Số lần xem
Đang xem 2414 Toàn hệ thống 4301 Trong vòng 1 giờ qua
Trang liên kết
Tỉnh thức
giữa đêm thiêng Yên Tử
Để thấm hiểu đức Nhân Tông
Ta thành tâm đi bộ
Lên tận đỉnh chùa Đồng
Tâm sáng Ức Trai
trong tựa ngọc TÌNH YÊU CUỘC SỐNG
DẠY VÀ HỌC Để chấn hưng giáo dục Việt Nam cấp thiết phải có đội ngũ những người thầy giáo ưu tú có tâm đức thiết tha với nghề, có trình độ chuyên môn cao và có kỹ năng giảng dạy tốt. Đây là trang thông tin chuyên đề dạy và học để trao đổi và bàn luận
Norman Borlaug Lời Thầy dặn Việc chính đời người chỉ ít thôi
Chuyên tâm đừng bận chuyện trời ơi
Phúc hậu suốt đời làm việc thiện
Di sản muôn năm mãi sáng ngời.
Sông Hóa ơi Bạch Đằng Giang
Ta đến nơi đây chẳng một lần
Lời thề sông núi trời đất hiểu (*) Lời dặn lại của Đức Thánh Trần
Sông Hóa ơi hời ơi Linh Giang
Quê hương liền dải tụ trời Nam
Minh Lệ, Hưng Long hai bầu sữa
Hoàng Gia trung chính một con đường.
Rào Nan Đá Dựng chốn sông thiêng
Nguồn Son Chợ Mới đẹp ân tình
Minh Lệ đình xưa thương làng cũ
Nguyện làm hoa đất của quê hương.
Đất nặng ân tình đất nhớ thương
Ta làm hoa đất của quê hương
Để mai mưa nắng con đi học
Lưu dấu chân trần với nước non.
(*) Trương Hán Siêu “Phú sông Bạch Đằng” đã thuật lại cuộc chiến sông Bạch Đằng nơi voi chiến sa lầy rơi nước mắt và lời thề trên sông Hóa 1288 của Hưng Đạo Vương Lời thơ hào hùng bi tráng: “Thuyền bè muôn đội, tinh kỳ phấp phới/ Hùng dũng sáu quân, giáo gươm sáng chói/[…]/ Trận đánh được thua chửa phân/ Chiến lũy bắc nam đối chọi/[…]/ Tất Liệt thế cường, Lưu Cung chước dối/ Những tưởng gieo roi một lần/ Quét sạch Nam bang bốn cõi/[…]/Trời cũng chiều người/ Hung đồ hết lối!” Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải viết: ‘Thái bình tu nổ lực/ Vạn cổ thử giang san”. — cùng với Tình yêu cuộc sống, Kim Hoàng, Nguyễn Thanh Bình, Nguyễn Thị Thủy và Hoang Long.
LỜI DẶN LẠI CỦA ĐỨC THÁNH TRẦN
Hoàng Kim Quốc Công Tiết chế Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn mất ngày 20 tháng 8 âm lịch năm 1300. Người được dân Việt tôn kính gọi là Đức Thánh Trần. Vua Trần Anh Tông lúc Đức Thánh Trần sắp lâm chung có ân cần ngự tới nhà thăm, hỏi rằng: “Nếu có điều chẳng may, mà giặc phương Bắc lại sang xâm lược thì kế sách như thế nào?”. Đức Thánh Trần trả lời: “khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước vậy”. Nguyên văn: “Ngày xưa Triệu Vũ Đế (tức Triệu Đà) dựng nước, vua nhà Hán cho quân đánh, nhân dân làm kế thanh dã (vườn không nhà trống), đại quân ra Khâm Châu, Liêm Châu đánh vào Trường Sa, Hồ Nam, còn đoản binh thì đánh úp phía sau. Đó là một thời. Đời nhà Đinh, nhà Tiền Lê dùng người tài giỏi, đất phương nam mới mạnh mà phương bắc thì mệt mỏi suy yếu, trên dưới một dạ, lòng dân không lìa, xây thành Bình Lỗ mà phá được quân Tống. Đó lại là một thời. Vua nhà Lý mở nền, nhà Tống xâm phạm địa giới, dùng Lý Thường Kiệt đánh Khâm, Liêm, đến tận Mai Lĩnh là vì có thế. Vừa rồi Toa Đô, Ô Mã Nhi bốn mặt bao vây. Vì vua tôi đồng tâm, anh em hòa mục, cả nước góp sức, giặc phải bị bắt. Đó là trời xui nên vậy. Đại khái, nó cậy trường trận, ta dựa vào đoản binh. Dùng đoản binh chế trường trận là sự thường của binh pháp. Nếu chỉ thấy quân nó kéo đến như lửa, như gió thì thế dễ chế ngự. Nếu nó tiến chậm như các tằm ăn, không cầu thắng chóng, thì phải chọn dùng tướng giỏi, xem xét quyền biến, như đánh cờ vậy, tùy thời tạo thế, có được đội quân một lòng như cha con thì mới dùng được. Vả lại, khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước vậy” * (Đại Việt sử ký toàn thư tập 2 trang 76 -77).
Trần Hưng Đạo giành chiến thắng trước quân Nguyên trên sông Bạch Đằng, kết thúc chiến tranh Nguyên Mông – Đại Việt lần 3 vào ngày 9 tháng 4 năm 1288, tức 8 tháng 3 năm Mậu Tý. Sau ba lần thắng giặc, đất nước thanh bình, ông lui về Vạn Kiếp và mất ngày 20 tháng 8 năm 1300 tại vườn An Lạc. Đền Kiếp Bạc ( Hải Dương) là nơi đền thờ chính của đức Thánh Trần.
Chùa Thắng Nghiêm (Hà Nội) nơi Trần Hưng Đạo lúc nhỏ tu học, là nơi Người hiển thánh.
Đức Thánh Trần gương soi kim cổ
Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn là nhà chính trị, quân sự, nhà văn kiệt xuất thời nhà Trần. Chiến công kiệt xuất đánh bại quân đội nhà Nguyên năm 1285 và 1287 đã đưa Đức Thánh Trần thành đại danh tướng lừng lẫy nhất của thế giới và Việt Nam. “CHỌN TƯỚNG” là một chương trong Binh thư Yếu lược của Trần Quốc Tuấn, kiệt tác súc tích và sâu sắc lạ lùng.
“Người quân tử tiến thoái quả quyết, xem người thì thanh thản vui tươi, chí thì ở trừ tàn bạo, đó là khí độ của người tướng quốc. Thấy ác không giận, thấy lành không mừng, nhan sắc không thay đổi, đó là lượng của người thiên tử.
Được sự thắng nhỏ, gặp sự thua nhỏ, mà mừng lo hình ra nét mặt, hễ thấy động thì động, thấy tĩnh thì tĩnh, nhát mà không tính toán gì, cất chân thì thần sắc không định, mà hay lấy lời nói để thắng người, đó là tướng ngu vậy.
Bảy phép để biết người:
1. Hỏi bằng lời nói xem trả lời có rõ ràng không 2. Lấy lời cật vấn đến kỳ cùng để xem cách ứng biến của họ. 3. Cho gián điệp thử xem có trung thành không. 4. Hỏi rõ ràng tường tất để xem đức hạnh thế nào. 5. Lấy của mà thử để xem có thanh liêm không 6. Lấy sắc đẹp mà thử để xem có đứng đắn không. 7. Lấy việc khó khăn mà thử để xem có dũng cảm không. 8. Đem rượu cho họ uống say để xem có giữ được thái độ không.
Tướng ngu có tám điều tệ:
1. Lòng tham mà không chán 2. Ghen người hiền, ghét người tài 3. Tin lời dèm pha, thích lời nịnh hót 4. Xét người mà không xét mình 5. Do dự không quả quyết 6. Say đắm rượu và sắc đẹp 7. Thích xảo trá mà lòng nhút nhát 8. Nói lời viễn vông mà không giữ lễ
Gia Cát Lượng sách Tướng Uyển chỉ bảy phép biết người.
Biết tính tình của người, chẳng gì khó bằng xem xét, lành dữ tuy khác nhau, tính tình và vẻ mặt chẳng phải một: có kẻ thì ôn hoà, hiền lành nhưng làm việc trộm cắp;có kẻ bề ngoài thì cung kính nhưng trong bụng thì vô lễ, dối trá; có kẻ bề ngoài thì mạnh dạn nhưng trong bụng thì khiếp sợ;có kẻ làm việc tận lực nhưng bụng không trung thành;
Bảy phép sau đây để biết người
1. Hỏi việc phải trái để dò chí hướng; 2. Lấy lời cật vấn để biết ứng biến; 3. Đem mưu kế hỏi để lường kiến thức; 4. Giao chuyện hiểm nguy để soi dũng cảm; 5. Mời rượu cho uống say để xét tính tình; 6. Đưa lợi gái thử để rõ thanh liêm chính trực; 7. Đem việc cậy nhờ để xét sự trung thành, tin thật.
Tám hạng tướng và bậc đại tướng
Nhân tướng là người dùng đức để đem đường cho người, dùng lễ để xếp việc cho họ, hiểu thấu sự đói rét của người dưới, biết rõ khó nhọc của đồng sự, đó là nhân tướng.
Nghĩa tướng là người làm việc không cẩu thả, thấy lợi mà không tham, biết chết vinh hơn sống nhục.
Lễ tướng là người có địa vị cao quý mà không kiêu căng, công hơn người mà không cậy, tài năng mà biết hạ mình, cứng cỏi mà biết nhẫn nhịn.
Trí tướng là người gặp biến bất ngờ mà chí không đổi, ứng phó linh hoạt với việc khó khăn, có thể đổi họa thành phúc, gặp cơn nguy biến mà sắp đặt thành thắng thế.
Tín tướng là người thưởng phạt nghiêm minh công bằng, khen thưởng không chậm trễ và không bỏ sót, trừng phạt không buông tha cho kẻ cao quý. Bộ tướng thủ hạ của đại tướng phải chọn người tay chân lẹ làng, võ nghệ tuyệt luân, giỏi đánh gần, ứng biến di chuyển mau lẹ, để bảo vệ an toàn cao nhất cho chủ soái. Kỵ tướng là người có thể vượt núi non cheo leo, từng trải việc nguy hiểm, cưỡi ngựa bắn tên mau lẹ như chim bay, tới thì đi trước, lui thì về sau. Mãnh tướng là người khí thế vượt hẳn ba quân, dám coi thường địch mạnh, gặp đánh nhỏ vẫn luôn cẩn trọng, gặp đánh lớn thì can đảm quả quyết.
Bậc đại tướng là người bao trùm và vượt hẳn tám hạng tướng kể trên, gặp hiền tài thì tôn trọng lắng nghe, biết tỏ ý mình không theo kịp người, biết nghe lời can ngăn như thuận theo dòng nước, lòng rộng rãi nhưng chí cương quyết, giản dị và nhiều mưu kế.”
GIỮ TRONG SÁNG TIẾNG VIỆT Hoàng Kim
cám ơn anh Phan Chi về bài viết tuyệt vời ! “Giả sử ta học tiếng Anh “We go to school” thì ta cứ đọc/ nói sao cho giống người Anh là được, đâu cần đánh vần? Tôi không phản đối việc dạy các cháu vỡ lòng học đánh vần. Ý tôi việc đó không quá quan trọng bằng nhiều thứ khác đáng để ta lo cải cách giáo dục hơn là loay hoay chuyện đánh vần. Sa vào tranh luận những việc lặt vặt là mắc mưu những kẻ không muốn thực sự cải cách những vấn đề then chốt của giáo dục hiện nay.”
Tiếng Viết chữ Việt là di sản văn hóa Việt Nam cần nghiêm minh thực hiện Luật Di sản Văn hóa đã được Quốc Hội ban hành số 28/2001/QH10 Hà Nội ngày 29 tháng 6 năm 2001. Chữ Quốc ngữ cải cách không nên bàn nữa. Việc bác bỏ đề xuất cải cách chữ Quốc ngữ của PGS Bùi Hiền đã được Viện trưởng Viện Ngôn ngữ học, GS.TS. Nguyễn Văn Hiệp chính thức trả lời lãnh đạo cấp trên và toàn thể công luân. Sự đòi hỏi triệt để phải nên ban hành Luật Ngôn ngữ Việt Nam để thể chế hóa và đáp ứng sâu sắc hơn nhu cầu thực tiễn của việc kết nối thực hiện tốt Luật Di sản Văn hóa. Tinh thần của Luật Di sản Văn hóa và kết luận của GSTS. Nguyễn Văn Hiệp trong văn bản chính thức trả lời đã khẳng định: Chữ Quốc ngữ là một loại chữ ghi âm rất tốt của người Việt hình thành vào thế kỷ 17 năm 1651 gắn với việc xuất bản cuốn Từ điển Việt Bồ Đào Nha Latin của linh mục Alecxandre de Rhores tại Rome. Chữ Quốc ngữ là quá trình góp sức lâu dài trong đó có người Việt Nam, được cộng đồng người Việt chấp nhận một cách tự nhiên, thuần thục, phổ cập, là chữ viết thống nhất của nước Việt Nam, là di sản văn hóa. Chữ Quốc ngữ vấn đề cải cách từ khi hình thành cho đến nay đã được bàn rất nhiều lần. Nhiều đề xuất cải cách đều bị thất bại vì các lý do chính: Thứ nhất, chữ Quốc ngữ có đủ khả năng để ghi lại toàn bộ các âm có thể có trong tiếng Việt hiện đại. Không có một âm nào trong tiếng Việt lại không thể dùng chữ Quốc ngữ ghi lại. Thứ hai, chữ Quốc ngữ đã phát triển đến giai đoạn ổn định, được cả cộng đồng chấp nhận và sử dụng một cách tự nhiên, mang tính quy ước và phổ cập. Thứ ba, tiếng Việt chữ Việt ẩn chứa văn hóa lịch sử. Tiếng Việt chữ Việt là di sản văn hóa dân tộc Việt Nam, tài sản quý giá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam và là một bộ phận của di sản văn hóa nhân loại, có vai trò to lớn trong sự nghiệp dựng nước giữ nước của nhân dân ta, nên không nhất thiết phải vận dụng nguyên tắc “một âm vị ghi bằng một ký tự và ngược lại” chữ viết của một ngôn ngữ không đồng nhất với ký hiệu ngữ âm quốc tế. Toàn dân tham gia bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa.
Hoàng Kim cám ơn quý thầy cô và các bạn đã trao đổi, bàn luận và chia sẻ. Tôi đồng tình với trao đổi của nhiều bạn bức xúc phản đối cải cách Tiếng Việt chữ Việt. Đặc biệt, tôi hoàn toàn đồng tình với phản biện của giáo sư Nguyễn Lân Dũng : “Nếu cải cách tiếng Việt hàng triệu dân phải đi học từ đầu (1) và phản biện đắng của cụ Trinh Trang (2) kèm theo bài này với chính kiến của tôi ở lời bình cuối mỗi bài.Tôi có ba câu hỏi:
THỨ NHẤT, việc dạy theo cách cũ vẫn không gây ra khó khăn hay lạc hậu gì, tại sao phải cải cách thay bằng cách khác tốn kém rất nhiều, với việc bán sách thực nghiệm ‘chia tiền’ (theo lời của GS Hồ Ngọc Đại) để làm cho 800.000 học sinh nhí bị thành chuột bạch của sự thử nghiệm?
THỨ HAI, Tiếng Việt chữ Việt là di sản văn hóa dân tộc Việt Nam, vì sao lại phải ‘lách luật’ mà không có thông báo chính thức từ Bộ Giáo dục và Đào tạo đối với tất cả các tỉnh thành trên cả nước đều thực hiện mà lại ‘thử nghiệm’ theo một quy trình nơi này nơi khác vi phạm nghiêm trọng luật di sản văn hóa?;
THỨ BA, trong cuốn sách công nghệ giáo dục có tách từ quy về hình vẽ, xây dựng cải cách mới “mà chỉ có giảng viên đã tập huấn mới dạy được, còn xã hội và gia đình thì không thể dạy được” sự quá nôn nóng chuyển thực nghiệm sang phổ cập để bán sách, tách rời nhà trường gia đình xã hội trong giáo dục trẻ dựa vào đâu? cũng chưa hề có một văn bản chính thức giải thích rõ ràng cho dân, chưa hỏi ý kiến người dân, các trường các thầy cô cứ áp cứ dạy, hỏi rằng dân chủ ở đâu. cách làm đã hợp lý chưa?
“Nếu anh không thể giải thích đơn giản thì anh chưa hiểu đủ rõ”. (If you can’t explain it simply, you don’t understand it well enough). Lời vàng Albert Einstein đã nói như vậy. Tiếng Việt chữ Việt là di sản văn hóa Việt Nam.
Ôi Tiếng Việt như bùn và như lụa
Tiếng Việt yêu thương sinh tử dân mình
Đừng ngớ ngẫn háo danh cải cách
Quên sinh tử phù,”giản thể” bới lung tung
Non sông Việt trường tồn bền vững mãi
Tiếng Việt ngàn đời lợi khí quốc gia
Người Việt dân mình xin đừng quên gốc
Trãi hiểm nghèo ta vẫn là ta.
Đất Tổ Quốc suốt ngàn năm văn hiến
Năm mươi tư dân tộc thuận hòa
Giữ trong sáng Tiếng Việt là vô giá
Chớ nên lầm ‘giản thể’ bán ông cha