điểm ruy băng gắn hoa cúc to treo 37 chao lông, lục lạc, chuông đồng rất mĩ lệ. Cách trang trí thời Trần mang đặc điểm mỹ thuật Đại Việt phong cách Đông Nam Á, rất giống với trang trí voi ở Thái Lan, Campuchia, Myanma ngày nay. Nền tranh mây núi chập chùng, xa xa sông Ngô đồng lấp lánh, sóng vỗ, bờ sông dập dờn hoa lau, cây ngô đồng, thông già trơ gốc…

              Trường đoạn II: Vẽ quan tứ trụ triều đình đứng tiền trạm, hoàng đế Trần Anh Tông nghênh đón vua cha cùng bách quan, quân lính mang kiệu, lọng, voi ngựa, rước phật hoàng về kinh đô trước khi ngài ra Yên Tử. Tranh vẽ đoàn người dài có nhịp điệu, vẽ rất chi tiết về nghi chế nghênh đón của thời Trần: kiệu lọng ba tầng tay ngai chạm trổ hình rồng mây thời Trần, các nét chạm khắc tầng lớp, ô hộc tỉ mỉ, ngai tựa hình lá đề. Các loại đòn khiêng, kiệu mái, kiệu võng đều chạm rồng mây. Đặc biệt ngai kiệu hoàng đế trang trí dầy đặc ba tầng, tua lọng ngai to lớn, thắt quả bồng có hình lá đề kép cùng đôi tay ngai chạm rồng mây. Xung quanh là các võ sĩ khiêng kiệu đội mũ lục lăng, quân cẩm y vệ cầm thiết chùy, côn, thiết giản đứng hầu cùng con bạch mã thắng yên cương, trên phủ một tấm gấm lớn. Một nội thị đòn gánh chạm rồng mang theo lò đun nước pha trà theo đoàn tùy tùng. Trong bức tranh lịch sử này họa sĩ đã thể hiện rất rõ về hình ảnh trang phục thời Trần (Đại Việt sử ký toàn thư). Hoàng đế Anh Tông nét mặt nghiêm cẩn, dáng vóc đường bệ, buộc khăn trên búi tóc bỏ núi phía sau, áo hoàng bào kép 5 thân tay thụng, cổ tròn hai lớp, quần dài chân đi giày cao cổ. Bách quan mặc áo gấm tía tay thụng, mũ chữ đinh kiểu lục lăng, có tai mũ quấn cong ra sau, đi giầy da. Các quân cẩm y vệ (thân quân) vác bảo kiếm hộ vệ, một đại quan vác thượng phương bảo kiếm đứng hầu. Bố cục toàn bức tranh diễn tả phong cảnh thiên nhiên Ninh Bình hùng vĩ, với các dãy núi cao xa mờ, mây vờn núi, đoàn người ven theo đường nhỏ, vách núi dọc theo sông Ngô Đồng có nhiều loại cây cỏ, hoa lá tươi tốt xum xuê. Bên đường những cây Ngô đồng, thông già, cây sưa cổ thụ, gốc rễ xù xì, với những thân cây nghiêng ngả, trơ cành cùng những khóm trúc ngả nghiêng theo gió cuốn theo rực rỡ, hoa cỏ xứ nhiệt đới phương Nam. Họa sĩ là người rất am hiểu, quen thuộc thiên nhiên Vũ Lâm, nên đã miêu tả những nhân vật trong tranh cùng với phong cảnh Vũ Lâm, dưới nét bút thần diệu phong cách đồ họa Việt, có đường nét viền là chủ yếu khi vẽ trúc, vẽ đá khác với lối thủy mặc của Trung Quốc là đậm nhạt hòa cùng, tạo nét chấm phá (không có đường viền ngoài) tạo mảng trong không gian. Cách vẽ đường viền từ diễn tả cây, hoa lá, dáng điệu người cùng voi, ngựa, kiệu võng cho thấy rõ ràng, đường nét hình mạnh, liên tục chuẩn mực làm rõ chi tiết trang trí Việt cổ. 

              Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là day-va-hoc-can-trong.jpg

              DẠY VÀ HỌC ĐỂ LÀM
              Hoàng Kim

              Cây Lương thực Việt Nam
              Việt Nam con đường xanh
              Thầy bạn là lộc xuân
              Vui đi dưới mặt trời.

              Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong tác phẩm Nửa đêm, bản dịch của Nam Trân, sách Nhật ký trong tù (viết vào khoảng 29-8-1942 đến ngày 10-9-1943) đã viết: “Ngủ thì ai cũng như lương thiện, Tỉnh dậy phân ra kẻ dữ hiền; Hiền, dữ phải đâu là tính sẵn, Phần nhiều do giáo dục mà nên”. Bác Hồ đã suy nghĩ về vai trò, sứ mệnh của giáo dục. Đó là một sự nghiệp lớn. Bản tính, nhân cách, hạnh phúc của mỗi con ngườichúng ta là sự nỗ lực cố gắng của chính bản thân mình, được sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh điều kiện nào, thông qua sự tiếp thu và thích ứng với nến giáo dục nào của gia đình, nhà trường và xã hội đó.

              Mục đích dạy và học

              Mục đích sau cùng của DẠY VÀ HỌC là thấu suốt bản chất sự vật có lời giải đúng và LÀM được việc. Norman Borlaug lời Thầy dặn thật thấm thía “Đời người tối thiểu phải ăn, kế đến là học tập, công việc, nhà ở, quần áo và chăm sóc sức khỏe. Quanh ta còn nhiều mảnh đời bất hạnh. Hiểm họa nghèo đói vẫn bùng phát bất cứ lúc nào. Hãy luôn nhớ điều đó”; “
              Hãy vươn tới những vì sao. Cho dù không chạm được vào nó, nhưng nếu cố gắng hết sức, ít ra, chúng ta cũng chạm được những hạt bụi của ngôi sao”; “Việc chính đời người chỉ ít thôi. Chuyên tâm đừng bận chuyện trời ơi. Phúc hậu suốt đời làm việc thiện. Di sản muôn năm mãi sáng ngời

              Dạy và hoc để làm

              Dạy và học thế giới văn minh ngày nay là học để làm (Learing to Doing; Learning by Doing). Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Không phải ai cũng huấn luyện được. Muốn huấn luyện thợ rèn, thợ nguội thì người huấn luyện phải thạo nghề rèn, nghề nguội. Người huấn luyện của đoàn thể phải làm kiểu mẫu về mọi mặt tư tưởng, đạo đức, lối làm việc, phải học thêm mãi. Cách thức huấn luyện phải làm sao cốt thiết thực, chu đáo hơn tham nhiều. Huấn luyện từ dưới lên trên, phải gắn liền lý luận với công tác thực tế, huấn luyện phải nhằm đúng yêu cầu, phải chú trọng việc cải tạo tư tưởng. Phải gắn chặt giữa học với hành, lý luận với thực tiễn, kinh nghiệm và thực tế phải đi cùng nhau. Nghiên cứu mà không thực hành là nghiên cứu suông. Thực hành mà không nghiên cứu thì thường hay bị mù quáng… Người huấn luyện nào mà tự cho mình đã biết đủ cả rồi, thì người đó dốt nhất”.

              Biết đủ và cẩn trọng

              Học làm người chí thiện, biết đủ và cẩn trọng. Cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491–1585) là nhà giáo, nhà tiên tri, nhà thơ triết lý, nhà văn hoá lớn của thời Lê -Mạc, bậc kỳ tài yêu nước thương dân, xuất xử hợp lý, hợp thời, sáng suốt. Cụ đã diễn giải rất rõ ràng, thấu nghĩa lý của sự buông bỏ và sự làm việc thiện đúng nghĩa đã được trích dẫn tại “Ngày xuân đọc Trạng Trình”
              https://hoangkimlong.wordpress.com/category/ngay-xuan-doc-trang-trinh/,:

              “Vẹn toàn điều Thiện là Trung, không vẹn toàn điều Thiện thì không phải là Trung. Tân là cái bến, biết chỗ dừng lại là bến chính, không biết chỗ dừng lại là bến mê. Nghĩa chữ Trung Chính là ở chỗ Chí Thiện. (Trung Tân quán bi ký, 1543). Làm việc thiện không phải vì công tích mà ở tấm lòng. Nay vừa sau cơn loạn lạc thì chẳng những thân người ta bị chìm đắm, mà tâm người ta càng thêm chìm đắm. Các bậc sĩ đệ nên khuyến khích nhau bằng điều thiện, để làm cho mọi người dấy nên lòng thiện mà tạo nên miền đất tốt lành. (Diên Thọ kiều bi ký, 1568).

              Nhiều người chưa biết buông bỏ và hiểu lầm làm việc thiện. Biết đủ chính là buông, là “xả” trong “từ bi hỉ xả” minh triết của đạo Bụt. Không tranh giành chính là từ bi. Không tranh cãi chính là trí tuệ. Không nghe chính là thanh tịnh. Không nhìn chính là tự tại. Tha thứ chính là giải thoát. Dạy và học cẩn trọng “Nồi cơm của Khổng Tử” “Tổn thương sâu mới buông” “Rất đau nhưng không buông” là ba chuyện mẫu mực về sự cẩn trọng trong suy xét lời nói, việc làm để hiểu đúng bản chất sự việc, uốn nắn sai lầm và không làm tổn thương người khác.

              Dạy và học ngày nay

              Đánh giá giáo dục Việt Nam Nghị quyết số 29-NQ/TW Hội nghị lần thứ tám, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế đã nhận định: Ngành giáo dục đào tạo Việt Nam ngày nay đã có những bước phát triển, song vẫn còn tồn tại một số hạn chế. “1) chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo còn thấp so với yêu cầu, nhất là giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp. Hệ thống giáo dục và đào tạo thiếu liên thông giữa các trình độ và giữa các phương thức giáo dục, đào tạo; còn nặng lý thuyết, nhẹ thực hành. Đào tạo thiếu gắn kết với nghiên cứu khoa học, sản xuất, kinh doanh và nhu cầu của thị trường lao động; chưa chú trọng đúng mức việc giáo dục đạo đức, lối sống và kỹ năng làm việc. Phương pháp giáo dục, việc thi, kiểm tra và đánh giá kết quả còn lạc hậu, thiếu thực chất. 2) Quản lý giáo dục và đào tạo còn nhiều yếu kém. Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục bất cập về chất lượng, số lượng và cơ cấu; một bộ phận chưa theo kịp yêu cầu đổi mới và phát triển giáo dục, thiếu tâm huyết, thậm chí vi phạm đạo đức nghề nghiệp; 3) Đầu tư cho giáo dục và đào tạo chưa hiệu quả. Chính sách, cơ chế tài chính cho giáo dục và đào tạo chưa phù hợp. Cơ sở vật chất, kỹ thuật còn thiếu và lạc hậu, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn”.

              Chiến lược giáo dục Việt Nam trích chủ đề Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2021-2030 “Khơi dậy khát vọng dân tộc thịnh vượng và hùng cường, phát huy mạnh mẽ giá trị va7n hóa, con người Việt Nam và sức Xem tiếp >>

                Dạy và học 31 tháng 7(31-07-2021)

              DẠY VÀ HỌC 31 THÁNG 7
              Hoàng Kim
              CNM365 Tình yêu cuộc sốngSớm thu; Chim Phượng về làm tổ; Nơi vườn thiêng cổ tích; Miên Thẩm thầy thơ Việt; Nhớ lời vàng Albert Einstein; Vĩ Dạ thương Miên Thẩm; Minh triết Hồ Chí Minh; Chuyện Henry Ford lên Trời; Ngọn núi Phú Sĩ (Fuji mountain ) và hoa Anh Đào (Sakura) là hai biểu tượng nổi tiếng của Nhật Bản. Núi Phú Sĩ là Di sản Văn hóa Thế giới được công nhận vào ngày 22 tháng 6 năm 2013 Ngày 31 tháng 7 năm 781, núi Phú Sĩ tại Nhật Bản phun trào tại ghi chép cổ nhất về sự kiện này . Ngày 31 tháng 7 năm 1498, nhà thám hiểm Cristoforo Colombo đặt chân lên hòn đảo Trinidad, nằm ở phía nam Biển Caribe, ngoài khơi bờ biển Venezuela. Ngày 31 tháng 7 năm 2006, vì lý do sức khỏe, Fidel Castro giao lại các trách nhiệm lãnh đạo Cuba cho em trai là Raúl Castro; Bài chọn lọc ngày 31 tháng 7: Sớm thu; Chim Phượng về làm tổ; Nơi vườn thiêng cổ tích; Nhớ lời vàng Albert Einstein; Miên Thẩm thầy thơ Việt; Vĩ Dạ thương Miên Thẩm; Minh triết Hồ Chí Minh; Chuyện Henry Ford lên Trời; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-31-thang-7;

              SỚM THU
              Hoàng Kim

              Tỉnh thức trời hè đã chớm thu
              Sương đêm giữ ngọc ướt cành tơ
              Em ơi gieo đậu vừa rồi đấy
              Lộc biếc me xanh chín đợi chờ.

              xem tiếp
              https://hoangkimlong.wordpress.com/category/som-thu/

              CHIM PHƯỢNG VỀ LÀM TỔ
              Hoàng Kim

              Thích quá đi.
              Nhà tôi có chim về làm tổ
              Cây bồ đề cuối vườn
              Cò đêm về trắng xóa

              Gốc me cho con
              Xanh non màu lá
              Ong đi rồi về
              Sóc từng đàn nhởn nhơ.

              Cây sơ ri ba mẹ trồng
              Lúc con tuổi còn thơ
              Nay như hai mâm xôi
              Tròn đầy trước ngõ.

              Cây mai Bác trồng
              Bốn mùa hoa thương nhớ
              Trúc xanh từ non thiêng Yên Tử
              Trúc vàng ân nghĩa Đào Công

              Em ơi!
              Hôm nay trên cây lộc vừng
              Chim Phượng về làm tồ
              Mẹ dạy con tập bay
              Sao mà đẹp thế !

              Đá vàng trao hậu thế
              Người hiền noi tiếng thơm

              Ngày xuân phân, 20 tháng 3 năm 2014 là ngày quốc tế hạnh phúc, với gia đình tôi đó cũng là ngày xuân phân may mắn. Trướcđó,
              Nhà tôi có chim về làm tổ, tôi nhặt được 18 lông chim trong đó có 9 lông chim trĩ dưới gốc Cây bồ đề nhà tôi ra lá non. Sau khi thămlúa siêu xanh ở Phú Yên về, tôi rất mừng vì chúng tôi thành công với lúa siêu xanh, thích ứng với biến đổi khí hậu đạt năng suất cao chất lượng tốt trên đồng ruộng. Tôi trở về nhà đúng ngày quốc tế hạnh phúc Thật đúng là sự may mắn an nhiên và niềm vui tình yêu cuộc sống.

              Chim Phượng Hoàng đất vườn nhà tôi là một chuyện may mắn. Vườn nhà tôi có cặp chim Trĩ (Phương Hoàng đất) về làm tổ sinh ra bầy chim trĩ con tuyệt đẹp. Những cây cao trong vườn có cò, chào mào, sáo sậu, yến, …và sóc về nhiều. Chim hót đủ giọng và sóc chuyền cành thật vui. Tổ chim Trĩ trên cây lộc vừng trước cửa nhà tôi bị gió lớn hất xuống sân. Con chim Trĩ non mới nở được nhà tôi cho vào một chiếc rỗ con treo lên cây để chim bố mẹ hàng ngày có thể cho ăn. Tối đó đi Phú Yên về, tôi rọi đèn ra thăm, trăng 16 đã hơi muộn. Chim non cánh vẫn còn ngắn… Sáng ra, nghe tiếng líu ríu của bố mẹ, hai con chim Phượng sà xuống lần lượt cho con ăn và gù rất lạ như là khuyến khích con bay lên. Chim Trĩ non thốt nhiên bật dậy nhảy lên thành rỗ. Sau khi lấy đà, nó bay vù qua nơi chảng ba của cây lộc vừng với sự háo hức lạ. Sau đó bổ nhào xuống cây sơn và đậu vững vàng như một con chim thành thục. Cặp Phượng Hoàng đất chuyền cành trên cây me cho con, có bộ lông đẹp, xanh mướt như ngọc và đều hót vang. Con chim non rướn mình bay lên khóm mai và cũng líu ríu. Nó đã tự tin và học đang bay. Nó đậu chắc trên cây mai và chịu mưa gió mạnh suốt đêm. Tôi lo lắng hai ba lần ra soi đèn vẫn thấy chim đậu chắc trên cây chịu mưa gió. Tôi bỗng nhớ lời Quốc Công Tiết Chế Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn: “Chim Hồng hộc bay được cao và xa là nhờ sáu cái trụ lông cánh, nếu không khác gì chim thường”.

              chim-phuong-hoang-dat-9781-1381131449.jp
              Phượng Hoàng đất là Chim trĩ ( Buceros bicornis) là loài chim quý hiếm, với các loại trĩ đỏ, trĩ  xanh và trĩ đen. Trong dân gian nó được ẩn dụ với loài chim
              phượng hoàng cao quý rất hiếm thấy,  một trong tứ linh (long , ly, quy phượng), mà nếu ai gặp được thì rất may mắn. Theo Truyền thuyết về chim phượng hoàng thì  Phượng hoàng là biểu thị cho sự hòa hợp âm dương, biểu tượng của đức hạnh và vẻ đẹp duyên dáng, thanh nhã . Phượng Hoàng xuất hiện ở nơi nào thì nơi đó được mừng là đất lành, thịnh vượng, và điềm lành. Rồng và Phượng là biểu tượng cho hạnh phúc vợ  chồng, hòa hợp âm dương và thường được trang trí, chúc phúc trong các đám cưới ở Việt Nam, Trung Quốc, và nhiều nước châu Á. Theo Kim Anh nguồn VN Express thì Phượng hoàng đất ở Tràng An  là loài Buceros bicornis, loài to nhất trong họ hồng hoàng, được phát hiện thấy tại một số khu rừng ở Tràng An Ninh Bình. Ở phương Nam, trong điều kiện đồng bằng tôi bất ngờ gặp loài chim trĩ  lông xanh đen (ảnh minh họa) là loài nhỏ hơn nhưng vẫn rất đẹp và quý mà tôi chưa có điều kiện để tra cứu kỹ ở Sinh vật rừng Việt Nam.

              Ngày Quốc tế Hạnh phúc 20 tháng 3 là ngày được Liên Hợp quốc chọn tôn vinh niềm hạnh phúc của nhân loại. Mục tiêu của sự tôn vinh này không chỉ mang ý nghĩa biểu tượng mà còn là ngày của hành động, nỗ lực nhiều hơn để đem lại hạnh phúc tốt hơn cho người người trên trái đất. Ngày Quốc tế Hạnh phúc được lấy từ ý tưởng của Vương quốc Bhutan là được đánh giá là nước có chỉ số hạnh phúc cao dựa trên các yếu tố như sức khỏe, tinh thần, giáo dục, môi trường, chất lượng quản lý và mức sống của người dân. Từ những năm đầu tiên của thập kỷ 70 thế kỷ XX, Bhutan là quốc gia đã ghi nhận vai trò của hạnh phúc quốc gia hơn là thu nhập quốc gia bằng việc thực thi mục tiêu tổng hạnh phúc quốc gia thay vì tổng sản phẩm quốc nội. Họ cho rằng nhu cầu về Ngày Hạnh phúc này là đối với tất cả quốc gia và con người trên toàn thế giới để có những bước vượt lên trên sự khác biệt giữa các nước và con người trên toàn thế giới, và liên kết, đoàn kết toàn nhân loại.

              Ngày Quốc tế Hạnh phúc còn khởi nguồn từ nhu cầu về một cách tiếp cận tăng trưởng kinh tế cân bằng, hợp tình hợp lý hơn, nhằm thúc đẩy sự phát triển bền vững, xóa nghèo và phấn đấu vì hạnh phúc và sự thịnh vượng cho tất cả mọi người và xuất phát từ nguyện vọng mỗi người hãy chọn cho mình một quan niệm đúng về hạnh phúc, quan tâm đến vấn đề cốt lõi nhất trong sự tồn tại là làm sao tìm được thật nhiều niềm vui trong cuộc sống, làm lan tỏa những điều tốt đẹp nhất trên khắp hành tinh xanh. Ngày này được Tổng thư ký Liên hợp quốc Ban Ki-moon chính thức công bố tại một hội nghị của Liên hợp quốc từ vào ngày 28 tháng 6 năm 2012. Việc Liên hợp quốc chọn ngày 20 tháng 3 là Ngày Quốc tế Hạnh phúc xuất phát từ nguyên nhân đây là ngày đặc biệt trong năm, khi mặt trời nằm ngang đường xích đạo, nên trong ngày này có độ dài ngày và đêm bằng nhau và người ta cho đó là biểu tượng cho sự cân bằng, hài hòa của vũ trụ. Cũng là biểu tượng của sự cân bằng giữa âm và dương, giữa ánh sáng và bóng tối, giữa ước mơ và hiện thực từ đó ngày này được cho là sẽ truyền tải thông điệp rằng cân bằng, hài hòa là một trong những chìa khóa để mang đến hạnh phúc.Ban Ki-moon cũng tranh thủ nhân đó kêu gọi công dân tất cả các nước cam kết giúp đỡ những người xung quanh, thúc đẩy sự phát triển bền vững và toàn diện của nhân loại bằng tình yêu thương làm lan tỏa hạnh phúc và giúp chúng ta xây dựng một tương lai tốt đẹp hơn để khi tham gia làm việc thiện, bản thân chúng ta cũng nhận lại những điều tốt lành.

              NƠI VƯỜN THIÊNG CỔ TÍCH
              Hoàng Kim

              Anh đưa em vào
              Vườn thiêng cổ tích
              Nơi trời đất giao hòa
              Ong làm mật yêu hoa
              Lá non đùa nắng mới

              Nhạc đồng xuân thung dung
              Đắm say hòa quyện
              Ban mai mù sương sớm
              Trời xanh trong như ngọc
              Cá nước chim trời
              Vui thú an nhiên…

              Khoảng lặng đất trời
              Bí mật vườn thiêng.

              VĨ DẠ THƯƠNG MIÊN THẨM
              Hoàng Kim

              Vĩ Dạ thương Miên Thẩm
              Trời thu nhớ cố nhân
              Hơi may sương phảng phất
              Nắng sớm ngọc tri âm.

              NHỚ LỜI VÀNG ALBERT EINSTEIN
              Hoàng Kim

              Tình yêu là người thầy tốt hơn trách nhiệm (Love is a better teacher than duty). Nếu anh không thể giải thích đơn giản thì anh chưa hiểu đủ rõ (If you can’t explain it simply, you don’t understand it well enough). Học từ ngày hôm qua, sống ngày hôm nay, hi vọng cho ngày mai. Điều quan trọng nhất là không ngừng đặt câu hỏi (Learn from yesterday, live for today, hope for tomorrow. The important thing is not to stop questioning). Khoa học mà thiếu tôn giáo thì khập khiễng. Tôn giáo mà không có khoa học thì mù quáng (Science without religion is lame, religion without science is blind). Đừng tham công nhưng hãy cố gắng làm người có ích (Strive not to be a success, but rather to be of value).Nhớ lời vàng Albert Einstein. Học và thực hành tốt năm lời vàng này là đủ dùng cho cả một đời ( Hoàng Kim) Thông tin tại https://hoangkimlong.wordpress.com/category/albert-einstein-loi-vang/ và https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-31-thang-7;

              mientham

              MIÊN THẨM THẦY THƠ VIỆT
              Hoàng Kim

              “Ngô Cối công danh đạt hết tầm Lúc nhàn nhìn kính tóc hoa râm Tranh đua năm tháng ai hơn trước Sánh với chàng Phan giỏi bội phần” Nguồn: Tùng Thiện Vương (đời và thơ), Nguyễn Phước Bảo Quyến, NXB Thuận Hoá, 2008. (Nguyên tác: Tam thập kiến bạch phát kỳ 2 Ba mươi tuổi thấy tóc bạc kỳ 2 ,Ngô Cối công danh toại diểu nhiên, Ngô Cối công danh toại nguyện như thế 。 Đẳng nhàn kính lí tảo hoa điên. Lúc nhàn nhìn vào gương sớm thấy đầu tóc điểm bạc , Cộng tranh tuế nguyệt thuỳ tiên trước, Tranh đua cùng năm tháng ai nổi tiếng trước 。Tỷ tự Phan lang thắng lưỡng niên. Sánh tựa chàng Phan giỏi hơn hai lứa tuổi Nguồn: Phân tích những khuynh hướng tình cảm đạo lí xã hội trong thi ca Tùng Thiện Vương, Ngô Văn Chương, Phủ Quốc vụ khanh đặc trách văn hoá, 1973).

              Vua Tự Đức từng viết: “Văn như Siêu Quát vô tiền Hán; Thi đáo Tùng, Tuy thất thịnh Đường”. Tùng Thiện Vương Miên Thẩm là danh sĩ Việt Nam, nhà thơ lớn thời nhà Nguyễn. Ông sinh ngày 11 tháng 12 năm 1819 nhằm ngày 24 tháng 10 năm Kỹ Mão, mất năm 1870. Miên Thẩm cùng với hai em là Tuy Lý Vương, Tương An Quận Vương, được người đời xưng tụng là “Tam Đường”. Miên Thẩm tên tự Thận Minh, Trọng Uyên, hiệu Thương Sơn, biệt hiệu Bạch Hào Tử, là con trai thứ 10 của vua Minh Mạng, và là em vua Thiệu Trị. Thuở lọt lòng, ông được ông nội đặt tên là Ngợn. Đến năm 1832, khi đã có Đế hệ thi, ông được cải tên là Miên Thẩm (Nguyễn Phúc Miên Thẩm).

              MIÊN THẨM SÁNH ĐỖ PHỦ

              Miên Thẩm rất nổi tiếng về thơ nhưng nổi bật hơn cả là nhân cách của một danh sĩ tinh hoa, con người thận trọng, minh triết lỗi lạc, uyên bác và tài hoa như chính tên của ông Thận Minh và Trọng Uyên. Ông sống thận trọng và minh triết, trong một hoàn cảnh hết sức đặc biệt của chính bản thân ông. Các ông hoàng nhà Nguyễn không được đi thi, ít được tham gia chính sự, khi đất nước đang hết sức rối ren: nội bộ triều đình lủng củng, rạn nứt, loạn lạc khắp nơi, thiên tai, mất mùa nhiều năm cùng nạn ngoại bang xâm lấn. Hai trăm năm sau rất khó xác định được tài năng thật sự của ông trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, quân sự… Chỉ biết rằng sinh thời, Miên Thẩm là một ông hoàng có nhiều uy tín bởi đạo đức cao, tri thức rộng. Ông đến với mọi người đều bằng tấm lòng chân thực, khiêm tốn, phóng khoáng,  không hề phân biệt địa vị, tuổi tác hay sang hèn. Nhờ vậy Tùng Vân xã (còn được gọi là Mặc Vân thi xã) mà ông là “Tao đàn nguyên súy” tập họp được nhiều danh sĩ, trong đó có Nguyễn Văn Siêu, Cao Bá Quát… Về văn nghiệp, ông là một nhà thơ chữ Hán bậc thầy, được các danh sĩ đương thời, kể cả vua Tự Đức, nhờ duyệt thơ và được một số nhà thơ Trung Quốc đánh giá cao, trong đó có Tiến sĩ Lao Sùng Quang. Cao Bá Quát (1809 – 1855) quốc sư của cuộc nổi dậy Mỹ Lương[1], và là một nhà thơ nổi danh ở giữa thế kỷ 19 trong lịch sử văn học Việt Nam, tại bài đề tựa Thương Sơn thi tập của Miên Thẩm, đã viết:…”Tôi theo Quốc công (Tùng Thiện Vương) chơi đã lâu. Thơ của Quốc công đâu phải đợi đến ngày nay mới nói đến? Và cũng đâu phải đợi đến Quát này mới có thể nói được? Sáng ngày mai, đứng ở ngoài cầu Đốc Sơ trông về phía Nam… đó chẳng phải là núi Thương Sơn ư? Mua rượu uống rồi, cởi áo ở nơi bắc trường đình, bồi hồi ngâm vịnh các bài thơ “Hà Thượng” của Quốc công, lòng khách càng cảm thấy xa xăm man mác…”

              Ví Miên Thẩm sánh Đỗ Phủ liệu có nói quá hay không? Đỗ Phủ thương đọc lại được coi là Thi thánh Thi sử Trung Quốc do đức độ cao thượng, tài thơ văn tuyệt vời. Đỗ Phủ cùng Lý Bạch là hai nhà thơ vĩ đại nhất thời nhà Đường. Thơ Đỗ Phủ nổi tiếng vì phong cách đơn giản và thanh lịch đặc sắc bậc nhất trong thơ cổ điển Trung Quốc. Tầm vóc Đỗ Phủ sánh với Victor Hugo và Shakespeare. Thơ Đỗ Phủ ảnh hưởng sâu sắc văn hóa cổ điển Trung Quốc và văn học hiện đại Nhật Bản. Cụ Nguyễn Du đã từng thán phục Đỗ Phủ “Thiên cổ văn chương thiên cổ sư Bình sinh bội phục vị thường ly” (Văn chương lưu muôn đời, bậc thầy muôn đời Bình sinh bái phục không lúc nào ngớt. Cụ Hồ Chí Minh trong Di chúc đã có trích thơ Đỗ Phủ. Cuộc đời Đỗ Phủ là tấm gương phản chiếu đất nước Trung Hoa thời loạn khi đời sống nhân dân tột cùng điêu đứng vì thường xuyên biến động. Đỗ Phủ bộ sưu tập thơ được bảo tồn khoảng 1500 bài thơ đều là tuyệt phẩm. Thi Viện hiện có Đỗ Phủ trực tuyến 1450 bài.  Miên Thẩm ông hoàng thơ ca có phong cách thanh lịch đặc sắc Huế Việt Nam, mỗi bậc thầy một vẻ, so sánh thường khập khểnh, nhưng thơ đều thanh cao, cuộc đời và tác phẩm đều ẩn chứa tương đồng. Sớm thu đọc lại Miên Thẩm và Đỗ Phủ so sánh tương và khác biệt thật cảm khái https://hoangkimlong.wordpress.com/category/do-phu-thuong-doc-lai/

              Tùng Thiện Vương Miên Thẩm cuộc đời và thơ văn thật đáng khâm phục và kinh ngạc. Miên Thẩm lưu lại cho đời 14 bộ sách, riêng bộ ‘Thương Sơn thi tập’ có 2.200 bài thơ, tiếc là thơ ông chưa được đầu tư dịch thuật Hán Nôm bảo tồn và phát triển thỏa đáng. Thi Viện chỉ mới lưu một sồ bài. Soi gương kim cổ thì danh sĩ Trung Hoa Chung Ứng Nguyên đã ví ông với đại văn hào Hàn Dũ và đại văn hào Tô Đông Pha là bát đại gia Đường Tống: “Như Thương Sơn sinh vào Trung Quốc/ Thi tài ngang với ông Hàn Dũ, ông Tô Đông Pha/ Than ôi ! đời nay ai sánh vai? /Than ôi đời nay không ai có thể sánh vai được!“. Chúng ta khi bình tâm xem xét kỹ lại cuộc đời thơ văn và tầm minh triết thì Miên Thẩm là Đỗ Phủ thơ Việt.  Ba ý chính để đánh giá: Thứ nhất là chất lượng thơ. Thứ hai là khối lượng tác phẩm và những bài thơ “giản dị xúc động ám ảnh” đọng lại trong lòng người đọc; Thứ ba là tư tưởng cuộc đời nhân cách tác giả là minh triết trí tuệ gương cho người đương thời và hậu thế. Miên Thẩm cả ba ý này đều rất gần gũi với Đỗ Phủ qua những tư liệu lắng đọng ở “Miên Thẩm cuộc đời và thơ văn” nêu trên. Xin được trích dẫn giới thiệu một số bài thơ tuyển chọn dưới đây.

              Thi Viện có lưu một sồ bài thơ Tùng Thiện Vương Miên Thẩm dưới đây:

              1. Bạch Đằng giang
              2. Bần gia
              3. Bất mị tuyệt cú
              4. Bi thu
              5. Biệt lão hữu
              6. Chiên đàn thụ
              7. Cổ ý
              8. Cừ Khê thảo đường kỳ 1
              9. Cừ Khê thảo đường kỳ 2
              10. Cừ Khê thảo đường kỳ 3
              11. Dạ bạc Nguyệt Biều
              12. Dạ bộ khẩu hào
              13. Dạ độ Kiến Giang ngẫu thành
              14. Dạ văn trạo ca
              15. Dịch kỳ
              16. Đạo phùng cố nhân
              17. Đăng Thuý Vân sơn hữu cảm
              18. Điền lư
              19. Điền lư tiểu khế đề bích
              20. Điếu Trương Độn Tẩu
              21. Độc Nguyễn Đình Chiểu nghĩa dân tử trận quốc ngữ văn
              22. Đông viên hoa
              23. Gia Hội độ
              24. Giang thôn kỳ 1
              25. Giang thôn kỳ 2
              26. Hạ thọ
              27. Hải thượng
              28. Hán cung từ
              29. Hoan Châu dạ vũ
              30. Hương Cần
              31. Khách đình
              32. Kim hộ thán
              33. Kim Luông dạ bạc
              34. Kim tỉnh oán
              35. Kỷ mộng
              36. Lão bệnh
              37. Lão khứ
              38. Liễu
              39. Long thành trúc chi từ kỳ 1
              40. Long thành trúc chi từ kỳ 2
              41. Long Thọ cương
              42. Lục thuỷ
              43. Lựu
              44. Mỵ Châu từ
              45. Nam Định hải dật
              46. Nam khê
              47. Ngô Vương oán
              48. Nhàn cư
              49. Nhất Trụ tự
              50. Nhĩ hà
              51. Phế viên
              52. Phiếm nguyệt
              53. Phù lưu tiền hành
              54. Phụng sắc kính đề Nguyễn hậu
              55. Quá Quảng Bình quan khẩu chiếm
              56. Quân mã hoàng
              57. Quất chi từ
              58. Sơn cư tảo khởi
              59. Sơn trung
              60. Tàn tốt
              61. Tạp cảm
              62. Tạp ngôn
              63. Tặng Cao Bá Quát
              64. Tần cung từ
              65. Xem tiếp >>

                  Dạy và học 30 tháng 7(30-07-2021)


                DẠY VÀ HỌC 30 THÁNG 7
                Hoàng Kim
                CNM365 Tình yêu cuộc sốngMinh triết Hồ Chí Minh; Ông và cháu; Hoa Bình Minh Hoa Lúa; Chuyện Henry Ford lên Trời; Bài đồng dao huyền thoại; Đọc lời nguyền trăm năm; Sơn Nam ông già Nam Bộ; Hải Như thơ về Người, Châu Mỹ chuyện không quên; Thác Iguazu Argentina Brazil (hình) là một trong bảy kỳ quan thiên nhiên thế giới mới (cùng với Vịnh Hạ Long Việt Nam, Rừng mưa Amazon và Sông Amazon Nam Mỹ, Đảo Jeju Hàn Quốc, Đảo Komodo Vườn quốc gia Komodo Indonesia, Vườn quốc gia sông ngầm Puerto Princesa Philippines, Núi Bàn Nam Phi). Ngày 30 tháng 7 năm 1930, Uruguay giành ngôi vô địch Giải vô địch bóng đá thế giới đầu tiên tại thủ đô Montevideo,. Ngày 30 tháng 7 năm 1863 ngày sinh của Henry Ford, người sáng lập Công ty Ford Motor, Quỹ Ford, là doanh nhân người Mỹ, một trong ba người giàu nhất thế giới. Ngày 30 tháng 7 năm 1997, ngày mất Bảo Đại, vị hoàng đế cuối cùng của Việt Nam. Ngày 30 tháng 7 năm 1930, ngày sinh Giáo sư Cao Xuân Hạo nhà ngôn ngữ học người Việt, dịch giả, giáo sư văn chương uyên bác. Bài chọn lọc ngày 30 tháng 7: Minh triết Hồ Chí Minh; Ông và cháu; Hoa Bình Minh Hoa Lúa; Chuyện Henry Ford lên Trời; Bài đồng dao huyền thoại; Đọc lời nguyền trăm năm; Sơn Nam ông già Nam Bộ; Hải Như thơ về Người, Châu Mỹ chuyện không quên; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-30-thang-7;

                MINH TRIẾT HỒ CHÍ MINH
                Hoàng Kim

                Tôi viết minh triết Hồ Chí Minh theo chính kiến và nhận thức của riêng mình. 19 tháng 5 là ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, cũng là ngày thành lập Việt Minh, ngày khai sinh đường Hồ Chí Minh trong lịch sử. Chuỗi ba sự kiện lớn này đóng mốc son ngày 19 tháng 5 vào lịch sử Việt Nam và Thế giới đối với nền độc lập của nước Việt Nam ngày nay và sự nghiệp thống nhất Tổ quốc Việt Nam. Bác Hồ trọn đời minh triết. Bài viết này chỉ đề cập ba ý: Việt Nam Hồ Chí Minh là biểu tượng Việt; Bác Hồ nói đi đôi với làm, có lý có tình, mẫu mực đạo đức; Bác Hồ thực tiễn, quyền biến, năng động, rất ít trích dẫn. Tôi bổ sung hai sử liệu chọn lọc: Thư gửi Nguyễn Ái Quốc của Phan Châu Trình (bàn về phương pháp “ngọa ngoại chiêu hiền, đãi thời đột nội” (ngồi ở nước ngoài kêu gọi người tài giỏi, đợi thời để xông vào trong nước) với thông tin nhiều năm chiêm nghiệm Bước ngoặt lịch sử chiến tranh Đông Dương, sự thấu hiểu vì sao không có thỏa hiệp hợp tác khác hơn so với sự thật lịch sử đã xảy ra giữa Hồ Chí Minh với Bảo Đại, Trần Trọng Kim, Ngô Đình Diêm, Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Trường Tam khi hình thành nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa của đất nước Việt Nam mới

                1. VIỆT NAM HỒ CHÍ MINH LÀ BIỂU TƯỢNG VIỆT

                Bác Hồ là biểu tượng của thế giới người hiền, là tinh hoa văn hóa Việt gốc và văn hóa tương lai. 

                Giáo sư Trần Văn Giàu trong bài viết Nhân cách lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã luận về bảy phẩm chất nhân cách mà cũng là minh triết của Bác Hồ được con dân nước Việt và thế giới ngợi ca. Đó là : Ưu tiên đạo đức, Tận tụy quên mình, Kiên trì bất khuất, Khiêm tốn giản dị, Hài hòa kết hợp, Thương, quý người, nâng đỡ con người, thấu tình đạt lý, Yêu thiên nhiên, hòa hợp với thiên nhiên. Giáo sư Trần Văn Giàu kết luận: “Xin mượn ý của một nhà báo ở châu Đại Dương để tạm kết chủ đề luận về nhân cách Hồ Chủ tịch: Người ta không thể trở thành một Cụ Hồ Chí Minh, nhưng ở Cụ Hồ, mỗi người có thể học một số điều làm cho mình trở thành tốt hơn”. 

                Bác sĩ Vũ Đình Tụng đã kể câu chuyện Bức thư huyết lệ trong hàng vạn chuyện đời thường về Bác Hồ, xin được trích nguyên văn. 

                ” 8 giờ đêm – một đêm tháng Chạp năm 1946 – bác sĩ Vũ Đình Tụng phải mổ một trường hợp chiến thương quá đặc biệt và rất đau lòng: một chiến sĩ “sao vuông” rất trẻ, tuy vết thương nặng, đạn xé tung cả một khúc ruột mà miệng vẫn mỉm cười, cái nụ cười quá quen thuộc và thân thương đối với bác sĩ. Anh tự vệ Thủ đô ấy, người chiến sĩ gan góc ấy lại chính là Vũ Văn Thành, con trai út của bác sĩ. 

                Suốt ngày hôm ấy, tôi đã phải mổ cưa gắp đạn và khâu vết thương cho hàng chục chiến sĩ nhưng đến trường hợp con tôi, thần kinh tôi căng lên một cách kinh khủng. Mấy người giúp việc khuyên tôi nên nghỉ tay, nhưng tôi vẫn cố kìm mình để giữ bình tĩnh gắp mảnh đạn cuối cùng trong thân thể người con. Xong việc, tôi loạng choạng rời khỏi bàn mổ. 

                Các bác sĩ và những người giúp việc đã cố gắng nhiều, nhưng vết thương do quân thù gây ra quá nặng đã cướp đi mất Thành, con trai của tôi, anh của Thành là Vũ Đình Tín, tự vệ chiến đấu cũng vừa bị mất sau ngày Tổng khởi nghĩa, tôi đau đớn đến bàng hoàng. 

                Một buổi chiều trời rét lắm, sau đêm Nôen cuối cùng ở bệnh viện Bạch Mai, bị bom đạn tàn phá, vào lúc tôi mổ xong một ca thương binh nhẹ thì bác sĩ Trần Duy Hưng, lúc bấy giờ giữ chức Thứ trưởng Bộ Nội vụ trân trọng trao cho tôi một bức thiếp của Hồ Chủ tịch. Tôi cảm động quá. Mới đầu tôi cứ ngỡ là một mệnh lệnh mới của Người. Nhưng thật không ngờ, đó lại là một bức thư riêng đầy tình cảm lớn lao của Bác chia đau thương với gia đình tôi. Khi đó, Bác gọi tôi là “Ngài”. 

                “Thưa Ngài,
                Tôi được báo cáo rằng: con giai Ngài đã oanh liệt hy sinh cho Tổ quốc. 

                Ngài biết rằng tôi không có gia đình, cũng không có con cái. Nước Việt Nam là gia đình của tôi. Tất cả thanh niên Việt Nam là con cháu của tôi. Mất một thanh niên thì hình như tôi đứt một đoạn ruột. 

                Nhưng cháu và anh em thanh niên khác dũng cảm hy sinh để giữ gìn đất nước – Thế là họ đã làm rạng rỡ dân tộc, vẻ vang giống nòi. Họ chết cho Tổ quốc sống mãi, tinh thần họ luôn luôn sống với non sông Việt Nam. 

                Họ là con thảo của Đức Chúa, họ đã thực hiện cái khẩu hiệu: Thượng đế và Tổ quốc. Những thanh niên đó là anh hùng dân tộc. Đồng bào và Tổ quốc sẽ không bao giờ quên ơn họ. 

                Ngài đã đem món quà quý báu nhất là con của mình, sẵn sàng hiến cho Tổ quốc. Từ đây, chắc Ngài sẽ thêm ra sức giúp việc kháng chiến để bảo vệ nước nhà thì linh hồn cháu ở trên trời cũng bằng lòng và sung sướng. 

                Tôi thay mặt Chính phủ cảm ơn Ngài, và gửi Ngài lời chào thân ái và quyết thắng.
                Tháng 1-1947
                Hồ Chí Minh” 

                Đọc xong bức thư, tôi thấy bàng hoàng. Bác bận trăm công nghìn việc, thế mà Bác vẫn nghĩ đến tôi, một gia đình đang có cái tang đau lòng như hàng vạn gia đình khác. 

                Tôi thấy nỗi đau thương và sự hy sinh của gia đình mình trở thành nhỏ bé trong cái tình thương mênh mông và sự hy sinh cao cả của Bác đối với cả dân tộc. Tôi nhủ mình sẽ phải làm tốt công việc để xứng đáng với sự hy sinh của các con và khỏi phụ lòng Bác. 

                Sau đó, tôi theo Bác lên Việt Bắc – căn cứ thần thánh của cách mạng Việt Nam. Từ một người thầy thuốc của xã hội cũ, một giáo dân ngoan đạo, tôi đã trở thành một người thầy thuốc tốt, một Bộ trưởng Bộ Thương binh xã hội của nước Việt Nam mới. 

                Vũ Đình Tụng kể, Lê Thân ghi, theo báo Nghệ An, tháng 9-1994 

                Tổ chức UNESCO tại kỳ họp Đại hội đồng lần thứ 24 ở Paris năm 1987 đã tôn vinh Chủ tịch Hồ Chí Minh là “Anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa“ do các đóng góp quan trọng và nhiều mặt của Người trong các lĩnh vực văn hóa, giáo dục, nghệ thuật, và Người đã dành cả cuộc đời mình cho sự giải phóng nhân dân Việt Nam, đóng góp cho cuộc đấu tranh chung vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội của các dân tộc. 

                19 tháng 5 là ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng là ngày thành lập Việt Minh và khai sinh đường Hồ Chí Minh trong lịch sử. Hành trình đến tự do hạnh phúc của dân tộc Việt đã trãi qua giành độc lập dân tộc và đấu tranh thống nhất Tổ quốc trong cuộc trường chinh thế kỷ . Minh triết của Chủ tịch Hồ Chí Minh là đã hiến dâng trọn đời mình cho sự nghiệp đấu trang giải phóng dân tộc và thống nhất Tổ quốc quy non sông vào một mối. Những việc khác Bác có Di chúc để lại cho đời sau. Công lao và những biến đổi phần sau không thể và không nên quy hết về Người. Có một số uẩn khúc đời người cần có đủ tư liệu mới đánh giá đầy đủ. 

                Bác Hồ có bài thơ “Chơi chữ” rất lạ vào những ngày đầu khởi lập nước Việt Nam mới.Đó là một kỳ thư, kinh Dịch độc đáo, một luận giải sứ mệnh và tự đánh giá của Bác:

                Chơi chữ 
                Hồ Chí Minh 
                (Bản dịch của Nam Trân): 

                Người thoát khỏi tù ra dựng nước,
                Qua cơn hoạn nạn, rõ lòng ngay;
                Người biết lo âu, ưu điểm lớn,
                Nhà lao mở cửa, ắt rồng bay! 

                Nguyên tác:
                Tù nhân xuất khứ hoặc vi quốc,
                Hoạn quá đầu thì thuỷ kiến trung;
                Nhân hữu ưu sầu ưu điểm đại,
                Lung khai trúc sản, xuất chân long. 

                折字
                Chiết tự
                Chơi chữ
                囚人出去或為國
                患過頭時始見 忠
                人有憂愁優點大
                籠開竹閂出真龍 

                Chiết tự là một hình thức phân tích chữ Hán ra từng bộ phận để thành những chữ mới, có ý nghĩa khác với ý nghĩa ban đầu. Theo lối chiết tự, bài thơ này còn có nghĩa đen như sau: chữ tù (囚) bỏ chữ nhân (人), cho chữ hoặc (或) vào, thành chữ quốc (國). Chữ hoạn (患) bớt phần trên đi thành chữ trung (忠). Thêm bộ nhân (人) đứng vào chữ ưu (憂) trong “ưu sầu” thành chữ ưu (優) trong “ưu điểm”. Chữ lung (籠) bỏ bộ trúc đầu (竹) thành chữ long (龍). 

                Anh Phan Chí Thắng có bài thơ viên đá thời gian “Ảnh ngày 19 /5 36 năm trước”

                Vườn cây che mát nhà sàn
                Mặt ao in bóng dịu dàng trời mây
                Người như còn sống nơi đây
                Mắt cười ấm áp đủ đầy yêu thương
                Huệ thơm ngan ngát tỏa hương
                Bước chân khẽ vọng con đường Bác qua
                Nước non đất Việt là nhà
                Biển xa núi thẳm đều là chốn quê:

                Bác thật sự Ưu tiên đạo đức, Tận tụy quên mình, Kiên trì bất khuất, Khiêm tốn giản dị, Hài hòa kết hợp, Thương, quý người, nâng đỡ con người, thấu tình đạt lý, Yêu thiên nhiên, hòa hợp với thiên nhiên.
                Hải Như thơ về Người và Ghi chép của Sơn Tùng, tôi thường đọc lại

                Vị tướng của lòng dân Võ Nguyên Giáp có nhiều đúc kết trí tụệ sâu sắc về Bác

                2. BÁC HỒ NÓI ĐI ĐÔI VỚI LÀM, CÓ LÝ CÓ TÌNH, MẪU MỰC ĐẠO ĐỨC 

                Hồ Chí Minh là một nhà cách mạng chuyên nghiệp, mẫu mực về đạo đức cách mạng, là tấm gương sáng về tự học suốt đời. Người nói: “Học ở đâu? Học ở trường, học trong sách vở, học lẫn nhau và học ở dân“. Người luôn nói và làm đi đôi., học không biết mỏi, dạy không biết chán. 

                Bác viết: “Học thuyết của Khổng Tử có ưu điểm là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tôn giáo của Jêsu có ưu điểm của nó là lòng nhân ái cao cả. Chủ nghĩa Mác có ưu điểm là phương pháp làm việc biện chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm là chính sách của nó thích hợp với điều kiện nước ta. Khổng Tử, Jêsu, Mác, Tôn Dật Tiên chẳng có ưu điểm chung đó sao? Họ đều mưu cầu hạnh phúc cho loài người, mưu cầu hạnh phúc cho xã hội. Nếu hôm nay họ còn sống trên đời này, tôi tin rằng họ nhất định sống chung với nhau rất hoàn mỹ như những người bạn thân thiết. Tôi cố gắng làm một người học trò nhỏ của các vị ấy..” Trích “Hồ Chí Minh về vấn đề tôn giáo và tín ngưỡng”, NXB Khoa học xã hội, H.1996, trang 152. (Ảnh: Chủ tịch Hồ Chí Minh và Thủ tướng Phạm Văn Đồng). 

                Nói và làm của Hồ Chí Minh điều gì cũng minh triết và thiết thực. Từ bài “Tâm địa thực dân” viết ở Pháp năm 1919 đến “Tuyên ngôn độc lập” năm 1945. Từ “Những nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa” năm 1945 đến “Lời kêu gọi sau khi hội nghị Giơnevơ thành công” năm 1954. Từ “Lời phát biểu trong buổi đón tiếp Ủy ban Quốc tế” năm 1954 sau cuộc chiến tranh Đông Dương tàn khốc và dai dẳng 8,9 năm đến “Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh” công bố năm 1969 lúc cuộc chiến tranh Việt Nam đang ở giai đoạn dữ dội và ác liệt nhất. Việc làm nào, lời nói nào của Bác Hồ đều là nói đi đôi với làm, là khuôn vàng thước ngọc của đạo đức cách mạng “cần, liêm, chính, chí công vô tư“. Trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất Tổ Quốc, tự do và hạnh phúc của dân. Người viết: “Ngày nay, chúng ta đã xây dựng nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nhưng nếu nước được độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì” Tư tưởng xuyên suốt của Người là “Việc gì lợi cho dân , ta phải hết sức làm. Việc gì hại cho dân ta phải hết sức tránh” “Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi” “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công” 

                Hồ Chí Minh có nhiều bài chuyên bàn về đạo đức và đạo đức cách mạng. Đó là các bài “Đạo đức công dân” (1-1955), Đạo đức cách mạng (6-1955; 12-1958), “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân” (2-1969). Người chủ trương phát triển văn hóa gắn liền với đời sống mới, kêu gọi thực hành đời sống mới trong mọi lĩnh vực, mọi tầng lớp và trong từng con người. Hồ Chí Minh chỉ ra rằng: ” Đời sống mới không phải là cái gì cũ cũng bỏ hết không phải cái gì cũng làm mới. Cái gì cũ mà xấu thì phải bỏ. Cái gì cũ mà không xấu nhưng phiền phức thì phải sửa đổi lại cho hợp lý…; Cái gì cũ mà tốt thì phải phát triển thêm …; Cái gì mới mà hay thì ta phải làm” 

                3. BÁC HỒ THỰC TIỄN , QUYỀN BIẾN , RẤT ÍT TRÍCH DẪN  

                Ông Trường Chinh nói với ông Hà Đăng khi chiêm nghiệm về phong cách văn chương của chủ tịch Hồ Chí Minh: Bác Hồ rất ít trích dẫn. Lúc đầu tôi cũng cho là ngẫu nhiên. Về sau, hỏi trực tiếp, Bác nói: Mác, Ang ghen, Lê Nin nói rất đúng. Nhưng hoàn cảnh Mác, Ang ghen, Lê Nin hoàn toàn khác hoàn cảnh của chúng ta. Vậy nên muốn nói gì, trước hết phải hiểu cho thật rõ điều mà các vị ấy muốn nói, nói cho phù hợp với hoàn cảnh của mình, cho dân mình dễ hiểu. Do đó, Bác viết bằng sự suy nghĩ của mình. Bác rất ít trích dẫn”. (Hà Đăng 2002. Trường Chinh, người anh cả trong làng báo. Trong sách: Trường Chinh, một nhân cách lớn, một nhà lãnh đạo kiệt xuất của cách mạng Việt Nam. Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia, trang 320). Ông Trường Chinh là một trong những người làm việc lâu nhất, thường xuyên nhất với Bác. Những chắt lọc và nhận xét trên đây chắc chắn là điều cần cho chúng ta suy ngẫm. 

                “Bác viết bằng sự suy nghĩ của mình. Bác rất ít trích dẫn” đó là phong cách văn chương của Hồ Chí Minh. Những người thông hiểu lịch sử, văn hóa, hiểu sâu các điển cố văn chương, chuyện hay tích cổ sẽ có thể chỉ ra vô số những điều trùng khớp của những lời hay ý đẹp từ xa xưa đã được Bác vận dụng một cách hợp lý hợp tình trong thời đại mới. Bác là người chú trọng ngôn ngữ giản dị, ngắn gọn, dễ hiểu, có tính thuyết phục cao, có nhịp điệu. Một thí dụ nhỏ như câu: “Yêu Tổ quốc, yêu đồng bào/ Học tập tốt, lao động tốt/ Đoàn kết tốt, kỹ luật tốt/ Giữ gìn vệ sinh thật tốt/ Khiêm tốn, thật thà, dũng cảm” là câu sáu chữ có nhịp điệu như câu thơ cổ.   

                Bác Hồ nói: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Suốt đời Bác làm hai việc chính là kiến tạo Việt Nam Độc lập Đồng minh (gọi tắt là Việt Minh) thành một mặt trận rộng rãi “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công thành công, đại thành công” thực hiện “kế sách một chữ đồng” giành độc lập dân tộc và mở đường thống nhất Việt Nam. 

                GSTranTheThong1

                4. HỒ CHÍ MINH TRỌN ĐỜI MINH TRIẾT

                “Thế giới còn đổi thay nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh sẽ sống mãi”. Đại tướng Võ Nguyên Giáp phát biểu tại cuộc Hội thảo Quốc tế Hồ Chí Minh Việt Nam và Hòa Bình Thế Giới, Calcutta Ấn Độ 14-16 tháng 1 năm 1991. Lưu bút của đại tướng Võ Nguyên Giáp thân tặng Trần Thế Thông, (Viện trưởng Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam) Xuân Tân Mùi năm 1991.

                Bác Hồ thật đúng là: “Bình sinh đầu ngẩng tới trời xanh. Khuất núi hồn THƠM quyện đất lành. Anh hùng HỒ dễ nên nghiệp ấy. Tâm hồn bình dị CHÍ anh MINH”.

                Một số vĩ nhân còn lầm lẫn và khuyết điểm vào một thời điểm nào đó trong đời, riêng Bác Hồ thì sự lầm lẫn và khuyết điểm chưa tìm thấy.

                Hồ Chí Minh trọn đời minh triết.

                Vietnammoitulieulichsu

                5. HỒ CHÍ MINH VỚI VIỆT NAM MỚI

                Việt Nam mới được tính từ ngày 2 tháng 9 năm 1945, đó là Việt Nam Dân chủ Cộng hòaBác Hồ đọc tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Sự cân nhắc đúng tầm mức chi phối thời cuộc của Pháp, Trung Hoa Dân Quốc, Anh, Trung Hoa Cộng sản, Mỹ, Nga. Sự lợi dụng mau lẹ và kiên quyết trước phong trào vô sản quốc tế và cộng sản đang trỗi dậy, ngọn nến hoàng cung vương triều Nhà Nguyễn phong kiến đang suy tàn nhưng có những lực cản thật mạnh mẽ, hệ thống thuộc địa thực dân cũ đã lung lay và hệ thống thực dân mới đang chuyển đổi nhanh chóng. Sự cần thiết đánh giá đúng tầm vóc và vị thế lịch sử của Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp, Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng,  Huỳnh Thúc Kháng, Hoàng Đế Duy Tân, Bảo Đại, Trần Trọng Kim, Ngô Đình Diệm, Hoàng Xuân Hãn, Trần Văn Giàu, Phạm Quỳnh,  Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Trường Tam, Phan Văn Giáo, … Bài học lịch sử là khối vàng ròng giá trị to lớn cần thấu hiểu và cắt nghĩa cho đúng. Sự thật lịch sử sáng tỏ dần.

                5.1. Giành thời cơ vàng nghìn năm có một

                Ngày 2 tháng 9 là ngày khai sinh Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng là ngày mất của Chủ tịch Hồ Chí Minh. 70 năm nhìn lại lịch sử trước và trong những ngày cách mạng tháng tám, đánh giá tầm vóc lịch sử của ngày Việt Nam độc lập.

                Hồ Chí Minh chọn “Đường kách mệnh” phát động “Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta“, làm cách mạng theo Lê Nin, mà không chọn cải lương tôn quân theo Không Tử. Người chọn theo phe Đồng Minh mà không chọn theo phe Trục của Nhật, Đức, Ý như vua Bảo Đại và chính quyền Trần Trọng Kim. Người chọn Liên Xô, Quốc tế Cộng sản và Đảng Cộng Sản Trung Quốc làm chỗ dựa “giành và giữ chính quyền” chứ không chọn Trung Hoa Dân Quốc, Pháp, Anh để duy trì chế độ quân chủ và sự cai trị trở lại của Pháp như cũ.

                Đọc lại và suy ngẫm bài viết của Bác Hồ về “Khổng Tử” đăng trên báo “Thanh Niên”, cơ quan huấn luyện của tổ chức Việt Nam Thanh Niên Cách mạng Đồng chí Hội ở Quảng Châu ngày 20/2/1927. Hồ Chí Minh chọn đường lối cách mạng thì theo phương pháp và cách tổ chức của Lê Nin mặc dù suốt đời Người ưu tiên đạo đức thực hành đức trị theo Khổng Tử.

                Bác viết: “Khổng Tử đã viết “Kinh Xuân Thu” để chỉ trích “những thần dân nổi loạn” và “những đứa con hư hỏng”, nhưng ông không viết gì để lên án những tội ác của “những người cha tai ác” hay “những ông hoàng thiển cận”. Nói tóm lại, ông rõ ràng là người phát ngôn bênh vực những người bóc lột chống lại những người bị áp bức… Nếu Khổng Tử sống ở thời đại chúng ta và nếu ông khăng khăng giữ những quan điểm cũ thì ông sẽ trở thành phần tử phản cách mạng. Chính phủ Trung Quốc đã làm mất đi một thể chế cũ trái với dân chủ. Còn những người An Nam chúng ta hãy tự hoàn thiện mình, về mặt tinh thần bằng đọc các tác phẩm của Khổng Tử và về mặt cách mạng thì cần đọc các tác phẩm của Lênin!”.

                Hồ Chí Minh sọạn thảo Báo cáo của Việt Nam gửi Quốc tế Cộng sản ngày 12 tháng 7 năm 1940. Tài liệu tổng hợp, phân tích và đánh giá đầy đủ, toàn diện tình hình và cực kỳ súc tích, thể hiện tầm nhìn thiên tài và nhãn quan chính trị kiệt xuất, sâu sắc hiếm thấy. Người viết:

                Tóm lại, những điều kiện khách quan cho phép chúng tôi có hi vọng thành công. Song, lực lượng chủ quan- lực lượng của Đảng còn quá yếu. Như trên đã nói, một đảng mới mười tuổi lại trãi qua hai lần khủng bố lớn, số cán bộ có kinh nghiệm đấu tranh hiện còn đang rên xiết trong tù ngục, khiến đảng viên và quần chúng như “rắn mất đầu” không thể tận dụng cơ hội tốt “nghìn năm có một”.

                Chúng tôi liệu có khả năng làm thay đổi hoàn cảnh đó, khắc phục khó khăn đó, giúp Đảng hoàn thành sứ mạng lịch sử của nó hay không? Có.

                Chúng tôi nhất định không thể từ trong đánh ra. Chúng tôi chỉ có cách từ ngoài đánh vào. Nếu chúng tôi có được: 1) Tự do hành động ở biên giới; 2) Một ít súng đạn; 3) Một chút kinh phí; 4) Vài vị cố vấn thì chúng tôi nhất định có thể lập ra và phát triển một căn cứ địa chống Pháp, chống Nhật – đó là hi vọng thấp nhất. Nếu chúng tôi có thể mở rộng Mặt trận thống nhất các dân tộc bị áp bức, có thể lợi dụng mâu thuận giữa các nước đế quốc thì tiền đồ tươi sáng là có thể nhìn thấy được. Tôi rất hi vọng các đồng chí giúp tôi nhanh chóng giải quyết vấn đề này. 12.7.40.” (Hồ Chí Minh Toàn tập t. 3 tr. 162-174).

                Tháng 5 năm 1941 các lực lượng ái quốc, trong đó nòng cốt là Đảng Cộng Sản Đông Dương, dẫn đầu bởi Hồ Chí Minh, tập họp tại một địa điểm gần biên giới Việt- Trung, tham gia một tổ chức đứng về phía Đồng Minh giành độc lập cho Việt Nam gọi là Việt Nam Độc lập Đồng minh, thường được gọi vắn tắt là Việt Minh. Tổ chức này xây dựng một chiến khu do họ kiểm soát ở biên giới Việt Trung. Ngày 22 tháng 12 năm 1944, Võ Nguyên Giáp thành lập một trung đội 34 người mang tên Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân (một trong những tiền thân của Quân đội Nhân dân Việt Nam), ngay sau khi thành lập đã tiến đánh quân Nhật, mở rộng chiến khu. Trước khi Nhật đầu hàng Đồng Minh, chiến khu đã bao gồm nhiều tỉnh vùng đông Bắc Bắc Bộ, gọi là chiến khu Việt Bắc. Phản ứng trước sự kiện Nhật đảo chính Pháp, ngày 12 tháng 3 năm 1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam ra chỉ thị “Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” nhằm phát động cao trào kháng Nhật cứu nước.

                Trước tình thế này, Nhật đề nghị giúp đỡ chính quyền vua Bảo Đại vãn hồi trật tự và ổn định tình hình, nhưng vua Bảo Đại đã từ chối, ông đã nói một câu nói nổi tiếng: “Ta không muốn một quân đội nước ngoài làm đổ máu thần dân ta”. Vua Bảo Đại và chính phủ Trần Trọng Kim đã trói tay quân Nhật, để nhường lợi thế lại cho “người nhà” mình.

                Cách mạng tháng Tám là việc Việt Minh tiến hành khởi nghĩa buộc chính phủ Đế quốc Việt Nam do vua Bảo Đại phê chuẩn, được Nhật bảo hộ, bàn giao chính quyền trung ương và các địa phương cho lực lượng này trong tháng 8 năm 1945. Việc chuyển giao quyền lực được chính phủ Đế quốc Việt Nam thực hiện cơ bản trong hoà bình, ít có đụng độ dù xảy ra tranh chấp với lực lượng Nhật, Đại Việt, Hòa Hảo,… ở một số địa phương. Lực lượng quân đội Nhật tại Việt Nam không có phản ứng đáng kể trước những hoạt động của Việt Minh vì lúc này Nhật đã tuyên bố đầu hàng đồng minh và đang chờ quân đồng minh tới giải giáp, hơn nữa vua Bảo Đại và Thủ tướng Đế quốc Việt Nam Trần Trọng Kim đã từ chối lời đề nghị của Tư lệnh quân đội Nhật giúp chính phủ chống lại Việt Minh.

                Tại thời điểm cách mạng tháng Tám  thì các đảng phái khác như Đại Việt, Việt Nam Quốc dân đảng… cũng có hành động tương tự buộc chính quyền Đế quốc Việt Nam tại một số ít địa phương trao quyền lực cho họ. Trừ một số địa phương tỉnh lỵ Hải Ninh (nay thuộc Quảng Ninh), Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu, Vĩnh Yên nằm trong tay Việt Quốc, Việt Cách và quân Tưởng; còn lại chính quyền Việt Minh đã được thiết lập trên toàn bộ các tỉnh lỵ (muộn nhất 28/8: Đồng Nai Thượng, Hà Tiên), hầu hết địa phương trong cả nước. Một số nơi có khó khăn hơn như Hà Giang, quân Tưởng bức rút quân Nhật (29/8), Cao Bằng (giành chính quyền 21/8 nhưng sau đó quân Tưởng tràn vào), Lạng Sơn (giành chính quyền sau đó Tưởng tràn vào, tháng 10 mới thành lập chính quyền cách mạng), Vĩnh Yên (Quốc dân đảng nắm giữ), Hải Ninh – Móng Cái (Cách mệnh Đồng Minh hội nắm), một số địa bàn ở Quảng Ninh (do Đại Việt, Cách mệnh Đồng Minh hội nắm), ở Đà Lạt (quân Nhật còn kháng cự mạnh như ngày 3/10)…

                Kết quả sau khi cướp chính quyền và vua Bảo Đại thoái vị, “Đáp ứng lời kêu gọi của Ủy ban, tôi sẵn sàng thoái vị. Trước giờ quyết định này của lịch sử quốc gia, đoàn kết là sống, chia rẽ là chết. Tôi sẵn sàng hy sinh tất cả mọi quyền lợi, để cho sự đoàn kết được thành tựu, và yêu cầu đại diện của Ủy ban sớm tới Huế, để nhận bàn giao.” (thư của vua Bảo Đại gửi Việt Minh).  “Trẫm muốn được làm Dân một nước tự do, hơn làm Vua một nước bị trị” (Chiếu Thoái vị của vua Bảo Đại). Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập Việt Nam khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

                Việt Minh đã mời vua Bảo Đại tham gia làm cố vấn tối cao của Chính phủ Hồ Chí Minh. Sau này, khi vua Bảo Đại ra nước ngoài thì việc trở về hay không là do sự quyết định của vua như hồi ký của vua Bảo Đại kể lại. Đặc biệt là tài liệu Một cơn gió bụi, cuốn Hồi ký nổi tiếng của nhà sử học, thủ tướng Trần Trọng Kim (1883–1953) xuất bản năm 1949, đã chỉ rõ tóm lược quãng đời làm chính trị của ông từ năm 1942 đến năm 1948. Chủ tịch Hồ Chí Minh trong hai năm 1945 – 1946, cũng đã có 8 thư và điện gửi Tổng thống Hoa Kỳ Harry Truman. Thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Tổng thống Harry Truman ngày 16/2/1946 (Hồ Chí Minh toàn tập, tập 4, tr 91- 91), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ chính nghĩa của cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam giành độc lập dân tộc, đứng về phía đồng minh chống phát xít; sự phi nghĩa của cuộc xâm lược mà thực dân Pháp đang đẩy mạnh ở Đông Dương trái ngược những lập trường Mỹ đã nêu trong các hội nghị quốc tế.

                HoChiMinh VoNguyenGiap

                5.2 Bình sinh kẻ phi thường giữ nước

                Chủ tịch Hồ Chí Minh và đại tướng Võ Nguyên Giáp là ẩn số Chính Trung. Cách mạng là sửa lại cho đúng để hợp thời thế. Chí Thiện là Chính Trung dĩ bất biến ứng vạn biến. Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491– 1585) trong Trung Tân quán bi ký, viết năm 1543 có nói: Vẹn toàn điều Thiện là Trung, không vẹn toàn điều Thiện thì không phải là Trung. Tân là cái bến, biết chỗ dừng lại là bến chính, không biết chỗ dừng lại là bến mê… Nghĩa chữ Trung chính là ở chỗ Chí Thiện (xem thêm:
                Ngày xuân đọc Trạng Trình). Tướng Giáp biết nhiều, tâm đắc với “dĩ công vi thượng”. Tướng Giáp hiểu rõ Chính Trung là Chí Thiện của Hồ Chí Minh.

                “Kẻ phi thường” xin thưa, đó là chữ của Bác Hồ nói về vua Lý Công Uẩn và vua Quang Trung, nhưng chính Bác Hồ cũng tỏ rõ chí hướng việc chính của đời mình là noi theo gương sáng của tiền nhân để làm Người “áo vải cờ đào. giúp dân dựng nước xiết bao công trình”.Bác Hồ bình đẳng với con dân Việt. Bác tự coi mình như người lính vâng mệnh quốc dân ra mặt trận. Bác Hồ Chí Minh uy nghi như tượng đài của chính những người lính vô danh hiến mình cho Tổ Quốc quyết sinh. Hình tượng của Bác với CON NGƯỜI bình đẳng một nhân xưng. Hồ Chí Minh tuyển tập, bài Lịch sử nước ta, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia H&aXem tiếp >>

                  Dạy và học 29 tháng 7(30-07-2021)


                DẠY VÀ HỌC 29 THÁNG 7
                Hoàng Kim

                CNM365 Tình yêu cuộc sốngCOVID-19 Xem thông tin mới nhất từ BYT về dịch COVID-19.https://youtu.be/QJ8ZXvdx8TI;Sơn Nam ông già Nam Bộ; Machu Picchu di sản thế giới; Châu Mỹ chuyện không quên; Trường tôi nôi yêu thương; Một niềm tin thắp lửa;Nhớ tháng bảy mưa ngâu; Giấc mơ lành yêu thương; Chọn giống sắn kháng bệnh CMD; Hải Như thơ về Người, Chuyện cổ tích người lớn. Ngày 29 tháng 7 năm 1000, ngày sinh Lý Thái Tông, Hoàng đế thứ hai Nhà Lý, Việt Nam (mất năm 1054). Ông là một vị hoàng đế tài giỏi, thời đại của ông được xem là thời thịnh vượng nhất của nhà Lý. Ngày 29 tháng 7 năm 1987 đường hầm dưới eo biển Manche được Thủ tướng Anh Quốc Margaret Thatcher và Tổng thống Pháp François Mitterrand ký thỏa thuận xây dựng Đây là đường hầm đường sắt dưới biển dài 50,45 km dài nhất thế giới, bên dưới biển Manche tại Eo biển Dover, nối Folkestone, Kent ở Anh với Coquelles gần Calais ở phía bắc Pháp. Tuyến đường hầm Seikan ở Nhật Bản dài hơn nhưng đoạn dưới biển chỉ là 37,9 km; Thành tựu này được Hội Kỹ sư Dân dụng Mỹ năm 1996 coi là một trong Bảy kỳ quan thế giới mới, Ngày 29 tháng 7 năm 2010 khởi đầu Ngày quốc tế về hổ nhằm nâng cao nhận thức về việc bảo vệ loài vật đang bên bờ tuyệt chủng này. Bài chọn lọc ngày 29 tháng 7: Sơn Nam ông già Nam Bộ; Machu Picchu di sản thế giới; Châu Mỹ chuyện không quên; Trường tôi nôi yêu thương; Một niềm tin thắp lửa;Nhớ tháng bảy mưa ngâu; Giấc mơ lành yêu thương; Chọn giống sắn kháng bệnh CMD; Hải Như thơ về Người, Chuyện cổ tích người lớn. Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-29-thang-7;

                SƠN NAM ÔNG GIÀ NAM BỘ
                Hoàng Kim

                Sơn Nam lời yêu thương gửi lại: “Cố gắng viết ngắn, câu nào cũng có thông tin”. Khuyến nông tức là cách giữ đạo làm nông, thì dân mới giàu mạnh được”.“Cái cốt cách người Việt Nam mình là nhân nghĩa” “”Với tôi, Tổ quốc là một nơi kiếm sống được bằng một việc lương thiện nào đó, không bị ai làm khó dễ, có vài người bạn chơi được, không ba trợn” “Hạt bụi nghiêng mình nhớ đất quê”. “Người tứ xứ về tứ giác sinh cơ lập nghiệp, thì cần giữ cái đạo làm người, thì kinh tế thị trường ở đây mới nên bộ mặt nông thôn mới”. “Đến với văn chương để mong nổi danh thì đừng có hòng. Nền văn học của ta hơn nửa thế kỷ qua, nhìn lại ở một góc độ nào đó, coi như lấy rổ múc nước”. “vì vậy mà phải viết cho đàng hoàng, phải có lương tâm nghề nghiệp thì các báo, các nhà xuất bản họ mới mua của mình, độc giả họ mới đọc của mình”.
                https://hoangkimlong.wordpress.com/category/son-nam-ong-gia-nam-bo/

                Cụ Sơn Nam là nhà văn, nhà báo, nhà khảo cứu Nam Bộ, “ông già Nam Bộ”, “ông già Ba Tri”, “ông già đi bộ’, “pho từ điển sống về miền Nam”, “nhà Nam Bộ học”.Cụ Sơn Nam đã giã từ cõi nhân sinh ngày 13 tháng 8 năm 2008 và kịp để lại cho đời một sự nghiệp trước tác đồ sộ trên 8000 trang sách của hơn 44 đầu sách đã in và trên 10.000 trang sách chưa in. Bài thơ “Thay lời tựa” của Cụ Sơn Nam trong “Hương rừng Cà Mau” hay ám ảnh: “Trong khói sóng mênh mông/ Có bóng người vô danh/ Từ bên này sông Tiền/ Qua bên kia sông Hậu/ Mang theo chiếc độc huyền/ Điệu thơ Lục Vân Tiên/ Với câu chữ:/ Kiến nghĩa bất vi vô dõng giả/ Tới Cà Mau – Rạch Giá/ Cất chòi đốt lửa giữa rừng thiêng/ Muỗi vắt nhiều hơn cỏ/ Chướng khí mù như sương/ Thân không là lính thú/ Sao chưa về cố hương?…”. Lời điếu của cụ Sơn Nam khóc cụ Bùi Giáng sao mà chân tình, văn hóa, tri âm, tri kỹ đến vậy: “Anh Giáng ơi! Sinh thời anh ăn mặc xốc xếch, áo trong dài hơn áo ngoài,…nhưng văn thơ của anh ngay ngắn đường hoàng. Anh có nề gì cháo chợ cơm hàng, cả cơm thừa canh cặn, nhưng câu chữ anh xài sạch sẽ, ý tứ sáng trong. Cả đời anh lang thang khi chùa khi chợ có cố định đâu đâu, mà bữa nay đưa anh đi có quân canh lính gác, có vòng hoa của Thành ủy– Ủy Ban, có Hội Nhà văn, dậy là anh có hộ khẩu Sài Gòn rồi đó nghe anh Giáng!” Cụ Sơn Nam cũng chân thành ngợi ca cụ Trương Vĩnh Ký đã dành thời gian cuối đời để viết chuyện hay cho con nít đọc.“Viết chuyện hay con nít tìm đọc là khó lắm đó nghe” chứ không chỉ là những công trình bác học đồ sộ. Nhớ Sơn Nam ông già Nam Bộ, chúng ta nhớ những trang văn, những chuyện đời thấm đẫm tính nhân văn của ông.

                Viết về cụ Sơn Nam, tôi thích hơn cả là của Đoàn Nam Sinh, Huỳnh Kim, Võ Đắc Danh, Trần Thị Hồng Hạnh, Lê Văn Thảo, Lam Điền, Trần Mạnh Hảo và chùm Sơn Nam video nhạc tuyển. Hãy học thái độ của nước mà đi như dòng sông! Tôi từ trước đã tâm đắc điều này, và ngộ ra những người hiền thường thung dung, an nhiên với đời thường. Những người hiền phương Nam như Sơn Nam, Bùi Giáng, Võ Hồng, Trang Thế Hy… đều thật là hiền hòa, chất phác.

                Hoàng Kim

                Tài liệu dẫn

                NHỚ SƠN NAM
                Đoàn Nam Sinh

                Hồi còn nhỏ, thập kỷ sáu mươi về trước, trong làng ấp xa xăm, tôi đã được đọc những bài viết của chú trên tờ Hương Quê, giấy báo trắng láng với màu mè, hình vẽ minh họa rất đẹp. Mẫu chuyện mà tôi nhớ đời là bà con xứ Nam kỳ đã lập thế nhử vịt câu sấu như thế nào, với giọng văn giản dị, tưng tửng. Ba tôi, người cũng từng dầu dãi sông nước giải thích chuyện trẻ nhỏ nghịch ý với cha mẹ thì thường bị quở là “đem câu sấu cho rồi”, tụi nhỏ tôi sợ lắm.

                Ông cậu vợ tôi sau này, ngày còn nhỏ nhà ngoại khá giả cho đi học trên Nam Vang, chắc có Pri-me rồi về Rạch Giá đi dạy học. Đổi vùng khắp chốn đến sau khởi nghĩa mới biết là đi theo cộng sản từ thời ông Giàu gây dựng đâu bên Xiêm bên Lèo. Cậu làm chủ tịch một xã ở Gò Quao, mà cái bằng “đẹp trai” không giấu được. Ở đâu chị em cũng bu theo. Cậu có lần kể “tao đi công tác với hai cô, mùa nước nổi chun nóp ngủ trên chòi gò, lần quần rồi tao quất cả hai”. Không biết có phải vì đào hoa, lăng nhăng hay sao đó cậu ở lại, không tập kết. Rồi tù tội liên miên. Có lần cậu nói “thằng cha này là Minh Tài, nó viết văn hay lắm, ham đi xuống thực tế, rồi ham viết, chẳng kể gì giờ giấc, chưng dọn. Người hổng biết nói chả ở dơ, lúc 9 năm chả hay về đây, tiếng Tây chỉ có mấy người biết, đủ để nói thầm, chả thân cậu lắm!”. Sau này tôi kể lại với chú cậu Trần Kỳ Ứng dưới Gò Quao hỏi thăm, chú nói chuyện “hồi đó ai cũng yêu nước, đánh Tây đặng giành độc lập. Có mấy người biết chữ đâu. Lớp đó là người theo đạo Thiên chúa cũng vào Đảng, làm lãnh đạo Việt Minh. Khi định biên lại khoảng năm 53, làm theo kiểu mấy anh Tàu nên nhiều người chán nãn…”.

                Lớn lên trong thời chiến, lại lo chuyện học hành, chuyện kiếm hiệp/võ hiệp kỳ tình tràn lan rồi phong trào hip-pi, phản chiến đến triết lý hiện sinh hiện tồn,…Mỹ đã đổ quân vào Đà Nẵng, đảo chính, tăng quân, leo thang đánh phá,…Làng quê ứng phó bằng tích trữ khô muối, dầu đèn, trảng-sê hầm hào trước bom sai đạn lạc; phố chợ lung lay trước bao cuộc biểu tình, đình công bãi thị, học sinh bãi khóa, chống đàn áp Phật giáo rồi chống hiến chương Vũng Tàu, đả đảo Nguyễn Khánh bán nước, đả đảo Thiệu-Kỳ-Có,…khiến tụi nhỏ tôi chẳng còn thời gian và lòng dạ nào dòm đến văn học miền Nam nữa.

                Sau 68, anh em tan tác người một ngã. Ngọn lửa tàn độc tràn qua thôn ấp ngày một hung tợn, ác liệt. Làn sóng tỵ nạn chiến tranh lan ra, người dân tản cư chạy vào khu dồn, lớp trẻ chúng tôi về Sài Gòn. Mấy năm sau tôi thấy chú trong phong trào chống chế độ kiểm duyệt báo chí của Sở Phối hợp Nghệ thuật, tổ chức biểu tình với khẩu hiệu “Ký giả đi ăn mày”, nhưng mỗi người một việc.

                Bẵng đi có chục năm liền, cũng vì mưu sinh chen chúc, tuy không xa nhưng khó dịp hàn huyên. Có lần gặp nhau tôi hỏi nghe chuyện vợ con chú sao đó, chú Sơn Nam buồn buồn ̶ “mình viết văn mà không hay thì ai đọc, làm sao sống? Mà lo chuyện viết lách thì bỏ bê, vợ con mấy người thông cảm”…Tới 97, đợt 300 năm Sài Gòn chú nhờ tôi tiếp mấy chuyện vặt. Lúc này chú thuê nhà ở Phan Văn Trị, một cái buồng dài và hẹp, bốn bề nước đái khai um. Cũng chỉ cái máy Olivetti gõ cọc cạch và bộn bề sách vở xếp chung quanh lan cả lên chiếc giường tám tấc. Gần đến ngày trả tiền nhà chú lúng túng, xốn xang cùng nổi lo trễ nãi bà chủ phiền.

                Chú Sơn Nam lúc này đã thấy già, nói chuyện vẫn bông lơn nhưng có phần cam chịu. Có bữa được ít tiền nhuận bút, “chú em chở dùm qua đi gửi cho thằng con, nó khổ lắm”. Lần khác thì “thằng con dưới Mỹ Tho hẹn lên xin mấy trăm về lo chuyện nhà”.

                Mấy lần chú xuất hiện trên phim, và khi đi ra quê Bắc tế cụ Nguyễn Hữu Cảnh, với bộ nam phục lụa màu xanh thấy ngồ ngộ, khác xa với “ông già đi bộ” thường ngày, lưng chú đã hơi còng rồi.

                Vài năm sau nữa, tôi nhớ bữa đưa tang Bùi Giáng ở Gò Dưa, sau bài ai điếu của Cung Văn là điếu văn của Hội Nhà Văn thành phố. Chú moi ra bài viết sẵn trên túi áo vét xanh nhầu nhỉ, sửa lại đôi kính cũng rầu rĩ như ông chủ và chú run run nói: “Anh Giáng ơi! Sáng nay anh NQS nói với tui anh là lớp trước, lại ở trong này, cũng ít dịp gần gũi. Anh đại diện cho Hội đọc dùm điếu văn này. Dậy đây là phần của Hội nghe anh Giáng…Tui đọc dậy là xong rồi, còn đây là của tui. Anh Giáng ơi! Sinh thời anh ăn mặc xốc xếch, áo trong dài hơn áo ngoài,…nhưng văn thơ của anh ngay ngắn đường hoàng. Anh có nề gì cháo chợ cơm hàng, cả cơm thừa canh cặn, nhưng câu chữ anh xài sạch sẽ, ý tứ sáng trong. Cả đời anh lang thang khi chùa khi chợ có cố định đâu đâu, mà bữa nay đưa anh đi có quân canh lính gác, có vòng hoa của Thành ủy – Ủy Ban, có Hội Nhà văn, dậy là anh có hộ khẩu Sài Gòn rồi đó nghe anh Giáng!…”.

                Có lần hội thảo khoa học về cụ Trương Vĩnh Ký, như những lần hội thảo danh nhân Nam bộ khác, chú đã đọc tham luận. Không phải về những công trình bác học, đồ sộ hoặc luận về công/tội, chú nói đến chuyện sau cùng cụ TVK đã dành thời gian viết chuyện cho con nít đọc, “mà viết chuyện hay con nít tìm đọc là khó lắm đó nghe”.

                Lúc Bé Tư mới ra cuốn Cánh đồng bất tận, một ông lão nghe chuyện hỏi tôi NQS ủng hộ lắm hả, cháu có không? Tui nghe chú Sơn Nam có bản photo. Mà lúc này ổng về ở dưới Lăng Ông rồi. Chở chú lại thăm giả chút. Hai người lớn nói chuyện văn chương, tôi mãi mê đọc báo. Chỉ nghe thoáng khúc cuối chú Sơn Nam nói “nó muốn đặt tên cho đứa nhỏ là Hiền, Lành gì đó chứ không Thù, Hận,…nghĩ lại không biết tụi mình là con hoang của vụ hiếp dâm nào?” Tôi xin phép hai ông chú ra về trước.

                Tự nhiên mấy năm gần cuối đời hai dái tai của chú dày ra, rộng hơn phát đỏ hồng, anh em mừng. Thì cũng có chuyện hợp đồng bán được tác quyền, sách được in lại đẹp đẽ, chú cũng mừng. Nhưng thường bữa, trừ đợt bịnh nặng, chú vẫn đến thư viện Gò Vấp cạnh cầu Hang tìm sách đọc, viết và nhờ mấy cháu đánh máy lại. Rủng rỉnh thì mời mấy cô bé đi ăn trưa, cơm dĩa. Sáng sáng lại ngồi cà phê đen xéo phía kia đường.

                Khúc cuối cùng cuộc đời, do có chuyện bình chọn để lãnh giải thưởng gì đó ngoài trung ương mới có chuyện “…Sơn Nam không được, vì nhờ biết tiếng Tây, đọc các bài viết cũ rồi viết lại chứ không có công trình gì…”. Từ hồi chữ quốc ngữ thịnh lên tới giờ, có biết bao nhà văn đọc rồi phóng tác; có bao người đọc để biết mà tránh viết giống người trước? Tôi thì biết rõ là chú Sơn Nam không đạo văn như cái án oan kiểu gây dư luận đó.

                Lại rủi cho chú khi đi đường bị xe của bọn trẻ chạy vong mạng làm gãy chân, chú chỉ nói buồn “tụi nhỏ chúc thọ ông già kiểu này ngặt quá!”.

                Mới đó mà chú đã đi xa một năm rồi, ngày đưa tang chú tôi từ Gia Lai về, mệt quá ngủ quên, khi anh em nhắc thì đã xong mọi việc. Tiếc và buồn! Thôi, đêm nay tôi nhớ chú, ngồi viết gọn mấy dòng dâu bể.

                Bình Dương, 10/08/09
                Nguồn :
                http://www.viet-studies.info/DoanNamSinh_NhoSonNam.htm

                BÀI THƠ “HƯƠNG RỪNG CÀ MAU”
                Huỳnh Kim

                Bài “Thay lời tựa” tập truyện ngắn nổi tiếng “Hương Rừng Cà Mau” của nhà văn Sơn Nam là một bài thơ hay. Bài thơ dài 28 câu viết về cái thuở tiền nhân xưa từ miền Trung tha hương vào khai hoang mở cõi phương Nam. Đó là một bài thơ độc đáo hiếm thấy của nhà văn Sơn Nam mà nhiều người đã thuộc lòng vì cái điệu buồn chất chứa trong từng âm điệu, câu chữ.

                Nhưng có lẽ ít ai biết bài thơ đó nhà văn viết khi nào và ở đâu. Một hôm, cuối năm 2000, gần Tết, tôi nhớ vào ngày 15-1-2001, ông ghé thăm báo Cần Thơ và nhắn tôi qua chơi. Tôi chở ông về nhà mình, giở cuốn “Hương rừng Cà Mau” do nhà xuất bản Trẻ tái bản năm 1986, có chữ ký tặng bằng mực đỏ của ông ngày nào, rồi hỏi:

                – Bài thơ này chú Tám làm hồi nào vậy? 

                Ông nheo nheo mắt, nói:

                – Viết từ năm 1961, trong nhà tù Phú Lợi. Hồi đó chánh quyền Sài Gòn bỏ tù cái tội mình vẫn theo kháng chiến.

                Rồi ông ngồi chép lại cả bài thơ trên mặt sau một tờ lịch lớn. Nét chữ của một ông già 75 tuổi mà bay bướm quá chừng. Cuối bài thơ, ông ghi: “Viết thơ này từ năm 1961, nay chép lại tặng Huỳnh Kim, bờ sông Hậu”. Tôi đã nhờ thợ phủ la-mi-na và ép tờ lịch ấy lên một tấm gỗ để lưu giữ được lâu dài bút tích của nhà văn Sơn Nam.

                Tôi treo kỉ vật này trên tường kế bên kệ sách và gắn kề bên nét chữ của ông, một chiếc lá cây khô hoang dã đã lìa cành tự khi nào. Chiếc lá ấy, nét chữ ấy, mỗi lần nhìn lên, như nghe có tiếng người xưa vọng lại:

                Trong khói sóng mênh mông
                Có bóng người vô danh
                Từ bên này sông Tiền
                Qua bên kia sông Hậu
                Mang theo chiếc độc huyền
                Điệu thơ Lục Vân Tiên
                Với câu chữ:
                Kiến nghĩa bất vi vô dõng giả
                Tới Cà Mau – Rạch Giá
                Cất chòi đốt lửa giữa rừng thiêng
                Muỗi vắt nhiều hơn cỏ
                Chướng khí mù như sương
                Thân không là lính thú
                Sao chưa về cố hương?

                Chiều chiều nghe vượn hú
                Hoa lá rụng buồn buồn
                Tiễn đưa về cửa biển
                Những giọt nước lìa nguồn
                Đôi tâm hồn cô tịch
                Nghe lắng sầu cô thôn
                Dưới trời mây heo hút
                Hơi vọng cổ nương bờ tre bay vút
                Điệu hò… ơ theo nước chảy chan hòa

                Năm tháng đã trôi qua
                Ray rứt mãi đời ta
                Nắng mưa miền cố thổ
                Phong sương mấy độ qua đường phố
                Hạt bụi nghiêng mình nhớ đất quê…

                 Huỳnh Kim bài đăng báo Tuổi Trẻ cuối tuần (tháng 8-2018)
                (
                click vào hình để có bản chính trên blog Huỳnh Kim)

                GẶP LẠI NHÀ VĂN SƠN NAM
                Huỳnh Kim

                Nhà văn Sơn Nam đã về với đất, nhẹ như câu thơ của ông “Hạt bụi nghiêng mình nhớ đất quê”. Sáng nay, lục tìm trong ký ức và trong Thời báo Kinh tế Sài Gòn (TBKTSG), như gặp lại ông…

                1.

                Năm bảy năm trước, khi còn khỏe, nhà văn Sơn Nam có viết lai rai cho TBKTSG, thường là vào dịp Tết. Có một bài mà bây giờ đọc lại, thấy như ông nói chuyện đang xảy ra. Đó là bài “Làm tiền và xài tiền”. Mở đầu bài báo, ông viết: “Tuy không rành về kinh tế tài chính nhưng tôi dám phát biểu rằng không phải có nhiều vàng trong tay là mặc nhiên được đứng vào hàng ngũ tư sản Việt Nam trong giai đoạn mở cửa này”. Rồi ông nhận xét: “Mấy năm gần đây, phát sinh một hiện tượng ăn xài hoang phí trong một bộ phận dân cư ở Sài Gòn và các tỉnh, đến mức mà chính những nhà kinh doanh nước ngoài phải ngạc nhiên, thậm chí coi khinh. Trúng mối vài dịch vụ sang nhượng nhà đất, buôn lậu, tráo trở chứng từ, dành dụm được năm, mười cây vàng, hoặc hơn, làm tiền không đổ mồ hôi thì dĩ nhiên cần tiêu xài vô lý, dịp may hiếm có. Tiền sẽ vào túi, dễ dàng, cóc nằm há mồm là sung rụng ngay vào miệng, muốn khạc ra cũng không được. Đó là chưa kể một số cán bộ tiêu cực có bài bản, ăn chơi một buổi bằng một năm lương bổng của người làm công. Xài ô-tô hạng sang, quần áo thứ tốt, nhà cửa trang trí toàn đồ ngoại”.

                Một chỗ khác, ông mô tả rành rọt: “Rượu mạnh với nhãn hiệu đắt tiền, nốc vài chai đã là tốn bạc triệu. Gọi thức ăn đủ món, nhưng món nào cũng gắp thử một vài đũa, hoặc không gắp rồi chờ đem món khác! Ăn để phá của, vì của cải ấy làm ra không đổ mồ hôi, lắm khi không tiêu xài thì không phải lẽ, vì đó là tiền thù lao tập thể cho phép cả nhóm kết nghĩa! Tiêu xài để cho người đồng lõa thấy mình là người hào hiệp, thừa tiềm năng và thừa bản lãnh. Đến mức những người phục vụ cửa hàng tuy cười tươi ra mặt nhưng khi vào nhà bếp, họ cũng lắc đầu, khinh bỉ cái phong cách điên khùng của “thời đại”. Chưa hết! Ăn uống bừa bãi, nửa ăn nửa bỏ, nôn mửa, lắm khi để xóa mặc cảm tội lỗi, họ lại cởi áo, dùng những lời lẽ phàm tục, nhờ điện thoại cầm tay để nói láo với bạn bè, với vợ con hoặc trêu chọc cô gái nào đó để ra vẻ mình… có máu văn nghệ. Chưa kể trường hợp say quá mức, họ lại đùa giỡn bằng cách chế diễu các cơ quan nhà nước và tự chế diễu mình”.

                Ông quan sát thấu đáo cả những kiểu sống như thế này: “Có tiền nhiều, nhưng không tin nơi ngày mai, hoặc quá tin vào tử vi, tuổi con rồng, gặp tháng con chuột. Họ cầu mong làm giàu thêm, không bỏ những dịp may có thể thoáng qua rồi mất. Con cái của họ cần được nổi danh trong khu phố, với bạn bè cùng trang lứa. Nào khiêu vũ, nào ăn điểm tâm ở khách sạn sang trọng nhất, xài đô-la chớ không xài tiền Việt, trong khăn mù-soa nhung nhúc những khoen lớn khoen nhỏ. Mất chiếc xe gắn máy đắt tiền này, lập tức cho con số tiền to để sắm trở lại chiếc khác, lắm khi còn đắt tiền và hợp thời trang hơn”.Gần cuối bài đó, nhà văn nhắc nhẹ: “Ở Việt Nam, xưa kia đã từng có xuất hiện vài nhà tư sản xứng đáng cho đời sau ghi nhớ. Thí dụ như ông Trương Văn Bền. Khi rảnh rang, ông tranh thủ đọc sách, nghiên cứu cách tiếp thị, phân phối sản phẩm theo đường dây hợp lý. Mỗi sáng, ông không quên tập thể dục”.

                2.

                Nhà văn Sơn Nam viết báo kinh tế như vậy đó. Còn các nhà báo kinh tế và doanh nhân thì lại hay trích văn của ông. Trong mấy chục bài của họ đã đăng trên TBKTSG, dễ gặp lại hình ảnh “ông già Nam bộ” Sơn Nam.

                Tỉ như trong bài “Như ngày xưa tiền nhân đi mở cõi”, ông Trần Kim Chung – Tổng giám đốc Công ty cổ phần Quốc tế C&T – đại diện Tập đoàn Mỹ phẩm Amore – Pacific Hàn Quốc, tâm sự: “Có một bài thơ của nhà văn Sơn Nam luôn làm tôi liên tưởng rằng, chuyện khởi nghiệp kinh doanh ngày nay cũng tựa như chuyện tiền nhân ta ngày xưa đi mở cõi. Đó là đoạn đầu trong bài thay lời tựa tập truyện ngắn “Hương rừng Cà Mau” của nhà văn: Trong khói sóng mênh mông / Có bóng người vô danh / Từ bên này sông Tiền / Qua bên kia sông Hậu / Mang theo chiếc độc huyền / Điệu thơ Lục Vân Tiên / Với câu chữ: “Kiến nghĩa bất vi vô dõng giả” / Tới Cà Mau, Rạch Giá / Cất chòi đốt lửa giữa rừng thiêng…”.

                Hoặc trong bài “Quán Sơn Nam”, nhà báo Võ Đắc Danh kể: “Sáng thứ bảy, tôi tìm đến địa chỉ liên lạc thường nhật của ông, tức cái quán cà phê trong khuôn viên nhà truyền thống quận Gò Vấp. Khác với lệ thường, hôm nay sau khi uống xong ly sữa tươi và ly cà phê đen, nhà văn Sơn Nam ăn thêm một gói bắp nấu, rắc lên một ít đường cát và dừa nạo. Bắp nấu là món ăn sáng của người nghèo, hồi trước bắp nấu được gói bằng lá chuối, múc ăn bằng một miếng sóng lá dừa. Bây giờ là cây muỗng nhựa, bắp nấu gói trong bọc ny lông, bên ngoài gói thêm lớp giấy báo.

                Thấy ông ăn một cách ngon lành, tôi hỏi: “Tía tìm đâu ra món này, đã lâu rồi tôi không thấy?”. Ông nói ở gần nhà ông còn một người bán, nhưng phải dậy sớm mua mới có.

                Ông vừa ăn xong thì một thanh niên tìm tới, nói là ở tạp chí Điện ảnh đến nhận bài báo Tết theo đơn đặt hàng. Ông vừa lấy bản thảo trong túi ra, vừa cười nói: “Lấy tiền trước của họ, xài hết rồi mới viết”. Ông cho tôi xem trước khi giao nó cho khách hàng. Năm Giáp Thân, ông viết về khỉ. Thì ra, ông là một trong những cư dân Sài Gòn trực tiếp chứng kiến các chuyên gia người Pháp mang hai con khỉ đầu tiên đến Thảo cầm viên. Ông nói ông rất khoái câu nói của Gamzatov, đại ý: con khỉ muốn thành người phải trải qua quá trình tiến hóa hàng triệu năm, nhưng con người muốn trở lại thành khỉ thì chỉ cần một chai rượu”.

                Hay trong bài “Thế kỷ XXI nhìn về nhân vật lịch sử Phan Thanh Giản”, nhà báo Hưng Văn viết: “Nhà văn Sơn Nam đề nghị: Trong chương trình sử học cho học sinh, nên có một bài nói về ông Phan Thanh Giản; đủ tình đủ lý; gọi là tình huống đặc biệt của Nam bộ khi phải hội nhập với vùng Đông Nam Á và phương Tây quá sớm so với các vùng khác trong cả nước. Ông để lại cho đời sau chút gì khó quên, khó xóa nhòa, gọi là tâm linh, phóng khoáng, mơ mộng”.

                Tấm ảnh đăng kèm bài này là hình nhà văn Sơn Nam lật xem cuốn “Tạp văn Nguyễn Ngọc Tư” trên giường bệnh vào chiều ngày 19-6-2005. Một giọt nước mắt ứa ra nơi khóe mắt ông già 80 tuổi. Dạo đó, ông phải nằm viện cả tháng trời sau một tai nạn giao thông. Cùng nhiều bạn đọc khác, tôi từ Cần Thơ về Sài Gòn thăm ông, gởi biếu ông quà của công nhân Công ty In Vườn Lài ở Quận 10 và của giáo sư Trần Hữu Dũng ở Mỹ nhờ chuyển. Tôi cũng tặng ông cuốn sách của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư ở Cà Mau, do Nhà xuất bản Trẻ và TBKTSG mới ấn hành. Ông lặng lẽ giở vài trang sách, không nói một lời. Nhưng nhìn ánh mắt ông, tôi hiểu tình cảm của ông dành cho nhà văn Nguyễn Ngọc Tư, năm đó Tư 29 tuổi. Trước đó mấy tháng, tôi gặp ông chỗ cái quán cà phê mà anh Võ Đắc Danh kể ở trên. Nhắc tới cô Tư, ông nói: “Viết hay hơn Sơn Nam à nghen!”. Sau đó tôi gọi điện thoại cho Tư rồi đưa máy cho hai chú cháu nói chuyện. Nhớ giọng ông hào hứng: “Chịu khó viết mỗi ngày. Báo hổng đăng thì để đó, rồi sẽ có ngày báo đăng”. Bữa đó, truyện “Cánh đồng bất tận” của Nguyễn Ngọc Tư chưa đăng báo.

                * Blog Huỳnh Kim, bài này đăng Thời báo Kinh tế Sài Gòn 21-8-2008

                VÀI KỈ NIỆM VỚI NHÀ VĂN SƠN NAM
                Huỳng Kim (Vũ Châu ghi)

                 

                Ấn tượng nhứt của anh với nhà văn Sơn Nam là gì?

                – Lần nào gặp, tôi cũng thấy ổng giản dị, lạc quan và hầu như nói chuyện gì với ổng tôi cũng học được nhiều thông tin bổ ích. Sơn Nam là một nhà văn nổi tiếng nhưng rất dễ tiếp xúc và chuyện trò. Ở nhà, trong quán cà phê, giữa cuộc họp… hay bất cứ đâu, hễ rảnh rang là ổng sẵn sàng la cà với mọi người, nhất là với giới bình dân. Có lần tôi về Sài Gòn ghé thăm khi ổng đang nằm trên giường bệnh. Ổng gầy lắm, da bọc xương, nhưng nói chuyện thì tỉnh táo, ánh mắt vui. Ổng khuyên tôi nên coi bộ phim “Mê-kông ký sự” mà theo ổng thì còn gặp được những hình ảnh văn hóa gốc của nhiều dân tộc thiểu số chưa bị “con người hiện đại” can thiệp. Ổng nói rất lạc quan: “Nếu còn sống được tới 85 tuổi, tôi sẽ viết tiếp câu chuyện này, ở hai bên bờ sông Tiền, sông Hậu của đồng bằng sông Cửu Long”.

                 

                Nghe nói nhà văn Sơn Nam có dạy anh viết báo?

                – Không dạy trên giảng đường, ổng chỉ dạy tôi trong cuộc sống. Từ năm 1975, nhà tôi ở chung con hẻm nhỏ với nhà văn trên đường Lạc Long Quân, quận Tân Bình, TPHCM. Tôi vào bộ đội rồi chuyển sang nghề báo. Phóng sự đầu tiên tôi nhờ ổng đọc, viết về đảo Phú Quốc gởi báo Quân đội nhân dân. Cho tới giờ, tôi vẫn thực hành lời dạy viết báo của nhà văn Sơn Nam từ dạo đó: “Cố gắng viết ngắn, câu nào cũng có thông tin”.

                Một lần khác, vào năm 1993, tôi theo nhà văn vào xã Tây Phú thuộc huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang. Trong khi chúng tôi cứ loay hoay với mấy cái báo cáo tổng kết về chuyện đi khai hoang vùng tứ giác, thì nhà văn Sơn Nam đã lội lòng vòng quanh chợ xã. Quay về, ông chỉ hỏi anh bí thơ xã mấy câu mà nghe xong thấy… quá nể: “Có gái giang hồ vào tứ giác tìm tình yêu hay không?”; “Có người nông dân bất mãn? Có anh cán bộ cường hào?”; “Điện thoại bàn đã gọi ra quốc tế nhưng sách báo về xã sao thấy còn ít quá?”… Khi nghe anh bí thơ xã kể chuyện bà con nông dân lập miếu Thần Nông, 17 tháng 3 âm lịch hằng năm họ cúng tạ ơn trời đất, tổ tiên và cây lúa, nhà văn Sơn Nam nói: “Đó là đạo. Làm ruộng là đạo, giữ đất là đạo. Khuyến nông tức là cách giữ đạo làm nông, thì dân mới giàu mạnh được. Tôi lội chợ Tây Phú, thấy có đánh bi-da, có tiệm vàng, có cái kéo rèn từ Phú Tân đưa qua, có bộ xa-lông tre lấy mẫu từ Mộc Hóa, có cô bán quán quê Đồng Tháp, có thầy giáo quê Thanh Hóa… Người tứ xứ về tứ giác sinh cơ lập nghiệp, thì cần giữ cái đạo làm người, thì kinh tế thị trường ở đây mới nên bộ mặt nông thôn mới”. Khi ghé thăm chùa, thăm khu di chỉ văn hóa Óc-Eo, cánh nhà báo chúng tôi lăng xăng hỏi nhà chùa đủ chuyện thì nhà văn Sơn Nam lặng lẽ thắp nhang trước bàn thờ Phật, cúng dường nhà chùa và bố thí cho người nghèo chung quanh chùa.

                Đó là những bài học làm báo và làm người nhớ đời của tôi.

                 

                Anh có giữ kỷ vật gì của nhà văn Sơn Nam không?

                – Tôi đang giữ tập truyện “Hương Rừng Cà Mau” do Nhà xuất bản Trẻ tái bản lần đầu tiên sau ngày giải phóng, tháng 11-1986, in giấy vàng khè, giá 25 đồng, có chữ ký tặng bằng bút bi màu đỏ của nhà văn Sơn Nam. Tôi cũng đang treo bên kệ sách, bút tích của nhà văn Sơn Nam chép bài thơ thay lời tựa tập truyện “Hương Rừng Cà Mau”. Lần đó, tôi nhớ vào ngày 15-1-2001, sau khi ghé thăm báo Cần Thơ, nhà văn về nhà tôi chơi. Sau đó, ổng chép lại bài thơ vào mặt sau một tờ lịch lớn và ký tặng vì biết tôi rất thích bài thơ đó. Tôi tò mò hỏi chú viết bài thơ trong hoàn cảnh nào, ổng nói: “Viết từ năm 1961, trong nhà tù Phú Lợi; hồi đó chính quyền Sài Gòn bỏ tù cái tội mình vẫn theo kháng chiến”.

                “CỐT CÁCH NGƯỜI VIỆT NAM MÌNH LÀ NHÂN NGHĨA”
                Huỳnh Kim

                Trung tuần tháng 3-1990, nhà văn Sơn Nam về Cần Thơ để chuẩn bị cho một công trình nghiên cứu về chùa Nam Nhã. Lúc này ông đã 64 tuổi, thường xuyên đi về miền Tây. Biết tôi đã chuyển qua làm ở báo Quân khu 9 và cộng tác với mấy tờ báo ở Sài Gòn, Hà Nội, ông nhắn tôi đi uống cà phê đêm rồi về nhà tôi chơi. Lâu ngày gặp nhau, không hiểu sao tôi vẫn muốn nghe ông nói chuyện về miền Tây, về đồng bằng sông nước mà khi đó dù đã cưới vợ quê gốc Cần Thơ, lúc nào tôi cũng thấy mình thiếu cái… cốt cách miền Tây. Tôi còn nhớ đã hỏi ông như thế này:

                – Cái cốt cách người đồng bằng mình, theo chú Tám, là sao?

                Ông trả lời:

                – Cái cốt cách người Việt Nam mình là nhân nghĩa. Ông vua mà không nhân nghĩa thì sẽ bị cái nhân nghĩa của nhân dân “cách cái mạng”. Hàng xóm có đám ma, mình góp tiền lo đám, dù người đó lúc còn sống mình không ưa. Không phải chỉ ông vua chết, mình mới cúng. Người ăn mày chết, mình cũng cúng. Đứa trẻ chết, mình cúng. Người ăn cắp, người đói chết, mình cúng. Xưa, công chúa Thuận Thiên than lạnh với cha, vua Lý Thánh Tông họp quần thần bảo: Trẫm thương dân như thương công chúa. Công chúa mặc hai lớp áo cung đình còn than lạnh, huống hồ là muôn dân của trẫm bị cầm tù vì nghèo vì dốt. Nay trẫm lệnh phải phát đủ quần áo để muôn dân được ấm. Đó không phải là mị dân, cái gốc của nó là nhân nghĩa Việt Nam.

                Ông còn nói thêm về cái hiện trạng sống thiếu nhân nghĩa xung quanh ta. Tôi giật mình nghĩ lại mình. Lúc đó là đã mười bốn năm kể từ ngày ba tôi mất. Lúc đó, đời lính đã tạm yên, không còn ra mặt trận 979 nữa, nhưng vợ chồng tôi chưa bao giờ nghĩ tới chuyện thờ phượng ba tôi, tất cả để một mình mẹ già của tôi ở Sài Gòn lo nhang khói. Mà hai vợ chồng tôi lúc đó là đảng viên, lúc nào cũng nghĩ mình sống có ích, có nghĩa với dân với nước! Có ngờ đâu, có những lúc thấy tâm hồn trống vắng cô đơn kì lạ mà không làm sao hiểu nổi. Như là đêm hôm đó, tôi lập cập tiễn ông già 64 tuổi ra khỏi căn nhà “gia binh” già nua của mình, gió đêm lạnh ngắt.

                HK

                * Blog Huỳnh Kim, hai bài này đăng báo Cần Thơ (tháng 8-2008)

                HẠT BỤI NGHIÊNG MÌNH NHỚ ĐẤT QUÊ
                Võ Đắc Danh

                Biết thế nào rồi cũng có cuộc chia ly, hôm ấy, cách nay hơn ba năm, khi ông còn tá túc ở thư viện Gò Vấp, tôi mua một tờ giấy cứng với cây bút lông mang lên, nói: “Tía chép giùm con bài thơ để con giữ bút tích của tía làm kỷ niệm”. Ông nói: “Ừ, để đó đi, vài hôm nữa đã, tôi có chết sớm đâu mà lo, giờ có rảnh hôn, chở tôi đi vòng vòng Sài Gòn chơi”. Không ngờ đó là lần cuối cùng tôi chở ông đi dạo, và rồi bài thơ ông cũng không kịp chép cho tôi. Hôm ấy được tin ông bị tai nạn giao thông, tôi chạy sang thì ông đã nằm liệt giường, thậm chí không còn nhận ra tôi là ai nữa. Bây giờ thì ông đã ra đi!

                Nhớ hôm ấy, ngồi sau lưng tôi, ông kể chuyện huyên thuyên, rồi bất chợt khi ngồi ở một quán cà phê vỉa hè, ông nói: “Tôi còn mấy chuyện hay lắm, nhưng về già tôi mới viết”. Tôi giật mình nhìn ông và tự hỏi, về già là bao lâu nữa, hơn 80 rồi, ông lẩm cẩm rồi chăng? Rồi ông lại nói: “Có gặp thằng Nguyễn Trọng Tín, nói tôi nhắn với nó chuyển sang viết văn xuôi đi, thời buổi này mà làm thơ là húp nước mắm”. Tôi nói ông Tín bây giờ viết báo rồi, ông cười: “Vậy là càng tốt, viết báo dễ kiếm tiền hơn”. Trầm ngâm một chút, ông nói: “Nè, tôi dặn ông cái này nghen, ông viết báo thì cứ lo viết báo, đừng bày đặt góp ý với thằng chủ báo phải làm thế này thế nọ, trào máu có ngày! Ngoài mặt nó giả bộ gật đầu nhưng trong bụng nó ghét cay ghét đắng”.

                Từ chiến khu về thành ông được phân công ở lại sau tập kết, một phòng trọ, một bộ bà ba vải ú trắng, một đôi guốc vông, lang thang đi bộ khắp Sài Gòn. Ông nói sự nghiệp của ông có ảnh hưởng khá nhiều từ lời khuyên của Bình Nguyên Lộc.

                Những ngày đầu tiên ở Sài Gòn, ông lang thang đi tìm Bình Nguyên Lộc, hôm ấy gặp nhau tronXem tiếp >>

                  Dạy và học 28 tháng 7(28-07-2021)

                Peru Machu Picchu Sunrise

                DẠY VÀ HỌC 28 THÁNG 7
                Hoàng Kim
                CNM365 Tình yêu cuộc sốngGiấc mơ lành yêu thương; Chuyện cổ tích người lớn; Đọc lời nguyền trăm năm; Châu Mỹ chuyện không quên; Machu Picchu di sản thế giới; Hoa Mai thơ Thiệu Ung; Machu Picchu vị thần Mặt trời Inca không thề quên lãng, là di sản thế giới UNESCO tại Peru, một trong bảy kỳ quan thế giới mới (hình). Ngày 28 tháng 7 năm 1821, ngày độc lập của Peru. Ngày 28 tháng 7 năm 1995, Việt Nam gia nhập ASEAN.  Bài chọn lọc ngày 28 tháng 7: Giấc mơ lành yêu thương; Chuyện cổ tích người lớn; Châu Mỹ chuyện không quên; Machu Picchu di sản thế giới; Hoa Mai thơ Thiệu Ung; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-28-thang-7;

                GIẤC MƠ LÀNH YÊU THƯƠNG
                Hoàng Kim

                nhắm mắt lại đi em
                để thấy rõ giấc mơ hạnh phúc
                trời thanh thản xanh
                đêm nồng nàn thở
                ta có nhau trong cuộc đời này
                nghe hương tinh khôi đọng mật
                quyến rũ em và khát khao anh
                mùi ngây ngất đằm sâu nỗi nhớ
                một tiếng chuông ngân
                thon thả đầu ghềnh

                nhắm mắt lại đi em
                hạnh phúc đâu chỉ là đích đến
                hạnh phúc là con đường trãi nghiệm
                vỗ về, chờ đợi, nhớ thương

                nhắm mắt lại đi em
                trong giấc mơ của anh
                có em và rừng thiêng cổ tích
                có suối nước trong veo như ngọc
                có vườn trúc và ngôi nhà tranh
                có một đàn trẻ thơ tung tăng
                heo gà chó mèo ngựa trâu
                nhởn nhơ trên đồng cỏ
                tươi xanh.
                nhắm mắt lại đi em,
                tận hưởng thú an lành.

                Nhắm mắt lại đi em
                Giấc ngủ ngoan
                giấc mơ hạnh phúc
                Em mãi bên anh,
                Đồng hành với anh
                Bài ca yêu thương
                Bài ca hạnh phúc
                Giấc mơ lành yêu thương

                I have a dream

                Nhắm mắt lại đi em
                Giấc mơ cuộc đời
                giấc mơ hạnh phúc
                ngôi nhà tâm thức
                Giấc mơ lành yêu thương
                Có cánh cửa khép hờ
                Có bãi cỏ xanh non.
                Đất nước cây và hoa
                Một khu vườn tĩnh lặng.
                Chim sóc chó mèo gà
                luôn quấn quýt sớm hôm.
                Ban mai ửng
                nghe chim trời gọi cửa.
                Hoàng hôn buông
                trăng gió nhẹ lay màn.
                Ta
                về với ruộng đồng
                Vui giấc mơ hạnh phúc
                Vui một giấc mơ con
                Hoa LúaHoa NgườiHoa Đất 
                Giấc mơ lành yêu thương.


                xem tiếp
                https://hoangkimlong.wordpress.com/category/giac-mo-lanh-yeu-thuong/

                GIẤC MƠ LÀNH YÊU THƯƠNG
                Hoàng Kim

                Hoàng Thành đến Trúc Lâm
                Tỉnh thức cùng tháng năm
                Tỉnh lặng với chính mình
                Đi bộ trong đêm thiêng
                Vui đi dưới mặt trời
                Nhà tôi chim làm tổ
                Chỉ tình yêu ở lại
                Hoa và Ong Hoa Người
                Hoa Bình Minh Hoa Lúa
                Hoa lộc vừng ngày mới
                Hoa Mai thơ Thiệu Ung
                Hoa Mai trong Tết Việt
                Hoa Mai với Thiền sư
                Hoa Xuân Vườn Tao Đàn
                Hoa Đất của quê hương
                Hoa Đất thương lời hiền
                A Na bà chúa Ngọc
                A Na Bình Minh An
                Ai chợp mắt Tam Đảo
                Ai tỏ Ngọc Quan Âm
                Ai thương núi nhớ biển
                An Viên Ngọc Quan Âm
                An vui cụ Trạng Trình
                Ân tình
                Anh đi về tâm bão
                Lời dặn của Thánh Trần
                Lời khuyên thói quen tốt
                Lời Thầy dặn thung dung
                Lời Thầy luôn theo em
                Lời thề trên sông Hóa
                Lời vàng từ trái tim
                Lời thương
                Thầy là nắng tháng Ba
                Giấc mơ lành yêu thương
                Ngôi sao mai chân trời.

                https://hoangkimlong.wordpress.com/category/giac-mo-lanh-yeu-thuong/

                CHUYỆN CỔ TÍCH NGƯỜI LỚN
                Hoàng Kim

                Hoa Đất thương lời hiền;
                Lời dặn của Thánh Trần;
                Nguyễn Trãi Dục Thúy Sơn;
                Đặng Dung thơ Cảm hoài;

                Ngày xuân đọc Trạng Trình;
                Nguyễn Du trăng huyền thoại;
                Tô Đông Pha Tây Hồ;
                Kim Dung trong ngày mới;

                Đào Duy Từ còn mãi
                Đồng xuân lưu dấu hiền;
                Đỗ Phủ thương đọc lại;
                Châu Văn Tiếp Phú Yên;

                Nha Trang và A. Yersin;
                Cao Biền trong sử Việt;
                Nguyễn Hiến Lê sao sáng;
                Thương Kim Thiếp Vũ Môn;

                A Na bà chúa Ngọc;
                An Viên Ngọc Quan Âm;
                Chuyện cổ tích người lớn;
                Chuyện đồng dao cho em

                CNM365 Tình yêu cuộc sống
                27 đường link liên kết
                Nguồn:
                https://hoangkimlong.wordpress.com/category/chuyen-co-tich-nguoi-lon/

                Lời dặn của Thánh Trần là “khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước”. Đọc lại thật sâu sắc. Tôn tử binh pháp thiên thứ nhất, trang đầu là “Tính toán”. Tôn Tử nói: Chiến tranh là việc lớn quốc gia, là việc sống chết của nhân dân, là sự mất còn của một nước, không thể không xem xét cẩn thận. Cho nên phải cân nhắc năm yếu tố, phải tính toán, so đo mà tìm hiểu thực tình của đôi bên: Thứ nhất là đạo nghĩa; thứ hai là thời trời; thứ ba là địa lợi; thứ tư là chủ tướng; thứ năm là pháp chế. Chỉ nói đến trí thức tinh hoa, tinh thần ái quốc và sức mạnh toàn dân thì chỉ mới tính toán so đo thứ nhất là đạo nghĩa. Chỉ nói đến tài năng và tôn vinh cụ thể một con người như Napoleon chẳng hạn thì chỉ mới tính toán so đo thứ tư là chủ tướng. Chính vì vãy Napoleon khi thua trận bị nhốt ngoài đảo mới thốt lên: Tiếc thay trước đây ta chưa đọc sách này (Tôn Tử binh pháp) và Cụ Hồ trước khi thành lập đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân đã nghiền ngẫm dịch Tôn Tử binh pháp, học lại thật kỹ Lịch sử Việt Nam và chọn nơi khởi binh ở làng Quốc Tuấn. .

                Quốc Công Tiết chế Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn mất ngày 20 tháng 8 âm lịch năm 1300. Người được dân Việt tôn kính gọi là Đức Thánh Trần và thường dâng lễ tạ ơn sớm từ 20 tháng 8 dương lịch đến ngày lễ chính. Vua Trần Anh Tông lúc Đức Thánh Trần sắp lâm chung có ân cần ngự tới nhà thăm, hỏi rằng: “Nếu có điều chẳng may, mà giặc phương Bắc lại sang xâm lược thì kế sách như thế nào?”. Đức Thánh Trần  trả lời: “khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước vậy”. Nguyên văn: “Ngày xưa Triệu Vũ Đế (tức Triệu Đà) dựng nước, vua nhà Hán cho quân đánh, nhân dân làm kế thanh dã (vườn không nhà trống), đại quân ra Khâm Châu, Liêm Châu đánh vào Trường Sa, Hồ Nam, còn đoản binh thì đánh úp phía sau. Đó là một thời. Đời nhà Đinh, nhà Tiền Lê dùng người tài giỏi, đất phương nam mới mạnh mà phương bắc thì mệt mỏi suy yếu, trên dưới một dạ, lòng dân không lìa, xây thành Bình Lỗ mà phá được quân Tống. Đó lại là một thời. Vua nhà Lý mở nền, nhà Tống xâm phạm địa giới, dùng Lý Thường Kiệt đánh Khâm, Liêm, đến tận Mai Lĩnh là vì có thế. Vừa rồi Toa Đô, Ô Mã Nhi bốn mặt bao vây. Vì vua tôi đồng tâm, anh em hòa mục, cả nước góp sức, giặc phải bị bắt. Đó là trời xui nên vậy. Đại khái, nó cậy trường trận, ta dựa vào đoản binh. Dùng đoản binh chế trường trận là sự thường của binh pháp. Nếu chỉ thấy quân nó kéo đến như lửa, như gió thì thế dễ chế ngự. Nếu nó tiến chậm như các tằm ăn, không cầu thắng chóng, thì phải chọn dùng tướng giỏi, xem xét quyền biến, như đánh cờ vậy, tùy thời tạo thế, có được đội quân một lòng như cha con thì mới dùng được. Vả lại, khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước vậy”
                * (Đại Việt sử ký toàn thư tập 2 trang 76 -77).

                Trần Hưng Đạo giành chiến thắng trước quân Nguyên trên sông Bạch Đằng, kết thúc chiến tranh Nguyên Mông – Đại Việt lần 3 vào ngày 9 tháng 4 năm 1288, tức 8 tháng 3 năm Mậu Tý. Sau ba lần thắng giặc, đất nước thanh bình, ông lui về Vạn Kiếp và mất ngày 20 tháng 8 năm 1300 tại vườn An Lạc. Đền Kiếp Bạc ( Hải Dương) là nơi đền thờ chính của đức Thánh Trần.

                Chùa Thắng Nghiêm (Hà Nội) nơi Trần Hưng Đạo lúc nhỏ tu học, là nơi Người hiển thánh.

                Đức Thánh Trần gương soi kim cổ

                Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn là nhà chính trị, quân sự, nhà văn kiệt xuất thời nhà Trần. Chiến công kiệt xuất đánh bại quân đội nhà Nguyên năm 1285 và 1287 đã đưa Đức Thánh Trần thành đại danh tướng lừng lẫy nhất của thế giới và Việt Nam. “CHỌN TƯỚNG” là một chương trong Binh thư Yếu lược của Trần Quốc Tuấn, kiệt tác súc tích và sâu sắc lạ lùng.

                “Người quân tử tiến thoái quả quyết, xem người thì thanh thản vui tươi, chí thì ở trừ tàn bạo, đó là khí độ của người tướng quốc. Thấy ác không giận, thấy lành không mừng, nhan sắc không thay đổi, đó là lượng của người thiên tử.

                Được sự thắng nhỏ, gặp sự thua nhỏ, mà mừng lo hình ra nét mặt, hễ thấy động thì động, thấy tĩnh thì tĩnh, nhát mà không tính toán gì, cất chân thì thần sắc không định, mà hay lấy lời nói để thắng người, đó là tướng ngu vậy.

                Bảy phép để biết người:

                1. Hỏi bằng lời nói xem trả lời có rõ ràng không
                2. Lấy lời cật vấn đến kỳ cùng để xem cách ứng biến của họ.
                3.  Cho gián điệp thử xem có trung thành không.
                4. Hỏi rõ ràng tường tất để xem đức hạnh thế nào.
                5. Lấy của mà thử để xem có thanh liêm không
                6. Lấy sắc đẹp mà thử để xem có đứng đắn không.
                7. Lấy việc khó khăn mà thử để xem có dũng cảm không.
                8. Đem rượu cho họ uống say để xem có giữ được thái độ không.

                Tướng ngu có tám điều tệ:

                1. Lòng tham mà không chán
                2. Ghen người hiền, ghét người tài
                3. Tin lời dèm pha, thích lời nịnh hót
                4. Xét người mà không xét mình
                5. Do dự không quả quyết
                6. Say đắm rượu và sắc đẹp
                7. Thích xảo trá mà lòng nhút nhát
                8. Nói lời viễn vông mà không giữ lễ

                Gia Cát Lượng sách Tướng Uyển chỉ bảy phép biết người.

                Biết tính tình của người, chẳng gì khó bằng xem xét, lành dữ tuy khác nhau, tính tình và vẻ mặt chẳng phải một: có kẻ thì ôn hoà, hiền lành nhưng làm việc trộm cắp;có kẻ bề ngoài thì cung kính nhưng trong bụng thì vô lễ, dối trá; có kẻ bề ngoài thì mạnh dạn nhưng trong bụng thì khiếp sợ;có kẻ làm việc tận lực nhưng bụng không trung thành;

                Bảy phép sau đây để biết người

                1. Hỏi việc phải trái để dò chí hướng;
                2. Lấy lời cật vấn để biết ứng biến;
                3. Đem mưu kế hỏi để lường kiến thức;
                4. Giao chuyện hiểm nguy để soi dũng cảm;
                5. Mời rượu cho uống say để xét tính tình;
                6. Đưa lợi gái thử để rõ thanh liêm chính trực;
                7. Đem việc cậy nhờ để xét sự trung thành, tin thật.

                Tám hạng tướng và bậc đại tướng

                Nhân tướng là người dùng đức để đem đường cho người, dùng lễ để xếp việc cho họ, hiểu thấu sự đói rét của người dưới, biết rõ khó nhọc của đồng sự, đó là nhân tướng.

                Nghĩa tướng là người làm việc không cẩu thả, thấy lợi mà không tham, biết chết vinh hơn sống nhục.

                Lễ tướng là người có địa vị cao quý mà không kiêu căng, công hơn người mà không cậy, tài năng mà biết hạ mình, cứng cỏi mà biết nhẫn nhịn.

                Trí tướng là người gặp biến bất ngờ mà chí không đổi, ứng phó linh hoạt với việc khó khăn, có thể đổi họa thành phúc, gặp cơn nguy biến mà sắp đặt thành thắng thế.

                Tín tướng là người thưởng phạt nghiêm minh công bằng, khen thưởng không chậm trễ và không bỏ sót, trừng phạt không buông tha cho kẻ cao quý.
                Bộ tướng thủ hạ của đại tướng phải chọn người tay chân lẹ làng, võ nghệ tuyệt luân,  giỏi đánh gần, ứng biến di chuyển mau lẹ, để bảo vệ an toàn cao nhất cho chủ soái.
                Kỵ tướng là người có thể vượt núi non cheo leo, từng trải việc nguy hiểm, cưỡi ngựa bắn tên mau lẹ như chim bay, tới thì đi trước, lui thì về sau.
                Mãnh tướng là người khí thế vượt hẳn ba quân, dám coi thường địch mạnh, gặp đánh nhỏ vẫn luôn cẩn trọng, gặp đánh lớn thì can đảm quả quyết.

                Bậc đại tướng là người bao trùm và vượt hẳn tám hạng tướng kể trên, gặp hiền tài thì tôn trọng lắng nghe, biết tỏ ý mình không theo kịp người, biết nghe lời can ngăn như thuận theo dòng nước, lòng rộng rãi nhưng chí cương quyết, giản dị và nhiều mưu kế.”

                Ôi, đọc lại “Binh Thư Yếu lược” “Hịch Tướng Sĩ Văn” gương soi kim cổ, lắng nghe cuộc sống, để biết sửa mình; xem tiếp… Lời dặn của Thánh Trần;

                Chí Minh với lãnh đạo Đảng và Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1961, ảnh tư liệu của PCT)

                Chuyện cổ tích người lớn
                CỤ NGUYỂN ĐĂNG MẠNH VIẾT VỀ BÁC HỒ
                Hoàng Kim


                Cụ Mạnh viết về Bác Hồ ở Chương 7 “Hồi ký Nguyễn Đăng Mạnh” thật hay. Tôi thường đọc lại. Nghề văn sử thời nay, chép đầy ắp tư liệu hay và thật như vậy, là thật giỏi và khéo lắm.
                Cậu Cương ngọc trai bé của ông tôi trong Hoàng Gia Cương theo dòng thời gian cuối sách có ghi: “Văn muốn đạt tài hoa, tâm cần sáng, tứ cần sâu, năng gạn đục khơi trong văn mới tuyệt. Nghệ mong nên tuyệt tác, trí phải minh, công phải trọng, biết tầm sư học đạo nghệ càng tinh“; “CHÍ khí một hiền MINH, vạch lối, dẫn đường, gây nghiệp lớn hồi sinh đất nước. NGUYÊN  vẹn từng trụ GIÁP, xua Tây, trừ Mỹ, lập công đầu bảo vệ non sông”.

                CỤ NGUYỄN ĐĂNG MẠNH VIẾT VỀ BÁC HỒ
                (Trích Hồi ký Nguyễn Đăng Mạnh, chương Bảy)

                Tôi được tận mắt thấy Hồ Chí Minh hai lần. xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/chuyen-co-tich-nguoi-lon/

                Đọc lời nguyền trăm năm
                LỜI ĐỒNG DAO HUYỀN THOẠI
                Hoàng Kim

                Ta đành vậy! Cắt ra từng gan ruột
                Lúc bơ vơ, bấu víu tiếng nhà quê
                Chỉ nước mắt nuốt vào miền quên lãng
                Mái thềm ơi! Dù đi bộ cũng xin về!
                ” (1)

                Đời số phận chia ra thành ba ngã
                Kẻ li hương, người ở, lối vùng ven
                Chuyện cổ tích
                Lời đồng dao huyền thoại
                Bay trên tổ chim cúc cu
                Dây dã tường vi thật dẻo dai !

                Tách cà phê ban mai
                Gió mù sương đầy núi
                Suối nguồn thao thiết chảy
                Nhạc rừng đầy tiếng chim (2)

                Ba con ngỗng trong một đàn
                Một bay về Đông, một bay Tây
                Và một bay trên tổ chim cúc cu.
                Dây dã tường vi thật dẻo dai ! (3)

                (1) Hoàng Đình Quang, thơ Di tản;

                DI TẢN
                Hoàng Đình Quang


                Mỗi dòng tin làm ta rơi nước mắt
                Bạn về quê bạn biết nơi mô mà tìm?
                Tiếng xe chạy chỉ nhìn qua kính chắn
                Vẫy chào ngày ở lại với lặng im.

                Rồi khốn khó tháng ngày sàng sẩy
                Mưa vẫn giăng mưa, bão vẫn bão bùng
                Cây cầu nối trong với ngoài thành phố
                Chỉ một đầu tiễn biệt thủy chung!

                Ta vẫn biết tai ương tràn phố thị
                Trốn nỗi đau, đi gặp nỗi buồn
                Ngồi mặc cả với rủi may thời thượng
                Phía quê nhà cánh cổng khép hoàng hôn!

                Ta đành vậy! Cắt ra từng gan ruột
                Lúc bơ vơ, bấu víu tiếng nhà quê
                Chỉ nước mắt nuốt vào miền quên lãng
                Mái thềm ơi! Dù đi bộ cũng xin về! (*)

                Làm sao khác, cái vòng tròn cơm áo
                Lúc cơ hồ, danh vọng khuất nhân tình
                Rồi quên nhớ, ít nhiều, thua được
                Rất hồn nhiên, tai họa rập rình!

                Nào! Thôi nhé, chuyến xe đò không hẹn
                Hay đôi chân biết định hướng chào đời
                Phía nước mắt sẽ khô dần, di tản
                Đón nhau về chập choạng chiều cánh dơi!

                27.7.2021
                (*). Mượn ý Olga Bergon: “Pushkin ơi, dù đi bộ cũng xin về”.

                (2) Hoàng Kim:
                (3) Thơ ‘Lời nguyền trăm năm”.

                Bay trên tổ chim cúc cu
                LỜI ĐỒNG DAO HUYỀN THOẠI

                Wire, briar, limber-lock
                Three geese in a flock
                One flew east, one flew west
                And one flew over the cuckoo’s nest.

                Dây dã tường vi thật dẻo dai
                Ba con ngỗng trong một đàn
                Một bay về Đông, một bay Tây
                Và một bay trên tổ chim cúc cu.

                Nhân loại
                Nghìn năm trước
                Bây giờ
                và mãi mãi
                là bài ca
                khát khao Tự Do
                và duy trì Kỷ luật.

                Wire, briar, limber-lock
                Three geese in a flock
                One flew east, one flew west
                And one flew over the cuckoo’s nest.

                Dây dã tường vi thật dẻo dai
                Ba con ngỗng trong một đàn
                Một bay về Đông, một bay Tây
                Và một bay trên tổ chim cúc cu.

                Tách cà phê ban mai
                Gió mù sương đầy núi
                Suối nguồn thao thiết chảy
                Nhạc rừng đầy tiếng chim …

                Xem phim Bay trên tổ chim cúc cu
                Phim & Video yêu thích
                Bìa Sách hay  và Xem phim:

                ĐỌC LỜI NGUYỀN TRĂM NĂM
                Hoàng Kim


                Nhà Tống là hoàng triều cai trị Trung Quốc từ năm 960 đến năm 1279. Triều đại này dài 319 năm .(Tương ứng với thời nhà Lý của Đại Việt. Nhà Lý là hoàng triều Đại Việt bắt đầu khi Lý Công Uẩn lên ngôi vào tháng 10 âm lịch năm 1009 sau khi giành được quyền lực từ tay nhà Tiền Lê. Triều đại này trải qua 9 vị hoàng đế và chấm dứt khi Lý Chiêu Hoàng, lúc đó mới có 7 tuổi, bị ép thoái vị để nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh vào năm 1225, tổng cộng là 216 năm). Nhà Tống Trung Quốc được sáng lập bởi Tống Thái Tổ sau khi ông soán ngôi Hoàng đế Hậu Chu rồi kết thúc thời kỳ Ngũ đại Thập quốc. Nhà Tống trong suốt thời gian tồn tại thường xuyên xung đột với các quốc gia phương bắc là Liêu, Tây Hạ và Kim. Cuối cùng, Nhà Tống đã bị chinh phục bởi nhà Nguyên do người Mông Cổ lãnh đạo, chứ không phải là Kim, Liêu, Tây Hạ, là những lân bang. Diện tích nhà Tổng thuở lập quốc là 800.000 km2, nhỏ hơn diện tích kế thừa thời Đường là 10.760.000 km2, nhưng đến năm 980 thì nhà Tống là lớn nhất đạt 3.100.000 km2, và lúc nhà Tống đổi thời sang nhà Nguyên thì diện tích đất Tống lúc đó là 1.800.000 km2 . Và, nhà Tống bị chinh phục là bởi nhà Nguyên do người Mông Cổ lãnh đạo. Đọc “Lời nguyền trăm năm” của Đỗ Thái hậu đã nói với vua Tống Thái Tổ mà người sau là Mạnh Tử đã đúc kết tinh hoa: “Người nhân nghĩa không ai đánh nổi !”: Đỗ Thái hậu nói “Hoàng thượng biết vì sao Hậu Chu mất không? Là vì họ đưa một đứa trẻ 7 tuổi lên làm vua”, Đỗ Thái hậu lại thúc giục vua nên lập em trai để kế vị, tránh vào vết xe đổ của Hậu Chu. “Liên thủ ai và chống ai phải tùy vào thế và lực nhưng ĐỨC NHÂN VÀ NỘI LỰC MỚI LÀ NGƯỜI THẮNG SAU CÙNG”. Sau Tổng Thái Tổ là võ quan duy nhất thì các vua nhà Tống sau đều là các trí vương, nhân vương, biết tùy thời mà hành xử. Vua Tống Nhân Tông đã liên thủ và cân bằng quyền lực với các ‘nữ lưu Nghiêu Thuấn ‘ là Tào Thái hậu, Cao Thái hậu nên đã giúp ổn định được nhà Tống chính thể lâu dài như vậy. “Tư Trị Thông Giám” như “Đông Chu Liệt Quốc” là sách hay cần đọc. Phim “Khúc nhạc thanh bình” đúc kết giỏi.

                Lãnh thổ nhà Tống năm 1111.

                THẠCH LAM NGỌC ĐỜI NAY
                Hoàng Kim


                đọc lại chuyện Thạch Lam ngọc đời nay, nhớ tháng bảy mưa ngâu. Thạch Lam mất lúc 32 tuổi ngày 27 (28?) tháng 6 năm 1942 Thạch Lam tốt tính, biết vừa đủ (tường minh vừa phải) nói viết điều gì cũng lương thiện chừng mực. Ông sống nhân cách, gần gũi người dân nghèo khổ, tiếc là mất quá sớm. Gió đầu mùa (1937), Nắng trong vườn (1938), Ngày mới (1939), Hạt ngọc (1940), Quyển sách (1940), Theo giòng (1941), Sợi tóc (1942), Hà Nội băm sáu phố phường (1943) là tám tác phẩm Thạch Lam gửi lại cho đời. Nguyễn Tường, là một dòng họ lớn vinh quang và bi kịch, Cụ ông Nguyễn Tường Vân là Binh bộ Thượng thư của vua Gia Long. Chữ Tường là bởi vua Gia Long đi đến chân núi Phước Tường, Hội An thì hỏi mọi người núi này là núi gì, ông trả lời “Thưa Chúa đây là núi Phước Tường”. Vua Gia Long nói với ông Nguyễn Tường Vân đi bên cạnh là hầu cận rất thân “Phước là họ ta nhưng Tường thì ta ban cho nhà ngươi”. Từ đó trở đi thì mới là họ Nguyễn Tường, trước thì chỉ Nguyễn không thôi. Thạch Lam tâm niệm: “văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người đọc thêm trong sạch và phong phú hơn”. Văn là người. Nhân cách, cuộc đời và di sản văn chương Thạch Lam là hạt ngọc đời nay về cả nghĩa đen và nghĩa bóng. Chuyện cổ tích người lớn sưu tầm và biên tập Thạch Lam ngọc đời nay. (*) Theo các tư liệu thu thập chính trên Bách khoa toàn thư Mở Wikipedia Tiếng Việt cập nhật thông tin đến 27 tháng 7 năm 2021 để đời không nỡ quên. Hoàng Kim tra cứu, đối chiếu, chỉnh lý và ghi chép

                xem tiếp
                Xem tiếp >>

                  Dạy và học 27 tháng 7(27-07-2021)


                 

                 

                DẠY VÀ HỌC 27 THÁNG 7
                Hoàng Kim
                CNM365 Tình yêu cuộc sốngNhững bài thơ không quên; Việt Nam ngày thương binh liệt sĩ. Ngày 27 tháng 7 năm 1792, ngày mất Võ Trường Toản, nhà giáo, danh sĩ Việt Nam thời cận đại. Ngày 27 tháng 7 năm 1953, Chiến tranh Triều Tiên kết thúc giao tranh bằng một hiệp định đình chiến được ký giữa Hoa Kỳ, Trung Quốc và Bắc Triều Tiên; Bài chọn lọc ngày 27 tháng 7: Những bài thơ không quên; Trần Quang Khải thơ thần; Nhà Trần trong sử Việt; Về với vùng văn hóa; Sơn Tùng chuyện Bác Hồ; Nhớ bạn nhớ châu Phi;Nhớ vầng trăng ngọn lửa; Nếp nhà đẹp văn hóa; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-27-thang-7

                 

                 

                NHỮNG BÀI THƠ KHÔNG QUÊN
                Hoàng Kim

                Nhân dân ta, dân tộc ta, non sông đất nước ta đời đời nhớ ơn những người con trung hiếu đã hiến thân mình cho Tổ Quốc. Tấm ảnh Bác Hồ nghiêm trang, lặng lẽ, tĩnh lặng trong lòng của chúng ta thật nhiều điều. Có những khoảng lặng trời đất thấu lòng người, cả dân tộc ta cùng hướng về Ngày Thương Binh Liệt Sĩ .

                Viếng mộ cha mẹ”; “Em ơi can đảm lên”; “Mẹ”; “Ba nén hương”; “Thư của người ra trận”; “Hoàng Ngọc Dộ khát vọng“; “Hoàng Trung Trực đời lính“; “Quảng Bình đất Mẹ ơn Người“; “Linh Giang sông quê hương“; “Lời thề trên sông Hóa“; “Thắp đèn lên đi em”; “Nhớ tháng bảy mưa ngâuNhững bài thơ không quên“.

                Bài thơ “Viếng mộ cha mẹ” của đại tá Hoàng Trung Trực rút trong tập thơ “Dấu chân người lính”. “Em ơi can đảm lên” là thơ thầy Nguyễn Khoa Tịnh; “Hoàng Ngọc Dộ khát vọng” là di cảo thơ anh hai thầy giáo Hoàng Ngọc Dộ, người đã thay cha mẹ mất sớm dìu dắt các em.. “Hoàng Trung Trực đời lính” có trường ca ‘Dấu chân người lính’; “Mẹ” là thơ Tô Hoàn, rút trong “Tuyển tập thơ lục bát Việt Nam” tái bản tháng 7 năm 2000, Nhà xuất bản Văn hóa thông tin ấn hành. “Ba nén nhương” là bài thơ của nhà thơ thương binh Hoàng Cát đăng trên báo và trang thơ Nguyễn Trọng Tạo.”Thư của người ra trận” là bài thơ người lính vô danh do anh Lê Trung Xuân đọc năm 1971 và Hoàng Kim chép lại theo trí nhớ. Bốn người bạn Xuân, Chương, Trung, Kim đều cùng là sinh viên đại học nhập ngũ tháng 9 năm 1971. Chúng tôi cùng trong một tổ chiến đầu bốn người. Hai anh Xuân và Chương đều hi sinh năm 1972 tại Quảng Trị, còn Phạm Huy Trung và Hoàng Kim trở về trường cũ sau ngày đất nước thống nhất . Anh Xuân ra đi đã mang theo bí mật của bài “Thư của người ra trận” mà cho đến nay chúng tôi vẫn chưa biết rõ ai là tác giả. “Quảng Bình đất mẹ ơn người”; “Linh Giang sông quê hương”; “Lời thề trên sông Hóa”; “Thắp đèn lên đi em”; “Nhớ tháng bảy mưa ngâu” là thơ Hoàng Kim.

                 

                Viengmochame

                 

                VIẾNG MỘ CHA MẸ
                Hoàng Trung Trực

                Dưới lớp đất này là mẹ là cha
                Là khởi phát đời con từ bé bỏng
                Là lời mẹ ru dịu dàng cánh võng
                Là gươm đao cha một thuở đau đời

                Hành trang cho con đi bốn phương trời
                Là nghĩa khí của cha, là nhân từ của mẹ
                Vẫn bầu sữa tinh thần không ngừng không nghỉ
                Để hành trang cho con đi tiếp cuộc đời

                Cuộc đời con bươn chãi bốn phương trời
                Nay về lại nơi cội nguồn sinh trưởng
                Dâng nén hương mà lòng hồi tưởng
                Thuở thiếu thời dưới lồng cánh mẹ cha

                “Ước hẹn anh em một lời nguyền
                Thù nhà đâu sá kể truân chiên
                Bao giờ đền được ơn trung hiếu
                Suối vàng nhắm mắt mới nằm yên”.

                EM ƠI CAN ĐẢM LÊN
                Nguyễn Khoa Tịnh

                Thầy ước mong em noi gương Quốc Tuấn

                Đọc thơ em, tim tôi thắt lại
                Lòng nghẹn ngào, nước mắt chảy rưng rưng
                Nửa xót xa nhưng nửa lại vui mừng
                Xót xa vì đời em còn thơ dại
                Mới tuổi thơ mà cuộc đời đầy khổ ải
                Mới biết cười đã phải sống mồ côi
                Như chiếc thuyền giữa biển tự trôi
                Như chiếc lá bay về nơi vô định
                “Bụng đói” viết ra thơ em vịnh:

                “Cơm ngày một bữa sắn trộn khoai
                Có biết lòng ta bấy hỡi ai?
                Vơi vơi lòng dạ, cồn cào bụng
                Kể chi no đói, mặc ngày dài”

                Phải!
                Kể chi no đói mặc ngày dài
                Rất tự hào là thơ em sung sức
                Rất tự hào là em tôi đầy nghị lực
                Đã hiển lộ mình qua “Cái chảo rang”

                “Trung dũng ai bằng cái chảo rang
                Lửa to mới biết sáp hay vàng
                Xào nấu chiên kho đều vẹn cả
                Chua cay mặn ngọt giữ an toàn
                Ném tung chẳng vỡ như nồi đất
                Quăng bừa xó bếp vẫn nằm ngang
                Tốt đẹp đâu cần danh tiếng hão
                Bạn cùng lửa đỏ, nóng chang chang”

                Phải!
                Lửa to mới biết sáp hay vàng!
                Em hãy là vàng,
                Mặc ai chọn sáp!
                Tôi vui sướng cùng em
                Yêu giấc “Ngủ đồng
                Hiên ngang khí phách:

                “Sách truyền sướng nhất chức Quận công
                Ta sướng khi ra ngủ giữa đồng
                Lồng lộng trời hè muôn làn gió
                Đêm thanh sao sang mát thu không
                Nằm ngữa ung dung như khanh tướng
                Lấy mấy vần thơ tỏ nỗi lòng
                Tinh tú bao quanh hồn thời đại
                Ngủ đồng khoan khoái ngắm gương trong”

                Tôi biết chí em khi “Qua đèo Ngang
                Ung dung xướng họa với người anh hùng
                Đã làm quân thù khiếp sợ:

                “Ta đi qua đèo Ngang
                Cũng gặp Người trèo qua núi hiểm
                Đỉnh dốc chênh vênh
                Xe mù bụi cuốn
                Có lẽ thiên nhiên đã định bao giờ
                Một dãy Hoành Sơn bát ngát trận đồ
                Điệp điệp núi cao
                Trùng trùng rừng thẳm.
                Người thấy
                Súng gác trời xanh
                Gió lùa biển lớn
                Nông dân rộn rịp đường vui
                Thanh Quan nàng nhẽ có hay
                Cảnh mới đã thay cảnh cũ.
                Ta hay
                Máu chồng đất đỏ
                Mây cuốn dặm khơi
                Nhân công giọt giọt mồ hôi
                Hưng Đạo thầy ơi có biết
                Người nay nối chí người xưa

                Tới đây
                Nước biếc non xanh
                Biển rộng gió đùa khuấy nước
                Đi nữa
                Đèo sâu vực thẳm
                Núi cao mây giỡn chọc trời

                Nhớ thù nhà, luống thẹn làm trai
                Thương dân nước, thà sinh phận gái
                “Hoành Sơn cổ lũy”
                Hỏi đâu dấu tích phân tranh?
                Chỉ thấy non sông
                Lốc cuốn, bốn phương sấm động.

                Người vì việc nước ra đi
                Ta muốn cứu dân nên thăm trận thế
                Điều không hẹn mà xui gặp mặt
                Vô danh lại gặp hữu danh
                Cuộc đời dài ắt còn sẽ gặp nhau
                Nay hội ngộ giữa đỉnh cao trời đất
                Anh em ta ngự trên xe đạp
                Còn Người thì lại đáp com măng
                Đường xuyên sơn
                Anh hùng gặp anh hùng
                Nhìn sóng biển Đông
                Như ao trời dưới núi.

                Xin kính chào
                Bậc anh hùng tiền bối
                Ta ngưỡng mộ Người
                Và tỏ chí với non sông
                Mẹ hiền ơi!
                Tổ Quốc ơi!
                Xin tiếp bước anh hùng!”

                Hãy cố lên em!
                Noi gương danh nhân mà lập chí
                Ta với em
                Mình hãy kết thành đôi tri kỷ!
                Đất Quảng Trạch này đâu kém Nam Dương
                Tôi tự hào bài “Tỏ chí” của em:

                “Quốc Tuấn ngày xưa chí vững bền
                Thù nhà, nợ nước chẳng hề quên
                Đến bữa quên ăn, đêm quên ngủ
                Thương dân, yêu nước quyết báo đền
                Văn hay thu phục muôn người Việt
                Võ giỏi kinh hồn lũ tướng Nguyên
                Mươi năm sau nữa ơi ông Tuấn
                Nối chí ông, nay cháu tiến lên!”

                Tôi thương mến em
                Đã chịu khó luyện rèn
                Biết HỌC LÀM NGƯỜI !
                Học làm con hiếu thảo.
                Mười lăm tuổi đã “Tập làm thầy giáo

                “Vui gì hơn buổi đầu làm thầy giáo
                Của lớp vở lòng đất mẹ yêu thương
                Trưa nắng luyến các em cùng đến lớp
                Giọng líu lo như chim hót ven đường.

                Đứng trước các em tuổi nhỏ đáng yêu
                Mà đã tưởng tới bao nhiêu người lớn
                Nghe em đọc giọng thanh thanh dễ mến
                Mà đã nghe đất nước xuyến xao mình!”

                Tổ Quốc đang chờ em phía trước.
                Em ơi em, can đảm bước chân lên!

                (*) “Bụng đói”, “Cái chảo rang”, “Ngủ đồng”, “Qua đèo Ngang”, “Tỏ chí”, “Tập làm thầy giáo” là những bài thơ Hoàng Kim được thầy Nguyễn Khoa Tịnh trích dẫn in nghiêng trong bài thơ này.

                MẸ
                Tô Hoàn

                Con về thăm mẹ chiều mưa
                Mới hay nhà dột gió lùa bốn bên
                Hạt mưa sợi thắng sợi xiên
                Cứ nhằm vào mẹ những đêm trắng trời
                Con đi đánh giặc một đời
                Mà không che nổi một nơi mẹ nằm!

                BA NÉN HƯƠNG
                Hoàng Cát

                Nén hương này con thắp giỗ mẹ
                Bom ập đến mẹ về cõi thế

                Nén hương này anh thắp giỗ em
                Ở lại miền Nam không có mộ để anh tìm

                Nén hương này tôi thắp giỗ thân tôi
                Chiến tranh cướp đi hai chục năm rồi

                Ba nén hương một mình tôi làm giỗ
                Giỗ chính mình, giỗ mẹ, giỗ em tôi !

                THƯ CỦA NGƯỜI RA TRẬN
                (Bài thơ chưa rõ tác giả)

                Anh viết cho em lá thư dài tâm sự
                Trời Lục Nam đêm này khó ngủ
                Cũng mơ màng như nét bút anh biên.

                Ở quê hương giờ chắc đã lên đèn
                Sau vất vả một ngày lao động
                Đêm nay nhé cùng anh em hãy sống
                Những ngày đầu thơ ấu của tình yêu.

                Nhớ lắm em ơi những sớm những chiều
                Ta sánh bước dưới trời cao trong vắt
                Anh nắm tay em, em cười trong mắt
                Trăng thẹn thùng lẫn vội bóng mây trôi
                ….
                Rồi từ đó bao đêm thao thức bồi hồi
                Anh mơ được cùng em xây tổ ấm
                No đói có nhau ngọt bùi khoai sắn
                Một căn nhà đàn con nhỏ líu lô

                Tấm lòng em là cả một bài thơ
                Anh muốn viết như một người thi sĩ
                Ruộng lúa nương khoai tấm lòng tri kỷ
                Có bóng em đi thêm đẹp cả đất trời.

                Nhưng em ơi khi ta bước vào đời
                Đâu chỉ có bướm có hoa có trời có đất
                Đâu chỉ có mơ màng những đêm trăng mật
                Mà đất trời đã nổi phong ba

                Tạm biệt em, anh bước đi xa
                Khi thửa ruộng luống cày còn dang dỡ
                Khi mầm non tình ta vừa mới nhú
                Khi căn nhà còn tạm mái tranh.

                Quê hương ơi xóm nhỏ hiền lành
                Có biết chăng người yêu ta ở đó
                Một nắng hai sương giải dầu mưa gió
                Mắt mỏi mòn ai đó ngóng trông nhau.

                Anh đi biển rộng sông sâu
                Con thuyền nhỏ vẫn mong ngày cập bến
                Đò có đông em ơi đừng xao xuyến
                Nắng mưa này đâu chỉ có đôi ta.

                Anh đi bão táp mưa sa
                Chỉ thương em một cánh hoa giữa trời
                Đời là thế đó em ơi
                Buồn thương xa cách chia phôi là thường.

                Anh gửi cho em lời nhắn lên đường
                Bức thư của người ra trận
                Dù mai sau trong niềm vui chiến thắng
                Anh chưa về nhưng đã có thư anh …

                 

                 

                HOÀNG NGỌC DỘ KHÁT VỌNG
                Hoàng Ngọc Dộ và Hoàng Kim


                Hoàng Ngọc Dộ (1937-1994) là nhà giáo. Ông quê ở xã Quảng Minh, huyện Quảng Trạch (nay là thị xã Ba Đồn), tỉnh Quảng Bình. Mẹ mất sớm. Nhà nghèo. Cha bị bom Mỹ giết hại. Ông đã nổ lực nuôi dạy các em vượt qua gian khổ, nghèo đói và chiến tranh để vươn lên trở thành những gia đình thành đạt và hạnh phúc. Gương nghị lực vượt khó hiếm thấy, ăn ngày một bữa suốt năm năm, nuôi hai em vào đại học với sự cưu mang của thầy bạn và xã hội đã một thời lay động sâu xa tình cảm thầy trò Trường Cấp Ba Bắc Quảng trạch (Quảng Bình). Ông mất sớm, hiện còn lưu lại gần 100 bài thơ. Lời thơ trong sáng, xúc động, ám ảnh, có giá trị khích lệ những em học sinh nhà nghèo, hiếu học. Anh Hai Hoàng Ngọc Dộ cũng là người Thầy dạy học đầu tiên cho
                Hoàng Kim: “Dặn con cháu khiêm nhu cần kiệm”; “Cảnh mãi đeo người được đâu em Hết khổ, hết cay, hết vận hèn Nghiệp sáng đèn giời đà chỉ rõ Rồi đây cay đắng chẳng buồn chen”;”Không vì danh lợi đua chen. Thù nhà nợ nước quyết rèn bản thân”; “Soi mặt mình trong gương không bằng soi mặt mình trong lòng người”; “Có những di sản tỉnh thức cùng lương tâm, không thể để mất vì không thể tìm lại Hoàng Ngọc Dộ Khát vọng

                ÁNH SAO
                Hoàng Ngọc Dộ


                Bóng đêm trùm kín cả không trung
                Lấp lánh phương Đông sáng một vừng
                Mây bủa, mây giăng còn chẳng ngại
                Hướng nhìn trần thế bạn văn chương.

                LỜI NGUYỀN
                Hoàng Ngọc Dộ

                Không vì danh lợi đua chen
                Thù nhà, nợ nước, quyết rèn bản thân!

                Ước hẹn anh em một lời nguyền
                Thù nhà đâu sá kể truân chiên
                Bao giờ đền được ơn trung hiếu
                Suối vàng nhắm mắt mới nằm yên.

                 

                 

                Hai anh em giữa Sài Gòn giải phóng (Hoàng Trung Trực sư 341, Hoàng Kim sư 325B)

                 

                HOÀNG TRUNG TRỰC ĐỜI LÍNH
                Hoàng Trung Trực
                    
                Cuộc đời và thời thế


                Năm Thân con khóc chào đời
                Sức sống sữa Mẹ suốt đời tình thương
                Nước nhà gặp cảnh tai ương
                Việt Nam là bãi chiến trường giao tranh
                 Pháp Nhật Tàu tới hoành  hành
                Chạy giặc Cha Mẹ phải đành lánh thân
                Người dân khổ cực muôn phần
                Nước nhà chiến sự, nghèo bần Mẹ Cha
                Trường Sơn rừng núi là nhà
                Rừng thiêng nước độc, ta ra chẳng thời *

                 

                (*) Ernest Hemingway (1899-1961), tác giả của kiệt tác Ông già và biển cả, Giã từ vũ khí, là một cựu quân nhân, sống trãi gần trọn đời trong chiến tranh và nghèo đói của chiến tranh thế giới thứ nhất và thứ hai, nên ông đã mô tả người như ông là thế hệ cầm súng, không hề được tận hưởng chất lượng cuộc sống, là “Thế hệ bỏ đi” (Lost Generation) của cộng đồng người Paris xa xứ; xem Borlaug và Hemingway
                                                 
                Tuổi thơ trong nghèo đói


                Ai quyền sống được làm người
                Mà dân mất nước gặp thời chua cay?
                Đời Cha sự nghiệp đổi thay
                Lính Tây ngày trước, thời này đánh Tây

                Ru ta lời Mẹ đêm ngày
                Vọng theo hồn Nước tháng ngày bên Cha
                Cha thì chiến đấu đường xa
                Mẹ con chạy giặc, cửa nhà thì không
                Nỗi niềm cuộc sống đau lòng
                Bão mưa tàn phá, gió lồng không ngơi.

                Gia đình nhiều nguy nan

                Mẹ ta dãi nắng dầm mưa
                Lo cho con có cháo dưa học hành
                Giữa rừng số phận mong manh
                Mẹ phải chịu bệnh hoành hành héo hon
                Đời Mẹ chung thủy sắt son
                Đời Cha lính chiến tuổi xuân đọa đày
                Lời thề nguyên bản xưa nay
                Đã là người lính không lay lòng vàng
                Bệnh về chẳng chút thở than
                Bao nhiêu mầm bệnh Cha mang theo về

                Mẹ Cha bao gian khổ

                Bệnh sốt rét thật là ghê
                Gan lách phù thủng trăm bề hại Cha
                Chiến tranh tan cửa nát nhà
                Mình Cha xoay xở thật là gian nan
                Phận con rau cháo cơ hàn
                Tuổi thơ năm tháng bần hàn Mẹ Cha
                Tháng ngày khoai muối dưa cà
                Đời còn Cha Mẹ đậm đà tình thương
                Tình Cha Mẹ, nghĩa Nước Non
                Tháng ngày chăm chút vuông tròn hiếu trung.

                Tuổi xuân vui lên đường

                Lên đường theo lệnh tòng quân

                Xa nhà nỗi nhớ bội phần từ đây
                Mẹ khóc nước mắt tuôn đầy
                Lo con gian khổ cuộc đời chiến binh
                Cha không khóc chỉ làm thinh
                Tiễn con tựa cửa lặng nhìn theo con

                Vần xoay sự nghiệp vuông tròn
                Dấu chân Cha trước, nay con theo Người
                Gẫm suy mới rõ thế thời
                Hoàng Trung Trực đã thành người chiến binh.

                 

                Giải phóng nước bạn Lào
                (10/1963- 5/1965)


                Đất Hương Khê , núi Quảng Bình
                Vượt Trường Sơn vắt sức mình kiệt hao
                Núi Phú Riềng, đất Lạc Xao
                Nơi này ghi dấu chiến hào binh ta
                Đời nhọc nhằn, thân xót xa

                Trĩu vai súng đạn, gạo là quanh lưng        
                Vượt bao đèo dốc  hành quân
                Liên hồi tác chiến, máu dầm mồ hôi
                Lại thêm sốt rét từng hồi
                Thuốc men chẳng có, tháng trời toàn măng
                Chia nhau chén cháo cứu thân
                Trên bom, dưới đạn, ngủ hầm, tình thâm.

                Nhớ người thân đã khuất

                Đêm trường thân lại xông pha
                Theo chân thủ trưởng vào ra trận thù
                Đạn giặc đan chéo như mưa
                Đôi chân thủ trưởng đạn cưa mất rối
                Trong ta tỉnh thức tình người
                Cõng ngay thủ trưởng xuôi đồi chạy lui
                Đêm rừng trời lại tối thui
                Lạc mất phương hướng tới lui tìm đường
                Quay đầu hỏi ý tình thương
                Mới hay thủ trưởng tìm đường đi xa


                Không hơi thở một xác ma
                Làm ta thực sự xót xa một mình

                Người thấm mệt, phút tử sinh
                Giữa rừng im ắng lặng thinh không người 
                Chỉ nghe tiếng thú quanh đồi

                Làm cho ớn lạnh khắp người của ta
                Song vì cái đói không tha
                Cho nên khiếp sợ theo đà mất tiêu
                Trãi qua những phút hiểm nghèo
                Vác xác thủ trưởng cố leo tìm đường.

                Giữa rừng núi, không người thương
                Còn đâu phương hướng, tai ương không người
                Một tâm hồn một cuộc đời
                Không gạo không lửa, giữa trời rừng xanh
                Một mình tính mạng mong manh
                Tình thương người lính giúp anh chí bền
                Năm ngày thủ trưởng vẫn nguyên
                Tìm ra đơn vị bình yên lòng mình.

                Tin Mẹ mất giữa chiến trường

                 

                Nỗi đau nghiệt ngã vô hình
                Nhận tin Mẹ mất nội tình cách phân
                Công ơn Mẫu tử tình thâm
                Căn bệnh đã cướp Mẫu thân mất rồi
                Còn đâu bóng dáng hình Người
                Đất trời nghiêng ngữa hại đời ta đây
                Nỗi lòng đau khổ khôn khuây
                Mẹ hiền ơi phút giờ này còn đâu
                Lòng buồn tê tái đêm thâu
                Trần gian đâu nữa Mẹ hiền, Cha ơi

                Buồn thương Cha nỗi nhớ Người
                Tình thương Cha Mẹ, trên đời còn Cha 

                Con không khóc chỉ nhớ nhà
                Trăm lần thương Mẹ xót xa phận mình
                Làm người lính chiến tử sinh
                Chiến tranh tàn khốc dứt tình Mẹ Cha
                Tang thương đến không về nhà
                Cuộc đời người lính vẫn là chiến tranh
                Máu bạn đổ tiếp bên anh
                Xác xương vùi dập trời xanh phủ rừng
                Núi đồi che ấm thân lưng
                Nhóm lên ngọn lửa bập bùng Trường Sơn.

                (xem tiếp chuỗi chiến dịch và sự kiện chính …)

                 

                 

                QUẢNG BÌNH ĐẤT MẸ ƠN NGƯỜI
                Hoàng Kim

                Quảng Bình đất Mẹ ơn Người
                Tổ tiên cát bụi nhiều đời thành quê
                Đinh ninh như một lời thề
                Trọn đời trung hiếu để về dâng hương

                Lòng son trung chính biết ơn
                Quê hương chung đúc khí thiêng Quảng Bình
                Về quê kính nhớ Tổ tiên
                Mừng vui giữa chốn bạn hiền người thân

                Đất trời ngày mới thanh tân
                Thung dung thăm hỏi ân cần níu chân.
                Đường xuân như một dòng sông
                Việt Nam thống nhất thác ghềnh đến nơi.

                Hồn chính khí bốc lên ánh sáng
                Sáng choang ngọc đá giữa hoang tàn’.
                Tâm nhân văn lắng đọng tinh hoa
                Hoa Đất Hoa Người trong cõi Bụt.

                 

                 

                LINH GIANG SÔNG QUÊ HƯƠNG
                Hoàng Kim

                Nhà mình gần ngã ba sông
                Rào Nan, chợ Mới, nguồn Son, Quảng Bình
                Linh Giang sông núi hữu tình
                Nơi đây cha mẹ sinh thành ra con

                “Chèo thuyền cho khuất bến Son
                Để con khỏi chộ nước non thêm buồn “

                Câu ru quặn thắt đời con
                Mẹ cha mất sớm, con còn trẻ thơ

                Ra đi từ bấy đến chừ
                Lặn trong sương khói bến đò sông quê
                Ngày xuân giữ vẹn lời thề
                Non sông mở cõi, tụ về trời Nam.

                 

                 

                LỜI THỀ TRÊN SÔNG HÓA
                Hoàng Kim


                Sông Hóa ơi Bạch Đằng Giang
                Ta đến nơi đây chẳng một lần
                Lời thề sông núi trời đất hiểu
                Lời dặn của Thánh Trần (*)

                Sông Hóa ơi hời, ơi Linh Giang
                Quê hương liền dải tụ trời Nam
                Minh Lệ, Hưng Long hai bầu sữa
                Hoàng Gia trung chính một con đường.

                Rào Nan Đá Dựng chốn sông thiêng
                Nguồn Son Chợ Mới đẹp ân tình
                Minh Lệ đình xưa thương làng cũ
                Nguyện làm hoa đất của quê hương.

                Đất nặng ân tình đất nhớ thương
                Ta làm hoa đất của quê hương
                Để mai mưa nắng con đi học
                Lưu dấu chân trần với nước non.

                (*) Trương Hán Siêu “Phú sông Bạch Đằng” đã thuật lại cuộc chiến sông Bạch Đằng nơi voi chiến sa lầy rơi nước mắt và lời thề trên sông Hóa 1288 của Hưng Đạo Vương. Lời thơ lẫm liệt hào hùng bi tráng: “Thuyền bè muôn đội, tinh kỳ phấp phới/ Hùng dũng sáu quân, giáo gươm sáng chói/[…] / Trận đánh được thua chửa phân/ Chiến lũy bắc nam đối chọi/ […] / Tất Liệt thế cường, Lưu Cung chước dối / Những tưởng gieo roi một lần/ Quét sạch Nam bang bốn cõi/ […] /Trời cũng chiều người / Hung đồ hết lối! ” Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải viết: ‘Thái bình tu nổ lực/ Vạn cổ thử giang san”.— cùng với Tình yêu cuộc sống, Kim Hoàng, Nguyễn Thanh Bình, Nguyễn Thị ThủyHoang Long.

                 

                HoangTranLeNguyendatphuongNam

                 

                THẮP ĐÈN LÊN ĐI EM !
                Hoàng Kim

                Thắp đèn lên đi em!
                Xua tăm tối, giữa đêm trường ta học
                Vũ trụ bao la đèn em là hạt ngọc
                Cùng sao khuya soi sáng mảnh đất này
                Dù sớm chiều em đã học hăng say
                Dù ngày mệt chưa một hồi thanh thản
                Đèn hãy thắp sáng niềm tin chiến thắng
                Em thắp đèn lên cho trang sách soi mình.

                Thắp đèn lên đi em!
                Xua tăm tối giữa đêm trường ta học
                Em đâu chỉ học bằng ánh mắt
                Mà bằng cả lòng mình, cả khối óc hờn căm
                Thù giặc giết cha, bom cày sập tung hầm
                Nhà tan nát, sân trường đầy miệng hố
                Hãy học em ơi, dù ngày có khổ
                Lao động suốt ngày em cần giấc ngủ ngon
                Nhưng đói nghèo đâu có để ta yên
                Và nghị lực nhắc em đừng ngon giấc
                Nợ nước thù nhà ngày đêm réo dục
                Dậy đi em, Tổ quốc gọi anh hùng.

                Thắp đèn lên đi em!
                Xua tăm tối giữa đêm trường ta học
                Mặc cho gió đêm nay lạnh về tê buốt
                Tấm áo sờn không đủ ấm người em
                Vùng dậy khỏi mền, em thắp ngọn đèn lên
                Để ánh sáng xua đêm trường lạnh cóng
                Qua khổ cực càng yêu người lao động
                Trãi đói nghèo càng rèn đức kiên trung
                Em đã đọc nhiều gương sáng danh nhân
                Hãy biết nhục, biết hèn mà lập chí
                Thắp đèn lên đi em, ngọn đèn dầu bền bỉ
                Sáng giữa đời lấp lánh một niềm tin.

                Thắp đèn lên đi em!

                 

                DSC02002

                 

                NHỚ THÁNG BẢY MƯA NGÂU
                Hoàng Kim

                Tháng Bảy mưa Ngâu
                Trời thương chúng mình
                Mưa giăng
                Ướt đầm vạt áo
                Bảy sắc cầu vồng
                Lung linh huyền ảo
                Mẹ thương con
                Đưa em về cùng anh.

                Chuyến xe tốc hành
                Chạy giữa trăm năm
                Chở đầy kỷ niệm
                Chở đầy ắp tình em
                Từ nơi chân trời
                Góc biển

                Chàng Ngưu hóa mình vào dân ca
                Con ngựa, con trâu
                Suốt đời siêng năng làm lụng.
                Thương con gà luôn dậy sớm
                Biết ơn con chó thức đêm trường.

                Em ơi !
                Những câu thơ ông bà gửi lại
                Đã theo chúng mình đi suốt thời gian.

                Tháng Bảy mưa Ngâu
                Đầy trời mưa giăng giăng
                Thương nàng Chức Nữ
                Em là tiên đời thường
                Đầy đặn yêu thương

                 

                DSC02003

                 

                Tháng Bảy mưa Ngâu
                Nhớ thương ai góc biển chân trời
                Những cuộc chia ly
                Đong đầy nỗi nhớ …

                Chiêm bao mơ về chuyện cũ
                Khói sương mờ ký ức thời gian
                Chốn nào chúng mình hò hẹn
                Nơi em cùng anh xao xuyến yêu thương

                Ngắm mưa Ngâu tháng Bảy
                Mưa, mưa hoài, mưa mãi
                Mưa trong lòng người
                Nên mưa rất lâu…

                Mưa rơi như dòng lệ trắng
                Đất trời thương nối một nhịp cầu.

                Em ơi
                Lời tình tự của nghìn năm dân tộc.
                Như sắc cầu vồng
                Nối hai miền xa cách
                Để xa nên gần
                Vời vợi nhớ thương.

                 

                Cầu vồng yêu thương

                 


                Nhớ tháng Bảy mưa ngâu
                Cầu vồng yêu thương.

                 

                 

                Bài viết mới trên DẠY VÀ HỌC
                https://hoangkimvn.wordpress.com bấm vào đây cập nhật mỗi ngày

                Video yêu thích

                 

                 

                KimYouTube

                Trở về trang chính
                Hoàng Kim Long, Ngọc Phương NamThung dungDạy và Học, Việt Nam Học, Cây Lương thực Việt Nam, Tình yêu Cuộc sống, CNM365; Kim on LinkedIn Kim on Facebook Kim on Twitter

                Xem tiếp >>

                  Dạy và học 26 tháng 7(26-07-2021)


                DẠY VÀ HỌC 26 THÁNG 7
                Hoàng Kim
                CNM365 Tình yêu cuộc sốngTrần Quang Khải thơ thần; Nhà Trần trong sử Việt; Về với vùng văn hóa; Sơn Tùng chuyện Bác Hồ; Nhớ bạn nhớ châu Phi; Nhớ vầng trăng ngọn lửa; Nếp nhà đẹp văn hóa; Ngày 26 tháng 7 năm 1294, ngày mất Trần Quang Khải (sinh năm 1241), Tể tướng đời Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông và Trần Anh Tông, coi cả mọi việc trong nước. Ngày 26 tháng 7 năm 1956 kênh đào Suez ở Ai Cập quốc hữu hóa bởi Tổng thống Ai Cập Gamal Abdel Nasser, dẫn đến một cuộc khủng hoảng ngay sau đó vì tầm quan trọng đặc biệt của kênh đào này. Ngày 26 tháng 7 năm 1953, ngày “Phong trào 26 tháng 7“ cách mạng Cu Ba do Fidel Castro bắt đầu nổi dậy, chống lại chế độ Fulgencio Batista và hình thành Cu Ba ngày nay. Bài chọn lọc ngày 26 tháng 7: Trần Quang Khải thơ thần; Nhà Trần trong sử Việt; Về với vùng văn hóa; Sơn Tùng chuyện Bác Hồ; Nhớ bạn nhớ châu Phi;Nhớ vầng trăng ngọn lửa; Nếp nhà đẹp văn hóa Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.comhttp://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-26-thang-7;

                TRẦN QUANG KHẢI THƠ THẦN
                Hoàng Kim

                Ngày 6 tháng 6 năm 1285, Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải (1241-1294) sáng tác bài thơ “
                Tụng giá hoàn kinh sư “ nổi tiếng : “Chương Dương cướp giáo giặc, Hàm Tử bắt quân thù. Thái bình nên gắng sức, Non nước ấy ngàn thu.

                Tụng giá hoàn kinh sư nguyên văn chữ Hán 從 駕 還 京 奪 槊 章 陽 渡 擒 胡 鹹 子 關 太 平 宜 努 力 萬 古 此 江 山 phiên âm Hán Việt Đoạt sáo
                Chương Dương độ Cầm Hồ Hàm Tử quan Thái bình tu trí lực Vạn cổ thử giang san là một bài thơ do thượng tướng thái sư Trần Quang Khải (1241-1294) viết sau khi quân dân nhà Trần chiến thắng quân Nguyên lần thứ hai. Bài thơ‎ nói về cảm xúc một vị tướng trên đường theo xa giá vua Trần Nhân Tông và Thái thượng hoàng Trần Thánh Tông trở về kinh đô, đồng thời ca ngợi đội quân nhà Trần trong việc bảo vệ non sông đất nước. Hiện có ba bản dịch, bản trên là của Trần Trọng Kim, bản khác của Ngô Tất Tố. và Trinh Đường] Bài thơ hiện đang được đưa vào chương trình sách giáo khoa lớp 7, tập một.

                Trần Quang Khải thơ thần là sử thi tổng kết bài học
                Nhà Trần trong sử Việt có giá trị to lớn đặc biệt sâu sắc.

                NHÀ TRẦN TRONG SỬ VIỆT
                Hoàng Kim

                Nhà Trần khởi đầu từ vua Trần Thái Tông (Trần Cảnh) lên ngôi Hoàng Đế vào ngày 31 tháng 12 năm 1225 nhằm ngày Mậu Dần  mồng 1 tháng 12 năm Ất Dậu, Lý Chiêu Hoàng là vị Nữ Hoàng cuối cùng của nhà Lý xuống chiếu nhường ngôi cho chồng. Tiếp nối vua Trần Thái Tông là vua Trần Thánh Tông (Trần Hoảng), vua Trần Nhân Tông (Trần Khâm. Ba vua là thời nhà Trần thịnh thế ngời sử Việt dựng nên nghiệp lớn, chống quân Nguyên Mông, thống nhất Phật Giáo Việt Nam và đạt đến cực thịnh. Ba vua Trần Anh Tông, Trần Minh Tông, Trần Hiến Tông là thời kế nghiệp. Từ vua Trần Dụ Tông (sau khi thượng hoàng Trần Minh Tông mất) đến Hôn Đức Công, Trần Nghệ Tông, Trần Duệ Tông, cho tới Trần Phế Đế, Trần Thuận Tông, Giản Định Đế, Trần Quý Khoáng là thời suy tàn. Trần triều chấm dứt lúc Trần Phế Đế bị Thượng hoàng Trần Nghệ Tông ép thắt cổ chết thay thế bằng Trần Thuận Tông là con của Trần Nghệ Tông, khi thế lực Hồ Quý Ly đã vững không thể đổi. Vua Trần Thuận Tông trị vì từ năm 1388 cho đến năm 1400 thì bị ép nhường ngôi cho Hồ Quý Lý, lập ra triều đại nhà Hồ. Giặc Minh mượn danh nghĩa “phục Trần diệt Hồ” nhân cơ hội ấy vào cướp nước ta. Giản Định Đế, Trần Quý Khoáng chống nhà Minh nhưng không thành. Nhà Trần trong sử Việt kéo dài 175 năm với 13 đời hoàng đế.

                Thái Tông và Hưng Đạo
                Ngày mới đầy yêu thương
                Nhà Trần trong sử Việt
                Lồng lộng như trăng rằm

                Ba đỉnh cao Yên Tử
                Danh thắng quê hương Trần
                ‘Thái bình tu nổ lực
                Vạn cổ thử giang san’ (*)

                Nhà Trần trong sử Việt
                Trước đèn bảy trăm năm,
                Trúc Lâm Trần Nhân Tông
                Thăm thẳm tầm nhìn lớn.

                Từ một hai hai năm (1225),
                Đến thế kỷ mười bốn (1400)
                Chuyện cũ chưa hề cũ
                Thoáng chốc tròn tháng năm.

                An nhiên chào ngày mới
                Vui bạn hiền người thân
                Nhà Trần trong sử Việt.
                Tinh hoa chọn đôi vần.

                (*) Trích thơ Tụng giá hoàn kinh sư của
                Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải
                xem tiếp
                Nhà Trần trong sử Việt
                https://hoangkimlong.wordpress.com/category/nha-tran-trong-su-viet/

                Nhà văn Sơn Tùng - tác giả Búp sen xanh - qua đời - Ảnh 1.

                Về với vùng văn hóa
                TƯỞNG NHỚ CỤ SƠN TÙNG
                ảnh Nguyễn Đình Toán, thơ Hoàng Kim

                Nhớ mãi cụ Sơn Tùng
                “Bông sen vàng” lắng đọng
                Sơn Tùng chuyện Bác Hồ
                Sự thật là mạch sống.
                Về với vùng văn hóa
                Diễn Kim đất Hồng Lam.

                Ghi chú:
                (*) Nhà văn Sơn Tùng , tác giả Búp sen xanh, Bông sen vàng qua đời. ngày 22.7.2021 vào khoảng23h05, báo Tuổi Trẻ đưa tin:” Nhà văn ra đi ở tuổi 93, sau hơn 11 năm cùng người vợ tảo tần, thủy chung chống chọi với bệnh nặng do tai biến. Lễ viếng nhà văn Sơn Tùng sẽ diễn ra vào 7h30 ngày 26-7 tại Nhà tang lễ Quốc gia, số 5 Trần Thánh Tông, Hà Nội. Lễ truy điệu vào 8h30, an táng tại nghĩa trang quê nhà tại xã Diễn Kim, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An.

                “Ông là một người đặc biệt và là một nhà văn đặc biệt. Ý chí sống và sáng tạo phi thường của ông là một tấm gương lớn”, chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam Nguyễn Quang Thiều chia sẻ lòng ngưỡng mộ của ông với nghị lực sống và sức sáng tạo của nhà văn Sơn Tùng.

                Theo nhà văn Thiên Sơn, cháu gọi nhà văn Sơn Tùng bằng bác, tác giả Búp sen xanh sinh năm 1928 tại huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An.Ông sớm rời quê hương Diễn Châu tham gia cách mạng từ những năm 1950. Ông hoạt động ở tỉnh đoàn, sau ra Hà Nội học Đại học Nhân dân rồi làm giảng viên đại học, làm báo Tiền Phong. Từ năm 1964 ông vào chiến trường Nam Bộ lập báo Thanh Niên Giải Phóng, rồi bị thương nặng trở ra Bắc cuối năm 1971. Kể từ đó ông bắt đầu cuộc đời của một người cầm bút chuyên tâm, kiên định, sáng tạo trong nghèo khó, bệnh tật bởi những vết thương chiến tranh. Sơn Tùng có viết về chiến tranh qua các tiểu thuyết: Vườn nắng, Lõm; về danh nhân cách mạng qua các truyện lịch sử như Trần Phú, Nguyễn Hữu Tiến… Mảng sách thành công nhất của ông, để lại ấn tượng nhất là mảng sách về đề tài Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ông đã viết hàng loạt tiểu thuyết về Bác Hồ như Búp sen xanh, Bông sen vàng, Trái tim quả đất và truyện ký Bác về, Nguyễn Ái Quốc qua ký ức một bà mẹ Nga…Ngoài tiểu thuyết, cuối năm 1987 Sơn Tùng còn hoàn thành kịch bản phim mang tên Cuộc chia ly trên bến Nhà Rồng mà năm 1990 được dựng phim Hẹn gặp lại Sài Gòn, đạo diễn Long Vân, quay phim Nguyễn Quang Tuấn, diễn viên Tiến Lợi vào vai Bác Hồ. Sơn Tùng còn sáng tác thơ, trong đó đáng chú ý là bài Gửi em chiếc nón bài thơ (1955) và Cửa sổ xanh (1971). Bài Gửi em chiếc nón bài thơ sau ngày đất nước thống nhất đã được nhạc sĩ Lê Việt Hòa phổ nhạc.

                Năm 2011, ông được Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết ký quyết định phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới, trở thành người thứ 4 thuộc Hội Nhà văn Việt Nam được nhận danh hiệu này.” xem tiếp Về với vùng văn hóahttp://hoangkimlong.wordpress.com/category/ve-voi-vung-van-hoa/

                THEO CON ĐƯỜNG BÁC HỒ

                Xin giới thiệu, bác Sơn Tùng là nhà văn mà nhiều người đã biết , qua các tác phẩm của bác. Trong buổi nói chuyện hôm nay, bác sẽ cung cấp cho chúng ta những thông tin rất bổ ích. Mặc dù bác đang mệt, nhưng rất nhiệt tình với chúng ta, bác vẫn nhận lời nói chuyện với trường chúng ta hôm nay. Bây giờ tôi xin nhường lời cho bác Sơn Tùng

                Kính thưa thầy Hiệu Trưởng
                Kính thưa các thầy, các cô giáo

                Trường cán bộ quản lý giáo dục đào tạo của cơ quan giáo dục, bất luận thời nào đi nữa, thì giáo dục vẫn là nền tảng quan trọng. Vì, không tôn sư thì không thể có Đạo được. Dù phong kiến, đế quốc, tư bản, xã hội chủ nghĩa đi nữa…nếu không trọng thầy, không yêu thầy học (muốn con hay chữ, phải yêu lấy thầy), là không phải đạo. Vì vậy, nói đến giáo dục, đã không có thì đành vậy, còn đã là có chữ thì phải biết ơn thầy. Làm đến ông vương, ông tướng cũng phải qua thầy học, làm nhà văn đi nữa thì trước hết phải yêu từ cô giáo vỡ lòng dạy mình từ buổi thiếu niên đến thầy dạy tiểu học, rồi phổ thông lại lên đại học…

                Vừa qua thời tiết chuyển đổi đột ngột, ít khi nào sang tháng tư, qua tháng ba, thanh minh rồi, mà Hà Nội thời tiết 16 độ, cái thời tiết nó rất găng, như ngày hôm qua tôi tưởng không đến được nhưng vì đã nhận lời thầy Huấn từ mấy tuần trước. Sáng nay thầy Huấn đến cũng biết tôi đang nằm ngoạ thiền chứ không tọa thiền thì sáng nào tôi cũng làm, 2h sáng tôi ngồi thiền, 3h rưỡi sáng tắm nước nóng, dậy đọc sách, đến 5h nằm thiền điều trị vết thương sọ não.

                Hai hôm nay tôi không ăn, hôm qua, do thời tiết đã đành, lại nữa có mấy cái hội nghị 11, 11b, rồi 12… mới bế mạc hôm qua. Thế thì những vấn đề này nó gắn liền với sự tồn tại, sự sống còn của đất nước. Vì Đảng ta là Đảng lãnh đạo đất nước từ năm 1930, làm nên những sự nghiệp rất lớn, trước hết là sự nghiệp cứu nước. Ba mươi năm chiến tranh, không ai muốn điều ấy làm gì. Người ta muốn làm nhà khoa học, làm nhà giáo… không ai muốn làm người anh hùng trong chiến tranh. Làm người anh hùng trong chiến tranh thì hàng nghìn, hàng vạn người ngã xuống. Đó là cái bất đắc dĩ của dân tộc.

                Nhưng từ một phần tư thế kỷ nay, Đảng ta sa sút xuống đến mức không tưởng tượng nổi so với trước đây, nhân cách nhiều người cộng sản không còn. Nhân cách không còn, vì tham nhũng đến mức không thể chấp nhận.

                Tuy nhiên, sự nghiệp của Đảng ta vẫn chói lọi thôi; nhân dân thì vĩ đại, nhưng những người có trách nhiệm trước Đảng, trước Nhân dân không giữ được nhân cách. Họ đem cái tham nhũng làm hại cho toàn Đảng, cho nhân dân ta. Mặc dù vậy, vị thế của dân tộc Việt Nam vẫn đứng ở vị trí lớn. Dù nó là nước nhỏ, nước nghèo, còn sự thực thì dân tộc ta, nhân dân ta, cái hưởng thụ về văn hoá, về tinh thần của dân ta so với các nước Đông Nam Á, với khu vực của ta, là cao. Vì ngay bây giờ ở Đại học Tổng hợp có cả đoàn sinh viên do ba giáo sư nổi tiếng ở Washington dẫn đầu sang ta để nghiêm cứu về Bác Hồ. Đoàn ở đây độ ba tháng, nay mới được tháng rưỡi, đã đi Tân Trào, Pắc Bó về. Đoàn gồm những sinh viên xuất sắc về sử Việt Nam và ba giáo sư đem theo cả gia đình con cái. Họ có mời tôi cùng đi nhưng vì sức khoẻ tôi không đi được.

                Vấn đề trong mấy hội nghị trên là phe phái, phe cánh, mất đoàn kết trong lãnh đạo cao nhất. Như trước đây tôi có dịp nói được một phần sự hình thành nhân cách của Bác Hồ. Nói đến cái đó là trong cái nội gia đình của Bác. Nhân cách của con người ra đời, trước hết phải là gia đình, bước vào đời phát triển như thế nào bao giờ cũng bắt đầu từ gia đình, trường học. Nói trường học là có cả xã hội, có làng xóm quê hương. Tôi cố gắng nói một ý như vậy, ngắn hay dài tuỳ thuộc vào sức khoẻ. Nhưng trước hết tôi dành một số thời gian để nói về Đại hội 9 sắp tới đây.

                Ngày 19 tháng 4 nay, ra Đại hội chỉ để quay phim, chụp ảnh, chứ mọi việc nó đã như bước một ở hội nghị Trung ương 12, hôm nay Trung ương nghỉ.

                Tôi viết về đề tài Bác Hồ và danh nhân cách mạng rất quan tâm đến vấn đề từng con người có trách nhiệm đến vận mệnh quốc gia, từng sự kiện của đất nước thì Đại hội Đảng là một sự kiện lớn.

                Ít nhiều thì tôi vẫn nhớ đến cái đại hội Đảng IV cuối năm 1976, hôm nay nhắc đến Đại hội IV năm 1976. Đại hội kết thúc chiến tranh 30 năm với nhiều hy vọng và chờ đợi bao nhiêu năm sau khi đuổi được đế quốc rồi, nhân dân sẽ trở lại cuộc sống yên bình, dù đói cơm rách áo đi nữa, thì cái vinh quang là của những con người chiến đấu vì dân tộc suốt bao nhiêu năm. Nhân dân có thể vẫn còn đói vì phải khôi phục kinh tế, khó mà no được, nhưng thể hiện được Nam, Bắc một nhà, hoà hợp dân tộc. Thắng là thắng đế quốc thắng ngoại xâm, chứ không có chuyện Bắc thắng Nam, Nam thắng Bắc. Một bà mẹ thờ cả hai sắc lính của hai con vì đất nước chia hai miền. Có cuộc xung đột ấy thì bà mẹ miền Nam thờ con là lính giải phóng và thờ cả người con ngã xuống nếu là lính quốc gia đi nữa, thì đó là cái nhất thời trong cái biến cố của dân tộc. Còn lòng mẹ cụ thể trong nhà phải có như bất cứ người Việt Nam nào trong hoàn cảnh đó.

                Ông cha ta xưa đã có như vậy. Đánh xong giặc Nguyên thì Trần Nhân Tông đốt tất cả các văn bản là những gì có liên quan đến con người chia rẽ. Đốt để phục hồi lại cái hoà hợp dân tộc. Ai đã từng ra gươm chống lại dân tộc đến giờ phút ấy bỏ …Trần Hưng Đạo về Kiếp Bạc, vua Trần Nhân Tông lên núi Yên Tử đi tu, giao lại tất cả cho lớp người trẻ. Đội quân vinh quang trong chống xâm lăng sự nghiệp đến đó xong chỉ để lại người con rể của Hoàng triều là Phạm Ngũ Lão giúp vua giữ lấy cái truyền thống nề nếp từ trước. Nếu để Trần Hưng Đạo lại, vậy Trần Quang Khải thì sao, để ông con rể nhà Trần thì tiệu hơn, không có con ông này, con ông kia. Ông cha ta xưa đã làm như thế.

                Nhưng ở đại hội 4 của ta thì khác đi, mười năm sai lầm làm kinh tế, không có áo may ô mà mặc. Họp chi bộ đem ra bình ai bắt thăm áo may ô hay săm xe đạp…Có khó khăn sau chiến tranh là dễ hiểu, nhưng người lãnh đạo phải nhìn thấy vấn đề. Tất cả vì Tổ quốc vì nhân dân, sau bao nhiêu năm kiệt quệ như thế này thì đoàn kết một lòng, kêu gọi sự giúp đỡ của các nước bạn và thế giới. Và mỗi người lãnh đạo phải sống như nhân dân, có trách nhiệm trước nhân dân. Đây lại không như thế, chúng tôi là những người chiến đấu ở miền Nam, tôi ngã xuống ở miền Đông Nam bộ, ở gần ông Nguyễn Hữu Thọ.

                Ông Nguyễn Hữu Thọ, Chủ tịch Mặt trận, đi dưới lá cờ nửa đỏ nửa xanh, lá cờ mặt trận nhưng nó vẫn mang cái hồn Tổ quốc bị chia cắt, chia đôi. Tấm gương của ông Nguyễn Hữu Thọ lớn lắm, một trí thức lớn. Và những người như Huỳnh Tấn Phát, nhà giáo Nguyễn Văn Đoá… chúng tôi đề nghị những người đó vào Trung ương. Trung ương Đảng ta là Đảng trí tuệ thì đưa những người trí tuệ ấy vào là xứng đáng. Nguyện vọng như vậy nhưng không được. Rồi đề nghị đưa lá cờ nửa đỏ nửa xanh vào bảo tàng thiêng liêng, bảo tàng lịch sử, nhưng cái bài học lịch sử ở Đại hội 9 này bây giờ nó mới vỡ ra. Họ chen vào Trung ương, để mà phá, xin lỗi, là những người vô học vào nắm chức quyền cao để mê hoặc nhân dân.

                Năm 1960 kỷ niệm đảng ta 30 năm, Bác Hồ nói giữa nhà Hát lớn: Đảng ta là Đảng trí tuệ, Đảng văn minh rồi. Nói như thế tức là Đảng đã thấy rất dễ đi vào “giai cấp” hẹp hòi. Bây giờ họ sai lầm đến mức nói đi theo con đường Bác Hồ đã lựa chọn, có đi theo Bác đâu, Bác Hồ là: Đảng lao động, lao động trí óc, lao động chân tay, Nước ta là: nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà. Trước hết là Dân Chủ, còn xã hội chủ nghĩa là ước mơ, còn lâu lắm. Đức phật là: đưa con người trở về với sự công bằng, sự nhân ái mà đến nay đã 2600 năm chưa thực hiện được. Vậy mà làm sao hôm nay bỗng chốc trong vòng năm bảy chục năm đưa lại cái xã hội Cộng Sản có ngay được (?). Đó là lý tưởng, là ước mơ…Loài người đi hàng vạn năm rồi, làm sao lại có một thể chế có thể thay đổi tất cả chỉ trong vòng mấy chục năm thôi!
                Không phải.

                Thế rồi, từ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà lại đổi thành Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa, rồi Đảng Lao Động thành Đảng Cộng Sản…những cái mà Bác Hồ đã đặt ra thì người ta xoá bỏ. Và năm đó họ định sau Đại hội 5 sẽ rời thủ đô vào Đắc Lắc. Dự kiến đó là của ông Lê Duẩn đã nói ở Vũng Tàu trong cuộc họp các cán bộ mở rộng. Nếu chuyện đó đã rồi thì ngày nay làm gì có kỉ niệm 1.000 năm Thăng Long sắp tới. Có phải cứ muốn chọn chỗ cho đế đô ở đâu thì chọn. Không phải ! Nó là cả bao nhiêu yếu tố hợp thành, hội tụ lại. Từ trong hang động Hoa Lư chuyển ra giữa đồng bằng sông Hồng này, đất Thăng Long này, là cả một hình thành, trưởng thành của dân tộc. Từ chỗ vua ở hang động, vua Lý Thái Tổ chuyển ra giữa thanh thiên bạch nhật, trên cái thế “Voi quỳ Hổ đứng”, cả cái Tam Đảo, cả cái Ba Vì chầu về đất thiêng, từ đông bắc Côn Sơn đều quay về đây cả. Thế mà định dời bỏ cái Hà Nội, cái Thăng Long như không. Không được! Rồi bỏ luôn quốc ca, may sao dân đấu tranh mãi mới giữ được cái Quốc ca. Người ta nói Quốc ca cũ không đủ tầm vóc Xã hội chủ nghĩa thì bỏ. Quốc ca là của hàng triệu con người. Thi mãi và chi rất tốn tiền mà chọn được 17 bài nhưng hát không ai chịu nghe cả. Cuối cùng lại trở lại bài “Tiến quân ca” của Văn Cao. Hồi đó người ta hiểu lầm, có lẽ ông Văn Cao “Nhân văn Giai phẩm” nên họ bỏ quốc ca, không phải! Ông Văn Cao không phải là cái lí do, mà vấn đề là ở chỗ họ muốn làm lãnh tụ, muốn đưa ra học thuyết, muốn vượt lên tất cả…Cụ Hồ là lạc hậu, là nho giáo, cỗ xe nho giáo ấy đã hết thời, miệng ông lãnh đạo nói thế.

                Từ ông Tổng tư lệnh, Đại tướng phong ngày 28-5-1948 tại rừng Tuyên Quang, mà cả Quốc hội, Chính phủ phong Đại tướng đầu tiên cho một người trí thức, cử nhân luật, cử nhân kinh tế giỏi, là Chủ tịch Hội nhà báo năm 1937 là Võ Nguyên Giáp…đến phong trung tướng cho một ông giang hồ tứ chiêng, giang hồ tứ chiêng là lấy của nhà giàu chia cho người nghèo. Cái giang hồ của ông Nguyễn Phương Thảo tức Nguyễn Bình là thế, mà Bác Hồ giao nhiệm vụ cho ông Nguyễn Bình vào Nam lúc đó chưa phải là đảng viên, ông Bình xúc động quá nói:

                – Thưa Bác, tôi chưa phải là đảng viên cộng sản, tôi vốn là đảng viên Quốc dân đảng, đi ra Côn Đảo bị giam chung với Trần Huy Liệu rồi chuyển sang và đi theo đường lối của Nguyễn Ái Quốc. Bác giao cho tôi vào phụ trách quân sự toàn miền Nam mà tôi chưa phải là đảng viên.

                Bác Hồ nói với Nguyễn Bình:

                – Tổ quốc trên hết! đảng viên ư? Tổ quốc trên hết. Đất lửa miền Nam chỉ có chú vào phụ trách quân sự toàn miền Nam mới tập hợp được các giáo phái.

                Bấy giờ Nguyễn Bình vào Nam làm liên khu trưởng, Quân khu trưởng nhưng chưa phải đảng viên. Cho đến ngày 28-5-1948 ông được phong Trung tướng.

                Bác sử dụng người có tài vào địa hạt nào, công tác nào là phát huy được cái đó. Nguyễn Bình tập hợp được nhiều giáo phái, thì đến hết năm 1947, Bác đánh một cái điện cho Bảy Viễn, tướng Bình Xuyên. Thế là Bảy Viễn kéo tất cả quân của ông ta ở rừng Sác đi theo Nguyễn Bình, nhập vào đại quân. Sau đó “có người” phá, chia rẽ giữa Bảy Viễn với Nguyễn Bình nên Bảy Viễn quay vào Sài Gòn nhận thiếu tướng của quân đội Pháp và tuyên bố: Nhận thiếu tướng nhưng không bao giờ đi đánh trận nữa mà ra làm khai thác gỗ. Những người đàn em của Bảy Viễn hỏi ông là: Không đi đánh nữa thì đàn em bao giờ được lên? Bảy Viễn nói: ta lỡ bước, ta đã hiểu Cụ Hồ nhưng không đi trọn được con đường của Cụ Hồ là vì “cán bộ” họ chia rẽ ta với Nguyễn Bình. Và ông ở vậy cho đến thời Ngô Đình Diệm lên diệt giáo phái thì ông mới sang Pháp. Tức là con đường Bác Hồ là con đường thu vén tất cả dân tộc vào, chứ không có giai cấp, không đặt giai cấp lên trên dân tộc, xã hội có giai cấp nhưng không đặt giai cấp lên trên dân tộc.

                Đầu tiên khi về Pắc Bó, Bác nói với ông Đồng, ông Giáp, ông Lê Quảng Ba, ông Chu Văn Tấn, lúc đó, các ông gần gũi Bác, và cả ông Trường Chinh nữa, là “Gác cái khẩu hiệu giai cấp lại, bây giờ là vấn đề dân tộc, dân tộc không giải phóng được thì ngàn đời không thể giải phóng được giai cấp. Nhân dân ta là một khi Tổ Quốc lâm nguy thì ông địa chủ đến người cố nông, đều một lòng chống giặc, vì thế là vấn đề dân tộc giải phóng”. Thế nhưng Đại hội 4 chúng ta, thì nó trật từ cái này. Nếu nói là làm theo di chúc của Bác, không nói cái gì xa, Di chúc Bác để lại là phải chuẩn bị khi giải phóng Miền Nam. Cho nên trong Di chúc của Bác có câu:

                – Cuộc kháng chiến chống Mỹ có thể còn kéo dài mấy năm nữa.

                Các ông ấy lại đem bỏ cụm từ “mấy năm nữa” đi, cho là “còn kéo dài”. Lúc đó, trong Bộ chính trị tất nhiên có người đưa ra, nhưng được Bộ chính trị thông qua: – Có khi Bác chủ quan. “mấy năm nữa” chắc gì?

                Năm 1941, khi Bác về Pắc Bó có bài ca lịch sử kể từ đời Hồng Bàng đến các vua Hùng cho đến các đời vua… và cuối cùng nói “năm 1945 thì cách mạng hoàn thành”. Lúc đó có người tưởng Bác nói thế để động viên, không phải. Đến năm 1960 Bác ghi là “15 năm nữa sự nghiệp thống nhất hoàn thành”, vậy nên khi viết Di chúc Bác nói: -“Cuộc kháng chiến chống Mỹ có thể còn kéo dài mấy năm nữa”, và thực tiễn xảy ra đúng là “mấy năm nữa”, nhưng lúc đó Bộ chính trị bỏ cụm từ: “mấy năm nữa”?!

                Trong Nam thì phải lo kinh tế từ bây giờ, tức là lo công ăn việc làm, ngoài Bắc này thế nào trong ấy cũng phải như thế. Trước hết, sau khi kết thúc chiến tranh, việc đầu tiên là khôi phục kinh tế, tranh thủ sự viện trợ của bạn bè, nâng cao từng bước, chưa vội làm ăn lớn. Nhưng ta lại đề ra 15 năm nữa phải đuổi kịp Liên Xô, 20 năm năm nữa đuổi kịp Mỹ. Kịp cái gì? Nói cho oai thôi chứ một dân tộc 30 năm bao nhiêu lực lượng trẻ, khoẻ ra mặt trận, bao làng mạc, thành phố bị san bằng mà làm sao đề ra 15 năm vượt Liên Xô, 20 năm đuổi kịp Mỹ…thì xa lạ quá…

                Mà Bác Hồ đã dặn rồi:- Ta đánh Mỹ là cái thế phải đánh, bởi vì Mỹ không từ bỏ ý chí xâm lược, ta phải đánh, đánh xong thì bắt tay với họ. Bác cố tránh để không xảy ra cuộc chiến tranh với Mỹ. Bác cho người viết thư cho Ngô Đình Diệm. Lúc đó có hội nghị ba nước Đông Dương ở Phnôm Pênh, Bác định đến đó…có thể gặp Ngô Đình Diệm nhưng lúc đó Cabốtlốt thấy tình hình đó nó đảo chính ngay, diệt hai anh em Ngô Đình Diệm. Bây giờ nhiều đồng chí ở Miền Bắc còn nhớ Bác nói: – ông Diệm có cách yêu nước của ông ấy, đừng có gọi bằng thằng, người ta có tuổi rồi. Cách nhìn của Bác như vậy, sau này có học trò của Bác lầm tưởng rằng Bác nho giáo dĩ hoà vi quí, đâu có phải! Truyền thống của dân tộc ta là như vậy.

                Trong Đại Hội 4 hạ tên nước, thay tên Đảng, nêu lên trong 5 năm nữa thì có tivi, có tủ lạnh cho nông dân. Những năm đầu tiên thấy được đời sống có nâng lên nhưng không …(đoạn này bị mất) 500 huyện là 500 pháo đài kinh tế, quân sự, dồn làng lại…Lúc đó cũng có nhiều đồng chí kiến nghị, đề nghị gặp Tổng bí thư Lê Duẩn, nói:

                – Thưa đồng chí, xóm làng Việt Nam hình thành những cái làng văn hoá có từ hàng nghìn năm, có làng ít thì 300, 500 năm mà nay xoá những cái làng văn hoá cổ như thế thì mất hết. Văn hoá Việt Nam là văn hoá làng xã.

                Xin lỗi, ông Lê Duẩn nói: Ngu, Ngu.

                Thế là giáo sư Lê Văn Thiêm lủi thủi ra về. Còn giáo sư Trần Đức Thảo mắt thì cận, cả đời ông không đi đâu. Ông là nhà triết học, cả nhà toàn sách là sách, ông viết được cái gì thì đưa cho cụ Đồng đưa ra đăng báo ở nước ngoài (ông chỉ nói được thôi chứ không viết được bằng tiếng Việt nên công trình của ông là bằng tiếng Pháp). Ông được ông Duẩn mời lên để hỏi ý kiến, ông nói thẳng, nói thật ý kiến của ông, thì đuổi ông. Một ông mắt cận (là Trần Đức Thảo) ra đứng giữa đường Hoàng Diệu mà không biết đi đường nào là Phan Đình Phùng hay đi Điện Biên Phủ.

                Nói lại (những chuyện này) để các thầy các cô biết và nhắc lại cái bài học lịch sử khi người đứng đầu mà sai lầm thì nguy lắm, sai một ly đi một dặm. Sai của ta nó ở trong trường thôi; sai của người đứng đầu của dân tộc thì nó sẽ đẩy lùi phải mất mười năm. Từ 1976 đến 1986. Đấy ! Phải đi đến Đại Hội đổi mới, bước đi phải thế nào, thế nào… sau Đại hội 6 thì đổi mới đấy nhưng chưa giải quyết được vấn đề. Vấn đề là con người lãnh đạo. Hôm nay thì nó như thế nào…xin thông tin cho các thầy các cô biết, sau ngày 19, 20, Đại hội 9 công khai rồi ta cũng biết thôi, nhưng biết thì ta cũng chỉ biết vậy, còn bên trong của nó thì chưa nói hết được.

                Hội nghị Trung ương 11, 11b, gần đây 12 mới xong hôm qua, diễn ra sôi động quá.

                Ở hội nghị 11a thì các cố vấn quyết định thi hành kỷ luật Tổng bí thư và kiên quyết cách chức trước thềm Đại hội 9. Về phía Tổng bí thư thì kiên quyết phản công lại cố vấn. Đó là nguy cơ chứ! Hôm nay thì giải toả được rồi, nhưng nay nó lại như thế thì con cái nó sợ vô cùng chứ!. Sợ vì đất nước đang đứng trong một tình thế bất ổn, trong khi Tây Nguyên thì như vậy.

                Nhưng trước hết ta “Tiên trách kỷ…”. Cửa ngõ Tây Nguyên như vậy, sau khi giải phóng miền Nam thì ông nào cũng trở về ở thành phố, thỉnh thoảng lên nói vài câu rồi vội vàng về để tắm bình nước nóng lạnh, chứ có ai ở với đồng bào đóng khố, khổ…nên không ai ở đó với họ. Rồi đi lấy đất đai của họ bán cho các nhà kinh doanh, mua rẻ đất của họ, bán đắt cho các nhà kinh doanh lập ô trang trại. Như vậy, họ thấy đất đai của cha ông họ mất dần đi, không còn như thời chống Mỹ.

                Vừa rồi ông Nguyên Ngọc, tác giả “Đất nước đứng lên”. Ông có làm một công trình điều tra cơ bản về Tây Nguyên, mà ông làm từ 1999, 16 trang, một tiếng kêu về Tây Nguyên. Có những nhà văn họ nghiên cứu đi thẳng vào một vấn đề lớn như vậy mà không nghe. Bây giờ xảy ra rồi mới hỏi: -À, ông Nguyên Ngọc nói hay, thì còn gì nữa? Khi thấy hay thì việc đã rồi. Tất nhiên có bàn tay bên ngoài, nhưng không kín trên thì không bền dưới, trong không ấm thì ngoài không êm. Tôi đã nói câu này với ông Đỗ Mười, có cả ông Nguyễn Đức Bình là giáo sư (tuy gọi là giáo sư đó, nhưng người ta nói giáo sư gì mà chẳng có công trình nào cả, nhưng ông Nguyễn Đức Bình là uỷ viên Bộ chính trị…). tôi nói tại số 4 Nguyễn Cảnh Chân, văn phòng tổng bí thư ngày 14/12/1994. Tôi nói rằng:

                Tổng bí thư mà để người ta “đánh” tôi, người ta bảo tôi là người xuyên tạc Bác Hồ. Tôi xin với Trung ương cho tranh luận công khai trên báo Nhân Dân và các phương tiện thông tin. Tôi đưa tư liệu của tôi, tôi nói Bác Hồ sinh ra trong một gia đình nhà quan, tôi đưa tư liệu nhà quan. Còn các nhà nghiên cứu Hồ Chí Minh học thì nói Bác Hồ sinh ra trong gia đình bần cố nông, thì đưa tư liệu bần cố nông ra, để người đọc phân định. Nói tôi lợi dụng đề tài Bác Hồ để hạ thấp Bác Hồ, nói Bác Hồ có người yêu là hạ thấp Bác Hồ, nói Bác Hồ thành phần bóc lột sinh trong nhà quan là hạ thấp Bác Hồ, Bác Hồ là người của giai cấp…

                Ông tổng bí thư mời tôi lên ngày 14/12/1994, tôi đề nghị một phương án là cho đăng công khai lên báo bằng văn bản, bằng tư liệu, chứ đừng lý luận chung chung. Ông nói cụ Hồ thế này…tôi bảo cụ Hồ thế này…tất nhiên bây giờ ta phải tôn trọng cái hiện tại nhưng đứng về góc độ nghiên cứu vĩ nhân thì ta nên xem xét lại. Sự thật tôi đưa ra ngày (sinh của Bác) này là tôi có lá số Tử vi, các cụ để lại giấy thời đó, mực thời đó. Bây giờ mà cứ ép tôi là buộc tôi phải đưa ra nước ngoài. Tôi không phải loại người dùng nước ngoài để ép bên trong. Không. Tôi không phải là loại người đó. Bố mẹ con cái có việc gì thì nói trong nhà, chứ không phải chạy sang hàng xóm chửi đổng về. Tôi không thích cái đó. Nhân lúc đó tôi mới nói với đồng chí Đỗ Mười là phải “kín trên bền dưới”. Tôi đã nói ở trường Chí Linh (Hải Dương) ngày 20/11/1990, ngày nhà giáo, là trong Bộ chính trị ta chỉ có vài người đếm trên đầu ngón tay là không đụng đến đồng tiền bát gạo của dân, mà tôi nói trước Đại Hội 7, còn tất cả là tham nhũng hết. Có người đề nghị bắt tôi, tôi nói bắt cũng được, không sao cả, tôi nói vì sự sống còn của dân tộc, của Đảng. Tôi nói là có căn cứ, có tài liệu, không vu khống ai cả, nếu vu khống thì lôi vào tù. Tôi nói “trong ấm ngoài êm” đây không phải là chuyện gia đình nữa, mà là chuyện đất nước, trong không ấm thì ngoài không êm. Nội bộ trong vương triều mà lục đục thì nổi lửa biên cương ngay.

                Ví dụ như trong chúng ta đây này, bọn tham nhũng, bọn cơ hội thì Trung ương bợ đỡ, còn anh em trí thức, các nhà khoa học thì đồng lương thấp đến như thế này…đối xử như thế này…Tôi có bảng thống kê đây, tôi là nhà văn, hiện nay những nhà văn cơ hội thì được sống sướng thế này…còn nhà văn này…nhà văn này…bốn thế hệ ở trong một cái buồng 18m vuông, như là nhà văn Siêu Hải, nhà văn Mạc Phi, nhà văn Minh Giang…hàng loạt, họ toàn tham gia đi trước cách mạng và kháng chiến cả, toàn trí thức cả, học Albert Sarraut có, học trường Bưởi có mà bây giờ như thế này…bốn thế hệ ở trong một cái nhà như thế…Nhưng sau đó, nói đáng tội thì nhà văn Siêu Hải, được phân nhà. Ông năm nay cũng gần 80 tuổi rồi, ông ở 66 Hàng Chiếu có 18m vuông mà ở gác ba, 9 người, một ông đại tá pháo binh. Lúc đó ông Đỗ Mười mới nói với với ông Lê Khả Phiêu (bấy giờ thường trực Bộ chính trị) giải quyết cho ông cái nhà ở Nghĩa Tân. Còn ông Mạc Phi, chuyên gia Tây Bắc, chưa kịp giải quyết cái nhà cho ông thì ông đã chết mất rồi. Ngày 19 tháng 5 này là giỗ 5 năm ông Mạc Phi. Ông bị quy là “Nhân văn giai phẩm” bị đầy lên Tây Bắc rồi không về nữa, ở lại trên đó nghiêm cứu về văn hoá Thái, viết tiểu thuyết. Ông thì “nghiện” tiếng Pháp nên đọc toàn bằng tiếng Pháp, ở dưới này gửi báo Europe lên cho ông đọc thì theo dõi ông và nghi ông là việt gian thực sự rồi. Đến khi Bác Hồ lên thăm Tây Bắc, có Đại Tướng tư lệnh Võ Nguyên Giáp lên, thì ở cơ quan “phân công” ông lên Mường Tè. Ông nghe đài đưa tin Bác lên thăm Tây Bắc, ông phàn nàn ông không được ở nhà để đón Bác.

                Có ông anh em cọc chèo với ông mới nói nhỏ cho ông biết Bác lên thăm Tây Bắc, để đảm bảo “an toàn” (cho Bác) người ta điều chú lên đó. Bác về rồi mới cho ông trở lại. Tất nhiên sau này ông cũng được giải oan nhưng có những sai lầm đến như vậy.

                Tôi nói từ Đại hội 4, sau kết thúc chiến tranh ta sai về đướng lối dẫn đến tình trạng này kéo dài cho đến Đại hội 6. Đại hội 6 lúc đó ông Lê Đức Thọ muốn làm tổng bí thư, không ai nói, nhưng tất cả mọi người đều biết rõ ông ấy là ai. Lúc đó, cụ Trường Chinh đi Liên Xô về rồi, ông Lê ĐứXem tiếp >>

                  Dạy và học 25 tháng 7(25-07-2021)


                DẠY VÀ HỌC 25 THÁNG 7
                Hoàng Kim
                CNM365 Tình yêu cuộc sốngNhớ thầy Tôn Thất Trình; Lê Quý Đôn tinh hoa; Nếp nhà đẹp văn hóa; Ngọc lục bảo Paulo Coelho; Bình Minh An Ngày Mới; Vui đi dưới mặt trời; Đêm nay là Trăng rằm; Đồng xuân lưu dấu hiền; Nhớ Người; Đào Duy Từ còn mãi; Châu Mỹ chuyện không quên; Machu Picchu di sản thế giới; Ngày Simón Bolívar người giải phóng Nam Mỹ tại Bolivia, Colombia, Ecuador và Venezuela, Ngày sinh của Simón Bolívar 24 tháng 7 năm 1783 là ngày kỷ niệm người có công đầu giành độc lập cho sáu nước Venezuela, Colombia, Panama, Ecuador, Peru, Bolivia thoát khỏi ách thực dân Tây Ban Nha  (ông chết năm 1830). Ngày Cộng hòa tại Tunisia; ngày Hiến pháp Thịnh vượng chung tại Puerto Rico. Ngày 25 tháng 7 năm 918, ngày khai quốc Cao Ly tại bán đảo Triều Tiên bởi Cao Ly Thái Tổ Vương Kiến (877-943). Ông là vị vua khai quốc Cao Ly tại bán đảo Triều Tiên. Bài chọn lọc ngày 25 tháng 7: Nhớ thầy Tôn Thất Trình; Lê Quý Đôn tinh hoa;Nếp nhà đẹp văn hóa; Ngọc lục bảo Paulo Coelho; Bình Minh An Ngày Mới; Vui đi dưới mặt trời; Đêm nay là Trăng rằm; Đồng xuân lưu dấu hiền; Nhớ Người; Đào Duy Từ còn mãi; Châu Mỹ chuyện không quên; Machu Picchu di sản thế giới; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlong;https://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-25-thang-7;

                NHỚ THẦY TÔN THẤT TRÌNH
                Học trò Nông Lâm nhớ Thầy

                Kính tiễn Thầy đi xa
                Thăm thẳm trời li biệt
                Những người Việt ở FAO (1)
                Thầy rạng ngời phẩm tiết
                Chuyện thầy Tôn Thất Trình (2)
                Nông Lâm đời ghi nhớ
                Lời Thầy dặn Thung dung
                (3)
                Gốc Tùng dưới đáy khe

                Quà Tặng (4) Thầy gửi lại
                Nguyễn Phước đức lâu bền
                (5)

                *
                Trần Đình Lý cùng với Vien Ngoc Nam46 người khác.ngày 12 7 2021  kính viếng Giáo sư Tôn Thất Trình, Cựu Giáo sư của Khoa Nông học, Giám đốc Trường Cao đẳng Nông Lâm Súc Sài Gòn (tiền thân Trường Đại học Nông Lâm TPHCM ngày nay) vừa từ trần tại Hoa Kỳ, ngày 11 tháng 7 năm 2021, nhằm ngày 2 tháng 6 năm Tân Sửu, hưởng thọ 90 tuổi. Lễ Thăm viếng và Hoài niệm 9:00-12:00 ngày 25 tháng 7 năm 2021.Trường Đại học Nông Lâm TPHCM Thành kính chia buồn với gia đình Thầy, Hoài niệm Thầy.

                Giáo sư Tôn Thất Trình:-Tốt nghiệp kỹ sư ngành Nông Học Nhiệt Đới Nogent-sur Marne – Paris (1955).-1963: Giảng dạy nông học tại trường Cao Đẳng Nông Lâm Súc – Sài Gòn.-1964: Giám đốc trường Cao Đẳng Nông Lâm Súc Sài Gòn.-1967:Tổng Trưởng Bộ Canh Nông và Cải Cách Điền Địa chính quyền miền Nam Việt Nam.

                Trong thời gian làm việc tại trường Cao đẳng Nông Lâm Súc Sài Gòn, GS lập ra các ban như Ban Kinh tế Nông nghiệp, Ban Ngư Nghiệp nay là Trường Ngư Nghiệp Nông Lâm Thủ Đức, ban Công Thôn, và làm giáo sư thỉnh giảng cho trường đại học nông nghiệp viện đại học Cần Thơ về các môn cây công nghệ như cao su, dừa, bông vải, mía làm đường.

                Tháng 10 năm 1975, FAO tuyển dụng làm chuyên viên nông nghiệp tại Kaedi,Mauritania. Nhờ làm lúa gạo thành công ở Kaedi (năng xuất 3 vụ 23- 30 tấn / năm), FAO năm 1977 đề bạt lên giữ chức Giám đốc dự án OMVS phát triển nông nghiệp vùng sông Senegal cho 3 quốc gia là Sénégal, Mauritanie và Mali. Trong thời gian ởOMVS, FAO cũng phái đi công cán làm các dự án lúa gạo cho Guinée Bissau, Sierra Leone và Liberia, Phi Châu.

                Năm 1980, được FAO tuyển chọn làm chuyên viên lúa gạo chánh cho FAO trung ương tại Rome, Ý, kiêm chức vụ thư ký kỹ thuật, sau này đổi thành tổng thư ký Ủy ban Lúa Gạo Quốc tế, lúc đó gồm 115 quốc gia có trồng hay thí nghiệm lúa gạo trên thế giới. Trong thời gian ở Roma. được phái đi thường xuyên nghiên cứu, lập dự án nông nghiệp v.v. tại Côte d’Ivoire, Burkina Faso, Niger, Tanzania, Ai Cập, Kenya, Madagascar, Comores… ở châu Phi, Brasil ở châu Mỹ, Thái Lan, Philippines, Ấn Độ, Hà Lan, Bỉ, Serbia, Albania, Bulgaria

                Tốt nghiệp Tú Tài phần hai, thì được học bổng ” Bảo Đại ” (Pháp cấp cho mọi người Việt Nam đỗ tú tài hai), sang Pháp tháng 8 năm 1950. Sửa soạn thi vào các trường Cao đẳng Pháp ở lycée Louis – LeGrand và năm 1952 đỗ thi tuyển vào Viện Quốc gia Nông học – Institut National Agronomique – Paris, khi đó còn nằm ở khu phố Quartier Latin gần vườn Lục Xâm Bảo (Jardin du Luxembourg). Viện Nông Học này trước đó, có hai người Việt Nam tốt nghiệp nổi danh là Thượng nghị sĩ Nam Kỳ Bùi Quang Chiêu người Việt đầu tiên tốt nghiệp cuối thế kỷ thứ 19 và bà quận công (Duchesse D’ Annam), công chúa Như Mai con gái vua Hàm Nghi, đỗ đầu vào Viện, tên khắc bảng vàng ở cổng vào Viện.Nguồn:

                Nguồn:
                KỶ YẾU 65 NĂM TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH link tại https://kyyeunonglam.blogspot.com/2020/11/ky-yeu-65-nam-truong-ai-hoc-nong-lam.html
                https://vi.m.wikipedia.org/wiki;

                1) Những người Việt ở FAO
                https://hoangkimlong.wordpress.com/category/nhung-nguoi-viet-o-fao/; 2) Chuyện thầy Tôn Thất Trìnhhttps://hoangkimlong.wordpress.com/category/chuyen-thay-ton-that-trinh/ ; 3) Lời Thầy dặn thung dunghttps://hoangkimlong.wordpress.com/category/loi-thay-dan-thung-dung/; 4) Quà Tặng The Gift http://tonthat-tonnu.blogspot.com/p/ve-blog-gift.html; Nguyễn Phước đức lâu bền http://tonthat-tonnu.blogspot.com/p/ve-gs-ton-that-trinh.html và Nhớ thầy Tôn Thất Trình https://hoangkimvn.wordpress.com/2021/07/12/nho-thay-ton-that-trinh/

                Liên lạc với gia đình thầy Tôn Thất Trình: Mọi ý kiến, bài vở xin liên lạc với gia đình Thầy qua điện thư: tonnubn@gmail.com Trân trọng. http://tonthat-tonnu.blogspot.com/p/lien-lac.html

                ĐIẾU VĂN TIỄN GIÁO SƯ TÔN THẤT TRÌNH
                Giáo sư Thái Công Tụng


                Trước linh sàng giáo sư Tôn Thất Trình, xin thay mặt các bằng hữu xa gần từ các cơ sở giáo dục Đại học Nông nghiệp Sài Gòn, v.v, tôi thành kính chia buồn với gia đình về sự ra đi vĩnh viễn của giáo sư Tôn Thất Trình.

                Thầy Tôn Thất Trình trong nhiều năm là Giám Đốc Trung tâm Giáo dục Nông nghiệp Sài Gòn và đã đào tạo rất nhiều sinh viên . Với cương vị Giám Đốc của Trường, giáo sư Trình đã một lòng đem khoa học về với ruộng đồng Việt Nam, gửi cán bộ giảng dạy đi tiếp tục đào tạo ở Mỹ, tạo nên một cơ sở vững chắc cho Viện những năm sau này.

                Hôm nay, giáo sư Tôn Thất Trình đã đi thật xa, lìa bỏ các đồng môn, đồng nghiệp, môn sinh, đưa thầy vào giấc ngủ miên viễn, sang nước Nhược, non Bồng. Cát bụi, hạt bụi nào hoá kiếp thân tôi, thầy Trình đã lìa bỏ thế giới ta bà này sang thế giới tịnh độ bên kia để hưởng an bình. Ta là cát ta sẽ về với bụi Trả trần gian những cay ðắng muộn phiền Hồn ta sẽ về nơi cao xanh ấy Không còn buồn lo lắng chốn trần ai!

                Quả thật, thầy Tôn Thất Trình đã xuôi tay nhắm mắt. Tuổi dương gian gần 90 năm, dài mà ngắn, dài vì cuộc đời trôi nổi, vận nước điêu linh, qua nơi định cư đất Cali ngày nay. Chỉ một bước ngắn, chúng ta chuyển từ cõi này qua cõi khác. Ai cũng ngại ngần trước nhịp bước vô định này. Cái bước dùng dằng từ một chỗ đứng cân bằng trên mặt đất sang chỗ chênh vênh mây trời là cái bước mỗi con người phải trải qua. Cái điều chắc chắn sẽ xảy ra này, chúng ta không muốn nghĩ tới. Càng thêm tuổi, chúng ta càng làm lơ không muốn nghĩ tới. Kẻ đi trước, người sau rồi sẽ gặp…

                Hình tướng vốn theo lẽ vô thường: nay còn, mai mất, theo luật của Tạo hóa, tấm thân tứ đại của anh Tôn Thất Trình sẽ trở về với cát bụi, nhưng trong tâm tưởng của bạn bè xa gần, không thể nhạt nhòa những hình ảnh của thầy Trình. Con người phát sinh từ hư vô như một ánh sao sa trong trời vắng, tự tạo lấy phẩm giá cho mình rồi lại trở về với hư vô nhưng sẽ hân hoan mãn nguyện vì đã gieo một vệt sáng cho đời, dù chỉ là một vệt sáng cô đơn trong trường dạ tối tăm của trời đất: Giáo sư đã để lại cho hậu thế nhiều sách về Nông học và Hoa Màu, Cây ăn trái v.v…

                Xin Đức Phật từ bi đưa linh hồn Thầy Trình về Cõi Phật: Nam Mô Quan Thế Âm Bồ tát; Nam Mô Đại Thế Chí Bồ Tát; Nam Mô Địa Tạng Vương Bồ tát

                Nguồn: Thầy Thái Công Tụng mail cho anh
                Trần Văn Hảo, chủ bút trang Cựu SV Nông Nghiệp (Đại Gia Đình NÔNG LÂM MỤC SÚC), đăng ngày 17 tháng 7 lúc 09:49 

                LÊ QUÝ ĐÔN TINH HOA
                Hoàng Kim

                “Dẫu có bạc vàng trăm vạn lượng. Không bằng kinh sử một vài pho”.Lê Quý Đôn là danh sĩ tinh hoa, nhà bác học, nhà thơ lớn Việt Nam, quan đại thần thời Lê Trung Hưng. Lê Quý Đôn qua bài thơ ‘Gia Cát Lượng’ đã thể hiên tâm sự và chí hướng: “Long cương nằm khểnh hát nghêu ngao, Vì cảm ơn sâu biết tính sao! Hai biểu ra quân lòng đã tỏ, Tám đồ bày trận giá càng cao. Tam phân gặp buổi đương tranh vạc, Ngũ trượng ngờ đâu bỗng tối sao. Miếu cũ ngày nay qua tới đó, Tấc lòng khởi kính biết là bao! ” (Nguồn: Văn đàn bảo giám, NXB Văn học, 2004). Bài nghiên cứu này là tìm tòi của Hoàng Kim về Lê Quý Đôn tinh hoa, con người, sự nghiệp và bài học lịch sử.

                Các nhà sử học, nhà văn học Việt Nam thường đồng tình với sự đánh giá của nhà sử học Phan Huy Chú lừng lẫy bách khoa thư : “Ông (Lê Quý Đôn) có tư chất khác đời, thông minh hơn người mà (vẫn) giữ tính nết thuần hậu, lại chăm học không biết mỏi. Tuy đỗ đạt vinh hiển, tay vẫn không rời quyển sách. Bình sinh (ông) làm sách rất nhiều. Bàn về kinh sử thì sâu sắc, rộng rãi, mà nói về điển cố thì đầy đủ rõ ràng. Cái sở trường của ông vượt hơn cả, nổi tiếng trên đời. Văn thơ ông làm ra gọi là Quế đường tập có mấy quyển” (trong “Nhân vật chí”). “Ông là người học vấn rộng khắp, đặt bút thành văn. Cốt cách thơ trong sáng. Lời văn hồn nhiên…, không cần suy nghĩ mà trôi chảy dồi dào như sông dài biển cả, không chỗ nào không đạt tới, thật là phong cách đại gia”. Nhiều nhà nghiên cứu đều tâm đắc nhận định ” (Lê Quý Đôn là ) nhà bác học ham đọc, ham biết và ham viết” , “một nhà bác học có kiến thức hết sức uyên bác và đa dạng”.

                Lê Quý Đôn không chì là nhà bác học lớn nhà thơ lớn mà trước hết trên hết ông còn là một danh sĩ tinh hoa, một đại quan rất được triều đình Lê Trịnh và người đương thời kính trọng. Lê Quý Đôn con người và sự nghiệp ấy không chỉ là trước tác mà còn là triều đại. Ông cho tới lúc mất còn được truy tặng hàm Công bộ Thượng thư tước Dĩnh Quận công.

                Lê Quý Đôn kính trọng Gia Các Lượng xưa cúc cung tận tuy cho triều đại thời mình. Việc Lê Quý Đôn sau khi đi sứ về nhất định từ quan lui về viết sách đã thể hiện tầm nhìn và ngôn chí của ông. Bài viết ‘Gia Cát Lượng’ soi thấu nhiều điều sâu sắc của một danh sĩ tinh hoa.

                Giáo sư Văn Tân ở Viện Sử học đánh giá thật xác đáng: “Lê Quý Đôn không chỉ là nhà bác học và nhà thơ tài danh, ông còn là một nhà trí thức muốn có những cải cách trong xã hội Việt Nam; một nhà chính trị quan tâm đến nhân dân, gần gũi nhân dân, và hiểu những mong muốn của nhân dân; một danh sĩ tinh hoa cấp tiến có tư tưởng tự tôn và tự hào dân tộc Việt Nam”.

                Chuyên luận ‘Lê Quý Đôn với Phật Giáo‘ của Thích Nhuận Thịnh cho thấy “Qua nghiên cứu thiên Thiền dật của Lê Quý Đôn, điều chúng ta có thể khẳng định ngay rằng, ông là một Nho sĩ có thiện cảm với Phật giáo“;

                Thời thế và cuộc đời Lê Quý Đôn sáng tỏ góc khuất trong sự nghiệp của ông.

                LÊ QUÝ ĐÔN CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIIỆP

                Lê Quý Đôn (1726 – 1784), tên thuở nhỏ là Lê Danh Phương, tự Doãn Hậu, hiệu Quế Đường là đại quan, bác học, nhà thơ lớn thời Lê trung hưng. Lê Quý Đôn sinh ngày 5 tháng 7 năm Bính Ngọ (2 tháng 8 năm 1726) tại làng Diên Hà, huyện Diên Hà, trấn Sơn Nam; nay thuộc xã Độc Lập, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình. Ông là con trai cả của ông Lê Phú Thứ (sau đổi là Lê Trọng Thứ), đỗ Tiến sĩ năm Bảo Thái thứ 2 (Giáp Thìn, 1721), và làm quan trải đến chức Hình bộ Thượng thư, tước Nghĩa Phái hầu. Mẹ Lê Quý Đôn họ Trương (không rõ tên), là con gái thứ ba của Trương Minh Lượng, đỗ Tiến sĩ khoa Canh Thìn (1700), trải nhiều chức quan, tước Hoằng Phái hầu.  Lê Quý Đôn thuở nhỏ tư chất thông minh nổi tiếng “thần đồng”, 5 tuổi đã đọc được nhiều bài trong Kinh Thi, 12 tuổi, đã học “khắp kinh, truyện, các sử, các sách của bách gia chư tử”. Giai thoại lưu truyền bài “Rắn đầu biếng học ” của ông. Chuyện rằng, một hôm, Tiến sĩ Vũ Công Trấn đến thăm Tiến sĩ Lê Phú Thứ là người bạn cùng đỗ Tiến sĩ khoa Giáp Thìn 1724. Nghe con bạn là Lê Quý Đôn nhỏ tuổi hay chữ, nên ông Trấn lấy đầu đề “Rắn đầu biếng học” để thử tài. Ít phút sau, Lê Quý Đôn đã làm xong bài thơ dưới đây:

                Chẳng phải “liu điu” vẫn giống nhà!
                “Rắn đầu” biếng học lẽ không tha
                Thẹn đèn “hổ lửa” đau lòng mẹ,
                Nay thét “mai gầm” rát cổ cha.
                “Ráo” mép chỉ quen tuồng lếu láo,
                “Lằn”
                lưng cam chịu vệt năm ba.
                Từ nay “Trâu” Lỗ xin siêng học,
                Kẻo “hổ mang” danh tiếng thế gia!

                Bài thơ  ý tứ cao kỳ, mỗi câu có tên một loài “rắn”

                Lê Quý Đôn năm Kỷ Mùi theo cha lên học ở kinh đô Thăng Lon, năm Quý Hợi (đời vua Lê Hiển Tông, ông dự thi Hương và đỗ đầu (Giải nguyên) lúc 17 tuổi. Sau đó, ông cưới cô Lê Thị Trang ở phường Bích Câu làm vợ. Cô là con gái thứ 7 của Lê Hữu Kiều, tiến sĩ khoa Mậu Tuất (1718). Ông dạy học và viết sách trong khoảng thời gian 1743–1752 và viết sách Đại Việt thông sử (còn gọi là “Lê triều thông sử”) Năm 26 tuổi (Nhâm Thân, 1752), ông dự thi Hội đỗ Hội nguyên, vào thi Đình, đỗ Bảng nhãn. Vì kỳ thi này không lấy đỗ Trạng nguyên, nên kể như cả ba lần thi, ông đều đỗ đầu.

                Lê Quý Đôn sau khi đỗ đại khoa, năm Quý Dậu (1753),  được bổ làm Thị thư ở Viện Hàn Lâm, rồi sung làm Toản tu quốc sử vào mùa xuân năm Giáp Tuất (1754). Năm Bính Tý (1756), ông được cử đi thanh tra ở trấn Sơn Nam, phát giác “6, 7 viên quan ăn hối lộ”. Tháng 5 năm đó, ông được biệt phái sang phủ chúa coi việc quân sự (chức Tri Binh phiên). Ba tháng sau, ông được cử đi hiệp đồng các đạo Sơn Tây, Tuyên Quang, Hưng Hóa…rồi đem quân đi đánh quân của Hoàng Công Chất. Năm Đinh Sửu (1757), ông được thăng làm Hàn lâm viện Thị giảng. Trong năm này, ông viết Quần thư khảo biện. Năm Kỷ Mão (1759), vua Lê Ý Tông mất, triều đình cử ông làm Phó sứ, tước Dĩnh Thành bá, để cùng với Lê Duy Mật, Trịnh Xuân Chú cầm đầu phái đoàn sang nhà Thanh (Trung Quốc) báo tang và nộp cống (1760). Trên đường sang Yên Kinh (nay là Bắc Kinh), Lê Quý Đôn thấy các quan lại nhà Thanh có thói quen gọi đoàn sứ của nước Đại Việt (Nay là Việt Nam) là “di quan, di mục” (quan lại mọi rợ), ông lên tiếng phản đối, từ đấy họ mới gọi là “An Nam cống sứ”. Ông trong chuyến đi này đã được các quan lớn triều Thanh như Binh bộ Thượng thư Lương Thi Chinh, Công bộ Thượng thư Quy Hữu Quang và nhiều nho thần khác tìm đến thăm. Lê Quý Đôn tại điện Hồng Lô, đã  gặp đoàn sứ thần Triều Tiên do Hồng Khải Hi đứng đầu. Tại đây ông đã làm thơ với sứ thần Triều Tiên và các đại quan triều Thanh và cho họ xem ba tác phẩm của mình là Thánh mô hiền phạm lục, Quần thư khảo biệnTiêu Tương bách vịnh Tài văn chương và ứng đáp của ông làm cho họ tôn trọng và khen ngợi.

                Lê Quý Đôn sau khi đi sứ về nước năm Nhâm Ngọ, (1762), được thăng chức Thừa chỉ Viện Hàn Lâm, rồi làm Học sĩ ở Bí thư các.Năm Quý Mùi (1763), ông viết Bắc sứ thông lục và  được cử coi thi Hội. Năm Giáp Thân (1764), ông dâng sớ xin thiết lập pháp chế, vì thấy một số quan lại lúc bấy giờ “đã quá lạm dụng quyền hành, giày xéo lên pháp luật”, nhưng không được chúa nghe. Cũng trong năm đó, ông được cử làm Đốc đồng xứ Kinh Bắc, rồi đổi làm Tham chính xứ Hải Dương năm Ất Dậu (1765), song ông dâng sớ không nhận chức và xin về hưu. Theo Phan Huy Chú, lời sớ đại khái rằng: “Tấm thân từng đi muôn dặm còn sống về được, lại gặp cảnh vợ chết, con thơ phiêu bạt chỗ giang hồ, thần thực không thích làm quan nữa, xin cho về làng.” Được chấp thuận, ông trở về quê “đóng cửa, viết sách”. Đầu năm Đinh Hợi (1767), chúa Trịnh Doanh qua đời, Trịnh Sâm lên nối ngôi. Nghe theo lời tâu của Nguyễn Bá Lân, chúa cho triệu Lê Quý Đôn về triều, phong làm chức Thị thư, tham gia biên tập quốc sử, kiêm Tư nghiệp Quốc tử giám.lên vua Lê Hiển Tông đọc. Tháng 9 năm đó, ông được cử làm Tán lý quân vụ trong đội quân của Nguyễn Phan (tước Phan Phái hầu) đi dẹp cuộc nổi dậy của Lê Duy Mật ở Thanh Hóa. Năm Mậu Tý (1768), ông làm xong bộ Toàn Việt thi lục, dâng lên chúa Trịnh. Năm Kỷ Sửu (1769), ông dâng khải xin lập đồn điền khẩn hoang ở Thanh Hóa. Năm Canh Dần (1770), bàn đến công lao đánh dẹp, ông được thăng làm Hữu thị lang bộ Hộ, kiêm Thiêm đô Ngự sử. Mùa thu năm ấy, ông và Đoàn Nguyễn Thục nhận lệnh đi khám duyệt hộ khẩu ở xứ Thanh Hóa. Xong việc trở về, ông tâu xin tha bớt các thuế thổ sản, thủy sản cho các huyện và thuế thân còn thiếu. Chúa Trịnh liền giao cho triều đình bàn và thi hành. Ít lâu sau, ông được thăng Tả thị lang bộ Lại. Khi lãnh trọng trách này, ông có tâu trình lên bốn điều, được chúa khen ngợi, đó là: 1) Sửa đổi đường lối bổ quan. 2) Sửa đổi chức vụ các quan. 3) Sửa đổi thuế khóa nhà nước. 4) Sửa đổi phong tục của dân. Năm Nhâm Thìn (1772), ông được cử đi điều tra về tình hình thống khổ của nhân dân và những việc nhũng lạm của quan lại ở Lạng Sơn. Năm Quý Tỵ (1773) đại hạn, ông tâu trình 5 điều, đại lược nói: “Phương pháp của cổ nhân đem lại khí hòa, dẹp tai biến, cốt lấy lễ mà cầu phúc của thần, lấy đức mà khoan sức dân” . Chúa nghe theo, bổ ông làm Bồi tụng (Phó Tể tướng), giữ việc dân chính, kiêm quản cơ Hữu hùng, tước Dĩnh Thành hầu. Trong năm này, ông viết Vân đài loại ngữ.

                Lê Quý Đôn được cử giữ chức Lưu thủ ở Thăng Long tháng 10 năm Giáp Ngọ (1774), khi chúa Trịnh Sâm thân chinh mang quân đánh Thuận Hóa. Đầu năm Ất Mùi (1775), tướng Hoàng Ngũ Phúc đánh chiếm được Thuận Hóa. Tháng 2 năm đó, chúa Trịnh trở về kinh, rồi thăng ông làm Tả thị lang bộ Lại kiêm Tổng tài Quốc sử quán. Cũng trong năm đó xảy ra vụ Lê Quý Kiệt (con Lê Quý Đôn) đổi quyển thi với Đinh Thời Trung bị phát giác, cả hai đều bị tội. Vì là đại thần, Lê Quý Đôn được miễn nghị . Năm Bính Thân (1776), chúa Trịnh Sâm đặt ty trấn phủ ở Thuận Hóa. Lê Quý Đôn được cử làm Hiệp trấn Tham tán quân cơ, để cùng với Đốc suất kiêm Trấn phủ Bùi Thế Đạt tìm cách chống lại quân Tây Sơn. Tại đây, ông soạn bộ Phủ biên tạp lục. Ít lâu sau, ông được triệu về làm Thị lang bộ Hộ, kiêm chức Đô ngự sử  Năm Mậu Tuất (1778), được cử giữ chức Hành tham tụng, nhưng ông từ chối và xin đổi sang võ ban. Chúa Trịnh chấp thuận, cho ông làm Tả hiệu điểm quyền Phủ sự (quyền như Tể tướng, tạm coi việc phủ chúa), tước Nghĩa Phái hầu. Tháng 4 năm đó, Lê Thế Toại dâng bài khải công kích Lê Quý Đôn. Năm sau (1779), ông lại bị Hoàng Văn Đồng tố cáo, nên bị giáng chức. Năm Tân Sửu (1781), ông lại được giữ chức Tổng tài Quốc sử quán. Tháng 9 năm Nhâm Dần (1782), chúa Trịnh Sâm qua đời, Trịnh Cán được nối ngôi chúa. Chỉ vài tháng sau, quân tam phủ nổi loạn giết chết Quận Huy (Hoàng Đình Bảo), phế bỏ Trịnh Cán và Đặng Thị Huệ (vợ chúa Trịnh Sâm, mẹ Trịnh Cán), lập Trịnh Khải làm chúa. Nhớ lại hiềm riêng, Nguyễn Khản nói với chúa Trịnh Khải giáng chức Lê Quý Đôn]. Đầu năm Quý Mão (1783), ông nhận lệnh đi làm Hiệp trấn xứ Nghệ An. Ít lâu sau, ông được triệu về triều làm Thượng thư bộ Công  Trong bối cảnh kiêu binh gây rối, triều chính rối ren, nhân dân đói khổ,…Lê Quý Đôn lâm bệnh nặng. Sau đó, ông xin về quê mẹ là làng Nguyễn Xá (huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam) để chữa trị, nhưng không khỏi. Ông mất ngày 14 tháng 4 năm Giáp Thìn niên hiệu Cảnh Hưng thứ 45 (tức 11 tháng 6 năm 1784), lúc 58 tuổi. Thương tiếc, chúa Trịnh Tông (tức Trịnh Khải) đã đề nghị với vua Lê Hiển Tông cho bãi triều ba ngày, cử Bùi Huy Bích làm chủ lễ tang, đồng thời cho truy tặng Lê Quý Đôn hàm Công bộ Thượng thư. Đến khi vua Lê Chiêu Thống nắm quyền chính, ông được gia tặng tước Dĩnh quận công.

                LÊ QUÝ ĐÔN VĂN CHƯƠNG NẾT ĐẤT

                Lê Quý Đôn là nhà bác học lớn thời Lê mạt đã lưu lại một khối lượng tác phẩm thật đồ sộ, nổi bật nhất là các bộ sách:

                1) Kiến văn tiểu lục (12 quyển), là những ghi chú nhỏ của Lê Quý Đôn (mà tiếng Anh ngày nay gọi là Notes) . Đó là Lê Quý Đôn tận mắt nhìn thấy, tai nghe, hoặc đọc được, và ông thật sự tâm đắc lưu ngay lại điều không nỡ quên này. Lê Quý Đôn chức quan như Phó Thủ Tướng Chính phủ ngày nay việc quan thật trọng trách và bận rộn. Tập bút ký này của Lê Quý Đôn thật sự quan trọng và quý giá nói về lịch sử và văn hóa Việt Nam từ đời Trần đến đời Lê. Kiến văn tiểu lục là tác phẩm lớn, được chiêm nghiệm, biên soạn thật công phu và nghiêm cẩn, phản ánh trình độ học vấn uyên bác của Lê Quý Đôn. Sách đề cập tới nhiều lĩnh vực thuộc chế độ các vương triều Lý, Trần, từ thành quách, núi sông, đường xá, thuế má, phong tục tập quán, sản vật, mỏ đồng, mỏ bạc và cách khai thác, cho tới các lĩnh vực như thơ văn, sách vở… vớí nhiều lĩnh vực rất phong phú.

                2) Đại Việt thông sử, còn gọi Lê triều thông sử, là bộ sử được viết theo thể ký truyện, chép sự việc theo từng loại, từng điều một cách hệ thống, bắt đầu từ Lê Thái Tổ qua Lê Thái Tông, Lê Thánh Tông, Lê Hiến Tông, Lê Thuần Tông, Lê Uy Mục, Lê Tương Dực, Lê Chiêu Tông đến Cung Hoàng, trải qua mười đời vua, nếu kể cả Lê Nghi Dân thì là mười một đời vua, bao quát một thời gian hơn 100 năm của triều Lê, trong đó chứa đựng nhiều tài liệu mới mà các bộ sử khác không có, đặc biệt là về cuộc kháng chiến chống quân Minh. Đại Việt thông sử rất có ích cho những người làm công tác nghiên cứu lịch sử dân tộc, cụ thể là lịch sử dân tộc hồi thế kỷ XVI – XVII.

                3) Phủ biên tạp lục là tài liệu hệ thống hóa tình hình xã hội Đàng Trong từ thế kỷ thứ 18 trở về trước, để tìm kế sách an dân mà Lê Quý Đôn gọi là Phủ tức là phủ dụ “vổ yên trăm họ” . Bộ sásh này được viết trong thời gian Lê Quý Đôn làm quan Hiệp Trấn Thuận Hoá, tại vùng đất vốn trước đó là trung tâm chính trị toàn xứ Đàng Trong. Lê Quý Đôn đã tổ chức công việc biên soạn, cần cù làm việc, ghi chép cẩn trọng tỷ mỷ, đối chiếu xác minh chỉnh lí đúc kết hệ thống hóa tất cả những thông tin quan trọng về chính trị quân sự kinh tế văn hóa xã hội của xứ Đàng Trong tại tất cả các trấn, phủ, huyện, châu, tổng, xã, thuộc, trang, về chế độ công, tư điền, về lệ thuế khóa giáo dục, thi cử … Kết quả đúc kết hệ thống này đã tạo nên toàn cảnh của xứ Đàng Trong, về vai trò lịch sử của các chúa Nguyễn đối với đất phương Nam. Bộ sách này có giá trị to lớn mà chúng ta còn lưu giữ được đến ngày hôm nay, mà bất cứ người nào làm công tác nghiên cứu sử học và văn hoá học Việt Nam cũng đều đánh giá rất cao. Sau này ở Gia Định có Trịnh Hoài Đức là quan Hiệp trấn cũng đã viết bộ “Gia Định thành thông chí” hệ thống hóa thông tin Đàng Trong tương tự cách làm của Lê Quý Đôn.

                4) Vân đài loại ngữ gồm 9 quyển, là “bách khoa thư” đồ sộ nhất thời Trung đại Việt Nam, tập hợp các tri thức về triết học, khoa học, văn học… sắp xếp có hệ thống theo Vũ trụ luận, địa lý, điển lệ, chế độ, văn nghệ, ngôn ngữ, văn tự, sản vật tự nhiên, xã hội… Vân đài loại ngữ là bộ sách đạt tới trình độ phân loại, hệ thống hóa, khái quát hóa khá cao, đánh dấu một bước tiến bộ vượt bậc đối với nền khoa học Việt Nam thời phong kiến, Tên sách Vân Đài Loại Ngữ được giảng nghĩa: Vân: là một loài cỏ có mùi thơm rất quyến rũ, gọi tên là cỏ vân hương. Đài : là cái đài, là nơi cao hơn hẳn. Đài là ngôi nhà cao có thể ngắm khắp bốn phương. Loại: là loài, là từng giống riêng. Ngoài ra, chữ loại cũng có nghĩa là sự tốt lành.
                Ngữ : là lời nói, câu nói nhưng ở đây có nghĩa là lời nói đã bao hàm đầy đủ ý nghĩa tinh vi.

                5) Toàn Việt thi lục với 6 quyển, được hoàn thành vào năm 1768, tuyển chọn 2.000 bài thơ của 175 tác giả từ thời Lý đến đời Lê

                6) Quế Đường thi tập, gồm 4 quyển tích hợp vài trăm bài làm ở trong nước và trong thời gian đi sứ ở Trung Quốc. Quế Đường thi tập Thi Viện có giới thiệu 225 bài thơ sáng tác bằng Hán văn. Tập thơ lần đầu tiên được tuyển chọn và dịch (44 bài) sang tiếng Việt năm 1976 do Ty Thông tin văn hoá Thái Bình ấn hành. Các bài thơ trong tập sách ( gồm 4 phần: Phiên âm (không có nguyên tác chữ Hán đi kèm); Dịch nghĩa; Dịch thơ và Chú thích) do nhà Hán học Đào Phương Bình thực hiện.

                6) Quần thư khảo biện, Thánh mô hiền phạm lục và các tác phẩm khác (*) … là những tác phẩm chứa đựng nhiều quan điểm triết học, lịch sử, chính trị. do Lê Quý Đôn biên soạn, Theo Phan Huy Chú thì Lê Quý Đôn còn có Quế Đường văn tập, gồm 4 quyển, nhưng sách này đã mất.

                (*) Dương Quảng Hàm đánh giá: Lê Quý Đôn thật là một nhà bác học ở đời Lê mạt: một tay ông đã biên tập, trứ thuật rất nhiều sách. Tác phẩm của ông tuy đã thất lạc ít nhiều, nhưng những bộ còn lưu lại cũng là một cái kho tài liệu để ta khảo cứu về lịch sử, địa dư và văn hóa của nước Việt. Các tác phẩm chữ Hán của Lê Quý Đôn có thể chia ra làm 5 loại 1.) Các sách bàn giảng về kinh, truyện như:
                Dịch kinh phu thuyết (Lời bàn nông nổi về Kinh Dịch), gồm 6 quyển.Thư kinh diễn nghĩa (Giảng nghĩa Kinh Thư), gồm 3 quyển, đã được khắc in, có tựa của tác giả đề năm 1772. Xuân thu lược luận (Bàn tóm lược về kinh Xuân thu). 2. Các sách khảo cứu về cổ thư như:  Quần thư khảo biện (Xét bàn các sách), gồm 4 quyển, đã khắc in, có tựa của tác giả (đề năm 1757), của Chu Bội Liên (người nhà Thanh) và của Hồng Hải Hi (sứ Triều Tiên đề năm 1761). Thánh mô hiền phạm lục (Chép về mẫu mực của các bậc thánh hiền), gồm 12 quyển, có tựa của Chu Bội Liên và Hồng Khải Hi đề năm 1761; V&aciXem tiếp >>

                  Dạy và học 24 tháng 7(24-07-2021)

                DẠY VÀ HỌC 24 THÁNG 7
                Hoàng Kim
                CNM365 Tình yêu cuộc sốngBình Minh An Ngày Mới; Vui đi dưới mặt trời; Đêm nay là Trăng rằm; Đồng xuân lưu dấu hiền; Nhớ Người; Đào Duy Từ còn mãi; Châu Mỹ chuyện không quên; Machu Picchu di sản thế giới; Ngọc lục bảo Paulo Coelho; Ngày Simón Bolívar người giải phóng Nam Mỹ tại Bolivia, Colombia, Ecuador và Venezuela, để kỷ niệm ngày 24 tháng 7 năm 1783 là ngày sinh của Simón Bolívar người công đầu giành độc lập cho sáu nước Venezuela, Colombia, Panama, Ecuador, Peru, Bolivia thoát khỏi ách thực dân Tây Ban Nha  (ông chết năm 1830). Ngày 14 tháng 7 năm 1911 vùng Machu Picchu ở Peru di sản  thế giới UNESCO “thành phố bị lãng quên của người Inca“ đã được nhà thám hiểm người Mỹ Hiram Bingham III  tái khám phá. Ngày 14 tháng 7 năm 1968, 10 nữ thanh niên xung phong đã bị bom Mỹ vùi ở Ngã ba Đồng Lộc (Hà Tĩnh) sự kiện nổi bật hay nhắc tới trong chiến tranh Việt Nam  Bài chọn lọc ngày 24 tháng 7: Bình Minh An Ngày Mới; Vui đi dưới mặt trời; Đêm nay là Trăng rằm; Đồng xuân lưu dấu hiền; Nhớ Người; Đào Duy Từ còn mãi; Châu Mỹ chuyện không quên; Machu Picchu di sản thế giới; Ngọc lục bảo Paulo Coelho; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-24-thang-7/;

                BÌNH MINH AN NGÀY MỚI
                Hoàng Kim

                Thanh nhàn đời vui khỏe
                Tỉnh thức lộc Trời ban
                Nắng ban mai đầy cửa
                Ngày mới bình minh an.

                Mai sớm nắng mới lên
                Hoa bình minh tỉnh thức
                Long lanh hương trời đất
                Lộc non xanh mướt cành.

                Bình minh an ngày mới
                Bà cháu vui nấu cơm
                Ông con say dạy học
                Suối nhạc lòng ngân nga

                Vui khỏe cùng trẻ thơ …

                Chùm ảnh gia đình Bình Minh An Ngày Mớihttps://hoangkimlong.wordpress.com/category/binh-minh-an-ngay-moi/

                Hình ảnh này chưa có thuộc tính alt; tên tệp của nó là hoangkim1.jpg

                VUI ĐI DƯỚI MẶT TRỜI
                Hoàng Kim

                Hãy lên đường đi em
                Ban mai vừa mới rạng
                Vui đi dưới mặt trời
                Một niềm tin thắp lửa

                Ta như ong làm mật
                Cuộc đời đầy hương hoa
                Thời an nhiên vẫy gọi
                Vui đời khỏe cho ta.

                *

                Vui đi dưới mặt trời
                Nắng dát vàng trên đồng xuân
                Mưa ướt vệt bóng mây, tím sắc trời cuối hạ
                Đất ước, cây trông, lòng nhớ …

                Em trốn tìm đâu trong giấc mơ tâm tưởng
                Ngôi nhà con hạnh phúc trăm năm
                Bếp lửa ngọn đèn khuya
                Vận mệnh cuộc đời cố gắng

                Tình yêu là người thầy tốt hơn trách nhiệm
                Đồng lòng đất cảm trời thương
                Phúc hậu minh triết tận tâm
                Cố gắng làm người có ích

                Tháng năm tròn đầy vườn thiêng cổ tích
                Mừng ban mai mỗi ngày tỉnh thức bình an
                Chào ngày mới CNM365 Tình yêu cuộc sống
                Thảnh thơi vui cõi phúc được thanh nhàn.

                Vui đi dưới mặt trời
                Một niềm tin thắp lửa

                ĐÊM NAY LÀ TRĂNG RẰM
                Hoàng Kim

                Em đi chơi cùng Mẹ
                Đêm nay là trăng rằm
                Thảo thơm vui đầy đặn
                Ân tình cùng nước non.

                Trăng khuyết rồi lại tròn
                An nhiên cùng năm tháng
                Ơi vầng trăng cổ tích
                Soi sáng sân nhà em.

                Đêm nay là đêm nao?
                Ban mai vừa ló dạng
                Trăng rằm soi bóng nắng
                Bạch Ngọc trời phương em.

                ĐỒNG XUÂN LƯU DẤU HIỀN
                Hoàng Kim


                Thân thiết một người hiền cũ
                Tháng năm nhanh thật là nhanh
                Tùng Châu, Hoài Nhơn, Phụng Dụ
                Dừa xanh, sắn biếc tâm hồn

                Cứ nhớ thương thầm dấu cũ
                Dòng đời đâu dễ nguôi quên
                Chuyên “Đào Duy Từ còn mãi”
                Đồng xuân lưu dấu người hiền

                Một giấc mơ lành hạnh phúc
                Tùng Châu, Châu Đức, Đào Công
                Một góc vườn thiêng cổ tích
                Lời thương thăm thẳm giữa lòng

                Hoàng Kim đã về dâng hương tưởng nhớ Đào Duy Từ ở đất Tùng Châu xưa. Tôi lần tìm theo những trang ghi chép cũ để thấu hiểu sự nhọc nhằn khởi nghiệp của bậc anh hùng và để thấy dấu ấn cùng với những ảnh hưởng lớn lao của Đào Duy Từ đối với mảnh đất này. Tôi đã may mắn  thăm  Đình Lạc Giao, Lũy Thầy và các nơi để chứng ngộ công đức của Người và cảm nhận. Cám ơn gia tộc Đào Duy, phó giáo sư Đào Thế Anh, giáo sư Mai Văn Quyền, giáo sư Lê Văn Tố, phó giáo sư sử học Trương Minh Dục, thầy Dương Duy Đồng, thầy Nguyễn Minh Hiếu, em Nguyễn Thị Trúc Mai, em Phạm Văn Ngọc, một số người đã trực tiếp chứng kiến các khảo sát điền dã nông nghiệp lịch sử của tôi đã gợi ý cho tôi tiếp tục hoàn thiện bài viết này.

                Tài liệu tham khảo chính

                1) Đào Xuân Hưng 2010. Họ Đào Việt Nam
                http://hodaovietnam.com/home
                2) Nguyễn Khắc Thuần 2012. Giai thoại dã sử Việt Nam; Nhà Xuất bản Giáo dục
                3) Trần Trọng Kim 1921 Việt Nam sử lược, Nhà Xuất bản Văn hóa Thông tin 1999;
                4) Trịnh – Nguyễn diễn chí, quyển 2;
                5) Trang thông tin điện tử tỉnh Bình Định
                http://www.baobinhdinh.com.vn;
                (TS. Đinh Bá Hòa 2012.
                Gia thế Đào Duy Từ qua hai cuốn gia phả, Trong: Báo Bình Định, http://www.baobinhdinh.com.vn/vanhoa-nghethuat/2012/2/122623). Cuốn thứ nhất chép năm Tự Đức 30 Đinh Sửu (1872) và cuốn thứ hai chép năm Thành Thái thứ 3, vào tháng 2 năm Tân Mão (1891)… Về nội dung, hai cuốn gia phả đều chép giống nhau về các đời của họ Đào, trong cùng một khung niên đại, từ đời viễn tổ Đào Duy Trung đến mốc soạn tu gia phả. Bản năm Tự Đức bị mất một số trang phần liệt kê các chi phái. Bản Thành Thái do trùng tu trên cơ sở của bản trước nên văn phong sáng sủa, ghi chép cẩn thận, tỉ mỉ hơn… Về lai lịch họ Đào, kể từ Đào Duy Từ và vợ ông là Cao Thị Nguyên trở về trước, cả hai bản đều ghi là ở Thanh Hóa. Về vợ Đào Duy Từ, sử sách về ông đều chép, ông được khám lý Trần Đức Hòa gả con gái cho. Vậy nên có cơ sở để nói rằng Đào Duy Từ có hai vợ. Về bà Cao Thị Nguyên, gia phả họ Đào ghi bà là vợ Đào Duy Từ. Về bà Trần Thị (không nói rõ tên) cả chính sử và dã sử đều chép là vợ của Lộc Khê hầu. Ở Hoài Nhơn, cách đền thờ Đào Duy Từ 300 m có đền thờ bà Trần Thị, trước cổng đề biển “Quốc ông phu nhân tự”... Đối chiết tài liệu gia phả do TS. Đinh Bá Hòa cung cấp với dã sử và khảo sát thực tế cần xác định rõ thêm người vợ Trần Thị của Đào Duy Từ và gia tộc khám lý Trần Đức Hòa, để rõ thêm con cái và hành trạng hai người vợ  của ông.  Con cháu họ Đào cũng cho biết, không hiểu từ bao giờ tại vùng này, trai gái hai họ Trần và Đào không được lấy nhau mà coi nhau như anh em ruột thịt. Hiện nay tục này vẫn giữ tuy không còn nghiêm ngặt.Theo hai bản gia phả, bà Cao Thị Nguyên là vợ của Đào Duy Từ… Đào Duy Từ và vợ cả đều là người Tĩnh Gia – Thanh Hóa. Ông lấy bà Cao Thị Nguyên trước khi vào Đàng Trong. Tài liệu chính sử và dã sử đều ghi Đào Duy Từ vào Đàng Trong năm 1625, lúc này đã 53 tuổi. Năm 1627, Đào Duy Từ gặp Trần Đức Hòa, được ông gả con gái và tiến cử lên chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên… Các tài liệu ghi năm 1631 Đào Duy Từ gả con gái cho Nguyễn Hữu Tiến, tuy không nói rõ con bà vợ nào nhưng chắc chắn là con bà Cao Thị Nguyên. Tài liệu cũng chép, bà Cao Thị Nguyên không theo ông vào Đàng Trong mà ở quê nhà trông coi phần mộ cha mẹ Đào Duy Từ, ông chỉ mang các con vào sau khi đã thành danh. Vậy mộ song thân Đào Duy Từ và bà vợ họ Cao được đón vào lúc nào cần được tìm hiểu rõ hơn.
                6) Trang thông tin điện tử tỉnh Quảng Bình
                http://www.quangbinh.gov.vn ;
                7) Trang thông tin điện tử tỉnh Thanh Hóa
                http://www.thanhhoa.gov.vn
                8) 
                Đào Duy Từ (chuyên luận Hoàng Kim)  đã bổ sung, chỉnh sửa , hiệu đính nhân ngày 17 tháng 10 âm lịch năm 2015, và đăng lại ở CNM365
                9)
                Đến Thái Sơn nhớ Đào Duy Từ.

                DenThanSonnhoDaoDuyTu

                Đến Thái Sơn nhớ Đào Duy Từ (*)

                10) Tư liệu cần đọc lại
                Đền thờ Đào Duy Từ và từ đường Đào Duy Từ
                Đào Duy Lộc; Đào Duy An

                Đền thờ là công trình kiến trúc nhằm thờ một vị thần hoặc anh hùng dân tộc hoặc danh nhân quá cố. Từ đường là công trình kiến trúc nhằm thờ tổ tiên của họ nào đó. Từ đường còn gọi là nhà thờ họ. Trong lịch sử có vị danh nhân mà vua chúa vừa cho lập đền thờ vừa cho xây từ đường, đó là Thái sư Hoằng Quốc Công Đào Duy Từ.

                Đền thờ Đào Duy Từ

                Đào Duy Từ sinh năm 1572 tại Thanh Hóa; tộc phả và sử liệu không ghi ngày sinh và tháng sinh. Lận đận “lý lịch” và ẩn nhẫn chờ thời cho đến năm 1627 ông mới phò Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên, giữ chức Nha uý Nội tán, tước Lộc Khê hầu, trông coi việc quân cơ trong ngoài và tham lý quốc chính.

                Kế sách ông dâng Chúa Sãi ngay buổi đầu diện kiến gồm 5 điểm chính sau: (1) Thống nhất giang sơn: Ông khuyên Chúa Sãi nên nối nghiệp Tiên Vương Nguyễn Hoàng diệt Chúa Trịnh để thống nhất sơn hà. (2) Mở mang bờ cõi: Đánh chiếm Chiêm Thành để mở mang bờ cõi phương Nam, làm thành một nước rộng lớn hơn Đàng Ngoài của Chúa Trịnh. (3) Phát triển dân số và dân sinh: Chiêu mộ dân khai khẩn đất hoang để sản xuất nông nghiệp; trước là có nhiều thóc gạo làm lương thực, sau là có nhiều người để tăng quân số. Giảm bớt sưu thuế cho dân đỡ khổ, nâng cao đời sống của dân, giúp đỡ họ làm ăn cày cấy, buôn bán. Mở nhiều trường học, ra lệnh cho mọi người đều phải đi học, dân có biết chữ mới biết yêu nước thiết tha. Làm được như thế dân không bị áp bức, lại được sống sung túc thì bao giờ cũng tận tâm phò Chúa. (4) Chỉnh đốn nội trị: Chọn người tài giỏi có công tâm không kể thân sơ ra giúp nước còn những kẻ tham nhũng thì trừng phạt và thải hồi. (5) Xây dựng quân đội: Muốn cho quân đội hùng hậu phải mộ thêm lính, xây đắp đồn lũy, huấn luyện cho quân lính có tinh thần, có kỷ luật.

                Chỉ vỏn vẹn 8 năm phò Chúa Sãi từ 1627 đến 1634 nhưng Đào Duy Từ đã khắc hoạ hình ảnh đặc dị một người thầy của Chúa Sãi, một học giả, một chính trị gia, một chiến lược gia, một kiến trúc gia, một kỹ thuật gia, một nghệ sư tài hoa, là người góp phần định hình được nhà nước, địa lý và bản sắc Đàng Trong.

                Ông mất ngày 17 tháng 10 năm Giáp Tuất (1634). Chúa Sãi thương tiếc khôn nguôi, tặng Hiệp mưu Đồng đức công thần, Đặc tiến Trụ quốc Kim tử Vinh Lộc đại phu, Thái thường Tự khanh, cho đưa về mai táng và sai lập đền thờ phụng tại xã Tùng Châu mà nay là thôn Cự Tài, xã Hoài Phú, huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định.

                Xã Tùng Châu đến đời Gia Long được chia làm 9 thôn là Cự Tài, Phụng Du, Tấn Thạnh, Tân Bình, Phú Mỹ, Hội Phú, Phú Thọ, Cự Nghi và Cự Lễ mà trong đó có đền thờ, đình Tùng Châu tại thôn Cự Tài và lăng (mộ) tại thôn Phụng Du. Đây là 3 địa danh lịch sử bất di bất dịch chính thống xứ Đàng Trong gắn liền với cuộc đời và sự nghiệp của Đào Duy Từ.

                Hiện nay 9 thôn trên thuộc địa giới hành chính của hai xã Hoài Phú và xã Hoài Hảo, huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định. Đền thờ Thái sư Hoằng Quốc Công-Đệ nhất Khai quốc công thần Đào Duy Từ do Chúa Sãi cho xây dựng như đã chép trong Đại Nam Liệt truyện Tiền biên bằng kinh phí nhà nước Đàng Trong bấy giờ và việc thờ phụng cũng do Nhà nước tổ chức. Từ đời Gia Long trở đi đền thờ được liệt vào “Điển thờ của Nhà nước”, có tự điền tự phụ và hằng năm đến ngày 17 tháng 10 âm lịch là ngày húy kỵ (chánh giỗ) của ông thì quan đầu tỉnh đến dâng lễ tế gọi là quốc tế. Đền thờ bị hư hại trong chiến tranh, sau đó đã được con cháu xây dựng lại.

                Hiện tại trong đền thờ còn một thần vị bằng gỗ, sơn son thếp vàng, khắc họ tên thụy hiệu cùng quan hàm tước vị của Đào Duy Từ và của phu nhân là Cao Thị Nguyên. Ngoài ra Đền thờ còn lập bàn thờ ông Trần Đức Hòa là cha vợ Đào Duy Từ và bàn thờ dưỡng tổ Lê Đại Lang.

                Hiện nay lễ húy kỵ hằng năm do dòng họ tổ chức và có đại diện quan chức đến dự.

                Từ đường Đào Duy Từ- “Đền thờ Đào Tá Hán”

                Dù Chúa Sãi đã cho lập đền thờ Đào Duy Từ tại thôn Cự Tài 1, xã Hoài Phú, huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định sau khi ông mất vào năm Giáp Tuất (1634) nhưng Vua Tự Đức vẫn cho xây thêm từ đường Đào Duy Từ vào năm 1859 (xây sau Đền thờ 225 năm) tại thôn Tài Lương (Ngọc Sơn), xã Hoài Thanh Tây, huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định.

                Đây là nơi thờ chính cha mẹ ông (Đào Tá Hán và Vũ Thị Kim Chi), viễn tổ và hậu duệ của ông. Các bàn thờ tại Từ đường được đặt như sau: Bàn thờ chính giữa là thờ Đào Tá Hán và Vũ Thị Kim Chi; bàn thờ phía bên tay trái nhìn từ ngoài vào là thờ viễn tổ ông nội Đào Duy Từ-Đào Duy Trung…; bàn thờ bên tay phải là thờ Đào Duy Từ và Cao Thị Nguyên còn bàn thờ hai bên là thờ hậu duệ Đào Duy Từ…

                Con cháu trong dòng họ Đào Duy Từ ấn định ngày 15, 16 tháng Giêng hằng năm sau khi công việc đồng áng đã xong, rảnh rỗi thì chạp mả (tảo mộ) cho cha, mẹ ông và các bậc tiên tổ, hậu duệ… Đồ cúng chạp mả (tảo mộ) được nấu tại đền thờ Đào Duy Từ rồi gánh về từ đường Đào Duy Từ và cúng tại đây vào sáng ngày 16 tháng Giêng hằng năm. Sau này, để tiện lợi nên nấu cúng tại từ đường Đào Duy Từ.

                Lẫn lộn đền thờ Đào Duy Từ và từ đường Đào Duy Từ

                Trớ trêu là ngày 15 tháng 10 năm 1994 Bộ Văn hoá-Thông tin lại cấp bằng di tích lịch sử văn hoá cấp quốc gia “Đền thờ Đào Duy Từ” cho chính từ đường Đào Duy Từ và theo đó dân chúng nhầm lẫn, viếng từ đường Đào Duy Từ mà bỏ qua đền thờ Đào Duy Từ sừng sững từ năm 1634 đến nay.

                Thêm nữa mỗi 5 năm UBND huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định vào ngày chạp mả (tảo mộ) của dòng họ Đào Duy Từ lại tổ chức kỷ niệm năm sinh (sinh nhật) ông tại từ đường Đào Duy Từ mà họ cho là đền thờ Đào Duy Từ; họ đã tổ chức kỷ niệm năm sinh (sinh nhật) ông vào năm 2012 và 2017. Họ nhầm lẫn giữa từ đường (nhà thờ họ) Đào Duy Từ với đền thờ Đào Duy Từ chăng?

                NHỚ NGƯỜI
                Hoàng Kim

                Ngược gió đi không nản
                Rừng thông tuyết phủ dày
                Ngọa Long cương đâu nhỉ?
                Đầy trời hoa tuyết bay!

                ĐÀO DUY TỪ CÒN MÃI
                Hoàng Kim

                Đời trãi bốn trăm năm
                Thương người hiền một thuở
                Hậu sinh về chốn cũ
                Thăm vườn thiêng thiên thu.

                Lồng lộng vầng trăng rằm
                Một vườn thiêng cổ tích
                Người là ngọc cho đời
                Tháng năm còn nhớ mãi.

                Đào Duy Từ (1572 –1634) là nhà chính trị quân sự lỗi lạc, danh nhân văn hóa kiệt xuất, quân sư danh tiếng của chúa Nguyễn Phúc Nguyên, khai quốc công thần số một của nhà Nguyễn , được thờ ở Thái Miếu nhà Nguyễn. Sự nghiệp của ông là đặc biệt to lớn đối với dân tộc và thời đại mà ông đã sống. Đào Duy Từ bắt đầu thi thố tài năng từ năm 53 tuổi đến năm 62 tuổi thì mất, nhưng chỉ trong 9 năm ngắn ngủi ấy (1625-1634), ông đã kịp làm nên năm kỳ tích phi thường và nổi bật ngời sáng trong lịch sử Việt Nam::

                1) Giữ vững cơ nghiệp của chúa Nguyễn ở Đàng Trong chống cự thành công với họ Trịnh ở phía Bắc. Ông đã cùng các danh tướng Nguyễn Hữu Dật, Nguyễn Hữu Tiến bày mưu định kế, luyện tập quân sĩ, xây đồn đắp lũy, tổ chức tuyến phòng ngự chiều sâu từ phía nam sông Linh Giang đến Lũy Trường Dục (ở huyện Phong Lộc, tỉnh Quảng Bình) và Lũy Thầy (từ cửa sông Nhật Lệ đến núi Đâu Mâu, Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình). Suốt thời Trịnh Nguyễn phân tranh kéo dài suốt 45 năm (1627-1672) đánh nhau cả thảy bảy lần, họ Trịnh thường mạnh hơn nhưng quân Nam tướng sĩ hết lòng, đồn lũy chắc chắn nên đã chống cự rất hiệu quả với quân Trịnh.

                2) Mở đất phương Nam làm cho Nam Việt thời ấy trở nên phồn thịnh, nước lớn lên, người nhiều ra. Đào Duy Từ có duyên kỳ ngộ với tiên chúa Nguyễn Hoàng và chân chúa Nguyễn Phúc Nguyên. Ông hết lòng phò vua giúp nước “cúc cung tận tụy đến chết mới thôi” như Ngọa Long Gia Cát Lượng Khổng Minh. Đào Duy Từ mang tâm nguyện và chí hướng lớn lao như vua Trần Thái Tông “Nếu chỉ để lời nói suông cho đời sau, sao bằng đem thân mình đảm nhận trọng trách cho thiên hạ trước đã”. Di sản của ông không chỉ là trước tác mà còn là triều đại.

                3) Đào Duy Từ là bậc kỳ tài muôn thuở với những di sản còn mãi với non sông. Ông là nhà thực tiễn sáng suốt có tầm nhìn sâu rộng lạ thường. Ông đã đặt nền móng vững chắc cho triều Nguyễn, sửa sang chính trị, quan chế, thi cử, võ bị, thuế khóa, nội trị, ngoại giao gắn với hệ thống chính trị tiến bộ hợp lòng dân. Với tài năng tổ chức kiệt xuất của Đào Duy Từ, chỉ trong thời gian ngắn ngủi chín năm (1625-1634), ông đã kịp xây dựng được một định chế chính quyền rất được lòng dân. Triều Nguyễn sau khi Đào Duy Từ mất (1634)  còn truyền được 8 đời (131 năm), cho đến năm 1735, khi Vũ Vương mất, thế tử chết, Trương Phúc Loan chuyên quyền, lòng người li tán, nhà Tây Sơn nổi lên chiếm đất Quy Nhơn, họ Trịnh lấy đất Phú Xuân, thì cơ nghiệp chúa Nguyễn mới bị xiêu đổ.

                4) Tác phẩm “Hổ trướng khu cơ”; Nhã nhạc cung đình Huế, vũ khúc tuồng Sơn Hậu, thơ Ngọa Long cương vãn, Tư Dung vãn  đều là những kiệt tác và di sản văn hóa vô giá cùng với giai thoại, ca dao, thơ văn truyền đời trong tâm thức dân tộc. Binh thư “Hổ trướng khu cơ” sâu sắc, thực tiễn, mưu lược yếu đánh mạnh, ít địch nhiều, là một trong hai bộ sách quân sự cổ quý nhất của Việt Nam (bộ kia là Binh thư yếu lược của Trần Hưng Đạo) ; Nhã nhạc cung đình Huế, vũ khúc, tuồng cổ Sơn Hậu gắn với di sản văn hóa Huế thành di sản văn hóa thế giới; Những giai thoại, ca dao truyền đời trong tâm thức dân tộc của lòng dân mến người có nhân. Ngay trong trước tác của ông cũng rất trọng gắn lý luận với thực tiễn. Binh thư “Hổ trướng khu cơ” gắn với những danh tướng cầm quân lỗi lạc một thời như Nguyễn Hữu Dật, Nguyễn Hữu Tiến. Vũ khúc cung đình, tuồng cổ Sơn Hậu,  thơ Ngọa Long cương vãn, Tư Dung vãn đều thể hiện tầm cao văn hóa.

                5) Đào Duy Từ là người Thầy đức độ, tài năng, bậc kỳ tài muôn thuở của dân tộc Việt, người khai sinh một dòng họ lớn với nhiều hiền tài và di sản. Đào Duy Từ lúc đương thời đã gả con gái mình cho Nguyễn Hữu Tiến sau này là một đại tướng của nhà Nguyễn. Đào Duy Từ đã đem tài trí của mình cống hiến cho xã hội về nhiều lĩnh vực. Ông là một nhà quân sự tài ba, kiến trúc sư xây dựng lũy Trường Dục ở Phong Lộc và lũy Nhật Lệ ở Đồng Hới, thuộc tỉnh Quảng Bình, để chống lại các cuộc tấn công của quân Trịnh. Lũy Nhật Lệ còn gọi là lũy Thầy (vì chúa Nguyễn và nhân dân Đàng Trong tôn kính gọi Đào Duy Từ là Thầy). Lũy này được hoàn thành năm 1631, có chiều dài hơn 3000 trượng (khoảng hơn 12 km), cao 1 trượng 5 thước (khoảng 6 m), mặt lũy rất rộng (voi có thể đi lại được) cứ cách một quãng lại xây pháo đài để đặt súng thần công. Chiến lũy này có vị trí gần khe, dựa vào thế núi, chạy dài suốt cửa biển Nhật Lệ, trông giống hình cầu vồng, có tác dụng chặn được bước tiến của quân Trịnh trong hàng trăm cuộc giao tranh. Đương thời có các câu ca dao: Khôn ngoan qua cửa sông La/ Dù ai có cánh chớ qua lũy Thầy “Hữu trí dũng hề, khả quá Thanh Hà / Túng hữu dực hề, Trường lũy bất khả khoa”. Mạnh thì qua được Thanh Hà/ Dẫu rằng có cánh khôn qua lũy Thầy. Đường vô xứ Huế quanh quanh / Non xanh nước như tranh họa đồ/ Yêu anh em cũng muốn vô / Sợ truông nhà Hồ, sợ phá Tam Giang.  Phá Tam Giang bây giờ đã cạn/ Truông nhà Hồ, Nội tán cấm nghiêm. Chùm thơ và giai thoại trên và dưới đây đã tồn tại lâu dài trong bia miệng người đời. Lời thơ đẹp, hợp lô gích và tình tự dân tộc, mọi việc khớp đúng với sự kiện lịch sử.
                xem tiếp
                Đào Duy Từ còn mãi https://hoangkimlong.wordpress.com/category/dao-duy-tu-con-mai/

                CHÂU MỸ CHUYỆN KHÔNG QUÊN
                Hoàng Kim
                Tôi đã nhiều lần tới châu Mỹ, tới cả Trung Mỹ, Bắc Mỹ và Nam Mỹ. Đó là kinh nghiệm sống quý giá cho sự nghiên cứu và giảng dạy khoa học cây trồng, đặc biệt là cây lương thực. Tôi nhớ thầy Norman Boulaug và nhiều thầy bạn ở nơi ấy, nhớ đất. nhớ người. Tôi có thói quen chép lại ghi chú ngắn và ghi hình về kỷ niệm sau mỗi chuyến đi, lần này mới có dịp hệ thống lại. “Châu Mỹ chuyện không quên” lắng đọng trong lòng tôi những ký ức sâu sắc về công việc chuyên môn khoa học cây trồng, cây lương thực yêu thích, kết nối với đất nước, con người, bạn hữu, và nền văn hóa châu Mỹ. Tôi kể từ chuyến đi Mỹ lần đầu tiên năm 1988, cho tới nhiều lần về sau lắng đọng chuỗi trãi nghiệm thân thương với thầy bạn ở bên kia bờ đại dương. Ba nơi chính của châu Mỹ mà tôi may mắn được tới, đó là vùng vật liệu di truyền ở ba trung tâm khởi nguyên cây trồng toàn cầu của chúng tại Châu Mỹ gồm Trung tâm ngô và lúa mì quốc tế CIMMYT ở Mê hi cô. Trung tâm khoai lang và khoai tây quốc tế CIP ở Peru. Trung tâm Quốc tế Nông nghiệp Nhiệt đới CIAT về sắn, đậu thực phẩm, lúa gạo châu Mỹ ở Côlômbia. Những điểm đến này tương tự như Viện Nông nghiệp Nhiệt đời Quốc tế IITA ở Nigeria châu Phí, Viện Nghiên cứu Cây trồng Quốc tế cho vùng Nhiệt đới Bán khô cằn ICRISAT ở Ấn Độ, và Viện Lúa quốc tế IRRI ở Philippines. Những chốn ấy cũng thật thân thuộc với tôi. Tại đấy sách chuyên khảo cây trồng, tạp chí, trang web, video thật phong phú, sâu sắc và thật đáng ao ước. Cũng từ đấy mà tôi may mắn được đi thăm thú rộng ra các vùng lân cận theo điều kiện và hoàn cảnh của mỗi chuyến đi.

                “Châu Mỹ chuyện không quên” là các bài học tình yêu cuộc sống trãi nghiệm cá nhân của các chuyến đi thực tế, với mục đích cung cấp các điểm nhấn tư liệu nông nghiệp sinh thái về cây lương thực châu Mỹ cho bạn đọc. Tác phẩm gồm 36 đường dẫn, tựa đề thơ ngũ ngôn, để dễ đọc dễ nhớ, ảnh chi tiết bấm link.

                Mục đích sau cùng của DẠY VÀ HỌC là thấu suốt bản chất sự vật, có lời giải đúng và LÀM được việc.
                Lời Thầy dặn thung dung.

                Châu Mỹ chuyện không quên
                Hoàng Kim

                Niềm tin và nghị lực
                Về lại mái trường xưa
                Hưng Lộc nôi yêu thương
                Năm tháng ở trời Âu

                Vòng qua Tây Bán Cầu
                CIMMYT tươi rói kỷ niệm
                Mexico ấn tượng lắng đọng
                Lời Thầy dặn không quên

                Ấn tượng Borlaug và Hemingway
                Con đường di sản Lewis Clark
                Sóng yêu thương vỗ mãi
                Đối thoại nền văn hóa

                Truyện George Washington
                Minh triết Thomas Jefferson
                Mark Twain nhà văn Mỹ
                Đi để hiểu quê hương

                500 năm nông nghiệp Brazil
                Ngọc lục bảo Paulo Coelho
                Rio phố núi và biển
                Kiệt tác của tâm hồn

                Giấc mơ thiêng cùng Goethe
                Chuyện Henry Ford lên Trời
                Bài đồng dao huyền thoại
                Bảo tồn và phát triển

                Sắn Việt Nam và Kawano
                Sắn Việt Nam và Howeler
                Một ngày với Hernán Ceballos
                CIAT Colombia thật ấn tượng
                Martin Fregenexa mà gần

                Châu Mỹ chuyện không quên
                CIP khoai tây khoai lang
                Nam Mỹ trong mắt ai
                Nhiều bạn tôi ở đấy

                Machu Picchu di sản thế giới
                Mark Zuckerberg và FacebookXem tiếp >>

                  Dạy và học 23 tháng 7(23-07-2021)

                DẠY VÀ HỌC 23 THÁNG 7
                Hoàng Kim

                CNM365 Tình yêu cuộc sốngNhớ bạn nhớ châu Phi; Nguyễn Trọng Tạo đồng dao; Đọc Những người lính sinh viên của Lê Anh Quốc, FB Phan Chi; Borlaug và Hemingway; Bình sinh Mao Trạch Đông; Bình sinh Tập Cận Bình; Kim tự tháp Ai Cập Khu lăng mộ Giza là một trong bảy kỳ quan thế giới cổ đại có niên đại sớm nhất và kỳ quan duy nhất còn tồn tại, ở cao nguyên Giza gần sông Nin cách trung tâm thành phố Cairo thủ đô Ai Cập khoảng 20 km về phía tây nam (hình). Ngày 23 tháng 7 là Quốc khánh  Ai Cập ngày cách mạng năm 1952. Ngày 23 tháng 7 bắt đầu tiết Đại thử (nóng oi) tại Đông Á . Ngày 23 tháng 7 năm 1921 Đảng Cộng sản Trung Quốc khai mạc Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ nhất (*) trong địa phận tô giới Pháp tại Thượng Hải, nay là  Đại hội Đảng lần thứ 19 (năm 2017). Bài chọn lọc ngày 23 tháng 7: Nhớ bạn nhớ châu Phi; Nguyễn Trọng Tạo đồng dao; Đọc Những người lính sinh viên của Lê Anh Quốc, FB Phan Chi, Borlaug và Hemingway; Bình sinh Mao Trạch Đông; Bình sinh Tập Cận Bình; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-23-thang-7/;

                NHỚ BẠN NHỚ CHÂU PHI
                Hoàng Kim

                Lúa sắn Việt Châu Phi là một ký ức vụn về đất nước, con người, tình hình nông nghiệp của một số nước châu Phi. Tôi được GMX Consulting Ltd là nhà cung cấp tư vấn nông nghiệp và dịch vụ quản lý châu Phi mời làm cố vấn trưởng giảng dạy và chuyển giao tiến bộ kỹ thuật cây sắn (Dr. Casava) cùng với giáo sư Võ Tòng Xuân (Dr. Rice) đã làm cho cây lúa. Công việc hổ trợ kỹ thuật lúa sắn cho nông dân được thực hiện tập trung tại sáu nước Tây Phi (Nigeria, Ghana, Cote d’Ivoire, Sierra Leone, Liberia, Guinea) và ba nước Đông Phi (Uganda, Tanzania, Kenya).

                Giáo sư tiến sĩ Lê Huy Hàm, Viện trưởng Viện Di truyền Nông nghiệp sớm ngày 26 tháng 6 năm 2018, gọi điện cho tôi: “Giống sắn KM419 hiện trồng trên 40% diện tích sắn Việt Nam thật đáng tự hào. Chúc mừng anh và các bạn. Tôi vừa trình bày báo cáo sắn Việt Nam tại Hội thảo Sắn Toàn cầu ở Benin, từ 11-15 tháng Sáu năm 2018. Kính gửi anh Kim “conclution from CMD sesion” của Hội nghị sắn ở châu Phi 2018 để anh tham khảo nhé”.

                Tôi đã kể lại trong bài “
                Nhớ bạn nhớ châu Phi” lời nhắn của giáo sư tiến sĩ Martin Fregene: “Kim thân. Mình hiểu rằng CMD, bệnh virus khảm lá sắn, đã vô tình được du nhập vào Việt Nam. Mình khuyến khích bạn nhập các giống sắn nuôi cấy mô MNG-19, MNG-2 và 8-9 C-series từ CIAT để đánh giá chúng về hàm lượng tinh bột và năng suất bột. Nếu hàm lượng tinh bột và năng suất tinh bột của những giống sắn kháng bệnh CMD này đủ cao, hãy nhân lên và phân phối giống sắn mới này đến các khu vực bị ảnh hưởng. Hãy cho mình biết nếu mình có thể trợ giúp thêm”. (Dear Kim, I understand that CMD has been accidentally introduced into Vietnam. I encourage you to import tissue culture plants of MNG-19, MNG-2, and the 8-9 C-series from CIAT and evaluate them for starch content. If they are high enough, multiply and distribute to affected areas. Let me know if I can be if more help). Tôi đã trả lời: “Cám ơn bạn. Tôi đã mang nguồn gen giống sắn kháng CMD về Việt Nam rồi, nay mình đang cùng các cộng sự của mình lai tạo giống kháng này với những giống sắn ưu tú năng suất tinh bột cao của Việt Nam”.

                Martin Nigeria xa mà gần

                Martin Fregene là người Nigeria. Hoàng Kim và bạn hữu thăm nhà riêng Martin Fregene ở CIAT Colombia năm 2003. Chúng tôi là nhóm bạn đến từ Ấn Độ, Brazil, Thái Lan, Peru, Colombia và Việt Nam. Martin Fregene ngày nay đã trở về Nigeria.Tổ quốc mình. Martin làm giám đốc điều hành Tập đoàn Ngân hàng Phát triển Châu Phi (ADBG) hoạt động nông nghiệp và nông công nghiệp. Ông là giáo sư thực thụ nổi tiếng của trường đại học Nigeria. Ông cũng làm cố vấn kỹ thuật cao cấp cho bộ trưởng Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Nigeria. Martin Fregene thuở xưa tại CIAT đã là  một tiến sĩ di truyền chọn giống sắn rất nổi tiếng của Nigeria và đã tạo được nhiều giống sắn tốt cho CIAT và Nigeria. Martin Fregene ngày nay đã tự nguyện rời ‘miền đất hứa’
                Donald Danforth Plant Science Center ở Mỹ, CIAT (Centro Internacional de Agricultura Tropical), ở Colombia để trở về Nigeria Tổ quốc mình làm việc cho nông dân nghèo .Martin Fregene khi tự nguyện về nước, Hoàng Kim đã viết bài thơ này tặng bạn ấy:

                Nhớ Châu Phi bạn gần và xa.
                Hiền tài hơn châu báu ngọc ngà.
                Thương bạn về nhà, rời đất hứa.
                Dấn thân mình cho đất nở hoa

                (Remember to Africa friends near and far / A good name and godly heritage is better than silver and gold./ Love you home, leave the promised land./ Involve yourself in the land of bloom).

                Ngày ấy Peaingpen, Sheela, Alfredo, Yona, Martin và Kim, chúng tôi đã ăn tối (enjoy fufu) .thật ngon tại nhà Martin Fregene ở CIAT. Chiều hôm ấy trong đền thờ “Vị thần Mặt trời bị lãng quên của người Inca“, gia đình sắn chúng tôi đã cam kết cùng nhau làm “những người bạn của nông dân trồng sắn châu Á, châu Phi và châu Mỹ”. Hoàng Kim bế con của Martin và giao hẹn: Nhờ trời, bác sẽ tới châu Phi”. Tôi đọc sách “Nhà giả kim” tựa đề tiếng Anh là “The Alchemist” nguyên tác tiếng Bồ Đào Nha là “O Alquimista” của Paulo Coelho do Alan R. Clarke chuyển ngữ tiếng Anh và thích thú hứa với cháu bé, tôi sẽ tới châu Phi. Thật may mắn sau này ước mơ ấy của tôi cũng thành sự thật. Hóa ra, Vị thần mặt trời Inca bị quên lãng là có thật ! Phổ hệ chọn giống sắn Việt Nam có quan hệ nhiều trong câu chuyện này.. Giống sắn Việt Nam ngày nay trồng nhiều nhất là KM419 chiếm 42% và  KM94 chiếm 31,7% tổng diện tích trồng sắn của Việt Nam. Chuyện lai tạo giống sắn bây giờ mới kể.

                Chuyện những người bạn sắn

                Tôi may mắn có được trãi nghiệm ở châu Phi tại Nigeria, Uganda, Ai Cập, Sông Nin, Thổ Nhĩ Kỳ, Ghana, Kenya và một số địa danh khác. Tôi chưa kịp hiệu đính và sắp xếp lại tám ghi chép nhỏ và hình ảnh lắng đọng theo thời gian . Đó là :1)
                Nhớ bạn nhớ châu Phi; 2) Môhamet và đạo Hồi; 3) Lúa sắn Việt Châu Phi; 4) Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay; 5) Mười hai ngày ở Gha na;…. Một số bạn cũ châu Phi tôi gặp năm xưa tại CIMMYT, CIANO, OREGON, CIAT, CIP sau này tôi may mắn gặp lại một ít bạn ở châu Phi và gắn bó lâu dài với những ký ức thật vui, Bạn Châu Phi, Nigeria và Viện Nông nghiệp Quốc tế IITA có nhiều chuyên gia nông nghiệp đã sang Việt Nam và tôi có thật nhiều lần tới làm việc ở đó. Việt Nam Châu Phi xa mà gần.

                Giáo sư Martin Fregene (áo caro sọc bên trái) là một chuyên gia rất tài năng về công nghệ sinh học cây sắn. Ông là người bạn tốt của nông dân trồng sắn châu Á. Ông đã từng làm việc và được vinh danh ở CIAT. Ông là. tác giả của trên 15 giống sắn đã được phóng thích ở châu Phi, trong đó bao gồm 3 giống sắn cho chính Nigeria quê hương ông, và là tác giả chính của những dòng sắn kháng CMD hiện nay. Gia đình sắn Việt và bạn hữu xin mời ghé thăm và cùng trò chuyện trực tiếp với Martin Fregene

                Nhớ bạn nhớ châu Phi

                Tôi ngắm ảnh sắn trên đây và lưu lại một số hình ảnh trong bài viết này để tôn vinh tinh bạn.
                https://hoangkimlong.wordpress.com/…/dem-trang-va-binh…/ Hội nghị khoa học đầu tiên của các đối tác sắn toàn cầu (First Scientific Meeting of the Global Cassava Partnership GCP1) với chủ đề “Sắn đáp ứng các thách thức của thiên niên kỷ mới” (Cassava: Meeting the Challenges of the New Millennium) được mở ra ở Trường Đại học Ghent vương quốc Bỉ với hơn một ngàn người tham dự. 115 báo cáo và hơn 200 áp phích (poster) và gian hàng được trình bày, giới thiệu liên tục tại 13 tiểu ban trong ba ngày.Tiến sĩ Claude Fauquet và tiến sĩ Joe Tohme có hai báo cáo thật ấn tượng: Cây sắn quà tặng của thế giới và cơ hội cho nông dân nghèo; Cây sắn quà tặng của thế giới và thách thức đối với các nhà khoa học. Những vấn đề khủng hoảng năng lượng toàn cầu, an ninh lương thực, môi sinh – môi trường đang thách thức thế giới hiện đại. Những câu hỏi đặt ra nhằm cải tiến cây sắn là cây chịu hạn, giàu tinh bột và năng lượng, đề mang lại thu nhập tốt hơn cho người dân nghèo.

                Tôi tham dự hội nghị với ba bài viết S3-2 (trang 54) SP3-9 (trang 60) và SP03-16 trang 63) gồm một báo cáo trước hội nghị toàn thể và hai áp phích. Việt Nam là điển hình quốc tế về sự đột phá sản lượng và năng suất sắn với sản lượng sắn tăng gấp năm lần và năng suất sắn tăng gấp đôi sau tám năm (2000-2008). Đó quả là một điều kỳ diệu cho toàn thế giới! Việc chọn tạo và phát triển các giống sắn mới của Việt Nam đã mang lại bội thu cao trong sản xuất ước vượt trên 2.000 tỷ đồng mỗi năm từ năm 2003 (đạt quy mô 270 ngàn ha x 8,9 tấn bội thu/ha x 50 USD/ tấn x 16.000 VND/USD). Sự cần cù, năng động, chịu thương chịu khó của nông dân Việt Nam thật đáng tự hào!Thành tựu sắn Việt Nam gắn liền với những bài học kinh nghiệm quý giá của đông đảo bà con nông dân, các nhà khoa học, khuyến nông, quản lý, doanh nghiệp … trong Chương trình Sắn Việt Nam (VNCP). Nước ta đã thành một trường hợp nghiên cứu điển hình (key study) của châu Á và Thế giới. Tôi bị vây kín giữa những người bạn suốt các lần giải lao một cách sung sướng và đáng thương. Đội ngũ đi họp của mình quá mỏng (chỉ một mình tôi) so với những đội hình sắn vững chãi của nhiều nước khác như Trung Quốc, Mỹ, Ấn Độ, Brazil, Thái Lan, Nigeria, Colombia, … Bài báo mà tôi viết chung với PGS.TS. Nguyễn Văn Bộ (Giám đốc Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam), tiến sĩ Reinhardt Howerler và tiến sĩ Hernan Ceballos (là hai chuyên gia nông học và chọn giống sắn hàng đầu của CIAT và thế giới) đã gây ấn tượng tốt và được nhiều người trao đổi, hỏi đáp.

                Buổi tối tiến sĩ Boga Boma, giám đốc của một dự án sắn lớn của châu Phi đã mang đồ đạc sang đòi “chia phòng ngủ” với tôi để “trao đổi về bài học sắn Việt Nam và cùng cảm nhận đêm trắng”.Boga Boma giàu, nhỏ tuổi hơn tôi, tính rất dễ thương, người cao lớn kỳ vĩ trên 1,90 m như một hảo hán. Lần trước Boga Boma làm trưởng đoàn 15 chuyên gia Nigeria sang thăm quan các giống sắn mới và kỹ thuật canh tác sắn của Việt Nam, đúc kết trao đổi về cách sử dụng sắn trong chế biến nhiên liệu sinh học. Anh chàng hảo hán này vừa ra đồng đã nhảy ngay xuống ruộng giống mới, đề nghị tôi nhổ thử một vài bụi sắn bất kỳ do anh ta chỉ định của giống mới KM140 (mà sau này đoạt giải Nhất VIFOTEC của Hội thi sáng tạo khoa học kỹ thuật toàn quốc lần thứ 10 trao giải ngày 19.1.2010 ở Hà Nội). Boga Boma ước lượng năng suất thực tế mỗi bụi sắn này phải sáu ký. Anh đo khoảng cách trồng rồi hồ hởi đưa lên một ngón tay nói với giọng thán phục “Sắn Việt Nam số 1”Sau buổi tham quan đó, Boga Boma ngỏ lời đề nghị với tôi cho đoàn Nigeria được đến thăm nhà riêng để “tìm hiểu cuộc sống và điều kiện sinh hoạt làm việc của một thầy giáo nông nghiệp Việt Nam”. Anh chàng chăm chú chụp nhiều ảnh về tài liệu sắn của bảy Hội thảo Sắn châu Á và mười Hội thảo Sắn Việt Nam trong một phần tư thế kỷ qua. Anh cũng chụp bếp đèn dầu dùng ga của gia đình tôi. Boga Boma cũng như Kazuo Kawano, Reinhardt Howerler, Hernan Ceballos, Rod Lefroy, Keith Fahrney, Bernardo Ospina, S. Edison, Tian Ynong, Li Kaimian, Huang Jie, Chareinsak Rajanaronidpiched, Watana Watananonta, Jarungsit Limsila, Danai Supahan, Tan Swee Lian, J. Wargiono, Sam Fujisaca, Alfredo Alves, Alfred Dixon, Fernando A, Peng Zhang, Martin Fregene, Yona Beguma, Madhavi Sheela, Lee Jun, Tin Maung Aye, Guy Henry, Clair Hershey, … trong mạng lưới sắn toàn cầu với tôi đều là những người bạn quốc tế thân thiết. Hầu hết họ đều đã gắn bó cùng tôi suốt nhiều năm. Sự tận tâm công việc, tài năng xuất sắc, chân thành tinh tế của họ trong ứng xử tình bạn đời thường làm tôi thực sự cảm mến.

                Bẳng đi một thời gian, Boga Boma thông tin Nigeria hiện đã ứng dụng bếp đèn dầu dùng cồn sinh học từ nguyên liệu sắn cho mọi hộ gia đình Nigeria trong toàn quốc. Nigeria đã thành công lớn trong phương thức chế biến sắn làm cồn gia đình phù hợp với đất nước họ, làm tiết kiệm được một khối lượng lớn xăng dầu với giá rất cạnh tranh cho tiêu thụ nội địa và xuất khẩu.Lần này trong đêm trắng ở Ghent, Boga Boma lại hí húi ghi chép và ngẫm nghĩ về ba bài học kinh nghiệm sắn Việt Nam 6M (Con người, Thị trường, Vật liệu mới Công nghệ tốt, Quản lý, Phương pháp, Tiền: Man Power, Market, Materials, Management, Methods, Money), 10T (Thử nghiệm, Trình diễn, Tập huấn, Trao đổi, Thăm viếng, Tham quan hội nghị đầu bờ, Thông tin tuyên truyền, Thi đua, Tổng kết khen thưởng, Thiết lập mạng lưới người nông dân giỏi) và FPR (Thiết lập mạng lưới thí nghiệm đồng ruộng và trình diễn để nghiên cứu cùng nông dân chuyển giao tiến bộ kỹ thuật sản xuất sắn).

                Buổi chiều Yona Beguma cùng các bạn châu Phi say mê trò chuyện cùng tôi về bài học sắn Việt Nam được giới thiệu trên trang của FAO với sự yêu thích, đặc biệt là “sáu em”(6M), “mười chữ T tiếng Việt” (10T) và “vòng tròn FPR dụ dỗ”. Sau này, anh chàng làm được những chuyện động trời của cây sắn Uganda mà tôi sẽ kể cho bạn nghe trong một dịp khác.Nhìn lớp trẻ thân thương đầy khát vọng tri thức đang vươn lên đỉnh cao giúp xóa đói giảm nghèo và làm giàu cho quê hương xứ sở. Ngắm nhìn sự mê mãi của Boga Boma lúc bình minh vừa rạng lúc anh chàng đã thức gần trọn đêm. Tôi chợt nhớ câu thơ Việt Phương: “Yêu biết mấy những đêm dài thức trắng/ Làm kỳ xong việc nặng sẵn sức bền/ Bình minh đuổi lá vàng trên đường vắng/ Như vì ta mà đời cũng ửng hồng lên”.

                Sắn Việt và sắn Thái

                Sắn Việt Nam là câu chuyện thành công. Sự đồng hành với sắn Thái Lan là kinh nghiệm quý và bài học lớn..Hình ảnh và bài viết này Sắn Việt và sắn Thái là sựtôn vinh tình bạn, lưu lại những kỷ niệm quý. Bạn tốt khó tìm, khó bỏ lại, và không thể quên lãng (Good friends are hard to find, harder to leave, and impossible to forget).Hoàng Kim gửi lời chào từ Việt Nam tới các bạn Chareinsak Rojanaridpiched and Suchada Rojanaridpiched; Watana Wattananon and Wipawan Suwanyotin; Peaingpen Sarawat; Piya Kittipadakul Boonmee Wattanaruangrong; Casava Kasetnakkak, Danai Suparhan; Klanarong Sriroth; Vich Vich; … Kazuo Kawano, Reinhardt Howeler, Jonathan Newby, Hernán Ceballos Lascano, Clair Hershey, Sheela Mn,… Tôi đã có trên mười lần qua Thái Lan. Đất nước con người Thái Lan thật thú vị nhưng sự lưu lại ấn tượng sâu sắc nhất trong tôi là:1) Bangkok Phanom Rung con đường di sản 2) Sắn Thái và Sắn Việt, và 3) Thái Lan nhiều bạn quý..Dưới đây là bài thơ “Sắn Việt và sắn Thái” viết ngày 12 5 1995 và viết tiếp 12-12.5.2021.

                Hình ảnh Chareinsak Rojanaridpiched thăm sắn Việt Chareinsak Rojanaridpiched là giáo sư tại  Kasetsart University (Bangkhen, Băng Cốc, Thái Lan). Ông nguyên là Hiệu trưởng Trường Đại học Kasetsart. Ông và nhóm đồng nghiệp sắn Thái Lan đã chọn tạo được giống sắn ưu tú Kasetsart 50: (KU 50) có tổng diện tích trồng khoảng 1,0 – 1,5 triệu ha mỗi năm tại Thái Lan và Việt Nam, Sự canh tác giống sắn này là nguồn thu nhập rất quan trọng cho nông dân nghèo ở Đông Nam Á, Tiến sĩ ChareinsakRojanaridpiched  là người đã từng học ở trường đại học Cornell University,  một trường đại học nổi tiếng của nước Mỹ

                Kim nói với Chareinsak: “Chúng tôi biết ơn các bạn CIAT Thai Lan. Sắn Việt Nam học để làm (Learning by Doing) theo lý thuyết và thực hành của Sắn CIAT sắn Thái Lan và cố gắng vươn lên theo cách riêng của mình. Phổ hệ các giống sắn phổ biến tại Việt Nam đã nói lên điều đó. “Châu Mỹ chuyện không quên” là sự ghi lại của tôi về những ngày cùng học tập và làm việc ở CIAT, CIMMYT, CIP  và các nước châu Mỹ.

                xem tiếp: https://hoangkimlong.wordpress.com/category/chau-my-chuyen-khong-quen/

                CIAT (Centro Internacional de Agricultura Tropical) Colombia, nơi Hoàng Kim nhiều bạn tốt

                xem tiếp: Nhớ bạn nhớ Châu Phi


                2.


                AI CẬP BẠN TÔI Ở ĐẤY

                Ở Ai Cập, tôi có hai người bạn ở Viện Nghiên cứu Cây trồng (Field Crops Research Institute FCRI) là Mahfouz Nenr Abd- Nour  và Yousef El Sayed Ahmed Ars  làm giám đốc của hai trạm nghiên cứu là  Sids Agricultural Research Station,  Beba Beni – Suef Egypt và Sakha Agricultural Research Station, Sakha, Kafr, El Sheakli Egypt. Chuyện tôi kể sẽ tóm tắt Ai Cập một thoáng nhìn, Cairo thủ đô Ai Cập thánh địa Hồi giáo, Nông nghiệp Ai Cập và bạn tôi, Ngọc lục bảo Paulo Coelho. Chuyện này trong chùm bài
                Nhớ bạn nhớ Châu Phi

                Ai Cập một thoáng nhìn

                Ai Cập có tên chính thức là nước Cộng hòa Ả Rập Ai Cập, là một quốc gia liên lục địa có phần lớn lãnh thổ nằm tại Bắc Phi, cùng với bán đảo Sinai thuộc Tây Á. Ai Cập phía đông bắc giáp Địa Trung Hải, có biên giới với Dải Gaza và Israel, phía đông giáp vịnh Aqaba, phía đông nam giáp biển Đỏ, phía nam giáp Sudan, phía tây giáp Libya. Ai Cập có biên giới hàng hải với Jordan và Ả Rập Xê Út qua vịnh Aqaba và biển Đỏ. Ai Cập là một trong số ít nước trên thế giới có lịch sử  lâu đời nhất vào khoảng thế kỷ 10 trước công nguyên.  Ai Cập cổ đại được nhận định là một trong những nôi văn minh đầu tiên của nhân loại phát triển sớm nhất về chữ viết, nông nghiệp, đô thị hoá, tôn giáo có tổ chức và chính phủ trung ương. Ai Cập có một di sản văn hoá đặc biệt phong phú, giao thoa nhiều nền văn hóa cổ Hy Lạp, Ba Tư, La Mã, Ả Rập, Ottoman,  châu Âu. Ai Cập từng là . một trong các trung tâm ban đầu của Cơ Đốc giáo, trải qua Hồi giáo hoá trong thế kỷ thứ 7 và ngày nay là nước trung tâm Hồi giáo với gần 90% dân số. Ai Cập có diện tích 1.010.407,87 km² (gấp trên ba lần diện tích Việt Nam) dân số 95, 73 triệu dân (năm 2017, tương đương dân số Việt Nam), là quốc gia đông dân nhất Bắc Phi, đông dân thứ ba tại châu Phi và thứ 15 trên thế giới. Đại đa số cư dân sống gần bờ sông Nin, tại các trung tâm dân cư đông đúc là Đại Cairo, Alexandria và các thành phố lớn khác của  đồng bằng châu thổ sông Nin, là nơi duy nhất có đất canh tác. Ai Cập, phần lớn diện tích đất của khu vực rộng lớn thuộc sa mạc Sahara có cư dân thưa thớt. Ai Cập có nền kinh tế, văn hoá, chính trị và quân sự vào hạng lớn nhất, đa dạng nhất,  có thực lực và ảnh hưởng đáng kể tại  Bắc Phi, Trung Đông và Thế giới Hồi giáo. Ai Cập là một thành viên của Liên Hiệp Quốc, Phong trào không liên kết, Liên đoàn Ả Rập, Liên minh châu Phi, và Tổ chức Hợp tác Hồi giáo.

                Cairo thủ đô Ai Cập thánh địa Hồi giáo

                Cairo là vùng đô thị đông dân nhất châu Phi, ở bên sông Nile, với dân số trên 15,2 triệu người. Quảng trường Tahrir và Bảo tàng Ai Cập rộng lớn, tọa lạc tại trung tâm thành phố Cairo, nơi có các bộ sưu tập cổ xác ướp hoàng gia và đồ tạo tác mạ vàng của vua Tutankhamun. Điểm nổi bật của khu vực trung tâm Cairo là Pháo đài Babylon thời kỳ La Mã, Nhà thờ Treo và Bảo tàng Coptic, trưng bày các cổ vật của Ai Cập Cơ đốc giáo. Trên đỉnh đồi giữa thành phố là pháo đài Citadel thời trung cổ, nơi có nhà thờ Hồi giáo Muhammad Ali, một địa danh mang phong cách Ottoman. Tháp Cairo cao 187m tại quận Zamalek đảo Gezira,cung cấp tầm nhìn toàn cảnh thành phố. Bảo tàng Cổ vật Ai Cập, thường được biết đến như Bảo tàng Ai Cập hay bảo tàng Cairo, tại Cairo, Ai Cập, là quê hương của một bộ sưu tập rộng của cổ vật Ai Cập cổ đại.

                Cao nguyên Giza gần Cairo là địa điểm của các kim tự tháp mang tính biểu tượng đất nước Ai Cập và châu Phi từ thời cổ xưa thuở bình minh nhân loại. Khu lăng mộ Giza là một trong bảy kỳ quan thế giới cổ đại có niên đại sớm nhất và kỳ quan duy nhất còn tồn tại, ở cao nguyên Giza gần sông Nin, cách trung tâm thành phố Cairo thủ đô Ai Cập khoảng 20 km về phía tây nam. Ngày 23 tháng 7 là ngày Quốc khánh Ai Cập ngày cách mạng năm 1952, thường có nhiều người hành hương về nơi này. Khu phức hợp kim tự tháp Giza là nơi có ba kim tự tháp vĩ đại (Khufu, Khafre and Menkaure), và ít nhất sáu kim tự tháp khác với một số cấu trúc nổi bật khác như Nhân sư vĩ đại và Đền Valley chứa đựng bao điều bí ẩn kho báu lạ lùng của lịch sử chưa thể thấu hiểu đầy đủ. ancient-wisdom.com

                Nông nghiệp Ai Cập và bạn tôi

                Theo tiến sĩ Dr. Amr Shams, trưởng phòng thông tin và hợp tác quốc tế Viện Nghiên cứu Cây trồng (FCRI) thì. Ai Cập được công nhận là một đất nước nông nghiệp lớn. Các cây trồng chính của Ai Cập gồm ngũ cốc (lúa mì, lúa mạch, lúa miến và ngô), các loại đậu (đậu faba, cỏ cà ri, đậu lupin, đậu chickpea và đậu cowpea), cây có dầu (cây rum và mè), lanh, cỏ ba lá và hành tây đã được trồng từ hàng ngàn năm. Vào đầu thế kỷ 20, sự gia tăng dân số theo cấp số nhân và nhu cầu lương thực leo thang đã thu hút sự chú ý của các nhà hoạch định chính sách, nơi những nỗ lực đã được thực hiện để cải thiện hệ thống sản xuất và canh tác cây trồng.

                Hoạt động nghiên cứu nông học ban đầu từ Giống cây trồng (1903- 1910),  Bộ Nông nghiệp (1910-1958), đến Viện nghiên cứu các cây trồng  (1958-1972) Viện Nghiên cứu Cây trồng (FCRI) và sau đó là Trung tâm Nghiên cứu Nông nghiệp (ARC) từ năm 1973 cho đến ngày nay. Trong thập niên 1980, Viện Nghiên cứu Cây trồng (FCRI) nỗ lực hướng về tăng cường nghiên cứu khuyến nông, dần  chuyển dịch theo hướng tư nhân hóa, hợp tác chặt chẽ với các cộng đồng nông nghiệp quốc tế, và một số cơ quan phát triển nói riêng. USAID (Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ United States Agency for International Development) đồng tài trợ hai dự án lớn là EMCIP NARP.

                Trong lịch sử của Viện, hơn năm trăm giống cây trồng khác nhau đã được giới thiệu đưa vào nông nghiệp Ai Cập. Các mục tiêu chính của Viện là: Tăng năng suất các loại cây trồng lĩnh vực chủ yếu thông qua phát triển giống cây trồng cho năng suất cao; Sản xuất giống gốc của các loại giống đã được cải thiện; Khắc phục những hạn chế của các yếu tố kỹ thuật canh tác trong sản xuất lớn; Cung cấp khuyến nghị sản xuất phù hợp, thực hiện các hoạt động khuyến nông kết nối trong nước và tăng cường hợp tác với các trung tâm nghiên cứu, phát triển quốc gia và quốc tế khác nhau.

                Hiện nay, FCRI có 15 phòng nghiên cứu. Viện tuyển dụng hơn 1.500 nhân viên trong các hoạt động nghiên cứu, khuyến nông, quản lý và đào tạo. Trụ sở của FCRI được đặt tại Giza, cùng với một số cơ sở thí nghiệm hiện trường, các hoạt động chọn giống liên hợp và nông học. Các cơ sở bổ sung được cung cấp tại hơn 23 trạm nghiên cứu nông nghiệp quốc gia. Các thí nghiệm đồng ruộng và sản xuất thử nghiệm được tiến hành trên các cánh đồng của nông dân trên toàn quốc.

                Ngọc lục bảo Paulo Coelho 

                Ngày xưa có một người thợ đá thử 999.999 viên đá, đến viên đá cuối cùng đã tìm được một viên ngọc lục bảo quý giá vô ngần. Paulo Coelho là một nhà thơ trữ tình và tiểu thuyết gia người Brazil, là ngọc lục bảo của đất nước Brazil. Ông được biết đến với cuốn tiểu thuyết của ông “O Alquimista” tiếng Bồ Đào Nha kể về bí mật ngôi mộ cổ gần kim tự tháp Ai Cập mà một chàng trai Brazil đã đi tìm kho báu chính mình tại đó và đã thành công. “O Alquimista” là kiệt tác của tâm hồn. Cuốn sách này tựa đề tiếng Anh là “The Alchemist” do Alan R. Clarke chuyển ngữ, và bản tiếng Việt có tựa đề là “Nhà giả kim” do Lê Chu Cầu dịch, Công ty Văn hóa Truyền thông Nhã Nam và Nhà Xuất bản Văn hóa in và phát hành.Tiểu thuyết này đã được dịch ra 56 thứ tiếng, bán chạy chỉ sau kinh Thánh, đến năm 2008 đã bán được hơn 65 triệu bản trên toàn thế giới.  Ông Paulo Coelho sinh ngày gày 24 tháng 8 năm 1947 (70 tuổi), tại Rio de Janeiro, Braxin là một người sử dụng phương tiện truyền thông điện tử, vào năm 2014, ông đã tải lên các giấy tờ cá nhân của mình trực tuyến để tạo một Quỹ Paulo Coelho ảo. Paulo Coelho nhà văn Brazil này đã tìm thấy ngọc trong đá của chính mình.

                Paulo Coelho thật khéo kể chuyện. Lối dẫn truyện của ông hay ám ảnh. Paulo Coelho thấu hiểu và hoạt dụng những bí nhiệm của cuộc Đại Hóa. Đề từ“Nhà giả kim”, Paulo Coelho viết: Kính tặng J, người đã thấu hiểu và hoạt dụng những bí nhiệm của cuộc Đại Hóa. “Chúa Jesu và các môn đệ tiếp tục đi, đến một làng nọ. Một cô gái tên Marta rước người vào nhà. Em gái cô là Maria ngồi dưới chân Người nghe giảng dạy, còn Marta thì bận rộn lo tiếp đãi Người. Rồi cô phàn nàn rằng: “Chúa không thấy em con để một mình con làm hết mọi việc sao? Xin Chúa hãy bảo nó phụ con với!”. Chúa mới bảo cô: “Marta ơi, Marta. Con bận rộn, lo lắng nhiều việc quá. Nhưng chỉ có một việc thật cần thiết thôi và Maria đã chọn phần việc ấy thì không ai truất phần của em con được. Thánh Kinh Tân Ước, Lukas 10:38-42

                Vào truyện Sự tích hoa Thủy tiên ở đầu sách và Chuyện Thánh nữ và Chúa Hài Đồng ở cuối sách cũng là sự huyền diệu của kiệt tác. Các bạn sinh viên đừng bao giờ coi thường PHẦN ĐẦU và  PHỤ LỤC cuối luận văn. Những phần này dễ lơ đểnh bỏ qua nhưng thường là phần tinh tế của một kiệt tác. Một số nhà khoa học và nhà văn không thành công là khi sản phẩm khoa học và tác phẩm chưa đến được tận tay đông đảo người tiêu dùng.



                Tôi đang tìm về kho báu chính mình phúc hậu an nhiên.

                xem tiếp: Nhớ bạn nhớ Châu Phihttps://hoangkimlong.wordpress.com/category/nho-ban-nho-chau-phi/

                NGUYỄN TRỌNG TẠO ĐỒNG DAO
                Hoàng Kim

                Cảm ơn anh Duy-Man Vu đã chuyển tải tác phẩm ‘Hội ngộ Văn chương’ ưng ý và lắng đọng nhất, dường như là ‘bài giảng cuối cùng’, của nhà thơ nhạc sĩ tài hoa Nguyễn Trọng Tạo, tác giả ‘khúc hát sông quê’ sang tiếng Anh với văn phong hay chuẩn mực. Hôm nay là ngày đặc biệt Nguyễn Trọng Tạo bài giảng cuối cùng tham luận đọc tại Liên hoan văn học ASEAN lần thứ 2, Indonesia: “Chủ nghĩa tiêu dùng với tác phẩm văn học” là tuyên ngôn văn chương sau cùng và hay nhất của anh, mà những người lính chiến trường và các bạn hữu, người thân của anh ở mũi nhọn của trận tuyến dân trí, không thể không đọc lại và suy ngẫm

                “… Vấn đề quan trọng là nhà văn có tin những điều mình viết ra là sự thật, là nhân văn, là hấp dẫn người đọc và dẫn dắt tâm hồn, tư tưởng của họ hay không. Đó là điều không dễ dàng. Tôi cũng đã nhiều lần nghiền ngẫm về điều đó. Tin hay không tin? Và tôi đã viết nó thành bài thơ “Tin thì tin không tin thì thôi”. Tôi xin đọc bài thơ này thay cho lời kết thúc bài phát biểu của mình:

                TIN THÌ TIN KHÔNG TIN THÌ THÔI
                Nguyễn Trọng Tạo

                bốn lăm bậc thời gian dốc ngược
                tôi đã vượt qua
                em cách một sợi tơ
                tôi đã không qua được
                tin thì tin không tin thì thôi
                tôi đã tới hang động yến sào tôi đã thèm ăn yến
                vậy mà chưa được nếm bao giờ
                hàng quốc cấm
                nghe nói từ xưa làm vua sướng lắm
                mà đôi khi tôi cũng sợ làm vua
                tin thì tin không tin thì thôi
                có anh hề đã nói với tôi
                – đời thằng hề buồn lắm anh ơi
                và tôi đã khóc
                tin thì tin không tin thì thôi
                nhưng tôi người cầm bút, than ôi
                không thể không tin gì mà viết.
                Xem tiếp >>

                  Dạy và học 22 tháng 7(22-07-2021)


                DẠY VÀ HỌC 22 THÁNG 7
                Hoàng Kim

                CNM365 Tình yêu cuộc sốngMARDI và những người bạn; Một niềm tin thắp lửa; Vạn Xuân nơi An Hải, Báu vật nơi đất Việt; Cao Biền trong sử ViệtĐại Lãnh nhạn quay về, Borlaug và Hemingway; Chuyện Rowling Harry Potterr; Thầy bạn trong đời tôi; Tháp đôi Petronas tại Kuala Lumpur Malaysia.(hình) là trụ sở của công ty dầu quốc gia Petronas, cũng là tháp đôi cao nhất trên thế giới. Ngày 22 tháng 7 năm 1963,  Thuộc địa Sarawak của Vương thất Anh được độc lập, chưa đầy hai tháng sau Sarawak tham gia hình thành Malaysia. Ngày 22 tháng 7 năm 1970, Chiến tranh Việt Nam: Chiến dịch Campuchia kết thúc với kết quả quân Việt Nam Cộng hòa, Hoa Kỳ và Cộng hòa Khmer thu được nhiều vật tư của quân Giải phóng, nhưng đến cuối năm 1970, quân lực Việt Nam Cộng hòa đã bị đánh bật khỏi các đồn bốt, phải rút trở lại bên kia biên giới. Ngày 22 tháng 7 năm 1932, ngày mất  Bạch Thái Bưởi, doanh nhân Việt Nam (sinh năm 1874). Ông là người từ tay trắng làm nên nghiệp lớn. là một trong bốn người giàu có nhất Việt Nam vào những năm đầu của thế kỷ 20 với lĩnh vực kinh doanh nổi bật là hàng hải, khai thác than và in ấn. Bài chọn lọc ngày 22 tháng 7: MARDI và những người bạn; Một niềm tin thắp lửa; Vạn Xuân nơi An Hải, Báu vật nơi đất Việt; Cao Biền trong sử ViệtĐại Lãnh nhạn quay về, Borlaug và Hemingway; Chuyện Rowling Harry Potterr; Thầy bạn trong đời tôi; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/ và http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-22-thang-7/.

                MARDI VÀ NHỮNG NGƯỜI BẠN
                Hoàng Kim


                Malaysia, Kuala Lumpur, MARDI, đất nước và con người là câu chuyện thú vị không chỉ kể một lần. Tôi neo đậu
                tại đây một thư mục để thỉnh thoảng quay lại và nhớ về những người bạn .Tôi đang tìm kho báu của chính mình phúc hậu, an nhiên. MARDI chuyện không quên

                2017-02-01-kualalumpur

                Malaya giành được độc lập từ Anh Quốc ngày 31 tháng 8 năm 1957, .Sabah được Vương thất Anh trao quyền tự trị đã tham gia hình thành Liên bang Malaysia nửa tháng sau đó Kuala Lumpur trở thành thủ đô liên bang và là điểm dân cư đầu tiên của Malaysia được trao địa vị này ngày 1 tháng 2 năm 1972 sau khi độc lập theo chiếu chỉ Quốc vương Yang di-Pertuan Agong của Malaysia. Kuala Lumpur đến ngày 1 tháng 2 năm 1974, trở thành lãnh thổ liên bang và thành phố đông dân nhất ở Malaysia. Kuala Lumpur từ năm 1978 thôi làm thủ đô của Selangor sau khi thành phố Shah Alam được tuyên bố là thủ đô mới của bang. Ngày 1 tháng 2 năm 2001, Putrajaya được tuyên bố là một lãnh thổ liên bang, cũng như là nơi đặt trụ sở chính phủ liên bang và các chức năng hành pháp tư pháp của chính phủ chuyển từ Kuala Lumpur đến Putrajaya. Kuala Lumpur hiện vẫn giữ lại chức năng lập pháp, và là nơi có cung điện của Quốc vương.

                Kuala Lumpur cũng là nơi có tòa Tháp đôi Petronas nổi tiếng thế giới do kiến trúc sư  César Pelli thiết kế. Tòa tháp này động thổ ngày 1 tháng 1 năm 1992, khởi công ngày 1 tháng 3 năm 1992, hoàn thành ngày 1 tháng 3 năm 1996, khánh thành ngày 1 tháng 8 năm 1996, gồm 88 tầng, cao 375 m đến sàn cao nhất, 403 m đến mái, 452 m đến ăng ten, từng là tòa nhà cao nhất thế giới trước năm 2003.

                Tôi kể bạn nghe câu chuyện về Malaysia Kuala Lumpur MARDI và những bạn tôi ở nơi ấy. Đó là những bạn tốt của nông dân trồng khoai sắn châu Á. Trước hết, mời bạn xem một số ảnh kỷ niệm một thời. MARDI là Viện Nghiên cứu và Phát triển Nông nghiệp Malaysia (Malaysian Agricultural Research and Development Institute), trụ sở chính tại Persiaran MARDI-UPM, 43400 Serdang Selangor, Kuala Lumpur. Tôi có được vài lần sang dự họp ở MARDI và có báo cáo được chọn đăng trên trang báo địa  phương. Các báo cáo khoa học nông nghiệp Quốc tế của nhóm bạn MARDI trong nghiên cứu, phát triển cây có củ luôn tạo cho người nghe nhiều điều để trao đổi, học hỏi. 

                2017-02-01_nhungnguoiban

                Tiến sĩ Tan Swee Lian, người đứng giữa của ảnh Những bạn tốt của nông dân trồng sắn châu Á trên đây, là chuyên gia nông nghiệp rất nổi tiếng của Viện Nghiên cứu và Phát triển Nông nghiệp Malaysia (MARDI) Bà nghiên cứu phát triển sắn, khoai lang, ngô, nghề làm vườn và nông học ở Malaysia và cũng là thành viên chính của Mạng lưới Cây Có Củ châu Á và Toàn cầu trên một phần tư thế kỷ. Bà là tác giả của  266 bài báo khoa học, trong đó có 115 bài báo trình bày ở các hội thảo quốc tế, 68 bài đăng trên các tạp chí khoa học và kỹ thuật nông nghiệp, 60 bài báo thông dụng và 23 sách chuyên khảo.

                MARDI25
                MARDI26
                MARDI27
                MARDI28
                MARDI29

                Bạn có tin chuyện phiêu lưu và kho báu không? Tôi thì tin ‘Nhà Giả Kim’ là có thật.Ông Paulo Coelho, tác giả người Brazil, với tác phẩm ‘Nhà giả kim’ (O Alquimista  tiếng Bồ Đào Nha đã đoạt giải năm 2007 (Tôi có Notes chuyện này ở Rio thành phố giữa núi và biển ở Brazil ẩn tàng 500 năm nông nghiệp Brazil).. Bà J.K. Rowling, tác giả người Scotland, với tác phẩm ‘Harry Potter’ đã đoạt giải năm 2010. Bà  Isabel Allende, nhà văn Chile, tư cách công dân Mỹ, với 2 tác phẩm  Ngôi nhà của các linh hồn (La casa de los espíritus) 1982 và Thành phố của những tên ác quỷ (La ciudad de las bestias) 2002 tiếng Tây Ban Nha, đã đoạt giải năm 2012).

                Ở Malaysia ẩn tàng nhiều câu chuyện cổ về  những kẻ cướp biển với kho báu và những cẩm nang quý của nông nghiệp châu Á.

                Câu chuyện ảnh tháng Bảy
                Ngày này của năm trước

                CHUYỆN ĐỒNG DAO CHO EM
                Hoàng Kim


                Lụt lớn ngập phương Bắc
                Mưa to quét vùng Nam
                Ngựa lành chun trong ngõ
                Lợn hoang rông ngoài đường.

                xem tiếp
                Chuyện đồng dao cho emhttps://hoangkimlong.wordpress.com/category/chuyen-dong-dao-cho-em/

                SỚM THU THƠ GIỮA LÒNG
                Hoàng Kim


                Sớm thu trên đồng rộng
                Em cười trời đất nghiêng
                Lúa ngậm đòng con gái
                Em đang thì làm duyên.

                Sớm thu trên đồng rộng
                Cây đời xanh thật xanh
                Lúa siêu xanh tỏa rộng
                Hương lúa thơm mông mênh.

                Sớm thu trên đồng rộng
                Trời đất đẹp lạ lùng
                Bản nhạc vui an lành
                Ơi đồng xanh yêu dấu…

                Sớm thu thơ giữa lòng gồm thơ tác giả lưu chung với 20 bài thơ “Mùa thu trong thi ca” tinh tuyển chọn lọc gồm: Chớm thu Hoàng Gia Cương; Thu mưa Đỗ Phủ; Thu mưa Nguyễn Hoài Nhơn; Thu vịnh Nguyễn Khuyến; Thu buồn Đỗ Phủ; Thu hứng Đỗ Phủ; Thu sơn Bạch Cư Dị; Chiều thu Nguyễn Bính; Tiếng thu Lưu Trọng Lư; Thu tứ Bạch Cư Dị; Đêm thu Trần Đăng Khoa; Đêm thu Quách Tấn; Thu ẩm Nguyễn Khuyến; Thu ca Chanson d’automne (Paul Verlaine);Thu vàng Alexxandr Puskin; Thu vàng Thu Bồn; Giọt mưa thu Thái Lượng; Nắng thu Nam Trân; Thơ gửi mùa thu Nguyễn Hoài Nhơn; Thư tình gửi mùa thu, nhạc Phan Huỳnh Điểu phổ thơ Xuân Quỳnh. xem tiếp Sớm Thu thơ giữa lònghttps://hoangkimlong.wordpress.com/category/som-thu-tho-giua-long/

                MỘT NIỀM TIN THẮP LỬA
                Hoàng Kim

                Nhìn đàn em ngời niềm vui rạng rỡ.
                Chợt thấy lòng rưng rưng.
                Công việc nghề nông cực mà hạnh phúc.
                Cố lên em nổ lực không ngừng !

                Hột mồ hôi lắng vào hạt gạo.
                Câu ca ông bà theo suốt tháng năm.
                Thêm bữa cơm ngon cho người lao động.
                Nâng chén cơm thơm, qúy trọng người trồng.

                Em ơi hãy học làm ruộng giỏi.
                Nghề nông thời nào cũng quý kỹ năng.
                Người dân khá hơn là niềm ao ước
                Công việc này giao lại cho em.

                Có một mùa Vu Lan hạnh phúc
                Ơn mẹ cha lam lũ sớm hôm
                Thương con vạc gọi sao mai dậy sớm
                Một niềm tin thắp lửa giữa tâm hồn.

                Bước tiếp bước giữa trường đời gian khó
                HỌC ĐỂ LÀM người lao động siêng năng
                Rèn nhân cách vượt lên bao cám dỗ
                Đức và Tài tử tế giữa Nhân Dân.

                Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là 1-mot-niem-tin-thap-lua-1a.jpg
                Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là mot-niem-tin-thap-lua-9.jpg
                Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là mot-niem-tin-thap-lua-7.jpg
                Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là 1-mot-niem-tin-thap-lua-7.jpg
                Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là 1-mot-niem-tin-thap-lua-8.jpg
                Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là 1-mot-niem-tin-thap-lua-9.jpg
                Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là mot-niem-tin-thap-lua-5.jpg
                Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là mot-niem-tin-thap-lua-1.jpg
                Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là mot-niem-tin-thap-lua-4.jpg
                Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là mot-niem-tin-thap-lua-3.jpg

                Giúp bà con cải thiện vụ mùa
                Một niềm tin thắp lửa

                Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là thay-ban-trong-doi-toi-3-1.jpg
                HuynhHuong Vo Minh Luan
                Congviecnaytraolaichoem
                Congviecnaytraolaichoem1

                Một niềm tin thắp lửa
                Hoàng Kim

                IAS 20 11 2015aaa
                GiadinhNN
                Congviecnaytraolaichoem3
                NhoThay1
                NhoThay2

                ƠN THẦY
                Hoàng Kim

                Cha ngày xưa nuôi con đi học
                Một nắng hai sương trên những luống cày
                Trán tư lự, cha thường suy nghĩ
                Phải dạy con mình như thế nào đây?

                Cha mất sớm, bom thù rung mặt đất
                Cái chết giằng cha ra khỏi tay con
                Mắt cha lắng bao niềm ao ước
                Vẫn lo cho con đến phút cuối cùng

                Giặc giết cha, cha chưa kịp thấy
                Tương lai con đi, sự nghiệp con làm
                Cha có biết, luống cày cha bỏ dỡ
                Cha ngã xuống rồi trao lại tay con

                Trên luống cày này, đường cày con vững
                Bởi có dáng thầy thay bóng cha xưa
                Hiểu mảnh đất máu đào cha nhuộm đỏ
                Thôi thúc tim con học tập phút giờ …

                LỚP HỌC TRÊN ĐỒNG

                Trò đứng trên bờ
                Thầy cày dưới ruộng
                Roi rói đất lật lên
                Thẳng tắp từng hàng từng luống …

                Buổi đầu chưa quen đường cày đâu vững
                Thầy nắn tay cầm, thầy sửa dáng đi
                Trán lấm tấm mồ hôi, trời thì lạnh giá
                Nhưng mọi người đều học say mê

                Thầy dạy con muốn đường cày đẹp
                Phải vững tay cày và thẳng mắt trông
                Bước đĩnh đạc, đường hoàng, ngay ngắn
                Dóng trâu đi đúng lối, thẳng đường

                Con hiểu thầy bày từng lời cặn kẽ
                Đâu chỉ dạy cày, thầy dạy đức cho con
                Nuôi mục đích trước sau như một
                Việc tốt đưa ra, quyết vượt tới cùng …

                – Các em học hiểu không?
                – Hiểu lắm!
                – Em nào ra cày?
                Muôn cánh tay giơ lên …

                Luống cày chạy băng băng
                Đất lành sôi sự sống
                Từng hàng, từng hàng lật lên
                Áo mới thay dần mặt ruộng

                Thầy trò say mê mãi
                Dưới ruộng trò cày
                Trên bờ thầy hớn hở
                Đường cày càng vững vàng hơn…

                1971

                NỐI NGHIỆP

                – Các em học hiểu không?
                – Hiểu lắm!
                – Em nào ra cày?
                Muôn cánh tay giơ lên …

                Luống cày chạy băng băng
                Đất lành sôi sự sống
                Từng hàng, từng hàng lật lên
                Áo mới thay dần mặt ruộng

                Thầy trò say mê mãi
                Dưới ruộng trò cày
                Trên bờ thầy hớn hở
                Đường cày càng vững vàng hơn.

                Đường cày nay nối đường cày trước
                Chuỗi giá trị tăng đâu chỉ trên đồng
                Dạy và học ngày nay em nối nghiệp
                Một niềm tin thắp lửa giữa tâm hồn.

                BORLAUG VÀ HEMINGWAY
                Hoàng Kim

                Năm 1988, tôi đến CIANO thăm nơi làm việc của nhà khoa học xanh Norman Borlaug nhà nhân đạo người Mỹ đã ‘cứu sống nhiều người hơn bất cứ ai khác trong lịch sử’ và thăm nơi lưu dấu di sản Ernest Hemingway, tác giả của kiệt tác Ông già và biển cả là bài học tự do sáng tạo sống giữa thiên nhiên. Tôi mang theo suốt đời ấn tượng sâu sắc với Borlaug và Hemingway. Tôi chỉ mới chép đôi điều về họ trên Wikipedia Tiếng Việt, nay lưu điểm nhấn này để thỉnh thoảng quay lại chiêm nghiệm sâu hơn về di sản của hai người thầy kỳ dị và bạn lớn này.

                Thầy Norman Borlaug là nhà nhân đạo, nhà nông học Mỹ, cha đẻ của cuộc cách mạng xanh được tặng giải Nobel và Tổng thống Mỹ trao tặng huân chương cao quý nhất của nước Mỹ, thế giới tôn vinh là nhà bác học số một của nhân loại trong  cuộc chiến chống nghèo đói. Thầy đã suốt đời nghiên cứu giảng dạy về chọn tạo và phát triển cây lương thực, góp phần cải thiện đời sống và nâng cao thu nhập cho hàng trăm triệu nông dân nghèo ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ Latinh. Thầy là người sáng lập Giải thưởng Lương thực Thế giới và tổ chức nhiều hoạt động thiết thực thắp sáng niềm tin yêu cuộc sống. Tôi được Thầy ghé thăm gần trọn buổi chiều tại phòng riêng ở CIMMYT, Mexico ngày 29 tháng 8 (âm lịch) năm 1988. Thầy đã đi một mình ghé thăm người trò nhỏ duy nhất của châu Á trong lớp học “Quản lý Trung tâm/ Trạm trại Nông nghiệp”. Khi Thầy đến, tôi đang thắp nến trên giá sách trong phòng đề tưởng nhớ ngày mất của cha tôi. Biết cha tôi bị bom Mỹ giết hại tại làng nhỏ ở Quảng Bình của buổi chiều này hai mươi năm trước (1968) lúc tôi còn là học sinh trung học của Trường cấp Ba Bắc Quảng Trạch. Thầy bối rối xin lỗi và thật bất ngờ tôi đã có được một buổi chiều vô giá riêng tư bên Thầy. Điều này tôi đã kể tại bài viết “Thầy bạn là lộc xuân cuộc đời” đăng ở kỷ yếu Khoa Nông học Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh năm 2010 và bảo tồn trên trang
                Thầy bạn là lộc xuân

                Ngày ghi nhớ trong trái tim tôi là ngày mất của cha tôi 29 tháng 8 âm lịch (năm 2016 trùng ngày 29 tháng 9 kỷ niệm 50 năm thành lập CIMMYT. Sau này hàng năm, bên cạnh ngày giỗ chính cha tôi lấy theo ngày âm lịch, thì ngày Thế giới chống đói nghèo tôi lại thắp hương để tưởng nhớ cha mẹ mình Lịch Vạn Niên ngày dương lịch có thể đổi thay nhưng ý nghĩa của sự kiện vẫn vậy. Ngày này cha tôi mất năm 1968 và thầy Hiệu trưởng Trần Đình Côn đã viết Bài ca Trường Quảng Trạch với những câu thơ xúc động “Thương em cảnh gieo neo mẹ mất, lại cha già giặc giết hôm qua”. Hai mươi năm sau, ngày này năm 1988, tại phòng riêng của tôi ở CIMMYT Mexico, tôi bất ngờ được thầy Norman Borlaug tới thăm, Thầy là người đoạt giải Nobel hòa bình, cha đẻ cách mạng xanh, nhà bác học hàng đầu của nông nghiệp hiện đại Thầy đã dành trọn buổi chiều để trò chuyện và khai mở tâm thức cho tôi…

                Norman Borlaug nhà khoa học xanh, lời Thầy dặn thật thấm thía “Đời người tối thiểu phải ăn, kế đến là học tập, công việc, nhà ở, quần áo và chăm sóc sức khỏe. Quanh ta còn nhiều mảnh đời bất hạnh. Hiểm họa nghèo đói vẫn bùng phát bất cứ lúc nào. Hãy luôn nhớ điều đó”; “Hãy vươn tới những vì sao. Cho dù không chạm được vào nó, nhưng nếu cố gắng hết sức, ít ra, chúng ta cũng chạm được những hạt bụi của ngôi sao”; “Việc chính đời người chỉ ít thôi. Chuyên tâm đừng bận chuyện trời ơi. Phúc hậu suốt đời làm việc thiện. Di sản muôn năm mãi sáng ngời

                Tôi nhớ đến cha tôi, người thầy và cũng là anh hai Hoàng Ngọc Dộ tần tảo thay cha mẹ nuôi em năm năm ngày một bữa, thầy Nguyễn Khoa Tịnh khóc trên bục giảng cùng thầy bạn nhường cơm xẻ áo cho tôi, thầy Mai Văn Quyền mà tôi viết trên trang cảm ơn của luận án tiến sĩ để nói lên tình cảm của tôi đối với thầy cô: “Ơn Thầy. Cha ngày xưa nuôi con đi học. Một nắng hai sương trên những luống cày. Trán tư lự, cha thường suy nghĩ. Phải dạy con mình như thế nào đây? Cha mất sớm, bom thù rung mặt đất. Cái chết giằng cha ra khỏi tay con. Mắt cha lắng bao niềm ao ước. Vẫn lo cho con đến phút cuối cùng. Giặc giết cha, cha chưa kịp thấy. Tương lai con đi, sự nghiệp con làm. Cha có biết, luống cày cha bỏ dỡ. Cha ngã xuống rồi trao lại tay con. Trên luống cày này, đường cày con vững. Bởi có dáng thầy thay bóng cha xưa. Hiểu mảnh đất máu đào cha nhuộm đỏ. Thôi thúc tim con học tập phút giờ.

                Đời người có những câu chuyện khó cắt nghĩa, Tôi đã lưu lại câu chuyện Giấc mơ thiêng cùng Goethe.kể về cậu bé chân đất làng Minh Lệ được may gặp Goethe ở châu Âu và được đàm đạo với Thầy Norman Borlaug khai tâm đường vào khoa học. Tôi noi gương Goethe và Borlaug để Dạy và Học Việt Nam học, Cây Lương thực Việt Nam Tình yêu cuộc sống, CNM365

                GIẤC MƠ THIÊNG CÙNG GOETHE
                Người già kể chuyện sử thi
                Kalovi Vary, Roma, Oregon
                Thắp lên trong tôi ngọn lửa
                Hoàng Kim

                Mọi lý thuyết đều là màu xám,
                chỉ có cây đời mãi mãi xanh tươi
                Goethe trao tặng cho tôi
                Ngọc minh triết của Người.

                Tôi giấc mơ gặp
                Goethe
                Kalovi Vary, Czechoslovakia
                trong rừng thiêng cổ tích.
                Người kể chuyện sử thi

                Tiệp Khắc kỷ niệm một thời
                Praha Goethe và lâu đài cổ
                Những khát khao của
                Faust,
                Nỗi đau của chàng Werther

                Người nhắc tôi đừng quên
                kể chuyện sử thi dân mình
                Cho dù học gì làm gì
                Cũng đừng quên chuyện đó !

                Người hỏi tôi trong mơ
                Con có dám học
                Faust?
                Chọn minh triết làm Thầy
                Suốt đời theo Trí Tuệ ?

                Tôi trả lời.trong mơ
                Có con xin theo Người !
                Con xin theo học Goethe
                Người kể chuyện sử thi

                Ta bàng hoàng gặp Goethe
                Trên cầu đi bộ Charles
                Trong 30 tượng thánh trầm tư
                Tôi ngắm hình tượng
                Faust

                Quảng trường Old Town Square
                Đế Quốc La Mã Thần Thánh
                Goethe lắng đọng tại
                Praha
                Trong huyền thoại muôn đời

                Tôi nhớ Người ở Frankfurt,
                Di sản Người
                Leipzig, Strasbourg
                Ông già hiền triết châu Âu
                Tại bao nhiêu điểm đến …

                Tôi học Goethe qua thơXem tiếp >>

                  Dạy và học 21 tháng 7(21-07-2021)


                DẠY VÀ HỌC 21 THÁNG 7
                Hoàng Kim

                CNM365 Tình yêu cuộc sốngCOVID-19 tại Việt Namhttps://www.moh.gov.vn/; Chuyện Rowling Harry Potter; Báu vật nơi đất Việt; Vạn Xuân nơi An Hải, Cao Biền trong sử Việt; Đại Lãnh nhạn quay về, Thanh nhàn mừng tháng năm; Tiệp Khắc kỷ niệm một thời; Borlaug và Hemingway; Nguyễn Du thời Tây Sơn; Thầy bạn trong đời tôi; Ngày 21 tháng 7 năm 2007,  Harry Potter và Bảo bối Tử thần được phát hành, là truyện cuối cùng của loạt truyện Harry Potter, do nữ văn sĩ J. K. Rowling sáng tác. Đây là sách bán chạy nhất trong lịch sử. Đến tháng 6 năm 2011, cả bảy quyển Harry Potter đã bán được hơn 450 triệu bản, trở thành bộ sách bán chạy nhất trong lịch sử và được dịch sang 67 ngôn ngữ. Ngày 21 tháng 7 năm 1786, Quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy tiến vào Thăng Long, lật đổ quyền cai trị thực tế hơn 200 năm của họ Trịnh ở miền Bắc Đại Việt. Ngày 21 tháng 7 năm 1899, là ngày sinh của Ernest Hemingway, nhà văn Mỹ nổi tiếng, đoạt giải Nobel văn chương năm 1954 (mất năm 1961); Bài chọn lọc ngày 21 tháng 7: Chuyện Rowling Harry Potter; Báu vật nơi đất Việt; Vạn Xuân nơi An Hải, Cao Biền trong sử Việt; Đại Lãnh nhạn quay về, Thanh nhàn mừng tháng năm; Tiệp Khắc kỷ niệm một thời; Borlaug và Hemingway; Nguyễn Du thời Tây Sơn; Thầy bạn trong đời tôi; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-21-thang-7/;

                CHUYỆN ROWLING HARRY POTTER
                Hoàng Kim

                Nữ văn sĩ Anh J. K. Rowling đã sáng tác Harry Potter sách bán chạy nhất lịch sử nhân loại, đã được dịch sang 67 ngôn ngữ và được tiêu thụ trên 450 triệu bản chỉ tính riêng đến tháng 6 năm 2011. Sách dường như thần thoại này cò gì hay mà lay động và tỉnh thức lòng người đến vậy?

                Tôi tìm về
                Giấc mơ lành yêu thương của chính bản ngã con người, dạo chơi vùng thắng cảnh Vạn Xuân nơi An Hải, Báu vật nơi đất Việt; Cao Biền trong sử Việt; Đại Lãnh nhạn quay về, và đọc lại những câu chuyện lạ trong các ghi chép cũ của ngày này năm xưa: Tiệp Khắc kỷ niệm một thời; Borlaug và Hemingway; Nguyễn Du thời Tây Sơn; Thầy bạn trong đời tôi; những di tích lịch sử , thầy bạn mà tôi có duyên gặp mặt để thích được bảo tồn tiếng nói vĩnh cữu chân thiện mỹ thao thức trong lòng mình, nhằm lưu lại chút bút ký của một chuyến lang thang sau bảy năm ở Phú Yên và ba năm tuyển chọn giống lúa siêu xanh chịu hạn mặn ở vùng đất An Hải, Tuy An, gần mả Cao Biền, nơi mà ít người muốn lên ngắm xem vì e ngại. Cao Biền là người bị sử Tàu trách cứ “phản thần” buông tay để nhà Đường tan, và nước Việt Vạn Xuân Khúc Thừa Dụ trổi dậy nhân cơ hội ấy lập nên nước Vạn Xuân. Cao Biền bị mang tiếng ‘phản thần’ theo ba bộ chính sử Trung Quốc vì đã từ bỏ vua phương Bắc. Ông đã dụng kế ‘kim thiền thoát xác’ trốn về làm dân.Nam. “Phú Yên có mả Cao Biền” ở làng An Hải, cuối Sông Kỳ Lộ ra biển, gần đượng thượng đạo Nam Tiến, gần Núi Cánh Diều và Đầm Ô Loan, Ghềnh Đá Đĩa ‘thắng cảnh kho báu có một không hai’ . Vợ Cao Biền thì bị kẻ ác mưu loại trừ ông đã giết vợ ông, cháu Cao Tầm và tướng tài Trượng Lân của ông, để mưu việc thoán đạt và cát cứ. Nay đền thờ bà Lã Thị Nga, lvị tổ nghề lụa Hà Đông vẫn còn được dân lưu truyền và thờ tại làng Vạn Phúc.Hà Đông. Sử Việt bình minh thời tự chủ, chấm dứt một nghìn năm Bắc thuộc, vua Lý Thái Tổ trong chiếu dời đô khẳng định “Hoàng thành Thăng Long có công lớn Cao Vương”. Tại sao huyền tích và sự thật trải một ngàn năm, đến nay sử thi vẫn nhiều hoài nghi chưa sáng tỏ?

                Tôi đã đọc nhiều lần, cố gắng hiểu, và không hề nghỉ rằng mình có duyên với sử thi bút ký khoa học và đạt được sự tỉnh thức cao quý đến vậy. Nhưng sự thật là tôi vẫn chưa thể hiểu nổi bài học quý giá của Harry Potter mà tôi chỉ thích thú theo dõi và tò mò nhận thấy mình cũng đã có những duyên may tiếp cận được các báu vật cổ vô giá như vậy. Và, tôi đã lần tìm đúng hướng những huyền tích và sự thật, nhưng chẳng qua là chưa biết cách khai mở mạch tâm linh dân tộc và cách thức tỉnh con người đấy thôi. Khi nghiên cứu
                Kim Dung trong ngày mới, tôi thật yêu thích và cảm thấy có thể học được cách kể chuyện của Trần Trọng Kim, Kim Dung, Nguyễn Triệu Luật để mong kể lại các chuyện sử thi về Trần Quốc Tuấn, Trần Nhân Tông, Nguyễn Trãi, Trạng Trình, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Đào Duy Từ, ông Rhodes chữ tiếng Việt, Cao Biền trong sử Việt , Nha Trang và A Yersin, nhưng vì do chính mình chưa biết đầu tư tâm sức thích đáng. Khi kể lại sự trãi nghiệm Tiệp Khắc kỷ niệm một thời, Giấc mơ thiêng cùng Goethe, Châu Mỹ chuyện không quên, Nhớ bạn nhớ châu Phi, Trung Quốc một suy ngẫm; Cao Biền trong sử Việt; Đại Lãnh nhạn quay về, tôi thấy dường như có vùng bí ẩn tâm linh khoa học của chính mình cần được khai mở và tích lũy. đó là giấc mơ lành yêu thương. Tôi chép chuyện Rowling Harry Potter để suy ngẫm.

                Harry Potter

                HARRY POTTER CẬU BÉ PHÙ THỦY

                Ngày 21 tháng 7 năm 2007, 
                Harry Potter và Bảo bối Tử thần được phát hành, là truyện cuối cùng của loạt truyện Harry Potter, ngày đầu phát hành bán được 11 triệu bản, và là sách bán chạy nhất trong lịch sử thế giới. Sách kể về câu chuyện một cậu bé phù thủy.

                Ngày này trong lịch sử có những sự kiện đặc biệt:

                Sự kiện

                Harry Potter hình ảnh có nhiều phiên bản, trên đây là một trong nhưng phiên bản được nhiều người ưa thích. Harry Potter là bộ truyện bảy phần của nữ văn sĩ người Anh J. K. Rowling viết về những cuộc phiêu lưu của cậu bé phù thủy Harry Potter với các bạn Ronald Weasley và Hermione Granger tại Trường Phù thủy, Pháp sư Hogwarts nước Anh. Đây là  cuộc chiến của Harry Potter chống lại Chúa tể hắc ám Voldemort là kẻ có tham vọng muốn trở nên bất tử, thống trị thế giới phù thủy, nô dịch những người không pháp thuật và tiêu diệt bất cứ ai cản đường hắn, đặc biệt là Harry Potter. Bộ truyện chủ đề chính là sự sống và cái chết, viết cho trẻ mới lớn, sách kết hợp các yếu tố giả tưởng ước mơ, phiêu lưu, lãng mạn, huyền bí, kinh dị, nhiều triết lí văn hóa và tư liệu tham khảo, theo lời tác giả J. K. Rowling.

                Bảy cuốn truyện này đã được hãng phim Warner Bros. Pictures, dựng thành loạt 8 bộ phim cùng tên. Phim này trở thành loạt phim có doanh thu cao nhất mọi thời đại, thương hiệu Harry Potter có giá trị hơn 15 tỉ USD.

                J.K.Rowling nu van si Anh viet Harry Potter

                J. K. ROWLING NHÀ VĂN ANH

                Joanne “Jo” Rowling sinh ngày 31 tháng 7 năm 1965, bút danh là J. K. Rowling, là nữ nhà văn người Anh , hiện sống tại thủ đô Edinburgh của Scotland, (là một quốc gia thuộc Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland. Scotland chiếm một phần ba diện tích phía bắc của đảo Anh, có biên giới với Anh ở phía nam). J. K. Rowling là  tác giả của bộ truyện giả tưởng nổi tiếng Harry Potter. Bà “Jo” Rowling hiện được tạp chí  Forbes bình chọn là người phụ nữ giàu thứ hai trong lĩnh vực nghệ thuật giải trí, chỉ sau Oprah Winfrey. Bà được tạp chí Entertainment Weekly của Mỹ bình chọn là một trong 25 nghệ sĩ nổi bật nhất năm 2007. Bà cũng đã được trao Bắc Đẩu Bội tinh, huân chương cao quý nhất của Nhà nước Pháp vào ngày 3 tháng 2 năm 2009 vì tài năng xuất chúng về văn học thiếu nhi. Năm 2010 bà được trao Giải Văn học Hans Christian Andersen là một giải thưởng văn học quốc tế của Đan Mạch, được trao 2 năm một lần bắt đầu từ năm 2007, cho những tác giả có văn phong gần giống của Hans Christian Andersen. Ba người lần lượt đoạt giải này là ông Paulo Coelho (tác giả người Brazil, tác phẩm ‘Nhà giả kim’ (O Alquimista) tiếng Bồ Đào Nha, đoạt giải năm 2007), bà J.K. Rowling (tác giả người Scotland, tác phẩm ‘Harry Potter’ đoạt giải năm 2010) và bà  Isabel Allende ( nhà văn Chile với tư cách công dân Mỹ, tác phẩm  Ngôi nhà của các linh hồn (La casa de los espíritus) 1982 và Thành phố của những tên ác quỷ (La ciudad de las bestias) 2002 tiếng Tây Ban Nha, đoạt giải năm 2012).

                THẦY BẠN TRONG ĐỜI TÔI

                “Chung vui trong tiệc cưới con hai bạn Hồ Quế Hậu và Nguyễn Thị Lệ Hồng (21/7/ 2019)” Cám ơn vợ chồng thầy
                Tuyến Bùi Cách &Tuyet Tran đã kịp lưu lại những kỷ niệm lắng đọng và gửi tặng ảnh. Một ngày thung dung ấn tượng dư âm câu chuyện trong tiệc cưới thật thân ái, thanh nhàn. Cảm ơn Hồ Quế Hậu, Nguyễn Thị Lệ Hồng hai cháu và những người bạn quý. Thầy bạn trong đời tôihttps://hoangkimlong.wordpress.com/category/thay-ban-trong-doi-toi/ . Năm tháng qua đi chỉ tình yêu ở lại. Tôi lưu kỷ niệm ngày 21 tháng 7 Rowling Harry Potter . Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/tag/day-va-hoc-21-thang-7/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-21-thang-7/;

                Nui Ða Bia Phu Yen anh Thanh Xuan

                Ngày 21 tháng 7 trong tôi, thật lạ cũng là ngày Báu vật nơi đất Việt; Vạn Xuân nơi An Hải, Cao Biền trong sử Việt; Đại Lãnh nhạn quay về; Thanh nhàn mừng tháng năm; Tiệp Khắc kỷ niệm một thời; Borlaug và Hemingway; Nguyễn Du thời Tây Sơn; Thầy bạn trong đời tôi; Chúng ta ai cũng có những câu chuyện, khai mở giấc mơ kỳ lạ. Biết bao điểm đến của đất nước Việt Nam biết bao tri thức trẻ là những vùng sự thật và huyền thoại ?

                BÁU VẬT NƠI ĐẤT VIỆT

                Pho tượng Phật Quan Âm
                trở về từ biển cả
                chùa Thanh Lương Phú Yên
                đẹp và kỳ lạ quá !

                Thành Hoàng Lương Văn Chánh
                Châu Văn Tiếp Phú Yên
                Lúa siêu xanh Việt Nam.
                Mằng Lăng lưu chữ Việt.

                Lời thương nơi Tháp Nhạn
                An Hải mả Cao Biền
                Ghềnh Đá Đĩa Tuy An
                Báu vật nơi đất Việt.

                Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là bau-vat-noi-dat-viet.jpg

                AI TỎ NGỌC QUAN ÂM?

                (*) Pho tượng Phật Quan Âm trở về từ biển cả lưu tại chùa Thanh Lương Phú Yên, gần Ghềnh Đá Dĩa Tuy An, gần Nhà thờ Mằng Lăng nơi lưu giữ dấu tích ‘chữ tiếng Việt’ công bố lần đầu của ông Alecxandre de Rhodes người có công lớn đối với chữ Tiếng Việt. Nơi đây cũng kết nối trục giao lộ từ Đầm Ô Long, cảng Quy Nhơn tới Champasak ngã năm sông Mekong nơi di chỉ “dấu chân Phật” nơi hội tụ Đông Dương (hình), kết nối trục ngang với trục dọc Trường Sơn tạo sinh lộ biển trời Mekong. Địa thế này là tầm nhìn phong thủy Vạn Xuân, được thể hiện rõ trong bản đồ cổ thời Cao Biền mạt Đường, quả thật xuất sắc và lạ lùng !

                (**) Tôi hôm nay khi đứng nơi có mả Cao Biền, trên ‘đỉnh núi không còn ghồ ghề’  nghe tiếng gió hàng dương rì rào thổi bản nhạc đồng quê mênh mang ” Khi đỉnh núi không cXem tiếp >>

                  Dạy và học 20 tháng 7(20-07-2021)

                DẠY VÀ HỌC 20 THÁNG 7
                Hoàng Kim

                CNM365 Tình yêu cuộc sốngĐại Lãnh nhạn quay về; Lời khuyên thói quen tốt; Dạy và học để làm; Cao Biền trong sử Việt;Trời nhân loại mênh mông; Tiệp Khắc kỷ niệm một thời; Việt Nam tổ quốc tôi; Chuyện cổ tích người lớn; Đến với Tây Nguyên mới; Nhớ tháng bảy mưa ngâu; Chuyện cô Trâm lúa lai; Núi Đá Bia 706m ở đèo Cả Phú Yên. Ngày 20 tháng 7 năm 1442, ngày sinh vua Lê Thánh Tông, vị vua nổi tiếng triều Hậu Lê (mất năm 1497); Ngày 20 tháng 7 năm 1822, ngày sinh Gregor Johann Mendel, nhà di truyền học ngườì Áo, người được coi là cha đẻ của ngành di truyền học toàn cầu. Ngày 20 tháng 7 năm 1969, Tàu Apollo 11 đáp thành công xuống Mặt Trăng, phi hành gia Neil Armstrong và Buzz Aldrin trở thành những người đầu tiên đi trên Mặt Trăng; Bài chọn lọc ngày 20 tháng 7: Đại Lãnh nhạn quay về; Lời khuyên thói quen tốt; Dạy và học để làm; Cao Biền trong sử Việt;Trời nhân loại mênh mông; Tiệp Khắc kỷ niệm một thời;Việt Nam tổ quốc tôi; Chuyện cổ tích người lớn; Đến với Tây Nguyên mới; Nhớ tháng bảy mưa ngâu; Chuyện cô Trâm lúa lai; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-20-thang-7

                ĐẠI LÃNH NHẠN QUAY VỀ
                Hoàng Kim


                Núi Đá Bia thiên nhãn phương nam
                Biển Vũng Rô mắt thần tịnh hải 
                Tháp Nhạn người Chăm lưu đất Phú
                Mằng Lăng chữ Việt dấu trời Yên
                Xuân Đài thành cổ ghềnh Đá Đĩa
                Sông Ba sông Cái núi Cù Mông
                Vạn kiếp tình yêu ai gửi lại
                Ngàn năm Đại Lãnh nhạn quay về

                2

                Sông Kỳ Lộ Phú Yênhttps://hoangkimlong.wordpress.com/…/song-ky-lo-phu-yen/
                Đồng xuân lưu dấu hiềnhttps://hoangkimlong.wordpress.com/…/dong-xuan-luu-dau…/
                Cao Biền trong sử Việthttps://hoangkimlong.wordpress.com/…/cao-bien-trong-su…/
                Đại Lãnh nhạn quay vềhttps://hoangkimlong.wordpress.com/…/dai-lanh-nhan…/

                Biển Vũng Rô

                Tháp Nhạn

                Nhà thờ Mằng Lăng

                Biển Tuy Hòa

                LỜI KHUYÊN THÓI QUEN TỐT
                Bài học vàng cho con
                Hoàng Kim

                Học không bao giờ muộn
                Dạy con phải kịp thời
                Thương cháu cần dạy sớm
                Thói quen tốt con ơi.

                Giấc ngủ cần trước nhất
                Sức khỏe nhờ ngủ ngon
                Thiếu ngủ thường mệt mỏi
                Ngủ giúp não phục hồi.

                Vận động nhiều một chút
                Đi bộ và dạo chơi
                Cần đứng lên ngồi xuống
                Sau mỗi giờ làm bài

                Ăn đủ chất dinh dưỡng
                Thức ăn nóng sạch tươi
                Thích ăn cá rau quả
                Đừng dùng thứ nguội thiu

                Ngủ vận động và ăn
                Là thói quen lành mạnh
                Sống nơi không gian xanh
                Công việc chọn an lành.

                Thói quen tốt luyện tập
                Buông bỏ điều hư danh.

                Good habit advice
                Hoàng Kim

                Learn never late
                Teaching children must be timely
                I love teaching early
                Good habits, baby.

                Sleep needs first
                Health thanks to good sleep
                Lack of sleep often tired
                Sleep helps the brain recover.

                Move a little bit
                Walking and walking
                Need to stand up and sit down
                After every hour of doing the lesson

                Eat enough nutrients
                Hot and fresh food
                Love to eat vegetables and fish
                Do not like cool things

                Sleep, movement, and eating
                Healthy habits
                Living in green space
                Work choose peace.

                Practice good habits
                Let go of the bad thing.

                DẠY VÀ HỌC ĐỂ LÀM
                Hoàng Kim

                Cây Lương thực Việt Nam
                Việt Nam con đường xanh
                Thầy bạn là lộc xuân
                Vui đi dưới mặt trời.

                Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong tác phẩm Nửa đêm, bản dịch của Nam Trân, sách Nhật ký trong tù (viết vào khoảng 29-8-1942 đến ngày 10-9-1943) đã viết: “Ngủ thì ai cũng như lương thiện, Tỉnh dậy phân ra kẻ dữ hiền; Hiền, dữ phải đâu là tính sẵn, Phần nhiều do giáo dục mà nên”. Bác Hồ đã suy nghĩ về vai trò, sứ mệnh của giáo dục. Đó là một sự nghiệp lớn. Bản tính, nhân cách, hạnh phúc của mỗi con ngườichúng ta là sự nỗ lực cố gắng của chính bản thân mình, được sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh điều kiện nào, thông qua sự tiếp thu và thích ứng với nến giáo dục nào của gia đình, nhà trường và xã hội đó.

                Mục đích dạy và học

                Mục đích sau cùng của DẠY VÀ HỌC là thấu suốt bản chất sự vật có lời giải đúng và LÀM được việc. Norman Borlaug lời Thầy dặn thật thấm thía “Đời người tối thiểu phải ăn, kế đến là học tập, công việc, nhà ở, quần áo và chăm sóc sức khỏe. Quanh ta còn nhiều mảnh đời bất hạnh. Hiểm họa nghèo đói vẫn bùng phát bất cứ lúc nào. Hãy luôn nhớ điều đó”; “
                Hãy vươn tới những vì sao. Cho dù không chạm được vào nó, nhưng nếu cố gắng hết sức, ít ra, chúng ta cũng chạm được những hạt bụi của ngôi sao”; “Việc chính đời người chỉ ít thôi. Chuyên tâm đừng bận chuyện trời ơi. Phúc hậu suốt đời làm việc thiện. Di sản muôn năm mãi sáng ngời

                Dạy và hoc để làm

                Dạy và học thế giới văn minh ngày nay là học để làm (Learing to Doing; Learning by Doing). Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Không phải ai cũng huấn luyện được. Muốn huấn luyện thợ rèn, thợ nguội thì người huấn luyện phải thạo nghề rèn, nghề nguội. Người huấn luyện của đoàn thể phải làm kiểu mẫu về mọi mặt tư tưởng, đạo đức, lối làm việc, phải học thêm mãi. Cách thức huấn luyện phải làm sao cốt thiết thực, chu đáo hơn tham nhiều. Huấn luyện từ dưới lên trên, phải gắn liền lý luận với công tác thực tế, huấn luyện phải nhằm đúng yêu cầu, phải chú trọng việc cải tạo tư tưởng. Phải gắn chặt giữa học với hành, lý luận với thực tiễn, kinh nghiệm và thực tế phải đi cùng nhau. Nghiên cứu mà không thực hành là nghiên cứu suông. Thực hành mà không nghiên cứu thì thường hay bị mù quáng… Người huấn luyện nào mà tự cho mình đã biết đủ cả rồi, thì người đó dốt nhất”.

                Biết đủ và cẩn trọng

                Học làm người chí thiện, biết đủ và cẩn trọng. Cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491–1585) là nhà giáo, nhà tiên tri, nhà thơ triết lý, nhà văn hoá lớn của thời Lê -Mạc, bậc kỳ tài yêu nước thương dân, xuất xử hợp lý, hợp thời, sáng suốt. Cụ đã diễn giải rất rõ ràng, thấu nghĩa lý của sự buông bỏ và sự làm việc thiện đúng nghĩa đã được trích dẫn tại “Ngày xuân đọc Trạng Trình”
                https://hoangkimlong.wordpress.com/category/ngay-xuan-doc-trang-trinh/,:

                “Vẹn toàn điều Thiện là Trung, không vẹn toàn điều Thiện thì không phải là Trung. Tân là cái bến, biết chỗ dừng lại là bến chính, không biết chỗ dừng lại là bến mê. Nghĩa chữ Trung Chính là ở chỗ Chí Thiện. (Trung Tân quán bi ký, 1543). Làm việc thiện không phải vì công tích mà ở tấm lòng. Nay vừa sau cơn loạn lạc thì chẳng những thân người ta bị chìm đắm, mà tâm người ta càng thêm chìm đắm. Các bậc sĩ đệ nên khuyến khích nhau bằng điều thiện, để làm cho mọi người dấy nên lòng thiện mà tạo nên miền đất tốt lành. (Diên Thọ kiều bi ký, 1568).

                Nhiều người chưa biết buông bỏ và hiểu lầm làm việc thiện. Biết đủ chính là buông, là “xả” trong “từ bi hỉ xả” minh triết của đạo Bụt. Không tranh giành chính là từ bi. Không tranh cãi chính là trí tuệ. Không nghe chính là thanh tịnh. Không nhìn chính là tự tại. Tha thứ chính là giải thoát. Dạy và học cẩn trọng “Nồi cơm của Khổng Tử” “Tổn thương sâu mới buông” “Rất đau nhưng không buông” là ba chuyện mẫu mực về sự cẩn trọng trong suy xét lời nói, việc làm để hiểu đúng bản chất sự việc, uốn nắn sai lầm và không làm tổn thương người khác.

                Dạy và học ngày nay

                Đánh giá giáo dục Việt Nam Nghị quyết số 29-NQ/TW Hội nghị lần thứ tám, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế đã nhận định: Ngành giáo dục đào tạo Việt Nam ngày nay đã có những bước phát triển, song vẫn còn tồn tại một số hạn chế. “1) chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo còn thấp so với yêu cầu, nhất là giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp. Hệ thống giáo dục và đào tạo thiếu liên thông giữa các trình độ và giữa các phương thức giáo dục, đào tạo; còn nặng lý thuyết, nhẹ thực hành. Đào tạo thiếu gắn kết với nghiên cứu khoa học, sản xuất, kinh doanh và nhu cầu của thị trường lao động; chưa chú trọng đúng mức việc giáo dục đạo đức, lối sống và kỹ năng làm việc. Phương pháp giáo dục, việc thi, kiểm tra và đánh giá kết quả còn lạc hậu, thiếu thực chất. 2) Quản lý giáo dục và đào tạo còn nhiều yếu kém. Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục bất cập về chất lượng, số lượng và cơ cấu; một bộ phận chưa theo kịp yêu cầu đổi mới và phát triển giáo dục, thiếu tâm huyết, thậm chí vi phạm đạo đức nghề nghiệp; 3) Đầu tư cho giáo dục và đào tạo chưa hiệu quả. Chính sách, cơ chế tài chính cho giáo dục và đào tạo chưa phù hợp. Cơ sở vật chất, kỹ thuật còn thiếu và lạc hậu, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn”.

                Chiến lược giáo dục Việt Nam trích chủ đề Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2021-2030 “Khơi dậy khát vọng dân tộc thịnh vượng và hùng cường, phát huy mạnh mẽ giá trị va7n hóa, con người Việt Nam và sức mạnh thời đại, huy động mọi nguồn lực, phát triển nhanh và bền vững trên cơ sở khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo, đến năm 2030 trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thuộc nhóm trên của các nước có thu nhập trung bình cao.

                Chiến lược giáo dục đào tạo tại mục 3 Phương hướng nhiệm vụ giải pháp kinh tế xã hội 2021- 2030 của Dự thảo các văn kiện trình Đại hội 13 của Đảng Cộng sản Việt Nam, tháng 2 năm 2020, xác định: “Đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế. Phát triển đội ngũ chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành; chú trọng đội ngũ nhân lực kỹ thuật, nhân lực quản trị công nghệ, nhân lực quản lý, quản trị doanh nghiệp, nhân lực quản lý xã hội và tổ chức cuộc sống, chăm sóc con người.

                Đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp theo hướng mở, linh hoạt, bảo đảm thống nhất với đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đạo tạo. Chú trọng đào tạo tạo lại, đào tạo thường xuyên lực lượng lao động. Hình thành đội ngũ lao động lành nghề, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, gắn kết chặt chẽ giữa đào tạo và sử dụng lao động

                Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học; từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học; giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội. Đào tạo con người theo hướng có đạo đức, kỷ luật, kỷ cương, ý thức trách nhiệm công dân, xã hội; có kỹ năng sống, kỹ năng làm việc, ngoại ngữ, công nghệ thông tin, công nghệ số, tư duy sáng tạo và hội nhập quốc tế.

                Thực hiện phổ cập giáo dục mầm non. Đưa vào chương trình giáo dục phổ thông nội dung kỹ năng số và ngoại ngữ tối thiểu. Đẩy mạnh phân luồng sau trung học cơ sở; định hướng nghề nghiệp ở trung học phổ thông. Giảm tỉ lệ mù chữ vùng sâu, vùng xa, vùng dân tôc thiểu số.

                Sắp xếp lại hệ thống trường học; phát triển hài hòa giữa giáo dục công lập và ngoài công lập, giữa các vùng, miền, ưu tiên các vùng đặc biệt khó khăn, vùng dân tộc thiểu số, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, và các đối tượng chính sách. Đa dạng hóa các loại hình đào tạo, hoàn thiện chính sách phát triển các cơ sở đào tạo ngoài công lập; thực hiện cơ chế tự chủ đối với đào tạo bậc  đại học phù hợp với xu thế chung của thế giới.

                Thực hiện cơ chế tự chủ một số trường phổ thông tại các đô thị lớn, các nơi có điều kiện; thí điểm cơ chế cho thuê một số cơ sở giáo dục sẵn có theo nguyên tắc bảo đảm tất cả học sinh được đến trường. Đặc biệt chú ý phát hiện, bồi dưỡng, đãi ngộ, thu hút nhân tài cho phát triển kinh tế , xã hội. Nâng cao chất lượng, hiệu quả dạy và học ngoại ngữ, coi trọng dạy và học tiếng Anh.”

                Chấn hưng giáo dục Việt Nam ngày nay giải pháp thực hành trên căn bản nhìn sâu vào thực trạng giáo dục đất nước, đánh giá đúng đắn và thực chất về tất cả những việc đã làm được và chưa làm được, suy xét kỹ nguyên nhân, hệ lụy, xác định hệ thống các giải pháp chỉnh đốn, tăng tốc phát triển trên căn bản đáp ứng tốt các yêu cầu cấp bách nêu trên. Sự đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đào tạo Việt Nam cần bắt đầu từ quan điểm chỉ đạo, nhận thức, định hướng đến mục tiêu, nội dung, phương pháp, cơ chế, chính sách, điều kiện bảo đảm thực hiện; từ tư duy vận hành xã hội, quản lý Nhà nước đến ngành học, hệ thống cơ sở giáo dục đào tạo tại tất cả các bậc học, thống kê và chuẩn hóa người dạy người học, cơ sở vật chất đào tạo; nhất là đội ngũ người thầy phải nêu cao hơn nữa bản lĩnh, đạo đức cách mạng, phải thực hành dân chủ trong trường học, tạo sự đoàn kết, nhất trí, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Nâng cao chất lượng dạy và học của mỗi trường là căn bản của sự đổi mới giáo dục Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Trong trường cần có dân chủ. Đối với mọi vấn đề, thầy và trò cùng nhau thảo luận, ai có ý kiến gì đều thật thà phát biểu. Điều gì chưa thông suốt thì hỏi, bàn cho thông suốt. Dân chủ nhưng trò phải kính thầy, thầy phải quý trò chứ không phải “cá đối bằng đầu”.

                Tài liệu dẫn

                KhongTu2

                KHỔNG TỬ DẠY VÀ HỌC
                Hoàng Kim
                Hồ Chí Minh hữu ý hay vô tình đã chọn ngày 19 tháng 5 để thăm Khổng Tử. Ngày 19 tháng 5 là ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, cũng là ngày thành lập Việt Minh, khai sinh đường Hồ Chí Minh trong lịch sử. Chuỗi ba sự kiện lớn này đóng mốc son ngày 19 tháng 5 vào lịch sử Việt Nam và thế giới đối với nền độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và sự nghiệp thống nhất Tổ quốc Việt Nam. Tôi có viết bài “
                Hồ Chí Minh trọn đời minh triết” với ba ý: Việt Nam Hồ Chí Minh biểu tượng Việt; Bác Hồ nói đi đôi với làm mẫu mực đạo đức; Bác Hồ rất ít trích dẫn. Hồ Chí Minh bình sinh rất ít trích dẫn nhưng đối với Khổng Tử, Hồ Chí Minh có riêng hai bài đánh giá kỹ và sâu về di sản Khổng Tử. Tới Bắc Kinh lần này, tôi ước nguyện thăm lúa siêu xanh và thăm Khúc Phụ.

                Khổng Tử sinh năm 551 mất năm 479 Trước Công Nguyên là nhà hiền triết phương Đông nổi tiếng người Trung Hoa, suốt đời dạy người không mỏi, học người không chán. Các bài giảng và triết lý của ông, đặc biệt là đạo làm người và tu dưỡng đạo đức cá nhân, đã ảnh hưởng sâu rộng đến tư tưởng và đời sống của nhiều nước Đông Á suốt hai mươi thế kỷ qua.  Người Trung Hoa đời sau đã tôn xưng ông là Vạn thế Sư biểu (Bậc Thầy muôn đời). Chính phủ Trung Quốc hiện nay, trong nỗ lực truyền bá văn hóa Trung Hoa ra thế giới, đã thành lập hàng trăm Học viện Khổng Tử khắp toàn cầu.

                Khổng Tử là người thế nào? Viết về Khổng Tử liệu có thức thời không? Học để làm điều gì ở Khổng Tử?

                KhongTu1

                HỌC ĐỂ LÀM ĐIỀU GÌ Ở KHỔNG TỬ?

                Đức Khổng Tử có nhiều triết lý sâu sắc. Khổng Tử suốt đời dạy người không mỏi, học người không chán, ưu tiên dạy và học đạo làm người, đạo đức cá nhân. Khổng Tử là vầng trăng cổ tích, bậc Thầy muôn đời. Tôi tự suy ngẫm, nhận thức mới và thấm thía: Học mà không hành, dạy nhiều vô ích. Sống không phúc hậu, cố gắng vô ích.

                Học để làm điều gì ở Khổng Tử của Hồ Chí Minh là trí tuệ Việt Nam. Sâu sắc thay thơ  “Thăm Khúc Phụ/ Hồ Chí Minh/ Mười chín tháng năm thăm Khúc Phụ,/ Thông già, miếu cổ thảy lu mờ./ Uy quyền họ Khổng giờ đâu nhỉ?/ Bia cũ còn soi chút nắng tà”. “Nếu Khổng Tử sống ở thời đại chúng ta và nếu ông khăng khăng giữ những quan điểm cũ thì ông sẽ trở thành phần tử phản cách mạng. Chính phủ Trung Quốc đã làm mất đi một thể chế cũ trái với dân chủ. Còn những người An Nam chúng ta hãy tự hoàn thiện mình, về mặt tinh thần bằng đọc các tác phẩm của Khổng Tử và về mặt cách mạng thì cần đọc các tác phẩm của Lênin!”. “Chúa Giêsu dạy: Đạo đức là bác ái. Phật Thích Ca dạy: Đạo đức là từ bi. Khổng Tử dạy: Đạo đức là nhân nghĩa” (Báo Nhân Dân ngày 14/6/1951). Sự tu dưỡng đạo đức cá nhân và tự nguyện thực hành trọn đời của Hồ Chí Minh về “cần kiệm liêm chính, chí công vô tư” là có noi theo Khổng Tử.

                NHẬN THỨC ĐÚNG VỀ KHỔNG TỬ

                Nhận thức đúng về Khổng Tử, chọn lọc, bảo tồn và phát triển tinh hoa Khổng Tử được lưu lại chủ yếu trong tài liệu chính  là Luận Ngữ của nhà giáo họ Khổng để ứng dụng và thực hành cho phù hợp thời thế, đó là việc làm căn bản và cần thiết. Mục đích sau cùng của DẠY VÀ HỌC là thấu suốt bản chất sự vật, có lời giải đúng và LÀM được việc.

                Tư Mã Thiên dành một thiên trong Thế gia của Sử Ký (từ trang 208 đến trang 247) để viết rất kỹ về Khổng Tử, với lời bình cuối bài:  “Kinh Thi nói: Núi cao ta trông, đường rộng ta đi Tuy chưa đến đích, nhưng lòng hướng về. Tôi đọc sách của họ Khổng, tưởng tượng như thấy người. Đến khi đến nước Lỗ xem nhà thờ Trọng Ni, nào xe cộ, nào áo, nào đồ tế lễ, học trò tập về lễ nghi ở nhà Khổng Tử theo đúng từng mùa, tôi bồi hồi nán lại bỏ đi không dứt. Trong thiên hạ, các vua chúa và người tài giỏi rất nhiều, khi sống thì vinh hiển, nhưng lúc chết là hết. Khổng Tử là một người áo vải thế mà truyền hơn mười đời, các học giả đều tôn làm thầy, từ thiên tử đến vương hầu ở Trung Quốc hể nói đến lục nghệ đều lấy Khổng Tử làm tiêu chuẩn. Có thể gọi là bậc chí thánh vậy.”

                Hồ Chí Minh trong tài liệu “Hồ Chí Minh về vấn đề tôn giáo và tín ngưỡng”, Nhà Xuất Bản Khoa học Xã hội, Hà Nội năm 1996, trang 152 đã viết: “Học thuyết của Khổng Tử có ưu điểm là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tôn giáo của Jê su có ưu điểm của nó là lòng nhân ái cao cả. Chủ nghĩa Mác có ưu điểm là phương pháp làm việc biện chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm là chính sách của nó thích hợp với điều kiện nước ta. Khổng Tử, Jê su, Mác, Tôn Dật Tiên chẳng có ưu điểm chung đó sao? Họ đều mưu cầu hạnh phúc cho loài người, mưu cầu hạnh phúc cho xã hội. Nếu hôm nay họ còn sống trên đời này, tôi tin rằng họ nhất định sống chung với nhau rất hoàn mỹ như những người bạn thân thiết. Tôi cố gắng làm một người học trò nhỏ của các vị ấy.”

                Nguyễn Hiến Lê tại trang đầu của sách “Khổng Tử”, Nhà Xuất Bản Văn Hóa, Hà Nội năm 1991 đã đánh giá: ” Triết thuyết nào cũng chỉ để cứu cái tệ của một thời thôi. Muốn đánh giá một triết thuyết thì phải đặt nó vào thời của nó, xem nó giải quyết được những vấn đề của thời đó không, có là một tiến bộ so với các thời khác, một nguồn cảm hứng cho các thời sau không. Và nếu sau mươi thế hệ, người ta thấy nó vẫn còn làm cho đức trí con người được nâng cao thì phải coi nó là một cống hiến lớn cho nhân loại rồi”.

                Sách về Khổng Tử thật nhiều nhưng Luận Ngữ là đáng tin cậy hơn cả. Sự ngụy tạo, lợi dụng Khổng Tử, giảng giải, diễn dịch và viết thêm của đời sau cũng nhiều. Chào ngày mới 2 tháng 8 đúc kết thông tin vắn tắt về Khổng Tử theo Từ Điển Bách Khoa Mở Wikipedia

                VIẾT VỀ KHỔNG TỬ LIỆU CÓ THỨC THỜI KHÔNG?

                Khổng Tử lúc đương thời không ông vua nào nghe lời khuyên của ông, không nước nào dung nạp được ông và ông hoàn toàn thất bại về chính trị. Nguyễn Hiến Lê nhận xét đại ý là Khổng Tử cũng không đạt được mục tiêu về giáo dục. Vì ông chủ trương đức trị, muốn đào tạo những người vừa có đức vừa có tài để cho ra làm quan nhưng ba ngàn đệ tử thì chỉ có vài ba người có đức hoặc chết sớm như Nhan Hồi hoặc không chịu ra làm quan như Mẫn Tử Khiên, năm bảy người có tài và có tư cách như Tử Cống, Trọng Do, Nhiễm Cầu, … khoảng mươi người khác là gượng dùng. Dạy học suốt ba bốn chục năm mà thành nhân được ngần ấy là đáng nãn nhưng Không Tử vẫn bình tâm. Bọn pháp gia thì chú trọng kinh tế, hành chính , pháp luật chỉ cầu quốc gia phú cường không giáo dục dân bất chấp nguyện vọng của dân và họ đã thành công trong thời họ, hạ được sự đối kháng để lên thay.

                Đương thời Khổng Tử là vậy, các đời sau thì vua chúa tôn vình Khổng học phần lớn chỉ là lợi dụng học thuyết của ông để tuyên truyền mạnh mẽ có lợi cho họ. Thời Trung Quốc Dân Quốc, chính phủ Tưởng Giới Thạch tuyên bố biến mọi nơi thờ phụng Khổng Tử thành trường học, xoá bỏ những nghi lễ liên quan đến Khổng học. Thời Mao Trạch Đông cầm quyền cũng từng phát động “Phê Lâm, phê Khổng, phê ông Chu” gần đây thì trào lưu thành lập các Học viện Khổng Tử khắp toàn cầu để truyền bá văn hóa Trung Hoa ra thế giới đang được Chính phủ Trung Quốc nỗ lực thực hiện.

                Đọc lại và suy ngẫm về bài viết của Bác Hồ về “Khổng Tử” đăng trên báo “Thanh Niên”, cơ quan huấn luyện của tổ chức Việt Nam Thanh Niên Cách mạng Đồng chí Hội ở Quảng Châu ngày 20/2/1927:

                Từ rất xa xưa, người An Nam và các vua chúa An Nam rất tôn kính nhà hiền triết này… Nhưng hãy xem Không Tử là người thế nào? Tại sao các hoàng đế lại tôn sùng đến thế? Tại sao được tôn sùng đến thế mà Chính phủ Trung Hoa lại vứt bỏ đi…

                Khổng Tử sống ở thời Chiến quốc. Đạo đức của ông, học vấn của ông và những kiến thức của ông làm cho những người cùng thời và hậu thế phải cảm phục… Nhưng cách đây 20 thế kỷ, chưa có chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa đế quốc và các dân tộc bị áp bức như chúng ta ngày nay, cho nên bộ óc Khổng Tử không bao giờ bị khuấy động vì các học thuyết cách mạng.

                Đạo đức của ông là hoàn hảo, nhưng nó không thể dung hợp được với các trào lưu tư tưởng hiện đại, giống như một cái nắp tròn làm thế nào để có thể đậy kín được cái hộp vuông?

                Những ông vua tôn sùng Khổng Tử không phải chỉ vì ông không phải là người cách mạng mà còn vì ông tiến hành cuộc tuyên truyền mạnh mẽ có lợi cho họ… Khổng giáo dựa trên ba sự phục tùng: Quân – thần; phụ – tử; phu – phụ và năm đức là: “ Nhân, nghĩa, lễ, trí, tín”.

                Khổng Tử đã viết “Kinh Xuân Thu” để chỉ trích “những thần dân nổi loạn” và “những đứa con hư hỏng”, nhưng ông không viết gì để lên án những tội ác của “những người cha tai ác” hay “những ông hoàng thiển cận”. Nói tóm lại, ông rõ ràng là người phát ngôn bênh vực những người bóc lột chống lại những người bị áp bức…

                Nếu Khổng Tử sống ở thời đại chúng ta và nếu ông khăng khăng giữ những quan điểm cũ thì ông sẽ trở thành phần tử phản cách mạng. Chính phủ Trung Quốc đã làm mất đi một thể chế cũ trái với dân chủ. Còn những người An Nam chúng ta hãy tự hoàn thiện mình, về mặt tinh thần bằng đọc các tác phẩm của Khổng Tử và về mặt cách mạng thì cần đọc các tác phẩm của Lênin!”.

                Ngày 19 tháng 5 năm năm 1965, Hồ Chí Minh thăm Khúc Phụ về, đã viết bài thơ

                Thăm Khúc Phụ

                Mười chín tháng năm thăm Khúc Phụ,
                Thông già, miếu cổ thảy lu mờ.
                Uy quyền họ Khổng giờ đâu nhỉ?
                Bia cũ còn soi chút nắng tà.

                Nguyên văn chữ Hán:

                訪曲阜

                五月十九訪曲阜
                古松古廟两依稀
                孔家勢力今何在
                只剩斜陽照古碑

                Phiên âm:

                Phỏng Khúc Phụ

                Ngũ nguyệt thập cửu phỏng Khúc Phụ,
                Cổ tùng cổ miếu lưỡng y hi.
                Khổng gia thế lực kim hà tại,
                Chỉ thặng tà dương chiếu cổ bi.

                Dịch nghĩa:

                Thăm Khúc Phụ

                Ngày 19 tháng 5 thăm Khúc Phụ,
                Cây thông già và ngôi miếu cổ đều đã mờ nhạt.
                Uy quyền họ Khổng giờ ở đâu?
                Chỉ còn chút ánh nắng tà chiếu trên tấm bia cũ.

                Bình sinh Hồ Chí Minh rất ít trích dẫn nhưng đối với Khổng Tử, Người có riêng hai bài viết đánh giá kỹ và sâu về di sản Khổng Tử, Bác viết bài Khổng Tử lúc Người tráng niên 36 tuổi khi sự phê phán Khổng Tử đang lên cao trào, Bác viết bài thơ “Thăm Khúc Phụ” lúc Bác 74 tuổi và là bài thơ cuối cùng của Người viết về Khổng Tử. Đó là hai thời điểm quan trọng trong đời người để đánh giá đúng mức về một con người. Hồ Chí Minh trong tư cách là một chính khách với tầm nhìn lịch sử đã chú trọng Khổng Tử về đạo đức nhiều hơn là chính trị. Bác nói: “Chúa Giêsu dạy: Đạo đức là bác ái. Phật Thích Ca dạy: Đạo đức là từ bi. Khổng Tử dạy: Đạo đức là nhân nghĩa” (Báo Nhân Dân ngày 14/6/1951).

                Sự tu dưỡng đạo đức cá nhân và tự nguyện thực hành trọn đời của Hồ Chí Minh về “cần kiệm liêm chính, chí công vô tư” là có noi theo Khổng Tử.

                Viết về Khổng Tử lúc này liệu có thức thời không? khi nhiều trường đại học phương Tây quyết định chia tay với các trung tâm Khổng Tử vì lo ngại họ bị chính quyền Trung Quốc can thiệp thái quá (BBC 13.1.2015). Vào tháng 8 năm 2018,Tổng thống Mỹ Trump đã ký đạo luật Ủy quyền Quốc phòng (NDAA), yêu cầu Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ chấm dứt tài trợ chương trình tiếng Hoa tại các trường đại học có Viện Khổng Tử của Trung Quốc. Viện Khổng Tử ở Mỹ lần lượt đóng cửa. Viện Khổng Tử do Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) chịu sự quản lý của Tổng bộ Viện Khổng Tử và Bộ Giáo dục Trung Quốc, do Ban Tuyên giáo ĐCSTQ tài trợ. ĐCSTQ chịu trách nhiệm chính về các khóa học, hoạt động, chi phí và nhân viên của Viện Khổng Tử. Ra mắt tại Hoa Kỳ lần đầu tiên vào năm 2004, đến nay có hơn 100 trường đại học ở Hoa Kỳ đã thành lập Viện Khổng Tử. Các trường đại học Mỹ ở Hoa Kỳ đang lần lượt đóng cửa Viện Khổng Tử vì buộc phải đưa ra lựa chọn giữa tài trợ của chính phủ liên bang và tài trợ của chính quyền Trung Quốc.

                Việt Nam ngày nay có những hiểm họa và thời cơ khó lường đang gây nên sóng gió dư luận. Đó là những động thái của chính phủ Trung Quốc đối với biển Đông, là quyền lực ‘cây gậy và củ cà rốt’ của các bẫy nước thượng nguồn sông Mekong và sông Hồng, ‘bẫy nợ’ của các dự án “vàXem tiếp >>

                  Dạy và học 19 tháng 7(18-07-2021)

                DẠY VÀ HỌC 19 THÁNG 7
                Hoàng Kim

                CNM365 Tình yêu cuộc sốngCOVID-19 tại Việt Namhttps://www.moh.gov.vn/; Việt Nam tổ quốc tôi; Chuyện cổ tích người lớn; Đến với Tây Nguyên mới; Chuyện cô Trâm lúa lai; Nhớ tháng bảy mưa ngâu; Dạy và học để làm; Ngày 18 tháng 7 năm 1888, Tổng thống Pháp Marie François Sadi Carnot ký sắc lệnh thành lập thành phố Hà Nội và Hải Phòng (hình) thành phố biển Việt Nam tại Liên bang Đông Dương. Từ trái sang phải theo chiều kim đồng hồ: Tượng nữ tướng Lê Chân, Nhà hát Thành phố, Đảo Cát Bà , Cảng Hải Phòng, Hoa phượng đỏ , Central Park Hải Phòng. Ngày 19 tháng 7 năm 1900, Tuyến đầu tiên của hệ thống tàu điện ngầm Métro Paris bắt đầu hoạt động, kết nối nhiều địa điểm diễn ra triển lãm thế giới. Ngày 19 tháng 7 năm 1947, ngày mất bà Cả Mọc Hoàng Thị Uyên, nữ doanh nhân, nhà từ thiện và là người thành lập nhà nuôi dưỡng trẻ miễn phí đầu tiên tại Hà Nội, trước năm 1945;  Bài chọn lọc ngày 19 tháng 7: Việt Nam tổ quốc tôi; Chuyện cổ tích người lớn; Đến với Tây Nguyên mới; Chuyện cô Trâm lúa lai; Nhớ tháng bảy mưa ngâu; Dạy và học để làm; Một vùng trời nhân văn; Trăng rằm sen Tây Hồ; Hoàng Thành ngọc cho đời; Đêm Yên Tử; Nhớ bạn nhớ châu Phi; Hải Như thơ về Người; Câu chuyện ảnh tháng Bảy; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/ và http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-19-thang-7/;

                VIỆT NAM TỔ QUỐC TÔI
                Hoàng Tố Nguyên
                , Hoàng Long, Hoàng Kim

                Việt Nam là một đất nước yêu độc lập, tự do, hạnh phúc. Đất nước Việt Nam hình chữ S, nằm ở trung tâm khu vực Đông Nam Á, ở phía đông bán đảo Đông Dương, phía bắc giáp Trung Quốc, phía tây giáp Lào, Campuchia, phía đông nam trông ra biển Đông và Thái Bình Dương. Việt Nam có diện tích 331.211,6 km², Dân số hiện tại của Việt Nam là 98.169.571 người vào ngày 01/07/2021 theo số liệu mới nhất từ Liên Hợp Quốc; Việt Nam đang đứng thứ 15 trên thế giới trong bảng xếp hạng dân số các nước và vùng lãnh thổ.Mật độ dân số của Việt Nam là 317 người/ km²; 37,34% dân số sống ở thành thị (36.346.227 người vào năm 2019) (Nguồn: https://danso.org/viet-nam/). Thủ đô là Hà Nội. Ba thành phố chính nổi tiếng nhất của Việt Nam là Hà Nội, Huế và thành phố Hồ Chí Minh. Bờ biển Việt Nam dài 3 260 km, biên giới đất liền dài 4 510 km. Trên đất liền, từ điểm cực Bắc đến điểm cực Nam (theo đường chim bay) dài 1 650km, từ điểm cực Đông sang điểm cực Tây nơi rộng nhất 600km (Bắc bộ), 400 km (Nam bộ), nơi hẹp nhất 50km (Quảng Bình). Kinh tuyến Việt Nam từ 102º 08′ đến 109º 28′ đông,Vĩ tuyến Việt Nam từ 8º 02′ – 23º 23′ bắc. Việt Nam là đầu mối giao thông từ Ấn Độ Dương sang Thái Bình Dương. Khí hậu Việt Nam là khí hậu của nước nhiệt đới gió mùa; Địa hình lãnh thổ Việt Nam phần đất liền bao gồm 3 phần 4 là đồi núi; Tài nguyên Việt Nam có những nguồn tài nguyên vô cùng phong phú như tài nguyên rừng, tài nguyên thủy hải sản, tài nguyên du lịch và nhiều loại khoáng sản đa dạng, nhưng trên hết, trước hết đó là tài nguyên con người hiền hòa, thân thiện, anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang, năng động, sáng tạo, sống có trách nhiệm với mái nhà chung Trái Đất, thích làm bạn với nhân dân thế giới.  Phân cấp hành chính Việt Nam hiện nay theo Điều 110 Hiến pháp 2013 [1] và Điều 2 Luật Tổ chức chính quyền địa phương[2] gồm 3 cấp hành chính là cấp tỉnh, cấp huyện cấp xã; ngoài ra còn có đơn vị hành chính kinh tế đặc biệt do Quốc hội thành lập. Việt Nam sau nhiều lần chia tách và nhập lại, tính đến nay, có 63 đơn vị hành chính cấp Tỉnh, bao gồm 5 thành phố trực thuộc trung ương (Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng, Cần Thơ) và 58 tỉnh (tương ứng với chữ số được đánh dấu trên “bản đồ Hành chính Việt Nam“) và một thoáng nhìn toàn cảnh tại Bảy vùng sinh thái kinh tế nông nghiệp Việt Nam (hình 2 và 3).

                Hình 3: Bản đồ Hành chính Việt Nam

                Việt Nam Tổ quốc tôi  Nong Lam University in Ho Chi MinhDạy và HọcCây Lương thực Việt NamCNM365Tình yêu cuộc sống đúc kết thông tin Việt Nam Đất nước Con người, Ngôn ngữ Nông nghiệp Du lịch Sinh thái, Lịch sử Địa lý Giáo dục Văn hóa, Kinh tế Xã hội Truyền Thông Ebook. Thông tin VIỆT NAM HỌC được trích dẫn từ Wikipedia tiếng Việt và các nguồn liên quan tới 1 tháng 7 năm 2021

                Nông nghiệp sinh thái Việt
                Di sản thế giới tại Việt Nam
                Du lịch sinh thái Việt
                Vườn Quốc gia Việt Nam
                Nông nghiệp công nghệ cao
                Nông nghiệp Việt trăm năm
                Ngôn ngữ văn hóa Việt
                Dạo chơi non nước Việt

                DU LỊCH SINH THÁI VIỆT

                Tiếng Việt văn hóa kinh tế 学中越文 Tổng quan văn hoá và kinh tế xã hội Việt Nam 越南社会经济和文化概述 là tập bài giảng về du lịch sinh thái nông nghiệp Việt Nam, một môn học giao lưu du lịch sinh thái nông nghiệp ngôn ngữ văn hóa Việt Nam Trung Quốc. Ngày nay các nước trên thế giới đang đối mặt với một cơ hội và thách thức chiến tranh và hòa bình là sự an toàn sinh thái ảnh hưởng trực tiếp đến an toàn quốc gia và an sinh toàn cầu. Sự biến đổi mới môi trường toàn cầu và sự phát triển lớn lao của sự nghiên cứu đất nước con người học du lịch sinh thái nông nghiệp văn hóa kinh tế ngôn ngữ là đặc biệt cấp thiết cho sự đối thoại trực tuyến của lớp trẻ khát khao hiểu biết. Bài giảng này mục tiêu nhằm cung cấp một kiến thức nền tảng ‘Việt Nam Học’ thật giản dị, cấp thiết và lắng đọng về phẩm chất văn hóa thân thiện, tốt đẹp, văn hiến của con người đất nước Việt Nam. Người Việt, tiếng Việt và nông nghiệp Việt Nam là ba di sản quý của nhân dân ta, dân tộc ta, cấp thiết phải bảo tồn và phát triển. Tài liệu này dần liên tục hoàn thiện.

                Nông nghiệp là một trong ba ngành kinh tế Việt Nam: 1) Nông lâm thủy sản; 2) Công nghiệp , bao gồm: khai thác khoáng sản, công nghiệp chế biến, công nghiệp vật liệu xây dựng, sản xuất phân phối khí, điện, nước,…; 3) Thương mại, dịch vụ, tài chính, du lịch, văn hóa, giáo dục, y tế. Tỷ lệ phần trăm các ngành này đóng góp vào tổng GDP, ước tính năm 2015 là: Nông nghiệp 17.4% Công nghiệp 38.8% Dịch vụ 43.7%.

                Nội dung bài Du lịch sinh thái nông nghiệp Việt Nam có 7 ý chính: 1) Nông nghiệp là nền tảng của kinh tế Việt Nam. 2) Bảy vùng sinh thái nông nghiệp Việt Nam; 3) Đặc điểm bảy vùng sinh thái nông nghiệp Việt Nam; 4) Hiện trạng tầm nhìn lao động nông nghiệp Việt Nam;  5) Du lịch sinh thái nông nghiệp Việt Nam; 6) Nông nghiệp Việt Nam ngày nay. 7) Việt Nam điểm đến yêu thích của bạn

                I. Nông nghiệp là nền tảng của kinh tế Việt Nam

                1.1 Người Việt trọng nông 
                Thành ngữ Việt Nam: “dĩ nông vi bản” (lấy nghề nông làm gốc). Nông nghiệp là nền tảng của kinh tế Việt Nam vì đất nước là môi trường sống, thức ăn là căn bản của đời sống con người. Việt Nam là chốn tổ của nền văn minh lúa nước với các di tích khảo cổ về người tiền sử và các nền văn hóa Hòa Bình, Bắc Sơn gần 10.000 năm trước Công nguyên đã chứng tỏ sự xuất hiện của nông nghiệp và chăn nuôi. Nông nghiệp Việt Nam ngày nay đang vượt ra khỏi sản xuất nông nghiệp truyền thống không chỉ tạo ra lương thực thực phẩm cho con người (food) thức ăn cho các con vật (feed) mà còn là nguyên liệu của các ngành công nghiệp may mặc, sợi dệt, chất đốt, cây cảnh và sinh vật cảnh, chất hóa học, cơ giới hóa nông nghiệp,  sinh hóa học nông nghiệp. các loại phân bón, thuốc trừ sâu, diệt cỏ.

                1.2 Người Việt Tiếng Việt Nông nghiệp
                Ba di sản lớn nhất  Việt Nam cần bảo tồn và phát triển.Việt Nam là Người Việt, Tiếng Việt và Nông nghiệp .

                Người Việt
                Việt Nam là đất nước của 54 dân tộc và 1 nhóm “người nước ngoài”, trong
                Danh mục các dân tộc Việt Nam, theo Quyết định số 421, ngày 2/3/1979 Tổng cục Thống kê). Người Việt. chủ yếu là người Kinh (chiếm 86,2 % dân số) sinh sống trên khắp toàn thể nước Việt Nam và một số nước khác nhưng đông nhất vẫn là các vùng đồng bằng và thành thị trong nước. Người Kinh sống rải rác trên khắp lãnh thổ Việt Nam, nhưng tập trung nhiều nhất ở các đồng bằng và châu thổ các con sông. 53 dân tộc Việt Nam thiểu số còn lại sinh sống chủ yếu ở miền núi và trung du, trải dài từ Bắc vào Nam; hầu hết trong số họ sống xen kẽ nhau, điển hình là cộng đổng dân tộc thiểu số ở phía Bắc và Bắc Trung Bộ. Các dân tộc thiểu số đông dân và có số lượng dao động trên dưới một triệu người gồm Tày, Thái, Mường, Khmer, H’Mông,  Nùng, Hoa, người Dao, Gia Rai, Ê Đê, Chăm, Sán Dìu, Ra Glai,  Đa số các dân tộc này sống ở miền núi và vùng sâu vùng xa ở miền Bắc, Tây Nguyên, miền Trung và đồng bằng sông Cửu Long. Các dân tộc dân số ít nhất chỉ trên 300 người như Brâu, Ơ đu và Rơ Măm.  Các dân tộc thiểu số có trình độ phát triển không đồng đều. Ở Trung du và miền núi phía Bắc, các cư dân ở vùng thấp như Mường, Thái, Tày, Nùng sinh sống chủ yếu bằng canh tác lúa nước và nương rẫy, chăn nuôi gia súc và gia cầm, có một phần hái lượm, săn bắn, có nghề thủ công khá tinh xảo. Các dân tộc thiểu số ở phía Nam sống biệt lập hơn. Các dân tộc thiểu số ởTây Nguyên phần lớn sống theo tổ chức buôn-làng, kiếm sống dựa vào thiên nhiên mang tính tự cung tự cấp. Người dân tộc Chăm, Hoa và Khmer sống ở vùng duyên hải miền Trung và Nam Bộ có trình độ phát triển cao hơn, tạo thành những cụm dân cư xen kẽ với người Kinh.  Tất cả các nhóm dân tộc đều có nền văn hóa riêng biệt và độc đáo. Tín ngưỡng và tôn giáo của các dân tộc cũng khác biệt.

                Tiếng Việt

                là ngôn ngữ chính tiếng nói theo nhóm Việt-Mường Ngôn ngữ Việt gồm 8 nhóm tiếng nói: Việt-Mường; Tày-Thái; Dao-Hmông; Tạng-Miến; Hán; Môn-Khmer; Mã Lai-Đa đảo: hỗn hợp Nam Á, khác).

                Nông nghiệp Việt Nam

                là môi trường sống và nôi văn hóa Việt. Người Việt bản địa là chủ nhân của nền văn hóa thời đồ đá tại Việt Nam từ 7.000 -20.000 năm trước. Người Việt là chủ nhân của tiếng Việt và nền văn minh lúa nước, chốn tổ của nghề trồng lúa nước trên thế giới. Các dân tộc Việt khác với cộng đồng ít người hơn có nguồn gốc thiên di từ Tây Tạng, Hoa Nam,… di cư đến Việt Nam sau thời kỳ đồ đá muộn.

                1.3. Nông nghiệp Việt Nam là sớm nhất, căn bản nhất, giá đỡ của kinh tế Việt
                Quá trình hình thành dân tộc và nông nghiệp Việt Nam theo các tài liệu phổ biến trong thế kỷ XX thì có thể chia thành ba giai đoạn:

                1. Vào thời kỳ đồ đá giữa khoảng 20.000-10.000 năm trước, có một bộ phận thuộc Đại chủng Á, sống ở tiểu lục địa Ấn Độ di cư về phía đông, tới vùng ngày nay là Đông Dương thì dừng lại. Tại đây, bộ phận của Đại chủng Á kết hợp với bộ phận của Đại chủng Úc bản địa và kết quả là sự ra đời của chủng Cổ Mã Lai.
                2. Cuối thời kỳ đồ đá mới, đầu thời kỳ đồ đồng khoảng 5.000 năm trước, chủng Cổ Mã Lai tiếp xúc thường xuyên với Đại chủng Á từ phía bắc tràn xuống,  hình thành chủng Nam Á
                3. Chủng Nam Á tại khu vực bắc Việt Nam và nam Trung Quốc (từ sông Dương Tử trở xuống) mà cổ thư Việt Nam và Trung Hoa gọi là Bách Việt. Ban đầu, họ nói một số thứ tiếng như: Môn-Khmer, Việt-Mường, Tày-Thái, H’Mông-Dao,… Sau này quá trình chia tách này tiếp tục để hình thành nên các dân tộc và các ngôn ngữ như ngày nay. Phía nam Việt Nam, dọc theo dải Trường Sơn, trong khi đó, vẫn là địa bàn cư trú của người Cổ Mã Lai. Theo thời gian họ chuyển biến thành chủng Nam Đảo. Đó là tổ tiên của các dân tộc thuộc nhóm Chăm. Người Việt theo truyền thuyết dân tộc Kinh là con cháu của một thần rồng tên là Lạc Long Quân và một vị tiên tên là Âu Cơ. Hai người này lấy nhau và đẻ ra một bọc 100 trứng và nở ra 100 người con. Những người con sinh ra cùng một bọc gọi là “cùng bọc” (hay còn gọi là đồng bào) và “đồng bào” là cách gọi của người Việt để nói rằng tất cả người Việt Nam đều cùng có chung một nguồn gốc. Về nhân chủng học, có hai luồng quan điểm về nguồn gốc của người Việt. Một số học giả tin rằng người Việt đầu tiên dần dần chuyển từ quần đảo Indonesia thông qua bán đảo Mã Lai và Thái Lan cho đến khi họ định cư trên các cạnh của sông Hồng ở Đồng bằng Bắc Bộ bằng cách lần theo con đường của các công cụ đá từ cuối Thế Pleistocen (600,000-12,000 trước Công nguyên), trên Java, Malaysia, Thái Lan và phía bắc Miến Điện. Những công cụ bằng đá được cho là các công cụ con người đầu tiên được sử dụng trong khu vực Đông Nam Á. Các nhà khảo cổ tin rằng vào thời điểm này Hy Mã Lạp Sơn, một dãy núi ở miền bắc Miến Điện và Trung Quốc, tạo ra một rào cản băng giá cô lập người dân Đông Nam Á. Một số khác cho rằng người Việt đầu tiên vốn là một bộ tộc gốc Mông Cổ ở Tây Tạng, di cư xuống phía nam từ thời đồ đá cũ. Nhóm dân tộc này định cư tại vùng Bắc Bộ, thượng nguồn sông Hồng ngày nay và tạo nên nền văn minh Đông Sơn. Nhóm bộ tộc này cũng có sự tương đồng rất lớn về nhân chủng, văn hóa với các tộc người ở phía Nam Trung Quốc, mà sử Trung Quốc còn gọi là cộng đồng Bách Việt.

                Tiếng Việt là ngôn ngữ của người Việt (người Kinh) và là ngôn ngữ chính thức tại Việt Nam. Đây là tiếng mẹ đẻ của khoảng 85% dân cư Việt Nam, cùng với hơn bốn triệu người Việt hải ngoại. Tiếng Việt còn là ngôn ngữ thứ hai của các dân tộc thiểu số tại Việt Nam. Mặc dù tiếng Việt có một số từ vựng vay mượn từ tiếng Hán và trước đây dùng chữ Nôm, một hệ chữ dựa trên chữ Hán để viết nhưng tiếng Việt được coi là một trong số các ngôn ngữ thuộc ngữ hệ Nam Á có số người nói nhiều nhất (nhiều hơn một số lần so với các ngôn ngữ khác cùng hệ cộng lại) có nguồn gốc với ngôn ngữ Nam Á về mặt từ vựng kết hợp với ngôn ngữ Tày-Thái về mặt thanh điệu. Ngày nay, tiếng Việt dùng bảng chữ cái Latinh, gọi là chữ Quốc ngữ (do Alexandre de Rhodes sáng lập), cùng các dấu thanh để viết.  Tiếng Việt trong quá trình phát triển đã tiếp thu và đồng hoá nhiều từ Hán thành từ Hán-Việt, và tiếp thu một số lượng khá lớn các từ khoa học kỹ thuật của các ngôn ngữ Pháp, Nga, Anh từ đầu thế kỷ 20 đến nay.


                Người
                Việt, tiếng Việt và ngữ hệ Nam Á (Hoàng Tố Nguyên và ctv. 2018).

                Ngữ hệ Nam Á là một tổng hợp bao gồm khoảng 168 ngôn ngữ tại miền nam của châu Á, tập trung tại Đông Nam Á và rải rác tại Ấn Độ cùng Bangladesh. Ngôn ngữ có nhiều người dùng nhất trong hệ thống này là tiếng Việt, với trên 80 triệu người, sau đó là tiếng Khmer, với khoảng 16 triệu người. Trong các ngôn ngữ của ngữ hệ Nam Á  thì  tiếng Việt, tiếng Khmer và tiếng Môn là có lịch sử được ghi chép lại lâu dài và tiếng Việt là ngôn ngữ chính thức tại Việt Nam.

                Nông nghiệp Việt Nam gắn liền với Lịch sử Việt Nam. Người Việt tiền sử sinh sống tại đất Việt thì đã có hàng vạn năm trước công nguyên, còn tính từ khi cơ cấu nhà nước được hình thành thì khoảng từ năm 2879 TCN đến nay (năm 2018) là 4897 năm (gần 5000 năm) Tại Việt Nam các nhà khảo cổ đã tìm thấy các di tích chứng minh loài người đã từng sống từ nền văn hóa Tràng An, Ngườm, Sơn Vi và Soi Nhụ thời kỳ Đồ đá cũ. Trong nền văn hóa Hòa Bình, văn hóa Bắc Sơn thời kỳ Đồ đá mới; văn hóa Phùng Nguyên ở xã Kinh Kệ huyện Lâm Thao tỉnh Phú Thọ thuộc sơ kỳ thời đại đồ đồng, cuối thời đại đồ đá mới, cách đây chừng 4.000 năm đến 3.500 năm; Văn hóa Đồng ĐậuVăn hóa Gò Mun ở thời đại đồ đồng, cách đây khoảng 3000 năm, di chỉ tại khu di tích Đồng Đậu ở thị trấn Yên Lạc, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc, người tiền sử tại vùng này đã phát triển chăn nuôi, nông nghiệp, đặc biệt là kỹ thuật trồng lúa nước.Văn hóa Đông Sơn, Văn hóa Sa Huỳnh, và Văn hóa Óc Eo khoảng 1200 TCN, cách ngày nay 3218 năm, đã có sự phát triển của kỹ thuật trồng lúa nước và đúc đồ đồng trong khu vực sông Mã và đồng bằng sông Hồng đã dẫn đến sự phát triển của nền văn hóa Đông Sơn, nổi bật với các trống đồng. Các vũ khí, dụng cụ và trống đồng được khai quật của văn hóa Đông Sơn minh chứng cho việc kỹ thuật đúc đồ đồng bắt nguồn từ đây, nhiều mỏ đồng nhỏ xưa đã được khai quật ở miền Bắc Việt Nam. Ở đây các nhà khảo cổ đã tìm thấy quan tài và lọ chôn hình thuyền, nhà sàn, và bằng chứng về phong tục ăn trầu và nhuộm răng đen. Những người Việt tiền sử trên vùng đồng bằng sông Hồng đã trồng lúa, trồng trọt và đắp đê chống nước lụt đã tạo nên nền văn minh lúa nước và văn hóa làng xã.

                Nhà nước Văn Lang của các vua Hùng người Việt đã xuất hiện nhà nước đầu tiên trên miền Bắc Việt Nam ngày nay vào thời kỳ đồ sắt, vào khoảng thế kỷ VII TCN với truyền thuyết Con Rồng cháu Tiên mà người Việt Nam tự hào truyền miệng từ đời này qua đời khác.

                Nông nghiệp Việt Nam là căn bản nhất, giá đỡ của kinh tế Việt, hiển nhiên đến mức mọi người dân Việt đều hiểu, không cần phải phân tích.

                II. Bảy vùng sinh thái nông nghiệp Việt Nam

                Nông nghiệp Việt Nam liên quan chặt chẽ với bảy vùng sinh thái nông nghiệp:

                1. Vùng núi và trung du phía Bắc, có tiểu vùng Tây Bắc gồm 4 tỉnhLai Châu, Điện Biên, Sơn La, Hoà Bình., với tiểu vùng Đông Bắc: gồm 11 tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Quảng Ninh, Bắc Giang, Lào Cai, Yên Bái, Hà Giang, Tuyên Quang, Phú Thọ.
                2. Vùng đồng bằng sông Hồng: gồm 11 tỉnh Hải Phòng, Hải Dương, Bắc Ninh, Hưng Yên, Hà Nội, Hà Tây, Thái Bình, Nam Định, Hà Nam, Ninh Bình, Vĩnh Phúc.
                3. Vùng Bắc Trung bộ: gồm 6 tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên – Huế.
                4. Vùng Nam Trung bộ: gồm 6 tỉnh Đà Nẵng,Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà.
                5. Vùng Tây Nguyên: gồm 5 tỉnh Lâm Đồng, Đắk Nông, Đắc Lắc, Gia Lai, Kon Tum.
                6. Vùng Đông Nam bộ: gồm 8 tỉnh Đồng Nai, Bình Dương, Bình Phước, Tây Ninh, Thành phố Hồ Chí Minh, Ninh Thuận, Bình Thuận, Bà rịa – Vũng Tàu.
                7. Vùng Tây Nam bộ: gồm 13 tỉnh Long An, Bến Tre, Đồng Tháp, Sóc Trăng, Vĩnh Long, Cần Thơ, Hậu Giang, Tiền Giang, Bạc Liêu, Cà Mau, Kiên GiangXem tiếp >>

                    Dạy và học 18 tháng 7(18-07-2021)

                  DẠY VÀ HỌC 18 THÁNG 7
                  Hoàng Kim

                  CNM365 Tình yêu cuộc sốngMột vùng trời nhân văn; Trăng rằm sen Tây Hồ; Hoàng Thành ngọc cho đời; Đêm Yên Tử; Nhớ bạn nhớ châu Phi; Hải Như thơ về Người; Câu chuyện ảnh tháng Bảy; Hà Nội thủ đô Việt Nam  Ngày 18 tháng 7 năm 1888, Tổng thống Pháp Marie François Sadi Carnot ký sắc lệnh thành lập thành phố Hà Nội. Ngày 18 tháng 7 năm 1918, ngày sinh Nelson Mandela , tổng thống Cộng hòa Nam Phi (mất năm 2013). Nelson Mandela là con người huyền thoại của châu Phi, ông sinh ngày 18 tháng 7 năm 1918, mất ngày 5 tháng 12, 2013. Ông làm Tổng thống Nam Phi 5 năm từ năm 1994 đến 1999, và là tổng thống Nam Phi đầu tiên được bầu cử dân chủ theo phương thức phổ thông đầu phiếu. Nelson Mandela là nhà hoạt động chống chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, và là người đứng đầu phái vũ trang của Đảng Đại hội Dân tộc Phi (ANC). Mandela đã trải qua 27 năm trong lao tù, phần lớn thời gian là ở tại Đảo Robben. Sau khi được trả tự do và trong nhiệm kỳ tổng thống của mình từ năm 1994 đến 1999, Mandela thường ưu tiên cho vấn đề hòa giải dân tộc.Tại Nam Phi, Mandela được biết tới như là một già làng với tước hiệu cao quý Madiba, mà bộ lạc của ông thường trao cho những già làng. Mandela đã nhận hơn 250 giải thưởng trong hơn bốn thập niên, trong đó có Giải Nobel Hòa bình năm 1993. Ngày 18 tháng 7 năm 1933, ngày sinh nhà thơ Nga Yevgeny Yevtushenko là một trong những nhà thơ lớn nhất của Nga trong thế kỉ 20;  Bài chọn lọc ngày 18 tháng 7: Một vùng trời nhân văn; Trăng rằm sen Tây Hồ; Hoàng Thành ngọc cho đời; Đêm Yên Tử; Nhớ bạn nhớ châu Phi; Hải Như thơ về Người; Câu chuyện ảnh tháng Bảy; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-18-thang-7/;

                  MỘT VÙNG TRỜI NHÂN VĂN
                  Hoàng Kim

                  Gương trời lồng lộng ban mai
                  Thung dung ta đến vùng trời nhân văn
                  Thịnh suy thế nước ngàn năm
                  Anh hùng là kẻ vì dân vì đời.

                  Bên lề chính sử dạo chơi
                  Rùa ơi thương Cụ biết nơi chọn về.
                  Kỳ Lân mộ, Tháp Rùa bia
                  Bia đời, bia miệng khắc ghi lòng người.

                  Tìm nơi tỉnh lặng ta ngồi
                  Tình yêu cuộc sống là nơi thư nhàn
                  Câu thơ lưu lạc trần gian.
                  Hoàng Thành Cổ Kiếm Hồ Gươm gọi về.

                  Vị trí Hồ Gươm trong bản đồ đời Nguyễn và Rùa Hồ Gươm

                  (*) Vùng trời nhân văn :Nguyễn Du thơ ‘Kỳ Lân Mộ” tại “Bắc Hành tạp lục” là kiệt tác văn chương, thấu tình đạt lý, sức mạnh như một đạo quân, đã làm thay đổi chính sách của  vua Thanh và danh tướng Phúc Khang An tổng đốc Lưỡng Quảng, thay vì báo thù rửa hận cho Tôn Sĩ Nghị, đã giữ hòa hiếu lâu dài với Việt Nam. Nguyễn Du là bậc anh hùng quốc sĩ, kỳ tài hiếm có của dân tộc Việt. Nguyễn Du là bậc anh hùng

                  KỲ LÂN MỘ
                  Nguyễn Du

                  Phương Chi Yên Đệ người thế nào?
                  Cướp ngôi của cháu, đồ bất nhân.
                  Mỗi khi nổi giận giết mười họ,
                  Cổn to vạc lớn hại trung thần
                  Năm năm giết người hơn trăm vạn
                  Xương chất thành núi máu chảy tràn
                  Nếu bảo thánh nhân Kỳ Lân xuất
                  Buổi ấy sao không đi về Nam?

                  Nguyên văn chữ Hán

                  Hà huống Yên Đệ hà như nhân
                  Đoạt điệt tự lập phi nhân quân
                  Bạo nộ nhân sinh di thập tộc
                  Đại bỗng cự hoạch phanh trung thần
                  Ngũ niên sở sát bách dư vạn
                  Bạch cốt thành sơn địa huyết ân
                  Nhược đạo năng vị Thánh nhân xuất

                  xem tiếp
                  https://hoangkimlong.wordpress.com/category/mot-vung-troi-nhan-van/

                  DemNguyenTieu

                  TRĂNG RẰM SEN TÂY HỒ
                  Hoàng Kim

                  Trăng sáng lung linh, trăng sáng quá!
                  Đất trời lồng lộng một màu trăng
                  Dẫu đêm khuya vắng người quên ngắm
                  Trăng vẫn là trăng, trăng vẫn rằm.

                  Rằm Tháng Giêng năm 1994 gần nửa đêm là lúc mất của anh hai tôi Hoàng Ngọc Dộ, cũng là thời khắc tôi chào đời Rằm Tháng Giêng năm Giáp Ngọ 1954. Anh hai tôi lúc sinh thời có bài thơ Cuốc đất đêm, sau nay tôi tích hợp vào bài thơ Ta hẹn em uống rượu ngắm trăng.

                  Bài tứ tuyệt “Trăng rằm sen Tây Hồ” được anh Gia Dũng chọn đưa vào “Ngàn năm thương nhớ” tuyển thơ Thăng Long Hà Nội (1010-2010) và anh Nguyễn Chu Nhạc có bài thơ Con chim xanh với bảy chữ xanh ngẫu đối với bảy chữ trăng trong “Trăng rằm sen Tây Hồ”; Nhà thơ Nguyễn Lâm Cúc có chùm thơ Đãi trăng, Không hẹn hò đời hóa hoang vu; Hát vu vơ thật hay. Cậu Hoàng Gia Cương đã bảo tồn bài thơ “Hồ Gươm” của ông Minh Sơn Hoàng Bá Chuân là em ruột của bà ngoại tôi với cậu tôi là bài “Rùa ơi”. Tôi chép chung về trang này; xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/trang-ram-sen-tay-ho/

                  HOÀNG THÀNH NGỌC CHO ĐỜI
                  Hoàng Kim

                  1
                  Hứng mật đời
                  thành thơ,
                  việc nghìn năm hữu lý
                  Trạng Trình.

                  Đến Trúc Lâm
                  đạt năm việc lớn Hoàng Thành
                  Ngọc cho đời
                  Phước Đức

                  2
                  Vui đi dưới mặt trời
                  Một niềm tin thắp lửa
                  Một niềm vui ngày mới
                  Giấc mơ lành yêu thương.

                  3
                  Một đóa mai vàng sinh nhật
                  Một lời ấm áp tình thân
                  Một Biển Hồ soi bóng nắng
                  Một Giác Tâm xa mà gần.

                  4
                  Em đi chơi cùng Mẹ
                  Trăng rằm vui chơi giăng
                  Thảo thơm vui đầy đặn
                  Ân tình cùng nước non.

                  Trăng khuyết rồi lại tròn
                  An nhiên cùng năm tháng
                  Ơi vầng trăng cổ tích
                  Soi sáng sân nhà em.

                  Đêm nay là đêm nao?
                  Ban mai vừa ló dạng
                  Trăng rằm soi bóng nắng
                  Bạch Ngọc trời phương em.

                  5

                  Trăng sáng lung linh, trăng sáng quá!
                  Đất trời lồng lộng một màu trăng
                  Dẫu đêm khuya vắng người quên ngắm
                  Trăng vẫn là trăng, trăng vẫn rằm

                  Cây mầm xanh người và cây cùng cảnh
                  Lớn âm thầm trong chất phác chân quê
                  Hoa và Ong Hoa Người cần mẫn
                  Mai đào thơm nước biếc lộc xuân về.

                  ĐÊM YÊN TỬ
                  Hoàng Kim


                  Nhà thơ Trần Đăng Khoa khuyến khích tôi viết về Đêm Yên Tử. Tôi cũng tự nhận thấy, đây là một trong những trãi nghiệm quý giá nhất đời mình nhưng mãi đến nay mới tỉnh thức được đôi điều. Hôm trước tôi đã phác thảo bài này trong “Sách Nhàn đọc dấu câu có câu không” và phác thảo Đêm Yên Tử trên facebook Notes. Nay nhân đọc “Gai và Hoa” (1) của Thu Nguyệt và họa vần “Dịu dàng hoa cỏ” (
                  Thu Nguyệt VN) , một tấm lòng nhân hậu và cây bút vàng rất được yêu thích một thời ở báo Tuổi trẻ và nay “tu tại tâm” làm những công việc mẫu mực thầm lặng hoa cỏ đời thường Tâm Minh giáo dưỡng trẻ thơ. Tôi xin chép về đây Đêm Yên Tử để trò chuyện cùng thầy bạn.

                  @Hoàng Kim Cám ơn bác đã yêu quý cậu Khoa. Nhưng chuyện đã qua lâu rồi, chúng ta hãy để cậu “yên giấc ngàn thư”, vì cu cậu cũng đã xong phận sự. Tôi chỉ tò mò, sao bác lên Yên Tử giữa đêm? Bác lại có nhiều vốn liếng về Yên Tử và Trần Nhân Tông, giá bác làm thơ hay viết bút ký, tùy bút về Đêm Yên Tử thì hay biết mấy. Đặc biệt là không khí Yên Tử. Đã có nhiều bài thơ, ca khúc rất hay viết về vùng đất này. Thêm một tấm lòng và góc nhìn nữa của Hoàng Kim cũng sẽ làm cho Yên Tử phong phú thêm đấy. ( * Phản hồi từ:
                  TRẦN ĐĂNG KHOA [Bạn đọc] http://Blogtiengviet.net/Lão Khoa 30.09.11@07:28)

                  Cảm ơn Trần Đăng Khoa đã khuyến khích mình viết về Yên Tử. Hôm trước Bùi Anh Tấn, tác giả của cuốn sách Đàm đạo về Điếu Ngự Giác Hoàng (Trần Nhân Tông) 405 trang, được nhiều người yêu thích, cũng đã khuyến khích mình như ý của Khoa . Mình sẽ cố gắng và rất mong được sư góp ý thẩm định của các bạn.

                  ĐÊM YÊN TỬ NGHĨ VỀ CÔN SƠN

                  Tôi viết cảm nhận này trực tiếp trên trang mạng của Khoa . Ý nghĩ chảy nhanh ra đầu bút. Tôi đang đánh máy bài thơ Em kể chuyện này chưa kịp lưu thì cảm nhận của Khoa hiện ra: “@Hoang Kim. Cám ơn bác đã cho tôi những tư liệu rất hay về nhà thơ Xuân Diệu. Động tác và tính cách là rất chuẩn. Xuân Diệu đúng như vậy. Hy vọng dịp nào chúng ta gặp nhau. Chúc bác thành công trong sự nghiệp Dạy và Học”.

                  Hãy khoan, Khoa ơi để mình kể bạn nghe chuyện Đêm Yên Tử nghĩ về Côn Sơn nhé. Mình ám ảnh chuyện này quá. Chuyện này ví như: Sự ghi ơn người khai sinh chữ quốc ngữ; Nguyễn Du đâu chỉ đại thi hào; Hồ Chí Minh rất ít trích dẫn; Bác có nhầm lẫn kẻ phi thường; Qua đèo chợt gặp mai đầu suối, Tâm linh đọc lại và suy ngẫm … Đó đều là những bí ẩn lịch sử cần người minh triết để thấu hiểu để trao lại… Mình nếu như không viết được vào ô cảm nhận này, vào chính thời điểm này thì hình như ít người hiểu thấu. Đêm Côn Sơn của Khoa là đêm lạ lùng !

                  Đêm Yên Tử nghĩ về Côn Sơn là đêm thiêng kỳ lạ. “Tỉnh thức giữa đêm thiêng Yên Tử. Để thấm hiểu đức Nhân Tông. Ta thành tâm đi bộ . Lên tận đỉnh chùa Đồng. Tâm sáng Ức Trai trong tựa ngọc.” Hình như bí ần của Nhân Tông và Nguyễn Trãi đã mách Khoa ở Đêm Côn Sơn và đã gợi cho mình nhìn thấy một chút dấu hiệu nhận biết để mách cho Khoa và chính mình ghi lại. Thơ văn Lý Trần, Lê, Mạc, đặc biệt là các tác gia Trần Nhân Tông, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan, Đào Duy Từ, Nguyễn Du đều cần những chuyên luận kỹ.

                  Năm trước khi “Chân dung và đối thoại” vừa mới ra lò. Mình nhớ cái chi tiết của Khoa khi nói về Đêm Côn Sơn trong đó có bốn câu:

                  “Ngoài thềm rơi cái lá đa.
                  Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng.
                  Mờ mờ ông bụt ngồi nghiêm.
                  Nghĩ gì ông vẫn ngồi yên lưng đền”.

                  Khoa viết rằng Xuân Diệu khen Khoa nghe tinh, có giác quan tinh tế, và Xuân Diệu đã thay một chữ “nghĩ” cho chữ “sợ”mà ông Bụt hóa thành cơ thể sống, đã thành sự sống. Sự thẩm thơ tinh tưởng của Xuân Diệu là vậy. Ông chỉ thay đổi một chữ mà bài thơ biến đổi cả thần thái. Chữ “nghĩ “ này hay tương tự chữ “đi” trong câu thơ “Trái đất ba phần tư nước mắt/ Đi như giọt lệ giữa không trung” làm đổi thần thái câu thơ “Trôi như giọt lệ giữa không trung” mà Khoa đã bình luận. Mình muốn bình thêm cái ý “thần đồng” nghĩa là “tuổi nhi đồng mà làm được những điều như có thần mách bảo”. Khoa né tránh bình luận chuyện này và viết “bây giờ thì y đã già và dứt khoát không phải là kẻ đắc đạo, vậy mà y vẫn phải còng lưng , ý ạch vác cái cây thánh giá ở lứa tuổi trẻ con.” Thực ra, phải nhìn nhận rằng Khoa có những câu thơ rất quý và rất lạ , lúc trẻ con mà đã viết được những câu “thần đồng” như trên mà người lớn không thể viết nổi.

                  Mình đã có cảm giác thật kỳ lạ khi một mình lúc ba giờ khuya ngồi ở dưới chân Bụt Trần Nhân Tông nơi vòm đá hang cọp phía sau chùa Bảo Sái gần đỉnh chùa Đồng. Nơi đó và giờ đó là lúc Trần Nhân Tông mất. Người từ chùa Hoa Yên lúc nữa đêm đã nhờ Bảo Sái – một danh tướng cận vệ và đại đệ tử thân tín – cõng Người lên đây. Bảy trăm năm sau, giữa đêm thiêng Yên Tử, ngồi một mình trong đêm lạnh, đúng nơi và đúng vào khoảng ba giờ khuya lúc đức Nhân Tông mất, mình lắng nghe tiếng lá cây gạo trên 700 tuổi rơi rất mỏng lúc canh khuya. Bóng của Phật Nhân Tông mờ mờ ngồi nghiêm ngồi yên bình thản lưng đền. Lúc đó vụt hiện trong đầu mình bài kệ “Cư trần lạc đạo” của đức Nhân Tông và bài thơ Yên Tử “đề Yên Tử sơn, Hoa Yên Tự” của Nguyễn Trãi văng vẳng trong thinh không thăm thẳm vô cùng.

                  Bài thơ chiêu tuyết Nguyễn Trãi “đêm Côn Sơn” của Khoa chính hợp với sự kiện này. Tôi phục Khoa quá! Khoa ơi, hãy tin tôi đi. Những câu thơ thần đồng sức người không viết được. Khoa đã may mắn chạm được mạch tâm linh dân tộc, như tiếng đàn bầu ngân lên từ ruột trúc, mới viết được những câu thơ hay và lạ đến thế. Khoa ngẫm xem những câu thơ sau đây của Nguyễn Trãi tả Bình minh trên Yên Tử thật đúng là thần bút: “Non thiêng Yên Tử, đỉnh kỳ phong. Trời mới ban mai đã rạng hồng. Vũ trụ mắt soi ngoài biển cả. Nói cười lồng lộng giữa không trung.” Nguyễn Trãi viết thơ trên đỉnh Yên Tử lúc ban mai. Vậy Người leo núi từ khi nào? Đi từ hôm trước hay đi từ lúc nửa đêm như đức Nhân Tông? E chỉ có Yên Tử trả lời.

                  LÊN NON THIÊNG YÊN TỬ

                  Tỉnh thức giữa đêm thiêng Yên Tử
                  Để thấm hiểu đức Nhân Tông
                  Ta thành tâm đi bộ
                  Lên tận đỉnh chùa Đồng
                  Tâm sáng Ức Trai trong tựa ngọc

                  “Yên sơn sơn thượng tối cao phong
                  Tài ngũ canh sơ nhật chính hồng
                  Vũ trụ nhãn cùng thương hải ngoại
                  Tiếu đàm nhân tại bích vân trung
                  Ủng môn ngọc sóc sâm thiên mẫu
                  Quải ngọc châu lưu lạc bán không
                  Nhân miếu đương niên di tích tại
                  Bạch hào quang lý đổ trùng đồng” (1)

                  Non thiêng Yên Tử đỉnh kỳ phong
                  Trời mới ban mai đã rạng hồng
                  Vũ trụ mắt soi ngoài biển cả
                  Nói cười lồng lộng giữa không trung
                  Giáo ngọc quanh nhà giăng vạn khoảnh
                  Cỏ cây chen đá rũ tầng không
                  Nhân Tông bảo tháp còn lưu dấu
                  Mắt sáng hào quang tỏa ánh đồng. (2)

                  * Non thiêng Yên Tử
                  Nghìn năm Thăng Long, Đông Đô, Hà Nôi
                  Bảy trăm năm đức Nhân Tông
                  Non sông bao cảnh đổi
                  Kế sách một chữ Đồng
                  Lồng lộng gương trời buổi sớm
                  Trong ngần, thăm thẳm, mênh mông …

                  (1) Thơ Nguyễn Trải
                  (2) Bản dịch thơ
                  Hoàng Kim

                  Nửa đêm, ngày Mồng một tháng Mười một năm Mậu Thân (1308), sao sáng đầy trời, Trúc Lâm hỏi: “Bây giờ là mấy giờ?”. Bảo Sát thưa: “Giờ Tý”. Trúc Lâm đưa tay ra hiệu mở cửa sổ nhìn ra ngoài và nói: “Đến giờ ta đi rồi vậy”. Bảo Sát hỏi: “Tôn sư đi đâu bây giờ?”. Trúc Lâm nói: “Mọi pháp đều không sinh. Mọi pháp đều không diệt. Nếu hiểu được như thế. Chư Phật thường hiện tiền. Chẳng đi cũng chẳng lại”. ( trước đó) sách “Tam tổ thực lục”, bản dịch, Tư liệu Viện Khảo cổ học, ký hiệu D 687, trang 12 ghi: “Ngày 18 ngài lại đi bộ đến chùa Tú Lâm ở ngọn núi Kỳ Đặc, Ngài thấy rức đầu. Ngài gọi hai vị tì kheo là Tử Danh và Hoàn Trung lại bảo: ta muốn lên núi Ngoạ Vân mà chân không thể đi được thì phải làm thế nào? Hai vị tỳ kheo bạch rằng hai đệ tử chúng tôi có thể đỡ đại đức lên được. Khi lên đến núi, ngài cảm ơn hai vị tỷ kheo và bảo các ngươi xuống núi tu hành, đừng lấy sự sinh tử làm nhàm sự. Ngày 19 ngài sai thị giả Pháp Không lên am Tử Tiêu ở núi Yên Tử giục Bảo Sát đến ngay núi Ngoạ Vân….. Ngày 21, Bảo Sát đến núi Ngoạ Vân, Ngài thấy Bảo Sát đến mỉm cười nói rằng ta sắp đi đây, sao ngươi đến muộn thế?” Sách Đại Việt sử ký toàn thư, bản dịch, Nhà Xuất Bản Văn hoá Thông tin, 2004, trang 570 chép “Mùa đông tháng 11, … ngày mồng 3, thượng hoàng (Trần Nhân Tông) băng ở Am Ngoạ Vân Núi Yên Tử”.

                  TRÚC LÂM YÊN TỬ VÀ NGHÊ VIỆT

                  “Thầy còn dạo bước cõi tiên. Con ươm mầm sống xanh thêm ruộng vườn. Mang cây lộc trúc về Nam ken dày phên giậu ở miền xa xôi”. Tôi ngưỡng vọng đức Nhân Tông nên mang Trúc Lâm về trồng ở đất phương Nam và cảm khái viết bài thơ Ngọc phương Nam (Am Ngọa Vân) đối họa với Thuyền độc mộc.

                  Am Ngoạ Vân (hay Chùa Ngoạ Vân) nay thuộc thôn Tây Sơn, xã Bình Khê huyện Đông Triều, Quảng Ninh. Chùa nằm ở sườn Nam của ngọn núi cao thuộc dãy núi Yên Tử, núi có tên chữ là Bảo Đài Sơn hay núi Vảy Rồng hoặc Vây Rồng như cách gọi của nhân dân địa phương ngày nay. Chùa nằm ở độ cao khoảng 600m so với mặt nước biển. Đó là những kết quả, tư liệu và bằng chứng khoa học thu được qua quá trình điều tra, khảo sát của Nguyễn Vân Anh ở Viện Khảo cổ học, với tư cách là người trực tiếp tham gia cuộc điều tra nghiên cứu quần thể di tích Ngoạ Vân và Hồ Thiên, xã Bình Khê, Đông Triều Quảng Ninh.

                  Thuyền độc mộc, Ngọc phương Nam

                  Thuyền độc mộc
                  Trịnh Tuyên

                  Quên tên cây
                  làm thuyền
                  Tận cùng nỗi cô đơn-
                  độc mộc! Khoét hết ruột
                  Chỉ để một lần ngược thác
                  bất chấp đời
                  lênh đênh…

                  Ngọc phương Nam
                  Hoàng Kim

                  Hứng mật đời
                  thành thơ
                  Việc nghìn năm hữu lý
                  Trạng Trình Đến trúc lâm
                  Đạt năm việc lớn hoàng thành
                  Đất trời xanh
                  Yên Tử …

                  Vị Thiền sư Trúc Lâm Yên Tử hỏi và tôi trả lời: “- Người đi đâu tối qua? – Con trở về tự thân. – Người thấy gì đêm thiêng? – Con ngộ khi ngày mới. – Đêm Yên Tử là bài học lớn – Tình yêu cuộc sống thật kỳ diệu. Nghê Việt là rồng thiêng ẩn ngữ. Sách Nhàn đọc dấu lúc có lúc không”. YênTử là hình ảnh không lời. Trúc Lâm Yên Tử là tìm lại chính mình.

                  Đọc lại và suy ngẫm “Sách nhàn đọc dấu câu CÓ câu KHÔNG”. Thời nhà Tùy, sách vở chưa có dấu chấm câu. Bình thường vì không có dấu chấm nên một câu văn thường xuất hiện nhiều loại nghĩa khác nhau. Trịnh Ngôn Khánh đọc Luận Ngữ đành sắp xếp lại đặt dấu câu vào trong đó. “Soán Đường là sách mới của tác giả Canh Tân trên trang đọc truyện online. Sống trong thời loạn thế, thân thế khó bề phân biệt. Trong lòng ta không hướng tới phú quý nhưng không biết vì sao phú quý lại liên tục xuất hiện. Đây là một câu chuyện một người hiện đại xuyên Việt về Tùy Đường“. Hoàng Kim đọc chơi trang sách, chợt dưng lại nhớ về đời Trần và đức Nhân Tông “Đường Trần ta lại rong chơi. Vui thêm chút nữa, buồn thôi lại về“. “Sách nhàn đọc dấu câu CÓ câu KHÔNG”, “giấu” hay là “dấu” đây?

                  Hữu cú vô cú -有句無句- của Trần Nhân Tông
                  Nguyên văn chữ Hán phiên âm Hán Việt

                  有句無句,Hữu cú vô cú,
                  藤枯樹倒。Đằng khô thụ đảo.
                  幾個衲僧,Kỷ cá nạp tăng,
                  撞頭嗑腦。Chàng đầu hạp não,
                  有句無句,Hữu cú vô cú,
                  體露金風。Thể lộ kim phong.
                  兢伽沙數,Căng già sa số.
                  犯刃傷鋒。Phạm nhẫn thương phong.
                  有句無句,Hữu cú vô cú
                  立宗立旨。Lập tông lập chỉ.
                  打瓦鑽龜,Đả ngõa toàn quy,
                  登山涉水。Đăng sơn thiệp thủy.
                  有句無句,Hữu cú vô cú,
                  非有非無。Phi hữu phi vô.
                  刻舟求劍,Khắc chu cầu kiếm,
                  索驥按圖。Sách ký án đồ.
                  有句無句,Hữu cú vô cú,
                  互不回互。Hỗ bất hồi hỗ.
                  笠雪鞋花,Lạp tuyết hài hoa,
                  守株待兔。Thủ chu đãi thố.
                  有句無句,Hữu cú vô cú,
                  自古自今。Tự cổ tự kim.
                  執指忘月,Chấp chỉ vong nguyệt,
                  平地陸沉。Bình địa lục trầm.
                  有句無句,Hữu cú vô cú,
                  如是如是。Như thị như thị.
                  八字打開,Bát tự đả khai,
                  全無巴鼻。Toàn vô ba tị.
                  有句無句,Hữu cú vô cú,
                  顧左顧右。Cố tả cố hữu.
                  阿刺刺地,A thích thích địa,
                  鬧聒聒地。Náo quát quát địa.
                  有句無句,Hữu cú vô cú,
                  忉忉怛怛。Điêu điêu đát đát.
                  截斷葛藤,Tiệt đoạn cát đằng,
                  彼此快活。Bỉ thử khoái hoạt.
                  —-
                  DỊCH NGHĨA
                  Câu hữu câu vô,
                  Như cây đổ, dây leo héo khô.
                  Mấy gã thầy tăng,
                  Đập đầu mẻ trán.
                  Câu hữu câu vô,
                  Như thân thể lộ ra trước gió thu.
                  Vô số cát sông Hằng,
                  Phạm vào kiếm, bị thương vì mũi nhọn.
                  Câu hữu câu vô,
                  Lập công phái, ý chỉ.
                  Cũng là dùi rùa, đập ngói,
                  Trèo núi lội sông.
                  Câu hữu câu vô,
                  Chẳng phải hữu, chẳng phải vô,
                  Khác nào anh chàng khắc mạn thuyền mò gươm,
                  Theo tranh vẽ đi tìm ngựa ký.
                  Câu hữu câu vô,
                  Tác động qua lại với nhau.
                  Nón tuyết giày hoa,
                  Ôm gốc cây đợi thỏ.
                  Câu hữu câu vô,
                  Từ xưa đến nay,
                  Chỉ chấp ngón tay mà quên vầng trăng,
                  Thế là chết đuối trên đất bằng.
                  Câu hữu câu vô,
                  Như thế như thế!
                  Tám chữ mở ra rồi,
                  Hoàn toàn không còn điều gì lớn nữa.
                  Câu hữu câu vô,
                  Quay bên phải, ngoái bên trái.
                  Thuyết lý ầm ĩ,
                  Ồn ào tranh cãi.
                  Câu hữu câu vô,
                  Khiến người rầu rĩ.
                  Cắt đứt mọi duyên quấn quýt như dây leo,
                  Thì hữu và vô đều hoàn toàn thông suốt.
                  Nguồn:
                  Wikisource

                  TÌM VỀ ĐỨC NHÂN TÔNG

                  Kinh Dịch xem chơi, yêu tính sáng yêu hơn châu báu.
                  Sách Nhàn đọc giấu, trọng lòng rồi trọng nữa hoàng kim…
                  (Trần Nhân Tông)

                  Người ơi con đến đây tìm
                  Non thiêng Yên Tử như tranh họa đồ
                  Núi cao trùng điệp nhấp nhô
                  Trời xuân bảng lãng chuông chùa Hoa Yên

                  Thầy còn dạo bước cõi tiên
                  Con ươm mầm sống xanh thêm ruộng vườn
                  Mang cây lộc trúc về Nam
                  Ken dày phên giậu ở miền xa xôi

                  Cư trần lạc đạo Người ơi
                  Tùy duyên vui đạo sống đời thung dung
                  Hành trang Thượng sĩ Tuệ Trung
                  Kỳ Lân thiền viện cành vươn ra ngoài

                  An Kỳ Sinh trấn giữa trời
                  Thơ Thiền lưu dấu muôn đời nước non …

                  Nghê Việt là biểu tượng rồng ẩn, một trong những sáng tạo đỉnh cao của văn hóa Việt. “Sách Nhàn đọc dấu câu có câu không” ẩn hiện như tiềm long, một trong chín đứa con của rồng (long sinh cửu tử) theo thời mà biến hóa.

                  Bài viết và ảnh của Huỳnh Thiệu Phong Mấy vấn đề về nguồn gốc, đặc điểm của biểu tượng “Nghê” trong văn hóa Việt Nam đã nhận xét: “Nghê” chính là một sáng tạo nghệ thuật đỉnh cao, phản ánh rõ nét nhân sinh quan của người Việt trong những giai đoạn lịch sử của dân tộc“. Tôi rất đồng tình. Nghê là linh vật rồng ẩn thuần Việt trong “chín đứa con của rồng” (Long sinh cửu tử) và được phổ biến rộng trong dân gian thời Trần và được đúc kết bởi tác phẩm ““Tiềm Xác Loại Thư” của Trần Nhân Tích. Toan Nghê là linh vật có sức mạnh phi thường giống như sư tử, như mèo thần, thích nghỉ ngơi, điềm tĩnh, chăm chú chọn cơ hội, nhưng khi ra tay thì cực kỳ mau lẹ, dũng mãnh và hiệu quả. Kim Nghê là linh vật giống như kỳ lân, trâu ngựa thần, có tài nuốt lửa nhả khói, nội lực thâm hậu, nhanh mạnh lạ lùng, dùng để cưỡi đưa chủ nhanh đến đích. Nghê Dân Gian là linh vật gác cổng giữ nhà hiền lành, tin cẩn như chó nhà và hung dữ, nguy hiểm, tinh khôn như chó sói. Nghê Thường là linh vật ngây dại như trẻ thơ, nhởn nhơ như nai rừng, tin yêu như thục nữ nhưng vô cùng quý hiếm.

                  Đêm Yên Tử, rừng trúc thăm thẳm huyền thoại, vững chãi cây tre Việt Nam ngoan cường, như Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn chi đồ năm 1363, bức họa Phật Hoàng Trần Nhân Tông do Trần Giám Như vẽ, trôi nổi trong nhân gian, như Nghê Việt ẩn tàng sức mạnh văn hóa Việt.

                  THU NGUYỆT GAI VÀ HOA

                  “Ngồi buồn làm phát chơi ngông Lôi ra một chậu xương rồng, đếm gai. Đếm qua đếm lại đếm hoài. Vẫn dư ra một cái gai là mình! Cái gai tuy mập mà xinh (?). Cho nên thiên hạ tưởng mình là hoa. Thật ra thật ra thật ra. Tận cùng bản chất nó là cái gai! Ủa mà gai có gì sai. Không gai sao cái đám này có hoa! . Hahaha…”

                  HOÀNG KIM HOA VÀ ONG

                  Hahaha… Thật ra thật ra thật ra. Tận cùng bản chất nó là không gai. Có không mọi chuyên ở đời. Dịu dàng hoa cỏ là nơi tìm về. Đêm Yên Tử lắng tai nghe. Mỏng như chiếc lá nghiêng về thinh không. Ẩn sau một đám xương rồng, Tìm đi tìm lại em không thấy mình. Thoắt rồi hiện trước em xinh, Gai đâu chẳng thấy, chỉ mình là ta. Hahaha …, Hahaha…”

                  Hoàng Kim mời các bạn đọc “Đêm Yên Tử” đã bổ sung và hiệu đính: “Lần nhỡ ấy xuýt đi xa, chơi cùng bạn quý la đà khói sương, mới hay mưa nắng vô thường mây che nắng sớm còn vương cõi trời. Thung dung bước tới thảnh thơi, An nhiên thế sự về nơi thanh nhàn. Trời đất vạn vật phong quang, trọn đời vui giữa nhân gian ân tình !… (* Thơ Hoàng Kim); Trời đất vạn vật phong quang là trích lời và ảnh của VDAT **: “… Thiên – Địa – Vạn Vật. Mới rồi, có “người” đã trao cho anh chìa khóa thứ nhất: Vạn vật, để anh tự khai sáng mình và anh cần khai thông kinh mạch lạc trong tối thiểu là 3 năm. Anh phải tích cực rèn luyện hơn nữa, sẽ có người trao cho anh cái chìa khoa thứ hai. Sau khi tu luyện mình hết chặng thứ hai, khi ấy anh sẽ thấy bài thơ này là chìa khóa thứ 3 đi vào giác ngộ…”; Mời bạn đọc tiếp bài “Minh triết sống phúc hậu

                  Hôm nay Thu Nguyệt có bài thơ ‘Bà già dưới chân đồi’ cảm hứng cho “Đêm Yên Tử” tìm lại:

                  BÀ GIÀ DƯỚI CHƯN ĐỒI

                  Xưa có một bà già
                  Ngụ dưới chưn ngọn đồi
                  Và nếu không qua đời
                  Thì bà vẫn còn sống

                  THE OLD WOMAN UNDER A HILL.

                  There was an woman
                  Who lived under a hill;
                  And if she’s not gone
                  She live there still.

                  HẢI NHƯ THƠ VỀ NGƯỜI
                  Hoàng Kim

                  Đêm nhớ ‘Người tỉnh thức’
                  Hải Như thơ về Người
                  Bác trong thơ Hải Như
                  là kiệt tác chân dung

                  Thơ đưa Người về đích
                  Cụ làm ‘thơ về Người’
                  Đích nhân văn của Cụ
                  là thức tỉnh Con Người

                  41 bài ‘thơ về Người’
                  Chuyện muôn năm còn kể
                  Kinh nghiệm sống một đời
                  Minh triết Hồ Chí Minh.

                  ‘Chúng cháu canh giấc Bác ngủ, Bác HồXem tiếp >>

                    Dạy và học 17 tháng 7(17-07-2021)

                  DẠY VÀ HỌC 17 THÁNG 7
                  Hoàng Kim
                  CNM365 Tình yêu cuộc sốngHector Malot trong gia đình; A Na Bình Minh An; Nhớ tháng bảy mưa ngâu, Từ Mê Kông nhớ Nê Va; Đến Neva nhớ Pie Đại Đế; Chuyện cổ tích người lớn; Giấc mơ lành yêu thương; Châu Mỹ chuyện không quên; Ngày 17 tháng 7 năm 1907 ngày mất Hector Malot, văn hào Pháp, tác giả của bộ sách nổi tiếng Trong gia đình được dịch ra nhiều thứ tiếng và trẻ em khắp nơi trên thế giới yêu thích (ông sinh năm 1830). Ngày 17 tháng 7 năm 1504, (6 tháng 6 năm Giáp Tý) Thái tử Lê Thuần lên ngôi hoàng đế tại điện Hoàng Cực, tức Lê Túc Tông, vị vua hiền nhà Hậu Lê. Ngày 17 tháng 7 năm1945, ba nhà lãnh đạo Đồng Minh là Churchill, Truman và Stalin tụ họp tại thành phố Potsdam để quyết định tương lai của một nước Đức chiến bại. Bài chọn lọc ngày 17 tháng 7: Hector Malot trong gia đình; A Na Bình Minh An, Nhớ tháng bảy mưa ngâu, Từ Mê Kông nhớ Nê Va; Đến Neva nhớ Pie Đại Đế; Chuyện cổ tích người lớn; Giấc mơ lành yêu thương; Châu Mỹ chuyện không quên; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/ và http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-17-thang-7/;

                  HECTOR MALOT TRONG GIA ĐÌNH
                  Hoàng Kim

                  Hai cuốn sách tuổi thơ yêu thích của tôi là Trong Gia đình của tác giả Hector Malot, dịch giả Hà Mai Anh, và “Tam Quốc diễn nghĩa” của tác giả La Quán Trung, dịch giả Phan Kế Bính, hiệu đính Bùi Kỷ. Những trang văn này sau này khi tôi lớn lên và luống tuổi dường như đã thấm vào máu như những kỷ vật lắng đọng không quên. Đọc Trong Gia đình của Hector Malot, và “Tam Quốc diễn nghĩa” của La Quán Trung, chúng ta thấm sâu về tác dụng tỉnh thức của ‘Sự đọc’ “Trong một thế giới có đủ bình tâm, người viết nhỏ hơn người đọc, người đọc nhỏ hơn quyển truyện họ đang đọc, và quyển truyện nhỏ hơn sự đọc. Người viết và người đọc rồi chết, truyện rồi quên. Chỉ sự đọc ở lại và làm nên một phần mênh mông trong định nghĩa của việc làm người.” xem tiếp tại … https://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-17-thang-7/

                  A NA BÌNH MINH AN
                  Hoàng Kim

                  Cậu cháu vui an nhiên
                  A Na Bình Minh An.
                  A Na bà chúa Ngọc
                  Niềm vui ngời ngày mới
                  Cười nụ thơm đêm yên.
                  xem tiếp
                  https://hoangkimlong.wordpress.com/category/a-na-binh-minh-an/

                  DSC02002

                  NHỚ THÁNG BẢY MƯA NGÂU
                  Hoàng Kim

                  Tháng Bảy mưa Ngâu
                  Trời thương chúng mình
                  Mưa giăng
                  Ướt đầm vạt áo
                  Bảy sắc cầu vồng
                  Lung linh huyền ảo
                  Mẹ thương con
                  Đưa em về cùng anh.

                  Chuyến xe tốc hành
                  Chạy giữa trăm năm
                  Chở đầy kỷ niệm
                  Chở đầy ắp tình em
                  Từ nơi chân trời
                  Góc biển

                  Chàng Ngưu hóa mình vào dân ca
                  Con ngựa, con trâu
                  Suốt đời siêng năng làm lụng.
                  Thương con gà luôn dậy sớm
                  Biết ơn con chó thức đêm trường.

                  Em ơi !
                  Những câu thơ ông bà gửi lại
                  Đã theo chúng mình đi suốt thời gian.

                  Tháng Bảy mưa Ngâu
                  Đầy trời mưa giăng giăng
                  Thương nàng Chức Nữ
                  Em là tiên đời thường
                  Đầy đặn yêu thương

                  DSC02003

                  Tháng Bảy mưa Ngâu
                  Nhớ thương ai góc biển chân trời
                  Những cuộc chia ly
                  Đong đầy nỗi nhớ …

                  Chiêm bao mơ về chuyện cũ
                  Khói sương mờ ký ức thời gian
                  Chốn nào chúng mình hò hẹn
                  Nơi em cùng anh xao xuyến yêu thương

                  Ngắm mưa Ngâu tháng Bảy
                  Mưa, mưa hoài, mưa mãi
                  Mưa trong lòng người
                  Nên mưa rất lâu…

                  Mưa rơi như dòng lệ trắng
                  Đất trời thương nối một nhịp cầu.

                  Em ơi
                  Lời tình tự của nghìn năm dân tộc.
                  Như sắc cầu vồng
                  Nối hai miền xa cách
                  Để xa nên gần
                  Vời vợi nhớ thương.

                  “Nhớ tháng Bảy mưa Ngâu” là bài thơ tình của Hoàng Kim viết tặng cho những đôi lứa yêu thương cách xa nhau và khát khao ngày gặp mặt. Bài thơ là chuyện tình cảm động Ngưu Lang Chức Nữ có trong dân gian Việt Nam. Truyện về nàng tiên Chức Nữ xinh đẹp, phúc hậu, nết na yêu thương chàng trai Ngưu Lang khôi ngô, hiền lành, chăm chỉ. Họ yêu nhau say đắm, bất chấp sự xa xôi nghìn trùng của cõi Trời và cõi Người. Cảm động trước tình yêu son sắt thủy chung của hai người, mỗi năm Trời Phật đã nối duyên cho họ găp nhau một lần vào tiết tháng Bảy mưa ngâu trước rằm Trung Thu tháng Tám. Đó là dịp Trời gom góp của nhà Trời và sự cần mẫn suốt năm của Ngưu Lang Chức Nữ để làm thành chiếc cầu vồng bảy màu nối liền đôi bờ thăm thẳm cho họ được gặp nhau. Muôn vạn con quạ, con cò, con vạc, bồ nông, ngỗng trời đã hợp lực ken kín cầu Ô Thước để giúp Ngưu Lang và Chức Nữ gặp nhau. Những giọt nước mắt mừng tủi của hai người và sự cảm động của trời đất, chim muông đã hóa thành mưa ngâu.

                  TỪ MÊ KÔNG NHỚ NÊ VA
                  Hoàng Kim

                  Tôi thích Việt hóa từ ngữ Mê Kông và Nê Va bằng chữ Việt tiếng Việt kể chuyện cho bé, Giảng dạy và chuyển giao tiến bộ kỹ thuật mới trong nông nghiệp về lúa, sắn, rau, hoa, quả tại nơi hợp lưu Đông Dương, tôi nói với Hoàng Long, Nguyễn Văn Phu với các bạn trẻ cùng chung sức Việt Nam con đường xanh: Đây là vùng di sản, dấu chân Phật Đông Dương, hợp lưu sông Mê Công, nơi kết nối hiệu quả Việt Nam, Lào, Cămpuchia, Thái Lan và Biển Đông. Vị trí địa lý sông Mê Kông với Việt Nam Căm pu chia và Lào và vị thế của con sông này vùng đất này cực kỳ quan trọng như Nê Va đối với Nước Nga.

                  Sông Srepok vùng ngã ba Đông Dương là hợp lưu quan trọng nhất của sông Mekong. Sông Srepok phần Việt Nam là phụ lưu đặc biệt quan trọng của sông Mekong. Đây là ngã ba Đông Dương, hợp lưu lớn nhất của sông Mekong. Sông Srepok với các dòng sông ngắn, dốc, hung dữ, hoang sơ chảy ngược về Mekong mà không phải chảy xuôi về Biển Đông như các sông Việt khác. “Ai nắm được nóc nhà Tây Nguyên và chế ngự được vùng hợp lưu này là quản lý được Đông Dương”. Những chuyên gia quân sự và sử học đã từng nhận định vậy, Tính từ chỗ hợp lưu của sông Krông Ana (sông Mẹ) và sông Krông Nô (sông Bố) tới cửa sông Srepok dài 406 km, trong đó đoạn chảy qua Campuchia dài khoảng 281 km, đoạn chảy trong lãnh thổ Việt Nam dài khoảng 126 km.

                  Thuyền độc mộc là phương tiện vượt thác hiệu quả thuở hoang sơ của vùng đất nước dữ dội và hiền hòa này.

                  NGỌC PHƯƠNG NAM
                  Hoàng Kim

                  Thuyền độc mộc
                  ‘Quên tên cây
                  làm thuyền
                  Tận cùng nỗi cô đơn
                  độc mộc!

                  Khoét hết ruột
                  Chỉ để một lần ngược thác
                  bất chấp đời
                  lênh đênh…” (1)

                  Ngọc phương Nam
                  “Hứng mật đời
                  thành thơ
                  Việc nghìn năm hữu lý
                  Trạng Trình

                  Đến Trúc Lâm
                  Đạt năm việc lớn Hoàng Thành
                  Đất trời xanh
                  Yên Tử …” (2)

                  Ngọc phương Nam Hoàng Kim (2) họa đối Thuyền độc mộc Trịnh Tuyên (1) nơi hợp lưu Đông Dương huyền thoại

                  Tôi đã rất nhiều lần qua lại vùng này. Thuở chiến tranh chống Mỹ, tại Tây Nguyên, đơn vị tôi chốt ở vùng ngã ba biên giới Việt – Lào- Cămpuchia, bên dòng sông Srepok (hay Sêrêpôk, Srêpôk, mà tiếng Campuchia gọi là Tongle Xrepok). Srepok tại ngã ba Đông Dương là điểm hợp lưu quan trọng nhất, trong khi Phnôm Pênh lại chính là điểm phân lưu quan trọng nhất của sông Mekong. Tôi đã có bài thơ Câu cá bên dòng Sêrêpôk, sau này tôi cảm khái đến nao lòng khi đọc bài viết “Dòng sông Sê San ơi !” của thượng tòa Thích Giác Tâm, Chùa Bửu Minh Biển Hồ, và tôi đã lần về tìm thăm thiền sư trên núi cao, và lâu lâu tôi lại đọc lạiVề nơi tịch lặng; Đến chốn thung dung“.

                  CÂU CÁ BÊN BỜ SÊRÊPÔK

                  Năm 1972 tại Tây Nguyên, tôi có kỷ niệm không thể quên về những ngày đói gạo, ăn rau rừng và câu cá ven sông Sêrêpôk gần Buôn Đôn. Nhớ buổi câu cho bữa cơm người bạn sốt rừng ốm nặng thèm ăn cá. Đây là bài thơ khóc bạn, lễ 30.4 và ngày 1.5, tôi bùi ngùi nhớ lại. Chèo thuyền trên sông Vônga là thơ Hoàng Bình. Điểm câu cá của tôi gần binh trạm khoảng giữa Đăk Tô-Tân Cảnh và Buôn Đôn. Sông Sêrêpôk (ảnh Đổ Tuấn Hưng trên Wikipedia Tiếng Việt)

                  Sêrêpôk (hay Srêpôk), tên gọi trong tiếng Campuchia là Tongle Xrepok, là dòng sông lớn nhất trong hệ thống sông ngòi ở Đắk Lắk. Đây là một phụ lưu quan trọng của sông Mekong. Sông Sêrêpôk được hợp thành từ hai dòng sông Krông Ana và Krông Nô (sông Mẹ và sông Bố). Đoạn chảy trên địa phận Đăk Lăk còn được gọi là sông Đăk Krông chảy qua các huyện Krông Ana, Buôn Đôn và Ea Súp với nhiều thác ghềnh hùng vĩ còn tương đối hoang sơ như thác Trinh Nữ, thác Đray Sáp, thác Đray Nu, thác Đray H’linh, thác Gia Long, thác Bảy Nhánh…Tính từ chỗ hợp lưu của sông Krông Ana, sông Krông Nô tới cửa sông của nó dài 406 km, trong đó đoạn chảy trong lãnh thổ Việt Nam dài khoảng 126 km, đoạn chảy qua Campuchia dài khoảng 281 km. Sông Sêrêpôk chảy sang Campuchia được bổ sung thêm nguồn chảy dồi dào từ dòng sông Ea H’leoông, sông Sesan và sông Sekong (hai sông này cũng có nguồn trên lãnh thổ Việt Nam). Sông Serepôk nhập vào sông Mekong sát Stung Treng, tỉnh Stung Treng, Campuchia, (nơi những năm gần đây mới phát hiện được phần mộ của Trung tướng Nguyễn Bình, tại xã Srê-pốc, huyện Xê-san,) sau đó con sông lớn này trở lại Việt Nam (ảnh 2 nguồn Sông Mekong tài liệu tổng hợp ).

                  Hiện tại dọc theo dòng sông này đã có rất nhiều các công trình thủy điện mọc lên như thủy điện Krông Kma (Krông Bông), Buôn Kuôp (Krông Ana), Đray H’linh 1, Đray H’linh 2 (Cư Jút), Buôn Tou Srah (Lăk), Srepôk 3 (Buôn Đôn)… Sông Sêrêpôk ở Đăk Lăk có tên gọi địa phương là sông Đăk Krông được nhắc đến trong bài hát nổi tiếng “Sông Đăk Krông mùa xuân về” của Tố Hải: “Đăk Krông ơi, Tây Nguyên ơi!/ Cái suối đổ về sông, cái sông ra biển lớn./ Ta nối tấm lòng dân bằng tình yêu cách mạng, đi suốt Truờng Sơn xanh, nghe dòng sông chảy mãi./ Đăk Krông ơi, dòng sông xanh thắm…”

                  Dòng sông Sê San ơi!

                   Là tản văn nổi tiếng của Tỳ kheo Thích Giác Tâm, vị sư trụ trì ở chùa Bửu Minh tại Biển Hồ, mắt ngọc Pleiku, tỉnh Gia Lai ”Đó là tiếng kêu thảng thốt của con người khi đứng trên bờ của dòng sông. Sông đã không sống đời của sông nữa, mà sông đã sống theo cách mà con người muốn nó sống. Ngày xưa sông vô tư, hồn nhiên sống, khi lên ghềnh, khi xuống thác, khi buông thư chầm chậm nhởn nhơ như người vô sự ngắm mây bay, xem hoa nở, lắng nghe tiếng chim hót. Nhưng rồi con người đã can thiệp vào, bắt sông phục vụ con người, mà nhu cầu của con người ở trong cõi người ta này thì vô hạn, vô chừng, không biết bao nhiêu là đủ. Thủy hỏa tương khắc, nhưng với trí tuệ con người biến nước thành hỏa, thành điện năng. Biến bao nhiêu cũng không đủ cung cấp, bởi con người không khác gì con khỉ Tôn Ngộ Không trong Tây Du Ký. Đào tiên quý là vậy mà hái trong thoáng chốc đã sạch vườn đào của Tây Vương Mẫu, mỗi trái chỉ cắn một miếng rồi quẳng đi, vứt bỏ. Quẳng đi không hề nuối tiếc, mà đào tiên mấy ngàn năm mới ra trái một lần (điện rất quý có khác gì trái đào tiên đâu!).”

                  Vị thiền sư trên mắt ngọc cao nguyên viết tiếp: “Đầu năm đứng trên dòng sông Sê San, tôi đã ngắm nhìn sông và tôi đã thấy như thế. Rừng đại ngàn đã ngã gục xuống, dòng sông mênh mang đẹp như một dải lụa trắng của các đại sư Tây Tạng, Ấn Độ quấn choàng cổ, bắt nguồn từ các đỉnh núi cao của núi rừng Ngọc Linh tỉnh Kon Tum băng qua đồi núi chập chùng của hai tỉnh Kon Tum và Gia Lai để rồi chảy qua biên giới Campuchia. Ngăn chặn dòng chảy, nhiều nhà máy thủy điện đã mọc lên, mọc lên để cung cấp năng lượng điện cho con người. Bên này nhà máy thủy điện nước mênh mang, bến bờ rộng thoáng vì nước tích tụ, đổ dồn nước về ba cái cống chạy tua bin phát điện. Bên kia nhà máy giòng sông khô cạn lởm chởm vô số đá, như những bãi đá ở bãi biển Quy Nhơn gần ngôi mộ Hàn Mặc Tử, so sánh cho dễ hình dung vậy thôi. Bãi đá ở biển Quy Nhơn, là đá sống, bởi có con người lân mẫn chăm sóc, cùng vui chơi ca hát quây phim chụp hình. Còn bãi đá ở giòng sông Sê San là bãi đá chết, đá chết bởi vì sông đã chết. Trong kinh Phật thường dùng từ:” Bên này bờ, bên kia bờ “. Bờ bên này là bờ sinh tử, vô minh, khổ đau. Bờ bên kia là giải thoát, an lạc, Niết Bàn. Đứng bên bờ sông Sê San tôi đã ngộ ra không có bờ bên này thì cũng không có bờ bên kia. Để tạo ra năng lượng điện con người phải trả giá cho cái được và cái mất. Được cho nhu cầu tiêu thụ của con người và mất cho môi trường sinh thái không còn cân đối, đảo lộn.”

                  Tôi đã từng đứng trên bờ sinh tử và cũng đã từng câu cá bên dòng sông này thuở mà sông chưa làm đập thủy điện. Nay tôi lại về lặng ngắm dòng sông xưa. Trong lòng tôi thao thiết một dòng sông chảy mãi…

                  Con trai tôi, Hoàng Long hình ảnh mùa hè xanh Lào thật vô tư cùng bạn hữu. Tôi lưu lại một số hình ảnh ở Champasac, là một tỉnh ở phía tây nam Lào, kề biên giới với Thái LanCampuchia. Đây là một trong ba lãnh địa nằm trên đất Lào, thuộc vương quốc Lan Xang. Theo cuộc tổng điều tra dân số năm 2015, đô thị này có dân số 694.023 người. Tên tỉnh lấy từ tên Vương quốc Champasak với thủ phủ cũ là thị trấn Champasak. Tỉnh lị là Pakse. Nhiều câu chuyện về đất về người vùng hợp lưu Đông Dương chưa kịp ghi lại.

                  Lúa sắn Cămpuchia và Lào, tôi đã gắn bó niều với các bạn tôi ở bên ấy. Chúng ta có thể dạy và học gì với nông dân? Tôi lưu lại đây một điểm nhấn hợp tác lúa sắn với nông nghiệp Căm pu chia và Lào để có dịp quay lại viết sâu hơn, kể câu chuyện tiếp nối các câu chuyện Hợp tác Bảo tồn và Phát triển. .

                  Trở lại câu chuyện Câu cá bên dòng Sêrêpôk lúc câu cá, tôi nghĩ nhiều về bức tranh sơn dầu nổi tiếng “Những người kéo thuyền trên sông Volga” của Repin và bài thơ Chèo thuyền trên sông Volga của Hoàng Bình. Tôi cảm nhận thật rõ ràng những suy tư của người lính chiến trước dòng sông Neva, Volga đối sánh với dòng sông Mekong, sông Hồng huyền thoại nước Việt mến yêu của Tổ Quốc tôi. Đất nước chúng ta cần lắm những tác phẩm sử thi kiểu :Sông Đông êm đềm” cho nhân dân đất nước mình và bạn hữu Lào Cămpuchia cùng đọc.

                  Những người kéo thuyền trên sông Volga”, kiệt tác hội họa của Rapin với bài thơ Chèo thuyền trên sông Neva của tiến sĩ sử học Hoàng Bình giúp chúng ta liên tưởng về sông sông Volga và sông Neva trong sự so sánh với sông Hồng và sông Mekong. Chèo thuyền trên sông Neva là chèo thuyền trên dòng sông huyền thoại. Volga và Neva là hai điểm tựa lịch sử của nước Nga mênh mông. Hoàng Bình là nhà sử học và nhiều năm du học Nga nên có sự nhìn nhận sâu sắc và cất lên tứ thơ. Tôi mong muốn tìm lại bản gốc bài thơ Chèo thuyền trên sông volga và bổ sung hoàn thiện bài viết này.

                  TỪ MEKONG NHỚ NÊ VA

                  Tắm tiên ở Chư Jang Sin tôi may mắn được tắm mình trong mạch nước thiêng ban mai đầu nguồn của một sông lớn và vùng núi hùng vĩ Tây Nguyên, trước đó đã qua trãi nghiệm gian khổ của cuộc chiến tranh thống nhất đất nước, sau này lại được làm nhà nông học đi nhiều nơi ở Tây Nguyên từ núi Ngọc Linh hùng vĩ và sông mẹ SeSan của Bắc Tây Nguyên đến núi Chư Jang Sin cao vọi và sông mẹ Đồng Nai của Nam Tây Nguyên, được nhiều lần sang Căm pu chia, Lào dọc sông Mekong, giúp bạn canh tác sắn lúa. Tôi càng trãi nghiệm và liên tưởng thấm thía sâu sắc về những dòng sông.

                  Nhớ Neva, nhớ những năm tháng ở Tiệp, Nga, Bỉ, Ý, Anh , Pháp … tôi càng nhận thức sâu sắc thêm “đêm trắng và bình minh“: Đi đâu cũng không bằng Tổ quốc mình. Nói gì, làm gì cũng không bằng dạy, học và làm cho đồng bào đất nước mình. Đi khắp quê người để hiểu đất quê hương. Mục đích sau cùng của dạy và học là thấu suốt bản chất sự vật, có lời giải đúng và làm được việc. Dạy và học thực tiễn trên chính Tổ quốc mình. Việt Nam quê hương tôi! Đó là đất nước của biết bao nhiêu thế hệ xả thân vì nước để quyết giành cho được độc lập, thống nhất, tự do và toàn vẹn lãnh thổ. “Nếu chỉ để lại lời nói suông cho đời sau sao bằng đem thân đảm nhận trọng trách cho thiên hạ trước đã”. Làm nhà khoa học xanh hướng đến bát cơm ngon của người dân nghèo, đó là điều tôi tâm đắc nhất !

                  Sông Srepok phần Việt Nam đoạn chảy trên địa phận Đăk Lăk còn được gọi là sông Đăk Krông là dòng sông lớn nhất trong hệ thống sông ngòi ở Đắk Lắk. Sông Srepok được hợp thành từ hai dòng sông Krông Ana và Krông Nô có nhiều thác ghềnh hùng vĩ như thác Trinh Nữ, thác Đray Sáp, thác Đray Nu, thác Đray H’linh, thác Gia Long, thác Bảy Nhánh. Hiện tại dọc theo dòng sông này đã có rất nhiều các công trình thủy điện mọc lên như thủy điện Krông Bông, Krông Ana, Đray H’linh 1, Đray H’linh 2 (Cư Jút), Buôn Tou Srah (Lăk), Srepôk 3 (Buôn Đôn)…

                  Sông Srepok chảy sang Campuchia được bổ sung thêm nguồn chảy dồi dào từ dòng sông Ea H’leo, sông Sesan và sông Sekong. Hai sông này cũng có nguồn trên lãnh thổ Việt Nam. Sông Srepok nhập vào sông Mekong sát Stung Treng, tỉnh Stung Treng, Campuchia. Nơi đây, những năm gần đây vừa phát hiện được phần mộ của Trung tướng Nguyễn Bình, tại xã Srê-pốc, huyện Xê-san.  Sông Srepok hợp lưu quan trọng nhất của con sông Mekong tại ngã ba Đông Dương và phân lưu quan trọng nhất của sông Mekong tại Phnôm Pênh.

                  Đến Srepok, tôi đã may mắn được gặp nhiều già làng người dân tộc bản địa và người Kinh, được sống và làm việc với Một thế hệ Tây Nguyên mới, gồm nhiều bạn bè, người dân của các vùng miền Việt Nam về Tây Nguyên lập nghiệp. Họ cùng chung lưng đấu cật với dân bản địa hình thành nên một Tây Nguyên mới. Một số già làng bản địa mà tôi từng biết như anh hùng Đinh Núp người dân tộc Ba Na làng Stơr, xã Tơ Tung, huyện KBang, tỉnh Gia Lai, là nhân vật chính, nguyên mẫu trong bộ tiểu thuyết Đất nước đứng lên của nhà văn Nguyên Ngọc. Nhà giáo nhân dân, bác sĩ Y Ngông Niê Kdăm, Hiệu trưởng trường  Đại học Tây Nguyên nhiệm kỳ 1987 -1993 người dân tộc Ê Đê, sinh tại buôn Ea Sup, xã Kma Rang Prong, nay thuộc thị trấn Ea Pôk, huyện Cư M’gar, tại Đắk Lắk. Các già làng người Kinh như PGS. TS. Phan Quốc Sủng- Nhà khoa học chiến thắng bệnh tật, Hiệu trưởng Trường  Đại học Tây Nguyên (1993-1997), nguyên Viện trưởng Viện nghiên cứu cà phê Eakmat (nay là Viện Khoa học Kỹ thuật Nông Lâm nghiệp Tây Nguyên) trong nhiều năm. Cụ Đỗ Hữu Bá (bí danh Đỗ Văn Trị) Tỉnh ủy viên Đắk Lắk, Trưởng ban Dân tộc và Định canh Định cư tỉnh, đảng viên huy hiệu 60 năm tuổi đảng, là người Phú Yên, nay ở thành phố Buôn Ma Thuột, cụ đã từng ở Nga và là một pho địa lý, lịch sử về Tây Nguyên …

                  Từ Mekong nhớ Neva

                  ĐẾN NEVA NHỚ PIE ĐẠI ĐẾ
                  Hoàng Kim


                  Sông Neva nơi lưu dấu những huyền thoại. Neva là một con sông ở phía tây bắc Nga chảy từ hồ Ladoga qua phía tây của Sankt-Peterburg đến Neva của vịnh Phần Lan. Đây là con sông huyền thoại nơi Pie Đại Đế nhân vật lịch sử vĩ đại nhất của nước Nga lập nên thành phố Sankt-Peterburg cố đô Đế quốc Nga thành phố lớn thứ hai ở Nga ngày nay. Con sông này thông với vịnh Phần Lan, tạo vị thế hải cảng cho Sankt-Peterburg mở cửa nhìn ra biển lớn. Nước Nga trong mắt tôi lắng đọng chín ký ức Nga không thể quên:
                  Đến Neva nhớ Pie Đại Đế; Sông Volga và sông Neva, Từ Mekong nhớ Neva; Sholokhov người sông Đông; Lev Tonstoy năm kiệt tác; Thơ Pushkin bình minh Nga; Pushkin 9 kiệt tác thơ tình; Phục sinh giữa tối sáng; Nước Nga và châu Âu . Bài viết này lưu dấu ba chuyên mục đầu tiên https://hoangkimlong.wordpress.com/category/den-neva-nho-pie-dai-de/

                  SÔNG VOLGA VÀ SÔNG NEVA

                  Ngắm bức tượng Mẹ của nước Nga lồng lộng trên nền trời tại đỉnh đồi gần sông Neva và gần trung tâm thành phố Sankt Peterburg. Tôi nhớ về nước Nga biểu tượng sâu sắc lắng đọng nhất trong lòng là sông Neva và sông Volga, đặc biệt là khúc sông chảy qua thủ đô phương Bắc Sankt Peterburg nơi có biểu tượng này của sức mạnh Nga. Nhiều bạn bè tôi thích Trường Đại học Quốc gia Moskva (MGU) nơi được Nữ hoàng Elizaveta Đế quốc Nga ra sắc lệnh thành lập ngày 25 tháng 1 năm 1755, nay là trường đại học lớn nhất và lâu đời nhất ở Nga. Nơi đó thời Stalin đã ra lệnh xây dựng tại nền cũ MGU tòa chính trường MGU mang tên Lomonosov với bảy tòa nhà chọc trời đã làm thay đổi hoàn toàn diện mạo Moskva. Ngày nay, đó là một bộ phận không thể thiếu của kiến trúc thủ đô, là tấm danh thiếp Moskva và một phần lịch sử của nó. Thế nhưng trong lòng tôi, khi bình tâm nhìn lại sức mạnh Nga ở khoa học kỹ thuật công Xem tiếp >>

                    Dạy và học 16 tháng 7(16-07-2021)

                  DẠY VÀ HỌC 16 THÁNG 7
                  Hoàng Kim

                  CNM365 Tình yêu cuộc sống; Châu Mỹ chuyện không quên; Truyện George Washington; Câu chuyện ảnh tháng Bảy; Võ Nguyên Giáp và Văn Cao; Câu cá bên dòng Sêrêpôk; Đến Neva nhớ Pie Đại Đế; Nơi hợp lưu Đông Dương; Sông Volga và sông  Neva; Từ Mekong nhớ  Neva; Ngày 16 tháng 7 năm 1790 Tổng thống Hoa Kỳ George Washington đã ký đạo luật dinh cư, chọn một địa điểm ven sông Potomac làm thủ đô của liên bang, nơi này về sau trở thành Washington, D.C. Ngày 16 tháng 7 năm 1790 được chọn là ngày thành lập thủ đô Washington Hoa Kỳ với .các hình ảnh biểu tượng tiêu biểu thủ đô Washington là Đại học Georgetown; tòa Quốc hội Hoa Kỳ; tượng đài Washington; tượng đài tưởng niệm nội chiến người Mỹ gốc châu Phi và đền Quốc gia. Ngày 16 tháng 7 năm 2016 Quốc hội Việt Nam truy tặng nhạc sỹ Văn Cao, tác giả Quốc ca Việt Nam, huân chương Hồ Chí Minh. Ngày 16 tháng 7 năm 1969, chuyến bay Apollo 11, lần đầu tiên đưa con người lên bề mặt Mặt Trăng. Bài chọn lọc ngày 16 tháng 7: Châu Mỹ chuyện không quên; Truyện George Washington; Câu chuyện ảnh tháng Bảy; Võ Nguyên Giáp và Văn Cao; Câu cá bên dòng Sêrêpôk; Đến Neva nhớ Pie Đại Đế; Nơi hợp lưu Đông Dương; Sông Volga và sông  Neva; Từ Mekong nhớ  Neva; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-16-thang-7/

                  CHÂU MỸ CHUYỆN KHÔNG QUÊN
                  Hoàng Kim
                  Tôi đã nhiều lần tới châu Mỹ, tới cả Trung Mỹ, Bắc Mỹ và Nam Mỹ. Đó là kinh nghiệm sống quý giá cho sự nghiên cứu và giảng dạy khoa học cây trồng, đặc biệt là cây lương thực. Tôi nhớ thầy Norman Boulaug và nhiều thầy bạn ở nơi ấy, nhớ đất. nhớ người. Tôi có thói quen chép lại ghi chú ngắn và ghi hình về kỷ niệm sau mỗi chuyến đi, lần này mới có dịp hệ thống lại. “Châu Mỹ chuyện không quên” lắng đọng trong lòng tôi những ký ức sâu sắc về công việc chuyên môn khoa học cây trồng, cây lương thực yêu thích, kết nối với đất nước, con người, bạn hữu, và nền văn hóa châu Mỹ. Tôi kể từ chuyến đi Mỹ lần đầu tiên năm 1988, cho tới nhiều lần về sau lắng đọng chuỗi trãi nghiệm thân thương với thầy bạn ở bên kia bờ đại dương. Ba nơi chính của châu Mỹ mà tôi may mắn được tới, đó là vùng vật liệu di truyền ở ba trung tâm khởi nguyên cây trồng toàn cầu của chúng tại Châu Mỹ gồm Trung tâm ngô và lúa mì quốc tế CIMMYT ở Mê hi cô. Trung tâm khoai lang và khoai tây quốc tế CIP ở Peru. Trung tâm Quốc tế Nông nghiệp Nhiệt đới CIAT về sắn, đậu thực phẩm, lúa gạo châu Mỹ ở Côlômbia. Những điểm đến này tương tự như Viện Nông nghiệp Nhiệt đời Quốc tế IITA ở Nigeria châu Phí, Viện Nghiên cứu Cây trồng Quốc tế cho vùng Nhiệt đới Bán khô cằn ICRISAT ở Ấn Độ, và Viện Lúa quốc tế IRRI ở Philippines. Những chốn ấy cũng thật thân thuộc với tôi. Tại đấy sách chuyên khảo cây trồng, tạp chí, trang web, video thật phong phú, sâu sắc và thật đáng ao ước. Cũng từ đấy mà tôi may mắn được đi thăm thú rộng ra các vùng lân cận theo điều kiện và hoàn cảnh của mỗi chuyến đi.

                  “Châu Mỹ chuyện không quên” là các bài học tình yêu cuộc sống trãi nghiệm cá nhân của các chuyến đi thực tế, với mục đích cung cấp các điểm nhấn tư liệu nông nghiệp sinh thái về cây lương thực châu Mỹ cho bạn đọc. Tác phẩm gồm 36 đường dẫn, tựa đề thơ ngũ ngôn, để dễ đọc dễ nhớ, ảnh chi tiết bấm link.

                  Mục đích sau cùng của DẠY VÀ HỌC là thấu suốt bản chất sự vật, có lời giải đúng và LÀM được việc.
                  Lời Thầy dặn thung dung.

                  Châu Mỹ chuyện không quên
                  Hoàng Kim

                  Niềm tin và nghị lực
                  Về lại mái trường xưa
                  Hưng Lộc nôi yêu thương
                  Năm tháng ở trời Âu

                  Vòng qua Tây Bán Cầu
                  CIMMYT tươi rói kỷ niệm
                  Mexico ấn tượng lắng đọng
                  Lời Thầy dặn không quên

                  Ấn tượng Borlaug và Hemingway
                  Con đường di sản Lewis Clark
                  Sóng yêu thương vỗ mãi
                  Đối thoại nền văn hóa

                  Truyện George Washington
                  Minh triết Thomas Jefferson
                  Mark Twain nhà văn Mỹ
                  Đi để hiểu quê hương

                  500 năm nông nghiệp Brazil
                  Ngọc lục bảo Paulo Coelho
                  Rio phố núi và biển
                  Kiệt tác của tâm hồn

                  Giấc mơ thiêng cùng Goethe
                  Chuyện Henry Ford lên Trời
                  Bài đồng dao huyền thoại
                  Bảo tồn và phát triển

                  Sắn Việt Nam và Kawano
                  Sắn Việt Nam và Howeler
                  Một ngày với Hernán Ceballos
                  CIAT Colombia thật ấn tượng
                  Martin Fregenexa mà gần

                  Châu Mỹ chuyện không quên
                  CIP khoai tây khoai lang
                  Nam Mỹ trong mắt ai
                  Nhiều bạn tôi ở đấy

                  Machu Picchu di sản thế giới
                  Mark Zuckerberg và Facebook
                  Lời vàng Albert Einstein
                  Bill Gates học để làm

                  Thomas Edison một huyền thoại
                  Toni Morrison nhà văn Mỹ
                  Walt Disney bạn trẻ thơ
                  Lúa Việt tới Châu Mỹ..

                  xem tiếp
                  https://hoangkimlong.wordpress.com/category/chau-my-chuyen-khong-quen/

                  TRUYÊN GEORGE WASHINGTON
                  Hoàng Kim


                  George Washington sinh ngày 22 tháng 2 năm 1732, được Cử tri đoàn Hoa Kỳ nhất trí bầu làm tổng thống đầu tiên của nước Mỹ ngày 4 tháng 2 năm 1789, mất ngày 14 tháng 12 năm 1799. Ông hiện được biết như vị cha già của nước Mỹ. Các học giả lịch sử luôn xếp George Washington là một trong số hai hoặc ba vị tổng thống vĩ đại nhất. Bức tranh George Washington là kiệt tác nổi tiếng của danh họa Emanuel Leutze (1816–1868) trong Viện bảo tàng mỹ thuật Metropolitan tại thành phố New York đã mô tả hình ảnh ông dẫn dắt mọi người vượt trở ngại đi tới phía trước.Tên của George Washington được đặt cho thủ đô Washington D.C được thành lập vào ngày 16 tháng 7 năm 1790 với tên chính thức ban đầu là Đặc khu Columbia (District of Columbia), Biểu tượng Washington D.C. là Museums, đó là niềm tự hào của nước Mỹ. 

                  George Washington là biểu tượng của nước Mỹ

                  George Washington là nhà lãnh đạo chính trị và quân sự có ảnh hưởng lớn đối với quốc gia non trẻ Hoa Kỳ từ năm 1775 đến năm 1799 lúc đó là vùng đất mới, thực dân Anh Pháp với nhiều nước khác đang tìm đến tranh giành đất đai, tài nguyên. Người bản xứ đang co dần, miền Tây nước Mỹ hoang vu, nghèo nàn mới được khai phá.  George Washington  với tư cách là tổng tư lệnh Lục quân Lục địa năm 1775 -1783 đã lãnh đạo người Mỹ chiến thắng Vương quốc Anh trong cuộc Chiến tranh Cách mạng Mỹ, và ông cũng đã trông coi việc viết ra Hiến pháp Hoa Kỳ năm 1787. Quốc hội nhất trí chọn lựa George Washington làm tổng thống đầu tiên của Hoa Kỳ (1789–1797).

                  George Washington có nhân cách cá nhân, tư tưởng tầm nhìn và tác phong lãnh đạo đặc biệt ưu tú. “Người đầu tiên trong chiến tranh, người đầu tiên trong hòa bình, và người đầu tiên nằm trong lòng dân tộc, ông là người có một không hai về đức tính khiêm nhường và trải qua những đoạn đời riêng tư. Lễ nghĩa, công bình, nhân đạo, ôn hòa, và thành thật; trước sau như một, trang nghiêm và uy nghi; mẫu người của ông như đang soi sáng cho tất cả những người quanh ông cũng như những hiệu ứng của mẫu hình này vẫn đang trường tồn… Xuyên suốt chúng, cái xấu rung động trước sự hiện diện của ông và cái đẹp luôn cảm thấy có bàn tay giúp đỡ của ông. Đức tính cá nhân thanh khiết của ông đã thắp sáng đức độ phục vụ công chúng của ông… Ông là một người đàn ông như thế, người đàn ông mà quốc gia chúng ta đang thương tiếc“.  Henry Lee, một người bạn chiến đấu cùng thời, đã đúc kết về phẩm chất cá nhân của Washington như vậy..

                  George Washington là vị tướng kiệt xuất trong chiến tranh, gần đây năm 1976 được nước Mỹ vinh thăng là Đại thống tướng, nhà lãnh đạo cách mạng thành công đầu tiên trong lịch sử thế giới chống lại một đế quốc thuộc địa. Washington đã trở thành biểu tượng toàn cầu cho phong trào yêu nước, giành độc lập và giải phóng dân tộc. Hình tượng Washington đặc biệt được ngưỡng mộ tại Pháp và châu Mỹ Latin.

                  Bản tuyên ngôn độc lập Hoa Kỳ, tuyên bố vào 4 tháng 7 năm 1776,  là văn bản chính trị tuyên bố ly khai khỏi Anh của 13 thuộc địa Bắc Mỹ, dẫu tác giả là Thomas Jefferson là tổng thống thứ 3 của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ, người sáng lập ra Đảng Dân chủ-Cộng hòa Hoa Kỳ và là một trong những người theo chủ nghĩa tự do nhiệt thành lớn nhất thời cận đại, một chính khách thiên tài khác của nước Mỹ, mà sau này những người theo chủ nghĩa Thomas Jefferson trong nhiều năm trời vẫn tiếp tục không tin vào ảnh hưởng của Washington và cố tìm cách trì hoãn xây dựng tượng đài Washington, nhưng hình tượng của George Washington vẫn ngời sáng trong lòng dân như là người tiên phong khai sáng, vị cha già của nước Mỹ.

                  George Washington có tầm nhìn xa rộng về phương cách tổ chức một quốc gia hùng mạnh và vĩ đại, xây dựng trên nền tảng cộng hòa, biết yêu thương kính trọng con người, chăm lo đời sống nhân dân, sử dụng triệt để sức mạnh của toàn liên bang để cải thiện cơ sở hạ tầng, mở rộng lãnh thổ phía tây, lập trường đại học quốc gia, khuyến khích chấn hưng thương mại, xây dựng thành phố thủ đô (sau này được gọi là Washington, D.C.), giảm thiểu sự phân hóa giàu nghèo giữa các vùng, vinh danh tinh thần yêu nước, xóa bỏ tính cục bộ địa phương.Ảnh hưởng của ông với công chúng là tượng đài Washington sừng sững trong lòng dân.

                  Phong cách lãnh đạo chuẩn mực của ông là đặt việc công lên trên hết, “khiêm nhường, lễ nghĩa, công bình, nhân đạo, ôn hòa, và thành thật; trước sau như một, trang nghiêm và uy nghi”, không thu vén cá nhân, không tạo nên đặc quyền đặc lợi, xây dựng thể thức cộng hòa, chăm lo xây dựng định chế dân sự rất được lòng dân. Không phải bằng lời nói mà bằng việc làm, định chế tổ chức thực tiễn, George Washington đã ảnh hưởng đặc biệt sâu sắc đến hình thức, lễ nghi của chính quyền Mỹ không những của thời đó mà còn được sử dụng từ đó cho đến ngày nay. Thí dụ như cách tổ chức hệ thống nội các,  các buổi đọc diễn văn nhậm chức, thông điệp liên bang đã trở thành nền nếp quốc gia . George Washington với tư cách là tổng thống đã xây dựng một chính quyền quốc gia mạnh mẽ giàu tài chính, tránh khỏi chiến tranh, dập tắt nổi loạn, chiếm được sự đồng thuận của tất cả người Mỹ, làm thay đổi quan niệm của những lực lượng đối lập.

                  George Washington cuộc đời và sự nghiệp

                  George Washington sinh ngày 22 tháng 2 năm 1732 tại trang trại Pope’s Creek gần nơi nay là Colonial Beach, Quận Westmoreland, Virginia. Ông là con trai đầu của Augustine Washington (1694–1743) và người vợ thứ hai Mary Ball Washington (1708–1789). Ông cố của ông là  John Washington di cư từ Anh đến Virginia năm 1657. Một số tài liệu cho rằng George Washington và Nữ hoàng Anh Elizabeth II có chung tổ tiên. Cha của ông, Augustine là một nhà trồng thuốc lá có sở hữu người nô lệ và sau này có thử thời vận với nghề khai thác quặng sắt. Gia đình ông thuộc thành phần trung lưu tại Virginia..

                  Ông có bốn anh chị em ruột là Samuel, Elizabeth, John Augustine và Charles và có hai người anh cùng cha khác mẹ Lawrence và Augustine, là con của cha ông với bà vợ cả Jane Butler Washington. Ba anh chị em khác đã mất trước khi trưởng thành: em gái ruột Mildred chết lúc một tuổi, người anh trai khác mẹ mất khi còn sơ sinh và người chị khác mẹ Jane chết lúc 12 tuổi khi George hai tuổi. Lúc Washington 11 tuổi thì cha mất. Người anh khác mẹ của Washington là Lawrence sau đó trở thành người thay cha và cũng là mẫu người Washington noi gương. William Fairfax là cha vợ của Lawrence và là người anh em họ với địa chủ lớn nhất Virginia, Thomas Fairfax cũng có ảnh hưởng lớn đối với ông. Washington dành nhiều thời gian lúc còn bé ở nông trại Ferry trong Quận Stafford gần Fredericksburg. Lawrence Washington thừa hưởng gia sản khác của cha, đó là một đồn điền nằm trên bờ sông Potomac mà sau này ông đặt tên là Mount Vernon. Washington thừa hưởng nông trại Ferry ngay khi cha ông qua đời, và dần sau đó nhận thừa kế Mount Vernon sau khi Lawrence qua đời.

                  George Washington do cha mất sớm nên không có được cơ hội du học trường Appleby ở Anh như các người anh trai. Ông học trường làng tại Fredericksburg cho đến tuổi 15 và mong muốn vào  Hải quân Hoàng gia nhưng mẹ không cho vì cho là rất khó cho ông. Washington lúc 17 tuổi năm 1749 may mắn trở thành thanh tra quận Culpeper nhờ mối liên hệ của người anh trai cùng cha khác mẹ Lawrence với một gia đình quyền lực tại Fairfax. Đây là một nghề lương cao nên đã giúp cho ông mua được đất đai trong thung lũng Shenandoah, cũng là lần đầu trong nhiều vụ mua đất của ông tại Tây Virginia sau đó. Lawrence với vai trò tư lệnh địa phương quân Virginia, và có cổ phần trong Công ty Ohio, một công ty đầu tư đất đai bất động sản được tài trợ bởi những nhà đầu tư tại Virginia. Nhờ vị trí của Lawrence nên George Washington cao to, khôi ngô kỳ vĩ như một hảo hán, cao 1m88 vượt trội những người đương thời, đã lọt vào tầm mắt xanh của thống đốc mới Virginia là Robert Dinwiddie.

                  Năm 1751, Washington đã đi với anh trai cùng cha khác mẹ là Lawrence đến Barbados để giúp anh chữa trị  bệnh lao với hy vọng khí hậu tốt và thầy thuốc giỏi ở đó sẽ có thể giúp cho Lawrence bình phục. Tiếc thay Lawrence không thể qua khỏi và phải quay về Mount Vernon để mất ở đó năm 1752. Washington trong chuyến đi này bị dính bệnh đậu mùa làm cho khuôn mặt của ông bị rỗ, nhưng điều này cũng lại giúp cho ông miễn nhiễm với căn bệnh quái ác này về sau. Vị trí lãnh đạo địa phương quân Virginia của Lawrence sau khi ông mất, Thống đốc Dinwiddie chia cho bốn người và Washington được  bổ nhiệm làm một trong bốn vị trí mới đó, vào tháng 2 năm 1753 với cấp bậc thiếu tá. Washington cũng gia nhập Hội Tam Điểm tại Fredericksburg vào lúc đó. Hội Tam Điểm là một hội kín, có nghĩa là “nền tảng tự do”, dùng để chỉ một tập hợp “tự do, tự nguyện” được tạo dựng trên những môi trường hội nhập và những hiện tượng lịch sử, xã hội rất khác nhau. Cách tuyển chọn thành viên dựa theo nguyên tắc bổ sung, gọi tóm tắt là “tam giác quyền lực” như “thế tam phân” của kế lớn Khổng Minh trong Tam Quốc. Các nghi lễ gia nhập có liên hệ tới những ẩn dụ về người thợ xây đá. Tên gọi trong tiếng Việt của hội này là “Hội Tam Điểm” được giải thích là do các hội viên người Pháp khi viết thư cho nhau thường gọi nhau là sư huynh, sư đệ, hay đại sư phụ, viết tắt F hay M và thêm vào phía sau 3 chấm như 3 đỉnh hình tam giác đều. Hồ Chí Minh trên con đường tìm kiếm lý luận và thực tiễn của chủ thuyết “độc lập, tự do, hạnh phúc” có nghiên cứu sâu về Hội Tam Điểm và học thuyết khai sáng. Những bí ẩn  này cho đến nay vẫn chưa hé lộ và ít được nói tới).

                  Washington trong chiến tranh chống Pháp và người bản thổ:  Năm 1753, người Pháp bắt đầu mở rộng tầm kiểm soát quân sự của họ đến “Xứ Ohio“, là Virginia quê hương của Washington và  Pennsylvania hai trong số mười ba thuộc địa Anh tuyên bố chủ quyền. Cuộc tranh chấp chủ quyền này đã dẫn đến cuộc Chiến tranh chống người bản thổ và Pháp (French and Indian War) từ năm 1754 -1762. Cuộc chiến tranh này đã góp phần khởi sự Chiến tranh 7 năm trên toàn cầu (1756 – 1763) và George Washington ở vào đúng tâm điểm của cuộc chiến này khi mới bùng nổ. Công ty Ohio, cỗ xe đầu tư của các nhà tài phiệt người Anh đang mở rộng lãnh thổ bằng cách thiết lập những khu định cư mới và trạm mậu dịch mới để buôn bán với người dân bản thổ Mỹ. Thống đốc Dinwiddie nhận lệnh từ chính phủ Anh cảnh cáo người Pháp về chủ quyền của Anh tại vùng này và ông phái thiếu tá Washington cuối năm 1753 mang thư thông báo tuyên bố chủ quyền của Anh đến người Pháp và yêu cầu người Pháp phải dời đi. Washington cũng đã mang thư đến gặp “già làng” Tanacharison và các lãnh tụ khác của người bản thổ da đỏ Iroquois tại Logstown đang liên minh với Virginia để nhận sự ủng hộ của họ trong trường hợp có xung đột với người Pháp. Washington và già làng Tanacharison trở thành bạn bè và đồng minh. Washington giao lá thư này cho tư lệnh địa phương của Pháp nhưng ông này từ chối một cách lịch sự là không rời bỏ lãnh thổ này. Thống đốc Dinwiddie phái Washington trở lại Xứ Ohio để bảo vệ một nhóm nhân viên của Công ty Ohio đang xây dựng một pháo đài tại đây, nơi mà ngày nay là Pittsburgh, Pennsylvania. Nhưng trước khi Washington đến nơi thì một lực lượng Pháp đã đuổi hết các nhân viên làm việc của công ty ra khỏi khu vực này và họ bắt đầu xây dựng Đồn Duquesne. Một nhóm nhỏ quân Pháp do Joseph Coulon de Jumonville chỉ huy bị  Tanacharison và cận vệ của ông nhìn thấy người Pháp đang làm việc này tại khu vực phía đông mà nay là Uniontown, Pennsylvania. Washington và lính địa phương quân của mình đã cùng với các người bản thổ Mingo đồng minh phục kích người Pháp.  Viên chỉ huy người Pháp Jumonville bị trọng thương và bị giết chết. Nguyên nhân do đâu thì cho đến hiện nay vẫn còn tranh cãi, có thể là do “già làng” Tanacharison chém bằng rìu, cũng có thể do ai đó bắn chết bằng súng khi vị sĩ quan bị thương này ngồi cạnh Washington. Hai nghi vấn này đều chưa rõ ràng. Người Pháp phản ứng trả đũa bằng một cuộc tấn công và bắt Washington tại đồn Necessity vào tháng 7 năm 1754 vì tố cáo rằng  Washington ám sát Jumonville trong lúc Jumonville đang thực hiện một sứ mệnh ngoại giao. Tuy nhiên, Washington được phép quay trở về Virginia cùng với binh sĩ của mình vì thiếu bằng cớ. Sử gia Joseph Ellis kết luận rằng tình tiết trận đánh này đã chứng tỏ Washington can đảm, chủ động, thiện chiến nhưng thiếu kinh nghiệm. Pháp và Anh đều sẵn sàng lâm chiến để tranh giành quyền kiểm soát vùng này. Vì vậy cả hai nước đều đưa quân đến Bắc Mỹ năm 1755 và châm ngòi cho cuộc chiến tranh được chính thức tuyên bố vào năm 1756.

                  Washington sau đó làm là phụ tá cao nhất người Mỹ cho tướng Anh Edward Braddock trong cuộc hành quân xấu số lớn nhất của nước Anh đến các thuộc địa Bắc Mỹ, với ý định đuổi người Pháp ra khỏi Xứ Ohio. Họ bị rơi và ổ phục kích của quân Pháp và người bản xứ thân Pháp tại trận Monongahela. Tướng Anh Edward Braddock  bị chết ngay từ đầu và quân Anh bị thiệt hại nặng phải rút chạy tán loạn. Tuy vậy, Washington đã chứng tỏ lòng quả cảm khi ông không sợ nguy hiểm, cưỡi ngựa chạy quanh trận địa, động viên tàn quân Anh và địa phương quân Virginia rút lui có tổ chức. Sau trận thất bại này, Thống đốc Dinwiddie thăng chức Washington năm 1755 lên cấp bậc “đại tá trung đoàn Virginia và Tổng tư lệnh tất cả các lực lượng được tuyển mộ để bảo vệ thuộc địa của nhà vua”. Washington được giao nhiệm vụ bảo vệ biên cương Virginia. Trung đoàn Virginia là đơn vị quân sự toàn thời gian đầu tiên của người Mỹ tại các thuộc địa. Washington được quyền tùy nghi “hành động tự vệ hay phản công” bất cứ khi nào ông nghĩ là tốt nhất.

                  Washington là tư lệnh của một ngàn binh sĩ. Ông là một chiến binh gan dạ, có kỉ luật, giỏi huấn luyện và tổ chức chiến đấu. Ông đã lãnh đạo những cuộc chiến đầy thương vong nguy hiểm, chống lại người bản thổ Mỹ thiện chiến ở miền Tây (Họ không chấp nhận lưu dân da trắng tới nước Mỹ); Trung đoàn của Washington trong 10 tháng đã đánh 20 trận, hi sinh khoảng 1/3 quân số. Dân chúng ở vùng biên cương Virginia chịu đựng thiệt hại ít hơn so với các thuộc địa khác, an ninh được thiết lập, do tài năng cầm quân và nỗ lực của Washington.  “Đây là thành công không được nhắc đến duy nhất” trong cuộc đời binh nghiệp của ông. Năm 1758, Washington tham gia  cuộc viễn chinh Forbes nhằm chiếm Đồn Duquesne. Ông sượng sùng khi một đơn vị quân ông đánh nhầm một đơn vị Anh làm 14 người chết và 26 người bị thương vì lầm tưởng đó là quân Pháp. Kết quả là người Pháp rút bỏ đồn và người Anh đã hoàn toàn giành quyền kiểm soát thung lũng Ohio, ghi được một chiến thắng chiến lược lớn mà Washington không hề có bất cứ một trận đánh lớn khác trong cuộc hành quân này. Sau cuộc viễn chinh này, Washington trở về đời sống dân sự từ tháng 12 năm 1758 và chỉ trở lại đời quân nhân khi cuộc cách mạng Mỹ bùng nổ năm 1775.

                  Washington do trãi nghiệm thực tiễn nên đã tích lũy được các kỹ năng lãnh đạo chính trị, quân sự. Ông quan sát kỹ chiến thuật, hiểu rõ các điểm mạnh yếu của người Anh, người Pháp, mặc dù ông chưa hề được biên chế vào lục quân Anh và chưa được học những tinh hoa nghệ thuật quân sự của họ. Đó là những bài học vô giá cho ông trong suốt cuộc Cách mạng Mỹ sau này. Washington đã chứng tỏ  sự can đảm, kiên cường trong những tình huống khó khăn nhất, lúc nguy biến buộc tháo lui. Ông đã phát triển phong cách chỉ huy tận tâm, chịu đựng, quả cảm và xuất hiện trước chiến sĩ của mình như là một vị chỉ huy tự nhiên, tin cậy và họ tuyệt đối tuân lệnh ông. Qua tổ chức thực tiển các trận đánh, ông đã học và thực hành được những căn bản về nghệ thuật chiến tranh, cách  tổ chức và tiếp vận, hiểu biết tổng thể về chiến lược, đặc biệt là việc tìm ra những địa điểm địa chính trị chiến lược. Ông có tầm nhìn miền Tây từ thời điểm này.

                  Ngày 6 tháng 1 năm 1759, Washington kết hôn với Martha Dandridge Custis, một góa phụ thông minh xinh đẹp, có kinh nghiệm điều hành trang trại có nô lệ phục vụ, giàu có và đã có hai con riêng tên là  “Jackie” và “Patsy” với người chồng quá cố là John Parke Custis. Trước đó hình như ông có yêu Sally Fairfax sau này làm vợ của một người bạn. Cặp vợ chồng mới cưới dời về Mount Vernon gần Alexandria nơi ông sống cuộc đời của một người trồng trọt và một khuôn mặt chính trị. George Washington và Martha Washington không có con cái chung, có lẽ căn bệnh đậu mùa của ông năm 1751 đã khiến cho ông không thể có con. Washington do kiêu hãnh tuy không thể thừa nhận điều này nhưng lúc riêng tư ông cảm thấy buồn. Gia đình Washington sau này nuôi thêm hai cháu của bà Washington là Eleanor Parke Custis và George Washington Parke Custis. Cuộc hôn nhân của Washington với Martha đã làm gia tăng tài sản và địa vị xã hội của ông rất lớn lao. Ông trở thành một trong số những người giàu có nhất Virginia. Ông được một phần ba trong số 73 km² (18.000 mẫu Anh) điền sản của gia đình vợ ngay sau khi kết hôn, đáng giá khoảng 100.000 đô la Mỹ và quản lý phần điền sản còn lại cho con của Martha, những đứa con riêng của vợ mà ông chân thành chăm sóc. Ông mua thêm đất và được cấp đất ở vùng Tây Virginia như là tặng phẩm dành cho công lao phục vụ Chiến tranh chống người bản thổ và Pháp. Vào năm 1775, Washington tăng gấp đôi diện tích của Mount Vernon lên 26 km² (6.500 mẫu Anh) và tăng số người làm lên trên 100 người. Washington là một anh hùng quân sự được nể trọng và một chủ đất lớn nên ông có chức vị tại địa phương và được bầu vào nghị viện tỉnh Virginia bắt đầu vào năm 1758. Washington có lối sống quý tộc và săn cáo là một hoạt động nhàn rỗi ưa thích của ông. Ông cũng thích khiêu vũ, họp hội, xem kịch, xem đua ngựa và đá gà. Washington cũng biết chơi bài, chơi cờ và bi da. Ông ưa nhập những hàng hóa đắt tiền từ Anh và trả tiền hàng bằng cách bán thuốc lá mà ông trồng. Virginia là vùng thuốc lá nổi tiếng toàn cầu. Thị trường thuốc lá rớt giá làm nhiều người nợ nần, ngay cả Thomas Jefferson tổng thống đời thứ ba của Mỹ cũng là nhà trồng trọt ở Virginia lúc qua đời với nợ nần chồng chất. Washington tự cứu mình khỏi nợ bằng cách kinh doanh đa dạng và chuyển đổi mùa vụ chính sinh lợi từ thuốc lá sang lúa mì. Patsy Custis (con gái riêng của vợ ông, mất năm 1773 vì động kinh ) đã giúp cho Washington trả hết nợ nần cho những chủ nợ người Anh vì phân nửa tài sản của Patsy được đưa sang cho ông. 

                  George Washington từ một người lính đã trở thành một nhà nông học thành công. Ông trở thành một lãnh đạo trong giới thượng lưu xã hội tại Virginia. Từ năm 1768 đến năm 1775, mỗi năm ông mời khoảng 2000 khách đến nhà mình, đó là những người bạn thân thiết chọn lọc. Đặc tính khiêm nhường, ôn hòa, điềm tĩnh là phong cách sống thường ngày của Washington: “trang nghiêm và uy nghi, trước sau như một, ôn hòa và thành thật, lễ nghĩa công bình nhân đạo” “hãy thân thiện với mọi người nhưng giữ khoảng cách thích hợp vì khi họ càng quen thì họ càng lờn mặt, và lúc đó bạn mất quyền lực đối với họ”. Năm 1769, ông trở nên tích cực hoạt động chính trị, đệ trình lên nghị viện Virginia đạo luật cấm nhập cảng hàng hóa từ Vương quốc Anh. Năm 1754 Phó thống đốc Dinwiddie hứa tặng đất đai cho các sĩ quan và binh sĩ có công trong cuộc Chiến tranh chống người bản thổ và Pháp. Washington nhận được khoảng 81 km² (23.200 mẫu Anh) gần sông Kanawha đổ vào sông Ohio, nay là Tây Virginia. Đây là thời gian trước cuộc cách mạng Mỹ.

                  George Washington tích cũ viết lại

                  Truyện George Washington được viết căn cứ trên các nguồn thông tin tuyển chọn tại Từ Điển Bách Khoa Mở Wikipedia Tiếng Việt, và đối chiếu với bản tiếng Anh cùng thư mục. Bài viết được chắt lọc tư liệu với mục đích cung cấp cho bạn đọc, học sinh và sinh viên Việt Nam tài liệu tin cậy về một nhân vật lịch sử vĩ đại của nhân loại.

                  Bản tuyên ngôn độc lập do Hồ Chí Minh viết, sau đó đọc tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, ngày 2 tháng 9 năm 1945, tuyên bố Việt Nam độc lập, thoát khỏi ách đô hộ của thực dân Pháp, phát xít Nhật, thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, câu đầu tiên trích dẫn Bản tuyên ngôn độc lập Hoa Kỳ “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do“.

                  Hồ Chí Minh đã noi gương George Washington gầy dựng nước Việt Nam mới.

                  HoaYenTu

                  MỘT VÙNG TRỜI NHÂN VĂN
                  Hoàng Kim

                  Gương trời lồng lộng ban mai
                  Thung dung ta đến
                  vùng trời nhân văn
                  Thịnh suy thế nước ngàn năm
                  Anh hùng là kẻ vì dân vì đời.

                  Bên lề chính sử dạo chơi
                  Rùa ơi thương Cụ biết nơi chọn về.
                  Kỳ Lân mộ, Tháp Rùa bia
                  Bia đời, bia miệng khắc ghi lòng người.

                  Tìm nơi tỉnh lặng (*) ta ngồi
                  Tình yêu cuộc sống là nơi thư nhàn
                  Câu thơ lưu lạc trần gian.
                  Hoàng Thành Cổ Kiếm Hồ Gươm gọi về…

                  Hoàng Thành Hà Nội: Di sản thế giới tại Việt NaXem tiếp >>

                    Dạy và học 15 tháng 7(15-07-2021)


                  DẠY VÀ HỌC 15 THÁNG 7
                  Hoàng Kim

                  CNM365 Tình yêu cuộc sốngĐến Neva nhớ Pie Đại Đế; Càu hiếu nối bờ thương, Sông ThươngCâu chuyện ảnh tháng Bảy; Câu cá bên dòng Sêrêpôk; Nơi hợp lưu Đông Dương; Sông Volga và sông Neva; Từ Mekong nhớ Neva; Việt Nam con đường xanh: Mười kỹ thuật thâm canh sắnGS Võ Tòng Xuân Cải tiến giống lúa; Neva là dòng sông mẹ lớn thứ hai chảy qua thành phố Sankt Peterburg thủ đô phương Bắc của nước Nga Ngày 15 tháng 7 năm 1240, trên sông Neva quân Nga Novgorod dưới quyền danh tướng Aleksandr Nevsky đã đánh bại quân Thụy Điển. Ông là vị tướng anh hùng dân tộc Nga,đứng đầu trong danh sách 12 danh tướng vĩ đại nhất của nước này. Ngày 15 tháng 7 năm 1799, binh sĩ Pháp phát hiện ra Phiến đá Rosetta là tấm bia Ai Cập cổ đại ba ngôn ngữ, chìa khóa vô giá để hiểu ngôn ngữ tượng hình Ai Cập, ở gần thành phố cảng Rosetta thuộc Ai Cập. Ngày 15 tháng 7 năm 1904 là ngày mất Sêkhốp Antôn Paplôvich nhà vǎn nổi tiếng Nga. Bài chọn lọc ngày 15 tháng 7: Đến Neva nhớ Pie Đại Đế; Càu hiếu nối bờ thương, Sông Thương; Câu chuyện ảnh tháng Bảy; Câu cá bên dòng Sêrêpôk; Nơi hợp lưu Đông Dương; Sông Volga và sông Neva; Từ Mekong nhớ Neva; Việt Nam con đường xanh: Mười kỹ thuật thâm canh sắnGS Võ Tòng Xuân Cải tiến giống lúa; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.comhttp://fa,hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-15-thang-7/

                  ĐẾN NEVA NHỚ PIE ĐẠI ĐẾ
                  Hoàng Kim
                  Pie Đại Đế là người đã hiến trọn đời mình để sông Neva trở thành huyền thoại, Sankt-Peterburg trở thành cửa chính của nước Nga nhìn ra thế giới, nơi vùng đất bùn lầy, lạnh lẽo này của đêm trắng bình minh phương Bắc đã trở thành miền di sản.  Pie đại đế là nhân vật lịch sử vĩ đại nhất nước Nga, vượt cả Stalin và Lê Nin theo kết quả bình chọn của nhân dân Nga trong cuộc thăm dò ý kiến “Tên của nước Nga – Sự lựa chọn lịch sử năm 2008″ do kênh truyền hình Rossia cùng với Viện Lịch sử Nga thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Nga và Quỹ ý kiến xã hội tổ chức. Ông là kiến trúc sư của những thành tựu đặc biệt to lớn trong công cuộc hiện đại hóa đất nước, chuyển đổi mạnh mẽ một nước Nga lạc hậu, đi sau Tây Âu hàng trăm năm  vượt lên trở thành một trong năm đại đế quốc của châu Âu, chỉ  trong một thời gian ngắn. Pie đại đế có tố chất quân vương vừa cứng rắn vừa mềm dẽo: vừa nhiệt huyết kiên quyết, vừa bao dung mềm mỏng, vừa tàn nhẫn cứng rắn, vừa tình cảm ân nghĩa. Ông đã tạo nên bước ngoặt trong lịch sử nước Nga.


                  Pie Đại Đế là nhân vật lịch sử vĩ đại nhất nước Nga. Ông đã có những thành tựu đặc biệt to lớn trong công cuộc hiện đại hóa đất nước, chuyển đổi mạnh mẽ một nước Nga lạc hậu, đi sau Tây Âu hàng trăm năm  vượt lên trở thành một trong năm đại đế quốc của châu Âu, chỉ  trong một thời gian ngắn. Pie Đại Đế có tố chất quân vương vừa cứng rắn vừa mềm dẻo, vừa nhiệt huyết kiên quyết, vừa bao dung mềm mỏng, vừa tàn nhẫn cứng rắn, vừa tình cảm ân nghĩa. Ông đã tạo nên bước ngoặt  lịch sử nước Nga.

                  Pie đại đế sinh ngày 10 tháng 6 năm 1672 tại Moskva,  mất ngày  8 tháng 2 năm 1725 tại Sankt-Peterburg. Ông là Sa hoàng của nước Nga cũ và sau đó là Hoàng đế của Đế quốc Nga từ năm 1721, đồng cai trị với vua anh Ivan V, một người yếu ớt và dễ bệnh tật, trước năm 1696. Ông được tôn là Pyotr Đại Đế hay Pierre Đại Đế, Pie Đại Đế. Ông được xem là một trong những nhà cải cách kiệt xuất nhất trong lịch sử Nga.

                  Pie Đại Đế  đã tiến hành cuộc cải tổ lớn lao tại nước Nga Sa hoàng. Trong những năm 1697 – 1698 ông đi vòng quanh Tây Âu, học được những điều mới lạ ở đó và truyền vào Nga. Dưới triều ông, nước Nga có nền kinh tế phát triển và thành lập thể chế nghị viện. Trong việc xây dựng đất nước, Pie Đại Đế thường tham vấn những cố vấn tài ba người nước ngoài. Nhờ vậy, dưới triều đại không lâu dài của ông (1696 – 1725), nước Nga trở thành một đế quốc hùng cường trên thế giới thời đó, Hải quân Nga được thành lập. Người Nga đã có đủ sức giành chiến thắng trước hai cựu thù vào thời đó là đế quốc Ottoman và Thụy Điển,  tái chiếm các lãnh thổ đã mất và lấy đường thông ra biển. Năm 1703, ông hạ lệnh cho xây dựng thành phố Sankt-Peterburg. Chính tại đây, năm 1782 nước Nga đã hoàn thành việc xây cất tượng Pyotr I – tức tượng “Kị sĩ đồng”. Sankt – Peterburg trở thành một “thành Venezia của phương Bắc”, và trở thành kinh đô nước Nga vào năm 1712. Người Nga đã ca ngợi ông như một vị “Đại đế Ross toàn nước Nga”, hay “Cha của Tổ Quốc”.

                  Kết quả của cuộc thăm dò ý kiến nhân dân Nga “Tên của nước Nga – Sự lựa chọn lịch sử năm 2008″ do kênh truyền hình Rossia cùng với Viện Lịch sử Nga thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Nga và Quỹ ý kiến xã hội tổ chức. Kết quả đã bình chọn Pie Đại Đế là nhân vật lịch sử vĩ đại nhất nước Nga, kế đến là  Stalin, Le Nin, Nga hoàng Nikolai II và Nữ hoàng Elizaveta Petrovna được đánh giá là những nhà lãnh đạo kiệt xuất nhất lịch sử nước Nga. Điều đó  đã chứng tỏ những đánh giá của nhân dân Nga xuyên suốt một quá trình trải nghiệm lịch sử lâu dài.

                  Pie Đại Đế đã được sự  ngưỡng mộ đặc biệt của nhân dân Nga, sử gia và nhân dân  nhiều nước trên thế giới. Ông có công lớn  trong công cuộc xây dựng lực lượng hải quân, đội thương thuyền hàng hải và hiện đại hóa nước Nga, xây dựng Sankt-Peterburg, xây dựng hệ thống đường sá kênh đào vĩ đại, hoàn thiện cơ sở pháp luật, cải cách hành chính, lập nên Viện Hàn lâm Khoa học, thiết lập trường xóa mù chữ và dạy toán cấp cơ sở, trường kỹ thuật đào tạo thợ chuyên môn, xưởng in, nâng cao vai trò người phụ nữ,…

                  Pie Đại Đế là một vĩ nhân có tầm nhìn chiến lược sâu rộng, nhận thức đúng đắn và quyết tâm sắt đá cao độ để đi đến đích. Ông nung nấu hoài bão hiện đại hóa nước Nga nằm kề bên Tây Âu lúc ấy đã tiến bộ khá xa. Vua Pie Đại Đế đã  tự mình đóng một chiếc tàu và học cách điều khiển nó, tổ chức riêng cho mình một đội quân và tập trận thường xuyên để cuối cùng chuyển thành đội quân tinh nhuệ hơn hẳn lực lượng nòng cốt của triều đình. Ông tổ chức một phái bộ sứ thần đi Tây Âu để học hỏi và tuyển chọn nhân tài về giúp cho triều đình của mình. Ông vào vai thợ mộc học nghề ở Hà Lan để tự tay đóng một tàu chiến bắt đầu từ những súc gỗ thô sơ cho đến khi hạ thủy. Vua Pie đại đế sớm nhận ra nước Nga bao la không có hải quân mạnh, chỉ có đội thuyền đi đường sông, chỉ có một cảng biển thông ra thế giới trong sáu tháng mỗi năm; Vua Pie đại đế nhận thức được công dụng diệu kỳ của thuyền buồm có thể đi ngược gió, điều mà các loại thuyền bè của Nga hồi ấy không làm được. Ông đã quyết tâm xây dựng hải quân Nga và tạo dựng cảng biển từ tầm nhìn chiến lược sâu rộng đó.

                  Pie Đại đế là người quyết đoán và quyết tâm rất cao. Ông đã xây dựng thành phố Sankt-Peterburg bề thế từ bãi đầm lầy ngay cả trong những năm tháng chiến tranh, ngay cả khi vùng đất mới chiếm được từ Thụy Điển, chưa có hòa ước để hợp thức hóa là thuộc Nga vĩnh viễn. Ông ra lệnh tịch thu chuông nhà thờ để đúc đại bác phục vụ công cuộc chống ngoại xâm bất chấp giáo hội đầy quyền uy phản đối. Ông đòi hỏi các tầng lớp tăng lữ, quý tộc và thương nhân góp chi phí vào việc xây dựng hải quân, nếu ai không làm sẽ bị tịch thu gia sản, ai kêu nài sẽ phải đóng góp thêm. Ông ra lệnh đàn ông Nga phải cắt râu cho gọn và tất cả người Nga phải chuyển trang phục truyền thống sang kiểu gọn nhẹ , mục đích để dân Nga tăng năng suất làm việc. Ông thể hiện quyết tâm sắt đá giành đường giao thông hàng hải và căn cứ hải quân Nga bằng việc tranh đoạt Sankt-Peterburg thể hiện qua chính sách là có thể nhượng bộ Thụy Điển bất cứ điều gì, ngoại trừ trả lại Sankt-Peterburg. Quyết tâm này được lưu truyền mãi về sau, với kết quả là Sankt-Peterburg vẫn đứng vững trước các cuộc tấn công của vua Karl XII của Thụy Điển, cũng như của Hoàng đế Napoléon I của Pháp và Adolf Hitler của Đức Quốc xã sau này.

                  Pie Đại đế xác lập được quyền uy tuyệt đối vì rất biết trọng dụng nhân tài, cho dù họ là người Nga hoặc người nước ngoài. Ông ban hành luật theo ý muốn, ngay cả quyền xử tử hình bất cứ ai đi ngược lại ý ông. Trong một thể chế quân chủ lập hiến và một bối cảnh xã hội nước Nga trì trệ  thì chế độ độc đoán, hà khắc, đôi lúc tàn bạo của ông, có ý nghĩa cải tổ, tuy có làm mất đi một số giá trị truyền thống của xã hội Nga. Những tầng lớp thấp trong xã hội Nga, đặc biệt là nông dân, ít được hưởng lợi trực tiếp từ thành quả của ông, trái lại, họ còn khổ sở hơn vì phải trực tiếp hoặc gián tiếp chịu gánh nặng để xây dựng căn cứ hải quân, xây thành phố Sankt-Peterburg, chi phí cho cuộc chiến với Thụy Điển. Sự biện luận là khi nước Nga hùng cường thì đời sống nông dân Nga cũng được nâng cao hơn.

                  Pie Đại đế rất sâu sát thực tiễn và hiếu học. Ông đi viếng thăm đủ mọi nơi: nhà máy chế biến, xưởng cưa, nhà máy in, xưởng xe sợi, nhà máy giấy, xưởng cơ khí, viện bảo tàng, vườn thực vật, phòng thí nghiệm,… Ông đến thăm và hỏi han các kiến trúc sư, nhà điêu khắc, kỹ sư, nhà thiên nhiên học, người phát minh kính hiển vi, giáo sư giải phẫu học,… Ông học hỏi từ người hành nghề tầm thường nhất để biết cách vá quần áo của mình, đóng một đôi dép cho riêng mình, và còn tập tháo ráp đồng hồ. Ông luôn phân tích tại sao dân Nga quá nghèo và dân Tây Âu quá giàu khi thơ thẩn đi xem phố xá, chợ búa nước ngoại cho đến lúc nghiêm túc gặp các nhà khoa học, các nơi làm việc. Với một sự hiếu học hiếm thấy và sự tự do phóng khoáng trong suy nghĩ mà du học sinh Pyotr Mikhailov đã hiểu rất sâu về thực tiễn thuộc nhiều lĩnh vực :ngoại thương, cảng biển, đội thương thuyền,  tôn giáo…. để đúc kết thành chiến lược đồng bộ, tổng thể phát triển nước Nga.

                  Stalin rất ngưỡng mộ Pie Đại Đế. Trong “Điếu Ngư Đài quốc sự phong vân” những bí mật của nền ngoại giao Trung Quốc, do Lý Kiện biên soạn, Nhà Xuất bản Văn nghệ Thái bạch (Trung Quốc) ấn hành, NXB Văn hóa Thông tin năm 2003, có kể lại câu chuyện lịch sử: Đêm trước của cuộc nội chiến Quốc Cộng kéo dài hơn hai mươi năm, Tưởng Giới Thạch từng giữ mối quan hệ ngoại giao chính thức với Stalin đã dự cảm thầy Đảng Cộng sản Trung Quốc do Mao Trạch Đông đứng đầu sẽ trở thành đối thủ khó có thể chiến thắng được. Mẫn cảm và đa mưu, Tưởng Giới Thạch gọi con là Tưởng Kinh Quốc tới giao nhiệm vụ thay mặt ông giao hảo với Stalin (tương tự như quan hệ Trung Mỹ từ lâu ông đã giao độc quyền cho vợ ông là Tống Mỹ Linh). Tưởng Giới Thạch nói với Tưởng Kinh Quốc: ” Cha muốn mời Liên Xô đứng ra thử dàn xếp hộ quan hệ giữa cha và Mao Trạch Đông. Chỉ cần Trung Cộng hạ vũ khí, thống nhất mệnh lệnh hành chính, chúng ta và Mao Trạch Đông vẫn có thể là cộng sự được! Mao Trạch Đông không nghe cha, nhưng có thể lời nói của Stalin và người Liên Xô đối với họ ít nhiều cũng có tác dụng”. Cuối năm 1945, Tưởng Kinh Quốc sang Liên Xô gặp Stalin trong phòng làm việc ở điện Kremlin. Tất cả vẫn như cũ, duy chỉ có một điều hơi khác lần trước Tưởng Kinh Quốc diện kiến Stalin năm 1931 là “Ngày trước ở sau lưng bàn sách của Stalin treo một bức tranh sơn dầu Lê Nin đứng trên xe tăng kêu gọi nhân dân lao động” Bây giờ thì đổi là bức ảnh Pie Đại Đế. Lúc đầu Tưởng Kinh Quốc không hiểu, qua gợi mở của người thư ký Stalin, mới như bừng ra điều đại ngộ. Thì ra ”giờ khác, trước khác” thời thế đã biến đổi. Quả như dự liệu, Stalin muốn đứng trung lập giữa Tưởng và Mao để “tọa sơn quan hổ đấu”. Tưởng Giới Thạch sau lần đi đó của Tưởng Kinh Quốc đã tinh ý nhận biết sự chuyển hóa của đại cục, Tưởng chọn chiến lược ngã hẳn về Mỹ nên dù thua, vẫn neo được Đài Loan cho mãi đến tận ngày nay.

                  Pie Đại Đế, đến nay sau ba thế kỷ khi ông qua đời (1725-2015) , vẫn sừng sững  là một biểu tượng nhân vật lịch sử vĩ đại nhất nước Nga. Ông được những nhà khoa học, văn nghệ sĩ kiệt xuất và quảng đại quần chúng nhân dân tôn kính, ngưỡng mộ và ca ngợi nồng nàn. Pie Đại Đế cùng nữ hoàng Ekaterina II là hai người được Tổng thống Nga Vladimir Vladimirovich Putin đề cao nhất trong lịch sử nước Nga.

                  Tài liệu về Pie đại đế được Wikipedia Tiếng Việt đúc kết  và Tình yêu cuộc sống thu thập giới thiệu trên trang Chào ngày mới 27 tháng 5. Đây là ngày mà năm 1703, Pie đại đế khởi công xây dựng thành phố Sankt-Peterburg trên vùng đất bùn lầy, lạnh lẽo, sau này thành di sản văn hóa thế giới.

                  Pie Đại đế nhân vật lịch sử vĩ đại nhất nước Nga.

                  Sankt-Peterburg là thủ đô phương Bắc thành phố lớn thứ hai của nước Nga, đã được UNESCO công nhận là thành phố du lịch hấp dẫn thứ 8 của thế giới. Pie Đại đế nhân vật lịch sử vĩ đại nhất nước Nga sau khi đi học nước ngoài chợt bừng tỉnh ngộ khi hiểu ra vì sao nước Anh nhỏ bé lại làm bá chủ thế giới thời đó, chính vì nước Anh có đội thương thuyền hùng mạnh đi khắp toàn cầu, trong khi nước Nga mênh mông lại quẩn quanh nội địa, tự bằng lòng với giấc mơ con mà không thể có được vị thế như vậy.

                  Pie Đại Đế dốc sức cho Sankt-Peterburg  cửa chính nhìn ra thế giới, xây dựng một thành phố hải cảng hùng mạnh cho hải quân Nga. Ông đã dành trọn đời cho Sankt-Peterburg để biến giấc mơ Nga thành hiện thực, thành đại nghiệp lớn nhất đời ông.

                  Tôi đến thăm Sankt-Peterburg trong một chuyến đi ngắn ngày, ngắm nhìn tượng đài Pie Đại Đế và dòng sông Nê va cuộn chảy. Biết bao du khách say mê ngắm nhìn nét đẹp kiều diễm của thành phố Hoa hậu Thế giới; Thật ngưỡng mộ tầm nhìn của nhà chiến lược thiên tài đã chấn hưng dân tộc Nga. Đúng là niềm tự hào trân trọng của nước Nga. Tôi đã trãi lòng mình trong bài viết Đêm trắng và bình minh; Từ Mekong nhớ Neva; Pie Đại đế nhân vật lịch sử vĩ đại nhất nước Nga.

                  Sankt-Peterburg còn gọi là “Thành phố Thánh Phêrô”, là một thành phố liên bang của Nga, thành phố lớn thứ nhì ở Nga và cũng là cố đô của Đế quốc Nga. Đối với người Việt vào đầu thế kỷ 20 thì Sankt-Peterburg được phiên âm là Thành Bỉ Đắc như trong bài “Á Tế Á ca” của Phan Bội Châu.  Sankt-Peterburg nằm trên một loạt đảo nhỏ trong châu thổ sông Neva; con sông này thông với Vịnh Phần Lan, tạo vị thế hải cảng cho Sankt-Peterburg.

                  Sankt-Peterburg có diện tích tự nhiên hơn 670 km², nếu tính cả vùng phụ cận khoảng 1.439 km², dân số khoảng  4,7 – 6,0 triệu người. Địa danh Sankt-Peterburg đã đổi tên nhiều lần, nguyên thủy là Sankt-Peterburg; khi Chiến tranh thế giới lần thứ nhất  nổ ra vào năm 1914 và Nga bị Đế quốc Đức xâm lăng thì thành phố cải danh là Petrograd để tránh nguyên danh gốc tiếng Đức; trong khoảng thời gian từ năm 1924 đến 1991 dưới chính thể Liên Xô thành phố mang tên Leningrad để tưởng niệm Vladimir Ilyich Lenin,  cố lãnh tụ Liên Xô  Sau khi Liên Xô sụp đổ, với cuộc trưng cầu dân ý năm 1991, địa danh ban đầu Sankt-Peterburg đã được dùng lại.

                  Sa hoàng Nga trong tất cả các triều đại Romanov đều mong muốn tạo đường thủy liên kết với Biển Baltic nhưng trên 100 năm từ cuối thế kỷ 15 đến cuối thế kỷ 16 đều không thể đạt được mục tiêu mong muốn này. Người Nga cho đến thời Pie Đại Đế mới tới được biển Baltic nhờ chiến tranh phương Bắc (1701-1721), chống lại Thụy Điển suốt 20 năm và nhờ chiến thắng trong trận Poltava vào năm 1710, cũng như những thỏa ước hòa bình có lợi cho cả  Nga và Thụy Điển tại Nystad mà Sa hoàng Pie Đại Đế mới đã có thể khai thác được các miền ven biển Baltic.

                  Bài học lớn từ Pie Đại Đế có quan hệ nhiều đếnKarl XIV Johan là vua Thụy Điển và Na Uy sau này ( Karl XIV Johan có tên khai sinh là Jean-Baptiste Bernadotte, về sau lấy tên là Jean-Baptiste Jules Bernadotte sinh ngày 26 tháng 1 năm 1763, mất ngày 8 tháng 3 năm 1844 với tiếng Na Uy là Karl III Johan từ năm 1818 đến khi lúc băng hà. Bernadotte đã có một sự nghiệp phụng sự lâu dài trong quân đội Pháp và đã được Napoléon I phong cho tước thống chế Pháp. Ông trở thành Thái tử nhiếp chính đầu tiên, kế vị ngai vàng của vua Thụy Điển năm 1810. Câu chuyện tự cường của  Pie Đại Đế quan hệ nhiều đến sự lựa chọn quyết sách của Bernadotte tách ra khỏi những tranh chấp của các con hổ lớn châu Âu và tìm đường riêng chấn hưng đất nước. Nhưng đó là câu chuyện khác mà tôi sẽ kể sau.

                  Pie Đại Đế giấc mơ lớn nhất là xây dựng một thành phố thật qui củ để qua đó chứng tỏ sự hùng hậu của nước Nga. Dự án của công trình này được bắt đầu ngay từ năm 1703 trên Hòn đảo con thỏ giành được từ tay người Thụy Điển (người Viking). Công trình được xây dựng đầu tiên trên đảo là pháo đài Sankt Piterburh, ngày nay gọi là Pháo đài Petro-Pavlov, thực hiện theo lệnh của Pie Đại Đế ngày 16 tháng 5 năm 1703 được chính thức chọn làm “ngày khai sinh” của thành phố. Trên phiến đá kỉ niệm dịp này người ta đã khắc dòng chữ: “Ngày 16 tháng 5 năm 1703, thành phố Sankt-Peterburg đã được Sa hoàng và Hoàng tử Aleksei Petrovich xếp đặt”.

                  Triều đại Sa hoàng cuối cùng, Nikolai II sa lầy và kiệt sức trong Chiến tranh thế giới thứ nhất. Đây là cuộc chiến diễn ra giữa phe Hiệp Ước (chủ yếu là Anh, Pháp, Nga, và sau đó là Hoa Kỳ, Brasil) và phe Liên Minh (chủ yếu là Đức, Áo-Hung và Bulgaria) từ tháng 8 năm 1914 đến tháng 11 năm 1918, có quy mô lớn nhất trong lịch sử nhân loại; về quy mô và sự khốc liệt, nó chỉ đứng sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Tất cả những Đế quốc tham chiến đều sụp đổ trong cuộc chiến này. Nó đã tạo điều kiện cho đảng Bolshevik lên nắm quyền tại nước Nga, và mở đường cho Adolf Hitler lên cầm quyền tại Đức.

                  Ở Sankt Peterburg trước Cung điện Mùa đông ngày chủ nhật 22/1/1905, quân đội đã nã súng vào đoàn người biểu tình làm thiệt mạng khoảng 1000 người trong đó có cả phụ nữ và trẻ em đã chết. Sự kiện Ngày Chủ nhật đẫm máu đã bị nhân dân toàn thế giới lên án. Các cuộc nổi dậy của nông dân, bãi công, biểu tình, ám sát và binh biến diễn ra liên tiếp, cho đến khi Sa hoàng Nikolai miễn cưỡng chấp nhận yêu sách của những người phản đối. Tháng 10 năm 1905, Sa hoàng Nikolai đã ký một văn kiện hứa đảm bảo quyền tự do ngôn luận và thành lập viện Duma một hạ viện thông qua bầu cử. Tình hình vẫn không giảm sau năm 1916, giá thức ăn tăng gấp 4 lần. Đoàn người chờ bánh mì trước Cung điện Mùa đông bắt đầu gây náo loạn. Trong khi đó, quân lính không theo lệnh vua, đứng ra lãnh đạo đoàn người biểu tình. Dân chúng luôn yêu cầu Sa hoàng phải thoái vị. Sau sự kiện Ngày Chủ nhật đẫm máu, không một quốc gia châu Âu nào đồng ý tiếp nhận vị Sa hoàng bị trục xuất này.

                  Đến năm 1917 nước Nga đã bị kiệt sức bởi chiến tranh và nhân dân đã quá căm giận nhà cầm quyền. Những người cộng sản Bolshevik Nga nêu cao khẩu hiệu “Biến chiến tranh đế quốc thành nội chiến cách mạng”. Đến tháng 3 năm 1917, Cách mạng tháng 2 đã nổ ra, Sa hoàng thoái vị, Chính phủ lâm thời thành lập do Kerensky đứng đầu. Những người Bolshevik do Vladimir Ilyich Lenin và Lev Trotsky đứng đầu  tiếp tục đấu tranh, tổ chức các cuộc nổi dậy lan rộng khắp đất nước. Đến ngày 7/11/1917, Cách mạng tháng Mười Nga thành công, lật đổ Chính phủ Lâm thời và lập ra nhà nước công nông đầu tiên.

                  Sankt-Peterburg sau năm 2014 đã cải danh là Petrograd để tránh nguyên danh gốc tiếng Đức đến năm 2014 Vladimir Ilyich Lenin mất, thành phố được đặt là Leningrad để tưởng nhớ người anh hùng. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, cuộc chiến thảm khốc nhất của lịch sử nhân loại, bắt đầu từ năm 1937 và chấm dứt vào năm 1945 giữa các lực lượng Đồng Minh và phe Trục theo chủ nghĩa phát xít, thì Sankt-Peterburg là một trong những nơi ác liệt nhất toàn cầu. Tháng 9 năm 1941, quân Đức bao vây Leningrad, cuộc vây hãm kéo dài 872 ngày, gần một triệu người đã chết vì bom đạn, đói khát và bệnh tật. Thành phố phương bắc giá lạnh bị vây hãm không có chất đốt để sưởi ấm và nước để uống, thức ăn không đủ. Trong tình trạng thiếu thốn đó, thịt của động vật nuôi, chuột và chim được sử dụng để nuôi con người. Chỉ tính riêng trong tháng Giêng và tháng Hai lạnh giá, đã có tới 200 nghìn người bị chết. Cuối cùng, cuộc phong toả chấm dứt vào ngày 27/1/1944. Khi quân Đức tiến vào thành phố, gần ba triệu người đã bị bắt, tuy vậy nhiều người đã vượt ra ngoài.

                  Tên thành phố Sankt Peterburg được đổi lại tên ban đầu sau khi Liên Xô tan rã thành 15 nước khác nhau. Trong chính thể nước Nga, nền kinh tế Sankt Peterburg được hồi phục, Tự do ngôn luận đã tạo một môi trường sôi động cho đời sống xã hội. Các hoạt động tôn giáo và nghệ thuật được phát triển. Du lịch trở thành nền kinh tế chính của thành phố. Các điểm đến du lịch hấp dẫn như Cung điện mùa đông, Cung điện mùa hè…đẹp tuyệt vời sáng chói giữa phương Bắc lạnh giá của nước Nga .

                  Thành phố Saint Petersburg nằm trên vùng đất thấp taiga dọc theo bờ biển của vịnh Neva thuộc Vịnh Phần Lan, và các đảo của đồng bằng châu thổ. Nơi cao nhất từ mực nước biển đến điểm cao nhất là 175,9 mét tại đồi Orekhovaya thuộc Duderhof Heights ở phía nam. Nơi thấp nhất là phần đất ở phía tây của Liteyny Prospekt không cao hơn 4 mét so với mực nước biển, và thường xuyên bị ngập. Ngập lụt ở Saint Petersburg chủ yếu từ sóng dài của biển Baltic, do chịu sự ảnh hưởng của các điều kiện khí tượng, gió và độ nông của vịnh Neva.  Đập Saint Petersburg đã được xây để ngăn lụt. Đảo Vasilyevsky là đảo lớn nhất cùng nhiều đảo khác nay hầu hết được chuyển thành các công viên và khu nghỉ dưỡng.  Từ thế kỷ 18 địa hình của thành phố được nâng lên do các yếu tố nhân tạo, ở những nơi có độ cao trên 4 mét, làm sáp nhập một số đảo, và thay đổi chế độ thủy văn của thành phố. Bên cạnh sông Neva và các phụ lưu của nó, các sông quan trọng khác gồm Sestra, Okhta và Izhora. Hồ lớn nhất là Sestroretsky Razliv nằm ở phía bắc, theo sau là Lakhtinsky Razliv, Suzdal và các hồ nhỏ khác.

                  Saint Petersburg thuộc nhóm khí hậu lục địa ẩm, thành phố có khí hậu ấm ẩm, mùa hè ngắn, mùa đông ẩm ướt, kéo dài. Nhiệt độ trung bình ấm nhất là vào tháng 7 khoảng 23 °C. Nhiệt độ trung bình năm là 5,8 °C. Nhiệt độ thấp nhất vào mùa đông là −35,9 °C được ghi nhận vào năm 1883. Sông Neva chảy qua thành phố thường bị đóng băng vào tháng 11-12 và tan băng vào tháng 4. Từ tháng 12 đến tháng 3, trung bình có 118 ngày bị phủ tuyết, với bề dày trung bình khoảng 19 cm vào tháng 2. Thời gian không đóng băng trong thành phố kéo dài trung bình 135 ngày. Trung tâm thành phố hơi ấm hơn vùng ngoại ô. Các điều kiện khí hậu khá thay đổi trong cả năm. Lượng mưa trung bình năm là 660 mm, cao nhất vào cuối hè và thay đổi tùy nơi trong thành phố. Độ ẩm không khí trung bình 78% và mỗi năm có khoảng 165 ngày nhiều mây.

                  Độ dài ngày ở Saint  Petersburg thay đổi theo mùa, do thành phố nằm ở 60°vĩ độ Bắc. Từ giữa tháng 5 đến giữa tháng 7, hoàng hôn có thể kéo dài cả đêm nên được gọi là “đêm trắng”. Mời bạn đọc câu chuyện thú vị này trong bài Đêm trắng và bình minh.

                  Sông Neva nơi lưu dấu những huyền thoại. Neva là một con sông ở phía tây bắc Nga chảy từ hồ Ladoga qua phía tây của Sankt-Peterburg đến Neva của vịnh Phần Lan. Đây là con sông huyền thoại nơi Pie Đại Đế nhân vật lịch sử vĩ đại nhất của nước Nga lập nên thành phố Sankt-Peterburg cố đô Đế quốc Nga thành phố lớn thứ hai ở Nga ngày nay. Con sông này thông với vịnh Phần Lan, tạo vị thế hải cảng cho Sankt-Peterburg mở cửa nhìn ra biển lớn.

                  Sông Neva cũng là nơi danh tướng Aleksandr Nevsky anh hùng dân tộc của nước Nga, đứng đầu trong số 12 danh nhân vĩ đại nhất của nước này  đánh bại quân Thụy Điển. Thành phố Sankt-Peterburg và dòng sông Neva sau này cũng là nơi chứng kiến những trận đánh đẫm máu và oanh liệt nhất của nước Nga trong cuộc đọ sức với nước Pháp thời Napoleon cũng như sau này là trận vây hãm kéo dài 872 ngày của phát xít Đức đối với Sankt Peterburg.

                  Tôi đã đi qua miền đất này, đã thấu hiểu đêm trắng và bình minh phương Bắc. Nhìn sâu vào lịch sử, địa lý, giá trị văn hóa của mỗi vùng đất, chúng ta mới hiểu được con người. Mời bạn đọc Từ Mekong nhớ Neva; Đêm trắng và bình minh.

                  Neva, Sankt Peterburg, Pie Đại Đế là di sản huyền thoại, niềm tự hào của người Nga.

                  Hoàng Kim

                  Thăm thẳm trời sông thương

                  CẦU HIẾU NỐI BỜ THƯƠNG
                  Hoàng Kim


                  Sông dài nhớ người thân
                  ‘Giang biên ức cố nhân’
                  Núi cao bên dòng xanh
                  Cầu hiếu nối bờ thương
                  Thăm thẳm trời tĩnh lặng

                  SÔNG THƯƠNG
                  Hoàng Kim

                  Ta chưa về lại
                  sông Thương
                  ghé thăm bến đợi
                  hoàng hôn
                  trời chiều
                  Sông Cầu
                  nước chảy
                  trong veo
                  Ngại chi chí thạnh
                  cách đèo
                  sông
                  ngăn.
                  Ước Trời chở gió
                  vào Nam
                  chở mây
                  ra Bắc
                  để làm
                  thành mưa.
                  Biển trời
                  cá nước duyên ưa
                  kể chi bến đợi
                  sông chờ
                  hỡi em.

                  QUA SÔNG THƯƠNG GỬI VỀ BẾN NHỚ
                  Hoàng Kim

                  Ta lại hành quân qua sông Thương
                  Một đêm vào trận tuyến
                  Nghe Tổ Quốc gọi lên đường!
                  Mà lòng ta xao xuyến
                  Và hồn ta căng gió reo vui
                  Như dòng sông Thương chảy mãi về xuôi
                  Hôm nay ta ra đi
                  Súng thép trên vai nóng bỏng

                  Không qua nhịp cầu ngày xưa soi bóng
                  Phà đưa ta sang sông
                  Rạo rực trời khuya, thao thức trong lòng
                  Rầm rập dòng sông sóng nhạc
                  Như tình thân yêu muôn vàn của Bác
                  Tiễn đàn con ra đi

                  Tầu cập bến rầm rì tiếng máy
                  Tiếng động cơ sục dưới khoang tàu
                  Hay sôi ở trong lòng đất cháy
                  Hay giữa tim ta thúc giục lên đường
                  Chào bờ Bắc thân yêu hẹn ngày trở lại!

                  Ôi những con thuyền đèn trôi suốt canh khuya
                  Có khua nhẹ mái chèo qua bến cũ
                  Nhắn cho ai ngày đêm không ngủ
                  Rằng ta đi chưa kịp báo tin vui

                  Đêm nay bên dòng nước nghiêng trôi
                  Sông vẫn thức canh trời Tổ Quốc
                  Rạo rực lòng ta bồi hồi tiếng hát
                  Đổ về bến lạ xa xôi
                  Với biển reo ca rộng mở chân trời

                  Hoàng Kim
                  (Rút trong tập THƠ VIỆT NAM 1945-2000
                  Nhà Xuất bản Lao động 2001, trang 646)

                  *

                  Sớm xuân ngắm mai nở
                  Nhớ bạn thời thanh xuân
                  Thương bạn đêm đông lạnh
                  Thắp đèn lên đi em

                  Thoáng chốc năm mươi năm
                  Đường trần chân không mỏi
                  Vui đi dưới mặt trời
                  Giấc mơ lành yêu thương
                  Trà sớm thương người hiền

                  * Cảm ơn anh Nguyễn Đình Sáng, Phạm Huy Trung gợi nhớ các câu chuyện cũ và những năm tháng không quên Qua sông Thương gửi về bến nhớ; CNM365 Hôm nay, mình thật nhớ bài thơ Thanh Thảo

                  Chiều sông Thương

                   

                  TỔ QUỐC
                  Thanh Thảo


                  vệt nắng mỏng trước sân mái gà cục tác
                  con tôi ngủ trong nôi văng vẳng tiếng còi tàu
                  bữa cơm gia đình tôi trộn bắp trộn sắn bảy mươi phần trăm
                  mùa xuân những cơn bão hung hãn bất ngờ ập tới

                  trầm tĩnh như rừng kia như biển kia
                  Tổ Quốc tôi đứng lên trước bầy xâm lăng phương bắc
                  những dãy núi cong cánh cung những nỏ thần khủng khiếp
                  lại tung hàng loạt mũi tên xuyên ngực quân thù

                  ải Nam Quan ngọn khói xưa Nguyễn Trãi nuốt nước mắt quay về
                  mười năm nằm gai nếm mật
                  hẽm Chi Lăng lầm lì sông Kỳ Cùng bốc cháy
                  pháo đã giăng từ ngàn vạn điểm cao

                  quân di chuyển những dòng sông chảy ngược
                  mây uy nghi Yên Tử thuở nào
                  còn in dáng Trần Nhân Tông mắt dõi về phương bắc
                  tính nước cờ ung dung trên cao

                  sông Kỳ Cùng những tảng đá lên hơi
                  đùa với mặt trời trong nước
                  tôi chỉ đến tắm một lần nhưng đó là Tổ Quốc
                  chảy lặng thầm suốt cuộc đời tôi

                  những câu lượn câu sli đêm chợ Kỳ Lừa
                  chén rượu nồng thơm sắc màu thổ cẩm
                  vó ngựa gõ dòn lâng lâng sương khuya
                  khẩu súng chống tăng ghì chặt vào vai

                  anh xạ thủ H’ Mông mười tám tuổi
                  khi lũ giặc đang điên cuồng lao tới
                  một chấm nhỏ trên bản đồ một chấm nhỏ thiêng liêng
                  phút người lính đứng bật lên cắm chặt chân vào đất

                  phút ấy, đất dưới chân anh là Tổ Quốc
                  quả đạn rời nòng trong chớp mắt
                  xe tăng cháy ngang đồi lũ giặc lùi xa
                  anh lính trẻ mỉm cười lau mồ hôi trên mặt

                  gương mặt dịu lành như Tổ Quốc chúng ta

                  (Nhớ bạn)

                  Sông Thương; Thông tin tại http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlong


                  GIẤC MƠ THIÊNG CÙNG GOETHE
                  Người già kể chuyện sử thi
                  Kalovi Vary, Roma, Oregon
                  Thắp lên trong tôi ngọn lửa
                  Hoàng Kim

                  Mọi lý thuyết đều là màu xám,
                  chỉ có cây đời mãi mãi xanh tươi
                  Goethe trao tặng cho tôi
                  Ngọc minh triết của Người.

                  Tôi giấc mơ gặp Goethe
                  Kalovi Vary, Czechoslovakia
                  trong rừng thiêng cổ tích.
                  Người kể chuyện sử thi

                  Xem tiếp >>

                    Dạy và học 14 tháng 7(14-07-2021)

                  DẠY VÀ HỌC 14 THÁNG 7
                  Hoàng Kim
                  CNM365 Tình yêu cuộc sốngMột vùng trời nhân văn; Nhớ thầy Tôn Thất Trình; Thầy bạn trong đời tôi; Nhớ cụ Nguyễn Ngọc Trìu; Giấc mơ thiêng cùng Goethe; Chuyện thầy Nguyễn Tử Siêm; Việt Nam con đường xanhChuyện cổ tích người lớn; Ngày 14 tháng 7 Ngày Quốc khánh Pháp; ngày Cộng hòa tại Iraq. Ngày 14 tháng 7 năm 1789, bắt đầu Cách mạng Pháp: các công dân Paris tấn công ngục Bastille và giải thoát bảy tù nhân. Ngày này được lấy làm ngày quốc khánh Pháp hiện nay. Ngày 14 tháng 7 năm 1988, Tổng thống François Mitterrand thông báo quyết định xây dựng mới Thư viện Quốc gia Pháp với quy mô và mức độ hiện đại hàng đầu thế giới. Bài chọn lọc ngày 14 tháng 7: Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/ http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-14-thang-7/

                  MỘT VÙNG TRỜI NHÂN VĂN
                  Hoàng Kim

                  Gương trời lồng lộng ban mai
                  Thung dung ta đến vùng trời nhân văn
                  Thịnh suy thế nước ngàn năm
                  Anh hùng là kẻ vì dân vì đời.

                  Bên lề chính sử dạo chơi
                  Rùa ơi thương Cụ biết nơi chọn về.
                  Kỳ Lân mộ, Tháp Rùa bia
                  Bia đời, bia miệng khắc ghi lòng người.

                  Tìm nơi tỉnh lặng ta ngồi
                  Tình yêu cuộc sống là nơi thư nhàn
                  Câu thơ lưu lạc trần gian.
                  Hoàng Thành Cổ Kiếm Hồ Gươm gọi về.

                  Vị trí Hồ Gươm trong bản đồ đời Nguyễn và Rùa Hồ Gươm

                  (*) Vùng trời nhân văn :Nguyễn Du thơ ‘Kỳ Lân Mộ” tại “Bắc Hành tạp lục” là kiệt tác văn chương, thấu tình đạt lý, sức mạnh như một đạo quân, đã làm thay đổi chính sách của  vua Thanh và danh tướng Phúc Khang An tổng đốc Lưỡng Quảng, thay vì báo thù rửa hận cho Tôn Sĩ Nghị, đã giữ hòa hiếu lâu dài với Việt Nam. Nguyễn Du là bậc anh hùng quốc sĩ, kỳ tài hiếm có của dân tộc Việt. Nguyễn Du là bậc anh hùng

                  KỲ LÂN MỘ
                  Nguyễn Du

                  Phương Chi Yên Đệ người thế nào?
                  Cướp ngôi của cháu, đồ bất nhân.
                  Mỗi khi nổi giận giết mười họ,
                  Cổn to vạc lớn hại trung thần
                  Năm năm giết người hơn trăm vạn
                  Xương chất thành núi máu chảy tràn
                  Nếu bảo thánh nhân Kỳ Lân xuất
                  Buổi ấy sao không đi về Nam?

                  Nguyên văn chữ Hán

                  Hà huống Yên Đệ hà như nhân
                  Đoạt điệt tự lập phi nhân quân
                  Bạo nộ nhân sinh di thập tộc
                  Đại bỗng cự hoạch phanh trung thần
                  Ngũ niên sở sát bách dư vạn
                  Bạch cốt thành sơn địa huyết ân
                  Nhược đạo năng vị Thánh nhân xuất
                  Đương thế hà bất Nam du tường?

                  BÊN LỀ CHÍNH SỬ XƯA NAY
                  Hoàng Kim

                  Bên lề chính sử xưa
                  Sự tích hồ Gươm và điềm báo quốc biến thời Lê Trịnh SỰ TÍCH HỒ GƯƠM Trần Ngọc Đông Nhân chuyện cả nước xôn xao khi rùa Hồ Gươm chết nhằm ngày mùng 10 tháng Chạp năm nay. Nhiều người vẫn cứ cho rằng đây là con rùa có từ thời Lê Lợi đã cắp gươm báu mang đi. Nên đánh máy và trích chép lại hai câu chuyện ở trong sách ‘Tang Thương Ngẫu Lục’ của đôi bạn Phạm Đình Hổ- Nguyễn Án viết trong khoảng cuối Tây Sơn đầu đời Nguyễn nói về Hồ Gươm và rùa ở nơi đây.

                  HoGuom1

                  Đánh máy lại theo bản khắc in năm Bính Thân 1896 triều Nguyễn. Bản dịch nghĩa của GS Trương Chính-2012Kết luận: Gươm báu đã bỏ hồ bay đi năm Bính Ngọ 1786, cách đây đã 230 năm. Năm ấy nước nhà có biến lớn, chúa Trịnh đại bại, ít lâu sau thì triều Lê mất.SỰ TÍCH HỒ GƯƠM

                  Trích: Tang Thương Ngẫu Lục (Phạm Đình Hổ- Nguyễn Án)Truyện 1: HOÀN KIẾM HỒ  Hồ Hoàn Kiếm Thành Thăng Long ở bên cạnh phường Báo Thiên, thông với nước ngoài sông, hình thế rất to rộng.
                  .
                  Ấy là nơi Đức Thái Tổ Hoàng Đế tiên triều đánh rơi kiếm. Hồi Thái Tổ khởi nghĩa, ngài bắt được một thanh kiếm cổ, sau khi lên làm vua thường vẫn đeo ở bên mình. Một hôm chơi thuyền ở trong hồ, bỗng một con rùa rất lớn nổi lên mặt nước, bắn không trúng, vua lấy thanh kiếm mà chỉ. Bất đồ thanh kiếm rơi xuống nước, con rùa cũng lặn theo. Vua giận, sai lấp cửa hồ lại, đắp bờ ngang tát hết nước để tìm nhưng chẳng thấy đâu cả. Đời sau, nhân cái bờ ấy chia làm hai hồ Tả Vọng và Hữu Vọng. Cuối đời Cảnh Hưng, có một vật gì mọc lên từ cái đảo trong hồ, sáng rực rỡ rồi tắt. Người ta cho là thanh bảo kiếm đã bay đi.Phiên âm:

                  Thăng Long Hoàn Kiếm Hồ tại Báo Thiên phường. Tắc dữ giang thủy thông, thế thậm quảng. Hồi tiên triều hoàng Thái Tổ Hoàng Đế Trụy kiếm xứ dã. Sơ Thái Tổ khởi nghĩa thời đắc cổ kiếm nhất khẩu. Đắc quốc hậu thưởng dĩ tự bội. Nhất nhật phiếm chu hồ trung. Cự quy phiếm thủy thượng xạ chi bất trúng dĩ kiếm chi trụy thủy một. Quy tùy kiếm khứ. Đế nộ. Mệnh tắc hồ khẩu, trúc đê kiệt thủy cầu chi bất đắc. Hậu thế nhân kỳ tích phân vi nhị: Tả Vọng, Hữu Vọng. Cảnh Hưng mạt hữu vật tòng đảo khởi quang tán nhi diệt. Nhân dĩ vi bảo kiếm phi.Truyện 2: KIẾM HỒ (Hồ Gươm)

                  Mùa hạ năm Bính Ngọ, niên hiệu Cảnh Hưng (1786) đương nửa đêm, giữa hồ Hoàn Kiếm, bỗng có những vật đỏ ối hiện ra trên đảo, tia sáng nhoáng tỏa ra bốn phía, bay về bờ phía Nam rồi biến mất.

                  Sau đó sóng gió ầm ầm nổi lên. Sáng hôm sau thấy xác tôm cá nổi trên mặt nước không biết bao nhiêu mà kể. Có người nói, ở trên nóc nhà Trung Hòa Đường trong phủ Chúa cũng hiện ra những vật tương tự, ánh sáng tỏa ra bốn phía rồi tự nhiên tắt ngấm. Chưa bao lâu xảy ra việc quốc biến (*). Phiên âm: Lê Cảnh Hưng Bính Ngọ niên hạ. Kiếm Hồ dạ bán hữu vật tòng đảo khởi tứ tán phi nam ngạn nhi diệt. Ba đào hỗn dũng . Lạp nhật ngư hà phù thủy thượng bát khả thắng số. Hữu vân vương phủ Trung Hòa Đường hữu vật tòng khởi quang tán nhi diệt diệc như chi. Vị kỷ quốc biến.

                  (*) Quốc biến: Nguyễn Huệ ra bắc đánh nhà Trịnh

                  Bên lề chính sử nay

                  Rua oi

                  Hoàng Gia Cương thơ hiền có bài thơ “Rùa ơi”

                  RÙA ƠI
                  Hoàng Gia Cương

                  Rùa ơi quá nặng phải không
                  Cõng bia Tiến sĩ lưng còng vậy ư?
                  Mấy trăm năm gội nắng mưa
                  Dẫu cho mòn đá cũng chưa xao lòng!

                  Hoa đời như sắc phù dung
                  Đổi thay sớm tối, khôn lường thịnh suy
                  Ngàn năm còn mất những gì?
                  Mà hàng bia vẫn rạng ghi tên người!

                  Biết ơn rùa lắm, rùa ơi
                  Giữ cho ta một khoảng trời nhân văn
                  Để tôn vinh bậc trí nhân
                  Để nền văn hiến ngàn năm không nhoà!

                  Rùa ơi, ta chẳng là ta
                  Nếu như đạo học lìa xa đất này!

                  Nguồn: FB Hoàng Gia Cương (Nhà xuất bản Giáo dục, 2005)

                  Đồng chí ấy là ai?

                  Khi đồng chí ấy là ủy viên Trung ương Đảng mà vẫn rụt rè gửi người bạn học tập hồ sơ xin việc cho con, dù bằng cấp, trình độ đào tạo của con mình hoàn toàn đầy đủ. Rồi ngay cả khi con không được tiếp nhận, ông vẫn khiêm nhường cảm ơn, thậm chí cáo lỗi với người bạn được nhờ. Khi đồng chí ấy là Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy Hà Nội nhưng về thăm ngôi trường cấp 3 Nguyễn Gia Thiều, ông vẫn xin được đứng sau khi chụp ảnh, nhường ghế ngồi hàng đầu cho các thầy cô, bạn học lớn tuổi hơn. Khi đồng chí ấy là người đứng đầu Thủ đô vẫn lặng lẽ một mình đi xe máy về thăm Trường Đại học Tổng hợp trong sự ngỡ ngàng của cô thầy bè bạn. Không xe đưa rước, không trống rong cờ mở, không võng lọng nghênh ngang, chỉ là một người đàn ông cao tuổi tự đi xe về trường. Khi đồng chí ấy là Chủ tịch Quốc hội, tứ trụ triều đình, đám cưới con gái ông ấy hầu như không ai biết. Sau đó một số bạn bè thân lắm mới nhận được thiếp báo hỷ mà thôi. Và khi đồng chí ấy là Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, đi dự gặp mặt lớp cũ ông ấy đã nói: Xin cho em, cho tôi bỏ mọi chức tước bên ngoài căn phòng này. Em đến đây mãi mãi là học trò của các thầy các cô ngày nào. Tôi đến đây mãi mãi là bạn học của các bạn… Chức tước như phù vân !

                  Hôm vừa rồi lại có bạn đồng nghiệp nói về chị N, con ông ấy, tôi hỏi mãi mới ra, chị ấy giờ cũng chỉ là cán bộ bình thường ở một tạp chí. Đấy chẳng phải đâu xa, đồng chí ấy là một vị quan đương chức đang hiển hiện trước mắt chúng ta. Một người đàn ông gần 80 tuổi có gương mặt hiền hòa, mái tóc trắng tinh thường mặc chiếc áo rét màu cánh gián đã cũ rất nhiều năm. Bạn có biết, người đàn ông đang được nhắc đến đã, đang là: – Ủy viên Trung ương Đảng 6 khóa (hơn 26 năm); Đại biểu Quốc hội 4 khóa (hơn 18 năm); Ủy viên Bộ Chính trị 5 khóa (hơn 22 năm); Đảm nhiệm 3 chức vụ cao nhất. Thế nhưng… – Đồng chí ấy vẫn đang sử dụng xe công vụ là một chiếc Toyota Crown 1998 có tuổi đời đã hơn 20 năm. Phu nhân của ông ấy vẫn đi một chiếc xe Cub bình thường; các con ông ấy đều là những công chức nhỏ bé.

                  Nếu chúng ta để ý, có lẽ ngoài dịp thực hiện nghi lễ, hay gặp đoàn lãnh đạo cấp cao, ông ấy mới mặc vest. Còn lại với những hoạt động bình thường ông chỉ mặc những bộ quần áo giản dị, có những chiếc áo cũ đến sờn vai. Một cuộc sống giản dị xuất phát từ đạo đức của con người biết giữ gìn sự liêm sỉ cá nhân, hòa chung với cuộc sống của quần chúng nhân dân. Đồng chí ấy là Nguyễn Phú Trọng – Một con người, một nhân cách lớn, có Tầm, có Tâm, và có đạo đức. Ông ấy chính là một “vị quan” biết con đường để tu dưỡng của mình, vì đạo đức của vị quan đứng đầu bộ máy ảnh hưởng lên cuộc đời, dự nghiệp của nhiều người khác. Người làm quan mà lòng tham không kiềm chế được thì ảnh hưởng của họ sẽ đè lên công chúng vô cùng lớn và còn gây hại tới tiềm lực quốc gia.

                  (Hoàng Kim sưu tầm, bên lề chính sử)

                  NHỚ THẦY TÔN THẤT TRÌNH
                  Học trò Nông Lâm nhớ Thầy

                  Kính tiễn Thầy đi xa
                  Thăm thẳm trời li biệt
                  Những người Việt ở FAO (1)
                  Thầy rạng ngời phẩm tiết.


                  Chuyện thầy Tôn Thất Trình (2)
                  Nông Lâm đời ghi nhớ
                  Lời Thầy dặn Thung dung
                  (3)
                  Gốc Tùng dưới đáy khe
                  .

                  Quà Tặng (4) Thầy gửi lại
                  Nguyễn Phước đức lâu bền
                  (5)

                  *

                  Trần Đình Lý cùng với Vien Ngoc Nam46 người khác: 19 12 7 2021  Giáo sư Tôn Thất Trình – Cựu Giáo sư của Khoa Nông học, Giám đốc Trường Cao đẳng Nông Lâm Súc Sài Gòn (tiền thân Trường Đại học Nông Lâm TPHCM ngày nay) vừa từ trần tại Hoa Kỳ, hưởng thọ 90 tuổi.Thành kính chia buồn với gia đình Thầy

                  Giáo sư Tôn Thất Trình:-Tốt nghiệp kỹ sư ngành Nông Học Nhiệt Đới Nogent-sur Marne – Paris (1955).-1963: Giảng dạy nông học tại trường Cao Đẳng Nông Lâm Súc – Sài Gòn.-1964: Giám đốc trường Cao Đẳng Nông Lâm Súc Sài Gòn.-1967:Tổng Trưởng Bộ Canh Nông và Cải Cách Điền Địa chính quyền miền Nam Việt Nam.

                  Trong thời gian làm việc tại trường Cao đẳng Nông Lâm Súc Sài Gòn, GS lập ra các ban như Ban Kinh tế Nông nghiệp, Ban Ngư Nghiệp nay là Trường Ngư Nghiệp Nông Lâm Thủ Đức, ban Công Thôn, và làm giáo sư thỉnh giảng cho trường đại học nông nghiệp viện đại học Cần Thơ về các môn cây công nghệ như cao su, dừa, bông vải, mía làm đường.

                  Tháng 10 năm 1975, FAO tuyển dụng làm chuyên viên nông nghiệp tại Kaedi,Mauritania. Nhờ làm lúa gạo thành công ở Kaedi (năng xuất 3 vụ 23- 30 tấn / năm), FAO năm 1977 đề bạt lên giữ chức Giám đốc dự án OMVS phát triển nông nghiệp vùng sông Senegal cho 3 quốc gia là Sénégal, Mauritanie và Mali. Trong thời gian ởOMVS, FAO cũng phái đi công cán làm các dự án lúa gạo cho Guinée Bissau, Sierra Leone và Liberia, Phi Châu.

                  Năm 1980, được FAO tuyển chọn làm chuyên viên lúa gạo chánh cho FAO trung ương tại Rome, Ý, kiêm chức vụ thư ký kỹ thuật, sau này đổi thành tổng thư ký Ủy ban Lúa Gạo Quốc tế, lúc đó gồm 115 quốc gia có trồng hay thí nghiệm lúa gạo trên thế giới. Trong thời gian ở Roma. được phái đi thường xuyên nghiên cứu, lập dự án nông nghiệp v.v. tại Côte d’Ivoire, Burkina Faso, Niger, Tanzania, Ai Cập, Kenya, Madagascar, Comores… ở châu Phi, Brasil ở châu Mỹ, Thái Lan, Philippines, Ấn Độ, Hà Lan, Bỉ, Serbia, Albania, Bulgaria

                  Tốt nghiệp Tú Tài phần hai, thì được học bổng ” Bảo Đại ” (Pháp cấp cho mọi người Việt Nam đỗ tú tài hai), sang Pháp tháng 8 năm 1950. Sửa soạn thi vào các trường Cao đẳng Pháp ở lycée Louis – LeGrand và năm 1952 đỗ thi tuyển vào Viện Quốc gia Nông học – Institut National Agronomique – Paris, khi đó còn nằm ở khu phố Quartier Latin gần vườn Lục Xâm Bảo (Jardin du Luxembourg). Viện Nông Học này trước đó, có hai người Việt Nam tốt nghiệp nổi danh là Thượng nghị sĩ Nam Kỳ Bùi Quang Chiêu người Việt đầu tiên tốt nghiệp cuối thế kỷ thứ 19 và bà quận công (Duchesse D’ Annam), công chúa Như Mai con gái vua Hàm Nghi, đỗ đầu vào Viện, tên khắc bảng vàng ở cổng vào Viện.Nguồn:

                  Nguồn:
                  KỶ YẾU 65 NĂM TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH link tại https://kyyeunonglam.blogspot.com/2020/11/ky-yeu-65-nam-truong-ai-hoc-nong-lam.html
                  https://vi.m.wikipedia.org/wiki

                  *

                  Liên lạc với gia đình thầy Tôn Thất Trình: “Mọi ý kiến, bài vở xin liên lạc với chúng tôi qua điện thư: tonnubn@gmail.com Trân trọng. http://tonthat-tonnu.blogspot.com/p/lien-lac.html

                  *
                  1) Những người Việt ở FAO
                  https://hoangkimlong.wordpress.com/category/nhung-nguoi-viet-o-fao/; 2) Chuyện thầy Tôn Thất Trìnhhttps://hoangkimlong.wordpress.com/category/chuyen-thay-ton-that-trinh/ ; 3) Lời Thầy dặn thung dunghttps://hoangkimlong.wordpress.com/category/loi-thay-dan-thung-dung/; 4) Quà Tặng The Gift http://tonthat-tonnu.blogspot.com/p/ve-blog-gift.html; Nguyễn Phước đức lâu bền http://tonthat-tonnu.blogspot.com/p/ve-gs-ton-that-trinh.html và Nhớ Thầy Tôn Thất Trình https://hoangkimvn.wordpress.com/2021/07/12/nho-thay-ton-that-trinh/

                  *

                  Nhớ kỷ niệm về Thầy

                  FAO headquarters in Rome

                  NHỮNG NGƯỜI VIỆT Ở FAO
                  Hoàng Kim

                  Tổ chức Lương Thực Nông nghiệp Quốc tế (FAO)  thật hoành tráng ! Bạn chỉ cần dạo qua một vòng trang viết này của
                  FAO trên Face Book là đủ ngưỡng mộ. Đó là điểm kết nối tới website  http://www.fao.org nguồn thông tin chuyên ngành nông nghiệp chọn lọc hàng đầu của thế giới, kho tri thức mênh mông như biển cả cho bất cứ ai quan tâm đến nông dân, nông nghiệp, nông thôn, đặc biệt là các nhà hoạch định chính sách, nhà nghiên cứu, thầy giáo, khuyến nông viên, sinh viên và nhà nông. Thành tựu nông nghiệp Việt Nam trong thông tin toàn cầu nổi bật hơn hết là sản xuất và xuất khẩu lúa gạo. Câu chuyện “hột lúa và con cá”  là câu chuyện dài nhưng FAO không chỉ tôn vinh gạo Việt trong an ninh lương thực toàn cầu mà còn thể hiện ở sự tín nhiệm của FAO với chuyên gia cao cấp Việt Nam.

                  Giáo sư Tôn Thất Trình, tiến sĩ Trần Văn Đạt, tiến sĩ Nguyễn Văn Ngưu, phó giáo sư tiến sĩ Bùi Bá Bổng là những chuyên gia cao cấp tại FAO về sản xuất lúa gạo, là các diện mạo lớn của Việt Nam ở vị trí Chánh chuyên gia Tổng Thư ký của Ủy ban Lúa Gạo Quốc tế. Họ liên tục kế tiếp nhau giữ trọng trách chăm lo cho cây lúa hột gạo và chén cơm ngon của người dân. Từ câu chuyện “Giao ban cây lúa ở Viện Lúa” qua bốn đời Viện trưởng Luật Bổng Bửu Bảnh đến câu chuyện “Giao ban cây lúa ở FAO” của bốn đời Chánh chuyên gia Tổng Thư ký Ủy ban Lúa Gạo Quốc tế “Trình, Đạt Ngưu Bổng” là câu chuyện thú vị chuyển từ tầm nhìn cây lúa Việt Nam đến tầm nhìn cây lúa toàn cầu.

                  Cách mạng sắn Việt Nam đã được giới thiệu ở FAO năm 2000, FAO năm 2013 đã tôn vinh sắn là cây trồng tiềm năng ở thế kỷ 21, Việt Nam là điểm sáng đã đưa năng suất sắn lên bốn trăm phần trăm tại tỉnh Tây Ninh, và đúc kết bài học bảo tồn phát triển sắn. Báo cáo Cách mạng sắn tại Việt Nam tại Hội thảo sắn toàn cầu năm 2016 đã được công đồng Quốc tế đánh giá cao.

                  CHUYỆN THẦY TÔN THẤT TRÌNH
                  Hoàng Kim

                  Tôi noi theo dấu chân những thầy tôn kính Lương Định Của, Mai Văn Quyền, Tôn Thất Trình, Norman Borlaug để làm nhà khoa học xanh Cây Lương thực.

                  Thật may mắn cho tôi trong hơn mười năm cuối, tôi được về lại Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh dạy học môn Cây Lương thực, trọn con đường thầy nghề nông chiến sĩ. “Bao năm Trường Viện là nhà. Lúa ngô khoai sắn đều là thịt xương. Một đời người một rừng cây. Thầy ươm giống tốt để mai thành rừng”. Trường Đại Học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh, Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam, Trường Đại học Nông Lâm Huế, Trường TH PT Lương Thế Vinh (Trường THPT số 1 Quảng Trạch) là nôi trưởng thành của tôi từ khi là sinh viên nông học, ra đi khoác áo lính cho sự thống nhất toàn vẹn Tổ Quốc, sau về làm nhà nghiên cứu nông học gần ba mươi năm và cuối cùng trở thành người thầy nghề nông. Thật hết sức thân thương khi mỗi ngày, tôi được gần gũi chiếc bàn kỷ vật thầy Tôn Thất Trình và gian phòng làm việc của Thầy với môn học Cây Lương thực. Di sản thầm lặng này đã giúp tôi cơ hội cao quý kể lại chuyện cổ tích người lớn, thầy Tôn Thất Trình, Hiệu trưởng 1964-1967, một thuyền trưởng Trường tôi. của một thời kỳ. Bài viết
                  Chuyện thầy Tôn Thất Trình liên kết bàii “Thầy bạn là lộc xuân“. Tôi chưa được học thầy Trình nhưng cuộc đời, việc làm, trang sách và chiếc bàn kỷ vật của thầy mà tôi tiếp xúc hàng ngày ám ảnh tôi đến lạ. Thầy Tôn Thất Trình trong mắt tôi là người “sống nhân cách, dạy từ xa và chăm viết sách”. Trong bài “Thầy bạn là lộc xuân“ tôi đã giới thiệu đôi nét về thầy Tôn Thất Trình, nay xin được tích hợp về đây để bạn đọc khỏi mất công lục lại

                  THẦY TÔN THẤT TRÌNH DI SẢN

                  Giáo sư Tôn Thất Trình sinh ngày 27 tháng 9 năm 1931 ở huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên (Huế), thuộc hoàng tộc nhà Nguyễn Phước, hiện hưu trí tại Irvine, California, Hoa Kỳ Thầy đã có nhiều đóng góp thiết thưc, hiệu quả cho nông nghiệp, giáo dục, kinh tế Việt Nam.

                  Thầy Tôn Thất Trình làm giám đốc Trường Cao Đẳng Nông Lâm Súc Sài Gòn giai đoạn 1964- 1967 (là tiền thân Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh ngày nay). theo bổ nhiệm của GS. Phạm Hoàng Hộ, tổng trưởng giáo dục đương thời, chỉ sau bác sỹ Đặng Quan Điện vài tháng (1).. Giáo sư Tôn Thất Trình đã hai lần làm Tổng Trưởng Bộ Canh Nông và Cải Cách Điền Địa năm 1967 và 1973, nguyên chánh chuyên viên,  tổng thư ký Ủy Ban Lúa Gạo Quốc Tế của FAO (Rome).

                  Thành tựu nổi bật của giáo sư trên lĩnh vực nông nghiệp bao gồm việc chỉ đạo phát triển đại trà năm 1967-1973 lúa Thần Nông (IR8…) nguồn gốc IRRI mang lại chuyển biến mới cho nghề lúa Việt Nam; Giáo sư trong những năm làm việc ở FAO đã giúp đỡ Bộ Nông nghiệp Việt Nam phát triển các giống lúa thuần thấp cây, ngắn ngày nguồn gốc IRRI cho các tỉnh phìa Bắc; giúp phát triển  lúa lai, đẩy mạnh các chưong trình cao su tiểu điền, mía, bông vải, đay, đậu phộng , dừa, chuối, nuôi cá bè ở Châu Đốc An Giang, nuôi tôm ở Bạc Liêu, Sóc Trăng, nuôi cá măng ở Bình Định, nuôi tôm càng xanh ở ruộng nước ngọt, trồng phi lao chống cát bay, trồng bạch đàn xen cây họ đậu phủ xanh đất trống đồi trọc, trồng lại thông hai lá, ba lá ở Huế và ở Đà Lạt,  nuôi heo lai ba dòng nhiều nạc,  nuôi dê sữa , bò sữa, trồng rau, hoa, cây cảnh. Trong lĩnh vực giáo dục, giáo sư đã trực tiếp giảng dạy, đào tạo nhiều khóa học viên cao đẳng, đại học, biên soạn nhiều sách.  Giáo sư có nhiều kinh nghiệm và  đóng góp trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại và quan hệ quốc tế với Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản, Mỹ, Pháp…

                  Tôi học gián tiếp Thầy qua sách báo và internet. Giáo trình nông học sau ngày Việt Nam thống nhất thật thiếu thốn. Những sách Sinh lý Thực vật, Nông học Đại cương, Di truyền học, Khoa học Bệnh cây , Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam … do tập thể hoặc chuyên gia đầu ngành phía Bắc biên soạn thời đó hiếm và quý như vàng. Cái khó khác cho thầy trò chúng tôi là thiếu kinh nghiệm thực tiễn của đồng ruộng phương Nam. Những bộ sách của thầy Trình như Cải Thiện Trồng Lúa 1965-66 (hai lần tái bản), Nông Học Đại Cương 1967 (ba lần tái bản), Mía Đường 1972 (hai lần tái bản), Cây Ăn Trái Có Triển Vọng 1995 (ba lần tái bản), Cây Ăn Trái Cho Vùng Cao 2004, … cùng với sách của các thầy Nguyễn Hiến Lê, Trần Văn Giàu, Phạm Hoàng Hộ, Lương Định Của, Lê Văn Căn, Vũ Công Hậu, Vũ Tuyên Hoàng, Đường Hồng Dật, Nguyễn Văn Luật, Võ Tòng Xuân, Mai Văn Quyền, Thái Công Tụng, Chu Phạm Ngọc Sơn, Phạm Thành Hổ … đã bổ khuyết rất nhiều cho sự học hỏi và thực tế đồng ruộng của chúng tôi. Sau này khi đã ra nước ngoài, thầy Trình cũng viết rất nhiều những bài báo khoa học kỹ thuật, khuyến học trên các báo nước ngoài, báo Việt Nam và blog The Gift.

                  Điều tôi thầm phục Thầy là nhân cách kẻ sĩ vượt lên cái khó của hoàn cảnh để phụng sự đất nước. Lúa Thần Nông áp dụng ở miền Nam sớm hơn miền Bắc gần một thập kỷ. Sự giúp đỡ liên tục và hiệu quả của FAO sau ngày Việt Nam thống nhất có công lớn của thầy Trình và anh Nguyễn Văn Đạt làm chánh chuyên gia của FAO. Blog The Gift là nơi lưu trữ những “tâm tình” của gíáo sư dành cho Việt Nam, đăng các bài chọn lọc của Thầy từ năm 2005 sau khi về hưu. Đa số các bài viết trên blog của giáo sư về Phát triển Nông nghiệp, Kinh Tế Việt Nam, Khoa học và Đời sống  trong chiều hướng khuyến khích sự hiếu học của lớp trẻ. Nhân cách và tầm nhìn của Thầy đối với tương lai và vận mệnh của đất nước đã đưa đến những đóng góp hiệu quả của Thầy kết nối quá khứ và hiện tại, tạo niềm tin tương lai, hòa giải và hòa hợp dân tộc”.

                  ‘Thầy Trình di sản lắng đọng’, ‘Chiếc bàn của thầy Trình’, ‘FAO Trình Đạt Ngưu Bổng’, ‘Thầy Trình với lúa cá’, ‘Thầy Trình với The Gift’ là những mẫu chuyện chiêm nghiệm mà tôi thích trích dẫn và kể tại Các lớp học trên đồng .

                  THẦY BẠN TRONG ĐỜI TÔI
                  Hoàng Kim
                  với
                  Trần Ngọc Ngoạn, Van Quyen Mai, Hieu Nguyenminh, Mai Trúc Nguyễn Thị tại Vĩ Dạ Xưa đêm thiêng tháng Bảy mưa ngâu giấc mơ hạnh phúc. Tháng Bảy năm 2017 có điều kỳ diệu 5 ngày thứ Bảy, 5 ngày Chủ nhật và 5 ngày Thứ Hai mà theo Lịch Vạn Niên thì 823 năm mới lặp lại một lần. Đây là “nhóm ngày may mắn” để hành thiện những việc đặc biệt tốt đẹp đầy đặn yêu thương. Thầy bạn trong đời tôi là chùm hình ảnh và bài viết chuyện đời tự kể https://hoangkimlong.wordpress.com/category/thay-ban-trong-doi-toi/

                  Ngày 14 tháng 7 là ngày đặc biệt. Hồi tưởng lại còn có hai câu chuyện khác. Đó là ngày Nhớ cụ Nguyễn Ngọc TrìuThầy bạn trong đời tôi của thời điểm tại năm 1987.

                  Cụ Nguyễn Ngọc Trìu là một danh nhân (Cụ mất ngày 9/7/2016, đưa tang ngày 14/7/2016) Cụ Nguyễn Ngọc Trìu là một nhân cách lớn như nhà văn Nguyễn Tuân nhận xét: “Trìu làm lãnh đạo nhưng trước hết là một Con Người”. Hình trên là Bộ Trưởng Nguyễn Ngọc Trìu đến Trung tâm Hưng Lộc năm 1987 thăm thành tựu tiến bộ kỹ thuật “trồng ngô lai xen đậu ở vùng Đông Nam Bộ” và mô hình “nghiên cứu phát triển đậu rồng ở các tỉnh phía Nam”. Hai công trình này do Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam giới thiệu, đã được Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn công nhận là tiến bộ kỹ thuật nông nghiệp và được phát triển rộng rãi trong sản xuất, vang bóng một thời..

                  Cụ Nguyễn Ngọc Trìu là một chính khách lớn, có cuộc đời và sự nghiệp dường như là cụ Nguyễn Công Trứ của thời đại Hồ Chí Minh. Mọi người khi nhắc đến Cụ đều nhớ ngay đến vị Chủ tịch tỉnh Thái Bình sinh ở Tây Giang, Tiền Hải đã làm rạng ngời “quê hương 5 tấn”, nhớ ông Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp trí tuệ, xông xáo và rất biết lắng nghe, sau này làm Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng phụ trách mảng Nông Lâm Ngư nghiệp và Đặc phái viên của Thủ tướng Phạm Văn Đồng đối với vùng Nam Bộ. Cụ Trìu cũng là Chủ tịch Hội những người làm vườn Việt Nam, nơi tâm nguyện của ông được bạn thơ Thợ Rèn mến tặng’ “Danh vọng hão huyền như mây khói . Làm vườn cây trái để ngàn năm” .Cụ Nguyễn Ngọc Trìu là một nhân cách lớn như nhà văn Nguyễn Tuân nhận xét: “Trìu làm lãnh đạo nhưng trước hết là một Con Người”.

                  Xem tiếp >>

                    Dạy và học 13 tháng 7(13-07-2021)


                   

                   

                  DẠY VÀ HỌC 13 THÁNG 7
                  Hoàng Kim
                  CNM365 Tình yêu cuộc sốngNhớ thầy Tôn Thất Trình; Giấc mơ thiêng cùng Goethe; Nhớ cụ Nguyễn Ngọc Trìu; Thầy bạn trong đời tôi; Chuyện thầy Nguyễn Tử Siem; Việt Nam con đường xanhChuyện cổ tích người lớn; Ngày 13 tháng 7 năm 100 trước CN là ngày sinh Julius Ceasar nhà lãnh đạo quân sự và chính khách người Ý (sinh ngày 12 tháng 7 hoặc 13 tháng 7 năm 100 TCN, mất ngày 15 tháng 3 năm 44 TCN). Ceasar là nhà quân sự lỗi lạc nhất, chính trị gia xuất sắc nhất, lãnh tụ vĩ đại nhất của lịch sử thế giới thời La Mã cổ đại. một trong những người có ảnh hưởng lớn nhất của lịch sử thế giới. Ngày 13 tháng 7 năm 884, Cuộc khởi nghĩa Hoàng Sào kết thúc khi thủ lĩnh Hoàng Sào tự sát, tức ngày Bính Ngọ (17) tháng 6 năm Giáp Thìn. Đây là cuộc khởi nghĩa kéo dài nhất, lớn nhất, ảnh hưởng sâu sắc nhất thời Đường, khiến Đại Đường suy yếu diệt vong vài thập niên sau đó. Vùng ngoài Lĩnh Nam, người Âu Việt Lạc Việt sau đấy là thời tự chủ, không còn chịu sự đô hộ của phong kiến phương Bắc . Ngày 13 tháng 7 năm 1930 ,Giải vô địch bóng đá thế giới lần đầu tiên được khai mạc tại Montevideo, Uruguay. Bài chọn lọc ngày 13 tháng 7 Nhớ thầy Tôn Thất Trình; Giấc mơ thiêng cùng Goethe; Nhớ cụ Nguyễn Ngọc Trìu; Thầy bạn trong đời tôi; Chuyện thầy Nguyễn Tử Siêm; Việt Nam con đường xanhChuyện cổ tích người lớn; Thông tin tại http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-13-thang-7/

                  NHỚ THẦY TÔN THẤT TRÌNH
                  Học trò Nông Lâm nhớ Thầy

                  Kính tiễn Thầy đi xa
                  Thăm thẳm trời li biệt
                  Những người Việt ở FAO (1)
                  Thầy rạng ngời phẩm tiết
                  Chuyện thầy Tôn Thất Trình (2)
                  Nông Lâm đời ghi nhớ
                  Lời Thầy dặn Thung dung
                  (3)
                  Gốc Tùng dưới đáy khe

                  Quà Tặng (4) Thầy gửi lại
                  Nguyễn Phước đức lâu bền
                  (5)

                  Trần Đình Lý cùng với Vien Ngoc Nam46 người khác.

                  12 7 2021  Giáo sư Tôn Thất Trình – Cựu Giáo sư của Khoa Nông học, Giám đốc Trường Cao đẳng Nông Lâm Súc Sài Gòn (tiền thân Trường Đại học Nông Lâm TPHCM ngày nay) vừa từ trần tại Hoa Kỳ, hưởng thọ 90 tuổi.Thành kính chia buồn với gia đình Thầy

                  Giáo sư Tôn Thất Trình:-Tốt nghiệp kỹ sư ngành Nông Học Nhiệt Đới Nogent-sur Marne – Paris (1955).-1963: Giảng dạy nông học tại trường Cao Đẳng Nông Lâm Súc – Sài Gòn.-1964: Giám đốc trường Cao Đẳng Nông Lâm Súc Sài Gòn.-1967:Tổng Trưởng Bộ Canh Nông và Cải Cách Điền Địa chính quyền miền Nam Việt Nam.

                  Trong thời gian làm việc tại trường Cao đẳng Nông Lâm Súc Sài Gòn, GS lập ra các ban như Ban Kinh tế Nông nghiệp, Ban Ngư Nghiệp nay là Trường Ngư Nghiệp Nông Lâm Thủ Đức, ban Công Thôn, và làm giáo sư thỉnh giảng cho trường đại học nông nghiệp viện đại học Cần Thơ về các môn cây công nghệ như cao su, dừa, bông vải, mía làm đường.

                  Tháng 10 năm 1975, FAO tuyển dụng làm chuyên viên nông nghiệp tại Kaedi,Mauritania. Nhờ làm lúa gạo thành công ở Kaedi (năng xuất 3 vụ 23- 30 tấn / năm), FAO năm 1977 đề bạt lên giữ chức Giám đốc dự án OMVS phát triển nông nghiệp vùng sông Senegal cho 3 quốc gia là Sénégal, Mauritanie và Mali. Trong thời gian ởOMVS, FAO cũng phái đi công cán làm các dự án lúa gạo cho Guinée Bissau, Sierra Leone và Liberia, Phi Châu.

                  Năm 1980, được FAO tuyển chọn làm chuyên viên lúa gạo chánh cho FAO trung ương tại Rome, Ý, kiêm chức vụ thư ký kỹ thuật, sau này đổi thành tổng thư ký Ủy ban Lúa Gạo Quốc tế, lúc đó gồm 115 quốc gia có trồng hay thí nghiệm lúa gạo trên thế giới. Trong thời gian ở Roma. được phái đi thường xuyên nghiên cứu, lập dự án nông nghiệp v.v. tại Côte d’Ivoire, Burkina Faso, Niger, Tanzania, Ai Cập, Kenya, Madagascar, Comores… ở châu Phi, Brasil ở châu Mỹ, Thái Lan, Philippines, Ấn Độ, Hà Lan, Bỉ, Serbia, Albania, Bulgaria

                  Tốt nghiệp Tú Tài phần hai, thì được học bổng ” Bảo Đại ” (Pháp cấp cho mọi người Việt Nam đỗ tú tài hai), sang Pháp tháng 8 năm 1950. Sửa soạn thi vào các trường Cao đẳng Pháp ở lycée Louis – LeGrand và năm 1952 đỗ thi tuyển vào Viện Quốc gia Nông học – Institut National Agronomique – Paris, khi đó còn nằm ở khu phố Quartier Latin gần vườn Lục Xâm Bảo (Jardin du Luxembourg). Viện Nông Học này trước đó, có hai người Việt Nam tốt nghiệp nổi danh là Thượng nghị sĩ Nam Kỳ Bùi Quang Chiêu người Việt đầu tiên tốt nghiệp cuối thế kỷ thứ 19 và bà quận công (Duchesse D’ Annam), công chúa Như Mai con gái vua Hàm Nghi, đỗ đầu vào Viện, tên khắc bảng vàng ở cổng vào Viện.Nguồn:

                  Nguồn:
                  KỶ YẾU 65 NĂM TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH link tại https://kyyeunonglam.blogspot.com/2020/11/ky-yeu-65-nam-truong-ai-hoc-nong-lam.html
                  https://vi.m.wikipedia.org/wiki

                  Liên lạc với gia đình thầy Tôn Thất Trình: Mọi ý kiến, bài vở xin liên lạc với chúng tôi qua điện thư: tonnubn@gmail.com Trân trọng. http://tonthat-tonnu.blogspot.com/p/lien-lac.html

                  1) Những người Việt ở FAO
                  https://hoangkimlong.wordpress.com/category/nhung-nguoi-viet-o-fao/; 2) Chuyện thầy Tôn Thất Trìnhhttps://hoangkimlong.wordpress.com/category/chuyen-thay-ton-that-trinh/ ; 3) Lời Thầy dặn thung dunghttps://hoangkimlong.wordpress.com/category/loi-thay-dan-thung-dung/; 4) Quà Tặng The Gift http://tonthat-tonnu.blogspot.com/p/ve-blog-gift.html; Nguyễn Phước đức lâu bền http://tonthat-tonnu.blogspot.com/p/ve-gs-ton-that-trinh.html và Nhớ thầy Tôn Thất Trình https://hoangkimvn.wordpress.com/2021/07/12/nho-thay-ton-that-trinh/

                  *

                  Nhớ kỷ niệm về Thầy

                   

                  FAO headquarters in Rome

                   

                  NHỮNG NGƯỜI VIỆT Ở FAO
                  Hoàng Kim

                  Tổ chức Lương Thực Nông nghiệp Quốc tế (FAO)  thật hoành tráng ! Bạn chỉ cần dạo qua một vòng trang viết này của
                  FAO trên Face Book là đủ ngưỡng mộ. Đó là điểm kết nối tới website  http://www.fao.org nguồn thông tin chuyên ngành nông nghiệp chọn lọc hàng đầu của thế giới, kho tri thức mênh mông như biển cả cho bất cứ ai quan tâm đến nông dân, nông nghiệp, nông thôn, đặc biệt là các nhà hoạch định chính sách, nhà nghiên cứu, thầy giáo, khuyến nông viên, sinh viên và nhà nông. Thành tựu nông nghiệp Việt Nam trong thông tin toàn cầu nổi bật hơn hết là sản xuất và xuất khẩu lúa gạo. Câu chuyện “hột lúa và con cá”  là câu chuyện dài nhưng FAO không chỉ tôn vinh gạo Việt trong an ninh lương thực toàn cầu mà còn thể hiện ở sự tín nhiệm của FAO với chuyên gia cao cấp Việt Nam.

                  Giáo sư Tôn Thất Trình, tiến sĩ Trần Văn Đạt, tiến sĩ Nguyễn Văn Ngưu, phó giáo sư tiến sĩ Bùi Bá Bổng là những chuyên gia cao cấp tại FAO về sản xuất lúa gạo, là các diện mạo lớn của Việt Nam ở vị trí Chánh chuyên gia Tổng Thư ký của Ủy ban Lúa Gạo Quốc tế. Họ liên tục kế tiếp nhau giữ trọng trách chăm lo cho cây lúa hột gạo và chén cơm ngon của người dân. Từ câu chuyện “Giao ban cây lúa ở Viện Lúa” qua bốn đời Viện trưởng Luật Bổng Bửu Bảnh đến câu chuyện “Giao ban cây lúa ở FAO” của bốn đời Chánh chuyên gia Tổng Thư ký Ủy ban Lúa Gạo Quốc tế “Trình, Đạt Ngưu Bổng” là câu chuyện thú vị chuyển từ tầm nhìn cây lúa Việt Nam đến tầm nhìn cây lúa toàn cầu.

                  Cách mạng sắn Việt Nam đã được giới thiệu ở FAO năm 2000, FAO năm 2013 đã tôn vinh sắn là cây trồng tiềm năng ở thế kỷ 21, Việt Nam là điểm sáng đã đưa năng suất sắn lên bốn trăm phần trăm tại tỉnh Tây Ninh, và đúc kết bài học bảo tồn phát triển sắn. Báo cáo Cách mạng sắn tại Việt Nam tại Hội thảo sắn toàn cầu năm 2016 đã được công đồng Quốc tế đánh giá cao.

                  CHUYỆN THẦY TÔN THẤT TRÌNH
                  Hoàng Kim

                  Tôi noi theo dấu chân những thầy tôn kính Lương Định Của, Mai Văn Quyền, Tôn Thất Trình, Norman Borlaug để làm nhà khoa học xanh Cây Lương thực.

                  Thật may mắn cho tôi trong hơn mười năm cuối, tôi được về lại Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh dạy học môn Cây Lương thực, trọn con đường thầy nghề nông chiến sĩ. “Bao năm Trường Viện là nhà. Lúa ngô khoai sắn đều là thịt xương. Một đời người một rừng cây. Thầy ươm giống tốt để mai thành rừng”. Trường Đại Học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh, Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam, Trường Đại học Nông Lâm Huế, Trường TH PT Lương Thế Vinh (Trường THPT số 1 Quảng Trạch) là nôi trưởng thành của tôi từ khi là sinh viên nông học, ra đi khoác áo lính cho sự thống nhất toàn vẹn Tổ Quốc, sau về làm nhà nghiên cứu nông học gần ba mươi năm và cuối cùng trở thành người thầy nghề nông. Thật hết sức thân thương khi mỗi ngày, tôi được gần gũi chiếc bàn kỷ vật thầy Tôn Thất Trình và gian phòng làm việc của Thầy với môn học Cây Lương thực. Di sản thầm lặng này đã giúp tôi cơ hội cao quý kể lại chuyện cổ tích người lớn, thầy Tôn Thất Trình, Hiệu trưởng 1964-1967, một thuyền trưởng Trường tôi. của một thời kỳ. Bài viết
                  Chuyện thầy Tôn Thất Trình liên kết bàii “Thầy bạn là lộc xuân“. Tôi chưa được học thầy Trình nhưng cuộc đời, việc làm, trang sách và chiếc bàn kỷ vật của thầy mà tôi tiếp xúc hàng ngày ám ảnh tôi đến lạ. Thầy Tôn Thất Trình trong mắt tôi là người “sống nhân cách, dạy từ xa và chăm viết sách”. Trong bài “Thầy bạn là lộc xuân“ tôi đã giới thiệu đôi nét về thầy Tôn Thất Trình, nay xin được tích hợp về đây để bạn đọc khỏi mất công lục lại

                   

                   

                  THẦY TÔN THẤT TRÌNH DI SẢN

                  Giáo sư Tôn Thất Trình sinh ngày 27 tháng 9 năm 1931 ở huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên (Huế), thuộc hoàng tộc nhà Nguyễn Phước, hiện hưu trí tại Irvine, California, Hoa Kỳ Thầy đã có nhiều đóng góp thiết thưc, hiệu quả cho nông nghiệp, giáo dục, kinh tế Việt Nam.

                  Thầy Tôn Thất Trình làm giám đốc Trường Cao Đẳng Nông Lâm Súc Sài Gòn giai đoạn 1964- 1967 (là tiền thân Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh ngày nay). theo bổ nhiệm của GS. Phạm Hoàng Hộ, tổng trưởng giáo dục đương thời, chỉ sau bác sỹ Đặng Quan Điện vài tháng (1).. Giáo sư Tôn Thất Trình đã hai lần làm Tổng Trưởng Bộ Canh Nông và Cải Cách Điền Địa năm 1967 và 1973, nguyên chánh chuyên viên,  tổng thư ký Ủy Ban Lúa Gạo Quốc Tế của FAO (Rome).

                  Thành tựu nổi bật của giáo sư trên lĩnh vực nông nghiệp bao gồm việc chỉ đạo phát triển đại trà năm 1967-1973 lúa Thần Nông (IR8…) nguồn gốc IRRI mang lại chuyển biến mới cho nghề lúa Việt Nam; Giáo sư trong những năm làm việc ở FAO đã giúp đỡ Bộ Nông nghiệp Việt Nam phát triển các giống lúa thuần thấp cây, ngắn ngày nguồn gốc IRRI cho các tỉnh phìa Bắc; giúp phát triển  lúa lai, đẩy mạnh các chưong trình cao su tiểu điền, mía, bông vải, đay, đậu phộng , dừa, chuối, nuôi cá bè ở Châu Đốc An Giang, nuôi tôm ở Bạc Liêu, Sóc Trăng, nuôi cá măng ở Bình Định, nuôi tôm càng xanh ở ruộng nước ngọt, trồng phi lao chống cát bay, trồng bạch đàn xen cây họ đậu phủ xanh đất trống đồi trọc, trồng lại thông hai lá, ba lá ở Huế và ở Đà Lạt,  nuôi heo lai ba dòng nhiều nạc,  nuôi dê sữa , bò sữa, trồng rau, hoa, cây cảnh. Trong lĩnh vực giáo dục, giáo sư đã trực tiếp giảng dạy, đào tạo nhiều khóa học viên cao đẳng, đại học, biên soạn nhiều sách.  Giáo sư có nhiều kinh nghiệm và  đóng góp trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại và quan hệ quốc tế với Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản, Mỹ, Pháp…

                  Tôi học gián tiếp Thầy qua sách báo và internet. Giáo trình nông học sau ngày Việt Nam thống nhất thật thiếu thốn. Những sách Sinh lý Thực vật, Nông học Đại cương, Di truyền học, Khoa học Bệnh cây , Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam … do tập thể hoặc chuyên gia đầu ngành phía Bắc biên soạn thời đó hiếm và quý như vàng. Cái khó khác cho thầy trò chúng tôi là thiếu kinh nghiệm thực tiễn của đồng ruộng phương Nam. Những bộ sách của thầy Trình như Cải Thiện Trồng Lúa 1965-66 (hai lần tái bản), Nông Học Đại Cương 1967 (ba lần tái bản), Mía Đường 1972 (hai lần tái bản), Cây Ăn Trái Có Triển Vọng 1995 (ba lần tái bản), Cây Ăn Trái Cho Vùng Cao 2004, … cùng với sách của các thầy Nguyễn Hiến Lê, Trần Văn Giàu, Phạm Hoàng Hộ, Lương Định Của, Lê Văn Căn, Vũ Công Hậu, Vũ Tuyên Hoàng, Đường Hồng Dật, Nguyễn Văn Luật, Võ Tòng Xuân, Mai Văn Quyền, Thái Công Tụng, Chu Phạm Ngọc Sơn, Phạm Thành Hổ … đã bổ khuyết rất nhiều cho sự học hỏi và thực tế đồng ruộng của chúng tôi. Sau này khi đã ra nước ngoài, thầy Trình cũng viết rất nhiều những bài báo khoa học kỹ thuật, khuyến học trên các báo nước ngoài, báo Việt Nam và blog The Gift.

                  Điều tôi thầm phục Thầy là nhân cách kẻ sĩ vượt lên cái khó của hoàn cảnh để phụng sự đất nước. Lúa Thần Nông áp dụng ở miền Nam sớm hơn miền Bắc gần một thập kỷ. Sự giúp đỡ liên tục và hiệu quả của FAO sau ngày Việt Nam thống nhất có công lớn của thầy Trình và anh Nguyễn Văn Đạt làm chánh chuyên gia của FAO. Blog The Gift là nơi lưu trữ những “tâm tình” của gíáo sư dành cho Việt Nam, đăng các bài chọn lọc của Thầy từ năm 2005 sau khi về hưu. Đa số các bài viết trên blog của giáo sư về Phát triển Nông nghiệp, Kinh Tế Việt Nam, Khoa học và Đời sống  trong chiều hướng khuyến khích sự hiếu học của lớp trẻ. Nhân cách và tầm nhìn của Thầy đối với tương lai và vận mệnh của đất nước đã đưa đến những đóng góp hiệu quả của Thầy kết nối quá khứ và hiện tại, tạo niềm tin tương lai, hòa giải và hòa hợp dân tộc”.

                  ‘Thầy Trình di sản lắng đọng’, ‘Chiếc bàn của thầy Trình’, ‘FAO Trình Đạt Ngưu Bổng’, ‘Thầy Trình với lúa cá’, ‘Thầy Trình với The Gift’ là những mẫu chuyện chiêm nghiệm mà tôi thích trích dẫn và kể tại Các lớp học trên đồng .

                  THẦY TRÌNH VÀ THẦY CỦA

                  Chuyện này gợi cho tôi nhiều suy tư: Thầy Trình quý trọng thầy Của và thầy Của tìm đến ngay thầy Trình sau ngày Việt Nam thống nhất. Thầy Trình ra đi vì không thể ở lại nhưng sự ứng xử của thầy sau ngày ra đi là một bài học lớn. Thầy Của mất thật sớm, ngay cuối năm 1975, lúc Thầy mới 55 tuổi, còn rất nhiều khả năng cống hiến và chưa được hưởng không khí hoà bình bao lâu. Cuộc đời, số phận, nhân cách và cống hiến của hai người Thầy nghề nông vượt lên khen chê và lắng đọng một di sản.

                  Sóc Trăng Lương Định Của tôi đã có 9 bài viết (Notes) gồm: Lương Định Của con đường lúa gạo, Lương Định Của cuộc đời và sự nghiệp;Lương Định Của quê hương và dòng họ;  Lương Định Của những năm tháng tuổi trẻ;Lương Định Của luồng gió từ Hà Nội; Lương Định Của nhà bác học nông dân;  Lương Định Của chính khách giữa lòng dân;Thầy bạn và học trò Lương Định Của;  Ông bà Của cổ tích giũa đời thường. Trong số này thì Lương Định Của luồng gió từ Hà Nội; liên quan thật nhiều chuyện thầy Trình và thầy Của, mà nay tôi muốn trích dẫn đôi điều về tình bạn tuyệt vời ấy.

                  Chuyện kể rằng năm 1952, giáo sư Lương Định Của lúc ấy đã đạt được học vị bác sĩ ở Nhật Bản. Đó là một danh vị thực chất cao quý thời đó mà sau này ông kiên quyết từ chối mọi danh xưng tiến sĩ mà người đời khoác cho.  Thầy Lương Định Của đạt được học vị cao, có công ăn việc làm,  vẫn nghĩ tới việc về nước phục vụ, kịp trước khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi hoàn toàn. Luồng gió từ Hà Nội đã thôi thúc ông hướng về Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đang tạo lập. Ông từ chối các cơ hội đi Mỹ, IRRI để tìm cách về nước tham gia kháng chiến nhưng “Đường về Việt Bắc xa xôi lắm!”. Sau nhiều nỗ lực móc nối, chờ đợi, xoay đường này cách khác, Ông đã đưa cả gia đình về Sài Gòn, làm việc một thời gian ngắn ở Viện Khảo cứu Nông nghiệp Sài Gòn, Bộ Canh Nông (nay là Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam), sau đó quá cảnh bưng biền và đầu năm 1954 cả nhà cùng lên một chuyến tàu tập kết ra Bắc

                  Nhà báo Phan Quang kể câu chuyện Kỷ niệm đời thường về nhà khoa học Lương Định Của đã cho hay: “Hồi còn là sinh viên, ông đã cùng nhiều lưu học sinh Nhật và nước ngoài trong đó có Đặng Văn Ngữ, tham gia các cuộc biểu tình tuần hành phản đối thực dân Pháp xâm lược Việt Nam. Theo như ông còn nhớ, ít nhất có bốn cuộc lớn, ba lần ở Tokyo, và một lần ở Kyoto. Hoạt động chống chiến tranh Việt Nam có thuận lợi là Đảng Cộng sản Nhật Bản hết lòng ủng hộ cuộc chiến đấu của nhân dân ta. Nhiều Việt kiều ở Nhật nhờ thông qua Đảng Cộng sản Nhật Bản hoặc các tổ chức nhân dân do Đảng lãnh đạo mà giữ được mối liên hệ liên tục với phong trào kháng chiến trong nước.

                  Qua sự giới thiệu của một người bạn, một mặt Lương Định Của tiếp xúc với các nghị sĩ tiến bộ trong Quốc hội Nhật, nhờ giúp đỡ tạo điều kiện cho ông sớm được trở về vùng tự do nước Việt Nam. Thượng Nghị sĩ Kazami được các bạn Nhật cử đứng ra lo liệu việc này. Mặt khác, Lương viết thư gửi Đại sứ quán ta ở Bắc Kinh bày tỏ mong muốn của mình, và chẳng bao lâu sau nhận được thư Đại sứ trả lời đã chuyển nguyện vọng của ông về nhà. Theo sự hướng dẫn của ông Kazami, mùa hè 1952 Lương Định Của xin thôi việc ở Kyoto, lên thủ đô Tokyo chờ ngày về nước.

                  Ông xin việc làm ở Sở Nghiên cứu Khoa học Nông nghiệp Trung ương của Nhật Bản để có thể thu nhập trong thời gian chờ đợi. Đầu những năm 50, sau chiến thắng biên giới, tình hình nước ta rất sôi động. Đảng Lao động Việt Nam đảm nhiệm công khai sứ mệnh lịch sử lãnh đạo toàn dân kháng chiến. Mặt trận Liên Việt thành lập, giương cao ngọn cờ đại đoàn kết. Các vùng tự do được giữ vững. Chiến tranh nhân dân phát triển mạnh ở vùng sau lưng địch.

                  Thực dân Pháp ý thức rõ, tiến hành phá hoại kinh tế, gây nạn đói kém, cắt nguồn hậu cần của Quân đội Nhân dân Việt Nam là một mặt trận có ý nghĩa chiến lược đối với thành bại của chúng trong chiến tranh.Thông tri của tướng De Linarès, tư lệnh chiến trường Bắc Bộ gửi các cấp dưới đề ngày 14-3-1951 hướng dẫn cụ thể như sau:

                  “… Về phá hoại, có hai cách thực tế có thể áp dụng: a) làm ướt thóc hoặc bắt dân phải để thóc lúa ngoài trời trong mùa mưa ẩm. Tuy nhiên, để chắc chắn hạt gạo sẽ thối hẳn, phải dấp nước cho ướt thóc trong thời gian bốn mươi tám giờ. Ngoài ra, để cho sự phá hoại bảo đảm hiệu quả chắc chắn của nó, trong thời gian ấy, phải canh giữ không để cho dân chúng đến lọc lấy phần thóc còn tốt mang đi cất giấu; b) những kho thóc quan trọng nào phát hiện được, cho tưới xăng hoặc dầu nặng vào…” .

                  Tháng Chín năm 1952, ông Kazami báo cho Lương Định Của biết, có một tàu buôn Nhật Bản sắp sang Hồng Công rồi từ đó đến thành phố Thiên Tân của Trung Quốc. Ông đề nghị Lương đáp chuyến tàu ấy. Vào được Trung Quốc rồi thì rất dễ dàng về Việt Bắc vì biên giới Việt Trung đã thông, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cùng Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã kiến lập quan hệ ngoại giao; giữa hai nước có tình hữu nghị sâu sắc. Ông nói đã nhờ Hội Hoa kiều tại Nhật Bản làm các thủ tục cần thiết cho gia đình Lương nhập cảnh Trung Quốc, ông cũng đã có liên hệ để thông báo với Chính phủ Việt Nam về chuyện này.

                  Lương Định Của vào Hồng Công, đến biên giới Cửu Long trình giấy giới thiệu của Hội Hoa kiều tại Nhật Bản. Biên phòng Trung Quốc cho biết chưa nhận được chỉ thị. Các bạn khuyên Lương nên trở lại Hồng Công lấy visa nhập cảnh. Hành lý có thể cho chuyển trước sang biên giới, đưa về thành phố Quảng Châu. Vài hôm nữa gia đình Lương đến thì có thể vào Trung Quốc, đến thẳng Quảng Châu luôn.

                  Trở lại khách sạn, Lương tìm cách liên hệ với Đại sứ quán ta ở Bắc Kinh, vừa gọi điện thoại vừa gửi thư song chờ mãi không thấy hồi âm. Tiền túi cạn dần: phòng trọ khách sạn rất đắt. Hàng ngày bà Của xuống phố mua bánh mì cho cả nhà ăn. Lúc này mới thấy hết bản lĩnh của người phụ nữ ấy. Ông lo cuống lên, bà chỉ cười: “Không sao, để tính xem”. Về đến Việt Nam ông thú thật với bạn bè, nếu không có bà thì với hai đứa con nhỏ, ông chẳng biết đường nào xoay xở trong những ngày quá cảnh Hồng Công. Thái độ bình tĩnh và đầy thông cảm của bà có tác dụng trấn an ông.

                  Sau một tuần chờ đợi trong lo âu, xuất hiện một người lạ mặt ăn mặc sang trọng. Ông nói: nếu Lương có giấy giới thiệu của Ngân hàng Trung Hoa thì ông có thể giúp cho qua biên giới. Lương Định Của chẳng có giấy tờ gì khác ngoài thư giới thiệu của Hội Hoa kiều tại Nhật Bản. Người lạ mặt khuyên, nếu vậy thì nên theo ông về Macao, ở nhờ nhà con trai ông một thời gian, chờ xin phép nhập cảnh.

                  Hồng Công là điểm quá cảnh, khách không được phép ở lại lâu. Lương Định Của hết sức phân vân. Người này ông chưa từng quen biết. Trong túi ông lại không có tiền, trừ gói hạt giống dưa. Đến áo quần thay hằng ngày cũng không có đủ vì các valy đã gửi hết vào Trung Quốc rồi.

                  Ông quyết định hẵng trở về Sài Gòn, rồi tìm cách ra vùng tự do sau. Ông đánh điện cho một người bạn ở Sài Gòn, báo tin mình đang trên đường về nước, đến Hồng Công thì mất hết đồ đạc, nhờ bạn đặt mua vé máy bay cho hai người lớn hai trẻ con, và cho vay tạm hai nghìn USD.

                  Ngay chiều hôm ấy, nhận được ngân khoản người bạn gửi đến thông qua một ngân hàng lớn. Có tiền, có vé trong tay, ông còn nấn ná lại thành phố này ba tuần nữa, hy vọng có tin tức Đại sứ quán ta tại Bắc Kinh. Cuối cùng hết hạn quá cảnh mới đáp máy bay về Sài Gòn.

                  Chính quyền Sài Gòn nồng nhiệt đón bác sĩ nông học Lương Định Của du học từ Nhật Bản về. Bộ trưởng Nông Lâm mời ông đến cơ quan, mở rượu whisky chúc mừng, và ngỏ ý mời ông làm thứ trưởng. Lương tìm cách thoái thác khéo. Ông khiêm tốn nói mình xa đất nước đã lâu, xin cho làm việc hợp đồng một thời gian để quen thêm thung thổ và bạn bè, rồi mới dám chính thức nhận nhiệm vụ.”

                  “Gia đình ông sống cùng gia đình người em trong ngôi nhà ở Đa Cao. Em gái ông có chồng đi kháng chiến, thỉnh thoảng lại kiếm cớ vắng nhà. Ông biết chị ra bưng thăm chồng. Một hôm, vào ngày chủ nhật, ông đang ngồi chơi trước cửa thì thấy một người ăn vận có vẻ như vừa từ nông thôn ra, đi thẳng vào nhà sau nói chuyện với cô em gái. Khách về, Lương hỏi ai vậy, cô em trả lời: “Người ta muốn mời anh ra vùng kháng chiến đấy”. – Vậy em trả lời họ thế nào? Cô em cười: “Em nói, anh vợ con tùm lum thế kia thì làm sao đi kháng chiến được”. Lương Định Của lặng im, vì dự định từ Nhật Bản về thẳng miền Bắc không thành, ông không hề hé răng cho ai biết.

                  Hiệp định Genève về Đông Dương (1954) được ký kết. Trong giới trí thức Sài Gòn lại một lần nữa xôn xao – tuy thầm lặng – về việc ra đi hay ở lại. Nơi cơ quan Lương làm việc có một chị tên là B., em gái một bác sĩ nha khoa vốn là bạn của ông sau này cũng tập kết ra Bắc và cùng gặp lại nhau tại Hà Nội, có lần hỏi giọng nửa đùa nửa thật: “Nè, Chính phủ Việt Minh kêu gọi trí thức ra Bắc đấy, anh có đi không?”.

                  Lương nghiêm trang trả lời ông muốn đi. Chị B. bắt liên lạc, bố trí kế hoạch cho ông rời Sài Gòn. Chờ đợi một thời gian khá lâu mới có hồi âm. Lương Định Của nói với các em, ông muốn cho gia đình đi nghỉ mát ở Ô Cấp (Cap Saint Jacques – Vũng Tàu ngày nay) mấy hôm. Nửa đường, theo mật hiệu “cứ theo người có chửa mà đi”, ông đổi xe, đổi hướng, theo người phụ nữ ấy về thành phố Mỹ Tho. Từ đấy lại đổi xe khác, có người khác đón ra bưng biền.

                  Lương Định Của được nhà lãnh đạo Phạm Hùng tiếp ngay khi vừa đến cứ. Anh Bảy trò chuyện thân tình, và cho ông một bộ quần áo bà ba. Năm 1954, qua liên lạc biệt động, gia đình giáo sư gửi thư xin phép đi tập kết. Anh Hồng Việt kể lại: “Từ Sài Gòn, theo biệt động đưa về Cần Thơ, xuống căn cứ Cà Mau và đi tàu Ba Lan ra Sầm Sơn, Thanh Hoá. Ấn tượng đầu tiên là hưởng luôn một trận gió mùa đông bắc. Nhưng ngày hôm sau là 1.1.1955, gia đình được chứng kiến ngày lễ tưng bừng”.

                  Luồng gió từ Hà Nội là bước ngoặt của nhà nông học Lương Định Của.

                  Theo hồi ức của thầy Phan Gia Tân, giảng viên Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh, thì sau ngày Việt Nam thống nhất 30.4.1975, giáo sư Lương Định Của đã đi tìm Giáo sư Tôn Thất Trình ở Trường Đại học Nông nghiệp Sài Gòn (nay là Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh). Thầy Của tiếc không gặp được thầy Trình vì thầy đã ra đi trước đó.

                  Tấm lòng tri ngộ của họ là dấu ấn “biết mình, biết người” của hai trí thức lớn…

                  CHIẾC BÀN KỶ VẬT THẦY TRÌNH

                  Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh có di sản biểu tượng là tòa nhà chữ U (nay gọi là tòa nhà Phượng Vĩ) do kiến trúc sư Ngô Viết Thụ thiết kế. Trong tòa nhà chữ U này có chiếc bàn của thầy Tôn Thất Trình ở lầu 1 tại Phòng Cây Lương thực Rau Hoa Quả thuộc Khoa Nông học. Đây cũng là phòng cuối nối liền gần gũi nhất với khu Thư Viện (cũ). Tầng dưới của Thư Viện là Hội Trường Lớn. Góc phải đầu nhà chữ U nay còn bảng đồng lưu danh Kiến Trúc Sư Ngô Viết Thu là Khôi Nguyên La Mã.

                  Viện Khảo cứu Nông Lâm Đông Dương được thành lập ngày 2 tháng 4 năm 1925 tại Sài Gòn là Viện nghiên cứu khoa học nông lâm nghiệp đầu tiên và duy nhất tại Đông Dương, nay là Viện Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam là nơi thầy Tôn Thất Trình có nhiều năm làm việc ở đấy. Thầy Trình đã tham gia dự án thực hiện hợp tác nghiên cứu lúa với Đài Loan giai đoạn 1950-1957, gồm các ông Trương Văn Hiếu, Phạm Huy Lân, Tôn Thất Trình, Trần Thiện Tín, Trần Bình Cư, Đoàn Kim Quan. Hai tác giả Bùi Minh Lương, Tôn Thất Trình, Tổng Nha Canh Nông đã biên soạn sách “Đất Nông nghiệp Việt Nam” – Bắc Kontum (1959) rất công phu.

                  Thầy Tôn Thất Trình làm Hiệu Trưởng Trường Cao Đẳng Nông Lâm Súc Sài Gòn từ năm 1964 đến năm 1968. Trước thầy Trình là thầy Đặng Quan Điện (1962-1964). Tiền thân Trường Cao Đẳng Nông Lâm Súc Sài Gòn là Trường Quốc Gia Nông Lâm Mục Blao Bảo Lộc (1955-1962), Hiệu trưởng đầu tiên là thầy Vũ Ngọc Tân (1955-1958),và thầy Phan Lương Báu (1958-1962). Trường Cao Đẳng Nông Lâm Súc Sài Gòn sau này được thay thế bằng Trung tâm Quốc gia Nông nghiệp Sài Gòn (1968-1972), Học Viện Quốc Gia Nông nghiệp Sài Gòn (1972-1974) và  trở thành Trường Đại học Nông nghiệp trực thuộc Viện Đại Học Bách Khoa Thủ Đức (1974 -1975)  do thầy Lê Văn Ký làm Hiệu trưởng (1974-1975).

                  Giáo sư Tôn Thất Trình vẫn trực tiếp giảng dạy môn cây lương thực cho dù hai lần Thầy làm Tổng Trưởng Bộ Canh Nông và Cải Cách Điền Địa năm 1967 và 1973, tên Trường thay đổi nhiều lần và xã hội quá nhiều biến động. Chiếc bàn to quá khổ (dài 1,8m rộng 1,2m, gỗ tốt, chắc, nặng, nằm ở phòng cuối góc bên phải của khối nhà. Cái bàn này có lẽ vì quá to và nặng, không dễ mang ra khỏi cửa, phòng lại là góc khuất làm việc dạy học của người thầy “full professer” (giáo sư) Hiệu trưởng đầu tiên, mà phòng không phải ở tâm điểm chính diện phong thủy, nên nơi này và chiếc bàn này 40 năm qua có lẽ vì vậy mà rất ít thay đổi chỉ mấy lần tách nhập Bộ môn.

                  Chuyện tôi được may mắn về phòng này và được nghe kể lại là một câu chuyện dài …

                  THẦY TRÌNH NGÀY RA ĐI

                  Xem tiếp >>

                    Dạy và học 12 tháng 7(12-07-2021)

                  DẠY VÀ HỌC 12 THÁNG 7
                  Hoàng Kim

                  CNM365 Tình yêu cuộc sốngMạc triều trong sử Việt; Em ơi can đảm lên; Biển Hồ Chùa Bửu Minh; Hồ Văn Thiện bóng chiều; Việt Nam con đường xanh; Ngày 12 tháng 7 năm 1527, Lê Cung Hoàng ra chiếu nhường ngôi hoàng đế cho Mạc Đăng Dung, kết thúc triều Lê sơ và mở đầu triều Mạc trong lịch sử Việt Nam (hình:Lãnh thổ nằm trong tầm kiểm soát của nhà Mạc xanh lục và nhà Lê trung hưng xanh lam, khoảng năm 1590). Ngày 12 tháng 7 năm 1943, Chiến tranh thế giới thứ hai: Đức Quốc Xã và Liên Xô giao chiến trong trận Prokhorovka, một trong những trận đấu xe tăng lớn nhất trong lịch sử quân sự thế giới. Ngày 12 tháng 7 năm 1946, Công an Bắc Bộ của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiến hành khám xét trụ sở Việt Nam Quốc dân Đảng tại phố Ôn Như Hầu, Hà Nội. Bài chọn lọc ngày 12 tháng 7: Mạc triều trong sử Việt; Em ơi can đảm lên; Biển Hồ Chùa Bửu Minh; Hồ Văn Thiện bóng chiều; Việt Nam con đường xanh; Thông tin tại: https://hoangkimvn.wordpress.comhttp://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-12-thang-7/†

                  BẢN TUYÊN BỐ VỀ LỊCH SỬ VƯƠNG TRIỀU MẠC

                   

                  Nhà nghiên cứu Nguyễn Xuân Lung thay lời Ban Liên lạc Mạc tộc tuyên bố: “Vào năm 2017 (1697 – 2017) này, tác phẩm lịch sử “Đại Việt sử ký bản kỷ tục biên” con đẻ của chế độ quân chủ (cung vua – phủ chúa) Lê Trịnh tròn 300 tuổi. Lịch sử nhà Mạc ra đời từ những trang sử ấy, những trang viết này là sản phẩm tư tưởng, quan điểm chính trị do một thể chế quân chủ mới (bình mới rượu cũ) “thắng cuộc” biên chép về bên “thua cuộc” là nhà Mạc. Suốt 300 năm qua chưa từng xuất hiện một nghiên cứu nào phân tích kĩ lưỡng nội dung mang tính cảnh báo: Coi chừng sẽ xuất hiện “lịch sử nhận thức” nhằm vào lịch sử nhà Mạc từ phía giới chuyên môn. Trừ một bài viết ngắn của giáo sư sử học Hà Văn Tấn có nhắc tới tính thực dụng soạn sử của Phạm Công Trứ. Xin hãy trả lại sự thật lịch sử chân chính của nhà Mạc đó là đòi hỏi từ thực tiễn, lẽ công bằng tự nhiên và là mệnh lệnh của cuộc sống, trong giai đoạn đổi mới và hội nhập toàn diện của đất nước chúng ta.

                  Tác giả Nguyễn Xuân Lung thay lời Ban Liên lạc Mạc tộc kiến nghị:

                  “1) Viết lại lịch sử nhà Mạc: Bằng việc tổ chức một hội đồng các nhà sử học có “tâm” có “tài” khai thác hết các tài liệu sử học có thể có trong nước, nước ngoài để định hướng cách viết mới khách quan và trung thực về lịch sử nhà Mạc.

                  2) Xin chấm dứt sử dụng những giáo trình giảng dạy tại các trường đại học trong nước như cách viết của các ông Trương Hữu Quýnh, Nguyễn Cảnh Minh, Nguyễn Phan Khoa hay nội dung giảng dạy của một số tác giả nữ: Nguyễn Thị Côi, Nguyễn Thị Bích, Nguyễn Thị Thế Bình. Trong sách “Hướng dẫn trả lời câu hỏi và bài tập lịch sử lớp 10”, trong các cấp học phổ thông.

                  3) Xin chấm dứt những trang viết không đủ độ “chín” như bài viết của PGS TS. Trần Thị Băng Thanh trên công luận về nhà Mạc.

                  4) Xin dừng phổ cập các bài viết thể hiện sự xuống cấp về mặt đạo đức, tư cách con người như trường hợp: Hoàng Thiếu Phủ vv.

                  5) Xin chấm dứt những bài báo giấy, báo điện tử khai thác những tư liệu dập khuôn sử cũ để viết về lịch sử nhà Mạc, vẽ tranh châm biếm, dựng truyện, dựng tuồng, chèo, khai thác những tình tiết phản cảm về vị vua thứ 5 nhà Mạc: Mạc Mậu Hợp”.

                  Bản tuyên bố là có căn cứ khoa học với sự kiện lịch sử trung thực, Kiến nghị sự công tâm khách quan giải mã”.

                  Chi tiết thông tin mời xem tại http://hoangkimlong.blogspot.com/2017/03/nha-mac-oc-lai-va-suy-ngam.html

                  MẠC TRIỀU TRONG SỬ VIỆT
                  Hoàng Kim

                  Ngày 12 tháng 7 năm 1527, Lê Cung Hoàng ra chiếu nhường ngôi hoàng đế cho Mạc Đăng Dung, kết thúc triều Lê sơ và mở đầu triều Mạc trong lịch sử Việt Nam. Mạc Triều mở đầu từ đó trãi ba thời kỳ, tổng cộng là 156 năm, trong đó ở Thăng Long 1527-1592 và ở Cao Bằng 1593 -1683. Mạc triều thay thế triều Lê sơ là một tất yếu lịch sử và đã để lại những dấu ấn nổi bật về tiến bộ xã hội.

                  Hình thế đất Việt khoảng năm 1590: Lãnh thổ nằm trong tầm kiểm soát của nhà Mạc xanh lục và nhà Lê trung hưng xanh lam. Mạc Triều ngoài các vị vua danh tiếng như Mạc Đăng Dung, Mạc Đăng Doanh còn có những danh thần tài đức lỗi lạc như Nguyễn Bỉnh Khiêm, Giáp Hải, Nguyễn Quyện, Mạc Ngọc Liễn,… Mạc triều là một vương triều chính thống trong sử Việt nhưng lâu nay việc đánh giá còn thiên lệch, thiếu khách quan do nhận thức, ý thức hệ và sự thừa kế sử liệu chưa công bằng. Bài này đúc kết các thông tin nghiên cứu và trao đổi về Mạc triều trong sử Việt, nhằm góp phần phục thủy sự thật lịch sử để hậu thế đánh giá công bằng hơn và rút ra những được những bài học thấm thía hơn đối với những nhân vật lịch sử. Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm có câu sấm truyền về dòng tộc Mạc “Tứ bách niên tiền chung phục thủy/Thập tam thế hậu dĩ nhi đồng.”

                  HOÀNG CHI MẠC TỘC VÀ CAO BẰNG

                  Tỉnh Cao Bằng có làng Đà Quận ở xã Hưng Đạo, huyện Hòa An, từ thời Mạc đến nay hàng năm đều có Lễ hội chùa Đà Quận từ ngày 9 âm lịch đến rằm Nguyên tiêu tháng Giêng hàng năm để tảo mộ tổ tiên và dâng hương tưởng nhớ. Cao Bằng là đất sau cùng của nhà Mạc tiếp tục tồn tại hơn 100 năm sau khi nhà Mạc không còn triển vọng phục quốc mới nhập vào đất nhà Hậu Lê. Làng Đà Quận là làng dân Mạc theo hương linh Đà Quận Công Mạc Ngọc Liễn. Nhà Mạc tuân theo di nguyện của Mạc Ngọc Liễn danh tướng thái phó vua Mạc là không bao giờ vì dòng họ mình mà nồi da xáo thịt đưa ngoại viện vào giày xéo non sông. Mạc tộc lúc kế cùng lực kiệt đã đổi họ Mạc thành họ khác và lưu tán khắp mọi nơi trong cả nước, trong đó có Hoàng chi Mạc tộc Làng Minh Lệ và cho đến nay có Hoàng chi Mạc tộc đất phương Nam cũng là những người con xa xứ.

                  Những ngày đầu xuân nay (2018) sau 426 năm (tính từ năm 1592 Cao Bằng thất thủ vì sự công phá của nhà Lê Trịnh), chúng ta ghi nhớ di nguyện tổ tiên, ‘Lời dặn sau cùng của Mạc Ngọc Liễn’ tại quốc sử Việt đối chiếu qua các thời viết về Mạc triều trong sử Việt: “Nay khí vận nhà Mạc đã hết, họ Lê lại trung hưng, đó là số trời. Dân ta là người vô tội mà khiến để phải mắc nạn binh đao, ai nỡ lòng nào! Chúng ta nên lánh ra ở nước khác, nuôi dưỡng uy lực, chịu khuất đợi thời, chờ khi nào mệnh trời trở lại mới làm được, chứ không thể lấy lực chọi với lực. Khi hai con hổ tranh nhau, tất phải có một con bị thương, không có ích gì cho công việc. Nếu thấy quân họ đến đây thì chúng ta nên tránh đi, chớ có đánh nhau với họ, cốt phòng thủ cẩn thận là chính; lại chớ nên mời người Minh vào trong nước ta mà để dân ta phải lầm than đau khổ, đó cũng là tội lớn không gì nặng bằng”. Tác giả Trần Gia Phụng trong bài viết: “Những cuộc đổi họ lớn trong lịch sử” có đoạn bình luận về lời trăng trối của ông: “Đây không phải lời nói suông trong cảnh trà dư tửu hậu, nhưng đây là tâm huyết của một con người sắp nằm xuống trong cơn hoạn nạn cùng cực vì mất nước. Suốt trong lịch sử Việt Nam, chúng ta thường được nghe những lời nói của Trần Hưng Đạo, Trần Bình Trọng, Đặng Dung, hào hùng như vó ngựa tổ tiên, nhưng ít khi được đọc những dặn dò như Mạc Ngọc Liễn – nhân bản, đầy tình tự dân tộc không khác gì lời ru êm ái trong những câu ca dao mộc mạc”.

                  Chùm ảnh trong bài: Linh Giang dòng sông quê hương nơi ven sông có mộ tổ tiên Hoàng chi Mạc tộc (ảnh Hoàng Kim); Thái Thượng Hoàng Mạc Đăng Dung tiếp sứ Minh (ảnh trong sách cổ nguồn Wikipedia); Nguồn Son tới Phong Nha (ảnh Hoàng Kim ban mai trên sông Son vào Phong Nha) Linh Giang dòng sông quê hương (ảnh Hoàng Kim ngã ba sông Son và Rào Nậy) ; Ban Mai trên sông Nhật Lệ ảnh Bu Lu Khin).

                  Nhà thơ Hoàng Gia Cương, hậu duệ dòng đích nhà Mạc giới thiêu khái quát về nguồn gốc Mạc tộc

                  TÌM VỀ NGUỒN CỘI
                  Hoàng Gia Cương

                  Tìm về Lũng Động, Cổ Trai (1)
                  Thắp hương bái lạy bao đời Tổ Tông
                  Biển gom nước vạn dòng sông
                  Thập tam thế hậu… nhi đồng” là đây! (2)

                  Qua bao giông bão, tháng ngày
                  Thay tên đổi họ chẳng thay đổi lòng
                  Vẫn là cha, vẫn là ông
                  Vẫn dòng máu ấy cuộn trong tim này!

                  Hoàng, Phan, Lều, Thạch … về đây
                  Trăm phương như nước như mây tụ nguồn
                  Gốc còn trên đất Hải Dương
                  Lá cành hoa trái đã vươn khắp miền.

                  Ta về tìm lại Tổ tiên
                  Tìm về nguồn cội khí thiêng sinh thành
                  Hương dâng là nghĩa là tình
                  Thoảng thơm như thể tinh anh giống dòng.

                  Cúi mình trước đấng Tổ Tông
                  Râm ran như được tiếp dòng máu thiêng !

                  1) Lũng Động thuộc huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương là quê của Lưỡng quốc Trạng nguyên Mạc Đỉnh Chi; Cổ Trai thuộc huyện Kiến Thụy thành phố Hải Phòng là quê của Hoàng đế Mạc Đăng Dung.

                  2) Sau khi vương triều Mạc bị diệt, con cháu li tán phải đổi thành nhiều họ khác nhau. Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm có câu sấm truyền về dòng tộc Mạc “Tứ bách niên tiền chung phục thủy/ Thập tam thế hậu dĩ nhi đồng

                  Ông Phạm Đức Hải với bài thơ “Phục thủy” tựa đề lấy từ ý của cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm, với các dẫn liệu lịch sử minh chứng vận Trời thế nước để hậu thế thấu hiểu Mạc triều và cắt nghĩa vì sao Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm đã ứng xử như vậy.

                  PHỤC THỦY
                  Phạm Đức Hải

                  Ai đã nghe sấm trạng Trình
                  Xin mời đến đất Dương kinh thăm đền
                  cho dù khác họ ,chưa quen
                  “thập tam thế hậu…”anh em một nhà

                  cùng từ họ Mạc mà ra
                  ngày xưa Quốc sử ngợi ca hết lời:
                  “Ra đường không nhặt của rơi”
                  “cửa không cần đóng…”,”trộm thời bặt tăm…”

                  đắm chìm suốt bốn trăm năm
                  đao xưa Thái Tổ vẫn cầm còn đây
                  Phò ba vua ,dạ thẳng ngay
                  để rồi phải chịu tội này: cướp ngôi

                  chiếu nhường vị vẫn đấy thôi
                  sử gia đã chép : lòng người hướng theo…
                  xuất thân từ cảnh đói nghèo
                  quý từng tấc đất ,thương yêu đồng bào

                  trọng hiền tài, giỏi ngoại giao
                  suốt thời Nhà Mạc, giặc nào sang đâu
                  nhiều đời Trịnh, Nguyễn đánh sau
                  chỉ vì tham lợi, quên câu “vận Trời”

                  mấy trăm năm, bấy nhiêu đời…
                  Gương trong “phục thủy” để rồi thêm trong
                  thắp hương khấn với tổ tông
                  cũng xin một nén vái ông: Trạng Trình (*)

                  Phạm Đức Hải ĐT:  0986668160 Lỗi Sơn, Gia Phong, Gia Viễn, Ninh Bình

                  Mạc triều trong sử Việt đọc lại và suy ngẫm. xem toàn văn tại đây https://hoangkimlong.wordpress.com/category/mac-trieu-trong-su-viet/

                  EM ƠI CAN ĐẢM LÊN
                  Nguyễn Khoa Tịnh

                  Thầy ước mong em noi gương Quốc Tuấn

                  Đọc thơ em, tim tôi thắt lại
                  Lòng nghẹn ngào, nước mắt chảy rưng rưng
                  Nửa xót xa nhưng nửa lại vui mừng
                  Xót xa vì đời em còn thơ dại
                  Mới tuổi thơ mà cuộc đời đầy khổ ải
                  Mới biết cười đã phải sống mồ côi
                  Như chiếc thuyền giữa biển tự trôi
                  Như chiếc lá bay về nơi vô định
                  “Bụng đói” viết ra thơ em vịnh:

                  “Cơm ngày một bữa sắn trộn khoai
                  Có biết lòng ta bấy hỡi ai?
                  Vơi vơi lòng dạ, cồn cào bụng
                  Kể chi no đói, mặc ngày dài”

                  Phải!
                  Kể chi no đói mặc ngày dài
                  Rất tự hào là thơ em sung sức
                  Rất tự hào là em tôi đầy nghị lực
                  Đã hiển lộ mình qua “Cái chảo rang”

                  “Trung dũng ai bằng cái chảo rang
                  Lửa to mới biết sáp hay vàng
                  Xào nấu chiên kho đều vẹn cả
                  Chua cay mặn ngọt giữ an toàn
                  Ném tung chẳng vỡ như nồi đất
                  Quăng bừa xó bếp vẫn nằm ngang
                  Tốt đẹp đâu cần danh tiếng hão
                  Bạn cùng lửa đỏ, nóng chang chang”

                  Phải!
                  Lửa to mới biết sáp hay vàng!
                  Em hãy là vàng,
                  Mặc ai chọn sáp!
                  Tôi vui sướng cùng em
                  Yêu giấc “Ngủ đồng”
                  Hiên ngang khí phách:

                  “Sách truyền sướng nhất chức Quận công
                  Ta sướng khi ra ngủ giữa đồng
                  Lồng lộng trời hè muôn làn gió
                  Đêm thanh sao sang mát thu không
                  Nằm ngữa ung dung như khanh tướng
                  Lấy mấy vần thơ tỏ nỗi lòng
                  Tinh tú bao quanh hồn thời đại
                  Ngủ đồng khoan khoái ngắm gương trong”

                  Tôi biết chí em khi “Qua đèo Ngang
                  Ung dung xướng họa với người anh hùng
                  Đã làm quân thù khiếp sợ:

                  “Ta đi qua đèo Ngang
                  Cũng gặp Người trèo qua núi hiểm
                  Đỉnh dốc chênh vênh
                  Xe mù bụi cuốn
                  Có lẽ thiên nhiên đã định bao giờ
                  Một dãy Hoành Sơn bát ngát trận đồ
                  Điệp điệp núi cao
                  Trùng trùng rừng thẳm.
                  Người thấy
                  Súng gác trời xanh
                  Gió lùa biển lớn
                  Nông dân rộn rịp đường vui
                  Thanh Quan nàng nhẽ có hay
                  Cảnh mới đã thay cảnh cũ.
                  Ta hay
                  Máu chồng đất đỏ
                  Mây cuốn dặm khơi
                  Nhân công giọt giọt mồ hôi
                  Hưng Đạo thầy ơi có biết
                  Người nay nối chí người xưa

                  Tới đây
                  Nước biếc non xanh
                  Biển rộng gió đùa khuấy nước
                  Đi nữa
                  Đèo sâu vực thẳm
                  Núi cao mây giỡn chọc trời

                  Nhớ thù nhà, luống thẹn làm trai
                  Thương dân nước, thà sinh phận gái
                  “Hoành Sơn cổ lũy”
                  Hỏi đâu dấu tích phân tranh?
                  Chỉ thấy non sông
                  Lốc cuốn, bốn phương sấm động.

                  Người vì việc nước ra đi
                  Ta muốn cứu dân nên thăm trận thế
                  Điều không hẹn mà xui gặp mặt
                  Vô danh lại gặp hữu danh
                  Cuộc đời dài ắt còn sẽ gặp nhau
                  Nay hội ngộ giữa đỉnh cao trời đất
                  Anh em ta ngự trên xe đạp
                  Còn Người thì lại đáp com măng
                  Đường xuyên sơn
                  Anh hùng gặp anh hùng
                  Nhìn sóng biển Đông
                  Như ao trời dưới núi.

                  Xin kính chào
                  Bậc anh hùng tiền bối
                  Ta ngưỡng mộ Người
                  Và tỏ chí với non sông
                  Mẹ hiền ơi!
                  Tổ Quốc ơi!
                  Xin tiếp bước anh hùng!”

                  Hãy cố lên em!
                  Noi gương danh nhân mà lập chí
                  Ta với em
                  Mình hãy kết thành đôi tri kỷ!
                  Đất Quảng Trạch này đâu kém Nam Dương
                  Tôi tự hào bài “Tỏ chí” của em:

                  “Quốc Tuấn ngày xưa chí vững bền
                  Thù nhà, nợ nước chẳng hề quên
                  Đến bữa quên ăn, đêm quên ngủ
                  Thương dân, yêu nước quyết báo đền
                  Văn hay thu phục muôn người Việt
                  Võ giỏi kinh hồn lũ tướng Nguyên
                  Mươi năm sau nữa ơi ông Tuấn
                  Nối chí ông, nay cháu tiến lên!”

                  Tôi thương mến em
                  Đã chịu khó luyện rèn
                  Biết HỌC LÀM NGƯỜI !
                  Học làm con hiếu thảo.
                  Mười lăm tuổi đã “Tập làm thầy giáo

                  “Vui gì hơn buổi đầu làm thầy giáo
                  Của lớp vở lòng đất mẹ yêu thương
                  Trưa nắng luyến các em cùng đến lớp
                  Giọng líu lo như chim hót ven đường.

                  Đứng trước các em tuổi nhỏ đáng yêu
                  Mà đã tưởng tới bao nhiêu người lớn
                  Nghe em đọc giọng thanh thanh dễ mến
                  Mà đã nghe đất nước xuyến xao mình!”

                  Tổ Quốc đang chờ em phía trước.
                  Em ơi em, can đảm bước chân lên!

                  Nguyễn Khoa Tịnh, 1970

                  Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là den-voi-tay-nguyen-moi-4.jpg

                  Biển Hồ Chùa Bửu Minh
                  ĐẾN VỚI TÂY NGUYÊN MỚI
                  Hoàng Kim

                  Đến với Tây Nguyên mới
                  Thăm lại chiến trường xưa
                  Đất sắn nuôi bao người
                  Sử thi vùng huyền thoại.

                  Vầng đá chốn đại ngàn
                  Rượu cần nơi bản vắng
                  Câu cá bên dòng Sêrêpôk
                  Tắm tiên Chư Jang Sin

                  Thương Kim Thiết Vũ Môn
                  Nhớ người hiền một thuở
                  Đình Lạc Giao Hồ Lắk
                  Biển Hồ Chùa Bửu Minh

                  Nước, rừng và sự sống
                  Chuyện đời không thể quên
                  Cây Lương thực bạn hiền
                  Lớp học vui ngày mới

                  Ai ẩn nơi phố núi
                  Ai tỏ Ngọc Quan Âm
                  Ai hiện chốn non xanh
                  Mây trắng trời thăm thẳm
                  Nước biếc đất an lành

                  Soi bóng mình đáy nước
                  Sáng bình minh giữa đời
                  Thung dung làm việc thiện
                  Vui bước tới thảnh thơi

                  Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là chua-buu-minh-bien-ho-1.jpg

                  Biển Hồ Chùa Bửu Minh
                  Đến với Tây Nguyên mới

                  BIỂN HỒ CHÙA BỬU MINH
                  Hoàng Kim


                  Thương Biển Hồ
                  Chùa Bửu Minh
                  Sương che mờ sáng
                  Biển ẩn thâm xanh
                  Chẳng giấu được Tháp Hiền

                  Nhớ Trà Tân Cương
                  Cụ Phùng Cung
                  “Quất mãi nước sôi
                  Trà đau nát bã
                  Không đổi giọng Tân Cương”

                  Người hiền dân tin
                  Đất lành chim đậu
                  Trần Huyền Trang và
                  Tháp Đại Nhạn
                  Thăm thẳm một góc nhìn.

                  Một đời người
                  Một ngôi chùa
                  Một Biển Hồ
                  Một bóng nắng
                  Một dát vàng
                  Gần trần nhưng thoát tục

                  ĐIÊU KHẮC TƯỢNG PHẬT BẰNG TRÁI TIM
                  Thích Giác Tâm


                  Ảnh: Kim thân Phật Tổ chùa Bửu Minh Gia Lai. Tăng Ni sinh của thiền phái Trúc Lâm không ai không nhớ 4 câu trong bài phú Cư trần lạc đạo của Trúc Lâm Sơ tổ Trần Nhân Tông:

                  Cư trần lạc đạo thả tùy duyên.
                  Cơ tắc xan hề khốn tắc miên.
                  Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch.
                  Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền.

                  Bài kệ trên, dịch nghĩa :

                  “Sống giữa phàm trần, hãy tùy duyên mà vui với đạo
                  Đói thì ăn, mệt thì ngủ
                  Trong nhà sẵn của báu, đừng tìm đâu khác
                  Đối diện với cảnh mà vô tâm, thì không cần hỏi thiền nữa”.
                  (Thơ văn Lý Trần, tập 2,NXB Khoa Học Xã Hội, Hà Nội 1989,. trang 510).

                  Tôi thích nhất là câu: “Trong nhà sẵn của báu, đừng tìm đâu khác”. Chúng ta có của báu trong nhà “Phật tính” vậy mà không nhận ra, cứ luôn đi tìm kiếm cứ ngỡ rằng Phật ở đâu đó, đem Phật đi tìm Phật. Chính chúng tôi (cùng với một người thợ xây tên Trịnh Cảo) là người tạc tượng Phật vẫn không thấy hết vẻ đẹp hoàn mỹ của tượng Phật mình làm, vẫn cứ mặc cảm nghĩ rằng mình không bằng cấp, không đào tạo trường Mỹ thuật, không được học nghề theo kiểu cha truyền con nối. Tạc tượng chỉ bằng tình kính yêu vô hạn đối với Đức Thế Tôn thôi, và nghiên cứu cách làm tượng qua thư tịch sách vở, tượng Phật Bửu Minh sao có thể hơn được các pho tượng Phật nổi tiếng xưa nay ở Việt Nam. Đợi đến khi Cư Sĩ Giác Đạo – Dương Kinh Thành ở thành phố Hồ Chí Minh lên tiếng khen ngợi, tôi mới giật mình thốt lên: ” Ủa vậy sao?” Có người cầm Thiền bảng nện vô vai tôi giật mình tỉnh ra và viết đoản văn: ” Kim thân Phật Tổ chùa Bửu Minh – Gia Lai”. Và ngày hôm nay (16/06/2013) tôi được một người Phật tử đem tặng một tấm ảnh Kim thân Phật Tổ chùa Bửu Minh (có xóa bỏ phông) lại giật mình lần thứ hai, pho tượng của mình làm đây sao? Thời bao cấp ăn cơm khoai cơm độn, xi măng sắt thép quý như vàng, tại sao mình lại thực hiện pho tượng thành công quá mong ước!

                  Câu trả lời pho tượng Phật thành công là chỉ do niềm tin và thương Phật quá lớn, ngày nhớ Phật, đêm nhớ Phật không lúc nào xa rời Phật dù trong chốc lát. Lúc vừa hoàn thành pho tượng Hòa thượng Giác Toàn (khi ấy là Thượng tọa) đi công tác phật sự tỉnh Kon Tum có ghé lại chùa Bửu Minh thăm, vô cùng ngạc nhiên trước gương mặt của Đức Phật, tán thán khen ngợi nhưng vẫn mạnh dạn phê phán:” Mặt Phật rất từ bi, rất hiền, rất thiền nhưng so với toàn thân thì đầu Phật bị nhỏ không cân đối thầy Giác Tâm xem lại và nếu được nên sửa đầu Phật cho lớn hơn mới cân đối với toàn thân” Một lời góp ý của Hòa thượng thôi, mà tôi với anh thợ xây Trịnh Cảo toát mồ hôi hột. Đầu Phật, mặt Phật đã hoàn chỉnh rồi bây giờ nếu nghe Hòa thượng góp ý mình phải làm lại từ đầu. Tuy biết sửa lại đầu Phật sẽ vô cùng khó khăn, nếu sửa lại mặt Phật không đẹp như hiện giờ thì sao? Pho tượng sẽ bị hủy bỏ không tôn thờ như lời khấn nguyện ban đầu: ” Phật không gia hộ cho con làm tượng Phật đẹp con sẽ không phụng thờ và đem Phật bỏ chìm xuống đáy Biển Hồ”. Nhưng rồi vẫn lắng nghe lời Hòa thượng chỉ dạy góp ý, mạnh dạn đục bỏ và sửa lại. Tay cầm búa tay cầm mũi ve đục mà run cầm cập. Trong tâm Phật vẫn còn, lòng thương Phật vẫn nguyên vẹn, mỗi ngày mỗi bồi đắp xi măng gọt đẽo chỉnh sửa với ảnh mẫu là tượng Kim thân Phật Tổ Nha Trang và tượng Phật Thích Ca Phật Đài Vũng Tàu. Sửa lại đầu Phật, mặt Phật lớn hơn theo lời góp ý của Hòa thượng Giác Toàn đã thành công. Kim thân Phật Tổ chùa Bửu Minh có nét giống hai pho tượng nói trên là nhân duyên như thế.

                  Gia Lai năm 1988
                  Thích Giác Tâm

                  Chua Buu Minh – Nghĩa Hưng, Chư Păh, Gia Lai.
                  Nguồn:
                  https://www.youtube.com/watch?v=eY88tcaKI14

                  LỜI VÀNG TRUYỆN BIỂN HỒ
                  Hoàng Kim


                  Phật Tổ chùa Bửu Minh
                  Kim thân Người có Phật
                  Trái tim Tâm thành Bụt
                  Lời vàng truyện Biển Hồ.

                  ĐẾN VỚI TÂY NGUYÊN MỚI
                  Hoàng Kim

                  Đến với Tây Nguyên mới
                  Thăm lại chiến trường xưa
                  Đất sắn nuôi bao người
                  Sử thi vùng huyền thoại.

                  Vầng đá chốn đại ngàn
                  Rượu cần nơi bản vắng
                  Câu cá bên dòng Sêrêpôk
                  Tắm tiên Chư Jang Sin

                  Thương Kim Thiết Vũ Môn
                  Nhớ người hiền một thuở
                  Đình Lạc Giao Hồ Lắk
                  Biển Hồ Chùa Bửu Minh

                  Nước, rừng và sự sống
                  Chuyện đời không thể quên
                  Cây Lương thực bạn hiền
                  Lớp học vui ngày mới

                  Ai ẩn nơi phố núi
                  Ai tỏ Ngọc Quan Âm
                  Ai hiện chốn non xanh
                  Mây trắng trời thăm thẳm
                  Nước biếc đất an lành

                  Soi bóng mình đáy nước
                  Sáng bình minh giữa đời
                  Thung dung làm việc thiện
                  Vui bước tới thảnh thơi

                  Đến với Tây Nguyên mới
                  Biển Hồ Chùa Bửu Minh

                  HỒ VĂN THIỆN BÓNG CHIỀU
                  Hoàng Kim

                  Thi lão tám mươi khí thế sung
                  Xuân qua hạ tới vẫn theo cùng
                  “Bóng chiều” Việt ngữ điều không dễ
                  Bừng sáng Đường thi tiếng chẳng tung
                  Vóc hạc Thiện nhân tài lão khọm
                  Xương mai Kim cổ kính cây tùng
                  Thơ Đường đất Việt ngời tâm đức
                  Phần thưởng Hằng mời ngoạn Quảng cung

                  THIỆN TÂM VUI SỐNG KHỎE
                  Hoàng Kim

                  Nếm trãi đường trần chẳng ít đâu
                  Lồng lộng trăng xuân giữa đỉnh đầu
                  Thiện tính tâm lành vui sống khỏe
                  Xuân tươi đức tốt chúc bền lâu
                  Dáng trúc mai thanh mừng phúc hậu
                  Bóng hạc thân tình thích vuốt râu
                  Duyên thơ bạn quý đời thêm phước
                  Chiều xuân sức vóc vẫn hồng au …

                  CHẲNG DÁM NGOA NGÔN
                  Hồ Văn Thiện
                  Phúc họa thơ tặng của Huy Vụ

                  Tám chục bạn khen tứ khoái sung
                  Chúc vài vòng giáp nữa đi cùng !
                  Bút đàm hết mực thơ sao vẫy ?
                  Trống bỏi run tay tiếng chẳng tung !
                  Dáng dấp trông khoèo như lão khọm
                  Tấm lòng giữ thẳng giống cây tùng
                  Cầu trời cho sống nhiều năm tháng
                  Hết máu đa tình mới nhập cung !

                  10-7-2020

                  MỪNG SINH NHẬT BÁC THIỆN
                  Ngvan Tư Bn (bài họa)

                  Đến ngày sinh nhật bác ngờ đâu
                  Nhà mạng nhắc như tiếng mở đầu
                  Bạn hữu thân tình mong sống khỏe
                  Anh em gần gũi chúc thời lâu
                  Soi gương tự cảm yêu vầng trán
                  Chụp ảnh hay mình thích bộ râu
                  Tuổi tám nhăm nhưng hồn vẫn trẻ
                  Thơ tình say đắm dáng hồng au

                  NGẪU HỨNG NGÀY SINH NHẬT
                  Hồ Văn Thiện


                  Bảy tám năm rồi có ít đâu
                  Tóc xanh hóa bạc ở trên đầu
                  Qua hai thế kỷ sao nhanh thế
                  Cố tới một trăm thấy quá lâu
                  Ngồi ngắm cháu con- mình lúc trẻ
                  Soi gương tự dạng- lão dài râu
                  Hình hài biến sắc mau hơn tính
                  Dáng cụ nhưng tình vẫn đỏ au…

                  HỒ VĂN THIỆN BÓNG CHIỀU
                  Hoàng Kim

                  Bài Xướng
                  GỪNG CÀNG GIÀ CÀNG CAY
                  Lê Trường Hưởng


                  Gừng càng già vị lại càng cay
                  Thơ tuổi cao thêm cũng thế này!
                  Ý tại thâm trầm mà sắc sảo
                  Ngôn ngoài khoáng đạt thật là hay
                  Tu từ kỹ lưỡng sao điêu luyện
                  Chọn tứ kỳ công thấy chắc tay
                  Tác phẩm tuyệt vời lưu hậu thế
                  Đề Đa tỏa bóng rợp trời đây!

                  GỪNG GIÀ QUÁ ĐÁT
                  Hồ Văn Thiện


                  Gừng già quá đát chẳng còn cay
                  Ai thấu cho ai cái nỗi này?
                  Trí não vào hồi suy nhậy cảm
                  Thơ tình mất hứng khó mà hay
                  Quen làm hàm súc quên từ vựng
                  Thích viết tràng giang sợ mỏi tay
                  Chẳng muốn rựa cùn đem giắt vách
                  Đa đề khô nhựa bóng chi đây ? !

                  ĐỪNG NÓI VÂY
                  Nguyễn Trọng Nghĩa
                  (trả lời cụ Hồ Văn Thiện)


                  Chớ bảo Gừng già đã hết cay
                  Kìa trông các cụ, thấu chưa này?
                  Bát tuần kiểu dáng còn trông đẹp
                  Tứ tuyệt câu hòa đọc rất hay
                  Bấy kẻ vào xem không chớp mắt
                  Bảo người lần giở chẳng ngừng tay
                  Hàn Thuyên khó kiếm ai như vậy
                  Đạt nghĩa thân tình thỏa lắm đây


                  KHÓ THEO CÙNG
                  Nguyễn Huy Vụ

                  Kính tặng thi lão Hồ văn Thiện

                  Bát thập thơ tình viết rất sung
                  Bốn phương trăm họ khó theo cùng
                  Thi Đường vẫy bút còn tuôn ngập
                  Trống bỏi vung dùi vẫn gõ tung
                  Đông giá tinh thần trong tựa tuyết
                  Xuân tươi cốt cách vững như tùng
                  Quyết tâm vượt nữa vòng hoa giáp
                  Chẳng ngán đường trần dẫu mấy cung.

                  LÃNG MẠN HỒI XUÂN
                  Đào Ngọc Hòa


                  Xuân này tám chục lão còn sung
                  Mến mộ nàng thơ ghẹo đến cùng
                  Vóc ngọc hồi xuân lòi mộng ảo
                  Thân ngà trống bỏi lộ hành tung
                  Răng còn chắc đối tâm đề đại
                  Trí vẫn tài ngâm dạ bách tùng
                  Chúc cụ hồn nhiên đời lãng mạn
                  Nam tào có lệnh mới vào cung

                  BẢN LĨNH
                  Ngô Gia Tôn Tử


                  Tuy già ngọn bút hãy còn sung
                  Mực vẫn đầy nguyên để viết cùng
                  Mộng thắm ru tình ân nghĩa trải
                  Trăng ngời ủ rượu trí thần tung
                  Trong dòng lãng mạn êm dường suối
                  Trước bả phồn hoa vững tựa tùng
                  Cẩn trọng ai bằng thi lão bá
                  Cho dù thưởng ngoạn chốn thiềm cung.

                  Tai wan 11.7.2020
                  Kính tặng lão thi bá Thiện Hồ Văn ạ.

                  NHÂN VÀ TÀI
                  Hồ Văn Thiện

                  CHỮ đưa ta đến nẻo trời xa
                  NHÂN giữ cho tâm mãi thuận hoà
                  KIA mới chính là đường hướng tới
                  MỚI kia chưa hẳn lối đi ra
                  BẰNG lòng giống tựa khi bừng sáng
                  BA phải khác chi lúc tối gà
                  CHỮ đức như sao hôm lấp lánh
                  TÀI không đắc dụng hoá thành tà.

                  VÒNG ĐỜI VÔ THƯỜNG
                  Hồ Văn Thiện


                  Tân Mão này đây đủ sáu vòng
                  Cuộc đời kể có cũng như không
                  Bảy ba năm sống cùng đất nước
                  Hai bảy xuân còn với núi sông ?
                  Thành bại phơi bày ngoài cõi thế
                  Buồn đau nén chặt ở trong lòng
                  Trăm niên sau nữa ai còn nhớ
                  Thế giới này a có một ông !

                  MỘT KIỂU CHƠI
                  Hồ Văn Thiện

                  Yêu thích thơ Đường một kiểu chơi
                  Như muốn thể khác ở trên đời
                  Người ưa nhạc điệu nâng trân trọng
                  Xem tiếp >>

                    Dạy và học 11 tháng 7(11-07-2021)

                  ††††††DẠY VÀ HỌC 11 THÁNG 7
                  Hoàng Kim

                  CNM365 Tình yêu cuộc sốngHiệu trưởng quê Quảng Trị với bài diễn văn xúc động chia tay sinh viên; Những trang văn thắp lửa; Đợi Anh ngày trở lại,Giấc mơ lành yêu thương, Bảo tồn và phát triển; Linh Giang sông quê hương; Ông Rhodes chữ tiếng Việt; Bài thơ Viên đá Thời gian; Việt Nam con đường xanh; Ngày 11 tháng 7 năm 1977, Martin Luther King được truy tặng Huân chương Tự do Tổng thống. Martin Luther King, Jr. viết tắt MLK sinh ngày 15 tháng 1 năm 1929 mất ngày 4 tháng 4 năm 1968 là một mục sư Baptist, nhà hoạt động nhân quyền người Mỹ gốc Phi, và là người đoạt Giải Nobel Hoà bình năm 1964. Ông là một trong những nhà lãnh đạo có ảnh hưởng lớn nhất trong lịch sử Hoa Kỳ cũng như lịch sử đương đại của phong trào bất bạo động. King được nhiều người trên khắp thế giới ngưỡng mộ như một anh hùng, nhà kiến tạo hoà bình và thánh tử đạo. Ngày 11 tháng 7 năm 1995 , Tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton và Thủ tướng Việt Nam Võ Văn Kiệt thông báo quyết định bình thường hóa quan hệ ngoại giao giữa hai quốc gia. Ngày 11 tháng 7 năm 1987 là Ngày dân số thế giới (hình) nhằm nâng cao nhận thức về dân số toàn cầu. Dân số thế giới là tổng số người sống trên Trái Đất. Vào ngày 1 tháng 11 năm 2018, dân số trên Trái Đất ước tính khoảng 7,7 tỉ người.[1] Ngày 11 tháng 7 năm 1921, Cách mạng Ngoại Mông: Mông Cổ một lần nữa tuyên bố độc lập khỏi Trung Quốc, thành lập chính phủ quân chủ lập hiến. Bài chọn lọc ngày 11 tháng 7: Hiệu trưởng quê Quảng Trị với bài diễn văn xúc động chia tay sinh viên; Những trang văn thắp lửa; Đợi Anh ngày trở lại, Giấc mơ lành yêu thương; Bảo tồn và phát triển; Linh Giang sông quê hương; Ông Rhodes chữ tiếng Việt; Bài thơ Viên đá Thời gian; Việt Nam con đường xanh; Thông tin tại: https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-11-thang-7/†

                  ††††Hiệu trưởng quê Quảng Trị với bài diễn văn xúc động chia tay sinh viên

                  Hiệu trưởng Đại học Sư phạm Hà Nội, Giáo sư Tiến sỹ Nguyễn Văn Minh quê xứ Cùa, Cam Lộ; cựu học sinh Trường cấp 3 Đông Hà (Quảng Trị) ngày 11 tháng 7 năm 2020 đã có bài diễn văn xúc động, “đáng đọc” tại lễ bế giảng năm học 2019-2020 ở trường Đại học Sư phạm Hà Nội, trước hơn 1.100 tân cử nhân cùng đông đảo giảng viên, phụ huynh Có sinh viên đã khóc khi nghe diễn văn và nhớ lại những kỷ niệm suốt bốn năm đại học.†Dưới đây là toàn văn bài diễn văn của thầy Minh (ảnh đầu trang Thầy Nguyễn Văn Minh trao bằng và chụp ảnh kỷ niệm cùng các thủ khoa đầu ra của trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Ảnh: Dương Tâm).

                  Các em sinh viên thân yêu!

                  Chúng ta đã trải qua những ngày tháng khó khăn với rất nhiều cung bậc cảm xúc. Có lúc chính thầy đã phải hình dung đến những điều tồi tệ có thể xảy ra, nhưng chúng ta đã vượt qua, tất nhiên không phải đã qua tất cả.

                  Các em sẽ tiếc nuối vì sắc vàng hoàng yến đã phôi pha, những cánh phượng rực đỏ đã tan tác bận cuối hè, tiếng ve ran cũng đã lùi xa và lịm tắt; chỉ còn nắng, nắng vẫn thiêu đốt phía ngoài kia, nắng làm đẫm mồ hôi trên lưng còng áo mẹ, trên vầng trán của cha để đơm đầy bát cơm cho chúng ta mỗi bữa.

                  Các em sẽ tiếc nuối vì mùa hè cuối cùng của đời sinh viên ít nhiều không thật trọn vẹn. Thầy cũng cảm nhận sự mất mát trong đời. Thật đáng tiếc, vì dịch mà các em không có được tấm hình mùa lộc vừng thay lá, mùa hoàng yến ra hoa, để ghi lại khoảnh khắc yêu thương của một thuở vàng son đáng nhớ.

                  Nhưng cả đất nước này phải trải qua những tháng ngày kinh khủng. Tạo hóa đã thử thách chúng ta một cách nghiệt ngã. Rồi ở đó sự tử tế lại lên ngôi, sự dấn thân càng hiện rõ, sự thích ứng càng lộ ra, trách nhiệm cá nhân và cộng đồng có dịp bộc lộ. Các em có một năm học đáng nhớ, một năm học chậm lại, ngày ra trường cũng chậm lại, thời sinh viên bất ngờ lại phải dài thêm trong bao lo lắng. Nhưng những ngày qua là mãi mãi không quên.

                  Có những điều đọng lại sau một mùa dịch khủng khiếp, đó là: sự tử tế, sự dấn thân và sự thích ứng.

                  Qua những biến cố, hãy hứa với nhau rằng chúng ta yêu thương nhau hơn, trân trọng nhau hơn và nguyện sẽ làm tốt hơn những việc ý nghĩa cho cuộc đời, vì chúng ta đã trải qua những tháng ngày nhọc nhằn, cam khó có nhau, đừng bao giờ tách mình ra khỏi cộng đồng.

                  Đất nước mình đâu có giàu đâu, nhưng khi hoạn nạn, ai cũng sẵn sàng chung tay, đùm bọc và che chở cho nhau; lo cho cái ăn, cái mặc, thuốc thang bằng ấy người trong các khu cách ly có phải đâu là chuyện dễ.

                  Hình ảnh anh bộ đội đẫm mồ hôi, tất tả để chuẩn bị các khu cách ly, ngồi ăn bát mì tôm nơi bìa rừng để bảo đảm an toàn nơi đường biên Tổ quốc, và các anh lo từng bữa cơm cho người già, bát cháo cho trẻ nhỏ, nhường chỗ ngủ cho dân. Phút nghỉ ngơi của các anh là tấm chiếu mỏng manh bên ngoài doanh trại.

                  Rồi những bác sĩ, y tá chia tay người thân để làm nhiệm vụ. Trong họ chắc sẽ băn khoăn rằng biết đâu đây là chia tay của lần sau cuối. Họ cũng chỉ muốn bình yên và hạnh phúc, nhưng họ chấp nhận đối mặt với hiểm nguy như một sự xả thân vì cả cộng đồng.

                  Mùa hè này trong mỗi chúng ta đều hình thành một khoảng lặng, để ta nghĩ về mình, về đất nước, con người. Các em hãy tĩnh tâm để nghĩ thật kỹ về chính mình, về những gì trong ta đang còn nhỏ nhoi, chật chội, vì cuộc đời thì rộng mở và đâu chỉ phải riêng ta?

                  Qua bão giông, những ước mơ tươi xanh của các em còn nguyên vẹn. Màu vàng của nắng lửa sẽ xa đi và thiên thanh của trời thu sẽ đến. Hãy tung cánh giữa trời xanh và gió lộng, hãy đi qua bão giông vì niềm tin và khát vọng, đi đến những nơi đang cần các em vì những điều tốt đẹp.

                  Những câu hỏi lớn của cuộc đời còn day dứt mãi trong ta, nhưng những việc tưởng chừng nhỏ nhoi phải dễ đâu làm được. Những giá trị chân chính về tình yêu thương sẽ khơi nguồn khát vọng và thôi thúc ý chí dấn thân. Hãy đến với làng quê, hãy về nơi xóm thợ, hãy đặt chân đến bản làng, đến vùng sông nước phương Nam, với miền Trung nắng gió, nơi ấy đang rất cần các em.

                  Khi trái tim không đủ rộng cho yêu thương thì trước cuộc đời làm sao có được lòng trắc ẩn. Dù có thương tiếc hôm qua thì ngày mai vẫn đến, trách cứ mà chi sao không mở lòng tha thứ để cuộc đời thêm chỉ yêu thương?

                  Khát vọng từ yêu thương sẽ thôi thúc con người nghĩ về lương thiện. Ảo vọng chỉ của giàu sang đơn thuần sẽ khiến con người làm bằng mọi giá. Giáo dục, trước hết để mỗi người định hình được giá trị và từ đây nuôi khát vọng cho mình và cả cho đời.

                  Khi thẩm thấu được những lo toan, trăn trở của cuộc đời người ta sẽ đi tìm những điều tốt đẹp. Khi nghĩ chỉ cho cá nhân vị kỷ thì trong đầu sẽ sinh ra nhiều điều toan tính, khi biết trao thì hạnh phúc tự về.

                  Hãy bắt đầu từ chính các em và yêu thương sẽ sinh sôi nảy nở.

                  Yêu thương sẽ làm nên khát vọng, nhưng chỉ mỗi yêu thương không đủ để xây đời. Khát vọng có chính đáng đến đâu nhưng nếu không hành động thì cũng chỉ là giấc mộng hão huyền xa vời vợi. Nồi cơm Thạch Sanh chỉ nằm sâu trong cổ tích, bát cơm ta ăn là nhọc nhằn năm tháng mẹ cha. Ngày mai ra đời, các em hãy ý thức rằng, mình cần biết nghĩ, biết làm và dám cống hiến. Dạy những điều trong sách vở rất cần, nhưng hành động của chính mình sẽ làm lan tỏa, để góp nhặt cho mầm ươm giá trị.

                  Sự biến động khó lường của thiên nhiên có lúc tạo nên biến cố. Vì vậy, giáo dục để mỗi người sẵn sàng thích ứng trước những chao đảo xảy ra là điều rất hệ trọng. Nhưng trước hết cần nhớ rằng, đừng thô bạo với thiên nhiên, nếu không sẽ phải trả giá quá đắt. Một bài học không thừa trong ngày tháng vừa qua.

                  Ngày mai, các em sẽ xa rời chốn bình yên để đi vào cuộc sống. Hãy mỉm cười đón nhận nó và dám đối diện với nó. Những kỷ niệm êm đềm, đẹp đẽ rồi cũng thành hoài niệm nếu ta không làm tươi mới nó. Cuộc sống vốn dĩ vẫn tồn tại nhiều điều không như mong muốn, nhưng đó là cuộc sống. Nghĩa vụ của chúng ta là làm cho cuộc sống tốt hơn chứ không phải chỉ ngồi phán xét; và cảm hóa là liệu pháp tối thượng của giáo dục để con người trở nên tử tế, lương thiện hơn.

                  Con tim để yêu thương nhưng cần cả khối óc để tạo ra sự diệu kỳ. Khơi nguồn để những ý tưởng mới sinh sôi là bổn phận cao cả của giáo dục. Muốn vậy, phải khai phóng được trí tuệ mỗi người. Mỗi người là một thế giới, từ những số phận không may mắn, đến những người có thuận lợi hơn, nhưng trọng trách của giáo dục là đem lại sự tôn trọng và bình đẳng cho tất cả, dù họ là ai. Các em nhớ lấy điều này.

                  Ai cũng có quê hương và rộng hơn là Tổ quốc; là mẹ cha, là đồng làng, góc phố, xa hơn là hũng vĩ Trường Sơn, là biển Đông sóng vỗ, là mênh mông sông nước Cửu Long. Những nơi đó còn lắm gian nan. Giáo dục để mỗi người yêu thương lấy mảnh đất nơi mình khôn lớn và khát vọng đổi đời cho bao người nơi mình đã được sinh ra.

                  Giáo dục để mỗi người không còn cam phận, để những sức mạnh tiềm tàng ẩn dấu hiện ra. Bổn phận của các em rất khó khăn nhưng cao cả.

                  Khi ra đời, các em sẽ tiếp cận với cả mảng sáng và mảng tối, giao thời của ngày và đêm có cả hoàng hôn và cả bình minh, nhưng phải đặt ra mục đích cuối cùng để đến. Phải coi khó khăn là thử thách lòng kiên nhẫn của mỗi người để vượt qua; đừng bao giờ chùn bước; đừng bao giờ thỏa hiệp với cái sai, trong khó khăn phải tìm ra giải pháp mới chứ không dại dột làm liều.

                  Khi ra đời, cần bản lĩnh và những chuẩn mực. Các em chưa nhiều trải nghiệm cuộc sống thực nên càng cần thận trọng, biết tránh những cạm bẫy khó lường; muốn thế phải tỉnh táo, bản lĩnh và luôn nhớ những chuẩn mực, nhất là chuẩn mực trong giáo dục.

                  Khi ra đời, các em cần kiên trì để đưa những điều mới mẻ, tiến bộ vào thực tiễn công việc, lực cản của tâm lý không muốn thay đổi luôn cản trở, cho nên cần kiên trì và thuyết phục.

                  Khi ra đời, đừng lấy những ưu ái của cuộc đời, của mẹ cha dành cho ta để làm nơi bám víu, hãy tạo ra điểm tựa của chính mình, sự vững chãi cho chính mình bằng nỗ lực của chính mình, tầm gửi sẽ mãi mãi là tầm gửi.

                  Khi ra đời, các em cần có cái đầu biết độc lập trong tư duy, phóng khoáng trong suy nghĩ và hợp tác trong công việc; biết nhìn xa trông rộng, nhưng cần biết cả những việc gần gũi với mình.

                  Không ai chọn nghề giáo để làm giàu về tiền bạc; nhưng có những sang trọng và giàu có của nhà giáo chân chính không phải ai cũng dễ có được đâu. Hãy biết giữ gìn và trân trọng việc mình làm.

                  Thầy nhắc các em nhưng thầy tin các em sẽ làm tốt hơn những gì thế hệ của thầy đang làm, đó là một niềm tin tuyệt đối. Các em sẽ là những người khắc sâu những giá trị cao đẹp cho cuộc đời, thắp lên ngọn lửa đam mê cho thế hệ tương lai và hướng họ đến những ước mơ cao cả để hành động chân chính xây đời.

                  (Nguồn: VNEXPRESS)
                  Cám ơn PGS.TS Mai Thành Phụng đã gửi chia sẽ
                  thông tin này.

                  ĐỢI ANH NGÀY TRỞ LẠI
                  Hoàng Kim

                  Anh như cơn mưa ngọt đầu mùa
                  Mang đến niềm vui của ngày gieo hạt
                  Mai Việt nở bừng khoe sắc
                  Đằm thắm”Lời thì thầm của dòng sông”

                  Anh và em như bức tranh tĩnh vật treo tường
                  Một đôi bình gốm qúy
                  Cặp bình giản dị
                  Sang trọng,
                  khiêm nhường
                  tỏa sáng cho nhau

                  Anh mang đến cho em giấc ngủ nhiệm màu
                  Xoá đi ưu tư phiền muộn
                  Anh vỗ về em
                  bằng lời ru ngọt ngào cảm động
                  Tìm những nét cao quý nhất trong em
                  mà trân trọng giãi bày

                  Anh thân yêu
                  Nay anh đã xa rồi
                  Em vẫn ước mong anh
                  Đợi anh ngày trở lại.

                  HỒN CỦA TƯỢNG
                  Nguyễn Vạn An


                  Mới gặp Anh đêm nay,
                  Xin Anh chỉ phác em vài nét,
                  Hướng môt dáng ngồi, níu hai cánh tay,
                  Nắn một áng lưng, gọt một bờ vai.
                  Em e thẹn quay đi,
                  biết Anh đang nhìn em tha thiết,
                  Xin Anh nhè nhẹ thôi !
                  Anh muốn tìm hiểu em,
                  hiểu từng chi tiết,

                  Em chẳng có gì giấu Anh hết,
                  Vì em biết,
                  Anh sẽ tìm những cái gì cao quý nhất,
                  Trong thân em,
                  Mà trân trọng dãi bầy!

                  Đêm nay, rồi ngày mai, rồi ngày mốt,
                  Trong không gian linh thiêng của mỹ thuật,
                  Thất bại hay thành công,
                  đời đôi ta đã dính chặt.
                  Tất cả cuộc đời em,
                  em đã đặt,
                  Trong đôi bàn tay Anh,
                  Ngay từ giây phút này,…..

                  Lời JULIETTE

                  Mới gặp Anh đêm nay,
                  Xin Anh chỉ phác em vài nét,
                  Hướng môt dáng ngồi, níu hai cánh tay,
                  Nắn một áng lưng, gọt một bờ vai.
                  Em e thẹn quay đi,
                  biết Anh đang nhìn em tha thiết,
                  Xin Anh nhè nhẹ thôi !

                  Anh muốn tìm hiểu em,
                  hiểu từng chi tiết,

                  Em chẳng có gì giấu Anh hết,
                  Vì em biết,
                  Anh sẽ tìm những cái gì cao quý nhất,
                  Trong thân em,
                  Mà trân trọng dãi bầy!
                  Đêm nay, rồi ngày mai, rồi ngày mốt,
                  Trong không gian linh thiêng của mỹ thuật,
                  Thất bại hay thành công,
                  đời đôi ta đã dính chặt.
                  Tất cả cuộc đời em,
                  em đã đặt,
                  Trong đôi bàn tay Anh,
                  Ngay từ giây phút này,…..
                  Anh An.
                  Bài thơ của anh.
                  Bức tượng của anh.
                  Hòa quyện vào nhau
                  trong lời thì thầm của người thiếu nữ.
                  Lúc nửa đêm.
                  Cổ đã mỏi.
                  Chân đã tê.
                  Nhưng nàng vẫn ngồi im.
                  Ngồi im thật kiên nhẫn.
                  Ngồi im thật dịu dàng.
                  Để mặc cho người nghệ sĩ:
                  “Hướng môt dáng ngồi, níu hai cánh tay,
                  Nắn một áng lưng, gọt một bờ vai”.
                  Nét mặt nàng e thẹn quay đi,
                  trái tim nàng thì thùng đập mạnh.
                  Nhưng nàng vẫn ngồi im.
                  Với một lòng tin.
                  Tuyệt đối.
                  “Tất cả cuộc đời em, em đã đặt
                  Trong đôi bàn tay Anh,
                  Ngay từ giây phút này…”

                  Anh An.
                  Đọc bài thơ của anh,
                  Juliette cũng ngồi im.
                  Xúc động.
                  Xao xuyến.
                  Người nghệ sĩ ơi,
                  Juliette xin được chia sẻ
                  giây phút giao hòa này với anh…

                  PHÚT BÊN EM
                  Hoàng Kim

                  (Bức tượng nổi tiếng của Antonio Canova)

                  Kamina Kamina
                  Anh gọi tên em Kamina
                  của Antonio Canova
                  trong bảo tàng nghệ thuật.

                  Anh bồi hồi cầm tay em
                  đến bên tượng Gớt
                  phút giây này
                  tình yêu này
                  em là suối nhạc
                  để Bethoven dâng đời
                  kiệt tác “Ánh trăng”.

                  Kamina Kamina
                  Em là tượng thần Tình yêu
                  rung động hoá thân
                  dưới bàn tay vàng
                  của Antonio Canova.
                  Em là mơ hay là thật?

                  Anh muốn ôm em vào lòng
                  hôn lên đôi môi ngọt ngào
                  và áp đầu lên ngực
                  để những phút giây thần tiên
                  được sống bên em
                  say đắm đến vô cùng!

                  I have a dream

                  GIẤC MƠ LÀNH YÊU THƯƠNG
                  Hoàng Kim

                  nhắm mắt lại đi em
                  để thấy rõ giấc mơ hạnh phúc
                  trời thanh thản xanh
                  đêm nồng nàn thở
                  ta có nhau trong cuộc đời này
                  nghe hương tinh khôi đọng mật
                  quyến rũ em và khát khao anh
                  mùi ngây ngất đằm sâu nỗi nhớ
                  một tiếng chuông ngân
                  thon thả đầu ghềnh

                  nhắm mắt lại đi em
                  hạnh phúc đâu chỉ là đích đến
                  hạnh phúc là con đường trãi nghiệm
                  vỗ về, chờ đợi, nhớ thương

                  nhắm mắt lại đi em
                  trong giấc mơ của anh
                  có em và rừng thiêng cổ tích
                  có suối nước trong veo như ngọc
                  có vườn trúc và ngôi nhà tranh
                  có một đàn trẻ thơ tung tăng
                  heo gà chó mèo ngựa trâu
                  nhởn nhơ trên đồng cỏ
                  tươi xanh

                  nhắm mắt lại đi em,
                  tận hưởng thú an lành.

                  Nhắm mắt lại đi em
                  Giấc ngủ ngoan
                  giấc mơ hạnh phúc
                  Em mãi bên anh,
                  Đồng hành với anh
                  Bài ca yêu thương
                  Bài ca hạnh phúc

                  Giấc mơ lành yêu thương
                  Ta có nhau trong cuộc đời này.
                  nghe hương tinh khôi đọng mật
                  quyến rũ em và khát khao anh
                  mùi ngây ngất đằm sâu nỗi nhớ
                  một tiếng chuông ngân
                  thon thả đầu ghềnh

                  nhắm mắt lại đi em
                  hạnh phúc đâu chỉ là đích đến
                  hạnh phúc là con đường trãi nghiệm
                  vỗ về, chờ đợi, nhớ thương

                  nhắm mắt lại đi em
                  trong giấc mơ của anh
                  có em và rừng thiêng cổ tích
                  có suối nước trong veo như ngọc
                  có vườn trúc và ngôi nhà tranh
                  có một đàn trẻ thơ tung tăng
                  heo gà chó mèo ngựa trâu
                  nhởn nhơ trên đồng cỏ
                  tươi xanh

                  nhắm mắt lại đi em,
                  tận hưởng thú an lành

                  Nhắm mắt lại đi em
                  Giấc mơ cuộc đời
                  giấc mơ hạnh phúc
                  ngôi nhà tâm thức
                  Giấc mơ lành yêu thương

                  Có cánh cửa khép hờ
                  Có bãi cỏ xanh non.
                  Đất nước cây và hoa
                  Một khu vườn tĩnh lặng.
                  Chim sóc chó mèo gà
                  luôn quấn quýt sớm hôm.

                  Ban mai ửng
                  nghe chim trời gọi cửa.
                  Hoàng hôn buông
                  trăng gió nhẹ lay màn.

                  Ta về với ruộng đồng
                  Vui giấc mơ hạnh phúc
                  Hoa NgườiHoa Đất 
                  Một giấc mơ con
                  Giấc mơ lành yêu thương

                  (*) Martin Luther King nhà hoạt động dân quyền Mỹ có bài phát biểu Tôi có một giấc mơ tại thủ đô Washington năm 1963 thức tỉnh lương tâm của nước Mỹ :”Tôi có một giấc mơ, rồi có một ngày trên những ngọn đồi đất đỏ của Georgia, con của nô lệ và con của chủ nô sẽ ngồi lại với nhau bên bàn ăn của tình huynh đệ. Tôi có một giấc mơ, rồi có một ngày vùng đất hoang mạc Mississippi, bức bối vì hơi nóng của bất công và áp bức, sẽ chuyển mình để trở nên ốc đảo của tự do và công bằng.Tôi có một giấc mơ, rồi có một ngày bốn con nhỏ của tôi sẽ sống trong một đất nước mà chúng không còn bị đánh giá bởi màu da, mà bởi tính cách của chúng”. Hồ Chí Minh, Chủ tịch Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, kết nối sức mạnh Việt, suốt đời dấn thân cho một ước nguyện: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Nguyễn Khải  ngọc cho đời có một giấc mơ đời thường của một nhà văn đúng nghĩa: “Tôi viết vậy thì tôi tồn tại ! “.Trần Đăng Khoa trong tôi có một giấc mơ làm thơ “Giản dị, xúc động, ám ảnh“. Tôi có một giấc mơ lành yêu thương làm người Thầy nghề nông chiến sĩ .CNM365 Tình yêu cuộc sống mang đến cho ta niềm tin yêu và nghị lực.

                  I have a dream

                  LINH GIANG SÔNG QUÊ HƯƠNG
                  Hoàng Kim

                  Hãy học thái độ của nước mà đi như dòng sông

                  Nhà mình gần ngã ba sông
                  Rào Nan chợ Mới nguồn Son Quảng Bình
                  Linh Giang sông núi hữu tình
                  Nơi đây cha mẹ sinh thành ra con

                  Chèo thuyền cho khuất bến Son
                  Để con khỏi chộ nước non thêm buồn

                  Câu ru quặn thắt đời con
                  Mẹ cha mất sớm, con còn trẻ thơ.

                  Ra đi từ bấy đến chừ
                  Lặn trong sương khói bến đò sông quê
                  Ngày xuân giữ vẹn lời thề
                  Non sông mở cõi, tụ về trời Nam.

                  Hoang Kim

                  THẮP ĐÈN LÊN ĐI EM !

                  Em đã học nhiều gương sáng danh nhân
                  Hãy biết nhục, biết hèn mà lập chí
                  Thắp đèn lên đi em, ngọn đèn dầu bền bỉ
                  Sáng giữa đời lấp lánh một niềm tin

                  LỜI THẦY DẶN
                  Kính tặng GS. Norman Borlaug

                  Việc chính đời người chỉ ít thôi
                  Chuyên tâm đừng bận chuyện trời ơi
                  Phúc hậu suốt đời làm việc thiện
                  Di sản muôn năm mãi sáng ngời.

                  NHỚ ĐÀO DUY TỪ

                  Ngược gió đi không nản
                  Rừng thông tuyết phủ dày
                  Ngọa Long cương đâu nhỉ
                  Đầy trời hoa tuyết bay

                  LÊN YÊN TỬ

                  Tỉnh thức giữa đêm thiêng Yên Tử
                  Để thấm hiểu đức Nhân Tông
                  Ta thành tâm đi bộ
                  Lên tận đỉnh chủa Đồng
                  Tâm sáng Ức Trai trong tựa ngọc.

                  GIẤC MƠ LÀNH YÊU THƯƠNG
                  Hoàng Kim
                  https://hoangkimlong.wordpress.com/category/giac-mo-lanh-yeu-thuong/

                  ÔNG RHODES CHỮ TIẾNG VIỆT
                  Hoàng Kim

                  Ông Alexandre de Rhodes là người phát minh ra chữ viết tiếng Việt, báu vật vô giá muôn đời của dân tộc Việt Nam,  mặc dù những người Bồ Đào Nha tiên phong trong lĩnh vực Việt ngữ học.Sự gạn đục khơi trong nên lưu danh ông Alexandre de Rhodes trên viên tảng đá tưởng nhớ đặt tại công viên Tao Đàn và bảo lưu tên đường Alexandre de Rhodes (là đường Paracels, sau là đường Colombert, sau đổi là Alexandre de Rhodes; đổi là đường Thái Văn Lung và đến năm 1993 ông Võ Văn Kiệt cho đổi lại tên Alexandre de Rhodes) để ghi nhớ công lao đối với người đã phát minh ra chữ Quốc ngữ. xem bài toàn văn và những uẩn khúc ở đây
                  https://hoangkimlong.wordpress.com/category/ong-rhodes-chu-tieng-viet/

                  Bài viết mới trên DẠY VÀ HỌC
                  https://hoangkimvn.wordpress.com bấm vào đây cập nhật mỗi ngày

                  Video yêu thích

                  Tre tứ quý măng ngon

                  Vuonxuan

                  Secret Garden – Poéme

                  Chopin – Spring Waltz 
                  Secret Garden – Bí mật vườn thiêng

                  Trở về trang chính
                  Hoàng Kim Long, Ngọc Phương NamThung dungDạy và Học, Việt Nam Học, Cây Lương thực Việt Nam, Tình yêu Cuộc sống, CNM365; Kim on LinkedIn Kim on Facebook Kim on Twitter

                  Xem tiếp >>

                    Dạy và học 10 tháng 7(10-07-2021)

                  DẠY VÀ HỌC 10 THÁNG 7
                  Hoàng Kim
                  CNM365 Tình yêu cuộc sốngViệt Nam con đường xanh; Bài thơ viên đá thời gian; Chuyện đời Phan Chí Thắng; Chuyện thầy Li Li Nghệ; Đá Đứng chốn sông thiêng; Ngày 10 tháng 7 năm 1218, ngày sinh Trần Thái Tông, Hoàng đế đầu tiên của nhà Trần Việt Nam (mất năm 1277).Ngày 10 tháng 7 năm 1986, ngày mất Lê Duẩn, Tổng Bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (sinh năm 1907). Ngày 10 tháng 7 năm 1991, Boris Yeltsin trở thành tổng thống dân cử đầu tiên của Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Liên bang Nga. Bài chọn lọc ngày 10 tháng 7: Việt Nam con đường xanh; Bài thơ viên đá thời gian; Chuyện đời Phan Chí Thắng; Chuyện thầy Li Li Nghệ; Đá Đứng chốn sông thiêng; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/ và http://fa.hcmuaf.rdu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-10-thang-7/

                  VIỆT NAM CON ĐƯỜNG XANH
                  Phim tài liệu NƯỚC TRỜI VTV1
                  https://vtv.vn/video/phim-tai-lieu-nuoc-troi-508247.htm; Nông nghiệp CHỦ ĐỘNG VƯỢT KHÓ https://vtv.vn/video/toa-dam-chu-dong-vuot-kho-503919.htm Tích hợp mạnh mẽ cố gắng: Chủ động phối hợp tìm giống mì kháng bệnh khảm lá | NÔNG NGHIỆP TÂY NINH | TayNinhTV https://youtu.be/TM1cXzqJF1E

                  *
                  Việt Nam con đường xanh
                  NÔNG NGHIỆP CÔNG NGHỆ CAO
                  Hoàng Long, Nguyễn Văn Phu,
                  Nguyễn Thị Trúc Mai, Hoàng Kim
                  thu thập, tuyển chọn, đúc kết thông tin, tích hợp và giới thiệu

                  Mục đích sau cùng của DẠY VÀ HỌC là thấu suốt bản chất sự vật, có lời giải đúng và LÀM được việc. “
                  Việt Nam con đường xanh ” và ” Nông nghiệp công nghệ cao” là chuyên mục thông tin địa chỉ xanh tin cậy của bạn đọc, có trên các trang http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://hoangkimlong.wordpress.com/category/nong-nghiep-cong-nghe-cao/https://hoangkimlong.wordpress.com/category/viet-nam-con-duong-xanh/; và https://www.csruniversal.org/viet-nam-con-duong-xanh/. Ứng dụng công nghệ nâng cao chuỗi giá trị nông nghiệp (Technological application enhances agriculture value chain), là chủ đề được Phó Giáo sư Tiến sĩ Đào Thế Anh, Phó Viện trưởng Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam, giới thiệu tại diễn đàn MALICA (Markets and Agriculture Linkages for Cities in Asia Kết nối Thị trường và Nông nghiệp các thành phố châu Á) và VTV4 https://vtv.vn/video/bizline-15-3-2020-427424.htm.

                  Việt Nam con đường xanh, Nông nghiệp công nghệ cao bài viết kỳ này giới thiệu Định hướng chiến lược quốc gia, phương hướng nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế xã hội 2021-2030 (* Đảng Cộng Sản Việt Nam 2020, Dự thảo các văn kiện trình đại hội Đảng XIII của Đảng) xác định 10 giải pháp cơ bản; 5 nhóm hệ thống giải pháp chính để đảm bảo phát huy hiệu quả giá trị của khối 13 sản phẩm chủ lực nông nghiệp Việt Nam nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân lao động. Ba trụ cột cốt lõi của một quốc gia là cân đối hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế, bảo vệ môi trường và thực hiện tiến bộ công bằng xã hội.theo kết luận của Hội nghị thượng đỉnh toàn cầu về Phát triển bền vững tại Cộng hòa Nam Phi năm 2002 với Định hướng và tầm nhìn Việt Nam con đường xanh. Năm bài viết chọn lọc, gồm: 1) Nông nghiệp hữu cơ hiện trạng và giải pháp nghiên cứu phát triển của tác giả PGS..TS Nguyễn Văn Bộ, TS Ngô Doãn Đảm 2) Đào tạo nguồn nhân lực và nghiên cứu khoa học ứng dụng phục vụ phát triển nông nghiệp công nghệ cao và công nghệ thực phẩm tại Trường Đại học Văn Lang” của tác giả PGS.TS Phan Phước Hiền và TS Châu Tấn Phát, 3) “Nghiên cừu ứng dụng công nghệ sinh học cho phát triển nông nghiệp công nghệ cao” của PGS.TS. Dương Hoa Xô, Trung Tâm Công nghệ Sinh học TP. HCM; 4) Một số thông tin chọn lọc điểm sáng nông nghiệp nông dân nông thôn nông nghiệp công nghệ cao; 5) Chọn giống sắn kháng CMD hiện trạng và triển vọng

                  Nông nghiệp công nghệ cao liên kết chuỗi thông tin chuyên đề tại các đường link Việt Nam con đường xanh; Nông nghiệp sinh thái Việt; Nông nghiệp Việt trăm năm; Viện Lúa Sao Thần Nông; IAS đường tới trăm năm; Trường tôi nôi yêu thương; Chọn giống sắn kháng CMD; Giống sắn KM419 và KM440; Cách mạng sắn Việt Nam; Chọn giống sắn Việt Nam; Mười kỹ thuật thâm canh sắn; Quản lý bền vững sắn châu Á; Cassava and Vietnam: Now and Then; Lúa siêu xanh Việt Nam; Gạo Việt và thương hiệu; Lúa C4 và lúa cao cây; Lúa sắn Cămpuchia và Lào; Lúa sắn Việt Châu Phi; Lúa Việt tới Châu Mỹ; Giống khoai lang Việt Nam; Giống ngô lai VN 25-99; Giống lạc HL25 Việt Ấn; Nhà sách Hoàng Gia;

                  VIỆT NAM CON ĐƯỜNG XANH
                  Hoàng Kim

                  Bác Hồ nói: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành“. Việt Nam con đường xanh cốt lõi là an dân với năm yếu tố: An sinh xã hội; An tâm; An lạc; An toàn; An ninh.

                  Định hướng chiến lược quốc gia, phương hướng nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế xã hội 2021-2030 xác định 10 giải pháp cơ bản: (* Đảng Cộng Sản Việt Nam 2020, Dự thảo các văn kiện trình đại hội Đảng XIII của Đảng)

                  1) Tập trung hoàn thiện nâng cao chất lượng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, giải quyết tốt hơn quan hệ giữa Nhà nước và thị trường.

                  2) Phát triển mạnh mẽ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo nhằm tạo bứt phá nâng cao năng suất, chất lượng hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế;

                  3) Phát triển nguồn nhân lực, giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu nhân lực chất lượng cao của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế;

                  4) Đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, bảo đảm thực chất, hiệu quả; phát triển nền kinh tế số; thúc đẩy tăng trưởng nhanh, bền vững trên cơ sở ổn định kinh tế vĩ mô;

                  5) Phát triển kết cấu hạ tầng, kinh tế vùng, kinh tế biển, lấy các đô thi làm động lực phát triển vùng và đẩy mạnh xây dựng nông thôn mới;

                  6) Phát triển văn hóa, xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; không ngừng nâng cao đời sống vật chất tinh thần của nhân dân;

                  7) Quản lý và sử dụng hiệu quả tài nguyên; tăng cường bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu; phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai;

                  8) Củng cố, tăng cường quốc phóng, bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia;

                  9) Nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại, hội nhập và vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế;

                  10) Tiếp tục xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động; đẩy mạnh phòng chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, tạo đột phá trong cải cách hành chính.

                  13 sản phẩm nông nghiệp chủ lực quốc gia đã được xác định bởi Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tại Thông tư số 37 /2018/TT /BNNPTNT ngày 25/12/2018 gồm Gạo, Cà phê, Cao su, Điều, Hồ tiêu, Chè, Rau Quả, Sắn và sản phẩm từ sắn, Thịt lợn, Thịt và trứng gia cầm, Cá tra, Tôm, Gỗ và sản phẩm từ gỗ.

                  5 nhóm giải pháp chính phương hướng nhiệm vụ giải pháp nông nghiệp 2021- 2030 để đảm bảo 13 khối sản phẩm nông nghiệp chủ lực phát huy hiệu quả giá trị, nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân lao động Việt Nam cần tổ chức điều hành thật tốt :

                  1) Nông sản Việt 13 ngành hàng chủ lực kết nối mạnh mẽ với thị trường thế giới, xác định lợi thế so sánh và hệ thống giải pháp bảo tồn phát triển bền vững, hiệu quả khoa học công nghệ, kinh tế an sinh xã hội môi trường và vị thế quan trọng của từng ngành hàng. Nâng cao hiệu quả, hiệu lực hợp tác đầu tư nước ngoài có trọng tâm, trọng điểm, có chọn lọc, ưu tiên các dự án có công nghệ tiên tiến, công nghệ mới, công nghệ cao, quản trị hiện đại, năng lực đổi mới sáng tạo, kết nối Nông sản Việt đạt lợi thế cạnh tranh cao trong chuỗi cung ứng toàn cầu, có tác động lan tỏa, kết nối chặt chẽ hữu cơ với khu vực kinh tế trong nước. Đổi mới và phát triển các hình thức tổ chức sản xuất phù hợp, hiệu quả, đẩy mạnh hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ nông sản, kết nối với hệ thống tiêu thụ toàn cầu. Phát triển mạnh doanh nghiệp nông nghiệp, hổ trợ, khuyến khích phát triển kinh tế trang trại, hợp tác xã nông nghiệp và các tổ hợp tác. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nông nghiệp.

                  2) Phát triển mạnh nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, sạch, nông nghiệp hữu cơ, đạt tiêu chuẩn phổ biến về an toàn thực phẩm. Đổi mới chính sách quản lý và sử dụng đất trồng lúa, hàng năm sản xuất khoảng 35 triệu tấn lúa làm nòng cốt bảo đảm an ninh lương thực quốc gia, thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng phù hợp với lợi thế và nhu cầu thị trường, tăng khả năng chống chịu, thích ứng của nông dân với biến đổi khí hậu từng vùng, miền, hình thành các vùng sản xuất hàng hóa tập trung, ổn định. Tổ chức kết nối nông nghiệp với công nghiệp chế biến, thị trường xuất khẩu, chuỗi giá trị toàn cầu.

                  3) Phát triển chăn nuôi công nghiệp ứng dụng công nghệ cao, khuyến khích phát triển chăn nuôi trang trại, gia trại hiệu quả cao, thân thiện với môi trường. Phát triển nuôi trồng thủy sản cá trên biển và mặt nước nội địa theo hướng công nghiệp, quảng canh cải tiến , sinh thái, nâng cao hiệu quả khai thác xa bờ , phát triển đánh bắt hải dương. Thực hiện đồng bộ các giải pháp bảo vệ và phát triển nguồn lợi hải sản;

                  4) Quản lý chặt chẽ, bảo vệ và phục hồi rừng tự nhiên gắn với bảo tồn đa dạng sinh học, bảo vệ cảnh quan, môi trường sinh thái. Phát triển mạnh và nâng cao chất lượng rừng trồng, nhất là rừng đặc dụng, rừng phòng hộ đầu, rừng phòng hộ ven biển. Chú trọng phát triển trồng rừng gỗ lớn, nâng cao hiệu quả rừng trồng, lâm đặc sản, đáp ứng cơ bản nhu cầu lâm sản trong nước làm nguyên liệu chế biến xuất khẩu. Tăng cường sự tham gia của cộng đồng vào các chuỗi giá trị lâm nghiệp.

                  5) Đẩy mạnh xây dựng nông thôn mới và quản lý sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên; tăng cường bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai. Đẩy mạnh hợp tác với các quốc gia thượng nguồn và các tổ chức quốc tế trong việc bảo vệ và sử dụng có hiệu quả tài nguyên nước ở lưu vực các dòng sông xuyên biên giới, nhất là sông Mê Công và sông Hồng. Nâng cao tính chống chịu và thích ứng biến đổi khí hậu của hệ thống kết cấu hạ tầng và của nền kinh tế Việt Nam, thực hiện các giải pháp thông minh để thích ứng trong nông nghiệp, thủy sản và phát triển rừng. Giảm thiểu những rũi ro do biến đổi khí hậu gây ra, đặc biệt là xâm nhập mặn, sạt lở tại Đồng Bằng Sông Cửu Long, an toàn lụt và môi sinh tại Hà Nội và vùng Đồng Bằng Sông Hồng khô hạn tại Tây Nguyên, Nam Trung Bộ,Bắc Trung Bộ Bảo vệ an ninh nguồn nước, tăng cường quản lý và khai thác, sử dụng hiệu quả, tiết kiệm nguồn nước theo lưu vực sông, ngăn chặn suy giảm tài nguyên nước, tích nước điều tiết nguồn nước hợp lý phục vụ phát triển kinh tế xã hội. Quản lý chặt chẽ và nâng cao hiệu lực quản lý, hiệu quả sử dụng các nguồn lực tài nguyên, nhất là đất, nước khoáng sản, theo nguyên tắc thị trường. Phát triển thị trường, đẩy mạnh thương mại hóa quyền sử dụng đất, tăng cường đăng ký quyền sử dụng đất và áp dụng định giá đất theo thị trường, bảo đảm công khai, minh bạch. Phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn, mạng lướí các dự án hạ tầng trọng điểm quốc gia kết nối đồng bộ với các khu vực nông phẩm hàng hóa chính và khu đô thị, khu công nghiệp, cảng biển; Kết nối xây dựng nông thôn mới với kinh tế vùng, kinh tế biển, đào tạo nguồn lực nông nghiệp, cải tiến nâng cấp hệ thống hóa dữ liệu thông tin nông nghiệp nông dân nông thôn đáp ứng phù hợp với thời đại mới. Tiếp tục thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới theo hướng gắn với đô thị hóa, thực chất và đi vào chiều sâu hiệu quả bền vững, lấy cư dân nông thôn làm chủ thể, tạo sự chuyển biến tích cực rõ rệt về nếp sống mới ở nông thôn; xây dựng nông thôn mới kiểu mẫu, nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới cấp thôn bản. Thu hút mạnh mẽ các doanh nghiệp đầu tư vào khu vực nông thôn để tổ chức và nâng cao chuỗi gía trị “mỗi xã một sản phẩm” gắn với thương hiệu, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiêu thụ sản phẩm. Chú trọng xây dựng cảnh quan sinh thái môi trường làng xã Việt xanh sạch đẹp tiến bộ an lành

                  Ba trụ cột cốt lõi của một quốc gia là cân đối hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế, bảo vệ môi trường và thực hiện tiến bộ công bằng xã hội.theo kết luận của Hội nghị thượng đỉnh toàn cầu về Phát triển bền vững tại Johannesburg (Cộng hòa Nam Phi) năm 2002.

                  Bảo vệ an toàn môi trường sống và nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân lao động Việt Nam là một trong ba trụ cột cốt lõi của chính sách quốc gia. Bảo vệ an toàn thức ăn, đất, nước, không khí và môi sinh là luật sống. Nguyên tắc cơ bản là: Ai gây ô nhiễm môi trường phải trả chi phí để xử lý khắc phục hậu quả, cải tạo và phục hồi. Thực thi chế tài và xử phạt nghiêm về vi phạm môi trường là quốc sách.

                  Tăng cường giám sát, công khai đầy đủ, kịp thời thông tin và nâng cao chất lượng môi trường, sự an toàn về thức ăn, đất nước, không khí và môi sinh ở các đô thị và vùng dân cư. Xử lý dứt điểm các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Cải thiện rõ rệt tình trạng ô nhiễm môi trường, ở các cụm công nghiệp, làng nghề, lưu vực sông, khu vực nông thôn. Kiểm soát chặt chẽ các dự án khai thác tài nguyên, chủ động phát hiện và xử lý nghiêm các vi phạm gây ô nhiễm môi trường. Ngăn chặn suy thoái môi trường. Tối ưu hóa các mục đích sử dụng đất nông nghiệp. Đẩy mạnh hợp tác với các quốc gia thượng nguồn và các tổ chức quốc tế trong việc bảo vệ và sử dụng có hiệu quả tài nguyên nước ở lưu vực các dòng sông xuyên biên giới, nhất là sông Mê Công và sông Hồng.

                  Việt Nam con đường xanh, thông tin đúc kết này là chọn lọc trích dẫn phù hợp với tư tưởng chỉ đạo của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Định hướng và tầm nhìn này nhấn mạnh

                  1) Phải phát triển hài hòa ba trụ cột “Không đánh đổi môi trường với tăng trưởng kinh tế”; “Không thể vì nghèo mà hy sinh môi trường và sức khỏe người dân”

                  2) Vai trò kiến tạo của Nhà nước là quyết định;

                  3) Vai trò của người dân lao động và cộng đồng xã hội là không thể thiếu.

                  Việt Nam ngày nay nhấn mạnh sự diệt trừ tham nhũng và đề cao vai trò kiến tạo của Nhà nước là quyết định. Việt Nam là nước văn hiến có truyền thống “bầu ơi thương lấy bí cùng” và kinh nghiệm làm chủ tập thể, cũng đã vận dụng thành công “chính sách cộng sản thời chiến” biết thắt lưng buộc bụng đầu tư trong điểm.

                  NÔNG NGHIỆP HỮU CƠ: HIỆN TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NGHIÊN CỨU PHÁT TRIỂN
                  Nguyễn Văn Bộ, Ngô Doãn Đảm

                  ĐẶT VẤN ĐỀ

                  Nông nghiệp hữu cơ là một hệ thống canh tác đã gây nên sự chú ý ngày càng tăng ở nhiều quốc gia trong 2 thập kỷ qua, nhất là các nước phát triển, khi mà áp lực về lương thực giảm đi, song áp lực về vệ sinh an toàn thực phẩm, chất lượng nông sản và môi trường lại tăng lên. Nhiều nước ở châu Âu, Bắc Mỹ, châu Đại dương đã khuyến khích nông dân áp dụng nông nghiệp hữu cơ. Tuy nhiên ở nhiều quốc gia khác, nông nghiệp hữu cơ là câu chuyện còn rất mới mẻ, khái niệm về loại hình canh tác này được hiểu rất khác nhau. Với Việt Nam điều này cũng không là ngoại lệ. Hiện tại có rất nhiều định nghĩa khác nhau về nông nghiệp hữu cơ. Phần lớn các nhà khoa học đều hiểu nông nghiệp hữu cơ là một nền nông nghiệp không sử dụng hóa chất, các nguồn hữu cơ được tái sử dụng một cách triệt để. Theo khái niệm này, trong suốt quá trình sản xuất chỉ được phép sửdụng phân bón hữu cơ, làm cỏ bằng tay hoặc cơ giới và phòng trừ sâu bệnh bằng biện pháp sinh học. Gần đây, nông nghiệp hữu cơ còn không chấp nhận việc gieo trồng các cây đã biến đổi gene. 

                  Tuy nhiên, bản chất của bất kỳ một nền sản xuất nào cũng phải gắn với năng suất, chất lượng của sản phẩm cuối cùng và tính bền vững của môi trường. Cùng với sự phát triển của khoa học, khi mà kiến thức con người đã dần chi phối được các qui luật của tự nhiên thì khái niệm hữu cơ cũng được hiểu theo nghĩa rộng hơn, tổng hợp hơn. Xem xét bản chất của quá trình sử dụng dinh dưỡng của cây trồng chúng ta thấy rằng, chất dinh dưỡng dù sử dụng ở bất kỳ dạng nào, hữu cơ hay vô cơ thì chúng đều phải trải qua một quá trình chuyển hóa về dạng ion (anion hoặc cation) trước khi được cây trồng hấp phụ. Thêm nữa, chất lượng nông sản không hoàn toàn phụ thuộc vào dạng phân bón sử dụng mà lại phụ thuộc vào liều lượng, chủng loại, tỉ lệ, phương pháp và thời kỳ bón cho cây trồng. Với thuốc bảo vệ thực vật là loại chế phẩm không hoặc ít độc hại, thời gian phân hủy ngắn… và phải đảm bảo thời gian cách ly. Như vậy, sản phẩm sạch đáp ứng yêu cầu về vệ sinh an toàn thực phẩm không hoàn toàn không có chứa các yếu tố độc hại mà là sản phẩm có hàm lượng các chất độc hại dưới ngưỡng cho phép theo tiêu chuẩn quốc gia hay quốc tế.

                  Xuất phát từ những lý do trên, theo chúng tôi, nông nghiệp hữu cơ là một hệ thống sản xuất cho phép khai thác tối ưu các nguồn tài nguyên như đất, năng lượng, các chất dinh dưỡng, các quá trình sinh học diễn ra trong tự nhiên với một phương pháp quản lý hợp lý nhất nhằm mục đích tạo ra sản phẩm đáp ứng yêu cầu về vệ sinh an toàn thực phẩm, đồng thời cũng đảm bảo cho hệ thống sản xuất bền vững về môi trường, xã hội và kinh tế. Theo định nghĩa này thì nông nghiệp hữu cơcòn có thể hiểu là nông nghiệp sinh thái. Như vậy, thuật ngữ“hữu cơ” không chỉ đề cập đến dạng dinh dưỡng cung cấp cho cây trồng mà được mở rộng ra như là một quan điểm, trong đó tính bền vững là hạt nhân. 

                  Theo Dumanski, nhà thổ nhưỡng học thì “sự bền vững để lại cho các thế hệ tương lai ít nhất là những cơ hội như chúng ta đang có”. Đây là quan điểm rất thực tiễn, đảm bảo tổng tài sản ở 4 dạng (tài sản thiên nhiên, tài sản do con người làm ra, bản thân con người và xã hội) luôn được bảo toàn trong suốt quá trình phát triển. Thật tiếc, chúng ta đã và đang khai thác triệt để tài nguyên, gần như không cớ cơ hội cho thế hệ sau.

                  Còn theo N.H. Lampkin (1994) thì: “Canh tác hữu cơ là một phương pháp tiếp cận với nông nghiệp nhằm mục tiêu tạo lập hệ thống sản xuất nông nghiệp tổng hợp, bền vững về môi trường, kinh tế và nhân văn; cho phép khai thác tối đa nguồn tài nguyên có thể tái tạo được cũng như quản lý các quá trình sinh thái cùng với sự tác động qua lại của chúng để đảm bảo năng suất cây trồng, vật nuôi và dinh dưỡng cho con người ở mức chấp nhận được đồng thời bảo vệ chúng khỏi sâu, bệnh”. 

                  HIỆN TRẠNG SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP HỮU CƠ TRÊN THẾ GIỚI 

                  Theo số liệu công bố năm 2012 (FiBL và IFOAM, 2012) [7] của Viện Nghiên cứu và Truyền thông nông nghiệp hữu cơ (Communication, Research Instituteof Organic Agriculture FiBL) và Hiệp hội nông nghiệp hữu cơ Quốc tế (International Federation of Organic Agriculture Movements IFOAM), hiện trạng sản xuất và thương mại sản phẩm nông nghiệp hữu cơ toàn cầu như sau; xem tiếp  https://hoangkimlong.wordpress.com/category/viet-nam-con-duong-xanh/

                  BÀI THƠ VIÊN ĐÁ THỜI GIAN
                  Hoàng Kim

                  Anh Phan Chí Thắng từ Hà Nội đã tìm đến thăm chúng tôi ở Trảng Bom Đồng Nai, sau đó hai anh em đi xe đò tìm về thăm những người bạn ở góc khuất Đức Linh. Hoàng Kim đã nối vần thơ anh Phan Chí Thắng và chép lại bài thơ viên đá thời gian: ” Hình như gặp lại mới hương / Ngựa già máng cỏ nhớ đường cỏ hoa / Ta tìm gặp bạn đường xa/ Tưởng là thăm bạn hoá ra thăm mình/ . Đêm dài xoè một bình minh / Hoa NgườiHoa ĐấtÂn tìnhSớm Xuân. Bài đồng dao huyền thoại này được lưu lại

                  1

                  Bài thơ viên đá thời gian gọi
                  Một tiếng kêu vang dội thấu trời
                  Tháng năm thoáng chốc nhìn trở lại
                  Hạc tùng thảng thốt nắng lên hơi

                  2

                  Đầu xuân gặp bạn thật mừng vui
                  Rượu ngọt trà thơm sóng sánh mời
                  NƯỚC suối ban mai trong tựa ngọc
                  OANH vàng CÚC tím nắng xuân tươi.

                  MÂY TRẮNG quyện lưng trời lãng đãng
                  Thiên NGA từng cặp nhởn nhơ bay
                  Nhớ xưa CHIẾN SỰ vùng đất lửa
                  HÒA bình về lại Chứa Chan nay.

                  Sóng nhạc yêu thương lời cảm mến
                  KIM Kiều tái ngộ rộn ràng vui
                  Anh HÙNG thanh thản mừng “Xuân cảm”
                  “Đè nghiêng ngọn gió đọc thơ chơi”.

                  3

                  Tui chỉ mới là thuộc sách (TS) thôi.
                  Giảng sách (GS) xem ra chửa tới nơi.
                  Vui việc cứ LÀM chưa vội DẠY
                  Nói nhiều làm ít sợ chê cười.

                  Cổ điển honda không biết chạy
                  Canh tân blog viết đôi bài
                  Quanh quẩn chỉ là ngô khoai sắn
                  Vô bờ biển HỌC dám đơn sai.

                  Ước noi cụ Trạng ưa duyên thắm
                  Nịnh vợ không quên việc trả bài
                  An nhàn vô sự là tiên đấy
                  Thung dung đèn sách, thảnh thơi chơi.

                  4

                  “Ngõ nhà Lão Hâm” Phan Chí Thắng
                  Ngắm ảnhNgắm dấu chân thời gian
                  Ngày mới “Năm mươi năm nhớ lại”
                  Khát khao xanhTỉnh thứcĐợi mưa

                  5

                  Ta tìm gặp bạn đường xa
                  Tưởng là thăm bạn hoá ra thăm mình
                  Đêm dài xoè một bình minh …’
                  Tháng Ba nhớ bạnÂn tìnhSớm Xuân.

                  6

                  Thủy vốn mạch sông nước có nguồn.
                  Chính Trung tiền hậu đổi nhau luôn.
                  Nụ cười Nghê Việt luôn đầy đặn.
                  Mai với Bồ Đề ẩn sau lưng.

                  Tóc nhuốm bạch kim phơi nắng hửng
                  Da pha hồng ngọc trãi mưa nhuần.
                  Hoa NgườiHoa Đất vui thầy bạn.
                  Phước Đức mừng ai thắng tuổi trăm.

                  7

                  Xuân sớm Ngọc Phương Nam
                  Yên Tử Trần Nhân Tông
                  Ngày xuân đọc Trạng Trình
                  Đào Duy Từ còn mãi

                  8

                  Nguyễn Du trăng huyền thoại
                  Tô Đông Pha Tây Hồ
                  Ngôi sao may mắn chân trời
                  Thầy em là nắng tháng Ba

                  9

                  Ngày mới bình minh an
                  Ngày mới lời yêu thương
                  Hoàng Thành đến Trúc Lâm
                  Ngày mới Ngọc cho đời

                  CHUYỆN ANH PHAN CHÍ THẮNG
                  Hoàng Kim
                  Cụ là Người cẩn trọng sâu sắc minh thận cần (*)

                  Thủy vốn mạch sông nước có nguồn.
                  Chính Trung tiền hậu đổi nhau luôn.
                  Nụ cười Nghê Việt luôn đầy đặn.
                  Mai với Bồ Đề ẩn sau lưng.
                  Tóc nhuốm bạch kim phơi nắng hửng
                  Da pha hồng ngọc trãi mưa nhuần.
                  Hoa Người Hoa Đất vui thầy bạn.
                  Phước Đức mừng ai thắng tuổi trăm.

                  (*) anh Phan Chi Thắng ngày 4 tháng 8 năm 2020 viết· TÔN NỮ MẸ TÔI Nếu họ tên người nam có hai chữ Tôn Thất, người nữ có Tôn Nữ thì những người này có quan hệ huyết thống với các chúa Nguyễn, họ gốc là Nguyễn Phúc mà người ta kỵ huý nên gọi chệch đi là Nguyễn Phước tộc. Quan hệ như thế nào, gần xa cấp độ mấy thì còn phải xét nhưng chắc chắn trong huyết quản họ có dòng máu chúa Nguyễn.Tôn Thất (chữ Hán: 尊室) (chữ 尊 vốn đọc là Tông, nhưng do kỵ tên huý vua Thiệu Trị nên đổi là Tôn) là họ được vua Minh Mạng đặt cho con cháu của các chúa Nguyễn từ ngài Nguyễn Hoàng đến ngài Nguyễn Phúc Thuần, mỗi chúa là hệ tổ của một hệ. Hệ bao gồm chúa và các anh em trai của chúa, hậu duệ của các hệ là hậu duệ của các anh em trai của chúa. Có tất cả 9 hệ nhưng có hai hệ là hệ 4 và hệ 6 không con nên không lưu truyền được. Họ Tôn Thất bà con xa với dòng Đế hệ, dòng làm Hoàng đế của Đại Nam, tính ra kể từ vua Gia Long. Không phải tất cả Tôn Thất, Tôn Nữ đều nổi tiếng hoặc làm to, đời trước nổi tiếng có các cụ Tôn Thất Thuyết, Tôn Thất Thiệp, đời nay có Nguyễn Minh Vĩ (Tôn Thất Vĩ), phó Chủ tịch Quốc hội, Tôn Thất Tùng giáo sư bác sĩ, Tôn Nữ Thị Ninh nhà ngoại giao, Phó giáo sư Tương Lai (Nguyễn Phước Tương hay Tôn Thất Tương) nguyên Viện trưởng Viện Xã hội học, Tôn Thất Lập nhạc sĩ. Chế độ VNCH có một số trí thức, tướng lãnh là Tôn Thất.Tôi biết nhiều tôn thất tôn nữ sống và lao động như mọi người dân bình thường. Nét đặc biệt ngoại hình của họ là khuôn mặt dài, thông minh và nghiêm cẩn. Một cái gì đó quý tộc cho dù có rơi vào hoàn cảnh chân lấm tay bùn.Tôi biết hai người phụ nữ tên là Tôn Nữ Lệ Minh. Người thứ nhất là vợ nhà thơ Lưu Trọng Lư tôi chỉ biết sơ. Người thứ hai tôi biết rất kỹ vì người đó là mẹ tôi.Ông ngoại tôi Tôn Thất nên mẹ tôi Tôn Nữ. Mẹ sớm mồ côi cha, lớn lên trong vòng tay của đại gia đình bên ngoại (cụ ngoại tôi làm quan nhà Nguyễn), được hưởng sự giáo dục nề nếp gia giáo.Lớn lên lấy chồng, theo chồng ra Bắc, chịu mọi gian khổ thiếu thốn, Mẹ đã vượt qua tất cả cho chúng tôi có ngày hôm nayXem tiếp >>

                    Dạy và học 9 tháng 7(09-07-2021)

                   

                   

                  DẠY VÀ HỌC 9 THÁNG 7
                  Hoàng Kim

                  CNM365 Tình yêu cuộc sống; Mưa; Chuyện đồng dao cho em; Chuyện cổ tích người lớn; Một niềm tin thắp lửa; Việt Nam con đường xanh; Bài thơ viên đá thời gian; Cây đời mãi tươi xanh; TTC Group Sen vào hè; Năm tháng đó là em; Nguyên Ngọc về Tây Nguyên; Ngày 9 tháng 7 năm 1816 Ngày Độc lập tại Argentina (1816); Ngày 9 tháng 7 năm 2011 Ngày Độc lập tại Nam Sudan (2011). Ngày 9 tháng 7 năm 1762, Hoàng hậu Ekaterina II được tôn làm Nữ hoàng Nga, bà là Nữ hoàng trị vì lâu dài nhất của Đế quốc Nga, có đóng góp to lớn trong việc phục hưng Đế quốc Nga thực sự trở thành một cường quốc tại châu Âu vào thế kỷ 18. Bài chọn lọc ngày 9 tháng 7: Mưa; Chuyện đồng dao cho em; Chuyện cổ tích người lớn; Một niềm tin thắp lửa; Việt Nam con đường xanh; Bài thơ viên đá thời gian; Cây đời mãi tươi xanh; TTC Group Sen vào hè; Năm tháng đó là em;Nguyên Ngọc về Tây Nguyên; Đợi mưa; Địa chỉ xanh Ấn Độ; Ngụ ngôn La Fontaine; Đồng xuân lưu dấu người hiền; Đào Duy Từ còn mãi; Câu chuyện ảnh tháng Bảy; Thông tin tại  https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-9-thang-7/

                  MƯA
                  Hoàng Kim

                  Trời mưa rây rây hạt
                  Mình trồng cây tiếp thôi
                  Mồ hôi và mưa quyện
                  Yêu thương thấm mát người.

                  Nắng mưa là thời trời
                  Tốt lành là thế đất
                  Phước đức bởi lòng người
                  An nhiên mưa gió thổi.

                  Lắng nghe Lương Phủ ngâm
                  Ngắm nhìn non nước đổi
                  Thung dung giấc ngủ ngon
                  Tỉnh thức trồng tiếp nối …

                  “Ngược gió đi không nản
                  Rừng thông tuyết phủ dày
                  Ngọa Long cương đâu nhỉ
                  Đầy trời hoa tuyết bay !”

                  Ghi chú:
                  (*) Lương Phủ Ngâm
                  (thơ Gia Cát Lượng )

                  Một đêm gió bấc lạnh,
                  vạn dặm mây mịt mù
                  Trên không tuyết bay loạn,
                  biến đổi cả giang sơn.

                  Ngửa mặt nhìn trời cao,
                  thấy như rồng đang đấu
                  Trùng trùng sư tử bay,
                  chớp mắt biến vũ trụ.

                  Cưỡi lừa qua cầu nhỏ,
                  một mình than mai gầy.

                  Nguyên văn

                  一夜北风寒,
                  万里彤云厚.
                  长空雪乱飘,
                  改尽江山旧.

                  仰面观太虚,
                  疑是玉龙斗.
                  纷纷鳞甲飞,
                  顷刻遍宇宙.

                  骑驴过小桥,
                  独叹梅花瘦!

                  Phiên âm:
                  Nhất dạ bắc phong hàn,
                  vạn lý đồng vân hậu.
                  Trường không tuyết loạn phiêu,
                  cải tận giang sơn cựu.
                  Ngưỡng diện quan thái hư,
                  nghi thị ngọc long đấu.
                  Phân phân lân giáp phi,
                  khoảnh khắc biến vũ trụ.
                  Kỵ lư quá tiểu kiều,
                  độc thán mai hoa sấu!

                  2. Đồng xuân lưu dấu hiền; Đào Duy Từ còn mãi
                  (Thơ Hoàng Kim)
                  https://www.youtube.com/embed/Lp6XlsBm_Lw?version=3&rel=1&showsearch=0&showinfo=1&iv_load_policy=1&fs=1&hl=vi&autohide=2&wmode=transparent

                  Mưa: Trời vẫn mưa và dần nặng hạt lên Tổ quốc ướt, anh khô làm sao nổi; thơ Nguyễn Lâm Cẩn). Trời mưa rây rây hạt Mình trồng hoa tiếp thôi Mồ hôi và mưa quyện Yêu thương thấm mát người; thơ Hoàng Kim; https://hoangkimlong.wordpress.com/category/mua/

                   

                   

                  ĐỢI MƯA
                  Hoàng Kim

                  Khát khao ngóng sớm chờ trưa (*)
                  Sắn trồng nửa tháng đợi mưa cháy lòng
                  Mía xơ xác khắp cánh đồng
                  Đất rang rẫy nóng, trời nồng nực oi.

                  Lúa non ruộng nứt nẻ rồi
                  Suối khô, hồ cạn, người người ngóng trông
                  Tiếng ve ngằn ngặt trưa nồng
                  Mấy khi tháng bảy lại mong mưa rào?

                  Thương mình, thương kẻ khát khao
                  Mưa ơi, ngóng đợi lặn vào giấc mơ.

                  (*) “ĐỢI MƯA” Miền Trung nhớ ngày này năm trước, hạn lâu, nắng khốc liệt .Tháng bảy mấy khi hạn nặng đến thế bao giờ? Biến đổi khí hậu rồi. Nước kiệt mưa chưa tới.

                   

                   

                  Câu chuyện ảnh tháng Bảy
                  CHUYỆN ĐỒNG DAO CHO EM
                  Hoàng Kim


                  Hạnh phúc được chia sẻ. Nếu giọt nước rơi xuống hồ nó sẽ biến mất, nhưng nếu rơi xuống lá sen , nó sẽ tỏa sáng như một viên ngọc. Đời người cũng như giọt nước rơi, ở với ai mới là điều quan trọng.

                   

                   

                  THẦY QUYỀN NÓI CHUYỆN TRẠNG
                  Đồng dao vè Covid 19

                  Nghề làm tóc… đang khóc lóc
                  Nghề thiết kế… thì quá ế
                  Nghề giáo viên … nghỉ triền miên
                  Nghề khách sạn … gặp đại nạn
                  Nghề nông dân … đang bó chân
                  Nghề nhà hàng … đang la làng
                  Nghề nội thất … đang chết ngất
                  Nghề làm nông … đang lông bông
                  Nghề kinh doanh … đang vắng tanh
                  Nghề rửa ảnh … đang quá rảnh
                  Nghề làm nail … đang đói meo
                  Nghề giữ trẻ … nằm nghĩ khỏe
                  Nghề giựt giỏ …. đang treo mỏ
                  Ngành du lịch … đang mắc dịch
                  Nghề xây cất … đang chết ngất
                  Bất động sản … đang phá sản
                  Nghề khách sạn … đang hoạn nạn
                  Nghề Y Dược … làm ăn được
                  Nghề Y Tá … đang vất vả
                  Nghề Bác Sĩ … không giờ nghĩ
                  Mar-ket-ting … đang điêu linh
                  Nghề ca sĩ … đang ngủ kỹ
                  Nghề giải trí … đang rất bí
                  Nghề diễn viên … đang phát điên
                  Nghề chạy bàn … đang rất nhàn
                  Nghề buôn bán … đang rất chán
                  Nghề cô giáo … đang húp cháo
                  Nghề hàng không … đang lông nhông
                  Ngành ngân hàng … chết lâm sàng
                  Nghề mai táng … đang hoành tráng

                  Hoàng Kim ghi theo THẦY QUYỀN NÓI CHUYỆN TRẠNG đồng dao thời Covid 19

                   

                   

                  CHUYỆN ĐỒNG DAO CHO EM
                  Hoàng Kim


                  Đồng dao là chuyện tháng năm
                  Lời ru của mẹ
                  Trăng rằm thảnh thơi
                  Biết tìm bạn quý mà chơi
                  Học ăn học nói làm người siêng năng

                  Hiểu nhàn biết đủ thời an
                  Thung dung minh triết thanh nhàn thảnh thơi
                  Người sung sướng biết sống vui
                  Những người hiếu hạnh được đời yêu thương.

                   

                   

                  Việc chính là học làm người
                  Khắc sâu nhân nghĩa nhớ đời đừng quên
                  Hiếu trung phải học đầu tiên
                  Đừng tham tưởng bở mà quên ân tình.

                  Đừng tưởng cứ đẹp là tiên
                  Cứ trên là sáng cứ tiền là xong
                  Đừng tưởng không nói là câm
                  Không nghe tưởng điếc không trông tưởng mù

                  Đừng tưởng cứ trọc là sư
                  Cứ vâng là chịu cứ ừ là ngoan
                  Đừng tưởng có của là sang
                  Cứ im lặng tưởng là vàng nguyên cây.

                  Đừng tưởng cứ uống là say
                  Tai trâu đàn gẩy lời hay ham bàn
                  Đừng tưởng giàu hết gian tham
                  Không thời chẳng vận lạm bàn chuyện dân

                  Đừng tưởng cứ mới là tân
                  Cứ hứa là chắc cứ ân là tình
                  Đừng tưởng cứ thấp là khinh
                  Cứ chùa là tĩnh cứ đình là to.

                  Đừng tưởng già hết hồ đồ
                  Cứ trẻ là chẳng âu lo buồn phiền
                  Đừng tưởng cứ quyết là nên
                  Cứ mạnh là thắng cứ mềm là thua.

                  Đừng tưởng đã dấm là chua
                  Sấm rền là sẽ có mưa ngập trời
                  Đừng tưởng vui chỉ có cười
                  Buồn thì ủ rũ chỉ ngồi khóc than

                  Đừng tưởng cứ lớn là khôn
                  Cứ bé là dại cứ hôn là chồng
                  Đừng tưởng bịa có thành không
                  Nhìn gà hóa cuốc lẫn ông với thằng

                  Lúc vui tham bát bỏ mâm
                  Đến khi hoạn nạn tần mần bỏ đi
                  Đừng tưởng không nhất thì nhì
                  Phò thịnh sung sướng giúp suy nghèo hèn

                  Gặp trăng thì vội quên đèn
                  Hám tiền quên nghĩa đỏ đen lạc đường
                  Đừng tưởng giàu hết cô đơn
                  Cao sang hết ốm gian tham hết nghèo.

                  Đừng tưởng cứ núi là cao
                  Cứ sông là chảy, cứ ao là tù
                  Đừng tưởng cứ dưới là ngu
                  Tham giành là được thấy tu tưởng hiền.

                  Đừng tưởng cứ thấp là hèn
                  Cứ sang là trọng cứ tiền là xong
                  Đừng tưởng quan chức là rồng
                  Dân thường thấp cổ thì không biết gì.

                   

                   

                  Đời người lúc thịnh lúc suy
                  Lúc khỏe lúc yếu lúc đi lúc dừng
                  Đắng cay chua ngọt đã từng
                  Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau.

                  Ở đời nhân nghĩa làm đầu
                  Thủy chung sau trước tình sâu nghĩa bền
                  Học làm người việc đầu tiên
                  Hiếu trung phúc hậu đừng quên nối vần

                  “Lênh đênh qua cửa Thần Phù
                  Khéo tu thì nổi , vụng tu thì chìm”
                  “Người trồng cây hạnh mà chơi
                  Ta trồng cây đức để đời mai sau”

                   

                   

                  HOA ĐẤT THƯƠNG LỜI HIỀN
                  Hoàng Kim

                  1

                  Ta vui đếm nhịp thời gian
                  Thung dung nhàn giữa gian nan đời thường.

                  Mẫu Phương Nam Tao Đàn
                  Đường Huyền Trân Công Chúa
                  Nam tiến của người Việt
                  Hoa Đất thương lời hiền

                  2

                  Người ta hoa đất
                  An nhàn vô sự là tiên
                  Thung dung cỏ hoa
                  Thế giới người hiền

                  Điền trúc măng ngon
                  Hôm qua chăm mai
                  Sớm nay hái nấm
                  Chiều về thu măng.

                  Thung dung thanh nhàn
                  Sống giữa thiên nhiên
                  Đọc bài cho em
                  Vui cùng bạn quý

                  Đọc sách dọn vườn
                  Lánh chốn bon chen
                  Thảnh thơi cuộc đời
                  Chơi cùng hoa cỏ.

                  Xưa lên non Yên Tử
                  Mang lộc trúc về Nam
                  Nay đến chốn thung dung
                  Vui nhởn nhơ hái nấm.

                  Ơn Thầy Ơn Bạn
                  Lộc xuân cuộc đời
                  Thung dung
                  Hoa Lúa
                  Phúc hậu, an nhiên,

                  Minh triết, tận tâm
                  Hoa NgườiHoa Đất
                  Làm ngọc cho đời
                  Đạo ẩn vô danh.

                  3

                  Mình là hoa của đất
                  Ươm mầm xanh cho đời.
                  Gieo yêu thương hi vọng
                  Gặt hái những niềm vui.

                  Thấm thoắt bao xuân qua
                  Cùng nhau từ thuở ấy
                  Lộc muộn ngày hôm nay
                  Nhớ buổi đầu gieo cấy.

                  Hàng trăm ngàn hec ta
                  Bội thu từ giống mới .
                  Nhìn bà con hân hoan
                  Đường trần vui quên mỏi.

                  4

                  Nhà Trần trong sử Việt
                  Lời dặn của Thánh Trần
                  Yên Tử Trần Nhân Tông
                  Chuyện cổ tích người lớn

                  Về với vùng văn hóa
                  Nhớ cụ Thái Kim Đỉnh
                  Nguyễn Du trăng huyền thoại
                  Trà sớm thương người hiền

                  Việt Nam con đường xanh

                  5

                  Sớm nào cũng dành nửa tiếng,
                  Thung dung đếm nhịp thời gian.
                  Thong thả chỉ thêu nên gấm,
                  An nhiên việc tốt cứ làm.
                  Thoáng chốc đường trần nhìn lại,
                  Thanh nhàn vô sụ là tiên

                  6

                  Điểm nhịp thời gian đầy bút mực
                  Thung dung năm tháng thảnh thơi nhàn
                  Đất cảm trời thương người mến đức
                  An nhiên thầy bạn quý bình an.

                  Ngày mới đầy yêu thương
                  Chuyện cũ chưa hề cũ
                  An nhiên nhàn nét bút
                  Thảnh thơi gieo đôi vần

                   

                   

                  xem tiếp Chuyện đồng dao cho emHoa Đất thương lời hiềnPhục sinh giữa tối sángTỉnh lặng với chính mìnhVui đi dưới mặt trờiVui bước tới thảnh thơiVui sống giữa thiên nhiênĐọc “Ngụ ngôn thời @” Mười năm ở Bạc LiêuChuyện cổ tích người lớn

                   

                  2017-11-01_YenTu

                   

                  Ngày Hạnh Phúc đọc lại kinh Dịch và lời khuyên của Trạng Trình: “Căn bản học Dịch là phải biết tùy thời, hướng thiện và lạc quan. Tùy thời thì an nhàn, trái thời thì vất vả. Tùy thời mà vẫn giữ được trung chính.”

                   

                   

                  xem tiếp Chuyện đồng dao cho emhttps://hoangkimlong.wordpress.com/category/chuyen-dong-dao-cho-em/

                   

                   

                  CHUYỆN CỔ TÍCH NGƯỜI LỚN
                  Hoàng Kim

                  Hoa Đất thương lời hiền;
                  Lời dặn của Thánh Trần;
                  Nguyễn Trãi Dục Thúy Sơn;
                  Đặng Dung thơ Cảm hoài;

                  Ngày xuân đọc Trạng Trình;
                  Nguyễn Du trăng huyền thoại;
                  Tô Đông Pha Tây Hồ;
                  Kim Dung trong ngày mới;

                  Đào Duy Từ còn mãi
                  Đồng xuân lưu dấu hiền;
                  Đỗ Phủ thương đọc lại;
                  Châu Văn Tiếp Phú Yên;

                  Nha Trang và A. Yersin;
                  Cao Biền trong sử Việt;
                  Nguyễn Hiến Lê sao sáng;
                  Thương Kim Thiếp Vũ Môn;

                  A Na bà chúa Ngọc;
                  An Viên Ngọc Quan Âm;
                  Chuyện cổ tích người lớn;
                  Chuyện đồng dao cho em

                  CNM365 Tình yêu cuộc sống
                  27 đường link liên kết
                  Nguồn:
                  https://hoangkimlong.wordpress.com/category/chuyen-co-tich-nguoi-lon/

                  Lời dặn của Thánh Trần là “khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước”. Đọc lại thật sâu sắc. Tôn tử binh pháp thiên thứ nhất, trang đầu là “Tính toán”. Tôn Tử nói: Chiến tranh là việc lớn quốc gia, là việc sống chết của nhân dân, là sự mất còn của một nước, không thể không xem xét cẩn thận. Cho nên phải cân nhắc năm yếu tố, phải tính toán, so đo mà tìm hiểu thực tình của đôi bên: Thứ nhất là đạo nghĩa; thứ hai là thời trời; thứ ba là địa lợi; thứ tư là chủ tướng; thứ năm là pháp chế. Chỉ nói đến trí thức tinh hoa, tinh thần ái quốc và sức mạnh toàn dân thì chỉ mới tính toán so đo thứ nhất là đạo nghĩa. Chỉ nói đến tài năng và tôn vinh cụ thể một con người như Napoleon chẳng hạn thì chỉ mới tính toán so đo thứ tư là chủ tướng. Chính vì vãy Napoleon khi thua trận bị nhốt ngoài đảo mới thốt lên: Tiếc thay trước đây ta chưa đọc sách này (Tôn Tử binh pháp) và Cụ Hồ trước khi thành lập đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân đã nghiền ngẫm dịch Tôn Tử binh pháp, học lại thật kỹ Lịch sử Việt Nam và chọn nơi khởi binh ở làng Quốc Tuấn. .

                  Quốc Công Tiết chế Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn mất ngày 20 tháng 8 âm lịch năm 1300. Người được dân Việt tôn kính gọi là Đức Thánh Trần và thường dâng lễ tạ ơn sớm từ 20 tháng 8 dương lịch đến ngày lễ chính. Vua Trần Anh Tông lúc Đức Thánh Trần sắp lâm chung có ân cần ngự tới nhà thăm, hỏi rằng: “Nếu có điều chẳng may, mà giặc phương Bắc lại sang xâm lược thì kế sách như thế nào?”. Đức Thánh Trần  trả lời: “khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước vậy”. Nguyên văn: “Ngày xưa Triệu Vũ Đế (tức Triệu Đà) dựng nước, vua nhà Hán cho quân đánh, nhân dân làm kế thanh dã (vườn không nhà trống), đại quân ra Khâm Châu, Liêm Châu đánh vào Trường Sa, Hồ Nam, còn đoản binh thì đánh úp phía sau. Đó là một thời. Đời nhà Đinh, nhà Tiền Lê dùng người tài giỏi, đất phương nam mới mạnh mà phương bắc thì mệt mỏi suy yếu, trên dưới một dạ, lòng dân không lìa, xây thành Bình Lỗ mà phá được quân Tống. Đó lại là một thời. Vua nhà Lý mở nền, nhà Tống xâm phạm địa giới, dùng Lý Thường Kiệt đánh Khâm, Liêm, đến tận Mai Lĩnh là vì có thế. Vừa rồi Toa Đô, Ô Mã Nhi bốn mặt bao vây. Vì vua tôi đồng tâm, anh em hòa mục, cả nước góp sức, giặc phải bị bắt. Đó là trời xui nên vậy. Đại khái, nó cậy trường trận, ta dựa vào đoản binh. Dùng đoản binh chế trường trận là sự thường của binh pháp. Nếu chỉ thấy quân nó kéo đến như lửa, như gió thì thế dễ chế ngự. Nếu nó tiến chậm như các tằm ăn, không cầu thắng chóng, thì phải chọn dùng tướng giỏi, xem xét quyền biến, như đánh cờ vậy, tùy thời tạo thế, có được đội quân một lòng như cha con thì mới dùng được. Vả lại, khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước vậy”
                  * (Đại Việt sử ký toàn thư tập 2 trang 76 -77).

                  Trần Hưng Đạo giành chiến thắng trước quân Nguyên trên sông Bạch Đằng, kết thúc chiến tranh Nguyên Mông – Đại Việt lần 3 vào ngày 9 tháng 4 năm 1288, tức 8 tháng 3 năm Mậu Tý. Sau ba lần thắng giặc, đất nước thanh bình, ông lui về Vạn Kiếp và mất ngày 20 tháng 8 năm 1300 tại vườn An Lạc. Đền Kiếp Bạc ( Hải Dương) là nơi đền thờ chính của đức Thánh Trần.

                  Chùa Thắng Nghiêm (Hà Nội) nơi Trần Hưng Đạo lúc nhỏ tu học, là nơi Người hiển thánh.

                  Đức Thánh Trần gương soi kim cổ

                  Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn là nhà chính trị, quân sự, nhà văn kiệt xuất thời nhà Trần. Chiến công kiệt xuất đánh bại quân đội nhà Nguyên năm 1285 và 1287 đã đưa Đức Thánh Trần thành đại danh tướng lừng lẫy nhất của thế giới và Việt Nam. “CHỌN TƯỚNG” là một chương trong Binh thư Yếu lược của Trần Quốc Tuấn, kiệt tác súc tích và sâu sắc lạ lùng.

                  “Người quân tử tiến thoái quả quyết, xem người thì thanh thản vui tươi, chí thì ở trừ tàn bạo, đó là khí độ của người tướng quốc. Thấy ác không giận, thấy lành không mừng, nhan sắc không thay đổi, đó là lượng của người thiên tử.

                  Được sự thắng nhỏ, gặp sự thua nhỏ, mà mừng lo hình ra nét mặt, hễ thấy động thì động, thấy tĩnh thì tĩnh, nhát mà không tính toán gì, cất chân thì thần sắc không định, mà hay lấy lời nói để thắng người, đó là tướng ngu vậy.

                  Bảy phép để biết người:

                  1. Hỏi bằng lời nói xem trả lời có rõ ràng không
                  2. Lấy lời cật vấn đến kỳ cùng để xem cách ứng biến của họ.
                  3.  Cho gián điệp thử xem có trung thành không.
                  4. Hỏi rõ ràng tường tất để xem đức hạnh thế nào.
                  5. Lấy của mà thử để xem có thanh liêm không
                  6. Lấy sắc đẹp mà thử để xem có đứng đắn không.
                  7. Lấy việc khó khăn mà thử để xem có dũng cảm không.
                  8. Đem rượu cho họ uống say để xem có giữ được thái độ không.

                  Tướng ngu có tám điều tệ:

                  1. Lòng tham mà không chán
                  2. Ghen người hiền, ghét người tài
                  3. Tin lời dèm pha, thích lời nịnh hót
                  4. Xét người mà không xét mình
                  5. Do dự không quả quyết
                  6. Say đắm rượu và sắc đẹp
                  7. Thích xảo trá mà lòng nhút nhát
                  8. Nói lời viễn vông mà không giữ lễ

                  Gia Cát Lượng sách Tướng Uyển chỉ bảy phép biết người.

                  Biết tính tình của người, chẳng gì khó bằng xem xét, lành dữ tuy khác nhau, tính tình và vẻ mặt chẳng phải một: có kẻ thì ôn hoà, hiền lành nhưng làm việc trộm cắp;có kẻ bề ngoài thì cung kính nhưng trong bụng thì vô lễ, dối trá; có kẻ bề ngoài thì mạnh dạn nhưng trong bụng thì khiếp sợ;có kẻ làm việc tận lực nhưng bụng không trung thành;

                  Bảy phép sau đây để biết người

                  1. Hỏi việc phải trái để dò chí hướng;
                  2. Lấy lời cật vấn để biết ứng biến;
                  3. Đem mưu kế hỏi để lường kiến thức;
                  4. Giao chuyện hiểm nguy để soi dũng cảm;
                  5. Mời rượu cho uống say để xét tính tình;
                  6. Đưa lợi gái thử để rõ thanh liêm chính trực;
                  7. Đem việc cậy nhờ để xét sự trung thành, tin thật.

                  Tám hạng tướng và bậc đại tướng

                  Nhân tướng là người dùng đức để đem đường cho người, dùng lễ để xếp việc cho họ, hiểu thấu sự đói rét của người dưới, biết rõ khó nhọc của đồng sự, đó là nhân tướng.

                  Nghĩa tướng là người làm việc không cẩu thả, thấy lợi mà không tham, biết chết vinh hơn sống nhục.

                  Lễ tướng là người có địa vị cao quý mà không kiêu căng, công hơn người mà không cậy, tài năng mà biết hạ mình, cứng cỏi mà biết nhẫn nhịn.

                  Trí tướng là người gặp biến bất ngờ mà chí không đổi, ứng phó linh hoạt với việc khó khăn, có thể đổi họa thành phúc, gặp cơn nguy biến mà sắp đặt thành thắng thế.

                  Tín tướng là người thưởng phạt nghiêm minh công bằng, khen thưởng không chậm trễ và không bỏ sót, trừng phạt không buông tha cho kẻ cao quý.
                  Bộ tướng thủ hạ của đại tướng phải chọn người tay chân lẹ làng, võ nghệ tuyệt luân,  giỏi đánh gần, ứng biến di chuyển mau lẹ, để bảo vệ an toàn cao nhất cho chủ soái.
                  Kỵ tướng là người có thể vượt núi non cheo leo, từng trải việc nguy hiểm, cưỡi ngựa bắn tên mau lẹ như chim bay, tới thì đi trước, lui thì về sau.
                  Mãnh tướng là người khí thế vượt hẳn ba quân, dám coi thường địch mạnh, gặp đánh nhỏ vẫn luôn cẩn trọng, gặp đánh lớn thì can đảm quả quyết.

                  Bậc đại tướng là người bao trùm và vượt hẳn tám hạng tướng kể trên, gặp hiền tài thì tôn trọng lắng nghe, biết tỏ ý mình không theo kịp người, biết nghe lời can ngăn như thuận theo dòng nước, lòng rộng rãi nhưng chí cương quyết, giản dị và nhiều mưu kế.”

                  Ôi, đọc lại “Binh Thư Yếu lược” “Hịch Tướng Sĩ Văn” gương soi kim cổ, lắng nghe cuộc sống, để biết sửa mình; xem tiếp… Lời dặn của Thánh Trần;

                   

                  Chí Minh với lãnh đạo Đảng và Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1961, ảnh tư liệu của PCT)

                   

                  Chuyện cổ tích người lớn
                  CỤ NGUYỂN ĐĂNG MẠNH VIẾT VỀ BÁC HỒ
                  Hoàng Kim


                  Cụ Mạnh viết về Bác Hồ ở Chương 7 “Hồi ký Nguyễn Đăng Mạnh” thật hay. Tôi thường đọc lại. Nghề văn sử thời nay, chép đầy ắp tư liệu hay và thật như vậy, là thật giỏi và khéo lắm.
                  Cậu Cương ngọc trai bé của ông tôi trong Hoàng Gia Cương theo dòng thời gian cuối sách có ghi: “Văn muốn đạt tài hoa, tâm cần sáng, tứ cần sâu, năng gạn đục khơi trong văn mới tuyệt. Nghệ mong nên tuyệt tác, trí phải minh, công phải trọng, biết tầm sư học đạo nghệ càng tinh“; “CHÍ khí một hiền MINH, vạch lối, dẫn đường, gây nghiệp lớn hồi sinh đất nước. NGUYÊN  vẹn từng trụ GIÁP, xua Tây, trừ Mỹ, lập công đầu bảo vệ non sông”.

                  CỤ NGUYỄN ĐĂNG MẠNH VIẾT VỀ B&AXem tiếp >>

                    Dạy và học 8 tháng 7(08-07-2021)

                   

                   

                  DẠY VÀ HỌC 8 THÁNG 7
                  Hoàng Kim
                  CNM365 Tình yêu cuộc sống Việt Nam con đường xanh; Một niềm tin thắp lửa; Mưa; Đợi mưa; Địa chỉ xanh Ấn Độ; Ngụ ngôn La Fontaine; Đồng xuân lưu dấu người hiền; Đào Duy Từ còn mãi; Câu chuyện ảnh tháng Bảy; Ngày 8 tháng 7 năm 1621, ngày sinh Jean de La Fontaine, nhà thơ ngụ ngôn nổi tiếng của Pháp (mất năm 1695); Thơ ngụ ngôn La Fontaine được biết đến rất rộng rãi vào thế kỷ 17 như Thỏ và rùa; Con cáo và chùm nho, Theo Gustave Flaubert, ông là nhà thơ Pháp duy nhất hiểu và làm chủ những kết cấu tinh vi trong ngôn ngữ Pháp trước Victor Hugo. Ngày 8 tháng 7 năm 2009, ngày mất Đoàn Trọng Truyến, Giáo sư Nhà giáo Nhân dân Việt Nam (sinh năm 1922); nguyên Bộ trưởng, Tổng Thư ký Hội đồng Bộ trưởng kiêm Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ từ tháng 5 năm 1984 đến tháng 2 năm 1987. Ông đã có nhiều thành tích và đóng góp to lớn trong sự nghiệp trồng người giáo dục và nghiên cứu cải cách hành chính, được tặng Giải thưởng Nhà nước Việt Nam về cụm công trình cải cách bộ máy Nhà nước. Ngày 8 tháng 7 năm 2007, Boeing ra mắt mẫu máy bay 787 lần đầu tiên. Bài chọn lọc ngày 8 tháng 7 Việt Nam con đường xanh; Một niềm tin thắp lửa; Mưa; Đợi mưa; Địa chỉ xanh Ấn Độ; Ngụ ngôn La Fontaine; Đồng xuân lưu dấu người hiền; Đào Duy Từ còn mãi; Câu chuyện ảnh tháng Bảy; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/ và http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-8-thang-7/

                  MỘT NIỀM TIN THẮP LỬA
                  Hoàng Kim

                  Nhìn đàn em ngời niềm vui rạng rỡ.
                  Chợt thấy lòng rưng rưng.
                  Công việc nghề nông cực mà hạnh phúc.
                  Cố lên em nổ lực không ngừng !

                  Hột mồ hôi lắng vào hạt gạo.
                  Câu ca ông bà theo suốt tháng năm.
                  Thêm bữa cơm ngon cho người lao động.
                  Nâng chén cơm thơm, qúy trọng người trồng.

                  Em ơi hãy học làm ruộng giỏi.
                  Nghề nông thời nào cũng quý kỹ năng.
                  Người dân khá hơn là niềm ao ước
                  Công việc này giao lại cho em.

                  Có một mùa Vu Lan hạnh phúc
                  Ơn mẹ cha lam lũ sớm hôm
                  Thương con vạc gọi sao mai dậy sớm
                  Một niềm tin thắp lửa giữa tâm hồn.

                  Bước tiếp bước giữa trường đời gian khó
                  HỌC ĐỂ LÀM người lao động siêng năng
                  Rèn nhân cách vượt lên bao cám dỗ
                  Đức và Tài tử tế giữa Nhân Dân.

                  (*) Chúc mừng Thenamc Nguyen sinh nhật vui khỏe hạnh phúc. Chào ngày mới an lành.


                  MƯA
                  Hoàng Kim

                  Trời mưa rây rây hạt
                  Mình trồng cây tiếp thôi
                  Mồ hôi và mưa quyện
                  Yêu thương thấm mát người.

                  Nắng mưa là thời trời
                  Tốt lành là thế đất
                  Phước đức bởi lòng người
                  An nhiên mưa gió thổi.

                  Lắng nghe Lương Phủ ngâm
                  Ngắm nhìn non nước đổi
                  Thung dung giấc ngủ ngon
                  Tỉnh thức trồng tiếp nối …

                  “Ngược gió đi không nản
                  Rừng thông tuyết phủ dày
                  Ngọa Long cương đâu nhỉ
                  Đầy trời hoa tuyết bay !”

                  Ghi chú:
                  (*) Lương Phủ Ngâm
                  (thơ Gia Cát Lượng )

                  Một đêm gió bấc lạnh,
                  vạn dặm mây mịt mù
                  Trên không tuyết bay loạn,
                  biến đổi cả giang sơn.

                  Ngửa mặt nhìn trời cao,
                  thấy như rồng đang đấu
                  Trùng trùng sư tử bay,
                  chớp mắt biến vũ trụ.

                  Cưỡi lừa qua cầu nhỏ,
                  một mình than mai gầy.

                  Nguyên văn

                  一夜北风寒,
                  万里彤云厚.
                  长空雪乱飘,
                  改尽江山旧.

                  仰面观太虚,
                  疑是玉龙斗.
                  纷纷鳞甲飞,
                  顷刻遍宇宙.

                  骑驴过小桥,
                  独叹梅花瘦!

                  Phiên âm:
                  Nhất dạ bắc phong hàn,
                  vạn lý đồng vân hậu.
                  Trường không tuyết loạn phiêu,
                  cải tận giang sơn cựu.
                  Ngưỡng diện quan thái hư,
                  nghi thị ngọc long đấu.
                  Phân phân lân giáp phi,
                  khoảnh khắc biến vũ trụ.
                  Kỵ lư quá tiểu kiều,
                  độc thán mai hoa sấu!

                  2. Đồng xuân lưu dấu hiền; Đào Duy Từ còn mãi
                  (Thơ Hoàng Kim)

                   

                   

                  Mưa: Trời vẫn mưa và dần nặng hạt lên Tổ quốc ướt, anh khô làm sao nổi; thơ Nguyễn Lâm Cẩn). Trời mưa rây rây hạt Mình trồng hoa tiếp thôi Mồ hôi và mưa quyện Yêu thương thấm mát người; thơ Hoàng Kim; https://hoangkimlong.wordpress.com/category/mua/

                   

                   

                  ĐỢI MƯA
                  Hoàng Kim

                  Khát khao ngóng sớm chờ trưa (*)
                  Sắn trồng nửa tháng đợi mưa cháy lòng
                  Mía xơ xác khắp cánh đồng
                  Đất rang rẫy nóng, trời nồng nực oi.

                  Lúa non ruộng nứt nẻ rồi
                  Suối khô, hồ cạn, người người ngóng trông
                  Tiếng ve ngằn ngặt trưa nồng
                  Mấy khi tháng bảy lại mong mưa rào?

                  Thương mình, thương kẻ khát khao
                  Mưa ơi, ngóng đợi lặn vào giấc mơ.

                  (*) “ĐỢI MƯA” Miền Trung nhớ ngày này năm trước, hạn lâu, nắng khốc liệt .Tháng bảy mấy khi hạn nặng đến thế bao giờ? Biến đổi khí hậu rồi. Nước kiệt mưa chưa tới.

                   

                  LaFontaine

                   

                  NGỤ NGÔN LA FONTAINE
                  Hoàng Kim

                  Jean de La Fontaine (8 tháng 7 năm 1621 – 13 tháng 4 năm 1695), sống mãi trong lòng nước Pháp và nhân loại với các kiệt tác ngụ ngôn. Những tác phẩm này quen thuộc và làm say mê mọi lứa tuổi, mọi thời đại, và giữ nguyên giá trị thời sự sâu sắc.

                  Jean de La Fontaine là một nhà thơ ngụ ngôn nổi tiếng của Pháp. Ông là nhà thơ Pháp duy nhất hiểu và làm chủ những kết cấu tinh vi trong của ngôn ngữ Pháp trước Victor Hugo, theo đánh giá của Gustave Flaubert, một trong những tiểu thuyết gia lớn nhất của phương Tây.  La Fontaine sáng tác nhiều thể loại thơ (12 quyển), truyện (với trên 60 truyện in thành tập),  tiểu thuyết, kịch, nhưng nổi tiếng hơn cả là tập Ngụ ngôn. Thơ ngụ ngôn của ông uyên bác, hài hước, dí dỏm, nhẹ nhàng và linh hoạt, thơ mộng, là dấu ấn biểu tượng của văn hóa Pháp. Ông bước vào Viện Hàn lâm Pháp năm 1683.

                  CNM365. Chào ngày mới 8 tháng 7 đã đúc kết thông tin ông trong chuỗi sự kiện đáng nhớ nhất của ngày này trong năm. Thỏ và rùaCon cáo và chùm nhoChó thả mồi bắt bóngHội đồng chuộtThần chết và lão tiều phu, Ve và Kiến, Quạ và cáo, Chó sói và cừu non, Gà trống và cáo, Ông già và các con, Gà mái đẻ trứng vàngĐám ma sư tử là 12 bài thơ ngụ ngôn kiệt tác nổi tiếng của La Fontaine.

                  Trong các câu chuyện, tôi thích nhất “Thỏ và rùa”. Bài học của tính liên tục và sự kiên trì.  Đây là một chuyện ngụ ngôn nổi tiếng của Aesop được La Fontaine tuyển chọn và kể lại bằng thơ Pháp thật duyên dáng. Câu chuyện xoay quanh cuộc thi chạy giữa rùathỏ.  Ngày xưa có một con Rùa và một con Thỏ cãi nhau xem ai chạy nhanh hơn. Chúng quyết định thi chạy. Thỏ và rùa giao hẹn đích đến và bắt đầu cuộc đua. Thỏ lao nhanh như tên bắn và chạy thục mạng và khi thấy rằng mình đã bỏ xa Rùa, nên đã nghỉ cho đỡ mệt dưới một bóng cây xum xê lá bên vệ đường. Vì quá tự tin vào khả năng của mình, Thỏ đã ngủ quên đi trên đường đua. Rùa từ từ vượt Thỏ và khi thỏ dậy thì rùa đã về đích trước.

                  Ngụ ngôn La Fontaine đã thành điển hình cho các tính cách và các tình huống của cuộc sống.

                  Lắng nghe ngụ ngôn La Fontaine là lắng nghe cuộc sống.

                   

                   

                  Hoàng Kim bài viết mới trên DẠY VÀ HỌC
                  https://hoangkimvn.wordpress.com bấm vào đây cập nhật mỗi ngày

                  Video yêu thích

                   

                   

                  Chỉ tình yêu ở lại
                  Ngày hạnh phúc của em
                  Giúp bà con cải thiện mùa vụ
                  Quà tặng cuộc sống yêu thích
                  Vietnamese food paradise
                  KimYouTube

                  Trở về trang chính
                  Hoàng Kim Long, Ngọc Phương NamThung dungDạy và Học, Việt Nam Học, Cây Lương thực Việt Nam, Tình yêu Cuộc sống, CNM365; Kim on LinkedIn Kim on Facebook Kim on Twitter

                  Xem tiếp >>

                    Dạy và học 7 tháng 7(07-07-2021)

                  DẠY VÀ HỌC 7 THÁNG 7
                  Hoàng Kim

                  CNM365 Tình yêu cuộc sốngẤn Độ địa chỉ xanh; Việt Nam con đường xanh; Đồng xuân lưu dấu hiền; Đào Duy Từ còn mãi; Câu chuyện ảnh tháng Bảy; Ngày 7 tháng 7 năm 2007, Tổ chức New7wonder công bố Bảy kỳ quan thế giới mới dựa trên kết quả bình chọn đại chúng. Bảy kỳ quan thế giới mới (từ trên xuống dưới từ trái qua phải): 1) Chichen Itza là địa điểm khảo cổ thời tiền Colombo do người Maya xây dựng, nằm ở trung tâm phía bắc Bán đảo Yucatán, México ngày nay. 2) Tượng Chúa Kitô Cứu Thế là một bức tượng Chúa Giêsu tại Rio de Janeiro, Brasil.3) Vạn Lý Trường Thành Trung Quốc 4) Machu PicchuCuzco, Peru 5) Petra là một khu vực khảo cổ học ở phía Tây Nam Jordan 6) Taj Mahallà một lăng mộ nằm tại AgraUttar Pradesh, Ấn Độ 7) Đấu trường La MãRoma, Italia Ngày 7 tháng 7 năm 1927, Chính phủ Trung Quốc thiết lập Thành phố đặc biệt Thượng Hải, là một đơn vị khu vực hành chính đặc biệt được xác định tại Trung Quốc. Ngày 7 tháng 7 năm 1937, Quân đội Nhật Bản bắn pháo vào cầu Lư Câu, tiến công quân Trung Quốc tại Bắc Kinh, Chiến tranh Trung-Nhật bùng phát. Bài chọn lọc ngày 7 tháng 7: Ấn Độ địa chỉ xanh; Việt Nam con đường xanh; Đồng xuân lưu dấu hiền; Đào Duy Từ còn mãi; Câu chuyện ảnh tháng Bảy; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/ và:http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-7-thang-7/

                  Dia chi xanh An Do

                  ẤN ĐỘ ĐỊA CHỈ XANH
                  Hoàng Kim

                  Hình ảnh và ghi chép này tôn vinh đất nước con người Ấn Độ, tình bạn và sự hợp tác cao quý Ấn Việt.
                  CNM365Tình yêu cuộc sống, Ấn Độ địa chỉ xanh, Minh triết của đức Phật; Tagore Thánh sư Ấn Độ;Giống lạc HL25 Việt Ấn; Học để làm ở Ấn Độ;Thơ dâng theo dấu Tagore; Tĩnh lặng với Osho; Việt Nam con đường xanh; giúp bảo tồn các kỷ niệm đẹp.

                  Minh triết của đức Phật

                  Tôi nhiều lần đến Ấn Độ, đã một lần may mắn tới được chính quê hương Phật, và tôi đã tự mình trồng một nhánh Bồ Đề ở vườn nhà để nay cây đã lớn. Trong lòng tôi, minh triết của đức Phật là triết lý tình yêu cuộc sống.Lời Phật dạy trong lòng tôi lắng đọng 28 khẩu quyết yêu thích mà tôi thật sự tâm đắc. Cảm ơn bạn Nghị Khắc Nhu và cộng đồng FB gợi cảm hứng giúp tôi bảo tồn và phát triển thông tin này.

                  An nhiên
                  CNM365

                  Thả cho nó bay.
                  Hòa nhã với tất cả
                  Chọn bạn mà chơi
                  Tình yêu cuộc sống
                  Yêu thương và Sống
                  Không ai có thể đi giúp ta.
                  Yêu quý hết thảy muôn loài.
                  Con nghĩ cái gì, con là cái đó.
                  Bỏ đi những hư danh giả tạm.
                  Hãy cho đi và con sẽ còn mãi.
                  Cây kim trong bọc có ngày lòi ra
                  Đoàn kết là sống, chia rẽ là chết
                  Minh triết trước hết là tự biết mình.
                  Tìm về suối nguồn bình yên bên trong con
                  Đừng tin vào mọi thứ con được dạy phải tin.

                  Chuyển hóa nỗi ghen ghét thành sự khâm phục.
                  Bí quyết để có sức khỏe tốt là an trú trong hiện tại..
                  Hãy làm chủ suy nghĩ nếu không nó sẽ làm chủ con
                  Đời sống tâm linh không là sang trọng mà là nhu cầu
                  Con không là những gì con nói mà là những gì con làm
                  Ai biết nhìn vào trong tự thân mình thì người đó tỉnh thức.
                  Niềm hạnh phúc không bao giờ cạn kiệt khi ta biết chia sẻ
                  Không có đường đến hạnh phúc. Hạnh phúc là con đường
                  Hiểu được người là khôn ngoan, hiểu được mình là giác ngộ.
                  Lời nói có sức mạnh vừa có thể gây tổn thương, vừa có thể trị lành.
                  Không ai xứng đáng nhận được tình thương của con hơn là chính con.

                  Tagore Thánh sư Ấn Độ

                   

                  Rabindranath Tagore, sinh ngày 7 tháng 5 năm 1861,  mất ngày 7 tháng 8 năm 1941, tại Konkata, Ấn Độlà người châu Á đầu tiên đoạt giải Nobel Văn học năm 1913. Tagore không chỉ là nhà thơ và văn hóa lớn Bengal, một triết gia lỗi lạc có đạo đức phẩm hạnh cao quý được Gandhi và  mọi người Ấn Độ gọi là Thánh sư, mà còn là nhà hoạt động xã hội nổi tiếng vì phong trào giải phóng Ấn Độ, vì con người, vì nhân đạo và hòa bình. Tagore là niềm tự hào của trên 1,2 tỷ người Ấn Độ, là nguồn cảm hứng của hơn 200 triệu người Bengal sống ở Tây Bengal của Ấn Độ và Bangladesh cũng như nhiều người trên khắp thế giới. Tagore đã đến Việt Nam. Thơ Tagore đến với bạn đọc người Việt qua các bản dịch của Đỗ Khánh Hoan, Đào Xuân Quý và các dịch giả khác.

                   

                  Tôi yêu mây và sóng Tagore
                  Hoàng Kim

                  tỉnh thức với Jana Gaṇa Mana
                  tôi yêu mây và sóng Tagor.
                  thích tranh Tagor bút chì tự họa
                  bài ca thời gian trăng rằm cổ tích

                  Học để làm ở Ấn Độ

                  Nghị Khắc NhuICRISAT.1 tháng 4, 2016Hyderabad, Telangana, Ấn Độ viết trên FB: Cây lúa miến hay cây cao lương (tên tiếng Anh là Sorghum), cây này đã đi vào truyền thuyết của người Việt những năm bao cấp đói khát với tên gọi bo bo (Có 1 người rất bự Việt Nam vào năm 1976 đã xưng rằng: “10 năm nữa mỗi người Việt Nam sẽ có 1 xe máy, 1 tivi, 1 tủ lạnh”, nhưng kết quả trong 10 năm đó gạo không có đủ mà ăn bo bo) Trong 1 tháng tập huấn bên Ấn Độ, tôi được họ giới thiệu rất nhiều về cây này, bên cạnh cây Millet (cây kê). Nó được Viện Nghiên cứu Cây trồng Quốc tế cho những vùng nhiệt đới bán khô hạn (International Crops Research Institute for the Semi-Arid Tropics – ICRISAT) có trụ sở tại Ấn Độ nghiên cứu rất nhiều. Và hầu hết đều là sweet-sorghum, cho mục đích cung cấp thêm nguồn lương thực ngoài cây lúa. Hạt của giống “bo bo” này không đắng như lúc các thế hệ trước của chúng ta ăn. Đây được xem là cây trồng lý tưởng cho vùng Hyderabad, tỉnh Telangana của Ấn Độ, nơi có mùa khô thật sự khắc nghiệt. Viện này có hơn 40 nước và các tổ chức phi chính phủ cung cấp tài chính cho việc nghiên cứu, trong đó có cả Thái Lan và Philippines, nhưng rất tiếc không có Việt Nam. Trong lúc tìm thêm vài hình minh họa (do số lượng hình tự chụp không đủ dùng), mới biết bác Hoàng Kim cũng có làm về cây này.

                  Tôi đã nhiều lần tới Ấn Độ, tời ICRISAT (Viện Nghiên cứu Cây trồng Quốc tế cho những vùng nhiệt đới bán khô hạn International Crops Research Institute for the Semi-Arid Tropics, Patancheru, India) với CTCRI (Viện Cây Có Củ Toàn Ấn Central Tuber Crops Research Institute Trivandrum 695017 India) và nhiều nơi. Tôi có nhiều thầy bạn quý thân thiết ở đó. Trãi trên một phần tư thế kỷ, thầy bạn là lộc xuân cuộc đời, nhưng tôi chỉ mới lưu lại được một ít hình ảnh và những ghi chú nhỏ (Notes) ởđây. Nay bình tâm nhớ lại và suy ngẫm.

                  Bài học quý giá nhất của tôi học được từ đất nước Ấn Độ là triết lý vô ngã. HÃY LÀ CHÍNH MÌNH, HỌC ĐỂ LÀM, HỌC BỞI LÀM (Learning by Doing/ Learning to Doing). Tôi chưa viết được gì về Ấn Độ đất nước và con người, chưa kể được nhiều nhặn gì về đất nước và con người mà tôi nhiều quý trọng. ICRISATở Ấn Độ; Địa chỉ xanh Ấn Độ là phóng sự ảnh, là ấn tượng sâu sắc trong lòng tôi, đối với các người bạn lớn Ấn Độ và các người bạn nước khác tới ‘chung lưng đấu cật’ cho nông nghiệp ở đất nước Việt Nam.

                  Dia chi xanh An Do 7

                  Triết lý vô ngã Learning by Doing là sự hợp tác thân thiện, một bài học thành công. Ảnh Tiến sĩ Wiliam Dar và Tiến sĩ C L Laxmipathi Gowda là Viện Trưởng và Phó Viện Trưởng của Viện ICRISAT Ấn Độ với PGS.TS Nguyễn Văn Bộ với. GS.TS Bùi Chí Bửu là Viện Trưởng và Phó Viện Trưởng Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam (VAAS), GSTS Nguyễn Hay là Hiệu trưởng Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh với các chuyên gia Quốc tế FAO, IFAD, CIAT, … và Việt Nam tổng kết dự án hợp tác nông nghiệp tại thành phố Hồ Chí Minh năm 2011.

                  Dia chi xanh An Do 4

                  Ảnh Giáo sư Tiến sĩ S. Edison là Viện Trưởng của Viện Cây Có Củ Toàn Ấn (CTCRI), Phó Tổng Giám đốc của Trung tâm Khoai tây, Khoai lang Quốc tế (CIP) ở Lima, Peru. Ông đã nhiều lần sang thăm Sắn Việt Nam và đã từng cùng vợ chồng thầy Mai Văn Quyền (Van Quyen Mai) với vợ chồng Thứ trưởng Bùi Bá Bổng dự tiệc cưới các con tôi là Hoàng Bá Lộc (Phố Núi Cao) và Hoàng Tố Nguyên tại thành phố Hồ Chí Minh.

                  Dia chi xanh An Do 2

                  Giống lạc HL25 Việt Ấn

                  Giống lạc HL 25, có tên gốc là ICGSE 56, nguồn gốc từ Viện Nghiên cứu Quốc tế Cây trồng vùng Nhiệt đới Bán khô hạn (ICRISAT), được nhập nội theo Chương trình Hệ thống canh tác lúa châu Á.từ IRRI vào Việt Nam năm 1988 Giống thích hợp canh tác cho vùng Đông Nam Bộ, Tây Nguyên và Đồng bằng sông Cửu Long suốt một thời gian dài. Giống lạc HL25 cho đến nay vẫn là một giống lạc tốt được nông dân nhiều địa phương các tỉnh Đông Nam Bộ, Tây Nguyên và Duyên hải miền Trung ưa chuộng.

                  Giống lạc HL25 được chọn taọ, khảo nghiêm cơ bản, khảo nghiệm sản xuất, nhân giống, xây dựng mô hình canh tác trồng thuần và trồng xen ngô đậu hiệu quả (Hoàng Kim, Phạm Văn Ngọc, Mai Văn Quyền, Đỗ Thị Dung 1999, 2004). Giống lạc HL25 được công nhận giống tạm thời tại Quyết định số 3493/ QĐ/BNN/KHCN ngày 09/9/1999, công nhận giống chính thức tại Quyết định số 2182/QĐ/ BNN/ KHCN ngày 29/7/2004.

                  DSCN5768

                  Những đặc điểm chính: TGST: 90 – 95 ngày. Cao cây: 50 – 60 cm, thuộc nhóm Spanish. Số cành cấp 1: 4 – 5 cành Tổng số quả/cây: 25 – 35 quả.Tỷ lệ trái 3 hạt: 60 – 65%. P 100 hạt: 40 – 45 g. Vỏ trái có gân, mỏ quả thẳng cong, màu hạt trắng hồng. Tỷ lệ nhân 70 – 72 %. Kháng bệnh rỉ sắt, đốm lá trung bình (cấp 4-6). Năng suất đạt 2,0 – 2,5 tấn/ha trong vụ Hè Thu và Thu Đông, đạt 2,5 – 3,5 tấn/ha trong vụ Đông Xuân và Xuân Hè.

                  Giống lạc HL25 tên gốc là ICGV86015 của nhà chọn giống lạc Shyam Narayan Nigam (chuyên gia hàng đầu của ICRISAT và thế giới về lạc và đậu thực phẩm) có từ rất sớm ở Ấn Độ (1986) nôi của môi trường thân thiện nơi mà người dân (nhổ lạc) và chim muông (con cò) thân thiện bên người . Quá trình dục thành giống lạc ICGV86025 đã được nhập nội theo Chương trình Hệ thống canh tác lúa châu Á.từ IRRI vào Việt Nam năm 1988, thực hiện nghiên cứu và phát triển sản xuất tại mô hình trồng xen ngô đậu trong hệ thống cây trồng vùng Đông Nam Bộ (Hoàng Kim, Trần Ngọc Quyền và đồng sự 1988-1991), Mô hình trồng xen đậu xanh, lạc, đậu rồng với sắn ở vùng Đông Nam Bộ và vùng duyên hải Nam Trung Bộ (Hoàng Kim, 1991), Hệ thống cây trồng thích hợp trên đất trồng cao su thời kỳ kiến thiết cơ bản ở Đông Nam Bộ.(Hoàng Kim, Phạm Văn Ngọc, Võ Văn Tuấn, Đinh Văn Cự, Mai Văn Quyền 1996).Mô hình trồng lạc xen với cao su non.(Hoàng Kim và đồng sự,1997) Chọn tạo và phát triển giống lạc HL25 (Hoàng Kim, Phạm Văn Ngọc, Mai Văn Quyền, Đỗ Thị Dung 1999, 2004). Giống lạc HL25 trong suốt 15 năm (1988-2004) chọn tạo và phát triển sản xuất đã được Việt hóa, tích hợp, tuyển chọn, kế thừa và phát triển so với giống lạc gốc Ấn Độ là ICGV86015

                  Tiến sĩ Shyam Narayan Nigam rất được tín nhiệm ở ICRISAT Ấn Độ. Ông đóng góp nhiều và rất hiệu quả cho chương trình chọn giống lạc của Ấn Độ, Châu Á, châu Phi và Quốc tế. Ông là bạn nhà nông, đã nhiều lần tới làm việc ở Việt Nam.

                  Giống lạc HL25 là một giống cây trồng tốt của thời kỳ 1999-2004 nhưng tồn tại khá lâu trong sản xuất mãi đến nay. Niềm vui gặp lại những người bạn tốt khi đã luống tuổi, luôn yêu thương quý trọng nhau, gợi nhớ lại một thời. Nhớ lại và suy ngẫm những bài học lịch sử thấm thía. Khoa học nông nghiệp là khoa học thực tiễn. Những bài học kinh nghiệm cần thành hoa đất, thành phù sa cho cây và bài học cho lớp trẻ. Bộ trưởng Nguyễn Ngọc Trìu thăm mô hình trồng xen ngô đậu trong hệ thống cây trồng vùng Đông Nam Bộ. Thầy Đào Thế Tuấn đánh giá cao mô hình trồng xen giống lạc HL25 và đậu rồng với sắn, ngô . mời xem tại Đào Thế Tuấn chân dung người thầyhttps://hoangkimlong.wordpress.com/category/dao-the-tuan-chan-dung-nguoi-thay/

                  Hoàng Kim học để làm ở Ấn Độ

                  Học để làm ở Ấn Độ

                  Khai thác các cây nhiên liêu sinh học chịụ hạn để tăng cơ hội thu nhập cho các nông hộ sản xuất nhỏ ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ La tinh (Harnessing water – use efficient bio- energy crops for enhancing livelihood opportunities of smallholder farmers in Asia, Africa and Latin America). Đó là một kinh nghiệm lớn.

                  Learning to Doing at ICRISAT; Địa chỉ xanh Ấn Độ: Ấn Độ xa mà gần, Giống lạc HL25 Việt Ấn sắn KM419, cao lương ngọt, đậu đỗ thực phẩm, khoai lang, khoai môn, cropsforbiofuel, cassavaviet, love and peace, good teacher and friends, books and flowers, love and life love lắng đọng trong tôi những bài học quý.

                  Hernan Ceballos (CIAT Colombia), Keith Fahney (CIAT Asia), Nguyễn Văn Bộ, Hoàng Kim (VAAS and Nong Lam University) Rod Lefroy (CIAT Asia), Bernado Ospina (CLAYUCA Colombia), Tian Yinong (Guangxi Subtropical Crops Research Institute). Chúng tôi chung sức trong một dự án nông nghiệp

                  Dia chi xanh An Do 6

                  Tiến sĩ C L Laxmipathi Gowda (người thứ ba bên trái qua) là Phó Viện Trưởng của Viện ICRISAT Ấn Độ, ông là trưởng chương trình hợp tác Ấn Việt nghiên cứu phát triển đậu đỗ. Ông đã cùng Shyam Narayan Nigam làm việc nhiều năm với PGS.TS Nguyễn Văn Bộ, GS Ngô Thế Dân, GS Phan Liêu, GS Phạm Văn Biên, TS Lê Công Nông, TS Ngô Thị Lam Giang, TS Đỗ Thị Dung;… Chương trình IFAD GRANT 974 đã kết nối ICRISAT, CIAT và Việt Nam .

                  Việt Nam con đường xanh; Địa chỉ xanh Ấn Độ; Học để làm ở Ấn Độ, bài học lớn trong câu chuyên nhỏ.

                  Dia chi xanh An Do 8

                  Cassava for Biofuel in Vietnam. CROPS FOR BIOFUEL This paper to supply the final report for three years (2008-2010) research and development of cassava varieties and new techniques at pilot site selection in Dong Nai, Tay Ninh, Ninh Thuan and Yen Bai province, a production map of cassava for biofuel in Vietnam: opportunities and challenges, and recommendation for next step. See more http://cropsforbiofuel.blogspot.com/2011/04/cassava-for-biofuel-in-vietnam.htm

                  Học để làm ở Ấn Độ là một kinh nghiệm lớn Đất nước Ấn Độ có những vùng văn hóa đặc sắc như PunjabPoila Baisakh,Bengal,Kerala, … mà sắn Ấn Độ, đất nước dẫn đầu năng suất sắn của toàn thế giới, lại có nhiều ở Kerala và Tamil Nadu.Tôi có được những dịp may khảo sát nông nghiệp từ Nam Ấn đến Bắc Ấn, gặp gỡ nông dân, thưởng thức biểu diễn Yoga, chứng kiến pháp sư Mật tông dạy rắn độc, thăm các di tích lịch sử nổi tiếng, thưởng thức những đêm nhạc và tuyệt phẩm điện ảnh đầy tính văn hóa, sử thi Tôi chưa viết được về Ấn Độ đất nước và con người. Đó là một món nợ tình cảm. Giáo sư Nguyễn Lân Dũng có nói trong bài “Viết văn là nghề khó nhất” rằng cần phải tích lũy từng ngày, từng tháng, từng năm cho khát vọng thật sự đối với đất nước con người nghề nghiệp và văn chương.


                  ĐỊA CHỈ XANH ẤN ĐỘ
                  Green address in India

                  Hoàng Kim
                  https://hoangkimlong.wordpress.com/category/dia-chi-xanh-an-do/cùng với C L Laxmipathi Gowda; Shyam Narayan Nigam. Hình ảnh và ghi chép này tôn vinh đất nước con người Ấn Độ, tình bạn và sự hợp tác cao quý Ấn Việt. CNM365Tình yêu cuộc sống, Địa chỉ xanh Ấn Độ, Minh triết của đức Phật; Tagore Thánh sư Ấn Độ;Giống lạc HL25 Việt Ấn; Học để làm ở Ấn Độ; Thơ dâng theo dấu Tagore; Tĩnh lặng với Osho; Phục sinh giữa tối sáng; Việt Nam con đường xanh; giúp bảo tồn các kỷ niệm đẹp.

                  PHỤC SINH GIỮA TỐI SÁNG
                  Hoàng Kim

                  Cuối dòng sông là biển
                  Cuối cuộc tình yêu thương
                  Đức tin phục sinh thánh thiện
                  Yêu thương mở cửa thiên đường.

                  My firiends, Prof. Sheela Mn said:
                  My grand mother with the 5th generation…
                  But Innocence same…
                  My grandmother
                  with my grandchild Neelakantan..
                  Both…. My blessings.

                  Hoàng Kim said:
                  Both…. My blessings.
                  Greeting from
                  Hoàng Kim Vietnam
                  and friends in the World
                  Congtualation to
                  Sheela Mn
                  and grand mother
                  with the 5th generation…
                  and who all of my life
                  But Innocence same…
                  Not only India but also Vietnam
                  And everywhere in the World
                  I remember the American sacred temple
                  and Indian green address (*)
                  Cultural beauty
                  Not only India but also Vietnam
                  And everywhere in the world
                  I remember the American sacred temple
                  and Indian green address
                  Cultural beauty
                  Go around your country to understand your homeland!
                  Go around your country tXem tiếp >>

                    Dạy và học 6 tháng 7(06-07-2021)

                   

                   

                   

                  DẠY VÀ HỌC 6 THÁNG 7
                  Hoàng Kim


                  CNM365 Tình yêu cuộc sốngNguyễn Du niên biểu luận; Việt Nam con đường xanh; Đọc Những người lính sinh viên của Lê Anh Quốc. Đồng xuân lưu dấu người hiền; Đào Duy Từ còn mãi; Trần Đăng Khoa trong tôi; Ngày 6 tháng 7 năm 1885 ,Louis Pasteur thử nghiệm thành công vắc-xin phòng bệnh dại trên bệnh nhân là một cậu bé bị chó dại cắn. Ngày 6 tháng 7 năm 2006, Ấn Độ và Trung Quốc mở lại hoạt động thông thương mậu dịch qua đèo Nathu La thuộc đoạn Tây Tạng–Sikkim sau 44 năm kể từ Chiến tranh Trung-Ấn. Ngày 6 tháng 7 năm 1957, John Lennon và Paul McCartney hai thành viên của nhóm nhạc huyền thoại The Beatles và là bộ đôi nhạc sĩ vĩ đại của thế kỉ 20, gặp nhau lần đầu tiên. Bài chọn lọc ngày 6 tháng 7: Nguyễn Du niên biểu luận; Việt Nam con đường xanh; Đọc Những người lính sinh viên của Lê Anh Quốc. Đồng xuân lưu dấu người hiền; Đào Duy Từ còn mãi; Trần Đăng Khoa trong tôi; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-6-thang-7/

                  NGUYỄN DU NIÊN BIỂU LUẬN
                  Hoàng Kim

                  Mười lăm năm tuổi thơ (1766-1780)
                  Mười lăm năm lưu lạc (1781-1796)
                  Thời Hồng Sơn Liệp Hộ (1797-1802)
                  Bắc Hành và Truyện Kiều (1802-1820)

                  Nguyễn Du niên biểu luận là Nguyễn Du và thời thế theo từng năm của 55 năm cuộc đời ông Nguyễn Du trăng huyền thoại, Mai Hạc vầng trăng soi góp phần làm sáng tỏ cuộc đời thời thế của ông và hổ trợ thông tin giải mã ẩn ngữ Truyện Kiều và Bắc Hành là hai kiệt tác của Nguyễn Du Thiền sư Linh Nhạc Phật Ý tại Tổ Đình Phước Tường Thủ Đức trong giấc mơ lạ Nguyễn Du nửa đêm đọc lại khuyên tôi lập “Nguyễn Du niên biểu luận” Nguyễn Du và thời thế để tìm hiểu về Người. Theo vị Thiền sư này thì dấu vết chứng cứ sự thật hàng năm của Nguyễn Du là chỉ dấu đáng tin cậy nhất về những sự kiện trọng yếu trong thời ông. Điều này chi phối quyết định và gợi ý sâu sắc nhất xử thế của bình sinh hành trạng Nguyễn Du. Chúng ta nếu muốn hiểu đúng sự thật về Nguyễn Du và Truyện Kiều thì cần có những sự kiện chính yếu của thời thế đàng Trong và đàng Ngoài cùng với các nước liên quan soi vào hệ quy chiếu chính cuộc đời Nguyễn Du và gia tộc Nguyễn Du làm trung tâm mới thấu hiểu. Đó là phương pháp luận liên ngành tổng hợp với hệ thống thông tin thực sự bổ ích để hiểu đúng ẩn ngữ Truyện Kiều, lịch sử, văn hóa, con người và bối cảnh hình thành kiệt tác”Truyện Thúy Kiều”.

                   

                   


                  Kết quả nghiên cứu này cho thấy: Nguyễn Du 55 năm cuộc đời chia làm hai thời kỳ Nguyễn Du thời Tây Sơn (1766-1802) và Nguyễn Du thời Nhà Nguyễn (1802-1820). Nguyễn Du thời Tây Sơn có Mười lăm năm tuổi thơ (1766 – 1780), Mười lăm năm lưu lạc (1781 – 1796), Năm năm thời Hồng Sơn Liệp Hộ (1797- 1802). Nguyễn Du làm quan thời nhà Nguyễn 18 năm từ năm 1802 cho tới lúc ông mất năm 1820.

                  Nguyễn Du thời Tây Sơn (1766-1802) Tóm tắt gồm có bốn sự kiện chính nổi bật (ngày nay sử liệu đã hoàn toàn sáng tỏ, có đủ chứng cứ sự thật chứng thực).1) Quang Trung đại phá quân Thanh năm Kỷ Dậu 1789; 2) Nguyễn Vương bình Gia Định nhờ lợi dụng tình thế ngay đúng năm ấy; 3) Nguyễn Du xây đền cổ Trung Liệt cho nhà Hậu Lê tại Thăng Long và tu bổ phần mộ tổ tiên Họ Nguyễn Tiên Điền từ năm 1793 đến 1795 (Thời điểm 1792- 1793 là lúc 3 vị vua Nguyễn Huệ, Nguyễn Nhạc, Lê Chiêu Thống đều mất; Nguyễn Du xây đền Trung Liệt cho các trung thần nghĩa sĩ thời hậu Lê đã được thực hiện từ năm 1793 vã hoàn thành khoảng đầu năm 1795. Vua Lê Chiêu Thống qua đời tại Bắc Kinh năm 1793 nhưng tro cốt của ông được đưa về Việt Nam năm 1804 và chôn ở Thanh Hóa quê hương của tổ tiên ông Cương mục quyển XI .VII trang 48a, trích dẫn từ Chính sử triều Nguyễn; nguồn dẫn khác theo Lê Thành Khôi ‘Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến giữa thế kỷ 20’, trang 386); 4) Nguyễn Du làm Nam Hải Điếu Đồ (1791-1796) và Hồng Sơn Liệp Hộ (1797- 1802) Thời Nguyễn Du làm Hồng Sơn Liệp Hộ (Người đi săn ở núi Hồng), Nguyễn Du sống chủ yếu ở Nghệ Tĩnh. Thông tin chi tiết tại Nguyễn Du niên biểu luận, Nguyễn Du thời Tây Sơn

                  Nguyễn Du thời Nhà Nguyễn (1802-1820):Tóm tắt gồm có sáu sự kiện chính nổi bật (ngày nay sử liệu cũng đã hoàn toàn sáng tỏ, có đủ chứng cứ sự thật chứng thực): 1) Nguyễn Du gặp vua Gia Long năm 1802 khi vua Gia Long ra Bắc và Nguyễn Du được bổ nhiệm ngay làm quan tri huyện Phù Dung (1802) sau đó được thăng chức tri phủ Thường Tín (1803-1804) và cai bạ Quảng Bình (1808-1811); 2) Nguyễn Du làm quan nhà Nguyễn có chính tích được lưu trong Chính sử Nhà Nguyễn, 3) Nguyễn Du được thăng Đông Các học sĩ, hàm ngũ phẩm, tước Du Đức hầu (1805-1807), ông vào nhậm chức cần chánh điện đại học sĩ, chức vụ dâng sách cho vua Gia Long đọc mỗi ngày. (1805- 1807), 4) Nguyễn Du làm quan Chánh sứ đi sứ nhà Thanh (1813-1814); 5) Nguyễn Du sau khi đi sứ nhà Thanh thành công trở về được nghỉ phép ở quê sáu tháng, Trong thời gian này, Nguyễn Du đã hoàn thiện tập thơ Truyện Kiều chữ Nôm và Bắc Hành chữ Hán (gồm “Bắc hành tạp lục” 132 bài, “Nam trung tạp ngâm” 16 bài “Thanh Hiên thi tập” 78 bài). 6) Nguyễn Du vào Huế nhậm chức Hữu Tham tri Bộ Lễ (1815- 1820) và chết ở Huế năm 1820. Thông tin chi tiết tại Nguyễn Du niên biểu luận, Nguyễn Du thời nhà Nguyễn . .

                   

                   

                  Mời quý bạn đọc chùm bài Nguyễn Du trăng huyền thoại, Nguyễn Du tư liệu quý, Nguyễn Du thơ chữ Hán; Nguyễn Du thời Tây Sơn; Nguyễn Du Hồ Xuân Hương của Hoàng Kim.

                   

                   

                  Hình thế nước Đại Việt đàng Trong đàng Ngoài năm 1760. Bản đồ vẽ bởi công ty Cóvens e Mortier, Amsterdam (hình trên) và Hình thế nước Đại Việt đàng Trong đàng Ngoài năm 1788 trước mùa xuân Kỷ Dậu năm 1790 (vẽ theo sử liệu và bản đồ Trần Trọng Kim) đã cho thấy Nguyễn Du cuộc đời và thời thế. Diễn biến thời cuộc từ khi Nguyễn Du sinh ra năm 1766 đến khị Triều đại Tây Sơn sụp đổ năm 1802 qua minh chứng tại Nguyễn Du niên biểu luận

                   

                   

                  NGUYỄN DU MỘT TỔNG LUẬN

                  1. Nguyễn Du không chỉ là nhà thơ lớn, danh nhân văn hóa thế giới mà còn là danh sĩ tinh hoa, đấng anh hùng hào kiệt minh sư hiền tài lỗi lạc.

                  2. Nguyễn Du rất mực nhân đạo và minh triết, ông nổi bật hơn tất cả những chính khách và danh nhân cùng thời. Nguyễn Du vượt lên vinh nhục bản thân giữa thời nhiễu loạn, vàng lầm trong cát để trao lại ngọc cho đời. “Nguyễn Du là người rất mực nhân đạo trong một thời đại ít nhân đạo” (Joocjo Budaren nhà văn Pháp). Ông chí thiện, nhân đạo, minh triết, mẫu hình con người văn hóa tương lai. Kiều Nguyễn Du là bài học lớn về tâm tình hồn Việt. Truyện Kiều của Nguyễn Du đã thấm sâu vào hồn Việt và lan tỏa khắp thế giới.

                  3. Nguyễn Du quê hương và dòng họ cho thấy gia tộc họ Nguyễn Tiên Điền là dòng họ lớn đại quý tộc có thế lực mạnh “Triều đình riêng một góc trời/ Gồm hai văn võ, rạch đôi sơn hà”. Vị thế gia tộc Nguyễn Tiên Điền đến mức nhà Lê, họ Trịnh, nhà Tây Sơn, nhà Nguyễn đều tìm mọi cách liên kết, lôi kéo, mua chuộc, khống chế hoặc ra tay tàn độc để trấn phản.

                  4. Nguyễn Du niên biểu luận, cuộc đời và thời thế là bức tranh bi tráng của một bậc anh hùng hào kiệt nhân hậu, trọng nghĩa và tận lực vì lý tưởng. Nguyễn Du đã phải gánh chịu quá nhiều chuyện thương tâm và khổ đau cùng cực cho chính ông và gia đình ông bởi biến thiên của thời vận”Bắt phong trần phải phong trần.Cho thanh cao mới được phần thanh cao“. Nguyễn Du mười lăm năm tuổi thơ (1765-1780) mẹ mất sớm, ông có thiên tư thông tuệ, văn võ song toàn, văn tài nổi danh tam trường, võ quan giữ tước vị cao nơi trọng yếu; người thân gia đình ông giữ địa vị cao nhất trong triều Lê Trịnh và có nhiều người thân tín quản lý phần lớn những nơi trọng địa của Bắc Hà. Nguyễn Du mười lăm năm lưu lạc (1781- 1796) Thời Hồng Sơn Liệp Hộ (1797-1802) Nlà giai đoạn đất nước nhiễu loạn Lê bại Trịnh vong, nội chiến, tranh đoạt và ngoại xâm. Nguyễn Du và gia đình ông đã chịu nhiều tổn thất nhưng ông kiên gan bền chí, tận tụy hết lòng vì nhà Lê “Bên tình bên hiếu bên nào nặng hơn. Để lời thệ hải minh sơn. Làm con trước phải đền ơn sinh thành“. Nguyễn Du thời Nhà Nguyễn (1802- 1820) ra làm quan triều Nguyễn giữ các chức vụ từ tri huyên, cai bạ, cần chánh điện đại hoc sĩ, chánh sứ đến hữu tham tri bộ lễ. Ông là nhà quản lý giỏi yêu nước thương dân, Nguyễn Du để lại kiệt tác Truyện Kiều là di sản muôn đời, kiệt tác thơ chữ Hán có Bắc hành tạp lục 132 bài, Nam trung tạp ngâm 16 bài và Thanh Hiên thi tập 78 bài, là phần sâu kín trong tâm trạng Nguyễn Du, tỏa sáng tầm vóc và bản lĩnh của một anh hùng quốc sĩ tinh hoa, chạm thấu những vấn đề sâu sắc nhất của tình yêu thương con người và nhân loại. Đặc biệt “Bắc Hành tạp lục” là kiệt tác sử thi và tuyên ngôn ngoại giao nhân nghĩa  làm rạng danh nước Việt.

                  5. Minh triết ứng xử của Nguyễn Du là bậc hiền tài trước ngã ba đường đời là phải chí thiện và thuận theo tự nhiên “Tùy cơ, tùy vận, tùy thiên mệnh, tùy thời, tùy thế, lại tùy nghi” Nguyễn Du ký thác tâm sự vào Truyện Kiều là ẩn ngữ ước vọng đời người, tâm tình và tình yêu cuộc sống “Thiện căn cốt ở lòng ta, Chữ tâm kia mới thành ba chữ tài” .

                  6. Truyện Kiều có tầm ảnh hưởng rất sâu rộng đã trở thành hồn Việt, và là tác phẩm văn học cổ điển Việt Nam được dịch ra hơn 20 thứ tiếng và trên 73 bản dịch. Giá trị tác phẩm Kiệt tác Truyện Kiều của Nguyễn Du có sự tương đồng với kiệt tác Hồng Lâu Mộng của Tào Tuyết Cần.nhưng khác chiều kích văn hóa giáo dục và giá trị tác phẩm.

                  7. Nhân cách, tâm thế của con người Nguyễn Du đặt trong mối tương quan với Nguyễn Huệ và Nguyễn Ánh của thời đại Hậu Lê Trịnh – nhà Tây Sơn – đầu triều Nguyễn; khi so sánh với Tào Tuyết Cần là văn nhân tài tử của thời đại cuối nhà Minh đến đầu và giữa nhà Thanh thì vừa có sự tương đồng vừa có sự dị biệt to lớn.

                  8. Gia tộc của Nguyễn Quỳnh – Nguyễn Thiếp – Nguyễn Du tương đồng với gia tộc của Tào Tỷ – Tào Dần – Tào Tuyết Cần nhưng nền tảng đạo đức văn hóa khác nhau  Nhấn mạnh điều này để thấy sự cần thiết nghiên cứu liên ngành lịch sử, văn hóa, con người tác gia, bởi điều đó chi phối rất sâu sắc đến giá trị của kiệt tác.

                  9. Nguyễn Du danh si tinh hoa là tấm gương soi sáng thời đại Nguyễn Du

                  QUÊ HƯƠNG VÀ DÒNG HỌ

                  Nguyễn Du tự Tố Như, hiệu Thanh Hiên, biệt hiệu Nam Hải Điếu Đồ (kẻ đi câu ở biển Nam) lại có hiệu Hồng Sơn Liệp Hộ (người đi săn ở núi Hồng). Nguyễn Du sinh 1766, tại làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, Nghệ An (theo gia phả của họ Nguyễn Tiên Điền thì Nguyễn Du sinh tại Tiên Điền chứ không phải sinh tại Hà Nội). Nguyễn Du thi Hương tại Sơn Nam năm 1783 và chỉ đậu Tam Trường. Ông có được bổ sung chức quan tại Thường Tín, nhưng cáo ốm không nhậm chức. Khi Tây Sơn ra Bắc. Thận Quân Công có ép ra phục vụ, nhưng Nguyễn Du và nhiều chí sĩ thời bấy giờ cho rằng Tây Sơn là giặc, nên từ chối, bị nhốt hai tháng rồi thả ra. họ Nguyễn Tiên Điền quê hương Nghệ Tĩnh nhưng sống nhiều nơi “Hồng Lam vô gia huynh đệ tán”, mẹ họ Trần đất Kinh Bắc, tổ tiên Sơn Nam, khởi nghiệp Thái Nguyên, nhiều năm lưu lạc giang hồ ở châu thổ sông Hồng, vùng núi phía Bắc, Nam Trung Quốc,và Nghệ Tĩnh, nhiều năm làm quan ở Quảng Bình và kinh đô Huế. Nguyễn Du là danh sĩ tinh hoa, tính tình khoan hòa điềm tĩnh, đi nhiều, học rộng, là nhà thơ nổi tiếng thời Lê mạt, Nguyễn sơ ở Việt Nam.

                  Cha của Nguyễn Du là Nguyễn Nghiễm (1708 – 1775), sinh ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh, tên tự Hy Di, hiệu Nghi Hiên, có biệt hiệu là Hồng Ngự cư sĩ, đậu Nhị giáp tiến sĩ , làm quan đến chức Đại tư đồ (Tể tướng) kiêm Trung thư giám, Tổng tài Quốc sử giám, tước Thượng thư bộ Hộ, Xuân Quận công triều Lê.

                  Mẹ là bà Trần Thị Tần, sinh ngày 24 tháng 8 năm 1740, mất ngày 27 tháng 8 năm 1778, con gái một người thuộc hạ của Nguyễn Nhiễm làm chức Câu kê lo việc kế toán, quản gia cho cụ Nguyễn Nghiễm. Quê mẹ Nguyễn Du ở làng Hoa Thiều, xã Minh Đạo, huyện Tiên Du (Đông Ngàn), xứ Kinh Bắc, nay thuộc tỉnh Bắc Ninh. Bà Trần Thị Tần là vợ thứ ba của Nguyễn Nghiễm, bà kém chồng 32 tuổi, sinh được năm con, bốn trai và một gái.

                  Nguyễn Nghiễm có tám vợ và 21 người con. Vợ chánh thất là bà Đặng Thị Dương, sinh mẫu của Nguyễn Khản (1734-1786); bà hai là Đặng Thị Thuyết, sinh mẫu của Nguyễn Điều (1740-1786), bà là em ruột của bà chánh thất Đặng Thị Dương; bà ba là Trần Thị Tần, sinh mẫu của Nguyễn Trụ (1757-1775, con trai thứ 3), Nguyễn Nễ (1761-1805, con trai thứ 6), Nguyễn Thị Diên, Nguyễn Du (1765- 1820, con trai thứ 7, nên tục gọi là cậu Chiêu Bảy), Nguyễn Ức (1867-1823, con trai thứ 8); bà tư là Nguyễn Thị Xuyên, quê ở xã Hoàng Mai, Yên Dũng, Kinh Bắc, sinh mẫu của Nguyễn Quýnh (1759- 1791, con trai thứ 4), bà năm là Nguyễn Thị Xuân, quê xã Tiêu Sơn, huyện Yên Phong, xứ Kinh Bắc, sinh mẫu của Nguyễn Trừ (1760 -1809, con trai thứ 5) và Nguyễn Nghi (1773- 1845, con trai thứ 10); bà sáu là Phạm Thị Diễm, quê xã Hải Lộ, huyện Nam Chân, xứ Sơn Nam, sinh mẫu của Nguyễn Lạng (1768- 1817), con trai thứ 9), bà bảy là Hồ Thị Ngạn, người xã Hoa Viên, huyện Nghi Xuân, sinh mẫu của Nguyễn Nhưng (1763-1824), con trai thứ 11; bà tám là Hoàng Thị Thược, người xã Đan Hải, Nghi Xuân, sinh mẫu của Nguyễn Tốn (1767- 1812), con trai thứ 12 (Trích theo đúng gia phả, bản dịch của cụ Giải nguyên Lê Thước dịch từ năm 1962).

                  Đền thờ Nguyễn Nghiễm ở thôn Bảo Kê, xã Tiên Điền. Đền có 3 tấm biển lớn, một khắc 4 chữ “Phúc lý vĩnh tuy” (Phúc ấm lâu dài) do tự tay chúa Trịnh viết. Một tấm khắc 4 chữ: “Dịch tế thư hương” (dòng thư hương đời nối đời) do Đức Bảo sứ thần nhà Thanh đề tặng. Một biển khắc 4 chữ “Quang tiền du hậu” (Rạng rỡ thế hệ trước, phúc ấm ở đời sau) do Tô Kính người Viễn Đông đề tặng. Đền còn có đôi câu đối: Lưỡng triều danh Tể Tướng. Nhất thế đại nho sư (Nho sư cả nước vang danh hiệu. Tể tướng hai triều rạng tiếng tăm). Danh sĩ La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp, người được Nguyễn Huệ tôn làm thầy, là học trò của Nguyễn Nhiễm, đã viết bài tán Phú Đức nói về thầy học của mình. Nguyễn Nhiễm khi còn sống đặt ruộng cúng và xây sẵn đền thờ ở mặt sông. Sau khi ông mất, triều đình phong “Thượng Đẳng Tôn Thần”, Huân Du Đô Hiến Đại Vương, hàng năm Quốc gia làm tế lễ. Lại giao cho 4 xã chăm sóc hương khói. Ngày sinh, ngày giỗ của ông có cả xã Uy Viễn cùng tế lễ.

                  Tổ tiên của Nguyễn Du gốc ở làng Canh Hoạch, huyện Thanh Oai, trấn Sơn Nam (nay thuộc Hà Nội), sau di cư vào Hà Tĩnh, có truyền thống khoa bảng nổi danh ở làng Tiên Điền thời Lê mạt. Trước ông bảy thế hệ, viễn tổ họ Nguyễn Tiên Điền là Nam Dương hầu Nguyễn Nhiệm, con trai Nguyễn Miễn và là cháu Nguyễn Quyện, gọi Nguyễn Quyện bằng bác ruột, thời Lê Trung hưng có dự mưu phục lại nhà Mạc, bị thua trận chạy về phương Nam giấu hẵn tung tích đến sinh cơ lập nghiệp ở Tiền Điền Nghi Xuân. (Nguyễn Miễn là con của Trạng nguyên Nguyễn Thiến, hậu duệ người em của Nguyễn Phi Khanh). Nguyễn Trãi và Nguyễn Du cùng dòng họ và chung một ông tổ.

                  Ông nội của Nguyễn Du là Nguyễn Quỳnh. Ông có 5 vợ và 9 con (6 trai, 3 gái). Trong số 6 người con trai thì có 3 người con đậu đại khoa và làm quan to là Nguyễn Huệ , Nguyễn Nghiễm và Nguyễn Trọng. Ông Nguyễn Quỳnh là người hay đọc sách, tinh thông lý số, giỏi kinh dịch, … Ông chuyên tâm dạy con cái học hành, có soạn ba bộ sách bàn về Kinh Dịch với những việc chiêm nghiệm được trong đời. Ông có trồng ba cây cổ thụ, một cây Muỗm (Xoài), một cây Bồ Lỗ (Cây Nóng), một cây Rói, để sau này con cái thành đạt về thăm cha có chỗ buộc ngựa. Những cây cổ thụ đó, nay vẫn còn, trừ cây Rói bị bão đổ năm 1976. Nguyễn Quỳnh giỏi y thuật từ khi còn trẻ nghe nói có gặp một người Trung Quốc là Ngô Cảnh Phượng (dòng dõi Ngô Cảnh Loan- một nhà địa lý nổi tiếng đời Tống)am hiểu địa lý, gặp nạn, ông đưa về nuôi. Ngô Cảnh Phượng cảm phục ân đức đã truyền cho bí quyết về phong thủy. Họ Nguyễn Tiên Điền thịnh đức, nếp nhà di huấn nối đời làm thuốc và dạy học, nếu có làm quan biết giữ tiết tháo, đức độ, thanh thận cần.

                  Vợ chính thất của Nguyễn Du họ Đoàn là con thứ sáu của Đoàn Công, Hoàng giáp Phó Đô ngự sử Quỳnh Châu bá người Quỳnh Côi, Hải An (xưa thuộc Sơn Nam, nay thuộc Thái Bình). Theo gia phả của họ Nguyễn Tiên Điền thì ông bà sinh con trai tên Nguyễn Tứ tự là Hạo Như có văn học, Nguyễn Ngũ giỏi võ, Nguyễn Thuyến giỏi văn nhưng không tham gia chính sự. Năm Quý Dậu (1813), bà theo ông đi sứ phương Bắc, về nước được vài năm bị bệnh mất. Bà sinh được một gái gả cho Tú tài Ngô Cảnh Trân, người ở Trảo Nha, Thạch Hà.

                  Một trong những người yêu thương nhất của Nguyễn Du là Hồ Phi Mai (Hồ Xuân Hương) bà chúa thơ nôm, tác giả của Lưu Hương ký, quê ở Quỳnh Đôi, có quan hệ mật thiết với họ Hồ nhà Tây Sơn. Hồ Xuân Hương cũng là tác giả của những tác phẩm thơ nổi tiếng: Bánh trôi nước, Kẽm Trống, Nhớ người cũ, viết gửi Cần Chánh Học Sĩ Nguyễn Hầu, Khóc ông phủ Vĩnh Tường, Khóc Tổng Cóc, Làm lẽ, Tự tình, Mời trầu, Đề đền Sầm Nghi Đống, Đèo Ba Dội, Hang Cắc Cớ, Cái quạt, Đánh đu, Thiếu nữ ngủ ngày, Không chồng mà chửa, Chùa Quán Sứ,  Sư hổ mang, Sư bị ong châm, Quan thị, Mắng học trò dốt … bài nào cũng thực thông minh, hóm hỉnh, vừa sâu sắc vừa cận nhân tình. Hồ Xuân Hương là một phụ nữ đặc biệt tài hoa nhưng bất hạnh. Bà có tới ba đời chồng là Tổng Cóc, Tri phủ Vĩnh Tường và Tham hiệp trấn Yên Quảng Trần Phúc Hiển, người  bị kết án năm 1816 và bị xử tử năm 1818.

                  Gia tộc Nguyễn Du có nhiều người giỏi và giữ những vị trí trọng yếu của thời cuộc: cha là Nguyễn Nhiễm làm Tể tướng hai triều Lê; chức quan trước khi cáo lão về trí sĩ là thượng thư bộ Hộ, Đại Tư đồ, Tham tụng, tặng tiệp dinh Tả tướng, tước Xuân Quận công, anh cùng cha khác mẹ là Nguyễn Khản làm Tể tướng, Tham tụng, Thượng thư bộ Lại kiêm trấn thủ Thái Nguyên, Hưng Hóa triều Lê; cha nuôi là quan trấn thủ Thái Nguyên Quản Vũ Hầu Nguyễn Đăng Tiến, tướng tâm phúc của Nguyễn Nhiễm; cha vợ là Hoàng giáp Phó Đô ngự sử Quỳnh Châu bá Đoàn Nguyễn Thục; anh cùng mẹ là Nguyễn Nễ đứng đầu ngoại giao của cả ba triều Lê, Tây Sơn, Nguyễn (Nguyễn Nễ từng trãi Cai đội quân Nhất Phấn giữ phủ chúa Trịnh, Hiệp tán quân vụ nhà Lê, Tả Phụng nghi bộ Binh, Hiệp tán quân vụ trấn Quy Nhơn, Chánh sứ, Tả đồng nghị trung thư sảnh trấn Nghệ An nhà Tây Sơn, phụ tá Tổng trấn Bắc thành nhà Nguyễn); anh ruột là Nguyễn Điều làm trấn thủ Sơn Tây của triều Lê; anh vợ là Đoàn Nguyễn Tuấn làm Thị Lang bộ Lại nhà Tây Sơn; anh rể là tiến sĩ Vũ Trinh làm Hữu Tham tri bộ Hình, thầy dạy Nguyễn Văn Thuyên, con của Tổng trấn Bắc thành Nguyễn Văn Thành.

                  Điểm đáng lưu ý là Nguyễn Du cũng là chú vợ của vua Gia Long Nguyễn Phúc Ánh. Cuốn gia phả cung cấp về cụ Nguyễn Trừ, anh trai thứ năm của Nguyễn Du : “Ông tên húy là Trừ, …, con bà trắc thất Nguyễn Thị Xuân, người xã Tiêu Sơn, huyện Yên Phong , Bắc Ninh và vẫn lưu ở quê mẹ. Năm Giáp Tý (1804) đổi làm Tri phủ Nam Sách. Ngày 8 tháng Giêng năm Gia Long thứ 8 (22 tháng 2 năm 1809) ông mang bệnh và mất ở đây, thọ 50 tuổi, đem về táng ở Tiêu Sơn (quê mẹ). Vợ kế thất là Tống Thị Thiếu sinh được 4 con trai Đại, Trù (làm tri phủ Vĩnh Tường), Hồng, Hiệp, có con gái là Thị Uyên được tuyển làm cung tần của vua Gia Long”. Vậy Nguyễn Trù là bố vợ của vua Gia Long.và Nguyễn Du là chú vợ của vua

                  Nguyễn Du rất được quý trọng của nhiều danh sĩ đương thời. Văn chương của ông đặc biệt lưu truyền sâu rộng trong lòng dân. Ông giao thiệp rộng với nhiều tướng văn võ của triều Lê như Hoàng Ngũ Phúc, Nguyễn Hữu Chỉnh, với danh thần nhà Tây Sơn như La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp, Ngô Thì Nhậm, Trần Văn Kỷ, Phan Huy Ích, Ngô Văn Sở, Thận Quận công, với danh thần nhà Nguyễn như Nguyễn Văn Thành, Đặng Trần Thường, Trịnh Hoài Đức, Ngô Nhân Tĩnh, Phạm Văn Hưng, Nguyễn Công Trứ, Trương Đăng Quế, Nguyễn Văn Giai…

                  Nguyễn Du mất ở Kinh Đô Huế ngày 10 tháng tám năm Canh Thìn (ngày 16 tháng 9 năm 1820), an táng tại cánh đồng Bào Đá, xã An Ninh, huyện Phong Điền. Năm Giáp Thân (1824), hài cốt của cụ được cải táng đưa về quê nhà ở Đồng Ngang thuộc giáp cũ của bản xã (có bút phê) ở thôn Thuận Mỹ, làng Tiên Điền, Hà Tĩnh. Những năm sau đó dời đến táng cạnh đền thờ Nguyễn Trọng và lại cải táng đến xứ Đồng Cùng, giữa một vùng cát rộng. Mộ cụ Nguyễn Du qua nhiều trùng tu, ngày một tôn nghiêm hơn.

                  Nguyễn Du cuộc đời được chia làm ba giai đoạn: 1) Nguyễn Du mười lăm năm tuổi thơ (1766- 1780); 2) Nguyễn Du mười lăm năm lưu lạc (1781-1796), trong đó có Nguyễn Du mười năm gió bụi 1781- 1790, Nguyễn Du câu cá ở biển Nam (Nam Hải Điếu Đồ 1791- 1796); Nguyễn Du đi săn ở núi Hồng (Hồng Sơn Liệp Hộ 1797 -1801); 3) Nguyễn Du làm quan đi sứ và viết sách (1802- 1820), bao gồm Nguyễn Du làm quan tri huyện, cai bạ, cần chánh điện đại hoc sĩ, chánh sứ đi sứ nhà Thanh, Nguyễn Du thơ chữ Hán  (1802 – 1813); Nguyễn Du và Truyện Kiều (Ông viết sau khi đi sứ thành công 1813-1814, viết trên đường về Việt Nam, và ông được nghỉ phép về quê sáu tháng, Ông đã hoàn thiện Truyện Kiều và ba tập thơ chữ Hán “Bắc hành tạp lục” 132 bài, “Nam trung tạp ngâm” 16 bài và “Thanh Hiên thi tập” 78 bài. Nguyễn Du vào nhậm chức Hữu Tham tri Bộ Lễ và chết ở Huế 1820.

                  Nguyễn Du di cảo thơ lưu hành qua những câu thơ lưu lạc trong dân gian trên gốm sứ Giang Tây, qua di sản thơ chữ Hán, thơ Truyện Kiều bản kiểm duyệt hiệu đính của triều Nguyễn (bản Kinh) và bản Phường chữ Hán Nôm có lưu dấu hai bài Tựa đầu Truyện Thúy Kiều ( Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim biên khảo theo bản khắc in cuối triều Nguyễn) lộ thêm một chút cuộc đời và hành trạng Nguyễn Du.

                  MƯỜI LĂM NĂM TUỔI THƠ

                  Năm Ất Dậu (1765), Nguyễn Du sinh ngày 23 tháng 11 (nhằm ngày 3 tháng 1 năm 1766) lúc Nguyễn Nghiễm 58 tuổi, bà Trần Thị Tần 26 tuổi. Nguyễn Du được gọi là cậu Chiêu Bảy. Năm ấy cũng là năm Vũ Vương mất, Trương Phúc Loan chuyên quyền. Trước đó, từ thời ông Nguyễn Hoàng trở đi, họ Nguyễn làm chúa trong Nam, gọi là Đằng Trong, phía bắc chống nhau với họ Trịnh, phía nam đánh lấy đất Chiêm Thành và đất Chân Lạp, truyền đến đời Vũ Vương thì định triều nghi, lập cung điện ở đất Phú Xuân, phong cho Nguyễn Phúc Hiệu người con thứ 9 làm thế tử. Bây giờ thế tử đã mất rồi, con thế tử là Nguyễn Phúc Dương hãy còn nhỏ mà con trưởng của Vũ Vương cũng mất rồi. Vũ Vương lập di chiếu cho người con thứ hai là hoàng tử Cốn lên nối ngôi nhưng quyền thần Trương Phúc Loan đổi di chiếu lập người con thứ 16 của Vũ Vương, mới có 12 tuổi tên là Nguyễn Phúc Thuần lên làm chúa, gọi là Định Vương. Nguyễn Phúc Ánh là con của hoàng tử Cốn. Nguyễn Phúc Ánh sinh ngày Kỷ Dậu tháng Giêng năm Nhâm Ngọ (1762) lớn hơn Nguyễn Du ba tuổi. Trương Phúc Loan là người tham lam, làm nhiều điều tàn ác nên trong nước ai ai cũng oán giận, bởi thế phía nam nhà Tây Sơn dấy binh ở Quy Nhơn, phía bắc quân Trịnh vào lấy Phú Xuân, làm cho cơ nghiệp họ Nguyễn xiêu đổ.

                  Năm Đinh Hợi (1767), Nguyễn Du hai tuổi, Nguyễn Nghiễm được thăng Thái tử Thái bảo, hàm tòng nhất phẩm, tước Xuân Quận công. Lúc này Trịnh Doanh mất, con là Trịnh Sâm lên làm chúa. Lê Duy Mật đem quân về đánh Hương Sơn và Thanh Chương rồi rút về Trấn Ninh. Trịnh Sâm cho người đưa thư sang vỗ về không được, mới quyết ý dùng binh để dứt mối loạn. Cũng năm ấy (1767) nước Miến Điện sang đánh Xiêm La (Thái Lan ngày nay) bắt vua nước ấy và các con vua mang về Miến Điện. Hai người con khác của vua Xiêm La một người chạy sang Chân Lạp, một người chạy sang Hà Tiên. Trịnh Quốc Anh (Taksin) một tướng Thái gốc Hoa người Triều Châu tỉnh Quảng Đông khởi binh chống quân Miến Điện giành lại độc lập, tự lập làm vua Xiêm La và dời đô về Thonburi, bên bờ sông Chao Phraya, đối diện với Bangkok. (Nguyên nước Xiêm La vốn là một vương quốc Phật giáo tên là Xích Thổ (Sukhothai) ở miền Bắc Thái Lan, dần thay thế vai trò của Đế chế Khmer (Chân Lạp) đang tàn lụi vào thế kỷ 13 – thế kỷ 15. Năm 1283 người Thái có chữ viết. Sau đó người Thái mở rộng lãnh thổ xuống phía nam, và năm 1350 chuyển kinh đô xuống Ayuthaya, phía bắc Bangkok 70 km. Năm 1431, quân Xiêm cướp phá Angkor của Chân Lạp. Nhiều bảo vật và trang phục của văn hóa Hindu đã được họ đem về Ayutthaya, lễ nghi và cách ăn mặc của người Khmer được dung nhập vào thượng tầng văn hóa Xiêm. Trong khoảng 400 năm, từ thế kỷ 14 đến thế kỷ 18, giữa người Thái và người Miến Điện láng giềng luôn xảy ra các cuộc chiến tranh và kinh đô Ayuthaya bị huỷ diệt ở thế kỷ 18. Người Hoa sau biến cố Minh Thanh cũng ngày một nhiều ở Xiêm La). xem tiếp  https://hoangkimlong.wordpress.com/category/nguyen-du-nien-bieu-luan/

                  Xem tiếp >>

                    Dạy và học 5 tháng 7(05-07-2021)

                  DẠY VÀ HỌC 5 THÁNG 7
                  Hoàng Kim

                  CNM365 Tình yêu cuộc sống; Việt Nam con đường xanh; Câu chuyện ảnh tháng Bảy; Đậu Quốc Anh khiêm nhường; Đồng xuân lưu dấu người hiền; Đào Duy Từ còn mãi; Có một ngày như thế; Ngày 5 tháng 7 năm 1943, Chiến tranh thế giới thứ hai: Các lực lượng Đức bắt đầu tiến hành tổng công kích Liên Xô trong trận Vòng cung Kursk. Đây là trận đấu xe tăng lớn nhất trong lịch sử thế giới. Kết quả thắng lợi quyết định của Hồng quân Liên Xô. Ngày 5 tháng 7 năm 182, ngày sinh Tôn Quyền, vị Hoàng đế đầu tiên của nước Đông Ngô thời Tam Quốc (mất năm 252). Ngày 5 tháng 7 năm 2009, ngày mất Nghệ sĩ Nhân dân Phùng Há (sinh năm 1911); Bài chọn lọc ngày 5 tháng 7: Việt Nam con đường xanh; Câu chuyện ảnh tháng Bảy; Đậu Quốc Anh khiêm nhường; Đồng xuân lưu dấu người hiền; Đào Duy Từ còn mãi; Có một ngày như thế; Châu Mỹ chuyện không quên; Truyện George Washington; Chuyện Henry Ford lên Trời; Mười thói quen mỗi ngày; Đỗ Hoàng Phong chiều xuân; Hoa và Ong Hoa Người; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlong
                  https://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-5-thang-7/

                  VIỆT NAM CON ĐƯỜNG XANH
                  Hoàng Long, Nguyễn Văn Phu

                  Tình nguyện hè tại Lào, một số hình ảnh không quên
                  Hoang Long , Nguyễn Văn Phu nhật ký ở Lào , hình ảnh buộc chỉ cổ tay chúc chiến sĩ may mắn https://www.facebook.com/tinhnguyenhelao/videos/342867686406572https://m.facebook.com/story.php?story_fbid=454067431993333&id=%20261455464587865

                  Trước khi về nhà, các chiến sĩ đã được bà con huyện Soukhouma, tỉnh Champasak làm lễ cột chỉ cổ tay trang trọng. Đây là một truyền thống trong văn hoá Lào nhằm thể hiện sự yêu thương và cầu chúc người nhận chỉ luôn bình an, may mắn. Trong buổi sáng, các hoạt động khám phát thuốc miễn phí cho bà con, tập huấn nông nghiệp và tặng chế phẩm sinh học, tặng nhu yếu phẩm cho các hộ khó khăn, tổ chức sân chơi, tặng quà cho thiếu nhi địa phương đã diễn ra tại 02 huyện Soukhouma, huyện Champasak (tỉnh Champasak) và huyện Sanamxay (tỉnh Attapeu). Tại Attapeu, đoàn cũng đã trao một “Nhà Đoàn kết Việt – Lào” cho hộ gia đình khó khăn. Mời bạn cùng xem nhật ký hoạt động và chia sẻ thông tin về các hoạt động tình nguyện hè của đoàn viên, thanh niên TP.HCM tại nước CHDCND Lào.; xem tiếp Việt Nam con đường xanhhttps://hoangkimlong.wordpress.com/category/viet-nam-con-duong-xanh/

                  CÓ MỘT NGÀY NHƯ THẾ.
                  Hoàng Kim


                  Có một ngày như thế
                  Giữa cuộc đời yêu thương
                  Em đi tìm điều hay
                  Tôi bày em việc tốt.

                  Đời vui người trẻ lại
                  Thoải mái bên bạn hiền
                  Trường tôi thành điểm tựa
                  Giấc mơ lành bay lên. …
                  xem tiếp
                  https://hoangkimlong.wordpress.com/category/co-mot-ngay-nhu-the/

                  Câu chuyện ảnh tháng Bảy
                  CHUYỆN ĐỒNG DAO CHO EM
                  Hoàng Kim


                  Hạnh phúc được chia sẻ. Nếu giọt nước rơi xuống hồ nó sẽ biến mất, nhưng nếu rơi xuống lá sen , nó sẽ tỏa sáng như một viên ngọc. Đời người cũng như giọt nước rơi, ở với ai mới là điều quan trọng.


                  Đồng dao là chuyện tháng năm
                  Lời ru của mẹ
                  Trăng rằm thảnh thơi
                  Biết tìm bạn quý mà chơi
                  Học ăn học nói làm người siêng năng

                  Hiểu nhàn biết đủ thời an
                  Thung dung minh triết thanh nhàn thảnh thơi
                  Người sung sướng biết sống vui
                  Những người hiếu hạnh được đời yêu thương.

                  Việc chính là học làm người
                  Khắc sâu nhân nghĩa nhớ đời đừng quên
                  Hiếu trung phải học đầu tiên
                  Đừng tham tưởng bở mà quên ân tình.

                  Đừng tưởng cứ đẹp là tiên
                  Cứ trên là sáng cứ tiền là xong
                  Đừng tưởng không nói là câm
                  Không nghe tưởng điếc không trông tưởng mù

                  Đừng tưởng cứ trọc là sư
                  Cứ vâng là chịu cứ ừ là ngoan
                  Đừng tưởng có của là sang
                  Cứ im lặng tưởng là vàng nguyên cây.

                  Đừng tưởng cứ uống là say
                  Tai trâu đàn gẩy lời hay ham bàn
                  Đừng tưởng giàu hết gian tham
                  Không thời chẳng vận lạm bàn chuyện dân

                  Đừng tưởng cứ mới là tân
                  Cứ hứa là chắc cứ ân là tình
                  Đừng tưởng cứ thấp là khinh
                  Cứ chùa là tĩnh cứ đình là to.

                  Đừng tưởng già hết hồ đồ
                  Cứ trẻ là chẳng âu lo buồn phiền
                  Đừng tưởng cứ quyết là nên
                  Cứ mạnh là thắng cứ mềm là thua.

                  Đừng tưởng đã dấm là chua
                  Sấm rền là sẽ có mưa ngập trời
                  Đừng tưởng vui chỉ có cười
                  Buồn thì ủ rũ chỉ ngồi khóc than

                  Đừng tưởng cứ lớn là khôn
                  Cứ bé là dại cứ hôn là chồng
                  Đừng tưởng bịa có thành không
                  Nhìn gà hóa cuốc lẫn ông với thằng

                  Lúc vui tham bát bỏ mâm
                  Đến khi hoạn nạn tần mần bỏ đi
                  Đừng tưởng không nhất thì nhì
                  Phò thịnh sung sướng giúp suy nghèo hèn

                  Gặp trăng thì vội quên đèn
                  Hám tiền quên nghĩa đỏ đen lạc đường
                  Đừng tưởng giàu hết cô đơn
                  Cao sang hết ốm gian tham hết nghèo.

                  Đừng tưởng cứ núi là cao
                  Cứ sông là chảy, cứ ao là tù
                  Đừng tưởng cứ dưới là ngu
                  Tham giành là được thấy tu tưởng hiền.

                  Đừng tưởng cứ thấp là hèn
                  Cứ sang là trọng cứ tiền là xong
                  Đừng tưởng quan chức là rồng
                  Dân thường thấp cổ thì không biết gì.

                  Đời người lúc thịnh lúc suy
                  Lúc khỏe lúc yếu lúc đi lúc dừng
                  Đắng cay chua ngọt đã từng
                  Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau.

                  Ở đời nhân nghĩa làm đầu
                  Thủy chung sau trước tình sâu nghĩa bền
                  Học làm người việc đầu tiên
                  Hiếu trung phúc hậu đừng quên nối vần

                  “Lênh đênh qua cửa Thần Phù
                  Khéo tu thì nổi , vụng tu thì chìm”
                  “Người trồng cây hạnh mà chơi
                  Ta trồng cây đức để đời mai sau”


                  xem tiếp
                  https://hoangkimlong.wordpress.com/category/chuyen-dong-dao-cho-em/

                  NGUYỄN DU THỜI NHÀ NGUYỄN
                  Hoàng Kim
                  7
                  Nguyễn Du thời Nhà Nguyễn

                  Mười tám năm làm quan
                  Chính sửBài tựa
                  Gia phả với luận bàn
                  Truyện KiềuBắc hành

                  Nguyễn Du 55 năm cuộc đời chia làm hai thời kỳ Nguyễn Du thời Tây Sơn (1766-1802) và Nguyễn Du thời Nhà Nguyễn (1802-1820). Nguyễn Du thời Tây Sơn (xem chi tiết kèm theo dưới đây) có Mười lăm năm tuổi thơ (1766 – 1780), Mười lăm năm lưu lạc (1781 – 1796), Năm năm thời Hồng Sơn Liệp Hộ (1797- 1802). có 18 năm từ lúc Ông bắt đầu ra làm quan nhà Nguyễn (1802) gồm 18 năm Nguyễn Du thời Nhà Nguyễn từ năm 1802 cho tới lúc ông mất (1820).

                  Tóm tắt
                  Nguyễn Du thời Tây Sơn (1766-1802) gồm có bốn sự kiện chính nổi bật, ngày nay sử liệu đã hoàn toàn sáng tỏ, có đủ chứng cứ sự thật chứng thực.1) Quang Trung phá quân Thanh năm Kỷ Dậu 1789; 2) Nguyễn Vương bình Gia Định nhờ lợi dụng tình thế ngay đúng năm ấy; 3) Nguyễn Du xây đền Trung Liệt cho nhà Hậu Lê tại Thăng Long và tu bổ phần mộ tổ tiên Họ Nguyễn Tiên Điền từ năm 1793 đến 1795. (Thời điểm 1792- 1793 là lúc 3 vị vua Nguyễn Huệ, Nguyễn Nhạc, Lê Chiêu Thống đều mất; Nguyễn Du xây đền Trung Liệt cho các trung thần nghĩa sĩ thời hậu Lê đã được thực hiện từ năm 1793 vã hoàn thành khoảng đầu năm 1795. Vua Lê Chiêu Thống qua đời tại Bắc Kinh năm 1793 nhưng tro cốt của ông được đưa về Việt Nam năm 1804 và chôn ở Thanh Hóa quê hương của tổ tiên ông Cương mục quyển XI .VII trang 48a, trích dẫn từ Chính sử triều Nguyễn; nguồn dẫn khác theo Lê Thành Khôi ‘Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến giữa thế kỷ 20’, trang 386); 4) Nguyễn Du làm Nam Hải Điếu Đồ (1791-1796) và Hồng Sơn Liệp Hộ (1797- 1802) Thời Nguyễn Du làm Hồng Sơn Liệp Hộ (Người đi săn ở núi Hồng), Nguyễn Du sống chủ yếu ở Nghệ Tĩnh.

                  Tóm tắt Nguyễn Du thời Nhà Nguyễn (1802-1820): gồm có sáu sự kiện chính nổi bật: 1) Nguyễn Du gặp vua Gia Long năm 1802 khi vua Gia Long ra Bắc và Nguyễn Du được bổ nhiệm ngay làm quan tri huyện Phù Dung (1802), 2) Nguyễn Du làm quan nhà Nguyễn có chính tích, được lưu trong Chính sử Nhà Nguyễn (1) gồm: tri phủ Thường Tín (1803) cai bạ Quảng Bình (1804-1805), 3) Nguyễn Du được thăng Đông Các học sĩ, hàm ngũ phẩm, tước Du Đức hầu, ông vào nhậm chức cần chánh điện đại học sĩ, chức vụ dâng sách cho vua Gia Long đọc mỗi ngày. (1805- 1812), 4) Nguyễn Du làm quan Chánh sứ đi sứ nhà Thanh (1813-1814); 5) Nguyễn Du sau khi đi sứ thành công trở về được nghỉ phép ở quê sáu tháng, Trong thời gian này, Nguyễn Du đã hoàn thiện tập thơ Truyện Kiều chữ Nôm và Bắc Hành chữ Hán (gồm “Bắc hành tạp lục” 132 bài, “Nam trung tạp ngâm” 16 bài “Thanh Hiên thi tập” 78 bài). 6) Nguyễn Du vào Huế nhậm chức Hữu Tham tri Bộ Lễ (1815-1820) và chết ở Huế năm 1820. Thông tin chi tiết tại
                  Nguyễn Du niên biểu luận, Nguyễn Du thời Nhà Nguyễn (1802-1820)

                  MƯỜI TÁM NĂM LÀM QUAN
                  Năm Nhâm Tuất (1802), Nguyễn Du 37 tuổi

                  Nguyễn Vương sau khi thu phục Phú Xuân ngày mồng 3 tháng 5 năm Tân Dậu (1801) vào thành Phú Xuân treo biển yên dân, rồi sai Lê Chất đem bộ binh đuổi đánh Tây Sơn, lại sai Nguyễn Văn Trương đem thủy binh ra chặn ở Linh Giang, Lưu Phúc Tường đem quân đi đường Cam Lộ sang hợp với Vạn Tượng để chặn giữ các đường hiểm yếu ở Lào; Quân Nguyễn sau qua sông Gianh đã tiến đánh quân Tây Sơn hạ được đồn Tâm Hiệu thuộc châu Bố Chính. Quân Tây Sơn tan vỡ, chạy về doanh Hà Trung trong hạt Kỳ Anh. Thuyền quân của Nguyễn Văn Trương ra tới Linh Giang thì vua Quang Toản đã chạy thoát ra Bắc.

                  Vua Quang Toản thua trận Phú Xuân vội cùng em là Thái tể Quang Thiệu, Nguyên soái Quang Khanh, Tư mã Tứ, đô đốc Trù lên ngựa chạy miết ngày đêm về Đồng Hới, vượt sông Giang, đi đường tắt ra trấn thành Nghệ An, đổi ngưa trạm chạy ra Thanh Hoa, sai quân báo trước cho em là Quang Thùy trấn thủ Bắc Hà đưa quân vào đón. Về đến Bắc thành, vua Quang Toản vào ở lại phủ đệ của Quang Thùy bàn ngay việc khôi phục.Quang Toản cho đổi niên hiệu là Bảo Hưng, xuống chiếu tự ăn năn hối lỗi, tăng phẩm vật cho các quan lại, vỗ về dân chúng đang bị lụt ngập sâu nhiều nơi, lập đàn tế cầu phúc ở Hồ Tây, đắp đàn tế xã tắc ở Ô Chợ Dừa, thăm khóa sinh ở nhà Quốc Tử Giám, sai Nguyễn Đăng Sở sang sứ nhà Thanh xin tăng binh lực ở biên giới để gây thanh thế. Sau đó vua Quang Toản sai Quang Thùy điểm binh mã đi trước, để Quang Thiệu Quang Khanh ở lại trấn thủ Bắc Thành rồi tự mình đốc suất quân bốn trấn và ba vạn quân Thanh Nghệ tiến vào Nam. Đô đốc Bùi Thị Xuân dẫn năm ngàn quân thủ hạ cùng đi theo vua (Ngô Giáp Đậu, Hoàng Việt Hưng Long chí 1904 chữ Hán, 1993 tiếng Việt,328-329) -.

                  Nguyễn Vương chú trọng đề phòng viện binh của Nguyễn Quang Diệu và Vũ Văn Dũng đang vây đánh Bình Định sẽ đánh ngược ra Phú Xuyên nên ủy việc quân thứ ở Vân Sơn cho Nguyễn Văn Thành điều khiển, việc quân thứ Thanh Hiếu ủy cho Lê Văn Duyệt điều khiển, phong cho Nguyễn Văn Thành chức Khâm sai chưởng Tiền quân dinh Bình Tây đại tướng quân, tước Thành Quân công, quản việc quân ở Nam đạo, chỉ huy tướng sĩ vây đánh Nguyễn Quang Diệu và Võ Văn Dũng ở mặt Nam không cho tiếp ứng với mặt Bắc, lại phong cho Nguyễn Văn Trương chức Khâm sai chưởng Trung quân dinh bình Tây đại tướng quân, tước Quận công tiết chế, cai quản việc quân ở Bắc đạo, chỉ huy tướng sĩ đánh quân Nguyễn Quang Toản. Nhân đó, Nguyễn Vương nói cùng Nguyễn Văn Trương: “Tuy quân ta có thể thừa cơ đánh lấy Bắc Hà nhưng hiện nay đang là mùa mưa, nếu cho quân đi đường bộ thì việc tiếp tế quân nhu gặp khó khăn nên khanh cho binh thuyền tham ứng cho Ngô Đức Tuấn ở Biện Sơn (thuộc huyện Ngọc Sơn xứ Thanh Hoa) còn quân bộ thì chặn giữ ở Hoành Sơn để ghìm quân địch, chờ dân chúng các nơi nổi dậy ứng nghĩa thì việc đánh lấy Bắc Kỳ mới thuận lợi, Nay trong quân Tây Sơn thì Quang Diệu và Văn Dũng là hai tướng giỏi nhất , phải chờ lấy được thành Bình Định thì (ta) mới đem quân ra Bắc được”.(Ngô Giáp Đậu 1899, Sđd, trang 324).

                  Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng đang vây đánh thành Quy Nhơn rất ngặt, nghe tin Phú Xuân thất thủ, liền sai tướng đem quân ra cứu, nhưng ra đến Quảng Nam gặp quân Lê Văn Duyệt kéo vào đánh chặn đường. Quân Tây Sơn phải lùi trở lại. Từ đó, Trần Quang Diệu ngày đêm hết sức dốc quân đánh thành. Quân Nguyễn Vương ở trong thành hết cả lương thực phải thịt cả voi ngưa chiến để ăn, không thể chống cự được nữa . Võ Tánh tướng giữ thành bèn viết thư sai người đưa ra Trần Quang Diệu nói rằng “Phận sự ta làm chủ tướng thì đành liều chết dưới cờ. Còn các tướng sĩ không có tội gì không nên giết hại”. Đoạn rồi sai người lấy rơm cỏ chất ở dưới lầu bát giác tự đốt mà chết. Quan hiệp trấn Ngô Tòng Chu cũng đã uống thuốc độc đi trước ông (tháng thứ năm năm 1801). Đặng Đức Siêu sau này có viết một điếu văn kiệt tác để tế lễ tôn vinh sự quả cảm này (Lê Thành Khôi 2014, Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến giữa thế kỷ XX, trang 397, nguồn Đại Nam liệt truyện, XXX, trang Ab; Đại Nam thực lục chính biên, q. 18, trang 6).

                  Trần Quang Diệu vào thành Quy Nhơn tha cho cả bọn tướng sĩ và sai làm lễ liệm táng Võ Tánh với Ngô Tòng Chu rồi sai đại đô đốc Trương Phúc Phượng và tư khấu Định đem binh theo đường thượng đạo ra đánh Phú Xuân .Trương Phúc Phượng đi được nửa đường thì quân bị vây đánh hết lương,về hàng nhà Nguyễn, còn tư khấu Định thì đánh thua chạy vào chết ở trong Mường. Trần Quang Diệu lại sai Lê Văn Điềm vào đánh Phú Yên để đảm bảo lương thực cho quân lương nhưng cũng không được vì Nguyễn Văn Thành xin Nguyễn Vương cử Nguyễn Huỳnh Đức Nguyễn Đức Xuyên đưa viện bình theo đường thủy vào tiếp ứng . Trần Quang Diệu tuy lấy được thành Quy Nhơn nhưng ba mặt đều thụ địch Lê Văn Duyệt và Lê Chất ở Quảng Nam, Quảng Ngãi đánh vào, Nguyễn Văn Thành từ cửa Thị Nại đánh lên Tống Viết Phước, Nguyễn Huỳnh Đức Nguyễn Đức Xuyên từ Phú Yên đánh ra.

                  Nguyễn Vương sau khi thu phục Phú Yên và giành thắng đượcở mặt Bắc, muốn làm nao núng lòng quân Tây Sơn ở thành Bình Đình, nên đã lập tức đưa các tướng Tây Sơn bị thua trận dến cho Nguyễn Văn Thành đem đi diễu trước cửa thành Bình Định để tướng sĩ Tây Sơn tận mắt nhìn thấy mà nản lòng. Tướng Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng lại nhân lúc quân Nam đang thiếu lương thực chưa kịp tiếp vận để tung quân đánh lớn ra hướng Phú Xuân, đồng thời cho người mang mật thư ra cho Quang Toản hẹn Quang Toản sớm đem binh Bắc Hà vào Quảng Bình hợp binh hai mặt đánh kẹp lại. Đại quân Tây Sơn của Trần Quang Diệu vừa ra khỏi địa giới Quy Nhơn thì đã bị các tướng Nguyễn là Lê Văn Duyệt và Lê Chất chặn đánh. Quân của Trần Quang Diệu đánh phá nửa ngày nhưng không thể hạ được với vô số người chết và bị thương. Người mang mật thư ra cho Quang Toản lại để lộ mưu kế cho đại đô đốc Nguyễn Văn Xuân của vua Quang Toản. Vì Nguyễn Văn Xuân bại trận dưới tay Nguyễn Văn Trương nên Xuân không còn được Quang Toản tin dùng. Xuân hàng Lê Văn Duyệt và mật kế này bị tiết lộ quân tình cho Nguyễn Vương điều động binh lực

                  Nguyễn Văn Trương là đại tướng giữ mặt Bắc của quân Nguyễn Vương thấy quân Tây Sơn thế mạnh, nên đã cùng Tống Phước Lương và Đặng Trần Thường tổ chức chặn đánh và lui dần từng bước, giữ binh lực từ Hoành Sơn, Linh Giang về phòng giữ ở lũy Thầy Trấn Ninh Đồng Hới để dụ địch vào sâu nuôi khí kiệu và chờ đại quân ra tiếp ứng. Nguyễn Vương được cấp báo, laq65p tức giao việc trấn thủ kinh thành Phú Xuân cho quốc thúc Tôn Thất Thăng, còn tự mình thân chinh đem đại binh tiến từ Quy Nhơn ra Đồng Hới thì dừng lại chia quân dựng đồn lũy đóng giữ . Nguyễn Vương gọi Nguyễn Văn Trương đến hành cung hỏi mưu kế. Nguyễn Văn Trương tâu: “Quân Quang Toản đang tiến sâu vào, bên ta cứ cố thủ giữ thành, chờ khi đường biển gió thuận sẽ cho thủy binh tiến đánh chiến thuyền Tây Sơn và tiến thẳng vào sông Gianh chặn đường rút lui của bộ binh địch, khiến chúng không mảnh giáp mà về” . Nguyễn Vương y theo kế ấy, sai Nguyễn Văn Trương thống lĩnh cánh quân thủy, sai Phạm Văn Nhơn và Đặng Trần Thường thống lĩnh quân bộ chia đường đón đánh quân bộ Tây Sơn.

                  Trận Trấn Ninh là trận đánh quyết định của Nhà Nguyễn và Nhà Tây Sơn. Nhà Nguyễn sau này khi luận công đã xác định chuỗi chiến dịch hai năm 1801-1802 làm sụp đỗ nhà Tây Sơn thì trận Trấn Ninh là trận then chốt cùng với trận hải chiến Thị Nại

                  Nguyên Lũy Thầy Trấn Ninh là kế sách xưa của quan Nội tán Đào Duy Từ thuộc thời chúa Nguyễn Phúc Nguyên. Kế ấy là nhà Nguyễn muốn Nam tiến thành công phải khóa được quân Trịnh ở mặt Bắc bằng hệ thống phòng thủ chiều sâu liên hoàn ba tầng gồm Hoành Sơn, Linh Giang và Lũy Thầy. Quân Trịnh vượt qua được hai tầng phòng thủ bên ngoài, khi đến tầng thứ ba là lũy Thầy thì như viên đạn đuối tầm không còn sức công phá nữa. Thời Nguyễn Vương đã khéo vận dụng kế sách ấy để thủ thắng kết hợp với liên hoàn kế vây chặt hại tướng tài Nguyễn Quang Diệu và Vũ Văn Dũng ở thành Bình Định, phái tướng giỏi Nguyễn Văn Thụy và Lưu Phúc Tường đem quân Vạn Tượng sang đánh phá ở Nghệ An, dùng phiên thần Hà Công Thái khởi binh giúp nhà Nguyễn ở Thanh Hóa, ở Hưng Hóa thì thổ ty Phan Bá Phùng nổi lên quấy rối, ở nội bộ Tây Sơn thì dùng kế li gián vua tôi chia rẽ các tướng và lôi kéo những người có mâu thuẩn, ở trấn Bắc Hà thì gieo rắc sự oán ghét nhà Tây Sơn, đối với nhà Thanh thì theo kế Đặng Trần Thường gây ngờ vực đối với nhà Tây Sơn

                  Trận Trấn Ninh bắt đầu từ đêm ba mươi Tết Nhâm Tuất (1802) Quan quang Toản vượt sông Gianh. Ngày mồng một Tết, Nguyễn Quang Thùy và Tổng quản Siêu tiến đánh lũy Trấn Ninh, Đô đốc Tuyết, đô đốc Kiên đánh đồn quân ở núi Đầu Mâu, đô đốc Đằng , đô đốc Lực cùng hải quân Tề Ngỗi hơn hai trăm chiếc vây đáy cửa Nhật Lệ . Quân hai bên giao chiến dữ dội, Quân Nam giữ đồn lợi thế thành lũy chắc, có súng lớn, thế trên cao, lại có chuẩn bị kỹ nên quân Bắc của vua Quang Toản công thành từ sáng sớm đến trưa vẫn không phá vỡ được. Quân Quang Toản chết và bị thương quá nhiều Quang Toản đã muốn lui quân nhưng tướng Bùi Thị Xuân một mực xin đánh, tự mình cưỡi voi đốc suất quân sĩ xông lên tử chiến. Đến lúc thủy quân của Nguyễn Văn Trương thuật gió đông bắc đánh thắng hải thuyền Tây Sơn và theo kế đã định tiến thẳng vào sông Gianh, theo nguồn Son đánh tập hậu chặn đường rút lui của bộ binh Tây Sơn. Quang Toản hoảng sợ phải vội rút quân . Bình lực tan nát, tàn quân rút chạy về Bắc.Việc vây đánh cánh quân cô độc của Nguyễn Quang Diệu và Võ Văn Dũng không nói đến nữa . Bên quân Nguyễn Vương, ở mặt Bắc, khi quân Tây Sơn mới vào đến đèo Ngang, phó tướng Nguyễn Kế Nhuận và Tôn Thất Hoảng ham đánh, đã làm cho Tôn Thất Hoảng bị rơi vào trận địa Tây Sơn tại Kỳ Anh và bị giết .Nguyễn Kế Nhuận bị Nguyễn Vương xử chém theo quân pháp khinh địch thua trận . ở mặt Nam, Tống Viết Phước bị giết tại hang Dơi do khinh suất bị quân Tây Sơn của Từ Văn Chiêu bắt sống.và bị Từ Văn Chiêu chém chết vì căm sự làm nhục trước đó

                  Tháng 5 năm Nhâm Tuất (1802), Nguyễn Ánh hạ chiếu đổi niên hiệu làm năm đầu niên hiệu Gia Long. Nguyễn Quang Diệu và Võ Văn Dũng ở thành Bình Định thế cô nên đã bí mật đem quân theo đường núi chạy sang Ai Lao và cướp đường chạy ra Bắc. Được tin này, Nguyễn Vương lập tức cắt đặt các tướng thống lĩnh các đạo quân thuỷ bộ tiến nhanh ra Bắc không để cho hai danh tướng này kịp về nắm lại binh quyền.. Ngày 28 tháng 5, thuỷ quân của nhà Nguyễn tới cửa biển Đan Nhai thuộc Nghệ An, tiến đánh và phá được đồn Quần Mộc. Quân bộ cũng tiến đến phía nam sông Thanh Long rồi vượt sang bờ phía Bắc. Hai mặt thuỷ bộ đều tiến công, quân Tây Sơn bỏ chạy tán loạn. Quân nhà Nguyễn bèn xông lên cướp kho thóc Kỳ Lân. Trấn thủ của nhà Tây Sơn là Nguyễn Văn Thận cùng với hiệp trấn Nguyễn Triêm, thống lĩnh Nguyễn Văn Đại, thiếu uý Đặng Văn Đằng bỏ thành chạy ra miền Bắc. Đến đồn Tiên Lý, Nguyễn Triêm tự thắt cổ; còn Nguyễn Văn Thận chạy ra trấn Thanh Hoa. Quân nhà Nguyễn lấy được thành Nghệ An. Trần Quang Diệu ở Quỳ Hợp xuống đến địa phận Hương Sơn thì nghe tin Nghệ An đã thất thủ, bèn đến Thanh Chương, qua sông Thanh Long,  rồi chạy ra trấn Thanh Hoa. Tướng sĩ đi theo Diệu dần dần tản mát mỗi người một nơi. Quân nhà Nguyễn đuổi kịp, bắt sống được Diệu. Tháng 6, quân nhà Nguyễn tiến đánh thành Thanh Hoa. Em vua Quang Toản là đốc trấn Nguyễn Quang Bàn cùng Nguyễn Văn Thận, Đặng Văn Đằng đều đầu hàng. Ngày 18, Nguyễn Ánh tiến ra Thăng Long, quân Tây Sơn hoàn toàn tan vỡ. Nguyễn Quang Toản bỏ thành cùng với em là Nguyễn Quang Thùy và đô đốc Tú qua sông Nhĩ Hà chạy về hướng bắc. Sau đó, Quang Thùy và vợ chồng Tú đều tự thắt cổ. Còn vua cùng các bề tôi đều bị thổ hào Kinh Bắc bắt được đóng cũi giao nộp cho Nguyễn Ánh. Quan lại của nhà Tây Sơn ở các trấn hoặc trốn, hoặc hàng, không ai dám chống lại. Vua Gia Long vài tháng sau về lại Phú Xuân, sửa lễ cáo miếu dâng tù, đem Nguyễn Quang Toản ra dùng cực hình giết chết, rồi bố cáo cho khắp cả nước đều biết. Quang Toản cùng những người con khác của anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ đều bị Gia Long sai dùng cực hình 5 voi xé xác. Nguyễn Huệ, Nguyễn Nhạc cũng bị trả thù rất dã man: Mồ mả bị khai quật, hài cốt bị giã nát vứt đi; đầu lâu của Nhạc, Huệ, Toản và mộc chủ của vợ chồng Nguyễn Huệ đều bị giam ở nhà Đồ Ngoại, sau lại đưa vào cấm cố vĩnh viễn trong ngục thất (Nơi ấy, ngày nay thuộc địa điểm
                  Trường Đại học Nông Lâm Huế). Quang Toản khi bị hành hình, mới 19 tuổi. Triều đại Tây Sơn chấm dứt.

                  Khi vua Gia Long ra Bắc truy lùng vua Tây Sơn Cảnh Thịnh, hải thuyền của vua tới Phù Dung Biện Sơn Hải Dương thì Nguyễn Du đã đợi sẵn.ở đấy Nguyễn Du dẫn học trò, tráng đinh mang lương thực, bò, ngựa từ Quỳnh Hải đến đón đường gặp vua Gia Long, và gặp, tại nơi này. Vua Gia Long phong ngay cho Nguyễn Du làm tri huyện Phù Dung. nên Nguyễn Du có danh hiệu là Phi Tử, Việc này tương tự với Phi Tử đời Chiến Quốc dâng ngựa cho vua Chu Hiếu Vương được chức Phù Dung, Nguyễn Hành bài Đi Săn có nhắc đến danh hiệu này.

                  Năm Nhâm Tuất (1802), Nguyễn Du 37 tuổi

                  Nguyễn Vương sau khi thu phục Phú Xuân ngày mồng 3 tháng 5 năm Tân Dậu (1801) vào thành Phú Xuân treo biển yên dân, rồi sai Lê Chất đem bộ binh đuổi đánh Tây Sơn, lại sai Nguyễn Văn Trương đem thủy binh ra chặn ở Linh Giang, Lưu Phúc Tường đem quân đi đường Cam Lộ sang hợp với Vạn Tượng để chặn giữ các đường hiểm yếu ở Lào; Quân Nguyễn sau qua sông Gianh đã tiến đánh quân Tây Sơn hạ được đồn Tâm Hiệu thuộc châu Bố Chính. Quân Tây Sơn tan vỡ, chạy về doanh Hà Trung trong hạt Kỳ Anh. Thuyền quân của Nguyễn Văn Trương ra tới Linh Giang thì vua Quang Toản đã chạy thoát ra Bắc.

                  Vua Quang Toản thua trận Phú Xuân vội cùng em là Thái tể Quang Thiệu, Nguyên soái Quang Khanh, Tư mã Tứ, đô đốc Trù lên ngựa chạy miết ngày đêm về Đồng Hới, vượt sông Giang, đi đường tắt ra trấn thành Nghệ An, đổi ngưa trạm chạy ra Thanh Hoa, sai quân báo trước cho em là Quang Thùy trấn thủ Bắc Hà đưa quân vào đón. Về đến Bắc thành, vua Quang Toản vào ở lại phủ đệ của Quang Thùy bàn ngay việc khôi phục.Quang Toản cho đổi niên hiệu là Bảo Hưng, xuống chiếu tự ăn năn hối lỗi, tăng phẩm vật cho các quan lại, vỗ về dân chúng đang bị lụt ngập sâu nhiều nơi, lập đàn tế cầu phúc ở Hồ Tây, đắp đàn tế xã tắc ở Ô Chợ Dừa, thăm khóa sinh ở nhà Quốc Tử Giám, sai Nguyễn Đăng Sở sang sứ nhà Thanh xin tăng binh lực ở biên giới để gây thanh thế. Sau đó vua Quang Toản sai Quang Thùy điểm binh mã đi trước, để Quang Thiệu Quang Khanh ở lại trấn thủ Bắc Thành rồi tự mình đốc suất quân bốn trấn và ba vạn quân Thanh Nghệ tiến vào Nam. Đô đốc Bùi Thị Xuân dẫn năm ngàn quân thủ hạ cùng đi theo vua (Ngô Giáp Đậu, Hoàng Việt Hưng Long chí 1904 chữ Hán, 1993 tiếng Việt,328-329) -.

                  Nguyễn Vương chú trọng đề phòng viện binh của Nguyễn Quang Diệu và Vũ Văn Dũng đang vây đánh Bình Định sẽ đánh ngược ra Phú Xuyên nên ủy việc quân thứ ở Vân Sơn cho Nguyễn Văn Thành điều khiển, việc quân thứ Thanh Hiếu ủy cho Lê Văn Duyệt điều khiển, phong cho Nguyễn Văn Thành chức Khâm sai chưởng Tiền quân dinh Bình Tây đại tướng quân, tước Thành Quân công, quản việc quân ở Nam đạo, chỉ huy tướng sĩ vây đánh Nguyễn Quang Diệu và Võ Văn Dũng ở mặt Nam không cho tiếp ứng với mặt Bắc, lại phong cho Nguyễn Văn Trương chức Khâm sai chưởng Trung quân dinh bình Tây đại tướng quân, tước Quận công tiết chế, cai quản việc quân ở Bắc đạo, chỉ huy tướng sĩ đánh quân Nguyễn Quang Toản. Nhân đó, Nguyễn Vương nói cùng Nguyễn Văn Trương: “Tuy quân ta có thể thừa cơ đánh lấy Bắc Hà nhưng hiện nay đang là mùa mưa, nếu cho quân đi đường bộ thì việc tiếp tế quân nhu gặp khó khăn nên khanh cho binh thuyền tham ứng cho Ngô Đức Tuấn ở Biện Sơn (thuộc huyện Ngọc Sơn xứ Thanh Hoa) còn quân bộ thì chặn giữ ở Hoành Sơn để ghìm quân địch, chờ dân chúng các nơi nổi dậy ứng nghĩa thì việc đánh lấy Bắc Kỳ mới thuận lợi, Nay trong quân Tây Sơn thì Quang Diệu và Văn Dũng là hai tướng giỏi nhất , phải chờ lấy được thành Bình Định thì (ta) mới đem quân ra Bắc được”.(Ngô Giáp Đậu 1899, Sđd, trang 324).

                  Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng đang vây đánh thành Quy Nhơn rất ngặt, nghe tin Phú Xuân thất thủ, liền sai tướng đem quân ra cứu, nhưng ra đến Quảng Nam gặp quân Lê Văn Duyệt kéo vào đánh chặn đường. Quân Tây Sơn phải lùi trở lại. Từ đó, Trần Quang Diệu ngày đêm hết sức dốc quân đánh thành. Quân Nguyễn Vương ở trong thành hết cả lương thực phải thịt cả voi ngưa chiến để ăn, không thể chống cự được nữa . Võ Tánh tướng giữ thành bèn viết thư sai người đưa ra Trần Quang Diệu nói rằng “Phận sự ta làm chủ tướng thì đành liều chết dưới cờ. Còn các tướng sĩ không có tội gì không nên giết hại”. Đoạn rồi sai người lấy rơm cỏ chất ở dưới lầu bát giác tự đốt mà chết. Quan hiệp trấn Ngô Tòng Chu cũng đã uống thuốc độc đi trước ông (tháng thứ năm năm 1801). Đặng Đức Siêu sau này có viết một điếu văn kiệt tác để tế lễ tôn vinh sự quả cảm này (Lê Thành Khôi 2014, Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến giữa thế kỷ XX, trang 397, nguồn Đại Nam liệt truyện, XXX, trang Ab; Đại Nam thực lục chính biên, q. 18, trang 6).

                  Trần Quang Diệu vào thành Quy Nhơn tha cho cả bọn tướng sĩ và sai làm lễ liệm táng Võ Tánh với Ngô Tòng Chu rồi sai đại đô đốc Trương Phúc Phượng và tư khấu Định đem binh theo đường thượng đạo ra đánh Phú Xuân .Trương Phúc Phượng đi được nửa đường thì quân bị vây đánh hết lương,về hàng nhà Nguyễn, còn tư khấu Định thì đánh thua chạy vào chết ở trong Mường. Trần Quang Diệu lại sai Lê Văn Điềm vào đánh Phú Yên để đảm bảo lương thực cho quân lương nhưng cũng không được vì Nguyễn Văn Thành xin Nguyễn Vương cử Nguyễn Huỳnh Đức Nguyễn Đức Xuyên đưa viện bình theo đường thủy vào tiếp ứng . Trần Quang Diệu tuy lấy được thành Quy Nhơn nhưng ba mặt đều thụ địch Lê Văn Duyệt và Lê Chất ở Quảng Nam, Quảng Ngãi đánh vào, Nguyễn Văn Thành từ cửa Thị Nại đánh lên Tống Viết Phước, Nguyễn Huỳnh Đức Nguyễn Đức Xuyên từ Phú Yên đánh ra.

                  Nguyễn Vương sau khi thu phục Phú Yên và giành thắng đượcở mặt Bắc, muốn làm nao núng lòng quân Tây Sơn ở thành Bình Đình, nên đã lập tức đưa các tướng Tây Sơn bị thua trận dến cho Nguyễn Văn Thành đem đi diễu trước cửa thành Bình Định để tướng sĩ Tây Sơn tận mắt nhìn thấy mà nản lòng. Tướng Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng lại nhân lúc quân Nam đang thiếu lương thực chưa kịp tiếp vận để tung quân đánh lớn ra hướng Phú Xuân, đồng thời cho người mang mật thư ra cho Quang Toản hẹn Quang Toản sớm đem binh Bắc Hà vào Quảng Bình hợp binh hai mặt đánh kẹp lại. Đại quân Tây Sơn của Trần Quang Diệu vừa ra khỏi địa giới Quy Nhơn thì đã bị các tướng Nguyễn là Lê Văn Duyệt và Lê Chất chặn đánh. Quân của Trần Quang Diệu đánh phá nửa ngày nhưng không thể hạ được với vô số người chết và bị thương. Người mang mật thư ra cho Quang Toản lại để lộ mưu kế cho đại đô đốc Nguyễn Văn Xuân của vua Quang Toản. Vì Nguyễn Văn Xuân bại trận dưới tay Nguyễn Văn Trương nên Xuân không còn được Quang Toản tin dùng. Xuân hàng Lê Văn Duyệt và mật kế này bị tiết lộ quân tình cho Nguyễn Vương điều động binh lực

                  Nguyễn Văn Trương là đại tướng giữ mặt Bắc của quân Nguyễn Vương thấy quân Tây Sơn thế mạnh, nên đã cùng Tống Phước Lương và Đặng Trần Thường tổ chức chặn đánh và lui dần từng bước, giữ binh lực từ Hoành Sơn, Linh Giang về phòng giữ ở lũy Thầy Trấn Ninh Đồng Hới để dụ địch vào sâu nuôi khí kiệu và chờ đại quân ra tiếp ứng. Nguyễn Vương được cấp báo, laq65p tức giao việc trấn thủ kinh thành Phú Xuân cho quốc thúc Tôn Thất Thăng, còn tự mình thân chinh đem đại binh tiến từ Quy Nhơn ra Đồng Hới thì dừng lại chia quân dựng đồn lũy đóng giữ . Nguyễn Vương gọi Nguyễn Văn Trương đến hành cung hỏi mưu kế. Nguyễn Văn Trương tâu: “Quân Quang Toản đang tiến sâu vào, bên ta cứ cố thủ giữ thành, chờ khi đường biển gió thuận sẽ cho thủy binh tiến đánh chiến thuyền Tây Sơn và tiến thẳng vào sông Gianh chặn đường rút lui của bộ binh địch, khiến chúng không mảnh giáp mà về” . Nguyễn Vương y theo kế ấy, sai Nguyễn Văn Trương thống lĩnh cánh quân thủy, sai Phạm Văn Nhơn và Đặng Trần Thường thống lĩnh quân bộ chia đường đón đánh quân bộ Tây Sơn.

                  Trận Trấn Ninh là trận đánh quyết định của Nhà Nguyễn và Nhà Tây Sơn. Nhà Nguyễn sau này khi luận công đã xác định chuỗi chiến dịch hai năm 1801-1802 làm sụp đỗ nhà Tây Sơn thì trận Trấn Ninh là trận then chốt cùng với trận hải chiến Thị Nại

                  Nguyên Lũy Thầy Trấn Ninh là kế sách xưa của quan Nội tán Đào Duy Từ thuộc thời chúa Nguyễn Phúc Nguyên. Kế ấy là nhà Nguyễn muốn Nam tiến thành công phải khóa được quân Trịnh ở mặt Bắc bằng hệ thống phòng thủ chiều sâu liên hoàn ba tầng gồm Hoành Sơn, Linh Giang và Lũy Thầy. Quân Trịnh vượt qua được hai tầng phòng thủ bên ngoài, khi đến tầng thứ ba là lũy Thầy thì như viên đạn đuối tầm không còn sức công phá nữa. Thời Nguyễn Vương đã khéo vận dụng kế sách ấy để thủ thắng kết hợp với liên hoàn kế vây chặt hại tướng tài Nguyễn Quang Diệu và Vũ Văn Dũng ở thành Bình Định, phái tướng giỏi Nguyễn Văn Thụy và Lưu Phúc Tường đem quân Vạn Tượng sang đánh phá ở Nghệ An, dùng phiên thần Hà Công Thái khởi binh giúp nhà Nguyễn ở Thanh Hóa, ở Hưng Hóa thì thổ ty Phan Bá Phùng nổi lên quấy rối, ở nội bộ Tây Sơn thì dùng kế li gián vua tôi chia rẽ các tướng và lôi kéo những người có mâu thuẩn, ở trấn Bắc Hà thì gieo rắc sự oán ghét nhà Tây Sơn, đối với nhà Thanh thì theo kế Đặng Trần Thường gây ngờ vực đối với nhà Tây Sơn

                  Trận Trấn Ninh bắt đầu từ đêm ba mươi Tết Nhâm Tuất (1802) Quan quang Toản vượt sông Gianh. Ngày mồng một Tết, Nguyễn Quang Th&Xem tiếp >>

                    Dạy và học 4 tháng 7(04-07-2021)


                  DẠY VÀ HỌC 4 THÁNG 7
                  Hoàng Kim

                  CNM365 Tình yêu cuộc sốngChâu Mỹ chuyện không quên; Truyện George Washington; Chuyện Henry Ford lên Trời; Mười thói quen mỗi ngày; Đỗ Hoàng Phong chiều xuân; Hoa và Ong Hoa Người; Câu chuyện ảnh tháng Bảy; Ngày 4 tháng 7 Hoa Kỳ lễ Độc Lập’ ngày này năm 1776, Quốc hội Lục địa thông qua bản Tuyên ngôn Độc lập. Ngày 4 tháng 7 năm 1826 là ngày mất Thomas Jefferson, tổng thống thứ ba của Hoa Kỳ (sinh năm 1743) tác giả của Bản Tuyên Ngôn Độc Lập Hoa Kỳ, của Đạo Luật Virginia về Tự Do Tôn Giáo và là Người Cha của Đại Học Virginia, ngày mất John Adams, tổng thống thứ nhì của Hoa Kỳ (sinh năm 1735) Ngày 4 tháng 7 năm 1934, ngày mất  Marie Curie, nhà hóa học người Pháp gốc Ba Lan, nữ bác học đoạt giải Nobel vật lý 1903 và Nobel hóa học 1911. Ngày 4 tháng 7 năm 2016, Tàu không gian Juno trong chương trình thám hiểm không gian của NASA đến sao Mộc. Bài chọn lọc ngày 4 tháng 7 Châu Mỹ chuyện không quên; Truyện George Washington; Chuyện Henry Ford lên Trời; Mười thói quen mỗi ngày; Đỗ Hoàng Phong chiều xuân; Hoa và Ong Hoa Người; Câu chuyện ảnh tháng Bảy; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-4-thang-7/

                  CHÂU MỸ CHUYỆN KHÔNG QUÊN
                  Hoàng Kim
                  Tôi đã nhiều lần tới châu Mỹ, tới cả Trung Mỹ, Bắc Mỹ và Nam Mỹ. Đó là kinh nghiệm sống quý giá cho sự nghiên cứu và giảng dạy khoa học cây trồng, đặc biệt là cây lương thực. Tôi nhớ thầy Norman Boulaug và nhiều thầy bạn ở nơi ấy, nhớ đất. nhớ người. Tôi có thói quen chép lại ghi chú ngắn và ghi hình về kỷ niệm sau mỗi chuyến đi, lần này mới có dịp hệ thống lại. “Châu Mỹ chuyện không quên” lắng đọng trong lòng tôi những ký ức sâu sắc về công việc chuyên môn khoa học cây trồng, cây lương thực yêu thích, kết nối với đất nước, con người, bạn hữu, và nền văn hóa châu Mỹ. Tôi kể từ chuyến đi Mỹ lần đầu tiên năm 1988, cho tới nhiều lần về sau lắng đọng chuỗi trãi nghiệm thân thương với thầy bạn ở bên kia bờ đại dương. Ba nơi chính của châu Mỹ mà tôi may mắn được tới, đó là vùng vật liệu di truyền ở ba trung tâm khởi nguyên cây trồng toàn cầu của chúng tại Châu Mỹ gồm Trung tâm ngô và lúa mì quốc tế CIMMYT ở Mê hi cô. Trung tâm khoai lang và khoai tây quốc tế CIP ở Peru. Trung tâm Quốc tế Nông nghiệp Nhiệt đới CIAT về sắn, đậu thực phẩm, lúa gạo châu Mỹ ở Côlômbia. Những điểm đến này tương tự như Viện Nông nghiệp Nhiệt đời Quốc tế IITA ở Nigeria châu Phí, Viện Nghiên cứu Cây trồng Quốc tế cho vùng Nhiệt đới Bán khô cằn ICRISAT ở Ấn Độ, và Viện Lúa quốc tế IRRI ở Philippines. Những chốn ấy cũng thật thân thuộc với tôi. Tại đấy sách chuyên khảo cây trồng, tạp chí, trang web, video thật phong phú, sâu sắc và thật đáng ao ước. Cũng từ đấy mà tôi may mắn được đi thăm thú rộng ra các vùng lân cận theo điều kiện và hoàn cảnh của mỗi chuyến đi.

                  “Châu Mỹ chuyện không quên” là các bài học tình yêu cuộc sống trãi nghiệm cá nhân của các chuyến đi thực tế, với mục đích cung cấp các điểm nhấn tư liệu nông nghiệp sinh thái về cây lương thực châu Mỹ cho bạn đọc. Tác phẩm gồm 36 đường dẫn, tựa đề thơ ngũ ngôn, để dễ đọc dễ nhớ, ảnh chi tiết bấm link.

                  Mục đích sau cùng của DẠY VÀ HỌC là thấu suốt bản chất sự vật, có lời giải đúng và LÀM được việc.
                  Lời Thầy dặn thung dung.

                  Châu Mỹ chuyện không quên
                  Hoàng Kim

                  Niềm tin và nghị lực
                  Về lại mái trường xưa
                  Hưng Lộc nôi yêu thương
                  Năm tháng ở trời Âu

                  Vòng qua Tây Bán Cầu
                  CIMMYT tươi rói kỷ niệm
                  Mexico ấn tượng lắng đọng
                  Lời Thầy dặn không quên

                  Ấn tượng Borlaug và Hemingway
                  Con đường di sản Lewis Clark
                  Sóng yêu thương vỗ mãi
                  Đối thoại nền văn hóa

                  Truyện George Washington
                  Minh triết Thomas Jefferson
                  Mark Twain nhà văn Mỹ
                  Đi để hiểu quê hương

                  500 năm nông nghiệp Brazil
                  Ngọc lục bảo Paulo Coelho
                  Rio phố núi và biển
                  Kiệt tác của tâm hồn

                  Giấc mơ thiêng cùng Goethe
                  Chuyện Henry Ford lên Trời
                  Bài đồng dao huyền thoại
                  Bảo tồn và phát triển

                  Sắn Việt Nam và Kawano
                  Sắn Việt Nam và Howeler
                  Một ngày với Hernán Ceballos
                  CIAT Colombia thật ấn tượng
                  Martin Fregenexa mà gần

                  Châu Mỹ chuyện không quên
                  CIP khoai tây khoai lang
                  Nam Mỹ trong mắt ai
                  Nhiều bạn tôi ở đấy

                  Machu Picchu di sản thế giới
                  Mark Zuckerberg và Facebook
                  Lời vàng Albert Einstein
                  Bill Gates học để làm

                  Thomas Edison một huyền thoại
                  Toni Morrison nhà văn Mỹ
                  Walt Disney bạn trẻ thơ
                  Lúa Việt tới Châu Mỹ..

                  CIAT COLOMBIA THẬT ẤN TƯỢNG

                  Ở Colombia, tôi ấn tượng nhất ba nơi là 1) CIAT tại Cali, 2) sông Magdalena và đền thần Mặt trời, với dãy núi Andes và nhiều đồn điền cà phê; 3) thủ đô Bogota tại Zona Rosa nổi tiếng với các nhà hàng và cửa hiệu, có Cartagena một khu phố cổ trên bờ biển Caribê gợi nhớ biển Nha Trang của Việt Nam. Tôi thích nhất CIAT tại Cali là vườn sắn lai. Tôi nhiều ngày luôn cặm cụi ở đấy. Tôi đã kể lại trong bài “Nhớ châu Phi” lời nhắn của giáo sư tiến sĩ Martin Fregene: “Kim thân. Mình hiểu rằng CMD, bệnh virus khảm lá sắn, đã vô tình được du nhập vào Việt Nam. Mình khuyến khích bạn nhập các giống sắn nuôi cấy mô MNG-19, MNG-2 và 8-9 C-series từ CIAT để đánh giá chúng về hàm lượng tinh bột và năng suất bột. Nếu hàm lượng tinh bột và năng suất tinh bột của những giống sắn kháng bệnh CMD này đủ cao, hãy nhân lên và phân phối giống sắn mới này đến các khu vực bị ảnh hưởng. Hãy cho mình biết nếu mình có thể trợ giúp thêm”. (Dear Kim, I understand that CMD has been accidentally introduced into Vietnam. I encourage you to import tissue culture plants of MNG-19, MNG-2, and the 8-9 C-series from CIAT and evaluate them for starch content. If they are high enough, multiply and distribute to affected areas. Let me know if I can be if more help). Tôi đã trả lời: “Cám ơn bạn. Tôi đã mang nguồn gen giống sắn kháng CMD về Việt Nam rồi, nay mình đang cùng các cộng sự của mình lai tạo giống kháng này với những giống sắn ưu tú năng suất tinh bột cao của Việt Nam”.

                  MACHU PICCHU DI SẢN THẾ GIỚI

                  Bạn hỏi tôi ấn tượng nhất điều gì ở Nam Mỹ?. Tôi ấn tượng nhất là Machu Picchu di sản thế giới UNESCO ở Peru, nơi được Tổ chức New7Wonders chọn là một trong bảy kỳ quan thế giới mới. Đó là di sản nền văn minh Inca, người da đỏ Inca  và thần Mặt trời. Đấy thực sự là một kho báu kỳ bí vĩ đại tâm linh khoa học kỳ bí chưa thể giải thích được đầy đủ. Đền thờ thần Mặt trời tựa lưng vào cột chống trời “Cổ Sơn”, theo tiếng quechua của người Inca; thỉnh thoảng được gọi là “Thành phố đã mất của người Inca” một khu tàn tích Inca thời tiền Columbo trong tình trạng bảo tồn tốt ở độ cao 2.430 m trên một quả núi có chóp nhọn tại thung lũng Urubamba ở Peru, khoảng 70 km phía tây bắc Cusco. Tại thủ đô Lima có một đường bay nội địa dẫn tới Cusco. CIP gần trung tâm Lima và sân bay nên bạn rỗi hai ngày là có thể đi thăm được. Tất cả các chuyến bay tới Machu Picchu đều xuất phát từ Cusco.

                  MARTIN FREGENNE XA MÀ GẦN

                  Hoàng Kim và bạn hữu thăm nhà riêng Martin Fregene ở CIAT Colombia năm 2003. Nhóm bạn chúng tôi đến từ Ấn Độ, Brazil, Thái Lan, Peru, Colombia và Việt Nam. Martin Fregene hiện nay làm giám đốc điều hành hoạt động nông nghiệp và nông công nghiệp của Tập đoàn Ngân hàng Phát triển Châu Phi (ADBG). Ông cũng là giáo sư thực thụ rất nổi tiếng của trường đại học Nigeria. Ông cũng làm cố vấn kỹ thuật cao cấp cho Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Nigeria. Martin Fregene thuở xưa tại CIAT đã là  một tiến sĩ di truyền chọn giống sắn rất nổi tiếng của Nigeria và đã tạo được nhiều giống sắn tốt cho CIAT và Nigeria. Martin Fregene đã tự nguyện trở về Tổ quốc mình làm việc cho nông dân nghèo ở Nigeria, đã tự nguyện rời ‘miền đất hứa’
                  Donald Danforth Plant Science Center ở Mỹ, CIAT (Centro Internacional de Agricultura Tropical), ở Colombia.

                  NHỚ BẠN NHỚ CHÂU PHI
                  Hoàng Kim to Martin Fregene

                  Sau này khi Martin Fregene tự nguyện về nước, tôi đã viết bài thơ này tặng bạn ấy:

                  Nhớ Châu Phi bạn gần và xa.
                  Hiền tài hơn châu báu ngọc ngà.
                  Thương bạn về nhà rời đất hứa.
                  Dấn thân mình cho đất nở hoa

                  (Remember to Africa friends near and far / A good name and godly heritage is better than silver and gold./ Love you home, leave the promised land./ Involve yourself in the land of bloom). Ngày ấy
                  Peaingpen, Sheela, Alfredo, Yona, Martin và Kim, chúng tôi đã ăn tối (enjoy fufu) .thật ngon tại nhà Martin Fregene ở CIAT. Chiều hôm ấy trong đền thờ “Vị thần Mặt trời bị lãng quên của người Inca“, gia đình sắn chúng tôi đã cam kết cùng nhau làm “những người bạn của nông dân trồng sắn châu Á, châu Phi và châu Mỹ”. Hoàng Kim bế con của Martin và giao hẹn: Nhờ trời, bác sẽ tới châu Phi”. Tôi đọc sách “Nhà giả kim” tựa đề tiếng Anh là “The Alchemist” nguyên tác tiếng Bồ Đào Nha là “O Alquimista” của Paulo Coelho do Alan R. Clarke chuyển ngữ tiếng Anh và thích thú hứa với cháu bé, tôi sẽ tới châu Phi. Thật may mắn sau này ước mơ ấy của tôi cũng thành sự thật. Hóa ra, Vị thần mặt trời Inca bị quên lãng là có thật ! Phổ hệ chọn giống sắn Việt Nam có quan hệ nhiều trong câu chuyện này.. Giống sắn Việt Nam ngày nay trồng nhiều nhất là KM419 chiếm 42% và  KM94 chiếm 38% tổng diện tích trồng sắn của Việt Nam. Chuyện lai tạo giống sắn bây giờ mới kể.

                  Hoàng Kim và Chareinsak Rojanaridpiched

                  Chareinsak Rojanaridpiched là giáo sư tại  Kasetsart University (Bangkhen, Băng Cốc, Thái Lan). Ông nguyên là Hiệu trưởng Trường Đại học Kasetsart. Ông và nhóm đồng nghiệp sắn Thái Lan đã chọn tạo được Kasetsart 50: (KU 50) có tổng diện tích trồng khoảng 1,0 – 1,5 triệu ha mỗi năm tại Thái Lan và Việt Nam, là nguồn thu nhập rất quan trọng cho nông dân nghèo ở Đông Nam Á, Tiến sĩ ChareinsakRojanaridpiched  là người đã từng học ở trường đại học Cornell University,  một trường đại học nổi tiếng của nước Mỹ

                  Kim nói với Chareinsak: “Chúng tôi biết ơn các bạn CIAT Thai Lan. Sắn Việt Nam học để làm (Learning by Doing) theo lý thuyết và thực hành của Sắn CIAT sắn Thái Lan và cố gắng vươn lên theo cách riêng của mình. Phổ hệ các giống sắn phổ biến tại Việt Nam đã nói lên điều đó. “Châu Mỹ chuyện không quên” là sự ghi lại của tôi về những ngày cùng học tập và làm việc ở CIAT, CIMMYT, CIP  và các nước châu Mỹ.

                  xem tiếp: https://hoangkimlong.wordpress.com/category/chau-my-chuyen-khong-quen/

                  CIAT (Centro Internacional de Agricultura Tropical) ở Colombia, nơi Hoàng Kim gặp nhiều bạn tốt

                  Châu Mỹ chuyện không quên

                  Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là chau-my-chuyen-khong-quen.jpg

                  CHÂU MỸ CHUYỆN KHÔNG QUÊN
                  Hoàng Kim


                  Nhớ xưa leo đỉnh đèo Ngang
                  Để nay xuôi ngược dọc ngang xứ người
                  Mê xi cô tựa cổng trời (*)
                  Đường xuôi về biển bồi hồi nhớ quê

                  Oregon thác uy nghi
                  Trập trùng đường hiểm tưởng về Hải Vân
                  Phải đi muôn dặm xa gần
                  Lên cao đỉnh núi rộng tầm mắt xa

                  Em về thưa với mẹ cha
                  Rằng anh còn bận đường xa chưa về
                  Trăm quê dẫu ngỡ là quê
                  Tuy say đất lạ vẫn mê xứ mình

                  Đã từng ly biệt tử sinh
                  Gừng cay muối mặn để thành quê hương
                  Đã từng gian khổ chiến trường
                  Ngọt bùi nhớ bát cơm thường trộn khoai

                  Anh đi núi rộng sông dài
                  Bởi đâu trông cảnh nhớ người hỡi em
                  Bởi đâu bạn lạ hóa quen
                  Nâng hòn đất lại nghĩ miền quê ta

                  Anh về sẽ nối đường qua
                  Cánh thư chắp mối để xa nên gần
                  Cây ngay sẽ tỏa bóng tròn
                  Gốc càng sâu rễ, cành càng xum xuê

                  (*) Thủ đô Mê xi cô ở độ cao trên 2000m so với mặt biển;

                  (**) CIMMYT
                  https://www.cimmyt.org/ là một tổ chức Quốc tế nghiên cứu về Ngô và Lúa mì để giúp đỡ các chương trình nghiên cứu và phát triển ngô, lúa mì, cao lương ở các nước đang phát triển. CIMMYT là một trong 13 Viện và Trung tâm Nghiên cứu Quốc tế thuộc CGIAR (Ủy Ban Tư Vấn Nghiên Cứu Nông Nghiệp Quốc Tế) được thiết lập bởi FAO với Ngân hàng Thế giới và UNDP.

                  Nội dung hoạt động của CIMMYT bao gồm: 1) Duy trì và cải tiến nguồn gen; 2) Chọn giống và nghiên cứu đẩy mạnh sản xuất ngô, lúa mì; 3) Huấn luyện ; 4) Tư vấn nông nghiệp; 5) Dịch vụ thông tin. Huấn luyện là một hoạt động chính tại CIMMYT, nhóm lớn nhất là đào tạo theo khung chương trình, bao gồm huấn luyện về ngô (nghiên cứu nông học và sản xuất ngô, chọn tạo giống ngô, kỹ thuật phòng thí nghiệm chọn tạo giống ngô chất lượng cao), huấn luyện về lúa mì (nghiên cứu nông học và sản xuất lúa mì, chọn tạo giống lúa mì, kỹ thuật hạt giống cây cốc); huấn luyện quản lý Trung tâm trạm trại nông nghiệp; huấn luyện kinh tế nông nghiệp, định hướng trên các hoạt động nghiên cứu và chuyển giao tiến bộ kỹ thuật về ngô và lúa mì. CIMMYT còn có các chương trình huấn luyện tiến sĩ, thạc sĩ, khách thăm, cộng tác viên, và sự huấn luyện cho các nước theo yêu cầu của chương trình Quốc gia.

                  CIMMYT có trụ sở chính 80 ha đặt ở El Batan nơi trung tâm của hầu hết các chương trình CIMMYT. El Batan cách thủ đô Mexicô 45 km về phía Tây Bắc có cao độ là 2.240m so với mặt biển. Cơ sở vật chất của CIMMYT ở El Batan bao gồm: khu trụ sở văn phòng và huấn luyện; thư viện và cung cấp thông tin; các phòng thí nghiệm và nhà kính nhà lưới; khu bảo quản và sơ chế hạt giống; khu trạm trại thí nghiệm thực nghiệm (CIMMYT có 5 trạm trại thí nghiệm 4 trực thuộc CIMMYT 1 trực thuộc Viện Nghiên cứu Quốc gia Mexico; khu nhà ở nhà khách và dịch vụ đời sống cho nhân viên và học viên. Theo tài liệu của CIMMYT khoảng 60% tài chính được đầu tư cho nghiên cứu trực tiếp, 10% đầu tư cho nghiên cứu hổ trợ, 14% đầu tư cho huấn luyện, 6% cho duy trì quỷ gen, 3% cho dịch vụ thông tin và 7% cho quản lý hành chính. Việt Nam CIMMYT hợp tác từ năm 1980. Mexico, Oragon, CIANO, Norman Borlaug, thầy bạn tôi ở nơi ấy, CIMMYT tươi rói một kỷ niệm; xem tiếp:
                  Châu Mỹ chuyện không quên

                  Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là chau-my-chuyen-khong-quen-1.jpg
                  Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là chau-my-chuyen-khong-quen-2.jpg
                  Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là chau-my-chuyen-khong-quen-3.jpg
                  Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là chau-my-chuyen-khong-quen-4.jpg
                  Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là chau-my-chuyen-khong-quen-5.jpg

                  TRUYÊN GEORGE WASHINGTON
                  Hoàng Kim


                  George Washington sinh ngày 22 tháng 2 năm 1732, được Cử tri đoàn Hoa Kỳ nhất trí bầu làm tổng thống đầu tiên của nước Mỹ ngày 4 tháng 2 năm 1789, mất ngày 14 tháng 12 năm 1799. Ông hiện được biết như vị cha già của nước Mỹ. Các học giả lịch sử luôn xếp George Washington là một trong số hai hoặc ba vị tổng thống vĩ đại nhất. Bức tranh George Washington là kiệt tác nổi tiếng của danh họa Emanuel Leutze (1816–1868) trong Viện bảo tàng mỹ thuật Metropolitan tại thành phố New York đã mô tả hình ảnh ông dẫn dắt mọi người vượt trở ngại đi tới phía trước.Tên của George Washington được đặt cho thủ đô Washington D.C được thành lập vào ngày 16 tháng 7 năm 1790 với tên chính thức ban đầu là Đặc khu Columbia (District of Columbia), Biểu tượng Washington D.C. là Museums, đó là niềm tự hào của nước Mỹ. 

                  George Washington là biểu tượng của nước Mỹ

                  George Washington là nhà lãnh đạo chính trị và quân sự có ảnh hưởng lớn đối với quốc gia non trẻ Hoa Kỳ từ năm 1775 đến năm 1799 lúc đó là vùng đất mới, thực dân Anh Pháp với nhiều nước khác đang tìm đến tranh giành đất đai, tài nguyên. Người bản xứ đang co dần, miền Tây nước Mỹ hoang vu, nghèo nàn mới được khai phá.  George Washington  với tư cách là tổng tư lệnh Lục quân Lục địa năm 1775 -1783 đã lãnh đạo người Mỹ chiến thắng Vương quốc Anh trong cuộc Chiến tranh Cách mạng Mỹ, và ông cũng đã trông coi việc viết ra Hiến pháp Hoa Kỳ năm 1787. Quốc hội nhất trí chọn lựa George Washington làm tổng thống đầu tiên của Hoa Kỳ (1789–1797).

                  George Washington có nhân cách cá nhân, tư tưởng tầm nhìn và tác phong lãnh đạo đặc biệt ưu tú. “Người đầu tiên trong chiến tranh, người đầu tiên trong hòa bình, và người đầu tiên nằm trong lòng dân tộc, ông là người có một không hai về đức tính khiêm nhường và trải qua những đoạn đời riêng tư. Lễ nghĩa, công bình, nhân đạo, ôn hòa, và thành thật; trước sau như một, trang nghiêm và uy nghi; mẫu người của ông như đang soi sáng cho tất cả những người quanh ông cũng như những hiệu ứng của mẫu hình này vẫn đang trường tồn… Xuyên suốt chúng, cái xấu rung động trước sự hiện diện của ông và cái đẹp luôn cảm thấy có bàn tay giúp đỡ của ông. Đức tính cá nhân thanh khiết của ông đã thắp sáng đức độ phục vụ công chúng của ông… Ông là một người đàn ông như thế, người đàn ông mà quốc gia chúng ta đang thương tiếc“.  Henry Lee, một người bạn chiến đấu cùng thời, đã đúc kết về phẩm chất cá nhân của Washington như vậy..

                  George Washington là vị tướng kiệt xuất trong chiến tranh, gần đây năm 1976 được nước Mỹ vinh thăng là Đại thống tướng, nhà lãnh đạo cách mạng thành công đầu tiên trong lịch sử thế giới chống lại một đế quốc thuộc địa. Washington đã trở thành biểu tượng toàn cầu cho phong trào yêu nước, giành độc lập và giải phóng dân tộc. Hình tượng Washington đặc biệt được ngưỡng mộ tại Pháp và châu Mỹ Latin.

                  Bản tuyên ngôn độc lập Hoa Kỳ, tuyên bố vào 4 tháng 7 năm 1776,  là văn bản chính trị tuyên bố ly khai khỏi Anh của 13 thuộc địa Bắc Mỹ, dẫu tác giả là Thomas Jefferson là tổng thống thứ 3 của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ, người sáng lập ra Đảng Dân chủ-Cộng hòa Hoa Kỳ và là một trong những người theo chủ nghĩa tự do nhiệt thành lớn nhất thời cận đại, một chính khách thiên tài khác của nước Mỹ, mà sau này những người theo chủ nghĩa Thomas Jefferson trong nhiều năm trời vẫn tiếp tục không tin vào ảnh hưởng của Washington và cố tìm cách trì hoãn xây dựng tượng đài Washington, nhưng hình tượng của George Washington vẫn ngời sáng trong lòng dân như là người tiên phong khai sáng, vị cha già của nước Mỹ.

                  George Washington có tầm nhìn xa rộng về phương cách tổ chức một quốc gia hùng mạnh và vĩ đại, xây dựng trên nền tảng cộng hòa, biết yêu thương kính trọng con người, chăm lo đời sống nhân dân, sử dụng triệt để sức mạnh của toàn liên bang để cải thiện cơ sở hạ tầng, mở rộng lãnh thổ phía tây, lập trường đại học quốc gia, khuyến khích chấn hưng thương mại, xây dựng thành phố thủ đô (sau này được gọi là Washington, D.C.), giảm thiểu sự phân hóa giàu nghèo giữa các vùng, vinh danh tinh thần yêu nước, xóa bỏ tính cục bộ địa phương.Ảnh hưởng của ông với công chúng là tượng đài Washington sừng sững trong lòng dân.

                  Phong cách lãnh đạo chuẩn mực của ông là đặt việc công lên trên hết, “khiêm nhường, lễ nghĩa, công bình, nhân đạo, ôn hòa, và thành thật; trước sau như một, trang nghiêm và uy nghi”, không thu vén cá nhân, không tạo nên đặc quyền đặc lợi, xây dựng thể thức cộng hòa, chăm lo xây dựng định chế dân sự rất được lòng dân. Không phải bằng lời nói mà bằng việc làm, định chế tổ chức thực tiễn, George Washington đã ảnh hưởng đặc biệt sâu sắc đến hình thức, lễ nghi của chính quyền Mỹ không những của thời đó mà còn được sử dụng từ đó cho đến ngày nay. Thí dụ như cách tổ chức hệ thống nội các,  các buổi đọc diễn văn nhậm chức, thông điệp liên bang đã trở thành nền nếp quốc gia . George Washington với tư cách là tổng thống đã xây dựng một chính quyền quốc gia mạnh mẽ giàu tài chính, tránh khỏi chiến tranh, dập tắt nổi loạn, chiếm được sự đồng thuận của tất cả người Mỹ, làm thay đổi quan niệm của những lực lượng đối lập.

                  George Washington cuộc đời và sự nghiệp

                  George Washington sinh ngày 22 tháng 2 năm 1732 tại trang trại Pope’s Creek gần nơi nay là Colonial Beach, Quận Westmoreland, Virginia. Ông là con trai đầu của Augustine Washington (1694–1743) và người vợ thứ hai Mary Ball Washington (1708–1789). Ông cố của ông là  John Washington di cư từ Anh đến Virginia năm 1657. Một số tài liệu cho rằng George Washington và Nữ hoàng Anh Elizabeth II có chung tổ tiên. Cha của ông, Augustine là một nhà trồng thuốc lá có sở hữu người nô lệ và sau này có thử thời vận với nghề khai thác quặng sắt. Gia đình ông thuộc thành phần trung lưu tại Virginia..

                  Ông có bốn anh chị em ruột là Samuel, Elizabeth, John Augustine và Charles và có hai người anh cùng cha khác mẹ Lawrence và Augustine, là con của cha ông với bà vợ cả Jane Butler Washington. Ba anh chị em khác đã mất trước khi trưởng thành: em gái ruột Mildred chết lúc một tuổi, người anh trai khác mẹ mất khi còn sơ sinh và người chị khác mẹ Jane chết lúc 12 tuổi khi George hai tuổi. Lúc Washington 11 tuổi thì cha mất. Người anh khác mẹ của Washington là Lawrence sau đó trở thành người thay cha và cũng là mẫu người Washington noi gương. William Fairfax là cha vợ của Lawrence và là người anh em họ với địa chủ lớn nhất Virginia, Thomas Fairfax cũng có ảnh hưởng lớn đối với ông. Washington dành nhiều thời gian lúc còn bé ở nông trại Ferry trong Quận Stafford gần Fredericksburg. Lawrence Washington thừa hưởng gia sản khác của cha, đó là một đồn điền nằm trên bờ sông Potomac mà sau này ông đặt tên là Mount Vernon. Washington thừa hưởng nông trại Ferry ngay khi cha ông qua đời, và dần sau đó nhận thừa kế Mount Vernon sau khi Lawrence qua đời.

                  George Washington do cha mất sớm nên không có được cơ hội du học trường Appleby ở Anh như các người anh trai. Ông học trường làng tại Fredericksburg cho đến tuổi 15 và mong muốn vào  Hải quân Hoàng gia nhưng mXem tiếp >>

                    Dạy và học 3 tháng 7(03-07-2021)


                  DẠY VÀ HỌC 3 THÁNG 7
                  Hoàng Kim

                  CNM365 Tình yêu cuộc sống Trần Thánh Tông minh quân; Nhà Trần trong sử Việt; Nhớ quê hương; Nguồn Son nối Phong Nha; Học không bao giờ muộn, Đậu Quốc Anh khiêm nhường, Trung Quốc một suy ngẫm; Nhớ bạn nhớ châu Phi, Ngày 3 tháng 7 năm 1290, là ngày mất của Trần Thánh Tông, Hoàng đế thứ hai nhà Trần. Trần Thánh Tông (12 tháng 10 năm 1240– 3 tháng 7 năm 1290) tên húy Trần Hoảng là vị hoàng đế thứ hai của nhà Trần nước Đại Việt, ở ngôi từ ngày 30 tháng 3 năm 1258 đến ngày 8 tháng 11 năm 1278. Sau đó ông làm Thái thượng hoàng từ cuối năm 1278 cho đến khi qua đời năm 1290. Ông thường được sử sách mô tả là một minh quân tài giỏi, giữ vững được cơ nghiệp của triều đại và nền độc lập của quốc gia. Hai vua Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông đã cùng Quốc Công Trần Hưng Đạo, Thái Sư Trần Quang Khải, đại tướng Trần Khánh Dư với nhiều danh tướng quân dân thời Trần lập nên các chiến công lừng lẫy Bạch Đằng, Chương Dương, Hàm Tử. Thượng hoàng Trần Thánh Tông đã lãnh đạo quân dân Đại Việt kháng chiến đánh bại hai cuộc xâm lược của Nguyên- Mông năm 1285 và 1287.Ngày 3 tháng 7 năm 1944, Chiến tranh thế giới thứ hai: Hồng quân Liên Xô giải phóng Minsk khỏi lực lượng Đức Quốc Xã trong Chiến dịch Bagration . Đây là “thất bại thảm hại nhất của Quân đội Đức Quốc xã trong toàn bộ cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai“. Ngày 3 tháng 7 năm 1991, ngày mất Lê Văn Thiêm, nhà toán học Việt Nam. Lê Văn Thiêm (1918-1991) là Giáo sư, Tiến sĩ Khoa học toán học đầu tiên của Việt Nam, một trong số các nhà khoa học tiêu biểu nhất của Việt Nam trong thế kỷ 20. Ông nghiên cứu chủ yếu về lý thuyết các hàm phân hình, diện Riemann và một số vấn đề về toán học ứng dụng. Lê Văn Thiêm và Hoàng Tuỵ là hai nhà toán học Việt Nam được chính phủ Việt Nam phong tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt 1 vào năm 1996 và Huân chương Độc lập hạng nhất về những công trình toán học đặc biệt xuất sắc. Bài chọn lọc ngày 3 tháng 7: Trần Thánh Tông minh quân; Nhà Trần trong sử Việt; Nhớ quê hương; Nguồn Son nối Phong Nha; Học không bao giờ muộn, Đậu Quốc Anh khiêm nhường, Trung Quốc một suy ngẫm; Nhớ bạn nhớ châu Phi, Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-3-thang-7/

                  TRẦN THÁNH TÔNG MINH QUÂN
                  Hoàng Kim

                  Trần Thánh Tông sinh ngày 12 tháng 10 năm 1240, mất ngày 3 tháng 7 năm 1290 là  vị Hoàng đế thứ hai của nhà Trần, ở ngôi từ năm 1258 đến 1278 và làm Thái thượng hoàng từ năm 1278 đến năm 1290 lúc qua đời (hình Lăng Trần Thánh Tông ở Long Hưng, Thái Bình)Trần Thánh Tông là vua thánh nhà Trần: Vua nổi tiếng có lòng thương dân và đặc biệt thân thiết với anh em trong Hoàng tộc, điều hiếm thấy từ trước đến nay; Trần Thánh Tông có công rất lớn lúc làm Thái thượng hoàng đã cùng với con trai là vua Trần Nhân Tông lãnh đạo quân dân Đại Việt giành chiến thắng trong hai cuộc chiến cuối cùng chống lại quân đội nhà Nguyê
                  n sang thôn tính nước ta lần thứ hai năm1285 và lần thứ ba năm 1287; Nước Đại Việt suốt thời Trần Thánh Tông làm vua và làm Thái Thượng hoàng là rất hưng thịnh, hùng mạnh, phát triển toàn diện chính trị, kinh tế, quân sự, ngoại giao, văn hóa, giáo dục không để cho nhà Nguyên thôn tính.

                  Trần Thánh Tông cuộc đời và di sản

                  Vua Trần Thánh Tông tên thật Trần Hoảng là con trai thứ hai của vua Trần Thái Tông (Trần Cảnh), mẹ là Hiển Từ Thuận Thiên hoàng hậu Lý thị, công chúa nhà Lý, con gái của Lý Huệ Tông và Linh Từ Quốc mẫu. Anh trai lớn của ông, Tĩnh Quốc đại vương Trần Quốc Khang tuy danh nghĩa là con lớn nhất, nhưng thực tế là con của Khâm Minh đại vương Trần Liễu. Như vậy, ông là Hoàng đích trưởng tử (con trai lớn nhất và do chính thất sinh ra) của Trần Thái Tông hoàng đế.

                  Vua Trần Thánh Tông sinh ngày 25 tháng 9 âm lịch, năm Thiên Ứng Chính Bình thứ 9 (1240), và ngay lập tức được lập làm Hoàng thái tử, ngự ở Đông cung. Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư, trước khi Hiển Từ Thuận Thiên hoàng hậu mang thai ông, Thái Tông hoàng đế nằm mơ thấy Thượng Đế trao tặng bà một thanh gươm báu.

                  Vua Trần Thánh Tông có vợ là  Nguyên Thánh hoàng hậu Trần Thiều (?– 1287), con gái An Sinh Vương Trần Liễu, mới đầu phong làm Thiên Cảm phu nhân, sau phong lên làm Hoàng hậu. Năm 1278, Trần Nhân Tông tôn làm Nguyên Thánh Thiên Cảm Hoàng Thái hậu

                  Vua Trần Thánh Tông có bốn con: 1) đích trưởng tử là Trần Khâm, tức Nhân Tông Duệ Hiếu hoàng đế, mẹ là Nguyên Thánh hoàng hậu; 2) Tá Thiên đại vương Trần Đức Việp (1265 – 1306), mẹ là Nguyên Thánh hoàng hậu. 3) Thiên Thuỵ công chúa, chị gái Nhân Tông, mất cùng ngày với Nhân Tông (3 tháng 11 âm lịch, 1308), lấy Hưng Vũ vương Trần Quốc Nghiễn, con trai Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn, mẹ là Nguyên Thánh hoàng hậu;4)  Bảo Châu công chúa, lấy con trai thứ của Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải, mẹ là Nguyên Thánh hoàng hậu.

                  Nhà Trần đánh bại quân Nguyên Mông lần thứ nhất năm 1257, vào ngày 24 tháng 12 năm Nguyên Phong thứ 7 (1257), Thái tử Trần Hoảng đã cùng với vua Trần Thái Tông ngự lâu thuyền mà kéo quân đến Đông Bộ Đầu, đập tan tác quân Nguyên Mông trong Trận Đông Bộ Đầu, buộc họ phải rút chạy và chấm dứt cuộc xâm lược Đại Việt.

                  Vua Trần Thái Tông nhường ngôi cho Thái tử Trần Hoảng ngày 24 tháng 2, năm 1258 (Nguyên Phong thứ 8). Vua Trần Thánh Tông đổi niên hiệu là Thiệu Long, xưng làm Nhân Hoàng, tôn vua chalàm Thái thượng hoàng, tôn hiệu là Hiển Nghiêu Thánh Thọ Thái Thượng Hoàng Đế .

                  Vua Trần Thánh Tông ở ngôi 21 năm, đất nước được yên trị . Vua nổi tiếng là vị hoàng đế nhân hậu, hòa ái đối với mọi người từ trong ra ngoài. Ông thường nói rằng: “Thiên hạ là của ông cha để lại, nên để anh em cùng hưởng phú quý chung”.Do vậy, các hoàng thân trong nội điện thường ăn chung cỗ và ngủ chơi chung nhà rất đầm ấm, chỉ khi có việc công, hay buổi chầu, thì mới phân thứ tự theo phép nước .

                  Tĩnh Quốc đại vương Trần Quốc Khang, trên danh nghĩa là con trưởng của vua Trần Thái Tông, nhưng thực ra là con trai của An Sinh đại vương Trần Liễu cùng Hiển Từ Thuận Thiên hoàng hậu. Trần Quốc Khang tuy là con trưởng  của vua Trần Thái Tông, nhưng  xuất thân đặc biệt nên chịu mọi sự suy xét trong hoàng tộc. Sử cũ kể lại, có lần Trần Thánh Tông cùng với người anh cả là Trần Quốc Khang chơi đùa trước mặt Thái thượng hoàng. Thượng hoàng mặc áo bông trắng, Trần Quốc Khang múa kiểu người Hồ, Thượng hoàng bèn cởi áo ban cho. Vua Trần Thánh Tông thấy vậy cũng múa kiểu người Hồ để đòi thưởng áo bông. Quốc Khang bèn nói:Quý nhất là ngôi vua, tôi đã không tranh với chú hai rồi. Nay đức chí tôn cho tôi thứ nhỏ mọn này mà chú hai cũng muốn cướp sao?

                  Thượng hoàng Thái Tông cười nói với Quốc Khang:

                  Vậy ra con coi ngôi vua cũng chỉ như cái áo choàng này thôi à?

                  Thượng hoàng Thái Tông khen Quốc Khang, rồi ban áo cho ông. Trong Hoàng gia, cha con, anh em hòa thuận không xảy ra xích mích.] Vào tháng 9 năm 1269, Vua Trần Thánh Tông phong cho Trần Quốc Khang làm Vọng Giang phiêu kỵ Đô thượng tướng quân. Một lần khác, vào mùa xuân năm 1270, Trần Quốc Khang xây vương phủ hoành tráng tại Diễn Châu, vua Trần Thánh Tông bèn cho người đến xem. Hoảng sợ, Quốc Khang đành phải dựng tượng Phật tại nơi này – sau trở thành chùa Thông.

                  Vua Trần Thánh Tông rất quan tâm giáo dục, Trần Ích Tắc, em trai Trần Thánh Tông nổi tiếng là một người hay chữ trong nước được cử mở trường dạy học để các văn sĩ học tập. Danh nho Mạc Đĩnh Chi, người đỗ trạng nguyên đời Trần Anh Tông sau này cũng học ở trường ấy.

                  Thời vua Trần Thánh Tông nhân sự cũng được thay đổi. Ông xuống chiếu kén chọn văn học sĩ sung vào quan ở Quán và Các. Trước đó, theo quy chế cũ: “không phải người trong họ vua thì không được làm chức Hành khiển“. Nhưng bắt đầu từ đấy, nho sĩ văn học được giữ quyền bính làm hành khiển, như Đặng Kế làm Hàn lâm viện học sĩ, Đỗ Quốc Tá làm Trung thư sảnh trung thư lệnh, đều là nho sĩ văn học.  Vua Trần Thánh Tông cho phép các vương hầu, phò mã họp các dân nghèo để khẩn hoang]. Vương hầu có điền trang bắt đầu từ đấy.

                  Năm 1262, vua Trần Thánh Tông xuống lệnh cho quan quân chế tạo vũ khí và đúc thuyền. Tại chín bãi phù sa ở sông Bạch Hạc, Lục quân và Thủy quân nhà Trần đã tổ chức tập trận. Vào tháng 9 (âm lịch) năm ấy, ông truyền lệnh cho rà soát ngục tù, và thẳng tay xử lý những kẻ đã đầu hàng quân xâm lược Nguyên trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ nhất thời Nguyên Phong.

                  Vua Trần Thánh Tông còn cho Lê Văn Hưu tiếp tục biên soạn sách Đại Việt sử ký. Lê Văn Hưu đã làm được bộ sử sách gồm 30 quyển, chép từ đời Triệu Vũ Vương đến Lý Chiêu Hoàng. Việc biên tập bộ sử này được khởi đầu từ đời vua Trần Thái Tông, đến năm 1271 đời Thánh Tông mới hoàn thành.

                  Năm 1258, sau khi Nhà Trần đánh bại quân Nguyên Mông lần thứ nhất, Trần Thánh Tông sai sứ sang Nam Tống báo việc lên ngôi và được phong làm An Nam quốc vương. Mặc dù Nam Tống đã suy yếu trước sự uy hiếp của Mông Cổ, ông vẫn giữ quan hệ bang giao với Nam Tống ngoài ý nghĩa giao hảo nước lớn còn nhằm mục đích nắm tình hình phương bắc. Khi Thánh Tông sai sứ mang đồ cống sang, vua Tống cũng tặng lại các sản vật của Trung Quốc như chè, đồ sứ, tơ lụa; không những gửi cho Thánh Tông mà còn tặng cả sứ giả.  Sau này khi Nam Tống bị nhà Nguyên đánh bại, phải rút vào nơi hiểm yếu, mới không còn qua lại với Đại Việt. Nhiều quan lại và binh sĩ Tống không thần phục người Mông đã sang xin nương nhờ Đại Việt. Trần Thánh Tông tiếp nhận họ, ban cho chức tước và cử người quản lý.

                  Năm 1260, hoàng đế nhà Nguyên sai Mạnh Giáp, Lý Văn Tuấn mang chiếu chỉ sang Đại Việt tuyên dụ, với yêu cầu hệ thống chính quyền Đại Việt phải theo lối hoạt động của Thiên triều, không được dấy binh xâm lấn bờ cõi. Vào năm Tân Dậu 1261, niên hiệu Thiệu Long thứ 4, vua Trần Thánh Tông được vua Mông Cổ phong làm An Nam Quốc Vương, lại được trao cho 3 tấm gấm tây cùng với 6 tấm gấm kim thục. Trần Thánh Tông duy trì lệ cống nhà Nguyên 3 năm 1 lần, mỗi lần đều phải cống nho sĩ, thầy thuốc, thầy bói và thợ thuyền mỗi hạng ba người, cùng với các sản vật như là sừng tê, ngà voi, đồi mồi, châu báu…

                  Vua nhà Nguyên lại đặt chức quan Darughachi tại Đại Việt để đi lại giám trị các châu quận Đại Việt; ý muốn can thiệp chính trị, tìm hiểu nhân vật, tài sản Đại Việt để liệu đường mà đánh chiếm. Thánh Tông bề ngoài tuy vẫn chịu thần phục, nhưng ông biết ý đồ của vua Mông, nên tiếp tục luyện binh dụng võ để chuẩn bị chiến tranh. Ông cho tuyển đinh tráng các lộ làm lính, phân làm quân và đô, bắt phải luyện tập luôn.

                  Năm 1271, Hốt Tất Liệt đặt quốc hiệu là Nguyên, bình định nốt miền nam Trung Quốc và dụ vua Đại Việt sang hàng, để khỏi cần động binh. Nhà Nguyên cứ vài năm lại cho sứ sang sách nhiễu và dụ vua Đại Việt sang chầu, nhưng vua Trần lấy cớ thoái thác.

                  Năm 1272, hoàng đế nhà Nguyên cho sứ sang lấy cớ tìm cột đồng trụ của Mã Viện trồng ngày trước, nhưng vua Thánh Tông sai quan sang nói rằng: cột ấy lâu ngày mất đi rồi, không biết đâu mà tìm nữa. Vua Nguyên bèn thôi không hỏi nữa.

                  Năm 1275, hoàng đế nhà Nguyên ra chiếu dụ đòi vua Đại Việt nộp sổ sách dân số, thu thuế khóa, trợ binh lực cho Thiên triều thông qua sự thống trị của quan Darughachi và đòi nhà vua phải đích thân tới chầu. Vua Thánh Tông sai sứ sang nói với hoàng đế nhà Nguyên rằng: Nước Nam không phải là nước Mường mán mà đặt quan giám trị, xin đổi quan Đại-lỗ-hoa-xích làm quan Dẫn tiến sứ.

                  Vua nhà Nguyên không cho, lại bắt vua Trần sang chầu. Thánh Tông cũng không chịu. Từ đấy vua nhà Nguyên thấy dùng ngoại giao để khuất phục nhà Trần không được, quyết ý cử binh sang đánh Đại Việt. Nguyên Thế Tổ cho quan ở biên giới do thám địa thế Đại Việt, Trần Thánh Tông cũng đặt quan quân phòng bị.

                  Theo sách “Các triều đại Việt Nam” của Quỳnh Cư, Đỗ Đức Hùng, “Nhìn chung, vua Trần Thánh Tông thực hiện chính sách ngoại giao mềm dẻo nhưng rất kiên quyết, chằm bảo vệ danh dự của Tổ quốc, ngăn chặn từ xa mọi sự dòm ngó, tạo sự xâm lược của nhà Nguyên.“ Tuy nhiên, sau khi nhà Nguyên diệt Nam Tống (1279), Đại Việt càng đứng trước nguy cơ bị xâm lăng từ đế quốc khổng lồ này.

                  Mùa đông, ngày 22 tháng 10 năm 1278, sau một năm Thái Tông Thượng hoàng đế băng hà, Thánh Tông hoàng đế nhường ngôi cho con trai là Thái tử Trần Khâm, tức Trần Nhân Tông. Thánh Tông lên làm Thái thượng hoàng, với tôn hiệu là Quang Nghiêu Từ Hiếu Thái Thượng Hoàng Đế. Trên danh nghĩa là Thái thượng hoàng, nhưng Trần Thánh Tông vẫn tham gia việc triều chính.

                  Quan hệ hai bên giữa Đại Việt và Đại Nguyên căng thẳng và đến cuối năm 1284 thì chiến tranh bùng nổ. Thượng hoàng Thánh Tông cùng Nhân Tông tín nhiệm thân vương là Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn, phong làm Quốc công Tiết chế chỉ huy quân đội trong nước để chống Nguyên Mông. Trong hai lần Chiến tranh với Nguyên Mông lần 2 và lần 3, thắng lợi có vai trò đóng góp của Thượng hoàng Thánh Tông.

                  Năm 1289, sau khi chiến tranh kết thúc, Thượng hoàng lui về phủ Thiên Trường làm thơ. Các bài thơ thường được truyền lại là: “Hành cung Thiên Trường”, “Cung viên nhật hoài cực”.

                  Ngày 25 tháng 5, năm Trùng Hưng thứ 6 (1290), Thượng hoàng băng hà tại Nhân Thọ cung, hưởng thọ 51 tuổi. Miếu hiệu là Thánh Tông (聖宗), thụy hiệu là Hiến Thiên Thế Đạọ Huyền Công Thịnh Đức Nhân Minh Va7n Vũ Tuyên Hiếu hoàng đế . Ông được táng ở Dụ Lăng, phủ Long Hưng (Tiến Đức, Hưng Hà, Thái Bình ngày nay).

                  Ngày nay ở trung tâm thành phố Hà Nội có phố mang tên Trần Thánh Tông.

                  Vua Trần Thánh Tông  sùng đạo Phật, rất giỏi thơ văn, thường sáng tác thơ văn về thiền. Tác phẩm của Trần Thánh Tông có: Di hậu lục (Chép để lại cho đời sau), Cơ cầu lục (Chép việc nối dõi nghiệp nhà); Thiền tông liễu ngộ (Bài ca giác ngộ Thiền tông), Phóng ngưu (Thả trâu), Trần Thánh Tông thi tập (Tập thơ Trần Thánh Tông), Chỉ giá minh (Bài minh về sự cung kính)…Và một số thư từ ngoại giao, nhưng tất cả đều đã thất lạc, chỉ còn lại 6 bài thơ được chép trong Việt âm thi tập (5 bài) và Đại Việt sử ký toàn thư (1 bài) mà chúng tôi sẽ chép bổ sung vào cuối bài này.

                  Thơ Trần Thánh Tông  giàu chất trữ tình, kết hợp nhuần nhị giữa tinh thần tự hào về đất nước của người chiến thắng, với tình yêu cuộc sống yên vui, thanh bình, và phong độ ung dung, phóng khoáng của một người biết tự tin, lạc quan. Trong thơ, ông đã xen nhịp ba của thơ dân tộc với nhịp bốn quen thuộc của thơ Đường, tạo nên một nét mới về nhịp điệu thơ và về thơ miêu tả thiên nhiên.

                  Trong sách Thơ văn Lý Trần, NXB Khoa học xã hội, 1977, có bài thơ Chân tâm chi dụng của Trần Thánh Tông:

                  Dụng của chân tâm … 
                  Trần Thánh Tông

                  Dụng của chân tâm, 
                  Thông minh tịnh mịch. 
                  Không đến không đi, 
                  Không tổn không ích. 
                  Vào nhỏ vào to, 
                  Mặc thuận cùng nghịch. 
                  Động như hạc mây, 
                  Tĩnh như tường vách. 
                  Nhẹ tựa mảy lông, 
                  Nặng như bàn thạch. 
                  Trần trần trụi trụi, 
                  Làu làu trong sạch. 
                  Chẳng thể đo lường, 
                  Tuyệt vô tung tích. 
                  Nay ta vì ngươi, 
                  Tỏ bày rành mạch. 

                  Đại Việt Sử ký Toàn thư của nhà Hậu Lê ca ngợi Trần Thánh Tông “trung hiếu nhân thứ, tôn hiền trọng đạo, cha khai sáng trước, con kế thừa sau, cơ nghiệp nhà Trần được bền vững”, tuy nhiên trên quan điểm Nho giáo lại phê phán ông sùng đạo Phật “thì không phải phép trị nước hay của đế vương”. Sử gia Ngô Sĩ Liên ca ngợi công lao của ông: “Thánh Tông nối nghiệp Thái Tông, giữa chừng gặp giặc cướp biến loạn, ủy nhiệm cho tướng thần cùng với Nhân Tông giúp sức làm nên việc, khiến thiên hạ đã tan lại hợp, xã tắc nguy lại an. Suốt đời Trần không có việc giặc Hồ nữa, công to lắm.”  Giáo sư Trần Văn Giàu luận về “Nhân cách Trần Nhân Tông” nhưng nói đầy đủ là hai vua Trần vì Thái Thượng hoàng Trần Thánh Tông là người tham gia và lãnh đạo xuyên suốt cả ba lần quân dân Đại Việt đánh thắng quân Nguyên năm 1258, 1285 và 1287: …”Tại nước Tàu lúc bấy giờ Triều đình nhà Tống rất hùng mạnh nhưng quân Nguyên Mông đã tràn xuống đánh thắn thần tốc, đến nỗi vua quan nhà Tống phải chạy ra biển và nhảy xuống biển tự vẫn. Tại Tây Á, Trung Á và một phần châu Âu cũng thua thảm hại , đến nỗi Giáo hoàng La Mã cũng lên tiếng sợ hãi. Trong lúc ấy Việt Nam so với phương Bắc thì quá nhỏ bé và quá nghèo yếu, thế mà Người dám không cho Nguyên Mông mượn đường xâm lược Chiêm Thành. Lại còn đánh bại ba lần Nguyên Mông xâm lược. Sau khi thắng giặc, Người lại lên núi sống. Người dám nghĩ, dám làm những việc không ai dám nghĩ chứ đừng nói đến làm !” 

                  Trần Thánh Tông vua giỏi nhà Trần

                  NHÀ TRẦN TRONG SỬ VIỆT
                  Hoàng Kim

                  Nhà Trần khởi đầu từ vua Trần Thái Tông (Trần Cảnh) lên ngôi Hoàng Đế vào ngày 31 tháng 12 năm 1225 nhằm ngày Mậu Dần  mồng 1 tháng 12 năm Ất Dậu, Lý Chiêu Hoàng là vị Nữ Hoàng cuối cùng của nhà Lý xuống chiếu nhường ngôi cho chồng. Tiếp nối vua Trần Thái Tông là vua Trần Thánh Tông (Trần Hoảng), vua Trần Nhân Tông (Trần Khâm. Ba vua là thời nhà Trần thịnh thế ngời sử Việt dựng nên nghiệp lớn, chống quân Nguyên Mông, thống nhất Phật Giáo Việt Nam và đạt đến cực thịnh. Ba vua Trần Anh Tông, Trần Minh Tông, Trần Hiến Tông là thời kế nghiệp. Từ vua Trần Dụ Tông (sau khi thượng hoàng Trần Minh Tông mất) đến Hôn Đức Công, Trần Nghệ Tông, Trần Duệ Tông, cho tới Trần Phế Đế, Trần Thuận Tông, Giản Định Đế, Trần Quý Khoáng là thời suy tàn. Trần triều chấm dứt lúc Trần Phế Đế bị Thượng hoàng Trần Nghệ Tông ép thắt cổ chết thay thế bằng Trần Thuận Tông là con của Trần Nghệ Tông, khi thế lực Hồ Quý Ly đã vững không thể đổi. Vua Trần Thuận Tông trị vì từ năm 1388 cho đến năm 1400 thì bị ép nhường ngôi cho Hồ Quý Lý, lập ra triều đại nhà Hồ. Giặc Minh mượn danh nghĩa “phục Trần diệt Hồ” nhân cơ hội ấy vào cướp nước ta. Giản Định Đế, Trần Quý Khoáng chống nhà Minh nhưng không thành. Nhà Trần trong sử Việt kéo dài 175 năm với 13 đời hoàng đế.

                  Thái Tông và Hưng Đạo
                  Ngày mới đầy yêu thương
                  Nhà Trần trong sử Việt
                  Lồng lộng như trăng rằm

                  Ba đỉnh cao Yên Tử
                  Danh thắng quê hương Trần
                  ‘Thái bình tu nổ lực
                  Vạn cổ thử giang san’ (*)

                  Nhà Trần trong sử Việt
                  Trước đèn bảy trăm năm,
                  Trúc Lâm Trần Nhân Tông
                  Thăm thẳm tầm nhìn lớn.

                  Từ một hai hai năm (1225),
                  Đến thế kỷ mười bốn (1400)
                  Chuyện cũ chưa hề cũ
                  Thoáng chốc tròn tháng năm.

                  An nhiên chào ngày mới
                  Vui bạn hiền người thân
                  Nhà Trần trong sử Việt.
                  Tinh hoa chọn đôi vần.

                  (*) Trích thơ Tụng giá hoàn kinh sư của
                  Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải

                  THÁI TÔNG VÀ HƯNG ĐẠO

                  Minh quân hiền tài vua tôi đồng lòng toàn dân gắng sức. Trần Thái Tông, Trần Hưng Đạo, Trần Thánh Tông là ba đỉnh cao vọi của trí tuệ thời Trần. Vua Trần Nhân Tông khi lên đỉnh Yên Tử có hỏi về ba đỉnh cao của dãy núi kia là gì thì được trả lời đó là dãy Yên Phụ của vòng cung Đông Triều trấn Bắc. Đức vua Phật Trần Nhân Tông đã lạy Yên Phụ và chọn Yên Tử làm nơi Cư trần lạc đạo chốn an nghĩ của mình. Trần Thái Tông và Trần Quốc Tuấn là câu chuyện minh quân thiên tài thật lạ lùng và sâu sắc lưu dấu nơi đất Việt. Bài học lịch sử Trần Thánh Tông, Trần Hưng Đạo, Trần Thánh Tông, Trần Quang Khải, Trần Khánh Dư … là suối nguồn tươi trẻ của một câu chuyện tuyệt vời được nối tiếp sâu hơn trong các chuyên luận khác.

                  Vua Trần Thái Tông (1218-1277) người sáng nghiệp nhà Trần có câu nói nổi tiếng trong lịch sử: “Nếu chỉ để lời nói suông cho đời sau, sao bằng đem thân mình đảm nhận trọng trách cho thiên hạ trước đã”. Vua Trần Thái Tông là bậc minh quân tài trí được so sánh với Đường Thái Tông Lý Thế Dân là vị vua giỏi Trung Hoa thời trước đó. “Sáng nghiệp Việt, Đường hai Thái Tông/ Đường xưng: Trinh Quán, Việt: Nguyên Phong/ Kiến Thành bị giết, An Sinh sống/ Miếu hiệu tuy đồng, đức chẳng đồng”.

                  Đường Thái Tông Lý Thế Dân ngày 4 tháng 9 năm 626 đã lên ngôi hoàng đế nhà Đường sau sự biến Huyền Vũ môn. Đường Thái Tông thiết lập nên sự cường thịnh của nhà Đường phát triển về kinh tế và hùng mạnh về quân sự nhất thế giới thời ấy, nhưng so đức độ với vua Việt Trần Thái Tông thì vua Việt được người đời ca ngợi hơn. 

                  An Sinh Vương Trần Liễu là người chống lại Thái Tông và hận thù giữa họ sâu đến nỗi Trần Liễu còn di nguyện cho Trần Quốc Tuấn sau này nhất thiết phải đoạt lại ngôi vua. Vua Trần Thái Tông không chỉ tha cho An Sinh Vương Trần Liễu mà còn tha cho Trần Quốc Tuấn là người đã gây ra chuyện tầy đình.

                  Tình yêu thương của Trần Quốc Tuấn và Thiên Thành công chúa là một câu chuyện thật quái và phi thường ! Tình yêu đó thật lớn lao nhưng sự việc quá liều lĩnh, khí phách và đặc biệt nguy hiểm. Trần Quốc Tuấn ngay trong đêm tân hôn của Thiên Thành công chúa với Nhân Đạo Vương đã dám lẻn vào cung của Nhân Đạo Vương ngủ với người mình yêu mà không sợ cái chết trong lúc Trung Thành Vương con trai của Nhân Đạo Vương đang bận đãi khách chưa kịp động phòng. Công chúa Thiên Thành con gái của vua Trần Thái Tông thì đã dám chọn cái chết để trao thân cho Trần Quốc Tuấn là người mình yêu, bất chấp đám cưới với Trung Thành Vương là con trai của Nhân Đạo Vương vị quan đầu triều Trần.

                  Vua Trần Thái Tông đã không làm ngơ để Quốc Tuấn bị giết. Vua chủ động kết nối lương duyên ngay cho Thiên Thành Quốc Tuấn bất chấp lẽ thường. Câu chuyện vua Trần Thái Tông không những không giết Trần Quốc Tuấn, con của Trần Liễu kẻ tử thù đang rất hận mình và đang “cố tình phạm tội ngông cuồng” trái nhân tình mà còn chủ động tác thành cho Thiên Thành Quốc Tuấn nên vợ chồng, hóa giải mọi điều, thu phục được tấm lòng của bậc anh hùng và giữ lại được cho non sông Việt một bậc kỳ tài muôn thuở

                  Chuyện lạ và hay, thật hiếm có !

                  Tượng Trần Quốc Tuấn ở chùa cổ Thắng Nghiêm, ảnh Hoàng Kim

                  LỜI DẶN CỦA THÁNH TRẦN

                  Chùa cổ Thắng Nghiêm là nơi Đức Thánh Trần thuở nhỏ đã theo công chúa Thụy Bà về đây để tìm minh sư học phép Chọn người, Đạo làm tướng, viết kiệt tác Binh thư Yếu lược. Mẹ tôi họ Trần. Tôi về dâng hương Đức Thánh Trần tại đền Tổ. Lắng đọng trong tôi
                  Lời thề trên sông Hóa; Lời dặn của Thánh Trần.

                  Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn là nhà quân sự kiệt xuất nhất trong lịch sử Việt Nam nhà chính trị, ngoại giao, tư lệnh tối cao của Việt Nam thời nhà Trần, đã ba lần đánh thắng đội quân Nguyên Mông đế quốc hùng mạnh nhất thế giới thời đó. Người là một trong mười vị tướng tài của Thế Giới

                  Trần Hưng Đạo sinh năm 1232, mất ngày 20 tháng 8 âm lịch năm 1300, ông là con thứ ba của An Sinh Vương Trần Liễu, gọi Trần Thái Tông bằng chú ruột, mẹ ông là Thiện Đạo quốc mẫu, một người trong tôn thất họ Trần. Ông sinh ra ở kinh đô Thăng Long, quê quán ở thôn Tức Mặc, phường Lộc Vượng, TP Nam Định ngày nay. Ông khi lên 5 tuổi năm 1237 làm con nuôi cô ruột là Thụy Bà công chúa, vì cha ông là Trần Liễu chống lại triều đình (Trần Thủ Độ). Đại Việt sử ký toàn thư mô tả ông là người có dung mạo khôi ngô, thông minh hơn người, nhờ được những người tài giỏi đến giảng dạy nên ông sớm trở thành kỳ tài xuất chúng văn võ song toàn, thông hiểu sâu sắc huyền cơ tạo hóa, phép biến dịch và cách dùng binh..

                  Vua Trần Thái Tông tên thật là Trần Cảnh, sinh ngày 16 tháng 6 năm 1218 mất ngày 1 tháng 4 năm 1277, là vị hoàng đế đầu tiên của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam, lên ngôi ngày 5 tháng 5 năm 1225 mở đầu nhà Trần trong sử Việt. Ông ở ngôi hơn 32 năm (1225 – 1258), làm Thái thượng hoàng trong 19 năm. Trần Cảnh sinh ra dưới thời kỳ nhà Lý còn tại vị, ông cùng tuổi với vị Nữ hoàng nhà Lý lúc bấy giờ là Lý Chiêu Hoàng. Ông được Chiêu Hoàng yêu mến, hay gọi vào vui đùa, Trần Cảnh khi ấy không nói năng gì nhưng khi về đều nói lại với chú họ là Trung Vũ Vương Trần Thủ Độ. Nhà Lý loạn cung đình thuở ấy đã tới đỉnh điểm. Vua Lý tuy có hai con gái thông minh, hiền hậu và rất giỏi nhưng không có con trai nối dõi, trong khi hoàng tộc nhà Lý lắm kẻ mưu mô kém đức dòm ngó ngôi báu. Nước Đại Việt thuở đó bên ngoài thì họa ngoại xâm từ đế quốc Nguyên Mông đang rình rập rất gần, bên trong thì biến loạn bùng nổ liên tục nhiều sự kiện rất nguy hiểm. Trần Thủ Độ nắm thực quyền chốn cung đình, nhận thấy Trần Cảnh cháu mình cực kỳ thông minh đỉnh ngộ, thiên tư tuyệt vời xứng là một minh quân, lại được Lý Chiêu Hoàng yêu mến nên đã sắp đặt hôn nhân giữa Trần Cảnh và Lý Chiêu Hoàng đám đặt cược việc làm vua với họa diệt tộc Trần nếu chọn lầm người. Sự kiện đó xảy ra vào ngày 31 tháng 12 năm 1225, đã chấm dứt triều đại nhà Lý đã tồn tại hơn 200 năm và khai sáng nhà Trần.

                  Lý Chiêu Hoàng tức Lý hoàng hậu vợ Trần Thái Tông trớ trêu thay sinh con nhưng con bị chết yểu ngay sau khi sinh, cho nên Trần Thái Tông không có người kế vị chính danh phận, trong lúc sự chống đối và chỉ trích cay độc của tôn thất nhà Lý do Hoàng Thái hậu cầm đầu lại đẩy lên cao trào rất nặng nề. Nhiều kẻ tôn thất mượn tiếng có con trai nối dõi dòm ngó cướp ngôi. Thuận Thiên công chúa là vợ của Trần Liễu khi ấy đang mang thai được 3 tháng. Năm 1237, Thái sư Trần Thủ Độ nắm thực quyền phụ chính đã ép cha của Trần Quốc Tuấn là Trần Liễu phải nhường vợ là Thuận Thiên công chúa (chị của Lý Chiêu Hoàng) thay làm Chính cung Hoàng hậu cho Trần Thái Tông, đồng thời giáng Lý hoàng hậu xuống làm công chúa. Việc này khiến Trần Thái Tông bỏ lên tu ở núi Yên Tử.

                  Người sau này đã chứng ngộ vận nước lâm nguy cường địch bên ngoài câu kết nội gián bên trong không thể không xử thời biến đặt vận mệnh “non sông đất nước Việt trên hết”. Người đã chấp nhận quay trở về “Nếu chỉ để lời nói suông cho đời sau, sao bằng đem thân mình đảm nhận trọng trách cho thiên hạ trước đã”. Trần Thái Tông đã chấp nhận sự sắp xếp của Triều đình.

                  Sau này, ông truyền ngôi cho Thái tử Trần Hoảng là con thứ, vào ngày 24 tháng 2 năm 1258 để lui về làm Thái thượng hoàng,(con trưởng Trần Quốc Khang vốn là con Trần Liễu, anh em cùng cha khác mẹ với Trần Quốc Tuấn). Trần Thái Tông được tôn làm Hiển Nghiêu Thánh Thọ Thái Thượng Hoàng Đế. Trần Hoảng lên ngôi tức Trần Thánh Tông. Tước vị và thông lệ Thái thượng hoàng của nhà Trần từ đấy đã trở thành truyền thống, vừa rèn luyện cho vị Hoàng đế mới cai trị đất nước càng sớm càng tốt vừa tránh được việc tranh giành ngôi báu giữa các con do chính danh sớm được định đoạt.

                  Trần Liễu gửi con là Trần Quốc Tuấn cho Thụy Bà công chúa mai danh ẩn tích tại chùa Thắng Nghiêm tìm minh sư luyện rèn văn võ. Sau đó ông dấy binh làm loạn ở sông Cái, cuối cùng bị thất thế, phải xin đầu hàng. Trần Thủ Độ toan chém nhưng Trần Thái Tông liều chết đưa thân mình ra ngăn cản buộc lòng Thủ Độ phải tự mình ném bảo kiếm xuống sông. Trần Liễu được tha tội nhưng quân lính theo ông làm phản đều bị giết hết và vua Thái Tông đổi ông làm An Sinh vương ở vùng đất Yên Phụ, Yên Tử thuộc tỉnh Quảng Ninh ngày nay.

                  Trần Quốc Tuấn từ 5 tuổi đã được minh sư rèn luyện tỏ ra và một vị nhân tướng lỗi lạc phi phàm lúc trở về sớm được Trần Thái Tông quý trọng đức độ tài năng trong số con cháu vương thất. Qua sự biến Trần Quốc Tuấn yêu thương công chúa Thiên Thành, là con gái của vua Trần Thái Tông, nhân lễ hội trăng rằm nửa đêm đã lẻn vào chỗ ở của công chúa và thông dâm với nàng. Thời nhà Trần đã có quy định, để tránh ngôi vua truyền ra ngoài, chỉ có người trong tộc mới được lấy nhau nên kết hôn cùng huyết thống là điều không lạ và chuyện “quái” ấy cũng ‘quái” như việc Trần Thái Tông lấy vợ Trần Liễu.

                  Lại oái oăm thay, người Trần Quốc Tuấn yêu say đắm là công chúa Thiên Thành, mà vua Trần Thái Tông năm 1251 đã đính ước gả cô cho Trung Thành Vương là con trai của Nhân Đạo Vương. Vua đã nhận sính lễ, thông báo với quần thần và đang tiệc cưới. Trần Quốc Tuấn nửa đêm trăng rằm đột nhập vào phòng riêng công chúa ở phủ Trung Thành Vương và đôi trai gái trẻ đồng lòng đến với nhau. Quốc Tuấn nói với công chúa Thiên Thành sai thị nữ đi gặp Công chúa Thụy Bà cấp báo với vua ngay trong đêm đó. Vua hỏi có việc gì, Thụy Bà trả lời:“Không ngờ Quốc Tuấn ngông cuồng càn rỡ, đang đêm lẻn vào chỗ Thiên Thành, Nhân Đạo đã bắt giữ hắn rồi, e sẽ bị hại, xin bệ hạ rủ lòng thương, sai người đến cứu”. Trần Thái Tông vội sai người đến dinh Nhân Đạo vương, vào chỗ Thiên Thành, thì thấy Trần Quốc Tuấn đã ở đấy. Hôm sau, Thụy Bà công chúa dâng 10 mâm vàng sống đến chỗ Trần Thái Tông xin làm lễ cưới Thiên Thành công chúa cho Trần Quốc Tuấn. Thái Tông bắt đắc dĩ phải gả công chúa cho ông và lấy 2000 khoảnh ruộng ở phủ Ứng Thiên để hoàn lại sính vật cho Trung Thành vương. Tháng 4 năm đó, Trần Liễu ốm nặng. Lúc sắp mất, Trần Liễu cầm tay Trần Quốc Tuấn, trăng trối rằng: “Con không vì cha lấy được thiên hạ, thì cha chết dưới suối vàng cũng không nhắm mắt được”. Trần Quốc Tuấn ghi để trong lòng, nhưng không cho là phải.

                  Câu chuyện Trần Quốc Tuấn yêu thương công chúa Thiên Thành và đã làm liều dám lấy tính mạng của mình làm như thể “cố tình phạm tội ngông cuồng trái nhân tình”, nhưng mấy ai thấu hiểu đó là sự lưa chọn sinh tử, phép thử tối cao cuối cùng của vị nhân tướng trước khi trao sinh mệnh đời mình cho Người tin yêu mình trong thực tiễn. Đó là phép biến Dịch của “Đạo làm tướng” “Chọn người”.

                  Trần Thái Tông và Trần Quốc Tuấn câu chuyện đêm trăng rằm để hiểu sâu hơn chiến công nhà Trần ba lần đánh thắng quân Nguyên. Trần Thái Tông, Trần Quốc Tuấn, Trần Thánh Tông với thực tiễn hiển hách Xem tiếp >>

                    Dạy và học 2 tháng 7(02-07-2021)


                  DẠY VÀ HỌC 2 THÁNG 7
                  Hoàng Kim
                  CNM365 Tình yêu cuộc sốngViệt Nam tổ quốc tôi; Việt Nam thông tin khái quát; Nha Trang và A. Yersin; Chuyện đồng dao cho em; Hoa Đất thương lời hiền; Hồ Xuân Hương góc khuất; Câu chuyện ảnh tháng bảy; Ngày 2 tháng 7 năm 1976,Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa Miền Nam Việt Nam hợp nhất thành nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Ngày 2 tháng 7 năm 1986, ngày mất Hoàng Văn Thái, Đại tướng Quân đội Nhân dân Việt Nam (sinh năm 1915). Ngày 2 tháng 7 năm 1958, ngày sinh Đặng Thái Sơn, nghệ sĩ dương cầm Việt Nam. Bài chọn lọc ngày 2 tháng 7: Việt Nam tổ quốc tôi; Việt Nam thông tin khái quát;Nha Trang và A. Yersin; Chuyện đồng dao cho em; Hoa Đất thương lời hiền; Hồ Xuân Hương góc khuất; Câu chuyện ảnh tháng bảy; Lên Thái Sơn hướng Phật; Đêm Yên Tử; Hoa và Ong Hoa Người; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-2-thang-7/

                  Bản đồ địa hình Việt Nam. Được tạo với GMT từ dữ liệu GLOBE được phát hành công khai Topographic map of Vietnam. Created with GMT from publicly released GLOBE data

                  VIỆT NAM TỔ QUỐC TÔI
                  Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim

                  VIỆT NAM HỌC Tổng quan văn hoá và kinh tế xã hội Việt Nam là tập tài liệu giảng dạy nghiên cứu Việt Nam Học: người Việt, tiếng Việt, nông nghiệp Việt Nam, văn hóa, kinh tế, xã hội, du lịch sinh thái. Mục đích nhằm đúc kết kiến thức nền Việt Nam Học, giúp việc tìm hiểu đất nước con người Việt Nam “vốn xưng nền văn hiến đã lâu; núi sông bờ cõi đã chia, phong tục Bắc Nam cũng khác” (Nguyễn Trãi, 1428) với phẩm chất văn hóa thân thiện, tốt đẹp. Việt Nam Học bài này giới thiệu tóm tắt Thông tin nhanh về Việt Nam Bài đọc thêm Việt Nam đất lành chim đậu
                  Nha Trang và A. Yersin

                  Hình 2: Bảy vùng sinh thái kinh tế nông nghiệp Việt Nam

                  VIỆT NAM MỘT THOÁNG NHÌN
                  Hoàng Tố Nguyên

                  Việt Nam là một đất nước yêu độc lập, tự do và hạnh phúc. Đất nước Việt Nam hình chữ S, nằm ở trung tâm khu vực Đông Nam Á, ở phía đông bán đảo Đông Dương, phía bắc giáp Trung Quốc, phía tây giáp Lào, Campuchia, phía đông nam trông ra biển Đông và Thái Bình Dương. Việt Nam có diện tích 331.211,6 km², Dân số hiện tại của Việt Nam là 98.169.571 người vào ngày 01/07/2021 theo số liệu mới nhất từ Liên Hợp Quốc; Việt Nam đang đứng thứ 15 trên thế giới trong bảng xếp hạng dân số các nước và vùng lãnh thổ.Mật độ dân số của Việt Nam là 317 người/ km²; 37,34% dân số sống ở thành thị (36.346.227 người vào năm 2019) (Nguồn: https://danso.org/viet-nam/). Thủ đô là Hà Nội. Ba thành phố chính nổi tiếng nhất của Việt Nam là Hà Nội, Huế và thành phố Hồ Chí Minh. Bờ biển Việt Nam dài 3 260 km, biên giới đất liền dài 4 510 km. Trên đất liền, từ điểm cực Bắc đến điểm cực Nam (theo đường chim bay) dài 1 650km, từ điểm cực Đông sang điểm cực Tây nơi rộng nhất 600km (Bắc bộ), 400 km (Nam bộ), nơi hẹp nhất 50km (Quảng Bình). Kinh tuyến Việt Nam từ 102º 08′ đến 109º 28′ đông,Vĩ tuyến Việt Nam từ 8º 02′ – 23º 23′ bắc. Việt Nam là đầu mối giao thông từ Ấn Độ Dương sang Thái Bình Dương. Khí hậu Việt Nam là khí hậu của nước nhiệt đới gió mùa; Địa hình lãnh thổ Việt Nam phần đất liền bao gồm 3 phần 4 là đồi núi; Tài nguyên Việt Nam có những nguồn tài nguyên vô cùng phong phú như tài nguyên rừng, tài nguyên thủy hải sản, tài nguyên du lịch và nhiều loại khoáng sản đa dạng, nhưng trên hết, trước hết đó là tài nguyên con người hiền hòa, thân thiện, anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang, năng động, sáng tạo, sống có trách nhiệm với mái nhà chung Trái Đất, thích làm bạn với nhân dân thế giới.  Phân cấp hành chính Việt Nam hiện nay theo Điều 110 Hiến pháp 2013 [1] và Điều 2 Luật Tổ chức chính quyền địa phương[2] gồm 3 cấp hành chính là cấp tỉnh, cấp huyện cấp xã; ngoài ra còn có đơn vị hành chính kinh tế đặc biệt do Quốc hội thành lập. Việt Nam sau nhiều lần chia tách và nhập lại, tính đến nay, có 63 đơn vị hành chính cấp Tỉnh, bao gồm 5 thành phố trực thuộc trung ương (Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng, Cần Thơ) và 58 tỉnh (tương ứng với chữ số được đánh dấu trên “bản đồ Hành chính Việt Nam“) và một thoáng nhìn toàn cảnh tại Bảy vùng sinh thái kinh tế nông nghiệp Việt Nam (hình 2 và 3) và.Việt Nam thông tin khái quát, xem tiếp tại đây https://hoangkimlong.wordpress.com/category/viet-nam-thong-tin-khai-quat/

                  Hình 3: Bản đồ Hành chính Việt Nam

                  Việt Nam Tổ quốc tôi  Nong Lam University in Ho Chi MinhDạy và HọcCây Lương thực Việt NamCNM365Tình yêu cuộc sống đúc kết thông tin Việt Nam Đất nước Con người, Ngôn ngữ Nông nghiệp Du lịch Sinh thái, Lịch sử Địa lý Giáo dục Văn hóa, Kinh tế Xã hội Truyền Thông Ebook. Thông tin VIỆT NAM HỌC được trích dẫn từ Wikipedia tiếng Việt và các nguồn liên quan tới 1 tháng 7 năm 2021

                  Việt Nam Học bài đọc thêm
                  Nông nghiệp sinh thái Việt
                  Di sản thế giới tại Việt Nam
                  Du lịch sinh thái Việt
                  Vườn Quốc gia Việt Nam
                  Nông nghiệp công nghệ cao
                  Nông nghiệp Việt trăm năm
                  Ngôn ngữ văn hóa Việt
                  Dạo chơi non nước Việt

                  Việt Nam đất lành chim đậu

                  NHA TRANG VÀ A. YERSIN
                  Hoàng Kim


                  A Na bà chúa Ngọc
                  Nha Trang và A. Yersin
                  Ban mai đứng trước biển
                  Hoa ĐấtNgọc phương Nam..

                  Nha Trang biển yến rừng trầm thiên đường nghỉ dưỡng du lịch biển đảo nổi tiếng Việt Nam , nơi ấy có di sản nổi tiếng A Na bà chúa Ngọc Nha Trang cũng là nơi an nghĩ và lưu dấu những cống hiến đặc biệt xuất sắc của nhà bác hoc thiên tài Yersin. Quần thể lăng mộ Yersin ở Suối Dầu và Viện Pasteur Thư viện Yersin công viên Yersin Nha Trang là trường hợp duy nhất Chính phủ Việt Nam cấp bằng chứng nhận di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia cho một người nước ngoài. Dân làng Tân Xương Suối Dầu thờ Yersin làm Thành hoàng. Ngày mỗi ngày, công viên Yersin, Bảo tàng Yersin, mộ Yersin càng có nhiều lượt khách trong nước và quốc tế đến thăm để chiêm nghiệm bài học lớn tình yêu cuộc sống.

                  A. YERSIN Ở NHA TRANG

                  Alexandre Émile Jean Yersin là nhà bác học lỗi lạc người Pháp gốc Thụy Sĩ. Ông là bác sĩ y khoa, nhà vi khuẩn học, nhà thám hiểm, nhà nông học, nhà chăn nuôi, nhà điểu học, nhà dân tộc học, nhiếp ảnh gia, nhà nghiên cứu khí tượng, nhà văn, nhà dịch thuật, nhà nhân đạo và ân nhân được nhân dân Việt Nam tôn kính. Ông được trao tặng Bắc Đẩu Bội tinh, huân chương cao quý nhất của nước Pháp, Việt Nam long bội tinh, Viện sĩ Viện Hàn Lâm Khoa học, Viện Hàn lâm Y học, Viện Hàn lâm Khoa học các thuộc địa, Hội Bệnh học Hải ngoại, Hội Y học Nhiệt đới, Hội Thiên văn Pháp quốc. Yersin sinh ngày 22 tháng 9 năm 1863 tại làng Lavaux (hat Vaux) Aubonne, Thụy Sĩ, tổ tiên ông vốn là người Pháp di cư sang Thụy Sĩ, năm 1889 ông phục hồi quốc tịch Pháp. Alecxandre Yersin mất tại Nha Trang ngày 01 tháng 3 năm 1943.

                  Nha Trang gắn bó với Yersin như hình với bóng. Yersin sống chết với Nha Trang. Ông tới Việt Nam năm 1890, Ông thám hiểm tìm ra con đường bộ từ Nha Trang ven Biển Đông băng qua dãy Trường Sơn qua Stung Treng đi suốt dọc ha lưu sông Mekong đến Phnom Penh năm 1892 . Ông là người thám sát lần đầu Cao nguyên Lâm Viên năm 1893 giúp thiết lập nên thành phố nghỉ mát Đà Lạt. Yersin đã tìm ra trực khuẩn gây bệnh dịch hạch sau này được đặt theo tên ông Yersinia pestis năm 1894 và điều chế huyết thanh chữa trị. Yersin là người sáng lập Viện Pasteur Nha Trang năm 1895. Với tiền thưởng khoa học, Yersin mua một khu đất rộng 500 héc-ta ở Suối Dầu để làm nông nghiệp và chăn nuôi.

                  Nha Trang và Yersin có một mối nhân duyên thật kỳ lạ. Năm 1891, khi đặt chân đến Nha Trang, Yersin đã yêu mến vùng đất này, và quyết định lưu trú tại đây. Ông viết cho Émile Roux, “Hãy đến đây với tôi, ông sẽ biết ở đây thú vị như thế nào, thời tiết không nóng nhiều, cũng không lạnh lắm, một khung cảnh thanh bình tuyệt đối và nhiều công việc cần làm“. Tên gọi “Nha Trang” có hai giả thuyết, một giả thuyết cho rằng nó được hình thành do cách đọc của người Việt phỏng theo âm một địa danh Chăm vốn có trước là Ya Trang hay Ea Trang (có nghĩa là “sông Lau”, tiếng người Chăm, tức là gọi sông Cái chảy qua Nha Trang ngày nay, con sông này đổ ra biển đúng chỗ có nhiều cây lau). Từ tên sông, sau chỉ rộng ra vùng đất, từ năm 1653. Giả thiết khác cho rằng Nha Trang trước năm 1891 chưa có tên gọi trên bản đồ chỉ mới là một vịnh nước yên tĩnh đầy nắng nhưng khi Yersin đến ở và xây “nhà trắng” nổi bật trên những ngôi nhà làng chài lúp xúp trên dải cát trắng từ năm 1891, thì họ gọi là ”Nhà trắng” lâu dần phiên âm thành Nha trang. Giả thiết đầu tiên được các nhà nghiên cứu thống nhất hơn. Dẫu vậy giả thuyết thứ hai cũng được nhiều người ủng hộ.

                  Yersin lưu dấu nhiều ký ức sâu đậm tại Nha Trang. Di sản Yersin thật sự to lớn và bền vững với thời gian ở Việt Nam. Ông từ trần tại nhà riêng ở Nha Trang ngày 1 tháng 3 năm 1943, và để lại di chúc: “Tôi muốn được chôn ở Suối Dầu. Yêu cầu ông Bùi Quang Phương giữ tôi lại tại Nha Trang, đừng cho ai đem tôi đi nơi khác. Mọi tài sản còn lại xin tặng hết cho Viện Pasteur Nha Trang, và những người cộng sự lâu năm. Đám táng làm giản dị, không huy hoàng không điếu văn.” Noël Bernard, người đầu tiên viết tiểu sử Yersin đã nhận xét: “Chắc chắn rất hiếm có người ít tư lợi đến thế. Yersin tự xóa mờ mình đi để người khác được tự do sáng kiến, sự tự do mà chính bản thân ông hết sức gắn bó

                  Yersin cũng lưu dấu ở Đà Lạt, Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Thủ Dầu Một. Tại Đà Lạt, thành phố tình yêu, nơi núi non tuyệt đẹp trên cao nguyên Lâm Viên, Yersin là người nước ngoài đầu tiên đã thám hiểm và khám phá ra Đà Lạt. Tên ông được lưu dấu tại Trường Lycée Yersin (Trường Cao đẳng Sư phạm), Trường Đại học Yersin và Công viên Yersin. Tại Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng và Thủ Dầu Một,  tên của Yersin được đặt  tên đường để vinh danh. Dẫu vậy, nơi chính của Người vẫn là ở Nha Trang.

                  Ông Yersin là người đầu tiên du nhập và phát triển cây cao su ở Việt Nam năm 1897. Ông tuyển chọn nhiều loại thực vật và động vật từ khắp nơi trên thế giới để nuôi trồng tại Suối Dầu, biến nó thành một cộng đồng nông nghiệp và khoa học với một trạm xá phục vụ cư dân trong vùng.

                  Ngoài việc du nhập và phát triển cây cao su, ông cũng cho trồng cây cà-phê Liberia, các loại cây thuốc, cây coca để sản xuất cô-ca-in sử dụng trong ngành dược. Ông làm vườn, trồng hoa, nuôi chim, nuôi ngựa bò, sản xuất huyết thanh chống dịch cho bò. Trung tâm thí nghiệm này về sau trở thành Viện Thú y đầu tiên ở Đông Dương. Ông là người thành lập và là hiệu trưởng đầu tiên của Trường Y Đông Dương (tiền thân của Đại học Y Hà Nội) năm 1902. Ông trồng thử nghiệm cây canh ki na để sản xuất thuốc ký ninh chữa bệnh sốt rét năm 1917. Ông Năm Yersin nghiên cứu khoa học, sống thung dung trọn đời với người dân và thiên nhiên trong lành ở Suối Dầu, Nha Trang, Khánh Hòa.

                  Mộ ông Năm Alexandre Yersin nằm trên một ngọn đồi nhỏ gần Trại chăn nuôi Suối Dầu thuộc xã Suối Cát, huyện Cam Lâm, cách Nha Trang 20 km về phía nam và cách Đà Lạt 191km. Vị trí ngôi mộ tính từ cột mốc cây số và bảng hiệu chỉ đường rất rõ trên đường Quốc lộ 1, vào khoảng 2 km nữa thì đến một ngọn đồi có mộ ông Năm. Ngọn đồi này nằm giữa khu đất 500 ha ở Suối Dầu mà ông Năm đã mua bằng tiền thưởng nghiên cứu khoa học của chính ông. Tôi thật sự kính phục và ngưỡng mộ ông Năm và biết ơn khu đất này vì giống sắn KM94 và một số giống sắn lai mới triển vọng được bảo tồn và phát triển từ đây (Tôi sẽ kể chi tiết ở phần dưới).

                  A. YERSIN VỚI VIỆT NAM

                  Ông Năm Yersin là một người dân Việt sống chết với Việt Nam như chính sự thật cuộc đời ông mà không chỉ là một nhà bác học lỗi lạc người Pháp gốc Thụy Sĩ . Ông Năm hiền lành tốt bụng là người thầy, nhà nhân đạo và ân nhân được nhân dân Việt Nam tôn kính. Suối Giầu Nha Trang  nơi ông an nghĩ trở thành nôi nuôi dưỡng hun đúc những thành quả lao động khoa học không chỉ của ông mà còn của lớp người sau. (Suối Dầu hay Suối Giầu .còn đó một ẩn ngữ vì bác Năm Yersin cũng là một nhà ngôn ngữ học thông tuệ và tên gọi này có từ thời ông. Thơ thiền Trần Nhân Tông có câu: “Sách Nhàn đọc dấu Thơ thiền Nhân Tông như có như không”.”Kinh Dịch xem chơi, yêu tính sáng yêu hơn châu báu. Sách Nhàn đọc dấu, trọng lòng rồi trọng nữa hoàng kim” . Giấu hay là Dấu là một ẩn ngữ trên 700 năm Giầu hay là Dầu cũng là một ẩn ngữ trên 100 năm nay.

                  Ông Năm Yersin không chỉ là bác sĩ y khoa, nhà vi khuẩn học, nhà bệnh học hàng đầu thế giới, mà còn là người thành lập và là Hiệu trưởng đầu tiên Trường Y Đông Dương từ năm 1902 (tiền thân của Đại học Y Hà Nội) . Ông Năm là người đầu tiên tìm ra bệnh bạch hầu và cách chữa trị năm 1888, người đầu tiên tìm ra bệnh dịch hạch và điều chế huyết thanh chữa trị, người đầu tiên thử nghiệm cây canh ki na để sản xuất thuốc ký ninh chữa bệnh sốt rét năm 1917.

                  Ông Năm Yersin không những là nhà thám hiểm đặc biệt xuất sắc, người làm cho Nha Trang có tên ‘nhà trắng ông Hoàng’ ở ven biển Nha Trang thuở xưa, người thám sát lần đầu Cao nguyên Lâm Viên năm 1893 giúp thiết lập nên thành phố nghỉ mát Đà Lạt mà còn là nhà thám hiểm người nước ngoài đầu tiên đã tìm ra con đường bộ từ Nha Trang ở ven Biển Đông đi băng qua dãy Trường Sơn tới Stung Treng và đi suốt dọc hạ lưu sông Mekong đến Phnom Penh vào năm 1892.

                  Ông Năm Yersin không những là nhà chăn nuôi thành lập Trại Chăn nuôi Suối Dầu đầu tiên để làm Trung tâm thí nghiệm sản xuất huyết thanh chống dịch cho bò ngựa, và nơi này về sau trở thành Viện Thú y đầu tiên ở Đông Dương, nay lại trở thành Viện Paster Khánh Hòa mà ông Năm Yersin còn là nhà điểu học, nhà dân tộc học, nhiếp ảnh gia, nhà thiên văn, nhà phong thủy tài danh đặc biệt xuất sắc về khí tượng nông nghiệp. Ông vừa là nhà văn và là nhà dịch thuật;

                  Ông Năm Yersin không những là một nhà bác học đặc biệt thông tuệ mà còn là một nhà nông học phúc hậu hiền triết yêu thiên nhiên con người cây cỏ muông thú và vạn vật. Ông sống thung dung tự do tự tại giữa thiên nhiên an lành. Ông là người nước ngoài duy nhất được Chính phủ Việt Nam cấp bằng chứng nhận di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia vì ông là nhà nhân đạo và ân nhân được người Việt tôn kính vì ông làm điều thiện việc lành mà cuộc đời ông như gương trong. Ông Năm Yersin là người đầu tiên du nhập và phát triển cây cao su ở Việt Nam năm 1897. Ông nhờ khu đất rộng 500 héc-ta của chính ông tự mua ở Suối Dầu để làm nông nghiệp và chăn nuôi mà ông cũng là người đầu tiên du nhập và tuyển chọn nhiều loại thực vật và động vật từ khắp nơi trên thế giới để nuôi trồng tại Suối Dầu, biến nó thành một cộng đồng nông nghiệp và khoa học với một trạm xá phục vụ cư dân trong vùng.

                  Sắn Việt ở Suối Dầu chuyện nhỏ bài học lớn. Ông Năm Yersin mất lâu rồi mà đất lành ông Năm vẫn tiếp tục nở hoa đất việc tốt điều thiện. Sắn Việt KM94 cùng nhiều giống sắn lai mới được bảo tồn tuyển chọn, nhân giống phát triển ở tỉnh Khánh Hòa từ năm 1993, từ một phần tư thế kỷ trước, tại đất lành Suối Dầu của ông Năm Yersin là nôi chọn và nhân giống cho miền Trung và sau đó đã phát triển rộng rãi ra khắp Việt Nam. Ông Năm Yersin sống và chết tại Việt Nam, sau nửa thế kỷ Hoa Người và Hoa Đất ấy tiếp tục nở hoa. Chúng ta có được nhiều nhà khoa học xanh đến đất lành Việt Nam cùng chung sức làm việc. Kazuo Kawano và Reinhardt Howeler là những người bạn tốt của nông dân trồng sắn châu Á và Việt Nam, mà tôi thực sự kính trọng yêu mến họ và tôi sẽ kể tiếp cho bạn nghe trong câu chuyện khác.

                  Di sản ông Năm Yersin ở Việt Nam thật kính trọng và ngưỡng mộ.

                  ĐẤT SUỐI DẦU A. YERSIN

                  Trại Chăn nuôi  Suối Dầu ở Suối Cát xã Cam Lâm, cách Nha Trang 20 km về phía nam và cách Đà Lạt 191 km. Nơi cột mốc cây số ven đường Quốc lộ 1 vẫn là tấm bảng hiệu khiêm nhường chỉ đường vào đất lành suối Dầu ông Năm Yersin. (Suối Dầu hay suối Giầu, giống như Đại Ngãi hay Đại Nghĩa, quê hương người anh hùng lao động Lương Định Của con đường lúa gạo Việt Nam ở Sóc Trăng). Trại Chăn nuôi Suối Dầu Cam Lâm chính nơi đây năm 1993 đã là nôi khảo nghiệm nhân giống sắn KM94 ra Khánh Hòa và các tỉnh miền Trung Việt Nam sau hơn nữa thế kỷ từ năm 1943 mà bác Năm Yersin mất. Chị Đinh Thị Dục, giám đốc Trung tâm Khuyến Nông và Khuyến Lâm Khánh Hòa đã phối hợp cùng chúng tôi công bố kết quả này tại sách sắn ”Chương trình sắn Việt Nam hướng đến năm 2000″ trang 239 – 243. Tôi tìm về di sản đất lành Suối Dầu ông Năm Yersin với biết bao xúc động cảm khái. Tôi lắng nghe các cây cao su già trăm tuổi, mía, đồng cỏ …và các ruộng sắn rì rào trò chuyện với gió núi, gió đồng quê gió biển. Chính nơi đây một phần tư thế kỷ trước tôi đã đến đây nhiều lần và thấu hiểu và chiêm nghiêm trên cõi đời này có nhiều điều uẩn khúc. Mục tiêu sau cùng của dạy và học là thấu suốt bản chất sự vật có lời giải đúng và làm được việc.

                  Đất lành Suối Dầu A. Yersin đến nay tuy được bảo tồn nhưng vẫn chưa được đánh thức đúng tiềm năng. Hội Liên hiệp Phụ Nữ Thành phố Nha Trang chào mừng Khánh Hòa 350 năm đã có đầu tư giếng khoan nhưng phải đậy nắp vì sợ sự bảo quản máy bơm không an toàn và dường như điều này chưa thật đúng như tâm nguyện ông Năm Yersin là muốn nước giếng thơi ai cũng múc được. Giáo sư bác sĩ Nguyễn Chấn Hùng đã kể chuyện về quẻ Thủy Phong Tỉnh dạy về tinh thần của giếng trong sách Chu Dịch của cụ Sào Nam “Nước giếng trong không đậy, ai cần thì cứ múc. Giếng không sợ cạn. Càng múc nước lên càng trong, đầy mà không tràn. Không được đậy lại, phải để mọi người dùng”. Cụ Phan Bội Châu bàn về hào thượng quẻ Tỉnh:“Nước đã lên miệng giếng rồi, thời nên để cho tất thảy người dùng, chớ nên che trùm lại. Hễ ai muốn múc thời tùy ý múc. Quân tử đem tài đức ra gánh vác việc đời. Hễ lợi ích cho thiên hạ thời cứ làm, mà chẳng bao giờ tiếc công”.

                  Tôi và tiến sĩ Phan Công Kiên được mời tham gia Hội đồng Khoa học và Công nghệ Khánh Hòa đánh giá nghiệm thu đề tài “Nghiên cứu xác định đối tượng và cơ cấu cây trồng phù hợp trên đất thoái hóa tại xã Cam Thịnh Tây, thành phố Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa”. Tiến sĩ Phan Công Kiên là Phó Viện Trưởng Viện nghiên cứu Bông và Phát triển Nông nghiệp Nha Hố. Kiên mới đến khu mộ bác Năm lần đầu còn tôi thì đã đến đây nhiều lần từ nhiều năm trước. Chúng tôi sau khi họp xong đã dành được thời gian lên thăm và thắp hương tưởng nhớ bác Năm, và cùng đứng bên khu mộ với giếng nước thơi để tưởng nhớ Người. Tôi thầm mong một ngày nào đó sẽ có cơ hội đưa gia đình và các bé con cháu tôi về nơi đây để thấu hiểu Nha Trang và Yersin một bài học lớn. Bài học giấc mơ hạnh phúc…

                  Tôi thắp hương tưởng nhớ bác Năm Yersin theo lối gọi yêu mến của người dân Việt và bâng khuâng nhớ Người. Tôi thầm tự hỏi: dưới vòm trời này, đất lành này, núi biếc biển xanh này, so sánh con người phúc hậu, hiền lành, khiêm nhường đang nằm dưới ngôi mộ yên bình kia và những vĩ nhân lỗi lạc nhất của các nước lớn đến và ra đi khỏi Việt Nam, rốt cụộc thì ai hơn ai ? Ai đọng lại trong lòng dân Việt sâu bền hơn?

                  Biết bao danh nhân nước ngoài đến Việt Nam nhưng mấy ai được dân Việt tôn kính và quý trọng đến vậy? Ông Năm khiêm nhường như thế nhưng công đức và công bằng lịch sử lắng đọng như một ân nhân dân Việt . Tôi về nhà muộn, không dừng được những suy nghĩ về bác Năm. Tôi chợt đọc được cảm nhận xúc động của em Nguyễn Quang Huy quê Phú Yên và tôi không nỡ không thức dậy thắp ngọn đèn khuya để đối thoại thầm lặng với đêm thiêng. Nguyễn Quang Huy viết:

                  Em đọc Yersin, người chữa trị dịch hạch và thổ tả, vào những buổi sáng ở cao nguyên Lâm Viên, lòng vô cùng ngưỡng mộ về vị bác sĩ danh tiếng này. Từ một chuyên gia trong lĩnh vực vi trùng, lại bỏ áo bluse để trở thành một thủy thủ vì sau một chuyến công tác đã “lần đầu tiên thấy biển”. Rồi khi trở thành thủy thủ lại một lần nữa từ bỏ những con sóng để khám phá ra cao nguyên Lâm Viên vì “nhìn thấy những đám mây trên rặng núi của Khánh Vĩnh chưa có ai khám phá”. Thế rồi sau những chuyến phiêu lưu lại trở thành một chuyên gia nông học, chủ đồn điền để lại cho người Việt biết bao lợi ích vì những công hiến của mình. Từ đồn điền rộng 500ha ông lại lui vè với mảnh đất mấy mét vuông với tấm bia mộ khiêm tốn ở Suối Dầu, để lại cho đời hình ảnh về một con người phi thường, một người không có cha nhưng đã đi xa hơn những giới hạn mà những người cha có thể đạt tới.

                  Theo mô tả của Patrick Deville thì Yersin suốt đời theo đuổi cái hiện đại nhất, em lại nhớ tới lời dạy của thầy Hoàng Kim rằng trong nghiên cứu khoa học phải mang về những thông tin số liệu mới nhất của thế giới, giống tốt nhất để phục vụ cho bà con. Em ngưỡng mộ cách thiết kế bài giảng của Thầy, thể hiện được sự tôn trọng khoa học và yêu nghề lớn lao.

                  Em chưa đến được viện Passteur cũng như đến Suối Dầu thăm mộ của bác sĩ Yersin, nhưng em có cảm giác một sự đồng điệu ghê gớm với con người của thế kỉ trước này. Em cũng đã ghé thăm trường Lycée Yersin (đã đổi tên thành Cao Đẳng Sư Phạm) hay Đại học Yersin nhưng chưa tìm thấy dấu ấn nào. Mong rằng có dịp sẽ đến được Suối Dầu Nha Trang để thắp một nén nhang và tưởng nhớ về một con người vĩ đại.

                  Cảm ơn Thầy ạ.”

                  Ông Năm Yersin không phải là người Việt nhưng ông được mọi người Việt mọi thời yêu quý, tôn kính, ngưỡng mộ. Ông thật hạnh phúc.

                  Đất lành bác Năm Yersin như cuốn sách kỳ diệu “vừng ơi mở ra”.
                  Nha Trang và Yersin, đất lành chim đậu, người hiền đến ở.
                  Nơi đây an nhiên một CON NGƯỜI.

                  Hoàng Kim

                  CHUYỆN ĐỒNG DAO CHO EM
                  Hoàng Kim


                  Đồng dao là chuyện tháng năm
                  Lời ru của mẹ
                  Trăng rằm thảnh thơi
                  Biết tìm bạn quý mà chơi
                  Học ăn học nói làm người siêng năng

                  Hiểu nhàn biết đủ thời an
                  Thung dung minh triết thanh nhàn thảnh thơi
                  Người sung sướng biết sống vui
                  Những người hiếu hạnh được đời yêu thương.

                  Việc chính là học làm người
                  Khắc sâu nhân nghĩa nhớ đời đừng quên
                  Hiếu trung phải học đầu tiên
                  Đừng tham tưởng bở mà quên ân tình.

                  Đừng tưởng cứ đẹp là tiên
                  Cứ trên là sáng cứ tiền là xong
                  Đừng tưởng không nói là câm
                  Không nghe tưởng điếc không trông tưởng mù

                  Đừng tưởng cứ trọc là sư
                  Cứ vâng là chịu cứ ừ là ngoan
                  Đừng tưởng có của là sang
                  Cứ im lặng tưởng là vàng nguyên cây.

                  Đừng tưởng cứ uống là say
                  Tai trâu đàn gẩy lời hay ham bàn
                  Đừng tưởng giàu hết gian tham
                  Không thời chẳng vận lạm bàn chuyện dân

                  Đừng tưởng cứ mới là tân
                  Cứ hứa là chắc cứ ân là tình
                  Đừng tưởng cứ thấp là khinh
                  Cứ chùa là tĩnh cứ đình là to.

                  Đừng tưởng già hết hồ đồ
                  Cứ trẻ là chẳng âu lo buồn phiền
                  Đừng tưởng cứ quyết là nên
                  Cứ mạnh là thắng cứ mềm là thua.

                  Đừng tưởng đã dấm là chua
                  Sấm rền là sẽ có mưa ngập trời
                  Đừng tưởng vui chỉ có cười
                  Buồn thì ủ rũ chỉ ngồi khóc than

                  Đừng tưởng cứ lớn là khôn
                  Cứ bé là dại cứ hôn là chồng
                  Đừng tưởng bịa có thành không
                  Nhìn gà hóa cuốc lẫn ông với thằng

                  Lúc vui tham bát bỏ mâm
                  Đến khi hoạn nạn tần mần bỏ đi
                  Đừng tưởng không nhất thì nhì
                  Phò thịnh sung sướng giúp suy nghèo hèn

                  Gặp trăng thì vội quên đèn
                  Hám tiền quên nghĩa đỏ đen lạc đường
                  Đừng tưởng giàu hết cô đơn
                  Cao sang hết ốm gian tham hết nghèo.

                  Đừng tưởng cứ núi là cao
                  Cứ sông là chảy, cứ ao là tù
                  Đừng tưởng cứ dưới là ngu
                  Tham giành là được thấy tu tưởng hiền.

                  Đừng tưởng cứ thấp là hèn
                  Cứ sang là trọng cứ tiền là xong
                  Đừng tưởng quan chức là rồng
                  Dân thường thấp cổ thì không biết gì.

                  Xem tiếp >>

                    Dạy và học 1 tháng 7(01-07-2021)

                  DẠY VÀ HỌC 1 THÁNG 7
                  Hoàng Kim

                  CNM365 Tình yêu cuộc sốngViệt Nam con đường xanh; Đặng Kim Sơn lắng đọng; Thăm nhà cũ của Darwin; Luân Đôn trong mắt tôi; Lên Thái Sơn hướng Phật; Đêm Yên Tử; Hoa và Ong Hoa Người; Bài thơ Viên đá Thời gian; Ngày 1 tháng 7 năm 1867, khởi đầu Quốc khánh Canada . Ngày 1 tháng 7 năm 1960, Ghana trở thành một nước cộng hòa, tổng thống đầu tiên là Kwame Nkrumah. Ngày 1 tháng 7 năm 1962, Rwanda và Burundi  giành độc lập từ Bỉ. Ngày 1 tháng 7 năm 1822 nhằm ngày 13 tháng 5 năm Nhâm Ngọ, ngày sinh Nguyễn Đình Chiểu, nhà thơ người Việt Nam (mất năm 1888). Ngày 1 tháng 7 năm 1955; ngày sinh Lý Khắc Cường, Thủ tướng Quốc vụ viện Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, nhà kinh tế học và chính trị người Trung Quốc. Bài chọn lọc ngày 1 tháng 7: Việt Nam con đường xanh; Đặng Kim Sơn lắng đọng; Thăm nhà cũ của Darwin; Luân Đôn trong mắt tôi; Lên Thái Sơn hướng Phật; Đêm Yên Tử; Hoa và Ong Hoa Người; Bài thơ Viên đá Thời gian; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-1-thang-7/

                  VIỆT NAM CON ĐƯỜNG XANH
                  Phim tài liệu NƯỚC TRỜI VTV1
                  https://vtv.vn/video/phim-tai-lieu-nuoc-troi-508247.htm; Nông nghiệp CHỦ ĐỘNG VƯỢT KHÓ https://vtv.vn/video/toa-dam-chu-dong-vuot-kho-503919.htm Tích hợp mạnh mẽ cố gắng
                  *
                  Việt Nam con đường xanh
                  NÔNG NGHIỆP CÔNG NGHỆ CAO
                  Hoàng Long, Nguyễn Văn Phu,
                  Nguyễn Thị Trúc Mai, Hoàng Kim
                  thu thập, tuyển chọn, đúc kết thông tin, tích hợp và giới thiệu

                  Mục đích sau cùng của DẠY VÀ HỌC là thấu suốt bản chất sự vật, có lời giải đúng và LÀM được việc. “Việt Nam con đường xanh ” và ” Nông nghiệp công nghệ cao” là chuyên mục thông tin địa chỉ xanh tin cậy của bạn đọc, có trên các trang http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://hoangkimlong.wordpress.com/category/nong-nghiep-cong-nghe-cao/https://hoangkimlong.wordpress.com/category/viet-nam-con-duong-xanh/; và https://www.csruniversal.org/viet-nam-con-duong-xanh/. Ứng dụng công nghệ nâng cao chuỗi giá trị nông nghiệp (Technological application enhances agriculture value chain), là chủ đề được Phó Giáo sư Tiến sĩ Đào Thế Anh, Phó Viện trưởng Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam, giới thiệu tại diễn đàn MALICA (Markets and Agriculture Linkages for Cities in Asia Kết nối Thị trường và Nông nghiệp các thành phố châu Á) và VTV4 https://vtv.vn/video/bizline-15-3-2020-427424.htm.

                  Việt Nam con đường xanh, Nông nghiệp công nghệ cao bài viết kỳ này giới thiệu Định hướng chiến lược quốc gia, phương hướng nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế xã hội 2021-2030 (* Đảng Cộng Sản Việt Nam 2020, Dự thảo các văn kiện trình đại hội Đảng XIII của Đảng) xác định 10 giải pháp cơ bản; 5 nhóm hệ thống giải pháp chính để đảm bảo phát huy hiệu quả giá trị của khối 13 sản phẩm chủ lực nông nghiệp Việt Nam nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân lao động. Ba trụ cột cốt lõi của một quốc gia là cân đối hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế, bảo vệ môi trường và thực hiện tiến bộ công bằng xã hội.theo kết luận của Hội nghị thượng đỉnh toàn cầu về Phát triển bền vững tại Cộng hòa Nam Phi năm 2002 với Định hướng và tầm nhìn Việt Nam con đường xanh. Năm bài viết chọn lọc, gồm: 1) Nông nghiệp hữu cơ hiện trạng và giải pháp nghiên cứu phát triển của tác giả PGS..TS Nguyễn Văn Bộ, TS Ngô Doãn Đảm 2) Đào tạo nguồn nhân lực và nghiên cứu khoa học ứng dụng phục vụ phát triển nông nghiệp công nghệ cao và công nghệ thực phẩm tại Trường Đại học Văn Lang” của tác giả PGS.TS Phan Phước Hiền và TS Châu Tấn Phát, 3) “Nghiên cừu ứng dụng công nghệ sinh học cho phát triển nông nghiệp công nghệ cao” của PGS.TS. Dương Hoa Xô, Trung Tâm Công nghệ Sinh học TP. HCM; 4) Một số thông tin chọn lọc điểm sáng nông nghiệp nông dân nông thôn nông nghiệp công nghệ cao; 5) Chọn giống sắn kháng CMD hiện trạng và triển vọng

                  Nông nghiệp công nghệ cao liên kết chuỗi thông tin chuyên đề tại các đường link Việt Nam con đường xanh; Nông nghiệp sinh thái Việt; Nông nghiệp Việt trăm năm; Viện Lúa Sao Thần Nông; IAS đường tới trăm năm; Trường tôi nôi yêu thương; Chọn giống sắn kháng CMD; Giống sắn KM419 và KM440; Cách mạng sắn Việt Nam; Chọn giống sắn Việt Nam; Mười kỹ thuật thâm canh sắn; Quản lý bền vững sắn châu Á; Cassava and Vietnam: Now and Then; Lúa siêu xanh Việt Nam; Gạo Việt và thương hiệu; Lúa C4 và lúa cao cây; Lúa sắn Cămpuchia và Lào; Lúa sắn Việt Châu Phi; Lúa Việt tới Châu Mỹ; Giống khoai lang Việt Nam; Giống ngô lai VN 25-99; Giống lạc HL25 Việt Ấn; Nhà sách Hoàng Gia;

                  VIỆT NAM CON ĐƯỜNG XANH
                  Hoàng Kim

                  Bác Hồ nói: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành“. Việt Nam con đường xanh cốt lõi là an dân với năm yếu tố: An sinh xã hội; An tâm; An lạc; An toàn; An ninh.

                  Định hướng chiến lược quốc gia, phương hướng nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế xã hội 2021-2030 xác định 10 giải pháp cơ bản: (* Đảng Cộng Sản Việt Nam 2020, Dự thảo các văn kiện trình đại hội Đảng XIII của Đảng)

                  1) Tập trung hoàn thiện nâng cao chất lượng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, giải quyết tốt hơn quan hệ giữa Nhà nước và thị trường.

                  2) Phát triển mạnh mẽ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo nhằm tạo bứt phá nâng cao năng suất, chất lượng hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế;

                  3) Phát triển nguồn nhân lực, giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu nhân lực chất lượng cao của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế;

                  4) Đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, bảo đảm thực chất, hiệu quả; phát triển nền kinh tế số; thúc đẩy tăng trưởng nhanh, bền vững trên cơ sở ổn định kinh tế vĩ mô;

                  5) Phát triển kết cấu hạ tầng, kinh tế vùng, kinh tế biển, lấy các đô thi làm động lực phát triển vùng và đẩy mạnh xây dựng nông thôn mới;

                  6) Phát triển văn hóa, xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; không ngừng nâng cao đời sống vật chất tinh thần của nhân dân;

                  7) Quản lý và sử dụng hiệu quả tài nguyên; tăng cường bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu; phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai;

                  8) Củng cố, tăng cường quốc phóng, bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia;

                  9) Nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại, hội nhập và vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế;

                  10) Tiếp tục xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động; đẩy mạnh phòng chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, tạo đột phá trong cải cách hành chính.

                  13 sản phẩm nông nghiệp chủ lực quốc gia đã được xác định bởi Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tại Thông tư số 37 /2018/TT /BNNPTNT ngày 25/12/2018 gồm Gạo, Cà phê, Cao su, Điều, Hồ tiêu, Chè, Rau Quả, Sắn và sản phẩm từ sắn, Thịt lợn, Thịt và trứng gia cầm, Cá tra, Tôm, Gỗ và sản phẩm từ gỗ.

                  5 nhóm giải pháp chính phương hướng nhiệm vụ giải pháp nông nghiệp 2021- 2030 để đảm bảo 13 khối sản phẩm nông nghiệp chủ lực phát huy hiệu quả giá trị, nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân lao động Việt Nam cần tổ chức điều hành thật tốt :

                  1) Nông sản Việt 13 ngành hàng chủ lực kết nối mạnh mẽ với thị trường thế giới, xác định lợi thế so sánh và hệ thống giải pháp bảo tồn phát triển bền vững, hiệu quả khoa học công nghệ, kinh tế an sinh xã hội môi trường và vị thế quan trọng của từng ngành hàng. Nâng cao hiệu quả, hiệu lực hợp tác đầu tư nước ngoài có trọng tâm, trọng điểm, có chọn lọc, ưu tiên các dự án có công nghệ tiên tiến, công nghệ mới, công nghệ cao, quản trị hiện đại, năng lực đổi mới sáng tạo, kết nối Nông sản Việt đạt lợi thế cạnh tranh cao trong chuỗi cung ứng toàn cầu, có tác động lan tỏa, kết nối chặt chẽ hữu cơ với khu vực kinh tế trong nước. Đổi mới và phát triển các hình thức tổ chức sản xuất phù hợp, hiệu quả, đẩy mạnh hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ nông sản, kết nối với hệ thống tiêu thụ toàn cầu. Phát triển mạnh doanh nghiệp nông nghiệp, hổ trợ, khuyến khích phát triển kinh tế trang trại, hợp tác xã nông nghiệp và các tổ hợp tác. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nông nghiệp.

                  2) Phát triển mạnh nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, sạch, nông nghiệp hữu cơ, đạt tiêu chuẩn phổ biến về an toàn thực phẩm. Đổi mới chính sách quản lý và sử dụng đất trồng lúa, hàng năm sản xuất khoảng 35 triệu tấn lúa làm nòng cốt bảo đảm an ninh lương thực quốc gia, thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng phù hợp với lợi thế và nhu cầu thị trường, tăng khả năng chống chịu, thích ứng của nông dân với biến đổi khí hậu từng vùng, miền, hình thành các vùng sản xuất hàng hóa tập trung, ổn định. Tổ chức kết nối nông nghiệp với công nghiệp chế biến, thị trường xuất khẩu, chuỗi giá trị toàn cầu.

                  3) Phát triển chăn nuôi công nghiệp ứng dụng công nghệ cao, khuyến khích phát triển chăn nuôi trang trại, gia trại hiệu quả cao, thân thiện với môi trường. Phát triển nuôi trồng thủy sản cá trên biển và mặt nước nội địa theo hướng công nghiệp, quảng canh cải tiến , sinh thái, nâng cao hiệu quả khai thác xa bờ , phát triển đánh bắt hải dương. Thực hiện đồng bộ các giải pháp bảo vệ và phát triển nguồn lợi hải sản;

                  4) Quản lý chặt chẽ, bảo vệ và phục hồi rừng tự nhiên gắn với bảo tồn đa dạng sinh học, bảo vệ cảnh quan, môi trường sinh thái. Phát triển mạnh và nâng cao chất lượng rừng trồng, nhất là rừng đặc dụng, rừng phòng hộ đầu, rừng phòng hộ ven biển. Chú trọng phát triển trồng rừng gỗ lớn, nâng cao hiệu quả rừng trồng, lâm đặc sản, đáp ứng cơ bản nhu cầu lâm sản trong nước làm nguyên liệu chế biến xuất khẩu. Tăng cường sự tham gia của cộng đồng vào các chuỗi giá trị lâm nghiệp.

                  5) Đẩy mạnh xây dựng nông thôn mới và quản lý sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên; tăng cường bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai. Đẩy mạnh hợp tác với các quốc gia thượng nguồn và các tổ chức quốc tế trong việc bảo vệ và sử dụng có hiệu quả tài nguyên nước ở lưu vực các dòng sông xuyên biên giới, nhất là sông Mê Công và sông Hồng. Nâng cao tính chống chịu và thích ứng biến đổi khí hậu của hệ thống kết cấu hạ tầng và của nền kinh tế Việt Nam, thực hiện các giải pháp thông minh để thích ứng trong nông nghiệp, thủy sản và phát triển rừng. Giảm thiểu những rũi ro do biến đổi khí hậu gây ra, đặc biệt là xâm nhập mặn, sạt lở tại Đồng Bằng Sông Cửu Long, an toàn lụt và môi sinh tại Hà Nội và vùng Đồng Bằng Sông Hồng khô hạn tại Tây Nguyên, Nam Trung Bộ,Bắc Trung Bộ Bảo vệ an ninh nguồn nước, tăng cường quản lý và khai thác, sử dụng hiệu quả, tiết kiệm nguồn nước theo lưu vực sông, ngăn chặn suy giảm tài nguyên nước, tích nước điều tiết nguồn nước hợp lý phục vụ phát triển kinh tế xã hội. Quản lý chặt chẽ và nâng cao hiệu lực quản lý, hiệu quả sử dụng các nguồn lực tài nguyên, nhất là đất, nước khoáng sản, theo nguyên tắc thị trường. Phát triển thị trường, đẩy mạnh thương mại hóa quyền sử dụng đất, tăng cường đăng ký quyền sử dụng đất và áp dụng định giá đất theo thị trường, bảo đảm công khai, minh bạch. Phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn, mạng lướí các dự án hạ tầng trọng điểm quốc gia kết nối đồng bộ với các khu vực nông phẩm hàng hóa chính và khu đô thị, khu công nghiệp, cảng biển; Kết nối xây dựng nông thôn mới với kinh tế vùng, kinh tế biển, đào tạo nguồn lực nông nghiệp, cải tiến nâng cấp hệ thống hóa dữ liệu thông tin nông nghiệp nông dân nông thôn đáp ứng phù hợp với thời đại mới. Tiếp tục thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới theo hướng gắn với đô thị hóa, thực chất và đi vào chiều sâu hiệu quả bền vững, lấy cư dân nông thôn làm chủ thể, tạo sự chuyển biến tích cực rõ rệt về nếp sống mới ở nông thôn; xây dựng nông thôn mới kiểu mẫu, nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới cấp thôn bản. Thu hút mạnh mẽ các doanh nghiệp đầu tư vào khu vực nông thôn để tổ chức và nâng cao chuỗi gía trị “mỗi xã một sản phẩm” gắn với thương hiệu, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiêu thụ sản phẩm. Chú trọng xây dựng cảnh quan sinh thái môi trường làng xã Việt xanh sạch đẹp tiến bộ an lành

                  Ba trụ cột cốt lõi của một quốc gia là cân đối hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế, bảo vệ môi trường và thực hiện tiến bộ công bằng xã hội.theo kết luận của Hội nghị thượng đỉnh toàn cầu về Phát triển bền vững tại Johannesburg (Cộng hòa Nam Phi) năm 2002.

                  Bảo vệ an toàn môi trường sống và nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân lao động Việt Nam là một trong ba trụ cột cốt lõi của chính sách quốc gia. Bảo vệ an toàn thức ăn, đất, nước, không khí và môi sinh là luật sống. Nguyên tắc cơ bản là: Ai gây ô nhiễm môi trường phải trả chi phí để xử lý khắc phục hậu quả, cải tạo và phục hồi. Thực thi chế tài và xử phạt nghiêm về vi phạm môi trường là quốc sách.

                  Tăng cường giám sát, công khai đầy đủ, kịp thời thông tin và nâng cao chất lượng môi trường, sự an toàn về thức ăn, đất nước, không khí và môi sinh ở các đô thị và vùng dân cư. Xử lý dứt điểm các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Cải thiện rõ rệt tình trạng ô nhiễm môi trường, ở các cụm công nghiệp, làng nghề, lưu vực sông, khu vực nông thôn. Kiểm soát chặt chẽ các dự án khai thác tài nguyên, chủ động phát hiện và xử lý nghiêm các vi phạm gây ô nhiễm môi trường. Ngăn chặn suy thoái môi trường. Tối ưu hóa các mục đích sử dụng đất nông nghiệp. Đẩy mạnh hợp tác với các quốc gia thượng nguồn và các tổ chức quốc tế trong việc bảo vệ và sử dụng có hiệu quả tài nguyên nước ở lưu vực các dòng sông xuyên biên giới, nhất là sông Mê Công và sông Hồng.

                  Việt Nam con đường xanh, thông tin đúc kết này là chọn lọc trích dẫn phù hợp với tư tưởng chỉ đạo của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Định hướng và tầm nhìn này nhấn mạnh

                  1) Phải phát triển hài hòa ba trụ cột “Không đánh đổi môi trường với tăng trưởng kinh tế”; “Không thể vì nghèo mà hy sinh môi trường và sức khỏe người dân”

                  2) Vai trò kiến tạo của Nhà nước là quyết định;

                  3) Vai trò của người dân lao động và cộng đồng xã hội là không thể thiếu.

                  Việt Nam ngày nay nhấn mạnh sự diệt trừ tham nhũng và đề cao vai trò kiến tạo của Nhà nước là quyết định. Việt Nam là nước văn hiến có truyền thống “bầu ơi thương lấy bí cùng” và kinh nghiệm làm chủ tập thể, cũng đã vận dụng thành công “chính sách cộng sản thời chiến” biết thắt lưng buộc bụng đầu tư trong điểm.

                  NÔNG NGHIỆP HỮU CƠ: HIỆN TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NGHIÊN CỨU PHÁT TRIỂN
                  Nguyễn Văn Bộ, Ngô Doãn Đảm

                  ĐẶT VẤN ĐỀ

                  Nông nghiệp hữu cơ là một hệ thống canh tác đã gây nên sự chú ý ngày càng tăng ở nhiều quốc gia trong 2 thập kỷ qua, nhất là các nước phát triển, khi mà áp lực về lương thực giảm đi, song áp lực về vệ sinh an toàn thực phẩm, chất lượng nông sản và môi trường lại tăng lên. Nhiều nước ở châu Âu, Bắc Mỹ, châu Đại dương đã khuyến khích nông dân áp dụng nông nghiệp hữu cơ. Tuy nhiên ở nhiều quốc gia khác, nông nghiệp hữu cơ là câu chuyện còn rất mới mẻ, khái niệm về loại hình canh tác này được hiểu rất khác nhau. Với Việt Nam điều này cũng không là ngoại lệ. Hiện tại có rất nhiều định nghĩa khác nhau về nông nghiệp hữu cơ. Phần lớn các nhà khoa học đều hiểu nông nghiệp hữu cơ là một nền nông nghiệp không sử dụng hóa chất, các nguồn hữu cơ được tái sử dụng một cách triệt để. Theo khái niệm này, trong suốt quá trình sản xuất chỉ được phép sửdụng phân bón hữu cơ, làm cỏ bằng tay hoặc cơ giới và phòng trừ sâu bệnh bằng biện pháp sinh học. Gần đây, nông nghiệp hữu cơ còn không chấp nhận việc gieo trồng các cây đã biến đổi gene. 

                  Tuy nhiên, bản chất của bất kỳ một nền sản xuất nào cũng phải gắn với năng suất, chất lượng của sản phẩm cuối cùng và tính bền vững của môi trường. Cùng với sự phát triển của khoa học, khi mà kiến thức con người đã dần chi phối được các qui luật của tự nhiên thì khái niệm hữu cơ cũng được hiểu theo nghĩa rộng hơn, tổng hợp hơn. Xem xét bản chất của quá trình sử dụng dinh dưỡng của cây trồng chúng ta thấy rằng, chất dinh dưỡng dù sử dụng ở bất kỳ dạng nào, hữu cơ hay vô cơ thì chúng đều phải trải qua một quá trình chuyển hóa về dạng ion (anion hoặc cation) trước khi được cây trồng hấp phụ. Thêm nữa, chất lượng nông sản không hoàn toàn phụ thuộc vào dạng phân bón sử dụng mà lại phụ thuộc vào liều lượng, chủng loại, tỉ lệ, phương pháp và thời kỳ bón cho cây trồng. Với thuốc bảo vệ thực vật là loại chế phẩm không hoặc ít độc hại, thời gian phân hủy ngắn… và phải đảm bảo thời gian cách ly. Như vậy, sản phẩm sạch đáp ứng yêu cầu về vệ sinh an toàn thực phẩm không hoàn toàn không có chứa các yếu tố độc hại mà là sản phẩm có hàm lượng các chất độc hại dưới ngưỡng cho phép theo tiêu chuẩn quốc gia hay quốc tế.

                  Xuất phát từ những lý do trên, theo chúng tôi, nông nghiệp hữu cơ là một hệ thống sản xuất cho phép khai thác tối ưu các nguồn tài nguyên như đất, năng lượng, các chất dinh dưỡng, các quá trình sinh học diễn ra trong tự nhiên với một phương pháp quản lý hợp lý nhất nhằm mục đích tạo ra sản phẩm đáp ứng yêu cầu về vệ sinh an toàn thực phẩm, đồng thời cũng đảm bảo cho hệ thống sản xuất bền vững về môi trường, xã hội và kinh tế. Theo định nghĩa này thì nông nghiệp hữu cơcòn có thể hiểu là nông nghiệp sinh thái. Như vậy, thuật ngữ“hữu cơ” không chỉ đề cập đến dạng dinh dưỡng cung cấp cho cây trồng mà được mở rộng ra như là một quan điểm, trong đó tính bền vững là hạt nhân. 

                  Theo Dumanski, nhà thổ nhưỡng học thì “sự bền vững để lại cho các thế hệ tương lai ít nhất là những cơ hội như chúng ta đang có”. Đây là quan điểm rất thực tiễn, đảm bảo tổng tài sản ở 4 dạng (tài sản thiên nhiên, tài sản do con người làm ra, bản thân con người và xã hội) luôn được bảo toàn trong suốt quá trình phát triển. Thật tiếc, chúng ta đã và đang khai thác triệt để tài nguyên, gần như không cớ cơ hội cho thế hệ sau.

                  Còn theo N.H. Lampkin (1994) thì: “Canh tác hữu cơ là một phương pháp tiếp cận với nông nghiệp nhằm mục tiêu tạo lập hệ thống sản xuất nông nghiệp tổng hợp, bền vững về môi trường, kinh tế và nhân văn; cho phép khai thác tối đa nguồn tài nguyên có thể tái tạo được cũng như quản lý các quá trình sinh thái cùng với sự tác động qua lại của chúng để đảm bảo năng suất cây trồng, vật nuôi và dinh dưỡng cho con người ở mức chấp nhận được đồng thời bảo vệ chúng khỏi sâu, bệnh”. 

                  HIỆN TRẠNG SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP HỮU CƠ TRÊN THẾ GIỚI 

                  Theo số liệu công bố năm 2012 (FiBL và IFOAM, 2012) [7] của Viện Nghiên cứu và Truyền thông nông nghiệp hữu cơ (Communication, Research Instituteof Organic Agriculture FiBL) và Hiệp hội nông nghiệp hữu cơ Quốc tế (International Federation of Organic Agriculture Movements IFOAM), hiện trạng sản xuất và thương mại sản phẩm nông nghiệp hữu cơ toàn cầu như sau: 

                  1. Về sản xuất 

                  Năm 2010 toàn thế giới có 160 nước được chứng nhận có sản xuất nông nghiệp hữu cơ (NNHC), tăng 6 nước so với năm 2008. Về diện tích, hiện tại có 37,3 triệu ha NNHC chiếm 0,9% diện tích đất sản xuất nông nghiệp toàn cầu, trong đó 2/3 (23 triệu ha) là đất trồng cỏ và chăn thả đại gia súc. Có 2,72 triệu ha NNHC cây hàng năm, gồm 2,51 triệu ha ngũ cốc (trong đó có lúa) và 0,27 triệu ha rau. Diện tích canh tác hữu cơ cây lâu năm là 2,7 triệu ha (0,6% tổng diện tích NNHC) và tăng 0,6 triệu ha so với năm 2008, trong đó 3 cây quan trọng nhất là: cà phê (0,64 triệu ha), ô-liu (0,5 triệu ha) và cây lấy hạt có dầu (0,47 triệu ha. Có 7/160 nước đạt diện tích NNHC cao trên 10%. 

                  Tại châu Âu, có 10 triệu ha NNHC với 219.431 hộ/trang trại. Những nước có diện tích NNHC lớn là: Tây Ban Nha (1,46 triệu ha), Italia (1,113 triệu ha) và Đức (0,99 triệu ha). Có 7 nước đạt diện tích NNHC cao hơn 10% là: Công Quốc Liechtenstein (27,3%), Áo (19,7%), Thụy Điển (12,6%), Estonia (12,5%), Thụy Sỹ(11,4%) và Séc (10,5%).

                  Bắc Mỹ (gồm Mỹ và Canada) có 2,652 triệu ha NNHC, trong đó Mỹ1,948 triệu ha và Canada 0,702 triệu ha. 

                  Châu Á có 2,8 triệu ha NNHC với 460.764 trang trại/ hộ sản xuất, trong đó dẫn đầu là Trung Quốc (1,39 triệu ha) và Ấn Độ(0,78 triệu ha). Nước có tỷ lệ diện tích NNHC cao nhất là Đông Timor (7%). 

                  Châu Phi có khoảng 1,1 triệu ha NNHC được chứng nhận với khoảng 544 ngàn trang trại. Các nước sản xuất NNHC chủ lực là Uganda (228.419 ha), Tunisia (175.066 ha) và Ethiopia (137.196ha). 

                  Mỹ La tinh có 8,389 triệu ha NNHC với 272.232 hộ/trang trại, trong đó Argentina 4,177 triệu ha, Brazil 1,76 triệu ha và Uruguay là 930.965 ha (2009). Ba nước có tỷ lệ giá trị sản phẩm NNHC cao so với GDP nông nghiệp là Malvinas (35,7%), Cộng hòa Đô-mi-ca-na (8,3%) và Uruguay (6,3%). 

                  Các châu Đại Dương bao gồm: Úc, Niu-di-lân, các quần đảo Fiji, PaPua New Guinea, Tonga, Vannuatu… có 12,144 triệu ha NNHC, trong đó 97% là của Oxtrâylia và là đất đồng cỏ tự nhiên với 8.432 trang trại đang sản xuất. 

                  Ngoài diện tích NNHC, thế giới còn có 43,0 triệu ha đất rừng nguyên sinh để khai thác sản phẩm hữu cơ tự nhiên (tăng 1,1 triệu ha so với năm 2009 và 11,1 triệu ha so với năm 2008). 

                  Hiện có 1,6 triệu hộ và trang trại NNHC, tăng 0,2 triệu hộ so với năm 2008. Phân bố của số trang trại NNHC theo châu lục như sau: Châu Á 29%, châu Phi 34%, châu Mỹ 18%… Ba nước có nhiều trang trại hoặc hộ sản xuất NNHC là: Ấn Độ(400.551), Uganda (188.625), Mehico(128.862, sốliệu 2008). 

                  2. Về thị trường 

                  Doanh thu năm 2010 từ việc bán thực phẩm và đồ uống có nguồn gốc hữu cơ đã đạt 59,1 tỷUSD, tăng 4,2 tỷUSD so với năm 2009 và gấp hơn 3 lần năm 2000 (18 tỷUSD). Các nước tiêu thụ nhiều sản phẩm hữu cơ nhất là Mỹ(26,7 tỷUSD), Đức (8,4 tỷUSD) và Pháp (4,7 tỷUSD); nhưng tính theo đầu người thì cao nhất là Thụy Sỹ, Đan Mạch và Luxemburg (tương ứng đạt 213, 198 và 177 USD/người/năm). 

                  Tại châu Âu, giá trị thương mại năm 2010 của các sản phẩm NNHC đạt khoảng 19,6 tỉ €, trong đó Đức 6,02 tỉ, Pháp 3,38 tỉ và Anh 2 tỉ €. Đan Mạch, Áo và Thụy Điển có giá trị sản phẩm NNHC cao hơn 5% GDP nông nghiệp. 

                  Chính phủ các nước Cộng đồng chung châu Âu và một số nước hỗ trợ cho NNHC thông qua tài trợ các chương trình phát triển nông thôn, hỗ trợ phát triển thể chế và kế hoạch hành động quốc gia. Một nghiên cứu gần đây cho thấy các nước châu Âu hiện có 26 bản kế hoạch hành động quốc gia về phát triển NNHC. 

                  Giá trị sản phẩm NNHC của Mỹ năm 2010 đạt 29,0 tỷ USD, trong đó có 10,6 tỷ USD (xấp xỉ 30%) là rau và quả hữu cơ, đáp ứng 12% thị phần rau và quả tiêu thụ nội địa, cộng với 1,947 tỷUSD là các sản phẩm phi thực phẩm. Giá trị sản phẩm NNHC được tiêu thụ của Canada ước đạt khoảng 2,6 tỷ đôla Canada. 

                  Phần lớn sản phẩm NNHC được chứng nhận của châu Phi là để xuất khẩu và chủ yếu sang thị trường châu Âu; riêng Uganda đạt doanh thu 37 triệu USD năm 2010. NNHC có vai trò quan trọng đểgiúp châu Phi cải thiện an ninh lương thực và ứng phó tốt hơn với biến đổi khí hậu. Vì vậy, Hội nghị NNHC Châu Phi lần thứ2 đã được tổ chức tại Zambia từ 15-19/5/2012, nhằm thúc đẩy nghiên cứu và phát triển lĩnh vực này. 

                  Tại châu Á, mặc dù lượng sản phẩm NNHC còn chiếm thị phần nhỏ và chủyếu tiêu dùng nội địa, song Chính phủ đã nhận thức rõ cần phải đầu tư cho nghiên cứu – phát triển lĩnh vực này. Có 7 nước (Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Philippines, Đài Loan và Malaysia) đã ban hành và áp dụng qui định bắt buộc về gắn nhãn mác các sản phẩm NNHC trước khi tiêu thụ. Một số nước như Sri-Lanka, Nepal, Thái Lan và Indonesia đã thành lập các cơ quan giám sát và cấp chứng chỉ chất lượng sản phẩm NNHC. 

                  Tại Mỹ La tinh, phần lớn sản phẩm NNHC cơ được xuất khẩu sang châu Âu, Bắc Mỹ và Nhật Bản với các các ngành hàng chủ lực là: quả nhiệt đới, ngũ cốc, cà phê, ca cao, đường và thịt. Đã có 18 nước thuộc khu vực ban hành và hiện có thêm 5 nước đang hoàn thiện khung pháp lý. Hỗ trợ phát triển NNHC tại các quốc gia này thông qua chương trình thúc đẩy sản xuất và hỗ trợ xuất khẩu sản phẩm. 

                  Tại châu Đại dương, phần lớn sản phẩm NNHC được chứng nhận là để xuất khẩu, thị trường tiêu thụ nội địa chưa phát triển và trong một số trường hợp thậm chí chưa được hình thành. Sản phẩm NNHC thường được bán dưới dạng sản phẩm “truyền thống”, không có sự khác biệt về giá so với các sản phẩm thông dụng. Thị trường tiêu thụ nội địa chủ yếu là để phục vụ cho nhu cầu của khách du lịch.

                  3. Các nỗ lực phát triển thể chế và chứng nhận tiêu chuẩn 

                  Hiện tại có 84 nước xây dựng xong và 24 nước khác đang hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn quốc gia cho sản phẩm nông nghiệp hữu cơ. Trong những năm gần đây đã hình thành nhiều tổ chức (chủ yếu từ Châu Âu) cung ứng dịch vụ chứng nhận sản phẩm nông nghiệp hữu cơ đạt chuẩn. Tính tới 2010 có tổng số 549 tổ chức cung cấp dịch vụ này (tăng 17 tổ chức so với con số 532 của năm 2009) và chủ yếu thuộc EU, Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Canada và Brazil (riêng Nhật Bản có 61 tổ chức cung ứng dịch vụ). 

                  Quản lý chất lượng chuỗi giá trị hữu cơ theo phương pháp Hệ thống bảo đảm cùng tham gia (Participatory Guarantee System-PGS) đang được nhiều nước quan tâm và áp dụng, nhằm đáp ứng nhu cầu gia tăng nhanh chóng về số trang trại nông nghiệp hữu cơ tại các nước đó. Đi đầu trong áp dụng thành công PGS là các nước khu vực Mỹ La tinh (nổi bật là Bra-xin) và Ấn Độ, với nhiều bước tiến quan trọng trong việc ban hành thể chế cho áp dụng phương pháp này.

                  SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP HỮU CƠ Ở VIỆT NAM 

                  1. Hiện trạng sản xuất, chứng nhận chất lượng, tiêu thụ và chính sách về nông nghiệp hữu cơ 

                  Về sản xuất, giống như nhiều nước khác trên thế giới, nông dân nước ta được hiểu là đã biết canh tác hữu cơ theo cách truyền thống từ hàng nghìn năm nay, nhưng sản xuất nông nghiệp hữu cơ theo khái niệm hiện tại của Hiệp hội nông nghiệp hữu cơ Quốc tế (IFOAM) thì còn rất mới mẻ. nông nghiệp hữu cơ theo khái niệm của IFOAM thực ra mới chỉ được bắt đầu ởViệt Nam vào cuối những năm 1990 với một vài sáng kiến, chủ yếu tập trung vào việc khai thác các sản phẩm tự nhiên, chẳng hạn như các loại gia vị và tinh dầu thực vật, để xuất khẩu sang một số nước châu Âu (Simmons và Scott, 2008) [11]. 

                  Theo số liệu IFOAM công bố năm 2012 (FiLB và IFOAM, 2012) [7], năm 2010 Việt Nam có 19.272 ha sản xuất nông nghiệp hữu cơ được chứng nhận (tương đương 0,19% tổng diện tích canh tác), cộng với 11.650 ha mặt nước nuôi trồng thủy sản hữu cơ/ sinh thái và 2.565 ha rừng nguyên sinh để khai thác các sản phẩm hữu cơ tự nhiên. Báo cáo của FiBL-IFOAM không nêu tổng giá trị xuất khẩu các sản phẩm hữu cơ của Việt Nam, nhưng theo báo cáo của Hiệp Hội nông nghiệp hữu cơ Việt Nam thì ước đạt khoảng 12 – 14 triệu USD. Các sản phẩm hữu cơ đang được xuất khẩu là chè, tôm, gạo, quế, hồi, tinh dầu, tuy nhiên số lượng còn rất hạn chế. 

                  Về chứng nhận chất lượng: Hiện nước ta vẫn chưa có hệ thống các tiêu chuẩn quốc gia và khung pháp lý cho sản xuất, chứng nhận và giám sát chất lượng sản phẩm nông nghiệp hữu cơ. Đầu năm 2007, Bộ NN – PTNT ban hành Tiêu chuẩn ngành số 10 TCN602-2006 [3] cho các sản phẩm hữu cơ tại Việt Nam, nhưng tiêu chuẩn này còn rất chung chung, đồng thời kể từ đó đến nay vẫn chưa có hướng dẫn cụ thể cho việc cấp chứng nhận hữu cơ, để làm cơ sở cho các đơn vị sản xuất, chế biến và các đối tượng quan tâm khác thực hiện. Hiện cả nước có 13 tổ chức là các nhóm nông dân sản xuất và các doanh nghiệp được các tổ chức quXem tiếp >>

                    Dạy và học 30 tháng 6(30-06-2021)


                   

                   

                  DẠY VÀ HỌC 30 THÁNG 6
                  Hoàng Kim

                  CNM365 Tình yêu cuộc sốngĐến với Tây Nguyên mới; Đặng Kim Sơn lắng đọng; Tím một trời yêu thương; Nhà Trần trong sử Việt; Chùa Bửu Minh Biển Hồ; Đình Lạc Giao Hồ Lắk; Hải Như thơ về Người; Nhớ bạn nhớ châu Phi Luân Đôn trong mắt tôi; Thăm nhà cũ của Darwin. Ngày 30 tháng 6 năm 1894, Cầu Tháp Luân Đôn (Tower Bridge) được khánh thành,là cầu bắc qua sông Thames đoạn chảy qua thủ đô của Anh Quốc. Cầu nằm liền với cung điện và pháo đài của Nữ hoàng, tạo thành quần thể danh thắng di sản thế giới của UNESCO biểu tượng nổi tiếng của thành phố Luân Đôn và nước Anh. Cầu Tháp Luân Đôn là một công trình kết hợp cầu treo với cầu nâng (có thể mở ra cho tàu thuyền lớn đi qua). Ngày 30 tháng 6 năm 1337 là ngày sinh của Trần Duệ Tông hoàng đế thứ 9 thời nhà Trần, là vị hoàng đế duy nhất trong lịch sử Việt Nam bị tử trận khi đương quyền. Trần Duệ Tông hoàng đế có lòng dũng cảm, mong muốn chấn hưng Đại Việt và trấn áp kẻ thù nhưng vì ông quá nóng vội nên bại trận. Đại Việt sau trận thua lớn ở Đồ Bàn, những người kế vị đều vô tài nên nhà Trần ngày càng suy, cho đến năm 1400, Hồ Quý Ly chiếm ngôi nhà Trần .Ngày 30 tháng 6 năm 1905, Albert Einstein giới thiệu thuyết tương đối hẹp với tác phẩm “Zur Elektrodynamik bewegter Körper” được tiếp nhận và xuất bản. Bài chọn lọc ngày 30 tháng 6: Đến với Tây Nguyên mới; Đặng Kim Sơn lắng đọng; Tím một trời yêu thương; Nhà Trần trong sử Việt; Chùa Bửu Minh Biển Hồ; Đình Lạc Giao Hồ Lắk; Hải Như thơ về Người; Nhớ bạn nhớ châu Phi Luân Đôn trong mắt tôi; Thăm nhà cũ của Darwin. Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.comhttp://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-30-thang-6/

                   

                   

                  ĐẾN VỚI TÂY NGUYÊN MỚI
                  Hoàng Kim

                  Đến với Tây Nguyên mới
                  Thăm lại chiến trường xưa
                  Đất khoai sắn nuôi người
                  Sử thi vùng huyền thoại.

                  Vầng đá chốn đại ngàn
                  Rượu cần nơi bản vắng
                  Câu cá bên dòng Sêrêpôk
                  Tắm tiên Chư Jang Sin

                   

                   

                  Thương Kim Thiết Vũ Môn
                  Nhớ người hiền một thuở
                  Hồ Lắk Đình Lạc Giao
                  Biển Hồ Chùa Bửu Minh

                  Nước rừng và sự sống
                  Chuyện đời không thể quên
                  Cây Lương thực bạn hiền
                  Lớp học vui ngày mới

                   

                   

                  Ai ẩn nơi phố núi
                  Ai tỏ Ngọc Quan Âm
                  Ai hiện chốn non xanh
                  Mây trắng trời thăm thẳm
                  Nước biếc đất an lành

                   

                   

                  Soi bóng mình đáy nước
                  Sáng bình minh giữa đời
                  Thung dung làm việc thiện
                  Vui bước tới thảnh thơi

                   

                   

                  Đến với Tây Nguyên mới
                  Bao chuyện đời không quên

                  ĐẾN VỚI TÂY NGUYÊN MỚI
                  Hoàng Kim

                  Tôi thật tâm đắc với lời bình của tiến sĩ Nguyễn An Tiêm, cựu Phân Viện Trưởng Viện Quy Hoạch và Thiết Kế Nông Nghiệp Việt Nam, là bạn học cũ, khi anh trao đổi cùng với giáo sư Nguyễn Tử Siêm là chuyên gia khoa học đất về bài viết “Giá chúng ta giữ được Tây Nguyên như Bhutan” của nhà văn Nguyên Ngọc. Anh Tiêm nhận xét: “Vâng. Bài viết đáng để chúng ta suy nghĩ, nhất là sinh thái rừng và văn hoá Tây Nguyên. Tuy nhiên cần có cái nhìn đa chiều về bối cảnh lịch sử. Nước ta dân số đông, tốc độ tăng dân số nhanh, kinh tế kém phát triển, đói ăn, nên phải phá rừng để mở rộng đất nông nghiệp. Cái dở là không kiểm soát được quá trình đó một cách hợp lý. Theo quy luật khi nền kinh tế phát triển ở mức nào đó sẽ chuyển đất nông nghiệp sang đất rừng thiết lập hệ sinh thái mới. Quá trình này nhanh hay chậm phụ thuộc vào nhận thức của chúng ta”.

                  Tây Nguyên mới là một chuỗi chính sách lớn liên tục liên hoàn nhiều năm. Cụ Nguyên Ngọc cảnh báo những vấn đề “Nước mội rừng xanh và sự sống“; “Phát triển bền vững ở Tây Nguyên ” từ rất sớm, nhưng không thay đổi được, không điều chỉnh được dòng chảy của xu thế.

                  Ngày nay, Tây Nguyên mới đã là vùng đất đa sắc tộc, đa văn hóa, (dân số tăng lên gấp mười lần so với trước đây) theo kết quả điều tra dân số ngày 1/4/2019 dân số Tây Nguyên là 5.842.605 người (dân tộc Kinh: 3.642.726 người, chiếm 62,30%, dân tộc khác : 2.199.879 người, chiếm 37,70%). hình thành được những ngành hàng nông nghiệp quy mô lớn tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu như cà phê, hồ tiêu, cao su. Đặc biệt Cà phê Tây Nguyên nổi tiếng trên thị trường thế giới (2019 diện tích: 630,9 nghìn ha, diện tích thu hoach: 569,4 nghìn ha; năng suất: 27,8 tạ/ha, sản lượng 1,58 triệu tấn , kim ngạch xuất khẩu 2,64 tỷ USD) . Công nghiệp, nhất là chế biến nông, lâm sản từng bước phát triển, gắn kết với vùng nguyên liệu nông nghiệp hình thành chuỗi giá trị hàng hóa ngày càng phát triển. Du lịch phát triển mạnh, với trung tâm là Đà Lạt, Buôn Ma Thuột gắn với đặc sắc về tự nhiên, văn hóa đặc thù Tây Nguyên; Tài nguyên đất Tây Nguyên đa dạng, đa màu sắc với 11 nhóm đất với 33 loại loại đất. Độ phì của đất đai , đặc biệt đất đỏ ba zan đã tạo ra những giá trị đặc trưng cho hệ sinh thái nông nghiệp cao nguyên cho sự phát triển cây công nghiệp, cây ăn quả có giá trị hàng hóa quy mô lớn. Tài nguyên nước Tây Nguyên phần lớn (khoảng 80%) thuộc thượng nguồn lưu vực sông Sê San, Sê rê pôk (chảy sang Căm Pu Chia), sông Đồng Nai và sông Ba. (trong lãnh thổ Việt Nam) và gần 20% diện tích tự nhiên thuộc lưu vục sông Thu Bồn, Trà Khúc, sông Lũy, sông La Ngà … Trên địa bàn Tây Nguyên có 882 hồ chứa nước tự nhiên và 810 đập dâng nước. Tài nguyên rừng Tây Nguyên với diện tích có rừng (2019) : 2.557.322 ha, chiếm 17,95% tổng diện tích rừng cả nước (xếp thứ 3 so với các vùng) , gồm rừng tự nhiên: 2.206.975 ha, rừng trồng 350.347 ha, độ che phủ: 46,01% (đứng thứ 4 so với các vùng).

                  Bảo tồn và phát triển là bài toán khó, mọi thời đều phải đối mặt . Đến với Tây Nguyên mới, đọc lại và suy ngẫm:(Hoàng Kim)

                   

                   

                  Đến với Tây Nguyên mới Nguyễn Bạch Mai viết:” Khai mạc Lễ hội Cà phê Buôn Ma Thuột lần thứ 7. Hy vọng Lễ hội sẽ thành công và mang lại niềm vui cho người nông dân quê tôi”. Đến với Tây Nguyên chúng ta thật vui mừng đang cùng đi trong một đội ngũ tâm huyết, thao thức một niềm tin và ước vọng. Các ngành hàng nông nghiệp Việt Nam đang chuyển đổi và vươn tới mạnh mẽ đầy sức xuân.

                  Tây Nguyên tầm nhìn và giải pháp.

                  Hội nghị xúc tiến đầu tư vùng Tây Nguyên lần thứ Tư năm 2017 đã tổ chức tại thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk, ngày 11 tháng 3. Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã đến dự và chứng kiến dòng vốn đầu tư kỷ lục vào Tây Nguyên với lễ trao cam kết tín dụng đầu tư của các ngân hàng cho các dự án đầu tư, trao chứng nhận đầu tư, quyết định đầu tư, thỏa thuận đầu tư cho các dự án với tổng vốn kỷ lục hơn 100.000 tỷ đồng.

                  Tầm nhìn Chính phủ đối với Tây Nguyên: Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cho rằng: “Tây Nguyên có tiềm năng, thế mạnh to lớn, độc đáo nhưng chưa được khai thác tốt. Tây Nguyên không chỉ là phên dậu của Tổ quốc, mà là điểm tựa phát triển của miền Trung, Đông Nam Bộ và cả Tây Nam Bộ. Thời gian qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, chỉ đạo của Nhà nước, sự phấn đấu của cấp ủy, chính quyền 5 tỉnh Tây Nguyên, vùng đã có sự phát triển khởi sắc. Tuy nhiên, sau 40 năm giải phóng, Tây Nguyên còn tồn tại nhiều bất cập như tình trạng mất rừng, mất nguồn nước, mất nhiều cơ hội về đầu tư phát triển, đặc biệt là quy mô, hiệu quả của vùng đất tiềm năng chưa được khai thác đúng mức để phát triển và nâng cao mức sống người dân“. Trang website Thử tướng chính phủ khẳng định.

                  Thủ tướng chia sẻ tầm nhìn về một Tây Nguyên mới.Đó là Tây Nguyên phải phấn đấu trở thành cao nguyên trù phú về nông nghiệp hữu cơ, đa dạng về sinh thái, giàu có về vốn văn hóa. Chìa khóa cho sự vươn lên giàu có của Tây Nguyên là phát triển ngành chế biến nông lâm nghiệp, dược liệu theo hướng đề cao bản sắc, tính độc đáo trong chuỗi giá trị nông sản thế giới. Đồng thời Tây Nguyên phải là biểu tượng nổi bật của du lịch Việt Nam, mang đậm sắc thái huyền thoại và di sản của châu Á trong thế kỷ thứ 21. Để thực hiện hóa điều đó, Tây Nguyên phải có chiến lược bền vững trong việc hồi sinh trở lại vẻ đẹp đại ngàn của một vùng đất đậm chất sử thi, phải luôn ý thức giữ gìn không gian sống, phát huy các giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể, là truyền thống, niềm tự hào thiêng liêng của các cộng đồng Ê Đê, Jrai, M’nông, Ba Na, Kinh… trong đại các gia đình các dân tộc Việt Nam anh em”.

                  Các giải pháp lớn đối với Tây Nguyên: Thủ tướng đã gợi mở một số giải pháp chính.

                  Về du lịch, Tây Nguyên là một kho tàng văn hóa phi vật thể cùng với điều kiện tự nhiên, Chính phủ quyết tâm cùng với Tây Nguyên đưa sử thi Tây Nguyên trở thành di sản văn hóa phi vật thể của thế giới. Càng nhiều người biết đến sử thi này thì sức lan tỏa của du lịch Tây Nguyên càng lớn. Du lịch Việt Nam nói chung và du lịch Tây Nguyên nói riêng cần có chiến lược phát triển đa dạng.

                  Về nông nghiệp, phải hình thành những vùng chuyên canh lớn và phát triển nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp sạch, tập trung quy mô lớn, giá trị hàng hóa lớn, đặc biệt phải đi vào chế biến sâu, mở rộng chuỗi giá trị sản phẩm.

                  Về nguồn nhân lực, chất lượng giáo dục cơ bản ở vùng Tây Nguyên phải bằng hoặc cao hơn mức trung bình của cả nước. Tây Nguyên là nóc nhà Đông Dương, là vùng cao về địa lý thì không thể và không nên là vùng trũng giáo dục của cả nước.

                  Về bảo vệ, phát triển rừng, “cách đây gần một năm, cũng tại Đắk Lắk này, tôi đã tuyên bố đóng cửa rừng tự nhiên. Hôm nay, tôi tái khẳng định quyết tâm mạnh mẽ hơn nữa của Chính phủ, bảo vệ rừng là bảo vệ phần cốt lõi của an ninh, không chỉ là an ninh của vùng đất được mệnh danh là nóc nhà Đông Dương, mà là an ninh của toàn Nam Trung Bộ, Tây Nam Bộ và cả nước”, Thủ tướng nhấn mạnh. 

                  Bảo vệ rừng là bảo vệ không gian sinh tồn, nguồn nước, sinh kế của người dân, không gian di sản của cha ông. Mọi hành vi phá rừng, khai thác lâm sản trái phép là tội ác. Tiếp tục trồng rừng, không phá rừng nghèo để trồng cây công nghiệp mà tập trung tái canh, nâng cao năng suất thông qua thâm canh các loại cây công nghiệp.

                  Về công nghiệp, bài toán công nghiệp cho Tây Nguyên chính là công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nâng cao hàm lượng chế biến, mở rộng chuỗi giá trị sản phẩm cây công nghiệp. Đồng ý chủ trương phát triển năng lượng tái tạo, Thủ tướng đặt vấn đề phát triển ở đâu và chỉ rõ: Ở vùng đất không thể trồng được cây gì.

                  Về hạ tầng, cần tránh tư tưởng làm manh mún. Cần tập trung nguồn lực, “góp gạo thổi cơm” để có công trình hạ tầng then chốt ở Tây Nguyên. Phải xã hội hóa mạnh mẽ việc phát triển hạ tầng, kể cả hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội. Thủ tướng cũng cho rằng, Tây Nguyên cần liên kết với duyên hải miền Trung, miền Đông Nam Bộ, TPHCM và các vùng có thể tiêu thụ được các sản phẩm có giá trị gia tăng cao của Tây Nguyên. Liên kết cả cơ sở hạ tầng, đặc biệt là liên kết du lịch.

                  Về tín dụng, khuyến khích vay tín chấp, nhất là với hộ nông dân, đồng bào dân tộc; có nhiều hình thức hỗ trợ như cấp bù lãi suất…”

                   

                   

                  Đến với Tây Nguyên mới Tôi bắt đầu ký ức bằng bài thơ Câu cá bên dòng Sêrêpôk .tôi viết tại binh trạm gần Buôn Đôn và ít năm sau, khi tôi đã về miền Đông thì đó là nơi rất gần trận Buôn Mê Thuột ngày 10 tháng 3 năm 1975, Chiến tranh Việt Nam Quân Giải phóng bắt đầu tiến đánh Buôn Ma Thuột trong Chiến dịch Tây Nguyên, và chiếm lĩnh thị xã vào hôm sau. Tôi nhớ về Cách mạng sắn ở Việt Nam thành tựu và bài học là điểm sáng toàn cầu được vinh danh tại Hội thảo Cây Có Củ Thế Giới được tổ chức tại Nam Ninh, Quảng Tây, Trung Quốc từ ngày 18 đến ngày 22 tháng 1 năm 2016 trong đó có câu chuyện sắn Miền Đông, sắn Tây Nguyên “Người lính cây sắn và tuổi thơ“.

                   

                   

                  ”Nghiên cứu kỹ thuật rãi vụ sắn tại tỉnh Đăk Lắk”. Đó là câu chuyện tìm giống sắn mới và kỹ thuật rãi vụ sắn thích hợp ở Tây Nguyên. …

                   

                  denvoitaynguyen

                   

                  Dạy và học Giáo dục Văn hóa, Nông Nghiệp Việt Nam, Khoa học Cây trồng, Du lịch Sinh thái …  bước khởi đầu là phải  tìm hiểu con người, kế đến là thực sự sống với thiên nhiên, nghiên cứu các nét đặc trưng tiêu biểu nhất của vùng đất.

                   

                   

                  Đến với Tây Nguyên mới của chúng tôi lần ấy là Bạch Mai và sắn Tây Nguyên. Chúng tôi may gặp bạn cố hương và gặp cả những nhân vật lớn của Học viện Nông nghiệp Việt Nam cựu Hiệu trưởng GS.TS. NGND. Trần Đức Viên (2007 – 2014), tân Hiệu trưởng GS.TS. Nguyễn Thị Lan (2015 – nay) người vừa đoạt Giải thưởng Kovalevskaia 2018, TS. Lê Ngọc Báu Liên hiệp các hội KHKT tỉnh Đắk Lắk với nhiều người khác với những mẫu chuyện hay chưa kịp chép lại

                   

                   

                  ĐẾN VỚI TÂY NGUYÊN MỚI
                  Hoàng Kim

                  Đến với Tây Nguyênmới,
                  Phát triển bền vững ở Tây Nguyên,
                  Nguyên Ngọc với Tây Nguyên
                  Có những lớp sinh viên như thế

                  Trà Biển Hồ, Sắn Tây Nguyên
                  Cách mạng sắn ở Việt Nam
                  Tắm tiên ở Chư Yang Sin
                  Chuyện đồng dao cho em

                  Cao Biền trong sử Việt
                  Vườn Quốc gia ở Việt Nam
                  Đào Thế Tuấn chân dung người Thầy
                  Việt Nam con đường xanh

                   

                   

                  “Nóc nhà Đông Dương” là nơi giao hội sinh lộ Đông Tây và sinh lộ Bắc Nam (hình), là chìa khóa vàng kinh tế xã hội quốc phòng địa chính trị văn hóa sử thi Tây Nguyên, Tôi trao đổi với GS.TS. NGND Trần Đức Viên, cũng là Thầy nghề nông chiến sĩ cựu Hiệu trưởng (2007 – 2014) Học Viện Nông nghiệp Việt Nam. Tôi đồng cảm với phát biểu của thầy Viên “Đất đai chưa mang lại yên bình và giàu có cho nông dân !” khi thầy trả lời phỏng vấn của Báo Nông nghiệp Việt Nam ngày 31/07/2019 .Thầy Viên tdvien@vnua.edu.vn nói “Anh Kim Cây Lương thực. Tôi vẫn vào FB của anh để đọc. Nhiều bài viết về Tây Nguyên rất hay. Anh có thể gửi cho tôi các bài/ ý tưởng của Anh/ và những người khác về phát triển nông nghiệp nông thôn Tây Nguyên qua địa chỉ email của tôi: Trân trọng cám ơn anh”.

                   

                   

                  ĐẶNG KIM SƠN LẮNG ĐỌNG
                  Hoàng Kim


                  TS. Đặng Kim Sơn: Cần lập ‘tuyến đường xanh’ cho nông sản là bài báo nóng hổi tính thời sự và có sức lan tỏa, nguồn VnExpress, Hoàng Phương, chuyển tiếp bởi Báo Tiếp thị Nông sản Việt. Đặng Kim Sơn lắng đọng, Hoàng Kim DẠY VÀ HỌC là chuyện thật đời thường, xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/dang-kim-son-lang-dong/

                  DẠY VÀ HỌCNông sản Việt đột phá tốt“. Nông nghiệp sẽ không loay hoay trồng cây gì, nuôi con gì; Thương hiệu nông sản Việt cái vòng luẩn quẩn đang được chung tay tháo gỡ vướng mắc; Dự án tổng hợp những giải pháp quyết sách kinh doanh tiếp thị trong và sau Covid 2020-2021; Tổ chức và Thư viện tiếp thị nông sản Việt đã và được xây dựng cũng cố hệ thống bảo tồn và phát triển bền vững. Trong các chuyên gia kinh tế nông sản Việt đang thực sự tác chiến ở tuyến đầu có tiến sĩ Đặng Kim Sơn ở đấy. Tôi liên tưởng tới người cha yêu quý của anh là tướng Đặng Kim Giang làm tổng phụ trách công tác hậu cần cho chiến trường Điện Biên Phủ xưa; sau đó ông làm Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp chuyên về nông trường. Chiến trường điểm nóng và thời điễm quyết liệt cần vị tướng hiền tài dấn thân ấy,

                   

                   

                  1

                  CẦN LẬP TUYẾN ĐƯỜNG XANH CHO NÔNG SẢN
                  TS Đặng Kim Sơn

                  “Các bộ ngành, địa phương cần tổ chức một “tuyến đường xanh” ưu tiên nông sản để đảm bảo lưu thông, tránh tình trạng ngăn sông cấm chợ trong bối cảnh dịch bệnh.TS Đặng Kim Sơn, Phó chủ tịch Hiệp hội các doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp, đưa ra đề xuất trên khi trả lời VnExpress.

                  – Ông nhận thấy điều gì trong suốt quá trình quan sát tình hình tiêu thụ nông sản ở Hải Dương, Bắc Giang qua các đợt dịch?

                  – Tiêu thụ nông sản trong điều kiện bình thường đã luôn là mối lo thường trực của nông dân và lại càng căng thẳng hơn khi dịch hoành hành. Câu chuyện nông sản ùn ứ phải giải cứu ở Hải Dương trong đợt dịch hồi đầu năm, đến tiêu thụ thuận lợi vải thiều Bắc Giang đã có sự thay đổi khá rõ ràng nhờ được chuẩn bị cẩn thận, bài bản hơn.

                  Tôi nghĩ có bốn yếu tố làm nên sự khác biệt này. Thứ nhất, sự chuẩn bị của các bộ ngành từ mấy năm trước đã tạo điều kiện mở rộng thị trường quốc tế, nhất là các thị trường cao cấp, tạo thuận lợi cho nông sản xuất khẩu.

                  Hai, vải thiều trồng đã quy hoạch thành vùng chuyên canh, quản lý khá tốt về tiêu chuẩn chất lượng, vệ sinh an toàn và truy xuất nguồn gốc.

                  Ba, tỉnh đã chuẩn bị sẵn kịch bản tiêu thụ và tìm cách gỡ tình thế “ngăn sông cấm chợ” để đưa hàng đến cửa khẩu, nơi tập kết. Cuối cùng là sự nhanh nhạy trong khai thác công nghệ, số hóa để giới thiệu sản phẩm, đưa quả vải lên sàn thương mại điện tử kết hợp các chuỗi bán lẻ, bán buôn ở chợ truyền thống trong nước.

                  – Sự thay đổi này đặt ra cho các tỉnh, thành bài học gì về tiêu thụ nông sản trong dịch?

                  – Cần sự vào cuộc của cả bộ ngành trung ương, chính quyền địa phương, doanh nghiệp và người dân. Nếu tất cả các bên cùng nỗ lực phối hợp nhịp nhàng thì có thể xử lý được nhiều vấn đề của nông sản. Nhất là các địa phương, luôn cần chủ động chuẩn bị kịch bản ứng phó với các tình huống phát sinh, giúp doanh nghiệp và nông dân tiêu thụ, lưu thông cho nông sản trong dịch, phá thế “ngăn sông cấm chợ”.

                  Việc chuyển hướng tiêu thụ tốt trong nước cũng là cơ hội nhìn nhận lại tiềm năng của thị trường gần 100 triệu dân có thu nhập đang tăng. Nhất là các loại nông sản dễ hỏng, khó quản lý như hoa tươi, trái cây.

                  Việc phủ kín thị trường trong nước là thách thức, cũng là cơ hội cho nông sản từng vùng miền, nên có sự tính toán thêm.

                  – Dịch bệnh vẫn diễn biến phức tạp. Theo ông, nên làm gì để việc vận chuyển, tiêu thụ nông sản không bị ách tắc bởi các chốt kiếm soát?

                  – “Ngăn sông, cấm chợ” luôn có thể xảy ra khi địa phương sản xuất nào đó trở thành vùng dịch, tại thị trường tiêu thụ bị phong tỏa, hoặc các tỉnh dọc đường lưu thông kiểm soát dịch. Một số địa phương đặt mục tiêu an toàn trên hết, kiểm soát chặt người và phương tiện đi qua đã biến địa bàn mình thành “lãnh địa riêng”. Dù không nơi nào tuyên bố cấm hẳn lưu thông, nhưng các thủ tục rườm rà với chi phí tốn kém có thể triệt tiêu mọi nhiệt huyết hỗ trợ nông dân đang phải xoay sở trong đại dịch.

                   

                  Nông dân Bắc Giang đem vải thiều đi cân, tháng 6/2021. Ảnh: Giang Huy
                  Nông dân Bắc Giang đem vải thiều đi cân, tháng 6/2021. Ảnh: Giang Huy

                   

                  Việc tổ chức tiêu thụ vải thiều bài bản hơn ở Bắc Giang đã đặt ra vấn đề xác lập tình trạng bình thường mới trong bối cảnh đợt dịch, ổ dịch mới có thể bùng phát bất cứ đâu. Việc này đòi hỏi nỗ lực liên ngành, đi kèm phân định trách nhiệm người lãnh đạo địa phương. Rõ ràng đã đến lúc cần chuyển từ tư duy “giải cứu” bị động sang chủ động trong tổ chức sản xuất, lưu thông hàng hóa, di chuyển lao động, chuyên gia nước ngoài cho cả nông nghiệp và công nghiệp.

                  Với nông sản, cần tổ chức đồng bộ một “tuyến đường xanh”. Trong đó hàng hóa được kiểm soát tốt ngay từ vùng sản xuất, với những tổ chức và quy chuẩn lưu thông chặt chẽ, tín hiệu chỉ báo dán trên xe có thể phá thế “lãnh địa riêng”, khơi dòng chảy thông suốt cho hàng hóa các vùng phải kiểm soát. Đây là việc nên làm ngay để đối phó với không chỉ dịch bệnh mà còn thiên tai và các tình huống đột xuất.

                  – Đề xuất cụ thể của ông về việc này như thế nào?

                  – Tại vùng sản xuất, địa phương, bộ ngành làm việc với doanh nghiệp, nông dân xem nông sản chính nào sắp thu hoạch, khối lượng hàng hóa ra sao, thị trường tiêu thụ ở đâu. Sau đó lên kế hoạch các điểm tập kết hàng đảm bảo an toàn vệ sinh, lái xe được tiêm chủng, xét nghiệm định kỳ. Khi đã xong khâu kiểm định, xe hàng được kẹp chì niêm phong và dán biển hiệu chỉ báo “xe của tuyến đường xanh” chẳng hạn.

                  Dọc đường đi, xe phải đi đúng tuyến đường định sẵn, có thể theo dõi bằng camera hành trình, hệ thống GPS, đi theo đoàn… Phương tiện nào làm sai quy định về đường đi, người vận chuyển, thời gian, địa điểm, hàng hóa phải bị loại ngay, xóa logo hoặc biển hiệu “tuyến đường xanh”. Xe đi qua các tỉnh thành, chốt kiểm soát được khử khuẩn phòng dịch và hỗ trợ kỹ thuật nhưng không ngăn chặn, kiểm soát lại.

                  Tại điểm đến, chính quyền địa phương tổ chức sẵn điểm tiếp nhận là nơi trung chuyển hoặc vùng đệm để giao hàng. Kiểm tra giấy tờ, mở kẹp chì xong, đưa ngay vào hệ thống tiêu thụ. Điểm bán cũng cần kiểm soát an toàn dịch bệnh. Loại bỏ các khâu trung gian, chấm dứt các điểm bán hàng “giải cứu” ngoài lề đường.

                  Tôi cho rằng đây là giải pháp khả thi nếu có sự phối hợp đồng bộ liên ngành, liên vùng, liên tỉnh. Chính phủ xây dựng tổ công tác liên ngành (công thương, nông nghiệp, giao thông, y tế, công an) để thống nhất chương trình, phân công địa phương liên quan cùng tham gia kế hoạch. Tổ công tác này cũng sẽ là “đầu mối” để doanh nghiệp đăng ký thủ tục vào tuyến đường xanh. Ta nói nhiều về 4.0, thương mại điện tử, kinh doanh trực tuyến. Song quyết định thành bại của tiêu thụ nông sản trong tình hình dịch bệnh phải là sự kết hợp đồng bộ giữa các khâu chào hàng, giao dịch, thanh toán và nhất là không bị cản trở trong quá trình vận chuyển hàng hóa từ nơi sản xuất đến nơi tiêu dùng. Nếu khâu này tắc thì 4.0 cũng không làm được gì.

                   

                  Xe chở vải thiều xuất khẩu được đi luồng ưu tiên.Ảnh: Thế Phương
                  Xe chở vải thiều xuất khẩu được đi luồng ưu tiên. Ảnh: Thế Phương

                   

                  Lần đầu tiên Bắc Giang đã đề nghị truyền thông không dùng từ “giải cứu” vì lo ngại tụt giá nông sản. Như vậy, đây là thông điệp cho thấy đã đến lúc cần thay đổi tư duy về “giải cứu”?

                  – Tôi nghĩ đề nghị đó là hợp lý, vấn đề không phải chỉ là khiến giá cả xuống thấp nếu dùng từ đó, mà đã đến lúc cả xã hội cần thay đổi cả tư duy định hướng cho hành động. Từ “giải cứu” làm người ta liên tưởng đến cứu trợ nhân đạo – nghĩa cử tình cảm ngắn hạn. Trong bối cảnh “bình thường mới”, việc tiêu thụ nông sản khi xuất hiện ổ dịch là hoạt động kinh tế mang tính dài hạn.

                  Trước hết, không thể cư xử với nông sản, nông dân theo kiểu nhân đạo như kẻ mạnh nhìn xuống người yếu thế mà ban phát sự hỗ trợ. Đông đảo nông dân có lẽ không cần và cũng không thể sản xuất kinh doanh lâu dài dựa vào điều đó. Việt Nam có lợi thế cao về n&oXem tiếp >>

                    Dạy và học 29 tháng 6(29-06-2021)

                  DẠY VÀ HỌC 29 THÁNG 6
                  Hoàng Kim

                  CNM365 Tình yêu cuộc sốngChuyện thầy Lê Văn Tố; Tím một trời yêu thương, Đối thoại với Thiền sư; Học lắng nghe cuộc sống; Ngắm dấu chân thời gian; Đêm nhớ Thuyền và Biển; Hồ Xuân Hương góc khuất; Giấc mơ lành yêu thương; Quả táo Apple Steve Jobs; Bảy Nhị kênh ông Kiệt và tôi; Ngày 29 tháng 6 năm 2007, Phiên bản chiếc iPhone thế hệ đầu tiên của hãng Apple do Steve Jobs, Steve Wozniak và Ronald Wayne đồng sáng lập được chính thức đưa ra thị trường. Ngày 29 tháng 6 năm 2010, ngày mất Hoàng Tùng, Nhà báo Việt Nam (sinh năm 1920). Bài chọn lọc ngày 29 tháng 6:  Chuyện thầy Lê Văn Tố; Tím một trời yêu thương, Đối thoại với Thiền sư; Học lắng nghe cuộc sống; Ngắm dấu chân thời gian; Đêm nhớ Thuyền và Biển; Hồ Xuân Hương góc khuất; Giấc mơ lành yêu thương; Quả táo Apple Steve Jobs; Bảy Nhị kênh ông Kiệt và tôi; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-29-thang-6/

                  vochonggslevanto

                  CHUYỆN THẦY LÊ VĂN TỐ
                  Hoàng Kim


                  Giáo sư Lê Văn Tố là một người thầy hiền hậu, tài năng mà đời tôi may mắn được gần gũi, học hỏi và tôi thực sự kính trọng. Thầy Tố cùng quê Nghệ Tĩnh với cụ Nguyễn Công Trứ người đã tuyên ngôn sứ mệnh của kẻ quốc sĩ: “Đã mang tiếng ở trong trời đất. Phải có danh gì với núi sông” đối với người có học thực sự phải làm được điều gì đó ích lợi cho dân cho nước. Chuyện thầy Lê Văn Tố khơi dậy trong tôi sự thăm thẳm nhớ quê của một người con xa xứ và ước vọng tiếp tục hoàn thiện các công việc ân tình phục vụ ích lợi cho Tổ Quốc Quê Hương. Thầy Tố có nhiều chuyện đời mà tôi thích nhất bảy chuyện: 1) PHTI – HCMC và FCC; 2) Một chuyến đi ‘dối già’ và những suy tư ”, 3) “Lịch sử Logo FCC”, 4) “FOLI và FOVINA”,5) “Câu thơ đời ám ảnh”, 6) “Thầy Tố chuyện đời thường ” 7) “Thầy Tố bạn và học trò ” Trước đây khi bước vào tuổi 75 thầy Tố đã có cuộc du xuân “dối già” cùng vợ về quê. Đó là câu chuyện không phải của riêng ai, chỉ là người trước người sau mà thôi, bạn cũng chẳng kiêng cử về hai chữ “dối già” vì thầy cô nay còn mạnh khỏe lắm, phải thọ đến trăm tuổi, nhưng một cuộc du xuân cùng vợ về quê là chuyện to. Thầy coi xong việc này là thảnh thơi xong một việc chính.

                  Mời bạn lắng nghe lời Thầy kể:

                  PHTI – HCMC VÀ FCC

                  Thầy
                  Lê Văn Tố viết “Tiền nhân bảo” Công trồng là công bỏ, Công làm cỏ là công ăn“. Đúng vậy tôi chỉ có công trồng chỉ có 2 cây là PHTI-HCMC và FCC trồng trong những đêm dài chuyển mình đổi mới: không được thành lập thêm cơ quan ở HCMC nếu không có chữ kí của ông Võ Văn Kiệt phó chủ tịch hội đồng bộ trưởng và ông Phan Văn Khải chủ tịch thành phố. Tôi ở nước ngoài về cầm thơ tay của ông Chín Cần – phó ban tổ chức trung ương, Bộ trưởng, không biết sợ là gì cứ thế xông vào thế mà được việc. Có đội ngủ tốt. Cơ quan làm được nhiều việc, có uy tín với xã hội. Tôi về hưu đã lâu, nhân ngày gia đình Việt Nam, anh em cơ quan đến thăm. Cầm phong bì trên ngực, gạo, sữa nặng quá không ôm được biểu lộ tấm lòng của người già. Trân trong trước tình cảm của anh chị em”. Đọc những lời chia sẻ, Ấm áp mãi tình thân. Trang sách đời rộng mở. Dạy và học chuyên cần. Em Hoàng Kim xin được lưu về chuyên trang Chuyện thầy Lê Văn Tố

                  MỘT CHUYẾN ĐI “DỐI GIÀ” VÀ NHỮNG SUY TƯ
                  Giáo sư Tiến sĩ Khoa học Lê Văn T

                  Bước vào tuổi 75 tôi muốn có cuộc du xuân “dối già” cùng vợ về quê.

                  Như có món nợ nào đó chưa trả xong khi bước sang thế giới khác, đầu óc tôi vẫn văng vẳng đâu đó câu ví dặm “ giận thì giận mà thương thì thương” tôi không giận ai cả. Chỉ biết giận mình vì tuy có một số sản phẩm được người tiêu dùng chấp nhận nhưng chưa có gì đóng góp cho quê hương. Có lẽ núm nhau mẹ chôn ở gốc tre bụi chuối nào đó nên quê hương vẫn sâu đậm trong lòng – mặc dầu li hương hơn 60 năm.

                  Không sâu đậm sao được đến như Le Breton thầy giáo của giáo sư Lê Thước ở trường quốc học Vinh đã không ngần ngại khi viết: “ông yêu xứ Nghệ và con người Nghệ Tĩnh”( Le vienx An-Tĩnh 1936, bản dịch của Trung Tâm văn hóa ngôn ngữ đông tây năm 2005). Có lẽ Le Breton vì hiểu và yêu xứ Nghệ nên mới để lại tác phẩm chân tình giàu tính văn học, sáng giá về khảo cổ học, sử học, am hiểu về địa chất Nghệ Tĩnh đến thế.

                  Để tiết kiệm thời gian, tôi liên hệ một số cơ sở du lịch và khách sạn 5 sao Mường Thanh Sông Lam ở Vinh thu xếp cho một chuyến du lịch cao cấp với hướng dẫn viên giàu tri thức, am hiểu địa danh các huyện Diễn Châu, Yên Thành, Nam Đàn, Thanh Chương, Hương Sơn, Hương Khê, theo đường 8 đến biên giới Lào- Việt. Yêu cầu đơn giản đó không được đáp ứng. Tôi thuê xe về quê nội, quê ngoại.

                  Hai quê qua bao thăng trầm nay đã được công nhận là di tích văn hóa lịch sử. Quê nội đời cố Lê Kim Ứng đã có công giúp phong trào Cần Vương và là nơi trú ngụ của gia đình cụ Nguyễn Sinh Sắc cùng 3 con sinh sống một thời gian thời thơ ấu. Phong cảnh và tình người chắc để lại trong lòng Bác Hồ những kĩ niệm khó quên nên khi Bác gặp tham tán quân sự Việt Nam tại Mạc Tư Khoa (người cùng quê) Bác còn hỏi thăm và khen là Nguyệt Bổng (tên cũ) đẹp.

                  Nhiều văn nghệ sĩ trong kháng chiến chống Pháp như Nguyễn Văn Tý, Trần Hoàn,…đã từng sinh sống tại quê tôi. Hồi nhỏ chúng tôi vẫn nghêu ngao “một chiều anh bước đi, em tiễn đưa anh ra tận cuối đồi, rằng kháng chiến còn trường kì là còn gian khổ”. Trần Hoàn đã bén duyên với người con gái quê tôi, trước lúc đi công tác xa đã để lại bài hát trên.

                  Khi vua Hàm Nghi bị bắt, phong trào Cần Vương đi vào thoái trào. Các sĩ phu Cần Vương cảm kích trước sự giúp đỡ của gia tộc Lê Kim Ứng đã nói : việc nước chưa thành, công ơn gia tộc chưa trả được chỉ mới chọn được miếng đất tốt để hai cụ an nghỉ lúc trăm tuổi với lòng mong mỏi gia tộc ngày càng hưng thịnh. Tôi không am hiểu phong thủy nhưng mộ Cố trên đồi cao vẫn hội đủ: tả thanh long, hữu bạch hổ có sông dài uốn lượn phía dưới.Tuổi già nhưng nhờ mấy trăm bậc đá cháu mới làm nên vẫn cố leo lên thắp hương Cố lần cuối.

                  Bên kia quả đồi là giếng Cửa Khâu nước chảy quanh năm từ lòng núi không bao giờ cạn với đàn cá tung tăng như cá thần Cẩm Thủy (Thanh Hóa). Chị em tôi lúc nhỏ hay phải gánh nước từ giếng Cửa Khâu về để mẹ làm tương ăn quanh năm, thổi xôi nếp rồng cúng giỗ…

                  Về quê nhiều lần hỏi về giếng Cửa Khâu, nếp rồng, bánh vo (làm từ bột gạo lức lúa nương) chỉ còn mấy người già còn nhớ. May thay lần này có người dẫn đường tìm lại được giếng Cửa Khâu khi trời vừa tối. Cảm động vô cùng bà con xúm lại. Người biếu chai rượu, kẻ chai tương được sản xuất từ nguồn nước giếng này. Đúng là món ngon nhớ đời. Không phải chỉ mình tôi mà biết bao người xứ Nghệ, khách thập phương từng sinh sống ở đây vẫn nhớ con cá mát kho tương, xôi nếp rồng, bánh vo… Nay chỉ còn trong kí ức người già!

                  Bù lại có món ngọn lang luộc xào tỏi mà các anh chị ở tòa soạn báo Kinh tế Sài Gòn, Sài Gòn Times khi chiêu đãi tôi ở thành phố Hồ Chí Minh thường nhắc đến nay đã trở thành món đặc sản nhưng phổ thông khắp thành Vinh. Ước gì ngọn lang, cá thu nướng Cửa Lò, gà đồi Nghệ An trở thành hàng hóa phổ biến ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh.

                  Nghệ An còn nổi tiếng với cam Xã Đoài. Lần này về quê, cố tìm đến vùng cam Xã Đoài để mua bằng được loại cam nổi tiếng ngọt, thơm, nguyên gốc về làm quà. Loại cam mà tôi đã từng được ăn, được chứng kiến người dân chăm sóc theo lối cổ truyền. Cũng gọi là cam Xã Đoài bán hiện nay nhưng sao quá nhiều nước và chua! Đường cao tốc vun vút qua xứ đạo năm xưa, khó tìm được người dân để hỏi đường. May gặp được người dắt trâu làm đồng về chỉ nói đơn giản: “Không cần hỏi ai cả cứ đi tiếp nhìn bên trái thấy nhiều tòa nhà, cổng thành kiên cố, đường bê tông dài bao quanh– cam Xã Đoài ở đó.

                  Có lẽ sau Tết hết mùa cam chỉ thấy hai quả cam đá to tướng trên tượng đài trước tòa dinh thự. Chợt nhớ tới ông Nguyễn Hữu Tiêu giám đốc nông trường Sông Con (Nghĩa Đan) . Chỉ còn một mắt vì gian truân của cuộc đời nhưng vẫn sáng nhìn xa trông rộng nên đã đưa cam Xã Đoài lên vùng đồi tạo nên thương hiệu cam Vinh nổi tiếng một thời làm mát lòng người dân miền Bắc, trong lúc khan hiếm hàng hóa của thời bao cấp.

                  Hi vọng sẽ còn dịp trở về thắp hương trên bàn thờ ông Tiêu ở Nghĩa Đàn với cam Xã Đoài thứ thiệt. Cam Xã Đoài mọc trên đất pha cát xung quanh nhà thờ Xã Đoài. Có lẽ cần đến vai trò xứ đạo để phát triển và giữ được thương hiệu loại cam quý giá này.

                  Viết đến đây tôi lại nhớ đến cố ngoại Phan Sĩ Thục được vua Tự Đức cử làm chánh sứ đến triều Thanh. Làm quan to trong triều nhưng khi lương, giáo tàn sát lẫn nhau, cố đã mở cửa nhà quan để giáo dân vào trú ẩn, góp phần hòa giải mâu thuẫn. Ngày nay con đường mang tên ông là một trong những con đường dẫn đến tượng đài Bác Hồ ở Vinh. Tôi thầm cảm ơn các anh chị lớp trước, phải “có tâm có tầm” mới cất giữ được bút phê của vua “Liêm như Thục” và ấn kiếm áo mũ vua ban cho đời sau (sách vua quan triều Nguyễn cũng đã ghi chép chuyện này).

                  Lần này về quê tôi còn gắng sức đến thắp hương mộ bà Hoàng Thị Loan trên đồi cao. Mát trời cảnh đẹp nhưng nhiều cụ già với lòng thành tâm chỉ ngồi dưới chân đồi. Giá có những chiếc cáng nhỏ để giúp các cụ! Con đường bậc thang lên đồi dốc chỉ có nước trà xanh và nước có gas nếu có củ sắn dây luộc trồng xung quanh đồi hoặc nước sắn dây sẽ thêm mát lòng người đến viếng… Nhà lưu niệm Nguyễn Du to rộng mênh mông nhưng sao vẫn thiếu tiếng ngâm Kiều của mẹ thuở nhỏ…

                  Quà về quê tôi chỉ có dịp mang theo cam Quỳ Hợp thay cho cam Xã Đoài và chai tương Cửa Khâu. Nếu có thêm cá thu nướng Cửa Lò đông lạnh hút chân không thì tốt biết bao. An ninh ở sân bay Vinh không cho tôi mang chai tương theo người nhưng sau khi biết tôi mang tương về để nghiên cứu phát triển sản xuất đã linh động cho qua. Về Sài Gòn kể chuyện mọi người khen an ninh có tâm và có tầm nhìn…

                  Chuyến đi dối già chỉ có mấy ngày nhưng có biết bao điều suy tư. Suy tư có thể đúng có thể sai nhưng vẫn là suy tư của người con xứ Nghệ xa quê.

                  GS. TSKH Lê Văn Tố

                   

                  LỊCH SỬ LOGO FCC
                  The History of Logo FCC

                  Anh em ở cơ quan cũ FCC và tổng giám đốc FCC anh Trần Phương đến chơi và trao đổi với tôi viết lịch sử FCC để lưu lại và giáo dục truyền thống cho lớp trẻ mới vào . Tôi từ chối và nói : Đã gửi phòng lưu trữ cơ quan các tài liệu cũng như bút tích của ông Võ Văn Kiệt ,ông Phan Văn Khải và ông Nguyễn Văn Chính ( Chín Cần Bí Thư Trung Ương Đảng , Bộ Trưởng Bộ Lương Thực ). Cơ quan nếu cần thì dựa vào tài liệu đó cũng như đĩa CD cử người viết là xong. Nay tôi chỉ kể lịch sử Logo FCC để mọi người có thêm tài liệu: 

                  Việt Nam từ thiếu ăn bắt đầu xuất cảng gạo, hồi ấy chúng ta giành gạo tốt nhất để bán. Nước ngoài mua gạo 35% tấm Việt Nam về bán lại gạo có phẩm chất cao hơn. Thuộc chuyên môn của mình, tôi đề nghị nhà nước cho thành lập cơ quan giám định thứ 2 với tên giao dịch quốc tế là :Food Control Center (FCC) bên cạnh Vinacontrol. Với sự hợp tác chân thành , tránh phiền phức cho khách hàng FCC đã tới Vinacontrol bàn bạc, thống nhất quy trình làm việc và đưa các mẫu gạo chuẩn để giám định. Cán bộ FCC thắc mắc tại sao mẫu gạo chuẩn chỉ ghi tên Vinacontrol và Viện Nghiên Cứu Lương Thực, còn FCC ở đâu ?

                  Ở trong tim các anh và trên ngực các anh – Tôi trả lời và chỉ vào ngực áo đồng phục của mọi người có Logo FCC. Mình phục vụ tốt hết lòng với khách hàng sẽ tạo dần uy tín. FCC với đội ngũ chuyên môn của mình đã tới từng kho hàng tham gia chuẩn bị hàng xuất khẩu cho họ theo đúng hợp đồng đã kí đồng thời mời cơ quan giám định quốc tế OMIC-Nhật Bản đến giảng dạy và cộng tác chuyên môn. FCC dần dần đã tạo dựng được uy tín của mình với khách hàng trong và ngoài nước song song với việc đào tạo tuyển dụng nhân viên mới. Có lần doanh nghiệp phản ánh với chúng tôi anh H buổi đêm bắt doanh nghiệp đem xe về Sài Gòn ngủ để mai đến Long An làm việc tiếp. Thời đó đường sá đi lại rất khó khăn sau khi điều tra chúng tôi biết đó là sự thật lập tức cho nhân viên tạm thời nghỉ việc và hẹn lúc nào biết cách phục vụ khách hàng sẽ được làm việc tiếp. Nghề giám định có nhiều lúc cũng rất cân não và khó khăn. Lúc kiểm lô ý dĩ xuất cảng sang Nhật, tới cảng Yokohama họ trả lại vì nhiễm độc tố Aflatoxin vượt chuẩn. Với lề lối làm việc khoa học, FCC khẳng định với khách hàng nếu lỗi của mình, chúng tôi sẽ nhận trách nhiệm nhưng trước hết cần lấy mẫu lại để kiểm tra đồng thời kiểm tra mẫu lưu trữ để trong kho và gửi mẫu sang Băng Cốc, Tokyo. Có kết quả tương đồng, tôi tin rằng chúng tôi có lý và khuyên khách hàng về sấy khô lại sản phẩm đổi các công ten nơ khác, nếu Nhật họ yêu cầu thì mạnh dạn xuất hàng. Mọi việc êm xuôi, tôi cũng trút được gánh nặng thoát khỏi vòng số 8 vì tội cố ý làm trái.

                  Có lẽ ở Yokohama họ lấy mẫu không đúng cách không đại diện cho lô hàng nên có sai sót nói trên. Từ sự việc này dự án ACIAR đề nghị tôi và một chuyên gia Úc viết bài giảng về phương pháp lấy mẫu cho các trường đại học.

                  Không phải chỉ tranh luận với khách hàng nước ngoài mà còn tranh luận với hải quan nước nhà. Chúng ta có nhà máy xay bột mì hiện đại nhưng nếu nhập hạt mì về xay sát sẽ bị đánh thuế vì hải quan cho rằng hạt mì là đã qua xay xát (Vì hạt lúa mì sau thu hoạch đã rất bóng). Thuyết phục không xong, tôi cho hạt mì ngâm ủ và nói nếu qua xay xát hạt mì sẽ không nảy mầm. Cuối cùng hải quan chấp nhận. Có lần chúng tôi mời cán bộ FAO đến chứng kiến lô dầu ăn viện trợ cho Việt Nam bị ôi mốc vì chất lượng kém. Họ tâm phục khẩu khục đổi cho ta lô dầu khác. FCC ngày càng phát triển được ủy quyền giám định không những chỉ hàng lương thực thực phẩm mà còn nhiều loại hàng hóa khác. Cái áo đã chật nhưng Logo FCC đã đi ra thế giới làm thế nào đây ? Động viên anh em tìm thêm một chữ C cho hợp với cái áo mới, từ đó có tên : Food & Commoditoes Control. FCC đã giữ vững và phát triển tên tuổi của mình hơn 30 năm nay nhưng 1 lần nữa chứng tỏ sự non yếu của tôi – 1 người chuyên về kỹ thuật lương thực thực phẩm chỉ nghĩ đến giám định thực phẩm mà thôi…

                  Khi được xây dựng trụ sở mới tôi bàn với anh em : Mình chưa đủ tài chính xây dưng tòa nhà 9 lầu thì chỉ xây dựng 4 lầu nhưng nền móng kết cấu đủ 9 lầu tránh đập phá lãng phí.

                  Về hưu đã lâu rất ít khi tới cơ quan nhưng mỗi lần đến để sinh hoạt khoa học hoặc giới thiệu sách khoa học mới của các bạn đồng nghiệp. Nhìn tòa nhà 9 tầng vươn cao giữa hàng me cổ thụ ( Hợp đồng giao hẹn với công ty xây dựng không được chặt me ) lòng tôi lại lâng lâng.”

                  GS.TSKH Lê Văn Tố

                  ThayTovachaoPOLI

                  FOLI VÀ FOVINA
                  Một phần tư thế kỉ trôi qua của sản phẩm nghiên cứu Foli

                  Xuất khẩu gạo còn tồn dư nhiều gạo gãy, tấm tốt. Tiếc quá, tôi bàn với anh em ta sản xuất cháo ăn liền được không ? Ăn liền nhưng tiền đâu nghiên cứu ? Anh em hỏi lại tôi ? Ra Hà Nội xin tiền nghiên cứu nhưng họ không tin vì cháo thì phải nấu nhừ chứ máy móc làm sao được? Biết tôi từ lâu nhưng họ vẫn trách yêu : Cậu sách vở nhiều quá thần kinh hay sao? Về lại Sài Gòn tôi gõ cửa giáo sư Hoàng Anh Tuấn (giám đốc sở khoa học, ủy viên ủy ban TP. HCM) xin tiền nghiên cứu. Ông cười bảo tôi : Đó không phải là lĩnh vực của tôi nhưng tôi tin anh về làm thủ tục đi.

                  Có 50 triệu cầm tay ( Hồi đó 50 triệu là to ) các kĩ sư của chúng tôi ra đặt xưởng CARIC thiết bị chịu áp lực làm Extruder. Họ từ chối. Thử dùng nòng súng đại bác cũ được không ? – Tôi bàn với anh em. Kĩ sư Lộc và bộ phận cơ khí đã làm được Extruder từ nòng súng đại bác và sau đó kĩ sư Bình, kĩ sư Châu làm Extruder cỡ nhỏ hơn. Cháo ăn liền ra đời bán chạy khắp toàn quốc. Uy tín của Viện được nâng cao. Sáng sớm dân xếp hàng dày đặc trước cơ quan chờ thùng cháo ăn liền về cho gia đình và bán lại kiếm lời. Anh em bảo tôi đặt tên cho xưởng cháo đi. Đi đâu họ cũng hỏi xưởng cháo ngượng lắm !

                  Xưởng FOLI được không ? Sao lại gọi là xưởng FOLI ?

                  FOLI là food ăn liền để liền mạch với sản phẩm PHOMI được sản xuất từ nguyên liệu phối lúa mì rất bổ dưỡng chuyển giao cho xí nghiệp xay lúa mì Bình Đông bán rất chạy nuôi sống được 60 công nhân đang thất nghiệp.

                  Sản phẩm đã bán chạy sẽ có người làm giả nên cần đăng kí bản quyền. Tên FOLI và Logo FOLI mang hình đầu gà từ đó vì sản phẩm ra đời năm Qúy Dậu ( 1993 ). Mặc dù vậy ở Hà Nội có cô giáo vì kế sinh nhai làm giả cháo ăn liền của chúng tôi. Công an hỏi ý kiến để xử lý. Tôi bàn với công an : Vì sinh kế cô giáo mới làm như vậy các anh chỉ cần khuyên họ nếu có điều kiện thì mở cơ sở sản xuất mới chứ không được lấy tên FOLI. Từ cháo ăn liền họ hàng của FOLI có thêm nhiều sản phẩm mới : Cơm gạo nứt ăn liền, cốm gạo lứt rong biển, chè đậu xanh ăn liền, cốm 5 loại đậu, xưởng đồ hộp di động, canh chua ăn liền …. Sản phẩm đã có mặt trên thị trường ¼ thế kỉ.

                  Hội nghị tổng kết ở cơ quan giám đốc sở khoa học bảo tôi lên trả lời câu hỏi tri thức Việt kiều : Tại sao các anh làm được Extruder trong giai đoạn hiện nay. Không giấu diếm tôi thú thật là chúng tôi phải dùng nòng súng đại bác để chế tạo và nói đùa thêm : Các anh khôn đã xuất biên chúng tôi ở lại vừa điên vừa khùng. Là đồ Nghệ tôi đã chơi chữ có người cho tôi là điên khùng, tiếng Pháp FOLIE là kẻ khùng điên.

                  Về hưu nhớ lời của nhà thơ Nga Eptusenco: Đừng chết trước lúc lìa đời. Còn khỏe và đang “ngứa nghề” tôi thành lập Pilot Plan cho mình tại nhà để sản xuất thực phẩm có lợi cho sức khỏe từ nguyên liệu tự nhiên với tên gọi FOVINA (Food Vital, Natural) như kem bổ sung Isoflavon, bánh Macca, bánh bổ sung các loại hạt dinh dưỡng bánh mì thanh long giữ được dài ngày cho người đi biển … công nhân vui mừng được ăn nghỉ đàng hoàng và sống bằng sản phẩm mình làm ra. Đó cũng là địa điểm thuận lợi để các nhà khoa học ngồi hàn huyên tâm sự thử sản phẩm mới“.

                  GS.TSKH Lê Văn Tố

                  chuyendoigslevanto

                  CÂU THƠ ĐỜI ÁM ẢNH

                  Tôi đã trích dẫn chuyện thầy Lê Văn Tố để đọc và suy ngẫm, và sẽ còn quay lại trong nhiều dịp. Tôi tẩn mẫn in đậm các chữ chai tương. “FCC’ ‘POLI’  ‘FOVINA’ . Bill Gates vừa hôm qua chia sẻ thông tin What’s the secret to making great bread?  (‘Bí quyết để làm bánh mì tuyệt vời là gì?’) Câu hỏi của Bill Gates  dường như là một dấu lặng sâu xa cho ẩm thực và nông nghiệp, là một sự đồng cảm …

                  Chuyện đời của giáo sư Lê Văn Tố là bài học suy ngẫm. Thầy Tố qua tám mươi xuân vẫn trên con đường di sản mang các giá trị ẩm thực Việt lan rộng và tỏa sáng. Con người của tâm huyết và thực tiễn là lặng lẽ dâng hiến. Đó là đức độ của một người Thầy.

                  Nhà thơ Trần Đăng Khoa thẩm thơ khá tinh tế “thơ hay là giản dị, xúc động, ám ảnh”. Anh Tư Hoàng Trung Trực của tôi, vị đại tá tư lệnh sư đoàn thời chống Mỹ, cũng thích kể chuyện đời bằng thơ vì theo anh kể chuyện thơ có hồn và dễ nhớ hơn. Anh đã viết hồi ức thơ “Dấu chân người lính” kể về những khốc liệt hi sinh gian khổ chiến trường, đối mặt sinh tử.Thầy Lê Văn Tố cũng vậy, thầy hồi tưởng chuyện đời của thầy bằng những câu thơ tuy mộc mạc đời thường nhưng thật ám ảnh.

                  NGOÀI THẤT TUẦN  VIẾT LÚC NỬA ĐÊM
                  Lê Văn Tố

                  Mẹ nằm đó miên man trên giường bệnh.
                  Tóc trắng phau miệng mấp mấy mấy điều,
                  Chị nằm bên : “mẹ tỉnh hay mê ?”
                  Mẹ đi rồi thương ai nhiều nhất ?

                  Mẹ thều thào con nào đẻ chả thương,
                  Nhưng rồi mẹ lại vấn vương.
                  “Thương thằng Tố nhiều hơn con ạ !
                  Nó dành phần nuôi mẹ sớm chiều.

                  Con mẹ hiếu thảo đủ điều.
                  Nhưng phải xâm xiu, còn lo cho gia đình chúng nó…”
                  Nhớ lúc “bão tan” còn niêu đất nhỏ
                  Mẹ bảo : “Thổi nồi cháo – nhớ đổ nước cho nhiều”.

                  Ngô không có, khoai chẳng còn.
                  Còn gì đâu mà nổi lửa mẹ ơi !
                  Đêm đông gió giật từng hồi.
                  Hết cả rồi biết sống sao đây ?

                  Bán nốt con chó, bán cả cái vò
                  Có bữa câu được con tràu to.
                  Đổi gạo cháo no mấy bữa
                  Rồi lại co ro ngồi trên bậu cửa.

                  Con muốn bỏ học, mẹ không cho.
                  Bụng đói, rét co, nằm không chăn chiếu
                  Gốc sim già – lửa ấm được một bên.
                  Rồi mẹ lại lom khom lên núi xuống đồng .

                  Không quản ngày đông, nắng hè cháy bỏng…
                  Mẹ gánh, mẹ gồng xộc xệch mòn vai
                  Mua mít tại nhà bổ bán ở chợ
                  Hột nhặt về – độn để con ăn

                  Đêm ngủ chiêm bao thấy mẹ hiện về.
                  Nghẹn ngào con viết vội vần thơ…

                  CHÂN ĐẤT THEO ANH
                  Lê Văn Tố

                  Hòa bình về Thủ Đô
                  Nghệ An còn đói khổ
                  Đưa em ra Kinh Đô
                  Dép Bác Hồ* nỏ có

                  Em lội bộ theo anh
                  Tính toán mãi loanh quanh
                  Mua đôi dép con hổ**
                  Em bước chân đi nhanh.

                  Hổ rình chân em cứa
                  Xách cọp đi theo mình
                  Lặng thinh em tiến bước.
                  Em tiến bước lặng thinh

                  Mấy con nhỏ phía trước
                  Ngoái cổ cười bảo nhau
                  Đi mau mặc kệ tau
                  Chân đau đi răng được ?

                  Rồi em tiến dài bước
                  Vượt qua mọi chông gai
                  Không dép lốp xâu quai
                  Nhưng có oai con hổ.

                  * Loại dép bằng lốp ôtô xâu quai.
                  ** Loại dép nhựa tái chế rất cứng

                  THẦY TỐ CHUYỆN ĐỜI THƯỜNG

                  Hoàng Kim xin chia sẻ ký ức quý giá của giáo sư tiến sĩ khoa học Lê Văn Tố. Tôi nói với các em sinh viên và các bạn đồng nghiệp: “Bài học khởi nghiệp của thầy Lê Văn Tố và FCC là rất quý và thật đáng suy ngẫm”

                  Thầy Tố kể: “Cảm ơn các bạn xa gần đã quan tâm và bình luận. Nói đến “công trồng” không thể không nhắc đến anh Nguyễn An Hoàng mà tôi có duyên được gặp anh khi anh ở Hungary về đang phụ trách một đơn vị HCSN phía Nam của Bộ cơ khí luyện kim. Tôi chân thành nói với anh “Tôi không biết quản lí đâu. Tôi chỉ là người đứng mũi chịu sào để các anh chủ động hoạt động”. Công trình đầu tiên của cơ quan do anh tự thiết kế chế tạo và lắp ráp: Máy sấy bột sắn làm tá dược cho xí nghiệp dược Tây Ninh. Làm xong đưa ra sản xuất nhưng họ không có tiền trả chỉ trả bằng sắt thép. Bán sắt thép ở thành phố thì công an ập vào! Tôi bắt đầu biết sợ nhưng cũng động viên anh em: “Nhà nước giao cho ta con gà để cúng, ta làm sạch sẽ luộc lên nộp đủ gan mề cổ cánh, chỉ lấy nước húp thôi” và dặn thêm tôi có làm sao khi đi thăm nuôi nhớ mang thêm sách tiếng anh và từ điển để tôi dạy phạm nhân. Mọi việc ổn thỏa chúng tôi từng bước đi lên, Khi FCC lớn mạnh, áo đã chật nhà nước không cho núp bóng viện nghiên cứu nữa mà phải thành lập doanh nghiệp nhà nước hẳn hoi. Tôi và anh Trần Phương (Tổng giám đốc FCC hiện nay) bay ra Hà Nội. Công việc còn ngổn ngang mà sớm mai đã phải xét duyệt, anh Phương phải phóng xe đến nhà chị Tuất đánh máy làm việc suốt đêm. Sáng sau mắt nhắm mắt mở trước hội đồng xét duyệt của Bộ tài chính và Bộ NN & PTNT, thôi thì “khôn ngoan chẳng lọ thật thà” tôi nói: “Sổ sách của chúng tôi như sổ chợ nhưng đảm bảo không bị thất thoát nhờ hội đồng giúp đỡ xử lí cho”. Phải nói rằng thời đó khó khăn nhưng hội đồng dễ thông cảm cho các “nhà kĩ thuật khởi nghiệp”. Không đao to búa lớn kiểm điểm bình bầu nhưng cơ quan làm việc nhuần nhuyễn với nhau. Trưa ăn cơm nóng sốt tại cớ quan rồi lăn ra chợp mắt làm xong việc mới về. Nói đến trụ sở không thể nhắc đến Omic Nhật Bản, họ hiểu và tin tưởng cho chúng tôi vay tiền rồi lấy công trả nợ. Tiền ít nhưng tham làm 4 lầu để sử dụng nhưng móng đủ sức làm 9 lầu. Anh em thắc mắc hỏi: “Sao đang đói mà anh làm to thế?” Tôi cười: “Làm cho các anh đó. Sau này khỏi phải đập phá khi xây thêm. Chúng ta đã chứng kiến cảnh đập phá quá nhiều rồi”. Khi tôi về hưu anh Đức (giám đốc PHT-HCMC) lên bộ xin xây 9 lầu cho cơ quan. Nguyên tắc phải khảo sát nền móng trước khi cấp giấy phép nhưng giáo sư Giang biết tôi là người chủ trì công trình xây dựng trước đây nên nói ngay: “Anh Tố mà làm thì chắc chắn”. Nghe anh Đức kể lại về hưu rồi vẫn sướng rơn vì trí thức được lãnh đạo tin tưởng. Thực tế giáo sư Giang chỉ gặp tôi 1 lần khi đó anh là vụ trưởng khi tôi đang tổ chức triển lãm ở Cần Thơ với tiêu đề “Đưa công nghiệp chế biến về nông thôn để mỗi địa phương có sản phẩm của mình”. Hàng có bao nhiêu bán hết sạch. Cứ như vậy chúng tôi tiến từng bước vững chắc. Ngẫu hứng mấy dòng để góp vui với cơ quan tổ chúc kỉ niệm 30 năm ngày thành lập FCC, vì khi đó sức khỏe yếu không chống gậy đến được.”

                  THẦY TỐ BẠN VÀ HỌC TRÒ

                  Tôi nhẫn nha chép lại những chuyện đời quanh thầy Tố, vui có buồn có nhưng đến đây thì cứ vui. Sớm nay, tập thể dục xong, trước khi góp ý bài đăng báo khoa học kỹ thuật nông nghiệp cho nhỏ học trò, tôi lướt qua một chút các trang tin nóng trong ngày, suy tư hoài khi đọc bài “Tắc kẹt vì đâu?“”Ba hoa cái tôi, cái tội và cái tồi“”Thị trường thép thế giới: Tương lai không sáng sủa“. Biết bao chuyện nóng hổi mà kẻ sĩ không thể không lo nghĩ. Nhưng thôi, đến thăm thầy, xin được nói chuyện vui nhiều hơn chuyện buồn thì tốt hơn. Thầy Quyền nghề nông của chúng tôi là tấm gương mẫu mực về sự phúc hậu, minh triết, tận tụy trên con đường xanh của chúng ta,  một người bạn thiết của thầy Tố, luôn quan tâm dặn dò giữ gìn sức khỏe.

                  Thầy Lê  Văn Tố cùng thời với những anh chị, bạn hữu “Nga học, Tây học”của thế hệ nông nghiệp đầu tiên nước Việt Nam mới. Nhiều người quen thân của thầy đã để lại những dấu ấn sâu đậm trong nông nghiệp, sinh học và giáo dục nghề nông như: GS. Lương Định Của (16 tháng 8 năm 1920 – 28 tháng 12 năm 1975), GS. Đào Thế Tuấn (4 tháng 7 năm 1931- 19 tháng 1 năm 2011), GS. Vũ Tuyên Hoàng (2 tháng 12 năm 1939 -26 tháng 2 năm 2008), PGS. Lưu Trọng Hiếu (-15 tháng 5 năm 2008), GS. Trần Thế Thông, GS. Nguyễn Văn Luật, GS. Mai Văn Quyền, GS.  Trịnh Xuân Vũ, GS. Ngô Kế Sương, PGS. Nguyễn Văn Uyển,   GS. Nguyễn Tử Siêm, … Quê hương, dòng họ, gia đình, người thân và bạn quý là nguồn sinh khí, điểm tựa cho mỗi cuộc đời và sự nghiệp.

                  Trong nhiều câu chuyện đời thường, tôi thích bài thơ các anh Võ Đức Tình, Thao Lâm viết về thầy Tố:

                  CÓ MỘT NƠI NHƯ THẾ
                  Võ Đức Tình

                  Mái nhà xưa hai trái tim vàng
                  Giản dị một đời chẳng cao sang
                  Chỉ lo đào tạo bao thế hệ
                  Kiến thức tinh hoa thật vững vàng

                  Nơi ấy vườn xanh rộn tiếng cười
                  Thuyền câu rong ruổi khắp muôn nơi
                  Đưa cá về ao: hàng lưu trữ
                  Đãi bạn bè xa đãi khách mời

                  Ăn xong về lại mái nhà xưa
                  Bánh nóng trà thơm suốt bốn mùa
                  Bè bạn gần xa đều thưởng thức
                  Xem thầy chế biến đã vừa chưa

                  Bạn hỏi rằng đâu đẹp thế này
                  Cảnh đẹp người vui chuyện đắm say
                  Nơi ấy bạn hiền thành tri kỷ
                  Cô Nga thầy Tố ” trực” đêm ngày

                  Duc Tinh Vo
                  friends with To Le Van

                  TIẾNG CHIM THÂN QUEN !
                  Thao Lâm26 9 2020  ·

                  Tiếng chim bìm bịp gọi tôi về
                  Thăm miền thơ ấu… nơi chốn quê
                  Vùng đồi Phú Thọ miên man nhớ
                  Cuối xuân bìm bịp gọi nhau về !

                  Đón nắng vàng ươm buổi sớm mai
                  Tiếng kêu “bìm bịp” tha thiết hoài
                  Đón đợi “bạn tình” trong nắng đẹp
                  Thỏa lòng mong ước được sinh sôi !

                  Lâu lắm lại nghe tiếng thân quen
                  Bên sông nhà bạn* ngay Sài Gòn
                  Màu nâu bìm bịp bay thấp thoáng
                  Tình Bạn thêm nồng kỷ niệm nhen !

                  Tình Bạn lâu nay vốn đậm đà
                  Người Nam kẻ Bắc có đâu xa
                  Lại được cùng nhau nghe bìm bịp
                  Tiếng chim thân thuộc của hai ta !

                  Nhớ ngày thăm nhà Bạn-GS Lê Văn Tố ở Q7 Sài Gòn.MĐ.HN 26.9.2020

                  KỶ NIỆM VỚI GS LÊ VĂN TỐ

                  Anh Tinh Cao Cao Văn Tinh viết: Cám ơn anh Hoàng Kim đã cho độc giả thêm nhiều chi tiết về GS Lê Văn Tố với hoạt động khoa học không mệt Xem tiếp >>

                    Dạy và học 28 tháng 6(28-06-2021)

                  DẠY VÀ HỌC 28 THÁNG 6
                  Hoàng Kim

                  CNM365 Tình yêu cuộc sống Giấc mơ lành yêu thương; Hồ Xuân Hương đời thơ; Hồ Xuân Hương góc khuất; Gạo Việt và thương hiệu; Hoa và Ong Hoa Người; Câu chuyện ảnh tháng Sáu; Một niềm tin thắp lửa; Cuối dòng sông là biển; Ngày 28 tháng 6 hàng năm là ngày gia đình Việt Nam được ban hành tại Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 72/2001/QĐ-TTG .Gia đình Việt Nam là ngày tôn vinh mái ấm gia đình Việt Nam, mọi người trong gia đình quan tâm đến nhau, xã hội quan tâm đến trẻ nhỏ và những người không có bố mẹ, các cặp vợ chồng phải hiểu được giá trị mái ấm và cùng nhau vượt qua sóng gió để có một gia đình hạnh phúc “Xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ và hạnh phúc“. Ngày 28 tháng 6 năm 1838, Lễ đăng quang của Nữ hoàng Victoria (24 tháng 5 năm 1819 – 22 tháng 1 năm 1901) là Nữ vương của Vương quốc Liên hiệp Anh và Ireland  từ 20 tháng 6 năm 1837 đến khi bà qua đời. Từ ngày 1 tháng 5 năm 1876, bà mang thêm danh hiệu Nữ hoàng Ấn Độ Thời đại Victoria kéo dài 63 năm và 7 tháng là một giai đoạn được đánh dấu bởi một loạt tiến bộ về công nghiệp, văn hóa, chính trị, khoa học, và quân sự trên khắp Vương quốc Anh và sự mở rộng đáng kể của Đế chế Anh Ngày 28 tháng 6 năm 2006, Cộng hòa Montenegro trở thành thành viên thứ 192 của Liên Hiệp Quốc Nước Cộng hòa này tại miền đông nam châu Âu là một quốc gia giáp với biển Adriatic về phía tây nam, và có chung đường biên giới với Croatia về phía tây, Bosna và Hercegovina về phía tây bắc, Serbia về phía đông bắc, Kosovo về phía đông và Albania về phía đông nam.Thủ đô của quốc gia này là Podgorica, trong khi thành phố Cetinje được gọi là Thành phố Thủ đô Hoàng gia.Cộng hòa Montenegro độc lập từ cuối Trung cổ tới năm 1918, nước này là một phần của vài chính phủ của Nam Tư và liên bang Serbia và Montenegro. Montenegro tuyên bố độc lập ngày 3 tháng 6 năm 2006 và ngày 28 tháng 6 được trở thành thành viên thứ 192 của Liên Hiệp Quốc. Bài chọn lọc ngày 28 tháng 6: Giấc mơ lành yêu thương; Hồ Xuân Hương đời thơ; Hồ Xuân Hương góc khuất; Gạo Việt và thương hiệu; Hoa và Ong Hoa Người; Câu chuyện ảnh tháng Sáu; Một niềm tin thắp lửa; Cuối dòng sông là biển; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlong và  https://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-28-thang-6/

                  GIẤC MƠ LÀNH YÊU THƯƠNG
                  Hoàng Kim

                  nhắm mắt lại đi em
                  để thấy rõ giấc mơ hạnh phúc
                  trời thanh thản xanh
                  đêm nồng nàn thở
                  ta có nhau trong cuộc đời này
                  nghe hương tinh khôi đọng mật
                  quyến rũ em và khát khao anh
                  mùi ngây ngất đằm sâu nỗi nhớ
                  một tiếng chuông ngân
                  thon thả đầu ghềnh

                  nhắm mắt lại đi em
                  hạnh phúc đâu chỉ là đích đến
                  hạnh phúc là con đường trãi nghiệm
                  vỗ về, chờ đợi, nhớ thương

                  nhắm mắt lại đi em
                  trong giấc mơ của anh
                  có em và rừng thiêng cổ tích
                  có suối nước trong veo như ngọc
                  có vườn trúc và ngôi nhà tranh
                  có một đàn trẻ thơ tung tăng
                  heo gà chó mèo ngựa trâu
                  nhởn nhơ trên đồng cỏ
                  tươi xanh

                  nhắm mắt lại đi em,
                  tận hưởng thú an lành.

                  Nhắm mắt lại đi em
                  Giấc ngủ ngoan
                  giấc mơ hạnh phúc
                  Em mãi bên anh,
                  Đồng hành với anh
                  Bài ca yêu thương
                  Bài ca hạnh phúc
                  Giấc mơ lành yêu thương

                  I have a dream

                  Nhắm mắt lại đi em
                  Giấc mơ cuộc đời
                  giấc mơ hạnh phúc
                  ngôi nhà tâm thức
                  Giấc mơ lành yêu thương
                  Có cánh cửa khép hờ
                  Có bãi cỏ xanh non.
                  Đất nước cây và hoa
                  Một khu vườn tĩnh lặng.
                  Chim sóc chó mèo gà
                  luôn quấn quýt sớm hôm.
                  Ban mai ửng
                  nghe chim trời gọi cửa.
                  Hoàng hôn buông
                  trăng gió nhẹ lay màn.
                  Ta
                  về với ruộng đồng
                  Vui giấc mơ hạnh phúc
                  Vui một giấc mơ con
                  Hoa LúaHoa NgườiHoa Đất 
                  Giấc mơ lành yêu thương.

                  GIẤC MƠ LÀNH YÊU THƯƠNG
                  Hoàng Kim

                  Hoàng Thành đến Trúc Lâm
                  Tỉnh thức cùng tháng năm
                  Tỉnh lặng với chính mình
                  Đi bộ trong đêm thiêng
                  Vui đi dưới mặt trời
                  Nhà tôi chim làm tổ
                  Chỉ tình yêu ở lại
                  A Na bà chúa Ngọc
                  Thầy là nắng tháng Ba
                  Giấc mơ lành yêu thương
                  Ngôi sao mai chân trời.

                  HỒ XUÂN HƯƠNG GÓC KHUẤT
                  Hoàng Kim


                  Một sự nghiệp lớn và cấp thiết là bảo tồn phát triển tinh hoa văn hóa Việt. Nghiên cứu văn sử Việt ngày nay cấp thiết phải tìm tòi giải quyết tốt các góc khuất để tôn vinh sự cao quý của các danh nhân văn hóa Việt vào sâu trong lòng nhân dân tổ quốc mình và ra thế giới. Việc làm cần thiết và cấp bách là bảo tồn tỏa sáng tinh hoa Việt và tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới. Nguyễn Du Hồ Xuân Hương là một trong những điểm nhấn trọng yếu ấy vì cuộc đời và văn chương họ đã vượt xa biên giới quốc gia. Hiểu biết đúng sự thật chân thiện mỹ là cách tốt nhất để lan tỏa gía trị Việt.

                  Truyện Kiều Lưu Hương Ký là “cặp song kiếm hợp bích” tinh hoa văn hóa Việt.”Trăm năm trong cõi người ta/ Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau”; ” Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”; “Bắt phong trần phải phong trần/ Cho thanh cao mới được phần thanh cao”; “Chọc trời khuấy nước mặc dầu/ Dọc ngang nào biết trên đầu có ai”; “Khen cho con mắt tinh đời/ Anh hùng đoán giữa trần ai mới già/ Một lời đã biết đến ta/ Muôn chung nghìn tứ cũng là có nhau” (Truyện Kiều Nguyễn Du)”. “Thân em thời trắng, phận em tròn/ Bảy nổi ba chìm mấy nước non / Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn / Nhưng em vẫn giữ tấm lòng son” (
                  Bánh trôi nước, thơ Hồ Xuân Hương); “Anh đồng lòng/ Em đồng lòng /Mộng hồn tương luyến liễu hoa âm/ Thơ cùng ngâm/ Rượu và trăng/ Thăm thẳm buồn ly biệt/ Vầng trăng chia hai nữa/ Cung đàn ly khúc oán tri âm,.Thôi đành bặt tiếng hồ cầm/ Núi cao biển sâu đằng đẳng/ Xin chớ tủi buồn mà than cổ kim.(Hồ Xuân Hương góc khuất; “Thuật ý kiêm trình hữu nhân Mai Sơn Phủ” là bài thơ ‘Tỏ ý’ của Hồ Xuân Hương đối với Nguyễn Du) “Dặm khách muôn nghìn nỗi nhớ nhung/ Mượn ai tới đấy gửi cho cùng/ Chữ tình chốc đã ba năm vẹn,/ Giấc mộng rồi ra nửa khắc không./Xe ngựa trộm mừng duyên tấp nập,/ Phấn son càng tủi phận long đong./ Biết còn mảy chút sương siu mấy,/ Lầu nguyệt năm canh chiếc bóng chong.(Hồ Xuân Hương góc khuấ:; Cảm cựu kiêm trình Cần chánh học sĩ Nguyễn Hầu, Nhớ chuyện cũ viết gửi Cần chánh học sĩ Nguyễn Hầu).

                  Truyện Kiều cho đến ngày nay vẫn bị nhiều người lầm lẫn cho là sách Nguyễn Du dịch vì Nguyễn Du mượn thời thế, địa danh và cốt truyện thuộc triều đại, đất và người của nước ngoài, Thúy Kiều ẩn ngữ Việt Nam còn thiếu các minh chứng thuyết phục về góc khuất: cuộc đời và thời thế; giá trị tác phẩm gốc; gia đình và dòng họ; gia tộc và di chỉ, điển cố, điển tích; sự tôn vinh của xã hội; tầm ảnh hưởng các hồ sơ danh nhân Việt trong visa toàn cầu, là căn bản hồ sơ nhân vật chí cần được sáng tỏ.

                  Hồ Xuân Hương đời thơ; Hồ Xuân Hương góc khuất được nghiên cứu liên ngành và hệ thống trong bối cảnh lịch sử, kết nối với Nguyễn Du trăng huyền thoại, Nguyễn Du niên biểu luận, Nguyễn Du Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du tiếng tri âm. Đó là tiếng thơ nhân đạo, khát khao tình yêu cuộc sống và giải phóng con người (Mời đọc kỹ các đường link của các khảo luận này trước khi tiếp tục bài mới để theo dõi có hệ thống và tài liệu không tiện lặp lại. Cảm ơn quý bạn đọc. https://hoangkimlong.wordpress.com/category/ho-xuan-huong-goc-khuat/

                  1

                  HỒ XUÂN HƯƠNG
                  HỒ MÔN

                  Hồ Xuân HươngTrâm anh nhất thổ Quỳnh Đôi trụ, Hương hoả thiên thu Cổ Nguyệt đường” theo cụ Hồ Sĩ Tạo tại di chỉ, huyền tịch còn lưu đôi câu đối ở nhà thờ họ Hồ Quỳnh Đôi (1) Hồ Phi Mai 胡丕梅 là nguyên danh, Xuân Hương 春香 là biểu tự và Cổ Nguyệt đường 古月堂 là bút hiệu.lời khẳng định của học giả tiến sĩ Phạm Trọng Chánh (2) dựa vào tục xướng danh cổ điển và câu tựa “Phi mai xuân sắc nhất kinh thành” 丕梅春色一京成 của Tốn Phong Hồ Xuân Hương không được chính danh phận trong Hồ Quỳnh gia phả vì bà Hà là vợ lẽ không phải là vợ chính thức trong gia tộc họ Hồ. Lòng ta luống thẹn biệt Hồ môn, trích dẫn trong Hồ Xuân Hương đời thơ nghiên cứu lịch sử văn hóa của Hoàng Kim mục tổng luận
                  là lời Hồ Xuân Hương có trong tập thơ Lưu Hương Ký.

                  Hồ Xuân Hương cuộc đời, bài thơ Dữ Sơn Nam Hạ Hiệp Trấn Quan Trần Hầu. Bài hoạ của Hồ Xuân Hương nguyên vận Quan Hiệp Trấn Sơn Nam Hạ Trần Quang Tĩnh, như sau:

                  Gặp gỡ bèo mây dưới nguyệt tròn,
                  Ngỗn ngang sầu vọng nói gì hơn.
                  Phượng Cầu ai gảy đàn đưa ý,
                  Chim Khách kêu chi ngõ vắng buồn.
                  Ai chuộc tiếng kèn về Hán khuyết,
                  Lòng ta luống thẹn biệt Hồ môn.
                  Chia tay giữa tiệc tình lưu luyến,
                  Ngây ngát hồn tan mộng Sảnh Nương.

                  Thơ chữ Hán Hồ Xuân Hương Nhất Uyên dịch thơ).

                  Hồ Phi Mai là tác giả
                  thơ Hồ Xuân Hương được truyền tụng rất rộng rãi trong dân gian, bà là nhà thơ nữ người Việt nổi tiếng được mệnh danh là “bà chúa thơ Nôm”, tác giả của Lưu Hương Ký kiệt tác thơ Hán Nôm .Hồ Phi Mai (1772-1822) là con gái Hương cống Hồ Sĩ Danh (1706– 1783) là em cùng cha khác mẹ với Hoàng giáp Hồ Sĩ Đống (1739-1785) có tước hiệu Kinh Dương hầu là đại quan, nhà thơ nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam.
                  Hồ Sĩ Đống tự Long Phủ hiệu Dao Đình, sau đổi tên là Hồ Sĩ Đồng, tự Thông Phủ, hiệu Trúc Hiên. Hương cống Hồ Sĩ Danh (biểu tự là Phi Diễn?) đỗ tú tài năm 24 tuổi, ra Bắc dạy học,dan díu với bà họ Hà quê Hưng Yên rồi sinh được một con gái. Sau này Hồ Phi Mai.là nữ sĩ dạy học tại phường Khán Xuân, huyện Vĩnh Thuận,  Bắc thành Thăng Long,

                  Cổ Nguyệt Đường địa chỉ ngày nay khoảng gần vườn hoa Bách Thảo và trụ sở chính của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tại số 2 Ngọc Hà, quận Ba Đình, gần hồ Tây của phường Thụy Khuê, quận Tây Hồ, thủ đô Hà Nội..Gia phả họ Hồ ở Quỳnh Lưu, Nghệ An (Hồ Quỳnh gia phả) phả hệ không có tên Hồ Phi Mai (là Hồ Xuân Hương) con của ông Hương cống Hồ Sĩ Danh (1704- 1783) vì sau khi ông Hồ Sĩ Danh đỗ Hương cống không ra làm quan, và cũng không đi đâu xa khỏi làng, nhưng hiện nay vẫn chưa xác minh được cụ Hồ Sĩ Danh khi là tú tài (sinh đồ) có ra Thăng Long dạy học không? Hồ Sĩ Đống là anh em cùng cha khác mẹ với Hồ Xuân Hương, là chứng cứ.gia tộc của Hồ Xuân Hương góc khuất

                  Đại gia tộc họ Hồ Quỳnh Lưu theo
                  trang thông tin điện tử xã Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An, có nhiều người đỗ đạt cao, làm quan to như Trạng nguyên Hồ Hưng Dật (胡興逸, 907 -?) là thái thú Diễn Châu đời Hậu Hán, Trạng nguyên Hồ Tông Thốc (hàn lâm học sĩ, sử gia đời Trần, nguồn khác cho rằng ông ở xã Thọ Thành, huyện Yên Thành, Nghệ An), Thiếu bảo duệ quận công Hồ Sĩ Dương (1621 – 1681) là danh thần văn võ song toàn, từng trải tả thị lang binh bộ thượng tướng quân, tham tụng, thượng thư bộ công, bộ lễ, bộ hình, giám tu quốc sử kiêm đông các đại học sĩ. Hồ Phi Tích không thua kém gì họ Nguyễn Tiên Điền, Nguyễn Trường Lưu, Phan Thu Hoạch, hay Ngô Tả Thanh Oai. Thời nhà Lê họ Hồ Quỳnh Lưu Hồ Bỉnh Quý là tiến sĩ đệ nhị giáp 1577; Hồ Sĩ Dương, tiến sĩ đệ tam giáp 1652; Hồ Phi Tích, tiến sĩ đệ nhị giáp 1700; Hồ Sĩ Tân, tiến sĩ đệ tam giáp 1721.quan Hoàng giáp Hồ Sĩ Đống (1739 – 1785). Danh sĩ Hồ Sĩ Đống (1739 – 1785) là con ông Hồ Sĩ Danh (1704 – 1783) đỗ Giám sinh, có 5 anh em trai: Hồ Sĩ Dược, con trưởng đỗ Tứ trường thi Hương; Hồ Sĩ Đống; Hồ Sĩ Thích, đỗ Tam trường; Hồ Sĩ Trù, sinh đồ; Hồ Sĩ Hữu, đỗ khoa Liệu sử khả, đời Gia Long, được bổ làm Tri huyện,

                  Theo
                  Nguyễn Du niên biểu luận dẫn theo sách Đại Nam liệt truyện, quyển XXX, trang 24a : Năm Đinh Mùi (1787) Nguyễn Du 22 tuổi. Nhà Tây Sơn Nguyễn Nhạc từ Thăng Long trở về, phong cho Nguyễn Huệ làm Bắc Bình Vương trấn thủ Phú Xuân, còn mình thì dẫn tùy tùng về Quy Nhơn, tự xưng làm Trung Ương Hoàng Đế, phong cho Nguyễn Lữ làm Đông Định Vương ở đất Gia Định, phong Nguyễn Huệ làm Bắc Bình Vương ở đất Thuận Hóa, lấy Hải Vân làm giới hạn. Theo gia phả Hồ Phi Hội, Thư viện Hoàng Xuân Hãn, Paris: Nguyễn Huệ (1753 – 1792) có tên thuở nhỏ là Hồ Thơm, sau đổi theo họ mẹ, lấy tên là Nguyễn Huệ, hoặc Nguyễn Quang Bình, với nữ sĩ Hồ Xuân Hương (1772 – 1822) và tú tài Hồ Phi Hội (1802 – 1875), đều cùng đời thứ 12 của đại gia tộc họ Hồ có cùng một ông tổ đời thứ 8 là Hồ Sĩ Anh . Ông tổ ba đời Nguyễn Huệ là Hồ Thế Viêm, con Hồ Sĩ Anh, sinh Hồ Phi Khang, Hồ Phi Khang sinh Hồ Phi Phúc, di dân vào ấp Tây Sơn, Bình Định, đổi họ Nguyễn và sinh ba anh em Nguyễn  Nhạc, Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ.

                  Hồ Sĩ Đống (1739-1785) là đại quan thời Hậu Lê, đỗ Hội nguyên khoa Nhâm Thìn (1772) đời vua Lê Hiển Tông. Khoa này không có Trạng nguyên, người đỗ đầu là Hoàng giáp, nên còn gọi là Song nguyên Hoàng giáp. Năm Giáp Ngọ (1774), ông được bổ làm Bố chính Kinh Bắc và sau đó được chúa Thịnh Vương Trịnh Sâm bổ làm án sát Hải Dương. Cuối năm 1777, ông được nhà chúa triệu hồi về Thăng Long, cử làm phó sứ nội quan (một chức giám quan bên cạnh chánh sứ) cùng với chánh sứ là Võ Trần Thiệu (tên khác là Võ Khâm Tự hoặc Võ Trần Tự. 1736 -1778) đi sứ nhà Thanh với quan phó sứ thứ hai là Nguyễn Trọng Đang. Sứ đoàn khởi hành đầu tháng giêng năm Mậu Tuất 1778, mùa thu tháng 8 tới Yên Kinh, và mùa Đông lên đường trở về nước. Nhưng khi đến hồ Động Đình ở Hồ Nam, thì Chánh sứ Vũ Trần Thiệu cho mời hai thành viên trong đoàn là Hồ Sĩ Đống và Nguyễn Trọng Đang tới tiết lộ việc chúa Trịnh Sâm có làm tờ biểu riêng xin vua nhà Thanh sắc phong tước vương cho họ Trịnh. Tờ mật chiếu tấu trình vua Thanh rằng con cháu nhà Lê không có ai đáng làm vua nữa. Viên Chánh sứ đã tự hủy bản mật chiếu và giao lại chức chánh sứ cho Hồ Sĩ Đống rồi uống thuốc độc tự tử. Vũ Trần Thiệu đã đọc bài thơ tự than về nỗi chết oan của trạng nguyên Nguyễn Quang Bật thời Lê Uy Mục (3).

                  Nội quan phó sứ Hồ Sĩ Đống thương tiếc người bạn trung nghĩa (với nhà Lê) ấy, ông có làm bài thơ viếng rằng:

                  Hoàng hoa lưỡng độ phú tư luân,
                  Uyên đức kỳ niên cánh kỷ nhân.
                  Cộng tiễn bang giao nhân ngọc bạch,
                  Thùy tri tiên cốt lịch phong trần.
                  Sinh sô lệ sái đồng chu khách,
                  Tái bút danh qui tuẫn quốc thần
                  [10]
                  Trù tướng thái hồ thu nguyệt sắc,
                  Dạ lai do chiếu ốc lương tần.

                  Dịch:

                  Mấy độ hoàng hoa sứ nước người,
                  Tuổi cao đức tốt ấy kìa ai?
                  Bang giao những tưởng ngọc nhà đẹp,
                  Tiên cốt nào hay gió bụi đầy.
                  Giọt lệ đồng châu đưa một lễ,
                  Tấm thân tuẫn quốc tiếng muôn đời.
                  Trăng thu mơ tưởng trên hồ nọ,
                  Thấp thoáng đầu nhà bóng lẩn soi
                  [11

                  Phạm Đình Hổ sau này đã chép lại trong quyển Vũ trung tùy búttrang 185-186 “Đấng tiên đại cửu ta là Thượng thư công…Khi ấy (1777), ông đã ngoài 60, làm quan trong triều đã hơn 40 năm, cứ theo lệ cũ thì không phải đến lượt đi sứ nữa. Vậy mà trong triều không biết duyên cớ làm sao, chợt Trịnh Thịnh Vương (tức Trịnh Sâm) đòi ông vào Trung Hòa đường, mật đưa cho ông một tờ biểu sai sang sứ Trung Hoa cầu phong làm Phó quốc vương. Ông biết ý chúa Trịnh đã quyết nên không dám chối từ. Tháng 6 (1778), thuyền qua hồ Động Đình, ông chợt mắc bệnh, bèn mời Phó sứ là Hồ Sĩ Đống và Nguyễn Trọng Đang tới dặn bảo mọi công việc…Ông lại đưa tờ mật biểu ra đốt trước mặt hai sứ thần, và ngày mồng mười thì mất ở trên thuyền. Hồ công (Hồ Sĩ Đống) có thơ viếng :

                  Hồ Sĩ Đống sau khi đi sứ về năm 1778, được thăng Tả Thị lang bộ Hộ. tước Dao Đình hầu. Tháng 9 năm Nhâm Dần 1782 chúa Trịnh Sâm mất. Kiêu binh giết Việp Quận công Hoàng Đình Bảo, phế chúa Trịnh Cán, đưa con cả Trịnh Tông lên nối ngôi.Trịnh Tông phong Hồ Sĩ Đống làm Bồi tụng, Hữu thị lang bộ Hộ. Hồ Sĩ Đống được cử đi phủ dụ kiêu binh có hiệu quả, quân lính nghe lời ông, nhân dân tin cậy ông. Năm 1783, ông xin thôi chức về thọ tang cha Hồ Sĩ Danh (1706 – 1783). Tháng 10 năm 1783, Hồ Sĩ Đống đang có tang được triệu gấp về kinh, để đối phó tình hình, được chuyển sang quan võ, nhậm chức Đô Chỉ huy sứ, kiêm Bồi tụng phủ sự (Phó Thủ tướng) cùng Hành Tham tụng Bùi Huy Bích xử trí mọi việc Hồ Sĩ Đống được ban chức Tham Đốc kiêm Ngự Sử đài, Đô Ngự sử Bồi tụng tước Ban Quận công. Ông được cử đi Phú Xuân cai quản Tả Uy Cơ, Án sát Quảng Nam, Đốc thị Thuận Hóa . Lần đi kinh lí Quảng Nam ấy, Hồ Sĩ  Đống rất lo lắng về địa thế ở đấy, tâu xin rút tướng Phạm Ngô Cầu về, thay tướng khác tài giỏi hơn để trấn an vùng núi. Nhưng vua, chúa không chấp thuận, nên về sau việc biến cũng phát động cũng từ đó.Hồ Sĩ Đống bệnh và mất ngày 10 tháng 10 năm Ất Tỵ (1785) hưởng dương 47 tuổi, được truy tặng Hình bộ Thượng thư. Chúa ban cho 2 tấm đoạn, 13 nén bạc, truyền cho ba đạo thủy binh Sơn Nam, Thanh Hóa, Nghệ An hộ tống quan tài về an táng ở quê nhà Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An. Bùi Huy Bích, quan Hành tụng soạn văn tế.

                  Hồ Sĩ Đống về thơ, được danh sĩ thời Nguyễn là Phan Huy Chú khen là “hồn hậu, phong nhã, có khí khái” và đã giới thiệu hai bài trong bộ sách Lịch triều hiến chương loại chí, đó là Đăng Nhạc Dương lâu (Lên lầu Nhạc Dương) và Đăng Hoàng Hạc lâu (Lên lầu Hoàng Hạc).Hồ Sĩ Đống được Phạm Đình Hổ trong Vũ Trung tùy bút, kể tên cùng Nguyễn Tông Khuê, Nguyễn Huy Oánh là ba bậc thầy phục hưng thi ca. Nhà nghiên cứu Bùi Duy Tân trong Từ điển văn học gần đây nhận xét: Hồ Sĩ Đống là người cẩn trọng, bình tĩnh, giản dị, có tài văn chương.Sáng tác của ông thường là đề vịnh di tích, nhân vật lịch sử, đền miếu, phong cảnh… trên dọc đường đi sứ. Nhìn chung, chúng đều có những nét tươi đẹp, uyển chuyển, do khả năng đổi mới của cảm xúc và cách thể hiện độc đáo của nhà thơ.Cùng thơ đi sứ của Phùng Khắc Khoan, Nguyễn Kiều, Nguyễn Tông Quai, Lê Quý Đôn…, thơ Hồ Sĩ Đống góp phần tạo nên thể cách trầm hùng, nhuần nhã của thơ đi sứ thời Lê Trung hưng.

                  *
                  “HỒ MÔN” LỜI HÁT NÓI

                  Non xanh xanh, nước xanh xanh
                  Ai đưa người ngọc tới Nam Kinh
                  Kìa hồn Liễu Nghị nào đâu tá
                  Sao chẳng theo ta tới Động Đình

                  (1)
                  Nguyễn Du tiếng tri âm tư liệu gia tộc họ Hồ Quỳnh , dẫn theo thông tin Wikipedia Tiếng Việt, mục từ Hồ Sĩ Tạo (cử nhân).
                  (2)
                  Hồ Xuân Hương góc khuất, dẫn theo Đọc “Lưu Hương ký” của Hồ Xuân Hương do Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích phiên âm & chú thích,bài của TS Phạm Trọng Chánh Tiến Sĩ Khoa Học Giáo Dục Viện Đại Học Paris V Sorbonne, đăng trên VHNA và đăng lại bởi tôn tiền tử trên trang Thi Viện Đào Trung Kiên, mục từ trang thơ Hồ Xuân Hương
                  (3)
                  Nghệ thuật Ca trù – Nghệ nhân một thời – Nghệ nhân Quách Thị Hồ; Hồng Hồng Tuyết Tuyết (Ca Trù); https://www.youtube.com/embed/u6w7MmwEtIM?version=3&rel=1&showsearch=0&showinfo=1&iv_load_policy=1&fs=1&hl=vi&autohide=2&wmode=transparent

                  2

                  HỒ XUÂN HƯƠNG
                  HÀNH TRẠNG
                  (còn tiếp….)

                  HỒ XUÂN HƯƠNG ĐỜI THƠ
                  Hoàng Kim


                  Nghiên cứu lịch sử văn hóa này nhằm tìm hiểu 5 ý chính : 1) Hồ Xuân Hương cuộc đời: 2) Hồ Phi Mai hành trạng, những góc khuất và sự thật lịch sử khiến nhiều học giả còn tranh cãi 3) Hồ Xuân Hương tác phẩm: tìm hiểu Lưu Hương Ký do Hồ Xuân Hương tuyển chọn và lưu(theo lời bài Tựa) với Hồ Xuân Hương thơ Nôm truyền tụng một số bài tuyển chọn đặc sắc nhất; 4) Hồ Xuân Hương góc khuất, liên hệ với Kiều 15 năm lưu lạc 5) Lưu Hương Ký Truyện Kiều “Cặp song kiếm hợp bích” là tiếng thơ nhân đạo, khát khao tình yêu cuộc sống và giải phóng con người.
                  Hồ Xuân Hương đời thơ được nghiên cứu liên ngành, hệ thống và so sánh lịch sử, kết nối với Nguyễn Du trăng huyền thoại, Nguyễn Du niên biểu luận, Nguyễn Du Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du tiếng tri âm.

                  Hồ Xuân Hương (1772- 1822) ‘bà chúa thơ Nôm’ là nhà thơ nữ cổ điển Việt Nam.Thơ Hồ Xuân Hương có chất lượng đặc sắc, với giá trị nhân đạo mạnh mẽ đấu tranh nữ quyền và thức tỉnh con người. Thơ bà được biết nhiều không chỉ ở Việt Nam mà còn được dịch và giới thiệu ra hơn 10 quốc gia trên thế giới. Đại gia tộc họ Hồ đã thành lập Ban vận động UNESCO vinh danh nữ sĩ. Ngày 25/4/2016, Ban vận động UNESCO vinh danh Hồ Xuân Hương, đã có văn bản gửi ông Chủ tịch, ông Tổng Thư kí Ủy ban quốc gia UNESCO Việt Nam, đề xuất việc giới thiệu nữ sĩ là ứng viên trình UNESCO vinh danh nhân dịp kỉ niệm 250 năm ngày sinh (1773-2022) và 200 năm ngày mất (1822-2022) của Bà.

                  Nghiên cứu này góp phần tổng luận thông tin và tìm hiểu sáng tỏ các chứng cứ sự thật lịch sử. Tài liệu gồm bảy chuyên mục, xin lần lượt trích đăng thành ba bài để thuận tiện sự góp ý

                  1

                  HỒ XUÂN HƯƠNG CUỘC ĐỜI


                  Wikipedia Tiếng Việt (
                  1), Tiếng Anh (2), Tiếng Pháp (3), Tiếng Trung (4) Tiếng Nga (5) đều đã có giới thiệu tóm tắt Hồ Xuân Hương, qua thông tin Bách Khoa Toàn Thư Mở, đúc kết cập nhật tới ngày 23 tháng 6 năm 2021. Trang thơ Hồ Xuân Hương (6) Thi Viện Đào Trung Kiên tổng luận Hồ Xuân Hương được coi là sự nhận diện phổ biến nhất về bà cho tới thời điểm đã cập nhật: :

                  “Hồ Xuân Hương 胡春香 (1772-1822) là một thi sĩ sống ở giai đoạn cuối thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX, mà hành trạng hiện vẫn khiến nhiều học giả tranh cãi. Di tác của bà hoàn toàn là thơ, trong đó mảng Nôm có nhiều phẩm chất tốt cần sự khảo cứu lâu, nhưng thi sĩ Xuân Diệu đã tôn Hồ Xuân Hương làm Bà chúa thơ Nôm. Hầu hết thi ca Hồ Xuân Hương theo dòng chảy chung đã thoát được các quan niệm sáng tác cố hữu vốn đề cao niêm luật chặt chẽ để bộc lộ được tiếng nói của thời đại mình, có nhiều người cho rằng đặc sắc của thơ bà là “thanh thanh tục tục”.

                  Về hành trạng, không có bất cứ tư liệu cổ điển nào chép về lai lịch và hành trạng của Hồ Xuân Hương, bà chỉ thực sự được hậu thế biết đến qua sách Giai nhân dị mặc 佳人遺墨 của học giả Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến, ấn hành tại Hà Nội năm 1916. Cũng vì cớ đó, việc có hay không một nhân vật tên Hồ Xuân Hương hiện còn là câu hỏi ngỏ. Học giới nhất quán rằng Hồ Xuân Hương sinh vào năm 1772 ở phường Khán Xuân (nay thuộc địa phận công viên Bách Thảo, Hà Nội). Cũng theo Giai nhân dị mặc, bà là ái nữ của sinh đồ Hồ Phi Diễn 胡丕演 (1703-1786), người hương Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, trấn Nghệ An. Còn theo học giả Trần Thanh Mại, thân phụ của Hồ Xuân Hương là ông Hồ Sĩ Danh 胡士名 (1706-1783) cũng người Quỳnh Đôi, là em cùng cha khác mẹ của Kinh Dương hầu Hồ Sĩ Ðống 胡士棟 (1739- 1785). Thân mẫu của Hồ Xuân Hương là bà lẽ Hà thị 何氏 (?-1814) người trấn Hải Dương. Học giả Phạm Trọng Chánh dựa vào tục xướng danh cổ điển và câu tựa “Phi mai xuân sắc nhất kinh thành” 丕梅春色一京成 của Tốn Phong Phan Huy Huân để khẳng định: Hồ Phi Mai 胡丕梅 là nguyên danh, Xuân Hương 春香 là biểu tự và Cổ Nguyệt đường 古月堂 là bút hiệu.

                  Trong thế cuộc xoay vần đầy nhiễu nhương cuối thế kỷ XVIII, Hồ Xuân Hương vẫn được hưởng những năm tháng ấu thơ êm đềm ở một dinh thự lớn tên Cổ Nguyệt đường ven hồ Tây, bấy giờ là chốn phồn hoa đô hội bậc nhất xứ Đàng Ngoài. Sau khi mãn tang cha, mẹ bà tái hôn với người khác. Dù ít phải ràng buộc trong gia giáo nghiêm khắc như mọi nữ lưu cùng thời, Hồ Xuân Hương vẫn hội tụ được tư chất thông minh và hiếu học. Hồ Xuân Hương cũng được cưới gả từ rất sớm như mọi con cái trâm anh thế phiệt bấy giờ, nhưng dẫu qua hai lần đò đều không viên mãn. Ban sơ, bà làm lẽ của một hào phú có biệt hiệu Tổng Cóc. Tổng Cóc vốn là biệt hiệu mà người quen biết đặt cho Chánh tổng Nguyễn Bình Kình, tự Công Hoà. Nguyên quán của ông ở làng Gáp, xã Tứ (nay thuộc huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ). Ông là cháu của quan nghè Nguyễn Quang Thành, bản thân cũng một lần đi thi Hương nhưng không đỗ đạt. Sau Tổng Cóc đăng trình, lên đến chức cai cơ nên thường được gọi là Đội Kình. Tuy chỉ là cai lính nhưng Tổng Cóc vốn thuộc dòng dõi văn nhân, ông rất chuộng ca ngâm và mến luôn cái tài làm thơ của người vợ lẽ. Để chiều lòng bà, Tổng Cóc đã cất một thuỷ tạ rất lớn cho Hồ Xuân Hương ở, vừa tránh phiền lụy với vợ cả vừa thỏa thưởng thi phú. Chung sống với Tổng Cóc được một thời gian khá lâu thì Hồ Xuân Hương dứt áo ra đi với một cái thai. Có thuyết cho rằng, bà bỏ đi sau khi Tổng Cóc đã đột ngột từ trần; nhưng cũng có thuyết cho rằng bà không chịu được điều tiếng dị nghị của vợ con Tổng Cóc và người làng; lại có thuyết nói bản tính phóng đãng khiến Hồ Xuân Hương khó ngồi yên một chỗ, bà trốn đi cùng tình quân là Phạm Viết Ngạn.

                  Kết quả của hôn sự này được cho là một đứa trẻ vắn số. Vào ngày Hồ Xuân Hương trở dạ, Tổng Cóc đến đòi đón con về, nhưng người nhà họ Phạm nói lại là đứa bé đã mất khi vừa lọt lòng. Trong hôn sự lần nàXem tiếp >>

                    Dạy và học 27 tháng 6(27-06-2021)

                  DẠY VÀ HỌC 27 THÁNG 6
                  Hoàng Kim

                  CNM365 Tình yêu cuộc sống Vui thu măng mỗi ngày; Hồ Xuân Hương góc khuất;Hồ Xuân Hương đời thơ; Lời vàng từ trái tim; Nhớ bạn nhớ châu Phi; Câu chuyện ảnh tháng Sáu; Một niềm tin thắp lửa; Cuối dòng sông là biển; Thạch Lam ngọc đời nay; Trung Quốc một suy ngẫm; Ngày 27 tháng 6 năm 1880, ngày sinh tác giả Helen Keller, nữ văn sĩ, nhà hoạt động xã hội, diễn giả người Mỹ. Bà vì viêm màng não nên bị mù, câm và điếc, tốt nghiệp Đại học Harvard, là người khiếm thị, khiếm thính đầu tiên của nước Mỹ giành học vị Cử nhân Nghệ thuật. Ngày 27 tháng 6 năm 1942, ngày mất Thạch Lam là một nhà văn danh tiếng, nhân cách, gần gũi người dân nghèo khổ. Ngày 27 tháng 6 năm 1981, Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc thông qua quyết định chính thức phủ định Đại cách mạng văn hóa là một giai đoạn hỗn loạn xã hội, gây tác động rộng lớn, làm thay đổi sâu sắc, toàn diện quan niệm xã hội, chính trị và đạo đức của Trung Quốc. Bài viết chọn lọc ngày 27 tháng 6: Vui thu măng mỗi ngày; Hồ Xuân Hương góc khuất;Hồ Xuân Hương đời thơ; Lời vàng từ trái tim; Nhớ bạn nhớ châu Phi; Câu chuyện ảnh tháng Sáu; Một niềm tin thắp lửa; Cuối dòng sông là biển; Thạch Lam ngọc đời nay; Trung Quốc một suy ngẫm; Trần Thánh Tông minh quân; Thầy nhạc Trần Văn Khê; Marco Polo sinh ở Croatia; Nam Tư một suy ngẫm; Cung điện Hoàng đế Diocletian; Linh Giang sông quê hương; Giống khoai lang Việt Nam; Đùa vui cùng Thuận Nghĩa;Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-27-thang-6/  †

                  VUI THU MĂNG MỖI NGÀY
                  Hoàng Kim


                  Muốn ăn măng trúc, măng giang
                  Măng tre, măng nứa, cơm lam thì chèo
                  Ngược xuôi lên thác, xuống đèo
                  Chim kêu bên nọ, vượn trèo bên kia


                  Làm trai cho đáng nên trai
                  Phú Xuân cũng trải, Đồng Nai cũng từng
                  “.

                  Ai đi khắp bốn phương trời
                  Cho trần biết mặt, cho đời biết tên
                  “. (*)

                  Gặp thời hưng thịnh chớ quên
                  Tre Rồng Kỳ Lộ Phú Yên đất hiền (**)

                  (*) Tục ngữ và ca dao Việt Nam, Mã Giang Lân (tuyển chọn và giới thiệu) 1999. NXB Giáo dục (Tái bản lần 5) Nguồn
                  http://diendan.vnthuquan.net/tm.aspx?&m=355572&mpage=10
                  (**) Măng trúc, đặc sản chính vùng đất Phú Mỡ sông Kỳ Lộ Phú Yên.

                  HOA ĐẤT THƯƠNG LỜI HIỀN
                  Hoàng Kim

                  1

                  Ta vui đếm nhịp thời gian
                  Thung dung nhàn giữa gian nan đời thường.

                  Mẫu Phương Nam Tao Đàn
                  Đường Huyền Trân Công Chúa
                  Nam tiến của người Việt
                  Hoa Đất thương lời hiền

                  2

                  Người ta hoa đất
                  An nhàn vô sự là tiên
                  Thung dung cỏ hoa
                  Thế giới người hiền

                  Điền trúc măng ngon
                  Hôm qua chăm mai
                  Sớm nay hái nấm
                  Chiều về thu măng.

                  Thung dung thanh nhàn
                  Sống giữa thiên nhiên
                  Đọc bài cho em
                  Vui cùng bạn quý

                  Đọc sách dọn vườn
                  Lánh chốn bon chen
                  Thảnh thơi cuộc đời
                  Chơi cùng hoa cỏ.

                  Xưa lên non Yên Tử
                  Mang lộc trúc về Nam
                  Nay đến chốn thung dung
                  Vui nhởn nhơ hái nấm.

                  Ơn Thầy Ơn Bạn
                  Lộc xuân cuộc đời
                  Thung dung
                  Hoa Lúa
                  Phúc hậu, an nhiên,

                  Minh triết, tận tâm
                  Hoa NgườiHoa Đất
                  Làm ngọc cho đời
                  Đạo ẩn vô danh.

                  3

                  Mình là hoa của đất
                  Ươm mầm xanh cho đời.
                  Gieo yêu thương hi vọng
                  Gặt hái những niềm vui.

                  Thấm thoắt bao xuân qua
                  Cùng nhau từ thuở ấy
                  Lộc muộn ngày hôm nay
                  Nhớ buổi đầu gieo cấy.

                  Hàng trăm ngàn hec ta
                  Bội thu từ giống mới .
                  Nhìn bà con hân hoan
                  Đường trần vui quên mỏi.

                  4

                  Nhà Trần trong sử Việt
                  Lời dặn của Thánh Trần
                  Yên Tử Trần Nhân Tông
                  Chuyện cổ tích người lớn

                  Về với vùng văn hóa
                  Nhớ cụ Thái Kim Đỉnh
                  Nguyễn Du trăng huyền thoại
                  Trà sớm thương người hiền

                  Việt Nam con đường xanh

                  5

                  Sớm nào cũng dành nửa tiếng,
                  Thung dung đếm nhịp thời gian.
                  Thong thả chỉ thêu nên gấm,
                  An nhiên việc tốt cứ làm.
                  Thoáng chốc đường trần nhìn lại,
                  Thanh nhàn vô sụ là tiên

                  6

                  Điểm nhịp thời gian đầy bút mực
                  Thung dung năm tháng thảnh thơi nhàn
                  Đất cảm trời thương người mến đức
                  An nhiên thầy bạn quý bình an.

                  Ngày mới đầy yêu thương
                  Chuyện cũ chưa hề cũ
                  An nhiên nhàn nét bút
                  Thảnh thơi gieo đôi vần

                  xem tiếp Chuyện đồng dao cho emHoa Đất thương lời hiềnPhục sinh giữa tối sángTỉnh lặng với chính mìnhVui đi dưới mặt trờiVui bước tới thảnh thơiVui sống giữa thiên nhiênĐọc “Ngụ ngôn thời @” Mười năm ở Bạc LiêuChuyện cổ tích người lớn

                  HỒ XUÂN HƯƠNG GÓC KHUẤT
                  Hoàng Kim

                  Một sự nghiệp lớn và cấp thiết là bảo tồn phát triển tinh hoa văn hóa Việt. Nghiên cứu văn sử Việt ngày nay cấp thiết phải tìm tòi giải quyết tốt các góc khuất để tôn vinh và giới các danh nhân văn hóa Việt ra thế giới. Việc làm rất cần thiết và cấp bách là bảo tồn tỏa sáng tinh hoa Việt và tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới. Nguyễn Du Hồ Xuân Hương là một trong những điểm nhấn trọng yếu của số đó. Bởi lẽ văn chương của những danh nhân văn hóa này đã vượt xa biên giới quốc gia. Hiểu biết đúng sự thật chân thiện mỹ là cách tốt nhất để lan tỏa thương hiệu Việt.

                  Truyện Kiều Lưu Hương Ký là “cặp song kiếm hợp bích” tinh hoa văn hóa Việt.”Trăm năm trong cõi người ta/ Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau”; ” Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”; “Bắt phong trần phải phong trần/ Cho thanh cao mới được phần thanh cao”; “Chọc trời khuấy nước mặc dầu/ Dọc ngang nào biết trên đầu có ai”; “Khen cho con mắt tinh đời/ Anh hùng đoán giữa trần ai mới già/ Một lời đã biết đến ta/ Muôn chung nghìn tứ cũng là có nhau” (Truyện Kiều Nguyễn Du)”. “Thân em thời trắng, phận em tròn/ Bảy nổi ba chìm mấy nước non / Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn / Nhưng em vẫn giữ tấm lòng son” (
                  Bánh trôi nước, thơ Hồ Xuân Hương); “Anh đồng lòng/ Em đồng lòng /Mộng hồn tương luyến liễu hoa âm/ Thơ cùng ngâm/ Rượu và trăng/ Thăm thẳm buồn ly biệt/ Vầng trăng chia hai nữa/ Cung đàn ly khúc oán tri âm,.Thôi đành bặt tiếng hồ cầm/ Núi cao biển sâu đằng đẳng/ Xin chớ tủi buồn mà than cổ kim.(Hồ Xuân Hương góc khuất; “Thuật ý kiêm trình hữu nhân Mai Sơn Phủ” là bài thơ ‘Tỏ ý’ của Hồ Xuân Hương đối với Nguyễn Du) “Dặm khách muôn nghìn nỗi nhớ nhung/ Mượn ai tới đấy gửi cho cùng/ Chữ tình chốc đã ba năm vẹn,/ Giấc mộng rồi ra nửa khắc không./Xe ngựa trộm mừng duyên tấp nập,/ Phấn son càng tủi phận long đong./ Biết còn mảy chút sương siu mấy,/ Lầu nguyệt năm canh chiếc bóng chong.(Hồ Xuân Hương góc khuấ:; Cảm cựu kiêm trình Cần chánh học sĩ Nguyễn Hầu, Nhớ chuyện cũ viết gửi Cần chánh học sĩ Nguyễn Hầu).

                  Truyện Kiều cho đến ngày nay vẫn bị nhiều người lầm lẫn cho là sách Nguyễn Du dịch vì Nguyễn Du mượn thời thế, địa danh và cốt truyện thuộc triều đại, đất và người của nước ngoài, Thúy Kiều ẩn ngữ Việt Nam còn thiếu các minh chứng thuyết phục về góc khuất: cuộc đời và thời thế; giá trị tác phẩm gốc; gia đình và dòng họ; gia tộc và di chỉ, điển cố, điển tích; sự tôn vinh của xã hội; tầm ảnh hưởng các hồ sơ danh nhân Việt trong visa toàn cầu, là căn bản hồ sơ nhân vật chí cần được sáng tỏ.

                  Hồ Xuân Hương đời thơ ; Hồ Xuân Hương góc khuất được nghiên cứu liên ngành và hệ thống trong bối cảnh lịch sử, kết nối với Nguyễn Du trăng huyền thoại, Nguyễn Du niên biểu luận, Nguyễn Du Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du tiếng tri âm. Đó là tiếng thơ nhân đạo, khát khao tình yêu cuộc sống và giải phóng con người (Mời đọc kỹ các đường link của các khảo luận này trước khi tiếp tục bài mới để theo dõi có hệ thống và tài liệu không tiện lặp lại. Cảm ơn quý bạn đọc. https://hoangkimlong.wordpress.com/category/ho-xuan-huong-goc-khuat/

                  LỜI VÀNG TỪ TRÁI TIM
                  Hoàng Kim

                  “Những gì tốt đẹp nhất phải được cảm nhận bằng trái tim”. “Tôi đã khóc vì không có giày để đi chỉ đến khi tôi gặp một người khóc vì không có chân để đi giày” .Đây là hai câu nói nổi tiếng của Helen Keller người mù điếc huyền thoại. Helen Keller sinh ngày 27 tháng 6 năm 1880 mất ngày 1 tháng 6 năm 1968 là nữ văn sĩ, nhà hoạt động xã hội và diễn giả người Mỹ rất được tôn trọng ở Mỹ và toàn thế giới. Bà là một trong những biểu tượng đời thường có thật về đức nhẫn và sự hi sinh, là bài học cuộc sống cho bất cứ ai gục ngã trên trường đời biết gượng đứng dậy tự thắng mình và đi tới. Bà viêm não, mù, câm, điếc nhưng đã tốt nghiệp Đại học Harvard. Bà là người khiếm thị và khiếm thính đầu tiên của nước Mỹ giành được học vị Cử nhân Nghệ thuật. Ảnh đầu trang là Helen Keller và cô Anne thầy của bà..

                  Tại Việt Nam đã có một số bài báo giới thiệu về Helen Keller người mù điếc huyền thoại đã vượt lên số phận nghiệt ngã để làm được những điều tốt đẹp..Hoàng Kim trân trọng biên tập lại thông tin từ nguồn Helen Keller Biography.com, Wikipedia Tiếng Anh &Tiếng Việt và danh ngôn của Helen Keller có trong Từ điển Danh ngôn. Tôi dành tặng bài viết này kể cho những ai cuộc đời kém may mắn, thiếu những cơ hội tốt hơn và đang vượt khó. Bài được đăng vào ngày 27 tháng 6 tưởng nhớ Helen Keller và ngày 3 tháng 12.Ngày Người khuyết tật Quốc tế (International Day of Disabled Persons). Vượt lên chính mình sống phúc hậu yêu thương minh triết là lời vàng từ trái tim

                  HELEN KELLER CUỘC ĐỜI VÀ DI SẢN

                  Helen Adams Keller sinh ra tại Tuscumbia, Alabama. Gia đình bà sống trong khu điền trang Ivy Green được ông nội của bà xây dựng từ những thập kỉ trước..Cha của bà Helen Kenler là Arthur H. Keller, một người thầy lâu năm làm biên tập cho tờ báo Tuscumbia North Alabamian và từng là đại úy trong Quân đội miền Nam. Bà nội của Helen là chị em họ với Robert E. Lee là sĩ quan quân đội Hoa Kỳ, nổi tiếng vì ông nhận chức Đại tướng thống lãnh quân đội Liên minh miền Nam trong cuộc Nội chiến Hoa Kỳ (1861-1865). Mẹ bà là Kate Adams, con gái của Charles W. Adams là người gốc từ Massachusetts và từng tham chiến cho Quân đội miền Nam suốt cuộc nội chiến Mỹ và trở thành đại tá. Họ nội Helen Keller thuộc dòng dõi với Casper Keller, người có gốc gác Thụy Sỹ. Keller không bị mù và điếc bẩm sinh nhưng khi bà chào đời được khoảng 19 tháng thì bị sốt viêm màng não rất nặng bị mù mất đôi mắt và sau đó tai cũng bị điếc.Gia đình chứng kiến nỗi bất hạnh số phận nghiệt ngã giáng xuống đứa con gái nhỏ bé vừa mới lớn lên đã phải chống chọi với một nghịch cảnh quá đau đớn . Vì thế tính tình của Keller càng lớn càng cáu gắt nóng nảy.

                  Thầy bạn, nghị lực và học vấn đã thay đổi cuộc đời Helen. Năm 1886, bà mẹ của Helen tình cờ biết được một đứa bé cũng bị mù điếc như con mình nhưng đã được dạy dỗ thành công, bà liền tới Baltimore, Maryland gặp bác sĩ để xin lời khuyên. Người bác sĩ này khuyên bà nên tới gặp Alexander Graham Bell, lúc đó còn đang là một nhà chuyên môn chuyên làm việc với những trẻ em bị điếc tại địa phương. Bell lại giới thiệu bà mẹ đưa con gái tới học trường Perkins dành cho người mù ở Nam Boston, tiểu bang Massachusetts. Tại đây Keller đã được gặp cô gia sư Anne Sullivan người Ireland vừa mới tốt nghiệp. Từ đó họ bắt đầu một tình bạn kéo dài suốt 49 năm. Có một lần Anne tặng cho Keller một con búp bê bằng vải mà cô ôm trên tay. Chờ cho Keller chơi một hồi, Anne liền cầm lấy bàn tay Keller và viết chữ “búp bê” (doll) lên lòng bàn tay em. Keller rất thích thú với cách thể hiện đó, từ đó về sau Anne thường xuyên tập cho Keller ghép chữ cái theo cách này. Sau ba tháng, thông qua ngôn ngữ động tác tay và sờ xem cử động môi của Anne, Keller đã học được hơn 400 từ đơn và một số ngữ ngắn. Năm Keller 8 tuổi, cô Anne đưa bà tới học tại trường Perkins, nơi có các loại sách chữ nổi và các trẻ em bị mù điếc khác. Chẳng bao lâu, Keller đã bộc lộ rõ tài năng vượt trội về các môn toán, địa lý, sinh học, tập đọc; em còn học cả bơi, chèo thuyền, cưỡi ngựa, đi xe. Sau đó Helen Keller vào học trường nữ của tiểu bang Massachusetts, cô giáo Anne luôn luôn ở bên cạnh Keller để viết lại nội dung bài giảng vào lòng bàn tay Keller. Năm 1900 Keller thi đậu vào trường Radcliffe College, học tài liệu chữ nổi dành cho người mù. Cô kiên trì học tới mức khi nào đầu ngón tay rớm máu mới chịu dừng. Đến năm 1904 Keller tốt nghiệp và trở thành người mù điếc đầu tiên được tốt nghiệp đại học.

                  Hoạt động chính trị nổi bật của Helen Keller. Hai năm sau ngày tốt nghiệp, Keller được vinh dự bầu vào chức chủ tịch hội người mù tiểu bang Massachusetts, bắt tay vào công việc xã hội cụ thể phục vụ cho hội người mù. Keller đón tiếp rất nhiều người mù, trả lời nhiều thư từ và đi thuyết giảng lưu động tại 39 nước trên thế giới. Cô không quản ngại vất vả, cống hiến hết sức mình cho chương trình giáo dục và chữa trị cho người mù. Năm 1920 với sự phấn đấu không mệt mỏi, Keller đã thành lập được tổ chức quần chúng trên phạm vi toàn quốc của Hội người mù toàn nước Mỹ. Tổ chức này vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay. Keller trở thành một biểu tượng của tinh thần tự lực phi thường khi suốt đời sống trong thế giới không ánh sáng, không âm thanh nhưng vẫn cống hiến hết sức lực nhằm đem niềm vui đến với người tàn tật, có cùng hoàn cảnh như mình. Cô đã được gặp nhiều tổng thống Mỹ như Grover Cleveland, Benjamin Harrison,William McKinley, Theodore Roosevelt, William Howard Taft, Franklin D. Roosevelt, John F. Kennedy…Cô cũng trở thành bạn của những con người nổi tiếng như Alexander Graham Bell, Charlie Chaplin, Mark Twain. Bà bắt đầu tham gia phong trào xã hội tại nước Mỹ. Keller gia nhập Đảng Xã hội Hoa Kỳ, và về sau bỏ đảng đó để gia nhập Industrial Workers of the World (Công nhân kỹ nghệ của Thế giới). Những nhà báo mà về trước khen ngợi sự can đảm và thông minh của bà bây giờ chỉ ra là bà bị tàn tật. Chủ báo Brooklyn Eagle viết rằng “những sai lầm [của bà] xuất hiện từ những hạn chế rõ ràng khi lớn lên”. Keller trả lời chủ báo này, nói đến lần gặp ông trước khi ông biết đến những quan điểm chính trị của bà: “Vào thời điểm đó, những lời khen ngợi mà anh ta trả cho tôi rất hào phóng đến nỗi tôi đỏ mặt nhớ lại chúng. Nhưng bây giờ tôi hoạt động xã hội ngược hướng với ông ấy thì ông ấy đã nhắc nhở tôi và công chúng rằng tôi bị mù và điếc và đặc biệt là trách nhiệm với lỗi.Tôi phải bị thu nhỏ trí thông minh trong những năm kể từ khi tôi gặp anh ấy … Ôi, Brooklyn Eagle vô lý! Bị mù và khiếm thị về mặt xã hội, ông bảo vệ một hệ thống không thể chấp nhận được, một hệ thống là nguyên nhân gây ra nhiều sự mù lòa về thể chất và điếc mà chúng tôi đang cố gắng ngăn chặn”. Bà cũng biểu tình chống chiến tranh và đồng sáng lập tổ chức dân quyền ACLU. Các hoạt động này có liên quan đến quan điểm công bằng của Keller.

                  Helen Keller là người giới thiệu loài chó quý Akita tới Mỹ. Keller khi tới thăm tỉnh Akita của nước Nhật Bản vào tháng 7 năm 1937, bà đã hỏi thăm về con chó Hachiko một giống chó thuộc loài Akita nổi tiếng đã chết từ năm 1935, và bày tỏ ý định muốn có một chú chó như thế. Chỉ trong vòng một tháng, một chú chó tên là Kamikaze-go đã được gửi đến, nhưng sau đó đã chết bệnh quá sớm. Chính phủ Nhật Bản quyết định tặng cho Helen Keller một chú chó thứ hai tên là Kenzan-go vào tháng 7 năm 1939 để bà mang về Mỹ giới thiệu. Những tiêu chuẩn để nuôi dưỡng và chăm sóc giống chó này đã được xây dựng, đồng thời các cuộc biểu diễn cũng đã được tổ chức. Tuy nhiên tất cả đã bị hoãn vô thời hạn vì Thế chiến thứ hai nổ ra. Ngày 14 tháng 9 năm 1964 Keller được Tổng thống Lyndon B. Johnson tặng thưởng Huân chương Tự do, một trong hai phần thưởng cao quý nhất của chính phủ Mỹ dành cho nhân dân. Ngày 1 tháng 6 năm 1968 Helen Keller tạ thế ở tuổi 87 trong căn nhà của mình tại Easton, Connecticut, trong khi chỉ còn 26 ngày nữa là tới sinh nhật thứ 88 của bà.

                  Bệnh viện Helen Keller đã được xây dựng tại Alabama để tưởng nhớ người phụ nữ giàu nghị lực này.

                  LỜI VÀNG TỪ TRÁI TIM

                  Lạc quan là niềm tin dẫn tới thành tựu. Bạn chẳng thể làm được điều gì nếu thiếu hy vọng và sự tự tin.

                  Optimism is the faith that leads to achievement. Nothing can be done without hope and confidence.

                  Cùng bước với một người bạn trong bóng tối tốt hơn là bước một mình trong ánh sáng.

                  Walking with a friend in the dark is better than walking alone in the light.

                  Thành công và hạnh phúc nằm trong bạn. Quyết tâm hạnh phúc và niềm vui sẽ đi cùng bạn để hình thành đạo quân bất khả chiến bại chống lại nghịch cảnh.

                  Your success and happiness lies in you. Resolve to keep happy, and your joy and you shall form an invincible host against difficulties.

                  Chừng nào mà kỷ niệm về những người bạn thân thương vẫn sống trong tim tôi, tôi sẽ nói rằng đời tốt đẹp.

                  So long as the memory of certain beloved friends lives in my heart, I shall say that life is good.

                  Tính cách không thể phát triển một cách dễ dàng và yên lặng. Chỉ qua trải nghiệm thử thách và gian khổ mà tâm hồn trở nên mạnh mẽ hơn, hoài bão hình thành và thành công đạt được.

                  Character cannot be developed in ease and quiet. Only through experience of trial and suffering can the soul be strengthened, ambition inspired, and success achieved.

                  Một mình, ta làm được rất ít; cùng nhau, ta làm được rất nhiều.

                  Alone we can do so little; together we can do so much.

                  Thật tuyệt vời là con người đã sử dụng biết bao thời gian để chống lại cái ác. Giá mà họ cũng sử dụng năng lượng đó để yêu thương người khác, cái ác sẽ tự chết vì buồn chán.

                  It is wonderful how much time good people spend fighting the devil. If they would only expend the same amount of energy loving their fellow men, the devil would die in his own tracks of ennui.

                  Sự khoan dung là món quà lớn nhất của tâm hồn; nó đòi hỏi nỗi lực của bộ não cũng nhiều như khi bạn phải giữ thăng bằng khi đi xe đạp.

                  Toleration is the greatest gift of the mind; it requires the same effort of the brain that it takes to balance oneself on a bicycle.

                  Cũng như sự ích kỷ và phàn nàn làm tha hóa tâm hồn, tình yêu với những niềm vui của mình làm tầm nhìn trở nên rõ ràng và sắc nét.

                  As selfishness and complaint pervert the mind, so love with its joy clears and sharpens the vision.

                  Không ai có quyền hưởng thụ hạnh phúc mà không tạo ra nó.

                  No one has a right to consume happiness without producing it.

                  Ta không thể đánh mất những gì ta từng tận hưởng. Tất cả những gì ta yêu sâu sắc trở thành một phần trong ta.

                  What we have once enjoyed we can never lose. All that we love deeply becomes a part of us.

                  Chúng ta không bao giờ có thể học được sự can đảm và kiên nhẫn nếu chỉ có niềm vui trên thế gian này.

                  We could never learn to be brave and patient, if there were only joy in the world.

                  Cuộc sống là một chuỗi bài học mà bạn cần phải sống mới hiểu được.

                  Life is a succession of lessons which must be lived to be understood.

                  Niềm tin là sức mạnh có thể khiến thế giới tan vỡ xuất hiện trong ánh sáng.

                  Faith is the strength by which a shattered world shall emerge into the light.

                  Kết quả cao nhất của giáo dục là sự khoan dung.

                  The highest result of education is tolerance.

                  Sự đảm bảo chỉ là mê tín mà thôi. Nó không tồn tại trong tự nhiên, loài người nói chung cũng không trải nghiệm nó. Lảng tránh nguy hiểm về lâu dài không an toàn hơn nhảy thẳng vào nguy hiểm. Cuộc sống hoặc là một cuộc phiêu lưu táo bạo, hoặc chẳng là gì cả.

                  Security is mostly a superstition. It does not exist in nature, nor do the children of men as a whole experience it. Avoiding danger is no safer in the long run than outright exposure. Life is either a daring adventure, or nothing.

                  Chúng ta có thể đã chữa trị được hầu hết thói xấu xa; nhưng chúng ta vẫn chưa tìm ra liều thuốc cho thói xấu tồi tệ nhất, sự vô cảm của con người.

                  We may have found a cure for most evils; but we have found no remedy for the worst of them all, the apathy of human beings.

                  Điều tôi đi tìm không ở ngoài kia, nó ở trong bản thân tôi.

                  What I am looking for is not out there, it is in me.

                  Thay vì so sánh mình với những người may mắn hơn mình, ta nên so sánh mình với số đông con người. Và rồi sẽ có vẻ như chúng ta là những người may mắn.

                  Instead of comparing our lot with that of those who are more fortunate than we are, we should compare it with the lot of the great majority of our fellow men. It then appears that we are among the privileged.

                  Hãy quay về hướng mặt trời, và bạn sẽ không thấy bóng tối.

                  Keep your face to the sunshine and you cannot see a shadow.

                  Nhiều người có ý tưởng sai lầm về điều sản sinh ra hạnh phúc đích thực. Nó không đạt được qua sự tự thỏa mãn mà qua sự trung thành với một mục đích đáng giá.

                  Many persons have a wrong idea of what constitutes true happiness. It is not attained through self-gratification but through fidelity to a worthy purpose.

                  Điều tốt đẹp nhất trên thế gian này không thể nhìn thấy hoặc thậm chí chạm vào – chúng phải được cảm nhận bằng trái tim.

                  The best and most beautiful things in the world cannot be seen or even touched – they must be felt with the heart.

                  Cuộc sống rất thú vị, và thú vị nhất khi nó được sống vì người khác.

                  Life is an exciting business, and most exciting when it is lived for others.Cả thế giới ngập tràn thống khổ. Nó cũng ngập tràn chiến thắng.

                  All the world is full of suffering. It is also full of overcoming.

                  Trước khi số đông con người tràn đầy tinh thần trách nhiệm đối với lợi ích của người khác, công bằng xã hội sẽ chẳng bao giờ đạt được.

                  Until the great mass of the people shall be filled with the sense of responsibility for each other’s welfare, social justice can never be attained.

                  Đừng bao giờ cúi đầu. Hãy luôn ngẩng cao. Nhìn thẳng vào mắt thế giới.

                  Never bend your head. Always hold it high. Look the world straight in the eye.

                  Thật khó để khiến những người có mọi thứ quan tâm tới những người chẳng có thứ gì.

                  It is hard to interest those who have everything in those who have nothing.Mọi thứ đều chứa đựng điều bí ẩn, thậm chí cả bóng tối và sự câm lặng, và tôi học được rằng cho dù tôi ở trạng thái nào, tôi cũng có thể yên bình.Everything has its wonders, even darkness and silence, and I learn, whatever state I may be in, therein to be content.

                  Tôi chỉ là một, nhưng tôi vẫn là một. Tôi không thể làm mọi thứ, nhưng tôi vẫn có thể làm gì đó; và bởi vì tôi không thể làm tất cả, tôi sẽ không từ chối làm điều tôi có thể.

                  I am only one, but still I am one. I cannot do everything, but still I can do something; and because I cannot do everything, I will not refuse to do something that I can do.

                  Thật tuyệt vời khi trèo lên những ngọn núi trong trẻo của bầu trời. Đằng sau tôi và trước tôi là Chúa, và tôi không sợ hãi.It’s wonderful to climb the liquid mountains of the sky. Behind me and before me is God and I have no fears.

                  Khi ta làm hết sức của mình, ta không thể biết điều kỳ diệu nào sẽ xảy đến trong cuộc sống của ta, hoặc trong cuộc sống của người khác.

                  When we do the best that we can, we never know what miracle is wrought in our life, or in the life of another.

                  Sự phong phú tuyệt diệu của trải nghiệm sẽ mất đi đôi chút phần thưởng niềm vui nếu không có giới hạn để vượt qua. Thời khắc lên tới đỉnh núi sẽ chẳng tuyệt vời được bằng một nửa nếu không phải đi qua những thung lũng tối tăm.

                  The marvelous richness of human experience would lose something of rewarding joy if there were no limitations to overcome. The hilltop hour would not be half so wonderful if there were no dark valleys to traverse.Nhiều người không biết nhiều hơn những gì nằm ngoài tầm trải nghiệm nhỏ bé của mình. Họ nhìn vào trong mình – và chẳng tìm thấy gì cả! Vì thế họ kết luận rằng cũng chẳng có gì ở bên ngoài họ.

                  Many people know so little about what is beyond their short range of experience. They look within themselves – and find nothing! Therefore they conclude that there is nothing outside themselves either.TrườngXem tiếp >>

                    Dạy và học 26 tháng 6(26-06-2021)


                  GSTranVanKhe1

                  DẠY VÀ HỌC 26 THÁNG 6
                  Hoàng Kim

                  CNM365 Tình yêu cuộc sống Trần Thánh Tông minh quân; Thầy nhạc Trần Văn Khê; Marco Polo sinh ở Croatia; Nam Tư một suy ngẫm; Cung điện Hoàng đế Diocletian; Hồ Xuân Hương góc khuất;Hồ Xuân Hương đời thơ; Nhớ bạn nhớ châu Phi; Linh Giang sông quê hương; Giống khoai lang Việt Nam; Đùa vui cùng Thuận Nghĩa; Ngày 26 tháng 6 năm 1460, vua Lê Thánh Tông (Lê Tư Thành) lên ngôi hoàng đế triều Lê tại điện Tường Quang, đặt niên hiệu là Quang Thuận. Ngày 26 tháng 6 năm 2015, lễ tang thầy nhạc Trần Văn Khê (từ trần ngày 24 tháng 6). Ngày 26 tháng 6 năm 1945, tại hội nghị ở San Francisco, đại biểu từ 50 quốc gia kí Hiến chương thành lập Liên Hiệp Quốc. Ngày 26 tháng 6 năm 1973 là ngày mất Phan Kế Toại, một chính khách Việt Nam (sinh năm 1892). Bài chọn lọc ngày 26 tháng 6: Trần Thánh Tông minh quân; Thầy nhạc Trần Văn Khê; Marco Polo sinh ở Croatia; Nam Tư một suy ngẫm; Cung điện Hoàng đế Diocletian; Hồ Xuân Hương góc khuất;Hồ Xuân Hương đời thơ; Nhớ bạn nhớ châu Phi; Linh Giang sông quê hương; Giống khoai lang Việt Nam; Đùa vui cùng Thuận Nghĩa; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://hoangkimlong.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-26-thang-6/

                  TRẦN THÁNH TÔNG MINH QUÂN
                  Hoàng Kim

                  Trần Thánh Tông sinh ngày 12 tháng 10 năm 1240, mất ngày 3 tháng 7 năm 1290 là  vị Hoàng đế thứ hai của nhà Trần, ở ngôi từ năm 1258 đến 1278 và làm Thái thượng hoàng từ năm 1278 đến năm 1290 lúc qua đời (hình Lăng Trần Thánh Tông ở Long Hưng, Thái Bình)Trần Thánh Tông là vua thánh nhà Trần: Vua nổi tiếng có lòng thương dân và đặc biệt thân thiết với anh em trong Hoàng tộc, điều hiếm thấy từ trước đến nay; Trần Thánh Tông có công rất lớn lúc làm Thái thượng hoàng đã cùng với con trai là vua Trần Nhân Tông lãnh đạo quân dân Đại Việt giành chiến thắng trong hai cuộc chiến cuối cùng chống lại quân đội nhà Nguyê
                  n sang thôn tính nước ta lần thứ hai năm1285 và lần thứ ba năm 1287; Nước Đại Việt suốt thời Trần Thánh Tông làm vua và làm Thái Thượng hoàng là rất hưng thịnh, hùng mạnh, phát triển toàn diện chính trị, kinh tế, quân sự, ngoại giao, văn hóa, giáo dục không để cho nhà Nguyên thôn tính.

                  Trần Thánh Tông cuộc đời và di sản

                  Vua Trần Thánh Tông tên thật Trần Hoảng là con trai thứ hai của vua Trần Thái Tông (Trần Cảnh), mẹ là Hiển Từ Thuận Thiên hoàng hậu Lý thị, công chúa nhà Lý, con gái của Lý Huệ Tông và Linh Từ Quốc mẫu. Anh trai lớn của ông, Tĩnh Quốc đại vương Trần Quốc Khang tuy danh nghĩa là con lớn nhất, nhưng thực tế là con của Khâm Minh đại vương Trần Liễu. Như vậy, ông là Hoàng đích trưởng tử (con trai lớn nhất và do chính thất sinh ra) của Trần Thái Tông hoàng đế.

                  Vua Trần Thánh Tông sinh ngày 25 tháng 9 âm lịch, năm Thiên Ứng Chính Bình thứ 9 (1240), và ngay lập tức được lập làm Hoàng thái tử, ngự ở Đông cung. Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư, trước khi Hiển Từ Thuận Thiên hoàng hậu mang thai ông, Thái Tông hoàng đế nằm mơ thấy Thượng Đế trao tặng bà một thanh gươm báu.

                  Vua Trần Thánh Tông có vợ là  Nguyên Thánh hoàng hậu Trần Thiều (?– 1287), con gái An Sinh Vương Trần Liễu, mới đầu phong làm Thiên Cảm phu nhân, sau phong lên làm Hoàng hậu. Năm 1278, Trần Nhân Tông tôn làm Nguyên Thánh Thiên Cảm Hoàng Thái hậu

                  Vua Trần Thánh Tông có bốn con: 1) đích trưởng tử là Trần Khâm, tức Nhân Tông Duệ Hiếu hoàng đế, mẹ là Nguyên Thánh hoàng hậu; 2) Tá Thiên đại vương Trần Đức Việp (1265 – 1306), mẹ là Nguyên Thánh hoàng hậu. 3) Thiên Thuỵ công chúa, chị gái Nhân Tông, mất cùng ngày với Nhân Tông (3 tháng 11 âm lịch, 1308), lấy Hưng Vũ vương Trần Quốc Nghiễn, con trai Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn, mẹ là Nguyên Thánh hoàng hậu;4)  Bảo Châu công chúa, lấy con trai thứ của Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải, mẹ là Nguyên Thánh hoàng hậu.

                  Nhà Trần đánh bại quân Nguyên Mông lần thứ nhất năm 1257, vào ngày 24 tháng 12 năm Nguyên Phong thứ 7 (1257), Thái tử Trần Hoảng đã cùng với vua Trần Thái Tông ngự lâu thuyền mà kéo quân đến Đông Bộ Đầu, đập tan tác quân Nguyên Mông trong Trận Đông Bộ Đầu, buộc họ phải rút chạy và chấm dứt cuộc xâm lược Đại Việt.

                  Vua Trần Thái Tông nhường ngôi cho Thái tử Trần Hoảng ngày 24 tháng 2, năm 1258 (Nguyên Phong thứ 8). Vua Trần Thánh Tông đổi niên hiệu là Thiệu Long, xưng làm Nhân Hoàng, tôn vua chalàm Thái thượng hoàng, tôn hiệu là Hiển Nghiêu Thánh Thọ Thái Thượng Hoàng Đế .

                  Vua Trần Thánh Tông ở ngôi 21 năm, đất nước được yên trị . Vua nổi tiếng là vị hoàng đế nhân hậu, hòa ái đối với mọi người từ trong ra ngoài. Ông thường nói rằng: “Thiên hạ là của ông cha để lại, nên để anh em cùng hưởng phú quý chung”.Do vậy, các hoàng thân trong nội điện thường ăn chung cỗ và ngủ chơi chung nhà rất đầm ấm, chỉ khi có việc công, hay buổi chầu, thì mới phân thứ tự theo phép nước .

                  Tĩnh Quốc đại vương Trần Quốc Khang, trên danh nghĩa là con trưởng của vua Trần Thái Tông, nhưng thực ra là con trai của An Sinh đại vương Trần Liễu cùng Hiển Từ Thuận Thiên hoàng hậu. Trần Quốc Khang tuy là con trưởng  của vua Trần Thái Tông, nhưng  xuất thân đặc biệt nên chịu mọi sự suy xét trong hoàng tộc. Sử cũ kể lại, có lần Trần Thánh Tông cùng với người anh cả là Trần Quốc Khang chơi đùa trước mặt Thái thượng hoàng. Thượng hoàng mặc áo bông trắng, Trần Quốc Khang múa kiểu người Hồ, Thượng hoàng bèn cởi áo ban cho. Vua Trần Thánh Tông thấy vậy cũng múa kiểu người Hồ để đòi thưởng áo bông. Quốc Khang bèn nói:Quý nhất là ngôi vua, tôi đã không tranh với chú hai rồi. Nay đức chí tôn cho tôi thứ nhỏ mọn này mà chú hai cũng muốn cướp sao?

                  Thượng hoàng Thái Tông cười nói với Quốc Khang:

                  Vậy ra con coi ngôi vua cũng chỉ như cái áo choàng này thôi à?

                  Thượng hoàng Thái Tông khen Quốc Khang, rồi ban áo cho ông. Trong Hoàng gia, cha con, anh em hòa thuận không xảy ra xích mích.] Vào tháng 9 năm 1269, Vua Trần Thánh Tông phong cho Trần Quốc Khang làm Vọng Giang phiêu kỵ Đô thượng tướng quân. Một lần khác, vào mùa xuân năm 1270, Trần Quốc Khang xây vương phủ hoành tráng tại Diễn Châu, vua Trần Thánh Tông bèn cho người đến xem. Hoảng sợ, Quốc Khang đành phải dựng tượng Phật tại nơi này – sau trở thành chùa Thông.

                  Vua Trần Thánh Tông rất quan tâm giáo dục, Trần Ích Tắc, em trai Trần Thánh Tông nổi tiếng là một người hay chữ trong nước được cử mở trường dạy học để các văn sĩ học tập. Danh nho Mạc Đĩnh Chi, người đỗ trạng nguyên đời Trần Anh Tông sau này cũng học ở trường ấy.

                  Thời vua Trần Thánh Tông nhân sự cũng được thay đổi. Ông xuống chiếu kén chọn văn học sĩ sung vào quan ở Quán và Các. Trước đó, theo quy chế cũ: “không phải người trong họ vua thì không được làm chức Hành khiển“. Nhưng bắt đầu từ đấy, nho sĩ văn học được giữ quyền bính làm hành khiển, như Đặng Kế làm Hàn lâm viện học sĩ, Đỗ Quốc Tá làm Trung thư sảnh trung thư lệnh, đều là nho sĩ văn học.  Vua Trần Thánh Tông cho phép các vương hầu, phò mã họp các dân nghèo để khẩn hoang]. Vương hầu có điền trang bắt đầu từ đấy.

                  Năm 1262, vua Trần Thánh Tông xuống lệnh cho quan quân chế tạo vũ khí và đúc thuyền. Tại chín bãi phù sa ở sông Bạch Hạc, Lục quân và Thủy quân nhà Trần đã tổ chức tập trận. Vào tháng 9 (âm lịch) năm ấy, ông truyền lệnh cho rà soát ngục tù, và thẳng tay xử lý những kẻ đã đầu hàng quân xâm lược Nguyên trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ nhất thời Nguyên Phong.

                  Vua Trần Thánh Tông còn cho Lê Văn Hưu tiếp tục biên soạn sách Đại Việt sử ký. Lê Văn Hưu đã làm được bộ sử sách gồm 30 quyển, chép từ đời Triệu Vũ Vương đến Lý Chiêu Hoàng. Việc biên tập bộ sử này được khởi đầu từ đời vua Trần Thái Tông, đến năm 1271 đời Thánh Tông mới hoàn thành.

                  Năm 1258, sau khi Nhà Trần đánh bại quân Nguyên Mông lần thứ nhất, Trần Thánh Tông sai sứ sang Nam Tống báo việc lên ngôi và được phong làm An Nam quốc vương. Mặc dù Nam Tống đã suy yếu trước sự uy hiếp của Mông Cổ, ông vẫn giữ quan hệ bang giao với Nam Tống ngoài ý nghĩa giao hảo nước lớn còn nhằm mục đích nắm tình hình phương bắc. Khi Thánh Tông sai sứ mang đồ cống sang, vua Tống cũng tặng lại các sản vật của Trung Quốc như chè, đồ sứ, tơ lụa; không những gửi cho Thánh Tông mà còn tặng cả sứ giả.  Sau này khi Nam Tống bị nhà Nguyên đánh bại, phải rút vào nơi hiểm yếu, mới không còn qua lại với Đại Việt. Nhiều quan lại và binh sĩ Tống không thần phục người Mông đã sang xin nương nhờ Đại Việt. Trần Thánh Tông tiếp nhận họ, ban cho chức tước và cử người quản lý.

                  Năm 1260, hoàng đế nhà Nguyên sai Mạnh Giáp, Lý Văn Tuấn mang chiếu chỉ sang Đại Việt tuyên dụ, với yêu cầu hệ thống chính quyền Đại Việt phải theo lối hoạt động của Thiên triều, không được dấy binh xâm lấn bờ cõi. Vào năm Tân Dậu 1261, niên hiệu Thiệu Long thứ 4, vua Trần Thánh Tông được vua Mông Cổ phong làm An Nam Quốc Vương, lại được trao cho 3 tấm gấm tây cùng với 6 tấm gấm kim thục. Trần Thánh Tông duy trì lệ cống nhà Nguyên 3 năm 1 lần, mỗi lần đều phải cống nho sĩ, thầy thuốc, thầy bói và thợ thuyền mỗi hạng ba người, cùng với các sản vật như là sừng tê, ngà voi, đồi mồi, châu báu…

                  Vua nhà Nguyên lại đặt chức quan Darughachi tại Đại Việt để đi lại giám trị các châu quận Đại Việt; ý muốn can thiệp chính trị, tìm hiểu nhân vật, tài sản Đại Việt để liệu đường mà đánh chiếm. Thánh Tông bề ngoài tuy vẫn chịu thần phục, nhưng ông biết ý đồ của vua Mông, nên tiếp tục luyện binh dụng võ để chuẩn bị chiến tranh. Ông cho tuyển đinh tráng các lộ làm lính, phân làm quân và đô, bắt phải luyện tập luôn.

                  Năm 1271, Hốt Tất Liệt đặt quốc hiệu là Nguyên, bình định nốt miền nam Trung Quốc và dụ vua Đại Việt sang hàng, để khỏi cần động binh. Nhà Nguyên cứ vài năm lại cho sứ sang sách nhiễu và dụ vua Đại Việt sang chầu, nhưng vua Trần lấy cớ thoái thác.

                  Năm 1272, hoàng đế nhà Nguyên cho sứ sang lấy cớ tìm cột đồng trụ của Mã Viện trồng ngày trước, nhưng vua Thánh Tông sai quan sang nói rằng: cột ấy lâu ngày mất đi rồi, không biết đâu mà tìm nữa. Vua Nguyên bèn thôi không hỏi nữa.

                  Năm 1275, hoàng đế nhà Nguyên ra chiếu dụ đòi vua Đại Việt nộp sổ sách dân số, thu thuế khóa, trợ binh lực cho Thiên triều thông qua sự thống trị của quan Darughachi và đòi nhà vua phải đích thân tới chầu. Vua Thánh Tông sai sứ sang nói với hoàng đế nhà Nguyên rằng: Nước Nam không phải là nước Mường mán mà đặt quan giám trị, xin đổi quan Đại-lỗ-hoa-xích làm quan Dẫn tiến sứ.

                  Vua nhà Nguyên không cho, lại bắt vua Trần sang chầu. Thánh Tông cũng không chịu. Từ đấy vua nhà Nguyên thấy dùng ngoại giao để khuất phục nhà Trần không được, quyết ý cử binh sang đánh Đại Việt. Nguyên Thế Tổ cho quan ở biên giới do thám địa thế Đại Việt, Trần Thánh Tông cũng đặt quan quân phòng bị.

                  Theo sách “Các triều đại Việt Nam” của Quỳnh Cư, Đỗ Đức Hùng, “Nhìn chung, vua Trần Thánh Tông thực hiện chính sách ngoại giao mềm dẻo nhưng rất kiên quyết, chằm bảo vệ danh dự của Tổ quốc, ngăn chặn từ xa mọi sự dòm ngó, tạo sự xâm lược của nhà Nguyên.“ Tuy nhiên, sau khi nhà Nguyên diệt Nam Tống (1279), Đại Việt càng đứng trước nguy cơ bị xâm lăng từ đế quốc khổng lồ này.

                  Mùa đông, ngày 22 tháng 10 năm 1278, sau một năm Thái Tông Thượng hoàng đế băng hà, Thánh Tông hoàng đế nhường ngôi cho con trai là Thái tử Trần Khâm, tức Trần Nhân Tông. Thánh Tông lên làm Thái thượng hoàng, với tôn hiệu là Quang Nghiêu Từ Hiếu Thái Thượng Hoàng Đế. Trên danh nghĩa là Thái thượng hoàng, nhưng Trần Thánh Tông vẫn tham gia việc triều chính.

                  Quan hệ hai bên giữa Đại Việt và Đại Nguyên căng thẳng và đến cuối năm 1284 thì chiến tranh bùng nổ. Thượng hoàng Thánh Tông cùng Nhân Tông tín nhiệm thân vương là Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn, phong làm Quốc công Tiết chế chỉ huy quân đội trong nước để chống Nguyên Mông. Trong hai lần Chiến tranh với Nguyên Mông lần 2 và lần 3, thắng lợi có vai trò đóng góp của Thượng hoàng Thánh Tông.

                  Năm 1289, sau khi chiến tranh kết thúc, Thượng hoàng lui về phủ Thiên Trường làm thơ. Các bài thơ thường được truyền lại là: “Hành cung Thiên Trường”, “Cung viên nhật hoài cực”.

                  Ngày 25 tháng 5, năm Trùng Hưng thứ 6 (1290), Thượng hoàng băng hà tại Nhân Thọ cung, hưởng thọ 51 tuổi. Miếu hiệu là Thánh Tông (聖宗), thụy hiệu là Hiến Thiên Thế Đạọ Huyền Công Thịnh Đức Nhân Minh Va7n Vũ Tuyên Hiếu hoàng đế . Ông được táng ở Dụ Lăng, phủ Long Hưng (Tiến Đức, Hưng Hà, Thái Bình ngày nay).

                  Ngày nay ở trung tâm thành phố Hà Nội có phố mang tên Trần Thánh Tông.

                  Vua Trần Thánh Tông  sùng đạo Phật, rất giỏi thơ văn, thường sáng tác thơ văn về thiền. Tác phẩm của Trần Thánh Tông có: Di hậu lục (Chép để lại cho đời sau), Cơ cầu lục (Chép việc nối dõi nghiệp nhà); Thiền tông liễu ngộ (Bài ca giác ngộ Thiền tông), Phóng ngưu (Thả trâu), Trần Thánh Tông thi tập (Tập thơ Trần Thánh Tông), Chỉ giá minh (Bài minh về sự cung kính)…Và một số thư từ ngoại giao, nhưng tất cả đều đã thất lạc, chỉ còn lại 6 bài thơ được chép trong Việt âm thi tập (5 bài) và Đại Việt sử ký toàn thư (1 bài) mà chúng tôi sẽ chép bổ sung vào cuối bài này.

                  Thơ Trần Thánh Tông  giàu chất trữ tình, kết hợp nhuần nhị giữa tinh thần tự hào về đất nước của người chiến thắng, với tình yêu cuộc sống yên vui, thanh bình, và phong độ ung dung, phóng khoáng của một người biết tự tin, lạc quan. Trong thơ, ông đã xen nhịp ba của thơ dân tộc với nhịp bốn quen thuộc của thơ Đường, tạo nên một nét mới về nhịp điệu thơ và về thơ miêu tả thiên nhiên.

                  Trong sách Thơ văn Lý Trần, NXB Khoa học xã hội, 1977, có bài thơ Chân tâm chi dụng của Trần Thánh Tông:

                  Dụng của chân tâm … 
                  Trần Thánh Tông

                  Dụng của chân tâm, 
                  Thông minh tịnh mịch. 
                  Không đến không đi, 
                  Không tổn không ích. 
                  Vào nhỏ vào to, 
                  Mặc thuận cùng nghịch. 
                  Động như hạc mây, 
                  Tĩnh như tường vách. 
                  Nhẹ tựa mảy lông, 
                  Nặng như bàn thạch. 
                  Trần trần trụi trụi, 
                  Làu làu trong sạch. 
                  Chẳng thể đo lường, 
                  Tuyệt vô tung tích. 
                  Nay ta vì ngươi, 
                  Tỏ bày rành mạch. 

                  Đại Việt Sử ký Toàn thư của nhà Hậu Lê ca ngợi Trần Thánh Tông “trung hiếu nhân thứ, tôn hiền trọng đạo, cha khai sáng trước, con kế thừa sau, cơ nghiệp nhà Trần được bền vững”, tuy nhiên trên quan điểm Nho giáo lại phê phán ông sùng đạo Phật “thì không phải phép trị nước hay của đế vương”. Sử gia Ngô Sĩ Liên ca ngợi công lao của ông: “Thánh Tông nối nghiệp Thái Tông, giữa chừng gặp giặc cướp biến loạn, ủy nhiệm cho tướng thần cùng với Nhân Tông giúp sức làm nên việc, khiến thiên hạ đã tan lại hợp, xã tắc nguy lại an. Suốt đời Trần không có việc giặc Hồ nữa, công to lắm.”  Giáo sư Trần Văn Giàu luận về “Nhân cách Trần Nhân Tông” nhưng nói đầy đủ là hai vua Trần vì Thái Thượng hoàng Trần Thánh Tông là người tham gia và lãnh đạo xuyên suốt cả ba lần quân dân Đại Việt đánh thắng quân Nguyên năm 1258, 1285 và 1287: …”Tại nước Tàu lúc bấy giờ Triều đình nhà Tống rất hùng mạnh nhưng quân Nguyên Mông đã tràn xuống đánh thắn thần tốc, đến nỗi vua quan nhà Tống phải chạy ra biển và nhảy xuống biển tự vẫn. Tại Tây Á, Trung Á và một phần châu Âu cũng thua thảm hại , đến nỗi Giáo hoàng La Mã cũng lên tiếng sợ hãi. Trong lúc ấy Việt Nam so với phương Bắc thì quá nhỏ bé và quá nghèo yếu, thế mà Người dám không cho Nguyên Mông mượn đường xâm lược Chiêm Thành. Lại còn đánh bại ba lần Nguyên Mông xâm lược. Sau khi thắng giặc, Người lại lên núi sống. Người dám nghĩ, dám làm những việc không ai dám nghĩ chứ đừng nói đến làm !” 

                  Trần Thánh Tông vua giỏi nhà Trần.

                  giaosutranvankhenguoithaynhacviet

                  THẦY NHẠC TRẦN VĂN KHÊ
                  Hoàng Kim

                  Giáo sư Trần Văn Khê đã bảo tồn tinh hoa âm nhạc cổ truyền và văn hóa dân tộc Việt Nam. Tôi  viết bài này trong ngày lễ tang của thầy ngày 26 tháng 6 năm 2015 (Thầy mất ngày 24 tháng 6) như là một nén tâm hương tưởng niệm. Hôm nay, chúng ta nhớ lại người Thầy đáng kính đã giữ gìn nét đẹp văn hóa Việt qua câu chuyện do Quang Minh tổng hợp trên trang
                  trithucvn.net kể về cuộc tranh luận bên lề buổi sinh hoạt của Hội Truyền bá Tanka Nhật Bản tại Paris vào năm 1964. Cố Gia1o sư Trần Văn Khê đã hỏi một cựu Đề đốc Thủy sư người Pháp “Ngài chơi với ai mà không biết một áng văn nào của nước Việt?”. Chuyện này đã đăng trên Hồi ký Trần Văn Khê (hai tập) tái bản lần ba năm 2013 Giáo sư Trần Văn Khê  từ trần hồi 020h55 ngày 24 tháng 6 năm 2015 (tức ngày 09/05 Ất Mùi) tại bệnh viện nhân dân Gia Định, TP. Hồ Chí Minh. hưởng thọ 94 tuổi. Thầy là nhà giáo giảng dạy và nghiên cứu nổi tiếng về âm nhạc cổ truyền và văn hóa Việt Nam, thành viên danh dự Hội đồng Âm nhạc Quốctế UNESCO, giáo sư Đại học Sorbonne Pháp, tiến sĩ ngành âm nhạc học người Việt Nam đầu tiên tại Pháp. Thầy có công lớn trong quảng bá âm nhạc dân tộc, văn hóa Việt Nam ra thế giới. (Giào sư Trần Văn Khê khai đàn Nguyên đán Ất Mùi tại tư gia. Ảnh VnExpress)

                  Theo VnExpess.net  “đúng bản di nguyện do Giáo sư lập ra, thi hài Giáo sư được quàn tại tư gia đường Huỳnh Đình Hai, Bình Thạnh. Lễ tang của ông cũng diễn ra ở tư gia. Lễ nhập liệm diễn ra vào 10h ngày 26/6. Lễ viếng bắt đầu từ 12h trưa ngày 26/6 và kéo dài đến hết ngày 28/6. Lễ động quan diễn ra vào 6h sáng 29/6. Sau đó, linh cữu ông được đưa đi hỏa táng tại Nghĩa trang Hoa Viên, huyện Bến Cát, tỉnh Bình Dương.

                  Ủy Ban Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam TP HCM và gia đình cùng đứng ra tổ chức tang lễ cho Giáo sư Khê. Con trai trưởng của ông là Giáo sư Trần Quang Hải làm chủ tang. Hiện tại, Giáo sư Trần Quang Hải đang gấp rút trở về TP HCM từ một hội nghị quốc tế ở nước ngoài …”.

                  GS TRẦN VĂN KHÊ CUỘC ĐỜI VÀ DI SẢN

                  Trang Bách khoa toàn thư mở Wikipedia đang cập nhật thông tin về GS Trần Văn Khê.

                  Tiểu sử

                  Trần Văn Khê sinh ngày 24 tháng 7 năm 1921 tại làng Đông Hòa, tổng Thuận Bình, tỉnh Mỹ Tho (nay là huyện Châu Thành, Tiền Giang) trong một gia đình có bốn đời làm nhạc sĩ, nên từ nhỏ ông đã làm quen với nhạc cổ truyền. Năm lên 6 tuổi ông đã được cô (Ba Viện) và cậu (Năm Khương) dạy đàn kìm, đàn cò, đàn tranh
                  [2], biết đàn những bản dễ như “Lưu Thuỷ”, “Bình Bán vắn”, “Kim Tiền”, “Long Hổ Hội”. Ông nội ông là Trần Quang Diệm (Năm Diệm), cha ông là Trần Quang Chiêu (Bảy Triều), cô là Trần Ngọc Viện (tức Ba Viện, người đã sáng lập gánh cải lương Đồng Nữ ban), đều là những nghệ nhân âm nhạc cổ truyền nổi tiếng. Cụ cố ngoại ông là tướng quân Nguyễn Tri Phương [3]. Ông ngoại ông là Nguyễn Tri Túc, cũng say mê âm nhạc, có ba người con đều theo nghiệp đờn ca[4]. Một trong số đó Nguyễn Tri Khương, thầy dạy nhạc và nhà soạn tuồng cải lương nổi tiếng. Riêng mẹ ông là Nguyễn Thị Dành (Tám Dành), sớm tham gia cách mạng, gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam vào năm 1930 và bị thương rồi mất trong năm đó [5]. Cha ông vì thương nhớ vợ nên qua đời năm 1931. Ông có một người anh họ ngoại (con ông Nguyễn Tri Lạc) là nhạc sĩ Nguyễn Mỹ Ca [5].

                  Mồ côi từ rất sớm, mẹ mất năm 9 tuổi, cha mất năm 10 tuổi, nên ông cùng với hai em là Trần Văn Trạch (về sau là một ca sĩ nổi tiếng, có biệt danh Quái kiệt), Trần Ngọc Sương được cô Ba Viện nuôi nấng. Cô Ba Viện rất thương, cho anh em ông đi học võ, học đàn kìm.

                  Năm 10 tuổi, Trần Văn Khê đậu tiểu học, sang Tam Bình, Vĩnh Long nhờ người cô thứ năm nuôi. Đến đây Trần Văn Khê được học chữ Hán với nhà thơ Thượng Tân Thị. Trong kỳ sơ học năm 1934 tại Vĩnh Long được đậu sơ học có phần Hán Văn. Cả tỉnh chỉ có Trần Văn Khê và Nguyễn Trọng Danh được đậu bằng chữ Hán.

                  Năm 1934, ông vào trường Trung học Trương Vĩnh Ký, được cấp học bổng. Học rất giỏi, năm 1938 ông được phần thưởng là một chuyến du lịch từ Sài Gòn đến Hà Nội, ghé qua Phan Thiết, Đà Nẵng, Nha Trang, Huế. Nhờ đậu tú tài phần nhất năm 1940, thủ khoa phần nhì năm 1941, ông được đô đốc Jean Decoux thưởng cho đi viếng cả nước Campuchia xem Chùa Vàng, Chùa Bạc tại Nam Vang, viếng Đế Thiên Đế Thích. Khi về Việt Nam, nhờ thầy Phạm Thiều giới thiệu, ông được Đông Hồ tiếp đãi, dẫn đi chơi trong một tuần.

                  Thời gian này, ông cùng Lưu Hữu Phước, Võ Văn Quan lập dàn nhạc của trường, và dàn nhạc của học sinh trong câu lạc bộ học sinh mang tên là Scola Club của hội SAMIPIC. Ông là người chỉ huy hai dàn nhạc đó.

                  Năm 1942, Trần Văn Khê ra Hà Nội học y khoa. Tại đây, cùng với Huỳnh Văn Tiểng, Lưu Hữu Phước, Mai Văn Bộ, Phan Huỳnh Tấng (nay đổi thành Phạm Hữu Tùng), Nguyễn Thành Nguyên, hoạt động trong khuôn khổ của Tổng hội Sinh viên. Do thể hiện một trình độ cảm nhạc xuất sắc, ông được cử làm nhạc trưởng của giàn nhạc trường, nhân giới thiệu những bài hát của Lưu Hữu Phước. Ông còn tham gia phong trào “Truyền bá quốc ngữ” trong ban của GS Hoàng Xuân Hãn, “Truyền bá vệ sinh” của các sinh viên trường Thuốc, và cùng các bạn Lưu Hữu Phước, Mai Văn Bộ, Huỳnh Văn Tiểng tổ chức những chuyến “đi Hội đền Hùng”, và đi viếng sông Bạch Đằng, Ải Chi Lăng, đền Hai Bà.

                  Năm 1943, ông cưới bà Nguyễn Thị Sương, và sau đó có nhiều sự kiện làm Trần Văn Khê phải xin thôi học để trở về miền Nam. Con trai ông là Trần Quang Hải, sinh năm 1944, sau này cũng là một nhà nghiên cứu âm nhạc dân tộc Việt Nam danh tiếng. Sau Cách Mạng Tháng Tám, ông tham gia kháng chiến một thời gian rồi về vùng Pháp kiểm soát cuối năm 1946.

                  Ông sang Pháp du học từ năm 1949. Hè năm 1951, ông thi đậu vào trường Chính trị Khoa giao dịch quốc tế. Cho đến năm 1958, ông theo học khoa nhạc học và chuẩn bị luận án tiến sĩ dưới sự chỉ đạo của các Giáo sư Jacques Chailley, Emile Gaspardone và André Schaeffner. Tháng 6 năm 1958, ông đậu Tiến sĩ Văn khoa (môn Nhạc học) của Đại học Sorbonne. Luận văn của ông có tên: “LaMusique vietnamienne traditionnelle” (Âm nhạc truyền thống Việt Nam).

                  Từ năm 1963, ông dạy trong Trung tâm Nghiên cứu nhạc Đông phương, dưới sự bảo trợ của Viện Nhạc học Paris (Institut de Musicologie de Paris). Ông là thành viên của Viện Khoa học Pháp, Viện sĩ thông tấn Viện Hàn lâm châu Âu về Khoa học, Văn chương và Nghệ thuật cũng như nhiều hội nghiên cứu âm nhạc quốc tế khác; là Chủ tịch Hội đồng Khoa học của Viện quốc tế nghiên cứu âm nhạc bằng phương pháp đối chiếu của Đức (International Institute for Comparative Music Studies) [6].

                  Ông đã đi 67 nước trên khắp thế giới để nói chuyện, giảng dạy về âm nhạc dân tộc Việt Nam.

                  Sau 50 năm nghiên cứu và giảng dạy ở Pháp, năm 2006, ông chính thức trở về sinh sống và tiếp tục sự nghiệp nghiên cứu và giảng dạy âm nhạc dân tộc tại Việt Nam. Ông cũng là người đã hiến tặng cho Thành phố Hồ Chí Minh 420 kiện hiện vật quý, trong đó có nhiều loại nhạc cụ dân tộc và tài liệu âm nhạc.

                  Sau một thời gian bị bệnh, ông qua đời vào khoảng hai giờ sáng ngày 24 tháng 6 năm 2015 tại bệnh viện Nhân Dân Gia Định, Thành phố Hồ Chí Minh [7].

                  Gia đình
                  GS Trần Văn Khê có bốn người con: Trần Quang Hải hiện là nhà nghiên cứu nhạc dân tộc tại Paris, Trần Quang Minh hiện là kiến trúc sư ở TP Hồ Chí Minh), Trần Thị Thủy Tiên hiện sống tại Paris, và Trần Thị Thủy Ngọc, nhạc sĩ đàn tranh và làm việc cho một ban nghiên cứu Đông Nam Á của trung tâm quốc gia nghiên cứu khoa học ở Paris
                  [8].

                  Người vợ đầu của ông Trần Văn Khê là bà Nguyễn Thị Sương (1921-2014). Khi ông Khê sang Pháp học năm 1949, do hoàn cảnh, hai người không còn sống với nhau nữa. Năm 1960, bà Sương và ông Trần Văn Khê ly dị [9]. tuy nhiên sau này vẫn coi nhau là bạn [10]. Sau đó ông có những người phụ nữ khác. Ông nói: “Đa tình thì có thể nhưng rất may là tôi không phải là người bạc tình và cũng chưa bao giờ cùng lúc có hai ba người. Chỉ có người này đi qua người khác đến. Cũng chưa có người phụ nữ nào oán trách tôi, khi chia tay chúng tôi đều giữ lại được tình bạn.” [11]. Mấy chục năm cuối đời ông sống một mình.

                  Khi ông Khê sang Pháp học năm 1949, người con gái út của ông Trần Thị Thủy Ngọc chưa ra đời. Sau này, năm 1961 Trần Quang Hải (trưởng nam) sang Pháp, tới năm 1969 đến lượt Thủy Ngọc (con gái út) sang Pháp ở với cha. Còn Trần Quang Minh và Thủy Tiên ở lại Việt Nam, sống với mẹ [12].

                  Hội viên

                  Giáo sư Trần Văn Khê là thành viên của nhiều hội nghiên cứu âm nhạc trong nước Pháp, Mỹ, Trung Quốc và trên trường quốc tế:

                  • Hội Nhà văn Pháp (Société des Gens de Lettres) (Pháp)
                  • Hội Âm nhạc học (Société Française de Musicologie) (Pháp)
                  • Hội Dân tộc Nhạc học Pháp (Société Française d’Ethnomusicologie) (Pháp)
                  • Hội Âm nhạc học Quốc tế (Société Internationale de Musicologie)
                  • Hội Dân tộc Nhạc học (Society for Ethnomusicology) (Mỹ)
                  • Hội Nhạc học Á châu (Society for Asian Music) (Mỹ)
                  • Hội Âm nhạc Á châu và Thái Bình Dương (Society for Asian and Pacific Music)
                  • Hội Quốc tế Giáo dục Âm nhạc (International Society for Music Education)
                  • Thành viên và chủ tịch hội đồng khoa học của Viện Quốc tế Nghiên cứu Âm nhạc với Phương pháp Đối chiếu (International Institute for Comparative Music Studies) (Đức)
                  • Hội đồng Quốc tế Âm nhạc truyền thống (International Council for Traditional Music) nguyên phó chủ tịch (Mỹ)
                  • Hội đồng Quốc tế Âm nhạc (International Music Council/UNESCO), nguyên uỷ viên ban chấp hành, nguyên phó chủ tịch, đương kim Chung sanh hội trưởng danh dự (Pháp)
                  • Viện sĩ thông tấn, Hàn lâm viện Châu Âu, Khoa Học, Văn chương, Nghệ thuật…

                  Giải thưởng

                  • 1949: Giải thưởng nhạc cụ dân tộc tại Liên hoan Thanh niên Budapest.
                  • Huy chương bội tinh hạng nhứt của chính phủ Việt Nam Cộng hòa.
                  • Văn hoá bội tinh hạng nhứt của Bộ giáo dục Việt Nam Cộng hòa.
                  • 1975: Tiến sĩ âm nhạc danh dự (Docteur en musique, honoris causa) của Đại học Ottawa (Canada).
                  • 1981: Giải thưởng âm nhạc của UNESCO ở Hội đồng Quốc tế Âm nhạc (Prix UNESCO – CIM de la Musique).
                  • 1991: Officier de l’Ordre des Arts et des Lettres, Ministère de la Culture et de l’Information du Gouvernement français (Huy chương về Nghệ thuật và Văn chương của Bộ Văn hoá Pháp).
                  • 1993: Cử vào Hàn lâm viện châu Âu về Khoa học, Văn chương, Nghệ thuật; viện sĩ thông tấn.
                  • 1998: Huy chương Vì Văn hoá Dân tộc của Bộ Văn hoá Việt Nam.
                  • 1999: Huân chương Lao động hạng nhất do Chủ tịch Trần Đức Lương cấp.
                  • 2005: Giải thưởng Đào Tấn do Trung tâm Nghiên cứu bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc trao tặng.
                  • 2011: Giải thưởng Phan Châu Trinh về nghiên cứu

                  NGƯỜI GIỮ GÌN NÉT ĐẸP VĂN HÓA VIỆT

                  Cố GS Trần Văn Khê: “Ngài chơi với ai mà không biết một áng văn nào của nước Việt? trithucvn.net Quang Minh tổng hợp. Có một câu chuyện thể hiện niềm kiêu hãnh của người Việt đã được Giáo sư Trần Văn Khê kể lại nhiều lần cho các học trò của mình, và cũng được ông ghi lại trong cuốn hồi ký, kể về cuộc tranh luận bên lề buổi sinh hoạt của Hội Truyền bá Tanka Nhật Bản tại Paris vào năm 1964…

                  Tham dự buổi sinh hoạt này hầu hết là người Nhật và Pháp, duy chỉ có Giáo sư là ngXem tiếp >>

                    Dạy và học 25 tháng 6(25-06-2021)

                  DẠY VÀ HỌC 25 THÁNG 6
                  Hoàng Kim
                  CNM365 Tình yêu cuộc sốngHồ Xuân Hương góc khuất;Hồ Xuân Hương đời thơ; Linh Giang sông quê hương; Giống khoai lang Việt Nam; Giống khoai lang HL518; Giống khoai lang HL491; Giống khoai Hoàng Long; Giống khoai Bí Đà Lạt; Giống khoai lang HL4;Trường tôi nôi yêu thương; Chiêm Lưu Huy sạch đẹp; Ngày 25 tháng 6 năm 1953 Watson và Crick đã công bố Cấu trúc ADN trên tạp chí khoa học Nature. Công trình được trao giải Nobel trong Sinh lý và Y khoa năm 1962 về “sự khám phá cấu trúc phân tử của nucleic acids và tầm quan trọng của nó cho việc trao chuyển thông tin trong vật chất sống”. Ngày 25 tháng 6 năm 2009, ngày mất Michael Jackson: ca sĩ nhạc pop Mỹ (sinh ngày 29 tháng 8 năm 1958) người được mệnh danh là Ông hoàng nhạc pop” (King of pop), “Nhân vật giải trí thành công nhất mọi thời đại”. Ngày 25 tháng 6 năm 1947, Nhật ký Anne Frank được phát hành, sách gồm các trích đoạn từ một cuốn nhật ký viết trong thời kỳ Đức Quốc Xã chiếm đóng Hà Lan. Nhật ký Anne Frank là một trong “10 cuốn sách được đọc rộng rãi nhất trên toàn thế giới.”. Bài chọn lọc ngày 25 tháng 6: Hồ Xuân Hương góc khuất;Hồ Xuân Hương đời thơ; Linh Giang sông quê hương; Giống khoai lang Việt Nam; Giống khoai lang HL518; Giống khoai lang HL491; Giống khoai Hoàng Long; Giống khoai Bí Đà Lạt; Giống khoai lang HL4; Trường tôi nôi yêu thương; Chiêm Lưu Huy sạch đẹp; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.comhttp://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-25-thang-6/

                  HỒ XUÂN HƯƠNG GÓC KHUẤT
                  Hoàng Kim

                  bài nghiên cứu lịch sử văn hóa này góp phần làm sáng tỏ sáu vấn đề: 1) Hồ Xuân Hương Lưu Hương Ký tác phẩm gốc có đặc trưng gì? 2) Hồ Xuân Hương “tỏ ý” là thơ kiệt tác hát nói ví giặm Nghệ Tĩnh di sản thế giới phi vật thể; 3) Hồ Xuân Hương tiếng tri âm “Cảm cựu kiêm trình Cần chánh học sĩ Nguyễn Hầu” là lời tri kỹ bền vững, chuyện tình vượt thời gian; 4) “Độ Hoa Phong” là bài thơ vịnh Hạ Long tuyệt bút yêu thiên nhiên; 5) Miếu Sầm thái thú (Đề đền Sầm Nghi Đống) là bài thơ cao vọi khí phách đảm lược của một kỳ tài, tầm tư tưởng nhân hậu, tôn vinh phụ nữ và sự bình đẳng giới, khát vọng tự do, giải phóng con người; 6)Lưu Hương Ký “Khóc Tổng Cóc“, “Khấp Vĩnh Tường quan” (khóc ông phủ Vĩnh Tường), Dữ Sơn Nam Thượng Hiệp trấn quan Trần Hầu xướng hoạ là chuyên đời Xuân Hương, với Thơ Nôm truyền tụngBánh trôi nước; Núi Ba Đèo; Núi Kẽm Trống; Đánh cờ; Cái quạt; đặc sắc có một không hai, thanh tục giữa đời thường, như có như không.của kiệt tác thơ Xuân Hương

                  1

                  Hồ Xuân Hương Lưu Hương Ký

                  Hồ Xuân Hương Lưu Hương Ký có ba đặc trưng nổi bật không thể nhầm lẫn: 1) Đặc trưng nổi bật nhất là tập thơ Lưu Hương Ký gồm 52 bài thơ với 24 bài chữ Hán và 28 bài chữ Nôm do chính Hồ Xuân Hương tuyển chọn DUY NHẤT nhờ Tốn Phong viết lời tựa: “Đây là tất cả thơ văn trong đời tôi từ trước đến nay, nhờ anh làm cho bài Tựa”. Tập thơ Lưu Hương Ký VÌ LÝ DO đích thân Hồ Xuân Hương trực tiếp tuyển chọn, nên đã thể hiện thực chất con người của Hồ Xuân Hương. Tập sách bản gốc ấy không có dị bản, khảo dị như Hồ Xuân Hương thơ Nôm truyền tụng, mà vì lẽ nào đó tác giả đã không tự nhận một số bài là đứa con tinh thần của mình hoặc là do người khác chép lẫn vào và cố tình gắn cho bà. 2) Đặc trưng nổi bật thứ hai trong thơ Hán Nôm của Hồ Xuân Hương tại tập thơ Lưu Hương ký là nghệ thuật thơ Hán Nôm của Hồ Xuân Hương đặc biệt điêu luyện, sánh ngang những kiệt tác thơ Trung Hoa thời Thịnh Đường, rất đặc sắc và rất khó lẫn với thơ người khác.Thơ Hán Nôm của Hồ Xuân Hương hàm súc sâu sắc hiếm thấy, trong thơ có nhạc, chuyển tải sử thi văn hóa giáo dục tài tình và khiêm nhu hiền lành rất mực. 3) Đặc trưng nổi bật thứ ba của Lưu Hương Ký là cần được nghiên cứu liên ngành, đọc trong sự giãi mã và kết hợp rất chặt chẽ với Truyện Thúy Kiều của Nguyễn Du thành “cặp song kiếm hợp bích” tuyệt phẩm văn chương tinh hoa đặc sắc Việt Nam, biểu tượng văn hóa, anh hùng mỹ nhân, tuyệt kỹ ngôn ngữ tiếng Việt Hán Nôm. Thúy Kiều & Lưu Hương Ký là hai kiệt tác văn chương bền vững với thời gian mà ngành văn sử Việt, tiếc rằng cho đến nay, vẫn chưa khai thác hết giá trị tinh hoa vốn cổ, bối cảnh thời thế con người, điển tích và câu chuyện lịch sử văn hóa. Thật đồng tình với đánh giá khoa học của tiến sĩ Phạm Trọng Chánh “Thơ Hồ Xuân Hương trong Lưu Hương ký hay và hay tuyệt vời, mỗi bài thơ như một viên bích ngọc hoàn hảo không thể đổi một chữ,.Lưu Hương ký do Tổ Hợp Xuất bản Miền Đông Hoa Kỳ ra đời năm 2012, là một công trình, đáng hoan nghênh. Nhưng nếu độc giả đọc thơ Hồ Xuân Hương trong Lưu Hương ký không thấy hay thì nên tìm trên internet các bản dịch, và phiên âm trong các bài viết khác để so sánh

                  2

                  Hồ Xuân Hương “tỏ ý”

                  Truyện Thúy Kiều Nguyễn Du, viết về ngón hồ cầm tuyệt diệu ca trù hát nói Kiều gẩy đàn cho Kim Trọng nghe “Trong như tiếng hạc bay qua. Đục như nước suối vừa sa nửa vời. Tiếng khoan như gió thoảng ngoài. Tiếu mau sầm sập như trời đổ mưa. Ngọn đèn khi tỏ khi mờ. Khiến người ngồi đấy cũng ngơ ngẫn sầu. Khi tựa gối khi cúi đầu. Khi vò chín khúc, khi chau đôi mày” (Truyện Kiều, Nguyễn Du).

                  “Thập tải luân giao cầu cổ kiếm.Nhất sinh đê thủ bái hoa mai”. Mười năm lưu lạc tìm gươm báu Đời ta chỉ cúi lạy hoa mai. (1) “Nghêu ngao vui thú yên hà. Mai là bạn cũ, hạc là người quen” (2) chính là Những câu thơ lưu lạc của Mai Sơn Phủ Nguyễn Du mười lăm năm lưu lạc viết cho Hồ Phi Mai Hồ Xuân Hương

                  “Thuật ý kiêm trình hữu nhân Mai Sơn Phủ” là bài thơ ‘Tỏ ý’ của Hồ Xuân Hương đối với Nguyễn Du . Bài thơ tình xuân thiết tha, lời thơ là lời hát nói có nhạc bên trong nên câu thơ hay hiếm thấy. Bài thơ “Tỏ ý” này rút trong tập thơ “Lưu Hương Ký” thơ chữ Hán Hồ Xuân Hương. Con người tác giả và tác phẩm này là nguyên mẫu người và thơ để Nguyễn Du đưa nhân vật, sự kiện và thời thế vào trong kiệt tác Truyện Kiều.

                  TỎ Ý
                  Hồ Xuân Hương
                  tặng Mai Sơn Phủ (Nguyễn Du)
                  (Bản dịch của Hoàng Kim)


                  Hoa rung rinh,
                  Cây rung rinh,
                  Giấc mộng cô đơn nhớ hương tình,
                  Đêm xuân bao cảm khái.

                  Hươu nơi nao
                  Nhạn nơi nao
                  Mình ước trong nhau ban mai nào
                  Lòng em thương nhớ ai thấu sao!

                  Sông mênh mông
                  Nước dạt dào
                  Lòng hai chúng mình đều ao ước
                  Nước mắt thầm rơi mặn chát.

                  Thơ thương thương,
                  Lòng vương vương,
                  Ấm lạnh lòng ai thấu tỏ tường,
                  Bút người tả xiết chăng?

                  Mây lang thang
                  Trăng mênh mang
                  Trăng gió xui ai luống đoạn tràng
                  Đâu là gác Đằng Vương ?

                  Mây vương vương
                  Nước sương sương
                  Mây nước chung nhau chỉ một đường
                  Dặm trường cách trở thương càng thương.

                  Ngày thênh thênh,
                  Đêm thênh thênh,
                  Đêm ngày khắc khoải nhớ thương anh,
                  Người ơi đừng lỡ hẹn sai tình.

                  Gió bay bayMưa bay bay
                  Mưa gió giục em viết thơ này
                  Bút xuân gửi đến người thương nhớ

                  Anh đồng lòng
                  Em đồng lòng
                  Mộng hồn tương luyến liễu hoa âm (*)

                  Thơ cùng ngâm
                  Rượu và trăng
                  Thăm thẳm buồn ly biệt
                  Vầng trăng chia hai nữa
                  Cung đàn ly khúc oán tri âm (**),
                  Thôi đành bặt tiếng hồ cầm
                  Núi cao biển sâu đằng đẳng
                  Xin chớ tủi buồn mà than cổ kim.

                  Chàng hẹn gì
                  Ta hẹn gì
                  Hai ta đều muộn, nói năng chi
                  Trà mà chi
                  Bút mà chi
                  Lời và chữ còn đó
                  Ai là kẻ tình si
                  Hiểu nhau trong dạ khó khăn gì
                  Hãy nên trao gửi mối duyên đi
                  Lòng son ai nỡ phụ

                  .

                  Nguyên tác


                  鹿呦呦
                  嗷嗷
































                  Xem tiếp >>

                    Dạy và học 24 tháng 6(23-06-2021)


                  DẠY VÀ HỌC 24 THÁNG 6
                  Hoàng Kim

                  CNM365 Tình yêu cuộc sốngHồ Xuân Hương đời thơ; Hồ Xuân Hương góc khuất;Trường tôi nôi yêu thương; Thầy bạn là lộc xuân; Trung Quốc một suy ngẫm; Cuộc đối chiến Mỹ Trung; Ngày 24 tháng 6 năm 1988 là ngày mất của Bùi Xuân Phái (1 tháng 9 năm 1920 – 24 tháng 6 năm 1988), là họa sĩ nổi tiếng Việt Nam với các bức danh họa Phố Phái về Phố cổ Hà Nội;  Ngày 24 tháng 6 năm 1954, trận Đắk Pơ tại Gia Lai, là trận đánh lớn cuối cùng trong Chiến tranh Đông Dương, lực lượng Việt Minh giành chiến thắng trước quân Pháp, : Ngày 24 tháng 6 năm 2010,  ngày mất Đỗ Quốc Sam (1929- 2010), là Giáo sư, Tiến sĩ Khoa học, Bộ trưởng đầu tiên của Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam khi Bộ này được đổi tên sang từ Ủy ban Kế hoạch Nhà nước, Ông nguyên là Đại biểu Quốc hội Việt Nam, nguyên Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. Bài chọn lọc ngày 24 tháng 6: Hồ Xuân Hương đời thơ; Hồ Xuân Hương góc khuất;Trường tôi nôi yêu thương; Thầy bạn là lộc xuân; Trung Quốc một suy ngẫm; Cuộc đối chiến Mỹ Trung; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/ http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-24-thang-6/

                  HỒ XUÂN HƯƠNG ĐỜI THƠ
                  Hoàng Kim


                  Nghiên cứu lịch sử văn hóa này nhằm tìm hiểu 5 ý chính : 1) Hồ Xuân Hương cuộc đời: 2) Hồ Phi Mai hành trạng, những góc khuất và sự thật lịch sử khiến nhiều học giả còn tranh cãi 3) Hồ Xuân Hương tác phẩm: tìm hiểu Lưu Hương Ký do Hồ Xuân Hương tuyển chọn và lưu(theo lời bài Tựa) với Hồ Xuân Hương thơ Nôm truyền tụng một số bài tuyển chọn đặc sắc nhất; 4) Hồ Xuân Hương góc khuất, liên hệ với Kiều 15 năm lưu lạc 5) Lưu Hương Ký Truyện Kiều “Cặp song kiếm hợp bích” là tiếng thơ nhân đạo, khát khao tình yêu cuộc sống và giải phóng con người.
                  Hồ Xuân Hương đời thơ được nghiên cứu liên ngành, hệ thống và so sánh lịch sử, kết nối với Nguyễn Du trăng huyền thoại, Nguyễn Du niên biểu luận, Nguyễn Du Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du tiếng tri âm.

                  Hồ Xuân Hương (1772- 1822) ‘bà chúa thơ Nôm’ là nhà thơ nữ cổ điển Việt Nam.Thơ Hồ Xuân Hương có chất lượng đặc sắc, với giá trị nhân đạo mạnh mẽ đấu tranh nữ quyền và thức tỉnh con người. Thơ bà được biết nhiều không chỉ ở Việt Nam mà còn được dịch và giới thiệu ra hơn 10 quốc gia trên thế giới. Đại gia tộc họ Hồ đã thành lập Ban vận động UNESCO vinh danh nữ sĩ. Ngày 25/4/2016, Ban vận động UNESCO vinh danh Hồ Xuân Hương, đã có văn bản gửi ông Chủ tịch, ông Tổng Thư kí Ủy ban quốc gia UNESCO Việt Nam, đề xuất việc giới thiệu nữ sĩ là ứng viên trình UNESCO vinh danh nhân dịp kỉ niệm 250 năm ngày sinh (1773-2022) và 200 năm ngày mất (1822-2022) của Bà.

                  Nghiên cứu này góp phần tổng luận thông tin và tìm hiểu sáng tỏ các chứng cứ sự thật lịch sử. Tài liệu gồm bảy chuyên mục, xin lần lượt trích đăng thành ba bài để thuận tiện sự góp ý

                  1

                  HỒ XUÂN HƯƠNG CUỘC ĐỜI


                  Wikipedia Tiếng Việt (
                  1), Tiếng Anh (2), Tiếng Pháp (3), Tiếng Trung (4) Tiếng Nga (5) đều đã có giới thiệu tóm tắt Hồ Xuân Hương, qua thông tin Bách Khoa Toàn Thư Mở, đúc kết cập nhật tới ngày 23 tháng 6 năm 2021. Trang thơ Hồ Xuân Hương (6) Thi Viện Đào Trung Kiên tổng luận Hồ Xuân Hương được coi là sự nhận diện phổ biến nhất về bà cho tới thời điểm đã cập nhật: :

                  “Hồ Xuân Hương 胡春香 (1772-1822) là một thi sĩ sống ở giai đoạn cuối thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX, mà hành trạng hiện vẫn khiến nhiều học giả tranh cãi. Di tác của bà hoàn toàn là thơ, trong đó mảng Nôm có nhiều phẩm chất tốt cần sự khảo cứu lâu, nhưng thi sĩ Xuân Diệu đã tôn Hồ Xuân Hương làm Bà chúa thơ Nôm. Hầu hết thi ca Hồ Xuân Hương theo dòng chảy chung đã thoát được các quan niệm sáng tác cố hữu vốn đề cao niêm luật chặt chẽ để bộc lộ được tiếng nói của thời đại mình, có nhiều người cho rằng đặc sắc của thơ bà là “thanh thanh tục tục”.

                  Về hành trạng, không có bất cứ tư liệu cổ điển nào chép về lai lịch và hành trạng của Hồ Xuân Hương, bà chỉ thực sự được hậu thế biết đến qua sách Giai nhân dị mặc 佳人遺墨 của học giả Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến, ấn hành tại Hà Nội năm 1916. Cũng vì cớ đó, việc có hay không một nhân vật tên Hồ Xuân Hương hiện còn là câu hỏi ngỏ. Học giới nhất quán rằng Hồ Xuân Hương sinh vào năm 1772 ở phường Khán Xuân (nay thuộc địa phận công viên Bách Thảo, Hà Nội). Cũng theo Giai nhân dị mặc, bà là ái nữ của sinh đồ Hồ Phi Diễn 胡丕演 (1703-1786), người hương Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, trấn Nghệ An. Còn theo học giả Trần Thanh Mại, thân phụ của Hồ Xuân Hương là ông Hồ Sĩ Danh 胡士名 (1706-1783) cũng người Quỳnh Đôi, là em cùng cha khác mẹ của Kinh Dương hầu Hồ Sĩ Ðống 胡士棟 (1739- 1785). Thân mẫu của Hồ Xuân Hương là bà lẽ Hà thị 何氏 (?-1814) người trấn Hải Dương. Học giả Phạm Trọng Chánh dựa vào tục xướng danh cổ điển và câu tựa “Phi mai xuân sắc nhất kinh thành” 丕梅春色一京成 của Tốn Phong Phan Huy Huân để khẳng định: Hồ Phi Mai 胡丕梅 là nguyên danh, Xuân Hương 春香 là biểu tự và Cổ Nguyệt đường 古月堂 là bút hiệu.

                  Trong thế cuộc xoay vần đầy nhiễu nhương cuối thế kỷ XVIII, Hồ Xuân Hương vẫn được hưởng những năm tháng ấu thơ êm đềm ở một dinh thự lớn tên Cổ Nguyệt đường ven hồ Tây, bấy giờ là chốn phồn hoa đô hội bậc nhất xứ Đàng Ngoài. Sau khi mãn tang cha, mẹ bà tái hôn với người khác. Dù ít phải ràng buộc trong gia giáo nghiêm khắc như mọi nữ lưu cùng thời, Hồ Xuân Hương vẫn hội tụ được tư chất thông minh và hiếu học. Hồ Xuân Hương cũng được cưới gả từ rất sớm như mọi con cái trâm anh thế phiệt bấy giờ, nhưng dẫu qua hai lần đò đều không viên mãn. Ban sơ, bà làm lẽ của một hào phú có biệt hiệu Tổng Cóc. Tổng Cóc vốn là biệt hiệu mà người quen biết đặt cho Chánh tổng Nguyễn Bình Kình, tự Công Hoà. Nguyên quán của ông ở làng Gáp, xã Tứ (nay thuộc huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ). Ông là cháu của quan nghè Nguyễn Quang Thành, bản thân cũng một lần đi thi Hương nhưng không đỗ đạt. Sau Tổng Cóc đăng trình, lên đến chức cai cơ nên thường được gọi là Đội Kình. Tuy chỉ là cai lính nhưng Tổng Cóc vốn thuộc dòng dõi văn nhân, ông rất chuộng ca ngâm và mến luôn cái tài làm thơ của người vợ lẽ. Để chiều lòng bà, Tổng Cóc đã cất một thuỷ tạ rất lớn cho Hồ Xuân Hương ở, vừa tránh phiền lụy với vợ cả vừa thỏa thưởng thi phú. Chung sống với Tổng Cóc được một thời gian khá lâu thì Hồ Xuân Hương dứt áo ra đi với một cái thai. Có thuyết cho rằng, bà bỏ đi sau khi Tổng Cóc đã đột ngột từ trần; nhưng cũng có thuyết cho rằng bà không chịu được điều tiếng dị nghị của vợ con Tổng Cóc và người làng; lại có thuyết nói bản tính phóng đãng khiến Hồ Xuân Hương khó ngồi yên một chỗ, bà trốn đi cùng tình quân là Phạm Viết Ngạn.

                  Kết quả của hôn sự này được cho là một đứa trẻ vắn số. Vào ngày Hồ Xuân Hương trở dạ, Tổng Cóc đến đòi đón con về, nhưng người nhà họ Phạm nói lại là đứa bé đã mất khi vừa lọt lòng. Trong hôn sự lần này, Hồ Xuân Hương làm lẽ của Tú tài Phạm Viết Ngạn, bấy giờ tại nhiệm tri phủ Vĩnh Tường. Nhưng duyên phận chỉ được 27 tháng thì ông phủ Vĩnh Tường tạ thế. Có nhiều thuyết về quãng đời sau đó của Hồ Xuân Hương, như việc bà cưới thêm vài người chồng nữa, việc bà hỏi mượn tiền thi hữu để mở hàng bán giấy bút mực, hoặc giai thoại về các mối tình trăng hoa và văn chương, nhưng mức độ khả tín chưa được xác định rõ ràng. Hồ Xuân Hương được cho là mất vào năm 1822.

                  Còn theo Phạm gia tộc phả và Triệu tông phả, ông phủ Vĩnh Tường tức là Tú tài Phạm Viết Ngạn (khi thăng chức Đồng tri phủ Phân phủ Vĩnh Tường thì cải thành Viết Lập), tên cúng cơm là Đại, tự Thành Phủ. Nguyên quán của ông ở hương Trà Lũ, xã Xuân Trung, phủ Xuân Trường, trấn Sơn Nam Hạ. Các tư liệu này cũng cho biết, Hồ Xuân Hương sinh cho ông một người con tên Phạm Viết Thiệu. Ngoài ra, có nhiều giai thoại truyền khẩu về lối sống phong lưu của nữ sĩ họ Hồ, như việc bà là một hoa nương thanh sắc vẹn toàn, và những mối tình bên thơ rượu với Phạm Đình Hổ, Phạm Thái, Nguyễn Du, Phạm Quý Thích, Nguyễn Hầu, Trần Ngọc Quán, Trần Quang Tĩnh, Phan Huy Huân, Mai Sơn Phủ, Thạch Đình, Cự Đình, Thanh Liên...

                  Văn bản được nhận diện cổ nhất có chép thơ Hồ Xuân Hương là Quốc văn tùng ký 國文話記 do Hải Châu Tử Nguyễn Văn San 阮文珊 (1808-1883) soạn năm Minh Mệnh thứ 14 (1933), nhưng chỉ vài bài. Hầu hết di tác của nữ sĩ họ Hồ được gom trong cuốn Xuân Hương thi tập 春香詩集, Phúc Văn đường tàng bản ấn hành tại Hà Nội năm 1930. Trong sách có khoảng 60 bài nhưng lẫn cả thơ của nhiều tác giả khác, nay chưa truy nguyên được tất cả. Tuy nhiên, văn bản đáng chú ý nhất là Lưu hương ký 琉香記 với bài tựa của Phan Huy Huân, được học giả Trần Thanh Mại phát hiện và công bố trên thi đàn vào năm 1964. Trước đó không lâu, năm 1962, đã có học giả Trần Văn Giáp đăng trên báo Văn nghệ (Hà Nội) 5 thi phẩm chữ Hán được cho là của Hồ Xuân Hương. Nhưng mãi đến năm 1984, học giả Hoàng Xuân Hãn mới dịch nghĩa và đăng trên tập san Khoa học xã hội (Paris), lại đặt nhan đề lần lượt là Độ hoa phong, Hải ốc trù, Nhãn phóng thanh, Trạo ca thanh, Thuỷ vân hương.

                  Thơ Hồ Xuân Hương luôn được trình bày theo phong cách thất ngôn bát cú hoặc thất ngôn tứ tuyệt, bút pháp được nhận định là điêu luyện nhưng phần chữ Nôm nhiều phần đặc sắc hơn chữ Hán. Ý tưởng trong thơ cũng rất táo bạo, dù là điều cấm kị đối với lễ giáo đương thời. Cho nên, Hồ Xuân Hương được xem như hiện tượng kỳ thú của dòng thi ca cổ điển Việt Nam khi tích cực đưa ra cái nhìn đối lập với truyền thống đạo đức, nhưng không vì thế mà tự trở nên suy đồi. Tựu trung, các di tác phần nào cho phép hậu thế thấy thực trạng tang thương ở thời đại bà sống và cả quá trình mục rữa của nhiều lề lối cũ.”

                  Các nhà nghiên cứu Hồ Xuân Hương và những nhà thơ văn Việt Nam và Quốc tế khi dịch và giới thiệu thơ Hồ Xuân Hương ra tiếng nước ngoài phần lớn đều thống nhất với nhận định này (Hoàng Kim nghiên cứu lịch sử văn hóa, đã đối chiếu và đúc kết khảo luận)::

                  Hồ Xuân Hương (胡春香; 1772–1822) là một nhà thơ Việt Nam sinh vào cuối thời Lê. Bà lớn lên trong một thời đại hỗn loạn về chính trị và xã hội,  thời Tây Sơn khởi nghĩa và cuộc nội chiến kéo dài ba thập kỷ dẫn đến việc Nguyễn Ánh lên ngôi làm Hoàng đế Gia Long và bắt đầu triều Nguyễn. Bà làm thơ bằng chữ Nôm, là chữ của người Việt trước khi có chữ Quốc ngữ, phỏng theo chữ Hán, để viết tiếng Việt. Bà được coi là một trong những nhà thơ cổ điển vĩ đại nhất của Việt Nam. Xuân Diệu, một nhà thơ hiện đại lỗi lạc, đã tôn vinh bà là “Bà chúa thơ Nôm”. Nguyễn Thị Ngọc 1996 tại nghiên cứu chuyên sâu “Hồ Xuân Hương và nền văn hóa dân gian Việt Nam”, luận án phó tiến sĩ khoa học ngữ văn, GS Lê Trí Viễn hướng dẫn khoa học, Trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh, đã tổng thuật khá rõ về thơ Nôm Hồ Xuân Hương và nền văn hóa dân gian Việt Nam Sự thật về cuộc đời của bà rất khó xác minh, nhưng điều này được chứng minh rõ ràng: bà sinh ra ở tỉnh Nghệ An gần cuối thời chúa Trịnh, và chuyển đến Hà Nội khi còn là một đứa trẻ. Người ta đoán chắc rằng bà là con gái út của Hồ Phi Diễn. Theo các nhà nghiên cứu đầu tiên về Hồ Xuân Hương như Nguyễn Hữu Tiến, Dương Quảng Hàm thì bà là con gái Hồ Phi Diễn (sinh năm 1704) ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Hồ Phi Diễn đỗ tú tài năm 24 tuổi, dưới triều Lê Bảo Thái. Gia đình nghèo khó, Hồ Phi Diễn phải đi làm gia sư ở Hải Hưng và Hà Bắc để kiếm tiền. Tại nơi đó, ông sống chung với một cô gái quê Bắc Ninh, là người vợ lẽ của ông. Hồ Xuân Hương đã ra đời là kết quả của mối tình đó. Tuy nhiên, theo Trần Thanh Mại trong một bài báo đăng trên Tạp chí Văn học số 10, Hà Nội, năm 1964, cho rằng quê quán của Hồ Xuân Hương giống như đã nói ở trên, nhưng bà là con gái của Hồ Sĩ Danh (1706–1783) là em cùng cha khác mẹ của Kinh Dương hầu Hồ Sĩ Đống tự Long Phủ hiệu Dao Đình, sau đổi tên là Hồ Sĩ Đồng, tự Thông Phủ. Hiệu Trúc Hiên là nhà thơ và đại quan nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. Hồ Xuân Hương trở nên nổi tiếng ở địa phương với việc tạo ra những bài thơ tinh tế và dí dỏm. Người ta tin rằng bà là “hồng nhan đa truân” đã kết hôn ít nhất ba lần vì có ba bài thơ của bà đề cập đến ba người chồng khác nhau: Người chồng thứ nhất là Tống Cóc, chánh tổng Nguyễn Bình Kình, tự Công Hòa, nguyên quán tại làng Gáp, xã Tứ, nay thuộc huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ, là cháu của quan nghè Nguyễn Quang Thành. Bà là vợ ba của Tống Cốc, theo cách gọi của người phương Tây, là một người vợ lẽ, có một vai trò mà bà rõ ràng là không hài lòng (“như người hầu gái / nhưng không được trả công” “Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng/ Chém cha cái kiếp lấy chồng chung / Năm chừng mười hoạ hay chăng chớ,/Một tháng đôi lần có cũng không./ Cố đấm ăn xôi xôi lại hỏng,/Cầm bằng làm mướn mướn không công./Nỗi này ví biết dường này nhỉ,Thời trước thôi đành ở vậy xong ” ).Cuộc hôn nhân này kéo dài không lâu khi Tông Cốc qua đời hoặc Hồ Xuân Hương bỏ đi,với đứa con chết yểu và bài thơ Khóc Tổng Cóc “Chàng Cóc ơi! Chàng Cóc ơi/ Thiếp bén duyên chàng có thế thôi/ Nòng nọc đứt đuôi từ đây nhé/ Nghìn vàng khôn chuộc dấu bôi vôi!” Bí ẩn ngôi nhà cổ của Tổng Cóc và bà chúa thơ Nôm, ngày nay trên bức vách bằng lõi mít, phía bên phải phòng chính ngôi nhà cổ vẫn còn những dòng chữ được cho là của bà Hồ Xuân Hương đã ngẫu hứng “mài mực, đề thơ”. Nội dung dòng chữ: “Thảo lai băng ngọc kính/ Xuân tận hóa công hương”; và “Độc bằng đan quế thượng/ Hảo phóng bích hoa hương”. Cụ Dương Văn Thâm dịch nghĩa bốn câu này như sau: “Tấm gương trong trắng ví như người con gái trong trắng/ Nhưng hết tuổi xuân sắc rồi thì thợ trời cũng chịu (không níu giữ được)/ Chỉ còn biết dựa vào phúc đức, con cháu/ (Thì khi ấy) hương thơm sẽ tỏa đi khắp muôn nơi”. Người chồng thứ hai là Tri phủ Vĩnh Tường “Dân làng Sơn Dương vẫn còn kể chuyện rằng, ông phủ Vĩnh Tường đã đưa cả ngựa xe võng lọng đến đón Hồ Xuân Hương đi” Hồ Xuân Hương làm lẽ của Tú tài Phạm Viết Ngạn, bấy giờ tại nhiệm tri phủ Vĩnh Tường, nhưng duyên phận chỉ được 27 tháng thì ông phủ Vĩnh Tường tạ thế. Ông Phạm Viết Ngạn có tiếng thanh liêm, giản dị. Nhà thơ Hồ Xuân Hương là thiếp của ông. Khi Phạm Viết Ngạn mất tại lỵ sở Vĩnh Tường, nữ sĩ Hồ Xuân Hương đã khóc ông bằng bài thơ thống thiết: Trăm năm quan phủ Vĩnh Tường ôi. Cái nợ ba sinh có thế thôi Chôn chặt văn chương ba tấc đất Ném tung hồ thỉ bốn phương trời Nắm xương dưới đất chau mày khóc Hòn máu trên tay nhoẻn miệng cười Đã thế thì thôi cho mát mẻ Trăm năm quan phủ Vĩnh Tường ôi! Người chồng thứ ba (mức độ khả tín chưa được xác định rõ ràng, theo nghiên cứu của TS Phạm Trọng Chánh)là Trần Phúc Hiển, chồng Hồ Xuân Hương, Tham Hiệp trấn Yên Quảng, bị Án Thủ Dung xui dân tố cáo tham nhũng 700 quan tiền, bị tử hình” Mối tình Hồ Xuân Hương và Hiệp Trấn Sơn Nam Hạ Trần Quang Tĩnh” “Trong Lưu Hương Ký có một bài thơ chữ Hán tuyệt bút của Hồ Xuân Hương, đó là bài thơ Dữ Sơn Nam Hạ Hiệp Trấn Quan Trần Hầu. Bài hoạ của Hồ Xuân Hương nguyên vận Quan Hiệp Trấn Sơn Nam Hạ Trần Quang Tĩnh. “Gặp gỡ bèo mây dưới nguyệt tròn, Ngỗn ngang sầu vọng nói gì hơn. Phượng Cầu ai gảy đàn đưa ý, Chim Khách kêu chi ngõ vắng buồn. Ai chuộc tiếng kèn về Hán khuyết, Lòng ta luống thẹn biệt Hồ môn. Chia tay giữa tiệc tình lưu luyến, Ngây ngát hồn tan mộng Sảnh Nương. Thơ chữ Hán Hồ Xuân Hương Nhất Uyên dịch thơ” Bài thơ dùng điễn tích lạ và tài tình, chỉ dùng ít chữ mà tả được những tâm sự, tình ý uẩn khúc của nàng, đúng như lời khen của Cư Đình: ” Học rộng mà thuần thục, dùng chữ ít mà đầy đủ, từ mới lạ mà đẹp đẽ, thơ đúng phép mà văn hoa, thật là một bậc tài nữ.” Theo Đại Nam Thực Lục kỷ 1 quyển 31 trang 3b.: Trần Quang Tĩnh nguyên làm quan Hiệp Trấn, trấn Bình Định, tháng giêng năm Đinh Hợi (1807), được bổ làm Hiệp Trấn Sơn Nam Hạ vùng Nam Định và Thái Bình ngày nay. Quang Tĩnh ở trấn được hai năm bốn tháng. Tháng 4 năm Kỷ Tỵ (1809), ông cáo bệnh và xin về nghỉ. Có thể rằng ông lên Thăng Long cáo từ quan Tổng Trấn Bắc Thành và nhân đó đến từ biệt Xuân Hương“. Hồ Xuân Hương sống phần còn lại của cuộc đời mình trong một ngôi nhà nhỏ ven Hồ Tây, Hà Nội. Hồ Xuân Hương có những người đến thăm, thường là các bạn thơ, trong đó có hai người được nêu tên cụ thể: Học giả Tôn Phong Thi và một người chỉ được xưng là “Hoàng Tể họ Nguyễn.” Hồ Xuân Hương đã kiếm sống bằng nghề giáo và đã có thể đi du lịch từ khi Hồ Xuân Hương sáng tác những bài thơ về một số địa danh ở miền Bắc Việt Nam. Hồ Xuân Hương là một phụ nữ độc thân trong xã hội theo đạo Khổng, các tác phẩm của Hồ Xuân Hương cho thấy Hồ Xuân Hương có tư duy độc lập và chống lại các chuẩn mực xã hội, thể hiện qua các bài bình luận chính trị xã hội với cách diễn đạt hài hước thẳng thắn về tình dục của Hồ Xuân Hương là “Tất cả những gì cô ấy muốn” (All she wants) theo
                  David Cevet nhà dịch thơ Hồ Xuân Hương nổi tiếng người Anh”
                  2

                  HỒ PHI MAI HÀNH TRẠNG

                  Hồ Xuân Hương tên thật là Hồ Phi Mai (1772 – 1822) là nhà thơ nữ người Việt nổi tiếng được mệnh danh là “bà chúa thơ Nôm”, tác giả của Lưu Hương Ký kiệt tác thơ Hán Nôm và bà cũng được coi là tác giả thơ Hồ Xuân Hương được truyền tụng rất rộng rãi trong dân gian. Hồ Phi Mai là con gái của Hương cống Hồ Sĩ Danh (1706–1783) người là em cùng cha khác mẹ của Hoàng giáp Hồ Sĩ Đống có tước hiệu Kinh Dương hầu là đại quan và nhà thơ của nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. Hồ Sĩ Đống tự Long Phủ hiệu Dao Đình, sau đổi tên là Hồ Sĩ Đồng, tự Thông Phủ, hiệu Trúc Hiên. Hương cống Hồ Sĩ Danh (biểu tự là Phi Diễn?) đỗ tú tài năm 24 tuổi, ra Bắc dạy học,dan díu với bà họ Hà quê Hưng Yên rồi sinh được một con gái là Hồ Phi Mai, sau này là nữ sĩ dạy học tại phường Khán Xuân, huyện Vĩnh Thuận,  Bắc thành Thăng Long, (ngày nay gần vườn Bách Thảo và trụ sở chính của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tại số 2 Ngọc Hà, quận Ba Đình, gần hồ Tây của phường Thụy Khuê, quận Tây Hồ, thủ đô Hà Nội). Hồ Quỳnh gia phả (gia phả họ Hồ ở Quỳnh Lưu, Nghệ An) phả hệ không thừa nhận Hồ Xuân Hương là con ông Hương cống Hồ Sĩ Danh (1706- 1783) vì sau khi ông đỗ Hương cống không ra làm quan, cũng không đi đâu xa khỏi làng nhưng hiện vẫn chưa xác minh được cụ Hồ Sĩ Danh khi là tú tài (sinh đồ) có ra Thăng Long dạy học hay không?.Mặt khác, nữ sĩ Hồ Phi Mai là con ngoài giá thú, và bà Hà không là vợ chính thức trong gia tộc họ Hồ nên hiển nhiên nữ sĩ Hồ Phi Mai không chính danh phận trong gia phả họ Hồ

                  Nữ sĩ Hồ Xuân Hương và Hoàng đế Quang Trung Nguyễn Huệ tức Hồ Thơm là anh em họ đời thứ 12 cùng có chung họ Hồ Quỳnh Đôi là ông tổ 5 đời, và cùng đời thứ 27 của Đức Nguyên tổ Hồ Hưng Dật là dẫn liệu khác có trong tài liệu Hồ Quỳnh gia phả nêu trên Gia phả họ Hồ Quỳnh Đôi chưa chứng minh được nhà Tây Sơn sự xuất thân từ dòng họ trạng nguyên Hồ Hưng Dật vì gia phả dòng họ bị cách quãng 11 đời nhưng rõ ràng Nguyễn Huệ và Hồ Xuân Hương đều đúng là “đồng hương”  họ Hồ Quỳnh Đôi. Cụ
                  Hồ Sĩ Tạo (1841-1907), tự là Tiểu Khê, là một nho sĩ Nghệ An thế kỷ 19 quê làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu đã từng cùng em họ là Cử nhân Hồ Sĩ Tuấn đi tìm họ Hồ, có đến thăm nhà thờ họ Hồ ở Quỳnh Đôi và lưu lại ở đây đôi câu đối: Trâm anh nhất thổ Quỳnh Đôi trụ, Hương hoả thiên thu Cổ Nguyệt đường.

                  Trung chi II họ Hồ Quỳnh Đôi chép rằng: “Theo sử cũ, ông tổ đầu tiên của họ Hồ ở Việt Nam là trạng nguyên Hồ Hưng Dật sống vào thế kỷ thứ 10. Tộc phả bị thất truyền 11 đời (khoảng 300 năm). Đến đời 12 (ông Hồ Liêm) dời ra Thanh Hóa và đời 13 (ông Hồ Kha) ở Nghệ An, tộc phả mới liên tục. Năm 1314, ông Hồ Kha từ Quỳ Trạch (Yên Thành) về Quỳnh Đôi xem địa thế và giao cho con cả là Hồ Hồng ở lại cùng 2 người họ Nguyễn, họ Hoàng khai cơ lập nên làng Quỳnh Đôi còn mình trở lại Quỳ Trạch. Sau này ông Hồ Hồng cùng với 2 ông thủy tổ họ Nguyễn, họ Hoàng được dân suy tôn là Thành Hoàng, rước vào thờ ở đền làng. Ông Hồ Kha và ông Hồ Hồng được coi là thủy tổ họ Hồ ở Quỳnh Đôi, thờ ở nhà thờ lớn họ Hồ. Thế thứ (còn gọi là đời, vai) trong họ được tính từ ông Hồ Hân (con ông Hồ Hồng) trở đi, nghĩa là: ông Hồ Hân là đời thứ nhất. Nếu tính từ đời ông Hồ Hưng Dật thì phải cộng thêm 14 đời nữa. Ông tổ trung chi II là Hồ Khắc Kiệm (đời 3) con Hồ Ước Lễ, cháu Hồ Hân. Cháu đời 8 là Hồ Sĩ Anh (còn gọi là Hồ Thế Anh) sinh năm 1618, mất năm 1684, thi hội trúng tam trường, làm tri huyện Hà Hoa (vùng Kỳ Anh, Hà Tĩnh) tước Diễn Trạch hầu. Hồ Thế Anh sinh Hồ Thế Viêm (đậu Sinh đồ), Hồ Phi Cơ (thi hội đậu tam trường), Hồ Danh Lưu, Hồ Phi Tích (đậu Hoàng giáp, tước quận công), Hồ Phi Đoan. Hồ Thế Viêm sinh Hồ Phi Khang (đời 10). Phi Khang sinh 5 con trai: Hồ Phi Phú, Hồ Phi Thọ, Hồ Phi Trù, Hồ Phi Phúc, Hồ Phi Huống. Hồ Phi Phúc sinh 3 con trai: Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ (đời 12). Nguyễn Nhạc (1743-1793) sinh các con trong đó có Nguyễn Bảo, con Bảo là Nguyễn Đâu. Nguyễn Huệ (1753-1792) sinh các con trai trong đó có Quang Thiệu (Khang công tiết chế); Quang Bàn (Tuyên công, đốc trấn Thanh Hóa); Quang Toản (vua Cảnh Thịnh 1783-1802). Hồ Phi Cơ (đời 9) sinh Hồ Phi Gia (thi hội đậu tam trường). Hồ Phi Gia sinh Hồ Phi Diễn (đậu sinh đồ) và Hồ Phi Lãng (cũng đậu sinh đồ). Hồ Phi Diễn (1703-1786) sinh Hồ Xuân Hương (đời 12, 1772-1822).

                  Theo “Hồ Tông thế phả”: “Trong lịch sử Việt Nam có hai triều đại phong kiến Việt Nam được hình thành từ người mang họ Hồ gốc ở Quỳnh Đôi là: Triều đại nhà Hồ (1400– 1407): với nhân vật Hồ Quý Ly. Triều đại nhà Tây Sơn với Nguyễn Nhạc; Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ.” Bên dưới tài liệu có ghi chú:  Con của Phi Khang là Phi Phú, Phi Thọ, Phi Trù, Phi Phúc, Phi Huống từ Quỳnh Đôi di cư lên Nhân Lý (Nhân Sơn, Quỳnh Hồng ngày nay) rồi một chi chuyển cư vào Thái Lão – Hưng Nguyên, tiếp theo một chi vào trại Tây Sơn – Quy Nhơn.

                  Tại “Bia tưởng niệm Nguyên tổ họ Hồ ở Việt Nam” tại làng Bảo Đội huyện Quỳnh Đôi năm 2005 viết: “Nguyên tổ họ Hồ ở Việt Nam là ngài Hồ Hưng Dật thuộc dòng Bách Việt, sinh tại Vũ Lâm tỉnh Chiết Giang, đậu Trạng nguyên đời Hán An Đế. Ngài sang làm thái thú Châu Diễn, sau đó  từ quan, về làm chủ trại hương Bảo Đột huyện Quỳnh Lưu tỉnh Nghệ An, Ngài đức trọng tài cao giàu lòng nhân nghĩa, để lại cho muôn đời con cháu di huấn: Vạn đại vi dân… Trãi hơn ngàn năm, chừng 40 đời con cháu rãi khắp từ Bắc chí Nam, họ Hồ đã góp sức bảo vệ và xây dựng tổ quốc Việt Nam được quốc sử ghi nhận như: Vua Hồ Quý Ly nhà cải cách lỗi lạc, như vua Quang Trung (Hồ Thơm) thiên tài quân sự, như trạng nguyên Hồ Tông Thốc nhà sử học lớn, như nữ sĩ Hồ Xuân Hương, bà chúa thơ Nôm…”

                  Theo Trung chi II họ Hồ Quỳnh Đôi thì thời Trịnh Nguyễn phân tranh họ Hồ nhà Tây Sơn đời Hồ Phi Phúc đã vào Bình Định khoảng năm 1655 theo quân của chúa Nguyễn  thời vua Lê Thần Tông. Ông cố (cụ nội) của Nguyễn Huệ tên là Hồ Phi Long (vào giúp việc cho nhà họ Đinh ở thôn Bằng Châu, huyện Tuy Viễn, tức An Nhơn) cưới vợ họ Đinh và sinh được một trai tên là Hồ Phi Tiễn. Hồ Phi Tiễn không theo việc nông mà bỏ đi buôn trầu ở ấp Tây Sơn, cưới vợ và định cư tại đó. Vợ của Hồ Phi Tiễn là Nguyễn Thị Đồng, con gái duy nhất của một phú thương đất Phú Lạc, do đó họ đổi họ của con cái mình từ họ Hồ sang họ Nguyễn của mẹ. Người con là Nguyễn Phi Phúc cũng chuyên nghề buôn trầu và làm ăn phát đạt. Cũng có tài liệu cho rằng họ Hồ đã đổi theo họ chúa Nguyễn ngay từ khi mới vào Nam.Nguyễn Phi Phúc có 8 người con, trong đó có ba người con trai: Nguyễn Văn Nhạc, Nguyễn Văn Lữ và Nguyễn Văn Huệ. Nguyễn Nhạc thuở đi buôn trầu nên gọi anh Hai Trầu. Nguyễn Huệ sinh năm 1753. Ông còn có tên là Quang Bình, Văn Huệ hay Hồ Thơm. Sau này, người dân địa phương thường gọi ông là Đức ông Bình hoặc Đức ông Tám. Nguyễn Lữ được gọi là Đức Ông Bảy.

                  3

                  HỒ XUÂN HƯƠNG TÁC PHẨM

                  Ho-Xuân-Hương (1772-1822) trong visa toàn cầu hiện có tất cả 10 thư mục gốc tác giả: 1) Thơ Hồ Xuân Hương 2014, Nhà Xuất Bản (NXB) Văn học Hà Nội, 115 trang; 2) Lưu hương ký 2011,  NXB Arlington (Va.), Tổ hợp xuất bản Miền Đông Hoa Kỳ, Annotateur: Ngọc Bích Nguyễn, Note : Bibliogr. p. 170-176. – Contient également des textes en caractères chinois. – En tête de la page de titre figure : “Hoan-trung Cổ-nguyệt-đường Xuân Hương nữ-sử tập”; 3) Poèmes de Hồ Xuân Hương 2009, NXB Paris,  Éd. Édilivre Aparis, Éditeur scientifique: Vân Hòa, disponible en Haut de Jardin  Note : Texte vietnamien et trad. française en regard, 192 p.; 4) Spring essence, 2000,  (Tinh hoa mùa xuân, trích dịch thơ của Ho-Xuân-Hương 1772-1822), NXB Port Townsend, Copper Canyon press, Traducteur : John Balaban, Note : Poèmes en sino-vietnamien avec en regard leurs traductions en vietnamien et en anglais. – Bibliogr. p. 132-133;  5) All she wants (1987), (Tất cả những gì cô ấy muốn, trích dịch thơ của Ho-Xuân-Hương 1772-1822), NXB London,  Tuba press, Traducteur : David Cevet, disponible en Haut de Jardin, 57 p.; 6) Thơ Hồ Xuân Hương, 1982, NXB Văn học Hà Nội, biên tập và giới thiệu Nguyễn Lộc, 90 trang; 7) L’Œuvre de la poétesse vietnamienne Hồ-Xuân-Hương (1968), (Tác phẩm của nhà thơ Việt Nam Hồ-Xuân-Hương), NXB Paris,  École française d’Extrême-Orient , Traducteur : Maurice Durand (1914-1966), disponible en Haut de Jardin, 193p.; 8) Thơ Xuân Hương. – [1] (1929) (một phần của Kim Vân Kiều), NXB Nhà in Mạc Ðình Tích, Hà Nội, Note : 1929 d’après le dépôt légal Contient de nombreuses publicités de la pharmacie Tù ̛Ngọc Liên, 174p.; 9) Hồ Xuân Huơn̛g thi tập [Fasc. 1] (1925), NXB Văn Minh Ân tụ quán, Hà Nội, Traducteur : Lan Xuân, Abstract : Poèmes de Hồ Xuân Huơn̛g, 24p.; 10) Thi tập, “transcrit en quốc ngữ et publié” … “5e édition” (1923), NXB Văn Minh Ân tụ quán, Hà Nội, Contributeur:  Xuân Lan. Éditeur scientifique https://gallica.bnf.fr/ark:/12148/bpt6k4228676h

                  Trang thơ Hồ Xuân Hương trên Thi Viện Đào Trung Kiên, có tổng số (* tất cả) 154 bài, với nhiều bài rất hay: 1) “Thuật ý kiêm trình hữu nhân Mai Sơn Phủ” là kiệt tác thơ tình yêu của Hồ  Xuân Hương, dạng ca trù hát nói theo làn điệu dân ca ví giặm Nghệ Tĩnh di sản thế giới phi vật thể; 2) “Cảm cựu kiêm trình Cần chánh học sĩ Nguyễn Hầu” là thơ tri âm tri kỹ sâu nặng nghĩa tình bền vững; 3) “Độ Hoa Phong” là bài thơ vịnh Hạ Long tuyệt bút yêu thiên nhiên; 4) Miếu Sầm thái thú (Đề đền Sầm Nghi Đống) là bài thơ cao vọi khí phách đảm lược của một kỳ tài, tầm tư tưởng nhân hậu, tôn vinh phụ nữ và sự bình đẳng giới, khát vọng tự do, giải phóng con người; 5)Thơ Nôm truyền tụng và Lưu Hương Ký với chùm bài “Khóc Tổng Cóc“, “Khấp Vĩnh Tường quan” (khóc ông phủ Vĩnh Tường), Dữ Sơn Nam Thượng Hiệp trấn quan Trần Hầu xướng hoạ là câu chuyên ‘hồng nhan đa truân’ thương tâm của chính Xuân Hương, giải mã ẩn ngữ cuộc đời nữ sĩ; 6) Hồ Xuân Hương Thơ Nôm truyền tụng với Bánh trôi nước; Đánh cờ; Núi Ba Đèo; Núi Kẽm Trống; Cái quạt; thanh tục giữa đời thường, như có như không.

                  Hồ Xuân Hương thư mục cần lưu ý so sánh đối chiếu
                  (*) Theo Thi Viện Trang thơ Hồ Xuân Hương tổng số 154 bài

                  Đề vịnh Hạ Long

                  1. Độ Hoa Phong
                  2. Hải ốc trù
                  3. Nhãn phóng thanh
                  4. Nhập An Bang
                  5. Thuỷ vân hương
                  6. Trạo ca thanh

                  Đồ Sơn bát vịnh

                  1. Đông Sơn thừa lương
                  2. Long tỉnh quá trạc
                  3. Xem tiếp >>

                      Dạy và học 23 tháng 6(22-06-2021)


                    DẠY VÀ HỌC 23 THÁNG 6
                    Hoàng Kim

                    CNM365 Tình yêu cuộc sốngDấu xưa thầy bạn quý; Hồ Xuân Hương đời thơ; Sông Mekong tin nổi bật; Đến với bài thơ hay; Trung Quốc một suy ngẫm; Ngày 23 tháng 6 năm 1988, ngày mất Phạm Huy Thông (sinh năm 1916), nhà thơ, nhà giáo, nhà nghiên cứu sử học và khảo cổ học Việt Nam. Phạm Huy Thông sinh ngày 22 tháng 11 năm 1916 tại Hà Nội trong một gia đình làm nghề kinh doanh lớn, có tinh thần dân tộc Phạm Huy Thông là hậu duệ thế hệ thứ 24 của Phạm Ngũ Lão, và là thế hệ thứ 48 của thượng thủy tổ Phạm Tu. Quê gốc của Phạm Huy Thông ở làng Đào Xá, xã Bãi Sậy, huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên. Ông tiên phong trong phong trào Thơ mới, điển hình là bài Tiếng địch sông Ô. Năm 21 tuổi, ông đỗ cử nhân Luật tại Viện Đại học Đông Dương. Năm 26 tuổi, ông lần lượt thi đỗ Tiến sĩ Luật và Thạc sĩ sử địa tại Pháp. Năm 31 tuổi, ông được phong Giáo sư giữ chức Uỷ viên hội đồng giáo dục tối cao của Pháp .Năm 1946 tại Paris, ông được chọn giúp việc Chủ tịch Hồ Chí Minh và phái đoàn chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa ở hội nghị Fontainebleau. Chính những ngày được gần gũi Hồ Chí Minh ông đã chọn cho mình con đường mà Hồ Chí Minh đang đi. Ông là hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm Hà Nội (1956-1966), Viện trưởng Viện Khảo cổ học (1967-1988), Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại biểu Quốc hội khóa II, III. Ngày 23 tháng 6 năm 1926, kỳ thi chuẩn hóa  SAT đầu tiên của Hoa Kỳ được tổ chức do tổ chức phi lợi nhuận College Board thực hiện, là một bài học quý giáo dục. Ngày 23 tháng 6 năm 1989, Hội nghị toàn thể của Đảng Cộng sản Trung Quốc quyết định bãi chức Tổng bí thư Ủy ban Trung ương đảng của Triệu Tử Dương. Ông là nhân vật lịch sử đến nay không đánh giá tại Trung Quốc. Bài chọn lọc ngày 23 tháng 6: Dấu xưa thầy bạn quý; Hồ Xuân Hương đời thơ; Sông Mekong tin nổi bật; Đến với bài thơ hay; Trung Quốc một suy ngẫm; Đồng xuân lưu dấu hiền; Một niềm tin thắp lửa; Bảy bài học cuộc sống; Nha Trang biển và em; Bài thơ Viên đá Thời gian; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-23-thang-6/

                    Dấu xưa thầy bạn quý
                    IAS ĐƯỜNG TỚI TRĂM NĂM
                    Hoàng Kim

                    Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam đã đúc kết tốt 90 năm nông nghiệp miền Nam lịch sử phát triển (1925-2015) và đang trên đường tới ‘100 năm nông nghiệp Việt Nam’ (1925-2025). Công tác chuẩn bị cho ngày tổng kết và lễ hội quan trọng này này vào năm 2025 đang được chuẩn bị từ hiện nay.

                    90 năm Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam, sự nhìn lại bản tóm tắt nông nghiệp 90 năm (1925-2015) thật khá thú vị: Tác giả Bùi Chí Bửu, Trần Thị Kim Nương, Nguyễn Hồng Vi, Nguyễn Đỗ Hoàng Việt, Nguyễn Hiếu Hạnh, Đinh Thị Lam, Trần Triệu Quân, Võ Minh Thư, Đỗ Thị Nhạn, Lê Thị Ngọc, Trần Duy Việt Cường, Nguyễn Đức Hoàng Lan, Trần Thị Kim Cúc, Nguyễn Thị Kim Thoa, Đinh Thị Hương, Trần Văn Tưởng, Phan Trung Hiếu, Hồ Thị Minh Hợp, Đào Huy Đức* (*Chủ biên chịu trách nhiệm tổng hợp).

                    Khoa học nông nghiệp là một tổng thể của kiến thức thực nghiệm, lý thuyết và thực tế về nông nghiệp, nông dân, nông thôn do các nhà nghiên cứu phát triển với các phương pháp khoa học, trong đó đặc biệt là sự quan sát, giải thích, và dự báo những hiện tượng của nông nghiệp. Việt Nam là đất nước “dĩ nông vi bản”, do đó nông nghiệp của chúng ta gắn liền với lịch sử phát triển của đất nước. Viện đã không ngừng phát triển trong chặng đường lịch sử 90 năm. Viện đã cùng đồng hành với nông dân Việt Nam, người mà lịch sử Việt Nam phải tri ân sâu đậm. Chính họ là lực lựơng đông đảo đã làm cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân thành công; đồng thời đã đóng góp xuất sắc trong thời kỳ đổi mới, xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa, với nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, tạo nên những đột phá liên tục làm tiền đề cho công nghiệp và dịch vụ phát triển như ngày nay. Sự kiện 02 triệu người chết đói năm 1945 luôn nhắc người Việt Nam rằng, không có độc lập dân tộc, không có khoa học công nghệ, sẽ không có ổn định lương thực cho dù ruộng đất phì nhiêu của Đồng bằng Sông Cửu Long có tiềm năng vô cùng to lớn.

                    Lịch sử của Viện cũng là lịch sử của quan hệ hợp tác mật thiết với các tổ chức nông dân, với lãnh đạo địa phương, với các Viện nghiên cứu trực thuộc VAAS và các Trường, Viện khác, với các tổ chức quốc tế. Khoa học nông nghiệp không thể đứng riêng một mình. Khoa học nông nghiệp phải xem xét cẩn thận các yếu tố kinh tế, môi trường, chính trị; trong đó có thị trường, năng lượng sinh học, thương mại hóa toàn cầu. Đặc biệt, nông nghiệp phải nhấn mạnh đến chất lượng nông sản và an toàn lương thực, thực phẩm, khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới.

                    Lịch sử đang đặt ra cho Viện những thách thức mới trong điều kiện Việt Nam hội nhập quốc tế sâu rộng, hàng rào thuế quan được dỡ bỏ, thay vào đó là rào cản kỹ thuật đối với nông sản trên thương trường quốc tế. Thách thức do bùng nổ dân số, thiếu đất nông nghiệp, thiếu tài nguyên nước ngọt, biến đổi khí hậu với diễn biến thời tiết cực đoan, thu nhập nông dân còn thấp là những nhiệm vụ vô cùng khó khăn, nhưng rất vinh quang của Viện, đang mong đợi sự năng động và thông minh của thế hệ trẻ.”

                    Lịch sử của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam được chia là hai phân kỳ : Từ ngày thành lập Viện 1925 đến năm 1975, và từ năm 1975 đến năm 2018.

                    Từ năm 1925 đến năm 1975 những nhân vật lịch sử tiêu biểu của Viện trong thời kỳ này là GS.TS. Auguste Chavalier (1873-1956) Người thành lập Viện Khảo cứu Khoa học Đông Dương, năm 1918;  Yves Henry (1875-1966) Người thành lập Viện Khảo cứu Nông Lâm Đông Dương, năm 1925;  GS. Tôn Thất Trình, GS. Thái Công Tụng, GS. Lương Định Của, … là những người có ảnh hưởng nhiều đến Viện trong giai đoạn này

                    Từ năm 1975 đến năm 2018 Viện trãi qua 5 đời Viện trưởng GS Trần Thế Thông, GS Phạm Văn Biên, GS Bùi Chí Bửu, TS Ngô Quang Vinh và TS Trần Thanh Hùng.  Tôi lưu lại một số bức ảnh tư liệu kỷ niệm một thời của tôi với những sự kiện chính không quên.

                    Viện IAS từ năm 1975 đến năm 2015 là một Viện nông nghiệp lớn đa ngành, duy nhất trong lĩnh vực nông nghiệp ở Việt Nam. Đó là tầm nhìn phù hợp điều kiện thực tế thời đó. Viện có một đội ngũ cán bộ khoa học nông nghiệp hùng hậu, có trình độ chuyên môn cao, thế hệ đầu tiên của giai đoạn hai mươi lăm năm đầu tiên sau ngày Việt Nam thống nhất (1975 – 2000)  gồm các chuyên gia như:  Giáo sư Trần Thế Thông, Giáo sư Vũ Công Hậu, Giáo sư Lê Văn Căn, Giáo sư Mai Văn Quyền, Giáo sư Trương Công Tín, Giáo sư Dương Hồng Hiên, Giáo sư Phạm Văn Biên, … là những đầu đàn trong khoa học nông nghiệp.

                    Viện có sự cộng tác của nhiều chuyên gia lỗi lạc quốc tế đã đến làm việc ở Viện như: GSTS. Norman Bourlaug (CIMMYT), GS.TS. Kazuo Kawano, TS. Reinhardt Howeler, GS.TS. Hernan Ceballos, TS. Rod Lefroy, (CIAT),  GS.TS. Peter Vanderzaag, TS. Enrique Chujoy, TS. Il Gin Mok, TS. Zhang Dapheng (CIP), GS.TS. Wiliam Dar, TS. Gowda (ICRISAT), GSTS.  V. R. Carangal (IRRI), TS. Magdalena Buresova , GSTS. Pavel Popisil (Tiệp), VIR, AVRDC,  …

                    Thật đáng tự hào về một khối trí tuệ lớn những cánh chim đầu đàn nêu trên. Chúng ta còn nợ những chuyên khảo sâu các đúc kết trầm tích lịch sử, văn hóa, sinh học  của vùng đất này để đáp ứng tốt hơn cho các vấn đề nông dân, nông nghiệp, nông thôn, đời sống và  an sinh xã hộiđể vận dụng soi tỏ “Niên biểu lịch sử Việt Nam“, ” 500 năm Nông nghiệp Việt Nam”, “90 năm Nông nghiệp miền Nam” “Trăm năm nông nghiệp Việt Nam (1925-2025)” nhằm tìm thấy trong góc khuất lịch sử  dòng chủ lưu tiến hóa của nông nghiệp, giáo dục, văn hóa Việt Nam.

                    Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam (IAS) từ cuối năm 2015 đến đầu năm 2025 đang chuyển đổi mạnh mẽ trong xu thế hội nhập và phát triển. Viện cấu trúc hài hòa các Bộ môn Bảo vệ Thực vật; Công nghệ Sinh học; Chọn tạo giống cây trồng; Nông học; Cây Công Nghiệp. Viện IAS vừa xử lý tốt các vấn đền đề vùng miền vừa đáp ứng tốt những đề tài trọng điểm quốc gia theo chuỗi giá trị hàng hóa chuyên cây, chuyên con và tổng hợp quốc gia mà Viện có thế mạnh như Điều, Sắn, Cây Lương thực Rau Hoa Quả, Nông nghiệp hữu cơ, Nông nghiệp đô thị, Đào tạo và huấn luyện nguồn lực, xây dựng phòng hợp tác nghiên cứu chung và trao đổi chuyên gia quốc tế … trong cấu thành chỉnh thể Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam.

                    THÍCH NGHI ĐỂ TỒN TẠI

                    Đôi mắt Darwin soi thấu nguồn gốc các loài. Thăm ngôi nhà cũ của Darwin, tìm đến tư duy mạch lạc của một trí tuệ lớn “Darwin thích nghi để tồn tại” để vận dụng soi tỏ “Niên biểu lịch sử Việt Nam“, ” 500 năm Nông nghiệp Việt Nam”, “90 năm Nông nghiệp miền Nam” “IAS đường tới trăm năm” (1925 -2025); nhằm tìm trong sự rối loạn và góc khuất lịch sử dòng chủ lưu tiến hóa, chấn hưng văn hóa, giáo dục và nông nghiệp Việt.

                    THĂM NGÔI NHÀ CŨ DARWIN

                    Down House  là ngôi nhà cũ của nhà tự nhiên học người Anh Charles Darwin (12 tháng 2, 1809 – 9 tháng 4, 1882) và gia đình ông. Nơi đây Darwin đã làm việc về thuyết tiến hóa bởi chọn lọc tự nhiên và nhiều thí nghiệm khác. “Nguồn gốc các loài” của Charles Darwin xuất bản lần đầu tiên ngày 24 tháng 11 năm 1859 là ấn phẩm khoa học tiêu biểu và là tác phẩm nòng cốt của ngành sinh học tiến hóa, chứng minh rằng mọi loài đều tiến hóa theo thời gian từ những tổ tiên chung qua quá trình chọn lọc tự nhiên. Hiện nay học thuyết tiến hóa của Darwin đang được tôn vinh và phê phán dữ dội. Vượt qua mọi khen chê của nhân loại và thời đại biến đổi, triết lý của Charles Darwin thật sâu sắc. “Mọi loài đều tiến hóa theo thời gian từ những tổ tiên chung qua quá trình chọn lọc tự nhiên“, “thích nghi để tồn tại” bài học tình yêu cuộc sống đắt giá của tự nhiên, chính mỗi người, cộng đồng dân tộc và nhân loại.

                    THÍCH NGHI TRIẾT LÝ VÀNG

                    “Kẻ sống sót không phải là kẻ mạnh nhất hay thông minh nhất, mà là kẻ thích nghi tốt nhất” Charles Darwin đã nói vậy: “It is not the strongest of the species that survives, nor the most intelligent that survives. It is the one that is most adaptable to change” Bảo tồn và phát triển bền vững, thích nghi để tồn tại là câu chuyện lớn của mỗi người và nhân loại, là lời nhắc của quá khứ hiện tại và tương lai cho nhân loại và chính cộng đồng người dân Việt Nam để không bao giờ được phép quên lãng. Thích nghi để tồn tại mới là người THẮNG sau cùng. Cân bằng hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế, bảo vệ môi trường, tiến bộ và công bằng an sinh xã hội, giữ vững độc lập thống nhất chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia là những vấn đề trọng yếu trong chính sách kinh tế xã hội tự nhiên và an sinh..

                    Tôi được may mắn có một thời gian cùng làm việc với Những người bạn Nga của Viện Vavilop”. Tôi từng đươc may mắn có thời du học Tiệp Khắc ở “Viện Di truyền Mendel”, Praha Goethe và lâu đài cổ, Tiệp Khắc kỷ niệm một thời, Giấc mơ thiêng cùng Goethe; được tới nhiều vùng văn hóa nổi tiếng khắp năm châu Châu Mỹ chuyện không quên; Nhớ châu Phi; Di sản Walter Scott bút hơn gươm; Nhớ ‘Nghị lực’ thơ ngày tháng cũ; Học để làm ở Ấn Độ, 500 năm nông nghiệp Brazil,  các trang vàng của những người thầy lớn, có tầm nhìn xa rộng, sức khái quát cao và tài năng khoa học phi thường. Tôi vì giới hạn nên nhiều điều chưa kịp chép lại và chiêm nghiệm, Nay bất chợt gặp lại chùm ảnh tư liệu cũ “một thời để nhớ”  Thăm ngôi nhà cũ của Darwin, bỗng bâng khuâng ngắm nhìn đôi mắt Darwin soi thấu nguồn gốc muôn loài, ngưỡng mộ sức khái quát trong đúc kết “Nguồn gốc các loài” của ông.Thật thú vị khi được trãi nghiệm một phần đời mình gắn bó máu thịt với 90 năm Viện KHKTNN miền Nam; 60 năm Đại học Nông Lâm TP. HCM 

                    DẤU XƯA THẦY BẠN QUÝ

                    Hình ảnh này chưa có thuộc tính alt; tên tệp của nó là ngovietnam-va-nhung-nguoi-thay-4-easup.jpg

                    GIỐNG NGÔ LAI ĐƠN VN25-99
                    Hoàng Kim

                    Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam đã xây dựng kỷ yếu khoa học giai đoạn 1975- 2015. Các công trình nghiên cứu cây ngô và cây đậu đỗ tiêu biểu và hiệu quả của Viện đã được tổng kết tóm tắt trong kỷ yếu này tại các trang từ trang 29 đến trang 86. Kết quả chọn tạo và phát triển giống ngô lai đơn VN25-99 (1997-1999), La Đức Vực, Phạm Văn Ngọc, Hoàng Kim, Nguyễn Văn Khoan và Nguyễn Văn Long. Thông tin trích từ kỷ yếu, như sau

                    Đề tài thực hiện thuộc nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp ngành “Nghiên cứu phát triển cây trồng cạn thích hợp cho vùng Đông Nam Bộ, Tây Nguyên và Duyên hải miền Trung” (1997- 1999) . Mục tiêu nghiên cứu chọn tạo giống ngô lai đơn có năng suất cao, thời gian sinh trưởng sớm hơn giống ngô lai đơn DK888, chất lượng hạt tốt, ít nhiễm bệnh đốm lá và khô vằn, dạng cây đẹp, lá xanh đậm, thích hợp với hệ thống canh tác vùng Đông Nam Bộ. Giống ngô lai đơn VN25-99 do Trung tâm Nghiên cứu Thực nghiệm Nông nghiệp Hưng Lộc lai tạo ra từ tổ hợp lai JL11 x MV292. Giống đã được Bộ Nông nghiệp và PTNT công nhân giống quốc gia năm 2004 theo quyết định số 2432 QĐ/BNN-KHCN ngày 17 tháng 8 năm 2004;

                    Giống VN25-99 có đặc điểm:
                    – Thời gian sinh trưởng ở phía Nam từ 93-98 ngày.
                    – Cây sinh trưởng nhanh, cứng cây, ít đổ ngã, bộ lá gọn, độ đồng đều cao, lá xanh lâu tàn.
                    – Nhiễm nhẹ bệnh cháy lá và bệnh khô vằn; có 18-19 lá; chiều dài bắp 18-20 cm; đường kính bắp 4,5-5,0 cm; trái to, đều, hạt dạng đá, màu vàng cam đẹp.
                    – Năng suất hạt khô đạt từ 6,5-7,0 tấn/ha, thâm canh tốt có thể đạt 7,5-8,0 tấn/ha, vụ Đông Xuân đạt 10-12 tấn/ha;
                    – Giống ngô lai đơn VN25-99 có khả năng thích ứng rộng, phù hợp với cơ cấu mùa vụ ở các tỉnh phía Nam.

                    Bài viết này ghi thêm DẤU XƯA VÀ BẠN QUÝ chuyện đời không nỡ quên.

                    Trung tâm Nghiên cứu Thực nghiệm Nông nghiệp Hưng Lộc thuộc Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam là điểm sáng nghiên cứu và phát triển cây màu (ngô, khoai, sắn) và cây đậu đỗ cho các tỉnh phía Nam trong nửa thế kỷ nay kể từ sau ngày Việt Nam thống nhất . . Trung tâm Nghiên cứu Thực nghiệm Nông nghiệp Hưng Lôc ngày nay vẫn là một địa chỉ xanh tin cậy và uy tín trong việc chọn tạo giống sắn ngô khoai đậu đỗ và xây dựng mô hình quy trình kỹ thuật canh tác thích hợp bền vững cho các tỉnh phía Nam, trọng điểm vùng Đông Nam Bộ

                    Thầy Trần Hồng Uy, thuở thầy làm Viện trưởng Viện Nghiên cứu Ngô thường vào với chúng tôi. Thầy đã nói lời chân tình thật xúc động “Các cậu là gương sáng lao động thực tiễn mà tôi là anh hùng lao động lưu danh” khi Thầy làm phản biện chính đánh giá xuất sắc giống ngô lai VN25-99, sau đó Thầy đã trở về trao cho Trung tâm Nghiên cứu Thực nghiệm Nông nghiệp Hưng Lộc chúng tôi bức tranh sơn mài quý giá, kỷ niệm ngày vui của Thầy với sự chứng kiến của lãnh đạo địa phương.

                    Hình ảnh này chưa có thuộc tính alt; tên tệp của nó là nho-thay-uy-ngo-lai-viet-nam.jpg

                    Đường tới IAS 100 năm (1025-2025) chúng tôi biết ơn những gương sáng tri thức và tấm lòng của những thầy bạn lớn nhà nông từ nhiều nơi khác nhau đã đến chung sức với Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam làm nên những thành tựu quý giá cho sản xuất nông nghiệp. Giáo sư Trần Hồng Uy là một người thân thiết trong số đó. Hình ảnh giáo sư Trần Hồng Uy trở về thăm và tặng quà Trung tâm Nghiên cứu Thực nghiệm Nông nghiệp Hưng Lộc, với sự chứng kiến của lãnh đạo địa phương nhân dịp Thầy được tặng danh hiệu anh hùng lao động, thao thức trong lòng tôi.

                    Giáo sư Trần Hồng Uy với Trung tâm Hưng Lộc có nhiều chi tiết đời thường thật cảm động. Thầy lột đồng hồ đeo tay trao tặng cho anh Tiến lái xe của Trung tâm Hưng Lộc để biết ơn những ngày vất vả đã cùng thầy lội ruộng (Chiếc đồng hồ này thầy vẫn thường đeo, và có mặt trong tấm ảnh này), Thầy nhiều lần xuống thăm nhà riêng bạn cũ là Nguyễn Khang và gia đình chúng tôi, những đàn em mà ông quý. Ông Nguyễn Khang trước là cán bộ lái máy gieo trồng chăm sóc thu hoạch ngô rất giỏi của Trung tâm Nghiên cứu Ngô Sông Bôi của Thầy sau này là phó giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Thực nghiệm Nông nghiệp Hưng Lộc; Thầy ngủ tại nhà khách đơn sơ của Viện nhiều lần đi điểm mà khi ít ngủ khách sạn Thầy chơi thân với anh Vực, anh Định, chị Rịnh, cùng nhiều anh chị em làm ngô ở Hưng Lộc và Viện, rất hòa đồng với anh em bảo vệ lái xe và nhân viên hành chính trực phòng, dọn vệ sinh. Chúng tôi ở Hưng Lộc biết ơn thầy Uy khi thầy đã chia sẻ phần kinh phí ít ỏi của đề tài cây màu mà thầy làm chủ nhiệm để khoai sắn những khi khó khăn được nương bóng thầy vui đồng hành đồng tác giả “Chọn tạo và phát triển giống sắn KM98-1”. Thầy tham gia phần lớn các hội thảo quốc tế, quốc gia về cây có củ. Tôi nhớ như in cái xiết tay cảm thông và những lời an ủi động viên của Thầy khi giống sắn KM98-5, KM140 đã có quyết định rồi của tỉnh Tây Ninh, Đồng Nai công nhận sản xuất thử và cho phép sản xuất đại trà trong tỉnh nhưng lại chậm được thủ tục công nhận khác. Cây khoai lang cũng vậy, thầy Uy, thầy Quyền, thầy Tình, thầy Minh, thầy Bửu,… đều khuyến khích chúng tôi nghiên cứu chọn giống đừng buông bỏ trước khó khăn, trong khi việc đúc kết của Viện đôi khi lại xuýt quên khoai (!). Nhờ những nổ lực và góc nhìn bao dung, những lời khuyên ấm áp chân thành của những bạn thầy mà chúng ta có được những giống khoai lang ngon Hoàng Long, HL4, Chiêm Dâu, Khoai Gạo , khoai Bí Đá Lạt, HL518 Nhật đỏ, HL491 Nhật tím . Tôi thật tâm đắc với bài thơ “Chung sứctrên đường xuân” “Ngô khoai chẳng phụ dày công Viện” Nguyên văn bài thơ dưới đây có bóng dáng nhiều người thầy ngô Việt Nam, mà nổi bật là thầy Uy và thầy Tình.

                    Cựu Phó Thủ tướng Nguyễn Công Tạn là nhà quản lý hàng đầu trong ngành nông nghiệp. sinh thời rất quan tâm cây ngô và có những chuyến thăm đồng với giáo sư Trần Hồng Uy. Những người thầy ngô lai Việt Nam lĩnh vực chuyển giao tiến bộ kỹ thuật nông nghiệp cây ngô, nghiên cứu khoa học kỹ thuật cây ngô, đào tạo đội ngũ chuyên sâu cây ngô, tiêu biểu nhất nửa thế kỷ qua là giáo sư Trần Hồng Uy, giáo sư Ngô Hữu Tình, giáo sư Trần Văn Minh, phó giáo sư Trương Đích, . Đó là ba chuyên gia ngô lai Việt Nam hàng đầu, các thầy bạn nhà nông thật thân thiết. Giáo sư Trần Hồng Uy là cánh chim đầu đàn trong số đó.

                    Ngô Việt Nam là cây lương thực quan trọng thứ hai sau lúa, có diện tích canh tác hàng năm hiện đạt khoảng 1,15 triệu ha, năng suất bình quân 4,55 tấn/ha, sản lượng 5,24 triệu tấn (Tổng cục Thống kê 2017). Sản phẩm ngô Việt Nam chủ yếu dùng cho chăn nuôi, nay dùng làm thực phẩm cho người hơn 5%. Cuộc cách mạng về giống ngô lai Việt Nam đã góp phần tăng nhanh diện tích, năng suất và sản lượng ngô trong toàn quốc, đưa nước ta đứng vào hàng ngũ những nước trồng ngô lai tiên tiến của vùng châu Á. So với năm 1985 trước đổi mới, ngô Việt Nam lúc ấy có diện tích 397 ngàn ha, năng suất bình quân 1,47 tấn/ha, sản lượng 0,37 triệu tấn thì đến nay ngô Việt Nam ngày nay đã đạt một bước tiến vượt bậc gấp 3 lần về năng suất và 14 lần về sản lượng. Mặc dù, sản lượng ngô hiện nay vẫn chưa đủ cung cấp cho ngành chăn nuôi của cả nước, Việt Nam mỗi năm vẫn phải nhập khoảng 1,60 – 2,00 triệu tấn ngô hạt để làm thức ăn chăn nuôi, nhưng Việt Nam đã cùng Thái Lan và Trung Quốc nằm tốp đầu những quốc gia trồng ngô tiên tiến ở châu Á. Trong thành tựu ấy, có công đóng góp hiệu quả của giáo sư Trần Hồng Uy ở chặng đường đầu.

                    Hình ảnh này chưa có thuộc tính alt; tên tệp của nó là la-duc-vuc-ngo-huu-tinh.jpg

                    Giáo sư Trần Hồng Uy, giáo sư Ngô Hữu Tình (ảnh), giáo sư Trần Văn Minh, PGS.TS Trương Đích, TS Lê Quý Kha là những gương sáng tiêu biểu về cây ngô Việt Nam mà tôi từng biết, Chúng ta kính trọng những người Thầy thực sự là con người của thực tiễn, của hành động, thật sâu sát thực tiễn, nâng đỡ và đánh giá cao những kết quả tốt nổi bật phục vụ sản xuất..

                    Giáo sư Tiến sĩ Khoa học Trần Hồng Uy nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu ngô Việt Nam Thầy được trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Khoa học Công nghệ trong lĩnh vực Nông nghiệp vào năm 2000 với công trình nghiên cứu tạo giống ngô lai ở Việt Nam. GS.TSKH Trần Hồng Uy sinh ngày 2/2/1938 tại thôn Hương Gián, xã Thái Sơn, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang. Thủa thiếu thời GS đã có những hoài bão phục vụ nông nghiệp nước nhà…Lớn lên thầy dành trọn đời mình cho sự nghiên cứu bảo tồn và phát triển cây ngô Việt Nam với thành tựu nổi bật là Ngô lai Việt Nam, Ngô đông Việt Nam, Ngô chất lượng cao. TS. Bùi Mạnh Cường Viện trưởng Viện Nghiên cứu Ngô với bài viết “GS.TSKH Trần Hồng Uy cây đại thụ của ngành ngô Việt Nam” trên báo Nông nghiệp Việt Nam đã đúc kết các bài học kinh nghiệm sâu lắng: ”Ngoài truyền bá kiến thức mới cho người dân, gần gũi với nông dân, giải quyết những vấn đề mới phát sinh trong sản xuất ngô, GS Trần Hồng Uy còn đào tạo đội ngũ cán bộ có trình độ cao, uyên thâm về kiến thức chọn tạo, đó là các tiến sỹ, thạc sỹ, công nhân kỹ thuật đủ sức gánh vác nhiệm vụ nặng nề của Viện trong những năm vừa qua. Nhiều học trò của Thầy đã trưởng thành, giữ các trọng trách cao của Viện, các Sở, Ban ngành của các địa phương. Trong cuộc sống thầy sống giản dị, chân thành, giàu lòng nhân ái, thường xuyên truyền đạt những kiến thức mới, bác học, với phương châm phải lấy thực tiễn là thước đo để đánh giá hiệu quả trong công tác nghiên cứu khoa học, phương châm ấy đã trở thành qui luật bất biến của Viện. Nhưng điều lớn lao hơn mà giáo sư đã để lại cho hậu thế là một kho kiến thức về cuộc sống, tác phong sinh hoạt, tư duy khoa học, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm”.

                    Hình ảnh này chưa có thuộc tính alt; tên tệp của nó là gsngohuutinh-va-ngo-lai.jpg
                    Giáo sư Ngô Hữu Tình đánh giá phản biện giống ngô tốt VN112 của Trung tâm Hưng Lộc chọn tạo.

                    Trung tâm Nghiên cứu Thực nghiệm Nông nghiệp Hưng Lộc với công trình nghiên cứu chọn tạo giống ngô lai VN25-99, VN112 và mô hình trồng ngô lai xen đậu xanh, đậu nành, lạc, đầu rồng với sắn, phù hợp vụ trồng và điều kiện sinh thái, đã đồng hành với các giống ngô lai xuất sắc của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam vang bóng một thời. Viện IAS chúng ta có sự chung sức của giáo sư Trần Hồng Uy, giáo sư Ngô Hữu Tình cùng nghiên cứu đánh giá giống ngô và các mô hình hệ thống canh tác ngô. Sự hợp tác bền bỉ bao năm đã lưu lại ấn tượng sâu sắc trong lòng chúng tôi mãi không bao giờ quên. xem tiếp Chuyện thầy Trần Hồng Uy

                    CHUNG SỨC TRÊN ĐƯỜNG XUÂN
                    Hoàng Kim

                    1

                    Thầy bạn nhà nông mến dặm đường
                    Tình yêu cuộc sống đức lưu hương
                    Trình, Đào thanh thản nương thời vận
                    , Nguyễnthung dung nhẹ đoạn trường
                    Lúa sắn ngô khoai yêu khoa học
                    Mai lan cúc trúc thú văn chương
                    Tâm bình minh triết thành công quả
                    An vui trí sáng đức muôn phương.

                    2

                    Chung sức bao năm một chặng đường
                    Cuộc đời nhìn lại phúc lưu hương
                    Ngô khoai chẳng phụ dày công Viện
                    Lúa sắn chuyên tâm mến nghĩa Trường
                    Dạy học tinh hoa giàu trí tuệ
                    Chuyển giao chuyên nghiệp khiếu văn chương
                    Người chọn vãng sanh vui một cõi
                    Ai theo cực lạc đức muôn phương

                    xem tiếp
                    Chung sức trên đường xuân

                    Soi mình trong gương không bằng soi mình trong lòng người.
                    Năm tháng đi qua chỉ tình yêu ở lại.

                    TS Lê Quý Kha (thứ hai phải qua) và nghiên cứu sinh với quý thầy cô Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam , Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ chí Minh

                    CHUYỆN THẦY LÊ QUÝ KHA
                    Hoàng Kim

                    Tiến sĩ Lê Quý Kha là cựu Phó Viện Trưởng Viện Khoa học Kỷ thuật Nông nghiệp Miền Nam, chuyên gia ngô, thầy và bạn nhà nông, người có nhiều đóng góp tốt cho nghề trồng ngô Việt Nam. Thông tin dưới đây là giới thiệu sách và tư vấn học tập

                    Ngô Việt Nam là cây lương thực quan trọng thứ hai sau lúa, có diện tích canh tác hàng năm hiện đạt khoảng 1,15 triệu ha, năng suất bình quân 4,55 tấn/ha, sản lượng 5,24 triệu tấn (Tổng cục Thống kê 2017). Sản phẩm ngô Việt Nam chủ yếu dùng cho chăn nuôi, nay dùng làm thực phẩm cho người hơn 5%. Cuộc cách mạng về giống ngô lai Việt Nam đã góp phần tăng nhanh diện tích, năng suất và sản lượng ngô trong toàn quốc, đưa nước ta đứng vào hàng ngũ những nước trồng ngô lai tiên tiến của vùng châu Á. So với năm 1985 trước đổi mới, ngô Việt Nam lúc ấy có diện tích 397 ngàn ha, năng suất bình quân 1,47 tấn/ha, sản lượng 0,37 triệu tấn thì đến nay ngô Việt Nam đã đạt một bước tiến vượt bậc, gấp 3 lần về năng suất và 14 lần về sản lượng. Mặc dù vậy, sản lượng ngô hiện nay vẫn chưa đủ cung cấp cho ngành chăn nuôi của cả nước, Việt Nam mỗi năm vẫn phải nhập khoảng 1,60 – 2,00 triệu tấn ngô hạt để làm thức ăn chăn nuôi, nhưng Việt Nam đã cùng Thái Lan và Trung Quốc nằm tốp đầu trồng ngô tiên tiến của châu Á. Trong thành tựu ấy, có công đóng góp hiệu quả của giáo sư Trần Hồng Uy, giáo sư Ngô Hữu Tình, giáo sư Trần Văn Minh, tiến sĩ Phạm Đồng Quảng, phó giáo sư Trương Đích, tiến sĩ Mai Xuân Triệu, tiến sĩ Bùi Mạnh Cường, tiến sĩ Phan Xuân Hào,Tiến sĩ Lê Quý Kha Tiến sĩ Lê Quý Tường, thầy Luyện Hữu Chỉ, thầy Võ Đình Long, thầy Đỗ Hữu Quốc, tiến sĩ Trần Kim Định, tiến sĩ Trần Thị Dạ Thảo, tiến sĩ Nguyễn Phương, kỹ sư Phạm Thị Rịnh, kỹ sư La Đức Vực, kỹ sư Phạm Văn Ngọc … là những chuyên gia chính của nghề ngô Việt Nam nhiều kinh nghiệm thực tiển với nhiều công sức đào tạo bồi dưỡng đội ngũ hiệu quả cho nguồn lực nghề trồng ngô Việt Nam trong chặng đường đầu 45 năm qua.,

                    Trang sách ngô Việt của tiến sĩ Lê Quý Kha là những cẩm nang nghề nghiệp, tiêu biểu gồm: 1) TS Lê Quý Kha, TS Lê Quý Tường 2019. NGÔ SINH KHỐI Kỹ thuật canh tác, thu hoạch và chế biến phục vụ chăn nuôi. Nhà Xuất bản Nông nghiệp ISBN 978-606-60- 2930-4 2) CIMMYT & IBPGR – Rome, 1991 Biên dịch Lê Quý Kha 2013. Hướng dẫn mô tả nguyên liệu ngô. Nhà Xuất bản Khoa học và Kỹ thuật. 3) Lê Quý Kha (Chủ biên) 2013. Hướng dẫn khảo sát, so sánh và khảo nghiệm giống ngô lai. Nhà xuất bản khoa học và kỹ thuật . Sách cẩm nang nghề nghiệp cây Ngô. Tài liệu Học tập CÂY LƯƠNG THỰC Đại học Nông Lâm TP Hồ Chí Minh Nhà sách Việt Nam, FoodCrops.vn, CÂY LƯƠNG THỰC VIỆT NAM, Hoàng Long , Hoàng Kim tuyển chọn và giới thiệu www.nhasachvietnam.blogspot.com

                    TS. Lê Quý Kha (bìa trái) với thầy bạn Đại học Nông Lâm Hồ Chí Minh

                     

                     

                    CÓ MỘT NGÀY NHƯ THẾ
                    Hoàng Kim

                    chúc mừng Lê Quý Kha

                    Có một ngày như thế.
                    Vui em nay thành công.
                    Nụ cười tươi rạng rỡ.
                    Ngày mỗi ngày trưởng thành.

                    Phúc hậu và thực việc
                    Tận tụy với nghề nông
                    Thân thiết tình thầy bạn
                    Chăm chút từng trang văn.


                    xem tiếp
                    Chuyện thầy Lê Quý Kha và chuyên mục Dấu xưa thầy bạn quý

                    VIỆN IAS TRONG LÒNG TÔI
                    MXem tiếp >>

                      Dạy và học 22 tháng 6(22-06-2021)


                    DẠY VÀ HỌC 22 THÁNG 6
                    Hoàng Kim

                    CNM365 Tình yêu cuộc sốngĐồng xuân lưu dấu hiền; Một niềm tin thắp lửa; Bảy bài học cuộc sống; Nha Trang biển và em; Trung Quốc một suy ngẫm; Bài thơ Viên đá Thời gian; Ngày 22 tháng 6 năm 1970, ngày mất Đặng Thùy Trâm, bác sĩ, liệt sĩ Việt Nam (sinh năm 1942 ở Hà Nội, tượng Đặng Thùy Trâm tại Đức Phổ). Ngày 22 tháng 6 năm 1941, Chiến tranh thế giới thứ hai: khởi đầu Chiến dịch Barbarossa, chiến dịch đẫm máu nhất trong lịch sử thế giới;  Đức Quốc Xã tấn công trên toàn bộ tuyến biên giới phía Tây của Liên Xô. Ngày 22 tháng 6 năm 1944, Chiến tranh thế giới thứ hai: Hồng quân Liên Xô khai hỏa Chiến dịch Bagration tại Byelorussia, sớm hơn một ngày theo lệnh của Stalin. Chiến dịch này được xem là chiến thắng vĩ đại nhất của Hồng quân Liên Xô trong cả cuộc chiến. Bài chọn lọc ngày 22 tháng 6: Đồng xuân lưu dấu hiền; Một niềm tin thắp lửa; Bảy bài học cuộc sống; Nha Trang biển và em; Trung Quốc một suy ngẫm; Bài thơ Viên đá Thời gian; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlong https://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-22-thang-6/

                    ĐỒNG XUÂN LƯU DẤU HIỀN
                    Hoàng Kim


                    Một vùng đất thiêng cổ tích
                    Tùng Châu, Châu Đức, Đồng Xuân
                    Một giấc mơ lành hạnh phúc
                    Lời thương thăm thẳm giữa lòng.

                    Dấu cũ hiền tài lắng đọng
                    Dòng sông thế núi không quên
                    Chuyện “
                    Đào Duy Từ còn mãi
                    Đời “
                    Châu Văn Tiếp Phú Yên

                    Đồng Xuân, Tùng Châu, Châu Đức
                    Sắn biếc lúa xanh tâm hồn
                    Thương núi Lương Sơn tá quốc
                    Nhớ
                    sông Kỳ Lộ Phú Yên

                     

                     

                    2

                    Thân thiết thương người hiền cũ
                    Tháng năm nhanh thật là nhanh
                    Tùng Châu, Hoài Nhơn, Phụng Dụ
                    Dừa xanh, sắn biếc tâm hồn

                    Cứ nhớ thương thầm dấu cũ
                    Dòng đời đâu dễ nguôi quên
                    Chuyên “
                    Đào Duy Từ còn mãi
                    Đồng xuân lưu dấu người hiền

                    Một giấc mơ lành hạnh phúc
                    Tùng Châu, Châu Đức, Đồng Xuân
                    Một góc vườn thiêng cổ tích
                    Lời thương thăm thẳm giữa lòng

                     

                     

                    VIẾNG MỘ ĐÀO DUY TỪ

                    Đời trãi năm trăm năm
                    Thương người hiền một thuở
                    Hậu sinh về chốn cũ
                    Thăm vườn thiêng thiên thu.

                    Ngược gió đi không nản
                    Rừng thông tuyết phủ dày
                    Ngọa Long cương đâu nhỉ?
                    Đầy trời hoa tuyết bay

                    Lồng lộng vầng trăng rằm
                    Một vườn thiêng cổ tích
                    Người là ngọc cho đời
                    Tháng năm còn nhớ mãi.

                    Hoàng Kim về dâng hương Đào Duy Từ ở đất Tùng Châu xưa. Tôi vượt đường xa lặng lẽ về chốn xưa lần đi trong tĩnh lặng theo dấu những trang ghi chép huyền thoại để thấm hiểu sự nhọc nhằn khởi nghiệp của bậc anh hùng, tấm lòng của ông đối với nước với dân. Dấu ấn thời gian phôi pha chỉ những giá trị trung hiếu vẹn toàn là lắng đọng.Tôi thăm Đình Lạc Giao Đắk Lăk, Lũy Thầy Quảng Bình, quê hương cụ Đào ở Thanh Hóa và nơi đây Tùng Châu Đào Duy Từ nơi đồng xuân lưu dấu người hiền. Đào Duy Từ (1572 –1634) là nhà quân sư danh tiếng của chúa Nguyễn Phúc Nguyên, bậc kỳ tài chính trị quân sự lỗi lạc, danh nhân văn hóa kiệt xuất, khai quốc công thần số một được thờ ở Thái Miếu của nhà Nguyễn. Hàng năm ngày giỗ Đào Duy Từ là vào ngày 17 tháng 10 âm lịch (nhằm ngày 13 đến 23 tháng 11 dương lịch tùy theo từng năm). Đào Duy Từ bắt đầu thi thố tài năng từ lúc Cụ 53 tuổi cho đến năm Cụ 62 tuổi thì Cụ mất. Chín năm ngắn ngủi ấy (1625-1634) Cụ đã kịp trao lại năm kỳ tích phi thường còn mãi với non sông. Mộ cụ Đào Duy Từ nằm khiêm nhường giữa vườn sắn KM94 xanh tốt tại thôn Phụng Du, xã Hoài Hảo, huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định . Phía trước lăng mộ của Cụ là hai trụ đá lớn, chẳng rồng chẳng phụng , đỉnh tạo dáng búp sen. Cuối mộ Cụ cổ thụ thì hoang phế vì triều đại đổi thay nhưng dừa sắn thì tươi xanh bên mộ đá. Đào Duy Từ còn mãi với non sông

                     

                     

                    NHỚ NGƯỜI HIỀN MỘT THUỞ

                    Đào Duy Từ sinh năm 1572 ở làng Hoa Trai, huyện Ngọc Sơn, phủ Tỉnh Gia, tỉnh Thanh Hóa. Thời ấy, Nguyễn Hoàng, chúa khởi nghiệp nhà Nguyễn, có quê tại huyện Tống Sơn (nay là huyện Hà Trung). Nhà thờ họ Nguyễn hiện ở đình Gia Miêu, xã Hà Long, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa. Ông Nguyễn Hoàng là con thứ hai của ông Nguyễn Kim (tức Hữu vệ Điện tiền Tướng quân An Thanh hầu Nguyễn Hoằng Kim) cháu của ông Nguyễn Hoằng Dụ, chắt của ông Nguyễn Văn Lang, đều là các trọng thần của nhà Lê. Nguyên khi xưa ông Nguyễn Kim khởi nghĩa giúp nhà Lê đánh nhà Mạc đã lấy được đất Thanh Nghệ nhưng khi thừa thắng đem quân ra đánh Sơn Nam thì bị hàng tướng nhà Mạc là Dương Chấp Nhất đánh thuốc độc chết, binh quyền giao lại cho con rể Trịnh Kiểm. Người anh của Nguyễn Hoàng là Nguyễn Uông bị Trịnh Kiểm kiếm chuyện giết đi vì sợ đức độ và tài năng của hai anh em nhà vợ đoạt mất quyền mình. Nguyễn Hoàng sợ Trịnh Kiểm ám hại nên đã hỏi kế của Nguyễn Bỉnh Khiêm và được Trạng Trình bảo rằng “Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân”. Ông đã xin vào trấn thủ Thuận Hóa từ năm 1558.

                    Năm Đào Duy Từ ra đời thì Trịnh Kiểm vừa mới mất (1570) trao quyền lại cho Trịnh Cối để lo việc đánh dẹp. Trịnh Cối say đắm tửu sắc, tướng sĩ nhiều người không phục. Trịnh Tùng, con thứ của Trịnh Kiểm, đã rước vua Lê về đồn Vạn Lại và công khai chống lại anh ruột, Nhân lúc anh em họ Trịnh đánh nhau, Mạc Kính Điển cùng với các danh tướng Nguyễn Quyện, Mạc Ngọc Liễn đem 10 vạn quân vào đánh Thanh Hóa. Trịnh Cối liệu thế không địch nổi đã đầu hàng Mạc. Trình Tùng đưa vua về Đông Sơn, phòng ngự chắc chắn, liều chết cố thủ. Mâc Kính Điển đánh mãi không được, lâu ngày hết lương, phải rút quân về. Trình Tùng oai quyền vượt vua, Anh Tông lo ngại tìm cách giết Trịnh Tùng. Mưu việc không thành, vua sợ chạy vào Nghệ An, bị Trịnh Tùng lập vua mới Thế Tông Lê Duy Đàm bảy tuổi lên làm vua và cho người truy sát giết chết vua cũ. Suốt 10 năm 1573-1583 Trịnh Tùng cố thủ vững chắc Thanh Hóa. Sau khi Mạc Kính Điển mất (1579) thế lực hai bên thay đổi. Năm 1591, Trịnh Tùng cử đại binh đánh ra Thăng Long, bắt được Nguyễn Quyện, phá hào lũy và rút về Thanh Hóa. Vua Mạc Mậu Hợp say đắm vợ người, bạc đãi tướng sĩ, làm nát cơ nghiệp nhà Mạc. Tướng nhà Mạc là Văn Khuê về hàng nhà Lê. Trịnh Tùng đem đại binh trở lại Thăng Long, đánh tan quân Mạc, giết Mạc Mậu Hợp. Nhà Mạc mất ngôi. Con cháu nhà Mạc giữ đất Cao Bằng được ba đời nữa. Vua Lê chỉ còn trên danh nghĩa được cấp bổng lộc thượng tiến, thu thuế 1000 xã và 5000 lính túc vệ và chỉ thiết triều tiếp sứ. Mọi việc lớn nhỏ đều do chúa Trịnh điều hành. Họ Trịnh tôn Lê vì sợ nhà Minh sinh sự lôi thôi và sợ những kẻ chống đối lấy cớ phù Lê, hơn nữa họ Nguyễn có thế lực mạnh và họ Mạc còn đang giữ đất Cao Bằng .

                    Năm 1572, nhân lúc anh em Trịnh Cối, Trịnh Tùng đánh nhau, nhà Mạc đem quân đánh Thanh Hóa và cho một cánh thủy quân do tướng Lập Bạo chỉ huy đánh Thuận Hóa. Nguyễn Hoàng đã cho gái đẹp Ngô thị giả cách đưa vàng bạc đến cầu hòa, dụ Lập Bạo ra ái ân trên bãi biển vắng. Lập Bạo không đề phòng nên bị quân Nguyễn trong cát nổi lên giết chết. Quân Mạc bị đánh tan. Nguyễn Hoàng từ năm 1592 đến năm 1600, đã kéo quân ra Bắc giúp Trịnh diệt Mạc và lập được nhiều công to nhưng Trịnh Tùng luôn để ý đề phòng và Nguyễn Hoàng đã không thể có cớ gì để trở lại đất cũ. Năm 1600 nhân dịp đi đánh giặc, Nguyễn Hoàng đã theo đường biển về lại Thuận Hóa. Sợ họ Trịnh nghi ngờ, ông đã gả con gái Ngọc Tú cho Trịnh Tráng là con trai thứ của Trịnh Tùng. Năm 1613, Nguyễn Hoàng sắp mất, gọi người con thứ 6 là Nguyễn Phúc Nguyên vào dặn rằng: “Đất Thuận, Quảng này, bên bắc thì có núi Hoành Sơn, sông Linh Giang, bên nam có Hải Vân và núi Bì Sơn, thật là một nơi trời để cho người anh hùng dụng võ. Vậy ta phải thương yêu nhân dân, luyện tập quân sĩ để mà gây dựng cơ nghiệp về muôn đời”/ Sãi Vương Nguyễn Phúc Nguyên nối nghiệp cha giữ đất phương Nam, theo đúng lời di huấn của cha “thương yêu nhân dân, luyện tập quân sĩ”, bên ngoài kính cẩn nhận chức do vua Lê phong cho, giữ hòa hiếu với anh rể Trịnh Tráng, nhưng bên trong đã ngầm súc tích nội lực, tỉnh táo đối phó với mưu mô giảo hoạt tìm mọi cách thôn tính, khống chế của họ Trịnh.

                    Đào Duy Từ với tầm nhìn xa rộng và nhãn quan chính trị sâu sắc đã nhận ra tình cảnh trớ trêu trên. Hình thái Lê Trịnh, Mạc, Nguyễn thời ấy thật giống như “Tam Quốc”: Họ Trịnh noi cách Tào Tháo mượn uy thiên tử để sai khiến chư hầu. Họ Mạc tuy sức cùng lực kiệt nhưng được nhà Minh hậu thuẫn Nhà Minh luôn rình đợi thời cơ để can thiệp vào nước ta như cách “giúp Trần, cầm Hồ” của triều trước. Họ Nguyễn giữ đất phương Nam chân chúa lô rõ, hiền tài theo về. Đào Duy Từ như Ngọa Long ở Long Trung ẩn nhẫn đợi thời. Ông chỉ quyết định vào Nam khi đã định rõ minh quân, danh tướng, chiến lược, sách lược các đối sách trước mắt và lâu dài của bàn cờ lớn.

                    Lịch sử ghi nhận rằng Đào Duy Từ có bố là Đào Tá Hán, trước làm lính cấm vệ trong triều Lê Trịnh, bị phạm húy khi làm thơ đã dám nói tên của chúa Trịnh Kiểm nên bị phạt đánh đòn và đuổi về nhà làm dân thường. Bố của ông sau trở thành kép hát nổi tiếng khắp vùng và kết duyên với bà Vũ Thị Kim Chi ở làng Ngọc Lâm. Đào Duy Từ được sinh ra ở làng Hoa Trai, khi ông lên 5 tuổi thì bố bị bệnh mất, người mẹ ở góa, tần tảo nuôi con ăn học. Theo luật lệ của triều đình bấy giờ thì con cái những người làm nghề ca xướng đều không được quyền thi cử. Bà Kim Chi tiếc cho tài học của con nên đã nhờ viên xã trưởng đổi họ Đào của con theo cha thành họ Vũ theo mẹ.  Năm 1593 lúc Đào Duy Từ 21 tuổi, vào đời vua Lê Thế Tông (l567-1584) đã đỗ á nguyên tại kỳ thi Hương. Ông dự thi Hội thì bị viên xã trưởng mật báo và tố giác vì mẹ ông đã không chịu gian díu với hắn. Ông bị cấm thi vì trọng tội “gian lận trong thi cử”, bị giam giữ xét hỏi, trong khi mẹ ông ở nhà đã phẫn uất tự tử. Đào Duy Từ lấy vợ họ Cao ở Tống Sơn nên có quen biết chúa Nguyễn Hoàng từ trước. Đào Duy Từ đã rời quê hương vào Đàng Trong lập nghiệp khoảng năm 1622 đến 1625 khi ông đã 50- 53 tuổi.  Đào Duy Từ vào Nam sau ba mươi năm trầm tĩnh đợi thời. Ứng xử của ông giống như Nguyễn Bỉnh Khiêm đã nhẫn nại đợi thời cơ sau hai mươi năm mới ra lựa chọn triều Mạc và ra dự thi  lập tức đoạt Trạng nguyên. Đào Duy Từ cũng chọn hướng vào Nam rất sâu sắc, có tính toán và đúng thời cơ. Đây không phải là một sự uất ức tầm thường mà  là sự nhẫn nại của bậc trí giả, thời thế nhiễu loạn, vàng lầm trong cát mà thôi. Đào Duy Từ được Chúa Nguyễn trọng dụng, đã hết lòng giúp chúa Nguyễn đạt được năm kỳ tích lạ lùng và nổi bật ngời sáng trong lịch sử Việt Nam:

                    1) Giữ vững cơ nghiệp của chúa Nguyễn ở Đàng Trong chống cự thành công với họ Trịnh ở phía Bắc. Ông đã cùng các danh tướng Nguyễn Hữu Dật, Nguyễn Hữu Tiến bày mưu định kế, luyện tập quân sĩ, xây đồn đắp lũy, tổ chức tuyến phòng ngự chiều sâu từ phía nam sông Linh Giang đến Lũy Trường Dục (ở huyện Phong Lộc, tỉnh Quảng Bình) và Lũy Thầy (từ cửa sông Nhật Lệ đến núi Đâu Mâu, Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình). Suốt thời Trịnh Nguyễn phân tranh kéo dài suốt 45 năm (1627-1672) đánh nhau cả thảy bảy lần, họ Trịnh thường mạnh hơn nhưng quân Nam tướng sĩ hết lòng, đồn lũy chắc chắn nên đã chống cự rất hiệu quả với quân Trịnh.

                    2) Mở đất phương Nam làm cho Nam Việt thời ấy trở nên phồn thịnh, nước lớn lên, người nhiều ra. Đào Duy Từ có duyên kỳ ngộ với tiên chúa Nguyễn Hoàng và chân chúa Nguyễn Phúc Nguyên. Ông hết lòng phò vua giúp nước “cúc cung tận tụy đến chết mới thôi” như Ngọa Long Gia Cát Lượng Khổng Minh. Đào Duy Từ mang tâm nguyện và chí hướng lớn lao như vua Trần Thái Tông “Nếu chỉ để lời nói suông cho đời sau, sao bằng đem thân mình đảm nhận trọng trách cho thiên hạ trước đã”. Di sản của ông không chỉ là trước tác mà còn là triều đại.

                    3) Đào Duy Từ là bậc kỳ tài muôn thuở với những di sản còn mãi với non sông. Ông là nhà thực tiễn sáng suốt có tầm nhìn sâu rộng lạ thường. Ông đã đặt nền móng vững chắc cho triều Nguyễn, sửa sang chính trị, quan chế, thi cử, võ bị, thuế khóa, nội trị, ngoại giao gắn với hệ thống chính trị tiến bộ hợp lòng dân. Với tài năng tổ chức kiệt xuất của Đào Duy Từ, chỉ trong thời gian ngắn ngủi chín năm (1625-1634), ông đã kịp xây dựng được một định chế chính quyền rất được lòng dân. Triều Nguyễn sau khi Đào Duy Từ mất (1634)  còn truyền được 8 đời (131 năm), cho đến năm 1735, khi Vũ Vương mất, thế tử chết, Trương Phúc Loan chuyên quyền, lòng người li tán, nhà Tây Sơn nổi lên chiếm đất Quy Nhơn, họ Trịnh lấy đất Phú Xuân, thì cơ nghiệp chúa Nguyễn mới bị xiêu đổ.

                    4) Tác phẩm “Hổ trướng khu cơ”; Nhã nhạc cung đình Huế, vũ khúc tuồng Sơn Hậu, thơ Ngọa Long cương vãn, Tư Dung vãn  đều là những kiệt tác và di sản văn hóa vô giá cùng với giai thoại, ca dao, thơ văn truyền đời trong tâm thức dân tộc. Binh thư “Hổ trướng khu cơ” sâu sắc, thực tiễn, mưu lược yếu đánh mạnh, ít địch nhiều, là một trong hai bộ sách quân sự cổ quý nhất của Việt Nam (bộ kia là Binh thư yếu lược của Trần Hưng Đạo) ; Nhã nhạc cung đình Huế, vũ khúc, tuồng cổ Sơn Hậu gắn với di sản văn hóa Huế thành di sản văn hóa thế giới; Những giai thoại, ca dao truyền đời trong tâm thức dân tộc của lòng dân mến người có nhân. Ngay trong trước tác của ông cũng rất trọng gắn lý luận với thực tiễn. Binh thư “Hổ trướng khu cơ” gắn với những danh tướng cầm quân lỗi lạc một thời như Nguyễn Hữu Dật, Nguyễn Hữu Tiến. Vũ khúc cung đình, tuồng cổ Sơn Hậu,  thơ Ngọa Long cương vãn, Tư Dung vãn đều thể hiện tầm cao văn hóa.

                    5) Đào Duy Từ là người Thầy đức độ, tài năng, bậc kỳ tài muôn thuở của dân tộc Việt, người khai sinh một dòng họ lớn với nhiều hiền tài và di sản. Đào Duy Từ lúc đương thời đã gả con gái mình cho Nguyễn Hữu Tiến sau này là một đại tướng của nhà Nguyễn. Đào Duy Từ đã đem tài trí của mình cống hiến cho xã hội về nhiều lĩnh vực. Ông là một nhà quân sự tài ba, kiến trúc sư xây dựng lũy Trường Dục ở Phong Lộc và lũy Nhật Lệ ở Đồng Hới, thuộc tỉnh Quảng Bình, để chống lại các cuộc tấn công của quân Trịnh. Lũy Nhật Lệ còn gọi là lũy Thầy (vì chúa Nguyễn và nhân dân Đàng Trong tôn kính gọi Đào Duy Từ là Thầy). Lũy này được hoàn thành năm 1631, có chiều dài hơn 3000 trượng (khoảng hơn 12 km), cao 1 trượng 5 thước (khoảng 6 m), mặt lũy rất rộng (voi có thể đi lại được) cứ cách một quãng lại xây pháo đài để đặt súng thần công. Chiến lũy này có vị trí gần khe, dựa vào thế núi, chạy dài suốt cửa biển Nhật Lệ, trông giống hình cầu vồng, có tác dụng chặn được bước tiến của quân Trịnh trong hàng trăm cuộc giao tranh. Đương thời có các câu ca dao: Khôn ngoan qua cửa sông La/ Dù ai có cánh chớ qua lũy Thầy “Hữu trí dũng hề, khả quá Thanh Hà / Túng hữu dực hề, Trường lũy bất khả khoa”. Mạnh thì qua được Thanh Hà/ Dẫu rằng có cánh khôn qua lũy Thầy. Đường vô xứ Huế quanh quanh / Non xanh nước như tranh họa đồ/ Yêu anh em cũng muốn vô / Sợ truông nhà Hồ, sợ phá Tam Giang.  Phá Tam Giang bây giờ đã cạn/ Truông nhà Hồ, Nội tán cấm nghiêm. Chùm thơ và giai thoại trên và dưới đây đã tồn tại lâu dài trong bia miệng người đời. Lời thơ đẹp, hợp logic và tình tự dân tộc, mọi việc đều khớp đúng với sự kiện lịch sử.

                    GIAI THOẠI LỒNG SỰ THẬT

                    Giai thoại kể rằng Đào Duy Từ vốn người Đàng Ngoài , quê gốc ở làng Hoa Trai, nay thuộc xã Nguyên Bình, huyện Tĩnh Gia, Thanh Hóa. Bố là Đào Tá Hán, trước làm lính cấm vệ trong triều, thời Lê – Trịnh. Một hôm, nhân lúc nổi hứng, Tá Hán đã sáng tác bài thơ ca ngợi chúa Trịnh như sau:

                    Trang quốc sử ai bằng Trịnh Kiểm
                    Tỏ thần uy đánh chiếm hai châu
                    Thẳng đường rong ruổi vó câu
                    Phù Lê, diệt Mạc trước sau một lời…

                    Tá Hán liền bị quy là phạm thượng, trong thơ dám nói cả tên húy của chúa là Trịnh Kiểm. Ông bị tội phạt đánh đòn 20 roi và bị đuổi về nhà làm dân thường.

                    Nhờ có tài đàn hát nên Tá Hán bèn đi theo một gánh hát để kiếm sống và ít lâu sau đã trở thành kép hát tài giỏi, nổi tiếng khắp vùng.

                    Có lần, gánh hát đến diễn ở làng Ngọc Lâm trong huyện. Đào Tá Hán trọ trong nhà vị tiên chỉ của làng này là Vũ Đàm. Ông tiên chỉ họ Vũ có cô cháu gái là Vũ Thị Kim Chi đem lòng yêu Tá Hán. Lúc đầu Tá Hán sợ phận mình nghèo khổ, khó kết thành vợ chồng. Nhưng sau khi nghe người nhà vị tiên chỉ thuyết phục rằng cô Chi có sẵn vốn liếng làm ăn, không phải lo nghèo chẳng nuôi nổi vợ, nên Tá Hán nghe theo.

                    Họ làm lễ thành hôn rồi mua đất, dựng nhà ở Hoa Trai, sau hơn một năm thì sinh ra Đào Duy Từ. Khi Duy Từ lên năm, chẳng may bố bị bệnh mất. Người mẹ chịu ở góa, một mình ngược xuôi tần tảo quyết nuôi cho con ăn học. Duy Từ tỏ ra rất sáng dạ, lại ham mê đèn sách, báo trước khả năng có thể thành đạt trên bước đường cử nghiệp.

                    Thế nhưng số phận thật là oái oăm! Theo luật lệ của triều đình bấy giờ, thì con cái những người làm nghề ca xướng đều không được quyền thi cử. Bà Kim Chi tiếc cho tài học của con, bèn thu gom vay mượn tiền bạc đến đút lót cho viên xã trưởng làng Hoa Trai là Lưu Minh Phương, để nhờ đổi họ Đào của con theo cha thành họ Vũ của mẹ, mong sao Duy Từ được dự kì thi Hương sắp tới .Viên xã trưởng thấy người vợ góa của Đào Tá Hán còn nhan sắc, nên nhận lời và ra điều kiện nếu xong việc thì phải lấy y.

                    Theo một vài tài liệu cho biết Đào Duy Từ đã dự khoa thi Hương năm 1593 đời vua Lê Thế Tông (l 567-1584) và đã đỗ á nguyên (thứ hai). Ông được mẹ khuyến khích dự tiếp kì thi Hội. Lúc này Duy Từ mới 2l tuổi.

                    Thấy việc đổi họ cho Duy Từ đi thi đã trót lọt, xã trưởng họ Lưu bèn đòi bà Kim Chi thực hiện giao ước tái giá về làm vợ mình. Bà Chi cứ lần chần, chối khéo, với lí do con mới thi đỗ, mẹ làm thế sẽ khó coi…

                    Viên xã trưởng tức giận, đem chuyện trình bày với tri huyện Ngọc Sơn, vốn là chỗ thân quen, để nhờ áp lực quan trên bắt bà mẹ Duy Từ phải thực hiện giao ước.

                    Viên tri huyện biết chuyện liền lập tức mật báo lên trên. Lúc này Duy Từ đang dự kì thi Hội. Bài Từ làm rất hay, chỉ có một điểm lập luận chưa vừa ý chúa, nên quan chủ khảo là Thái phó Nguyễn Hữu Liêu đang còn cân nhắc.

                    Giữa lúc đó thì có tin “sét đánh” ập đến lệnh triều đình truyền xuống đòi xóa ngay tên Vũ Duy Từ, hủy bỏ bài thi, lột hết mũ áo được ban, bắt ngay để tra xét. Đồng thời, gửi trát về cho tri huyện Ngọc Sơn trừng trị những kẻ liên đới.

                    Luật lệ thời đó quy định xử phạt rất nặng những ai dám phạm vào quy chế thi cử. Sắc chỉ vua Lê về các kì thi Hương đã ghi: ”Nếu người nào mà bị nghi gian thì bắt giữ đích thân đem việc tâu lên để trên xét”. Vì thế, ngay sau đó, Đào Duy Từ đã bị giam giữ, xét hỏi.

                    Ở quê bà Vũ Thị Kim Chi cũng không tránh khỏi sự truy xét. Bà vừa lo cho tính mạng của con, vừa oán giận sự khắc nghiệt, bất công của triều đình, nên đã phẫn uất đi đến tự tử.

                    Duy Từ biết tin mẹ mất, nhưng không được về chịu tang, thương cảm quá thành bệnh ngày càng nguy kịch.

                    Chính trong thời gian Đào Duy Từ gặp cảnh ngộ éo le này, thì chúa Nguyễn Hoàng (1558-1613), cát cứ ở Đàng Trong, đang làm chuyến du hành ra Bắc với mục đích chúc mừng chúa Trịnh diệt được họ Mạc, luôn thể dò la tình hình của xứ Đàng Ngoài và thăm viếng phần mộ của cha ông xây cất ở vùng Tống Sơn (nay là huyện Hà Trung), Thanh Hóa.

                    Nguyễn Hoàng có đến thăm Thái phó Nguyễn Hữu Liêu nên tình cờ nghe được chuyện ông này kể về tài năng và số phận hẩm hiu của người học trò nghèo Đào Duy Từ. Chúa Nguyễn đang nuôi ý đồ xây dựng cơ nghiệp riêng ở Đàng Trong nên muốn ”chiêu hiền đãi sĩ” lôi kéo người tài xứ Bắc về mình. Vì thế, khi biết chuyện Duy Từ, chúa đem lòng ái mộ, cảm mến, ngầm giúp Từ tiền bạc để sinh sống, chạy chữa thuốc men.

                    Giai thoại dân gian kể tiếp, trước lúc trở về Đàng Trong, Nguyễn Hoàng đã đến thăm Đào Duy Từ. Chúa chợt thấy trên vách buồng Duy Từ đang ở có treo bức tranh cầu hiền vẽ ba anh em Lưu Bị thời Tam Quốc bên Tàu lặn lội tìm đến đất Long Trung để vời đón Gia Cát Lượng là một bậc hiền tài.

                    Nguyễn Hoàng bèn chỉ lên bức tranh, tức cảnh đọc mấy câu thơ để tỏ lòng cầu hiền của chúa và cũng để dò xét tâm ý Đào Duy Từ:

                    Vó ngựa sườn non đá chập chùng
                    Cầu hiền lặn lội biết bao công

                    Duy Từ bèn đọc tiếp:

                    Đem câu phò Hán ra dò ý
                    Lấy nghĩa tôn Lưu để ướm lòng. ..

                    Nguyễn Hoàng nối thêm:

                    Lãnh thổ đoạn chia ba xứ sở
                    Biên thùy vạch sẵn một dòng sông

                    và Duy Từ kết

                    Ví như chẳng có lời Nguyên Trực
                    Thì biết đâu mà đón Ngọa Long

                    Thế nhưng, kể từ khi có cuộc hội ngộ này, phải đến chục năm sau, Đào Duy Từ mới trốn được vào Nam. Lúc đó, Nguyễn Hoàng đã mất và ông phải đi ở chăn trâu cho nhà hào phú ở đất Tùng Châu, để chờ thời đem tài trí của mình cống hiến cho xã hội.

                    Giai thoại ‘Kẻ chăn trâu kỳ dị’ kể rằng Nhà phú hộ Lê Phú ở thôn Tùng Châu, phủ Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định thuê được một đứa ở chăn trâu tên là Đào Duy Từ tuy đã đứng tuổi, nhưng cần mẫn, siêng năng. Ngày ngày cứ sáng, sớm lùa trâu đi ăn, mãi chập tối mới đánh trâu về, trời nắng cũng như trời mưa, khiến gia chủ rất vừa lòng, chưa hề có tiếng chê trách.

                    Một hôm, phú hộ họ Lê mời các Nho sĩ hay chữ khắp vùng đến nhà dự hội bình văn. Chập tối, sau khi tiệc tùng xong, mọi người còn trà thuốc, bàn cãi chữ nghĩa văn chương, thì vừa lúc Đào Duy Từ chăn trâu về. Thấy đám đông khách khứa trò chuyện rôm rả, Duy Từ bèn lại gần, đứng ghếch chân lên bậc thềm nhìn, tay vẫn cầm chiếc roi trâu, vai đeo nón lá, lưng quấn khố vải… Chủ nhà ngồi phía trong nhìn thấy cho là vô lễ, giận dữ quát:

                    – Kẻ chăn trâu kia! Hạng tiểu nhân biết gì mà dám đứng nhìn các quan khách đây là những bậc danh Nho ?

                    Duy Từ nghe mắng song không tỏ ra sợ hãi, cười ha hả, rồi nói một cách thản nhiên:

                    – Nho cũng có hạng ”nho quân tử”, hạng ”nho tiểu nhân”. Chăn trâu cũng có kẻ ”chăn trâu anh hùng”, kẻ ”chăn trâu tôi tớ”, cao thấp không giống nhau, hiền ngu không là một ! Còn kẻ tiểu nhân tôi chỉ đứng nhìn, có xâm phạm gì đến cái phú quý, sang trọng của các vị, mà chủ nhân lại mắng đuổi ?

                    Mấy người khách nghe Duy Từ là đứa chăn trâu, mà nói lí như vậy, liền vặn hỏi:

                    – Vậy nhà người bảo ai là “nho quân tử”, ai là “nho tiểu nhân” hả?

                    Đào Duy Từ chẳng cần nghĩ ngợi, nói luôn một mạch:

                    – “Nho quân tử” thì trên thông thiên văn, dưới thấu địa lí, giữa hiểu việc đời, trong nhà giữ được đạo cha con, tình nghĩa vợ chồng, anh em, bè bạn, ngoài xã hội thì biết lo việc nước, vỗ yên dân, giúp đời, phò nguy cứu hiểm, để lại sự nghiệp muôn đời. Còn “nho tiểu nhân” thì chỉ là bọn học vẹt, cầu danh cầu lộc, khoe ít chữ nghĩa, coi thường hào kiệt, may được giữ một chức quan nhất thời, thì chỉ tìm trăm phương ngàn kế để mưu đồ lợi riêng làm sâu mọt hại dân đục nước, thật là đáng sợ !

                    Đám khách nghe Duy Từ nói thế, đều giật mình kinh ngạc, không ngờ một đứa chăn trâu mà lí lẽ cứng cỏi làm vậy, bèn tò mò hỏi thêm:

                    – Còn ”kẻ chăn trâu anh hùng”, kẻ ”chăn trâu tôi tớ” thì nghĩa làm sao, nhà ngươi thử nói nghe luôn thể ? Duy Từ mỉm cười, ung dung trả lời:

                    – ”Chăn trâu anh hùng” thì như Ninh Thích phục hưng nước Tề, Điền Đan thu lại thành trì cho nước Yên, Hứa Do cho trâu uống nước ở khe mà biết được hưng vong trị loạn, Bạch Lý Hề chăn dê mà hiểu thấu thời vận thịnh suy. Đó là những kẻ ”chăn trâu anh hùng”. Còn những bọn chỉ biết cam phận tôi tớ, chơi bời lêu lổng, khi vui thì reo hô hoán, khi giận thì chửi rủa, đánh đấm, chẳng kể gì thân sơ, làm cha ông phải xấu lây, xóm làng chịu điều oan. Đấy là hạng ”chăn trâu tiểu nhân” cả !

                    Mọi người nghe Duy Từ đối đáp trôi chảy, sách vở tinh thông, nghĩa lí sâu sắc, càng thêm kinh ngạc, nhìn nhau, rồi đứng cả dậy, bước ra ngoài thềm mời Duy Từ cùng vào nhà ngồi. Nhưng Duy Từ vẫn tỏ ra khiêm tốn chối từ. Cả bọn bèn dắt tay Duy Từ lên nhà, ép ngồi vào chiếu trên.

                    Gã phú hộ Lê Phú rất đỗi ngạc nhiên, thấy kẻ đầy tớ chăn trâu nhà mình mà nói toàn chữ nghĩa nên còn ngờ, bèn giục mấy nhà Nho văn hỏi thêm, thử sức Duy Từ về kiến thức, sách vở cổ kim xem hư thực ra sao.

                    Các vị Nho học nhất vùng hỏi đến đâu, Đào Duy Từ đều đối đáp trôi chảy đến đó và tỏ ra không có sách nào chưa đọc đến, không có chữ nào không thấu hiểu, khiến cho cả bọn phải thất kinh, bái phục sát đất !

                    Chủ nhà cũng không kém phần sửng sốt, mới vỗ vai Duy Từ, đổi giận làm lành, mà rằng:

                    – Tài giỏi như thế, sao bấy lâu cứ giấu mặt không cho lão già này biết, để đến nỗi phải chăn trâu và chịu đối xử bạc bẽo theo bọn tôi tớ ? Quả lão phu có mắt cũng như không. Có tội lắm ! Có tội lắm!

                    Từ đó chủ nhà may sắm quần áo mới xem Duy Từ là khách quý, mời ngồi giảng học, đối đãi hết sức trọng vọng. Chủ nhà đã tiến cử Đào Duy Từ cho quan Khám lý Trần Đức Hòa. Vì mến tài của Đào Duy Từ, Trần Đức Hòa đã gả con gái cho, đồng thời tiến cử Đào Duy Từ cho Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên. Sau cuộc gặp gỡ với Đào Duy Từ, Chúa Sãi đã phong cho ông làm Nha uý Nội tán.

                    Giai thoại “bước ngoạt cuộc đời” kể rằng: Sau buổi đối đáp với các nhà nho ở Tùng Châu, tiếng tăm Đào Duy Từ – một kẻ chăn trâu kì lạ, tài giỏi hơn người, lan truyền khắp nơi. Bấy giờ có vị quận công, anh em kết nghĩa với chúa Nguyễn, rất có thế lực, là Khám lí Trần Đức Hòa hay tin. Ông này cho đón Đào Duy Từ đến nhà chơi. Qua các buổi chuyện trò, đàm đạo văn chương, Khám lí họ Trần đã nhận thấy Duy Từ có học vấn uyên bác, lại tỏ ra chí lớn hơn người, bèn đem lòng yêu quý và gả người con gái là Trần Thị Chính cho Từ làm vợ.

                    Khi đã có chốn nương thân vững chắc Đào Duy Từ mới dần dà lộ rõ chí hướng phò vua giúp nước đã nung nấu suốt mấy chục năm cho bố vợ biết. Ông đưa tác phẩm “Ngọa Long cương vãn” của mình cho Trần Đức Hoà xem. Nội dung bài chính là nỗi lòng của Duy Từ, tự ví mình như Gia Cát Lượng (là một nhà quân sự, chính trị nổi tiếng bên Trung Quốc, vì chưa được thi thố tài năng, nên còn ẩn náu ở chốn Ngọa Long). Nỗi lòng đó của Duy Từ được thể hiện rõ ở đoạn kết:

                    Chốn này thiên hạ đã dùng
                    Ắt là cũng có Ngọa Long ra đời
                    Chúa hay dùng đặng tôi tài
                    Mừng xem bốn bể dưới trời đều yên

                    Khám lí Trần Đức Hòa xem đi xem lại bài ”Ngọa Long cương” của con rể, thấy văn từ khoáng đạt, điển tích tinh thông, ý chí mạnh mẽ, hoài bão lớn lao, đã tấm tắc khen, rồi tìm cách dâng lên chúa Nguyễn xem để tiến cử Duy Từ với chúa.

                    Bấy giờ chúa Nguyễn là Sãi Vương Nguyễn Phúc Nguyên (16l3- l635) đang có ý định kén chọn nhân tài, để dựng nghiệp lớn, nên khi xem xong bài vãn của Đào Duy Từ đã rất tâm đắc, bèn lệnh cho Khám lí Trần Đức Hòa dẫn ngay người con rể vào gặp chúa.

                    Gia đình nhà vợ vội may sắm quần áo, khăn mũ hợp nghi thức để Duy Từ mặc vào chầu cho thật chỉnh tề nhưng Duy Từ nhất mực từ chối, viện lẽ rằng mình không dám dùng, vì chưa có chức tước!

                    Trước buổi tiếp, Sãi Vương muốn thử tư cách Đào Duy Từ, nên chúa mặc y phục xuềnh xoàng, cầm gậy đứng trước cửa, thái độ lơ đãng, như chờ một kẻ hầu nào đấy.

                    Từ xa, Đào Duy Từ đã nhìn thấy vẻ thờ ơ của chúa, bèn giả tảng hỏi bố vợ:

                    – Người kia là ai vậy, thưa cha?

                    Trần Đức Hòa sợ hãi, trả lời:

                    – Ấy chết! Sao con dám hỏi vậy? Vương thượng đấy, Người đứng chờ, con mau mau đến bái lạy!

                    Duy Từ nghe bố vợ nói, chỉ cười nhạt rồi quay lại chực không đi nữa. Khám lí Trần đi trước, ngoảnh lại thấy con rể bỏ về, sợ khiếp đảm, liền níu lại quở trách:

                    – Con làm thế này thì tội phạm thượng sẽ trút lên đầu cha

                    Duy Từ đáp:

                    – Thưa cha, vì con thấy chúa đang trong tư thế đi dạo với các cung tần mỹ nữ, chứ không có nghi lễ gì gọi là tiếp đón khách hiền. Nếu con lạy chào tất phạm vào tội khinh vua.

                    Nghe con rể nói vậy, ông bố vợ lại càng thất kinh, cáu kỉnh cầm tay Duy Từ bắt trở lại ngay, để lạy chào chúa, không được để chúa phải chờ. Nhưng Duy Từ vẫn dùng dằng không chịu nghe lời.

                    Từ xa, Sãi Vương đã để ý quan sát thấy tất cả, biết Đào Duy Từ là kẻ tài giỏi thực, tính khí khái, chứ không giống những bọn tầm thường, chỉ cốt quỵ lụy, được ra mắt chúa, hòng tiến thân để kiếm chút bổng lộc, chức tước mà thôi. Chúa bèn quay vào nội phủ, thay đổi áo quần và bảo thái giám đem áo mũ ban cho Duy Từ, rồi vời vào sảnh đường tiếp kiến.

                    Kể từ buổi đó, Đào Duy Từ được chúa Sãi Vương tin yêu, trọng vọng, tôn làm quân sư, luôn ở cạnh chúa để bàn bạc việc quốc gia trọng sự. Ông được phong chức Tán trị, tước Lộc Khê hầu, nên người đời vẫn quen gọi ông là Lộc Khê.

                    Năm 1627, chúa Trịnh Đàng Ngoài muốn bắt họ Nguyễn ở Đàng Trong thần phục, bèn cử đoàn sứ giả mang sắc vua Lê vào phong cho Sãi Vương và đòi lễ vật cống nạp. Chúa Sãi không chịu, nhưng bề ngoài chưa biết xử trí ra sao, bèn hỏi ý kiến Lộc Khê Đào Duy Từ. Theo một số tư liệu, thì chính Duy Từ là người khuyên chúa bước đầu cứ nhận sắc phong, rồi sau sẽ tìm kế đối phó.

                    Ba năm sau, thấy thời cơ thuận lợi, bấy giờ Lộc Khê mới bàn với Sãi Vương, sai thợ làm một chiếc mâm đồng có hai đáy, bỏ sắc vua Lê phong kèm với một tờ giấy có 4 câu chữ Hán vào giữa, rồi hàn kín lại. Trên mâm cho bày nhiều lễ vật hậu hĩnh, rồi cử sứ giả mang ra Thăng Long, để tạ ơn vua Lê, chúa Trịnh.

                    Triều đình Đàng Ngoài nhận được mâm lễ vật tỏ ý ngờ vực, bèn cho khám phá bí mật ở phía trong và cuối cùng họ đã phát hiện chiếc mâm có hai đáy. Khi đem đục ra thì thấy có sắc vua phong dạo trước và tờ giấy viết bốn câu chữ Hán sau:

                    Mâu nhi vô dịch
                    Mịch phi kiến tích
                    Ái lạc tâm trường
                    Lực lai tương địch

                    Xem tiếp >>

                      Dạy và học 21 tháng 6(21-06-2021)

                     

                    ConselamaunangcuaCha

                     

                    DẠY VÀ HỌC 21 THÁNG 6
                    Hoàng Kim

                    CNM365 Tình yêu cuộc sống  Ngày của Cha; Nguồn Son nối Phong Nha; Một gia đình yêu thương; Trung Quốc một suy ngẫm; Sông Mekong tin nổi bật; Machu Picchu di sản thế giới ; Về Nghĩa Lĩnh Đền Hùng; Thầy bạn trong đời tôi;  Ngày Báo chí cách mạng Việt Nam; Ngày 21 tháng 6 năm 2012, Quốc hội Việt Nam thông qua luật Biển, trong đó khẳng định tuyên bố chủ quyền đối với hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa; trong khi đó Quốc vụ viện Trung Quốc phê chuẩn thành lập thành phố Tam Sa với phạm vi bao trùm hai quần đảo này. Ngày 21 tháng 6 năm 2009 Greenland được trao quyền tự quyết, tự trị (là ngày Quốc khánh) tiếp quản quyền quản lý đối với hệ thống tư pháp, cảnh sát, và tài nguyên thiên nhiên từ Vương quốc Đan Mạch. †Bài chọn lọc ngày 21 tháng 6:Ngày của Cha; Nguồn Son nối Phong Nha; Một gia đình yêu thương; Trung Quốc một suy ngẫm; Sông Mekong tin nổi bật; Machu Picchu di sản thế giới ; Về Nghĩa Lĩnh Đền Hùng; Thầy bạn trong đời tôi;  Hoa Đất của quê hương; Câu chuyện ảnh tháng Sáu; Machu Picchu di sản thế giới; Bảy bài học cuộc sống; Thầy bạn trong đời tôi; Thơ Tình Hồ Núi Cốc; Hồ Ba Bể Bắc Kạn; Con suối nguồn hạnh phúc; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-21-thang-6/

                    Ngày của Cha
                    CON LÀ MÀU NẮNG CỦA CHA
                    Hoàng Kim

                    Ngày của Cha
                    Con làm ngựa
                    Mẹ chụp hình
                    Vui gia đình
                    Ngày
                    Hoa Đất

                    Ngày của Cha
                    Nhớ ngày giỗ
                    Năm tháng Năm
                    Giỗ Tổ Ngoại
                    nhớ Quảng Bình.

                    Ngày của Cha
                    Mười tám sáu
                    Hai mốt sáu
                    Giữa tháng sáu
                    Nhớ
                    Bà Trần
                    Thương
                    Bà Đen
                    Nhớ thắp hương

                    Ngày của Cha
                    Ông thì vui
                    Bà thì cười
                    Cha Mẹ mừng
                    Cháu thì múa

                    Ngày của Cha
                    là ngày giỗ
                    Waterloo
                    Lưu sử thi
                    Nhớ
                    Walter Scott

                    Ngày của Cha
                    Thấm kiếm bút
                    Học làm người
                    Đức làm gươm.

                    Ngày của Cha
                    Giữ Môi trường
                    Lời Trạng Trình
                    Chung Trái Đất
                    An lành vô sự là tiên

                    Ngày của Cha
                    Ngày của Mẹ
                    Ngày Gia Đình
                    Nôi hạnh phúc 

                    Ngày của Cha
                    Cậu làm ngựa
                    Ngoại chụp hình
                    Vui gia đình
                    Ngày
                    Hoa Đất

                    Ngày của Cha
                    Bình Minh An
                    Hát liên tục
                    Hát liên hoàn
                    Câu ba chữ

                    Ngày của Cha là ngày Chủ nhật tuần thứ ba của tháng Sáu khoảng 15-21 tháng 6 tùy năm, phổ biến là ngày 18 tháng 6. Năm 2021 Ngày của Cha Chủ Nhật là 21 tháng 6 . Ngày của Cha trong gia đình tôi là ngày nhớ ơn Cha Mẹ, hát ca khúc tuyệt vời Em là hoa hồng nhỏ, ‘Con sẽ là màu nắng của Cha’ để biết ơn Người xem tiếp  https://hoangkimlong.wordpress.com/category/ngay-cua-cha/

                    Nôi gia đình hạnh phúc

                     

                     

                    MỘT GIA ĐÌNH YÊU THƯƠNG
                    Hoàng Kim


                    Ngày Hoàng Gia trong con, xem tiếp
                    Một gia đình yêu thương

                     

                     

                    TRUNG QUỐC MỘT SUY NGẪM
                    Hoàng KimHoang Long

                    Tuyết rơi trên Vạn Lý
                    Trường Thành bao đổi thay
                    Ngưa già thương đồng cỏ
                    Đại bàng nhớ trời mây.

                    Ngược gió đi không nản
                    Rừng thông tuyết phủ dày
                    Ngọa Long cương đâu nhỉ
                    Đầy trời hoa tuyết bay.

                    Hồ Khẩu trên Hoàng Hà
                    Đại tuyết thành băng giá
                    Thế nước và thời trời
                    Rồng giữa mùa biến hóa.

                     

                    Hổ Khẩu trên Hoàng Hà Đại tuyết thành băng giá

                     

                    Đường trần thênh thênh bước
                    Đỉnh xanh mờ sương đêm
                    Hoàng Thành Trúc Lâm sáng
                    Phước Đức vui kiếm tìm.

                    *

                    Lên Thái Sơn hướng Phật
                    Chiếu đất ở Thái An
                    Đi thuyền trên Trường Giang
                    Nguyễn Du trăng huyền thoại

                    Khổng Tử dạy và học
                    Đến Thái Sơn nhớ Người
                    Kho báu đỉnh Tuyết Sơn
                    Huyền Trang tháp Đại Nhạn

                    Tô Đông Pha Tây Hồ
                    Đỗ Phủ thương đọc lại
                    Hoa Mai thơ Thiệu Ung
                    Ngày xuân đọc Trạng Trình

                    Quảng Tây nay và xưa
                    Lên đỉnh Thiên Môn Sơn
                    Ngày mới vui xuân hiểu
                    Kim Dung trong ngày mới

                    Trung Quốc một suy ngẫm

                    lên Thái Sơn hướng Phật, cha con tôi có 17 notes trò chuyện về sự bàn luận của các học giả, nhà văn khả kính Việt Nam nói về Trung Quốc ngày nay. Đầu tiên là phiếm đàm của Trần Đăng Khoa bài viết về Trung Hoa “
                    Tào lao với Lão Khoa” Tuy là nhàn đàm nhưng sự thực là những việc quốc kế dân sinh, tiếng là ‘tào lao’ mà thật sự nóng, hay và nghiêm cẩn.

                    Khoa viết đúng sự thật của Trung Quốc ngày nay: “Trung Quốc là một nước phát triển rất hùng mạnh về tất cả mọi lĩnh vực, trong đó có truyền thông, thông tin. Thế kỷ XXI này là Thế kỷ Trung Quốc. Ở đâu cũng truy cập được internet, nhưng tiếc ở đó không dùng được Email, Google, Blog và cả Facebook. Vì thế, tôi như kẻ lạc rừng. Trung Quốc có gần trăm kênh truyền hình. Kênh nào cũng rất đẹp. Nhưng toàn truyền hình nội bộ của các tỉnh thành Trung Quốc, tuyệt không có một kênh nào của nước ngoài.” “Đúng là chúng tôi cũng còn nhiều hạn chế. Chúng tôi đang mở cửa. Nhưng mở cửa theo quy trình. Mở cửa từng bước…”. Sự đánh giá này của Khoa về Trung Quốc trong sự quản lý xây dựng, giao thông, du lịch văn hóa cũng thật chí lý: “Cái chúng ta còn phải phấn đấu để vươn tới thì Trung Quốc lại có cả một kho kinh nghiệm. Nói như một đồng chí ở Đại sứ quán ta, Trung Quốc có một đội ngũ cán bộ lãnh đạo rất giỏi. Ngay một cán bộ ở địa phương cũng có tầm nhìn của trung ương. Lấy tư duy của trung ương để xử lý cả những việc cỏn con ở cơ sở. Vì thế họ có được sự đồng bộ và nhất quán xuyên suốt từ Trung ương đến địa phương. Chúng tôi qua Lệ Giang rồi Đại Lý, một thành phố cổ của Trung Quốc ở tỉnh Vân Nam. Thành phố này đã bị phá hủy vào năm 1996 trong trận động đất 7,5 độ richte. Vậy mà họ vẫn khôi phục lại được. Một thành phố rất đẹp, cổ kính. Nhiều ngôi nhà dựng lại mà trông cổ kính như có tuổi thọ hàng ngàn năm tuổi. Phải nói là rất tài. Trung Quốc là thế đấy. Họ kỹ lưỡng đến từng chi tiết nhỏ. Bởi thế, Trung Quốc là đất nước của du lịch. Thành phố nào cũng có những vẻ đẹp bí ẩn khiến người ta muốn chiêm ngưỡng, khám phá. Đó là những vẻ đẹp không chỉ chinh phục du khách nước ngoài mà còn có thể mê hoặc được cả chính người dân Trung Quốc. Chỉ riêng khách du lịch Trung Quốc cũng đã đủ “nuôi” ngành du lịch Trung Quốc rồi.

                    Tôi thích văn phong của Khoa “giản dị, xúc động, ám ảnh” và lối viết tưng tửng nhưng rất sát sự thật. Dẫu vậy, tôi thấy có điều đánh giá này cần phải đàm luận: Khoa đã nói: “Trung Quốc to mà vẫn không lớn. Vì rất không đàng hoàng. Ông bạn này cứ như một anh hàng xóm rất giàu có nhưng lại có cái tính rất khó chịu là cứ thích ăn cắp vặt. Nhà có hàng núi vàng, nhưng vẫn thích thó của những anh hàng xóm trái cam hay quả trứng gà. Nếu không lấy được thì khó chịu. Cái việc họ lấn đất, lấn biển lấn đảo cũng thế. Giả thiết nếu không có mấy hòn đảo ăn cắp, hay cả Biển Đông nữa, họ vẫn cứ lớn, vẫn giầu có, ở không ít mặt họ còn vượt cả Nga, cả Mỹ. Thế mà vẫn cứ càm cắp những thứ bé hin hin chẳng phải của mình. Khó chịu là thế!“.

                    Theo tôi thì nói như vậy lập luận vậy là đúng mà chưa rõ. Tôi thích lối lập luận của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm hơn. Cụ Trạng nói: Muốn BÌNH sao chẳng lấy nhân. Muốn An sao lại bắt dân ghê mình?” . “Mấy hòn đảo ăn cắp, hay cả Biển Đông nữa” sao có thể coi là nhỏ khi so sánh 2,5 triệu kilomet vuông kinh tế biển với 9,3 triệu kilomet vuông đất liền? Trung Quốc ngày nay có luận thuyết Trung Nam Hải, “nắm vững Trung, hướng về Nam, tranh chấp Hải” đó là luận thuyết “biển lịch sử”, là cửa “sinh đạo” của Trung Quốc trong Dịch lý, ngược hướng với “Tử Cấm Thành”. Thuyết này là khâu trọng yếu của ‘giấc mộng Trung Hoa vành đai và con đường’ để Trung Hoa trỗi dây, đâu có thể lấy lý lẽ ‘trộm vặt’ ‘ăn cắp vặt’ để lý giải, mà cần là một hệ thống lý luận sâu hơn.

                    Tôi thích minh triết Hồ Chí Minh, ‘Bình Ngô’ của cụ Nguyễn Trãi, ý thơ của cụ Trạng Trình, Nguyễn Du, Giáp Hải và triết lý của Engels hơn.

                    Minh triết Hồ Chí Minh khác sự diễn đạt trên. Bác Hồ là người ở bên cạnh Borodin tại Trung Quốc thời thống chế Trung Hoa Dân Quốc Tưởng Giới Thạch bắt đầu thò ra “đường chín đoạn” khởi đầu của tầm nhìn học thuyết mà sau này chủ tịch Trung Quốc phát triển thành chủ thuyết “Trung Nam Hải” và “biển lịch sử” “nắm vững Trung, hướng về Nam, tranh chấp Hải”. Bác Hồ không nói nhưng lại để cho anh trai là Nguyễn Tất Đạt kể chuyện cho Sơn Tùng để đăng trên báo Cứu Quốc năm 1950 kể về lời đồng dao huyền thoại:

                    “Biển là ao lớn
                    Thuyền là con BÒ
                    Thuyền ăn gió no
                    Lội trên mặt nước
                    Em trông thấy trước
                    Anh trông thấy sau
                    Chúng ta lớn mau
                    Vượt qua ao lớn.”

                    (Thơ Nguyễn Sinh Cung, rút trong tập”Tất Đạt tự ngôn, Sơn Tùng công bố và Báo Cứu Quốc phát hành)

                    ‘Bình Ngô’ của cụ Nguyễn Trãi viết rất hay, là tuyên ngôn độc lập của Việt Nam:

                    Thay trời hành hoá, hoàng thượng truyền rằng.
                    Từng nghe:
                    Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
                    Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
                    Như nước Đại Việt ta từ trước
                    Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
                    Núi sông bờ cõi đã chia
                    Phong tục Bắc Nam cũng khác
                    Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
                    Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương
                    Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau
                    Song hào kiệt thời nào cũng có.”

                    (Bình Ngô đại cáo của
                    Nguyễn Trãi, do Ngô Tất Tố dịch)

                    Cụ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm thì thông điệp ngoại giao nhắn gửi con cháu về lý lẽ giữ nước thật thông suốt ” Biển Đông vạn dặm giang tay giữ. Đất Việt muôn năm vững trị bình”. (Vạn lý Đông minh quy bá ác Ức niên Nam cực điện long bình). Từ xưa đến nay, điều nhân là vô địch, Cần gì phải khư khư theo đuổi chiến tranh. Cổ lai nhân giả tri vô địch, Hà tất khu khu sự chiến tranh) Nếu nhà vua có bó đuốc sáng thì nên soi đến dân ở nơi nhà nát xóm nghèo (Quân vương như hữu quang minh chúc, ủng chiếu cùng lư bộ ốc dân) Trời sinh ra dân chúng, sự ấm no, ai cũng có lòng mong muốn cả. Muốn bình sao chẳng lấy nhân. Muốn an sao lại bắt dân ghê mình. Đạo lý, Dịch lý, Ẩn ngữ Việt thật sâu sắc thay !

                    Nguyễn Du trong uẩn khúc lịch sử Bí mật kho báu trên đỉnh Tuyết Sơn, Vua Càn Long sau thất bại nặng nề của nhà Thanh trong chiến tranh với Tây Sơn đã sai danh tướng Phúc Khang An thay thế Tôn Sĩ Nghị làm Tổng đốc Lưỡng Quảng định điều động thêm 50 vạn quân để ứng chiến vùng biên giới phía Nam nhưng nhà Thanh đang phải đối mặt với một vấn đề đặc biệt cơ mật và tối quan trọng tại Tây Tang là kho vàng tại tu viện Mật Tông bị quân Khuếch Nhĩ Khách Mông Cổ dòm ngó tấn công.Trong khi, nước Nam Nguyễn Huệ anh dũng thiện chiến không thể xem thường nên vua Càn Long lựa ý hòa hoãn với nhà Tây Sơn và tặng áo cho Nguyễn Huệ, sau đó đã dùng kế dập tắt hi vọng phục quốc của vua nhà Hậu Lê và các trung thần. Vua Càn Long viết.

                    Nước Phiên đến lúc ta đi tuần
                    Mới gặp mà như đã rất thân
                    Nước Tượng chưa từng nghe triều cận
                    Việc cống người vàng thật đáng khinh
                    Nhà Thanh coi trọng việc đi sứ
                    Chín đạo thường có đạo vỗ yên
                    Xếp võ tu văn thuận thiên đạo
                    Đại Thanh còn mãi vạn ngàn xuân.

                    Nguyễn Du kiệt tác thơ chữ Hán chạm thấu những vấn đề sâu sắc nhất của tình yêu thương con người và nhân loại các giá trị sử thi văn hóa ngoại giao xuất chúng có một không hai. Lời nhận xét của giáo sư Mai Quốc Liên “Thơ chữ Hán của Nguyễn Du là những áng văn chương nghệ thuật trác tuyệt, ẩn chứa một tiềm năng vô tận về ý nghĩa. Nó mới lạ và độc đáo trong một nghìn năm thơ chữ Hán của ông cha ta đã đành, mà cũng độc đáo so với thơ chữ Hán của Trung Quốc nữa”. Nguyễn Du kiệt tác thơ chữ Hán “Kỳ Lân mộ” .

                    Kỳ Lân Mộ
                    Nguyễn Du

                    Phương Chi Yên Đệ người thế nào?
                    Cướp ngôi của cháu, đồ bất nhân.
                    Mỗi khi nổi giận giết mười họ,
                    Cổn to vạc lớn hại trung thần
                    Năm năm giết người hơn trăm vạn
                    Xương chất thành núi máu chảy tràn
                    Nếu bảo thánh nhân Kỳ Lân xuất
                    Buổi ấy sao không đi về Nam?

                    Nguyên văn chữ Hán

                    Hà huống Yên Đệ hà như nhân
                    Đoạt điệt tự lập phi nhân quân
                    Bạo nộ nhân sinh di thập tộc
                    Đại bỗng cự hoạch phanh trung thần
                    Ngũ niên sở sát bách dư vạn
                    Bạch cốt thành sơn địa huyết ân
                    Nhược đạo năng vị Thánh nhân xuất
                    Đương thế hà bất Nam du tường?

                    “Kỳ Lân mộ” được công bố vào năm Quý Dậu (1813) khi Nguyễn Du làm Chánh sứ của đoàn sứ thần nhà Nguyễn sang thông hiếu với nhà Thanh năm Gia Long thứ 12 và Gia Khánh thứ 17. “Kỳ Lân mộ” là văn kiện ngoại giao “ý tại ngôn ngoại” thể hiện quan điểm và đường lối chính trị của Việt Nam triều Nguyễn. “Kỳ Lân mộ” lấy từ điển tích đã được ghi trong chính sử:  “Năm Vĩnh Lạc thứ 4 (1406) có con Kỳ Lân xuất hiện ở Nam Dương. Quan trấn sai mang lên Bắc Kinh dâng Minh Thành Tổ. Nào ngờ đến đây Kỳ Lân chết. Viên quan sai chôn ở đây và lập bia để ghi lại chuyện đó. Mộ bị mưa gió san phẳng còn lại tấm bia này.” Nguyễn Du dùng bài thơ này để dâng lên vua Càn Long tỏ rõ chính kiến và thông điệp ngoại giao  khéo gửi vua Càn Long và vua Gia Khánh. Bài thơ căm phẫn mắng chửi thẳng Yên Đệ Minh Thành Tổ là đồ bất nhân không xứng đáng là một ông vua. Yên Đệ  Minh Thành Tổ là một nhân vật lịch sử nổi bật của Trung Quốc. Sử gia Trung Quốc cho đến nay vẫn gọi Minh Thành Tổ là Vĩnh Lạc Đế hay Vĩnh Lạc đại đế là một trong các Hoàng đế kiệt xuất nhất của triều đại nhà Minh và lịch sử của Trung Quốc. Thời kỳ của Yên Đệ được ca ngợi gọi là Vĩnh Lạc thịnh thế, khiến nhà Minh phát triển đỉnh cao về quyền lực trong lịch sử. Nguyễn Du qua tác phẩm “Kỳ Lân mộ” trong Bắc Hành tạp lục, đã mắng thẳng Yên Đệ Minh Thành Tổ chẳng phải là minh quân mà là kẻ bá đạo dẫu có giành được ngai vàng, xô lệch lịch sử, thắng được cuộc chiến. cướp được nước người, xóa được di sản, nhưng không thể đoạt được lòng người, bia miệng muôn đời vẫn lưu tiếng xấu.

                    Giai thoại “Bài thơ vịnh bèo“ của Giáp Hải cũng ẩn chứa thông điệp ngoại giao sâu sắc. Năm Đinh Dậu, nhà Minh mư­ợn cớ phò Lê diệt Mạc đã sai đô đốc Cừu Loan và tư­ớng Mao Bá Ôn đem quân tiến vào ải Pha Luỹ. Mao Bá Ôn gửi chiến thư và bài thơ Bèo :

                    Mọc theo ruộng n­ước hóp như­ kim
                    Trôi dạt lênh đênh chẳng đứng im
                    Nào có gốc sâu, nào có lá
                    Dám sinh cành nhánh, dám sinh tim
                    Tụ rồi đã chắc không tan tác
                    Nổi đó nào hay chẳng đắm chìm
                    Đến lúc trời cao bùng gió dữ
                    Quét về hồ bể hẳn khôn tìm

                    Nguyên văn chữ Hán
                    Tuỳ điền trục thuỷ mạc ­ương châm
                    Đáo xứ khan lai thực bất thâm
                    Không hữu căn miêu không hữu diệp
                    Cảm sinh chi tiết, cảm sinh tâm
                    Đồ chi tụ sứ ninh chi tán
                    Đản thức phù thời ná thứ­c trầm
                    Đại để trung thiên phong khí ác
                    Tảo quy hồ hải tiện nan tầm.

                    Trạng nguyên Giáp Hải chịu mệnh vua Mạc Đăng Dung lên biên ải tiếp sứ đã họa đáp:

                    Ken dầy vải gấm khó luồn kim
                    Rễ lá liền nhau, động vẫn im
                    Tranh với bóng mây che mặt n­ước
                    Chẳng cho tia nắng rọi xuyên tim
                    Sóng dồi muôn lớp thư­ờng không vỡ
                    Gió táp ngàn cơn cũng chẳng chìm
                    Nào cá nào rồng trong ấy ẩn
                    Cần câu Lã Vọng biết đâu tìm.

                    Nguyên văn chữ Hán
                    Cẩm lâm mật mật bất dung châm
                    Đái diệp liên căn khởi kế thâm
                    Thư­ờng dữ bạch vân tranh thuỷ diện
                    Khẳng giao hồng nhật truỵ ba tâm
                    Thiên trùng lãng đả thành nan phá
                    Vạn trận phong xuy vĩnh bất trầm
                    Đa thiểu ngư­ long tàng giá lý
                    Thái công vô kế hạ câu tầm.

                    Mao Bá Ôn và Cừu Loan tiếp thư của Trạng nguyên Giáp Hải, bàn bạc với nhau, nhận định rằng nư­ớc Nam có thực lực, ch­ưa thể nuốt trôi đư­ợc, nên lặng lẽ có trật tự cho lui binh về.

                    Engels triết gia người Đức trong học thuyết Mác Engels cũng nói: “Tự do là cái nhìn sâu sắc vào sự cần thiết.” (Engels 1878. freedom is the insight into necessity. Anti-Dühring, pt. 1, ch. 11). “Nền kinh tế hay khoa học làm giàu sinh ra ghen tị lẫn nhau và sự tham lam của các thương gia chính trị này, mang trên trán của nó là dấu hiệu của sự ích kỷ đáng ghét nhất.”. (This political economy or science of enrichment born of the merchants’ mutual envy and greed, bears on its brow the mark of the most detestable selfishness. Outlines of a Critique of Political Economy (1844).

                    Nhiều người dân Trung Quốc lương thiện trung hậu khác với một cộng đồng ‘diều hâu’ toan tính trỗi dậy bá quyền. Trung Quốc mộng tạo dựng một đế quốc Á Châu với cam kết ‘Trung Quốc sẽ không áp đặt QUÁ KHỨ BI THẢM CỦA CHÍNH HỌ lên các quốc gia khác’ ‘ Nhân dân Trung Quốc kiên trì theo đuổi các mối giao thiệp hữu hảo với toàn bộ các quốc gia khác”. “Giấc mộng Trung Hoa vành đai và con đường” là một thế lực phi chính thức và phần lớn dựa vào kinh tế để cố kết cơ sở hạ tầng cứng thuộc vòng ảnh hưởng của Trung Quốc mà Mỹ , Nga, cộng đồng châu Âu EU, cộng đồng Hồi giáo buộc phải tôn trọng. Họ mở cửa từng phần cũng vì dân trí có tốt có xấu. Việt Nam tự cũng cố, ‘dĩ bất biến ứng vạn biến’.

                    Tom Miller có chuyên khảo công phu “Giấc mộng châu Á của Trung Quốc” nói về Donald Trump, Tập Cận Bình và Putin. Nguyễn Trần Bạt có bài viết “Donald Trump, Tập Cận Bình và Putin đang tháo ra để lắp lại nền chính trị thế giới”, Các nguyên thủ nước lớn hiện đang là tiêu điểm tầm nhìn đầy lo âu, hi vọng của nền chính trị lớn thế giới và tất cả cộng đồng nhân loại. Chúng ta nhớ lại thông điệp sau cùng của cựu Tổng thống Mỹ Barack Obama cuối năm 2016 về bức tranh tối tương lai thế giới đầy lo âu hơn: “Tôi muốn kết luận lại bài diễn văn của mình bằng cách nói rằng tôi thừa nhận lịch sử đang kể một câu chuyện rất khác câu chuyện tôi nói ngày hôm nay. Chúng ta đã chọn một cái nhìn lịch sử đen tối hơn và đầy hoài nghi hơn. (Let me conclude by saying that I recognize history tells a different story than the one that I’ve talked about here today. There’s a much darker and more cynical view of history that we can adopt).
                    ‘Tào lao với Lão Khoa’ về Trung Hoa, tôi nêu chính kiến của mình
                    “Ba đặc khu liệu có đột phá?” theo tôi là “không”. Ba đặc khu đang dự định thành lập chỉ thích hợp cho phát triển du lịch, cơ sở nghỉ dưỡng, dịch vụ vui chơi, giải trí… Và do đó, không cần đưa ra các ưu đãi vượt trội về thuế, về quyền thuê đất lâu dài. Đó là một câu chuyện khác. Một dân tộc truyền kiếp bị đối xử không bình đẳng thì độc lập, tự do, hạnh phúc là điểm tương đồng sâu sắc nhất Việc hợp tác quyền biến ‘dĩ bất biến ứng vạn biến’ nhất thiết không được rơi vào “bẫy nợ” và không được phạm sai lầm. Các sinh lộ Bắc Nam Đông Tây cùng những vị trí hiểm yếu nhậy cảm về an ninh quốc phòng kinh tế văn hóa đời sống dân sinh cần tự mình xây dựng với hiền tài Việt Nam có tư vấn quốc tế. Luật đầu tư và hợp tác bền vững thành thực cần kết nối lĩnh vực hợp tác nghiên cứu phát triển trọng điểm hướng tới chén cơm ngon người dân, lao động, việc làm, an sinh xã hội và giáo dục đào tạo nguồn lực con người hiền tài để phát huy sự tương đồng văn hóa. Hợp tác với Trung Quốc nên hướng vào xây dựng cải tiến chuỗi giá trị ngành hàng nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp du lịch sinh thái, giao lưu ngôn ngữ văn hóa, giáo dục dưỡng sinh đông tây y kết hợp, đào tạo nguồn lực, phát triển hiệu quả bền vững, đi đôi bảo vệ môi trường, tiến bộ công bằng xã hôi.

                    Tôi đã đến Trung quốc nhiều lần, có mấy lần ăn cơm chung với nông dân trên núi cao và ngoài ruộng. Năm 1996, tôi có dịp khảo sát vùng khoai lang ở Sơn Đồng và Giang Tô và năm 2018 quay lại tự mình khảo sát so sánh nông nghiệp của chính vùng này, tận mắt và chính kiến nhìn nhận đánh giá. Năm 2014, tôi dạo chơi Thiên An Môn, Cố Cung, Di Hòa Viên, Thiên Đàn trong ngày Quốc tế Lao động, ngắm những nơi lưu dấu các di sản của những triều đại hiển hách nhất Trung Hoa, lắng nghe đất trời và các cổ vật kể chuyện. Tôi ngắm nhìn người nghệ sĩ nhân gian, vui cùng ông và đùa cùng trẻ thơ. Ngày trước đó, tôi vinh hạnh được làm việc với giáo sư Zhikang Li, trưởng dự án Siêu Lúa Xanh (Green Super Rice) chương trình nghiên cứu lúa nổi tiếng của CAAS & IRRI và có cơ hội tiếp cận nghiên cứu của Viện Hàn lâm Khoa học Nông nghiệp Trung Quốc. Năm 2018 này, tôi lại có cơ hội tự mình đi du lịch bằng tàu cao tốc từ Bắc Kinh qua Thiên Tân đến Sơn Đông khảo sát nhanh nông nghiệp Trung Quốc, chuyến đi hơn 600 km chỉ hai tiếng. Những điều tôi được trực tiếp chứng kiến là tích cực và ấn tượng. Suốt dọc đường tới Thiên Tân và ba thành phố khác đến thành phố Thái An của Sơn Đông, tôi đã lưu được 5 video hình ảnh nông nghiệp Trung Quốc ngày nay để so sánh thấy được sự đổi thay cực kỳ ấn tượng của sản xuất nông nghiệp nước bạn.

                     

                     

                    Suy ngẫm từ núi Xanh (景山, Jǐngshān, Cảnh Sơn, Green Mount), ngọn núi địa linh của đế đô Bắc Kinh, suy ngẫm từ đỉnh núi Thái Sơn ở Sơn Đông, tôi tâm đắc lời nhắn gửi sâu xa của bậc hiền minh lỗi lạc Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm: “Muốn bình sao chẳng lấy nhân / Muốn yên sao lại bắt dân ghê mình” “Biển Đông vạn dặm giang tay giữ. Đất Việt muôn năm vững thái bình) (Vạn lý Đông minh quy bá ác/ Ức niên Nam cực điện long bình). Suy ngẫm về cuộc cách mạng Xanh và đỉnh cao Hòa Bình. Chủ tịch Tập Cận Bình đang tiếp nối Tổng thống Tôn Trung Sơn để phát triển chủ thuyết liên Nga thân Việt trừ tà tứ toàn, một vành đai một con đường, ông cam kết những điều tốt đẹp với Việt Nam. Thế nhưng tại sao động thái tình hình thực tế của hai nước nhiều việc chưa tạo đủ niềm tin bạn hữu. Việt Nam tự cũng cố và trầm tĩnh theo dõi. Tôi sẽ còn viết tiếp câu chuyện Từ Mao Trạch Đông tới Tập Cận Bình.

                    Lời giáo sư Norman Borlaug văng vẳng bên tai tôi: “Đời người tối thiểu phải ăn, kế đến là học tập, công việc, nhà ở, quần áo và chăm sóc sức khỏe. Quanh ta còn nhiều mảnh đời bất hạnh. Hiểm họa nghèo đói vẫn bùng phát bất cứ lúc nào. Hãy luôn nhớ điều đó.” Sự hiền minh lỗi lạc của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, và di sản vô giá của giáo sư Norman Borlaug cùng với các bậc Thầy về cách mạng xanh mãi mãi là niềm tin và nổ lực của chúng ta !

                    Trò chuyện Trung Quốc với Lão Khoa, tôi thích nói về một món ngon ở Bắc Kinh (hình). Đặc sản và biểu tượng của một vùng đất luôn thi vị trong lòng của người hành hương. Suốt mấy ngày ở Viện Hàn lâm Khoa học Nông nghiệp Trung Quốc, tôi thường chén món ngon này, như khi leo núi Thái Sơn thì ưa dùng món xúp ‘bát bửu’,  ‘khoai Hoàng Long” và “rượu Thái Sơn”.  “Thịt lợn kho Tàu Tô Đông Pha” là món ăn ngon nổi tiếng Hàng Châu, được đặt tên để vinh danh ông. Tô Đông Pha là một nhân vật quan trọng trong chính trị thời Tống, ông cùng Tư Mã Quang cựu tể tướng và sử gia danh tiếng thuộc phái “coi trọng đạo đức, lẽ phải, kỷ cương”, đối lập với chính sách mới “cường thịnh và phát triển lớn mạnh quốc gia bất chấp đạo lý” do Vương An Thạch chủ trương. Tô Đông Pha đã nổi tiếng là một nhà viết chính luận, các tác phẩm văn của ông đều đặc biệt sâu sắc, góp phần to lớn vào việc nâng cao dân trí và hiểu biết bách khoa thư, văn học du lịch Trung Quốc thế kỷ thứ 11. Thơ Tô Đông Pha nổi tiếng suốt lịch sử lâu dài, có tầm ảnh hưởng rộng lớn tại Trung Quốc, Nhật Bản và các vùng lân cận, cũng được biết đến trong phần nói tiếng Anh trên thế giới thông qua các bản dịch của Arthur Waley và các người khác. Về biểu tượng nghệ thuật, Tô Đông Pha được coi là nhân cách ưu việt của thế kỷ XI. Tôi đã từng chén “Thịt lợn kho Tàu Tô Đông Pha” ở Hàng Châu mà thương về hạt gạo làng ta còn chưa có thương hiệu Việt mạnh trên thị trường thế giới.

                    TRUNG QUỐC MỘT SUY NGẪM là một câu chuyện dài

                    Hoàng Kim và Hoàng Long đã có 20 ghi chú nhỏ (Notes), mỗi ghi chú là một đường link, được chép chung trong bài “
                    Trung Quốc một suy ngẫm” ghi lại những ký ức về các chuyến du khảo Trung Hoa của chúng tôi, tạm coi là nhận thức luận của riêng mình. Ngoài ra còn có bài nghiên cứu lịch sử “Bình sinh Mao Trạch Đông” và “Bình sinh Tập Cận Bình“. Trung Quốc có nhiều nơi hiểm trở, núi cao vọi và sông vực sâu thẳm quanh co, có đủ các hạng người, có đủ chí thiện cực ác và minh sư. Nguyễn Du trăng huyền thoại gợi nhiều suy ngẫm. Bài này là các ghi chú nhỏ cho chính mình và chép tặng bạn đọc.

                     

                     

                    Bài viết mới trên DẠY VÀ HỌC
                    https://hoangkimvn.wordpress.com bấm vào đây cập nhật mỗi ngày

                    Video yêu thích

                     

                     

                    Chỉ tình yêu ở lại
                    Ngày hạnh phúc của em
                    Xem tiếp >>

                      Dạy và học 20 tháng 6(20-06-2021)


                    DẠY VÀ HỌC 20 THÁNG 6
                    Hoàng Kim


                    CNM365 Tình yêu cuộc sốngHoa Đất của quê hương; Câu chuyện ảnh tháng Sáu; Machu Picchu di sản thế giới; Bảy bài học cuộc sống; Thầy bạn trong đời tôi; Thơ Tình Hồ Núi Cốc; Hồ Ba Bể Bắc Kạn; Con suối nguồn hạnh phúc; Ngày 20 tháng 6 năm 1810 là ngày sinh Thái hậu Từ Dụ, Thái hậu nhà Nguyễn Việt Nam (mất năm 1902). Ngày 20 tháng 6 năm 1837, Nữ vương Victoria bắt đầu trị vì, bà là quân chủ trị vì lâu nhất trong lịch sử Anh Quốc. Ngày 20 tháng 6 năm 1895, kênh đào Kiel băng qua bán đảo Jylland, hiện là thủy đạo nhân tạo bận rộn nhất trên thế giới được Hoàng đế Đức Wilhelm II khánh thành. Bài chọn lọc ngày 20 tháng 6: Hoa Đất của quê hương; Câu chuyện ảnh tháng Sáu; Machu Picchu di sản thế giới; Bảy bài học cuộc sống; Thầy bạn trong đời tôi; Thơ Tình Hồ Núi Cốc; Hồ Ba Bể Bắc Kạn; Con suối nguồn hạnh phú; Thông tin tại: https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-20-thang-6/

                    HOA ĐẤT CỦA QUÊ HƯƠNG
                    Hoàng Kim
                    1
                    Đất nặng ân tình đất nhớ thương
                    Ta làm hoa đất của quê hương
                    Để mai mưa nắng con đi học
                    Lưu dấu chân trần với nước non.

                    2
                    Sớm mai trên đồng rộng
                    Em cười trời đất nghiêng
                    Lúa đang thì con gái
                    Em đang thì làm duyên

                    3
                    Mình là hoa của đất
                    Ươm mầm xanh cho đời.
                    Gieo yêu thương hi vọng
                    Gặt hái những niềm vui.

                    Thấm thoắt bao xuân qua
                    Cùng nhau từ thuở ấy
                    Lộc muộn ngày hôm nay
                    Nhớ buổi đầu gieo cấy.

                    Hàng trăm ngàn hecta
                    Bội thu từ giống mới .
                    Nhìn bà con hân hoan
                    Đường trần vui quên mỏi.

                    4
                    Điền trúc măng ngon
                    hôm qua chăm mai
                    sớm nay hái nấm
                    chiều về thu măng.

                    Thung dung thanh nhàn
                    sống giữa thiên nhiên
                    Đọc bài cho em
                    vui cùng bạn quý.

                    5
                    Người ta hoa đất
                    An nhàn vô sự là tiên
                    Thung dung cỏ hoa
                    Thế giới người hiền

                    Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là hoadat3.jpg
                    Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là hoa-dat-1.jpg

                    xem tiếp: Hoa Đất của quê hương
                    https://hoangkimlong.wordpress.com/category/hoa-dat-cua-que-huong/

                    Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là tinhyeucuocsong.jpg
                    Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là 5c3f6-icrisat001.jpg

                    HỌC MỖI NGÀY. Bảy bài học cuộc sống. Học cách mặt trời tỏa sáng.  Nước chảy đá mòn.Tôn trọng người khác.Tận nhân lực tri thiên mệnh. Đừng lo lắng vô ích. Đừng sợ hãi hãy tiến tới. Phúc hậu an nhiên kho báu chính mình. Hoàng Kim tuyển chọn tinh hoa cổ ngữ phương Đông xem tiếp  Bài học cuộc sống; Đối thoại với Thiền sư.

                    Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là thay-ban-trong-doi-toi-1-1.jpg

                    THẦY BẠN TRONG ĐỜI TÔI
                    Hoàng Kim

                    Chúc mừng Khoa Nông Học Trường Đại Học Nông Lâm Thành Phố Hồ Chí Minh ( Nong Lam University in Ho Chi Minh city) PGS.TS Phạm Thị Minh Tâm (Tam Pham). Cám ơn cô PGS. TS.
                    Chat Thi Nguyen đã lưu lại những tấm hình thật đẹp và cảm động, xin được chia sẻ. Chúc mừng và cám ơn THẦY BẠN TRONG ĐỜI TÔI, niềm tin, nguồn vui, nghị lực và bài học lớn. https://hoangkimlong.wordpress.com/category/thay-ban-trong-doi-toi/

                    Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là thay-ban-trong-doi-toi-2.jpg
                    Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là thay-ban-trong-doi-toi-3.jpg

                    xem tiếp: Thầy bạn trong đời tôi; Câu chuyện ảnh tháng Sáu

                    THƠ TÌNH HỒ NÚI CỐC
                    Hoàng Kim  

                    Anh đến tìm em ở Bến Mơ
                    Một trời thu đẹp lắng vào thơ
                    Mênh mang mường Mán mình mong mỏi
                    Lấp loáng luồng Lưu lượn lững lờ
                    Núi Cốc chùa Vàng xao xuyến đợi
                    Sông Công đảo Cái ước mong chờ
                    Nham Biền, Yên Lãng uy nghi quá
                    Tam Đảo, Trường Yên dạ ngẫn ngơ.

                    Hồ Núi Cốc là quần thể du lịch sinh thái thuộc huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên cách trung tâm thành phố 15 km về hướng Tây Nam theo lộ Đán -Tân Cương – núi Cốc. Nơi đây có núi Cốc, sông Công, hồ núi Cốc – vịnh Hạ Long, hồ trên núi – với diện tích mặt hồ khoảng 25 km2. Đền Hồ Chí Minh trên rừng Yên Lãng, đỉnh đèo De dưới là mỏ than núi Hồng giữ ngọn lửa thiêng, vùng huyền thoại chuyện tình yêu thương. Đảo Cái lưu dấu những cổ vật đặc biệt quý hiếm. Chùa Vàng và đền bà chúa Thượng Ngàn nổi tiếng. Đây là vùng đất địa linh của tam giác châu giữa lòng của vòng cung Đông Triều với dãy Tam Đảo có 99 ngọn Nham Biền chạy xuống Yên Tử , trường thành chắn Bắc (hướng kia là dãy Tản Viên 99 ngọn chạy dọc sông Đáy tới Thần Phù, Nga Sơn nối Trường Sơn tạo thế trường tồn và mở mang cho dân tộc Việt. Đây là vùng thiên nhiên trong lành, suối nguồn tươi trẻ, lưu dấu tích anh hùng, mỹ nhân trong vầng trăng, bóng nước giữa rừng …

                    Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là ho-ba-be.jpg

                    HỒ BA BỂ BẮC KẠN
                    Hoàng Kim

                    Mình đến đây rồi Ba Bể ơi
                    Hồ xanh như ngọc nắng chơi vơi
                    Mai sau ước lại về thăm bạn
                    Du Ngoạn Bồng Lai cảnh tuyệt vời.  

                    Hồ Ba Bể là hồ nước ngọt thiên nhiên lớn nhất Việt Nam tại Bắc Kạn, là một trong một trăm hồ nước ngọt lớn nhất thế giới, nằm trong Vườn quốc gia Ba Bể, nơi đây được công nhận là khu du lịch quốc gia Việt Nam. Hồ được hình thành từ cách đây hơn 200 triệu năm. Cuộc kiến tạo lục địa Đông Nam Á cuối kỷ Camri, đã đưa một khối nước khổng lồ với diện tích bề mặt xấp xỉ 5 triệu m2 và chiều dày hơn 30m lên lưng chừng vùng núi đá vôi, tạo ra hồ Ba Bể. Ba nhánh của hồ thông nhau được gọi tên là Pé Lầm, Pé Lù và Pé Lèng. Giá trị lớn nhất của Hồ Ba Bể là cảnh quan địa chất độc đáo, giá trị nổi bật về địa chất địa mạo và giá trị to lớn về đa dạng sinh học. Hồ Ba Bể năm 1995 đã được Hội nghị Hồ nước ngọt thế giới, tổ chức tại Mỹ, công nhận là một trong 20 hồ nước ngọt đặc biệt của thế giới cần được bảo vệ, cũng đúng dịp này Hội thảo Sắn Việt Nam đã được tổ chức ở Hồ Núi Cốc trong hệ thống du lích được cấu trúc sau này. Vườn quốc gia Ba Bể được công nhận là Vườn di sản ASEAN cuối năm 2004. Xem thêm
                    Vườn Quốc gia Việt Nam

                    CON SUỐI NGUỒN HẠNH PHÚC
                    Hoàng Kim
                    Tặng con Hoàng Tố Nguyên

                    Mẹ đi về quê ngoại để sinh con
                    Trời tháng Sáu xanh một màu thương nhớ
                    Ba mong con mấy đêm liền không ngủ
                    Ngày hai mươi con khóc chào đời.

                    Con mang về Ba Mẹ một nguồn vui
                    Hạnh phúc trăm năm, niềm ao ước lớn
                    Mong mỏi chứa chan, tình yêu trọn vẹn
                    Bao yêu thương âu yếm rộn trong lòng.

                    Ba vui mừng chọn đặt tên con
                    Cặp tên đẹp giữa muôn ngàn từ ngữ
                    Cái tên vì con mà thành rực rỡ
                    Con hãy làm tên đẹp hóa bài ca.

                    Con Tố Nguyên của Mẹ và Ba
                    Hoàng Tố Nguyên ngân nga niềm hạnh phúc
                    Mẹ cùng con
                    Thủy Nguyên thành chữ kép
                    Con suối nguồn hạnh phúc đầu tiên

                    Hoàng Tố Nguyên 20.6.1983
                    HK

                    THƠ CHO CON
                    Hoàng Kim
                    Thương yêu tặng con
                    Hoang Long

                    Con!
                    Thân thương một tiếng gọi
                    Hạnh phúc bật nên lời
                    Lòng Cha bồi hồi
                    Sung sướng gọi:
                    Con!

                    Cha đi công tác xa
                    Mong đợi Con, từng ngày chờ thư Mẹ
                    Thư đến!
                    Con ra đời!
                    Cha run lên vì mừng
                    Thao thức suốt đêm
                    Không ngủ

                    Bạn bè vây quanh Cha
                    Trân trọng niềm vui thiêng liêng
                    Nâng cốc chúc Cha
                    Hạnh phúc!

                    Tiếng Con ngọt ngào môi Cha
                    Dào dạt lòng Cha vỗ mãi
                    Có Con
                    Nối cuộc đời Cha
                    Gấp đôi
                    Có Con
                    Đan giữa cuộc đời
                    Hạnh phúc

                    Con là sợi dây máu thịt
                    Yêu thương gắn Mẹ và Cha
                    Có Con
                    Cha thấy cuộc đời ý nghĩa hơn
                    Cuộc sống – Tình yêu – Sự nghiệp
                    Hai Con là hai con mắt
                    Cửa sổ tâm hồn Cha
                    Dẫu đời Cha nhiều chông gai
                    Trái chín cuộc đời vẫn ngọt
                    Con là giấc mơ trong trẻo
                    Là ban mai tươi vui
                    Là viên ngọc trao đời
                    Là hương hoa hạnh phúc

                    Ước vọng cuộc đời Cha
                    Có Con đi nối con đường sự nghiệp
                    Con đứng trên vai Cha
                    Vươn tới những chân trời mơ ước

                    Hai Con
                    Hai viên ngọc
                    Chị con và Con
                    Mẹ con dịu hiền hơn
                    Mẹ con đảm đang hơn
                    Cha bớt vụng về mỗi việc làm nho nhỏ
                    Con trở thành ngọn lửa
                    Sưởi ấm lòng Mẹ Cha
                    Khi mỗi ngày khó khăn
                    Trong trẻo tiếng Con
                    Mẹ Cha hết mệt
                    Con là niềm vui lớn nhất
                    “Con hơn Cha nhà có phúc”
                    Cha mong dồn cho Con.

                    Lớn lên
                    Con sẽ hỏi Cha
                    Sao Cha đặt tên Con là Hoàng Long?
                    Con ơi!
                    Tên Con là khúc hát yêu thương
                    Của lòng Cha Mẹ
                    Cha Mẹ thương nhau
                    Vì qúy trọng những điều ân nghĩa
                    Sự nghiệp và tình yêu
                    Những ngày gian khổ
                    Cùng nghiên cứu củ sắn, củ khoai
                    Con là giống khoai Hoàng Long
                    Tỏa rộng nhiều vùng đất nước
                    Dẫu không là trái thơm qủa ngọt
                    Nhưng là niềm vui người nghèo
                    Để Cha nhớ về quê hương
                    Khoai sắn bốn mùa vất vả
                    Để Cha nhớ những ngày gian khổ
                    Năm năm
                    Cơm ngày một bữa
                    Khoai sắn không phụ lòng
                    Để Cha nhớ về
                    Lon khoai nghĩa tình
                    Nắm khoai bè bạn
                    Gom góp giúp Cha ăn học
                    Khi vào đời
                    Cha gặp Mẹ con
                    Cho nên:
                    Cha muốn Con
                    Trước khi làm những điều lớn lao
                    Hãy biết làm củ khoai, củ sắn
                    Hãy hướng tới những người lao động
                    Nhớ quê nghèo cắt rốn, chôn rau

                    Lớn lên
                    Con sẽ hỏi cha
                    Sao Cha đặt tên con Hoàng Long?
                    Long là rồng
                    Con là đậu rồng
                    Là công trình thứ hai Mẹ Cha nghiên cứu
                    Mẹ con chọn hạt
                    Cha gieo nên con
                    Vất vả gian nan
                    Hứa hẹn một mùa gặt hái
                    Con là tháng ngày mong đợi
                    Là niềm vui đóng góp cho đời
                    Từ hạt đậu củ khoai
                    Cha Mẹ trao Con sự nghiệp
                    Cha nhớ câu đối trăm năm
                    Về một gia đình hạnh phúc
                    “Sáng khoai, trưa khoai, tối khoai
                    ngày khoai ba bữa
                    Cha đỗ, mẹ đỗ, con đỗ
                    đều đỗ cả nhà”
                    Chị con và Con
                    Là mong ước
                    Của Mẹ và Cha

                    Lớn lên
                    Con sẽ hỏi Cha
                    Sao Cha đặt tên con Hoàng Long?
                    Long là rồng
                    Nghĩa mẹ tạo nền
                    Công cha xây móng
                    Trước mắt con là sông dài, biển rộng
                    Ước mong con bay lên
                    Con hãy đi đến cùng
                    Mục đích của con
                    Làm được những điều cao cả
                    Hãy cố gắng không ngừng
                    Kiên gan
                    Bền chí
                    Ước mơ và hiện thực
                    Hôm nay và mai sau
                    Nghị lực là thước đo cuộc đời
                    Hai chữ đầu tiên Con học làm người
                    Phải học hai điều NHÂN NGHĨA

                    Cha mong Con lớn lên
                    Ít nếm trãi khó khăn, vất vả
                    Nhưng đừng bao giờ quên
                    Những ngày đói khổ
                    Thời thơ ấu của Cha
                    Mồng Ba tháng Giêng ngày mất của Bà
                    Hai mươi tháng Mười ngày ông Mỹ giết
                    Ngày mà cửa nhà tan nát
                    Đói nghèo Bác dắt dìu Cha
                    Tuổi thơ thì bắt ốc, mò cua
                    Lớn một chút trồng khoai, dạy học
                    Qua danh lợi hiểu vinh, hiểu nhục
                    Trãi đói nghèo biết nghĩa, biết ân
                    Phan Thiết là nơi Mẹ đã sinh Con
                    Ông Bà ngoại nuôi cho Con khôn lớn
                    Tuổi thơ của Con lớn trong yên ấm
                    Tao nôi êm ả, thanh bình
                    Ru cho Con “uống nước nhớ nguồn”
                    Khi con lớn đừng quên điều HIẾU THẢO

                    Cha say viết về Con
                    Kể về Con
                    Thơ cho Con
                    Cô bác vây quanh Cha
                    Gật gù
                    Thông cảm

                    Thơ chắp mối
                    Từng vần,
                    Từng mảng
                    Câu thơ chưa chỉnh lời
                    Nhưng tứ thơ
                    Dồn dập
                    Bối hồi
                    Hạnh phúc lớn
                    Trong lòng Cha
                    Ngân mãi

                    (*) Hoàng Long sinh đêm Noel 24 12 1985

                    Bài chọn lọc ngày 20 tháng 6 và 24 tháng 12: Thơ cho con; Chị Em Đêm Giáng Sinh; Ngày mới lời yêu thương; Nếp nhà và nét đẹp văn hóa; Cánh cò bay trong mơ; Nguyễn Hiến Lê sao sáng trời Nam; Thông tin tại http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlong

                    HoangKim35

                    Bài viết mới trên DẠY VÀ HỌC
                    https://hoangkimvn.wordpress.com bấm vào đây cập nhật mỗi ngày

                    Video yêu thích

                    Chỉ tình yêu ở lại
                    Ngày hạnh phúc của em
                    Giúp bà con cải thiện mùa vụ
                    Quà tặng cuộc sống yêu thích
                    Vietnamese food paradise
                    KimYouTube

                    Trở về trang chính
                    Hoàng Kim Long, Ngọc Phương NamThung dungDạy và Học, Việt Nam Học, Cây Lương thực Việt Nam, Tình yêu Cuộc sống, CNM365; Kim on LinkedIn Kim on Facebook Kim on witter

                    Xem tiếp >>

                      Dạy và học 19 tháng 6(19-06-2021)

                     

                     

                    DẠY VÀ HỌC 19 THÁNG 6
                    Hoàng Kim


                    CNM365 Tình yêu cuộc sống   Nguyễn Du tiếng tri âm; Lên đỉnh Thiên Môn Sơn; Lúa sắn Việt Châu Phi; Trung Quốc một suy ngẫm; Thầy bạn trong đời tôi; Ngày 19 tháng 6 năm 1924, Phạm Hồng Thái ném lựu đạn nhằm ám sát toàn quyền Đông Dương Martial Merlin tại tô giới Pháp ở Quảng Châu, Trung Quốc, sau đó tự vẫn tại Châu Giang. Ngày 19 tháng 6 năm 1944,  Chiến tranh thế giới thứ hai: Trận chiến biển Philippines bắt đầu giữa Hải quân Mỹ và Hải quân Nhật Bản.  Ngày 19 tháng 6 năm 1945, Mao Trạch Đông được bầu làm Chủ tịch Uỷ ban Trung ương của Đảng Cộng sản Trung Quốc, ông liên tục giữ chức vụ này cho đến khi từ trần. Bài chọn lọc ngày 19 tháng 6: Nguyễn Du tiếng tri âm; Lên đỉnh Thiên Môn Sơn; Lúa sắn Việt Châu Phi; Trung Quốc một suy ngẫm; Thầy bạn trong đời tôi; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimhttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-19-thang-6/

                     

                    Nguyen Du

                     

                    NGUYỄN DU TIẾNG TRI ÂM
                    Hoàng Kim

                    Nguyễn Du tiếng tri âm là lời bình kiệt tác của Nguyễn Du Tiếng đàn Kiều ở 4 cảnh ngộ.tại  truyện “Thúy Kiều”. Chính sử triều Nguyễn ghi “Du rất giỏi về thơ, làm thơ quốc âm rất hay, khi sang sứ nước Thanh về, có tập thơ “Bắc hành” và truyện “Thúy Kiều” lưu hành ở đời. Thúy Kiều nguyên mẫu là ai?  Hồ Xuân Hương là ai? “Tỏ ý” “Thuật ý kiêm trình hữu nhân Mai Sơn Phủ” liệu có phải của Hồ Xuân Hương hay không? Bài viết “Nguyễn Du tiếng tri âm” góp phần sáng tỏ câu chuyện ấy. Nội dung trao đổi gồm bốn ý: 1) Hồ Xuân Hương là ai? 2) Thúy Kiều luận anh hùng; 3) Mai Hạc vầng trăng soi. 4) Nguyễn Du tiếng tri âm; Thông tin nghiên cứu lịch sử văn hóa này là sự tiếp nối bài Nguyễn Du Hồ Xuân Hương .

                    HỒ XUÂN HƯƠNG LÀ AI?

                    Hồ Phi Mai là nguyên danh, Hồ Xuân Hương là biểu tự, Cổ Nguyệt Đường là bút hiệu Hồ Xuân Hương bà chúa thơ nôm, tác giả của Lưu Hương ký, quê ở Quỳnh Đôi, có quan hệ mật thiết với họ Hồ nhà Tây Sơn. Hồ Xuân Hương là tác giả của các tác phẩm thơ nổi tiếng: Bánh trôi nước, Kẽm Trống, Nhớ người cũ, viết gửi Cần Chánh Học Sĩ Nguyễn Hầu, Khóc ông phủ Vĩnh Tường, Khóc Tổng Cóc, Làm lẽ, Tự tình, Mời trầu, Đề đền Sầm Nghi Đống, Đèo Ba Dội, Hang Cắc Cớ, Cái quạt, Đánh đu, Thiếu nữ ngủ ngày, Không chồng mà chửa, Chùa Quán Sứ, Sư hổ mang, Sư bị ong châm, Quan thị, Mắng học trò dốt. Hồ Xuân Hương là một phụ nữ tài hoa nhưng bất hạnh. Hồ Xuân Hương có tới ba đời chồng là Tổng Cóc, Tri phủ Vĩnh Tường và Tham hiệp trấn Yên Quảng Trần Phúc Hiển người đã bị kết án năm 1816 và bị xử tử năm 1818. Hồng nhan đa truân. Con người đó liệu có phải là nguyên mẫu Thúy Kiều “Làn thu thủy, nét xuân sơn. Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh. Một hai nghiêng nước nghiêng thành. Sắc đành đòi một, tài đành họa hai. Thông minh vốn sẵn tính trời. Pha nghề thi họa, đủ mùi ca ngâm.  Cung, thương làu bậc ngũ âm. Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương. Khúc nhà tay lựa lên chương. Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân. Phong lưu rất mực hồng quần. Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê” Câu chuyện này cần hiểu như thế nào cho đúng.

                    KIỀU NGUYỄN LUẬN ANH HÙNG

                    Năm Bính Ngọ (1786) Nguyễn Du hai mươi mốt tuổi.

                    Loạn kiêu binh tại kinh đô Thăng Long lên cao trào. Quân kiêu binh kéo nhau hàng trăm, hàng ngàn đi cướp phá các làng. Hễ có đứa nào đi lẻ loi thì dân làng lại bắt giết đi nên quân và dân xem nhau như cừu địch. Các văn thần võ tướng đều bó tay. Tham tụng Bùi Huy Bích phải dỗ dành mãi mới tạm yên. Các vụ mất mùa liên tiếp xẩy ra, giá gạo tăng vọt và kiêu binh cướp phá làm hàng nghìn người chết đói. Các trấn Quảng Yên, Kinh Bắc, Thái Nguyên lâm vào cảnh tàn phá, nạn đói và nổi dậy lan rộng.

                    Tây Sơn chăm chú theo dõi sự suy đồi của họ Trịnh. Ý đồ Tây Sơn đối với phía Bắc đã được Nguyễn Hữu Chỉnh đổ thêm dầu. Nguyễn Hữu Chỉnh là môn hạ của Quận Huy Hoàng Đình Bảo, lập kế rước Tây Sơn về dẹp kiêu binh để báo thù cho chủ.

                    Nguyễn Hữu Chỉnh là người huyện Chân Phúc, phủ Đức Quang, Trấn Nghệ An nay là xã Phúc Thọ, huyện Nghi Lộc, Nghệ An, đỗ hương cống năm 16 tuổi, tục gọi là cống Chỉnh. Ông hào hoa, cơ trí, nhiều can đảm lại có tài biện bác, trước theo Hoàng Ngũ Phúc đi đánh giặc bể, giặc sợ gọi là chim dữ. Sách “Khâm định Việt sử thông giám cương mục” chép: “Hữu Chỉnh, lúc trẻ tuổi đỗ hương tiến, là người hào phóng không bó buộc vào khuôn phép. Du lịch kinh sư, Hữu Chỉnh vào yết kiến Hoàng Ngũ Phúc. Ngũ Phúc khen là có tài khác thường, dùng làm gia khách. Khi Ngũ Phúc vào xâm lấn trong Nam, cho Hữu Chỉnh đi theo quân thứ, giữ công việc thư kí, rồi sai đến Tây Sơn khuyên Văn Nhạc (tức Nguyễn Nhạc) quy thuận với triều đình, được Văn Nhạc kính trọng”. Nguyễn Hữu Chỉnh sau khi quận Việp mất, tiếp tục làm thủ hạ cho cháu quận Việp là quận Huy Hoàng Đình Bảo, người được giao làm phụ chính cho Điện Đô vương Trịnh Cán, con nhỏ của Tĩnh Đô vương Trịnh Sâm lên ngôi lúc mới 5 tuổi. Khi quận Huy bị kiêu binh giết, Nguyễn Hữu Chỉnh bàn với trấn thủ Nghệ An là Võ Tá Giao việc tự lập nhưng Giao sợ không dám theo nên Chỉnh bỏ vào với vua Tây Sơn Nguyễn Nhạc và được vua Thái Đức Nguyễn Nhạc rất tín nhiệm. Tây Sơn nhiều phen dòm ngó Phú Xuân nhưng còn nghe ngóng chưa dám quyết. Gặp khi Phạm Ngô Cầu sai Nguyễn Phu Như vào do thám Tây Sơn, không ngờ Nguyễn Hữu Chỉnh quen biết Phu Như nên dò biết rõ tình hình Thuận Hóa và hiến kế cho vua Thái Đức.

                    Nguyễn Nhạc nắm được tình hình Thuận Hóa trấn thủ Phạm Ngô Cầu là người nhu nhược, vô mưu, tham lam, ham làm giàu, mê tín, đa nghi và Bắc Hà biến động nên chớp thời cơ sai em là Nguyễn Huệ làm tiết chế, rể là Vũ Văn Nhậm làm tả quân đô đốc, Nguyễn Hữu Chỉnh làm hữu quân đô đốc đem quân thủy bộ ra đánh Thuận Hóa.Nguyễn Lữ đưa quân tiếp ứng ở mặt sau. Nguyễn Huệ phái một cánh quân thủy tới thẳng sông Gianh để chiếm các công sự phòng thủ và ngăn chặn mọi tiếp viện từ phía Bắc, hai cánh quân thủy bộ cùng lúc tiến đánh Phú Xuân. Phạm Ngô Cầu trúng kế mê hoặc lập đàn chay cầu siêu, lại bị kế li gián của Nguyễn Hữu Chỉnh nên nhanh chóng thất bại. Biết Phạm Ngô Cầu tính đa nghi, Nguyễn Hữu Chỉnh viết thư chiêu hàng gửi phó tướng Hoàng Đình Thể lại giả vờ cho người đưa nhầm cho Phạm Ngô Cầu. Khi quân Tây Sơn đánh thành, Hoàng Đình Thể đem quân bản bộ ra đối trận bắn hết thuốc đạn, Phạm Ngô Cầu đóng chặt cửa thành không ra cứu viện nên Hoàng Đình Thể và hai con cùng tỳ tướng Vũ Tá Kiên đều bị chết. Phạm Ngô Cầu kéo cờ trắng ra hàng bị giải về Quy Nhơn định tội phải chém. Toàn bộ vùng Thuận Hóa rơi vào tay Tây Sơn chỉ trong mấy ngày.

                    Nguyễn Huệ hội tướng bàn định việc trấn giữ Thuận Hóa. Nguyễn Hữu Chỉnh nói: Tướng quân phụng mệnh ra đánh một trận mà bình được Thuận Hóa, binh uy chấn động Bắc Hà. Phép dùng binh, có đủ thời, thế và cơ thì đánh đâu cũng được. Bắc Hà bây giờ tướng lười, quân kiêu, triều đình không kỹ cương, nay nhân uy thanh nếu đánh là thắng, xin đừng bỏ lỡ. Nguyễn Huệ nói: Bắc Hà có nhiều nhân tài không nên coi thường. Hữu Chỉnh đáp lại: Nhân tài Bắc Hà chỉ có một mình Chỉnh, nay Chỉnh đã bỏ đi thì nước không còn ai, xin ông chớ ngại. Nguyễn Huệ cười nói: Người khác thì ta không ngại mà chỉ ngại ông đó thôi. Chỉnh biến sắc nói: Tôi tài hèn, nói vậy là để tỏ cho ông biết, Bắc Hà không còn nhân tài mà thôi. Nguyễn Huệ lấy lời nói ngọt để yên lòng Chỉnh và bảo rằng: Nhà Lê làm vua đã mấy trăm năm nay, bây giờ cướp lấy, chưa chắc lòng người đã theo mình. Hữu Chỉnh nói: Nay Bắc Hà có vua lại có có chúa, ấy là một sự cổ kim đại biến. Họ Trịnh tiếng là phù Lê, thực là hiếp chế, cả nước không ai phục. Vả xưa nay không ai làm gì để giúp nhà Lê là vì sợ cái thế mạnh đó mà thôi, nay ông phù Lê diệt Trịnh thì thiên hạ ai chẳng theo ông. Nguyễn Huệ nói: Ông nói phải lắm nhưng ta chỉ phụng mệnh đi đánh Thuận Hóa mà thôi, chứ không phụng mệnh đi đánh Bắc Hà, sợ rồi mang tội trái lệnh thì làm thế nào? Hữu Chỉnh nói: Trái lệnh là tội nhỏ, việc ông làm là công to. Tướng ở ngoài có điều không theo mệnh vua, ông lại không biết hay sao?.

                    Nguyễn Huệ để anh là Nguyễn Lữ ở lại giữ thành Phú Xuân, cử Nguyễn Hữu Chỉnh đem thủy binh đi tiên phong vào cửa Đại An đánh lấy kho lương ở bên sông Vị Hoàng. Nguyễn Huệ tự đem binh đi theo sau, ước với Hữu Chỉnh đến sông Vị Hoàng đốt lửa lên làm hiệu. Đại quân Tây Sơn đánh như gió cuốn ra bắc.

                    Trịnh Tự Quyền đem quân vào tăng cường cho Nghệ An dềnh dàng chưa tới nơi thì Vị Hoàng đã mất. Trấn thủ Sơn Nam Bùi Thế Dận đưa quân bộ về ứng cứu, đô đốc thủy quân Đinh Tích Nhưỡng dàn chiến thuyền giữ cửa sông Luộc. Nguyễn Huệ lợi dụng gió đông nam thổi mạnh, đêm đến nước sông lên to sai lấy hình nộm đặt lên thuyền rồi đánh trống kéo cờ thả cho thuyền trôi đi. Đinh Tích Nhưỡng dàn thuyền chống giữ và dùng súng để bắn, đến lúc biết bị lừa thì hết cả thuốc đạn không chống nổi quân Tây Sơn phải bỏ thuyền mà chạy. Quân của Bùi Thế Dận và Trịnh Tự Quyền cũng tan cả, Nguyễn Huệ hạ được thành Sơn Nam, một mặt truyền hịch đi các lộ nói danh nghĩa phù Lê diệt Trịnh, một mặt thần tốc đánh thốc vào thành Thăng Long. Quân Trịnh rệu rã thua trận, tan vỡ chạy.

                    Bấy giờ ở Thăng Long, kiêu binh không sai khiến được, Trịnh Khải gọi Hoàng Phùng Cơ ở Sơn Tây về cứu viện. Quân Tây Sơn tiến lên đánh tan quân thủy của Đinh Tích Nhưỡng và quân bộ của Hoàng Phùng Cơ. Đoan Nam Vương Trịnh Khải đích thân mặc áo nhung y, cầm cờ lên voi thúc quân chặn đánh Nguyễn Huệ ở bến Long Tân nhưng thế quân Tây Sơn quá mạnh nên phải chạy về Sơn Tây rồi bị người dân là Nguyễn Tranh lừa bắt được, áp giải đi nộp cho quân Tây Sơn. Dọc đường, Trịnh Khải lấy gươm cắt cổ mà chết.

                    Nguyễn Huệ sai lấy vương lễ mà chôn cất chúa Trịnh rồi vào thành Thăng Long yết kiến vua Lê. Họ Trịnh giúp nhà Lê trung hưng lập ra nghiệp chúa truyền từ Trịnh Tùng đến Trịnh Khải được 216 năm (1570-1786) thì chấm dứt. Sau khi Nguyễn Huệ yết kiến vua Lê Hiển Tông, Nguyễn Hữu Chỉnh lại sắp đặt Nguyễn Huệ lấy công chúa Lê Ngọc Hân, con gái thứ của vua Lê. Tại kinh kỳ, phe cánh họ Trịnh còn đông, Bấy giờ mọi người mới hiểu rõ Hữu Chỉnh rước Tây Sơn ra để trả thù cho chủ (chứ không phải Nguyễn Khản).

                    Nguyễn Khản ở Hà Tĩnh nghe Tây Sơn ra Bắc đã lập tức theo ghe mành ra Bắc giúp chúa Trịnh . Ông chủ trương đóng quân theo lối vẩy sộp kiểu phòng ngự chiều sâu nhiều tầng (theo Lê Quý Kỷ sự), nhưng kiêu binh vu cáo ông rước giặc Tây Sơn về. Nguyễn Khản phải bỏ chạy, ông mất trong hoàn cảnh đó ở Thăng Long, thi hài ông được đưa về an táng tại Hà Tĩnh. Khi kinh thành thất thủ, nhà Trịnh mất, Nguyễn Điều buồn uất ức thành bệnh mất ngày 31-7-1786. Mộ được an táng xã Đại Đồng, huyện Nam Đàn, Nghệ An, sau được cải táng về xã Sơn An, huyện Hương Sơn. Các con và gia đình ông lập chi Nguyễn Tiên Điền tại đây. Chi họ này ở đó có trên 400 người.

                    Nguyễn Du ở đâu trong năm này? Trong cơn lốc của các sự biến, người đời sau (Nguyễn Thế Quang với tiểu thuyết Nguyễn Du) cho rằng Nguyễn Du đã gặp Nguyễn Huệ tại điện Kính Thiên. Viên võ tướng Nguyễn Du trẻ tuổi cao lớn với thanh bảo kiếm của Việp Quân Công Hoàng Ngũ Phúc trao tặng trước đây đã trầm tĩnh đối mặt với người anh hùng Nguyễn Huệ oai chấn Bắc Hà.

                    Năm Đinh Mùi (1787) Nguyễn Du 22 tuổi.

                    Nguyễn Nhạc từ Thăng Long trở về, phong cho Nguyễn Huệ làm Bắc Bình Vương trấn thủ Phú Xuân, còn mình thì dẫn tùy tùng về Quy Nhơn, tự xưng làm Trung Ương Hoàng Đế, phong cho Nguyễn Lữ làm Đông Định Vương ở đất Gia Định, phong Nguyễn Huệ làm Bắc Bình Vương ở đất Thuận Hóa, lấy Hải Vân làm giới hạn. Nguyễn Nhạc hỏi những báu vật vàng bạc đoạt được ở phủ chúa Trịnh. Nguyễn Huệ từ chối không nộp. Nguyễn Huệ muốn kiêm quản cả đất Quảng Nam nhưng Nguyễn Nhạc không cho. Cùng thêm một số chuyện hiềm khích cơ mật khác. Nguyễn Huệ bèn phát hịch kể tội Nhạc , rồi đem quân vào vây thành Quy Nhơn. Nguyễn Nhạc đóng cửa thành cố thủ. Đặng Văn Trấn, tướng của Nguyễn Nhạc để tham đốc là Trần Tú ở lại giữ thành Gia Định còn mình tự đem quân về cứu viện nhưng khi đến Phú Yên thì bị quân của Nguyễn Huệ bắt. Nguyễn Huệ vây Quy Nhơn ngặt đến nỗi Nguyễn Nhạc phải thân lên thành mà kêu khóc, gọi Nguyễn Huệ mà bảo rằng: ” Nỡ lòng nào lại nồi da nấu thịt thế này?” Nguyễn Huệ mới động lòng rút quân về Thuận Hóa. Hai anh em tuy hòa giải nhưng thực lòng vẫn oán giận nhau.

                    Nguyễn Ánh sau trận thất bại năm Giáp Thìn (1784)  sang lánh nạn ở Xiêm (Thái Lan) nóng lòng mong chờ viện binh nhưng Nguyễn Huệ đã khéo sai sứ sang thông hiếu với Thái Lan. Nguyễn Ánh thấy ở nước người  lâu ngày không tiện nên bí mật về nước theo kế của Tống Phước Đạm. Trước hết Nguyễn Ánh sai Nguyễn Văn Thành, Nguyễn Văn Liêm về Hà Tiên dò xét tình hình, khâu nối lực lượng., Phạm Văn Nhơn về Hòn Tre sửa soạn tàu bè, cai cơ Ngoạn, cai cơ Trung đi mua thóc dự trữ sẵn lương thực, rồi nhân đêm tối, không từ biệt vua Xiêm mà ra về vào ngày Bính Dần tháng Bảy. Khi Nguyễn Ánh về đến Hòn Tre mới biết chuyện cai cơ Trung giết chủ thuyền buôn Thái Lan để cướp của cải. Ông đã lệnh chặt đầu cai cơ Trung gửi đến vua Thái để tạ lỗi. Nguyễn Ánh cũng thu phục bọn cướp biển Hà Hỉ Văn đảng Bạch Liên Giáo nay làm cướp biển Hà Tiên. Ông cũng thu phục được danh tướng Nguyễn Văn Trương trấn thủ Long Xuyên.  Tống Phước Đạm lợi dụng sự bất hòa của nhà Tây Sơn lập kế li gián Đông Định Vương Nguyễn Lữ là trấn tướng Gia Định và Phạm Văn Tham là phó tướng của Nguyễn Lữ.  Tống Phước Đạm bắt được vợ lẽ của hộ đốc Lý tướng Tây Sơn và đã làm mật thư giả của Nguyễn Nhạc gửi Nguyễn Lữ, trong thư nói Phạm Văn Tham là phe đảng của Nguyễn Huệ và khiến Nguyễn Lữ giết đi. Tống Phước Đạm giao thư cho vợ lẽ của hộ đốc Lý mang về dụ hàng Phạm Văn Tham.  Tham xem thư cả sợ bèn giương cờ trắng (hiệu kỳ của Nguyễn Ánh) kéo về dinh lũy của Nguyễn Lữ. Đông Định Vương tưởng Tham đã mang quân về hàng Nguyễn Ánh rồi, sợ Tây Sơn quân mỏng không  thể địch nổi nên bỏ chạy về Quy Nhơn. Từ đó, Phạm Văn Tham một mình trấn giữ Gia Định. Quân Tây Sơn và quân Nguyễn Ánh giao chiến một số trận lớn nhỏ. Thế lực Nguyễn Vương ngày một lớn mạnh. Thái úy Nguyễn văn Hưng từ Quy Nhơn mang ba mươi chiến thuyền vào tiếp ứng. Nguyễn Ánh cố thủ.  Ít lâu sau, Nguyễn Văn Hưng chuyển thóc gạo đầy các thuyền rồi rút đi. Nguyễn Ánh chia bình đóng những nơi hiểm yếu chẹn đường quân Tây Sơn.

                    Nguyễn Hữu Chỉnh giữa lúc này đem binh từ Nghệ An tiến gấp về Thăng Long để bảo vệ vua. Nguyễn Hữu Chỉnh đuổi Trịnh Bồng, tôn phò vua Lê Chiêu Thống. Năm 1787, khi họ Trịnh thất bại trong việc khôi phục lại địa vị, Trịnh Bồng chạy khỏi kinh thành, Lê Chiêu Thống ngầm cho người đốt phủ chúa đi. Đám cháy lan khắp hai phần ba kinh thành và cháy trong mười ngày liền làm mất đi một quần thể kiến trúc đẹp của Thăng Long – Hà Nội. Điều này được sách Hoàng Lê nhất thống chí chép như sau: Sớm hôm sau, hoàng thượng mới biết là Án đô vương đã trốn đi lúc ban đêm tức thì ngầm sai người phóng hoả đốt hết phủ chúa. Khi phủ cháy, khói lửa bốc lên ngút trời, hơn mười ngày chưa tắt.  Lê Chiêu Thống nghe lời Nguyễn Hữu Chỉnh cho vét hết chuông đồng, tượng đồng ở các chùa, đền trong nước đem đúc tiền dùng vào việc quân. Sách Lê Quý kỷ sự chép: Người đương thời có câu mỉa mai: “Thiên hạ thất tự chung, chung thất, nhi đỉnh an tại! Hoàng thượng phần vương phủ, phủ phần, tức điện diệc không!” Nghĩa là: “Thiên hạ mất chuông chùa, chuông đã mất, vạc dựa vào đâu Hoàng thượng thiêu phủ Chúa, phủ bị thiêu, điện trơ ra đó!”

                    Vua Lê Chiêu Thống cũng theo kế của Nguyễn Hữu Chỉnh sai người ngầm mang nhiều vàng bạc đưa cho Nguyễn Văn Duệ để giết Võ Văn Dũng và lấy sông Gianh làm ranh giới như cũ. Vũ Văn Nhậm dò biết mưu ấy bèn cấp báo cho Nguyễn Huệ. Huệ liền sai người ra Nghệ An bắt Duệ nhưng Duệ thấy động đã đem quân thuộc hạ theo đường rừng trốn về Quy Nhơn. Nguyễn Huệ sai Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân theo quyền tiết chế Vũ Văn Nhậm đem quân ra Bắc hỏi tội Nguyễn Hữu Chỉnh. Chỉnh cho thuộc tướng chống giữ nhưng đều bị đánh tan. Vua Lê Chiêu Thống sai Lê Quýnh cùng hơn 30 người tôn thất đem bà Hoàng Thái hậu và Hoàng phi, Hoàng tử chạy lên Cao Bắng. Chỉnh thì cướp đường rước vua Lê Chiêu Thống chạy lên Kinh Bắc về đóng ở núi Mục Sơn đất Yên Thế.

                    Vũ Văn Nhậm sai bộ tướng Nguyễn Văn Hòa truy sát và đuổi kịp Nguyễn Hữu Chỉnh, bắt sống đóng gông giải về Thăng Long.  Nhậm kể tội rồi sai chặt chân tay, phanh thây Chỉnh. Nhậm tìm vua Lê Chiêu Thống không được bèn tôn Sùng Nhượng Công Lê Duy Cẩn lên làm Giám Quốc để thu phục lòng người. Thầy đề lại Giám Quốc mỗi ngay phải sang chầu chực ở dinh Vũ Văn Nhậm. Nhậm tỏ ý kiêu ngạo. Ngô Văn Sở mật trình tấu sự tình về Nguyễn Huệ.

                    Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ lập tức truyền lệnh kéo quân kỵ gấp đường ra Thăng Long, nửa đêm đến nơi bắt Vũ Văn Nhậm giết đi, đổi đặt quan quân, đặt quan lục bộ và các quan trấn thủ, để Lê Duy Cẩn làm Giám Quốc, chủ trương việc tế lễ để giữ tông miếu tiền triều, dùng Ngô Thì Nhậm làm Lại bộ tả thị lang, cùng bọn Ngô Văn Sở ở lại giữ đất Bắc Hà, còn Nguyễn Huệ thì chọn ngày về nam. Vũ Văn Nhậm là con rể và là tướng giỏi của Nguyễn Nhạc thực hành mưu lược phân phòng kiềm chế nguyễn Huệ, Nay Nhậm bị Huệ giết mối bất hòa của nhà Tây Sơn càng sâu sắc khó hàn gắn.

                    Mẹ của vua Lê Chiêu Thống chạy lên Cao Bằng cùng với Đốc trấn Nguyễn Huy Túc chạy sang đất nhà Thanh xin với Tổng đốc Lưỡng Quảng xin cứu viện. Tôn Sĩ Nghị dâng biểu lên vua Càn Long xin điều quân Lưỡng Quảng, Vân Nam, Quý Châu chia làm đường sang cứu viện cho vua Lê. Lúc này vua Chiêu Thống đã chạy lánh vào Bảo Lộc, Trấn Ninh liên kết với vua Lào (Vạn Tượng) và vùng cần vương ở tây Nghệ An..

                    Nguyễn Du năm ấy đi lại giữa Thăng Long, Quảng Tây, Kinh Bắc, Hải Dương, Nghệ An nhưng đang là lúc “ngọa hổ tàng long” nên Nguyễn Du hành tung bí mật, rất ít lộ diện. Những sử liệu dưới đây cho thấy các địa điểm ẩn hiện của ông:

                    Nguyễn Thu trong  “Lê Quý Kỷ Sự” có nói đến cuộc khởi nghĩa tại Tư Nông của cựu Trấn Thủ Thái Nguyên Nguyễn Đăng Tiến, tước Quản Vũ Hầu, bị tướng Tây Sơn bắt giải về cho Vũ Văn Nhậm. Nhậm trọng sự khí khái nên dụ hàng, sau đó cũng tha bổng và cho phép muốn đi đâu thì đi.  Họ đi sang Vân Nam. Nguyễn Quýnh quay trở về Hồng Lĩnh khởi nghĩa bị bắt và bị giết năm 1791 tròn 30 tuổi, dinh thự và làng Tiên Điền bị đốt sạch. Chi Nguyễn Tiên Điền tại đây với trên 400 người bị Tây Sơn tuyệt diệt,

                    Nguyễn Du đến Vân Nam, bị bệnh ba tháng mùa xuân. Hết bệnh, họ đi Liễu Châu và chia tay, Nguyễn Đại Lang về thăm quê nhà vùng Quế Lâm, cao sơn lưu thủy. Nguyễn Du đi giang hồ ba năm ở Trung Quốc trong áo mũ nhà sư mang danh Chí Hiên, từ Quảng Tây theo thuyền đi dọc sông và Hồ Động Đình đến Hán Khẩu, rồi theo sông Hán rồi lên Trường An viết bài Dương Quý Phi, Bùi Tấn Công mộ, Phân Kinh thạch đài, rồi lại theo kinh Đại Vận Hà đến Hàng Châu . Tại lời đề “tiểu dẫn” của “Thăng long cầm giả ca”, chính  Nguyễn Du đã nói rõ rằng những năm trước và sau cái Nguyễn Huệ ra Bắc lần 2 đến lúc Nguyễn Huệ chết, ông chủ yếu ở Thăng Long và “Lưu Hương ký” của Hồ Xuân Hương cũng trùng khớp và xác nhận về “ba năm vẹn” đó.

                    Tiến sĩ Nguyễn Trọng Chánh nhà Kiều học đã phát hiện thấy trong “Thanh Hiên thi tập” “có những bài tả cảnh tuyết, núi non trùng điệp, lá vàng, trưởng giả ăn mặc còn theo nhà Hán (không theo nhà Thanh để tóc bính đuôi sam, áo quần Mãn Châu), dân chúng theo lịch nhà Tần, xử dụng nhạc cụ “tù và” ? … Nguyễn Du có những câu thơ kỳ lạ: Tôi đọc kinh Kim Cương nghìn lượt?. Muôn dậm mũ vàng chiều nắng xế? Giang Bắc, Giang Nam cái túi không? Nguyễn Du làm gì mà đọc kinh Kim Cương trong ba năm, đội mũ vàng nhà sư đi muôn dậm (khoảng 5000 km), làm gì không tiền mà đi hết các sông phía bắc đến sông phía nam Dương Tử Giang ? Nguyễn Du ở đâu mà cách Trường An ngàn dậm về phía Nam ?Theo Nguyễn Hành, cháu Nguyễn Du, có viết ông có một cuộc đời giang hồ như cuộc đời làm quan : Giang hồ long miếu hai điều đủ, Thi họa cầm thư bốn nghệ tinh. Theo gia phả từ năm 1786 đến 1796 Nguyễn Du về quê vợ tại Quỳnh Hải, Thái Bình hợp cùng Đoàn Nguyễn Tuấn khởi nghĩa chống Tây Sơn. Nhưng điều này không đúng vì từ năm 1788 Đoàn Nguyễn Tuấn ra làm quan Tây Sơn và đi sứ trong đoàn 158 người năm 1790. Đoàn Nguyễn Tuấn có hai bài thơ viết tặng một văn nhân họ Nguyễn, gặp tại Hoàng Châu, Trung Quốc vào mùa thu bàn luận về văn chương sôi nổi chuyện gì ?, Đoàn Nguyễn Tuấn phải lên Nhiệt Hà nơi vua Càn Long đang nghỉ mát ? Văn nhân họ Nguyễn đi xe song mã về Nam và hẹn gặp lại tại nước nhà vào mùa xuân. Trên đường đi cớ gì mà Đoàn lại viết một bài thơ Vô Đề về hồng nhan đa truân khi gặp một ca nhi hát cho sứ đoàn tại bến sông Hán?.”

                    Nguyễn Du dẫn vợ con về quê bà vợ cả ở Thái Bình sống qua ngày. Đó cũng là thời gian ông sáng tác tập Thanh Hiên tiền hậu tập, Nguyễn Hưng Quốc đã nhận định như vậy trong bài  “Tết đọc lại Nguyễn Du”. … “tổng số 65 bài của tập thơ, có 17 bài nhắc đến hình ảnh bạch phát hay bạch đầu: “Bạch đầu đa hận tuế thời thiên” (Đầu bạc thường bực vì ngày tháng trôi mau); hay “Tráng sĩ bạch đầu bi hướng thiên” (Tráng sĩ đầu bạc bùi ngùi ngẩng lên trời) hay “Bạch phát hùng tâm không đốt ta” (Tóc bạc rồi, dù có hùng tâm, cũng chỉ biết ngồi suông than thở). Không biết ông bệnh gì, nhưng lúc nào cũng than bệnh: “Nhất nhất xuân hàn cựu bệnh đa” (Một nhà xuân lạnh, bệnh cũ lại nhiều); “Tam xuân tích bệnh bần vô dược” (Ba tháng xuân ốm liên miên, nghèo không có thuốc); “Cùng niên ngọa bệnh Tuế giang tân” (Suốt năm đau ốm nằm ở bến Tuế giang); “Đa bệnh đa sầu khí bất thư” (Lắm bệnh, hay buồn, tâm thần không được thư thái); “Thập niên túc tật vô nhân vấn” (Bệnh cũ mười năm, không ai thăm hỏi); “Giang hồ bệnh đáo kinh thời cửu” (Bệnh đến trong bước giang hồ đã lâu ngày). Đã bệnh lại còn nghèo. Phải ở nhờ nhà người khác: “Tiêu tiêu bạch phát ký nhân gia” (Đầu bạc bơ phờ ở nhờ nhà người). Hết nhờ người này sang nhờ người khác: “Lữ thực giang tân hựu hải tân” (Hết ăn nhờ ở miền sông lại đến miền biển). Lúc nào trong túi cũng rỗng không: “Giang nam giang bắc nhất nang không” (Một chiếc túi rỗng không, đi hết phía nam sông lại sang phía bắc sông). Thiếu mặc: “Tảo hàn dĩ giác vô y khổ” (Mới rét mà đã thấy khổ vì không áo). Có khi đói: “Táo đầu chung nhật vô yên hỏa” (Suốt ngày bếp không đỏ lửa). Ngay cả khi Nguyễn Du đã ra làm quan dưới triều Gia Long rồi, có năm vợ con vẫn đói: “Thập khẩu hài nhi thái sắc đồng” (Nhà mười miệng trẻ đói xanh như rau); “Thập khẩu đề cơ Hoành Lĩnh bắc” (Nhà mười miệng ăn đang kêu đói ở phía bắc Hoành sơn). Mười đứa trẻ ở đây chính là con của Nguyễn Du. (Gia phả ghi Nguyễn Du có 3 vợ: bà vợ đầu sinh một con trai tên Nguyễn Tứ; bà vợ thứ hai cũng sinh một con trai tên Nguyễn Ngũ; bà vợ thứ ba sinh mười con trai và sáu con gái; tổng cộng, như vậy, ông có 18 người con. Tuy nhiên, căn cứ vào tên người con đầu, Nguyễn Tứ, chúng ta có thể đoán là ông có ba người con khác, anh hay chị của Nguyễn Tứ, có lẽ đã chết lúc còn nhỏ hoặc ngay trong bào thai.) Đói đến độ có lúc phải xin ăn: “Cơ hàn bất giác thụ nhân liên” (Đâu ngờ phải đói rét để cho người thương). Nhưng buồn nhất có lẽ là cảm giác bất lực và bế tắc…”

                    Năm Mậu Thân (1788). Nguyễn Du 23 tuổi.

                    Tống Phước Đạm dâng kế cho Nguyễn Ánh: “Tây Sơn tuy lấy được Bắc Hà nhưng vua Lê Chiêu Thống và triều đình nhà Lê còn trốn tránh trong vùng rừng núi, nhất định sẽ cầu viện nhà Thanh. Nhân lúc Nguyễn Huệ đang bận đối phó ở phía Bắc chưa rỗi để mắt đến phía Nam. Nguyễn Nhạc và  Nguyễn Lữ ở phía Nam khó xoay trở. Chúa thượng nhân lúc này về chiếm đất Gia Định sẽ có thời cơ lớn”. Nguyễn Ánh nghe lời, đem đại quân về An Giang nhưng chưa kịp dựng đồn trại thì đã bị quân Tây Sơn tấn công. Quân hai bên giao chiến kịch liệt, quân của Thái bảo Phạm Văn Tham mới chịu lui. Thề lực Nguyễn Ánh ngày một nổi lên và có nhiều tướng giỏi. Tôn Thất Huy đóng ở Giồng Triệu. Lê Văn Quân đóng ở Giồng Trôm. Mạc Tử Sinh trấn thủ Hà Tiên. Phạm Văn Nhơn trấn thủ Long Xuyên. Trương Phước  Giáo, Nguyễn Đình Đắc, Tôn Thất Hội, Võ Văn Lượng, Nguyễn Văn Hiếu, Mạc Văn Tô, Trần Văn Tín, Đoàn Văn Khoa , … đều là những nghĩa dũng. Đặc biệt quân sư Tống Phước Đạm mưu kế sâu sắc, liệu việc như thần. Chu Văn Tiếp, Đỗ Thành Nhơn, Võ Tánh là Gia Định tam hùng. Nguyễn Ánh trao cho Võ Tánh giữ chức khâm sai Tổng nhung, chưởng cơ dinh Tiên phong, lại gả trưởng công chúa Nguyễn Thị Ngọc Du cho Võ Tánh. Từ ngày Nguyễn Ánh lên nối ngôi vua Nguyễn tháng 2 năm 1780, sau đó giết Đỗ Thanh Nhơn, thâu tóm quyền lực, cho đến năm 1788 chưa bao giờ thế lực quân Nguyễn mạnh đến như vậy. Nguyễn Ánh thu phục Gia Định lần thứ Tư nhằm ngày Đinh Dậu tháng 8 năm Mậu Thân (9.1788). Tướng Tây Sơn Phạm Văn Tham lui về giữ những điểm trọng yếu ở Ba Thắc và Biên Hòa, đồng thời cấp báo về Quy Nhơn để xin viện binh. Nguyễn Nhạc chần chừ không dám phát binh vì sợ quân Nam thừa cơ đánh úp Quy Nhơn trong khi Nguyễn Huệ đang bận ở mặt Bắc không thể kịp ứng cứu. Do Gia Định quân Tây Sơn không có cứu viện nên lực lượng Nguyễn Vương đã đánh rộng ra các địa bàn phía Nam và làm chủ vững chắc vùng Nam Bộ ngày nay.

                    Vua Lê Chiêu Thống tháng 5 năm 1788, chạy lánh vào Bảo Lộc, Trấn Ninh tìm kế đánh trả quân Tây Sơn thì mẹ và con trai Lê Chiêu Thống đã chạy lên Cao Bằng. Những bầy tôi nhà Lê là Đốc đồng Nguyễn Huy Túc, phiên thần Địch quận công Hoàng Ích Hiểu, tụng thần Lê Quýnh và Nguyễn Quốc Đống đã bảo vệ thái hậu và con trai Chiêu Thống qua cửa ải Thủy Khẩu chạy sang Long Châu nhà Thanh, gặp Tổng đốc Lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị và Tuần phủ Quảng Tây Tôn Vĩnh Thanh cầu xin cứu viện. Sách Cương mục viết: “Thái hậu đưa nguyên tử (con trai Chiêu Thống) đến yết kiến ở trong sân, gào khóc xin cứu viện. Bọn Sĩ Nghị tâu với vua Thanh rằng tự hoàng nhà Lê đương phải bôn ba, đối với đại nghĩa, ta nên cứu viện. Vả lại, An Nam là đất cũ của Trung Quốc, sau khi khôi phục nhà Lê, ta nhân đó, đặt lính thú để đóng giữ. Thế là vừa làm cho nhà Lê được tồn tại, vừa chiếm lấy được An Nam: thật là làm một chuyến mà được hai lợi.”

                    Vua Càn Long muốn nhân cơ hội đánh chiếm Đại Việt bèn sai Tổng đốc Lưỡng Quảng là Tôn Sĩ Nghị mang từ 18.000 đến hơn 20 vạn quân (“Các ý kiến về số quân Thanh” là rất khác nhau từ nhiều nguồn), bao gồm các đạo binh huy động từ bốn tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam và Quý Châu hộ tống vua Lê Chiêu Thống về Đại Việt với danh nghĩa phù Lê. Quân Thanh chia làm 3 đường tiến sang Đại Việt: 1) Quân Quảng Đông, Quảng Tây do Tôn Sĩ Nghị (chức tổng đốc Lưỡng Quảng) trực tiếp chỉ huy, qua ải Nam Quan vào Lạng Sơn; phó chỉ huy là Hứa Thế Hanh (chức đề đốc) cùng các tướng Thượng Duy Thăng, Trương Triều Long (cả hai đều đang mang chức tổng binh), Lý Hóa Long (chức phó tướng); 2) Quân Vân Nam, Quý Châu do đề đốc Vân Quý là Ô Đại Kinh, từ Vân Nam qua ải Mã Bạch, theo đường Tuyên Quang xuống Sơn Tây vào Thăng Long; 3) Quân tình nguyện Điền châu do Sầm Nghi Đống chỉ huy, theo đường Long Châu tiến vào Cao Bằng rồi tiến về Thăng Long. Cả 3 đạo quân đều xuất phát vào cuối tháng 10 âm lịch năm 1788. Vua Càn Long lại đặc cử danh tướng Phúc Khang An chuyên trách hậu cần. Theo sách Thánh vũ ký, phần “Càn Long chinh phủ An Nam ký” của Ngụy Nguyên đời Thanh, Phúc Khang An đã thiết lập trên 70 đồn quân lương to lớn và kiên cố từ hai đường Quảng Tây và Vân Nam tới Thăng Long. Riêng chặng đường từ ải Nam Quan tới Thăng Long, Khang An thiết lập 18 kho quân lương trong khi Tôn Sĩ Nghị hành quân.

                    Vua Lê Chiêu Thống lẩn quất chạy trốn quân Vũ Văn Nhậm ở mạn bắc sông Nguyệt Đức, khi thì ở huyện Gia Định, lúc lại đi Chí Linh, Thủy Đường, Vị Hoàng. Nhậm kiêu ngạo, tiếm quyền. Tháng tư năm Mậu Thân (1788), Nguyễn Huệ lại ra bắc, vào thành Thăng Long, bắt giết Vũ Văn Nhậm, cho Ngô Văn Sở cai quản binh quyền, đặt Lê Duy Cận làm giám quốc coi việc thờ cúng tôn miếu nhà Lê. Chiêu Thống bị Ngô Văn Sở đánh tan ở sông Ngô Đồng, chạy vào Thanh Hoa rồi ra Kinh Bắc lần thứ hai.

                     

                    LeChieuThongdonquanThanh

                     

                    Tôn Sĩ Nghị khi kéo sang Đại Việt, sai Lê Quýnh, Nguyễn Quốc Đống về tâu lại với Chiêu Thống. Vua bấy giờ mới biết, bèn cho Tham tri chính sự Lê Duy Đản và Hàn lâm hiệu thảo Trần Danh Án đi đường tắt lên đón quân nhà Thanh Quân Thanh tiến qua biên giới, tại Lạng Sơn, Phan Khải Đức ra hàng khi thấy quân lính dưới quyền trốn mất, còn Nguyễn Văn Diễm rút vội về Kinh Bắc hợp với Trấn thủ Nguyễn Văn Hoà chống giữ và đưa thư cáo cấp về Thăng Long . Theo thư Lê Chiêu Thống gửi cho Tôn Sỹ Nghị, tổng số quân Tây Sơn đóng ở miền Bắc khoảng 6 vạn quân, trong đó có 3 vạn quân địa phương không có lòng chiến đấu.

                    Ngô Văn Sở được tin quân Thanh kéo sang liền nhóm họp các văn võ quan nhà Lê Trung Hưng đưa một bức thư ký tên Giám Quốc Sùng Nhượng Công, Lê Duy Cẩn sang xin hoãn binh với Tôn Sĩ Nghị. Các tướng Tây Sơn mở cuộc thảo luận. Nhiều người bàn dùng phục binh đánh quân Thanh như Lê Lợi diệt tướng Minh là Liễu Thăng, Lương Minh trước đây, duy Ngô Thì Nhậm chủ trương kế hoạch, nhử quân Thanh vào sâu nội địa, thủy quân rút về Biện Sơn trước, lục quân kéo vào đóng giữ núi Tam Điệp rồi báo tin vào cho Bắc Bình Vương. Chiến lược này được chấp thuận, binh sĩ các đạo đều được lệnh về hội ngay dưới cờ của Tiết Chế Ngô Văn Sở tại bờ sông Nhị vào năm hôm sau. Sở bàn kế hoạch lui quân. Ngô Văn Sở phái tướng Phan Văn Lân đưa hơn 10 ngàn quân tinh nhuệ chốt giữ bến đò Xương Giang chặn quân Tôn Sĩ Nghị. Quân Tây Sơn vượt sông Nguyệt Đức đánh vào quân Thanh đang đóng ở núi Tam Tầng, bao vây doanh trại của Tôn Sĩ Nghị. Súng của quân Thanh và cung tên từ hai cánh tả hữu bắn ra như mưa, quân Tây Sơn chết rất nhiều. Tôn Sĩ Nghị lại phái một toán kỵ binh từ mạn thượng lưu vượt qua sông đánh úp lấy đồn Thị Cầu. Đồn này phát hỏa, Văn Lân cả sợ rút về.

                    Lê Chiêu Thống được tin quân Tây Sơn rút khỏi các trấn, bèn điều các tướng dưới quyền đi chiếm lại những nơi đó. Giữa tháng 11 năm 1788, quân Thanh tới bờ bắc sông Thương. Quân Tây Sơn rút về bờ nam nhưng chặt phá hết cầu và lấy hết thuyền bè. Theo sách Thánh vũ ký, phần “Càn Long chinh phủ An Nam ký” của Ngụy Nguyên, quân Thanh đã tổn thất khá nhiều mới bắc được cầu qua sông do đạn của quân Tây Sơn bắn sang trước khi rút hẳn.

                    Quân Thanh tiến đến Thị Cầu, Phan Văn Lân đã chặt cầu và tận dụng bờ nam cao hơn bờ bắc mà bắn đại bác sang khiến quân Thanh mất 3 ngày (15 đến 17 – 11) không bắc nổi cầu. Nửa đêm 17 tháng 11, Phan Văn Lân mang một ngàn quân bản bộ theo khúc sông Cầu định tập kích trại Tôn Sĩ Nghị nhưng bị thiệt hại do hoả lực của quân Thanh bắn ra. Sau đó Văn Lân đụng độ tướng Thanh là Trương Triều Long ở Tam Tằng. Theo Hoàng Lê nhất thống chí, Quân Tây Sơn ít và yếu thế bại trận, nhiều người bị rét cóng hay chết đuối lúc vượt sông, quân Tây Sơn chết gần hết, phải rút lui. Trong khi đó, lục quân của Ngô Văn Sở cũng rút về tới Ninh Bình cố thủ. Ngày 20 tháng 11, quân Tây Sơn đóng đồn từ Tam Điệp tới Biện Sơn, Ngô Văn Sở cho đô đốc Tuyết vào nam cấp báo với Bắc Bình vương Nguyễn Huệ.

                    Tôn Sĩ Nghị từ Tam Tằng tiến vào Thăng Long. Lê Duy Kỳ từ Kinh Bắc ra đón rồi cùng theo vào kinh thành. Không lâu sau, các đạo quân Vân – Quý và Điền châu cũng tiến vào hội binh. Theo các nhà nghiên cứu[12], cuộc hành quân của Tôn Sĩ Nghị từ 28/10 tới 20/11 tức là mất 22 ngày mới tới Thăng Long, lâu hơn nhiều so với thời gian 6 ngày mà Nghị từng dự liệu với Càn Long. Ngày 21 tháng 11 năm Mậu Thân (1788), thành Thăng Long bỏ ngỏ, quân của Nghị vào đóng và tướng doanh của Nghị đặt tại Tây Long Cung. Theo lời vua Thanh dặn, Sĩ Nghị lấy xong thành này rồi trao ấn cho Duy Kỳ, tấn phong làm An Nam quốc vương lấy lòng dân Đại Việt. Ngày 22, Sĩ Nghị làm lễ ở điện Kính Thiên để làm lễ sách phong cho vua Lê Chiêu Thống. Tôn Sĩ Nghị tính chuyện truy kích Nguyễn Huệ nhưng Tôn Vĩnh Thanh tâu là Quảng Nam xa cách đô thành nhà Lê 2.000 dặm, dùng quân 1 vạn người thì phải cần 10 vạn phu vận tải, cũng bằng từ Trấn Nam Quan đến thành họ Lê.[15] Các bề tôi văn võ nhà Lê xin Nghị cho quân tiến đánh ngay quân Nguyễn Huệ nhưng Nghị không nghe, truyền cho các cánh quân hạ trại nghỉ ngơi, định ngày mồng 6 Tết mới ra quân. Sách Cương mục viết:  “Bấy giờ hào kiệt bốn phương đua nhau trổ sức để làm việc, nhưng nhà vua chủ yếu chỉ dựa vào người Thanh. Khi chia ban quan chức, nhà vua chỉ trao cho các bầy tôi đi theo hộ giá và theo hầu ở hành tại, còn cựu thần và hào kiệt đều không được bổ dùng. Các bầy tôi cũng không ai nói đến việc ra quân để phục thù. Trong kinh và ngoài các trấn thảy đều chán nản và rời rạc. Cái cơ thành hay bại chỉ một mực tùy theo người Thanh mà thôi. Thế là việc nước không thể xoay xở được nữa”

                    Tôn Sĩ Nghị bố trí quân Thanh đóng ở phía nam tới phía tây thành Thăng Long, cho đạo quân Lưỡng Quảng đóng hai bên bờ sông Hồng, quân Điền châu đóng ở Khương Thượng, quân Vân Quý đóng ở Sơn Tây.Theo Hoàng Lê nhất thống chí và Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục của nhà Nguyễn, quân Thanh ở Thăng Long chểnh mảng phòng thủ, thường đi cướp bóc hãm hại dân Đại Việt nên bị oán ghét. Lê Duy Kỳ thực hiện thanh trừng những người hợp tác với Tây Sơn. Theo Đại Nam thực lục, Nguyễn Ánh ở Gia Định nghe tin quân Thanh vào Thăng Long cũng sai Phan Văn Trọng và Lâm Đồ mang thư và chở 50 vạn cân gạo ra cho quân Thanh nhưng giữa đường bị bão biển, cả người và gạo đều bị đắm hết.

                    Tôn Sĩ Nghị lúc đầu chủ quan, nhưng sau nghe lời cảnh báo của các tướng dưới quyền Lê Duy Kỳ cũng tăng cường phòng thủ và quyết định ngày 6 tháng Gi&ecXem tiếp >>

                      Dạy và học 18 tháng 6(18-06-2021)

                     

                     

                     

                     

                    DẠY VÀ HỌC 18 THÁNG 6
                    Hoàng Kim


                    CNM365 Tình yêu cuộc sống Lên đỉnh Thiên Môn Sơn; Đêm trắng và bình minh; Qua Waterloo nhớ Scott Sông Kỳ Lộ Phú Yên; Ngày của Cha; Hoa Đất thương lời hiền; Ngày của Cha là ngày Quốc tế tôn vinh người Cha được chọn vào ngày Chủ nhật tuần thứ ba của tháng Sáu khoảng 15-21 tháng 6 tùy theo năm, phổ biến là ngày 18 tháng 6. Năm 2021 ngày của Cha là 20 tháng 6) . Ngày 18 tháng 6 năm 1815, Trận Waterloo, Napoléon Bonaparte thất bại tại Bỉ trong Chiến tranh Liên minh thứ bảy; ông buộc phải thoái vị lần thứ nhì ít ngày sau đó. Trận Waterloo là cuộc chiến quyết định trong chiến dịch Waterloo ba ngày (từ 16-19 tháng 6 năm 1815) giữa quân Pháp do Napoleon Bonaparte trực tiếp chỉ huy đối trận với liên quân đồng minh hùng mạnh Anh, Nga, Áo, Phổ, Thụy Điển, Hà Lan Kết cục Pháp thua. Ngày 18 tháng 6 năm 1919,  Nguyễn Ái Quốc gửi bản “Yêu sách của nhân dân An Nam” cho Hội nghị Versailles; Ngày 18 tháng 6 năm 1908  Đại học Philippines được thành lập, hiện là đại học quốc gia duy nhất tại Philippines. Bài chọn lọc trong ngày 18 tháng 6: Lên đỉnh Thiên Môn Sơn; Đêm trắng và bình minh; Qua Waterloo nhớ Scott; Sông Kỳ Lộ Phú Yên; Ngày của Cha; Hoa Đất thương lời hiền; Viện Lúa Sao Thần Nông; Về miền Tây yêu thương; Thơ dâng theo dấu Tagore; Nha Trang; Nha Trang biển và em; Nha Trang và A. Yersin; Học không bao giờ muộn; Dạy và học để làm; Vườn Quốc gia Việt Nam; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimhttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-18-thang-6/

                     

                     

                     

                     

                    LÊN ĐỈNH THIÊN MÔN SƠN
                    Hoàng Kim

                    Em cũng đi, anh cũng đi
                    Đường trần thăm thẳm bước say mê
                    Núi Thái anh lên ban mai hửng
                    Cổng Trời em đến nắng lên hương.

                    Thăm thăm trời, thăm thẳm mây
                    Ai xui ai chọn hiểm sơn này?
                    Tự do hai tiếng ngời tâm đức
                    Thung dung đời, thanh thản vui.

                    Sông núi thuận, đất phương Nam
                    Thời thế muôn năm biếng luận bàn
                    Tình Yêu Cuộc Sống đi cùng Bụt
                    Cửa nhà mình lối nhỏ bình an.

                     

                     

                     

                     

                    Em chợp mắt dưới trời Tam Đảo

                     

                     

                     

                     

                    ĐÊM TRẮNG VÀ BÌNH MINH
                    Hoàng Kim

                    Nhà văn Nga Dostoievski viết “Những đêm trắng” với sự sâu sắc lạ lùng mà tôi khi được trãi nghiệm mới thấu hiểu. Ông trò chuyện về du lịch mà thực ra đang nói về nhân tình thế thái, về những đêm trắng và ảo ảnh bình minh phương Bắc ...

                    Mời bạn thưởng thức món quà  “Đêm trắng và bình minh”, câu chuyện về Ghent thành phố khoa học công nghệ; Sắn quà tặng thế giới người nghèo; Đêm trắng và bình minh phương Bắc. Bạn hãy ngắm nắng ấm và vườn cây trong bức ảnh lúc 7 giờ chiều chụp tiến sĩ Claude Fauquet với tôi. Ông là Chủ tịch Hội thảo Sắn Toàn cầu, Tổng Giám đốc của Viện Nghiên cứu Khoa học lừng danh ở Mỹ, người đã dành cho tôi sự ưu ái mời dự Hội thảo và đọc báo cáo. Bạn cũng hãy xem tiếp phóng sự ảnh chụp lúc gần nửa đêm mà ánh sáng vẫn đẹp lạ thường để đồng cảm cùng tôi về đêm trắng và bình minh. Bắc Âu là vùng đất lành có triết lý nhân sinh lành mạnh, chất lượng cuộc sống khá cao và những mô hình giáo dục tiên tiến nổi tiếng thế giới. Đi khắp quê người để hiểu đất quê hương. Mục đích sau cùng của dạy và học là thấu suốt bản chất sự vật, có lời giải đúng và làm được việc. Dạy và học thực tiễn trên chính Tổ quốc mình.

                     

                     

                    Gentdemtrang

                     

                     

                    Ghent thành phố khoa học công nghệ

                    Tôi phải trả 400 đô la Mỹ cho bài học lãng phí đầu tiên đi xe taxi ở Ghent, thành phố khoa học và công nghệ sinh học (City of Science and Biotechnology) tại Bỉ vì đã không tận dụng phương tiện công cộng. Thất bại đáng tiếc này xẩy ra khi tôi vận dụng lặp lại kinh nghiệm thành công trước đó của mình tại thủ đô Luân Đôn “thành phố sương mù” ở Vương quốc Anh, tại thủ đô Helsinki thành phố di sản “Con gái của Baltic” đẹp nhất Bắc Âu ở Phần Lan và tại Roma “thủ đô của các bảo tàng nổi tiếng thế giới” ở Ý.

                    Sự khôn vặt của tôi là kiểu của Hai Lúa người Việt. Tôi tính mình chỉ cần bỏ ra một vài trăm đô thuê taxi “không thèm đi tàu điện ngầm vì chẳng chụp ảnh và thăm thú được gì cả”. So với tiền của chuyến bay xa xôi từ Việt Nam sang Bắc Âu cao ngất ngưỡng do phía bạn chi trả thì số tiền mình tự bỏ ra trả thêm cho việc học là rất hời. Bạn tính nhé. Giá của một tour du lịch trọn gói từ thành phố Hồ Chí Minh đến thủ đô Helsinki (Phần Lan) thăm cố đô Turku (thành phố cổ nhất của Phần Lan được xây dựng từ năm 1280, cũng là cửa khẩu thông thương quan trọng nhất giữa Phần Lan và Thuỵ Điển) và trở về thành phố Hồ Chí Minh trong 5 ngày 4 đêm chí ít là 53,70 triệu đồng. Giá tour của máy bay khứ hồi đi Anh hoặc đi Ý cũng tương tự, cao hoặc thấp hơn một chút. Đó là tài sản lớn của những nghề lương thiện và những người chân lấm tay bùn muốn mở cửa nhìn ra thế giới. Do vậy, ở nhiều lần đi trước tôi đã quyết ý tự chi thêm một vài trăm đô khi có điều kiện để thăm được một số địa danh lịch sử văn hóa mà tôi ngưỡng mộ, để e rằng sau này mình hiếm có dịp quay trở lại.

                    Nhờ thế tôi đã đến được cung điện Buckingham, đại học Oxford, Bảo tàng Nam Kensington, Nhà thờ Thánh Paul (ở Anh), thăm toà nhà Quốc hội City Hall và Parliament House, đến Phủ Chủ tịch The Presidential Palace, biểu tượng Railroad Station, ghé nhà thờ Uspenski ở trung tâm thủ đô Helsinki, thăm ông già Noel tại Santa Claus, 96930 Artic Circle, Finland cách thành phố Rovaniemi khoảng 8km xứ sở Lapland (ở Phần Lan). Tôi cũng chụp nhiều ảnh ở Đấu trường La Mã và Khải hoàn môn Arco di Costantino. Đài phun nước Trevi, một trong những đài phun nước nổi tiếng nhất thế giới. Đài tưởng niệm liệt sĩ Vittorio Emanuele II. Bảo tàng Vatican (tại thủ đô Roma của Ý) và các địa danh khắp bốn biển, bốn châu của nhiều lần khác …

                    Ghent có hệ thống giao thông công cộng giá hợp lý phát triển rất cao nên kinh nghiệm đi taxi trước đó của tôi trở thành nguyên nhân lãng phí. Giống như Tiệp Khắc (Czech Slovakia cũ), hầu hết mọi người đi học, đi làm đều bằng phương tiện công cộng, có chuyện cần kíp mới đi taxi, rất hiếm thấy Honda. Giá taxi ở Ghent cao gấp nhiều lần so với giá taxi ở Việt Nam và cũng cao hơn nhiều so với giá taxi ở Anh, Pháp, Mỹ, Nhật là những nơi giàu có và thành phố có tiếng đắt đỏ. Mô hình tổ chức giao thông thành phố hiện đại và hiệu quả ở Ghent đã được nghiên cứu học tập của nhiều nước và thành phố. Ngoài xa kia, đường phố rộng rãi, thỉnh thoảng mới thấy một chiếc xe ô tô chạy qua. Bạn thấy những cô gái và ông bà già dẫn chó đi dạo. Những đôi thanh niên đi xe đạp nhởn nhơ trò chuyện như không còn ai khác ngoài họ ở trên đời. Bạn tinh ý còn thấy trong tấm hình chụp tại cổng vào trường đại học, trên thảm cỏ xa xa có một cặp uyên ương đang sưởi nắng và … tự nhiên yêu đương.

                    Ghent là thành phố khoa học và công nghệ sinh học nổi tiếng. Đây là thành phố lớn nhất của tỉnh Đông Flanders và trong thời Trung cổ đã từng là một trong những thành phố lớn nhất và giàu nhất của Bắc Âu. Ngày nay Ghent là thành phố có diện tích 1205 km2 và tổng dân số 594.582 người kể từ ngày 1 tháng Giêng năm 2008 đứng thứ 4 đông dân nhất ở Bỉ. Ghent là viên ngọc ẩn ở Bỉ tuy it nổi tiếng hơn so với thành phố chị em của nó là Antwerp và Bruges, nhưng Ghent lại là một thành phố năng động, xinh đẹp về khoa học, nghệ thuật, lịch sử và văn hóa. Hàng năm có mười ngày “Ghent Festival” được tổ chức với khoảng hai triệu du khách tham dự.

                    Ghent được UNESCO công nhận là Di sản thế giới năm 1998 và 1999. Các điểm nhấn nổi bật là kiến trúc hiện đại của những tòa nhà trường đại học Henry Van de Velde và một số công trình liền kề. Louis Roelandt, kiến trúc sư nổi tiếng nhất của Ghent thế kỷ XIX đã xây dựng hệ thống các trường đại học, khu hội nghị, nhà hát opera và tòa thị chính. Bảo tàng quan trọng nhất ở Ghent là Bảo tàng Mỹ thuật Voor Schone Kunsten với các bức tranh nổi tiếng của Hieronymus Bosch, Peter Paul Rubens, kiệt tác của Victor Horta và Le Corbusier, Huis van Alijn. Nhà thờ Saint Bavo lâu đài Gravensteen và kiến trúc lộng lẫy của bến cảng Graslei cũ là những nơi thật đáng chiêm ngưỡng. Đó là sự pha trộn tốt đẹp giữa sự phát triển thoải mái của cuộc sống và lịch sử, mà không phải là một thành phố bảo tàng. Giở lại những trang sử của Ghent năm 1775, các bằng chứng khảo cổ cho thấy sự hiện diện của con người trong khu vực hợp lưu của Scheldt và Lys trong thời kỳ đồ đá và đồ sắt. Hầu hết các nhà sử học tin rằng tên cũ của Ghent có nguồn gốc từ ‘Ganda’ có nghĩa là hợp lưu có từ thời La Mã. Khoảng năm 650, Saint Amand thành lập hai tu viện tại Ghent đó là Saint Peter Abbey và Saint Bavo Abbey. Khoảng năm 800, Louis Pious con trai của Charlemagne đã bổ nhiệm Einhard, người viết tiểu sử của Charlemagne, làm trụ trì của cả hai tu viện. Trong những năm 851 đến 879, thành phố bị tấn công và cướp phá hai lần sau đó được phục hồi và phát triển rực rỡ từ thế kỷ 11. Cho đến thế kỷ 13, Ghent là thành phố lớn nhất ở châu Âu sau Paris, lớn hơn Luân Đôn và Mạc Tư Khoa. Thời Trung Cổ, Ghent là một trong những thành phố quan trọng nhất châu Âu đối với ngành công nghiệp len và dệt may. Vào năm 1500, Charles V, Hoàng đế La Mã và vua Tây Ban Nha đã được sinh ra ở Ghent. Sau nhiều thăng trầm của lịch sử và sự tàn phá của các cuộc chiến tranh Ghent kết thúc vai trò của một trung tâm địa chính trị quân sự quan trọng quốc tế và trở thành một thành phố bị chiếm đóng, bị giành giật giữa các thế lực. Sau khi trận chiến Waterloo, Ghent trở thành một phần của Vương quốc Anh và Hà Lan suốt 15 năm. Lạ kỳ thay, chính trong giai đoạn tổn thương nghiêm trọng này, Ghent thành lập trường đại học cho riêng mình năm 1817 để khai sáng văn minh dân tộc. Họ cũng chấn hưng kinh tế bằng quyết tâm kết nối cảng biển năm 1824-1827. Sau cuộc Cách mạng Bỉ, với sự mất mát của cảng biển nền kinh tế địa phương bị suy sụp và tê liệt. Ghent bị chiếm đóng bởi người Đức trong cả hai cuộc chiến tranh thế giới nhưng đã tránh được sự tàn phá nghiêm trọng và đã được giải phóng bởi Vương quốc Anh ngày 6 tháng 9 năm 1944. Điều bền vững trường tồn cùng năm tháng chính là con người, văn hóa và giáo dục. Phần lớn kiến trúc thời Trung cổ của thành phố hiện vẫn còn nguyên vẹn và được phục hồi, bảo tồn khá tốt cho đến ngày nay.

                    Ghent còn là thành phố lễ hội thường xuyên hàng năm với các nhà hàng ẩm thực nổi tiếng. Nhiều sự kiện văn hóa lớn như Lễ hội âm nhạc, Liên hoan phim quốc tế, Triển lãm lớn thực vật, Hội thảo Trường Đại học Ghent và các Công ty nghiên cứu … đã thu hút đông đảo du khách đến thành phố. Khoa học công nghệ và nghệ thuật thực sự được tôn trọng. Bạn có thành quả gì đóng góp cho chính sức khỏe, đời sống, niềm vui con người được vui vẻ đón nhận một cách thân thiện, hứng thú. Du lịch ngày càng trở thành ngành sử dụng lao động lớn tại địa phương.

                    Ghent cũng là vùng đất địa linh với quá nhiều những người nổi tiếng. Charles V, Hoàng đế La Mã và vua Tây Ban Nha đã được sinh ra ở Ghent năm 1500. Một danh sách dài những người đã và đang hóa thân cho sự phồn vinh của quê hương xứ sở với đủ loại ngành nghề khác nhau.

                    Phương Bắc đấy! Đi xa về Bắc Âu đến Phần Lan, Thụy Điển, Hà Lan, Đan Mạch, Na Uy là cả một vùng thiên nhiên, văn hóa mới lạ. Nơi đó không gian văn hóa thật trong lành. Chất lượng cuộc sống tốt hơn nhiều vùng tôi đã qua.

                    Tôi ngồi vào bàn và lưu lại điểm nhấn: “Đến Ghent nhớ những đêm trắng và bình minh phương Bắc cùng với phóng sự ành Memories from Ghent để hẹn ngày quay lại ngẫm và viết. Ghent lúc này đã gần nửa đêm tương ứng với Việt Nam khoảng bốn năm giờ sáng nhưng bầu trời mới bắt đầu tối dần như khoảng 7 giờ chiều ở Việt Nam. Ánh sáng trắng đang nhạt đi và trời như chạng vạng tối. Đẹp và hay thật !

                    Sắn quà tặng thế giới người nghèo

                    Hội nghị khoa học đầu tiên của các đối tác sắn toàn cầu (First Scientific Meeting of the Global Cassava Partnership GCP1) với chủ đề “Sắn đáp ứng các thách thức của thiên niên kỷ mới” (Cassava: Meeting the Challenges of the New Millennium) được mở ra ở Trường Đại học Ghent vương quốc Bỉ với hơn một ngàn người tham dự. 115 báo cáo và hơn 200 áp phích (poster) và gian hàng được trình bày, giới thiệu liên tục tại 13 tiểu ban trong ba ngày.

                    Tiến sĩ Claude Fauquet và tiến sĩ Joe Tohme có hai báo cáo thật ấn tượng: Cây sắn quà tặng của thế giới và cơ hội cho nông dân nghèo; Cây sắn quà tặng của thế giới và thách thức đối với các nhà khoa học. Những vấn đề khủng hoảng năng lượng toàn cầu, an ninh lương thực, môi sinh – môi trường đang thách thức thế giới hiện đại. Những câu hỏi đặt ra nhằm cải tiến cây sắn là cây chịu hạn, giàu tinh bột và năng lượng, đề mang lại thu nhập tốt hơn cho người dân nghèo.

                    Tôi tham dự hội nghị với ba bài viết S3-2 (trang 54) SP3-9 (trang 60) và SP03-16 trang 63) gồm một báo cáo trước hội nghị toàn thể và hai áp phích. Việt Nam là điển hình quốc tế về sự đột phá sản lượng và năng suất sắn với sản lượng sắn tăng gấp năm lần và năng suất sắn tăng gấp đôi sau tám năm (2000-2008). Đó quả là một điều kỳ diệu cho toàn thế giới! Việc chọn tạo và phát triển các giống sắn mới của Việt Nam đã mang lại bội thu cao trong sản xuất ước vượt trên 2.000 tỷ đồng mỗi năm từ năm 2003 (đạt quy mô 270 ngàn ha x 8,9 tấn bội thu/ha x 50 USD/ tấn x 16.000 VND/USD). Sự cần cù, năng động, chịu thương chịu khó của nông dân Việt Nam thật đáng tự hào!

                    Thành tựu sắn Việt Nam gắn liền với những bài học kinh nghiệm quý giá của đông đảo bà con nông dân, các nhà khoa học, khuyến nông, quản lý, doanh nghiệp … trong Chương trình Sắn Việt Nam (VNCP). Nước ta đã thành một trường hợp nghiên cứu điển hình (key study) của châu Á và Thế giới. Tôi bị vây kín giữa những người bạn suốt các lần giải lao một cách sung sướng và đáng thương. Đội ngũ đi họp của mình quá mỏng (chỉ một mình tôi) so với những đội hình sắn vững chãi của nhiều nước khác như Trung Quốc, Mỹ, Ấn Độ, Brazil, Thái Lan, Nigeria, Colombia, … Bài báo mà tôi viết chung với PGS.TS. Nguyễn Văn Bộ (Giám đốc Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam), tiến sĩ Reinhardt Howerler và tiến sĩ Hernan Ceballos (là hai chuyên gia nông học và chọn giống sắn hàng đầu của CIAT và thế giới) đã gây ấn tượng tốt và được nhiều người trao đổi, hỏi đáp.

                    Buổi tối tiến sĩ Boga Boma, giám đốc của một dự án sắn lớn của châu Phi đã mang đồ đạc sang đòi “chia phòng ngủ” với tôi để “trao đổi về bài học sắn Việt Nam và cùng cảm nhận đêm trắng”.

                    Boga Boma giàu, nhỏ tuổi hơn tôi, tính rất dễ thương, người cao lớn kỳ vĩ trên 1,90 m như một hảo hán. Lần trước Boga Boma làm trưởng đoàn 15 chuyên gia Nigeria sang thăm quan các giống sắn mới và kỹ thuật canh tác sắn của Việt Nam, đúc kết trao đổi về cách sử dụng sắn trong chế biến nhiên liệu sinh học. Anh chàng hảo hán này vừa ra đồng đã nhảy ngay xuống ruộng giống mới, đề nghị tôi nhổ thử một vài bụi sắn bất kỳ do anh ta chỉ định của giống mới KM140 (mà sau này đoạt giải Nhất VIFOTEC của Hội thi sáng tạo khoa học kỹ thuật toàn quốc lần thứ 10 trao giải ngày 19.1.2010 ở Hà Nội). Boga Boma ước lượng năng suất thực tế mỗi bụi sắn này phải sáu ký. Anh đo khoảng cách trồng rồi hồ hởi đưa lên một ngón tay nói với giọng thán phục “Sắn Việt Nam số 1”

                    Sau buổi tham quan đó, Boga Boma ngỏ lời đề nghị với tôi cho đoàn Nigeria được đến thăm nhà riêng để “tìm hiểu cuộc sống và điều kiện sinh hoạt làm việc của một thầy giáo nông nghiệp Việt Nam”. Anh chàng chăm chú chụp nhiều ảnh về tài liệu sắn của bảy Hội thảo Sắn châu Á và mười Hội thảo Sắn Việt Nam trong một phần tư thế kỷ qua. Anh cũng chụp bếp đèn dầu dùng ga của gia đình tôi. Boga Boma cũng như Kazuo Kawano, Reinhardt Howerler, Hernan Ceballos, Rod Lefroy, Keith Fahrney, Bernardo Ospina, S. Edison, Tian Ynong, Li Kaimian, Huang Jie, Chareinsak Rajanaronidpiched, Watana Watananonta, Jarungsit Limsila, Danai Supahan, Tan Swee Lian, J. Wargiono, Sam Fujisaca, Alfredo Alves, Alfred Dixon, Fernando A, Peng Zhang, Martin Fregene, Yona Beguma, Madhavi Sheela, Lee Jun, Tin Maung Aye, Guy Henry, Clair Hershey, … trong mạng lưới sắn toàn cầu với tôi đều là những người bạn quốc tế thân thiết. Hầu hết họ đều đã gắn bó cùng tôi suốt nhiều năm. Sự tận tâm công việc, tài năng xuất sắc, chân thành tinh tế của họ trong ứng xử tình bạn đời thường làm tôi thực sự cảm mến.

                    Bẳng đi một thời gian, Boga Boma thông tin Nigeria hiện đã ứng dụng bếp đèn dầu dùng cồn sinh học từ nguyên liệu sắn cho mọi hộ gia đình Nigeria trong toàn quốc. Nigeria đã thành công lớn trong phương thức chế biến sắn làm cồn gia đình phù hợp với đất nước họ, làm tiết kiệm được một khối lượng lớn xăng dầu với giá rất cạnh tranh cho tiêu thụ nội địa và xuất khẩu.

                    Lần này trong đêm trắng ở Ghent, Boga Boma lại hí húi ghi chép và ngẫm nghĩ về ba bài học kinh nghiệm sắn Việt Nam 6M (Con người, Thị trường, Vật liệu mới Công nghệ tốt, Quản lý, Phương pháp, Tiền: Man Power, Market, Materials, Management, Methods, Money), 10T (Thử nghiệm, Trình diễn, Tập huấn, Trao đổi, Thăm viếng, Tham quan hội nghị đầu bờ, Thông tin tuyên truyền, Thi đua, Tổng kết khen thưởng, Thiết lập mạng lưới người nông dân giỏi) và FPR (Thiết lập mạng lưới thí nghiệm đồng ruộng và trình diễn để nghiên cứu cùng nông dân chuyển giao tiến bộ kỹ thuật sản xuất sắn).

                    Buổi chiều Yona Beguma cùng các bạn châu Phi say mê trò chuyện cùng tôi về bài học sắn Việt Nam được giới thiệu trên trang của FAO với sự yêu thích, đặc biệt là “sáu em”(6M), “mười chữ T tiếng Việt” (10T) và “vòng tròn FPR dụ dỗ”. Sau này, anh chàng làm được những chuyện động trời của cây sắn Uganda mà tôi sẽ kể cho bạn nghe trong một dịp khác.

                    Nhìn lớp trẻ thân thương đầy khát vọng tri thức đang vươn lên đỉnh cao giúp xóa đói giảm nghèo và làm giàu cho quê hương xứ sở. Ngắm nhìn sự mê mãi của Boga Boma lúc bình minh vừa rạng lúc anh chàng đã thức gần trọn đêm. Tôi chợt nhớ câu thơ Việt Phương: “Yêu biết mấy những đêm dài thức trắng/ Làm kỳ xong việc nặng sẵn sức bền/ Bình minh đuổi lá vàng trên đường vắng/ Như vì ta mà đời cũng ửng hồng lên”.

                    Đêm trắng và bình minh phương Bắc

                    Tôi lục tìm trong khoang tư liệu, đọc lại trích đoạn “Những đêm trắng” của nhà văn Nga Dostoievski và đoạn viết về hiện tượng cực quang của bình minh phương Bắc: “Ở vùng cực của trái đất, ban đêm, thường thấy hiện tượng ánh sáng có nhiều màu sắc: trắng, vàng, đỏ, xanh, tím, rực rỡ có hình dáng như một bức rèm hoặc một cái quạt rất lớn. Có khi những tia sáng lại xòe ra như hình nạn quạt. Cái quạt ánh sáng ấy lấp lánh rung chuyển nhè nhẹ như một bàn tay khổng lồ rũ xuống rũ lên, lập lòe làm thành một quang cảnh kỳ vĩ lạ thường. Màn ánh sáng ấy trong suốt đến nỗi nhìn qua thấy rõ tất cả các ngôi sao trên bầu trời. Hướng của những tia sáng nói chung trùng với hướng của các đường sức của từ trường trái đất. Loại ánh sáng này xuất hiện từ độ cao 80 đến 1.000 km và nhiều nhất là ở độ cao trên dưới 120 km. Ở nước Nga thời trước người ra cho rằng đó là ánh hào quang của những đoàn thiên binh thiên tướng kéo đi trong không gian. Còn nhân dân Phần Lan cho đó là mặt trời giả của người xưa làm ra để soi sáng cho đêm trường Bắc Cực. Vì loại ánh sáng này chỉ thấy trong những miền gần hai cực nên gọi là cực quang. Ở Na Uy và Thụy Điển thì người ta gọi là ánh sáng “bình minh phương Bắc”.

                    Qua Ghent mới thấy đêm phương Bắc đến chậm và sớm nhanh Việt Nam như thế nào, mới thấm hiểu sự sâu sắc của Dostoievski nhà văn bậc thầy văn chương Nga và thế giới: Ông nói chuyện trời mà cũng là nói chuyện người. Ông trò chuyện về du lịch mà thực ra đang nói về nhân tình thế thái, những đêm trắng và ảo ảnh bình minh phương Bắc. Đó là câu chuyện thật như đùa và đùa như thật, ảo giác mà tưởng thật, thật mà tưởng ảo giác. Nhân loại đã đi qua vùng sáng tối đó, ánh sáng của thiên đường, những đêm trắng nối liền bình minh phương Bắc.

                    Thực ra, khi bạn đến thủ đô Helsinki của Phần Lan vào tháng 6,7 thì đêm trắng và ảo ảnh bình minh phương Bắc rõ hơn nhiều. Bạn hãy đến đúng dịp hè và chuẩn bị sẵn máy ảnh loại tốt, độ phân giải lớn, khẩu độ rộng để săn ảnh. Tôi buộc phải sử dụng chùm ảnh du lịch Phần Lan vì máy ảnh họ chụp tốt hơn những tấm ảnh đẹp mê hồn về đêm trắng, trời tím và ngủ lều tuyết.

                    Ở Phần Lan, nhiệt độ trung bình của tháng nóng nhất khoảng 15 độ C, và tháng lạnh nhất khoảng -9 độ C. Trung bình mỗi năm ở Phần Lan có hơn 100 ngày tuyết phủ ở phía nam và tây nam, còn ở phía bắc vùng Lappi thì tới hơn 200 ngày có tuyết. Nhiệt độ ban ngày và ban đêm chênh nhau tới 20 độ C, ngày lạnh nhất và ngày ấm nhất chênh nhau 80 độ C. Mặt trời mọc tháng 1, 2 lúc 9h30 sáng và lặn lúc 3h30 chiều là những ngày ngắn nhất trong năm. Tháng 6,7 mặt trời mọc lúc 4h00 sáng và lặn lúc 10h30 tối là những ngày dài nhất trong năm. Cá biệt ở phía Bắc vùng đất Lapland có những đêm trắng vào mùa hè, mặt trời không bao giờ lặn trong khoảng 60 ngày đêm nên có thể ngắm mặt trời lúc nửa đêm. Tiếp đó là khoảng thời gian chạng vạng không nhìn thấy mặt trời kéo dài trong khoảng 6 tháng vào mùa thu và đông. Không riêng gì Phần Lan mà hầu hết các nước Bắc Âu khí hậu lạnh và thời tiết thay đổi thất thường không được ấm áp thường xuyên như Việt Nam. Tôi lấy làm lạ khi sau này một số người đọc chưa hiểu đúng về sự khái quát cực kỳ tinh tế của Bác: “Nước ta: ở về xứ nóng, khí hậu tốt/ Rừng vàng biển bạc, đất phì nhiêu/ Nhân dân dũng cảm và cần kiệm/ Các nước anh em giúp đỡ nhiều.

                     

                     

                    Demtrang7

                     

                     

                    Tại Ghent của vương quốc Bỉ, nơi thành phố khoa học và công nghệ sinh học thì ấm hơn nhưng sự tiếp biến đêm trắng và bình minh phương bắc vẫn còn rất rõ nét. Ở đó, mặt trời tháng bảy mọc lúc hừng đông 4g30 -5g00 và lặn lúc 8g00- 9g00. Săn ảnh vào lúc bình minh vừa rạng cũng như ngắm mây ngũ sắc huyền thoại lúc mặt trời sắp lặn ở Việt Nam. Bạn hãy ngắm dòng tinh vân xinh đẹp lạ thường trước lúc bình minh.

                     

                     

                     

                     

                    Sau này ở Việt Nam tôi chỉ có cơ hội nhìn thấy được sự chuyển màu từ tối tím sang bảy màu, sang màu xanh ngọc và trắng hồng lúc 4g30 sáng ngày 18 tháng 1 năm 2010 tại chòm cao nhất của non thiêng Yên Tử. Tôi chụp trên 100 tấm ảnh mới chọn được tấm ảnh ưng ý nhất. Đó là dịp may hiếm có của đời người. Sau này chúng ta sẽ nhiều dịp trở lại với Trần Nhân Tông và Bình minh trên Yên Tử để học được bài học vô giá của ông cha mình.

                    Chúng tôi được giáo sư Marc Van Montagu, nhà bác học lừng danh thế giới cha đẻ GMO, vị chủ tịch của Liên đoàn Công nghệ sinh học châu Âu và hiệu trưởng của Trường Đại học Ghent hướng dẫn thăm quan lâu đài cổ, bảo tàng nghệ thuật và trường đại học nơi Ghent được UNESCO tôn vinh là di sản văn hóa thế giới năm 1998, 1999 và mời dự tiệc chiêu đãi. Tôi được mời ngồi bên cạnh ông và ba con người kỳ dị khác. Đó là Claude Fauquet (DDPSC, St Louis USA), Joe Tohme (CIAT, Colombia), G. Hawtin (CIAT, Colombia). Họ quá nổi tiếng trong số những con người đang làm thay đổi thế giới về bức tranh cây sắn và khoa học cây trồng những năm đầu thế kỷ 21. Tôi thực sự ngần ngại vị trí ngồi chung này và muốn thoái thác nhưng họ vui vẻ thân tình mời đại diện các châu lục. Họ đối xử với tôi và các đồng nghiệp với một sự tự nhiên, quý mến, trân trọng, và thực lòng ngưỡng mộ những kết quả đã đạt được của sắn Việt Nam (sau này khi nghĩ lại tôi ứa nước mắt hãnh diện về dân tộc mình đã cho chúng tôi cơ hội “O du kích bắn đại bác”). Tôi biết rõ những tài năng ưu tú xung quanh mình. Họ dung dị bình thường, thân tình lắng nghe nhưng đó là những con người khoa học đặc biệt. Họ không ham hố giàu sang và quyền lực mà chăm chú tận tụy giảng dạy và nghiên cứu, phát triển những thành tựu khoa học nông nghiệp mới, góp phần cải biến chất lượng thực phẩm thế giới theo hướng ngon hơn, tốt hơn, rẻ hơn và thân thiện môi trường hơn (HarvestPlus) nâng cao cuộc sống chúng ta. Tiến sĩ Rajiv J.Shah, giám đốc của Chương trình Phát triển Toàn cầu, Quỹ Bill Gate và Melinda (nơi tài trợ chính cho chuyến đi này của tôi) đã nói như vậy. Tôi ngưỡng mộ và tìm thấy ở họ những vầng sáng của trí tuệ và văn hóa.

                    Chợt dưng tôi nhớ đến Bernadotte với vợ là Déssirée trong tác phẩm “Mối tình đầu của Napoléon” của Annemarie Selinko. Vợ chồng hai con người kỳ vĩ này với lý tưởng dân chủ đã xoay chuyển cả châu Âu, giữ cho Thụy Điển tồn tại trong một thế giới đầy biến động và nhiễu nhương. Bắc Âu phồn vinh văn hóa, thân thiện môi trường và có nền giáo dục lành mạnh phát triển như ngày nay là có công và tầm nhìn kiệt xuất của họ. Bernadotte là danh tướng của Napoleon và sau này được vua Thụy Điển đón về làm con để trao lại ngai vàng. Ông xuất thân hạ sĩ quan tầm thường nhưng là người có chí lớn, suốt đời học hỏi và tấm lòng cao thượng rộng rãi. Vợ ông là Déssirée là người yêu đầu tiên của Napoleon nhưng bị Napoleon phản bội khi con người lừng danh này tìm đến Josephine một góa phụ quý phái, giàu có, giao du toàn với những nhân vật quyền thế nhất nước Pháp, và Napoleon đã chọn bà làm chiếc thang bước lên đài danh vọng. Bernadotte với vợ là Déssirée hiểu rất rõ Napoleon. Họ đã khéo chặn được cơn lốc cuộc chiến đẫm máu tranh giành quyền lợi giữa các tập đoàn thống trị và các nước có lợi ích khác nhau. Bernadotte và Déssirée đã đưa đất nước Thụy Điển và Bắc Âu thoát cuộc tranh giành. Họ đã khai sáng một vầng hào quang bình minh phương Bắc.

                    Việt Nam và khối Asean hiện cũng đang đứng trước khát vọng mở mang của “con sư tử phương Đông trỗi dậy” và sự vần vũ của thế giới văn minh nhiều cơ hội hơn cho người dân nhưng cũng tiềm ẩm lắm hiễm họa khó lường. Điều này dường như rất giống của thời người hùng Napoleon của một châu Âu và khao khát của nước Pháp muốn phục hưng dân tộc và mở rộng phạm vi ảnh hưởng. Bài học Bắc Âu miền đất trong lành, nước Bỉ trái tim của EU, và Ghent thành phố khoa học công nghệ là chỉ dấu minh triết chưa bao giờ sáng tỏ và cấp thiết như lúc này. Trước những khúc quanh của lịch sử, các dân tộc tồn tại và phát triển đều biết khéo tập hợp những lực lượng tinh hoa và sức mạnh dân chúng để thoát khỏi hiễm họa và bảo tồn được những viên ngọc quý di sản truyền lại cho đời sau. Trong vùng địa chính trị đầy điểm nóng tranh chấp biên giới hải đảo, sự tham nhũng chạy theo văn minh vật chất và nguy cơ tha hóa ô nhiễm môi trường, nguồn nước, bầu khí quyển, vệ sinh thực phẩm, văn hóa giáo dục và chất lượng cuộc sống thì bài học trí tuế càng cấp thiết và rõ nét. Ông José António Amorim Dias, Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước Cộng hòa Dân chủ Timor-Leste tại UNESCO và Liên minh châu Âu trên chuyến tàu tốc hành từ Brussels đến Paris chung khoang với tôi đã trò chuyện và chia sẽ rất nhiều điều về triết lý nhân sinh và văn hóa giáo dục.

                    Đi đâu cũng không bằng Tổ quốc mình. Nói gì, làm gì cũng không bằng dạy, học và làm cho đồng bào đất nước mình. Đi khắp quê người để hiểu đất quê hương. Mục đích sau cùng của dạy và học là thấu suốt bản chất sự vật, có lời giải đúng và làm được việc. Dạy và học thực tiễn trên chính Tổ quốc mình. Việt Nam quê hương tôi! Đó là đất nước của biết bao nhiêu thế hệ xả thân vì nước để quyết giành cho được độc lập, thống nhất, tự do và toàn vẹn lãnh thổ. “Nếu chỉ để lại lời nói suông cho đời sau sao bằng đem thân đảm nhận trọng trách cho thiên hạ trước đã” nhưng “sức một người thì có hạn, tài trí thiên hạ là vô cùng”. “Lời nói là đọi vàng”. Làm nhà khoa học xanh hướng đến bát cơm ngon của người dân nghèo, đó là điều tôi tâm đắc nhất !

                    Nhân loại đã có một thời đi trong đêm trắng ánh sáng của thiên đường, đêm trắng bình minh phương Bắc. Sự chạng vạng tranh tối tranh sáng có lợi cho sự quyền biến nhưng khoảng khắc bình minh là sự kỳ diệu mở đầu cho ngày mới, vận hội mới.

                    Ngày mới bắt đầu từ bình minh. Đời người bắt đầu từ tuổi trẻ. Tôi đã đi qua một vòng trái đất, một vòng đời người, một vùng đêm trắng để chào ban mai. Quy luật cuộc sống là đổi mới. Chào ngày mới là bài học bảo tồn và đổi mới lặp lại cho chúng ta mỗi ngày.

                    Bài học mới không bao giờ cũ.

                    Hoàng Kim

                     

                    Nguồn:

                     

                    https://hoangkimlong.wordpress.com/category/dem-trang-va-binh-minh/

                     

                     

                     

                     

                    QUA WATERLOO NHỚ SCOTT
                    Hoàng Kim

                    Bài thơ ‘Cánh đồng Waterloo’
                    ‘The Field of Waterloo 1815’
                    Sử thi của Walter Scott (*)
                    Chạm thấu mọi tâm hồn.

                    “Cánh đồng Waterloo đầy máu
                    Nói dối chỉ chục ngàn người chết
                    Nhưng không phải thế đâu
                    bởi số người bị đâm hay bị bắn
                    Đã giảm hơn quá nửa
                    Mẹ góa con côi còn lớn hơn nhiều”

                    Qua Waterloo nhớ Scott
                    Kiếm bút của hiền tài
                    Bền mạnh sắc hơn gươm
                    Lưu non sông muôn thuở.

                    Cánh đồng Waterloo hôm nay
                    Trời xanh đất màu xanh
                    Khuất phía xa xôi kia
                    Thiện Ác ẩn hiện hình

                    Dấu chấm hết ở đây
                    Vương triều Một trăm ngày
                    Napoléon danh tướng lẫy lừng
                    Waterloo trận đánh cuối cùng.

                    ††††††José António Amorim Dias and Hoàng Kim
                    Đại sứ UNESCO và tôi
                    từ Brussels (Bỉ) đến Paris (Pháp)
                    Qua Waterloo nhớ Walter Scott †

                    Bài thơ ‘Cánh đồng Waterloo’
                    ‘The Field of Waterloo 1815’
                    Sử thi của Walter Scott
                    Chạm thấu mọi tâm hồn.

                    Kiếm bút của hiền tài
                    Bền mạnh sắc hơn gươm

                    (*)Xem tiếp >>

                      Dạy và học 17 tháng 6(17-06-2021)

                    giaobancaylua


                    DẠY VÀ HỌC MỚI 17 THÁNG 6
                    Hoàng Kim

                    CNM365 Tình yêu cuộc sống Việt Nam con đường xanh; Viện Lúa Sao Thần Nông; Về miền Tây yêu thương‘ mãi mãi là suối nguồn tươi trẻ ; Thơ dâng theo dấu Tagore; Nha Trang; Nha Trang biển và em; Nha Trang và A. Yersin; Học không bao giờ muộn; Dạy và học để làm. Ngày 17 tháng 6 năm 1930 ,Nguyễn Thái Học cùng 12 đảng viên Quốc Dân đảng bị chính phủ bảo hộ Pháp chặt đầu do tiến hành Khởi nghĩa Yên Bái. Ngày 17 tháng 6 năm 1885 , Tượng Nữ Thần Tự Do được chở một cách an toàn đến cảng New York trên chiếc tàu hơi nước Isère của Pháp. Ngày 17 tháng 6 năm 1939, ngày mất Nguyễn Khắc Hiếu, hiệu Tản Đà, nhà thơ Việt Nam; Bài chọn lọc ngày 17 tháng 6: Viện Lúa Sao Thần Nông; Về miền Tây yêu thương; Thơ dâng theo dấu Tagore; Nha Trang; Nha Trang biển và em; Nha Trang và A. Yersin; Học không bao giờ muộn; Dạy và học để làm; Vườn Quốc gia Việt Nam; Bản Giốc và Ka Long; Quả táo Apple Steve Jobs; Dạo chơi non nước Việt; Một gia đình yêu thương; Nguyễn Du tiếng tri âm; Nguyễn Du Hồ Xuân Hương; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com /http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-17-thang 

                    vienluathambacgiap

                    VIỆN LÚA SAO THẦN NÔNG
                    Hoàng Kim

                    Viện Lúa Sao Thần Nông 45 năm từ thành lập đến nay (1977-2021) luôn là lá cờ đầu nông nghiệp Việt Nam trong lĩnh vực chọn tạo giống lúa, nghiên cứu quy trình kỹ thuật canh tác lúa; hệ thống canh tác thích hợp hiệu quả cho vùng ĐBSCL. Viện Lúa Sao Thần Nông bảo tồn và phát triển trong 45 năm qua đã góp phần đưa năng suất lúa của vùng nàỳ từ 2 – 3 tấn/ ha/ vụ tăng lên 6 – 7 tấn/ha/ vụ, tăng sản lượng lúa ở ĐBSCL lên hơn gấp 6 lần, từ 4 triệu tấn/ của năm 1977 vượt lên trên 25 triệu tấn/năm của mỗi năm liên tục từ năm 2017 đến nay.

                    Nông nghiệp ĐBSCL ngày nay đang bị ảnh hưởng rất sâu sắc của ranh mặn đã lấn rất sâu vào đất liền. Bản đồ dự báo xâm nhập mặn ĐBSCL mùa khô năm 2020-2021, do Phòng Dự báo Thủy văn Trung Bộ, Tây Nguyên và Nam Bộ cung cấp đã cho thấy điều rõ Sự biến đổi khí hậu và nguồn nước sông Mekong bị điều tiết nghiêm trọng bởi hệ thống đập thủy điện trên sông, cùng với việc suy kiệt thảm rừng thực vật đầu nguồn đã gây nên hiệu ứng kép của môi sinh môi trường biến đổi.

                    Viện Lúa ĐBSCL tiếp tục là địa chỉ xanh tiêu biểu của nông nghiệp toàn vùng. Viện tiếp tục phát huy những kết quả nổi bật trọng tâm về chọn tạo giống lúa và chuyển giao giống lúa tốt vào sản xuất. Theo đó, Viện Lúa ĐBSCL có 11 giống lúa tốt được công nhận chính thức và 23 giống lúa tốt được bảo hộ..Giống lúa OM của Viện Lúa ĐBSCLchiếm tỉ lệ trên 70% tổng diện tích lúa gieo trồng ở ĐBSCL. Giống lúa OM của Viện Lúa ĐBSCL không chỉ được trồng tốt ở vùng ĐBSCL và lan tỏa nhiều vùng trong cả nước.Đặc biệt, trong tình hình hạn mặn vừa qua, Viện đã kịp thời khuyến cáo và cung cấp các giống lúa có khả năng chống chịu mặn ở mức độ từ 2-4‰ như các giống: OM6976, OM11735, OM9582, OM9577, OM429, OM380, OM18 đã đáp ứng kịp thời và hạn chế đến mức thấp nhất thiệt hại do hạn mặn gây ra. Viện Lúa ĐBSCL tiếp tục nghiên cứu chọn tạo giống lúa theo hướng nâng cao chất lượng gạo phù hợp với biến đổi khí hậu cho vùng ĐBSCL và nhu cầu của thị trường trong nước và xuất khẩu. Phục tráng các giống lúa mùa đặc sản của địa phương và xây dựng những vùng sản xuất gạo đặc sản chuyên canh có giá trị hàng hóa cao. Đánh giá tiềm năng dinh dưỡng của các giống lúa và phát triển các sản phẩm có giá trị cao từ gạo và các phế phụ phẩm trong sản xuất và chế biến lúa gạo”, Viện trưởng Viện Lúa ĐBSCL tiến sĩ Trần Ngọc Thạch khẳng định.

                    VIỆN LÚA BÀI HỌC QUÝ

                    Viện Lúa đồng bằng sông Cửu Long là địa chỉ xanh Việt Nam rạng danh Tổ Quốc tại xã Tân Thạnh, huyện Thới Lai, thành phố Cần Thơ Điện thoại: 0710 3861954; Fax: 0710 3861457; Website:
                    http://www.clrri.org thành viên Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam. Viện Lúa đồng bằng sông Cửu Long có tiền thân là Trung tâm kỹ thuật Nông nghiệp ĐBSCL thành lập ngày 31/1/1977. Trong gần nửa thế kỷ xây dựng và phát triển Viện Lúa đã bảo tồn hơn 3.000 mẫu giống lúa được đánh giá và tư liệu hóa, đã chọn tạo và được công nhận đưa vào sản xuất 166 giống lúa, phần lớn là giống lúa OM thời gian sinh trưởng ngắn 90 – 100 ngày; các giống lúa OMCS cực sớm.

                    Viện Lúa đạt thành tựu to lớn như hôm nay là do tập hợp và phát huy được năng lực của một đội ngũ chuyên gia tuyệt vời đầy tài năng và một đội ngũ các lãnh đạo qua các thời kỳ thật tâm huyết. Thầy Trần Như Nguyện, nguyên Giám đốc Trung tâm kỹ thuật Nông nghiệp ĐBSCL, Giáo sư Tiến sĩ  Nguyễn Văn Luật, Anh hùng lao động, nguyên Viện trưởng Viện Lúa ĐBSCL, Giáo sư Nguyễn Thơ,  Phó Giáo sư Tiến sĩ Bùi Bá Bổng, nguyên Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp & PTNT, nguyên Viện trưởng Viện Lúa ĐBSCL, Giáo sư Tiến sĩ Bùi Chí Bửu, nguyên Phó Giám đốc Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam, nguyên Viện trưởng Viện KHKTNN Miền Nam, nguyên Viện trưởng Viện Lúa ĐBSCL; Tiến sĩ Đặng Kim Sơn, nguyên Viện trưởng Viện Chính sách và Chiến lược Nông nghiệp và PTNT, nguyên Phó Viện trưởng Viện Lúa; Phó Giáo sư Tiến sĩ  Nguyễn Minh Châu, nguyên Viện trưởng Viện Cây Ăn Quả Miền Nam, Tiến sĩ  Nguyễn Xuân Lai, Viện trưởng Viện Nông hóa Thổ nhưỡng, nguyên Phó Viện trưởng Viện Lúa, Tiến sĩ Nguyễn Trí Hoàn, Viện trưởng Viện Cây Lương thực và Cây thực phẩm, Phó Giáo sư Tiến sĩ Phạm Văn Dư, nguyên Cục phó Cục Trồng trọt, Tiến sĩ Lê Văn Bảnh, Cục trưởng Cục Chế biến, Thương mại Nông Lâm Thủy sản và Nghề muối, nguyên Viện trưởng Viện Lúa, Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Thị Lang  nhà khoa học nữ xuất sắc của Việt Nam đạt Giải thưởng Khoa học quốc gia 2016 L’Oreál – UNESCO Vì sự phát triển phụ nữ trong khoa học, cùng với một đội ngũ đông đảo những chuyên gia giỏi, những trí thức nông nghiệp tài năng tận tụy dấn thân vì đại nghĩa, sống thanh đạm, giản dị, say mê  với sự nghiệp trồng người và nghiên cứu khoa học tạo giống cây trồng, cải tiến kỹ thuật canh tác để mang lại đời sống tốt hơn cho người dân.

                    Chúc mừng thành tựu lúa gạo Việt Nam, các gương thầy bạn thân thiết, Chúc mừng Viện Lúa với lớp trẻ đang tiếp bước thầm lặng vươn tới tầm cao mới khoa học nông nghiệp, tận tâm cống hiến cho quê hương. Viện Lúa sao Thần Nông là bài học cao quý của sự đoàn kết một lòng hoàn thành tốt nhiệm vụ của các thế hệ cán bộ viên chức người lao động Viện Lúa, sự quan tâm của Đảng, Chính phủ và các cấp lãnh đạo Trung ương, địa phương và doanh nghiệp, sự cộng hưởng, giúp đỡ và liên kết thật tuyệt vời của thầy cô, bạn hữu, đồng nghiệp bạn nhà nông với đông đảo nông dân từ khắp mọi miền đất nước: Thành quả đào tạo cán bộ khoa học của Viện có nhiều đóng góp vào thành tựu chung cho nền nông nghiệp nước nhà. Một số cán bộ khoa học sau này lãnh đạo nhiều đơn vị trực thuộc Bộ NN-PTNT, Viện lúa ĐBSCL đến năm 2021 đã chọn tạo được trên 180 giống lúa và phát triển trên 180 giống lúa các loại. Trong đó có 82 giống được công nhận giống quốc gia. Hiện nay trong 10 giống lúa được trồng phổ biến trên cả nước, Viện Lúa đóng góp 5 giống.

                    oitiengvietnhubunvanhulua

                    VỀ MIỀN TÂY YÊU THƯƠNG
                    Hoàng Kim

                    Sao anh chưa về miền Tây.
                    Nơi một góc đời anh ở đó.
                    Cần Thơ, Sóc Trăng, sông Tiền, Sông Hậu,…
                    Tên đất tên người chín nhớ mười thương.

                    Anh hãy về Bảy Núi, Cửu Long,
                    Nắng đồng bằng miên man bao nỗi nhớ.
                    Kênh ông Kiệt thương mùa mưa lũ….
                    Anh có về nơi ấy với em không?.

                    *

                    Mình về với đất phương Nam.
                    Ninh Kiều thắm nước, Sóc Trăng xanh đồng.
                    Về nơi ấy với em không ?
                    Bình minh Yên Tử mênh mông đất trời.

                    Ta đi cuối đất cùng đời
                    Ngộ ra hạnh phúc thảnh thơi làm Người.

                    omluagiongcongoc

                    LÚA GIỐNG OM CÓ NGỌC

                    OM Lúa Giống nẩy mầm xanh, Viện Lúa xây dựng và phát triển, các gương mặt thầy bạn thân thiết, ‘lúa mới vòng tròn nhân quả: hoa lúa – hột lúa bùn ngấu – cây lúa – hạt gạo’, bài học thầm lặng nổ lực vươn tới dâng hiến ngọc cho đời.†††††††††††††††††† Viện Lúa: Huân chương độc lập Hạng I năm 2014, Hạng II năm 2007, Hạng III năm 2002; Anh hùng lao động thời kỳ đổi mới năm 2000; Giải thưởng phụ nữ Việt Nam 2013 cho tập thể nữ Huân chương lao động Hạng I năm 1996, Hạng II năm 1990, Hạng III năm 1986; Giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học công nghệ 10 nhà khoa học được nhận năm 2000, Giải thưởng  Kovalepskaia.

                    Viện Lúa ĐBSCL là bài học lớn: Chọn tạo giống lúa siêu xanh năng suất cao, chất lượng tốt, ngắn ngày, chịu mặn hạn, ít sâu bệnh, thích ứng biến đổi khí hậu Việt Nam là tâm sức của chúng để đồng hành trên con đường lúa gạo Việt Nam. ††

                    saothannong

                    SAO THẦN NÔNG VIỆT NAM

                    Chúng tôi khi dạy và học lúa gạo Việt thường liên tưởng tới sao Thần Nông trên bầu trời. Sao Thần Nông là chòm sao
                    Thiên Yết (Scorpius) một trong những chòm sao sáng rõ nhất của 12 chòm sao hoàng đạo, nằm gần chòm sao Thiên Xứng (Libra) trên ‘đường đi của thần mặt trời’. Chòm sao Thần Nông có một ngôi sao cấp I, năm ngôi sao cấp II và mười ngôi sao cấp III. Những ngôi sao sáng này xếp thành hình chữ S (Thiên Yết, Bọ Cạp, Hổ Cáp). Sao Thần Nông trong thần thoại phương Đông có Thanh Long một sinh vật đầy sức mạnh nhưng nhân từ, sứ giả báo trước của mùa xuân.

                    Viện Lúa ĐBSCL là chòm sao Thần Nông trong dãy Ngân Hà lồng lộng có vô số sao sáng trời Nam. Gạo Việt “ấp ủ” giấc mơ thương hiệu, tôi tâm đắc nhiều về bài học ‘Dưới đáy đại dương là ngọc’ và thường nghĩ về những con người huyền thoại của lúa gạo Nam Bộ, trong đó có nhiều người thuộc Viện Lúa ĐBSCL.

                    Sóc Trăng Lương Định Của. Giáo sư bác sĩ Nông học Lương Định Của, anh hùng lao động, giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học kỹ thuật, cuộc đời và sự nghiệp còn mãi với thời gian, với con đường lúa gạo Việt Nam đang tỏa rộng nhiều vùng đất nước, kết nối lớp lớp những dâng hiến lặng lẽ tôn vinh hạt ngọc Việt. Cây lúa Việt Nam nửa thế kỷ nhìn lại (1975- 2019) có tốc độ tăng năng suất vượt trên 1,73 lần so với thế giới. Thành tựu này có cống hiến hiệu quả của nhà bác học nông dân Lương Định Của ở chặng đường đầu của nước Việt Nam mới. Đại Ngãi Trường Khánh Long Phú Sóc Trăng Nam Bộ Việt Nam là quê hương của bác học Lương Định Của. Đó cũng chính là nơi khởi phát và tỏa rộng con đường lúa gạo Việt Nam, thành tựu và bài học lớn. ” Nhất ông Của, nhì chuyên gia, thứ ba chỉ đạo”. Tức là cán bộ thuộc các đoàn chỉ đạo của bộ là nhàn nhất ( lúc đó còn HTX mà, xã viên còn nhàn nữa là.) Đoàn chuyên gia TQ thì vất vả hơn vì các chuyên gia đa phần là nông dân, giỏi thực hành nên cán bộ Việt Nam cũng phải thực hành theo. Còn Viên ông Của thì vất vả nhất, làm theo định mức, nếu việc không có định mức thì phải làm đủ 8 h, theo kẻng.

                    Thầy Luật lúa OMCS OMHồ Quang Cua gạo ST Con đường lúa gạo Việt Nam từ Sóc Trăng kết nối Hậu Giang, Cần Thơ, Viện Lúa và tỏa rộng nhiều vùng đất nước thấp thoáng chân dung năm anh hùng lao động nghề lúa: Giáo sư Nguyễn Văn Luật tác giả chính của cụm công trình lúa OM và OMCS giải thưởng Hồ Chí Minh và chủ biên sách lúa Việt Nam thế kỷ 20 ba tập 1500 trang; kỹ sư Hồ Quang Cua nghiên cứu chọn tạo và phổ biến ứng dụng rộng rãi hàng chục vạn hecta gạo thơm Sóc Trăng trong sản xuất;

                    Thầy Xuân lúa và hệ canh tác, Thầy Quyền thâm canh lúa với bác Trần Ngọc Hoằng và kỹ sư Trần Ngọc Sương là câu chuyện dài ‘Đáy đại dương là ngọc‘. Giáo sư Võ Tòng Xuân là chuyên gia lúa và hệ canh tác, anh hùng lao động, người con của quê hương Nam Bộ. Lúa sắn Việt Châu Phi, và thông tin của GMX Consulting về Thầy đã cho thấy một phần việc mới nhất của thầy trên độ tuổi 80 vẫn tiếp tục đi tới trên con đường giáo dục nông nghiệp.

                    Trần Ngọc Hoàng và Trần Thị Sương là hai cha con anh hùng huyền thoại Đáy đại dương là ngọcHậu Giang gió nổi bời bời/ Người ta một nắng, chị thời Ba Sương/ Theo cha đi mở nông trường/ Sáu mươi tóc vẫn còn vương mùi phèn/ Giữa bùn lòng mở cánh sen/ Thương bao phận khó mà quên phận mình” . Sự kiện ngày 15 tháng 8 năm 2009 đến nay trong lòng tôi và mọi người đâu dễ quên và đâu đã khép lại. Hôm bác Năm Hoằng mất, chúng tôi gần như đi suốt đêm từ Trung tâm Nghiên cứu Thực nghiệm Nông nghiệp Hưng Lộc (Đồng Nai) về Nông trường sông Hậu (Hậu Giang) để kịp viếng bác. Tôi biết ơn bác Năm đã năm lần lội ruộng thăm đồng Trung tâm Hưng Lộc và đã gợi ý cho tôi nhiều điều. Trong đó có một lần bác tặng cho tôi chiếc máy điện thoại di động “Cháu giữ mà dùng, bác mua lại cái khác”, “Thông tin là cần thiết, đừng tiết kiệm quá con ạ !” “Chưa kỹ đâu con đừng vội làm sư” “Bác có chút kinh nghiệm thau chua, rửa phèn, lấn biến” “Hiểu cây và đất thì mới làm ra được giống mới con ạ !” “Phải sản xuất kinh doanh khép kín mới khá được” “Dưới đáy đại dương là ngọc !”. Những bài học của bác Năm và chị Ba đã giúp chúng tôi rất nhiều. Tôi mắc nợ câu chuyện này đã nhiều năm. Tôi chỉ neo được một cái tựa đề  và ít tên người để thỉnh thoảng nhớ lại. Kể về họ là sự chiêm nghiệm một đời. Chúng ta chắc vẫn còn nhớ câu chuyện “Hai cha con đều là anh hùng” và Trở lại nụ cười Ba Sương Lâu nay chúng ta đã xúc động nhiều với cuộc đời bất hạnh của chị Ba Sương nhưng hình như việc “tích tụ ruộng đất” “lập quỹ trái phép”, và “xây dựng nông trại điển hình” của Nông trường sông Hậu thời bác Năm Hoằng và chị Ba Sương cho đến nay vẫn chưa được nghiên cứu thấu đáo để rút ra những bài học sâu sắc về tầm nhìn, quan điểm, cách đầu tư khép kín trong nông nghiệp. Bác Năm đã yên nghĩ, chị ba Sương kêu án tù 8 năm và được thả. Người đương thời chưa thể mổ xẻ và phân tích đúng sai về cách “lập quỷ trái phép” và “tích tụ ruộng đất” nhưng nếu khép lại điều này thì không thể nói rõ nhiều việc và cũng không đúng tâm nguyện của những bậc anh hùng trượng nghĩa Nam Bộ đã quyết liệt dấn thân trọn đời cho sự nghiệp và niềm tin ấy.
                    ††††††††††
                    Mỗi người chúng ta chỉ nhỏ nhoi thôi trong sự trường tồn và đi tới mãi của dân tộc. Nhưng tôi nhớ và tôi tin câu nói của Nguyễn Khải: “Tôi viết vậy thì tôi tồn tại“.“Viết văn không chỉ do nhu cầu kiếm sống, viết văn cũng không chỉ do những bức xúc khôn khuây của cá nhân, mà viết còn là mong muốn được trao trở về với cái vô hạn”.

                    ThayQuyennghenongcuachungtoi

                    Thầy Quyền thâm canh lúa cùng với thứ trưởng Lê Quốc Doanh ở Cần Thơ. Giáo sư Mai Văn Quyền là chuyên gia thâm canh lúa và nghiên cứu phát triển hệ thống nông nghiệp bền vững. Thầy trên 86 xuân vẫn phong độ họp bạn nhà nông.

                    Thứ Trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Phó Giáo sư tiến sĩ Bùi Bá Bổng và vợ là Phó Giáo sư tiến sĩ Nguyễn Thị Cúc Hòa đều là chuyên gia chọn giống và công nghệ sinh học cây lúa. Ảnh Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp & PTNT (thứ hai từ bên phải) và anh hùng lao động Hồ Quang Cua (thứ nhất bên trái) trong hội thảo đầu bờ trên cánh đồng mẫu lớn.

                    Ảnh Phó Giáo sư tiến sĩ Nguyễn Thị Cúc Hòa Viện Lúa ĐBSCL tiếp thầy trò lúa Đại học Nông Lâm TP Hồ Chí Minh

                    GS.TS. Nguyễn Thị Lang (người ở giữa thứ hai phải qua) là một trong những nhà khoa học nữ tiêu biểu của Việt Nam, trưởng phòng công nghệ sinh học, Trường đại học An Giang và Trường đại học Cửu Long, giáo sư bộ môn di truyền và chọn giống cây trồng, Viện lúa đồng bằng sông Cửu Long.

                    nguyenthilang-omluagiongcongoc

                    Giáo sư Lang trong hơn 25 năm qua (1990-2016) đã chọn tạo và đưa vào sản xuất  thành công được 31 giống lúa tốt và 16 quy trình kỹ thuật canh tác đã được Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn công nhận giống và tiến bộ kỹ thuật được áp dụng rộng rãi tại các tỉnh phía Nam, chủ yếu và vùng Đồng Đằng Sông Cửu Long. Chị cũng đã công bố trong nước và quốc tế trên 110 bài báo khoa học, xuất bản nhiều sách chuyên khảo và sách phổ thông nghề lúa, hướng dẫn nhiều thạc sĩ, tiến sĩ , thực hiện nghiên cứu giảng day và chuyển giao tiến bộ kỹ thuật nông nghiệp trong các chuyên ngành nông học, công nghệ sinh học, di truyền và chọn giống cây trồng. †††††††††††

                    GS.TS Nguyễn Thị Lang sinh năm 1957 tại Bến Tre, nguyên là sinh viên Đại học Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh niên khóa 1974-1979. Sau đó, từ cuối năm 1979 đến đầu năm 2006,  chị lần lượt làm cán bộ,  phó trưởng phòng kế hoạch khoa học Sở Khoa học Công nghệ tỉnh Bến Tre, tiếp đấy làm nghiên cứu sinh tiến sĩ tại Viện Khoa học Việt Nam năm 1990-1994, bảo vệ luận án tiến sĩ năm 1994, làm thực tập sinh sau tiến sĩ về di truyền phân tử tại Viện Lúa Quốc tế (IRRI) tại Philippine từ năm 1996-1998, tham gia nghiên cứu bản đồ gen QTL giống lúa chống chịu mặn tại Trung tâm Khoa học Nông nghiệp Quốc tế (JIRRCAS). Từ đầu năm 2006 đến nay, chị làm Trưởng bộ môn Di truyền và Chọn giống Viện Lúa ĐBSCL. GS.TS Nguyễn Thị Lang ngoài sự đam mê và thành công trong nghiên cứu giảng dạy khoa học cây lúa, cũng có nhiều thành công trong nghiên cứu genome cây đậu tương, đậu xanh, cây ăn trái, cây thuốc nam, ngô, lạc, hoa… nghiên cứu phát hiện các gen ứng cử viên cho mục tiêu chống chịu khô hạn, phèn, mặn, ngập úng và gen kháng sâu bệnh hại, góp phần nâng cao phẩm chất nông sản và phục vụ cho phát triển an toàn lương thực. Chị cũng dành nhiều thời gian cho công tác giảng dạy tại các trường đại học An Giang, Cần Thơ, Mekong, Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh tham gia nhiều hội nghị hội thảo đầu bờ với nông dân với bước chân trải nghiệm rộng khắp nhiều vùng đất nước .††††††††††

                    Giáo sư Bùi Chí Bửu và vợ là giáo sư Nguyễn Thị Lang đều là chuyên gia di truyền và chọn giống lúa. “Lang Bửu lúa” đều chung niềm đam mê cây lúa và đều đạt những thành tựu khoa học thật đáng ngưỡng mộ. Viện Lúa ĐBSCL còn nhiều câu chuyện dâng hiến lặng lẽ và nhiều bài học thành công khác nhưng chỉ với năm diện mạo tiêu biểu “Thầy Luật lúa”, ‘Bổng Hòa lúa’, “Lang Bửu lúa” chúng ta đã có năm câu chuyện đời thường huyền thoại lúa dầy dặn của những gương sáng nghị lực tâm huyết mẫu mực giữa đời thường.

                    Bốn mươi lăm năm Viện Lúa chặng đường phát triển hạt ngọc Việt đã trãi qua biết bao vinh quang nhưng cũng biết mấy nhọc nhằn. Viện Lúa nằm ở giữa tâm điểm của những  của những kết nối hợp tác mà cho đến nay chúng ta vẫn thiếu những bài viết kể những câu chuyện và tôn vinh những thầy bạn thân thiết đã làm nên các điều kỳ diệu ấy.

                    Đáy đại dương là ngọc

                    vienlua2017

                    VIỆN LÚA RẠNG DANH TỒ QUỐC
                    Hữu Đức, Ngọc Thắng


                    (DẠY VÀ HỌC) Báo Nông nghiệp Việt Nam có chùm bài viết Viện Lúa rạng danh Tổ Quốc của các tác giả Hữu Đức Ngọc Thắng ghi theo lời trao đổi của giáo sư Bùi Chí Bửu và tiến sĩ Trần Ngọc Thạch . Bài 1: Sứ mệnh lịch sử tìm giống lúa mới; Bài 2: Bước tiến diệu kỳ; Bài 3: Thành quả và con đường phía trước. (
                    Viện Lúa xây dựng và phát triển , Ảnh HK)

                    I. SỨ MỆNH LỊCH SỬ TÌM GIỐNG LÚA MỚI


                    Danh tiếng các giống lúa OM đã vượt xa phạm vi địa lý vựa lúa ĐBSCL, được nông dân miền Nam, Tây Nguyên và cả nước lựa chọn gieo trồng. Vượt ngàn vạn dặm theo chân các chuyên gia trồng lúa sang Lào, Campuchia, Brunei đến các nước châu Phi, Mỹ Latinh…, lúa OM minh chứng khả năng thích nghi, sức sống mãnh liệt, góp phần làm rạng danh Việt Nam, quốc gia sản xuất lúa gạo hàng đầu thế giới. Từ chiếc nôi nghiên cứu chọn tạo bộ giống lúa kỳ diệu này – hơn 42 năm qua các nhà khoa học Viện Lúa ĐBSCL đã biết cách chọn ra con đường ngắn nhất, thời gian ngắn nhất để đạt thành tựu hôm nay;

                    xem tiếp
                    https://hocmoingay.blogspot.com/2019/06/vien-lua-rang-danh-to-quoc.html. 

                    MỘT GIA ĐÌNH YÊU THƯƠNG
                    Hoàng Kim


                    Ngày Hoàng Gia trong con, xem tiếp
                    Một gia đình yêu thương

                    Bài viết mới trên DẠY VÀ HỌC
                    https://hoangkimvn.wordpress.com bấm vào đây cập nhật mỗi ngày

                    Video yêu thích

                    Chỉ tình yêu ở lại
                    Ngày hạnh phúc của em
                    Giúp bà con cải thiện mùa vụ
                    Quà tặng cuộc sống yêu thích
                    Vietnamese food paradise
                    KimYouTube

                    Trở về trang chính
                    Hoàng Kim Long, Ngọc Phương NamThung dungDạy và Học, Việt Nam Học, Cây Lương thực Việt Nam, Tình yêu Cuộc sống, CNM365; Kim on LinkedIn Kim on Facebook Kim on Twitter

                     


                     

                    Xem tiếp >>

                      Dạy và học 16 tháng 6(16-06-2021)


                     

                     

                    DẠY VÀ HỌC 16 THÁNG 6
                    Hoàng Kim

                    CNM365 Tình yêu cuộc sống Bản Giốc và Ka Long; Quả táo Apple Steve Jobs; Dạo chơi non nước ViệtMột gia đình yêu thương; Học không bao giờ muộn; Nguyễn Du tiếng tri âm; Nguyễn Du Hồ Xuân Hương; Ngày 16 tháng 6 năm 1963, Nhà du hành vũ trụ Liên Xô Valentina Tereshkova trở thành người phụ nữ đầu tiên trong không gian. Ngày 16 tháng 6 năm 1868, Nghĩa quân Nguyễn Trung Trực tập kích đồn Kiên Giang. Ngày 16 tháng 6 năm 1407, Chiến tranh Minh – Đại Ngu: Quân Minh bắt được Thái thượng hoàng Hồ Quý Ly. Bài chọn lọc ngày 16 tháng 6: Bản Giốc và Ka Long; Quả táo Apple Steve Jobs; Dạo chơi non nước Việt; Một gia đình yêu thương; Học không bao giờ muộn; Nguyễn Du tiếng tri âm; Nguyễn Du Hồ Xuân Hương; Thông tin tại: https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-16-thang-6/

                     

                     

                    BẢN GIỐC VÀ KA LONG
                    Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim

                    Bản Giốc và Ka Long là ngọn thác và dòng sông biên giới Trung Việt. Thác Bản Giốc là thác nước hùng vĩ đẹp nhất Việt Nam tại xã Ðàm Thủy, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng.Sông Ka Long (tên gọi Việt) hoặc Sông Bắc Luân (tên gọi Trung) là sông chảy ở vùng biên giới giữa thành phố Móng Cái tỉnh Quảng Ninh, Việt Nam và thành phố Đông Hưng thuộc địa cấp thị Phòng Thành Cảng, Khu tự trị dân tộc Choang tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc. Tuy nhiên theo các bản đồ của Việt Nam thì quan niệm về dòng chảy của sông Ka Long và sông Bắc Luân không hoàn toàn trùng khớp với quan niệm về sông Bắc Luân của Trung Quốc. Thác Bản Giốc và sông Ka Long là nơi lưu dấu gợi nhớ những câu chuyên sâu sắc đời người không thể quên: Người vịn trời xanh chấp sói rừng; Chợt gặp mai đầu suối; Qua sông Thương gửi về bến nhớ; Cao Biền trong sử Việt; Câu cá bên dòng Sêrêpôk; Tư liệu này là điểm nhấn để đọc và suy ngẫm. Xem Video Bản Giốc và Kalong tuyệt đẹp ở đây https://www.facebook.com/AmazingThingsInVietnam/videos/260029285748758 và tích hợp trong tài liệu này https://hoangkimlong.wordpress.com/category/ban-gioc-va-ka-long/

                    “Một thác nước tự nhiên, đẹp hùng vĩ bậc nhất thế giới nằm ở giữa ranh giới hai quốc gia, chứa đựng trong đó nhiều tiềm năng tài nguyên về thủy điện, du lịch. Một khu vực cửa sông tàu thuyền hai bên đi lại dễ dàng, giao thương thuận lợi. Tất cả những tiềm năng này đang chờ đợi sự đầu tư, hợp tác cùng khai thác”, theo VOV 27.11. 2015.

                     

                     

                    Sông Ka Long và sông Bắc Luân

                    Sông Ka Long theo bản đồ của Việt Nam xuất bản, bắt nguồn từ rìa bắc xã Quảng Đức, Hải Hà 21°36′36″B 107°41′2″Đ, phía tây cửa khẩu Bắc Phong Sinh cỡ 5 km, chảy uốn lượn về hướng đông đông bắc. Đoạn sông này dài cỡ 16 km. Sông KaLong đến “bãi Chắn Coóng Pha” ở bản Thán Phún xã Hải Sơn, Móng Cái 21°39′34″B 107°48′24″Đ, thì hợp lưu với Sông Bắc Luân bên Trung Quốc và đổi hướng chảy về đông, sau đó đông nam đến nội thị của thành phố Móng Cái. Toàn bộ đoạn sông nói trên là ranh giới tự nhiên cho đường biên giới Việt – Trung. Sông Kalong đến ranh giới phường Ka Long và Trần Phú ở thành phố Móng Cái thì sông chia thành hai nhánh 21°32′13″B 107°57′58″Đ: 1) Dòng Ka Long chảy trong đất Việt theo hướng Nam xuyên qua thành phố Móng Cái ra biển ở nơi giáp ranh giữa xã Hải Xuân và xã Vạn Ninh. 2) Chi lưu là dòng sông Bắc Luân chảy theo hướng đông, tiếp tục là đường biên giới Việt – Trung, đi qua rìa phía đông bắc phường Hải Hòa, dọc theo rạch Tục Lãm và đổ ra biển Đông ở cửa Bắc Luân. Sông Bắc Luân (Bei Lun He, Bắc Luân hà) phía Trung Quốc thì bắt nguồn từ núi Thập Vạn Đại Sơn 21°45′3″B 107°45′31″Đ ở Phòng Thành, Trung Quốc, chảy theo hướng đông nam tới vùng “bãi Chắn Coóng Pha”. Từ đây sông là ranh giới tự nhiên cho đường biên giới Việt – Trung đến cửa Bắc Luân. Sông có tổng chiều dài 109 km, trong đó đoạn tạo thành biên giới Việt Nam-Trung Quốc là 60 km.

                    Sông Ka Long là sông Bắc Luân Việt Nam phần chảy trong lãnh thổ Việt Nam và  biên giới Việt Trung. Dòng sông này cũng có chốn hợp lưu và có một phần chảy ở nước ngoài là sông Bắc Luân. Câu chuyện này cũng giống như dòng sông Sesan với dòng sông Mekong, đều có chốn hợp lưu, có một phần ở nước ngoài, và có nơi tự do chảy toàn trong lãnh thổ Việt Nam. Từ Mekong nhớ Neva, năm trước khi thăm lại Srepok, điểm hợp lưu quan trọng nhất của sông Mekong ở ngã ba Đông Dương, trong lần chuyển giao tiến bộ kỹ thuật canh tác sắn Tây Nguyên,  tôi liên tưởng và suy ngẫm về các dòng sông đất nước. Nay sông Kalong và sông Bắc Luân cũng là một câu chuyên tương tự.

                    Wikipedia tiếng Việt trích dẫn tư liệu Đại Nam nhất thống chí chépː “Sông Ninh Dương ở cách châu Vạn Ninh 1 dặm về phía tây. Nguồn (của sông này) từ các xã Thượng Lai và Mông Sơn tổng Bát Trang chảy về đông 37 dặm ven theo địa giới nước Thanh (đến ngã ba). Rồi chuyển (dòng) chảy sang phía đông 7 dặm, đổ ra cửa Lạch. Một nhánh chảy về phía nam 5 dặm đến xã Ninh Dương, lại chia làm 2 chiː một chi chảy về phía đông làm sông Trà Cổ, một chi chảy về tây nam 1 dặm đến đông nam núi Hữu Hàn chảy 10 dặm đổ ra cửa Đại… Ải Thác Mang ở xã Vạn Xuân, cách châu Vạn Ninh 2 dặm về phía bắc, giáp đồn phủ Đông Hưng của nước Thanh. Phàm hai nước có công văn đều do ải này giao đệ. (Đường bộ) đi đến tỉnh thành mất 8 ngày“.

                     

                     


                    Khu vực cửa sông Bắc Luân năm 1888. Công ước năm 1887 giữa Pháp và nhà Thanh lấy cửa sông này làm đường biên giới. Sông Palong nay bắc qua nhánh Ka Long chảy trong thành phố Móng Cái có 2 cầu là cầu Ka Long và cầu Hòa Bình, bắc qua nhánh Bắc Luân chảy dọc biên giới hiện có cầu Bắc Luân nối hai cửa khẩu quốc tế Móng Cái của Việt Nam và cửa khẩu Bắc Luân của Trung Quốc.

                     

                     

                    Ngày 13/09/2017 hai nước đã cùng khánh thành cầu Bắc Luân 2 Việt – Trung, là cây cầu thứ 2 nối giữa 2 thành phố cũng như 2 quốc gia, cũng là cây cầu dạng vòm lớn nhất Việt Nam. Đi qua cầu Bắc Luân 2 về đêm nhớ về Hoành Mô, Tiên Yên, Móng Cái kỷ niệm một thời của thuở xưa ‘Qua sông Thương gửi về bến nhớ‘ với bao kỷ niệm.

                     

                     

                    Thác Bản Giốc

                    Thác Bản Giốc là thác nước đẹp hiếm thấy tại xã Ðàm Thủy, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng, trên các trang mạng Trung Quốc gọi là cặp thác Đức Thiên – Bản Ước là một nhóm thác nước nằm trên sông Quây Sơn tại biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc. Nếu nhìn từ phía dưới chân thác, phần thác bên trái và nửa phía tây của thác bên phải thuộc chủ quyền của Việt Nam tại xã Đàm Thủy, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng; nửa phía đông của thác bên phải thuộc chủ quyền của Trung Quốc tại thôn Đức Thiên, trấn Thạc Long, huyện Đại Tân, thành phố Sùng Tả của khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây. Thác nước này cách huyện lỵ Trùng Khánh khoảng 20 km về phía đông bắc, cách thủ phủ Nam Ninh của Quảng Tây khoảng 208 km.

                    Sông Quy Xuân theo cách gọi của phần dòng sông tại Việt Nam, còn tên chung của cả dòng sông theo tiếng Trung gọi là Quây Sơn,  Quy Xuân hà,  归春河, Guīchūn Hé, là một dòng sông quốc tế. Sông Quây Sơn có chiều dài 89 km với diện tích lưu vực là 1.160 km², độ cao trung bình của sông là 556 m. Sông chảy phần lớn trên địa bàn tỉnh Quảng Tây của Trung Quốc và có chiều dài khoảng trên 20 km tại tỉnh Cao Bằng của Việt Nam. Theo Bách khoa toàn thư Việt Nam sông Quy Xuân tại Việt Nam có một chi lưu là suối Cạn và sông có tổng chiều dài 38 km với diện tích lưu vực là 370 km2  hoặc theo Bộ Tài nguyên và Môi trường Việt Nam thì sông Quy Xuân phần chảy trong nội địa Việt Nam có tổng chiều dài 49 km với diện tích lưu vực 475 km² .

                    Sông Quy Xuân  bắt nguồn từ các khe suối tại huyện Tĩnh Tây, thành phố Bách Sắc của Quảng Tây, Trung Quốc sau đó chảy xuôi về phía nam hoàn toàn trong lãnh thổ Việt Nam tại xã Ngọc Côn của huyện Trùng Khánh thuộc tỉnh Cao Bằng, tiếp tục chảy theo hướng đông nam cho đến cực nam của xã Đình Phong rồi  chuyển hướng đông-đông bắc đến xã Đàm Thủy sông chuyển hướng đông nam và chảy đến khu vực thác Bản Giốc  tại xã Đàm Thủy (Việt Nam) với đối ngạn là  thôn Đức Thiên, trấn Thạc Long, huyện Đại Tân của thành phố Sùng Tả (Trung Quốc). Đường biên giới Việt Nam-Trung Quốc đi từ mốc 53 (cũ) lên cồn Pò Thoong giữa sông rồi đến điểm giữa của mặt thác chính của thác Bản Giốc. Sau đó sông Quy Xuân trở thành đường biên giới tự nhiên giữa Việt Nam (huyện Hạ Lang) và Trung Quốc (huyện Đại Tân). Đến xã Minh Long, Hạ Lang thì sông Quây Sơn chuyển sang hướng tây và chảy đến xã Lý Quốc, Hạ Lang  và đến trấn Thạc Long, thì sông chảy hoàn toàn trong lãnh thổ Trung Quốc. Sông Quy Xuân sau khi chảy vào lãnh thổ Trung Quốc, vẫn có hướng chính là hướng tây rồi nhập vào sông Hắc Thủy ở Thạc Long và sau đó lại nhập vào Tả Giang rồi đổ ra biển Đông tại vùng Châu Giang. Vì tính chất dòng chảy như vậy nên ở Trung Quốc sông được ca ngợi là “sông yêu nước” vì sự quấn quýt trở về. Sông Quy Xuân có thác Bản Giốc Việt Nam và cặp thác Đức Thiên – Bản Ước Trung Quốc được bình chọn và đánh giá là một trong các thác đẹp nhất Trung Quốc và Việt Nam.

                    Quảng Ninh và Cao Bằng là một phần đời tôi ở đó. Lên Việt Bắc điểm hẹn; Về Việt Bắc đêm lạnh nhớ Bác tôi đã kể ký ức về Thác Bản Giốc và sông Ka Long. “Việt Nam Trung Hoa núi liền núi sông liền sông”, đây là một thí dụ điển hình.

                     

                    Ong va Hoa

                     

                    QUẢ TÁO APPLE STEVE JOBS
                    Hoàng Kim
                    ‘Quả táo Apple Steve Jobs’ là bài ca thời gian mà tôi đã viết từ năm trước nhưng mỗi lần khi nhớ lại hoặc xem lại hình ảnh này trong bài viết lại gợi cho tôi viết thêm những cảm hứng và bài học mới. Đây là một câu chuyện nhỏ nhưng ý nghĩa lớn. Steve Jobs xây dựng thương hiệu Apple giá trị nhất toàn cầu đi từ ý tưởng quả ‘Táo khuyết’ Nhà thơ Mỹ viết “Bài ca cây táo” đạt tới điều kỳ diệu mà nhà văn
                    Hoàng Đình Quang đã viết lời cảm khái “Khanh tướng chắc gì nên vọng tộc. Câu thơ còn đó lập danh gia”. Táo Tây, Táo Ta và Táo Tàu những loài quả quá thông dụng ở thế giới và Việt Nam tôi cứ tưởng là mình đã hiểu nhưng hóa ra nghe thì dễ, nhìn dễ lầm và viết lại một mục từ nhỏ bách khoa thư Việt Nam đứng đắn thì lại thật không dễ chút nào. Kính mong thầy Nguyễn Lân Dũng người khuyến khích em viết bài này với giáo sư Vumanh Hai bạn học, phó giáo sư Ke Nguyen người thân là những người thầy chuyên dạy quả, cùng giáo sư Nguyễn Tử Siêm, trưởng ban bách khoa thư Việt Nam quyển 9 nông nghiệp và thủy lợi cùng và quý thầy bạn đọc giúp thêm sự góp ý để bài này được hoàn thiện.

                    Cây Táo trên Thế giới và Việt Nam được phân biệt Táo Tây, Táo Ta và Táo Tàu. Táo Tây có tên khoa học là Malus domestica, tiếng Anh gọi là Apple, tiếng Việt gọi là Táo Tây hoặc bôm, phiên âm từ pomme tiếng Pháp. Cây táó trong tiếng Việt là gồm cả táo tây, táo ta và táo tàu; đó là một trong những loại trái cây phổ biến nhất trên thế giới. Cây táo đã gợi cảm hứng cho Steve Jobs đặt tên Apple cho thương hiệu “Quả táo khuyết’ ngày nay trở thành thương hiệu giá trị nhất hành tinh. Cây táo cũng đã gợi cảm hứng cho William Cullen Bryant (1794-1878) là nhà thơ và nhà báo Mỹ viết “Bài ca cây táo” nổi tiếng lưu danh tại thế giới thi ca Viện Hàn Lâm Khoa học Nhận văn của Mỹ. Lời vàng của bài thơ này đã tạc cây táo vào văn chương Anh Mỹ và vào văn hóa nhân loại .

                     

                     

                    TÁO TÂY, TÁO TA VÀ TÁO TÀU

                    Táo Tây Malus domestica là một loài cây thân gỗ trong họ Hoa hồng ( Rosaceae) được biết đến vì quả ngọt của nó (quả táo tây). Nó là loài được trồng rộng rãi nhất trong chi Hải đường (Malus).và là một loài cây ăn quả chủ lực của toàn thế giới.

                     

                     

                    Cây Táo Tây có nguồn gốc ở Trung Á, nơi tổ tiên của nó là loài táo dại Tân Cương vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.

                     

                     

                    Họ Táo (Rhamnaceae) là một họ lớn trong thực vật có hoa, chủ yếu là cây gỗ, cây bụi và một số dây leo. Họ này chứa khoảng 50-60 chi và khoảng 870-950 loài (APG II công nhận 52 chi với 925 loài [1]). Họ Rhamnaceae phân bố rộng khắp thế giới, nhưng là phổ biến hơn trong khu vực cận nhiệt đới và nhiệt đới.

                     

                     

                    Họ Táo Rhamnaceae, có chi Prunus, tiếng Việt Nam Bộ gọi là táo, tiếng Việt Bắc Bộ gọi là mận. Hai hình minh hoa dưới đây là quả táo ta.

                    Táo ta hay còn gọi là táo chua (tên khoa học Ziziphus mauritiana) là loài táo nhiều phổ biến hơn trong các loài táo ở Việt Nam, là loại cây ăn quả của vùng nhiệt đới, thuộc về họ Táo. Nó được gọi là táo chua, táo Ấn Độ, táo Điền Vân Nam,hay táo gai Vân Nam.

                     

                    Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là tao-ta-2.jpg

                     

                    Cây Táo chua có thể lớn rất nhanh thậm chí trong các khu vực khô và cao tới 12 mét và đạt tuổi thọ 25 năm. Nó có nguồn gốc ở châu Á, chủ yếu là Ấn Độ, mặc dù cũng có thể tìm thấy ở châu Phi. Một loài táo khác tên khoa học Ziziphus nummularia, cũng được gọi là táo ta.

                     

                    Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là tao-tau.jpg

                     

                    Táo Tàu trên thị trường thường hay gọi lẫn với táo Tây xanh vì vỏ quả phổ biến màu xanh (gọi là Táo xanh) và nguồn gốc địa lý mua bán loại táo xanh này chủ yếu sản xuất tại Trung Quốc Sự thật thì Táo Tàu hay đại táo hoặc hồng táo (tiếng Trung: 枣, 棗, 红枣), (tiếng Triều Tiên:대추), tiếng Nhật: 棗 natsume) (danh pháp khoa học: Ziziphus jujuba) là để chỉ một loài cây thân gỗ nhỏ hay cây bụi với lá sớm rụng, thuộc họ Rhamnaceae (họ Táo). Theo sự đúc kết của Wikipedia Ttiếng Việt, Táo Tàu được cho rằng nó có nguồn gốc từ Bắc Phi và Syria, nhưng đã dịch chuyển về phía đông, qua Ấn Độ tới Trung Quốc, là khu vực nó đã được trồng trên 4.000 năm. Cây Táo Tàu có thể cao khoảng 5–12 m, với các lá xanh bóng, và đôi khi có gai. Các hoa nhỏ, màu trắng hoặc ánh lục, khó thấy, quả hình trứng, kích cỡ tự quả ô liu, thuộc loại quả hạch. Dạng cây và dạng quà theo như hai hình dưới đây. Quả của Táo Tàu được sử dụng khá phổ biến trong y học truyền thống của người Trung Quốc, Triều Tiên và Việt Nam

                     

                    Táo Tàu (Jujube) theo Fanghonghttps://vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%A1o_t%C3%A0u#/media/T%E1%BA%ADp_tin:ZiziphusJujubaVarSpinosa.jpg
                    Giới (regnum) Plantae
                    (không phân hạng) Angiospermae
                    (không phân hạng) Eudicots
                    (không phân hạng) Rosids
                    Bộ (ordo) Rosales
                    Họ (familia) Rhamnaceae
                    Chi (genus) Ziziphus
                     
                    Loài
                    (species) Z. jujuba
                    Danh pháp hai phần
                    Ziziphus jujuba
                    (
                    L.) H. Karst.
                    Táo Tàu, ảnh của Frank C. Müller
                    Apple Steven Jobs

                     

                    QỦA TÁO APPLE STEVE JOBS

                    Quả táo là loại trái cây ngon phổ biến nhất hành tinh. Quả táo nay cũng là máy tính chất lượng  
                    Apple là thương hiệu giá trị nhất thế giới. Quả táo Steven Jobs cũng như Kiều Nguyễn Du. Ai nói đến Kiều lập tức gợi nhớ Nguyễn Du; ai nói đến Quả táo Apple lập tức gợi nhớ Steven Jobs và ngược lại. Thương hiệu Apple, điều hay nhất là “quả táo có cắn một miếng”. Chúng ta nhìn quả táo Jobs đã cắn một miếng mà thấy thèm. Táo ngon mọi người đều thèm cắn. Apple Steven Jobs làm nên giá trị Mỹ, là tấm giấy thông hành của nước Mỹ đi ra thế giới. Việt Nam chúng ta đã có tấm giấy thông hành của một đất nước độc lập, đẹp và thân thiện với những danh nhân minh triết  dựng nước, giữ nước và nhiều gương anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang nhưng thiếu vắng những thương hiệu Việt lừng lẫy như Quả táo Apple Steve Jobs.

                    Tôi kể các bạn nghe “chuyện Steven Jobs”, “câu chuyện quả táo”, với “trãi nghiệm và suy ngẫm” của riêng mình. Thật lạ lùng ý tưởng này của tôi lại trùng hợp với thầy Nguyễn Lân Dũng. Thầy Lân Dũng cũng nâng niu, sưu tầm, biên soạn “Câu chuyện ông chủ Apple”. Thầy đến nay đã trên tám mươi lăm tuổi (2020) mà Thầy vẫn thật tận tụy thu thập tuyển chọn hiệu đính thông tin, cung cấp các SỰ THẬT điều hay lẽ phải, những gương sáng lập nghiệp để trao lại cho lớp trẻ. Biển học vô bờ, siêng năng là bến. Kiến thức nhân loại là mênh mông như biển và cao vọi như núi. Việc chính đời người là chọn lọc thông tin để dạy, học và làm được những điều bổ ích cho chính mình, cộng đồng và đất nước.

                    “Steven Jobs (24 tháng 2 năm 1955 – 5 tháng 10, 2011) là doanh nhân và nhà sáng chế người Mỹ. Ông là đồng sáng lập viên, chủ tịch, và cựu tổng giám đốc điều hành của hãng Apple, là một trong những người có ảnh hưởng lớn nhất ở ngành công nghiệp vi tính.” Giáo sư Nguyễn Lân Dũng đã tóm tắt như trên về Steven Jobs. Thầy viết tiếp:

                    “Đầu những năm 1980, Jobs là một trong những người đầu tiên nhìn thấy tiềm năng thương mại của giao diện người dùng điều khiển đồ họa bằng cách sử dụng chuột dẫn đến việc ra đời Macintosh. Quá trình hoạt động kinh doanh của Steve Jobs đã đóng góp nhiều cho các hình ảnh biểu tượng mang phong cách riêng, nhà doanh nghiệp tiêu biểu của Thung lũng Silicon, nhấn mạnh tầm quan trọng của thiết kế và hiểu biết vai trò thiết yếu của tính thẩm mỹ trong việc thu hút công chúng. Công việc của ông thúc đẩy sự phát triển của các sản phẩm mà chức năng và tính thanh lịch của chúng đã thu hút những người ủng hộ hết mình. Ngày 24 tháng 8 năm 2011, Steve Jobs tuyên bố từ chức tổng giám đốc điều hành của Apple. Trong thư từ chức, Jobs mạnh mẽ gửi gắm rằng Tim Cook là người kế nhiệm ông. Do yêu cầu này, Jobs được bổ nhiệm làm chủ tịch hội đồng quản trị của Apple. Ngày 5 tháng 10 năm 2011, Apple loan tin Steve Jobs đã qua đời ở tuổi 56.

                    Steve Jobs đã qua đời vào sáng 5/10/2011, khiến cả thế giới sửng sốt và tiếc nuối. Ông là người kín tiếng, gần như không bao giờ nói về đời tư và cuộc trò chuyện cởi mở nhất có lẽ là bài phát biểu dưới đây:

                    “Tôi rất vinh dự có mặt trong lễ trao bằng tốt nghiệp của các bạn hôm nay tại một trong những trường đại học uy tín nhất thế giới. Tôi chưa bao giờ có bằng đại học. Phải thú nhận đây là lần tôi tiếp cận gần nhất với một buổi tốt nghiệp. Tôi muốn kể cho các bạn ba câu chuyện về cuộc đời tôi. Không có gì nhiều nhặn. Chỉ là ba câu chuyện. 

                    Chuyện thứ nhất là về việc kết nối các dấu chấm (kết nối các sự kiện)

                    Tôi bỏ trường Reed College ngay sau 6 tháng đầu, nhưng sau đó lại đăng ký học thêm 18 tháng nữa trước khi thực sự rời trường. Vậy, vì sao tôi bỏ học?

                    Mọi chuyện như đã định sẵn từ trước khi tôi sinh ra. Mẹ đẻ tôi là một sinh viên, bà chưa kết hôn và quyết định gửi tôi làm con nuôi. Bà nghĩ rằng tôi cần được nuôi dưỡng bởi những người đã tốt nghiệp đại học nên sắp đặt để trao tôi cho một vợ chồng luật sư ngay trong ngày sinh. Tuy nhiên, mọi chuyện thay đổi vào phút chót bởi họ muốn nhận một bé gái hơn là tôi.

                    Vì thế, cha mẹ nuôi của tôi, khi đó đang nằm trong danh sách xếp hàng, đã nhận được một cú điện thoại vào nửa đêm rằng: “Chúng tôi có một đứa con trai không mong đợi, ông bà có muốn chăm sóc nó không?” và họ trả lời: “Tất nhiên rồi”. Mẹ đẻ tôi sau đó phát hiện ra mẹ nuôi tôi chưa bao giờ tốt nghiệp đại học còn cha tôi thậm chí chưa tốt nghiệp phổ thông trung học. Bà từ chối ký vào giấy tờ trao nhận và chỉ đồng ý vài tháng sau đó khi bố mẹ hứa rằng ngày nào đó tôi sẽ vào đại học.

                    Sau đó 17 năm, tôi thực sự đã vào đại học. Nhưng tôi ngây thơ chọn ngôi trường đắt đỏ gần như Đại học Stanford vậy. Toàn bộ số tiền tiết kiệm của bố mẹ tôi phải dồn vào trả học phí cho tôi. Sau 6 tháng, tôi thấy việc đó không hề hiệu quả. Tôi không có ý niệm về những gì muốn làm trong cuộc đời mình và cũng không hiểu trường đại học sẽ giúp tôi nhận ra điều đó như thế nào. Tại đó, tôi tiêu hết tiền mà cha mẹ tiết kiệm cả đời. Vì vậy tôi ra đi với niềm tin rằng mọi việc rồi sẽ ổn cả. Đó là khoảnh khắc đáng sợ, nhưng khi nhìn lại, đấy lại là một trong những quyết định sáng suốt nhất của tôi. Tôi bắt đầu bỏ những môn học bắt buộc mà tôi không thấy hứng thú và chỉ đăng ký học môn tôi quan tâm.

                    Tôi không có suất trong ký túc, nên tôi ngủ trên sàn nhà của bạn bè, đem đổi vỏ chai nước ngọt lấy 5 cent để mua đồ ăn và đi bộ vài km vào tối chủ nhật để có một bữa ăn ngon mỗi tuần tại trại Hare Krishna. Những gì tôi muốn nói là sau này tôi nhận ra việc cố gắng theo đuổi niềm đam mê và thỏa mãn sự tò mò của mình là vô giá.

                    Tôi sẽ kể cho các bạn một ví dụ: Đại học Reed khi đó có lẽ là trường tốt nhất dạy về nghệ thuật viết chữ đẹp ở Mỹ. Khắp khuôn viên là các tấm áp-phích, tranh vẽ với những dòng chữ viết tay tuyệt đep. Vì tôi đã bỏ học, tôi quyết định chỉ đăng ký vào lớp dạy viết chữ để tìm hiểu họ làm điều đó thế nào. TXem tiếp >>

                      Dạy và học 15 tháng 6(15-06-2021)


                    DẠY VÀ HỌC 15 THÁNG 6
                    Hoàng Kim

                    CNM365 Tình yêu cuộc sốngQuả táo Apple Steve Jobs; Một gia đình yêu thương; Học không bao giờ muộn; Nguyễn Du tiếng tri âm; Nguyễn Du Hồ Xuân Hương; Ngày 15 tháng 6 năm 2001, Tổ chức Hợp tác Thượng Hải được nguyên thủ 6 nước ký tuyên ngôn thành lập gồm Trung Quốc, Nga, Kazakhstan, Kyrgyzstan, Tajikistan, Uzbekistan. Đây là bước đầu của chiến lược “Liên Nga, bạn Ấn, hợp tác Á Âu Phi”,”vành đai và con đường” của Trung Quốc. Ngày 15 tháng 6 năm 1932 là ngày sinh Nguyễn Quang Riệu, là giáo sư tiến sĩ người Pháp gốc Việt, nhà vật lý thiên văn hàng đầu thế giới. Ông sinh ngày 15 tháng 6 năm 1932 tại Hải Phòng, là con đầu của một gia đình có ba anh em trai đều là những nhà khoa học tên tuổi. Ông làm giám đốc nghiên cứu Đài thiên văn Paris, đã công bố trên 150 công trình khoa học về vật lý thiên văn và viết nhiều sách chuyên ngành, sách phổ biến khoa học bằng tiếng nước ngoài và tiếng Việt. Ông cũng là Giám đốc Nghiên cứu Danh dự (Emeritus) của Trung tâm Quốc gia Nghiên cứu khoa học Pháp (CNRS). đã được nhận giải thưởng của Viện Hàn lâm Khoa học Pháp năm 1973. Ngày 15 tháng 6 năm 1219, Quốc kỳ Đan Mạch lần đầu tiên được sử dụng trong chiến trận Lyndanisse, là quốc kỳ cổ nhất thế giới. Bài chọn lọc ngày 15 tháng 6: Quả táo Apple Steve Jobs; Một gia đình yêu thương; Học không bao giờ muộn; Nguyễn Du tiếng tri âm; Nguyễn Du Hồ Xuân Hương; Thông tin tại: https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimhttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-15-thang-6/

                    Quả táo Apple Steve Jobs

                    QUẢ TÁO APPLE STEVE JOBS
                    Hoàng Kim


                    Steve Jobs là con người huyền thoại của thế kỷ 21, một trong những người có ảnh hưởng lớn nhất ở ngành công nghiệp vi tính toàn cầu, là đồng sáng lập viên, chủ tịch, và cựu tổng giám đốc điều hành của hãng Apple, Thương hiệu Apple được định giá gần 119 tỷ USD và chiếm vị trí thương hiệu giá trị nhất thế giới từ năm 2014. Quả táo Apple Steven Jobs là bài ca thời gian về Jobs, quả táo, bài ca cây táo, hoa và ong. Ba quả táo làm thay đổi thế giới: quả táo trong vườn địa đàng Adam và Eva, quả táo rơi trúng Newton, và quả táo cắn dở của Steve Jobs. Những câu chuyện về Jobs luôn là nguồn cảm hứng dồi dào cho thế hệ trẻ. Mỗi năm vào ngày này tôi lại trở về với câu chuyện”Quả táo Apple Steve Job” Có những giá trị vĩnh cửu đích thực về con người nhân văn cần phải nhấn mạnh cho mọi người, đặc biệt là lớp trẻ.
                    Dạy và học để làm ngày nay không chỉ trao truyền tri thức mà cần thắp lên ngọn lửa. Chừng nào mỗi chúng ta chưa ứa nước mắt thấm hiểu sự nhọc nhằn của người nông dân một nắng hai sương làm ra hạt gạo. Chừng nào những giá trị lao động khoa học cao quý, liên tục, âm thầm chưa mang lại đủ niềm vui cho bữa ăn của người dân nghèo. Chừng đó chúng ta sẽ còn phải dạy và học. Cái gốc của sự học là học làm Người. Quả táo Apple Steve Jobs là bài học lớn về nhân cách sống và nổ lực khởi nghiệp. Tài sản quý giá nhất của đời người là sức khỏe. Bài học sau cùng của Steve Jobs những phút cuối đời thực sự lay động hàng triệu người. Tình yêu cuộc sống là tài sản qúy giá nhất. .

                    CÂU CHUYỆN VỀ STEVE JOBS

                    Steve Jobs, sinh ngày 24 tháng 2 năm 1955, mất ngày 5 tháng 10, năm 2011. Ông là doanh nhân và nhà sáng chế người Mỹ. Ngày 24 tháng 1 năm 1984, Steve Jobs giới thiệu Macintosh 128K, loại máy tính cá nhân đầu tiên của Macintosh, dòng máy tính cá nhân đầu tiên được thương mại hóa thành công, tạo nên bước đột phá trong ngành công nghệ máy tính. Câu chuyện về Jobs được thế giới quan tâm từ sự kiện này.

                    Quả táo là Apple. Quả táo cũng là Steven Jobs. Quả táo là loại trái cây ngon phổ biến nhất hành tinh. Quả táo nay cũng là máy tính chất lượng Apple là thương hiệu giá trị nhất thế giới. Quả táo Steve Jobs cũng như Kiều Nguyễn Du. Ai nói đến Kiều lập tức gợi nhớ Nguyễn Du; ai nói đến Quả táo Apple lập tức gợi nhớ Steve Jobs và ngược lại. Thương hiệu Apple, điều hay nhất là “quả táo có cắn một miếng”. Chúng ta nhìn quả táo Jobs đã cắn một miếng mà thấy thèm. Táo ngon mọi người đều thèm cắn. Apple Steve Jobs đã làm nên giá trị Mỹ, là tấm giấy thông hành của nước Mỹ đi ra thế giới.

                    Việt Nam chúng ta đã có tấm giấy thông hành của một đất nước độc lập, đẹp và thân thiện với những danh nhân minh triết dựng nước, giữ nước và nhiều gương anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang nhưng thiếu vắng những giá trị Việt, thương hiệu Việt lừng lẫy như Apple Steve Jobs.

                    Tôi kể em nghe “câu chuyện về Jobs”,“câu chuyện quả táo”, “hoa và ong” với những trãi nghiệm và suy ngẫm của riêng mình. Thật lạ lùng ý tưởng này của tôi lại trùng hợp với thầy Nguyễn Lân Dũng. Thầy Lân Dũng cũng nâng niu, sưu tầm, biên soạn Câu chuyện ông chủ Apple. Thầy đã gần tám mươi tuổi mà vẫn thật tận tụy thu thập tuyển chọn thông tin về các điều hay lẽ phải, những gương sáng lập nghiệp để trao lại cho lớp trẻ. Biển học vô bờ, siêng năng là bến. Kiến thức nhân loại là mênh mông như biển và cao vọi như núi. Việc chính đời người là chọn lọc thông tin để dạy, học và làm được những điều bổ ích cho chính mình, cộng đồng và đất nước.

                    Steve Jobs đã qua đời vào sáng 5 tháng 10 năm 2011 ở tuổi 56 khiến cả thế giới bàng hoàng sửng sốt và tiếc nuối. Ông là người kín tiếng, gần như không bao giờ nói về đời tư của mình cho đến khi Jobs bị bệnh ung thư, và ông lặng lẽ chịu đựng cho đến ngày 24 tháng 8 năm 2011, thì ông tuyên bố từ chức tổng giám đốc điều hành của Apple và mạnh mẽ gửi gắm rằng Tim Cook là người kế nhiệm ông. Steve Jobs do yêu cầu này, được bổ nhiệm làm chủ tịch hội đồng quản trị của Apple và bài phát biểu dưới đây là cuộc trò chuyện sau cùng cởi mở nhất của ông tại lễ tốt nghiệp đại học. Ông nói, bản dịch tiếng Việt https://www.youtube.com/embed/mlv9dWT_0cc?version=3&rel=1&showsearch=0&showinfo=1&iv_load_policy=1&fs=1&hl=vi&autohide=2&wmode=transparent


                    Steve Jobs và bài phát biểu gây ảnh hưởng nhất trong sự nghiệphttps://youtu.be/mlv9dWT_0cc

                    “Tôi rất vinh dự có mặt trong lễ trao bằng tốt nghiệp của các bạn hôm nay tại một trong những trường đại học uy tín nhất thế giới. Tôi chưa bao giờ có bằng đại học. Phải thú nhận đây là lần tôi tiếp cận gần nhất với một buổi tốt nghiệp. Tôi muốn kể cho các bạn ba câu chuyện về cuộc đời tôi. Không có gì nhiều nhặn. Chỉ là ba câu chuyện.

                     

                    Chuyện thứ nhất là về việc kết nối các dấu chấm

                    Tôi bỏ trường Reed College ngay sau 6 tháng đầu, nhưng sau đó lại đăng ký học thêm 18 tháng nữa trước khi thực sự rời trường. Vậy, vì sao tôi bỏ học?

                    Mọi chuyện như đã định sẵn từ trước khi tôi sinh ra. Mẹ đẻ tôi là một sinh viên, bà chưa kết hôn và quyết định gửi tôi làm con nuôi. Bà nghĩ rằng tôi cần được nuôi dưỡng bởi những người đã tốt nghiệp đại học nên sắp đặt để trao tôi cho một vợ chồng luật sư ngay trong ngày sinh. Tuy nhiên, mọi chuyện thay đổi vào phút chót bởi họ muốn nhận một bé gái hơn là tôi.

                    Vì thế, cha mẹ nuôi của tôi, khi đó đang nằm trong danh sách xếp hàng, đã nhận được một cú điện thoại vào nửa đêm rằng: “Chúng tôi có một đứa con trai không mong đợi, ông bà có muốn chăm sóc nó không?” và họ trả lời: “Tất nhiên rồi”. Mẹ đẻ tôi sau đó phát hiện ra mẹ nuôi tôi chưa bao giờ tốt nghiệp đại học còn cha tôi thậm chí chưa tốt nghiệp phổ thông trung học. Bà từ chối ký vào giấy tờ trao nhận và chỉ đồng ý vài tháng sau đó khi bố mẹ hứa rằng ngày nào đó tôi sẽ vào đại học.

                    Sau đó 17 năm, tôi thực sự đã vào đại học. Nhưng tôi ngây thơ chọn ngôi trường đắt đỏ gần như Đại học Stanford vậy. Toàn bộ số tiền tiết kiệm của bố mẹ tôi phải dồn vào trả học phí cho tôi. Sau 6 tháng, tôi thấy việc đó không hề hiệu quả. Tôi không có ý niệm về những gì muốn làm trong cuộc đời mình và cũng không hiểu trường đại học sẽ giúp tôi nhận ra điều đó như thế nào. Tại đó, tôi tiêu hết tiền mà cha mẹ tiết kiệm cả đời. Vì vậy tôi ra đi với niềm tin rằng mọi việc rồi sẽ ổn cả. Đó là khoảnh khắc đáng sợ, nhưng khi nhìn lại, đấy lại là một trong những quyết định sáng suốt nhất của tôi. Tôi bắt đầu bỏ những môn học bắt buộc mà tôi không thấy hứng thú và chỉ đăng ký học môn tôi quan tâm.

                    Tôi không có suất trong ký túc, nên tôi ngủ trên sàn nhà của bạn bè, đem đổi vỏ chai nước ngọt lấy 5 cent để mua đồ ăn và đi bộ vài km vào tối chủ nhật để có một bữa ăn ngon mỗi tuần tại trại Hare Krishna. Những gì tôi muốn nói là sau này tôi nhận ra việc cố gắng theo đuổi niềm đam mê và thỏa mãn sự tò mò của mình là vô giá.

                    Tôi sẽ kể cho các bạn một ví dụ: Đại học Reed khi đó có lẽ là trường tốt nhất dạy về nghệ thuật viết chữ đẹp ở Mỹ. Khắp khuôn viên là các tấm áp-phích, tranh vẽ với những dòng chữ viết tay tuyệt đep. Vì tôi đã bỏ học, tôi quyết định chỉ đăng ký vào lớp dạy viết chữ để tìm hiểu họ làm điều đó thế nào. Tôi học cách biến hóa với nét bút, về khoảng cách giữa các chữ, về nét nghiêng, nét đậm. Đây là môn học nghệ thuật và mang tính lịch sử mà khoa học không thể nắm bắt được và tôi thấy nó thật kỳ diệu.

                    Những thứ này khi đó dường như chẳng có chút ứng dụng thực tế nào trong cuộc đời tôi. Nhưng 10 năm sau, khi chúng tôi thiết kế máy Macintosh, mọi thứ như trở lại trong tôi. Và chúng tôi đưa nó vào trong Mac. Đó là máy tính đầu tiên có các font chữ đẹp. Nếu tôi không bỏ học chỉ để theo một khóa duy nhất đó, máy Mac sẽ không bao giờ được trang bị nhiều kiểu chữ hoặc có được sự cân xứng về khoảng cách các chữ như vậy (sau này Windows đã sao chép lại). Nếu tôi không bỏ học, tôi có lẽ sẽ không bao giờ tham gia lớp nghệ thuật viết chữ và máy tính có lẽ không có được hệ thống chữ phong phú như hiện nay.

                    Tất nhiên, chúng ta không thể kết nối các dấu ấn tương lai, bạn chỉ có thể móc nối chúng khi nhìn lại quá khứ. Vậy hãy tin rằng các dấu chấm, các sự kiện trong cuộc đời bạn về mặt này hay mặt khác sẽ ảnh hưởng đến tương lai của bạn. Bạn phải có niềm tin vào một thứ gì đó – sự can đảm, số phận, cuộc đời, định mệnh hay bất cứ điều gì – cách nghĩ đó đã tạo nên những sự khác biệt trong cuộc đời tôi.

                     

                    Câu chuyện thứ hai là về tình yêu và sự mất mát

                    Tôi may mắn khi đã nhận ra những gì tôi yêu quý ngay từ khi còn trẻ. Woz (Steve Wozniak) cùng tôi sáng lập Apple tại garage của bố mẹ khi tôi mới 20 tuổi. Chúng tôi làm việc miệt mài trong 10 năm và phát triển từ một cái nhà xe thành một công ty trị giá 2 tỷ USD với 4.000 nhân viên. Chúng tôi cho ra đời thành quả sáng tạo – Macintosh – khi tôi mới bước sang tuổi 30.

                    Sau đó, tôi bị sa thải. Sao bạn lại có thể bị sa thải tại ngay công ty mà bạn lập ra? Apple đã thuê một người mà tôi nghĩ là đủ tài năng để điều hành công ty với mình và năm đầu tiên, mọi thứ đã diễn ra tốt đẹp. Nhưng sau đó, tầm nhìn về tương lai của chúng tôi khác nhau và không thể hợp nhất. Khi đó, ban lãnh đạo đứng về phía ông ấy. Ở tuổi 30, tôi phải ra đi. Những gì tôi theo đuổi cả đời đã biến mất, nó đã bị phá hủy.

                    Tôi không biết phải làm gì trong những tháng tiếp theo. Tôi cảm thấy như mình đã đánh rơi mất cây gậy trong cuộc chơi khi người ta vừa trao nó cho tôi. Tôi đã gặp David Packard và Bob Noyce, cố gắng xin lỗi vì đã làm mọi chuyện trở nên tồi tệ. Tôi còn nghĩ đến chuyện bỏ cuộc. Nhưng mọi thứ bắt đầu kéo tôi trở lại. Tôi vẫn yêu những gì tôi làm. Bước ngoặt tại Apple không thay đổi con người tôi. Tôi bị từ chối, nhưng tôi vẫn còn yêu. Vì thế tôi quyết định làm lại từ đầu.

                    Khi đó tôi đã không nhận ra, nhưng hóa ra bị sa thải lại là điều tốt nhất dành cho tôi. Sức ép duy trì sự thành công đã được thay thế bằng tinh thần nhẹ nhàng của người mới bắt đầu lại và không chắc về những gì sẽ diễn ra. Nó giải phóng tôi để bước vào giai đoạn sáng tạo nhất cuộc đời.

                    Trong năm năm tiếp theo, tôi thành lập NeXT và một công ty khác mang tên Pixar và phải lòng một người phụ nữ tuyệt vời, người trở thành vợ tôi sau này. Pixar tạo ra bộ phim từ đồ họa máy tính đầu tiên trên thế giới – Toy Story và hiện là xưởng phim hoạt hình thành công nhất toàn cầu. Apple mua lại NeXT, tôi trở lại và công nghệ tôi phát triển ở NeXT là trọng tâm trong cuộc phục hưng Apple. Tôi và vợ Laurene cũng có một cuộc sống gia đình tuyệt vời.

                    Tôi khá chắc chắn rằng những điều trên sẽ không xảy ra nếu tôi không bị Apple sa thải. Nó như một liều thuốc đắng và kinh khủng, nhưng bệnh nhân cần nó. Đôi khi cuộc đời sẽ giáng một viên gạch vào đầu bạn. Đừng mất niềm tin. Tôi hiểu thứ duy nhất khiến tôi vững vàng chính là niềm đam mê. Bạn phải tìm ra bạn yêu cái gì. Nó đúng cho công việc và cho cả những người thân yêu của bạn. Công việc chiếm phần lớn cuộc đời và cách duy nhất để thực sự hài lòng là làm những gì bạn tin nó sẽ trở nên tuyệt vời. Và cách duy nhất có công việc tuyệt vời là yêu những gì bạn làm. Nếu chưa nhận ra, hãy tiếp tục tìm kiếm. Đừng dừng lại. Như mọi mối quan hệ trong cuộc đời, nó sẽ trở nên ngày càng tốt đẹp hơn qua từng năm.

                     

                    Câu chuyện thứ ba là về cái chết.

                    Khi 17 tuổi, tôi đọc ở đâu đó rằng: “Nếu sống mỗi ngày như thể đó là ngày cuối cùng, một ngày nào đó bạn sẽ đúng”. Điều đó gây ấn tượng với tôi và 33 năm qua, tôi nhìn vào gương mỗi sáng và hỏi: “Nếu hôm nay là ngày cuối của cuộc đời mình, mình có muốn làm những gì định làm hôm nay không?”. Nếu câu trả lời là “Không” kéo dài trong nhiều ngày, đó là lúc tôi biết tôi cần thay đổi.

                    Luôn nghĩ rằng mình sẽ sớm chết là công cụ quan trọng nhất giúp tôi tạo ra những quyết định lớn trong đời. Vì gần như mọi thứ, từ hy vọng, niềm tự hào, nỗi sợ hãi, tủi hộ hay thất bại, sẽ biến mất khi bạn phải đối mặt với cái chết, chỉ còn lại điều thực sự quan trọng với bạn. Nghĩ rằng mình sắp chết là cách tốt nhất tôi tránh rơi vào bẫy rằng tôi sẽ mất cái gì đó. Khi không còn gì nữa, chẳng có lý gì bạn không nghe theo lời mách bảo của trái tim.

                    Một năm trước, tôi biết mình bị ung thư. Tôi được chụp cắt lớp lúc 7h30 và nhìn thấy rõ khối u trong tuyến tụy. Tôi còn chẳng biết tuyến tụy là cái gì. Bác sĩ bảo tôi bệnh này không chữa được và tôi chỉ có thể sống thêm 3 đến 6 tháng nữa. Ông ấy khuyên tôi về nhà và sắp xếp lại công việc, cố gắng trò chuyện với bọn trẻ những điều mà tôi định nói với chúng trong 10 năm tới, nhưng giờ phải tâm sự trong vài tháng. Nói cách khác, hãy nói lời tạm biệt.

                    Tối hôm đó, tôi được kiểm tra sinh thiết. Họ đút một ống qua cổ họng tôi xuống dạ dày và ruột rồi đặt một cái kim vào tuyến tụy để lấy mẫu tế bào khối u. Tôi giữ thái độ bình thản, và vợ tôi, cũng có mặt lúc đó, kể với tôi rằng khi các bác sỹ xem các tế bào dưới kính hiển vi, họ đã reo lên khi phát hiện đây là trường hợp ung thư tuyến tụy hiếm hoi có thể chữa được bằng phẫu thuật. Tôi đã được phẫu thuật và bây giờ tôi đã khỏe lại.

                    Đó là lần gần nhất tôi đối mặt với cái chết. Tôi hy vọng lần tiếp theo sẽ là vài thập kỷ nữa. Không ai muốn chết. Ngay cả người mong được lên thiên đường cũng không muốn chết để tới đó. Nhưng cái chết là đích đến mà chúng ta đều phải tới. Không ai thoát được nó. Cái chết như là phát minh hay nhất của sự sống. Nó là tác nhân thay đổi cuộc sống. Nó loại bỏ sự cũ kỹ (người già) để mở đường cho cái mới (lớp trẻ). Các bạn chính là thế hệ trẻ, nhưng ngày nào đó sẽ già đi và rời bỏ cuộc sống. Xin lỗi vì đã nói thẳng nhưng điều đó là sự thật.

                    Thời gian của bạn không nhiều, đừng lãng phí bằng cách sống cuộc đời của người khác. Đừng nghe những lời giáo điều, vì đó là suy nghĩ của người khác. Đừng để những quan điểm ồn ào lấn át tiếng nói bên trong bạn. Chúng biết bạn muốn gì. Mọi thứ khác chỉ là thứ yếu.

                    Khi tôi còn trẻ, có một cuốn sách thú vị là “The Whole Earth Catalog “(Cẩm nang thế giới). Nó giống như một cuốn kinh thánh, kim chỉ nam của thế hệ tôi. Tác giả Steward Brand tạo ra nó vào thập niên 60, trước thời máy tính cá nhân. Nội dung sách được soạn bằng máy đánh chữ, bằng kéo và bằng máy ảnh polaroid. Nó như Google trên giấy vậy. Ở bìa sau của cuốn sách có in ảnh một con đường trong ánh bình minh, bên dưới là dòng chữ: “Sống khát khao. Sống dại khờ”. Tôi luôn chúc điều đó cho chính mình. Hôm nay, các bạn tốt nghiệp và sắp bước vào cuộc đời mới, tôi cầu chúc điều đó cho các bạn.

                    Hãy luôn khát khao. Hãy cứ dại khờ.

                    Steven Jobs”

                    Qua Steven Jobs chuyện đời tự kể, bạn hẵn tìm thấy bài học cuộc sống và lời khuyên thấm thía cho riêng mình. Quả táo Apple là cảm hứng của Steve Jobs cho sự ra đời thương hiệu Apple Inc. nổi tiếng thế giới và chính Apple Inc. lại làm bừng sáng giá tri cao quý của Apple, Quả táo, loài quả phổ biến nhất hành tinh.

                    Ong va Hoa

                    CÂY TÁO BÀI CA THỜI GIAN
                    Hoàng Kim

                    William Cullen Bryant (1794-1878) nhà thơ và nhà báo Mỹ đã viết “Bài ca cây táo” rất nổi tiếng. Lời vàng của bài thơ này đã tạc cây táo vào văn chương Anh Mỹ và văn hóa nhân loại nhưng sự dịch bài thơ này sang tiếng Việt hay và chuẩn là khó đến nản lòng. Mời bạn tham gia dịch thuật. Nguyên văn bài thơ và Bài thơ này Hoàng Kim tạm dịch như dưới đây, có nguyên tác tiếng Anh:và tạm dịch ý kèm theo

                    Cây táo bài ca thời gian
                    William Cullen Bryant ((1794-1878) nguyên tác tiếng Anh
                    Hoàng Kim tạm dịch thơ tiếng Việt

                    Cây táo này của chúng ta.
                    Ngọt ngào trăm suối rừng hoa xuân về.
                    Gió trời tải cánh đam mê,
                    Khi hương táo ngát tình quê gọi mời
                    Mở toang cánh cửa đất trời
                    Ong say làm mật bồi hồi bên hoa,
                    Hoa em mòn mỏi đợi chờ,
                    Nhánh hoa mừng trẻ mong chờ ngày sinh,
                    Hoa xuân của tiết Thanh Minh
                    Chúng ta trồng táo gieo lành phước duyên.

                    Nguyên tác tiếng Anh

                    “What plant we in this apple tree?
                    Sweets for a hundred flowery springs
                    To load the May-wind’s restless wings,
                    When, from the orchard-row,
                    he pours Its fragrance through our open doors;
                    A world of blossoms for the bee,
                    Flowers for the sick girl’s silent room,
                    For the glad infant sprigs of bloom,
                    We plant with the apple tree”

                    Nguồn: Classic Quotes by William Cullen Bryant
                    (1794-1878) US poet and newspaper editor
                    http://www.arcamax.com/knowledge/quotes/s-14832?ezine=2&#8243;

                    Tạm dịch ý:

                    Cây táo này của chúng ta.
                    Ngọt ngào cho trăm suối hoa xuân.
                    Tải cánh bồn chồn của gió tháng năm,
                    Khi các hàng táo đưa hương thơm
                    qua những cánh cửa mở;
                    Một thế giới của hoa cho ong,
                    hoa cho phòng tĩnh lặng của cô gái mòn mỏi đợi chờ,
                    nhánh hoa mừng cho trẻ sơ sinh,
                    Chúng ta trồng cây táo.

                    TÁO TÂY, TÁO TA VÀ TÁO TÀU

                    Cây Táo trên Thế giới và Việt Nam được phân biệt Táo Tây, Táo Ta và Táo Tàu. Táo Tây có tên khoa học là Malus domestica, tiếng Anh gọi là Apple, tiếng Việt gọi là Táo Tây hoặc bôm, phiên âm từ pomme tiếng Pháp. Cây táó trong tiếng Việt là gồm cả táo tây, táo ta và táo tàu; đó là một trong những loại trái cây phổ biến nhất trên thế giới. Cây táo đã gợi cảm hứng cho Steve Jobs đặt tên Apple cho thương hiệu “Quả táo khuyết’ ngày nay trở thành thương hiệu giá trị nhất hành tinh. Cây táo cũng đã gợi cảm hứng cho William Cullen Bryant (1794-1878) là nhà thơ và nhà báo Mỹ viết “Bài ca cây táo” nổi tiếng lưu danh tại thế giới thi ca Viện Hàn Lâm Khoa học Nhận văn của Mỹ. Lời vàng của bài thơ này đã tạc cây táo vào văn chương Anh Mỹ và vào văn hóa nhân loại .

                    Táo Tây Malus domestica là một loài cây thân gỗ trong họ Hoa hồng ( Rosaceae) được biết đến vì quả ngọt của nó (quả táo tây). Nó là loài được trồng rộng rãi nhất trong chi Hải đường (Malus).và là một loài cây ăn quả chủ lực của toàn thế giới.

                    Cây Táo Tây có nguồn gốc ở Trung Á, nơi tổ tiên của nó là loài táo dại Tân Cương vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.

                    Họ Táo (Rhamnaceae) là một họ lớn trong thực vật có hoa, chủ yếu là cây gỗ, cây bụi và một số dây leo. Họ này chứa khoảng 50-60 chi và khoảng 870-950 loài (APG II công nhận 52 chi với 925 loài [1]). Họ Rhamnaceae phân bố rộng khắp thế giới, nhưng là phổ biến hơn trong khu vực cận nhiệt đới và nhiệt đới.

                    Họ Táo Rhamnaceae, có chi Prunus, tiếng Việt Nam Bộ gọi là táo, tiếng Việt Bắc Bộ gọi là mận. Hai hình minh hoa dưới đây là quả táo ta.

                    Táo ta hay còn gọi là táo chua (tên khoa học Ziziphus mauritiana) là loài táo nhiều phổ biến hơn trong các loài táo ở Việt Nam, là loại cây ăn quả của vùng nhiệt đới, thuộc về họ Táo. Nó được gọi là táo chua, táo Ấn Độ, táo Điền Vân Nam,hay táo gai Vân Nam.

                    Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là tao-ta-2.jpg

                    Cây Táo chua có thể lớn rất nhanh thậm chí trong các khu vực khô và cao tới 12 mét và đạt tuổi thọ 25 năm. Nó có nguồn gốc ở châu Á, chủ yếu là Ấn Độ, mặc dù cũng có thể tìm thấy ở châu Phi. Một loài táo khác tên khoa học Ziziphus nummularia, cũng được gọi là táo ta.

                    Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là tao-tau.jpg

                    Táo Tàu trên thị trường thường hay gọi lẫn với táo Tây xanh vì vỏ quả phổ biến màu xanh (gọi là Táo xanh) và nguồn gốc địa lý mua bán loại táo xanh này chủ yếu sản xuất tại Trung Quốc Sự thật thì Táo Tàu hay đại táo hoặc hồng táo (tiếng Trung: 枣, 棗, 红枣), (tiếng Triều Tiên:대추), tiếng Nhật: 棗 natsume) (danh pháp khoa học: Ziziphus jujuba) là để chỉ một loài cây thân gỗ nhỏ hay cây bụi với lá sớm rụng, thuộc họ Rhamnaceae (họ Táo). Theo sự đúc kết của Wikipedia Ttiếng Việt, Táo Tàu được cho rằng nó có nguồn gốc từ Bắc Phi và Syria, nhưng đã dịch chuyển về phía đông, qua Ấn Độ tới Trung Quốc, là khu vực nó đã được trồng trên 4.000 năm. Cây Táo Tàu có thể cao khoảng 5–12 m, với các lá xanh bóng, và đôi khi có gai. Các hoa nhỏ, màu trắng hoặc ánh lục, khó thấy, quả hình trứng, kích cỡ tự quả ô liu, thuộc loại quả hạch. Dạng cây và dạng quà theo như hai hình dưới đây. Quả của Táo Tàu được sử dụng khá phổ biến trong y học truyền thống của người Trung Quốc, Triều Tiên và Việt Nam

                    Táo Tàu (Jujube) theo Fanghonghttps://vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%A1o_t%C3%A0u#/media/T%E1%BA%ADp_tin:ZiziphusJujubaVarSpinosa.jpg
                    Giới (regnum) Plantae
                    (không phân hạng) Angiospermae
                    (không phân hạng) Eudicots
                    (không phân hạng) Rosids
                    Bộ (ordo) Rosales
                    Họ (familia) Rhamnaceae
                    Chi (genus) Ziziphus
                     
                    Loài
                    (species) Z. jujuba
                    Danh pháp hai phần
                    Ziziphus jujuba
                    (
                    L.) H. Karst.
                    Táo Tàu, ảnh của Frank C. Müller

                    GIÁ TRỊ VÀNG ĐÍCH THỰC

                    Một thế giới của Hoa và Ong, của những con người lao động cần cù và
                    Giấc mơ lành yêu thương .Hai câu chuyên trên đây cho thấy Steve Jobs đã mang đến “Quả táo” “Apple” giá trị vàng cao quý biết bao ‘Hãy luôn khát khao Hãy cứ dại khờ’. Quả táo Apple Steve Jobs mãi là Bài ca thời gian.

                    Steve Jobs là mẫu mực cho sự thành công trong giới kinh doanh, nhưng lại sớm qua đời vì căn bệnh ung thư ở tuổi 56. Những lời cuối cùng trước khi ông ra đi đã làm thức tỉnh hàng triệu người. “Bài học rút ra của Steve Jobs những phút cuối đời đã có sức lay động hàng triệu người, bởi họ cũng như ông: lao vào công việc mà bỏ quên chính mình, không chăm sóc thân tâm! Ông đã mất rất nhiều năm tháng tuổi trẻ để có được giá trị vàng của vinh quang và sự giàu có, nhưng dần trở nên vô nghĩa khi cận kề với cái chết. Ông mới nhận ra tình yêu và sức khỏe mới là quan trọng nhất khi đối mặt với giây phút ấy,

                    Ba quả táo làm thay đổi thế giới:: Quả táo trong vườn địa đàng Adam và Eva; Quả táo rơi trúng Newton, và Quả táo cắn dở của Steve Jobs. Câu chuyện cây táo, quả táo, bài ca thời gian và câu chuyện Steve Jobs luôn là nguồn cảm hứng dồi dào cho lớp trẻ.. Cuộc đời của nhiều người không thành công và kém may mắn có thể vịn bài học cuộc sống của Steve Jobs mà đứng dậy. Minh triết nhân sinh của ông thật chí thiện, trí tuệ với tư duy mạch lạc và hệ thống khoa học..

                    Cây táo bài ca thời gian và Quả táo Apple Steve Jobs là giá trị vàng đích thực

                    Hoàng Kim

                    MỘT GIA ĐÌNH YÊU THƯƠNG
                    Hoàng Kim


                    Ngày Hoàng Gia trong con, xem tiếp
                    Một gia đình yêu thương

                    Bài viết mới trên DẠY VÀ HỌC
                    https://hoangkimvn.wordpress.com bấm vào đây cập nhật mỗi ngày

                    Video yêu thích
                    Bài ca thời gian
                    <Xem tiếp >>

                      Dạy và học 14 tháng 6(14-06-2021)

                     

                     

                     

                     

                    DẠY VÀ HỌC 14 THÁNG 6
                    Hoàng Kim


                    CNM365 Tình yêu cuộc sống  Ấn Độ địa chỉ xanh; Machu Picchu di sản thế giới, Vắt ngang thế kỷ trồng cây đức; Những con người trung hiếu; Trần Quang Khải thơ thần; Nguyễn Du tiếng tri âm; Nguyễn Du Hồ Xuân Hương; Học không bao giờ muộn; Ngày 14 tháng 6 năm 1285, Thượng tướng Trần Quang Khải lãnh đạo quân Trần đánh bại thủy quân Nguyên ở Chương Dương nay thuộc Hà Nội, Việt Nam. Bài chọn lọc ngày 14 tháng 6 Ấn Độ địa chỉ xanh; Machu Picchu di sản thế giới, Vắt ngang thế kỷ trồng cây đức; Những con người trung hiếu; Trần Quang Khải thơ thần; Nguyễn Du tiếng tri âm; Nguyễn Du Hồ Xuân Hương; Học không bao giờ muộn; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-14-thang-6/

                     

                     

                    Dia chi xanh An Do

                     

                     

                    ẤN ĐỘ ĐỊA CHỈ XANH
                    Hoàng Kim

                    Hình ảnh và ghi chép này tôn vinh đất nước con người Ấn Độ, tình bạn và sự hợp tác cao quý Ấn Việt.
                    CNM365Tình yêu cuộc sống, Ấn Độ địa chỉ xanh, Minh triết của đức Phật; Tagore Thánh sư Ấn Độ;Giống lạc HL25 Việt Ấn; Học để làm ở Ấn Độ;Thơ dâng theo dấu Tagore; Tĩnh lặng với Osho; Việt Nam con đường xanh; giúp bảo tồn các kỷ niệm đẹp.

                     

                     

                     

                     

                    Minh triết của đức Phật

                    Tôi nhiều lần đến Ấn Độ, đã một lần may mắn tới được chính quê hương Phật, và tôi đã tự mình trồng một nhánh Bồ Đề ở vườn nhà để nay cây đã lớn. Trong lòng tôi, minh triết của đức Phật là triết lý tình yêu cuộc sống.Lời Phật dạy trong lòng tôi lắng đọng 28 khẩu quyết yêu thích mà tôi thật sự tâm đắc. Cảm ơn bạn Nghị Khắc Nhu và cộng đồng FB gợi cảm hứng giúp tôi bảo tồn và phát triển thông tin này.

                     

                     

                     

                     

                    An nhiên
                    CNM365

                    Thả cho nó bay.
                    Hòa nhã với tất cả
                    Chọn bạn mà chơi
                    Tình yêu cuộc sống
                    Yêu thương và Sống
                    Không ai có thể đi giúp ta.
                    Yêu quý hết thảy muôn loài.
                    Con nghĩ cái gì, con là cái đó.
                    Bỏ đi những hư danh giả tạm.
                    Hãy cho đi và con sẽ còn mãi.
                    Cây kim trong bọc có ngày lòi ra
                    Đoàn kết là sống, chia rẽ là chết
                    Minh triết trước hết là tự biết mình.
                    Tìm về suối nguồn bình yên bên trong con
                    Đừng tin vào mọi thứ con được dạy phải tin.

                    Chuyển hóa nỗi ghen ghét thành sự khâm phục.
                    Bí quyết để có sức khỏe tốt là an trú trong hiện tại..
                    Hãy làm chủ suy nghĩ nếu không nó sẽ làm chủ con
                    Đời sống tâm linh không là sang trọng mà là nhu cầu
                    Con không là những gì con nói mà là những gì con làm
                    Ai biết nhìn vào trong tự thân mình thì người đó tỉnh thức.
                    Niềm hạnh phúc không bao giờ cạn kiệt khi ta biết chia sẻ
                    Không có đường đến hạnh phúc. Hạnh phúc là con đường
                    Hiểu được người là khôn ngoan, hiểu được mình là giác ngộ.
                    Lời nói có sức mạnh vừa có thể gây tổn thương, vừa có thể trị lành.
                    Không ai xứng đáng nhận được tình thương của con hơn là chính con.

                     

                     

                     

                     

                    Tagore Thánh sư Ấn Độ

                     

                    Rabindranath Tagore, sinh ngày 7 tháng 5 năm 1861,  mất ngày 7 tháng 8 năm 1941, tại Konkata, Ấn Độlà người châu Á đầu tiên đoạt giải Nobel Văn học năm 1913. Tagore không chỉ là nhà thơ và văn hóa lớn Bengal, một triết gia lỗi lạc có đạo đức phẩm hạnh cao quý được Gandhi và  mọi người Ấn Độ gọi là Thánh sư, mà còn là nhà hoạt động xã hội nổi tiếng vì phong trào giải phóng Ấn Độ, vì con người, vì nhân đạo và hòa bình. Tagore là niềm tự hào của trên 1,2 tỷ người Ấn Độ, là nguồn cảm hứng của hơn 200 triệu người Bengal sống ở Tây Bengal của Ấn Độ và Bangladesh cũng như nhiều người trên khắp thế giới. Tagore đã đến Việt Nam. Thơ Tagore đến với bạn đọc người Việt qua các bản dịch của Đỗ Khánh Hoan, Đào Xuân Quý và các dịch giả khác.

                     

                     

                    Tôi yêu mây và sóng Tagore
                    Hoàng Kim

                    tỉnh thức với Jana Gaṇa Mana
                    tôi yêu mây và sóng Tagor.
                    thích tranh Tagor bút chì tự họa
                    bài ca thời gian trăng rằm cổ tích

                     

                     

                     

                     

                    Học để làm ở Ấn Độ

                    Nghị Khắc NhuICRISAT.1 tháng 4, 2016Hyderabad, Telangana, Ấn Độ viết trên FB: Cây lúa miến hay cây cao lương (tên tiếng Anh là Sorghum), cây này đã đi vào truyền thuyết của người Việt những năm bao cấp đói khát với tên gọi bo bo (Có 1 người rất bự Việt Nam vào năm 1976 đã xưng rằng: “10 năm nữa mỗi người Việt Nam sẽ có 1 xe máy, 1 tivi, 1 tủ lạnh”, nhưng kết quả trong 10 năm đó gạo không có đủ mà ăn bo bo) Trong 1 tháng tập huấn bên Ấn Độ, tôi được họ giới thiệu rất nhiều về cây này, bên cạnh cây Millet (cây kê). Nó được Viện Nghiên cứu Cây trồng Quốc tế cho những vùng nhiệt đới bán khô hạn (International Crops Research Institute for the Semi-Arid Tropics – ICRISAT) có trụ sở tại Ấn Độ nghiên cứu rất nhiều. Và hầu hết đều là sweet-sorghum, cho mục đích cung cấp thêm nguồn lương thực ngoài cây lúa. Hạt của giống “bo bo” này không đắng như lúc các thế hệ trước của chúng ta ăn. Đây được xem là cây trồng lý tưởng cho vùng Hyderabad, tỉnh Telangana của Ấn Độ, nơi có mùa khô thật sự khắc nghiệt. Viện này có hơn 40 nước và các tổ chức phi chính phủ cung cấp tài chính cho việc nghiên cứu, trong đó có cả Thái Lan và Philippines, nhưng rất tiếc không có Việt Nam. Trong lúc tìm thêm vài hình minh họa (do số lượng hình tự chụp không đủ dùng), mới biết bác Hoàng Kim cũng có làm về cây này.

                    Tôi đã nhiều lần tới Ấn Độ, tời ICRISAT (Viện Nghiên cứu Cây trồng Quốc tế cho những vùng nhiệt đới bán khô hạn International Crops Research Institute for the Semi-Arid Tropics, Patancheru, India) với CTCRI (Viện Cây Có Củ Toàn Ấn Central Tuber Crops Research Institute Trivandrum 695017 India) và nhiều nơi. Tôi có nhiều thầy bạn quý thân thiết ở đó. Trãi trên một phần tư thế kỷ, thầy bạn là lộc xuân cuộc đời, nhưng tôi chỉ mới lưu lại được một ít hình ảnh và những ghi chú nhỏ (Notes) ởđây. Nay bình tâm nhớ lại và suy ngẫm.

                    Bài học quý giá nhất của tôi học được từ đất nước Ấn Độ là triết lý vô ngã. HÃY LÀ CHÍNH MÌNH, HỌC ĐỂ LÀM, HỌC BỞI LÀM (Learning by Doing/ Learning to Doing). Tôi chưa viết được gì về Ấn Độ đất nước và con người, chưa kể được nhiều nhặn gì về đất nước và con người mà tôi nhiều quý trọng. ICRISATở Ấn Độ; Địa chỉ xanh Ấn Độ là phóng sự ảnh, là ấn tượng sâu sắc trong lòng tôi, đối với các người bạn lớn Ấn Độ và các người bạn nước khác tới ‘chung lưng đấu cật’ cho nông nghiệp ở đất nước Việt Nam.

                     

                     

                    Dia chi xanh An Do 7

                     

                     

                    Triết lý vô ngã Learning by Doing là sự hợp tác thân thiện, một bài học thành công. Ảnh Tiến sĩ Wiliam Dar và Tiến sĩ C L Laxmipathi Gowda là Viện Trưởng và Phó Viện Trưởng của Viện ICRISAT Ấn Độ với PGS.TS Nguyễn Văn Bộ với. GS.TS Bùi Chí Bửu là Viện Trưởng và Phó Viện Trưởng Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam (VAAS), GSTS Nguyễn Hay là Hiệu trưởng Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh với các chuyên gia Quốc tế FAO, IFAD, CIAT, … và Việt Nam tổng kết dự án hợp tác nông nghiệp tại thành phố Hồ Chí Minh năm 2011.

                     

                     

                    Dia chi xanh An Do 4

                     

                     

                    Ảnh Giáo sư Tiến sĩ S. Edison là Viện Trưởng của Viện Cây Có Củ Toàn Ấn (CTCRI), Phó Tổng Giám đốc của Trung tâm Khoai tây, Khoai lang Quốc tế (CIP) ở Lima, Peru. Ông đã nhiều lần sang thăm Sắn Việt Nam và đã từng cùng vợ chồng thầy Mai Văn Quyền (Van Quyen Mai) với vợ chồng Thứ trưởng Bùi Bá Bổng dự tiệc cưới các con tôi là Hoàng Bá Lộc (Phố Núi Cao) và Hoàng Tố Nguyên tại thành phố Hồ Chí Minh.

                     

                     

                    Dia chi xanh An Do 2

                     

                     

                    Giống lạc HL25 Việt Ấn

                    Giống lạc HL 25, có tên gốc là ICGSE 56, nguồn gốc từ Viện Nghiên cứu Quốc tế Cây trồng vùng Nhiệt đới Bán khô hạn (ICRISAT), được nhập nội theo Chương trình Hệ thống canh tác lúa châu Á.từ IRRI vào Việt Nam năm 1988 Giống thích hợp canh tác cho vùng Đông Nam Bộ, Tây Nguyên và Đồng bằng sông Cửu Long suốt một thời gian dài. Giống lạc HL25 cho đến nay vẫn là một giống lạc tốt được nông dân nhiều địa phương các tỉnh Đông Nam Bộ, Tây Nguyên và Duyên hải miền Trung ưa chuộng.

                     

                     

                     

                     

                    Giống lạc HL25 được chọn taọ, khảo nghiêm cơ bản, khảo nghiệm sản xuất, nhân giống, xây dựng mô hình canh tác trồng thuần và trồng xen ngô đậu hiệu quả (Hoàng Kim, Phạm Văn Ngọc, Mai Văn Quyền, Đỗ Thị Dung 1999, 2004). Giống lạc HL25 được công nhận giống tạm thời tại Quyết định số 3493/ QĐ/BNN/KHCN ngày 09/9/1999, công nhận giống chính thức tại Quyết định số 2182/QĐ/ BNN/ KHCN ngày 29/7/2004.

                     

                     

                    DSCN5768

                     

                     

                    Những đặc điểm chính: TGST: 90 – 95 ngày. Cao cây: 50 – 60 cm, thuộc nhóm Spanish. Số cành cấp 1: 4 – 5 cành Tổng số quả/cây: 25 – 35 quả.Tỷ lệ trái 3 hạt: 60 – 65%. P 100 hạt: 40 – 45 g. Vỏ trái có gân, mỏ quả thẳng cong, màu hạt trắng hồng. Tỷ lệ nhân 70 – 72 %. Kháng bệnh rỉ sắt, đốm lá trung bình (cấp 4-6). Năng suất đạt 2,0 – 2,5 tấn/ha trong vụ Hè Thu và Thu Đông, đạt 2,5 – 3,5 tấn/ha trong vụ Đông Xuân và Xuân Hè.

                     

                     

                     

                     

                    Giống lạc HL25 tên gốc là ICGV86015 của nhà chọn giống lạc Shyam Narayan Nigam (chuyên gia hàng đầu của ICRISAT và thế giới về lạc và đậu thực phẩm) có từ rất sớm ở Ấn Độ (1986) nôi của môi trường thân thiện nơi mà người dân (nhổ lạc) và chim muông (con cò) thân thiện bên người . Quá trình dục thành giống lạc ICGV86025 đã được nhập nội theo Chương trình Hệ thống canh tác lúa châu Á.từ IRRI vào Việt Nam năm 1988, thực hiện nghiên cứu và phát triển sản xuất tại mô hình trồng xen ngô đậu trong hệ thống cây trồng vùng Đông Nam Bộ (Hoàng Kim, Trần Ngọc Quyền và đồng sự 1988-1991), Mô hình trồng xen đậu xanh, lạc, đậu rồng với sắn ở vùng Đông Nam Bộ và vùng duyên hải Nam Trung Bộ (Hoàng Kim, 1991), Hệ thống cây trồng thích hợp trên đất trồng cao su thời kỳ kiến thiết cơ bản ở Đông Nam Bộ.(Hoàng Kim, Phạm Văn Ngọc, Võ Văn Tuấn, Đinh Văn Cự, Mai Văn Quyền 1996).Mô hình trồng lạc xen với cao su non.(Hoàng Kim và đồng sự,1997) Chọn tạo và phát triển giống lạc HL25 (Hoàng Kim, Phạm Văn Ngọc, Mai Văn Quyền, Đỗ Thị Dung 1999, 2004). Giống lạc HL25 trong suốt 15 năm (1988-2004) chọn tạo và phát triển sản xuất đã được Việt hóa, tích hợp, tuyển chọn, kế thừa và phát triển so với giống lạc gốc Ấn Độ là ICGV86015

                     

                     

                     

                     

                    Tiến sĩ Shyam Narayan Nigam rất được tín nhiệm ở ICRISAT Ấn Độ. Ông đóng góp nhiều và rất hiệu quả cho chương trình chọn giống lạc của Ấn Độ, Châu Á, châu Phi và Quốc tế. Ông là bạn nhà nông, đã nhiều lần tới làm việc ở Việt Nam.

                     

                     

                     

                     

                    Giống lạc HL25 là một giống cây trồng tốt của thời kỳ 1999-2004 nhưng tồn tại khá lâu trong sản xuất mãi đến nay. Niềm vui gặp lại những người bạn tốt khi đã luống tuổi, luôn yêu thương quý trọng nhau, gợi nhớ lại một thời. Nhớ lại và suy ngẫm những bài học lịch sử thấm thía. Khoa học nông nghiệp là khoa học thực tiễn. Những bài học kinh nghiệm cần thành hoa đất, thành phù sa cho cây và bài học cho lớp trẻ. Bộ trưởng Nguyễn Ngọc Trìu thăm mô hình trồng xen ngô đậu trong hệ thống cây trồng vùng Đông Nam Bộ. Thầy Đào Thế Tuấn đánh giá cao mô hình trồng xen giống lạc HL25 và đậu rồng với sắn, ngô . mời xem tại Đào Thế Tuấn chân dung người thầyhttps://hoangkimlong.wordpress.com/category/dao-the-tuan-chan-dung-nguoi-thay/

                     

                     

                    Hoàng Kim học để làm ở Ấn Độ

                     

                     

                    Học để làm ở Ấn Độ

                    Khai thác các cây nhiên liêu sinh học chịụ hạn để tăng cơ hội thu nhập cho các nông hộ sản xuất nhỏ ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ La tinh (Harnessing water – use efficient bio- energy crops for enhancing livelihood opportunities of smallholder farmers in Asia, Africa and Latin America). Đó là một kinh nghiệm lớn.

                     

                     

                     

                     

                    Learning to Doing at ICRISAT; Địa chỉ xanh Ấn Độ: Ấn Độ xa mà gần, Giống lạc HL25 Việt Ấn sắn KM419, cao lương ngọt, đậu đỗ thực phẩm, khoai lang, khoai môn, cropsforbiofuel, cassavaviet, love and peace, good teacher and friends, books and flowers, love and life love lắng đọng trong tôi những bài học quý.

                     

                     

                     

                     

                    Hernan Ceballos (CIAT Colombia), Keith Fahney (CIAT Asia), Nguyễn Văn Bộ, Hoàng Kim (VAAS and Nong Lam University) Rod Lefroy (CIAT Asia), Bernado Ospina (CLAYUCA Colombia), Tian Yinong (Guangxi Subtropical Crops Research Institute). Chúng tôi chung sức trong một dự án nông nghiệp

                     

                     

                    Dia chi xanh An Do 6

                     

                     

                    Tiến sĩ C L Laxmipathi Gowda (người thứ ba bên trái qua) là Phó Viện Trưởng của Viện ICRISAT Ấn Độ, ông là trưởng chương trình hợp tác Ấn Việt nghiên cứu phát triển đậu đỗ. Ông đã cùng Shyam Narayan Nigam làm việc nhiều năm với PGS.TS Nguyễn Văn Bộ, GS Ngô Thế Dân, GS Phan Liêu, GS Phạm Văn Biên, TS Lê Công Nông, TS Ngô Thị Lam Giang, TS Đỗ Thị Dung;… Chương trình IFAD GRANT 974 đã kết nối ICRISAT, CIAT và Việt Nam .

                     

                     

                     

                     

                    Việt Nam con đường xanh; Địa chỉ xanh Ấn Độ; Học để làm ở Ấn Độ, bài học lớn trong câu chuyên nhỏ.

                     

                     

                    Dia chi xanh An Do 8

                     

                     

                    Cassava for Biofuel in Vietnam. CROPS FOR BIOFUEL This paper to supply the final report for three years (2008-2010) research and development of cassava varieties and new techniques at pilot site selection in Dong Nai, Tay Ninh, Ninh Thuan and Yen Bai province, a production map of cassava for biofuel in Vietnam: opportunities and challenges, and recommendation for next step. See more http://cropsforbiofuel.blogspot.com/2011/04/cassava-for-biofuel-in-vietnam.htm

                     

                     

                     

                     

                    Học để làm ở Ấn Độ là một kinh nghiệm lớn Đất nước Ấn Độ có những vùng văn hóa đặc sắc như PunjabPoila Baisakh,Bengal,Kerala, … mà sắn Ấn Độ, đất nước dẫn đầu năng suất sắn của toàn thế giới, lại có nhiều ở Kerala và Tamil Nadu.Tôi có được những dịp may khảo sát nông nghiệp từ Nam Ấn đến Bắc Ấn, gặp gỡ nông dân, thưởng thức biểu diễn Yoga, chứng kiến pháp sư Mật tông dạy rắn độc, thăm các di tích lịch sử nổi tiếng, thưởng thức những đêm nhạc và tuyệt phẩm điện ảnh đầy tính văn hóa, sử thi Tôi chưa viết được về Ấn Độ đất nước và con người. Đó là một món nợ tình cảm. Giáo sư Nguyễn Lân Dũng có nói trong bài “Viết văn là nghề khó nhất” rằng cần phải tích lũy từng ngày, từng tháng, từng năm cho khát vọng thật sự đối với đất nước con người nghề nghiệp và văn chương.

                     

                     

                     

                     


                    ĐỊA CHỈ XANH ẤN ĐỘ
                    Green address in India

                    Hoàng Kim
                    https://hoangkimlong.wordpress.com/category/dia-chi-xanh-an-do/cùng với C L Laxmipathi Gowda; Shyam Narayan Nigam. Hình ảnh và ghi chép này tôn vinh đất nước con người Ấn Độ, tình bạn và sự hợp tác cao quý Ấn Việt. CNM365Tình yêu cuộc sống, Địa chỉ xanh Ấn Độ, Minh triết của đức Phật; Tagore Thánh sư Ấn Độ;Giống lạc HL25 Việt Ấn; Học để làm ở Ấn Độ; Thơ dâng theo dấu Tagore; Tĩnh lặng với Osho; Phục sinh giữa tối sáng; Việt Nam con đường xanh; giúp bảo tồn các kỷ niệm đẹp.

                     

                     

                     

                     

                    PHỤC SINH GIỮA TỐI SÁNG
                    Hoàng Kim

                    Cuối dòng sông là biển
                    Cuối cuộc tình yêu thương
                    Đức tin phục sinh thánh thiện
                    Yêu thương mở cửa thiên đường.

                    My firiends, Prof. Sheela Mn said:
                    My grand mother with the 5th generation…
                    But Innocence same…
                    My grandmother
                    with my grandchild Neelakantan..
                    Both…. My blessings.

                    Hoàng Kim said:
                    Both…. My blessings.
                    Greeting from
                    Hoàng Kim Vietnam
                    and friends in the World
                    Congtualation to
                    Sheela Mn
                    and grand mother
                    with the 5th generation…
                    and who all of my life
                    But Innocence same…
                    Not only India but also Vietnam
                    And everywhere in the World
                    I remember the American sacred temple
                    and Indian green address (*)
                    Cultural beauty
                    Not only India but also Vietnam
                    And everywhere in the world
                    I remember the American sacred temple
                    and Indian green address
                    Cultural beauty
                    Go around your country to understand your homeland!
                    Go around your country to understand my homeland!
                    Go around my country to understand my homeland!

                    PHỤC SINH GIỮA TỐI SÁNG

                    Người bạn của tôi Giáo sư Sheela Mn nói:
                    Mẹ tôi với thế hệ thứ 5 …
                    Nhưng ngây thơ cũng vậy …
                    Bà tôi với cháu Neelakantan ..
                    Cả …. lời chúc của tôi.

                    Hoàng Kim nói:
                    Cả …. lời chúc của tôi.
                    Lời chào từ
                    Hoàng Kim Việt Nam
                    và bạn bè khắp thế giới
                    Chúc mừng Giáo sư
                    Sheela Mn
                    và bà ngoại với thế hệ thứ 5 …
                    và tất cả những người trong cuộc sống của tôi
                    Nhưng ngây thơ cũng vậy …

                    Xem tiếp >>

                      Dạy và học 13 tháng 6(14-06-2021)


                    DẠY VÀ HỌC 13 THÁNG 6
                    Hoàng Kim

                    CNM365 Tình yêu cuộc sốngChâu Mỹ chuyện không quên; Machu Picchu di sản thế giới (hình); Vắt ngang thế kỷ trồng cây đức; Bài thơ Viên đá Thời gian; Nguyễn Du Hồ Xuân Hương; Nguyễn Du niên biểu luận; Ngày 13 tháng 6 năm 1025, ngày mất Thiền sư Vạn Hạnh, (sinh năm 938) một cao tăng Phật giáo Việt Nam, cố vấn của vua Lê Đại Hành, và  thầy của vua Lý Công Uẩn. Ngày 13 tháng 6 năm 1831, ngày sinh James Clerk Maxwell, nhà vật lý người Scotland.là người được Albert Einstein tôn vinh “Maxwell là người có công trình vật lý học sâu sắc nhất và hiệu quả nhất có được từ thời Isaac Newton Ngày 13 tháng 6 năm 1970, “The Long and Winding Road” là đĩa đơn quán quân thứ 20 và cuối cùng của The Beatles, ban nhạc có số đĩa bán chạy nhất lịch sử tại Hoa Kỳ với hơn 600 triệu đĩa đã bán trên toàn thế giới. Bài viết chọn lọc ngày 13 tháng 6: Châu Mỹ chuyện không quênMachu Picchu di sản thế giới ; Vắt ngang thế kỷ trồng cây Đức; Bài thơ Viên đá Thời gian; Nguyễn Du Hồ Xuân Hương; Nguyễn Du Hồ Xuân Hương; Nguyễn Du niên biểu luận; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/; http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlong/ và https://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-13-thang-6/

                    NGUYỄN DU HỒ XUÂN HƯƠNG
                    Hoàng Kim


                    3

                    “Đối tửu” thơ bi tráng
                    “Tỏ ý” lệ vương đầy
                    Ba trăm năm thoáng chốc
                    Mai Hạc vầng trăng soi.

                    Nguyễn Du Hồ Xuân Hương là bài 3 trong chùm bài viết
                    Nguyễn Du trăng huyền thoại tài liệunghiên cứu lịch sử văn hóa của Hoàng Kim. Bài 1 là Nguyễn Du thơ chữ Hán; Bài 2 là Nguyễn Du tư liệu quý. Chùm bài này được đúc kết nhân kỹ niệm 200 năm ngày giỗ Cụ Nguyễn Du ngày 10 tháng 8 Canh Tý âm lịch (1820), và 255 năm ngày sinh của đấng danh sĩ tinh hoa, đại thi hào, danh nhân văn hóa thế giới, là ngày 23 tháng 11 Ất Dậu nhằm ngày 3 tháng 1 năm 1766.

                    (Bản đồ Hình thể Đại Việt đàng Trong đàng Ngoài năm 1760 (ảnh 1) khối hồ sơ chính biên của triều Nguyễn và Bang giao hảo thoại tiết lộ tài liệu chiếu vua Càn Long gửi Tôn Sĩ Nghị (ảnh 2) và Lê Chiêu Thống đón quân Thanh (ảnh 3). Nguyễn Du viết Truyện Kiều:”Bên tình bên hiếu bên nào năng hơn? Để lời thệ hải minh sơn / Làm con trước phải đền ơn sinh thành”. Ảnh “Mai Hạc vầng trăng soi”, ẩn ngữ của Nguyễn Du đầu trang và chùm ba ảnh tuyển chọn là thể hiện sự đồng cảm của người đời sau hiểu về “đối tửu” tâm sự Nguyễn Du

                    Nguyễn Du (1776-1820) không chịu theo Nguyễn Huệ như Ngô Thì Nhậm. Ông cũng không sớm theo Nguyễn Ánh như Đặng Trần Thường mà chỉ chấp nhận ra làm quan với triều Gia Long sau mười lăm năm lưu lạc (1781-1796) trong đó có năm năm làm Nam Hải điếu đồ (người đi câu ở biển Nam 1791-1796). Nguyễn Du là người trong cuộc biết rõ Mẫn Đế bị nhà Đại Thanh bán đứng, và ông đã làm Mai Hạc vầng trăng soi, ẩn ngữ của Nguyễn Du lưu lại. Nguyễn Du cũng đã trãi qua thời Hồng Sơn Liệp Hộ (người đi săn ở núi Hồng 1797- 1802) biết rõ cơ trời, thế nước khó có thể làm gì khác hơn. Nguyễn Du cuộc đời sau mười lăm năm lưu lạc và sau năm năm thời Hồng Sơn Liệp Hộ đã chọn làm nhà hiền triết giữa đời thường và giữa chốn quan trường. Nguyễn Du thời Nhà Nguyễn (1802-1820) làm Tri huyện Sơn Nam, Cai bạ Quảng Bình, Hàn Lâm Đại học sĩ, Chánh sứ của triều Nguyễn sang sứ nhà Thanh, và làm Hữu Tham Tri Bộ Lễ (tương đương các chức vụ Chủ tịch huyện, Tỉnh trưởng, Bộ trưởng Giáo dục, Bộ trưởng Ngoại giao, Bộ trưởng Va7n phòng Phủ Thủ tướng; và cố vấn cao cấp CTN/ TBT thời nay). Nguyển Du viết sách “Bắc Hành” và “Truyện Kiều” là kiệt tác ngoại giao và sử thi.

                    Thúy Kiều là nguyên mẫu của Hồ Phi Mai (bút hiệu Hồ Xuân Hương) một nhân vật có thật trong lịch sử. Bài viết này tóm tắt năm luận điểm chính: 1) “Đối tửu” thơ bi tráng 2)“Tỏ ý” lệ vương đầy; 3) Ba trăm năm thoáng chốc; 4) Mai Hạc vầng trăng soi. 5) Nguyễn Du niên biểu luận (sự kiện thời thế và cuộc đời Nguyễn Du theo từng năm về bình sinh hành trạng Nguyễn Du)

                    ĐỐI TỬU THƠ BI TRÁNG

                    Đối tửu
                    Nguyễn Du

                    Bên cửa xếp bằng ngất ngưởng say
                    Cánh hoa rơi phủ thảm rêu đầy
                    Sống chưa vơi nửa lưng ly rượu
                    Chết hỏi rằng ai tưới mộ đây?
                    Xuân đã xa dần oanh bỏ tổ
                    Tháng năm bàng bạc tóc màu mây
                    Trăm năm chỉ ước say mềm mãi
                    Thế sự bèo mây…ngẫm đắng cay

                    (Bản dịch thơ của Hoa Huyền)

                    對酒

                    趺坐閒窗醉眼開,
                    落花無數下蒼苔。
                    生前不盡樽中酒,
                    死後誰澆墓上杯。
                    春色霑遷黄鳥去,
                    年光暗逐白頭來。
                    百期但得終朝醉,
                    世事浮雲眞可哀。

                    Đối tửu
                    Nguyễn Du

                    Phu toạ nhàn song tuý nhãn khai,
                    Lạc hoa vô số há thương đài.
                    Sinh tiền bất tận tôn trung tửu,
                    Tử hậu thuỳ kiêu mộ thượng bôi ?
                    Xuân sắc niệm thiên hoàng điểu khứ,
                    Niên quang ám trục bạch đầu lai.
                    Bách kỳ đãn đắc chung triêu tuý,
                    Thế sự phù vân chân khả ai.

                    Dịch nghĩa

                    Ngồi xếp bằng tròn trước cửa sổ, rượu vào hơi say mắt lim dim,
                    Vô số cánh hoa rơi trên thảm rêu xanh.
                    Lúc sống không uống cạn chén rượu,
                    Chết rồi, ai rưới trên mồ cho ?
                    Sắc xuân thay đổi dần, chim hoàng oanh bay đi,
                    Năm tháng ngầm thôi thúc đầu bạc.
                    Cuộc đời trăm năm, chỉ mong say suốt ngày.
                    Thế sự như đám mây nổi, thật đáng buồn.

                    “Đối tửu” của Nguyễn Du là bài thơ thật bi tráng của bậc anh hùng, trong tình thế cùng cực.

                    Bản đồ Hình thế Đại Việt đàng Trong và đàng Ngoài năm 1760 (vẽ bởi công ty Cóvens e Mortier, Amsterdam) và các thông tin chi tiết đã xác định rõ Nguyễn Du từ năm Tân Sửu (1781) lúc mười sáu tuổi đã làm Chánh Thủ hiệu quân Hùng Hậu ở Thái Nguyên. Trước đó Nguyễn Du đã được danh tướng Hoàng Ngũ Phúc tặng bảo kiếm và Quản Vũ Hầu Nguyễn Đăng Tiến tướng trấn thủ Thái Nguyên ( tướng tâm phúc thân tùy của Nguyễn Nhiễm với tên gọi Hà Mỗ trong Gia Phả họ Nguyễn Tiên Điền) nhận làm cha nuôi Nguyễn Du. Tướng trấn thủ Sơn Tây là Nguyễn Điền là anh cùng cha khác mẹ của Nguyễn Du, Tướng trấn nhậm Sơn Nam Thượng, Sơn Nam Hạ đều là học trò Nguyễn Nhiễm. Bắc Hà là đất tổ nghiệp của nhà Nguyễn Tiên Điền. Thế lực họ Nguyễn Tiên Điền với Nguyễn Nhiễm làm Tể tướng. Sau khi Nguyễn Nhiễm mất, đến năm 1783 Nguyễn Khản kế tiếp công nghiệp của cha, đầu năm thăng chức Thiếu Bảo, cuối năm thăng chức Tham tụng, Thượng Thư Bộ Lại kiêm trấn thủ Thái Nguyên, Hưng Hóa. Anh cùng mẹ của Nguyễn Du là Nguyễn Nễ (sinh 1761) đỗ đầu thi Hương ở điện Phụng Thiên, được bổ thị nội văn chức, khâm thị nhật giảng, sung Nội Hàn Viện cung phụng sứ, phó tri thị nội thư tả lại phiên, Thiên Thư Khu mật viện Đức Phái hầu, cai quản đội quân Phấn Nhất của phủ Chúa. Vừa lúc Thuận Châu khởi binh, phụng sai hiệp tán quân cơ của đạo Sơn Tây. Nhà Nguyễn Tiên Điền thực sư hùng mạnh “gồm hai văn võ rạch đôi sơn hà” “năm năm hùng cứ một phương hải tần” (1781- 1786) “Chọc trời khuấy nước mặc dầu/ Dọc ngang nào biết trên đầu có ai” . Vua Lê và chúa Trịnh do sự chia rẽ đặc biệt nghiêm trọng thời thái tử Lê Duy Vĩ (cha của vua Lê Chiêu Thống) và chúa Trịnh Sâm.Tthái tử Lê Duy Vĩ đã bị Trịnh Sâm bức hại mà chết và ba con bị giam cầm 15 năm. Đến thời loạn kiêu binh vua Lê Chiêu Thống (tên thật là Lê Duy Kỳ con trai của Lê Duy Vĩ) quyết nắm lại thực quyền thì Nguyễn Hữu Chỉnh đã rước quân Tây Sơn Nguyễn Huệ ra Bắc lần thứ nhất năm 1787 gieo kế li gián khiến nhà Nguyễn Tiên Điền bị nghi ngờ không được vua Lê dùng nên Nguyễn Huệ mới ra Bắc thành công.

                    Ở đằng Ngoài, năm 1787 Nguyễn Huệ theo kế Nguyễn Hữu Chỉnh bất ngờ đánh ra Nghệ An và thuận thời đột kích Thăng Long thắng lợi, chiếm được Bắc Hà mà không kịp xin lệnh Nguyễn Nhạc, sau đó Nguyễn Huệ cưới công chúa Lê Ngọc Hân con vua Lê Hiển Tông. Nguyễn Nhạc vơi quyết sách tạo thành hai nước Bắc Nam hòa hiếu đằng Trong đằng Ngoài nên đã cấp tốc ra Bắc, thay đổi tướng hiệu và cùng Nguyễn Huệ về Nam. Vua Lê Chiêu Thống dùng mưu thần Nguyễn Hữu Chỉnh và trung thần Lê Quýnh đuổi Trịnh Bồng quyết giành lại thực quyền từ nhà chúa, sau đó tiếp tục mưu việc giành lại Nghệ An. Tướng Tây Sơn Vũ Văn Nhậm con rể Nguyễn Nhạc trấn thủ Quảng Bình đã cùng Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân theo lệnh Nguyễn Huệ kéo đại quân ra Bắc giết Nguyễn Hữu Chỉnh. Vua Lê Chiêu Thống trốn chạy vào rừng ở Yên Thế Thái Nguyên Tuyên Quang chống lại Tây Sơn. Vũ Văn Nhậm không bắt được Lê Chiêu Thống nên đã lập chú vua là Lê Duy Cận làm Giám Quốc. Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ kéo quân kỵ gấp đường ra Thăng Long, nửa đêm đến nơi bắt Vũ Văn Nhậm giết đi, đổi đặt quan quân, đặt quan lục bộ và các quan trấn thủ, vẫn để Lê Duy Cẩn làm Giám Quốc, chủ trương việc tế lễ để giữ tông miếu tiền triều, dùng Ngô Thì Nhậm làm Lại bộ tả thị lang, cùng bọn Ngô Văn Sở ở lại giữ đất Bắc Hà, còn Nguyễn Huệ thì trở về Nam. Mẹ vua Lê Chiêu Thống đã cầu xin nhà Thanh viện binh giúp vua Lê phục quốc. Vua Càn Long lợi dụng tình hình cho Tôn Sĩ Nghị, Ô Đại Kinh, Sầm Nghi Đống ba cánh quân của Lưỡng Quảng, Quý Châu – Vân Nam, Điền Châu chia đường sang cứu viện và nhân tiện cướp Đại Việt. Quân Thanh vào đến Thăng Long đã theo kế Càn Long lập Lê Chiêu Thống lên làm An Nam quốc vương để chống lại nhà Tây Sơn. Nguyễn Huệ tại Phú Xuân nhận được tin cấp báo đã lên ngôi Hoàng Đế để chính danh phận và lập tức kéo quân ra Bắc. Nhà Nguyễn Tiên Điền và những cựu thần nhà Lê trừ số theo vua bôn tẩu ra ngoài đều không được vua Lê tin dùng vì Nguyễn Khải anh Nguyễn Du vốn và thầy chúa Trịnh có thù sâu nặng với vua Lê. Nguyễn Huệ dụng binh như thần và khéo chia rẽ, mua chuộc nên nhiều cựu thần nhà Lê như Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích, La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp, và kể cả Nguyễn Nễ là anh trai Nguyễn Du và Đoàn Nguyễn Tuấn là anh vợ Nguyễn Du đều lần lượt ra làm quan với nhà Tây Sơn. Riêng Nguyễn Du thì không ra. Năm Kỷ Dậu (1789) Nguyễn Huệ đại phá quân Thanh. Sầm Nghi Đống tự sát ở gò Đống Đa, Tôn Sĩ Nghị tháo chạy về Bắc, cánh quân của Ô Đại Kinh rút chạy, Đồn Ngọc Hồi với toàn bộ quân Thanh và danh tướng Hứa Thế Hanh giữ đồn này đều bị diệt. Vua Quang Trung chiều ngày 5 Tết đã khải hoàn ở kinh thành Thăng Long. Các anh của Nguyễn Du ra làm quan với nhà Tây Sơn. Phủ đệ của họ Nguyễn Tiên Điền bên hồ Tây được sửa lại. Nguyễn Huệ sau khi đại phá quân Thanh, bằng mưu kế ngoại giao của nhà Tây Sơn với vua Càn Long nên được phong làm An Nam quốc vương, Lê Chiêu Thống phát động cuộc chiến ở tây Nghệ An và Trấn Ninh, Lào nhưng bị thua bởi danh tướng Tây Sơn Trần Quang Diệu. Vua Lê cũng bị bại ở trận chiến Cao Bằng Tuyên Quang do quân mỏng lực yếu. Vua Lê Chiêu Thống và các trung thần tiết nghĩa nhà hậu Lê đã bị “bán đứng” bởi vua Càn Long và tướng Phúc Khang An do bí mật kho báu ở đỉnh Tuyết Sơn núi Tuyết (mời đọc Kho báu đỉnh Tuyết Sơn). “Nhà vua bị người ta lừa gạt, bị giám buộc ở quê người đất khách, đến nỗi lo buồn phẫn uất, ôm hận mà chết, thân dẫu chết, nhưng tâm không chết, kể cũng đáng thương! (trích lời phê của vua Tự Đức).

                    Ở đằng Trong, nhân lúc Bắc Hà biến loạn, Nguyễn Huệ phải lo đối phó từ hai phía, vua Lê trốn vào rừng và phát chiếu cần vương, quân Thanh có thể can thiệp bất cứ lúc nào, Nguyễn Ánh công phá và bình định Sài Gòn – Gia Định ngày Đinh Dậu tháng 8 năm Mậu Thân (9.1788). Đông Định Vương Nguyễn Lữ bị rơi vào mưu kế chia rẽ của Nguyễn Ánh đối với Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ nên đã phải rút chạy về Quy Nhơn. Phạm Văn Tham tướng Nguyễn Nhạc lui về giữ những điểm trọng yếu ở Ba Thắc và Biên Hòa, đồng thời cấp báo về Quy Nhơn xin viện binh. Nguyễn Nhạc không dám phát binh vì sợ Nguyễn Ánh thừa cơ mang thủy quân ra đột kích miền Trung. Nguyễn Vương nhân cơ hội này đã đánh rộng ra chiếm trọn Nam Bộ. Thất bại chiến lược này của nhà Tây Sơn do trước đó, năm 1787 Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ đã bất hòa rất nghiêm trọng về việc Nguyễn Huệ chống đối Nguyễn Nhạc không chịu sung vào quân lương số vàng bạc châu báu rất lớn mà quân Bắc Bình Vương đã cướp được từ kho chúa Trịnh, đồng thời Nguyễn Huệ đòi quyền quản lý Quảng Nam. Nguyễn Nhạc uất ức chán nản vì em của ông tuy tài trí xuất chúng đánh giỏi và cơ trí hơn người nhưng mãnh liệt hung bạo và khó chế ngự, không còn tin theo phương lược của ông là chỉ nên tranh hùng với chúa Nguyễn ở đất phương Nam mà tạm thời chưa dòm ngó phương Bắc vì cựu thân tôn phò nhà Lê còn rất mạnh. Nhà Thanh lại ủng hộ nhà Lê. Mầm họa nhà Tây Sơn tăng dần và sự bất hòa này đã bị Nguyễn Ánh triệt để lợi dụng. Nguyễn Ánh lợi dụng tình hình Bắc Hà rối loạn nên đã chiếm trọn đất phương Nam.

                    Nguyễn Du cùng Lê Quýnh dựng cờ phù Lê, vận động ngoại giao xin chiếu vua Càn Long, liên thủ với vùng Nam Trung Quốc và Nghệ Tĩnh, giao kết kẻ sĩ, xây dựng lực lượng, trầm tĩnh theo chuyển biến thời cuộc để chớp thời cơ hành động. Nguyễn Du sau khởi nghĩa Tư Nông thất bại ông đã sang căn cứ Nam Trung Quốc thực hiện việc vận động ngoại giao. Nguyễn Du năm ấy đi lại giữa Thăng Long, Quảng Tây, Kinh Bắc, Hải Dương, Nghệ An nhưng đang là lúc “ngọa hổ tàng long” nên Nguyễn Du hành tung bí mật, rất ít lộ diện. Những sử liệu dưới đây cho thấy các địa điểm ẩn hiện của ông: Trong “Lê Quý Kỷ Sự” của Nguyễn Thu có nói đến cuộc khởi nghĩa tại Tư Nông của cựu Trấn Thủ Thái Nguyên Nguyễn Đăng Tiến, tước Quản Vũ Hầu, bị tướng Tây Sơn bắt giải về cho Vũ Văn Nhậm. Nhậm trọng sự khí khái nên dụ hàng, sau đó cũng tha bổng và cho phép muốn đi đâu thì đi. Họ đi sang Vân Nam. Nguyễn Quýnh quay trở về Hồng Lĩnh khởi nghĩa bị bắt và bị giết năm 1791 tròn 30 tuổi, dinh thự và làng Tiên Điền bị đốt sạch. Đến Vân Nam, Nguyễn Du bị bệnh ba tháng mùa xuân. Hết bệnh, họ đi Liễu Châu và chia tay, Nguyễn Đại Lang về thăm quê nhà vùng Quế Lâm, cao sơn lưu thủy. Nguyễn Du đi giang hồ ba năm ở Trung Quốc trong áo mũ nhà sư mang danh Chí Hiên, từ Quảng Tây theo thuyền đi dọc sông và Hồ Động Đình đến Hán Khẩu, rồi theo sông Hán rồi lên Trường An viết bài Dương Quý Phi, Bùi Tấn Công mộ, Phân Kinh thạch đài, rồi lại theo kinh Đại Vận Hà đến Hàng Châu. Năm 1790 Nguyễn Du cư ngụ tại chùa Hổ Pháo bên Tây Hồ, tại Hàng Châu, nơi Từ Hải tức Minh Sơn Hoà thượng từng tu hành, trước khi đi giang hồ thành cướp biển. Nguyễn Du tại đây có được bản Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân. Ông gặp lại Nguyễn Đại Lang tại miếu Nhạc Phi cũng bên cạnh Tây Hồ. Chính nơi đây Nguyễn Du viết 5 bài thơ, một bài Nhạc Phi, hai bài Tần Cối và hai bài Vương Thị, sau đó Nguyễn Du cùng Nguyễn Đại Lang đi Yên Kinh gặp vua Lê Chiêu Thống, và trở về Hàng Châu thì gặp Đoàn Nguyễn Tuấn cùng với sứ đoàn Tây Sơn tại một lữ quán. Tại đây, Nguyễn Du bàn chuyện về hồng nhan đa truân và Đoàn Nguyễn Tuấn đã viết hai bài thơ tặng văn nhân họ Nguyễn. Nguyễn Du về Long Châu và trở về Thăng Long. Ba năm 1791-1793, Nguyễn Du ở với Nguyễn Nể, đang làm quan Tây Sơn tại Bắc Thành giữ chức Hàn Lâm thị thư, sung chức Phó sứ tuế công. Năm 1791, Nguyễn Nễ đi sứ về, đã xây dựng lại một phần dinh thự Bích Câu, tại đây Nguyễn Du nghe cô Cầm, người nhạc nữ cũ cung vua Lê đánh đàn. Nguyễn Du không chịu ra làm quan nhà Tây Sơn khi vua Lê Chiêu Thông đã bị nhà Thanh dùng kế ‘bán đứng”. Ông cam lòng ẩn nhẫn câu cá làm “Nam Hải điếu đồ” tại ao vườn của anh là Nguyễn Khản cạnh đền Khán Xuân. Chính nơi đây, Nguyễn Du cùng Xuân Hương (tức Hồ Phi Mai) có ba năm vẹn 1790-1792 sống cùng nhau để trầm tĩnh nhìn thời thế biến chuyển. Câu chuyện luận anh hùng của họ là trong thời điểm này. Những ẩn ngữ Lưu Hương ký và Truyện Thúy Kiều, Nhân vật Từ Hải và Thúy Kiều chính là từ hình mẫu của Nguyển Du và Hố Xuân Hương. Cuối năm 1993 Nguyễn Du vào Phú Xuân tìm cách giúp cho hai anh Nguyễn Nễ và Đoàn Nguyễn Tuấn thoát ra khỏi họa diệt tộc khỏi dính líu quá sâu vào triều Tây Sơn, khi Nguyễn Du đã đọc nghìn lần kinh Kim Cương và đã nhìn thấy mối họa khó bề cứu vãn của triều đại Tây Sơn.

                    Nguyễn Du và Hồ Xuân Hương luận anh hùng” thể hiện rõ nét qua “Truyện Thúy Kiều” và “Lưu Hương Ký” Hồ Xuân Hương viết: “Ngước mắt trông lên thấy bảng treo. Kìa đền Thái thú đứng cheo leo. Ví đây đổi phận làm trai được. Sự nghiệp anh hùng há bấy nhiêu” “Giương oai giễu võ thật là kinh. Danh tiếng bao lăm đã tận rồi. Thoáng ngửi thoáng ghê hơi hương lửa. Tài trí ra sao hỏi tính tình”. Hồ Xuân Hương căm ghét quyết liệt đối với cái ác, cái xấu, vô văn hóa, giả đạo đức, mất nhân tính. Bà căm ghét khinh bỉ những kẻ tính tình hung bạo thủ đoạn nham hiểm, liên tưởng tới dòng họ Nguyễn Du ở Tiên Điền bị quân Tây Sơn sát hại toàn gia tộc sau khởi nghĩa thất bại của Nguyễn Quýnh năm 1791 ở tây Nghệ An, bị truy sát đến Trấn Ninh và liên lụy đến vua Lào và đại tướng Lào . Nguyễn Du và Hồ Xuân Hương luận anh hùng qua đối thoại của Từ Hải và Thúy Kiều: “Thưa rằng: Lượng cả bao dong/ Tấn Dương được thấy mây rồng có phen/ Rộng thương cỏ nội hoa hèn/ Chút thân bèo bọt, dám phiền mai sau!/ Nghe lời vừa ý gật đầu/ Cười rằng tri kỷ trước sau mấy người/ Khen cho con mắt tinh đời /Anh hùng đoán giữa trần ai mới già/ Một lời đã biết đến ta/ Muôn chung nghìn tứ, cũng là có nhau/ Hai bên ý hợp tâm đầu/ Khi thân, chẳng lọ là cầu mới thân/ Ngõ lời cùng với băng nhân/ Tiền trăm lại cứ nguyên ngân phát hoàn/ Buồng riêng sửa chốn thanh nhàn/ Đặt giường thất bảo, vây màn bát tiên/ Trai anh hùng gái thuyền quyên/ Phỉ nguyền sánh phượng, đẹp duyên cưỡi rồng.”

                    TỎ Ý” LỆ VƯƠNG ĐẦY

                    “Tỏ ý”,“Thuật ý kiêm trình hữu nhân Mai Sơn Phủ” là kiệt tác thơ tình yêu của Hồ Xuân Hương thuộc dạng thơ hát nói (ca trù/ ví dặm ân tình). Hồ Xuân Hương đã “Tỏ ý” với Nguyễn Du. Chuyện tình cảm động Nguyễn Du và Hồ Xuân Hương thể hiện rõ nét trên tác phẩm Lưu Hương Ký, di cảo đích thực của Hồ Xuân Hượng tại bài “Thuật ý kiêm trình hữu nhân Mai Sơn Phủ” là thơ chữ Hán của Hồ Xuân Hương tặng Mai Sơn Phủ Nguyễn Du.

                    TỎ Ý
                    Hồ Xuân Hương tặng Mai Sơn Phủ (Nguyễn Du)
                    (Bản dịch của Hoàng Kim)

                    Hoa rung rinh,
                    Cây rung rinh,
                    Giấc mộng cô đơn nhớ hương tình,
                    Đêm xuân bao cảm khái.

                    Hươu nơi nao
                    Nhạn nơi nao
                    Mình ước trong nhau ban mai nào
                    Lòng em thương nhớ ai thấu sao!

                    Sông mênh mông
                    Nước dạt dào
                    Lòng hai chúng mình đều ao ước
                    Nước mắt thầm rơi mặn chát.

                    Thơ thương thương,
                    Lòng vương vương,
                    Ấm lạnh lòng ai thấu tỏ tường,
                    Bút người tả xiết chăng?

                    Mây lang thang
                    Trăng mênh mang
                    Trăng gió xui ai luống đoạn tràng
                    Đâu là gác Đằng Vương ?

                    Mây vương vương
                    Nước sương sương
                    Mây nước chung nhau chỉ một đường
                    Dặm trường cách trở thương càng thương.

                    Ngày thênh thênh,
                    Đêm thênh thênh,
                    Đêm ngày khắc khoải nhớ thương anh,
                    Người ơi đừng lỡ hẹn sai tình.

                    Gió bay bay
                    Mưa bay bay
                    Mưa gió giục em viết thơ này
                    Bút xuân gửi đến người thương nhớ

                    Anh đồng lòng
                    Em đồng lòng
                    Mộng hồn tương luyến liễu hoa âm (*)
                    Thơ cùng ngâm
                    Rượu và trăng
                    Thăm thẳm buồn ly biệt
                    Vầng trăng chia hai nữa
                    Cung đàn ly khúc oán tri âm (**),
                    Thôi đành bặt tiếng hồ cầm
                    Núi cao biển sâu đằng đẳng
                    Xin chớ tủi buồn mà than cổ kim.

                    Chàng hẹn gì
                    Ta hẹn gì
                    Hai ta đều muộn nói năng chi
                    Trà mà chi
                    Bút mà chi
                    Lời và chữ còn đó
                    Ai là kẻ tình si
                    Hiểu nhau trong dạ khó khăn gì
                    Hãy nên trao gửi mối duyên đi
                    Lòng son ai nỡ phụ.

                    Hồ Xuân Hương (Hồ Phi Mai) với ngón hồ cầm tuyệt diệu hát nói ca trù chính là Thúy Kiều gẩy đàn cho Kim Trọng nghe “Trong như tiếng hạc bay qua. Đục như nước suối vừa sa nửa vời. Tiếng khoan như gió thoảng ngoài. Tiếu mau sầm sập như trời đổ mưa. Ngọn đèn khi tỏ khi mờ. Khiến người ngồi đấy cũng ngơ ngẫn sầu. Khi tựa gối khi cúi đầu. Khi vò chín khúc, khi chau đôi mày” (Truyện Kiều, Nguyễn Du). Truyện Thúy Kiều soi thấu những góc khuất của Lưu Hương Ký và ngược lại.

                    Hồ Xuân Hương với kiệt tác Lưu Hương Ký có một bài thơ khác đã xác nhận thơ bà viết gửi Cần chánh học sĩ Nguyễn hầu chính là Nguyễn Du.

                    NHỚ CHUYỆN CŨ
                    Cảm cựu kiêm trình Cần chánh học sĩ Nguyễn Hầu

                    感舊兼呈勤政學士阮侯 – Nhớ chuyện cũ viết gửi Cần chánh học sĩ Nguyễn Hầu (*).

                    Hồ Xuân Hương

                    Dặm khách muôn nghìn nỗi nhớ nhung,
                    Mượn ai tới đấy gửi cho cùng.
                    Chữ tình chốc đã ba năm vẹn,
                    Giấc mộng rồi ra nửa khắc không.
                    Xe ngựa trộm mừng duyên tấp nập,
                    Phấn son càng tủi phận long đong.
                    Biết còn mảy chút sương siu mấy,
                    Lầu nguyệt năm canh chiếc bóng chong.

                    (*) Sau đầu đề trên, tác giả có chú: “Hầu, Nghi Xuân, Tiên Điền nhân” 侯宜春仙田人 (Hầu người làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân). Như vậy, ở đây Nguyễn Hầu đúng là Nguyễn Du tiên sinh. Gia phả họ Nguyễn Tiên Điền ghi rõ mùa hè năm Kỉ Tỵ (1809), Nguyễn Du được bổ làm cai bạ Quảng Bình. Tháng 2 năm Quý Dậu (1813) ông được phong Cần chánh điện học sĩ, rồi được cử làm chánh sứ đi Trung Quốc tuế cống.

                    Kiều – Nguyễn Du
                    Ca trù hát nói Việt Nam

                    Non xanh xanh

                    Nước xanh xanh
                    Sớm tình tình sớm, trưa tình tình trưa
                    Áy ai tháng đợi năm chờ
                    Mà người ngày ấy bây giờ là đây…

                    Hồng Hồng Tuyết Tuyết ca trù hát nói tinh hoa cổ văn chương Việt) NS Quách Thị Hồ

                    Nguyên tác:




                    鹿











                    <Xem tiếp >>

                      Dạy và học 12 tháng 6(12-06-2021)

                     

                     

                    DẠY VÀ HỌC 12 THÁNG 6
                    Hoàng Kim

                    CNM365 Tình yêu cuộc sống Đáy đại dương là ngọc; Bảy Nhị kênh ông Kiệt và tôi; Ông Bảy Nhị An Giang, Nguyễn Du niên biểu luận; Lê Quý Đôn tinh hoa; Câu cá bên dòng Sêrêpôk Chúc mừng Ngày nước Nga. Ngày 12 tháng 6 là ngày lễ quốc khánh từ năm 1992 của Liên bang Nga. Bài chọn lọc ngày 12 tháng 6: Đáy đại dương là ngọc; Bảy Nhị kênh ông Kiệt và tôi; Ông Bảy Nhị An Giang, Nguyễn Du niên biểu luận; Lê Quý Đôn tinh hoa; Câu cá bên dòng Sêrêpôk Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/

                     

                     

                    ĐÁY ĐẠI DƯƠNG LÀ NGỌC
                    Hoàng Kim

                    Tôi lưu lại một ít hình ảnh không quên và năm ghi chú nhỏ: 1) Cha con người anh hùng; 2) Nhớ người muôn năm cũ; 3) Thương người thân bạn quý; 4) Sắn và lúa siêu xanh; 5) Đáy đại dương là ngọc; https://hoangkimlong.wordpress.com/category/day-dai-duong-la-ngoc/

                    Anh Nguyễn Thành Phước (Phuoc Nguyen Thanh) nói: “Chỉ có những người cùng cam khổ mới hiểu hết nỗi cực khổ” Tôi xúc động nói với anh: “Tôi cùng Hoang Long con tôi theo chân anh Phạm Trung Nghĩa Viện Lúa về Sóc Trăng Lương Định Của tới quê hương người anh hùng lao động Hồ Quang Cua gạo ST để chung sức cùng với vợ chồng anh và các bạn hữu và học trò gắng gỏi tuyển chọn giống lúa siêu xanh thích ứng với biến đổi khí hậu, có năng suất cao, chất lượng tốt, ngắn ngày, ít sâu bệnh. Mười năm qua từ nguồn vật liệu lúa siêu xanh (Green Super Rice GSR) quý hiếm đã nhập nội, bảo tồn và phát triển tại Trung tâm Giống nông nghiệp tỉnh Sóc Trăng lan tỏa ra Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh Phú Yên với nhiều tỉnh. Ngày nay đã tuyển chọn được các giống lúa siêu xanh tốt GSR90, GSR65, GSR38 (HHZ5 Y7- Y3), nhìn lại Việt Nam con đường xanh gian khổ vươn tới của Gạo Việt và thương hiệu càng thấm thía Đáy đại dương là ngọc.

                     

                     

                    CHA CON NGƯỜI ANH HÙNG

                    Hôm bác Năm Hoằng mất, chúng tôi gần như đi suốt đêm từ Trung tâm Nghiên cứu Thực nghiệm Nông nghiệp Hưng Lộc (Đồng Nai) về Nông trường sông Hậu (Hậu Giang) để kịp viếng bác. Tôi biết ơn bác Năm đã năm lần lội ruộng thăm đồng Trung tâm Hưng Lôc và đã gợi ý cho tôi nhiều điều. Trong đó, có một lần bác tặng cho tôi chiếc máy điện thoại di động “Cháu giữ mà dùng, bác mua lại cái khác”, “Thông tin là cần thiết, đừng tiết kiệm quá con ạ” “Chưa kỹ đâu con, đừng vội làm sư”; “Bác có chút kinh nghiệm thau chua, rửa phèn, lấn biến” “Hiểu cây và đất thì mới làm ra được giống mới, con ạ ”; “Phải sản xuất kinh doanh khép kín mới khá được”; “Đáy đại dương là ngọc”. Những bài học của bác Năm Hoằng và chị Ba Sương đã giúp chúng tôi rất nhiều. Lâu nay chúng ta đã xúc động nhiều với cuộc đời bất hạnh của chị Ba Sương nhưng hình như việc “tích tụ ruộng đất”, “xây dựng nông trại điển hình”, và “lập quỹ trái phép”, của Nông trường sông Hậu thời bác Năm Hoằng và chị Ba Sương cho đến nay vẫn chưa được nghiên cứu thấu đáo để rút ra những bài học sâu sắc về quan điểm, tầm nhìn, cách đầu tư khép kín trong nông nghiệp. Không chỉ vậy, những bài học tổng kết thực tiễn kinh nghiệm phát triển nông nghiệp của Thế giới và Việt Nam việc soát xét 10 năm, 40 năm, 90 năm, 500 năm để tính toán một tầm nhìn trung và dài hạn vẫn rất cần những công trình xứng tầm để đúc kết bài học bảo tồn và phát triển. Tôi mắc nợ câu chuyện “Hai cha con đều là anh hùng” của bác Năm Hoằng và chị Ba Sương đã nhiều năm. Khi tôi may mắn ngồi trọn buổi giữa nhóm bạn quý của Trung tâm Nghiên cứu Nông nghiệp Đồng Tháp Mười gồm vợ chồng anh Mai Thành Phụng, Nguyễn Thị Kim Hoàng, vợ chồng của nhà báo Quang Ngọc, và các bạn Thạc, Thuận, Cường, Thắm, là các thế hệ chí cốt của trung tâm suốt chặng đường lịch sử. Thật xúc động nhớ về thuở xưa của rốn phèn Đồng Tháp Mười và Tứ giác Long Xuyên nay đã biết bao đổi thay. Trò chuyện với các bạn câu chuyện
                    Trở lại nụ cười Ba Sương : “Hậu Giang gió nổi bời bời/ Người ta một nắng, chị thời … Ba Sương/ Theo cha đi mở nông trường/ Sáu mươi tóc vẫn còn vương mùi phèn/ Giữa bùn lòng mở cánh sen/ Thương bao phận khó mà quên phận mình, …” . Sự kiện ngày 15 tháng 8 năm 2009 đến nay lòng dân đâu đã quên và chuyện đâu đã khép lại. Bác Năm đã yên nghĩ, chị Ba Sương kêu án tù 8 năm và được thả. Người đương thời chưa thể mổ xẻ và phân tích đúng sai về cách “tích tụ ruộng đất”“lập quỷ trái phép” nhưng nếu khép lại điều này thì không thể nói rõ nhiều việc đúng tâm nguyện của những bậc anh hùng trượng nghĩa Nam Bộ đã dấn thân quyết liệt trọn đời cho sự nghiệp và niềm tin ấy.

                     

                     

                    NHỚ NGƯỜI MUÔN NĂM CŨ

                    Giáo sư
                    Nguyễn Tử Siêm viết: “Nhớ một trí thức chân chính GSTS, NGUYÊN BT NGUYỄN QUANG HÀ” với hình ảnh giáo sư Nguyễn Quang Hà đứng giữa các đồng nghiệp Nguyễn Thị Lang, Nguyễn Ích Chương, Nguyễn Tử Siêm, … đang lắng nghe chuyên gia IRRI giới thiệu dùng biotech để lai xa, tạo giống ‘siêu lúa’ (supper rice) ngày 28.8.1996. Xin thắp một nén tâm hương nhân ngày giỗ 24 tháng 11 năm 2016 của cụ Nguyễn Quang Hà, một bậc đàn anh đáng kính trong nghề, hiền lành và đức độ bậc nhất theo lời đánh giá của giáo sư Nguyễn Tử Siêm mà tôi tâm đắc. “Sinh ra ở làng lụa Vạn Phúc, trong một gia đình có công với cách mạng, ông Nguyễn Quang Hà tu dưỡng, học hành bài bản, trở thành nhà khoa học lâm nghiệp đầu đàn, Viện trưởng Viện Điều tra Qui hoạch Rừng, rồi làm Bộ trưởng Bộ Lâm Nghiệp; khi sát nhập 2 bộ, ông giữ chức Thứ trưởng thường trực Bộ NN & PTNT. Đúng cái lúc ông về hưu, nhẹ nhàng, thanh thản, những tưởng vui thú điền viên nơi mành vườn quê, thì vụ án động trời ở Bộ bùng phát sau nhiều năm âm ỉ, làm ông vướng vòng lao lý. Vụ án là chuyện của pháp luật. Tôi chỉ muốn biểu thị lòng tin rằng ông trong sạch, không toan tính tơ hào gì về lợi ích. Với tôi, vẫn nguyên vẹn hình ảnh một trí thức chân chính, dù rằng cấp trên trực tiếp của ông ngoảnh mặt đi“. Câu chuyện cụ Hà dường như rất giống câu chuyện bác Năm Hoằng và chị Ba Sương Nông trường Sông Hậu mà cả hai đều “thế thời thế thế thời phải thế”. Tôi xin được lưu lại để suy ngẫm.

                     

                     

                    THƯƠNG NGƯỜI THÂN BẠN QUÝ

                    Phạm Trung Nghĩa Viện Lúa “Hãy cúi xuống học tốt. Khi kết quả thành rồi, người đời sẽ dắt bạn lên ” tưởng nhớ nhà khoa học xanh Phạm Trung Nghĩa. Rạng sáng ngày 19 tháng 10 năm 2012, lúc 6 giờ. Tiến sĩ Phạm Trung Nghĩa Phó Viện Trưởng Viện Lúa Đồng Bằng Sông Cửu Long từ trần. Anh ra đi sau cơn đột quỵ và hôn mê sâu để lại sự tiếc thương vô hạn cho gia đình, đồng nghiệp, học trò nghề nông, người thân và người dân khắp vùng Nam Bộ.

                    Anh đi xa đã mấy năm nhưng anh cũng đã đi vào bữa cơm mỗi gia đình thầm lặng thiết thực mà hiệu quả. Anh đi xa lúc 51 tuổi khi sức cống hiến của anh đối với khoa học đang ở độ rực rỡ nhất. Anh để lại những công trình dang dở, những giống lúa triển vọng đang xanh mướt trên đồng. Anh để lại những trang viết chưa dừng, những việc tốt đang làm và những dự định đang ấp ủ thực hiện. Anh là nhà khoa học xanh hiền hậu, tài năng, chịu khó, người bạn hiền của nông dân, người thầy giỏi của con tôi và nhiều lớp học trò may mắn được anh chỉ dạy. Mãi còn đó lời khuyên của anh chân thành mà minh triết: “Hãy cúi xuống làm việc. Khi kết quả thành rồi, người đời sẽ dắt bạn lên !”. “Hãy cúi xuống học trên đồng, cúi xuống học trong phòng thí nghiệm, cúi xuống học thầy, học bạn và lắng nghe tiếng nói người dân”.

                    Thương người thân bạn quý, bạn nhà nông thân thương mà dưới đây chỉ là vài hình ảnh

                     

                     

                    SẮN VÀ LÚA SIÊU XANH

                    Giống sắn KM419, KM440 sự thật tốt hơn ngàn lời nói.
                    Tiến sĩ Trúc Mai nghiên cứu thành công giống sắn mới,Người tâm huyết với cây sắn và lúa, vừa đạt giải Nhất  Hội thi Sáng tạo kỹ thuật tỉnh Phú Yên lần thứ 8 (2018-2019) tổ chức tại Liên hiệp các Hội Khoa học kỹ thuật tỉnh,về giải pháp “Nghiên cứu tuyển chọn giống sắn năng suất tinh bột cao và kỹ thuật thâm canh tại tỉnh Phú Yên”. Trúc Mai được tôn vinh là nhà khoa học của nhà nông tại Hà Nội đêm 29 tháng 12 năm 2020. Ngày Hạnh Phúc của em Sản phẩm của giải pháp này là giống sắn KM419 trở thành giống sắn chủ lực cho tỉnh Phú Yên từ năm 2016 đến nay với quy trình kỹ thuật có mật độ trồng và công thức bón phân thích hợp cho sự thâm canh giống sắn KM419 trong cơ cấu thời vụ thu hoạch rải vụ của vụ Xuân kết hợp vụ Hè tại tỉnh Phú Yên để nâng cao hiệu quả hoạt động của nhà máy chế biến tinh bột sắn và thu nhập của nông dân. Giống sắn KM419 đã được Bộ Nông nghiệp và PTNT công nhận tại Quyết định số: 85/QĐ-BNN-TT, ngày 13/01/2016, các tác giả giải pháp là tác giả của KM419. Một số biện pháp kỹ thuật thâm canh rải vụ sắn tối ưu cho giống sắn KM419 tại tỉnh Phú Yên đạt năng suất và hiệu quả kinh tế cao nhất; đã được Cục Trồng trọt công nhận tại Quyết định số 208/QĐ-TT- CLT, ngày 27/5/2016, các tác giả giải pháp là tác giả của quy trình kỹ thuật. Tôi thành thực quý trọng công sức của đội ngũ lao động giỏi, trân trọng tài năng với tấm lòng và sự tận tâm vì chén cơm ngon của người dân.

                     

                     

                    ĐÁY ĐẠI DƯƠNG LÀ NGỌC

                    Sao anh chưa về miền Tây.
                    Nơi một góc đời anh ở đó.
                    Cần Thơ Sóc Trăng sông Tiền Sông Hậu
                    Tên đất tên người chín nhớ mười thương.

                    Anh có về Bảy Núi Cửu Long
                    Nắng đồng bằng miên man bao nỗi nhớ
                    Kênh ông Kiệt thương mùa mưa lũ
                    Anh có về nơi ấy với em không?

                    Nay miền Tây mai miền Trung
                    Đáy đại dương là Ngọc.

                    Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/

                     

                     

                    BẢY NHỊ KÊNH ÔNG KIỆT VÀ TÔI
                    Hoàng Kim

                    Tôi có câu chuyện không quên
                    Bảy Nhị kênh ông Kiệt và tôi, nay ngắm lại các bức ảnh và trang văn tìm lại chính mình mà xúc động nghĩ về một thời với một lớp người. Tôi nhờ ơn tri ngộ ‘cầu hiền’ của ông Bảy và sự dẫn dắt trước đó của giáo sư Mai Văn Quyền, giáo sư Nguyễn Văn Luật, giáo sư Võ Tòng Xuân, giáo sư Đào Thế Tuấn trong Chương trình Hệ thống Canh tác Việt Nam với lối Học để Làm (Learning by Doing) rất thiết thực. Sự hợp tác thân thiện giữa Viện Lúa ĐBSCL với Trường Đại học Nông Lâm TP Hồ Chí Minh, Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam, Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam, Trường Đại học Cần Thơ, Nông trường Sông Hậu, Trung tâm Giống Cây trồng Sóc Trăng, Trung tâm Giống và Kỹ thuật Cây trồng Phú Yên, …là bài học lớn để chúng tôi vượt lên chính mình, đóng góp được những thành tựu và cống hiến tốt hơn cho sản xuất.

                    BẢY NHỊ

                    Ông Bảy Nhị tên thật là Nguyễn Minh Nhị, nguyên chủ tịch tỉnh An Giang. Ông vừa có bài viết “Giá lúa nằm ngoài hạt gạo” mà tôi đã chọn đưa vào bài giảng cây lúa. Suy tư về thương hiệu gạo Việt (trích dẫn cuối bài này) cũng không thể không nhớ ông Bảy.

                    Bạn xuống An Giang hỏi ông Bảy Chủ tịch ai cũng biết. Tôi gọi trõng tên ông biết là không phải nhưng với tôi thì ông tuy còn khỏe và đang sống sờ sờ nhưng đã là người lịch sử, tựa như Mạc Cữu, Mạc Thiên Tích xưa, oai chấn Hà Tiên góp sức mộ dân mở cõi, làm phên dậu đất phương Nam của dân tộc Việt. Ông Bảy là nhân vật lịch sử trong lòng tôi.

                    Tôi có một kỷ niệm quí rất khó quên. Ông Bảy Nhị ba lần lặn lội lên Trung tâm Nghiên cứu Thực nghiệm Nông nghiệp Hưng Lộc tìm tôi là giám đốc Trung tâm để hỏi cách đưa cây gì vào khai hoang phục hóa hiệu quả cho vùng đất hoang hóa Tri Tôn, Tịnh Biên. Ông đồng tình với tôi việc ứng dụng canh tác giống lúa thơm Khao Dawk Mali 105 (KDM 105) nhưng trồng cây gì luân canh lúa hiệu quả trong các tháng mùa khô thì đó vẫn là bài toán khó?

                    Mờ sớm một ngày đầu tháng mười một. Trời se lạnh. Nhà tôi có chim về làm tổ. Buổi khuya, tôi mơ hồ nghe chim khách líu ríu lạ trên cây me góc vườn nên thức dậy. Tôi bước ra sân thì thấy một chiếc xe ô tô đậu và cậu lái xe đang ngủ nướng. Khi tôi ra, cậu lái xe thức dậy nói: “Chú Bảy Nhị, chủ tịch tỉnh An Giang lên thăm anh nhờ tuyển chọn giống mì ngắn ngày để giúp An Giang né lũ. Đợt trước chú đã đi cùng chú Tùng (là ông Lê Minh Tùng sau này làm Phó Chủ Tịch Tỉnh, Hiệu trưởng Trường Đại học An Giang) lên làm việc với anh rồi. Nay mì đã được năm tháng tuổi, chú muốn lên coi kỹ ở trên ruộng xem củ to bằng ngần nào. Chú Bảy giờ hành chính bận họp nên thăm sớm. Đến nhà anh, thấy sớm quá chú ngại nên ra thẳng ngoài đồng rồi, nhờ tui đón anh ra sau”.

                    Tôi giật mình nghĩ: “Cái ông này không thể xạo được. Mình nói là có giống mì bảy tháng. Năm tháng ông lên kiểm tra đồng ruộng nhổ thử, thiệt chu đáo. Ông thật biết cách kiểm tra sâu sát”. Chợt dưng tôi nhớ đến MỘT LỐI ĐI RIÊNG của Bác Hồ trong thơ Hải Như: “ Chúng ta thích đón đưa/ Bác Hồ không thích/ Đến thăm chúng ta Bác Hồ thường “đột kích”/ Chữ “đột kích” vui này Người nói lại cùng ta/ Và đường quen thuộc/ Bác chẳng đi đâu/ Đường quen thuộc thường xa/ Bác hiện đến bằng lối tự tìm ra:/ Ngắn nhất/ Bác không muốn giẫm lên mọi đường mòn có sẵn/ Khi đích đã nhắm rồi/ Người luôn luôn tạo cho mình:/ Một lối đi riêng”. Sau này hiếm có đồng chí lãnh đạo nào học được cách làm như Bác. Họ đi đâu đều thường xếp lịch hành chính và đưa đón đàng hoàng, chẳng cần một lối đi riêng. Tôi thầm chợt cảm phục ông Bảy.

                     

                     

                    Suy tư về thương hiệu gạo Việt, tôi đọc đi đọc lại nhiều lần thư của ông Bảy Nhị đã viết cho tôi : “Hoàng Kim thân mến. Sang năm mới, nhìn lại năm cũ, thấy giống khoai mì của Hoàng Kim củ to và nhiều quá chừng. Phải hồi anh Bảy có Nhà máy tinh bột Lương An Trà thì mê hết hồn với giống nầy rồi. Chúc mừng Hoàng Kim nhé! Nhân đây anh trích gởi đoạn nhật ký mới nhất ghi lại sự kiên anh đến xã Vĩnh Phước huyện Tri Tôn trên vùng đất “rún phèn” Tứ giác Long Xuyên của An Giang mà Chánh phủ điều chỉnh địa giới cho An Giang hơn 20 năm trước. Nơi này, Ngô Vi Nghĩa và anh em Nông trường Khoai mì Afiex đã cực khổ khai hoang làm rõ phèn, chuyển đổi vùng đất hoang hóa, phèn nặng, thành nơi canh tác giống lúa thơm Khao Dawk Mali 105 (KDM 105) luân canh với giống khoai mì ngắn ngày né lũ KM98-1. Cho đến nay, sau 20 năm vùng này đã  thành cánh đồng trù phú. Anh hay quay về kỷ niệm cũ, những nơi ngày xưa cực khổ để tìm lại dấu tích cái đẹp của hồn người! Thân thiết, Bảy Nhị

                    Ông Bảy Nhị trích Nhật ký đầu xuân 2017, đã viết:  “Ngày 30-12-2016 dự “ngày hội thu hoạch lúa mùa nổi lần 3” với bà con xã Vĩnh Phước (Tri Tôn) trên vùng đất “rún phèn” Tứ giác Long Xuyên của An Giang mà Chánh phủ điều chỉnh địa giới cho An Giang hơn 20 năm trước. Đồng ruộng kiến thiết khá hiện đại, đi lại bằng xe máy không bị cách trở, đất, nước không còn màu phèn, lúa Thần nông xanh tươi ước chừng năng suất trên 6 tấn/ha. Đất nầy trước chưa từng được canh tác vì là cái “rún phèn”. Nay sản xuất lúa Thần nông trên vùng đất khai hoang trồng khoai mì, đất được rõ phèn, ngọt hóa sau khi Nông trường của Nhà máy tinh bột Công ty AFIEX đã giải thể năm 2004. Khi lúa gạo thừa, lúa bị nhiễm thuốc bảo vệ thực vật, người dân theo gợi ý của thị trường chuyển qua sản xuất lúa mùa nổi từ năm 2014. Nhưng không dễ! Năm trước nước nhỏ, chuột phá đến gần như mất giống, năm nay lại bị bịnh đạo ôn cổ bông, cháy lá, bạc bông, lem lép hạt … như lúa Thần nông, nhưng không dám xài thuốc, vì như vậy thì không ai mua. Hiện còn duy trì sản xuất 30 ha trong vùng theo mô hình một vụ lúa mùa, một vụ màu trên nền rạ. Đứng trên ruộng lúa mùa nổi đang vào thu hoạch, bồi hồi nhớ lại cũng trên cánh đồng nầy, 56 năm về trước (12-1960), tôi một mình suy nghĩ một mình đi”, đi qua cánh đồng lúa mùa cũng đang vào mùa gặt thế nầy đến ngọn núi trước mặt  –  Núi Dài Vạn Liên – Bây giờ, ngọn núi sau lưng tôi trong tấm hình nầy. Trong ảnh, tôi đang hỏi người gặt thì được biết công cắt 140 kg lúa/ha, và đám lúa nầy năng suất chừng 1,4 tấn/ha. Hỏi giá bán chưa ai biết. Nhưng báo An Giang (02-01-17) đăng bài về sự kiện nầy nói giá 14.000đ/kg do Tổ chức phi lợi nhuận Đức mua (giá lúa IR 50404 giá 4.500đ/kg). Một bài toán chuyển dịch cơ cấu sản xuất không dễ! Tôi buồn vì mình không còn có điều kiện cùng bà con tháo gở khó khăn trong chuyển dịch cơ cấu sản xuất mà tôi tin rằng nếu làm thì tôi sẽ làm được như những năm Đổi mới 1988 –  2004 tôi đã cùng làm với bà con nông dân trên cương vị Giám đốc Sở Nông nghiệp, Phó Chủ tịch phụ trách Nông nghiệp rồi Chủ tịch – Vực dậy nông nghiệp An Giang 2002 – 2004 rồi mới về hưu, kết thúc phút 89’ – Một chặng đường!” “Con đường qua, lúc ban đầu do ta định hướng và bước đi thế nào đó mà kết quả thu được và hệ quả phải nhận là rất bất cập! Ta thi đua làm cho ra năng suất, sản lượng cao nhất mà không quan tâm môi trường thiên nhiên trong lành bị nhiễm hóa chất nông dược, thiên địch không còn, cá tôm, chim thú bị tận diệt, bây giờ quay lại sản xuất hữu cơ trong điều kiện cân bằng tự nhiên không còn không khác nào đi tìm “hành tinh mới”! Khó hơn là trong lòng người đã mất chữ TIN thì làm sao trị căn bịnh “dối trá” đang thành” đại dịch”? Hơn 20 năm xuất khẩu gạo mà gạo không có tên thương hiệu, thì tái cơ cấu cái gì đây cho có chữ TÍN?

                     

                    KenhVoVanKiet

                     

                    KÊNH ÔNG KIỆT

                    “Vẫn là Thủ tướng của nhân dân / Vẫn là anh Sáu mọi gia đình/ Lồng lộng bóng soi miền sông nước/ Đời nặng ân tình, đất nặng chân”. Đó là những câu thơ cảm khái khóc tiễn cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt của ông Bảy Nhị, nguyên Chủ tịch tỉnh An Giang (kênh Võ Văn Kiệt, ảnh Thanh Dũng).

                    Một năm sau khi cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt từ trần, Hội đồng nhân dân tỉnh An Giang khóa VII đã Quyết nghị đặt tên công trình kênh T5 là kênh Võ Văn Kiệt và đặt bia lưu niệm tại đầu kênh để ghi nhớ công lao của cố Thủ tướng với hệ thống kênh huyết mạch, tháo chua, rửa phèn, mở mang vùng đất hoang hóa của khu vực Tứ giác Long Xuyên.

                    Báo An Giang, Trường Đại học An Giang đã đăng bài Kênh “ông Kiệt” tắm mát đồng bằng của tác giả Bảo Trị – Thành Chinh. Báo Đất Việt đăng bài Kênh ông Kiệt của tác giả Võ Ngọc- Bảo Châu. Báo Tuổi Trẻ đăng loạt bài Từ kênh Vĩnh Tế đến kênh Võ Văn Kiệt của tác giả Quốc Việt. Kỳ 1: Hào lũy đất phương Nam ; Kỳ 2: Trấn giữ biên giới ; Kỳ 3: Thương hồ Vĩnh Tế ; Kỳ 4: Dấu chân lấm bùn của ông Sáu Dân; Kỳ 5: Đào kênh T5 . Tôi đã viết bài thơ Kênh ông Kiệt giữa lòng dân với lòng biết ơn sâu sắc.††††

                    Kênh ông Kiệt giữa lòng dân
                    Hoàng Kim

                    Thơ cho em giữa tháng năm này
                    Là lời người dân nói vể kênh ông Kiệt
                    Là con kênh xanh mang dòng nước mát
                    Làm ngọt ruộng đồng Tứ giác Long Xuyên

                    Con kênh T5 thoát lũ xả phèn
                    Dẫn nước ngọt về vùng quê nghèo khó
                    Tri Tôn, Tịnh Biên trong mùa mưa lũ
                    Giữa hoang hóa, sình lầy, thấm hiểu lòng dân

                    Nguyễn Công Trứ xưa khẩn hoang đất dinh điền
                    Thoại Ngọc Hầu mở mang kênh Vĩnh Tế
                    Kênh ông Kiệt giữa lòng dân bền bỉ
                    Ân nghĩa cuộc đời lưu dấu nghìn năm

                    Em ơi khi nuôi dạy con
                    Hãy dạy những điều vì dân, vì nước
                    Người ta sinh ra cho đến khi nhắm mắt
                    Đọng lại trong nhau vẫn chỉ những CON NGƯỜI.

                    Kênh Vĩnh Tế và Kênh Võ Văn Kiệt

                    Hai công trình kênh Vĩnh Tế và kênh ông Kiệt sống mãi với thời gian trong lòng dân.

                    Kênh Vĩnh Tế dài gần 100km chạy dọc biên giới hai tỉnh An Giang, Kiên Giang với vương quốc Campuchia. Kênh do Thượng đạo Khâm sai, trấn thủ Vĩnh Thanh Thoại Ngọc Hầu Nguyễn Văn Thoại chỉ huy hơn 80.000 dân binh đào ròng rã 5 năm liền (1819-1824). Sau khi hoàn thành, vua Minh Mạng đã lấy tên vợ của Thoại Ngọc Hầu , bà Châu Thị Vĩnh Tế, đặt tên cho con kênh này là kênh Vĩnh Tế. Thượng nguồn con kênh tiếp dòng sông Hậu ở thị xã Châu Đốc, hạ nguồn nhập sông Giang Thành ở Hà Tiên để ra biển Tây. Kênh Vĩnh Tế hiện rộng khoảng 40-70m, sâu 3-4m so với mực nước biển tùy từng đoạn. Kênh Vĩnh Tế là tuyến thủy lộ, tuyến kênh biên giới đặc biệt quan trọng mở mang vùng đất Tây Nam Bộ mang tầm vóc của một công trình chiến lược nhất thế kỷ 19 hào lũy đất phương Nam, khẳng định chủ quyền lãnh thổ, mở mang vùng đất mới.

                    Kênh Võ Văn Kiệt (kênh T5) dài 48km, rộng 30-36m và sâu 3m, thông kênh Vĩnh Tế ở Tri Tôn, An Giang, chảy qua Hòn Đất, Kiên Giang rồi đổ ra vịnh Thái Lan. Đây là một cụm “công trình thủy lợi cấp bách” mang dấn ấn Thủ tướng Võ Văn Kiệt, “bác Sáu Dân” nhằm “thoát lũ biển Tây” ngọt hóa vùng đất năng lác hoang hóa sình lầy của hai tỉnh An Giang, Kiên Giang biến thành đất sản xuất nông nghiệp…. Ông Bảy Nhị đã chia sẻ: “Thời điểm trước năm 1997 (trước khi tuyến kênh T5 hoàn thành) cứ dạo lũ về là các cấp, các ngành lo ngai ngái. Lũ về là những vùng trũng, đầu nguồn lại phải lo cảnh sơ tán dân, cứu đói, cắt lúa chạy lũ. Từ khi hệ thống kênh mương cấp 2, 3 hoàn thành theo Quyết định 99/TTg như: Nạo vét kênh Tám Ngàn, H7, các kênh 5, 13, 16… , phần nào lũ đã khống chế. Tuy vậy, những vùng như Tứ giác Long Xuyên, cảnh lũ trắng đồng vẫn là nỗi lo lớn, buộc những người lãnh đạo phải bàn quyết sách tháo gỡ vấn đề”. “Tứ giác Long Xuyên, vùng đất trũng phèn có diện tích gần 500.000 ha đất nông nghiệp vẫn còn hoang hóa nhiễm phèn, trong đó An Giang chiếm diện tích khá lớn chính là vùng đất chúng ta bỏ quên bấy lâu nay chưa khai phá. Đất không phụ người, chỉ sợ người phụ đất mà thôi”.

                    Thủ tướng Võ Văn Kiệt trong chuyến về thăm và làm việc tại An Giang trong hai ngày 21, 22-7-1996, đã đi thị sát cánh đồng Lạc Quới, kênh mương nội đồng vùng Tứ giác Long Xuyên. Thủ tướng đã chỉ thị: “Đề án quy hoạch thủy lợi vùng Tứ giác Long Xuyên cần nhanh chóng thực hiện vì nó sẽ giúp khu vực sử dụng được nguồn phù sa vô giá của lũ sông Cửu Long, chính nó sẽ đảm đương việc thoát lũ, rửa phèn khai phá đất nông nghiệp cho vùng Tứ giác Long Xuyên. Các Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Thủy lợi, Bộ Khoa học-Công nghệ và Môi trường cần nhanh chóng phối hợp lập kế hoạch xây dựng tuyến kênh thoát lũ ra Vịnh Thái Lan“.

                    Sau việc đào xong kênh T6, đưa nước từ Vĩnh Tế qua kênh Mới về biển Hà Tiên vào năm 1996. Đầu năm 1997, công trình chống lũ cấp bách kênh T5 – Tuần Thống, Luỳnh Quỳnh, Tân Thành – Lò Gạch, tuyến đê bờ nam Vĩnh Tế; hệ thống cống ngăn, xả lũ và 2 đập điều chỉnh lũ Tha La, Trà Sư; các cống ngăn mặn giữ ngọt thoát lũ ven biển… đã được cấp bách xây dựng theo Quyết định 159/TTg của Thủ tướng Chính phủ. Hàng loạt công trình thủy lợi phục vụ dẫn ngọt, tiêu chua, tiêu úng, xổ phèn, ngăn mặn và hàng vạn cây số bờ bao bảo vệ lúa hè thu được xây dựng đã góp phần quyết định vào việc phát triển nông nghiệp và các ngành kinh tế khác trong vùng. Trong đó, kênh T5 có ý nghĩa chiến lược, được khởi công giữa quý I đến cuối tháng 8-1997 là hoàn thành. Đây là công trình thủy lợi hoàn thành nhanh nhất trong lịch sử đào kênh ở Việt Nam. Ngày mùng 8 Tết Mậu Dần 1998 (nhằm ngày 4-2-1998), 50.000 ha đất hai tỉnh An Giang, Kiên Giang được ngọt hóa. Ngày mùng 9 Tết Mậu Dần khởi công nạo vét kênh Vĩnh Tế, điều tiết lũ cùng dòng Võ Văn Kiệt thoát lũ ra biển Tây. Chọn bờ Nam song song tuyến kênh hình thành những tuyến dân cư vượt lũ trên toàn tuyến. Đây là đại công trình thủy lợi gồm hệ thống các kênh T4, T5, T6 thoát lũ, dẫn ngọt, tháo chua, rửa phèn, khai hoang, phục hóa hàng trăm ngàn ha đất .

                    Những năm sau, cụm từ “lũ đẹp” bắt đầu xuất hiện và định nghĩa “sống chung với lũ “cũng từ đó hình thành, Từ một công trình thủy lợi đã mở mang diện tích sản xuất, giảm thiểu ngập lũ. Ổn định vững chắc hai vụ sản xuất đông xuân và hè thu; giảm thấp mức lũ chính vụ, tạo điều kiện phát triển sản xuất, giảm chi phí xây dựng các công trình hạ tầng cơ sở, giảm thiệt hại về người và của mùa lũ về. Từ đó, tạo thế đưa nước ngọt giàu phù sa từ sông Hậu vào kết hợp ngăn mặn, giữ ngọt, tháo chua rửa phèn, cải tạo đất sản xuất nông nghiệp, cải tạo môi trường nước, vệ sinh đồng ruộng phục vụ phát triển sản xuất, sinh hoạt của nhân dân trong vùng. Tất cả đã được kênh T5 đảm trách hiệu quả.

                     

                     

                    Tri Tôn, Tịnh Biên là những huyện khó khăn của tỉnh An Giang. Hệ thống thủy lợi nội đồng nối với “Kênh ông Kiệt” đã mang nguồn nước ngọt về ruộng. Bạn xem chùm ảnh cũ trong blog của tôi để rõ hơn cách làm. Giống lúa KĐM105 ngon cơm sinh trưởng phát triển tốt trên vùng đất hoang hóa được tưới đã mang lại niềm vui cho người nghèo. Các giống cây màu rau đậu trồng vụ khô sau khi thu hoạch lúa đã giúp nâng cao đời sống người dân. Khoa học kỹ thuật bám dân bám ruộng âm thầm nhưng hiệu quả làm đổi thay vùng Tri Tôn Tịnh Biên. Tôi đã có tám năm gắn bó với mảnh đất này. Đi đâu người dân cũng khen ông sáu Kiệt và ông bảy Nhị. Kênh ông Kiệt giữa lòng dân. Vùng đất hoang hóa sình lầy nay đã thành vựa lúa. Tỉnh An Giang nay đã thành vùng lúa sản lượng cao nhất nước. Tôi sang giảng dạy ở Campuchia đối diện với An Giang Kiên Giang ngắm nhìn các giống lúa OM các giống sắn KM sâu đậm trong lòng dân mà thương về những con người trượng nghĩa đất Nam Bộ, hiểu sâu xa thêm bài học an sinh xã hội và ổn định kinh tế. Ăn học chăm sóc sức khỏe chất lượng cuộc sống của người dân lao động vẫn là những câu hỏi và bài học lớn ám ảnh ở những vùng này

                     

                    KenhongKiet10

                     

                    Giống sắn ưu tú năng suất bột cao ngắn ngày đáp ứng yêu cầu cấp thiết sản xuất trong đề tài này là KM98-1, nay đã được bảo tồn và phát triển. Giống sắn KM440 tuyển chọn từ xử lý đột biến lý học 20.000 hạt sắn KM94 chọn lọc khô và ướt được ươm nẩy mầm và chiếu xạ đột biến bằng tia Gam ma nguồn Co 60 nay được trồng ở Tây Ninh, Đồng Nai và Phú Yên có liên quan hình ảnh và câu chuyên này.

                    ÔNG BẢY ÔNG KIỆT TRONG LÒNG TÔI

                    Bảy Nhị kênh ông Kiệt trong lòng tôi (ảnh tác giả chọn giống mì mới năng suất cao ngắn ngày ở vùng đất Tri Tôn,Tịnh Biên). Ông Bảy ông Kiệt đã lưu ấn tượng sâu sắc và sự tin cậy quý mến trong lòng tôi. “Kênh ông Kiệt” và vùng đất Nam Bộ đã là nôi nuôi dưỡng phát triển của các giống mì ngắn ngày KM98-1, KM140 đươc chọn tạo để đáp ứng nhu cầu né lũ nay đã phát triển rộng khắp toàn quốc.

                     

                     

                    Giống sắn KM140 đã nhận giải Nhất VIFOTECH Hội thi sáng tạo c kỹ thuật toàn quốc lần thứ 10. An Giang là nôi ứng dụng đầu tiên của Việt Nam và thế giới đối với những dòng khoai mì đột biến theo hướng ngắn ngày. Chúng tôi những người tạo chọn giống củ mì thật biết ơn kênh ông Kiệt và ông Bảy Nhị. Không có ông Bảy Nhị và kênh ông Kiệt thì củ mì ngắn ngày năng suất cao của tôi chẳng thể nào ra đời và phát triển nhanh như vậy.

                    Đề tài chọn tạo giống sắn ngắn ngày “né lũ” giúp tôi tiếp cận vùng đất hoang hóa, thấu hiểu những khổ cực của người dân nghèo vùng lũ và ấn tượng sâu sắc trong lòng tôi. SauXem tiếp >>

                      Dạy và học 11 tháng 6(11-06-2021)


                    DẠY VÀ HỌC 11 THÁNG 6
                    Hoàng Kim

                    CNM365 Tình yêu cuộc sốngTrận Vũ Hán lịch sử; Lê Quý Đôn tinh hoa; Nguyễn Du thời Tây Sơn; Kênh ông Kiệt giữa lòng dân; Thầy bạn trong đời tôi;Ngày 11 tháng 6 năm 1938, Trận Vũ Hán bắt đầu và kết thúc vào 4 tháng sau với chiến thắng về phía lục quân đế quốc Nhật Bản. Đây là một trong những trận lớn nhất, lâu nhất và dữ dội nhất trong Chiến tranh Trung-Nhật.. Ngày 11 tháng 6 năm 1963, Tu sĩ Phật giáo Thích Quảng Đức tự thiêu bằng xăng tại Sài Gòn để phản đối tình trạng tôn giáo tại Việt Nam Cộng hòa. Ngày 11 tháng 6 năm 1784, ngày mất Lê Quý Đôn, Bảng nhãn, nhà bác học thời Hậu Lê, Việt Nam (sinh năm 1726). Ngày 11 tháng 6 năm 1912, ngày sinh Phạm Hùng, Thủ tướng Việt Nam (mất năm 1988). Ngày 11 tháng 6 năm 2008, ngày mất Võ Văn Kiệt, Thủ tướng Việt Nam (sinh năm 1922). Bài chọn lọc ngày 11 tháng 6:Trận Vũ Hán lịch sử; Lê Quý Đôn tinh hoa; Nguyễn Du thời Tây Sơn; Kênh ông Kiệt giữa lòng dân; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/

                    LÊ QUÝ ĐÔN TINH HOA
                    Hoàng Kim

                    “Dẫu có bạc vàng trăm vạn lượng. Không bằng kinh sử một vài pho”.Lê Quý Đôn là danh sĩ tinh hoa, nhà bác học, nhà thơ lớn Việt Nam, quan đại thần thời Lê Trung Hưng. Lê Quý Đôn qua bài thơ ‘Gia Cát Lượng’ đã thể hiên tâm sự và chí hướng: “Long cương nằm khểnh hát nghêu ngao, Vì cảm ơn sâu biết tính sao! Hai biểu ra quân lòng đã tỏ, Tám đồ bày trận giá càng cao. Tam phân gặp buổi đương tranh vạc, Ngũ trượng ngờ đâu bỗng tối sao. Miếu cũ ngày nay qua tới đó, Tấc lòng khởi kính biết là bao! ” (Nguồn: Văn đàn bảo giám, NXB Văn học, 2004). Bài nghiên cứu này tìm tòi về Lê Quý Đôn tinh hoa, con người, sự nghiệp và bài học lịch sử.

                    Các nhà sử học, nhà văn học Việt Nam thường đồng tình với sự đánh giá của nhà sử học Phan Huy Chú lừng lẫy bách khoa thư : “Ông (Lê Quý Đôn) có tư chất khác đời, thông minh hơn người mà (vẫn) giữ tính nết thuần hậu, lại chăm học không biết mỏi. Tuy đỗ đạt vinh hiển, tay vẫn không rời quyển sách. Bình sinh (ông) làm sách rất nhiều. Bàn về kinh sử thì sâu sắc, rộng rãi, mà nói về điển cố thì đầy đủ rõ ràng. Cái sở trường của ông vượt hơn cả, nổi tiếng trên đời. Văn thơ ông làm ra gọi là Quế đường tập có mấy quyển” (trong “Nhân vật chí”). “Ông là người học vấn rộng khắp, đặt bút thành văn. Cốt cách thơ trong sáng. Lời văn hồn nhiên…, không cần suy nghĩ mà trôi chảy dồi dào như sông dài biển cả, không chỗ nào không đạt tới, thật là phong cách đại gia”. Nhiều nhà nghiên cứu đều tâm đắc nhận định ” (Lê Quý Đôn là ) nhà bác học ham đọc, ham biết và ham viết” , “một nhà bác học có kiến thức hết sức uyên bác và đa dạng”.

                    Lê Quý Đôn không chì là nhà bác học lớn nhà thơ lớn mà trước hết trên hết ông còn là một danh sĩ tinh hoa, một đại quan rất được triều đình Lê Trịnh và người đương thời kính trọng. Lê Quý Đôn con người và sự nghiệp ấy không chỉ là trước tác mà còn là triều đại. Ông cho tới lúc mất còn được truy tặng hàm Công bộ Thượng thư tước Dĩnh Quận công.

                    Lê Quý Đôn kính trọng Gia Các Lượng xưa cúc cung tận tuy cho triều đại thời mình. Việc Lê Quý Đôn sau khi đi sứ về nhất định từ quan lui về viết sách đã thể hiện tầm nhìn và ngôn chí của ông. Bài viết ‘Gia Cát Lượng’ soi thấu nhiều điều sâu sắc của một danh sĩ tinh hoa.

                    Giáo sư Văn Tân ở Viện Sử học đánh giá thật xác đáng: “Lê Quý Đôn không chỉ là nhà bác học và nhà thơ tài danh, ông còn là một nhà trí thức muốn có những cải cách trong xã hội Việt Nam; một nhà chính trị quan tâm đến nhân dân, gần gũi nhân dân, và hiểu những mong muốn của nhân dân; một danh sĩ tinh hoa cấp tiến có tư tưởng tự tôn và tự hào dân tộc Việt Nam”.

                    Chuyên luận ‘Lê Quý Đôn với Phật Giáo‘ của Thích Nhuận Thịnh cho thấy “Qua nghiên cứu thiên Thiền dật của Lê Quý Đôn, điều chúng ta có thể khẳng định ngay rằng, ông là một Nho sĩ có thiện cảm với Phật giáo“;

                    Thời thế và cuộc đời Lê Quý Đôn sáng tỏ góc khuất trong sự nghiệp của ông.

                    LÊ QUÝ ĐÔN CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIIỆP

                    Lê Quý Đôn (1726 – 1784), tên thuở nhỏ là Lê Danh Phương, tự Doãn Hậu, hiệu Quế Đường là đại quan, bác học, nhà thơ lớn thời Lê trung hưng. Lê Quý Đôn sinh ngày 5 tháng 7 năm Bính Ngọ (2 tháng 8 năm 1726) tại làng Diên Hà, huyện Diên Hà, trấn Sơn Nam; nay thuộc xã Độc Lập, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình. Ông là con trai cả của ông Lê Phú Thứ (sau đổi là Lê Trọng Thứ), đỗ Tiến sĩ năm Bảo Thái thứ 2 (Giáp Thìn, 1721), và làm quan trải đến chức Hình bộ Thượng thư, tước Nghĩa Phái hầu. Mẹ Lê Quý Đôn họ Trương (không rõ tên), là con gái thứ ba của Trương Minh Lượng, đỗ Tiến sĩ khoa Canh Thìn (1700), trải nhiều chức quan, tước Hoằng Phái hầu.  Lê Quý Đôn thuở nhỏ tư chấtthông minh nổi tiếng “thần đồng”, 5 tuổi đã đọc được nhiều bài trong Kinh Thi, 12 tuổi, đã học “khắp kinh, truyện, các sử, các sách của bách gia chư tử”. Giai thoại lưu truyền bài “Rắn đầu biếng học ” của ông. Chuyện rằng, một hôm, Tiến sĩ Vũ Công Trấn đến thăm Tiến sĩ Lê Phú Thứ là người bạn cùng đỗ Tiến sĩ khoa Giáp Thìn 1724. Nghe con bạn là Lê Quý Đôn nhỏ tuổi hay chữ, nên ông Trấn lấy đầu đề “Rắn đầu biếng học” để thử tài. Ít phút sau, Lê Quý Đôn đã làm xong bài thơ dưới đây:

                    Chẳng phải “liu điu” vẫn giống nhà!
                    “Rắn đầu” biếng học lẽ không tha
                    Thẹn đèn “hổ lửa” đau lòng mẹ,
                    Nay thét “mai gầm” rát cổ cha.
                    “Ráo” mép chỉ quen tuồng lếu láo,
                    “Lằn”
                    lưng cam chịu vệt năm ba.
                    Từ nay “Trâu” Lỗ xin siêng học,
                    Kẻo “hổ mang” danh tiếng thế gia!

                    Bài thơ  ý tứ cao kỳ, mỗi câu có tên một loài “rắn”

                    Lê Quý Đôn năm Kỷ Mùi theo cha lên học ở kinh đô Thăng Lon, năm Quý Hợi (đời vua Lê Hiển Tông, ông dự thi Hương và đỗ đầu (Giải nguyên) lúc 17 tuổi. Sau đó, ông cưới cô Lê Thị Trang ở phường Bích Câu làm vợ. Cô là con gái thứ 7 của Lê Hữu Kiều, tiến sĩ khoa Mậu Tuất (1718). Ông dạy học và viết sách trong khoảng thời gian 1743–1752 và viết sách Đại Việt thông sử (còn gọi là “Lê triều thông sử”) Năm 26 tuổi (Nhâm Thân, 1752), ông dự thi Hội đỗ Hội nguyên, vào thi Đình, đỗ Bảng nhãn. Vì kỳ thi này không lấy đỗ Trạng nguyên, nên kể như cả ba lần thi, ông đều đỗ đầu.

                    Lê Quý Đôn sau khi đỗ đại khoa, năm Quý Dậu (1753),  được bổ làm Thị thư ở Viện Hàn Lâm, rồi sung làm Toản tu quốc sử vào mùa xuân năm Giáp Tuất (1754). Năm Bính Tý (1756), ông được cử đi thanh tra ở trấn Sơn Nam, phát giác “6, 7 viên quan ăn hối lộ”. Tháng 5 năm đó, ông được biệt phái sang phủ chúa coi việc quân sự (chức Tri Binh phiên). Ba tháng sau, ông được cử đi hiệp đồng các đạo Sơn Tây, Tuyên Quang, Hưng Hóa…rồi đem quân đi đánh quân của Hoàng Công Chất. Năm Đinh Sửu (1757), ông được thăng làm Hàn lâm viện Thị giảng. Trong năm này, ông viết Quần thư khảo biện. Năm Kỷ Mão (1759), vua Lê Ý Tông mất, triều đình cử ông làm Phó sứ, tước Dĩnh Thành bá, để cùng với Lê Duy Mật, Trịnh Xuân Chú cầm đầu phái đoàn sang nhà Thanh (Trung Quốc) báo tang và nộp cống (1760). Trên đường sang Yên Kinh (nay là Bắc Kinh), Lê Quý Đôn thấy các quan lại nhà Thanh có thói quen gọi đoàn sứ của nước Đại Việt (Nay là Việt Nam) là “di quan, di mục” (quan lại mọi rợ), ông lên tiếng phản đối, từ đấy họ mới gọi là “An Nam cống sứ”. Ông trong chuyến đi này đã được các quan lớn triều Thanh như Binh bộ Thượng thư Lương Thi Chinh, Công bộ Thượng thư Quy Hữu Quang và nhiều nho thần khác tìm đến thăm. Lê Quý Đôn tại điện Hồng Lô, đã  gặp đoàn sứ thần Triều Tiên do Hồng Khải Hi đứng đầu. Tại đây ông đã làm thơ với sứ thần Triều Tiên và các đại quan triều Thanh và cho họ xem ba tác phẩm của mình là Thánh mô hiền phạm lục, Quần thư khảo biệnTiêu Tương bách vịnh Tài văn chương và ứng đáp của ông làm cho họ tôn trọng và khen ngợi.

                    Lê Quý Đôn sau khi đi sứ về nước năm Nhâm Ngọ, (1762), được thăng chức Thừa chỉ Viện Hàn Lâm, rồi làm Học sĩ ở Bí thư các.Năm Quý Mùi (1763), ông viết Bắc sứ thông lục và  được cử coi thi Hội. Năm Giáp Thân (1764), ông dâng sớ xin thiết lập pháp chế, vì thấy một số quan lại lúc bấy giờ “đã quá lạm dụng quyền hành, giày xéo lên pháp luật”, nhưng không được chúa nghe. Cũng trong năm đó, ông được cử làm Đốc đồng xứ Kinh Bắc, rồi đổi làm Tham chính xứ Hải Dương năm Ất Dậu (1765), song ông dâng sớ không nhận chức và xin về hưu. Theo Phan Huy Chú, lời sớ đại khái rằng: “Tấm thân từng đi muôn dặm còn sống về được, lại gặp cảnh vợ chết, con thơ phiêu bạt chỗ giang hồ, thần thực không thích làm quan nữa, xin cho về làng.” Được chấp thuận, ông trở về quê “đóng cửa, viết sách”. Đầu năm Đinh Hợi (1767), chúa Trịnh Doanh qua đời, Trịnh Sâm lên nối ngôi. Nghe theo lời tâu của Nguyễn Bá Lân, chúa cho triệu Lê Quý Đôn về triều, phong làm chức Thị thư, tham gia biên tập quốc sử, kiêm Tư nghiệp Quốc tử giám.lên vua Lê Hiển Tông đọc. Tháng 9 năm đó, ông được cử làm Tán lý quân vụ trong đội quân của Nguyễn Phan (tước Phan Phái hầu) đi dẹp cuộc nổi dậy của Lê Duy Mật ở Thanh Hóa. Năm Mậu Tý (1768), ông làm xong bộ Toàn Việt thi lục, dâng lên chúa Trịnh. Năm Kỷ Sửu (1769), ông dâng khải xin lập đồn điền khẩn hoang ở Thanh Hóa. Năm Canh Dần (1770), bàn đến công lao đánh dẹp, ông được thăng làm Hữu thị lang bộ Hộ, kiêm Thiêm đô Ngự sử. Mùa thu năm ấy, ông và Đoàn Nguyễn Thục nhận lệnh đi khám duyệt hộ khẩu ở xứ Thanh Hóa. Xong việc trở về, ông tâu xin tha bớt các thuế thổ sản, thủy sản cho các huyện và thuế thân còn thiếu. Chúa Trịnh liền giao cho triều đình bàn và thi hành. Ít lâu sau, ông được thăng Tả thị lang bộ Lại. Khi lãnh trọng trách này, ông có tâu trình lên bốn điều, được chúa khen ngợi, đó là: 1) Sửa đổi đường lối bổ quan. 2) Sửa đổi chức vụ các quan. 3) Sửa đổi thuế khóa nhà nước. 4) Sửa đổi phong tục của dân. Năm Nhâm Thìn (1772), ông được cử đi điều tra về tình hình thống khổ của nhân dân và những việc nhũng lạm của quan lại ở Lạng Sơn. Năm Quý Tỵ (1773) đại hạn, ông tâu trình 5 điều, đại lược nói: “Phương pháp của cổ nhân đem lại khí hòa, dẹp tai biến, cốt lấy lễ mà cầu phúc của thần, lấy đức mà khoan sức dân” . Chúa nghe theo, bổ ông làm Bồi tụng (Phó Tể tướng), giữ việc dân chính, kiêm quản cơ Hữu hùng, tước Dĩnh Thành hầu. Trong năm này, ông viết Vân đài loại ngữ.

                    Lê Quý Đôn được cử giữ chức Lưu thủ ở Thăng Long tháng 10 năm Giáp Ngọ (1774), khi chúa Trịnh Sâm thân chinh mang quân đánh Thuận Hóa. Đầu năm Ất Mùi (1775), tướng Hoàng Ngũ Phúc đánh chiếm được Thuận Hóa. Tháng 2 năm đó, chúa Trịnh trở về kinh, rồi thăng ông làm Tả thị lang bộ Lại kiêm Tổng tài Quốc sử quán. Cũng trong năm đó xảy ra vụ Lê Quý Kiệt (con Lê Quý Đôn) đổi quyển thi với Đinh Thời Trung bị phát giác, cả hai đều bị tội. Vì là đại thần, Lê Quý Đôn được miễn nghị . Năm Bính Thân (1776), chúa Trịnh Sâm đặt ty trấn phủ ở Thuận Hóa. Lê Quý Đôn được cử làm Hiệp trấn Tham tán quân cơ, để cùng với Đốc suất kiêm Trấn phủ Bùi Thế Đạt tìm cách chống lại quân Tây Sơn. Tại đây, ông soạn bộ Phủ biên tạp lục. Ít lâu sau, ông được triệu về làm Thị lang bộ Hộ, kiêm chức Đô ngự sử  Năm Mậu Tuất (1778), được cử giữ chức Hành tham tụng, nhưng ông từ chối và xin đổi sang võ ban. Chúa Trịnh chấp thuận, cho ông làm Tả hiệu điểm quyền Phủ sự (quyền như Tể tướng, tạm coi việc phủ chúa), tước Nghĩa Phái hầu. Tháng 4 năm đó, Lê Thế Toại dâng bài khải công kích Lê Quý Đôn. Năm sau (1779), ông lại bị Hoàng Văn Đồng tố cáo, nên bị giáng chức. Năm Tân Sửu (1781), ông lại được giữ chức Tổng tài Quốc sử quán. Tháng 9 năm Nhâm Dần (1782), chúa Trịnh Sâm qua đời, Trịnh Cán được nối ngôi chúa. Chỉ vài tháng sau, quân tam phủ nổi loạn giết chết Quận Huy (Hoàng Đình Bảo), phế bỏ Trịnh Cán và Đặng Thị Huệ (vợ chúa Trịnh Sâm, mẹ Trịnh Cán), lập Trịnh Khải làm chúa. Nhớ lại hiềm riêng, Nguyễn Khản nói với chúa Trịnh Khải giáng chức Lê Quý Đôn]. Đầu năm Quý Mão (1783), ông nhận lệnh đi làm Hiệp trấn xứ Nghệ An. Ít lâu sau, ông được triệu về triều làm Thượng thư bộ Công  Trong bối cảnh kiêu binh gây rối, triều chính rối ren, nhân dân đói khổ,…Lê Quý Đôn lâm bệnh nặng. Sau đó, ông xin về quê mẹ là làng Nguyễn Xá (huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam) để chữa trị, nhưng không khỏi. Ông mất ngày 14 tháng 4 năm Giáp Thìn niên hiệu Cảnh Hưng thứ 45 (tức 11 tháng 6 năm 1784), lúc 58 tuổi. Thương tiếc, chúa Trịnh Tông (tức Trịnh Khải) đã đề nghị với vua Lê Hiển Tông cho bãi triều ba ngày, cử Bùi Huy Bích làm chủ lễ tang, đồng thời cho truy tặng Lê Quý Đôn hàm Công bộ Thượng thư. Đến khi vua Lê Chiêu Thống nắm quyền chính, ông được gia tặng tước Dĩnh quận công.

                    LÊ QUÝ ĐÔN VĂN CHƯƠNG NẾT ĐẤT

                    Lê Quý Đôn là nhà bác học lớn thời Lê mạt đã lưu lại một khối lượng tác phẩm thật đồ sộ, nổi bật nhất là các bộ sách:

                    1) Kiến văn tiểu lục (12 quyển), là những ghi chú nhỏ của Lê Quý Đôn (mà tiếng Anh ngày nay gọi là Notes) . Đó là Lê Quý Đôn tận mắt nhìn thấy, tai nghe, hoặc đọc được, và ông thật sự tâm đắc lưu ngay lại điều không nỡ quên này. Lê Quý Đôn chức quan như Phó Thủ Tướng Chính phủ ngày nay việc quan thật trọng trách và bận rộn. Tập bút ký này của Lê Quý Đôn thật sự quan trọng và quý giá nói về lịch sử và văn hóa Việt Nam từ đời Trần đến đời Lê. Kiến văn tiểu lục là tác phẩm lớn, được chiêm nghiệm, biên soạn thật công phu và nghiêm cẩn, phản ánh trình độ học vấn uyên bác của Lê Quý Đôn. Sách đề cập tới nhiều lĩnh vực thuộc chế độ các vương triều Lý, Trần, từ thành quách, núi sông, đường xá, thuế má, phong tục tập quán, sản vật, mỏ đồng, mỏ bạc và cách khai thác, cho tới các lĩnh vực như thơ văn, sách vở… vớí nhiều lĩnh vực rất phong phú.

                    2) Đại Việt thông sử, còn gọi Lê triều thông sử, là bộ sử được viết theo thể ký truyện, chép sự việc theo từng loại, từng điều một cách hệ thống, bắt đầu từ Lê Thái Tổ qua Lê Thái Tông, Lê Thánh Tông, Lê Hiến Tông, Lê Thuần Tông, Lê Uy Mục, Lê Tương Dực, Lê Chiêu Tông đến Cung Hoàng, trải qua mười đời vua, nếu kể cả Lê Nghi Dân thì là mười một đời vua, bao quát một thời gian hơn 100 năm của triều Lê, trong đó chứa đựng nhiều tài liệu mới mà các bộ sử khác không có, đặc biệt là về cuộc kháng chiến chống quân Minh. Đại Việt thông sử rất có ích cho những người làm công tác nghiên cứu lịch sử dân tộc, cụ thể là lịch sử dân tộc hồi thế kỷ XVI – XVII.

                    3) Phủ biên tạp lục là tài liệu hệ thống hóa tình hình xã hội Đàng Trong từ thế kỷ thứ 18 trở về trước, để tìm kế sách an dân mà Lê Quý Đôn gọi là Phủ tức là phủ dụ “vổ yên trăm họ” . Bộ sásh này được viết trong thời gian Lê Quý Đôn làm quan Hiệp Trấn Thuận Hoá, tại vùng đất vốn trước đó là trung tâm chính trị toàn xứ Đàng Trong. Lê Quý Đôn đã tổ chức công việc biên soạn, cần cù làm việc, ghi chép cẩn trọng tỷ mỷ, đối chiếu xác minh chỉnh lí đúc kết hệ thống hóa tất cả những thông tin quan trọng về chính trị quân sự kinh tế văn hóa xã hội của xứ Đàng Trong tại tất cả các trấn, phủ, huyện, châu, tổng, xã, thuộc, trang, về chế độ công, tư điền, về lệ thuế khóa giáo dục, thi cử … Kết quả đúc kết hệ thống này đã tạo nên toàn cảnh của xứ Đàng Trong, về vai trò lịch sử của các chúa Nguyễn đối với đất phương Nam. Bộ sách này có giá trị to lớn mà chúng ta còn lưu giữ được đến ngày hôm nay, mà bất cứ người nào làm công tác nghiên cứu sử học và văn hoá học Việt Nam cũng đều đánh giá rất cao. Sau này ở Gia Định có Trịnh Hoài Đức là quan Hiệp trấn cũng đã viết bộ “Gia Định thành thông chí” hệ thống hóa thông tin Đàng Trong tương tự cách làm của Lê Quý Đôn.

                    4) Vân đài loại ngữ gồm 9 quyển, là “bách khoa thư” đồ sộ nhất thời Trung đại Việt Nam, tập hợp các tri thức về triết học, khoa học, văn học… sắp xếp có hệ thống theo Vũ trụ luận, địa lý, điển lệ, chế độ, văn nghệ, ngôn ngữ, văn tự, sản vật tự nhiên, xã hội… Vân đài loại ngữ là bộ sách đạt tới trình độ phân loại, hệ thống hóa, khái quát hóa khá cao, đánh dấu một bước tiến bộ vượt bậc đối với nền khoa học Việt Nam thời phong kiến, Tên sách Vân Đài Loại Ngữ được giảng nghĩa: Vân: là một loài cỏ có mùi thơm rất quyến rũ, gọi tên là cỏ vân hương. Đài : là cái đài, là nơi cao hơn hẳn. Đài là ngôi nhà cao có thể ngắm khắp bốn phương. Loại: là loài, là từng giống riêng. Ngoài ra, chữ loại cũng có nghĩa là sự tốt lành.
                    Ngữ : là lời nói, câu nói nhưng ở đây có nghĩa là lời nói đã bao hàm đầy đủ ý nghĩa tinh vi.

                    5) Toàn Việt thi lục với 6 quyển, được hoàn thành vào năm 1768, tuyển chọn 2.000 bài thơ của 175 tác giả từ thời Lý đến đời Lê

                    6) Quế Đường thi tập, gồm 4 quyển tích hợp vài trăm bài làm ở trong nước và trong thời gian đi sứ ở Trung Quốc. Quế Đường thi tập Thi Viện có giới thiệu 225 bài thơ sáng tác bằng Hán văn. Tập thơ lần đầu tiên được tuyển chọn và dịch (44 bài) sang tiếng Việt năm 1976 do Ty Thông tin văn hoá Thái Bình ấn hành. Các bài thơ trong tập sách ( gồm 4 phần: Phiên âm (không có nguyên tác chữ Hán đi kèm); Dịch nghĩa; Dịch thơ và Chú thích) do nhà Hán học Đào Phương Bình thực hiện.

                    6) Quần thư khảo biện, Thánh mô hiền phạm lục và các tác phẩm khác (*) … là những tác phẩm chứa đựng nhiều quan điểm triết học, lịch sử, chính trị. do Lê Quý Đôn biên soạn, Theo Phan Huy Chú thì Lê Quý Đôn còn có Quế Đường văn tập, gồm 4 quyển, nhưng sách này đã mất.

                    (*) Dương Quảng Hàm đánh giá: Lê Quý Đôn thật là một nhà bác học ở đời Lê mạt: một tay ông đã biên tập, trứ thuật rất nhiều sách. Tác phẩm của ông tuy đã thất lạc ít nhiều, nhưng những bộ còn lưu lại cũng là một cái kho tài liệu để ta khảo cứu về lịch sử, địa dư và văn hóa của nước Việt. Các tác phẩm chữ Hán của Lê Quý Đôn có thể chia ra làm 5 loại 1.) Các sách bàn giảng về kinh, truyện như:
                    Dịch kinh phu thuyết (Lời bàn nông nổi về Kinh Dịch), gồm 6 quyển.Thư kinh diễn nghĩa (Giảng nghĩa Kinh Thư), gồm 3 quyển, đã được khắc in, có tựa của tác giả đề năm 1772. Xuân thu lược luận (Bàn tóm lược về kinh Xuân thu). 2. Các sách khảo cứu về cổ thư như:  Quần thư khảo biện (Xét bàn các sách), gồm 4 quyển, đã khắc in, có tựa của tác giả (đề năm 1757), của Chu Bội Liên (người nhà Thanh) và của Hồng Hải Hi (sứ Triều Tiên đề năm 1761). Thánh mô hiền phạm lục (Chép về mẫu mực của các bậc thánh hiền), gồm 12 quyển, có tựa của Chu Bội Liên và Hồng Khải Hi đề năm 1761; Vân Đài loại ngữ (Lời nói, chia ra từng loại, ở nơi đọc sách), gồm 4 quyển, viết năm 1773. Sách chia làm 9 mục, mỗi mục lại chia làm nhiều điều. Trong mỗi mục, tác giả trích dẫn các sách Trung Hoa (cổ thư, ngoại thư) nhiều quyển hiếm có, rồi lấy ý riêng của mình mà bàn. Xem sách này thì biết tác giả đã xem rộng đọc nhiều. 3. Các sách sưu tập thi văn như : Toàn Việt thi lục (Chép đủ thơ nước Việt), gồm 20 quyển (theo Phan Huy Chú), nhưng hiện còn 15 quyển. Sách do ông phụng chỉ biên tập, dâng lên vua Lê Hiển Tông xem năm 1768. Trong sách sưu tập thơ của các thi gia Việt Nam từ đời Lý đến đời Hậu Lê….Đây là một quyển sách quý để khảo cứu về tiểu sử và tác phẩm của các thi gia. Hoàng Việt văn hải (Bể văn ở nước Việt của nhà vua), là sách sưu tập các bài văn hay.4)  Các sách khảo về sử ký địa lý như  Đại Việt thông sử (còn gọi là “Lê triều thông sử”), gồm 30 quyển (theo Phan Huy Chú), viết năm 1749. Đây là bộ sử được viết theo thể kỷ truyện (chỉ có phần Bản kỷ là chép theo lối biên niên) chép từ thời vua Lê Thái Tổ (Lê Lợi) đến vua Lê Cung Hoàng (theo Phàm lệ của tác giả). Tuy nhiên, hiện nay chỉ còn truyền lại mấy phần là: -Đế kỷ (2 quyển), chép từ năm Lê Lợi khởi nghĩa (1418) đến năm ông mất (1433). -Nghệ văn chí (1 quyển), chép về sách vở văn chương. Liệt truyện (11 quyển), chép về các Hậu phi, Hoàng tử, Danh thần (đời vua Lê Thái Tổ) và Nghịch thần (từ cuối đời nhà Trần đến nhà Mạc); Quốc triều tục biên, gồm 8 quyển, chép theo thể biên niên, từ Lê Trang Tông (1533) đến Lê Gia Tông (1675), chép việc kỹ lưỡng, bổ sung chỗ còn thiếu trong sử cũ. Theo Dương Quảng Hàm, sách này đã thất lạc;.Bắc sứ thông lục (Chép đủ việc khi đi sứ sang Trung Quốc), 4 quyển, làm năm 1763. Trong sách ghi chép các công văn, thư từ, núi sông, đường sá, chuyện trò, đối ứng trong khi đi sứ (1760-1762); Phủ biên tạp lục (chép lẫn lộn về chính trị cõi biên thùy), gồm 6 quyển, làm khi tác giả được cử làm Hiệp trấn Tham tán quân cơ ở phủ Thuận Hóa (1776). Trong sách biên chép khá tường tận xã hội xứ Đàng Trong (nhất là xứ Thuận Hóa và xứ Quảng Nam) ở thế kỷ 18; Kiến văn tiểu lục (Chép vặt những điều thấy nghe), gồm 12 quyển, có tựa của tác giả đề năm 1777. Đây là tập bút ký nói về lịch sử và văn hóa Việt Nam từ đời Trần đến đời Lê. Trong sách, tác giả đã đề cập tới nhiều lĩnh vực thuộc chế độ các vương triều Lý, Trần, từ thành quách núi sông, đường xá, thuế má, phong tục tập quán, sản vật, mỏ đồng, mỏ bạc và cách khai thác cho tới các lĩnh vực thơ văn, sách vở; Âm chất văn chú, gồm 2 quyển, đã khắc in, chép các bài huấn chú của các nhà ở Trung Quốc, có kèm theo lời đính chính của tác giả; Danh thần lục, gồm 2 quyển, chép công việc của các danh thần các triều; 5. Thơ văn Liên châu thi tập, gồm 4 quyển, chép thơ của Lê Quý Đôn cùng các thi gia khác, và những bài trả lời của các thi sĩ nhà Thanh và Cao Ly làm khi ông đi sứ sang Trung Quốc;Quế Đường thi tập (Tập thơ Quế Đường), gồm 4 quyển; Quế Đường văn tập (tập văn Quế Đường), gồm 3 quyển.Về văn Nôm, hiện nay còn: Bài “khải” viết bằng văn xuôi chép trong Bắc sứ thông lục.

                    Những chỉ dấu Sách tham khảo để tìm hiểu sâu hơn về Lê Quý Đôn bao gồm

                    • Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí (tập 1 [mục Nhân vật chí] và tập 3 [mục Văn tịch chí]). Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 1992.
                    • Dương Quảng Hàm, Việt Nam văn học sử yếu (bản in lần thứ 10). Trung tâm học liệu xuất bản, Sài Gòn, 1986,
                    • Thanh Lãng, Bảng lược đồ văn học Việt Nam, quyển thượng, Nxb. Trình bày, Sài Gòn, không ghi năm xuất bản.
                    • Nguyễn Lộc, mục từ “Lê Quý Đôn” trong Từ điển Văn học (bộ mới), Nxb. Thế giới, 2004.
                    • Bùi Hạnh Cẩn, Lê Quý Đôn. Nxb Văn hóa, 1985.
                    • Trịnh Vân Thanh, Thành ngữ điển tích danh nhân từ điển (tập 1). Nxb Hồn Thiêng, Sài Gòn, 1966.
                    • Văn Tân, “Con người và sự nghiệp Lê Quý Đôn” in trong Tổng tập dư địa chí Việt Nam (tập 3). Nxb Thanh Niên, 2012.
                    • Nhóm biên soạn sách Phủ biên tạp lục, “Tiểu sử Lê Quý Đôn”, in trong Tổng tập dư địa chí Việt Nam (tập 3). Nxb Thanh Niên, 2012.
                    • Trần Văn Giáp, Tìm hiểu khoa sách Hán Nôm (trọn bộ). Nxb Khao học xã hội, 2003.
                    • Nguyễn Đăng Thục, Lịch sử tư tưởng Việt Nam (tập 6, phần “Tiểu sử Lê Quý Đôn”). Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1992.
                    • Nguyễn Thạch Giang (chủ biên), Văn học thế kỷ 18. Nxb Khoa học xã hội, 2004.
                    • Nguyễn Q. Thắng – Nguyễn Bá Thế, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam. Nxb Khoa học xã hội, 1992.

                    LÊ QUÝ ĐÔN QUẾ ĐƯỜNG THI TẬP

                    Quế Đường thi tập là trước tác của học giả Lê Quý Đôn, bao gồm 225 bài thơ sáng tác bằng Hán văn. Tập thơ lần đầu tiên được tuyển chọn và dịch (44 bài) sang tiếng Việt năm 1976 do Ty Thông tin văn hoá Thái Bình ấn hành. Các bài thơ trong tập sách ( gồm 4 phần: Phiên âm (không có nguyên tác chữ Hán đi kèm); Dịch nghĩa; Dịch thơ và Chú thích) do nhà Hán học Đào Phương Bình thực hiện. Theo Thi Viện đúc kết trích dẫn theo đường link dưới đây để hổ trợ nghiên cứu dịch thuật thơ văn Lê Quý Đôn

                    1. Bắc Trấn hỷ vũ
                    2. Cổ Lộng thành
                    3. Do bản quốc phụ nữ phiêu bạt nội địa hữu cảm, thứ Huệ Hiên vận
                    4. Du độ Kiển thiệp tiểu giản đắc bình địa kỳ 1
                    5. Du độ Kiển thiệp tiểu giản đắc bình địa kỳ 2
                    6. Dũng Liệt giang thượng
                    7. Đại Đăng xuyên
                    8. Đăng Xuyên Sơn nham
                    9. Đề Chích Trợ sơn
                    10. Để Dương Châu đăng chu
                    11. Đề Từ Thức động
                    12. Độ Lương Phúc tiểu giang
                    13. Độ Thiên Đức giang
                    14. Đông Cứu sơn
                    15. Giản Triều Tiên quốc sứ Hồng Khải Hy, Triệu Vinh Tiến, Lý Huy Trung
                    16. Khách trung nguyên đán – Tân Tỵ minh niên
                    17. Kinh Quán Nẫm thiệp tiểu giản thuỷ đăng sơn lộ
                    18. Liên nhật âm vũ ngẫu thư
                    19. Phụng chỉ Nam hoàn chú Thông Châu
                    20. Quan Đại Bi tự
                    21. Tảo độ Hà Kiều ngọ, tại Cảnh Châu Đông Quang dịch mạn đề bích gian
                    22. Thị Hạ Dã ngâm khoáng hữu cảm
                    23. Thị Xuân Lai đê hựu túc Phổ Lộng
                    24. Thôn xá dạ toạ
                    25. Thứ Kiệm Đường phụng chỉ nghinh sứ thần tứ chương
                    26. Trú Hoà Lạc
                    27. Trú Hoài An phỏng Hoài Âm hầu điếu đài
                    28. Vọng Thanh Hoa nhất đới duyên sơn ngẫu thành

                    LÊ QUÝ ĐÔN TINH HOA

                    Lê Quý Đôn tinh hoa lưu lại đây một ít ghi chú và cảm nhận lắng đọng nhất về bậc danh sĩ tinh hoa, nhà bác học và là nhà thơ lớn này. Lê Quý Đôn cuộc đời và sự nghiệp đã tỏa sáng từ thuở tài năng thần đồng cho tới khi ông được thỏa chí, trãi qua các chặng đường hoạn lộ thăng trầm tùy vua giỏi vua mạt và thời cuộc chuyển biến, cho tới khi vận hạn nhà Hậu Lê Trịnh leo lét như ngọn đèn trước gió. Lê Quý Đôn đã biết cách hành xử lỗi lạc và trọng tâm trước tác để minh triết bảo thân không bị cuốn vào vòng xoáy nghịch cảnh của Hoài Âm Hầu.

                    Kiệt tác
                    Trú Hoài An phỏng Hoài Âm hầu điếu đài ý tứ của ông sâu xa và khéo lạ lùng:

                    Xem tiếp >>

                      Dạy và học 10 tháng 6(10-06-2021)


                    Que em

                    DẠY VÀ HỌC 10 THÁNG 6
                    Hoàng Kim

                    CNM365 Tình yêu cuộc sốngChuyện cổ tích người lớn; Sắn Việt Nam bài học quý; Về với vùng cát đá; Về với vùng văn hóa; Thầy bạn trong đời tôi; Câu chuyện ảnh tháng Sáu. Ngày 10 tháng 6 năm 323 TCN là ngày mất của Alexandros Đại Đế một trong những chiến lược gia quân sự vĩ đại nhất trong lịch sử thế giới (sinh năm 356 TCN). Ngày 10 tháng 6 năm 1829 ,Cuộc đua thuyền đầu tiên giữa Đại học Oxford và Đại học Cambridge diễn ra trên sông Thames tại Luân Đôn, Anh. Ngày 10 tháng 6 năm 1965 . Chiến tranh Việt Nam: Quân Giải phóng tiến công quân Việt Nam Cộng hòa tại Đồng Xoài; Bài chọn lọc ngày 10 tháng 6: Chuyện cổ tích người lớn; Sắn Việt Nam bài học quý; Về với vùng cát đá; Về với vùng văn hóa; Thầy bạn trong đời tôi; Câu chuyện ảnh tháng Sáu. Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/

                    CHUYỆN CỔ TÍCH NGƯỜI LỚN
                    Hoàng Kim

                    Hoa Đất thương lời hiền;
                    Lời dặn của Thánh Trần;
                    Nguyễn Trãi Dục Thúy Sơn;
                    Đặng Dung thơ Cảm hoài;

                    Ngày xuân đọc Trạng Trình;
                    Nguyễn Du trăng huyền thoại;
                    Tô Đông Pha Tây Hồ;
                    Kim Dung trong ngày mới;

                    Đào Duy Từ còn mãi
                    Đồng xuân lưu dấu hiền;
                    Đỗ Phủ thương đọc lại;
                    Châu Văn Tiếp Phú Yên;

                    Nha Trang và A. Yersin;
                    Cao Biền trong sử Việt;
                    Nguyễn Hiến Lê sao sáng;
                    Thương Kim Thiếp Vũ Môn;

                    A Na bà chúa Ngọc;
                    An Viên Ngọc Quan Âm;
                    Chuyện cổ tích người lớn;
                    Chuyện đồng dao cho em

                    CNM365 Tình yêu cuộc sống
                    27 đường link kiên kết
                    Nguồn:
                    https://hoangkimlong.wordpress.com/category/chuyen-co-tich-nguoi-lon/

                    Lời dặn của Thánh Trần là “khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước”.Đọc lại thật sâu sắc! Tôn tử binh pháp thiên thứ nhất, trang đầu là “Tính toán”. Tôn Tử nói: Chiến tranh là việc lớn quốc gia, là việc sống chết của nhân dân, là sự mất còn của một nước, không thể không xem xét cẩn thận. Cho nên phải cân nhắc năm yếu tố, phải tính toán, so đo mà tìm hiểu thực tình của đôi bên: Thứ nhất là đạo nghĩa; thứ hai là thời trời; thứ ba là địa lợi; thứ tư là chủ tướng; thứ năm là pháp chế. Chỉ nói đến trí thức tinh hoa, tinh thần ái quốc và sức mạnh toàn dân thì chỉ mới tính toán so đo thứ nhất là đạo nghĩa. Chỉ nói đến tài năng và tôn vinh cụ thể một con người như Napoleon chẳng hạn thì chỉ mới tính toán so đo thứ tư là chủ tướng. Chính vì vãy Napoleon khi thua trận bị nhốt ngoài đảo mới thốt lên: Tiếc thay trước đây ta chưa đọc sách này (Tôn Tử binh pháp) và Cụ Hồ trước khi thành lập đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân đã nghiền ngẫm dịch Tôn Tử binh pháp, học lại thật kỹ Lịch sử Việt Nam và chọn nơi khởi binh ở làng Quốc Tuấn. .

                    Quốc Công Tiết chế Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn mất ngày 20 tháng 8 âm lịch năm 1300. Người được dân Việt tôn kính gọi là Đức Thánh Trần và thường dâng lễ tạ ơn sớm từ 20 tháng 8 dương lịch đến ngày lễ chính. Vua Trần Anh Tông lúc Đức Thánh Trần sắp lâm chung có ân cần ngự tới nhà thăm, hỏi rằng: “Nếu có điều chẳng may, mà giặc phương Bắc lại sang xâm lược thì kế sách như thế nào?”. Đức Thánh Trần  trả lời: “khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước vậy”. Nguyên văn: “Ngày xưa Triệu Vũ Đế (tức Triệu Đà) dựng nước, vua nhà Hán cho quân đánh, nhân dân làm kế thanh dã (vườn không nhà trống), đại quân ra Khâm Châu, Liêm Châu đánh vào Trường Sa, Hồ Nam, còn đoản binh thì đánh úp phía sau. Đó là một thời. Đời nhà Đinh, nhà Tiền Lê dùng người tài giỏi, đất phương nam mới mạnh mà phương bắc thì mệt mỏi suy yếu, trên dưới một dạ, lòng dân không lìa, xây thành Bình Lỗ mà phá được quân Tống. Đó lại là một thời. Vua nhà Lý mở nền, nhà Tống xâm phạm địa giới, dùng Lý Thường Kiệt đánh Khâm, Liêm, đến tận Mai Lĩnh là vì có thế. Vừa rồi Toa Đô, Ô Mã Nhi bốn mặt bao vây. Vì vua tôi đồng tâm, anh em hòa mục, cả nước góp sức, giặc phải bị bắt. Đó là trời xui nên vậy. Đại khái, nó cậy trường trận, ta dựa vào đoản binh. Dùng đoản binh chế trường trận là sự thường của binh pháp. Nếu chỉ thấy quân nó kéo đến như lửa, như gió thì thế dễ chế ngự. Nếu nó tiến chậm như các tằm ăn, không cầu thắng chóng, thì phải chọn dùng tướng giỏi, xem xét quyền biến, như đánh cờ vậy, tùy thời tạo thế, có được đội quân một lòng như cha con thì mới dùng được. Vả lại, khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước vậy”
                    * (Đại Việt sử ký toàn thư tập 2 trang 76 -77).

                    Trần Hưng Đạo giành chiến thắng trước quân Nguyên trên sông Bạch Đằng, kết thúc chiến tranh Nguyên Mông – Đại Việt lần 3 vào ngày 9 tháng 4 năm 1288, tức 8 tháng 3 năm Mậu Tý. Sau ba lần thắng giặc, đất nước thanh bình, ông lui về Vạn Kiếp và mất ngày 20 tháng 8 năm 1300 tại vườn An Lạc. Đền Kiếp Bạc ( Hải Dương) là nơi đền thờ chính của đức Thánh Trần.

                    Chùa Thắng Nghiêm (Hà Nội) nơi Trần Hưng Đạo lúc nhỏ tu học, là nơi Người hiển thánh.

                    Đức Thánh Trần gương soi kim cổ

                    Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn là nhà chính trị, quân sự, nhà văn kiệt xuất thời nhà Trần. Chiến công kiệt xuất đánh bại quân đội nhà Nguyên năm 1285 và 1287 đã đưa Đức Thánh Trần thành đại danh tướng lừng lẫy nhất của thế giới và Việt Nam. “CHỌN TƯỚNG” là một chương trong Binh thư Yếu lược của Trần Quốc Tuấn, kiệt tác súc tích và sâu sắc lạ lùng.

                    “Người quân tử tiến thoái quả quyết, xem người thì thanh thản vui tươi, chí thì ở trừ tàn bạo, đó là khí độ của người tướng quốc. Thấy ác không giận, thấy lành không mừng, nhan sắc không thay đổi, đó là lượng của người thiên tử.

                    Được sự thắng nhỏ, gặp sự thua nhỏ, mà mừng lo hình ra nét mặt, hễ thấy động thì động, thấy tĩnh thì tĩnh, nhát mà không tính toán gì, cất chân thì thần sắc không định, mà hay lấy lời nói để thắng người, đó là tướng ngu vậy.

                    Bảy phép để biết người:

                    1. Hỏi bằng lời nói xem trả lời có rõ ràng không
                    2. Lấy lời cật vấn đến kỳ cùng để xem cách ứng biến của họ.
                    3.  Cho gián điệp thử xem có trung thành không.
                    4. Hỏi rõ ràng tường tất để xem đức hạnh thế nào.
                    5. Lấy của mà thử để xem có thanh liêm không
                    6. Lấy sắc đẹp mà thử để xem có đứng đắn không.
                    7. Lấy việc khó khăn mà thử để xem có dũng cảm không.
                    8. Đem rượu cho họ uống say để xem có giữ được thái độ không.

                    Tướng ngu có tám điều tệ:

                    1. Lòng tham mà không chán
                    2. Ghen người hiền, ghét người tài
                    3. Tin lời dèm pha, thích lời nịnh hót
                    4. Xét người mà không xét mình
                    5. Do dự không quả quyết
                    6. Say đắm rượu và sắc đẹp
                    7. Thích xảo trá mà lòng nhút nhát
                    8. Nói lời viễn vông mà không giữ lễ

                    Gia Cát Lượng sách Tướng Uyển chỉ bảy phép biết người.

                    Biết tính tình của người, chẳng gì khó bằng xem xét, lành dữ tuy khác nhau, tính tình và vẻ mặt chẳng phải một: có kẻ thì ôn hoà, hiền lành nhưng làm việc trộm cắp;có kẻ bề ngoài thì cung kính nhưng trong bụng thì vô lễ, dối trá; có kẻ bề ngoài thì mạnh dạn nhưng trong bụng thì khiếp sợ;có kẻ làm việc tận lực nhưng bụng không trung thành;

                    Bảy phép sau đây để biết người

                    1. Hỏi việc phải trái để dò chí hướng;
                    2. Lấy lời cật vấn để biết ứng biến;
                    3. Đem mưu kế hỏi để lường kiến thức;
                    4. Giao chuyện hiểm nguy để soi dũng cảm;
                    5. Mời rượu cho uống say để xét tính tình;
                    6. Đưa lợi gái thử để rõ thanh liêm chính trực;
                    7. Đem việc cậy nhờ để xét sự trung thành, tin thật.

                    Tám hạng tướng và bậc đại tướng

                    Nhân tướng là người dùng đức để đem đường cho người, dùng lễ để xếp việc cho họ, hiểu thấu sự đói rét của người dưới, biết rõ khó nhọc của đồng sự, đó là nhân tướng.

                    Nghĩa tướng là người làm việc không cẩu thả, thấy lợi mà không tham, biết chết vinh hơn sống nhục.

                    Lễ tướng là người có địa vị cao quý mà không kiêu căng, công hơn người mà không cậy, tài năng mà biết hạ mình, cứng cỏi mà biết nhẫn nhịn.

                    Trí tướng là người gặp biến bất ngờ mà chí không đổi, ứng phó linh hoạt với việc khó khăn, có thể đổi họa thành phúc, gặp cơn nguy biến mà sắp đặt thành thắng thế.

                    Tín tướng là người thưởng phạt nghiêm minh công bằng, khen thưởng không chậm trễ và không bỏ sót, trừng phạt không buông tha cho kẻ cao quý.
                    Bộ tướng thủ hạ của đại tướng phải chọn người tay chân lẹ làng, võ nghệ tuyệt luân,  giỏi đánh gần, ứng biến di chuyển mau lẹ, để bảo vệ an toàn cao nhất cho chủ soái.
                    Kỵ tướng là người có thể vượt núi non cheo leo, từng trải việc nguy hiểm, cưỡi ngựa bắn tên mau lẹ như chim bay, tới thì đi trước, lui thì về sau.
                    Mãnh tướng là người khí thế vượt hẳn ba quân, dám coi thường địch mạnh, gặp đánh nhỏ vẫn luôn cẩn trọng, gặp đánh lớn thì can đảm quả quyết.

                    Bậc đại tướng là người bao trùm và vượt hẳn tám hạng tướng kể trên, gặp hiền tài thì tôn trọng lắng nghe, biết tỏ ý mình không theo kịp người, biết nghe lời can ngăn như thuận theo dòng nước, lòng rộng rãi nhưng chí cương quyết, giản dị và nhiều mưu kế.”

                    Ôi, đọc lại “Binh Thư Yếu lược” “Hịch Tướng Sĩ Văn” gương soi kim cổ, lắng nghe cuộc sống, để biết sửa mình; xem tiếp… Lời dặn của Thánh Trần;

                    Chí Minh với lãnh đạo Đảng và Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1961, ảnh tư liệu của PCT)

                    Chuyện cổ tích người lớn
                    CỤ NGUYỂN ĐĂNG MẠNH VIẾT VỀ BÁC HỒ
                    Hoàng Kim


                    Cụ Mạnh viết về Bác Hồ ở Chương 7 “Hồi ký Nguyễn Đăng Mạnh” thật hay. Tôi thường đọc lại. Nghề văn sử thời nay, chép đầy ắp tư liệu hay và thật như vậy, là thật giỏi và khéo lắm.
                    Cậu Cương ngọc trai bé của ông tôi trong Hoàng Gia Cương theo dòng thời gian cuối sách có ghi: “Văn muốn đạt tài hoa, tâm cần sáng, tứ cần sâu, năng gạn đục khơi trong văn mới tuyệt. Nghệ mong nên tuyệt tác, trí phải minh, công phải trọng, biết tầm sư học đạo nghệ càng tinh“; “CHÍ khí một hiền MINH, vạch lối, dẫn đường, gây nghiệp lớn hồi sinh đất nước. NGUYÊN  vẹn từng trụ GIÁP, xua Tây, trừ Mỹ, lập công đầu bảo vệ non sông”.

                    CỤ NGUYỄN ĐĂNG MẠNH VIẾT VỀ BÁC HỒ
                    (Trích Hồi ký Nguyễn Đăng Mạnh, chương Bảy)

                    Tôi được tận mắt thấy Hồ Chí Minh hai lần.

                    Lần thứ nhất sau Cách mạng tháng Tám. Sau cuộc khởi nghĩa tháng tám năm 1945, bố tôi đưa cả gia đình từ Thái Bình về thị xã Bắc Ninh. Tôi tiếp tục học cấp 2 ở trường Hàn Thuyên.

                    Một hôm được tin Hồ chủ tịch về Bắc Ninh. Tôi và mấy bạn học được nhà trường cử đi đón. Mỗi đứa được phát một lá cờ nhỏ bằng giấy, hễ Hồ chủ tịch đến thì vẫy cờ và hô khẩu hiệu chào mừng.

                    Chúng tôi đứng xếp hàng trước cửa phòng thông tin xã, nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh tới.

                    Ðợi một lúc thì có một chiếc xe ô tô con đỗ ngay mép đường, trước cửa phòng thông tin. Tôi thấy có hai anh cảnh vệ vọt ra trước, cầm lăm lăm tiểu liên, nhẩy lên đứng trên hai cái trụ của bức tường hoa thấp trước phòng thông tin. Hai anh lia mũi súng sang trái, sang phải, vẻ mặt căng thẳng.

                    Hồ Chí Minh bước ra sau. Quần áo Kaki. Giầy vải. Cầm batoong. Người gầy đen. Râu tóc cũng đen. Ông đứng lại ngay sát chúng tôi, nhưng không để ý gì đến bọn trẻ con này cả, tuy chúng tôi ra sức phất cờ và hô, “Hồ chủ tịch muôn năm !”

                    Ðứng lại một lát, liếc nhìn chung quanh một chút, mặt đầy cảnh giác, rồi ông đi rất nhanh vào phòng thông tin. Lưng rất thẳng, gầy nhưng cứng cáp, cử chỉ lanh lẹn – ấn tượng của tôi về Hồ chí Minh là như thế.

                    Hồi đó, ở Bắc Ninh, Việt Nam Quốc dân đảng hoạt đông khá mạnh. Ðã có những cuộc đụng độ vũ trang giữa lính Quốc dân đảng và Vệ quốc đoàn ở Thị Cầu. Chắc vì thế nên ông Hồ và các vệ sĩ của ông rất cảnh giác.

                    Lần thứ hai tôi được thấy Hồ chủ tịch là vào khoảng 1961, 1962 gì đó, hồi tôi công tác ở trường Ðại học sư phạm Vinh.

                    Ông Hồ vào Vinh. Người ta tổ chức cho ông gặp đồng bào ở một cái sân vận động của thị xã.

                    Họ dựng một cái kỳ đài bằng tre- có vẻ thô sơ thôi. Ông Hồ đứng trên đó với một số cán bộ tỉnh. Lúc hô khẩu hiệu, ông cùng vung tay hô như mọi người:

                    _ Ðảng Lao Ðộng Việt Nam muôn năm !

                    _ Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà muôn năm !

                    Ông Hồ vung tay rất cao.

                    Nhưng đến khẩu hiệu thứ ba:

                    _ Chủ tịch Hồ Chí Minh muôn năm !

                    Ông Hồ cũng vung tay lên, nhưng chợt nhận ra họ hoan hô mình, vội rụt tay xuống.

                    Tôi theo dõi không bỏ sót một cử chỉ nào của ông cụ hôm ấy.

                    Ông Hồ bắt đầu nói chuyện với đồng bào.

                    Hồ Chí Minh không hề tỏ ra là người hùng biện. Nói chậm, ngắn, không lưu loát. Có chuyện lỡ miệng nói hớ, vội lảng sang ý khác. Tôi nhớ ông đang nói dở một câu tục ngữ, “Thanh cậy thế, Nghệ cậy..”thì vội ngừng lại và lảng sang ý khác. Có lẽ ông không muốn làm mất lòng người Nghệ Tĩnh chăng, vả lại, “cậy thần “là cậy thần nào, thần Hồ Chí Minh à? Tôi chắc ông nghĩ thế nên không nói tiếp câu ấy nữa.

                    Năm 1969, tôi chuyển ra công tác ở trường Ðại học Sư phạm Hà nội. Các anh Huỳnh Lý, Nguyễn Trác, Hoàng Dung thay nhau làm tổ trưởng tổ Văn học Việt Nam hiện đại. Các anh đều rất quan tâm đến việc nghiên cứu thơ văn Hồ Chí Minh nên thường tổ chức cho chúng tôi gặp những người hiểu biết về Hồ Chí Minh như Hoàng Văn Hoan, Lê Quảng Ba, Họa sĩ Diệp Minh Châu, Vũ Kỳ. Nhờ gặp các vị này, tôi được biết nhiều chuyện cụ thể về ông Hồ, trước hết là chung quanh sự kiện ông Hồ bị bắt ở Quảng Tây, Trung Quốc và viết Nhật Ký Trong Tù.

                    Ông Hồ về Pắc Bó đầu năm 1941 ngày 28/1. Tháng 8/1942 ông trở lại Trung Quốc để vận động các cơ sở cách mạng bên ấy ủng hộ Việt Minh và mua vũ khí về cho Việt Minh.

                    Ông Lê Quảng Ba cùng đi với ông Hồ. Ðến một địa điểm nào đó thuộc Quảng Tây thì gặp núi lở, một tảng đá văng vào chân Lê Quảng Ba. Ba bị đau, cố đi một cách khó khăn. Ðể động viên người đồng hành với mình, ông Hồ vừa đi vừa kể Chinh Phụ Ngâm. Vừa kể vừa giảng. Té ra xa nước ba mươi năm Hồ Chí Minh vẫn thuộc lòng Chinh Phụ Ngâm.

                    Nhưng Lê Quảng Ba càng đi càng đau. Ðến Tĩnh Tây thì phải nghỉ lại tại một cơ sở cách mạng. Hôm sau, ông Hồ tiếp tục lên đường. Cùng đi với ông có một thanh niên Trung Quốc tên Dương Ðào- tất nhiên cũng là một cơ sở cách mạng. Ðến xã Túc Vinh, huyện Ðức Bảo, tỉnh Quảng Tây thì bị bọn Hương cảnh Trung Quốc bắt (Ngày 27- 8- 1942)

                    Không phải ông Hồ không có giấy tờ hợp lệ. Hồ Chí Minh không thể sơ xuất như thế được. Hồ Chí Minh bị bắt vì khám trong người, cảnh sát Tàu phát hiện có rất nhiều đôla. Nghe nói hồi ở Pắc Bó, có người đã thấy ông phơi đôla cho khỏi ẩm mốc. Bây giờ qua Trung Quốc, ông đem đôla đi để mua vũ khí cho Việt Minh.

                    Nhưng cảnh sát Tàu cho là Hán gian, là gián điệp của Nhật lúc bấy giờ đang đánh Trung Quốc. Chỉ có gián điệp mới có đôla thôi chứ, người dân Trung Quốc bình thường làm gì có lắm ngoại tệ thế ! Ðiều này tác giả Ngục Trung Nhật Ký cũng đã nói rõ trong thơ của mình:

                    Ta người ngay thẳng, lòng trong trắng
                    Lại bị tình nghi là Hán gian
                    (Ðường đời hiểm trở)

                    Hôm nay xiềng xích thay dây trói
                    Mỗi bước leng keng tiếng ngọc rung
                    Tuy bị tình nghi là gián điệp
                    Mà như khanh tướng vẻ ung dung
                    (Ði Nam Ninh)

                    Các vị lãnh đạo Ðảng lúc bấy giờ ở Cao Bằng như Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, Hoàng Quốc Việt nghe tin cụ Hồ bị bắt, hoảng quá, cho người sang Tàu dò hỏi xem nó giam ở đâu, nhưng không tìm được. Qua mấy tháng bặt tin tức, các vị bèn quyết định lật bài ngửa: điện cho Mạc Tư Khoa và cho Tưởng Giới Thạch nói rõ đó là Nguyễn Ái Quốc, thủ lĩnh Việt Minh, đề nghị thả ra.

                    Biết không phải là Hán gian, các nhà chức trách Trung Hoa bèn chuyển Hồ Chí Minh sang chế độ nhà tù khác. Trong Nhật Ký Trong Tù, bài Bốn Tháng có thể coi là bản tổng kết giai đoạn đầu của thời gian 14 tháng ở tù vô cùng cực khổ của ông Hồ, “Sống khác loài người vừa bốn tháng. Tiều tụy còn hơn mười năm trời.”

                    Chuyển sang chế độ nhà tù mới, ông Hồ được tắm rửa, ăn uống khá hơn, thỉnh thoảng được đi dạo quanh nhà lao, đặc biệt được cung cấp rất nhiều sách báo. Tưởng Giới Thạch còn tặng ông một cuốn sách của mình. Ðiều này ông Trần Dân Tiên đã có nói nhưng không giải thích lý do vì sao. Ðiều đáng chú ý là, Nhật Ký Trong Tù có tất cả 113 bài tuyệt cú thì bài Bốn Tháng Rồi là bài thứ 103. Nghĩa là 10 tháng sau, tác giả chỉ làm thêm ba chục bài nữa thôi. Vì sao vậy? Vì Hồ Chí Minh chỉ làm văn chương khi tuyệt đối không có điều kiện làm chính trị, làm cách mạng. Mười tháng sau này, có điều kiện chuẩn bị cho cách mạng, lập tức ông dồn sức vào đấy: đọc sách báo, dịch tác phẩm “Tam dân chủ nghĩa “của Tôn Trung Sơn, đọc sách của Tưởng Giới Thạch tặng “Trung quốc đích mệnh vận”

                    Nguyên bản Nhật Ký Trong Tù đâu chỉ có thơ, ở cuối tập Nhật Ký còn có tới 20 trang ghi kín tin tức thời sự lấy từ các báo chí được cung cấp gọi là Ðộc báo lan.

                    Mới biết, viết bài Mở đầu (Khai Quyển) Nhật Ký Trong Tù, Hồ Chí Minh đã nói thật lòng mình:

                    Ngâm thơ ta vốn không ham
                    Nhưng vì trong ngục biết làm chi đây
                    Ngày dài ngâm ngợi cho khuây
                    Vưà ngâm vừa đợi đến ngày tự do

                    Hồ Chí Minh được bọn Tàu Tưởng thả về nước không phải ngẫu nhiên, chắc ông phải khôn khéo thương lượng với chúng và với cánh Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam như thế nào đó, nó mới thả cho về nước.

                    Hôm tiễn cụ Hồ về nước, Hầu Chí Minh (Trong Nhật Ký Trong Tù, Hồ chí Minh gọi là Hầu chủ nhiệm (Chủ nhiệm cục chính trị đệ tứ chiến khu) cùng với Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam có tổ chức một cuộc liên hoan hẳn hoi (tháng 12- 1943). Trong liên hoan, họ có thử tài nhau bằng thách đối.

                    Nguyễn Hải Thần đưa ra một vế đối khá độc hiểm:

                    “Hầu Chí Minh, Hồ Chí Minh, lưỡng vị đồng chí, chí giai minh “

                    Ông Hồ xin đối :

                    “Nhĩ cách mệnh, ngã cách mệnh, đại gia cách mệnh, mệnh tất cách “

                    Mọi người tán thưởng. Hầu Chí Minh ca ngợi “Ðối hay lắm “.Còn Nguyễn Hải Thần thì cung kính nói, “Hồ tiên sinh tài trí mẫn tiệp, bội phục, bội phục “

                    Trong cuộc liên hoan, ông Hồ còn góp vui một tiết mục rất đặc biệt: nhảy điêụ Nga-la-tư, một điệu vũ dân gian rất khoẻ của Nga.

                    Trong Nhật Ký Trong Tù và hồi ký Vưà Ði Ðường Vừa Kể Chuyện, ông Hồ có nói, khi mới ra tù, “chân mềm như bún “, đi không được, phải tập leo núi rất khó nhọc, phải bò, phải lết mãi mới đi được. Vậy sao lại có thể nhảy điệu Nga- la – tư?

                    Suy ra ta có thể hiểu như thế này: từ khi biết ông Hồ là ông Hồ, không phải Hán gian, nhà chức trách Trung quốc cho ông được hưởng chế độ quản thúc. Nghĩa là chỉ không được ra khỏi vùng quản thúc thôi, còn thì có thể ra ngoài nhà tù để leo núi, tập đi, tập luyện mắt. (Cho nên mới có chuyện ở Liễu Châu, ông Hồ đi tắm sông, gặp tướng Tàu Trương Phát Khuê. Khoảng giữa tháng 9- 1943, sau một thời gian tập luyện, cuối cùng ông Hồ chẳng những đi vững mà còn trèo được núi. Ông cao hứng làm một bài thơ chữ Hán:

                    Vân ủng trùng sơn sơn ủng vân
                    Giang tâm như kính tịnh vô trần
                    Bồi hồi độc lộ Tây phong lĩnh
                    Nam vọng trùng dương ức cố nhân
                    (Vừa đi đường, vừa kể chuyện)

                    Bài thơ này cụ Hồ đã bí mật gửi về cho các đồng chí của mình ở Cao Bằng (Viết lên mép trắng của một tờ Quảng Tây nhật báo). Võ Nguyên Giáp trong tập hồi ký Những Chặng Ðường Lịch Sử cho biết, “Bữa đó tôi về cơ quan hội báo tình hình thì thấy anh Ðồng, anh Vũ Anh và anh Lã đang xem xét quanh một tờ báo. Các anh chuyển tờ báo và hỏi tíu tít:

                    _ Anh xem có đúng là chữ của Bác không?

                    Ðó là một tờ báo ở Trung quốc mới gửi về, trên mép trắng có mấy hàng chữ Hán viết tay. Tôi nhận ra ngay đúng là chữ của Bác. Bác viết, “Chúc chư huynh ở nhà mạnh khoẻ và cố gắng công tác, ở bên này bình an.

                    Phiá dưới lại có một bài thơ “

                    Như thế bài thơ này đã được làm từ khá lâu (9- 1943) trước cuộc liên hoan tiễn chân nói trên 3 tháng (12- 1943)

                    Sau này, Tô Hoài còn cho biết, trong cuộc liên hoan tiễn cụ Hồ về nước, hôm ấy còn có mặt nhà thơ Quang Dũng nữa. Lúc này Quang Dũng đang đi theo Nguyễn Tường Tam, Nguyễn Hải Thần.

                    Về tập Nhật Ký Trong Tù, có người nói ông Hồ đánh mất ngay sau khi ra khỏi tù. Thực ra không phải.

                    Ngày 16- 9- 1943, ông Hồ được trả lại tự do, cuốn Nhật Ký Trong Tù vẫn được ông giữ cẩn thận.

                    Ngày 14 – 9 – 1955, ông đưa tác phẩm này cho ông Nguyễn Việt, trưởng ban tổ chức triển lãm cải cách ruộng đất tại phố Bích Câu. Ông Hồ nói, “Tôi có quyển sổ tay cách đây mười mấy năm còn giữ được đến bây giờ, các cô, các chú xem có triển lãm được thì dùng. “Nguyễn Việt đưa vào triển lãm, bày ở phòng “Ngọn đuốc soi đường của Ðảng Cộng sản Ðông Dương “.

                    Nhật Ký Trong Tù hiện được lưu trữ ở Bảo tàng cách mạng Việt Nam.

                    Vào năm 1970, 1971 gì đó, anh Huỳnh Lý được biết Họa sĩ Diệp Minh Châu từng sống với Hồ chủ tịch sáu tháng ở Việt Bắc thời kháng chiến chống Pháp, nên tổ chức cho chúng tôi gặp họa sĩ ở nhà riêng.

                    Hai vợ chồng cùng là họa sĩ và điêu khắc. Nhà cửa hết sức bề bộn, có thể nói là tanh bành. Ðất sét, thạch cao vung vãi. Nước đổ lênh láng trên nền nhà. Khắp nơi lăn lóc những đầu người: đầu Nguyên Hồng, đầu Nguyễn Tuân…bằng đất sét.

                    Cách trò chuyện của Diệp Minh Châu cũng vậy. Chuyện nọ xọ chuyện kia, có lúc lại tạt ngang giới thiệu tranh của vợ.

                    Ở đây tôi chỉ lọc ra những gì anh nói về Hồ Chí Minh.

                    Diệp Minh Châu ở với Hồ chủ tịch sáu tháng ở chiến khu Việt Bắc trước khi ra nước ngoài học tiếp về hội họa, điêu khắc. Hằng ngày, anh cùng ăn với Hồ chủ tịch.

                    Có một bữa, đến giờ ăn rồi mà mãi không thấy ông Hồ ra. Diệp Minh Châu ngồi đợi. Cuối cùng ông cũng ra, nhưng lại châm điếu thuốc hút, nghĩa là chưa ăn ngay. Thấy Châu ngồi đợi, ông bảo, “Chú cứ ăn trước đi “Tất nhiên Châu không dám, vẫn đợi. Một lát, ông Hồ nói thủng thẳng với họa sĩ, “Về sau chú làm nghề gì thì làm nhé, đừng làm chủ tịch nước, khổ lắm ! “

                    Diệp Minh Châu không bình luận gì. Tôi cho rằng, Hồ Chí Minh vừa qua một cuộc họp trung ương, chắc có điều gì không thuyết phục nổi các đồng chí của mình: người ta đang sùng bái Staline, Mao Trạch Ðông, không chịu nghe Hồ Chí Minh, chắc thế. (Staline vốn không coi Hồ Chí Minh là cộng sản chuyên chính. Ông Phạm Văn Ðồng có lần nói với anh Hoàng Tuệ (khi hai người cùng công tác ở Liên xô): năm 1950, Staline triệu Hồ Chí Minh sang gặp, ông ta không gọi Hồ Chí Minh là đồng chí (tavarich).

                    Ở rừng Việt Bắc vào những đêm trăng đẹp, ông Hồ thường rủ Diệp Minh Châu ra suối câu cá. Vưà câu vưà trò chuyện. Có lần ông nói về Nhật Ký Trong Tù : “Hồi ấy bị giam trong tù buồn quá, phải nghĩ ra cách gì để giải trí. Có ba cách: một là nằm ngửa đếm ngói trên mái nhà, đếm hết lại phân loại ngói lành, ngói vỡ. Hai là săn rệp ở những khe ván sàn xà lim. Ba là làm thơ “. Thì ra đối với ông Hồ, làm thơ cũng chỉ là một trò giải trí như đếm ngói và săn rệp vậy thôi. Thảo nào có ai hỏi ông về Nhật Ký Trong Tù như một tập thơ, ông đều từ chối không trả lời, vì coi đó chẳng phải thơ phú gì và bản thân ông cũng không phải nhà thơ. Chẳng qua ở tù buồn quá, không biết làm gì, thì ghép vần chơi, thế thôi (Trong cuốn sách Vừa đi đường vừa kể chuyện,ông đã nói như thế).

                    Năm 1965, Mỹ cho không quân ra đánh phá miền Bắc. Cầu Hàm Rồng, Thanh Hoá, là một trọng điểm oanh tạc của chúng. Anh chị em dân quân Nam Ngạn, Hàm Rồng, phối hợp cùng với pháo binh tải đạn và bắn máy bay giặc. Nổi lên có hai nữ dân quân được tuyên dương công trạng xuất sắc: Ngô Thị Tuyển và Nguyễn Thị Hằng.

                    Năm ấy, tôi phụ trách một đoàn sinh viên Ðại học Sư phạm Vinh ra thực tập ở trường Lam Sơn, Thanh Hoá, sơ tán ở ngoại ô thị xã. Tôi đưa mấy sinh viên Văn ra gặp Nguyễn Thị Hằng ở nhà riêng. Hằng là một cô gái quê mà rất trắng trẻo, cao ráo. Cô cho xem bức hình chụp mặc quân phục trông rất đẹp đẽ,oai phong. Cô khoe vưà được ra Hà Nội gặp Bác Hồ. Lần đầu tiên ra Hà Nội, đi đâu cũng có một anh cảnh vệ hay công an đưa đi. Hành trình qua rất nhiều chặng. Ðến mỗi chặng, anh dẫn đường lại bảo, cô ngồi đây, Bác xuống bây giờ.

                    Một lát ông Hồ tới. Ông không vội hỏi han gì về thành tích chiến đấu của Hằng. Câu hỏi đầu tiên của vị chủ tịch nước là, “Cháu có buồn đi tiểu, Bác chỉ chỗ cho mà đi.”

                    Câu chuyện của Nguyễn Thị Hằng về Chủ tịch Hồ Chí Minh hôm đó, tôi nhớ nhất chi tiết này. Chi tiết rất nhỏ nhưng nói rất nhiều về con người Hồ Chí Minh.

                    Tôi nghĩ đến câu nói của một nhân vật của Dostoievsky trong cuốn “Anh em nhà Karamadôp “: “Tôi càng yêu nhân loại nói chung thì lại càng ít yêu con người nói riêng, tức tách bạch ra từng người riêng rẽ. Những lúc mơ ước, nhiều lúc tôi đã có dự định say mê phụng sự nhân loại (..) thế nhưng tôi lại không thể sống chung với bất kỳ ai trong một căn phòng.”. Ðó là loại người mà Dostoievsky gọi là chỉ có “tình yêu mơ mộng “chứ không có tình yêu thực sự.

                    Ông Hồ một mặt yêu nhân loại rộng lớn, mặt khác, quan tâm rất cụ thể thiết thực đến những con người cụ thể quanh mình.

                    Anh Trần Việt Phương có kể một câu chuyện khác cũng tương tự về ông Hồ. Trước căn nhà sàn của chủ tịch luôn có một anh bộ đội đứng gác. Thương anh lính trẻ đứng gác lâu chắc đói bụng, ông cụ đem một quả chuối xuống cho anh ta ăn. Anh lính không dám ăn, vì như thế là vi phạm luật nhà binh. Ông Hồ nói, “Vậy để bác gác cho cháu ăn, không sợ “.

                    Hồ Chí Minh có điều này cũng rất quý: trong cách ứng xử với mọi người, tỏ ra rất lịch sự, nghĩa là rất tôn trọng con người. Hồi kháng chiến chống Pháp, Họa sĩ Dương Bích Liên được cử đến ở với ông Hồ để vẽ. Sau một thời gian, Tố Hữu đến xem tranh, cho là không đạt. (Chắc là Duơng Bích Liên thích vẽ Hồ chí Minh trong sinh hoạt đời thường, không thể hiện được tư thế lãnh tụ chăng?). Tố Hữu quyết định cho Dương Bích Liên thôi việc và mời đi luôn. Khi ông Hồ biết chuyện này thì Duơng Bích Liên đã đi rồi. Hồ chí Minh không bằng lòng với cách đối xử như thế. Ông cho người đuổi theo mời họa sĩ trở lại để có lời với anh và đưa tiễn đàng hoàng.

                    Tôi nghĩ Hồ Chí Minh thực bụng, không hề coi mình là ông thánh, nghĩa là chỉ muốn được là người với những nhu cầu như của mọi người bình thường. Cũng có thể trong tư cách nhà chính trị lại khác. Vì nhu cầu chính trị, có khi Hồ chí Minh cũng phải “diễn “những điều trái với bản chất của mình. Vì thế tôi nói, thực bụng ông Hồ không th&iacXem tiếp >>

                      Dạy và học 9 tháng 6(09-06-2021)


                    Nhà thờ chính Văn miếu Trấn Biên.jpg

                    DẠY VÀ HỌC 9 THÁNG 6
                    Hoàng Kim

                    CNM365 Tình yêu cuộc sốngVăn Công Hùng Tây Nguyên; Gõ ban mai vào phím; Nguyên Ngọc về Tây Nguyên; Nguyễn Ngọc Tư sầu riêng; Đến với Tây Nguyên mới; Nam tiến của người Việt; Dạo chơi non nước ViệtHình như; Walt Disney người bạn lớn; Có một ngày như thế; Ngày 9 tháng 6 năm 1885, Chính phủ Pháp và triều Thanh ký kết Hòa ước Thiên Tân, chấm dứt chiến tranh Pháp-Thanh, quân Thanh rút khỏi Bắc Kỳ. Ngày 9 tháng 6 năm 1965 ,Quân giải phóng miền Nam tiến công Đồng Xoài (bắc Biên Hoà), một chi khu quân sự, một mắt xích trong hệ thống phòng tuyến Sông Bé của Việt Nam Cộng hòa. Ngày 9 tháng 6 năm 1934,  Vịt Donald nhân vật hoạt hình trong phim hoạt hình nổi tiếng  The Wise Little Hen của Walt Disney lần đầu tiên xuất hiện trước công chúng, Bài chọn lọc ngày 9 tháng 6: Văn Công Hùng Tây Nguyên; Gõ ban mai vào phím; Nguyên Ngọc về Tây Nguyên; Nguyễn Ngọc Tư sầu riêng; Đến với Tây Nguyên mới; Nam tiến của người Việt; Dạo chơi non nước ViệtHình như; Walt Disney người bạn lớn; Có một ngày như thế; Thông tin tại https://wordpress.com/post/hoangkimvn.wordpress.com/

                    VĂN CÔNG HÙNG TÂY NGUYÊN
                    Hoàng Kim

                    Văn Công Hùng Tây Nguyên
                    Hùng neo hoài Phố Núi
                    Đời người như dòng sông
                    Bạn còn luôn mãi đấy

                    Văn chương mình hóa ra
                    Có Hùng nhiều trong ấy *
                    Gõ ban mai vào phím
                    Nguyên Ngọc về Tây Nguyên

                    Nguyễn Ngọc Tư sầu riêng
                    Đến với Tây Nguyên mới”…
                    Mười một sách không tuổi **
                    Chuyện đời dài mênh mông

                    (*) Các đường dẫn thơ văn HK có VCH
                    (**)
                    VCH có 11 sách lưu dấu thời gian

                    Văn Công Hùng Tây Nguyên

                     

                    GÕ CHIỀU VÀO BÀN PHÍM
                    Văn Công Hùng

                    tôi gõ buổi chiều vào bàn phím
                    hiện lên em ngơ ngác xa xăm
                    tôi tìm tôi trong mật khẩu
                    những chấm tròn đen lạnh lùng


                    tôi tôi tôi giá mà em biết được
                    nỗi cô đơn lớn biết chừng nào
                    muốn ho khẽ nhưng mà không ho nỗ
                    chiếc lá khô lão đỏo ở sau hè


                    em ở phía không thể nào tới được
                    một con sông đã khóa những nhịp cầu
                    giá có thể lấp sông bằng nỗi nhớ
                    một phía bờ sẽ lại hóa dòng sông


                    tôi gõ buổi chiều vào bàn phím
                    một đôi mắt buồn hiện ở chốn xa xăm .

                    CHUYỆN SAO KIM KỲ THÚ
                    Hoàng Kim

                    ta gõ ban mai vào bàn phím
                    gõ vào khuya ngơ ngẩn kiếm tìm
                    biết em ngủ đợi chờ em tỉnh thức
                    như  ánh sao trời ở chốn xa xôi.

                    em em em giá mà em biết được
                    những yêu thương hóa đá chốn xa mờ
                    sợi tóc bạc vì em mà xanh lại
                    lời ru và nỗi nhớ ngấm vào thơ.

                    em thăm thẳm một vườn thiêng cổ tích
                    chốn ấy cõi riêng khép mở chân trời
                    ta như chim đại bàng trở về tổ ấm
                    lại khát Bồng Lai ước vọng mù khơi.

                    ta gõ ban mai vào bàn phím
                    dậy em ơi ngày mới đến rồi. (**)

                    GÕ BAN MAI VÀO PHÍM
                    Hoàng Kim
                    Ta gõ
                    ban mai vào bàn phím
                    Dậy đi em
                    ngày mới đến rồi

                    Em đọc lại Nhà Giả Kim em nhé
                    Bài ca thời gian câu chuyện cuộc đời
                    Một giấc mơ Người đi tìm kho báu
                    Theo ước mơ mình tới chốn xa xôi …

                    Bậc tiên tri biết nhìn sâu khát vọng
                    Khuyến khích em theo mơ ước tuổi hoa
                    Đi tới cuối con đường hạnh phúc
                    Hãy là chính mình, ta chính là ta.

                    Em thấu hiểu có ngôi sao may mắn
                    Luôn bên em lấp lánh phía chân trời
                    Nơi bảng lãng
                    thơ tình Hồ núi Cốc
                    Giấc mơ đưa ta về cổ tích xa xôi  …

                    Lên đường đi em
                    Bình minh đã rạng
                    Vui bước tới thảnh thơi
                    Vui đi dưới mặt trời

                    Ta hãy chăm như con ong làm mật
                    Cuộc đời này là hương hoa.
                    Ngày mới yêu thương vẫy gọi,
                    Ngọc cho đời vui khỏe cho ta.

                    SaoKimkythu

                    Ngôi sao mai chân trời

                    NGƯỜI Ở LẠI VỚI TÂY NGUYÊN
                    Minh Tứ

                    Báo Quảng Trị 23/03/2021 13:59:47

                    (QTO) – Những năm 90 của thế kỷ XX, lãnh đạo tỉnh Thừa Thiên Huế muốn tìm nhân sự làm Tổng Biên tập Tạp chí Sông Hương – một tạp chí văn nghệ nổi tiếng thời ấy, sau khi tổng biên tập cũ nghỉ hưu. Lúc bấy giờ nhà thơ Văn Công Hùng là người hội đủ tiêu chuẩn, nằm trong “tầm ngắm” của tổ chức, vì anh người gốc Thừa Thiên Huế, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, đang làm lãnh đạo Hội Văn nghệ và Tạp chí Văn nghệ ở Gia Lai – Kon Tum. Nhưng càng gần đến thời điểm chuyển công tác thì anh em bạn bè văn nghệ ở Tây Nguyên đến nhà tâm sự, níu kéo, lại thêm bao năm tháng gắn bó với mảnh đất này đã làm cho anh thối chí. Cuối cùng anh phải rất vất vả từ chối tấm thịnh tình của lãnh đạo từ quê nhà để ở lại với phố núi Pleiku, nơi đã gắn bó như là một định mệnh của đời anh.

                    Những con đường gắn với văn chương

                    Trong số bạn hữu thời sống và viết ở Tây Nguyên, tôi có nhiều duyên nợ với Văn Công Hùng. Anh học khoa Ngữ Văn, khóa 1 – khóa đầu tiên của Trường Đại học Tổng Huế, còn tôi học khóa 7. Khi anh lên Tây Nguyên công tác, tôi còn đang học phổ thông và sau đó mấy năm mới được làm đồng môn của anh. Rồi không biết cơ duyên thế nào sau đó ít lâu tôi cũng lên Gia Lai – Kon Tum công tác. Sau này, trong những trang viết của mình, Văn Công Hùng luôn nhớ về mùa hè năm 1981, sau khi tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Huế, anh tình nguyện lên Gia Lai- Kon Tum công tác, dù hồi đó tốt nghiệp đại học người ta phân công công tác cho sinh viên theo nguyện vọng. Lý do để anh chọn Tây Nguyên cũng hết sức đơn giản, anh chơi trong hội “Bốn thằng” và cả hội muốn mãi mãi chơi với nhau, khi ra trường đi một nơi đủ xa để khám phá và còn có điều kiện trở về thăm Huế. Nhưng cuối cùng thì chỉ mỗi anh đeo ba lô lên Gia Lai – Kon Tum, còn các bạn khác thì ở lại với phố thị đồng bằng.

                    Trong hồi ức của Văn Công Hùng, cái buổi chiều cuối tháng Mười nơi phố núi Pleiku đang là mùa khô, lạnh và bụi bay mù mịt. Có thể nói Pleiku đẹp đến nao lòng nhưng cũng buồn thăm thẳm. Từ hôm mới lên, chiều nào anh cũng đi bộ trên ba con đường đẹp nhất thị xã (lúc đó Pleiku còn là thị xã) tạo thành tam giác: Lê Lợi, Trần Hưng Đạo, Quang Trung. Đường Lê Lợi thấp hẳn một bậc so với đường Trần Hưng Đạo, có rất nhiều cây thông cổ thụ. Anh có cảm giác như người khách lạ nơi phố núi: “Phố núi cao , phố núi đầy sương / Phố núi cây xanh trời thấp thật buồn /Anh khách lạ đi lên đi xuống/ May mà có em đời còn dễ thuơng… Phố núi cao phố núi trời gần/ Phố xá không xa nên phố tình thân/ Đi dăm phút đã về chốn cũ/ Một buổi chiều nao lòng thấy bâng khuâng” (Còn chút gì để nhớ – thơ Vũ Hữu Định, Phạm Duy phổ nhạc). Hồi ấy người dân Pleiku còn nghèo, chủ yếu bà con đi làm rẫy với cái xe đạp cũ kỹ chở đầy dao, cuốc, bao bố… trông họ lam lũ, đi làm về người bám đầy đất ba dan. Mà đâu chỉ thường dân, cán bộ, công chức thời ấy cũng luộm thuộm, dép lê, áo bỏ ngoài quần và suốt ngày nói chuyện ăn vì… đói. Phở là thứ xa xỉ chỉ đợi đến chủ nhật mới dám đi cải thiện một tô. Mà muốn có phở ăn thì trước đó, thứ Sáu hoặc thứ Bảy, anh cầm sổ y bạ sang bệnh viện ở đường Trần Hưng Đạo khám. Học người ta, anh cứ khai đại một bệnh gì đó và bao giờ cũng được cấp 20 viên Tetracilin, 20 viên Xuyên tâm liên (một loại thuốc nam dược được xem là chữa bách bệnh). Xuyên Tâm liên thì anh vứt ngay, còn Tetracilin thì anh đưa thẳng lên chợ, nó sẽ “biến” thành tô phở và ly cà phê Kim Liên ở đường Hùng Vương sáng Chủ nhật.

                    Hồi mới xa Huế, Văn Công Hùng luôn ám ảnh về Huế dù đã vời vợi xa. Và trong một lần đi trên con đường Trần Hưng Đạo rợp bóng cây cổ thụ, anh bắt gặp một cô gái mặc áo dài trắng bay phơ phất trong chiều. Anh lặng lẽ đi theo suốt con đường Trần Hưng Đạo, qua đường Quang Trung thì “áo dài” vào nhà thờ Thăng Thiên. Thì ra “áo dài” đi lễ nhà thờ. Mái tóc kẹp buông nửa lưng, đôi mắt buồn, dáng người thanh mảnh, bước đi khoan thai khiến anh như … chết đứng. Ngay lập tức một câu thơ bật ra “Tà áo trắng vương trong chiều cao nguyên”. Và tối hôm ấy, dưới ánh ngọn đèn tròn chập chờn thiếu công suất, Văn Công Hùng làm xong bài “Gặp Huế trên cao nguyên”

                    “Tà áo trắng vương trong chiều cao nguyên
                    tiếng “dạ” láy trầm như cồng.
                    Ngực thở con dốc đổ cồn cào nỗi nhớ
                    dáng Huế trong em. Phố núi sau mưa…

                    Anh gặp em chiều phố núi bình yên
                    gặp lại mình hai mươi năm về trước
                    cho anh làm mùa hè rạo rực
                    áo trắng bay. Phượng nở. Trời chiều…”

                    Bài thơ này của Văn Công Hùng đã có đời sống mấy chục năm rồi. Hồi ấy nhiều người thuộc và chép vào sổ tay. “Một bác sĩ có vợ là giáo viên người Huế kể chính anh là người chép bài thơ cho vợ. Nhạc sĩ Lô Thanh, giảng viên Trường Quốc gia âm nhạc Huế đã phổ nhạc bài này, về Huế thấy có người hát, nhưng phương tiện phổ biến hồi ấy nó chưa được như bây giờ nên ít người biết, rồi giờ nó cũng chìm nổi ở đâu đấy”, Văn Công Hùng kể.

                    Bây giờ, không còn đi xe đạp hay xe máy như thời nào, Văn Công Hùng đã là một tay lái ô tô cừ khôi, có thể một mình một xe rong ruổi ra Bắc, vào Nam, lên miền núi, xuống đồng bằng. Và đi trên những con đường ấy anh phát hiện ra nhiều điều thú vị. Từ Pleiku, theo đường 14 xuôi Nam tới thị trấn Chư Sê sẽ có một nhánh rẽ xuống Tuy Hòa. Đấy là đường 25, nhưng một thời nó mang tên đường 7, một con đường nổi tiếng năm 1975, là con đường mà toàn bộ binh lính Việt Nam cộng hòa ở Kon Tum, Pleiku, cả Đắk Lắk đã tháo chạy tán loạn trong chiến cuộc 1975, và Quân đoàn 3 Quân đội Nhân dân Việt Nam đã chặn đánh. Bi kịch của cuộc triệt thoái và trận đánh kinh hoàng ấy nay vẫn còn dư âm. Đấy là những đứa con của những gia đình di tản bị lạc trong những ngôi làng người Jrai ven đường 7, giờ vẫn còn những gia đình đi tìm con, mà chương trình “Như không hề có cuộc chia ly” của nhà báo Thu Uyên còn giữ rất nhiều hồ sơ.

                    Con đường 7 và trận chặn đường lịch sử này từng có hai cuốn sách nổi tiếng của hai người lính. Cuốn thứ nhất là “Cuộc tháo chạy tán loạn” của một viên tình báo Mỹ, tên là Frank Sneep. Và cuốn thứ hai “Trong cơn gió lốc” của một sĩ quan Quân đoàn 3, nhà văn Khuất Quang Thụy. Bây giờ thì con đường 7 kinh hoàng ngày xưa được gọi tên mới là đường 25, nó bắt đầu từ ngã ba Mỹ Thạch, thị trấn Chư Sê rẽ đường 14, xuôi qua Phú Thiện, Phú Bổn (Ayun Pa), Krông Pa, xuống Củng Sơn, Sơn Hòa rồi nhập vào đồng bằng Tuy Hòa. Đấy là con đường êm ả, rợp bóng cây, chủ yếu là cao su, cà phê, miên man ngút mắt màu xanh của cây lúa và miên man gió. Con đường phẳng lỳ rợp nắng chạy giữa mênh mông cánh đồng Ayun hạ với hàng ngàn héc ta lúa nước, một kỳ tích của công trình thủy lợi Ayun hạ khi nó biến cả một vùng cao nguyên khô khát thành đồng bằng trù phú.

                    Văn Công Hùng kể hồi nhà văn Thế Vũ còn làm Thư ký tòa soạn Tạp chí Văn nghệ Nha Trang, trong một lần anh đưa ông từ Pleiku lên Kon Tum, qua cái nơi giáp ranh giữa hai tỉnh, đột nhiên ông bảo: “Nơi này ngày xưa mình đã từng ở”. Anh hết sức ngạc nhiên, hỏi lại thì ông kể rằng hồi ấy ông là lính “Lao công đào binh” bị điều lên đây. Và thời gian ở đây ông đã viết “Ngày mới đến Pleiku”. Trong số các nhà văn mà Văn Công Hùng quen ở miền Trung – Tây Nguyên có hai ông nhà văn từng là “Lao công đào binh”, đó là ông Thế Vũ và ông Nguyễn Hoàng Thu. Ông Thế Vũ đã mất khi đang là Phó Tổng thư ký tòa soạn báo Thanh Niên; có thể những di chứng chiến tranh với thân phận là người dưới đáy của cuộc chiến ấy đã quật đổ ông. Ông Nguyễn Hoàng Thu cũng từng là phóng viên báo Thanh Niên, giờ đang ở Buôn Ma Thuột. “Lao công đào binh” là những người lính đào ngũ, bị bắt lại đẩy ra tuyến đầu, không được trang bị vũ khí nhưng phải phục vụ chiến tranh, tức là luôn ở chốn hòn tên mũi đạn, là bia chắn đạn, làm tất cả nhưng không được cầm súng. Thế Vũ ngoài tác phẩm “Ngày mới đến Pleiku” còn là tác giả của các tác phẩm “Những vòng hoa ngụy tín”, “Người tù ngoan ngoãn”, “Mưa trên lầu bát giác”, “Công trường cát bỏng”…, còn ông Nguyễn Hoàng Thu thì nổi tiếng với tác phẩm “Người bắt ruồi”, sau này có “Con đường đêm”, “Đi qua bóng tối”, “Krông Ana không đổi dòng”.

                    Ở cực bắc Tây Nguyên này còn sừng sững một “Rừng xà nu”, và xuôi về phía đông là “Đất nước đứng lên”. Văn Công Hùng kể: Cách đây đã lâu, nhiều giáo viên dạy văn, hằng ngày dạy tác phẩm “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành (Nguyên Ngọc) lại không biết cây xà nu là cây gì? Có lần anh lên Đăklây làm phim thì có mấy cô giáo ở ngay Gia Lai và Kon Tum nhắn anh chụp ảnh cây xà nu cho các cô làm giáo cụ trực quan dạy học. Anh bảo: “Nhà các em đang ở dưới tán xà nu đấy thôi”. Thời ấy Pleiku và Kon Tum còn nhiều thông, đến mức có thi nhân có hẳn tập thơ “Khoảng trời lá thông”, nhưng các cô giáo suốt ngày tựa lưng vào thông lim dim mơ mộng lại không biết đó là… xà nu. Còn hai nhân vật trong hai tác phẩm văn chương nổi tiếng của Nguyên Ngọc là cụ Mết và cụ Núp cũng rất lạ, ấy là các ông nổi tiếng trong văn chương và cả ngoài đời, nổi tiếng tới mức khi các ông đang sống, nhiều người đinh ninh các ông đã là… liệt sĩ.

                    Có lần Văn Công Hùng tìm về được làng Xô Man xưa của cụ Mết. Theo anh Đinh Như Rươn, con trai cả của cụ Mết, thì là làng Xô Man cũ có thể tên thật là Xã Đoàn thuộc Tu Dốp ở cách làng bây giờ đến 70 cây số, và hình như nó đã lẫn đâu đó vào rừng già mà ngay cả khi còn sống cụ Mết cũng chưa bao giờ trở lại được nơi ấy kể từ sau năm 1975. Nguyên do là người Tây Nguyên thường xuyên du canh du cư, thay đổi nơi ở và nơi canh tác, lại còn chiến tranh, giặc giã, còn bao yếu tố khác xảy ra trong gần một thế kỷ đầy biến động. Làng mới Xô Man bây giờ cách thị trấn huyện 30 cây số, nhưng đường đi rất khó. Làng Xốp Nghét, xã Xốp ở đấy còn ba người con của người vợ thứ hai của cụ Mết, có cháu dâu và cả chắt nội ngoại. Họ sống khá chật vật… Anh Rươn con trai cả cụ Mết nguyên là giám đốc trung tâm y tế huyện, có vợ làm cùng cơ quan là người Thái Bình, cưới nhau từ hồi ngoài Bắc rồi đưa nhau về quê chồng, sinh được ba con trai đều đã có gia đình riêng. Cụ Mết tên thật là Đinh Môn. Cụ mất năm 2000. Từ thời chiến tranh, ông nổi tiếng đến mức Pháp từng mời về giao chức và phong hàm thiếu tướng nhưng ông không về. Ít người biết rằng ông không biết chữ. Là trung đội trưởng tuyên truyền vũ trang cách mạng, sau này làm Chủ tịch Mặt trận huyện, ông chỉ biết mỗi một chữ Mết khi ký vào văn bản, còn tất cả ông chỉ truyền đạt bằng… lời nói.

                    Còn ông Núp, có lẽ ở Việt Nam không ai không biết ông bởi cái tiểu thuyết “Đất nước đứng lên” của Nguyên Ngọc, một thời nó phổ cập mọi cấp học. Tác giả “Rừng xà nu” cũng chính là tác giả “Đất nước đứng lên”. Làng ông Núp, là cái làng Kông Hoa trong tiểu thuyết ấy chính là làng S’tơ ngoài đời, nằm cách đường 19 chưa đến chục cây số. Lịch sử chiến tranh Việt Nam còn phải nhắc đến chiến thắng GM 100. Trận ấy ở ngay dốc Đăk Pơ. Nhà văn Nguyên Ngọc trước khi quen ông Núp đã đến đây để điều nghiên trận địa này rồi. “Nơi đây, ngày 24 tháng 6 năm 1954, trung đoàn 96 (E96) Quân đội nhân dân Việt Nam cùng với bộ đội địa phương, dân quân du kích và dân công hỏa tuyến, với quân số ít hơn ba lần đã đánh tan binh đoàn 100 (GM 100) tinh nhuệ bậc nhất của quân đội Pháp thời ấy vừa được điều từ chiến trường Triều Tiên về với sự hộ tống của tiểu đoàn khinh quân 520. Với chiến thắng Đak Pơ, Quân đội nhân dân Việt Nam đã bẻ gãy xương sống chiến dịch Atland, tiêu hao 1.100 địch, có 500 chết tại chỗ, 600 bị thương. Bắt sống 800 binh lính, trong đó có quan năm Barroux, chỉ huy GM100. Tịch thu 375 xe cơ giới, có 229 xe còn nguyên vẹn, 1 xe tăng, 18 đại bác 105 li…”. Đó là một số thông tin được ghi ở tấm bia mà Văn Công Hùng có tham gia nội dung. Còn trận này phía Trung đoàn 96 có 147 cán bộ, chiến sĩ hy sinh, hiện đang được vinh danh và thờ tại đền tưởng niệm này, 80 người bị thương. Không chỉ 147 liệt sĩ của trung đoàn 96, nơi đây còn nhiều liệt sĩ của bộ đội địa phương, dân quân du kích và nhiều người vô danh khác.

                    Văn Công Hùng bảo giờ xe xuống xe lên trên đường 19, khi qua khu di tích này nhiều người hay dừng lại thắp hương ở di tích Đăk Pơ. Lịch sử đi qua, nhưng ký ức còn ở lại. Và có cả văn chương…

                    Một thời “hai tay hai súng”    

                    Nhiều đồng nghiệp của Văn Công Hùng khởi nghiệp từ làm báo rồi tiến lên làm thơ, viết văn. Còn anh thì ngược lại, làm thơ từ thời sinh viên rồi mãi sau này mới viết văn, viết báo. Anh đùa, hồi đó cả nước đói ăn thì bọn làm thơ càng đói hơn. Đẻ hai đứa con giữa cái thời khó khăn ấy, anh vẫn kiên trì làm thơ và… nuôi heo. Và việc nuôi heo cũng vào thơ: “Có những giọt nước cơm thừa được đổ vào xô/ Có chiếc xe tòng tọc cột xô nước ấy sau foocbaga/ Có một người chiều nào cũng đi chiếc xe đạp ấy/… Những giọt thơ tích tụ trên đường được nhuộm màu nước gạo/ nghiêng nghiêng nụ cười- ơi vợ- nửa vầng trăng”. Cuối bài còn ghi cẩn thận “Kỷ niệm ngày vợ cân một tạ heo”. Nhưng rồi các con anh đồng loạt vào đại học thì lương hai vợ chồng anh gộp lại chuyển cho chúng xong thì còn lại vừa đủ… ăn xôi sáng. Và thế là anh chuyển sang viết báo, ban đầu là viết để lấy nhuận bút gửi vào Sài Gòn cho con ăn học, rồi dần dần viết song hành với thơ. Cho đến khi con cái trưởng thành, đi làm, có tiền biếu cho bố mẹ rồi thì anh tuyên bố: “Chỉ chơi, không viết nữa”. Nói là thế nhưng không dễ buông, vừa không viết thì biết làm gì, vừa anh em bạn bè ở các báo đặt bài, thế là lại viết, như một duyên nợ đời người.

                    Chị Yến, bà xã Văn Công Hùng làm ngành y, lấy phải ông chồng nhà thơ, không tin thơ có thể nuôi nổi anh chứ đừng nói nuôi con, nên cứ thấy chồng ngồi trước bàn làm thơ là buồn, mà hăng hái đi lấy nước gạo cho heo là vui. Đến lúc thấy anh viết báo có nhuận bút, tằn tiện có thể lo được tiền học cho con thì lại thích anh viết báo hơn… làm thơ. Có lúc nghiêm túc suy ngẫm về báo và thơ, anh cho rằng: Nghĩ cho cùng, “hai tay hai súng” cũng có cái thú của nó, bởi chúng bổ sung cho nhau. Nhưng cũng hết sức cảnh giác, phải luôn nhớ, thơ là thơ mà báo là báo. Viết báo mà như thơ và làm thơ như viết báo là cách nhanh nhất tự hủy diệt mình.

                    Có một thời Văn Công Hùng nghiêng về viết báo, khi anh nhận lời mời của Văn phòng đại diện báo Văn hóa tại khu vực Miền Trung – Tây Nguyên, đóng ở Nha Trang làm đại diện tại Tây Nguyên. Khi ấy anh đã làm báo được gần 20 năm, đã cộng tác với khá nhiều tờ báo, đang hưởng lương chính thức tại một cơ quan báo chí văn nghệ của Gia Lai. Ban đầu anh nhận làm cho vui vì chế độ chỉ là viết bài nào ăn (nhuận bút) bài ấy, mà nhuận bút hồi đó thì rất thấp. Sau đó anh được “nâng cấp” lên thành phóng viên thường trú, được mở văn phòng báo Văn hóa tại Gia Lai – Kon Tum với chế độ phụ cấp mỗi tháng được năm trăm ngàn đồng. Mỗi tháng báo giao một số tin bài, hoàn thành thì có khoản phụ cấp. Kinh phí đi công tác thì tự thanh toán bằng nhuận bút. Thực ra thì lấy việc viết báo làm vui, chứ cả nhuận bút và phụ cấp chả đáng là bao. Hồi ấy toàn xài điện thoại và fax chứ chưa có email như bây giờ, có tháng riêng tiền trả cho bưu điện đã cao hơn tiền phụ cấp.Nhưng nó cũng có cái vướng nữa, khi ấy Văn Công Hùng còn là người phụ trách tờ tạp chí văn nghệ địa phương và là lãnh đạo hội văn nghệ tỉnh nên không phải lúc nào cũng có thể thích thì đi được. Mà đã làm phóng viên thường trú thì phải nghe lệnh tòa soạn. Thi thoảng một cú điện từ Văn phòng miền Trung – Tây Nguyên hoặc từ “báo mẹ” Hà Nội là phải khởi động ngay, nhưng không phải lúc nào cũng… khởi động được. Như có lần gần sập tối, mưa như trút nước, Tổng Biên tập Phí Văn Tường từ Hà Nội gọi: “Ông chạy ngay lên Sa Thầy, chỗ di chỉ Lung Leng ấy, xem tình hình mưa lũ ảnh hưởng thế nào, nghe nói sắp lút hết rồi, sắp xong hết di chỉ rồi. Lên ngay viết bài, mai gửi”. Lung leng là một di chỉ khảo cổ mới phát hiện, trước đấy anh đã viết mấy bài để bên điện lực phải dừng khởi công cho khảo cổ vào làm trước, xác định đây là di chỉ quan trọng, không được cho ngập nước. Giờ thì nó ngập thật, nhưng không phải do thủy điện, mà do… trời. Anh trả lời tổng biên tập là nhà anh cách di chỉ gần 100 cây số, giờ là sập tối, trời mưa không thấy gì, không thể lên được, nhưng anh sẽ điện nhờ chiến hữu trên ấy, có gì sẽ báo cáo. Tức là làm thường trú thì phải luôn trong tư thế cơ động. Một là mình tự cơ động theo việc của mình, và hai là lệnh cơ động của “trên” gồm cả “báo mẹ” ở Hà Nội và Văn phòng báo ở Nha Trang.

                    Nhớ hồi năm 2001 Tây Nguyên có biến, lệnh của trên là báo chí nội bất xuất ngoại bất nhập. Ngay cái buổi sáng có biến ấy, giữa tâm sự kiện, Tổng Biên tập Phí Văn Tường từ Hà Nội có đến mấy cuộc điện thoại cho Văn Công Hùng bảo nếu không được viết bài thì cứ ghi nhận hết sự kiện, sẽ có ích. Sau đó tổng biên tập còn tăng cường người của Văn phòng báo Văn hóa từ Nha Trang lên chi viện. Anh đón các anh Hà Bình, Lê Bá Dương và Khuê Việt Trường đưa vào Đắc Sơ Mây, là điểm nóng nhất khi ấy, khi đến nơi được dân làng mời cả rượu, nói chuyện thân thiện như… chưa từng có việc xảy ra mấy hôm trước. Ngay cuộc giao ban báo chí tuần sau do Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy chủ trì, Văn Công Hùng bị phê bình là đã không tuân thủ quy định, nhưng phê bình xong thì ông Trưởng ban Tuyên giáo nói cá nhân ông thì cảm ơn anh và báo Văn hóa đã xuống tận làng, sâu sát, nắm tâm tư nguyện vọng của dân, đấy là hành động dũng cảm. Chừng nửa tháng sau, “lệnh cấm” được dỡ bỏ, các cơ quan chức năng lại yêu cầu báo chí vào cuộc vì ngay từ khi sự việc đang xảy ra, báo chí nước ngoài đã đồng loạt đưa tin, tất nhiên đưa tin một phía, nhiều tin rất xa sự thực. Giờ cấp trên mới thấy cấm báo nhà là dại, nên bỏ lệnh. Lúc này Văn Công Hùng đã có tư liệu nên ngay lập tức có tin bài nóng hổi và trung thực, dù báo Văn hóa vào đến tay bạn đọc thì nóng mấy cũng thành… nguội vì đi đường xa quá; báo chỉ in ở một điểm duy nhất là Hà Nội và kênh phát hành cũng rất… từ từ.

                    Có lẽ vui nhất những năm “hai tay hai súng” là Văn Công Hùng có nhiều bạn bè. Có lần chị Yến bảo với con gái: “Sao mẹ lại có thời đảm đang thế nhỉ, khách của ba đầy nhà và liên tục, mà ngày nào cũng vui như Tết…”. Nhiều khi nghĩ lại, anh cũng thấy buồn cười. Quen biết đã đành, có đứa chả biết là ai, tự bảo tên này tên kia, là nhà văn, nhà báo ở chỗ nọ chỗ kia, thế là hân hoan phấn khởi đón. Nó đến rồi còn lôi bạn nó đến nữa, chứa hết, vô tư hết, mà là ở nhà tập thể. Có đứa nửa đêm gọi cửa, chủ nhà mắt nhắm mắt mở dậy, nó lảo đảo say, nói em là học trò thầy Phạm Phú Phong. Phạm Phú Phong vừa là nhà văn, nhà giáo đại học, bạn cùng khóa với anh. Nó bảo cho em ngủ nhờ, anh lục tủ lấy cho nó cái vỏ chăn, nó chui vào giữa hai lớp vỏ để chống muỗi, ngủ ngon lành. Sáng đưa đi ăn sáng nó bảo, sao anh tin người thế, lỡ em là cướp thì sao?. Hồi ấy anh ở nhà tập thể, có hai cái giường kê sát nhau, một cái giường to là vợ và hai con gái ngủ, một giường cá nhân là giường của anh, căng một cái ri đô là phòng khách. Ngoài ấy thường xuyên có cái chiếu, lúc nhậu thì nó là chiếu nhậu, sau đấy là chiếu ngủ của bạn bè của anh từ khắp nơi trong cả nước.

                    Ngẫm lại, anh cho rằng một thời khổ nhưng vui. Mà cái thời ấy sống cũng đơn giản, mọi thứ đơn giản, như một cuộc chơi. Có bạn bè, có thơ, anh luôn nhớ về người vợ hiền ngày đêm sát cánh cùng anh. Bài thơ “Vợ” của anh được website VănVN. Net của Hội Nhà văn Việt Nam đánh giá là một trong những bài thơ hay viết về phụ nữ đã thể hiện sâu sắc và độc đáo quan điểm này:

                    “Có những lúc trốn xô bồ ta về tựa vào em
                    như con tàu viễn dương thả neo bám vào đất mẹ
                    cuộc đời lặng thầm, cuộc đời gào thét
                    trở về bên em ta trở lại chính mình

                    Đã từng có lúc bị gục niềm tin
                    ta vịn tình yêu em đứng dậy
                    ta trốn chạy cô đơn bằng bao dung nhân hậu
                    mỗi khi cuộc đời buồn ta lại nhớ về em…”

                    Xin mãi làm “người hát rong”

                    Chuyện làm thơ, làm báo của Văn Công Hùng có nhiều giai thoại, phần lớn tôi nghe thế hệ đàn anh đi trước kể lại. Ngày tôi vào Trường Đại học Tổng hợp, anh em Khoa Văn hay kể, Văn Công Hùng có một ước mơ “để đời” khi còn sinh viên là sau này ra trường được hút hết điếu thuốc lá ngon mà không bị đứa nào xin hút ké. Hồi đó đất nước khó khăn, đói kém hành hạ cái dạ dày đã đành, cái cơ thể của sinh viên cũng đói thuốc lá, cần cái nhựa của ni-cô-tin để xoa dịu cái đói hiện tại. Sau này ra trường, trở thành nhà văn (Văn Công Hùng là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, đã xuất bản 11 đầu sách, trong đó có 8 tập thơ, 2 trường ca và 1 tập bút ký), rồi sau đó nữa làm nhà báo và giàu lên, Văn Công Hùng lại có “tuyên ngôn” khác: “Xin mãi làm người hát rong” – ý nói chỉ làm thơ, rong chơi đây đó, không cần lo nghĩ gì nữa… Còn những chuyện sau là do người ta truyền khẩu hoặc viết lại, như là chuyện hài hước nhưng có thật một trăm phần trăm.

                    Hồi mới lên làm việc ở Ty Văn hóa – Thông tin Gia Lai – Kon Tum (1981), Văn Công Hùng có dịp gặp nhà văn Trung Trung Đỉnh. Nhà văn từng chiến đấu và sáng tác trên mảnh đất Tây Nguyên vào những năm chiến tranh ác liệt, sau này thỉnh thoảng anh trở lại Pleiku thăm chiến trường xưa và đồng đội. Lần nào Văn Công Hùng cũng được phân công lo đón tiếp nhà văn. Được sự khích lệ của nhà văn quân đội, đêm ngày anh hăm hở viết truyện ngắn. Anh mạnh dạn đưa bản thảo cho Trung Trung Đỉnh đọc thử, hồi hộp chờ nhận xét. Nhà văn đọc xong cười, nói: “Tốt nhất theo anh sự đóng góp lớn nhất của chú cho nền văn xuôi nước nhà là hãy đừng bao giờ viết truyện ngắn nữa”. Bị phang một đòn, từ đó anh không bao giờ bén mảng đến thể loại truyện ngắn nữa. May mà còn thơ để anh có cửa nương nhờ, bởi năng khiếu thơ sẵn có trong anh từ thời sinh viên. Nhưng thật oái oăm, ngay bài thơ đầu tiên được in, Văn Công Hùng lại bị dính “đòn”. Đó là bài thơ “Không đề”, in năm 1982, trên tạp chí Văn nghệ Gia Lai – Kon Tum. Bài thơ chỉ có mấy câu: “Tờ lịch mỏng rụng xuống/ Một ngày/ Trục thời gian thêm một vòng trái đất/ Ta loay hoay tìm câu thơ vừa mất/ Tóc trên đầu thêm một sợi chia đôi”. Trong cuộc họp cộng tác viên, tác giả bài thơ bị lãnh đạo nêu ra với kết luận, tư tưởng có vấn đề, tại sao lại phải “loay hoay tìm câu thơ vừa mất”, phải chăng đó là sự tiếc nuối cho chế độ cũ?… Tuy tên anh không được lãnh đạo nêu đích danh, nhưng sau khi giải lao mọi người tiếp tục họp thì không ai dám ngồi cạnh Văn Công Hùng nữa vì sợ… bị liên lụy.

                    Nhưng đâu đã hết, mười năm sau, cũng chỉ qua bài thơ “Suối đá”, in trên một đặc san của tỉnh, Văn Công Hùng bị lãnh đạo nói đây là “Nhân văn giai phẩm”, “phản động”, thậm chí có “âm mưu bạo loạn lật đổ”. Ấy là còn chưa kể, sự kiện xảy ra vụ “án” xuất bản cuốn “Truyện cổ Gia Lai – Kon Tum” do anh biên tập cũng có vị lãnh đạo nêu chuyện “Sự tích Pleiku” kết luận, chuyện cổ tích dám nói xấu Pleiku. Họ suy diễn từ một chi tiết trong truyện cổ tích theo chiều hướng xấu, rồi kết luận cuốn sách có vấn đề, và đòi thu hồi. Ông phó Ty Văn hóa- Thông tin bị phê bình thế làquay về cơ quan mắng “anh là người có học nhất cơ quan mà… ngu”. Sau này Văn Công Hùng viết: “Tôi cho rằng, nhà văn tài hoa là người không kể, không tả, mà phải viết về sự mình cảm nhận, mình chiêm nghiệm về vùng đất ấy. Những xê dịch, những rạn nứt, những đổ vỡ… theo quy luật và cả phi quy luật, tức là các yếu tố khXem tiếp >>

                      Dạy và học 8 tháng 6(08-06-2021)


                    DẠY VÀ HỌC 8 THÁNG 6
                    Hoàng Kim

                    CNM365 Tình yêu cuộc sống. Ta về với đồng xuân; Đại Lãnh nhạn quay về; Cao Biền trong sử Việt; Thầy lúa Bùi Bá Bổng; Chuyện thầy Hoan lúa lai; Chọn giống sắn Việt Nam, Chọn giống sắn kháng CMD; Môhamet và đạo Hồi; Rio phố núi và biển; 500 năm nông nghiệp Brazil; Châu Mỹ chuyện không quên; Minh triết Hồ Chí Minh; Ngày 8 tháng 6 năm 632, ngày mất của nhà tiên tri Hồi giáo Muhammad Ngày 8 tháng 6 năm 1992, Hội nghị thượng đỉnh Trái Đất tại Rio de Janeiro, thành phố giữa núi và biển, Di sản thế giới UNESCO tại  Brasil  thông qua việc thành lập một cơ chế mới của Liên hiệp quốc nhằm giám sát việc tuân thủ các hiệp ước về môi trường. Bài chọn lọc ngày 8 tháng 6: Ta về với đồng xuân; Đại Lãnh nhạn quay về; Cao Biền trong sử Việt; Thầy lúa Bùi Bá Bổng; Chuyện thầy Hoan lúa lai; Chọn giống sắn Việt Nam, Chọn giống sắn kháng CMD; Môhamet và đạo Hồi; Rio phố núi và biển; 500 năm nông nghiệp Brazil; Châu Mỹ chuyện không quên; Minh triết Hồ Chí Minh; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/

                    THẦY LÚA BÙI BÁ BỔNG
                    Hoàng Kim
                    @ Hoàng Long

                    Cánh cửa phát triển lúa lai ở Việt Nam vẫn mở nếu được tiếp sức bởi khoa học công nghệ đang phát triển rất nhanh, những gì hôm nay chưa hề nghĩ tới thì ngày mai thay đổi rồi. GS. Viên Long Bình tổng kết sự thành công trong 4 chữ: tri thức, tận lực, cảm hứng và cơ hội. Đối với cơ hội, ông nói “cơ hội chỉ đến khi có sự chuẩn bị”. Cơ hội mới cho lúa lai Việt Nam sẽ đến khi có sự chuẩn bị“. (Bùi Bá Bổng)

                    Những Thông tin lúa lai liên quan: Câu chuyện lúa lai: Một góc nhìn toàn cảnh (Bùi Bá Bổng NNVN 2 6 2021) ‘Cha đẻ lúa lai mất đi khiến chúng ta càng trân quý hạt gạo’ (Kim Long dẫn lời của giáo sư Phàn Thắng Căn, Đại học Nông nghiệp Trung Quốc, nguyên Tổng giám đốc Viện Nghiên cứu Chính sách Lương thực Quốc tế (IFPRI) NNVN 26 5 2021) Chuyện Bộ trưởng Nguyễn Công Tạn đưa lúa lai về Việt Nam (Quách Ngọc Ân NNVN 27 5 2011); Nguyễn Công Tạn – Nhà quản lý nông nghiệp hàng đầu (TS. Lê Hưng Quốc NNVN 3 11 2014); Giáo sư Viên Long Bình với thành công của lúa lai Việt Nam (AHLĐ, NGND, PGS.TS Nguyễn Thị Trâm NNVN 27 5 2021); Thông điệp của cha đẻ lúa lai – Giáo sư, Viện sỹ Viên Long Bình ( (TS. Lê Hưng Quốc NNVN 24 5 2021) ‘Làm giống lúa lai như cầm dao đằng lưỡi nhưng đó là định mệnh tôi’ (Dương Đình Tường dẫn chuyện ông Đoàn Văn Sáu, giám đốc Công ty TNHH Cường Tân, NNVN 28 5 2021); Lúa lai giúp châu Phi đảm bảo an ninh lương thực (Diệp Tú theo Xinhua, Capital FM, NNVN 28 5 2021); Trong ‘thành trì’ của lúa lai nội (Dương Đình Tường dẫn chuyện TS Lê Hùng Phong, giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Lúa lai, Viện Cây lương thực và Cây thực phẩm NNVN 3 6 2021); Giống lúa lai Long Hương 8117 (PV NNVN 5.6 2021); Hai giống lúa lai mới mang tên Viện sỹ Viên Long Bình (PV NNVN 3.6 2021); Viết tiếp câu chuyện lúa lai ở Việt Nam (II) (Trần Xuân Định NNVN 1 6 2021); Lai thơm 6, giống lúa lai chất lượng cao của Việt Nam (Nguyễn Mười NNVN 31.5.2021); Lúa lai LY2099 tạo ấn tượng mạnh vụ đông xuân (Văn Sơn NNVN 7 6 2021); Nhà nông học Nguyễn Thị Trâm chia sẻ kinh nghiệm tạo giống lúa lai (AHLĐ, PGS Nguyễn Thị Trâm, NNVN 7 6 2021) Con đường phát triển và những tín hiệu tốt đối với lúa lai Việt Nam (PGS.TS Nguyễn Văn Hoan, NNVN 7 6 2021). Lưu ý kết luận của thầy lúa Bùi Bá Bổng, xem tiếp tại https://hoangkimlong.wordpress.com/category/thay-lua-bui-ba-bong/

                    CHUYỆN THẦY HOAN LÚA LAI
                    Hoàng Kim


                    Mừng thầy giống lúa siêu xanh
                    Ngắm nhìn bông lúa đã thành ước mơ
                    Mong bao giờ tới bây giờ
                    Trọn đời cố gắng vẫn chưa thỏa lòng

                    Chúc mừng thầy Nguyễn Văn Hoan “
                    Tiến sĩ lúa lai“, với các kết quả chọn tạo, sản xuất hạt lai, thương mại hóa sản phẩm hạt lai F1, xây dựng hệ thống hoàn chỉnh từ chọn tạo, làm thuần, sản xuất hạt lai đến cung ứng hạt giống lúa lai cho người sản xuất, đã góp phần tích cực quảng bá thương hiệu lúa lai Việt Nam. Giống lúa mới Hạt Vàng 36 (HV36) do Công ty Cổ phần Hạt Giống Vàng Thái Bình đang khảo nghiệm sản xuất, nhân giống hiện nay năm 2020, là sự tiếp nối các thành tựu của thương hiệu lúa lai Việt Nam trên 15 năm trước đó như Việt Lai 36, Việt Lai 27, Việt Lai 24, Việt Lai 20 đã vang bóng một thời trong sản xuất ở các tỉnh phía Bắc và nhóm tác giả đã đoạt giải VIFOTECH năm 2009. PGS TS Nguyễn Văn Hoan là tác giả bốn sách cẩm nang lúa: “Kỹ thuật thâm canh lúa ở hộ nông dân” (NXB Nông nghiệp 1995); “Lúa lai và kỹ thuật thâm canh”; “Kỹ thuật thâm canh mạ” (NXB Nông nghiệp-Hà Nội 2002); “Cây lúa và kỹ thuật thâm canh cao sản” (Viện Nghiên cứu phổ biến kiến thức Bách khoa 2004).. Chuyện thầy Hoan lúa lai tôn vinh người thầy tâm huyết nghề nông tạo dựng thương hiệu lúa lai Việt Nam, thầy trên 70 xuân và bị tai biến, vẫn tự nguyện dấn thân ở Tây Nguyên cùng vợ con và đồng nghiệp dốc lòng cho thương hiệu Hạt Vàng. Tâm đức, nghị lực cao quý đó, và thành công tiếp nối đó, là rất đáng trân trọng và khâm phục; xem tiếphttps://hoangkimlong.wordpress.com/category/chuyen-thay-hoan-lua-lai/

                    Xem tiếp >>

                      Dạy và học 7 tháng 6(07-06-2021)

                     

                     

                     

                    DẠY VÀ HỌC 7 THÁNG 6
                    Hoàng Kim

                    CNM365 Tình yêu cuộc sống Ta về với đồng xuânPushkin 9 kiệt tác thơ tình; Phan Thiết có nhà tôi; Ấn Độ địa chỉ xanh; Trường tôi nôi yêu thương, Học lắng nghe cuộc sống; Chọn giống sắn Việt Nam; Sắn Việt và Sắn Thái; Tứ Cô Nương bạn tôi, Ngày 7 tháng 6 năm 1654, Louis XIV cử hành nghi lễ đăng quang quốc vương của Pháp. Vua Louis XIV là người năm 1682, xây dựng Điện Versailles, di sản thế giới tại Pháp, là cung điện hoàng gia vĩ đại nhất thế giới. Ngày 7 tháng 6 năm 1891 là  ngày mất  Đỗ Huy Liêu, danh sĩ và quan nhà Nguyễn Việt Nam (sinh năm 1845). Bài chọn lọc ngày 7 tháng 6: Ta về với đồng xuân: Pushkin 9 kiệt tác thơ tình; Phan Thiết có nhà tôi; Ấn Độ địa chỉ xanh; Trường tôi nôi yêu thương; Chọn giống sắn Việt Nam; Sắn Việt và Sắn Thái; Tứ Cô Nương bạn tôi; Nhà Trần trong sử Việt; Trần Quang Khải thơ thần; Bảy Núi Thiên Cấm Sơn; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/;;;

                     

                     

                     

                     

                    TA VỀ VỚI ĐỒNG XUÂN
                    Hoàng Kim

                    Người khôn về chốn đông người
                    Cái nhìn thì mỏng, cái cười thì nông
                    Ta vui ở lại ruộng đồng
                    Để gieo tục ngữ để trồng dân ca.

                    Thỏa thuê cùng với cỏ hoa
                    Thung dung đèn sách, nhẫn nha dọn vườn
                    Mặc ai tính thiệt so hơn
                    Bát cơm gạo mới vẫn thơm láng giềng

                    Thiên nhiên là thú thần tiên
                    Chân quê là chốn bình yên đời mình
                    Bạn hiền bia miệng anh linh
                    Thảnh thơi hưởng trọn ân tình thế gian

                    Nước trong ngập ánh trăng vàng
                    Ta ra cởi bỏ nhọc nhằn âu lo
                    Lợi danh một thực mười hư
                    Trăm điều ước vọng chỉ phù du thôi

                    Ung dung thanh thản cuộc đời
                    Tình quê bồi đắp về nơi sâu đằm
                    Ta về sống giữa thiên nhiên
                    Chọn tìm giống tốt đêm nằm chiêm bao.

                    2

                    NGÀY MỚI BÌNH MINH AN
                    Hoàng Kim

                    Niềm vui ngày mới đồng xuân
                    Quả ngon trái ngọt ân cần mẹ cha
                    Bội thu giống quý đất nhà
                    Thung dung năm tháng có hoa 4 mùa
                    Siêu thị chọn tốt mà mua
                    Nước phân cần giống nắng mưa có thời

                    xem tiếp
                    https://www.giongchuanf1.xyz/xoai?fbclid=IwAR0Pm75ywVkYW5sf2MzbsWfsjBZZSf8lfz8dK_oyB3ITwco-TKjYBk3gA6s
                    https://wordpress.com/post/hoangkimlong.wordpress.com/category/ta-ve-voi-dong-xuan/

                     

                     

                     

                     

                     

                    PUSHKIN 9 KIỆT TÁC THƠ TÌNH
                    Thơ Pushkin bình minh Nga
                    Pushkin là mặt trời thi ca Nga.
                    Thơ Pushkin kiệt tác văn chương .
                    Hoàng Kim bảo tồn di sản.

                    Pushkin là hậu duệ gia đình Boyar
                    con người tinh thần đất nước Nga.
                    Mẹ là dòng dõi Abram Gannibal
                    một nô lệ da đen tuyệt đỉnh thông minh.
                    Ông làm con nuôi của Pie Đại Đế
                    là vị vua lừng lẫy nhất nước Nga.
                    Pushkin mất ngày 10 tháng 2 năm 1837
                    do đấu súng trong danh dự và trọng thương
                    38 tuổi xuân với di sản văn chương kiệt tác

                    Chín bài thơ tình tuyệt hay đã đưa tiếng Nga đến nhiều người học
                    Gorki tôn vinh thơ Pushkin là “khởi đầu của mọi khởi đầu”
                    Bielinxki ngợi ca “nhà cải cách vĩ đại của văn học Nga”
                    Gôgôn khen tặng  “con người của tinh thần Nga”
                    Chúng ta học để đi trên con đường di sản

                    Tôi yêu em
                    Con đường mùa đông
                    Biển
                    Ta nhớ biển trước khi cơn bão đến
                    Em bảo anh đi đi
                    Vô tình
                    Tỉnh thức
                    Sương và Nắng
                    Nhớ …

                    Thơ Puskin như biển cả
                    Lồng lộng trời biển và em
                    Thơ Puskin là bình minh Nga
                    Trước biển trời xuân tỉnh thức


                    Puskin 9 kiệt tác thơ tình
                    và các bản dịch tiếng Việt

                    Я вас любил

                    Я вас любил: любовь еще, быть может,
                    В душе моей угасла не совсем;
                    Но пусть она вас больше не тревожит;
                    Я не хочу печалить вас ничем.

                    Я вас любил безмолвно, безнадежно,
                    То робостью, то ревностью томим;
                    Я вас любил так искренно, так нежно,
                    Как дай вам бог любимой быть другим.

                    Dịch nghĩa

                    Tôi đã yêu em: tình yêu hãy còn, có lẽ là
                    Trong lòng tôi (nó) đã không tắt hẳn;
                    Nhưng thôi, hãy để nó chẳng quấy rầy em thêm nữa.
                    Tôi không muốn làm phiền muộn em bởi bất cứ điều gì.

                    Tôi đã yêu em lặng thầm, không hy vọng,
                    Bị giày vò khi thì bởi sự rụt rè, khi thì bởi nỗi hờn ghen.
                    Tôi đã yêu em chân thành đến thế, dịu dàng đến thế,
                    Cầu Chúa cho em vẫn là người được yêu dấu như thế bởi người khác.

                    1829

                    Tôi yêu em
                    Pushkin
                    bản dịch thơ của Thúy Toàn

                    Tôi yêu em: đến nay chừng có thể.
                    Ngọn lửa tình chưa hẳn đã tàn phai;
                    Nhưng không để em bận lòng thêm nữa,
                    Hay hồn em phải gợn bóng u hoài.

                    Tôi yêu em âm thầm không hy vọng,
                    Lúc rụt rè, khi hậm hực lòng ghen,
                    Tôi yêu em, yêu chân thành đằm thắm,
                    Cầu em được người tình như tôi đã yêu em.

                    Nguồn: Thơ Pushkin, Thi Viện
                    1. Puskin, Thơ trữ tình, NXB Văn học, Hà Nội, 1986
                    2. Tuyển tập Alexandr Puskin (thơ, trường ca), NXB Văn học, 1999

                    Зимняя дорога

                    Сквозь волнистые туманы
                    Пробирается луна,
                    На печальные поляны
                    Льет печально свет она.

                    По дороге зимней, скучной
                    Тройка борзая бежит,
                    Колокольчик однозвучный
                    Утомительно гремит.

                    Что-то слышится родное
                    В долгих песнях ямщика:
                    То разгулье удалое,
                    То сердечная тоска…

                    Ни огня, ни черной хаты…
                    Глушь и снег… Навстречу мне
                    Только версты полосаты
                    Попадаются одне.

                    Скучно, грустно… Завтра, Нина,
                    Завтра, к милой возвратясь,
                    Я забудусь у камина,
                    Загляжусь не наглядясь.

                    Звучно стрелка часовая
                    Мерный круг свой совершит,
                    И, докучных удаляя,
                    Полночь нас не разлучит.

                    Грустно, Нина: путь мой скучен,
                    Дремля смолкнул мой ямщик,
                    Колокольчик однозвучен,
                    Отуманен лунный лик.

                    Dịch nghĩa

                    Xuyên qua sương mù gợn sóng
                    Mặt trăng nhô ra,
                    Trăng buồn bã dội ánh sáng
                    Lên cánh đồng u buồn.

                    Trên đường mùa đông buồn tẻ
                    Xe tam mã vun vút lao đi,
                    Lục lạc đơn điệu
                    Mệt mỏi rung lên.

                    Có gì vang lên thân thiết
                    Trong các khúc hát ngân nga của xà ích:
                    Khi thì niềm vui rộn rã
                    Khi thì nỗi buồn tâm tình…

                    Không một ánh lửa, mái lều.
                    Rừng sâu và tuyết… Ngược chiều tôi
                    Chỉ có cột sọc chỉ đường
                    Chạy tới…

                    Chán ngán, buồn quá… Ngày mai, Nhina
                    Ngày mai, quay về với em yêu
                    Tôi sẽ lặng người bên lò sưởi,
                    Ngắm em không chán mắt

                    Kim đồng hồ tích tắc
                    Quay hết vòng đều đều của nó,
                    Và xua đám người tẻ ngắt,
                    Nửa đêm, không rẽ chia ta.

                    Buồn quá, Nhina: đường tôi đi tẻ ngắt,
                    Bác xà ích lặng lẽ thiu thiu,
                    Tiếng lục lạc đơn điệu,
                    Mặt trăng mờ sương.

                    1826

                    Con đường mùa đông
                    Pushkin
                    bản dịch thơ của Thúy Toàn

                    Xuyên những làn sương gợn sóng
                    Mảnh trăng mờ ảo chiếu qua
                    Buồn dải ánh vang lai láng
                    Trên cánh đồng buồn giăng xa

                    Trên con đường mùa đông vắng vẻ
                    Cỗ xe tam mã băng đi
                    Nhạc ngựa đều đều buồn tẻ
                    Đều đều khắc khoải lòng quê

                    Bài ca của người xà ích
                    Có gì phảng phất thân yêu:
                    Như niềm vui mừng khôn xiết
                    Như nỗi buồn nặng đìu hiu

                    Không một mái lều, ánh lửa…
                    Tuyết trắng và rừng bao la…
                    Chỉ những cột dài cây số
                    Bên đường sừng sững chào ta

                    Ôi, buồn đau, ôi cô lẻ…
                    Trở về với em ngày mai
                    Nhina, bên lò lửa đỏ
                    Ngắm em, ngắm mãi không thôi

                    Kim đồng hồ kêu tích tắc
                    Xoay đủ những vòng nhịp nhàng
                    Và xua lũ người tẻ ngắt
                    Để ta bên nhau trong đêm

                    Sầu lắm. Nhina, đường xa vắng
                    Ngủ quên, bác xà ích lặng im
                    Nhạc ngựa đều đều buông xa thẳm
                    Sương mờ che lấp ánh trăng nghiêng.

                    Nguồn: Thơ Pushkin, Thi Viện
                    1. Puskin, Thơ trữ tình, NXB Văn học, Hà Nội, 1986
                    2. Tuyển tập Alexandr Puskin (thơ, trường ca), NXB Văn học, 1999

                    Biển
                    Pushkin

                    Tôi chưa ra biển bao giờ
                    Ngỡ biển xanh, xanh màu im lặng
                    Tôi chưa yêu bao giờ
                    Ngỡ tình yêu là ảo mộng

                    Ngày nay tôi đã ra biển rồi
                    Biển nhiều sóng to, gió lớn
                    Ngày nay tôi đã yêu rồi
                    Tình yêu nhiều khổ đau – cay đắng

                    Không gió lớn, sóng to không là biển
                    Chẳng nhiều cay đắng, chắng là yêu…

                    Nguồn: Thơ hay về biển (Hoàng Kim tuyển chọn)
                    1. Puskin, Thơ trữ tình, NXB Văn học, Hà Nội, 1986
                    2. Tuyển tập Alexandr Puskin (thơ, trường ca), NXB Văn học, 1999

                    “Я помню море пред грозою”

                    Я помню море пред грозою:
                    Как я завидовал волнам,
                    Бегущим бурной чередою
                    С любовью лечь к ее ногам!
                    Как я желал тогда с волнами
                    Коснуться милых ног устами!
                    Нет, никогда средь пылких дней
                    Кипящей младости моей
                    Я не желал с таким мученьем
                    Лобзать уста младых Армид,
                    Иль розы пламенных ланит,
                    Иль перси, полные томленьем;
                    Нет, никогда порыв страстей
                    Так не терзал души моей!

                    Ta nhớ biển trước khi cơn bão đến
                    Pushkin
                    bản dịch thơ của Cẩm Hà

                    Ta nhớ biển trước khi cơn bão đến:
                    Ta ghen với từng con sóng trào dâng
                    Sóng trập trùng lớp lớp mênh mông
                    Mang tình yêu dưới chân nàng phủ phục!
                    Ta ước ao cùng từng ngọn sóng
                    Hôn ngón chân yêu kiều bằng dịu nhẹ bờ môi!
                    Không, chẳng bao giờ giữa năm tháng sục sôi
                    Cuồng nhiệt nấu nung thời ta trai trẻ
                    Ta từng mong, xót xa đến thế,
                    Hôn đôi môi nàng Armide tuổi xuân
                    Hay đôi má hồng rực bỏng thanh tân
                    Hay bầu ngực, tràn đầy náo nức;
                    Không, chưa bao giờ tâm hồn ta day dứt
                    Đến dường này vì khao khát đam mê!

                    Em bảo anh đi đi…
                    Pushkin

                    Em bảo: “Anh đi đi”
                    Sao anh không đứng lại ?
                    Em bảo: “Anh đừng đợi”
                    Sao anh vội về ngay ?

                    Lời nói thoảng gió bay
                    Đôi mắt huyền đẫm lệ
                    Mà sao anh dại thế
                    Không nhìn vào mắt em

                    Mà sao anh dại thế
                    Không nhìn vào mắt em
                    Không nhìn vào mắt sầu
                    Không nhìn vào mắt sâu ?

                    Những chuyện buồn qua đi
                    Xin anh không nhắc lại
                    Em ngu khờ vụng dại
                    Anh mơ mộng viễn vông

                    Đời sống nghiệt ngã không
                    cho chúng mình ấm mộng
                    Thì thôi xin gửi sóng
                    Đưa tình về cuối sông

                    Thì thôi xin gửi sóng
                    Đưa tình về cuối sông
                    Đưa tình về với mộng
                    Đưa tình vào cõi không.

                    Vô tình
                    Pushkin

                    Vô tình anh gặp em
                    Rồi vô tình thương nhớ
                    Đời vô tình nghiệt ngã
                    Nên chúng mình yêu nhau

                    Vô tình nói một câu
                    Thế là em hờn dỗi
                    Vô tình anh không nói
                    Nên đôi mình xa nhau

                    Chẳng ai hiểu vì đâu
                    Đường đời chia hai ngả
                    Chẳng ai có lỗi cả
                    Chỉ vô tình mà thôi

                    Vô tình suốt cuộc đời
                    Anh buồn đau mải miết
                    Vô tình em không biết,
                    Hay vô tình em quên?
                    Anh buồn đau mải miết,
                    Cả cuộc đời không quên!

                    Chỉ vô tình mà thôi,
                    Chẳng ai có lỗi cả;
                    Đường đời chia hai ngả,
                    Chẳng ai hiểu vì đâu

                    Vô tình anh không nói,
                    Vô tình nói một câu,
                    Thế là em hờn rỗi,
                    Thế là mình xa nhau.

                    Giá như mình yêu nhau,
                    Đời chắc không nghiệt ngã,
                    Trời cũng thương, cũng nhớ,
                    Cho mình gặp lại nhau.

                    Tỉnh thức
                    Pushkin

                    Ước mơ, ước mơ
                    Ngọt ngào em đâủ
                    Em đâu, em đâu
                    Niềm vui đêm tốỉ
                    Sao em đi vội
                    Ôi, giấc mơ tiên?
                    Để anh ở lại
                    Bốn bề màn đêm.
                    Quạnh hiu tỉnh giấc
                    Chăn gối xung quanh
                    Và đêm lặng ngắt
                    Thoắt thôi lạnh mình
                    Thoắt thôi bay mất
                    Bao giấc mơ tình!
                    Nhưng hồn đầy ắp
                    Ước muốn còn xanh

                    Sương và Nắng
                    Pushkin

                    Em cần anh như biển xanh cần sóng.
                    Có mặt biển nào yên lặng được đâu anh.
                    Em yêu anh bởi vì anh là nắng.
                    Có hạt sương nào thiếu nắng lại long lanh.

                    Em là sương, sương chỉ tan trong nắng.
                    Dẫu chẳng hình hài nắng vẫn đọng lại trong sương.
                    Anh là nắng khi bình minh trở dậy.
                    Mang lửa trời trong ánh sáng ban mai.
                    Em là sương đọng muôn vàn nỗi nhớ.
                    Để tan đi trong những giấc mơ dài.
                    Nhưng vẫn nguyện làm giọt sương mãi mãi.
                    Soi nắng mặt trời mãi mãi chẳng tàn phai.
                    Dẫu bão tố chẳng ra ngoài lòng nắng.
                    Nắng lên rồi xin lại được làm sương.
                    Vũ trụ không gian biến đổi khôn lường.
                    Những buổi sáng có bao giờ bất biến.
                    Những tia nắng không ngừng hiển hiện.
                    Như đêm ngày luân chuyển chẳng chia ly.
                    Mặt trời ơi! Sức nắng diệu kỳ.
                    Đầy sương sớm với tâm hồn nguyên thuỷ.
                    Với năm tháng vẫn quay về bền bỉ.
                    Soi nắng mặt trời như từ kỷ sơ sinh.

                    Em là sương, sương chỉ tan trong nắng.
                    Nắng vô cùng nhưng đọng lại trong sương.
                    Từ mênh mông tia nắng nhỏ bình thường.
                    Gặp sương sớm bỗng ngời lên lóng lánh.
                    Nếu vì nắng mà lòng sương bớt lạnh.
                    Thì nhờ sương tia nắng mới long lanh.
                    Đáng yêu sao hạt sương nhỏ hiền lành.
                    Từ trong suốt mà làm nên tha thiết.
                    Anh là nắng với sắc tình bất diệt.
                    Mang lửa trời từ những kỷ xa xôi.
                    Về đọng lại trong hạt sương nhỏ em ơi!

                    Nhớ
                    Pushkin

                    Lạ quá ! Không hiểu vì sao
                    Ðứng trước em anh lạnh lùng đến thế ?
                    Nhưng anh đi rồi mình anh với bóng lẻ
                    Mới thấy mình khẽ nói : Nhớ làm sao ?!

                    Chúng nó cứ bảo nhớ là yêu
                    Còn anh thì không biết nữa
                    Tình yêu với anh sao kỳ lạ thế
                    Lúc xa rồi mới thấy mình yêu !

                    Tình yêu đến nào ai có biết
                    Tình yêu đi nào ai có hay ?
                    Theo thời gian, trái đất nó cũng quay
                    Tình yêu đến, tình yêu đi …
                    nào ai có biết

                    PHAN THIẾT CÓ NHÀ TÔI
                    Hoàng Kim

                    Phan Thiết có nhà tôi
                    Ra khỏi cửa rừng là nhà cửa biển
                    Tà Cú ngất cao, thong thả tượng Phật nằm
                    Đồi Trinh nữ nhũ hồng đắm say cảm mến.

                    Phan Thiết có nhà tôi
                    Quên hết bụi trần
                    Lãng đãng tứ cô nương
                    Ngọt lịm một lời thách đối:
                    Chứa Chan, Chán Chưa, Chưa Chán.

                    Phan Thiết có nhà tôi
                    Vị tướng trỏ tay thề
                    Mũi Kê Gà mắt thần canh biển
                    Ai đi xa nhớ nước mắm mặn mòi

                    Phan Thiết có nhà tôi
                    Sau đồi cát kia là dinh Thầy Thím
                    Lánh chốn ồn ào, tìm nơi tĩnh vắng
                    Tin nhắn một chiều  Im lặng và Nghe
                     

                     

                     

                      

                    PHAN THIẾT CÓ BẠN TÔI
                    Thanh Chung

                    Phan Thiết có bạn tôi
                    Lâm Cúc ở rừng, Kim Oanh ở biển
                    Thân nhau như chị em ruột thịt
                    Hoài Vân và tôi thành “tứ cô nương”

                    Phan Thiết có bạn tôi
                    Chiều lãng đãng qua chùa
                    Thắp hương cầu Phật
                    Bật cười nghe sư thầy hát
                    “Em ơi trái đất vẫn tròn…”

                    Phan Thiết có bạn tôi
                    Bãi biển đêm bỗng sáng rực đèn trời
                    Bập bùng ánh lửa
                    Chú rể – cô dâu nắm tay nhảy múa
                    Ì ầm cơn mưa

                    Phan Thiết có bạn tôi
                    Đêm chẳng thể dài hơn
                    Mặt trời tỉnh giấc
                    Tay nắm bàn tay
                    Âm thầm nước mắt
                    Thương nhau.

                    (Tháng 7 năm 2009)

                     

                     

                     

                     

                    ĐỊA CHỈ XANH ẤN ĐỘ
                    Hoàng Kim

                    Tôi lưu lại một ít hình ảnh và ghi chép tôn vinh đất nước con người Ấn Độ, tình bạn và sự hợp tác cao quý Ấn Việt:
                    CNM365Tình yêu cuộc sống, Địa chỉ xanh Ấn Độ, Minh triết của đức Phật; Tagore Thánh sư Ấn Độ;Giống lạc HL25 Việt Ấn; Học để làm ở Ấn Độ;Thơ dâng theo dấu Tagore; Tĩnh lặng với Osho; Việt Nam con đường xanh; giúp bảo tồn các kỷ niệm đẹp khó phai mờ theo thời gian. https://hoangkimlong.wordpress.com/category/an-do-dia-chi-xanh/ 

                     

                     

                     

                     

                     

                    Minh triết của đức Phật

                    Tôi nhiều lần đến Ấn Độ, đã một lần may mắn tới được quê hương Phật, và tự mình trồng một nhánh Bồ Đề ở vườn nhà để nay cây đã lớn. Trong lòng tôi minh triết của đức Phật là triết lý tình yêu cuộc sống.Lời Phật dạy trong tôi lắng đọng 28 khẩu quyết yêu thích mà tôi thật sự tâm đắc.
                     

                     

                     

                     

                     

                     

                    An nhiên
                    CNM365

                    Thả cho nó bay.
                    Hòa nhã với tất cả
                    Chọn bạn mà chơi
                    Tình yêu cuộc sống
                    Yêu thương và Sống
                    Không ai có thể đi giúp ta.
                    Yêu quý hết thảy muôn loài.
                    Con nghĩ cái gì, con là cái đó.
                    Bỏ đi những hư danh giả tạm.
                    Hãy cho đi và con sẽ còn mãi.
                    Cây kim trong bọc có ngày lòi ra
                    Đoàn kết là sống, chia rẽ là chết
                    Minh triết trước hết là tự biết mình.
                    Tìm về suối nguồn bình yên bên trong con
                    Đừng tin vào mọi thứ con được dạy phải tin.

                    Chuyển hóa nỗi ghen ghét thành sự khâm phục.
                    Bí quyết để có sức khỏe tốt là an trú trong hiện tại..
                    Hãy làm chủ suy nghĩ nếu không nó sẽ làm chủ con
                    Đời sống tâm linh không là sang trọng mà là nhu cầu
                    Con không là những gì con nói mà là những gì con làm
                    Ai biết nhìn vào trong tự thân mình thì người đó tỉnh thức.
                    Niềm hạnh phúc không bao giờ cạn kiệt khi ta biết chia sẻ
                    Không có đường đến hạnh phúc. Hạnh phúc là con đường
                    Hiểu được người là khôn ngoan, hiểu được mình là giác ngộ.
                    Lời nói có sức mạnh vừa có thể gây tổn thương, vừa có thể trị lành.
                    Không ai xứng đáng nhận được tình thương của con hơn là chính con.

                     

                     

                     

                     

                     Tagore Thánh sư Ấn Độ

                    Rabindranath Tagore, sinh ngày 7 tháng 5 năm 1861,  mất ngày 7 tháng 8 năm 1941, tại Konkata, Ấn Độlà người châu Á đầu tiên đoạt giải Nobel Văn học năm 1913. Tagore không chỉ là nhà thơ và văn hóa lớn Bengal, một triết gia lỗi lạc có đạo đức phẩm hạnh cao quý được Gandhi và  mọi người Ấn Độ gọi là Thánh sư, mà còn là nhà hoạt động xã hội nổi tiếng vì phong trào giải phóng Ấn Độ, vì con người, vì nhân đạo và hòa bình. Tagore là niềm tự hào của trên 1,2 tỷ người Ấn Độ, là nguồn cảm hứng của hơn 200 triệu người Bengal sống ở Tây Bengal của Ấn Độ và Bangladesh cũng như nhiều người trên khắp thế giới. Tagore đã đến Việt Nam. Thơ Tagore đến với bạn đọc người Việt qua các bản dịch của Đỗ Khánh Hoan, Đào Xuân Quý và các dịch giả khác.

                    Tôi yêu mây và sóng Tagore
                    Hoàng Kim

                    tỉnh thức với Jana Gaṇa Mana
                    tôi yêu mây và sóng Tagor.
                    thích tranh Tagor bút chì tự họa
                    bài ca thời gian trăng rằm cổ tích
                     

                     

                     

                     

                     Học để làm ở Ấn Độ

                    Nghị Khắc NhuICRISAT.1 tháng 4, 2016Hyderabad, Telangana, Ấn Độ viết trên FB: Cây lúa miến hay cây cao lương (tên tiếng Anh là Sorghum), cây này đã đi vào truyền thuyết của người Việt những năm bao cấp đói khát với tên gọi bo bo (Có 1 người rất bự Việt Nam vào năm 1976 đã xưng rằng: “10 năm nữa mỗi người Việt Nam sẽ có 1 xe máy, 1 tivi, 1 tủ lạnh”, nhưng kết quả trong 10 năm đó gạo không có đủ mà ăn bo bo) Trong 1 tháng tập huấn bên Ấn Độ, tôi được họ giới thiệu rất nhiều về cây này, bên cạnh cây Millet (cây kê). Nó được Viện Nghiên cứu Cây trồng Quốc tế cho những vùng nhiệt đới bán khô hạn (International Crops Research Institute for the Semi-Arid Tropics – ICRISAT) có trụ sở tại Ấn Độ nghiên cứu rất nhiều. Và hầu hết đều là sweet-sorghum, cho mục đích cung cấp thêm nguồn lương thực ngoài cây lúa. Hạt của giống “bo bo” này không đắng như lúc các thế hệ trước của chúng ta ăn. Đây được xem là cây trồng lý tưởng cho vùng Hyderabad, tỉnh Telangana của Ấn Độ, nơi có mùa khô thật sự khắc nghiệt. Viện này có hơn 40 nước và các tổ chức phi chính phủ cung cấp tài chính cho việc nghiên cứu, trong đó có cả Thái Lan và Philippines, nhưng rất tiếc không có Việt Nam. Trong lúc tìm thêm vài hình minh họa (do số lượng hình tự chụp không đủ dùng), mới biết bác Hoàng Kim cũng có làm về cây này.

                    Tôi đã nhiều lần tới Ấn Độ, tời ICRISAT (Viện Nghiên cứu Cây trồng Quốc tế cho những vùng nhiệt đới bán khô hạn International Crops Research Institute for the Semi-Arid Tropics, Patancheru, India) với CTCRI (Viện Cây Có Củ Toàn Ấn Central Tuber Crops Research Institute Trivandrum 695017 India) và nhiều nơi. Tôi có nhiều thầy bạn quý thân thiết ở đó. Trãi trên một phần tư thế kỷ, thầy bạn là lộc xuân cuộc đời, nhưng tôi chỉ mới lưu lại được một ít hình ảnh và những ghi chú nhỏ (Notes) ởđây. Nay bình tâm nhớ lại và suy ngẫm.

                    Bài học quý giá nhất của tôi học được từ đất nước Ấn Độ là triết lý vô ngã. HÃY LÀ CHÍNH MÌNH, HỌC ĐỂ LÀM, HỌC BỞI LÀM (Learning by Doing/ Learning to Doing). Tôi chưa viết được gì về Ấn Độ đất nước và con người, chưa kể được nhiều nhặn gì về đất nước và con người mà tôi nhiều quý trọng. ICRISATở Ấn Độ; Địa chỉ xanh Ấn Độ là phóng sự ảnh, là ấn tượng sâu sắc trong lòng tôi, đối với các người bạn lớn Ấn Độ và các người bạn nước khác tới ‘chung lưng đấu cật’ cho nông nghiệp ở đất nước Việt Nam. 

                     

                    Dia chi xanh An Do 7

                     

                    Triết lý vô ngã Learning by Doing là sự hợp tác thân thiện, một bài học thành công. Ảnh Tiến sĩ Wiliam Dar và Tiến sĩ C L Laxmipathi Gowda là Viện Trưởng và Phó Viện Trưởng của Viện ICRISAT Ấn Độ với PGS.TS Nguyễn Văn Bộ với. GS.TS Bùi Chí Bửu là Viện Trưởng và Phó Viện Trưởng Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam (VAAS), GSTS Nguyễn Hay là Hiệu trưởng Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh với các chuyên gia Quốc tế FAO, IFAD, CIAT, … và Việt Nam tổng kết dự án hợp tác nông nghiệp tại thành phố Hồ Chí Minh năm 2011. 

                     

                    Dia chi xanh An Do 4

                     

                     

                    Ảnh Giáo sư Tiến sĩ

                    Xem tiếp >>