Số lần xem
Đang xem 9483 Toàn hệ thống 21629 Trong vòng 1 giờ qua
Trang liên kết
Tỉnh thức
giữa đêm thiêng Yên Tử
Để thấm hiểu đức Nhân Tông
Ta thành tâm đi bộ
Lên tận đỉnh chùa Đồng
Tâm sáng Ức Trai
trong tựa ngọc TÌNH YÊU CUỘC SỐNG
DẠY VÀ HỌC Để chấn hưng giáo dục Việt Nam cấp thiết phải có đội ngũ những người thầy giáo ưu tú có tâm đức thiết tha với nghề, có trình độ chuyên môn cao và có kỹ năng giảng dạy tốt. Đây là trang thông tin chuyên đề dạy và học để trao đổi và bàn luận
Norman Borlaug Lời Thầy dặn Việc chính đời người chỉ ít thôi
Chuyên tâm đừng bận chuyện trời ơi
Phúc hậu suốt đời làm việc thiện
Di sản muôn năm mãi sáng ngời.
CNM365 Chào ngày mới 7 tháng 11. Lập đông;Ngày Cách mạng tháng Mười. Ngày 7 tháng 11 năm 1426, Quân Lam Sơn giành thắng lợi trước quân Minh trong trận Tốt Động–Chúc Động diễn ra tại Đông Quan, nay thuộc Hà Nội, Việt Nam. Ngày 7 tháng 11 năm 1867 ngày sinh Marie Curie, nhà vật lý, hóa học người Pháp gốc Ba Lan. Bà nổi tiếng về việc nghiên cứu tiên phong về tính phóng xạ và là người đầu tiên vinh dự nhận được hai Giải Nobel trong hai lĩnh vực vật lý và hóa học. Marie Curie là giảng viên đại học nữ đầu tiên tại Đại học Paris (Sorbonne), và vào năm 1995 thi thể của bà được mai táng tại điện Panthéon ở Paris vì những đóng góp to lớn cho nhân loại. Ngày 7 tháng 11 năm 1968 ngày mất Phạm Ngọc Thạch, Bác sĩ, tác giả Việt Nam (sinh năm 1909). Ông là một Nhà khoa học y khoa Việt Nam, Giáo sư tiến sĩ khoa học, nguyên Bộ trưởng Bộ Y tế trong chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ông được Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh năm 1997 vì các cống hiến trong lĩnh vực khoa học; Bài viết chọn lọc ngày 7 tháng 11: Nguyễn Du cuộc đời và thời thế; Nguyễn Du những sự thật mới biết;Thầy bạn trong đời tôiMừng em làm người thầy nhân văn; Mình về thăm nhau thôi ; Nhớ Người; Sớm Đông; Thông tin tại http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlong vàhttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-7-thang-11/; xem thêm: Nguyễn Du kiệt tác thơ chữ Hán; Nếp nhà và nét đẹp văn hóa;
NGUYỄN DU MƯỜI LĂM NĂM LƯU LẠC (1781-1796)
Nguyễn Du mười năm gió bụi (1781-1790)
Năm Tân Sửu (1781) Nguyễn Du mười sáu tuổi. guyễn Du do cha mất sớm lúc ông 11 tuổi, mẹ mất lúc ông 13 tuổi, Nguyễn Du ở với Nguyễn Khản người anh cả cùng cha khác mẹ ở Thăng Long cho đến năm Canh Tý lúc ông 15 tuổi (1780) thì Nguyễn Khản đang làm Trấn thủ Sơn Tây bị khép tội mưu loạn bị bãi chức và bị giam ở nhà Châu Quận công. Dinh thự họ Nguyễn Tiên Điền ở Thăng Long bị niêm yết. Nguyễn Du lên Thái Nguyên làm Chánh Thủ hiệu quân Hùng Hậu ở cùng quân doanh với tướng trấn thủ Thái Nguyên là Quản Vũ Hầu Nguyễn Đăng Tiến (Hà Mỗ trong Gia Phả họ Nguyễn Tiên Điền) là cha nuôi Nguyễn Du và tâm phúc Nguyễn Nhiễm.
Cũng năm ấy, Nguyễn Ánh sau sự biến Đông Sơn, phải vất vả đối phó với nội tình tan rã ở Gia Định. Tháng 10 năm đó, vua nước Xiêm La (Thái Lan) là Trịnh Quốc Anh (Taksin) sai hai anh em tướng Chất Tri (Chakkri) sang đánh Chân Lạp. Nguyễn Vương sai Nguyễn Hữu Thụy và Hồ Văn Lân sang cứu, trong khi hai quân đang chống nhau thì ở Vọng Các (Băng Cốc) vua Xiêm bắt giam vợ con của hai anh em Chất Tri. Hai anh em tướng Chất Tri (Chakkri) bèn giao kết với Nguyễn Hữu Thụy rồi đem quân về giết Trình Quốc Anh (Taksin) và tự lập làm vua Xiêm La, xưng là Phật Vương (Rama1). Họ Chakkri làm vua cho đến ngày nay và các vua đều xưng là Rama. Vua Rama I chọn Bangkok (hay “Thành phố của các thiên thần”) làm kinh đô.
Năm Nhâm Dần (1782), Nguyễn Du mười bảy tuổi. Năm ấy, Trịnh Sâm mất, Kiêu binh phế Trịnh Cán, lập Trịnh Khải (Trịnh Tông) lên ngôi chúa. Hai anh của Nguyễn Du là Nguyễn Khản được làm Thượng thư bộ Lại, tước Toản Quận công, Nguyễn Điều là anh cùng cha khác mẹ của Nguyễn Du, làm Trấn thủ Sơn Tây. Tướng trấn nhậm Sơn Nam Thượng, Sơn Nam Hạ đều là học trò Nguyễn Nhiễm và đó cũng là đất tổ nghiệp của nhà Nguyễn Tiên Điền. Họ Nguyễn Tiên Điền và Nguyễn Du ý định dấy nghiệp ở Bắc Hà, tạo đất căn bản, lập thế chân vạc, tranh hùng với Nguyễn Huệ nhà Tây Sơn ở Thuận Hóa và Nguyễn Ánh ở đất Gia Định, kế lớn là dựng cờ phù Lê, liên thủ với vùng Nam Trung Quốc, vùng Nghệ Tĩnh và Trấn Ninh Vạn Tượng, giao kết kẻ sĩ, xây dựng lực lượng, trầm tĩnh theo chuyển biến thời cuộc để hành động.
Chọc trời khuấy nước mặc dầu
Dọc ngang nào biết trên đầu có ai
Trịnh Sâm vốn kiêu hãnh khi quân Trịnh lấy được Thuận Hóa, đã có ý định cướp ngôi nhà Lê, bèn sai quan thị lang Vũ Trần Thiệu đi cùng quan nội giám mang biểu sang tấu trình vua Thanh rằng con cháu nhà Lê không có ai đáng làm vua nữa. Nhưng, Vũ Trần Thiệu khi sang hồ Đồng Đình đã đem đốt tờ biểu rồi uống thuốc độc mà chết nên việc cầu phong bỏ không nói đến nữa. Trịnh Sâm say đắm Đặng Thị Huệ, trước khi chết để di chiếu phế con trưởng là Trịnh Khải lập con thứ là Trịnh Cán làm thế tử và giao Huy Quận Công Hoàng Đình Bảo (Tố Lý) làm phụ chính. Trịnh Cán ít tuổi, lắm bệnh không mấy người phục, nên xảy ra biến loạn. Tháng 9 năm 1782 Trịnh Sâm mất, Trịnh Khải mưu với quân tam phủ kéo đến vây phủ giết Hoàng Đình Bảo, bỏ Trịnh Cán và Đặng Thị Huệ, lập Trịnh Khải lên làm chúa, tức Đoan Nam Vương (Trịnh Khải là chúa giỏi vá con trưởng, Nguyễn Khản là anh cùng cha khác mẹ Nguyễn Du là thầy dạy Trịnh Khải).
Tháng 10 năm 1782, Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ đem hơn 100 chiến thuyền vào cửa Cần Giờ đánh nhau với quân Nguyễn Ánh ở Ngã Bảy. Thủy binh Tây Sơn tinh nhuệ và thiện chiến áp sát và dùng hỏa hổ tấn công. Quân Nguyễn Ánh mặc dù có người Pháp và người Bồ Đào Nha điều khiển tàu châu Âu bảo vệ vòng ngoài vẫn thua to. Cai cơ Mạn Hòe (Manuel) người Pháp chết tại trận. Nguyễn Ánh phải bỏ thành Sài Gòn chạy về Ba Giồng. Quận công Tống Phước Thiêm bị quân Đông Sơn giết chết. Nguyễn Ánh dẫn tàn quân lánh ra đảo Phú Quốc. Nguyễn Nhạc bình xong đất Gia Định, rút quân về Quy Nhơn, để hàng tướng Đông Sơn là Đỗ Nhàn Trập giữ Sài Gòn. Khi quân Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ về Quy Nhơn rồi, Chu Văn Tiếp đem quân từ Phú Yên về hợp với quân các đạo, đánh đuổi quân Tây Sơn đi, lấy lại thành Sài Gòn rồi đón Nguyễn Ánh về, sửa sang mọi việc để chống giữ với Tây Sơn.
Năm Quý Mão (1783), Nguyễn Du mười tám tuổi. Nguyễn Du thi Hương ở trường Sơn Nam, đậu Tam trường . Nguyễn Du vẫn giữ chức Chánh thủ hiệu quân Hùng hậu Thái Nguyên, nơi Quản Vũ Hầu Nguyễn Vũ Tiến là cha nuôi làm quan trấn thủ. Đây là vùng đất hiểm yếu có nhiều người Trung Quốc sang khai mỏ bạc. Nguyễn Đăng Tiến vốn là tay giặc già phản Thanh phục Minh người Việt Đông Trung Quốc, vừa là tân khách, thầy dạy võ cho Nguyễn Du và các anh em, vừa là tâm phúc của Nguyễn Nhiễm. Nguyễn Du được cha mẹ đính hôn với cô Đoàn Nguyễn Thị Huệ là con gái thứ sáu của Đoàn Nguyễn Thục người Quỳnh Côi, Hải An xưa thuộc Sơn Nam, nay thuộc Thái Bình . Nhờ lương duyên này mà họ Nguyễn Tiên Điền và Nguyễn Du có thêm thế lực của cha vợ là quan Hoàng giáp Phó Đô ngự sử Quỳnh Châu bá, và anh vợ là tiến sĩ Đoàn Nguyễn Tuấn, là trấn thủ Sơn Nam Hạ, sau này làm quan thị lang triều Tây Sơn. Nguyễn Khản cũng năm ấy, đầu năm thăng chức Thiếu Bảo, cuối năm thăng chức Tham tụng, Thượng Thư Bộ Lại kiêm trấn thủ Thái Nguyên, Hưng Hóa. Nguyễn Nễ (sinh 1761) một người anh cùng mẹ của Nguyễn Du đã đỗ đầu thi Hương ở điện Phụng Thiên, được bổ thị nội văn chức, khâm thị nhật giảng, sung Nội Hàn Viện cung phụng sứ, phó tri thị nội thư tả lại phiên, Thiên Thư Khu mật viện Đức Phái hầu, cai quản đội quân Phấn Nhất của phủ Chúa. Vừa lúc Thuận Châu khởi binh, phụng sai hiệp tán quân cơ của đạo Sơn Tây. Nguyễn Du những năm này thường đi lại vùng thái Nguyên thái Bình Hải Dương Quảng Ninh Hải Phòng. Thế và lực nhà Nguyễn Tiên Điền từ năm 1782 đến năm 1786 đứng là “năm năm hùng cứ một phương hải tần”
Năm 1783, vua Tây Sơn Nguyễn Nhạc sai Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ đem binh vào đánh phía Nam. Trong chiến dịch này Nguyễn Huệ đã khéo lợi dụng lúc thủy triều lên và mượn sức gió thổi từ biển vào đất liền để dùng hỏa công và hỏa hổ tiến công, trên bờ thì dùng voi chiến do thủy binh chở vào, lần đầu xuất hiện ở đất Gia Định trên một địa thế hẹp. Nguyễn Vương thua to. Nguyễn Ánh rước mẹ và cung quyến chạy ra đảo Phú Quốc. Tháng 6 năm ấy, Nguyễn Huệ ra đánh Phú Quốc, Nguyễn Vương chạy về Côn Lôn. Quân Tây Sơn lại đem thuyền đến vây Côn Lôn , nhưng gặp bão đánh đắm cả thuyền nên Nguyễn Ánh mới trốn thoát được, chạy về đảo Cổ Cốt rồi lại trở về Phú Quốc.
Lại nói về đất kinh kỳ Thăng Long, nguyên từ khi họ Trịnh giúp nhà Lê trung hưng về sau, chia quân làm hai thứ binh là ưu binh và nhất binh. Ưu binh thì kén quân Thanh Nghệ làm quân túc vệ đóng ở kinh thành canh giữ những nơi trọng yếu cung vua phủ chúa, được cấp công điền và có chức sắc. Nhất binh là lính tứ trấn ở Sơn Nam, Kinh Bắc, Hải Dương, Sơn Tây chỉ để đủ giữ các trấn và hầu hạ các quan còn thì cho về làm ruộng, khi cần dùng thì mới gọi. Những lính ưu binh từ các đời trước dù có kẻ ngang ngược công thần nhưng nhà chúa cũng chỉ trị tội tên cầm đầu mà vẫn giữ chế độ ưu binh, nên về sau ưu binh đã quen thói gặp điều trái ý là nổi lên làm loạn. Nay Trịnh Khải nhờ quân tam phủ Thanh Nghệ mà đoạt được ngôi chúa Đoan Nam Vương, trừ được vây cánh của Trịnh Cán nên ban ân quan tước cho kẻ đứng đầu kiêu binh là Nguyễn Bằng và trọng thưởng cho kiêu binh. Đó chính là mầm loạn khó kiềm chế.
Năm Giáp Thìn (1784), Nguyễn Du mười chín tuổi. Tháng 2 , nhân vụ 7 kiêu binh bị nhà chúa giết vì bữa tiệc vua Lê đãi kiêu binh có công phò Hoàng Tự Tôn Lê Duy Kỳ từ trong tù ra, kiêu binh đã nổi dậy đưa hoàng tôn Lê Duy Kỳ lên làm thái tử. Hoàng tôn Lê Duy Kỳ (tức vua Lê Chiêu Thống Lê Mẫn Đế sau này) là con trưởng của Lê Duy Vĩ, cháu đích tôn của vua Lê Hiển Tông . Ba anh em hoàng tự tôn được kiêu binh giải cứu sau 15 năm lao tù. có mối oán hận đặc biệt sâu sắc với chúa Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm (1767-1782). Hoàng Lê Nhất thống chí của Ngô Thời Chí kể rằng: Nguyên Trịnh Doanh có con gái lớn là quận chúa Tiên Dung , quận chúa là con vợ cả, được Trịnh Doanh yêu lắm. Thế tử Trịnh Sâm là con vợ thứ. Vợ cả Doanh muốn con được làm hoàng hậu nên xin với Doanh để gả cho thế tử Lê Duy Vĩ. Vì quá yêu con, vợ Doanh thường phân biệt lễ vua tôi quá rõ rệt, những bữa mời thái tử ăn cơm, Sâm không được vợ cả Trịnh Doanh cho cùng ngồi với thái tử. Trịnh Sâm nói với Lê Duy Vĩ: “Trong hai ta phải có kẻ mất người còn. Vua ấy không thể cùng thời với chúa này”. Thái tử Lê Duy Vĩ vẫn có ý đề phòng, thường giao kết với hào kiệt và dân sĩ trong thiên hạ, mong ngày giành lại thực quyền. Do Trịnh Doanh mất sớm. Trịnh Sâm được lên thay quyền. Việc đầu tiên của Sâm là sai một viên quan thị vu cho thái tử thông gian với cung nhân của Trịnh Doanh (Lập lại mưu cũ của Trịnh Giang giết vua trước đây: vu cho Lê Đế Duy Phương tư thông với vợ Trịnh Cương, buộc phế bỏ, giáng xuống làm Hôn Đức quân, rồi bị giết chết). Nay thái tử Lê Duy Vĩ cũng bị kết tội giống hệt như vậy. Thái tử và ba con bị tống giam vào ngục. Sau đó, thái tử lại bị vu tội định bỏ trốn để tạo phản nên bức uống thuốc độc chết năm 1771. Ba anh em hoàng tự tôn Lê Chiêu Thống bị giam vào ngục 15 năm sau mới được kiêu binh giải cứu. Nhà chúa giết bảy kiêu binh giải cứu hoàng tự tôn khi vua Lê đang thiết họ ăn uống đã châm ngòi cho loạn Kiêu binh phá nát Tư dinh của Nguyễn Khản ở phường Bích Câu và áp lực bãi chức Nguyễn Khản, bởi ông là thầy Trịnh Khải, lại làm quan Tham tụng, thượng thư bộ Lại. Nguyễn Khản trốn lên với em là Nguyễn Điều đang làm trấn thủ Sơn Tây và Nguyễn Nể làm Hiệp tán Nhung vụ. Họ toan hợp quân các trấn về đánh kiêu binh, nhưng khi sự lộ ra quân kiêu binh vào canh chặt phủ chúa, Trịnh Khải không ra được nên mưu bất thành. Kiêu binh chia nhau giữ các cửa ô. Quân các trấn sợ chúa bị hại nên đành kéo về. Kiêu binh áp lực bãi chức Nguyễn Khản và giáng chức Nguyễn Điều. Hai người về Hà Tĩnh.
Lại nói Nguyễn Ánh ở Phú Quốc hết sạch lương thực phải hái rau và tìm củ chuối mà ăn, thế lực cùng kiệt, bèn cho người tìm người quen cũ là cố đạo Bá Đa Lộc lúc đó đang ở Thái Lan để hỏi kế. Bá Đa Lộc khuyên là nên cầu nước Pháp nhưng phải cho thế tử Cảnh cùng đi để làm tin. Nguyễn Ánh theo lời ấy, bèn giao Hoàng tử Cảnh theo Bá Đa Lộc mang quốc thư sang Pháp. Tờ thư ấy có 14 khoản đại ý xin nước Pháp giúp cho 1500 quân và tàu bè, súng ống, thuốc đạn, đủ cả mọi thứ. Nguyễn Vương xin nhường cho nước Pháp cửa Hội An, đảo Côn Lôn và để riêng cho nước Pháp được đặc quyền vào buôn bán ở nước Nam. Nguyễn Ánh lại tiếp được mật biểu của Châu Văn Tiếp (lúc trước bị thua ở Sài Gòn đã theo đường núi chạy sang Thái Lan xin cầu viện) nên mới đến hội với tướng Thái Lan tại Hà Tiên và sau đó sang Bangkok. Vua Xiêm Chakkri (Rama1) tiếp đãi Nguyễn Ánh rất hậu và sai hai tướng Chiêu Tăng, Chiêu Sương cùng các tướng Lục Côn, Sa Uyên và Chiêu Thùy Biện là một cựu thần Chân Lạp thân Xiêm, đem hai vạn quân (tài liệu khác nói là ba vạn, có tài liệu nói là năm vạn kể cả quân bộ của Chân Lạp và hương binh mới mộ của Nguyễn Ánh ) với 300 chiến thuyền sang giúp. Nguyễn Ánh phong Châu Văn Tiếp là Bình Tây đại đô đốc được toàn quyền điều khiển việc quân. Ngày 9 tháng 6 xuất quân, trước chiếm Kiên Giang sau theo hai đường thủy bộ tiến sang lấy được Rạch Giá, Ba Thắc, Trà Ôn, Sa Đéc. Khi đánh đến Mân Thít, Châu Văn Tiếp bị thương nặng và mất. Nguyễn Ánh cử Lê Văn Quân thay chức thống lĩnh đại quân, Nguyễn Văn Thành đem 8.000 quân theo quân Xiêm đi đánh trận. Các tướng Mạc Tử Sinh (con Mạc Thiên Tứ), Nguyễn Thừa Diễn đi trấn thủ và mộ binh ở các vùng vừa chiếm được. Quân Xiêm tiến đến đâu cũng làm nhiều điều hung ác, dân rất oán giận. Tướng Tây Sơn là Trương Văn Đa sai người cấp báo về Quy Nhơn. Vua Tây Sơn sai Nguyễn Huệ đem binh vào chống giữ.
Năm Ất Tỵ (1785), Nguyễn Du hai mươi tuổi. Nguyễn Huệ vào đến Gia Định, nhữ quân Xiêm vào trận địa mai phục ở rạch Gầm, Xoài Mút ở phía trên Mỹ Tho. Nguyễn Huệ bố trí pháo binh ở hai bên bờ và các cù lao trên sông, phục sẵn chiến thuyền ở các con lạch và cù lao Thới Sơn, sau đó phái một số thuyền tới khiêu khích quân Xiêm dụ vào nơi đã giăng bẫy, đánh một trận vào ngày 19 tháng 1 năm 1785, giết quân Xiêm chỉ còn vài nghìn, theo đường bộ chạy được về nước. Nguyễn Huệ phá được quân Xiêm và đem binh truy đuổi Nguyễn Ánh. Chúa Nguyễn hết cả lương thực chỉ còn khoảng 200 quân tướng và 5 chiếc thuyền chạy dạt sang đảo Cổ Cốt, rồi sang Xiêm. Nguyễn Ánh nói với vua Xiêm: Quý quốc vương nghĩ tình lân bang giao hảo cho quân sang giúp nhưng vì tướng tá kiêu ngạo, quân lính tham bạo nên mới đến nổi thất bại như thế. Vua Xiêm Chakri I gọi Chiêu Tăng, Chiêu Sương là “ngu hèn, kiêu căng, hung hãn đến nỗi bại trận làm bại binh, nhục quốc”. Người Xiêm từ sau cuộc bại trận năm 1785, miệng tuy nói khoác mà lòng thì sợ Tây Sơn như cọp. Nguyễn Ánh sau đó xin vua Xiêm cho ra ở Đồng Khoai, ngoại thành Vọng Các (Bangkok ngày nay) khẩn hoang, làm ruộng, đốn củi… nuôi nhau và bí mật cho người về do thám ở Long Xuyên.
Nguyễn Huệ, sau khi đánh dẹp xong, liền đem đại quân về Quy Nhơn, cử Đô đốc Đặng Văn Trấn ở lại giữ Gia Định. Dương Công Trừng đánh úp quân Tây Sơn ở Long Xuyên bị Thái bảo Tham dẫn quân từ Gia Định xuống đánh, bắt sống và giết chết. Quân Miến Điện sang đánh Xiêm, vua Xiêm đích thâm cầm quân đi đánh. Nguyễn Ánh tự mình cầm quân đi trợ chiến, bắt sống được hơn 500 tù binh cùng nhiều khí giới. Ít lâu sau Xiêm bị quân Chà Và sang xâm chiếm, Nguyễn Ánh sai Lê Văn Quân trợ chiến cùng em vua Xiêm đi đánh trận. Quân Chà Và bị thua phải rút về. Nguyễn Ánh đóng chiến thuyền và dò la tình hình nhà Tây Sơn để mưu tính trở về.
Năm Bính Ngọ (1786) Nguyễn Du hai mươi mốt tuổi. Loạn kiêu binh tại kinh đô Thăng Long lên cao trào. Quân kiêu binh kéo nhau hàng trăm, hàng ngàn đi cướp phá các làng. Hễ có đứa nào đi lẻ loi thì dân làng lại bắt giết đi nên quân và dân xem nhau như cừu địch. Các văn thần võ tướng đều bó tay. Tham tụng Bùi Huy Bích phải dỗ dành mãi mới tạm yên. Các vụ mất mùa liên tiếp xẩy ra, giá gạo tăng vọt và kiêu binh cướp phá làm hàng nghìn người chết đói. Các trấn Quảng Yên, Kinh Bắc, Thái Nguyên lâm vào cảnh tàn phá, nạn đói và nổi dậy lan rộng.
Tây Sơn chăm chú theo dõi sự suy đồi của họ Trịnh. Ý đồ Tây Sơn đối với phía Bắc đã được Nguyễn Hữu Chỉnh đổ thêm dầu. Nguyễn Hữu Chỉnh là môn hạ của Quận Huy Hoàng Đình Bảo, lập kế rước Tây Sơn về dẹp kiêu binh để báo thù cho chủ.
Nguyễn Hữu Chỉnh là người huyện Chân Phúc, phủ Đức Quang, Trấn Nghệ An nay là xã Phúc Thọ, huyện Nghi Lộc, Nghệ An, đỗ hương cống năm 16 tuổi, tục gọi là cống Chỉnh. Ông hào hoa, cơ trí, nhiều can đảm lại có tài biện bác, trước theo Hoàng Ngũ Phúc đi đánh giặc bể, giặc sợ gọi là chim dữ. Sách “Khâm định Việt sử thông giám cương mục” chép: “Hữu Chỉnh, lúc trẻ tuổi đỗ hương tiến, là người hào phóng không bó buộc vào khuôn phép. Du lịch kinh sư, Hữu Chỉnh vào yết kiến Hoàng Ngũ Phúc. Ngũ Phúc khen là có tài khác thường, dùng làm gia khách. Khi Ngũ Phúc vào xâm lấn trong Nam, cho Hữu Chỉnh đi theo quân thứ, giữ công việc thư kí, rồi sai đến Tây Sơn khuyên Văn Nhạc (tức Nguyễn Nhạc) quy thuận với triều đình, được Văn Nhạc kính trọng”. Nguyễn Hữu Chỉnh sau khi quận Việp mất, tiếp tục làm thủ hạ cho cháu quận Việp là quận Huy Hoàng Đình Bảo, người được giao làm phụ chính cho Điện Đô vương Trịnh Cán, con nhỏ của Tĩnh Đô vương Trịnh Sâm lên ngôi lúc mới 5 tuổi. Khi quận Huy bị kiêu binh giết, Nguyễn Hữu Chỉnh bàn với trấn thủ Nghệ An là Võ Tá Giao việc tự lập nhưng Giao sợ không dám theo nên Chỉnh bỏ vào với vua Tây Sơn Nguyễn Nhạc và được vua Thái Đức Nguyễn Nhạc rất tín nhiệm. Tây Sơn nhiều phen dòm ngó Phú Xuân nhưng còn nghe ngóng chưa dám quyết. Gặp khi Phạm Ngô Cầu sai Nguyễn Phu Như vào do thám Tây Sơn, không ngờ Nguyễn Hữu Chỉnh quen biết Phu Như nên dò biết rõ tình hình Thuận Hóa và hiến kế cho vua Thái Đức.
Nguyễn Nhạc nắm được tình hình Thuận Hóa trấn thủ Phạm Ngô Cầu là người nhu nhược, vô mưu, tham lam, ham làm giàu, mê tín, đa nghi và Bắc Hà biến động nên chớp thời cơ sai em là Nguyễn Huệ làm tiết chế, rể là Vũ Văn Nhậm làm tả quân đô đốc, Nguyễn Hữu Chỉnh làm hữu quân đô đốc đem quân thủy bộ ra đánh Thuận Hóa.Nguyễn Lữ đưa quân tiếp ứng ở mặt sau. Nguyễn Huệ phái một cánh quân thủy tới thẳng sông Gianh để chiếm các công sự phòng thủ và ngăn chặn mọi tiếp viện từ phía Bắc, hai cánh quân thủy bộ cùng lúc tiến đánh Phú Xuân. Phạm Ngô Cầu trúng kế mê hoặc lập đàn chay cầu siêu, lại bị kế li gián của Nguyễn Hữu Chỉnh nên nhanh chóng thất bại. Biết Phạm Ngô Cầu tính đa nghi, Nguyễn Hữu Chỉnh viết thư chiêu hàng gửi phó tướng Hoàng Đình Thể lại giả vờ cho người đưa nhầm cho Phạm Ngô Cầu. Khi quân Tây Sơn đánh thành, Hoàng Đình Thể đem quân bản bộ ra đối trận bắn hết thuốc đạn, Phạm Ngô Cầu đóng chặt cửa thành không ra cứu viện nên Hoàng Đình Thể và hai con cùng tỳ tướng Vũ Tá Kiên đều bị chết. Phạm Ngô Cầu kéo cờ trắng ra hàng bị giải về Quy Nhơn định tội phải chém. Toàn bộ vùng Thuận Hóa rơi vào tay Tây Sơn chỉ trong mấy ngày.
Nguyễn Huệ hội tướng bàn định việc trấn giữ Thuận Hóa. Nguyễn Hữu Chỉnh nói: Tướng quân phụng mệnh ra đánh một trận mà bình được Thuận Hóa, binh uy chấn động Bắc Hà. Phép dùng binh, có đủ thời, thế và cơ thì đánh đâu cũng được. Bắc Hà bây giờ tướng lười, quân kiêu, triều đình không kỹ cương, nay nhân uy thanh nếu đánh là thắng, xin đừng bỏ lỡ. Nguyễn Huệ nói: Bắc Hà có nhiều nhân tài không nên coi thường. Hữu Chỉnh đáp lại: Nhân tài Bắc Hà chỉ có một mình Chỉnh, nay Chỉnh đã bỏ đi thì nước không còn ai, xin ông chớ ngại. Nguyễn Huệ cười nói: Người khác thì ta không ngại mà chỉ ngại ông đó thôi. Chỉnh biến sắc nói: Tôi tài hèn, nói vậy là để tỏ cho ông biết, Bắc Hà không còn nhân tài mà thôi. Nguyễn Huệ lấy lời nói ngọt để yên lòng Chỉnh và bảo rằng: Nhà Lê làm vua đã mấy trăm năm nay, bây giờ cướp lấy, chưa chắc lòng người đã theo mình. Hữu Chỉnh nói: Nay Bắc Hà có vua lại có có chúa, ấy là một sự cổ kim đại biến. Họ Trịnh tiếng là phù Lê, thực là hiếp chế, cả nước không ai phục. Vả xưa nay không ai làm gì để giúp nhà Lê là vì sợ cái thế mạnh đó mà thôi, nay ông phù Lê diệt Trịnh thì thiên hạ ai chẳng theo ông. Nguyễn Huệ nói: Ông nói phải lắm nhưng ta chỉ phụng mệnh đi đánh Thuận Hóa mà thôi, chứ không phụng mệnh đi đánh Bắc Hà, sợ rồi mang tội trái lệnh thì làm thế nào? Hữu Chỉnh nói: Trái lệnh là tội nhỏ, việc ông làm là công to. Tướng ở ngoài có điều không theo mệnh vua, ông lại không biết hay sao?.
Nguyễn Huệ để anh là Nguyễn Lữ ở lại giữ thành Phú Xuân, cử Nguyễn Hữu Chỉnh đem thủy binh đi tiên phong vào cửa Đại An đánh lấy kho lương ở bên sông Vị Hoàng. Nguyễn Huệ tự đem binh đi theo sau, ước với Hữu Chỉnh đến sông Vị Hoàng đốt lửa lên làm hiệu. Đại quân Tây Sơn đánh như gió cuốn ra bắc.
Trịnh Tự Quyền đem quân vào tăng cường cho Nghệ An dềnh dàng chưa tới nơi thì Vị Hoàng đã mất. Trấn thủ Sơn Nam Bùi Thế Dận đưa quân bộ về ứng cứu, đô đốc thủy quân Đinh Tích Nhưỡng dàn chiến thuyền giữ cửa sông Luộc. Nguyễn Huệ lợi dụng gió đông nam thổi mạnh, đêm đến nước sông lên to sai lấy hình nộm đặt lên thuyền rồi đánh trống kéo cờ thả cho thuyền trôi đi. Đinh Tích Nhưỡng dàn thuyền chống giữ và dùng súng để bắn, đến lúc biết bị lừa thì hết cả thuốc đạn không chống nổi quân Tây Sơn phải bỏ thuyền mà chạy. Quân của Bùi Thế Dận và Trịnh Tự Quyền cũng tan cả, Nguyễn Huệ hạ được thành Sơn Nam, một mặt truyền hịch đi các lộ nói danh nghĩa phù Lê diệt Trịnh, một mặt thần tốc đánh thốc vào thành Thăng Long. Quân Trịnh rệu rã thua trận, tan vỡ chạy.
Bấy giờ ở Thăng Long, kiêu binh không sai khiến được, Trịnh Khải gọi Hoàng Phùng Cơ ở Sơn Tây về cứu viện. Quân Tây Sơn tiến lên đánh tan quân thủy của Đinh Tích Nhưỡng và quân bộ của Hoàng Phùng Cơ. Đoan Nam Vương Trịnh Khải đích thân mặc áo nhung y, cầm cờ lên voi thúc quân chặn đánh Nguyễn Huệ ở bến Long Tân nhưng thế quân Tây Sơn quá mạnh nên phải chạy về Sơn Tây rồi bị người dân là Nguyễn Tranh lừa bắt được, áp giải đi nộp cho quân Tây Sơn. Dọc đường, Trịnh Khải lấy gươm cắt cổ mà chết.
Nguyễn Huệ sai lấy vương lễ mà chôn cất chúa Trịnh rồi vào thành Thăng Long yết kiến vua Lê. Họ Trịnh giúp nhà Lê trung hưng lập ra nghiệp chúa truyền từ Trịnh Tùng đến Trịnh Khải được 216 năm (1570-1786) thì chấm dứt. Sau khi Nguyễn Huệ yết kiến vua Lê Hiển Tông, Nguyễn Hữu Chỉnh lại sắp đặt Nguyễn Huệ lấy công chúa Lê Ngọc Hân, con gái thứ của vua Lê. Tại kinh kỳ, phe cánh họ Trịnh còn đông, Bấy giờ mọi người mới hiểu rõ Hữu Chỉnh rước Tây Sơn ra để trả thù cho chủ (chứ không phải Nguyễn Khản).
Nguyễn Khản ở Hà Tĩnh nghe Tây Sơn ra Bắc đã lập tức theo ghe mành ra Bắc giúp chúa Trịnh . Ông chủ trương đóng quân theo lối vẩy sộp kiểu phòng ngự chiều sâu nhiều tầng (theo Lê Quý Kỷ sự), nhưng kiêu binh vu cáo ông rước giặc Tây Sơn về. Nguyễn Khản phải bỏ chạy, ông mất trong hoàn cảnh đó ở Thăng Long, thi hài ông được đưa về an táng tại Hà Tĩnh. Khi kinh thành thất thủ, nhà Trịnh mất, Nguyễn Điều buồn uất ức thành bệnh mất ngày 31-7-1786. Mộ được an táng xã Đại Đồng, huyện Nam Đàn, Nghệ An, sau được cải táng về xã Sơn An, huyện Hương Sơn. Các con và gia đình ông lập chi Nguyễn Tiên Điền tại đây. Chi họ này ở đó có trên 400 người.
Nguyễn Du ở đâu trong năm này? Trong cơn lốc của các sự biến, người đời sau (Nguyễn Thế Quang với tiểu thuyết Nguyễn Du) cho rằng Nguyễn Du đã gặp Nguyễn Huệ tại điện Kính Thiên. Viên võ tướng Nguyễn Du trẻ tuổi cao lớn với thanh bảo kiếm của Việp Quân Công Hoàng Ngũ Phúc trao tặng trước đây đã trầm tĩnh đối mặt với người anh hùng Nguyễn Huệ oai chấn Bắc Hà.
Năm Đinh Mùi (1787)Nguyễn Du 22 tuổi. Nguyễn Nhạc từ Thăng Long trở về, phong cho Nguyễn Huệ làm Bắc Bình Vương trấn thủ Phú Xuân, còn mình thì dẫn tùy tùng về Quy Nhơn, tự xưng làm Trung Ương Hoàng Đế, phong cho Nguyễn Lữ làm Đông Định Vương ở đất Gia Định, phong Nguyễn Huệ làm Bắc Bình Vương ở đất Thuận Hóa, lấy Hải Vân làm giới hạn. Nguyễn Nhạc hỏi những báu vật vàng bạc đoạt được ở phủ chúa Trịnh. Nguyễn Huệ từ chối không nộp. Nguyễn Huệ muốn kiêm quản cả đất Quảng Nam nhưng Nguyễn Nhạc không cho. Cùng thêm một số chuyện hiềm khích cơ mật khác. Nguyễn Huệ bèn phát hịch kể tội Nhạc , rồi đem quân vào vây thành Quy Nhơn. Nguyễn Nhạc đóng cửa thành cố thủ. Đặng Văn Trấn, tướng của Nguyễn Nhạc để tham đốc là Trần Tú ở lại giữ thành Gia Định còn mình tự đem quân về cứu viện nhưng khi đến Phú Yên thì bị quân của Nguyễn Huệ bắt. Nguyễn Huệ vây Quy Nhơn ngặt đến nỗi Nguyễn Nhạc phải thân lên thành mà kêu khóc, gọi Nguyễn Huệ mà bảo rằng: ” Nỡ lòng nào lại nồi da nấu thịt thế này?” Nguyễn Huệ mới động lòng rút quân về Thuận Hóa. Hai anh em tuy hòa giải nhưng thực lòng vẫn oán giận nhau.
Nguyễn Ánh sau trận thất bại năm Giáp Thìn (1784) sang lánh nạn ở Xiêm (Thái Lan) nóng lòng mong chờ viện binh nhưng Nguyễn Huệ đã khéo sai sứ sang thông hiếu với Thái Lan. Nguyễn Ánh thấy ở nước người lâu ngày không tiện nên bí mật về nước theo kế của Tống Phước Đạm. Trước hết Nguyễn Ánh sai Nguyễn Văn Thành, Nguyễn Văn Liêm về Hà Tiên dò xét tình hình, khâu nối lực lượng., Phạm Văn Nhơn về Hòn Tre sửa soạn tàu bè, cai cơ Ngoạn, cai cơ Trung đi mua thóc dự trữ sẵn lương thực, rồi nhân đêm tối, không từ biệt vua Xiêm mà ra về vào ngày Bính Dần tháng Bảy. Khi Nguyễn Ánh về đến Hòn Tre mới biết chuyện cai cơ Trung giết chủ thuyền buôn Thái Lan để cướp của cải. Ông đã lệnh chặt đầu cai cơ Trung gửi đến vua Thái để tạ lỗi. Nguyễn Ánh cũng thu phục bọn cướp biển Hà Hỉ Văn đảng Bạch Liên Giáo nay làm cướp biển Hà Tiên. Ông cũng thu phục được danh tướng Nguyễn Văn Trương trấn thủ Long Xuyên. Tống Phước Đạm lợi dụng sự bất hòa của nhà Tây Sơn lập kế li gián Đông Định Vương Nguyễn Lữ là trấn tướng Gia Định và Phạm Văn Tham là phó tướng của Nguyễn Lữ. Tống Phước Đạm bắt được vợ lẽ của hộ đốc Lý tướng Tây Sơn và đã làm mật thư giả của Nguyễn Nhạc gửi Nguyễn Lữ, trong thư nói Phạm Văn Tham là phe đảng của Nguyễn Huệ và khiến Nguyễn Lữ giết đi. Tống Phước Đạm giao thư cho vợ lẽ của hộ đốc Lý mang về dụ hàng Phạm Văn Tham. Tham xem thư cả sợ bèn giương cờ trắng (hiệu kỳ của Nguyễn Ánh) kéo về dinh lũy của Nguyễn Lữ. Đông Định Vương tưởng Tham đã mang quân về hàng Nguyễn Ánh rồi, sợ Tây Sơn quân mỏng không thể địch nổi nên bỏ chạy về Quy Nhơn. Từ đó, Phạm Văn Tham một mình trấn giữ Gia Định. Quân Tây Sơn và quân Nguyễn Ánh giao chiến một số trận lớn nhỏ. Thế lực Nguyễn Vương ngày một lớn mạnh. Thái úy Nguyễn văn Hưng từ Quy Nhơn mang ba mươi chiến thuyền vào tiếp ứng. Nguyễn Ánh cố thủ. Ít lâu sau, Nguyễn Văn Hưng chuyển thóc gạo đầy các thuyền rồi rút đi. Nguyễn Ánh chia bình đóng những nơi hiểm yếu chẹn đường quân Tây Sơn.
Nguyễn Hữu Chỉnh giữa lúc này đem binh từ Nghệ An tiến gấp về Thăng Long để bảo vệ vua. Nguyễn Hữu Chỉnh đuổi Trịnh Bồng, tôn phò vua Lê Chiêu Thống. Năm 1787, khi họ Trịnh thất bại trong việc khôi phục lại địa vị, Trịnh Bồng chạy khỏi kinh thành, Lê Chiêu Thống ngầm cho người đốt phủ chúa đi. Đám cháy lan khắp hai phần ba kinh thành và cháy trong mười ngày liền làm mất đi một quần thể kiến trúc đẹp của Thăng Long – Hà Nội. Điều này được sách Hoàng Lê nhất thống chí chép như sau: Sớm hôm sau, hoàng thượng mới biết là Án đô vương đã trốn đi lúc ban đêm tức thì ngầm sai người phóng hoả đốt hết phủ chúa. Khi phủ cháy, khói lửa bốc lên ngút trời, hơn mười ngày chưa tắt. Lê Chiêu Thống nghe lời Nguyễn Hữu Chỉnh cho vét hết chuông đồng, tượng đồng ở các chùa, đền trong nước đem đúc tiền dùng vào việc quân. Sách Lê Quý kỷ sự chép: Người đương thời có câu mỉa mai: “Thiên hạ thất tự chung, chung thất, nhi đỉnh an tại! Hoàng thượng phần vương phủ, phủ phần, tức điện diệc không!” Nghĩa là: “Thiên hạ mất chuông chùa, chuông đã mất, vạc dựa vào đâu Hoàng thượng thiêu phủ Chúa, phủ bị thiêu, điện trơ ra đó!”
Vua Lê Chiêu Thống cũng theo kế của Nguyễn Hữu Chỉnh sai người ngầm mang nhiều vàng bạc đưa cho Nguyễn Văn Duệ để giết Võ Văn Dũng và lấy sông Gianh làm ranh giới như cũ. Vũ Văn Nhậm dò biết mưu ấy bèn cấp báo cho Nguyễn Huệ. Huệ liền sai người ra Nghệ An bắt Duệ nhưng Duệ thấy động đã đem quân thuộc hạ theo đường rừng trốn về Quy Nhơn. Nguyễn Huệ sai Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân theo quyền tiết chế Vũ Văn Nhậm đem quân ra Bắc hỏi tội Nguyễn Hữu Chỉnh. Chỉnh cho thuộc tướng chống giữ nhưng đều bị đánh tan. Vua Lê Chiêu Thống sai Lê Quýnh cùng hơn 30 người tôn thất đem bà Hoàng Thái hậu và Hoàng phi, Hoàng tử chạy lên Cao Bắng. Chỉnh thì cướp đường rước vua Lê Chiêu Thống chạy lên Kinh Bắc về đóng ở núi Mục Sơn đất Yên Thế.
Vũ Văn Nhậm sai bộ tướng Nguyễn Văn Hòa truy sát và đuổi kịp Nguyễn Hữu Chỉnh, bắt sống đóng gông giải về Thăng Long. Nhậm kể tội rồi sai chặt chân tay, phanh thây Chỉnh. Nhậm tìm vua Lê Chiêu Thống không được bèn tôn Sùng Nhượng Công Lê Duy Cẩn lên làm Giám Quốc để thu phục lòng người. Thầy đề lại Giám Quốc mỗi ngay phải sang chầu chực ở dinh Vũ Văn Nhậm. Nhậm tỏ ý kiêu ngạo. Ngô Văn Sở mật trình tấu sự tình về Nguyễn Huệ.
Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ lập tức truyền lệnh kéo quân kỵ gấp đường ra Thăng Long, nửa đêm đến nơi bắt Vũ Văn Nhậm giết đi, đổi đặt quan quân, đặt quan lục bộ và các quan trấn thủ, để Lê Duy Cẩn làm Giám Quốc, chủ trương việc tế lễ để giữ tông miếu tiền triều, dùng Ngô Thì Nhậm làm Lại bộ tả thị lang, cùng bọn Ngô Văn Sở ở lại giữ đất Bắc Hà, còn Nguyễn Huệ thì chọn ngày về nam. Vũ Văn Nhậm là con rể và là tướng giỏi của Nguyễn Nhạc thực hành mưu lược phân phòng kiềm chế nguyễn Huệ, Nay Nhậm bị Huệ giết mối bất hòa của nhà Tây Sơn càng sâu sắc khó hàn gắn.
Mẹ của vua Lê Chiêu Thống chạy lên Cao Bằng cùng với Đốc trấn Nguyễn Huy Túc chạy sang đất nhà Thanh xin với Tổng đốc Lưỡng Quảng xin cứu viện. Tôn Sĩ Nghị dâng biểu lên vua Càn Long xin điều quân Lưỡng Quảng, Vân Nam, Quý Châu chia làm đường sang cứu viện cho vua Lê. Lúc này vua Chiêu Thống đã chạy lánh vào Bảo Lộc, Trấn Ninh liên kết với vua Lào (Vạn Tượng) và vùng cần vương ở tây Nghệ An..
Nguyễn Du năm ấy đi lại giữa Thăng Long, Quảng Tây, Kinh Bắc, Hải Dương, Nghệ An nhưng đang là lúc “ngọa hổ tàng long” nên Nguyễn Du hành tung bí mật, rất ít lộ diện. Những sử liệu dưới đây cho thấy các địa điểm ẩn hiện của ông:
Nguyễn Thu trong “Lê Quý Kỷ Sự” có nói đến cuộc khởi nghĩa tại Tư Nông của cựu Trấn Thủ Thái Nguyên Nguyễn Đăng Tiến, tước Quản Vũ Hầu, bị tướng Tây Sơn bắt giải về cho Vũ Văn Nhậm. Nhậm trọng sự khí khái nên dụ hàng, sau đó cũng tha bổng và cho phép muốn đi đâu thì đi. Họ đi sang Vân Nam. Nguyễn Quýnh quay trở về Hồng Lĩnh khởi nghĩa bị bắt và bị giết năm 1791 tròn 30 tuổi, dinh thự và làng Tiên Điền bị đốt sạch. Chi Nguyễn Tiên Điền tại đây với trên 400 người bị Tây Sơn tuyệt diệt,
Nguyễn Du đến Vân Nam, bị bệnh ba tháng mùa xuân. Hết bệnh, họ đi Liễu Châu và chia tay, Nguyễn Đại Lang về thăm quê nhà vùng Quế Lâm, cao sơn lưu thủy. Nguyễn Du đi giang hồ ba năm ở Trung Quốc trong áo mũ nhà sư mang danh Chí Hiên, từ Quảng Tây theo thuyền đi dọc sông và Hồ Động Đình đến Hán Khẩu, rồi theo sông Hán rồi lên Trường An viết bài Dương Quý Phi, Bùi Tấn Công mộ, Phân Kinh thạch đài, rồi lại theo kinh Đại Vận Hà đến Hàng Châu . Tại lời đề “tiểu dẫn” của “Thăng long cầm giả ca”, chính Nguyễn Du đã nói rõ rằng những năm trước và sau cái Nguyễn Huệ ra Bắc lần 2 đến lúc Nguyễn Huệ chết, ông chủ yếu ở Thăng Long và “Lưu Hương ký” của Hồ Xuân Hương cũng trùng khớp và xác nhận về “ba năm vẹn” đó.
Tiến sĩ Nguyễn Trọng Chánh nhà Kiều học đã phát hiện thấy trong “Thanh Hiên thi tập”“có những bài tả cảnh tuyết, núi non trùng điệp, lá vàng, trưởng giả ăn mặc còn theo nhà Hán (không theo nhà Thanh để tóc bính đuôi sam, áo quần Mãn Châu), dân chúng theo lịch nhà Tần, xử dụng nhạc cụ “tù và” ? … Nguyễn Du có những câu thơ kỳ lạ: Tôi đọc kinh Kim Cương nghìn lượt?. Muôn dậm mũ vàng chiều nắng xế? Giang Bắc, Giang Nam cái túi không? Nguyễn Du làm gì mà đọc kinh Kim Cương trong ba năm, đội mũ vàng nhà sư đi muôn dậm (khoảng 5000 km), làm gì không tiền mà đi hết các sông phía bắc đến sông phía nam Dương Tử Giang ? Nguyễn Du ở đâu mà cách Trường An ngàn dậm về phía Nam ?Theo Nguyễn Hành, cháu Nguyễn Du, có viết ông có một cuộc đời giang hồ như cuộc đời làm quan : Giang hồ long miếu hai điều đủ, Thi họa cầm thư bốn nghệ tinh. Theo gia phả từ năm 1786 đến 1796 Nguyễn Du về quê vợ tại Quỳnh Hải, Thái Bình hợp cùng Đoàn Nguyễn Tuấn khởi nghĩa chống Tây Sơn. Nhưng điều này không đúng vì từ năm 1788 Đoàn Nguyễn Tuấn ra làm quan Tây Sơn và đi sứ trong đoàn 158 người năm 1790. Đoàn Nguyễn Tuấn có hai bài thơ viết tặng một văn nhân họ Nguyễn, gặp tại Hoàng Châu, Trung Quốc vào mùa thu bàn luận về văn chương sôi nổi chuyện gì ?, Đoàn Nguyễn Tuấn phải lên Nhiệt Hà nơi vua Càn Long đang nghỉ mát ? Văn nhân họ Nguyễn đi xe song mã về Nam và hẹn gặp lại tại nước nhà vào mùa xuân. Trên đường đi cớ gì mà Đoàn lại viết một bài thơ Vô Đề về hồng nhan đa truân khi gặp một ca nhi hát cho sứ đoàn tại bến sông Hán?.”
Nguyễn Du dẫn vợ con về quê bà vợ cả ở Thái Bình sống qua ngày. Đó cũng là thời gian ông sáng tác tập Thanh Hiên tiền hậu tập, Nguyễn Hưng Quốc đã nhận định như vậy trong bài “Tết đọc lại Nguyễn Du”
Nguyễn Du dẫn vợ con về quê bà vợ cả ở Thái Bình sống qua ngày. Đó cũng là thời gian ông sáng tác tập Thanh Hiên tiền hậu tập, Nguyễn Hưng Quốc đã nhận định như vậy trong bài “Tết đọc lại Nguyễn Du”. … “tổng số 65 bài của tập thơ, có 17 bài nhắc đến hình ảnh bạch phát hay bạch đầu: “Bạch đầu đa hận tuế thời thiên” (Đầu bạc thường bực vì ngày tháng trôi mau); hay “Tráng sĩ bạch đầu bi hướng thiên” (Tráng sĩ đầu bạc bùi ngùi ngẩng lên trời) hay “Bạch phát hùng tâm không đốt ta” (Tóc bạc rồi, dù có hùng tâm, cũng chỉ biết ngồi suông than thở). Không biết ông bệnh gì, nhưng lúc nào cũng than bệnh: “Nhất nhất xuân hàn cựu bệnh đa” (Một nhà xuân lạnh, bệnh cũ lại nhiều); “Tam xuân tích bệnh bần vô dược” (Ba tháng xuân ốm liên miên, nghèo không có thuốc); “Cùng niên ngọa bệnh Tuế giang tân” (Suốt năm đau ốm nằm ở bến Tuế giang); “Đa bệnh đa sầu khí bất thư” (Lắm bệnh, hay buồn, tâm thần không được thư thái); “Thập niên túc tật vô nhân vấn” (Bệnh cũ mười năm, không ai thăm hỏi); “Giang hồ bệnh đáo kinh thời cửu” (Bệnh đến trong bước giang hồ đã lâu ngày). Đã bệnh lại còn nghèo. Phải ở nhờ nhà người khác: “Tiêu tiêu bạch phát ký nhân gia” (Đầu bạc bơ phờ ở nhờ nhà người). Hết nhờ người này sang nhờ người khác: “Lữ thực giang tân hựu hải tân” (Hết ăn nhờ ở miền sông lại đến miền biển). Lúc nào trong túi cũng rỗng không: “Giang nam giang bắc nhất nang không” (Một chiếc túi rỗng không, đi hết phía nam sông lại sang phía bắc sông). Thiếu mặc: “Tảo hàn dĩ giác vô y khổ” (Mới rét mà đã thấy khổ vì không áo). Có khi đói: “Táo đầu chung nhật vô yên hỏa” (Suốt ngày bếp không đỏ lửa). Ngay cả khi Nguyễn Du đã ra làm quan dưới triều Gia Long rồi, có năm vợ con vẫn đói: “Thập khẩu hài nhi thái sắc đồng” (Nhà mười miệng trẻ đói xanh như rau); “Thập khẩu đề cơ Hoành Lĩnh bắc” (Nhà mười miệng ăn đang kêu đói ở phía bắc Hoành sơn). Mười đứa trẻ ở đây chính là con của Nguyễn Du. (Gia phả ghi Nguyễn Du có 3 vợ: bà vợ đầu sinh một con trai tên Nguyễn Tứ; bà vợ thứ hai cũng sinh một con trai tên Nguyễn Ngũ; bà vợ thứ ba sinh mười con trai và sáu con gái; tổng cộng, như vậy, ông có 18 người con. Tuy nhiên, căn cứ vào tên người con đầu, Nguyễn Tứ, chúng ta có thể đoán là ông có ba người con khác, anh hay chị của Nguyễn Tứ, có lẽ đã chết lúc còn nhỏ hoặc ngay trong bào thai.) Đói đến độ có lúc phải xin ăn: “Cơ hàn bất giác thụ nhân liên” (Đâu ngờ phải đói rét để cho người thương). Nhưng buồn nhất có lẽ là cảm giác bất lực và bế tắc…”
Năm Mậu Thân (1788).Nguyễn Du 23 tuổi.Tống Phước Đạm dâng kế cho Nguyễn Ánh: “Tây Sơn tuy lấy được Bắc Hà nhưng vua Lê Chiêu Thống và triều đình nhà Lê còn trốn tránh trong vùng rừng núi, nhất định sẽ cầu viện nhà Thanh. Nhân lúc Nguyễn Huệ đang bận đối phó ở phía Bắc chưa rỗi để mắt đến phía Nam. Nguyễn Nhạc và Nguyễn Lữ ở phía Nam khó xoay trở. Chúa thượng nhân lúc này về chiếm đất Gia Định sẽ có thời cơ lớn”. Nguyễn Ánh nghe lời, đem đại quân về An Giang nhưng chưa kịp dựng đồn trại thì đã bị quân Tây Sơn tấn công. Quân hai bên giao chiến kịch liệt, quân của Thái bảo Phạm Văn Tham mới chịu lui. Thề lực Nguyễn Ánh ngày một nổi lên và có nhiều tướng giỏi. Tôn Thất Huy đóng ở Giồng Triệu. Lê Văn Quân đóng ở Giồng Trôm. Mạc Tử Sinh trấn thủ Hà Tiên. Phạm Văn Nhơn trấn thủ Long Xuyên. Trương Phước Giáo, Nguyễn Đình Đắc, Tôn Thất Hội, Võ Văn Lượng, Nguyễn Văn Hiếu, Mạc Văn Tô, Trần Văn Tín, Đoàn Văn Khoa , … đều là những nghĩa dũng. Đặc biệt quân sư Tống Phước Đạm mưu kế sâu sắc, liệu việc như thần. Chu Văn Tiếp, Đỗ Thành Nhơn, Võ Tánh là Gia Định tam hùng. Nguyễn Ánh trao cho Võ Tánh giữ chức khâm sai Tổng nhung, chưởng cơ dinh Tiên phong, lại gả trưởng công chúa Nguyễn Thị Ngọc Du cho Võ Tánh. Từ ngày Nguyễn Ánh lên nối ngôi vua Nguyễn tháng 2 năm 1780, sau đó giết Đỗ Thanh Nhơn, thâu tóm quyền lực, cho đến năm 1788 chưa bao giờ thế lực quân Nguyễn mạnh đến như vậy. Nguyễn Ánh thu phục Gia Định lần thứ Tư nhằm ngày Đinh Dậu tháng 8 năm Mậu Thân (9.1788). Tướng Tây Sơn Phạm Văn Tham lui về giữ những điểm trọng yếu ở Ba Thắc và Biên Hòa, đồng thời cấp báo về Quy Nhơn để xin viện binh. Nguyễn Nhạc chần chừ không dám phát binh vì sợ quân Nam thừa cơ đánh úp Quy Nhơn trong khi Nguyễn Huệ đang bận ở mặt Bắc không thể kịp ứng cứu. Do Gia Định quân Tây Sơn không có cứu viện nên lực lượng Nguyễn Vương đã đánh rộng ra các địa bàn phía Nam và làm chủ vững chắc vùng Nam Bộ ngày nay.
Vua Lê Chiêu Thống tháng 5 năm 1788, chạy lánh vào Bảo Lộc, Trấn Ninh tìm kế đánh trả quân Tây Sơn thì mẹ và con trai Lê Chiêu Thống đã chạy lên Cao Bằng. Những bầy tôi nhà Lê là Đốc đồng Nguyễn Huy Túc, phiên thần Địch quận công Hoàng Ích Hiểu, tụng thần Lê Quýnh và Nguyễn Quốc Đống đã bảo vệ thái hậu và con trai Chiêu Thống qua cửa ải Thủy Khẩu chạy sang Long Châu nhà Thanh, gặp Tổng đốc Lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị và Tuần phủ Quảng Tây Tôn Vĩnh Thanh cầu xin cứu viện. Sách Cương mục viết: “Thái hậu đưa nguyên tử (con trai Chiêu Thống) đến yết kiến ở trong sân, gào khóc xin cứu viện. Bọn Sĩ Nghị tâu với vua Thanh rằng tự hoàng nhà Lê đương phải bôn ba, đối với đại nghĩa, ta nên cứu viện. Vả lại, An Nam là đất cũ của Trung Quốc, sau khi khôi phục nhà Lê, ta nhân đó, đặt lính thú để đóng giữ. Thế là vừa làm cho nhà Lê được tồn tại, vừa chiếm lấy được An Nam: thật là làm một chuyến mà được hai lợi.”
Vua Càn Long muốn nhân cơ hội đánh chiếm Đại Việt bèn sai Tổng đốc Lưỡng Quảng là Tôn Sĩ Nghị mang từ 18.000 đến hơn 20 vạn quân (“Các ý kiến về số quân Thanh” là rất khác nhau từ nhiều nguồn), bao gồm các đạo binh huy động từ bốn tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam và Quý Châu hộ tống vua Lê Chiêu Thống về Đại Việt với danh nghĩa phù Lê. Quân Thanh chia làm 3 đường tiến sang Đại Việt: 1) Quân Quảng Đông, Quảng Tây do Tôn Sĩ Nghị (chức tổng đốc Lưỡng Quảng) trực tiếp chỉ huy, qua ải Nam Quan vào Lạng Sơn; phó chỉ huy là Hứa Thế Hanh (chức đề đốc) cùng các tướng Thượng Duy Thăng, Trương Triều Long (cả hai đều đang mang chức tổng binh), Lý Hóa Long (chức phó tướng); 2) Quân Vân Nam, Quý Châu do đề đốc Vân Quý là Ô Đại Kinh, từ Vân Nam qua ải Mã Bạch, theo đường Tuyên Quang xuống Sơn Tây vào Thăng Long; 3) Quân tình nguyện Điền châu do Sầm Nghi Đống chỉ huy, theo đường Long Châu tiến vào Cao Bằng rồi tiến về Thăng Long. Cả 3 đạo quân đều xuất phát vào cuối tháng 10 âm lịch năm 1788. Vua Càn Long lại đặc cử danh tướng Phúc Khang An chuyên trách hậu cần. Theo sách Thánh vũ ký, phần “Càn Long chinh phủ An Nam ký” của Ngụy Nguyên đời Thanh, Phúc Khang An đã thiết lập trên 70 đồn quân lương to lớn và kiên cố từ hai đường Quảng Tây và Vân Nam tới Thăng Long. Riêng chặng đường từ ải Nam Quan tới Thăng Long, Khang An thiết lập 18 kho quân lương trong khi Tôn Sĩ Nghị hành quân.
Vua Lê Chiêu Thống lẩn quất chạy trốn quân Vũ Văn Nhậm ở mạn bắc sông Nguyệt Đức, khi thì ở huyện Gia Định, lúc lại đi Chí Linh, Thủy Đường, Vị Hoàng. Nhậm kiêu ngạo, tiếm quyền. Tháng tư năm Mậu Thân (1788), Nguyễn Huệ lại ra bắc, vào thành Thăng Long, bắt giết Vũ Văn Nhậm, cho Ngô Văn Sở cai quản binh quyền, đặt Lê Duy Cận làm giám quốc coi việc thờ cúng tôn miếu nhà Lê. Chiêu Thống bị Ngô Văn Sở đánh tan ở sông Ngô Đồng, chạy vào Thanh Hoa rồi ra Kinh Bắc lần thứ hai.
Tôn Sĩ Nghị khi kéo sang Đại Việt, sai Lê Quýnh, Nguyễn Quốc Đống về tâu lại với Chiêu Thống. Vua bấy giờ mới biết, bèn cho Tham tri chính sự Lê Duy Đản và Hàn lâm hiệu thảo Trần Danh Án đi đường tắt lên đón quân nhà Thanh Quân Thanh tiến qua biên giới, tại Lạng Sơn, Phan Khải Đức ra hàng khi thấy quân lính dưới quyền trốn mất, còn Nguyễn Văn Diễm rút vội về Kinh Bắc hợp với Trấn thủ Nguyễn Văn Hoà chống giữ và đưa thư cáo cấp về Thăng Long . Theo thư Lê Chiêu Thống gửi cho Tôn Sỹ Nghị, tổng số quân Tây Sơn đóng ở miền Bắc khoảng 6 vạn quân, trong đó có 3 vạn quân địa phương không có lòng chiến đấu.
Ngô Văn Sở được tin quân Thanh kéo sang liền nhóm họp các văn võ quan nhà Lê Trung Hưng đưa một bức thư ký tên Giám Quốc Sùng Nhượng Công, Lê Duy Cẩn sang xin hoãn binh với Tôn Sĩ Nghị. Các tướng Tây Sơn mở cuộc thảo luận. Nhiều người bàn dùng phục binh đánh quân Thanh như Lê Lợi diệt tướng Minh là Liễu Thăng, Lương Minh trước đây, duy Ngô Thì Nhậm chủ trương kế hoạch, nhử quân Thanh vào sâu nội địa, thủy quân rút về Biện Sơn trước, lục quân kéo vào đóng giữ núi Tam Điệp rồi báo tin vào cho Bắc Bình Vương. Chiến lược này được chấp thuận, binh sĩ các đạo đều được lệnh về hội ngay dưới cờ của Tiết Chế Ngô Văn Sở tại bờ sông Nhị vào năm hôm sau. Sở bàn kế hoạch lui quân. Ngô Văn Sở phái tướng Phan Văn Lân đưa hơn 10 ngàn quân tinh nhuệ chốt giữ bến đò Xương Giang chặn quân Tôn Sĩ Nghị. Quân Tây Sơn vượt sông Nguyệt Đức đánh vào quân Thanh đang đóng ở núi Tam Tầng, bao vây doanh trại của Tôn Sĩ Nghị. Súng của quân Thanh và cung tên từ hai cánh tả hữu bắn ra như mưa, quân Tây Sơn chết rất nhiều. Tôn Sĩ Nghị lại phái một toán kỵ binh từ mạn thượng lưu vượt qua sông đánh úp lấy đồn Thị Cầu. Đồn này phát hỏa, Văn Lân cả sợ rút về.
Lê Chiêu Thống được tin quân Tây Sơn rút khỏi các trấn, bèn điều các tướng dưới quyền đi chiếm lại những nơi đó. Giữa tháng 11 năm 1788, quân Thanh tới bờ bắc sông Thương. Quân Tây Sơn rút về bờ nam nhưng chặt phá hết cầu và lấy hết thuyền bè. Theo sách Thánh vũ ký, phần “Càn Long chinh phủ An Nam ký” của Ngụy Nguyên, quân Thanh đã tổn thất khá nhiều mới bắc được cầu qua sông do đạn của quân Tây Sơn bắn sang trước khi rút hẳn. Quân Thanh tiến đến Thị Cầu, Phan Văn Lân đã chặt cầu và tận dụng bờ nam cao hơn bờ bắc mà bắn đại bác sang khiến quân Thanh mất 3 ngày (15 đến 17 – 11) không bắc nổi cầu. Nửa đêm 17 tháng 11, Phan Văn Lân mang một ngàn quân bản bộ theo khúc sông Cầu định tập kích trại Tôn Sĩ Nghị nhưng bị thiệt hại do hoả lực của quân Thanh bắn ra. Sau đó Văn Lân đụng độ tướng Thanh là Trương Triều Long ở Tam Tằng. Theo Hoàng Lê nhất thống chí, Quân Tây Sơn ít và yếu thế bại trận, nhiều người bị rét cóng hay chết đuối lúc vượt sông, quân Tây Sơn chết gần hết, phải rút lui. Trong khi đó, lục quân của Ngô Văn Sở cũng rút về tới Ninh Bình cố thủ. Ngày 20 tháng 11, quân Tây Sơn đóng đồn từ Tam Điệp tới Biện Sơn, Ngô Văn Sở cho đô đốc Tuyết vào nam cấp báo với Bắc Bình vương Nguyễn Huệ.
Tôn Sĩ Nghị từ Tam Tằng tiến vào Thăng Long. Lê Duy Kỳ từ Kinh Bắc ra đón rồi cùng theo vào kinh thành. Không lâu sau, các đạo quân Vân – Quý và Điền châu cũng tiến vào hội binh. Theo các nhà nghiên cứu[12], cuộc hành quân của Tôn Sĩ Nghị từ 28/10 tới 20/11 tức là mất 22 ngày mới tới Thăng Long, lâu hơn nhiều so với thời gian 6 ngày mà Nghị từng dự liệu với Càn Long. Ngày 21 tháng 11 năm Mậu Thân (1788), thành Thăng Long bỏ ngỏ, quân của Nghị vào đóng và tướng doanh của Nghị đặt tại Tây Long Cung. Theo lời vua Thanh dặn, Sĩ Nghị lấy xong thành này rồi trao ấn cho Duy Kỳ, tấn phong làm An Nam quốc vương lấy lòng dân Đại Việt. Ngày 22, Sĩ Nghị làm lễ ở điện Kính Thiên để làm lễ sách phong cho vua Lê Chiêu Thống. Tôn Sĩ Nghị tính chuyện truy kích Nguyễn Huệ nhưng Tôn Vĩnh Thanh tâu là Quảng Nam xa cách đô thành nhà Lê 2.000 dặm, dùng quân 1 vạn người thì phải cần 10 vạn phu vận tải, cũng bằng từ Trấn Nam Quan đến thành họ Lê.[15] Các bề tôi văn võ nhà Lê xin Nghị cho quân tiến đánh ngay quân Nguyễn Huệ nhưng Nghị không nghe, truyền cho các cánh quân hạ trại nghỉ ngơi, định ngày mồng 6 Tết mới ra quân. Sách Cương mục viết: “Bấy giờ hào kiệt bốn phương đua nhau trổ sức để làm việc, nhưng nhà vua chủ yếu chỉ dựa vào người Thanh. Khi chia ban quan chức, nhà vua chỉ trao cho các bầy tôi đi theo hộ giá và theo hầu ở hành tại, còn cựu thần và hào kiệt đều không được bổ dùng. Các bầy tôi cũng không ai nói đến việc ra quân để phục thù. Trong kinh và ngoài các trấn thảy đều chán nản và rời rạc. Cái cơ thành hay bại chỉ một mực tùy theo người Thanh mà thôi. Thế là việc nước không thể xoay xở được nữa”.
Tôn Sĩ Nghị bố trí quân Thanh đóng ở phía nam tới phía tây thành Thăng Long, cho đạo quân Lưỡng Quảng đóng hai bên bờ sông Hồng, quân Điền châu đóng ở Khương Thượng, quân Vân Quý đóng ở Sơn Tây.Theo Hoàng Lê nhất thống chí và Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục của nhà Nguyễn, quân Thanh ở Thăng Long chểnh mảng phòng thủ, thường đi cướp bóc hãm hại dân Đại Việt nên bị oán ghét. Lê Duy Kỳ thực hiện thanh trừng những người hợp tác với Tây Sơn. Theo Đại Nam thực lục, Nguyễn Ánh ở Gia Định nghe tin quân Thanh vào Thăng Long cũng sai Phan Văn Trọng và Lâm Đồ mang thư và chở 50 vạn cân gạo ra cho quân Thanh nhưng giữa đường bị bão biển, cả người và gạo đều bị đắm hết. Tôn Sĩ Nghị lúc đầu chủ quan, nhưng sau nghe lời cảnh báo của các tướng dưới quyền Lê Duy Kỳ cũng tăng cường phòng thủ và quyết định ngày 6 tháng Giêng sẽ ra quân đánh Tây Sơn. Tôn Sỉ Nghị bố trí đồn Ngọc Hồi ở Thanh Trì (Hà Nội), đồn Hà Hồi ở Thường Tín (Hà Nội), đồn Nhật Tảo ở Duy Tiên (Hà Nam) và đồn Nguyệt Quyết huyện Thanh Liêm (Hà Nam). Quân Cần vương của Duy Kỳ do Hoàng Phùng Tứ chỉ huy cũng được điều từ Sơn Tây xuống Gián Khẩu làm tiền đồn chặn quân Tây Sơn. Quân Thanh đồng thời cũng tụ tập thêm được các Hoa Kiều sống ở phía Bắc Đại Việt được chừng một vạn người đóng thành một trại, nhóm quân này ỷ thế đi cướp phá, và hãm hiếp không kiêng sợ gì ai. Dù Tôn Sĩ Nghị có ra sắc lệnh nghiêm quân kỷ nhưng vì quân kiêu nên cũng không có tác dụng lắm.
Nguyễn Huệ ở Bình Sơn, Phú Xuân nhận được tin cấp báo của đô đốc Tuyết ngày 24 tháng 11. Ngay hôm sau 25 tháng 11, Nguyễn Huệ đã quyết định lên ngôi Hoàng Đế, đổi niên hiệu là Quang Trung, và ngay hôm ấy lập tức đưa quân lên đường tiến gấp ra Bắc. Đến Nghệ An, Nguyễn Huệ đóng lại hơn 10 ngày để tuyển thêm quân, cứ 3 suất đinh lấy 1 suất lính. Sau 1 thời gian ngắn, ông đã có thêm hơn hàng vạn người. Theo Đại Nam chính biên liệt truyện, số quân cũ và mới của Quang Trung là 10 vạn và hơn 100 voi chiến. Nguyễn Huệ tuyển quân Thanh Nghệ làm đạo Trung quân cùng bốn đạo Tiền, Hậu, Tả, Hữu của cựu binh Thuận Quảng gấp đường tiến ra Bắc. Về thái độ của dân chúng, sử gia Nguyễn Khắc Thuần trong sách Đại cương Lịch sử cổ trung đại Việt Nam ghi thì thanh niên địa phương nô nức gia nhập hàng ngũ Tây Sơn còn theo sử gia Tạ Chí Đại Trường trong sách Lịch sử nội chiến Việt Nam 1771- 1802 thì trích trong thư giáo sĩ Longer là người đương thời gởi cho Julliard cho biết quân Tây Sơn bắt lính “gay gắt đến nỗi người ta không biết trốn vào đâu để tránh quân dịch. Các kẻ sai nha đem chó theo để tìm người trong khu rừng bên cạnh như người ta tìm thú: người ta lấy dao xỉa vào các đống rơm dùng để đun nấu”. Vua Quang Trung tổ chức duyệt binh và tiến ra bắc. Ngày 20/12, vua Quang Trung tiến đến Tam Điệp và tán thành chủ trương rút lui của Ngô Thì Nhậm. Theo sách Lê triều dã sử, sở dĩ quân Tây Sơn hành quân nhanh chóng vì Nguyễn Huệ đã bố trí 3 người 1 tốp thay nhau 2 người cáng 1 đi suốt ngày đêm. Theo Quân doanh kỳ lược của Trần Nguyên Nhiếp (là bí thư dưới quyền Tôn Sĩ Nghị), nghe tin thám tử quân Thanh các nơi chạy về báo Nguyễn Huệ đang lấy thêm lính Thanh – Nghệ và sắp đánh ra bắc, Tôn Sĩ Nghị vội cho quân tập dượt để chuẩn bị tác chiến, sai phó tướng Hứa Thế Hanh trực tiếp chỉ huy mặt trận phía nam Thăng Long. Vua Quang Trung chia quân làm 5 đạo tiền, hậu, tả, hữu và trung quân. Ông phân quân cũ cho các tướng còn tự mình chỉ huy số quân mới tuyển. Đạo quân do Quang Trung chỉ huy có Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân làm tiên phong, có cả tượng binh và kỵ binh đánh vào chính mặt nam Thăng Long; Đạo quân do đô đốc Tuyết chỉ huy theo đường thuỷ tiến vào sông Lục Đầu, đánh đồn quân cần vương của Lê Duy Kỳ ở Hải Dương, chặn đường rút của quân Thanh bên kia sông Hồng; Đạo quân đô đốc Lộc chỉ huy cùng đạo quân đô đốc Tuyết theo đường thuỷ tiến vào sông Lục Đầu, tới đây tách ra đi gấp lên Phượng Nhãn, Lạng Giang chặn đường rút của quân Thanh phía bắc; Đạo quân đô đốc Bảo chỉ huy, cũng có tượng binh và kỵ binh theo đường Ứng Hoà (Hà Tây) ra làng Đại Áng, phối hợp với cánh quân Quang Trung đánh đồn Ngọc Hồi của Hứa Thế Hanh; Đạo quân đô đốc Long chỉ huy, (có ý kiến cho rằng là tướng Đặng Tiến Đông hoặc đô đốc Mưu…[23]). Đạo quân này cũng có tượng binh và kỵ binh theo đường Chương Đức, hướng lên Sơn Tây nhưng sẽ rẽ quặt sang làng Nhân Mục tập kích đồn Khương Thượng của Sầm Nghi Đống và tiến vào Thăng Long từ hướng tây.
Năm Kỷ Dậu (1789).Nguyễn Du 24 tuổi. Nguyễn Huệ đại phá quân Thanh. Đêm giao thừa Tết Nguyên Đán (30 Tết), từ phòng tuyến Tam Điệp, quân Tây Sơn xuất phát. Đạo quân do Quang Trung chỉ huy vượt sông Giao Thuỷ đánh đồn Gián Khẩu của quân cần vương nhà Lê. Quân Lê tan vỡ, Hoàng Phùng Tứ bỏ chạy. Theo Đại Nam chính biên liệt truyện, quân Quang Trung thần tốc tiến lên bắt gọn đám quân Thanh do thám và tiêu diệt các đồn bắc sông Nguyệt Quyết và đồn Nhật Tảo (Duy Tiên). Do đạo quân Tây Sơn hành quân nhanh và các đám quân do thám bị bắt, quân Thanh từ đồn Hà Hồi tới Thăng Long không biết gì về cử động của quân Tây Sơn. Ngày 3 tháng Giêng, quân Tây Sơn tiến đến Hà Hồi cách Thăng Long khoảng 20 km. Quang Trung cho quân vây chặt đồn rồi sai bắc loa kêu gọi quân Thanh đầu hàng. Quân Thanh bị bất ngờ trước sự áp sát quá nhanh của quân Tây Sơn, không kịp kháng cự, đều ra hàng.
Ngày 4 tháng Giêng, Quang Trung tiến đến đồn Ngọc Hồi. Hứa Thế Hanh ở đây nghe tin đồn Hà Hồi bị diệt vội báo về Thăng Long. Tôn Sĩ Nghị vội điều Thang Hùng Nghiệp mang quân ra tăng viện, lại đặc sai 20 kỵ binh phải thay nhau chạy đi chạy lại báo cáo tình hình. Nhưng khi tiến quân tới Ngọc Hồi, Quang Trung không đánh ngay. Quân Thanh bị động cũng không dám giao tranh trước nhưng cũng không biết bị đánh khi nào. Cả ngày mùng 4, Quang Trung chỉ cho quân hư trương thanh thế để uy hiếp tinh thần quân Thanh và gây sự chú ý của quân Thanh tới đạo quân do ông chỉ huy vào mặt trận Ngọc Hồi để tạo điều kiện cho yếu tố bất ngờ của các đạo quân đô đốc Long và đô đốc Bảo. Chính Tôn Sĩ Nghị nghe báo cáo của kỵ binh cũng bị hút vào đồn Ngọc Hồi mà không nhận ra nguy cơ từ cánh quân của đô đốc Long. Khi Quang Trung diễu võ ngoài đồn Ngọc Hồi, đô đốc Long đang trên đường bắc tiến hướng đến Sơn Tây – nơi có đạo quân Vân Quý của Ô Đại Kinh – thì bất thần rẽ sang làng Nhân Mục nay thuộc xã Nhân Chính và Khương Đình và nửa đêm bất ngờ tập kích đồn Khương Thượng của Sầm Nghi Đống.
Theo Thánh vũ ký của Nguỵ Nguyên, các đội voi của Tây Sơn đều có đại bác trên lưng nã vào đồn. Quân Thanh bị đánh bất ngờ trong đêm tối, chết rất nhiều, tan vỡ bỏ chạy. Sầm Nghi Đống thấy không thể giữ được đồn bèn tự sát trên đài chỉ huy ở Loa Sơn (Khu vực phố chùa Bộc – Hà Nội hiện nay). Một số tài liệu mới mà giới nghiên cứu đưa ra gần đây lại cho thông tin khác về diễn biến trận diệt đồn Khương Thượng. Theo đó, khi quân Thanh bị diệt đáng kể, Sầm Nghi Đống bỏ chạy lên cố thủ tại đài chỉ huy ở Loa Sơn. Đô đốc Long chia quân làm hai cánh, một cánh đánh sang Nam Đồng để tiến vào Thăng Long, một ít quân tiếp tục vây hãm Loa Sơn. Sầm Nghi Đống không tự vẫn ngay mà cố thủ trên đài chờ cứu viện của Tôn Sĩ Nghị, nhưng tới ngày hôm sau không có quân cứu, Sầm mới tuyệt vọng và thắt cổ tự sát. Khu vực Khương Thượng và xung quanh, do xác quân Thanh chết quá nhiều, sau chất thành 12 gò cao, có đa mọc um tùm gọi là Gò Đống Đa. Trận diệt đồn Khương Thượng cũng còn gọi là trận Đống Đa.
Đô đốc Long ngay trong đêm mùng 4, hạ xong đồn Khương Thượng, đã tiến vào bắn phá đồn Nam Đồng ở phía tây thành Thăng Long. Khi Tôn Sĩ Nghị nhận được tin báo việc đồn Khương Thượng thất thủ thì đô đốc Long đã diệt xong đồn Nam Đồng và tiến vào đánh bản doanh của Nghị ở Thăng Long. Tôn Sĩ Nghị vội vàng tháo chạy. Các tài liệu cũ đều mô tả cảnh hỗn loạn của quân Thanh. Hoàng Lê nhất thống chí viết: “Nghị lên ngựa không kịp đóng yên, quân sĩ các doanh nghe tin đều hoảng hốt tan tác bỏ chạy, tranh nhau qua cầu sang sông, xô nhau rơi xuống nước mà chết… Lát sau cầu lại đứt, quân lính bị rơi xuống nước, sông Nhị Hà bị tắc không chảy được…” Đại Nam chính biên liệt truyện viết: “Tôn Sĩ Nghị đóng trên bãi cát, được tin bại trận vội vàng cưỡi ngựa một mình chạy về bắc. Tướng sĩ thấy vậy tranh nhau qua cầu mà chạy, cầu đứt, lăn cả xuống sông, chết đến vài vạn người, làm cho nước sông không chảy được.” Theo Thánh vũ ký của Ngụỵ Nguyên nhà Thanh: “Sĩ Nghị chạy trốn qua được bờ bắc sông Phú Lương (Tức sông Hồng) liền cắt đứt cầu phao khiến các đạo quân của Hứa Thế Hanh và Trương Triều Long bị bỏ lại ở bờ nam. Do đó hơn 1 vạn người vừa tướng vừa quân xô nhau nhảy xuống sông để bơi sang bờ bắc và đều bị chết đuối cả”[26],[27].
Lê Duy Kỳ được tin Sĩ Nghị đã bỏ chạy, vội dắt gia quyến chạy theo, ra đến bờ sông thì cầu đã gãy, phải men theo bờ sông phía Nghi Tàm, lấy được chiếc thuyền đánh cá chèo sang được bên kia sông Hồng. Em Duy Kỳ là Duy Chi được sai giữ cửa ô Yên Hoa (Tức Yên Phụ ngày nay) thấy Duy Kỳ đã chạy, cũng bỏ chạy lên Tuyên Quang. Đạo quân Vân Nam – Quý châu của tướng Ô Đại Kinh đóng ở Sơn Tây, theo Thánh vũ ký, được tin các đồn thất thủ, không giao chiến trận nào đã bỏ chạy, nhờ tướng người Việt là Hoàng Văn Đồng dẫn đường chạy về Trung Quốc.
Chiều mồng 5 tết (tức 30 tháng 1 năm 1789), Quang Trung và đô đốc Bảo tiến vào Thăng Long trong sự chào đón của nhân dân, đô đốc Long ra đón rước vào thành. Đại Nam chính biên liệt truyện mô tả, áo bào của Quang Trung sạm màu khói súng.
Tôn Sĩ Nghị trên đường tháo chạy, bị hai cánh quân Tây Sơn của đô đốc Tuyết và đô đốc Lộc chặn đánh ở Hải Dương và Phượng Nhãn, tơi tả chạy về, bỏ lại cả quân ấn, kỳ bài, sắc thư. Trần Nguyên Nhiếp là bí thư dưới quyền Nghị sau này mô tả: Sĩ Nghị cùng Nguyên Nhiếp đi lạc lối, quanh co nhiều chỗ, bị đói khát 7 ngày đêm mới tới ải Nam Quan. Theo giáo sĩ De la Bissachere ở Việt Nam khi đó, số quân Thanh kịp theo Nghị qua bên kia biên giới chỉ có khoảng 50 người.
Lê Duy Kỳ vội chạy theo Nghị thoát sang bên kia biên giới. Theo Hoàng Lê nhất thống chí, quân Tây Sơn đuổi theo và rao lên rằng sẽ đuổi qua biên giới đến khi bắt được Nghị và Duy Kỳ mới thôi. Bởi thế dân Trung Quốc ở biên giới dắt nhau chạy làm cho suốt vài chục dặm không có người. Như vậy sớm hơn dự kiến, chỉ trong vòng 6 ngày, quân Tây Sơn đã đánh tan quân Thanh. Cánh quân Điền châu gần như bị diệt hoàn toàn, cánh quân Lưỡng Quảng chủ lực bị thương vong nặng và tan rã gần hết, riêng quân Vân Nam – Quý châu không giao chiến mà rút êm về nước. Quang Trung đã hẹn với ba quân mồng 7 vào ăn tết ở Thăng Long nhưng chỉ đến mồng 5, quân Tây Sơn đã khải hoàn ở kinh thành.
Theo các nhà nghiên cứu Nguyễn Lương Bích, Phạm Ngọc Phụng, chiến thuật kết hợp vừa gấp gáp vừa thư thả, giương đông kích tây, tránh chỗ mạnh nhằm chỗ yếu hơn ở Ngọc Hồi – Khương Thượng đã đạt đến đỉnh cao trong nghệ thuật quân sự của Nguyễn Huệ. Trong 3 đạo quân Thanh, cánh quân đông đảo nhất, mạnh nhất là của Tôn Sĩ Nghị và cánh quân ít nhất, yếu nhất chính là quân Điền châu của Sầm Nghi Đống. Quang Trung đã chọn mục tiêu đánh vào quân Điền châu vừa yếu nhất lại vừa dùng kỳ binh đánh bất ngờ, vào thời điểm nửa đêm nên khả năng chiến thắng rất cao. Xét trên toàn cục, với lực lượng ít hơn, quân Tây Sơn (10 vạn) thực tế chỉ đương đầu với khoảng già nửa số quân Thanh sang Đại Việt nên lực lượng tương đối cân bằng. Quang Trung đã không dàn lực lượng tác chiến cùng lúc với tất cả các cánh quân Thanh (không đụng quân Vân Quý của Ô Đại Kinh) mà vẫn có chiến thắng lớn trên toàn mặt trận, đuổi được quân Thanh ra khỏi bờ cõi.
Nguyễn Huệ ngay sau chiến thắng Kỷ Dậu 1789, đã cho ngựa chiến ruổi nhanh vào kinh thành Phú Xuân báo tiệp cho Hoàng Hậu Lê Thị Ngọc Hân: Đại phá quân Thanh gò chất xác Đào ươm nghìn nụ hé môi say Nhớ người tiễn rượu đêm ra trận Tin đẹp lồng hoa gửi tặng đây Kế đó, ông phái quân truy sát đuổi dài lực lượng chống đối, thực hiện các phương lược ngoại giao với nhà Thanh để được phong làm quốc vương, chính danh phận ở Bắc Hà, xây dựng thiết chế cai trị ổn định cho nhà Tây Sơn, sau đó trao lại binh quyền cho Ngô Văn Sở và Ngô Thì Nhậm để trở lại Phú Xuân lo việc diệt Nguyễn Ánh.
Vua Quang Trung khi truy kích quân Thanh đã bắt được chiếu thư Càn Long gửi Tôn Sĩ Nghị có đoạn viết: “…việc quân nên từ đồ, không nên hấp tấp. Hãy nên đưa hịch truyền thanh thế đi trước, và cho các quan nhà Lê về nước cũ hợp nghĩa binh, tìm Tự quân nhà Lê đem ra đứng đầu để đối địch với Nguyễn Huệ thử xem sự thể thế nào. Nếu lòng người nước Nam còn nhớ nhà Lê, có quân ta kéo đến ai chẳng gắng sức. Nguyễn Huệ tất phải tháo lui. Ta nhân dịp ấy mà sai Tự quân đuổi theo rồi đại binh của ta theo sau, như thế không khó nhọc mấy mà nên được công to. Đó là mẹo hay hơn cả. Ví bằng suốt người trong nước nửa theo đằng nọ, nửa theo đằng kia, thì Nguyễn Huệ tất không chịu lui. Vậy ta hãy đưa thư sang bảo đường họa phúc, xem nó đối đáp làm sao. Đợi khi nào thủy quân ở Mân (Phúc Kiến), Quảng đi đường bể sang Thuận Hóa và Quảng Nam rồi, bộ binh sẽ tiến lên sau. Nguyễn Huệ trước sau thụ địch thế tất phải chịu. Bấy giờ ta sẽ nhân mà làm ơn cho cả hai bên: Tự đất Thuận Hóa, Quảng Nam trở vào Nam thì cho Nguyễn Huệ; tự châu Hoan, châu Ái trở ra Bắc thì phong cho Tự quân nhà Lê. Ta đóng đại binh lại để kiềm chế cả hai bên, rồi sẽ có xử trí về sau.”
Quang Trung từ trước khi giao chiến, đã tính trước kế sách ngoại giao với nhà Thanh. Lúc Tôn Sĩ Nghị rêu rao “Ai bắt sống được Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ đem nộp sẽ được công đầu” lúc sắp kéo quân sang Đại Việt, thì Ngô Văn Sở tướng Tây Sơn đã sai Nguyễn Nha đưa thư ký tên Sùng nhượng công Lê Duy Cẩn đến Tôn Sĩ Nghị xin hoãn binh, với những lời lẽ thật mềm dẻo, nhưng lại có những cảnh báo cho quân Thanh thấy rằng nếu đem quân vào, nhân dân Đại Việt đã thực hiện vườn không nhà trống; quân đội thì sẵn sàng và kiên quyết đánh giặc, được thể hiện ở những câu sau: …Hiện nay, trong nước tôi đột nhiên nghe tin quân Thiên triều sắp qua cửa ải…Lính thì sợ vướng víu vào nghịch án, nên họ bảo nhau rằng: “Không đánh lại thì bị giết sạch!” Dân thì sợ không lấy gì cung ứng cho quân lương, nên họ bảo nhau rằng: “Không trốn tránh thì bị chết hết!” Vì thế, quân các đạo đều tranh nhau đến nơi đồn lũy, dân các xứ đều xô nhau tìm vào nơi núi rừng…” Nhưng Tôn Sĩ Nghị, bác bỏ thư của Ngô Văn Sở, rồi cứ cho quân vượt trấn Nam Quan vào Đại Việt.
Tôn Sĩ Nghị lúc đã vào thành Thăng Long thì vua Quang Trung lại sai Trần Danh Bính dẫn đầu một sứ bộ gồm 18 người đến Thăng Long đưa cho Tôn Sĩ Nghị ba đạo bẩm văn: Một đạo nhân danh giám quốc Lê Duy Cẩn, một đạo nhân danh quần thần văn võ, một đạo nhân danh nhân dân xin Tôn Sĩ Nghị đóng quân ở trấn Nam Quan để tra xét nội tình nhà Lê và Tây Sơn từ trước đến giờ. Vua Quang Trung còn đem nộp cho Tôn Sĩ Nghị những tuần dương binh là nhóm Hắc Thiên Tôn gồm 40 người do Ngô Hồng Chấn, tướng Tây Sơn, bắt được từ trước.[10] Nhưng Tôn Sĩ Nghị xem bẩm văn liền xé phăng ngay đi, rồi sai đem bọn Trần Danh Bính ra giết. Sau đó, Tôn Sĩ Nghị cho truyền hịch đi các nơi kể tội quân Tây Sơn, báo cho mọi người biết, quân Thanh sẽ đánh thẳng vào Quảng Nam bắt sống “bọn Nguyễn Huệ” mới thôi.
Vua Càn Long sau thất bại nặng nề của nhà Thanh trong chiến tranh với Tây Sơn đã sai danh tướng Phúc Khang An thay thế Tôn Sĩ Nghị làm Tổng đốc Lưỡng Quảng được giao quyền tùy cơ hành xử và điều động thêm 50 vạn quân để ứng chiến vùng biên giới nhằm hư trương thanh thế. Phúc Khang An nguyên là đặc sứ phụ trách hậu cần cho đội quân của Tôn Sĩ Nghị là người mà vua Càn Long đặc biệt yêu quý và tin cẩn, dân gian cho rằng đó là con ngoài giá thú của vua với em gái của Hoàng Hậu. Năm 1789, kho vàng tại tu viện Mật Tông ở Tây Tạng đang là điểm quan tâm lớn nhất của vua Càn Long đang bị quân Khuếch Nhĩ Khách Mông Cổ dòm ngó chuẩn bị tấn công. Vua Càn Long đã 78 tuổi có tính toán riêng về người kế vị là Hoàng tử Gia Khánh và phúc tướng Phúc Khang An nên việc cơ mật này không thể ai khác chính phải là Phúc Kháng An đảm nhiệm. Lưỡng Quảng và Đại Việt cũng cần sớm an định vì điểm nóng Cam Túc đang làm vua Thanh rất lo nghĩ, trong khi Nguyễn Huệ anh dũng thiện chiến không thể xem thường nên vua Càn Long lựa ý vỗ về hơn là đem binh thảo phạt.
Phúc Khang An và Thang Hùng Nghiệp sớm biết tình thế nên đã đón ý hoặc phân vai mật trao đổi với Tây Sơn. Nguyễn Huệ thấy rõ chỗ yếu của quân Thanh và biết họ đang tìm cách để giảng hòa, trong khi ông cũng đang bận tâm xử lý phía Nam. Do vậy sau khi Nguyễn Huệ thắng trận đã sai mang nhiều vàng bạc hối lộ Phúc Khang An và Tả giang Binh bị đạo Thang Hùng Nghiệp để nghị hòa và cho cháu là Nguyễn Quang Hiển lên cửa ải Nam Quan cầu phong và xin cho Nguyễn Huệ được về Bắc Kinh triều kiến Càn Long. Mưu mẹo này thông đồng giữa hai bên với sự thách giá trả giá bên trong và cách qua mặt vua Lê Chiêu Thống cùng số cựu thần nhà Lê và hợp lý hóa trong chính sử xin xem kỹ bài viết “Ngoại giao Việt Nam thời Tây Sơn” là tư liệu quý.
Lê Chiêu Thống lại tiếp tục xin nhà Thanh cho quân cứu viện. Nhà Thanh, phần sợ Quang Trung, phần đã ngán ngẩm việc chinh chiến, chỉ hứa hão với Chiêu Thống mà không cho quân. Thân vương nhà Thanh là Phúc Khang An hứa giúp quân cho Chiêu Thống, nhưng lại tâu với vua Thanh Càn Long rằng Chiêu Thống không còn muốn trở về. Phúc Khang An đã được hưởng lợi từ Tây Sơn và nhận rõ tình thế, nên đã dâng biểu xin hoàng đế Càn Long bãi binh, đồng thời ông cũng chỉ thị cho Thang Hùng Nghiệp gửi mật thư cho Quang Trung gợi ý nên hoà hiếu, tránh binh đao và lập các mẹo mực bang giao để giữ thể diện cho vua Càn Long mà tránh được chiến tranh. Thư ngoại giao “Trần tình biểu” của vua Quang Trung lúc đầu khá cứng rắn nhưng với sự mưu kế của Thang Hùng Nghiệp nên đã nhẹ đi rất nhiều. Tây Sơn theo phương lược vạch sẵn, với tài ngoại giao khéo léo của Ngô Thì Nhậm, đã nhanh chóng bình thường hóa bang giao với phương Bắc. Nhà Thanh đồng ý hủy bỏ việc động binh để trả thù, và tiếp nhận sứ thần của Tây Sơn. Vua Quang Trung phải dâng biểu “Nộp lòng thành”, nộp cống phẩm. Nhà Thanh đã chịu chấm dứt chiến tranh, nhưng vẫn chưa chịu thừa nhận Nguyễn Huệ làm An Nam quốc vương. Phúc Khang An viết cho vua Quang Trung một bức thư dài báo cho vua Quang Trung biết là vua Càn Long đã ban cho Quang Trung một chuỗi hạt trai, “Ơn trời cao đất dày đến thế là tốt lắm” lại báo cho vua Quang Trung biết rằng: bọn Lê Duy Kỳ đã bị róc tóc, mặc quần áo kiểu người Thanh, đã bị đưa đi an trí ở “ngoại biên” “quyết không cho về nước nữa”. Rồi sau đó Phúc Khang An đòi Tây Sơn phải làm miếu thờ Hứa Thế Hanh, Sầm Nghi Đống. Lại cho biết là khoảng tháng bảy, tháng tám năm Canh Tuất (1790) nhà Thanh sẽ làm lễ bát tuần vạn thọ vua Càn Long “Có hàng vạn nước vượt biển trèo non đem ngọc xe lễ vật đến chầu“. Phúc Khang An yêu cầu vua Quang Trung đến ngày đó cũng phải “chỉnh trang” sang chầu, và như thế phải khởi hành vào tháng tư năm Canh Tuất (1790) Đáng chú ý là sau đó, vua Càn Long xuống chỉ cho vua Quang Trung đại ý nói: do quân Thanh vượt biên giới đến Thăng Long, Nguyễn Huệ phải đem quân ra để hỏi Lê Duy Kỳ vì cớ gì cầu cứu thiên binh; vì bị quân Thanh đánh, quân Tây Sơn bất đắc dĩ phải đánh lại; gặp lúc cầu phao đứt, nên quân Thanh bị chết hại nhiều. Trong tờ chỉ Càn Long còn nhận rằng Nguyễn Huệ đã bắt và giết hết những người đã giết Hứa Thế Hanh và Sầm Nghi Đống. Ông còn cho rằng khi quân Thanh vào Thăng Long, ông đã ra lệnh cho Tôn Sĩ Nghị rút quân về nước, vì Sĩ Nghị không tuân lệnh, cho nên có trận đại bại vào đầu năm Kỷ Dậu. Ông lại đòi lập đền thờ Hứa Thế Hanh và Sầm Nghi Đống, và đòi vua Quang Trung phải đích thân sang Yên Kinh triều cận vào dịp Càn Long làm lễ bát tuần vạn thọ năm Canh Tuất. Ông lại nhắc rằng “Lê Duy Kỳ hèn lười, không tài, bỏ ấn trốn đi, chiểu theo pháp luật của Thiên triều phải tội nặng; rằng ông quyết an trí bọn chúng ở Quế Lâm, không bao giờ cho về nước nữa; rằng ông đã ra lệnh cho Phúc Khang An đưa phái đoàn Nguyễn Quang Hiển đến xem chỗ bọn Lê Duy Kỳ ở”.Nhưng rồi vua Quang Trung viện cớ là mình chưa được phong vương, sợ có điều bất tiện khi gặp các vị quốc vương các nước ở Yên Kinh. Thế là Càn Long đành phải phong cho Nguyễn Huệ làm An Nam quốc vương để có điều kiện đến Yên Kinh triều cận một cách đàng hoàng. Vua Càn Long qua Phúc Khang An lại ra điều kiện đòi triều Tây Sơn phải đúc người vàng đem cống như các triều đại trước. Ngô Thì Nhậm đã viết cho Phúc Khang An bức thư, trong đó có đoạn: “Quốc trưởng nước tôi vùng lên từ thủa áo vải, nhân thời biết việc, đối với vua Lê vốn không có danh phận vua tôi. Mất hay còn là do số trời; theo hay bỏ là do lòng người. Quốc trưởng tôi có ý cướp ngôi của nhà Lê đâu mà lại coi như kẻ thoán đoạt. Trước đây Tôn bộ đường đem quân đến, quốc trưởng nước tôi bất đắc dĩ phải đem quân ra ứng chiến, không hề có ý xâm phạm biên cảnh để mang tội. Nay đại nhân theo lệ cũ của Trần, Lê, Mạc bắt cống người vàng, như vậy chẳng hóa ra quốc trưởng nước tôi được nước một cách quang minh chính đại mà lại bị coi như hạng ngụy Mạc hay sao? Như thế thì tấm lòng kính thuận sợ trời thờ nước lớn cũng bị coi như việc nhà Trần bắt Ô Mã Nhi, nhà Lê giết Liễu Thăng hay sao?…Mong đại nhân noi theo mệnh lớn, miễn cho nước tôi lệ đúc người vàng để tiến cống…” Nguyễn Huệ trong thư này đã nói rõ rằng các vua Việt Nam thời trước sở dĩ phải cống người vàng là để chuộc một tội lỗi nào đó đối với Thiên triều còn Nguyễn Huệ tự coi không có tội gì với nhà Lê và cũng không có tội gì với nhà Thanh nên Tây Sơn không thể đúc người vàng để tiến cống. Tháng 7 năm 1789, Càn Long ra chỉ dụ phong Nguyễn Huệ làm An Nam quốc vương.
Năm Canh Tuất (1790). Nguyễn Du 25 tuổi. Tháng 1 năm 1790, Hoàng đế Quang Trung giả (do Phạm Công Trị, cháu gọi Nguyễn Huệ bằng cậu đóng) đã sang triều kiến và dự lễ mừng thọ 80 tuổi của vua Càn Long. Đoàn sứ bộ Tây Sơn gồm 159 người có giả vương Nguyễn Huệ và Nguyễn Quang Thùy (mà vua Càn Long tưởng là hoàng thái tử của Nguyễn Huệ). Mục đích khác của đoàn sứ là thăm dò thái độ của nhà Thanh đối với vị vua lưu vong Chiêu Thống của nhà Lê. Đại quan nhà Thanh là Phúc Khang An, từng sang chiến trường Đại Việt, đứng sau lưng đoàn sứ bộ, nên nhiều tướng lĩnh nhà Thanh biết người cầm đầu sứ bộ không phải Nguyễn Huệ, nhưng ngại gây hấn nên không nói ra.
Sứ thần Tây Sơn đi đợt đó có Ngô Văn Sở, Phan Huy Ích (thượng thư, nhà ngoại giao, quê Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh, tiền bối của nhà sử học Phan Huy Lê, giáo sư nhà giáo nhân dân, là một trong những chuyên gia hàng đầu về lịch sử Việt Nam hiện đại, người có ảnh hưởng lớn đến chính sử hiện tại trong sự đánh giá nhà Nguyễn và nhà Tây Sơn), Vũ Huy Tấn ( Thị lang bộ Công, tước bá, sau khi đi sứ về ông được phong làm Thượng thư bộ Công, tước Hạo Trạch hầu. Dưới triều Cảnh Thịnh, ông được đặc cách lên hàng Thượng trụ quốc, Thị trung đãi chiếu Thượng thư). Sứ đoàn Tây Sơn lần đó cũng có Nguyễn Nể là anh cùng cha khác mẹ với Nguyễn Du và Đoàn Nguyễn Tuấn là anh vợ Nguyễn Du. Dọc đường đi, đoàn sứ giả có gặp hành tung của một số người họ Nguyễn ở Quảng Tây và sau đó cùng đi lên Yên Kinh. Người đời sau ngờ rằng đó chính là Nguyễn Du và Hà Mỗ.
Đoàn sứ thần Tây Sơn có giả vương Nguyễn Huệ làm thế nào để che mắt sứ đoàn vua Lê Chiêu Thống hiển nhiên có mặt ?. Phúc Khang An đã ngầm thông đồng mưu kế với Tây Sơn: “Tìm một người diện mạo giống quốc vương đi thay. Việc này chỉ có Công gia, Thang đại nhân, Vương đại nhân và ta là bốn người biết mà thôi. Nếu sợ Lê Duy Kỳ biết, ta bẩm ngay với Công gia đem 1000 người bọn ấy giữ kỹ không cho ra ngoài, còn ai biết được nữa”. (theo Bang giao tập, ngoại giao nhà Tây Sơn).
Mưu lược ngoại giao của nhà Tây Sơn mua chuộc Phúc Khang An và Thang Hùng Nghiệp qua các chứng cứ của Phan Huy Ích và Bang giao tập, với tình thế nhà Thanh đang rất chú tâm đến Tây Tạng, Cam Túc và chuyển giao ngai vàng. Phúc Khang An cần nhanh chóng lập được đại công quản lý Lưỡng Quảng và vỗ yên Đại Việt để tính toán vị thế đối trọng danh chính ngôn thuận với ngôi vua mà vua Càn Long cần phải chuyển giao cho Gia Khánh đang đến rất gần. Điều này đã ảnh hưởng sâu sắc tới kế sách, thái độ của vua Càn Long và Phúc Khang An đối với Lê Duy Kỳ.Vua Càn Long đã đón tiếp trọng thể đoàn sứ bộ An Nam của nhà Tây Sơn là có lý do ẩn ý riêng liên quan tới bí mật kho báu trên đỉnh Tuyế Sơn. Theo “Đại Thanh thực lục”, nhà Thanh chi phí cho sứ đoàn mỗi ngày hết 4.000 lạng bạc (tổng cộng lên đến 800.000 tính cho tới khi sứ đoàn về).[55] Ngày 11 tháng 7 năm Canh Tuất, vua Càn Long tiếp “vua” Tây Sơn ở hàng cung Nhiệt Hà, Càn Long tặng “Vua” Tây Sơn một bài thơ như sau: Nước Phiên đến lúc ta đi tuần Mới gặp mà như đã rất thân Nước Tượng chưa từng nghe triều cận
Việc cống người vàng thật đáng khinh Nhà Thanh coi trọng việc đi sứ Chín đạo thường có đạo vỗ yên Xếp võ tu văn thuận thiên đạo Đại Thanh còn mãi vạn ngàn xuân. Đoàn sứ bộ nhà Tây Sơn tới tháng 11 năm 1790 trở về Thăng Long. Trên đường về đoàn vẫn được tiếp đón long trọng hệt như lúc đi. Phan Huy Ích có ghi lại trong Tinh sà kỷ hành của ông như sau: Chuyến đi này được nhà vua (Càn Long) đặc cách cho quan Tổng đốc đi bạn tống. Thuyền, xe, cờ, quạt quáng cả mắt người ta. Đi đến đâu quan lại phải bôn tẩu đón tiếp đến đó. Mùa thu đến hành cung ở Nhiệt Hà, lại được theo xa giá về Yên Kinh, đi Tây Uyển. Luôn luôn tiến yến hàng tuần, được ơn trời âu yếm, ưu đãi khác thường. Từ trước đến giờ, người mình đi sứ Trung Quốc chưa có lần nào lạ lùng và vẻ vang như thế.
Sách Bang giao tập viết: “Đại Hoàng đế sợ Duy Kỳ ở Quảng Tây còn có nhiều bầy tôi cũ gây ra việc, cho nên ngày 16 tháng giêng năm Canh Tuất đã cho đem gia quyến Lê Duy Kỳ lên Yên Kinh, đem 116 người tùy tùng đi an trí ở các tỉnh Triết Giang, Giang Nam, Tứ Xuyên, Hồ Quảng. Lê Quýnh bị đưa đi Ỷ Lệ cách Yên Kinh 40000 dặm”. Nhà Thanh sai phân tán các quan lại cũ của nhà Lê đi các nơi để tách biệt không liên lạc được với nhau và cô lập Lê Duy Kỳ.Bản thân Lê Duy Kỳ bị giam lỏng ở “Tây An Nam dinh” tại Yên Kinh . Nhà Tây Sơn chính thức nhận được sự công nhận của nhà Thanh.
Lê Quý Kỳ và các cựu thần nhà Lê có đối sách gì? sách Cương mục viết: “Nhà vua căm giận vì bị người Thanh lừa gạt, bèn cùng các bầy tôi là bọn Phạm Như Tùng, Hoàng Ích Hiểu, Lê Hân, Nguyễn Quốc Đống, Nguyễn Viết Triệu, Lê Quý Thích, Nguyễn Đình Miên, Lê Văn Trương, Lê Tùng và Lê Thức mười người uống máu ăn thề, làm bài biểu định đưa lên vua Thanh để xin quân cứu viện, nếu không được thì xin được đất hai châu Tuyên Quang và Thái Nguyên để quay về giữ việc thờ cúng tổ tiên hay là cùng nhau lén về Gia Định, nương nhờ triều ta (triều Nguyễn) để dần dà toan tính việc khôi phục, chứ quyết không chịu sống thừa ở đất Bắc.”
Nguyễn Du đi câu ở biển Nam (1791-1796)
Nguyễn Du làm “Nam Hải Điếu Đồ” (Người đi câu ở biển Nam) trong khoảng thời gian 1791-1796 ở đền Khán Xuân cạnh Hồ Tây (Hà Nội). Nguyễn Du thời làm “Nam Hải Điếu Đồ” là tri âm tri kỷ với Hồ Xuân Hương tên thật là Hồ Phi Mai, họ đã sống chung sống chung “ba năm vẹn” ở Cổ Nguyệt Đường () cạnh chùa Kim Liên làng Nghi Tàm . Đây là đôi trai tài gái sắc Nguyễn Du Xuân Hương luận anh hùng; Nguyễn Du và Hồ Xuân Hương, ‘bên tình bên hiếu bên nào nặng hơn/ để lời thệ hải minh sơn/ Làm con trước phải đền ơn sinh thành”. Nguyễn Du đã bôn ba việc nước bao năm, gác bỏ tình riêng. Nguyễn Du làm nhà sư Chí Hiên đi lại ở Quảng Tây, Bắc Kinh, cung Nhiệt Hà (Trung Quốc) liên hệ với anh rể Vũ Trinh () chánh sứ của vua Lê lo việc phục quốc cho vua Hậu Lê. Nguyễn Du sau khi nhà Hậu Lê mất đã trực tiếp cùng em Nguyễn Ức xây đền thờ nghĩa sĩ nhà Hậu Lê Trung Liệt cổ tự (nay ở Thụy Khê, quận Tây Hồ, Hà Nội xem thêm Nguyễn Du và đền cổ Trung Liệt ). Nguyễn Du cũng được anh Nguyễn Nễ () giao xây dựng lại từ đường họ Nguyễn Tiên Điền ở làng Tiên Điền, đình chùa Trường Ninh, cầu Tiên ở xứ Nghệ (tên cũ của Nghệ An và Hà Tĩnh thời ấy).
(*) Cổ Nguyệt Đường cạnh chùa Kim Liên, cho nên Phạm Đình Hổ đã viết: Từ thuở làm thân khách Cố kinh. Kim Liên qua lại đã bao lần, anh chàng này từng là học trò cụ Đồ Diễn, nên biết Xuân Hương từ thuở còn thiếu nữ. Trong Vũ Trung tùy bút tr. 42, cho biết năm 1798 -1799 có dạy học tại thôn Khánh Văn, hạ lưu sông Tô Lịch không xa nhà Xuân Hương. Trong Tang Thương Ngẫu lục, q 2 tr 231 có bài ký tả cảnh chùa Kim Liên. “Mùa thu năm Đinh Tỵ (1797) tôi cùng các ông Nguyễn Thạch Hiên, Nguyễn Kính Phủ, Hoàng Hy Đỗ đến vãn cảnh chùa Kim Liên ở làng Nghi Tàm, nơi trụ trì của Hoà Thượng Huệ (nội thị của chúa Uy Vương)” Phạm Đình Hổ đến thăm Xuân Hương cùng các bạn nhân đó ra về thăm chùa Kim Liên. Qua Vũ Trung Tùy bút ta biết Phạm Đình Hổ nhà ở phố Hàng Buồm và Nguyễn Kính Phủ (Nguyễn Án) ở cạnh đền Lý Quốc Sư bên Hồ Gươm, (nay là phố Nhà Thờ). Quang cảnh chung quanh Cổ Nguyệt Đường thế nào? Theo thơ Tốn Phong, người viết tựa cho Lưu Hương Ký:Phía trước nhà có trồng một cây bàng lớn: Cội bàng trăng khuất chiếu mai đình bài 6. Chung quanh nhà có trồng nhiều cây mai (mơ) Chủ nhân trước viện trắng mai hoa Bài 5, Bên quán người hoa chỉ thích mai.Bài 9 Tiết hàn mai tự nở ngàn hoa bài 26. Nhà nàng cạnh bến trúc làng Nghi Tàm: Vàng bay lá trúc ngõ chuyền oanh. Bài 6, Phượng cầm tự khóm trúc vang thanh, bài 14, Khóm trúc đình mai ta với ta, bài 21, Bến trúc mừng vui gặp mỹ nhân bài 25 Trên bến có trồng vài cây liễu: Bến nước đìu hiu liễu rủ cành, bài 6 Trong vườn có trồng cây vông và cây mận: Ngô đồng lá cũ mơ hồn phượng, ngõ hạnh lạnh tàn chuyển bóng oanh ,bài 17.
(**) Vũ Trinh (1769-1828) là anh rể và rất thân thiết với Nguyễn Du. Vũ Trinh là Chánh Sứ phụ trách mọi công việc bang giao của nhà Lê đối với Tôn Sĩ Nghị. Suốt triều Tây Sơn, (1789- 1801) Vũ Trinh lánh thân ở Hồ Sơn vùng Hà Nam ngày nay, dạy học và soạn sách. Khi Nguyễn Ánh lên ngôi, Vũ Trinh được mời ra tham chính, nhận chức Thị Trung Học sĩ được thăng Hữu Tham Tri Bộ Hình năm 1807 làm Chánh Sứ cùng Ngô Nhân Tĩnh đi sứ nhà Thanh. Năm 1816 ông có ý bênh vực cho học trò ông là Nguyễn Văn Thuyên, con Tổng Trấn Nguyễn Văn Thành nên bị đày đi Quảng Nam 12 năm, đến năm 1828 mới được ân xá, trở về quê vài ngày thì bị bệnh mất hưởng dương 59 tuổi.
(***) Nguyễn Nể (1761-1805) là anh cùng cha khác mẹ và là người đặc biệt yêu thương của Nguyễn Du, thân thiết với Nguyễn Khản, Nguyễn Điều, Nguyễn Quýnh, Vũ Trinh, Đoàn Nguyễn Tuấn, Hà Mỗ. Họ là những anh em cùng gia tộc hoặc anh em rể hoặc là cha nuôi, tùy tướng đặc biệt tin cẩn (như với trường hợp của Hà Mỗ và Nguyễn Du). Nguyễn Nể tự là Tiến Phủ, hiệu Quế Hiên, thi đậu đầu khóa Quốc Tử Giám, đậu đầu thi hạch, đậu Tứ Trường thi Hương năm 1779, Nguyễn Nể được bổ vào Thị Nội Văn thường trực tại nhà học của con chúa Trịnh Sâm, là bạn thiết của Trịnh Tông, sau Nguyễn Nể cai quản đội quân Nhất Phẩm kiêm Trị thị nội thư tả của phủ chúa Trịnh. Năm 1783, Nguyễn Nể làm Hiệp tán quân cơ đạo quân Sơn Tây. Năm 1786 vua Lê Quý Kỳ trực tiếp nắm lại chính sự thì Lê Quýnh và Nguyễn Nể được vua Lê tin cẩn “ngày đêm cùng họ trù tính mọi công việc, ngay cả những mưu kế phải dùng đến trong lúc bối rối bất ngờ, cũng được lo toan chu đáo” (Hoàng Lê Nhất Thống Chí trang 179). Nguyễn Nễ sau khi thời gian 1788, khi Tôn Sĩ Nghị sang chiếm nước ta, vua Lê Chiêu Thống thanh trừng những người cộng tác với nhà Tây Sơn thì rất nhiều người bị đục bỏ tên trong bia tiến sĩ nhưng Nguyễn Nể không có trong danh sách những người bị tội. Năm 1789 vua Quang Trung ra Bắc đánh bại Tôn Sĩ Nghi quét sạch quân Thanh ra khỏi bờ cõi, Nguyễn Nể được vời ra bổ làm Hàn Lâm Thị Thư và làm Phó Sứ sang Trung Quốc cầu phong nhà Thanh cho Vua Quang Trung, Vũ Huy Tấn làm Chánh Sứ, sứ đoàn còn có Ngô Vi Quý, Nguyễn Đình Cử, Nguyễn Quang Hiến … Trong cuộc đi sứ, vua Càn Long mời dự yến ở Các Tứ Quang ông làm thơ chúc mừng, vua Càn Long thưởng cho một tấm đoạn, hai thỏi mực và 3 tập hoa tiên lụa. Trở về được thăng Đông Các Học Sĩ, Thái tử Tả Thị Lang, Nghi Thành Hầu, được giao việc cai trị tại Bắc Hà. Nguyễn Nể năm 1794 được nhà Tây Sơn vời vào Phú Xuân làm việc Viện Cơ Mật. Ông giao phó tiền bạc cho hai em là Nguyễn Du và Nguyễn Ức về xây dựng lại từ đường, đền thờ, cầu Tiên, chùa Trường Ninh làng Tiên Điền bị Hiệp Trấn Tây Sơn Lê Văn Dụ đốt phá nhân vụ Nguyễn Quýnh khởi nghĩa. Nguyễn Nể sau đó được phong Tả phụng Nghi Bộ Binh, hàm Tam phẩm, được cử làm Hiệp Tán Nhung vụ Quy Nhơn. Năm 1795 Nguyễn Nể được cử làm Chánh Sứ của triều Cảnh Thịnh Nguyễn Quang Toản sang dự lễ vua Càn Long nhường ngôi cho con là vua Gia Khánh. Nguyễn Nể dâng hai bài thơ ứng chế được vua Càn Long đích thân mời uống rượu và dự yến Các Tử Quang. Nguyễn Nể được vua Càn Long khen thơ và ban thưởng : gấm đoạn, trà sen, gậy tuổi già, ngọc như ý, tứ bửu.. Cháu 24 đời Chu Văn Công tri phủ Tứ Thành tặng bốn chữ Thiên Môn Tái Đăng (hai lần lên cổng trời). Nguyễn Nể mùa thu 1796 sau khi sứ đoàn về nước được vẻ vang vì cả hai lần được vua Càn Long và triều đình nhà Thanh kính trọng. Ông là “Quế Hiên Nguyễn Nễ đỉnh núi cao thi trận nước Nam” được vua Cảnh Thịnh ban thưởng 40 mẫu ruộng, giữ chức Đông Các đại học sĩ, gia tặng Thái sử, Tả Thị Lang, tước Nghi Thành Hầu, chức vụ dâng sách cho vua Cảnh Thịnh mới lên mười hai tuổi, đọc và giảng nghĩa cho vua nghe sách Tiểu Học Diễn Nghĩa do La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp và Sùng Chính Viện vừa mới soạn xong. Ngoài ra còn các công việc giúp vua soạn các chiếu biểu, và kiêm các công việc Cơ Mật Viện, và chức vụ cuối cùng được thăng tới chức Trung Thư lĩnh hữu đồng nghị, chức vụ ngang hàng với quân sư Trần Văn Kỷ. Sau khi Nguyễn Du thăm anh cuối năm 1796, Nguyễn Nể xin về quê Nghệ An là hiệp trấn tham mưu cho Nguyễn Thận, xa dần kinh đô. Nguyễn Nể can thiệp cho Nguyễn Du ra tù sau khi toan trốn vào Nam theo Nguyễn Ánh. Theo nhà nghiên cứu Phạm Trọng Chánh “Nguyễn Du- Người đi săn núi Hồng” và “Quế Hiên Nguyễn Nể” thì lí do Nguyễn Nể năm 1797 được rời Phú Xuân là Nguyễn Nể xin đi xây dựng Phượng Hoàng Trung Đô tại Nghệ An cùng Trần Quang Diệu và Trấn Thủ Nguyễn Văn Thận.
Năm Tân Hợi (1791).Nguyễn Du 26 tuổi.Lê Chiêu Thống thấy không thể mong chờ viện binh của quân Thanh nên đã trở về chiếm đất Tuyên Quang, Cao Bằng dựa vào thế lực của tù trưởng Nùng Phúc Tấn, Hoàng Văn Đồng, liên kết với Trình Cao, Quy Hợp, các vùng Trấn Ninh của Vạn Tượng mưu đánh Nghệ An. Nguyễn Huệ sai trấn tướng Nguyễn Quang Diệu và đô đốc Nguyễn Văn Uyển đem năm nghìn tinh binh theo đường thượng lộ Nghệ An tiến đánh chiếm được Trấn Ninh, diệt Trịnh Cao, Quy Hợp. Vua nước Vạn Tượng phải bỏ thành mà chạy. Quang Diệu thừa thắng đuổi dài đến tận Xiêm La, chém tướng Vạn Tượng là tả súy Phan Dung và hữu súy Phan Siêu, sau đó kéo quân về Bảo Lộc. Nùng Phúc Tấn và Hoàng Văn Đồng thế cùng không chống đỡ nổi đều bị quân Quang Diệu giết chết. Tháng mười, năm Tân Hợi (1791), anh thứ tư cùng cha khác mẹ với Nguyễn Du là Nguyễn Quýnh quay trở về Hồng Lĩnh khởi nghĩa bị bắt và bị giết năm 1791 tròn 30 tuổi, dinh cơ họ Nguyễn ở Tiên Điền Hà Tĩnh bị Tây Sơn phá hủy và đốt sạch. Vua Lê Chiêu Thống cô thế với các cựu thần trung thành lại phải về Yên Kinh.
Nguyễn Huệ sau khi đã được nhà Thanh phong làm An Nam quốc vương và truy sát đuổi dài tận diệt những mầm mống hồi phục nhà Lê và các cựu thần nhà Lê ứng nghĩa, đã đặt thể chế Hoàng Đế, lập Lê Thị Ngọc Hân làm Bắc Chính cung Hoàng hậu, phong con trưởng là Nguyễn Quan Toản làm thái tử, chọn Nghệ An làm thủ đô với tên Phượng Hoàng trung đô, đắp thành đất ở núi Kỳ Lân, dựng lầu điện, chia cả nước thành các trấn để cai trị, định quan danh, làm sổ ba tịch đinh điền, phát thẻ tín lệnh (tương tự CMND ngày nay) để quan lý hộ tịch hộ khẩu. Về đối ngoại xin mở cửa ải hải quan giao thương với nhà Thanh ở Cao Bằng, Lạng Sơn để dân hai nước họp chợ thông thương, lại xin đặt phái bộ đại diện ở phủ Nam Ninh trong nội địa Trung Quốc, xin cưới công chúa nhà Thanh. Tất cả những điều Nguyễn Huệ đề đạt với vua Càn Long đều được vua Càn Long đồng ý. Quang Trung không chỉ muốn hòa hoãn với Càn Long mà còn muốn xuất quân đánh nhà Thanh. Trước khi tính chuyện đánh Thanh, nhà vua cho quấy rối nội địa Trung Quốc bằng cách lợi dụng đảng “Thiên Địa Hội” khiêu khích người Thanh. Các biên thần nhà Thanh như Phúc Khang An (mới thay Tôn Sĩ Nghị) tuy biết rõ Tây Sơn có bí mật nhúng tay, nhưng cũng chịu nhịn cho qua chuyện.
Nguyễn Ánh được người Pháp hỗ trợ trong lúc vua Quang Trung vẫn phải lo ổn định tình hình Bắc Hà và tiêu diệt tàn dư của nhà Lê còn sót lại thì Nguyễn Vương đã kéo ra đánh Bình Thuận, Bình Khang, Diên Khánh, quân của Tây Sơn vương Nguyễn Nhạc liên tiếp bại trận và mất mấy thành này. Cho tới năm 1791, Nguyễn Nhạc chỉ còn cai quản Quy Nhơn, Phú Yên và Quảng Ngãi.
Năm Nhâm Tí (1792). Nguyễn Du 27 tuổi.Vua Quang Trung đầu năm 1792, lại sai sứ bộ sang Yên Kinh, mang các cống phẩm dâng Càn Long gồm: chiến lợi phẩm lấy được ở Vạn Tượng, sách binh thư của Đại Việt và một quyển sử viết về triều đại Lê Chiêu Thống. Ông cũng cầu hôn với công chúa Thanh và xin đất Lưỡng Quảng. Trong Bang giao hảo thoại mà Ngô Thì Nhậm là người chép lại vẫn còn hai văn bản ngoại giao đó. Tờ biểu chính thức đặt vấn đề xin làm con rể vị Thiên Tử nước Đại Thanh như sau: “Thần vốn là một kẻ áo vải đội ơn Thánh Hoàng cho giữ cõi Nam. Khi vào triều cận nơi cung khuyết đã được thấy rõ thiên nhan để vấn an, lại được ban thưởng rất nhiều. Phàm những việc mà ở cõi Nam Giao từ xưa đến nay chưa ai được hưởng, đều được (Thánh Hoàng). Đến khi thần lĩnh chỉ về nước, ngửa trông thánh ân đoái đến, ân chỉ ban luôn. Lồng lộng lòng nhân của Thánh Hoàng không thể tả sao cho xiết…Vua nhà Đại Thanh ta vâng chịu mệnh trời có muôn phương đất, những nơi soi đến đều nuôi nấng như con, rộng như doanh hoàn không để ra ngoài sân điện… Trộm nghĩ: Muôn vật không ẩn tình với trời đất, con cái không giấu tình với cha mẹ. Việc gia đình tâm sự đâu dám không bày tỏ với bậc chí tôn. Vừa đây thần bị vận đen, trong nhà thiếu người đơm cúng. Cơ đồ mới gây dựng, thuyền vuông ít người giúp đỡ. Cây ngọc muốn được nương nhờ, khóm dân mong được giữ vững. Ngước thấy Thanh triều gây nền từ núi Thăng Bạch, dựng nên nghiệp vua, con cháu ức muôn, đời đời phồn thịnh. Từ trước đến nay chế độ nhà trời, công chúa gả xuống, tất phải người tôn quý mới chọn đẹp duyên, không có lệ rộng ra đến các bầy tôi ở ngoài. Phận đã nghiêm chia ra trong ngoài như thế, thật khó mà với đến được. Chỉ vì một niềm tôn mến, riêng trông ngóng, trằn trọc không thôi. Trộm mong cành ngọc nhà trời rộng lan đến cả kẻ ngoại phiên ở dưới, khiến thần được ngửa đội ơn lành gần gụi gót lân…Chỉ vì quá phận cầu ơn, việc không phải là thường cách, mưu với mọi người chấp sự, không ai dám đề đạt lên cho. Muôn dặm cửa vua ngày ngày trông ngóng. Nay dám không tự lượng, mạo muội giãi bày lòng thành. Kính cẩn sai kẻ bồi thần sang chầu hầu, sau khi tâu bày rồi sẽ vì thần mà giãi bày lòng thực.Vua Quang Trung giao việc này cho Vũ Văn Dũng, một viên tướng tin cậy quê ở Hải Dương. Vũ Văn Dũng mang hai tờ biểu sang Yên Kinh trực tiếp đặt hai vấn đề trên với vua Càn Long. Vua Quang Trung đã tính đến trường hợp phải dùng lực lượng quân sự đối phó với nhà Thanh, khi vua Càn Long nổi giận. Ông đã chuẩn bị đương đầu với mọi sự bất trắc, đó là nuôi dưỡng nhóm Tề Ngỗi (Tàu Ô) và Thiên Địa Hội. Trong trường hợp chiến tranh Việt Thanh lại xảy ra các nhóm này sẽ trở thành những lực lượng hỗ trợ đắc lực. Khi vua Quang Trung trù tính việc xin đất làm đô và cầu hôn thì lúc này Vũ Văn Dũng đang nghỉ ở quê nhà trong trấn Hải Dương. Vua Quang Trung đã hạ sắc chỉ cho họ Vũ như sau: ““Sắc truyền cho Hải Dương Chiêu viễn đô đốc tướng quân dực vận công thần Vũ quốc công được gia phong chức chánh sứ đi sứ nước Thanh, được toàn quyền trong việc đối đáp tâu xin hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây để dò ý và cầu hôn một vị công chúa để chọc tức. Phải thận trọng đấy! Hình thế trong chuyến dụng binh đều ở chuyến đi này. Ngày khác làm tiên phong (đánh nước Thanh) chính là khanh đấy. Kính thay sắc này!” Câu Hình thế trong chuyến dụng binh đều ở chuyến đi này, cho thấy Vũ Văn Dũng đi sứ nước Thanh không phải chỉ có các nhiệm vụ trên mà còn phải dò xét nội tình nhà Thanh, quan sát địa hình địa vật những nơi ông đi qua để một khi chiến tranh Việt Thanh lại bùng nổ thì quân Tây Sơn có thể có một số tin tức tình báo cần thiết mà tổ chức cuộc hành quân. Theo gia phả họ Vũ, thì Vũ Văn Dũng cầm đầu sứ đoàn đã đến Yên Kinh và được vào bệ kiến vua Càn Long. Vũ Văn Dũng đã hoàn thành cả hai nhiệm vụ: cầu hôn và xin đất làm đô. Sau khi nghe lời tâu xin của Vũ Văn Dũng, vua Thanh giao vấn đề này cho đình thần bàn xét. Ngày hôm sau Vũ Văn Dũng lại được vào bệ kiến Càn Long ở Ỷ Lương các và vua Càn Long đã đồng ý trao đất Quảng Tây cho vua Quang Trung để làm đô và gả một công chúa cho vị thủ lĩnh Tây Sơn. Về việc cầu hôn, sau buổi tiếp sứ thần Đại Việt, vua Càn Long ra lệnh cho bộ lễ sửa soạn nghi lễ và định ngày cho công chúa nước Đại Thanh sang đẹp duyên cùng vua Đại Việt.
Tháng 5 năm Nhâm Tý, tức năm Càn Long thứ 57 (1792), con trai cựu hoàng Lê Chiêu Thống bị ốm chết. Các cận thần nhà Lê theo vua số thì bị giam giữ, số thì lưu tán, cơ may phục quốc không còn hi vọng, Lê Chiêu Thống ngã bệnh nặng.
Vua Quang Trung ý định cưới con vua và xin đất định đô chưa kịp trở thành hiện thực thì ông chết đột ngột vào ngày 29 tháng 7 năm Nhâm Tý (16 tháng 9 năm 1792), lúc khoảng 11-12 giờ đêm. Nguyễn Huệ qua đời, ở ngôi được 4 năm, hưởng thọ 40 tuổi, miếu hiệu là Thái Tổ Vũ hoàng đế. Bắc cung hoàng hậu Lê Ngọc Hân đã viết bài “Tế vua Quang Trung” và bài “Ai Tư Vãn” để bày tỏ nỗi đau khổ và tiếc thương cho người chồng anh hùng sớm ra đi. Thi hài Quang Trung được táng ngay tại Phú Xuân, được táng ở cung điện Đan Dương. Nguyễn Quang Toản lên nối ngôi, tức là vua Cảnh Thịnh, sai sứ sang nhà Thanh báo tang và xin tập phong. Vua Càn Long tặng tên hiệu cho Nguyễn Huệ là Trung Thuần, lại thân làm một bài thơ viếng và cho một pho tượng, 300 lạng bạc để sửa sang việc tang. Sứ nhà Thanh đến tận mộ ở Linh Đường (mộ giả) thuộc huyện Thanh Trì (Hà Nội) để viếng. Nguyên nhân cái chết của vua Quang Trung theo các tài liệu đều cho rằng ông chết vì do đột tử bởi một cơn tăng huyết áp đột ngột. Bác sĩ Bùi Minh Đức khảo cứu các nguồn tư liệu lịch sử và kết luận rằng Nguyễn Huệ “xuất huyết não dưới màng nhện; nguyên nhân tử vong: do viêm phổi sặc“.Theo Hoàng Lê nhất thống chí, thì vua Càn Long hình như đã biết trước việc này, bằng chứng là khi Quang Trung giả sang Yên Kinh gặp Càn Long, được Càn Long tặng cho chiếc áo, có thêu 7 chữ: Xa tâm chiết trục, đa điền thử (車心折軸多田鼠) Nghĩa là: Bụng xe gãy trục, nhiều chuột đồng. Theo phép chiết tự, chữ “xa” (車) và chữ “tâm” (心) ghép lại thành chữ “Huệ” (惠) là tên của Nguyễn Huệ; “chuột” nghĩa là năm tý (Nhâm tý 1792). Ý của dòng chữ trên áo là Nguyễn Huệ sẽ chết vào năm Tý.
Nguyễn Quang Toản 1783 – 1802) hay Cảnh Thịnh hoàng đế, là con trai thứ của vua Quang Trung (Nguyễn Huệ). Ông lên ngôi tháng 8 năm 1792, sau khi Nguyễn Huệ mất, năm sau đổi niên hiệu thành Cảnh Thịnh. Khi vua Quang Toản mới lên ngôi thì cậu họ là Bùi Đắc Tuyên làm thái sư rất chuyên quyền, còn Ngô Văn Sở khi đó trấn giữ thành Thăng Long, coi hết việc quân dân, được thăng chức đại tổng lý, tước quận công.
Năm Quý Sửu (1793). Nguyễn Du 28 tuổi. Lê Chiêu Thống thất vọng và chán nản, lâm bệnh rồi qua đời ngày 16 tháng 10 (âm lịch) năm 1793 tại Yên Kinh. Nhà Thanh chôn ông theo nghi thức tước công. Ngày mồng hai tháng hai năm Quý Sửu (1793), sứ đoàn Tây Sơn sang đến Bắc Kinh để báo tang vua Quang Trung mất . Vua Càn Long đã phê vào tờ biểu báo tang hai chữ đáng tiếc, rồi ông thân làm một bài thơ viếng. Ông lại sai viên án sát Quảng Tây là Thành Lâm đến Nghệ An làm lễ đọc và đốt bài thơ ấy trước “phần mộ” vua Quang Trung. Ông còn giao cho sứ đoàn Ngô Thì Nhậm một tấm lụa đại cát đạt và 3000 lạng bạc để dùng vào việc làm chay cho vua Quang Trung. Không chờ Nguyễn Quang Toản dâng biểu cầu phong, vua Càn Long lại đặc cách phong ngay cho Quang Toản làm An Nam quốc vương để chính danh phận và yên dân tâm. Vua Càn Long tỏ ra rất vui vẻ, hả hê khi được Ngô Thì Nhậm cho biết trước khi từ trần, vua Quang Trung đã dặn quần thần phải luôn luôn tôn kính Thiên triều. Vì vậy, Càn Long lấy hai chữ Trung thuần đặt tên thụy cho vua Quang Trung. Vua Càn Long cũng đã ra lệnh cho các quan của nhà Thanh đều phải cúi đầu làm lễ tưởng niệm vua Quang Trung: Thạc tào tòng sự các gia ngạch,Cá cá bất vong ngã tiên vương. Tạm dịch là: Tất cả các vị quan to (ở Thiên triều) đều cúi đầu làm lễ/ Ai ai cũng không quên An Nam quốc vương (Nguyễn Huệ) của chúng ta.
Phúc Khang An khi đó đang làm tổng chỉ huy đánh quân Khuếch Nhĩ Khách Mông Cổ tại tu viện Mật Tông ở Tây Tạng để giành lại kho vàng to lớn ở núi Tuyết. Khi trở về, Phúc Khang An đã viết cho triều đình Tây Sơn một bức thư có những câu: Bản Tước các bộ đường cùng Tiền Quốc vương (vua Quang Trung) đã từng đem lòng thành liên kết rất sâu. Nhớ khi tiến quan vào chầu, tâm sự sớm chiều, bàn soạn nửa năm, lúc cùng ngồi thuyền lúc cùng đi bộ trước khi vào chầu, thường thường đem tâm sự đàm đạo với nhau… đến lúc lên đường về nước, chia tay ở Hán Dương, cùng nhau than thở, quyến luyến nhớ thương. Bản tước các bộ đường từ tháng năm năm ngoái (1792) đốc binh tiến đánh bộ lạc Quách Nhĩ Khách… Nay nhờ Đại Hoàng Đế nghĩ đến quý quốc, che chở như trời. Bản tước các bộ đường đã nhận ủy nhiệm (của Đại Hoàng Đế làm tổng đốc Lưỡng Quảng) quý Quốc vương thỏa lòng nương tựa. Đợi khi đến tỉnh Việt (Quảng Đông), sẽ sai người đến Nghệ An làm lễ tế điệu, kính dâng bó hoa để tỏ lòng cố cựu.
Lê Chiêu Thống bị giới làm sử đời sau phê phán gay gắt. Các tác giả Ngô gia văn phái thân Tây Sơn trong tiểu thuyết Hoàng Lê nhất thống chí viết: “Tuy vua Lê đã được phong Vương, nhưng giấy tờ đưa đi các nơi, đều dùng niên hiệu Càn Long. Vì có Nghị ở đấy nên không dám dùng niên hiệu Chiêu Thống. Ngày ngày sau buổi chầu, vua lại tới chờ ở doanh của Nghị để nghe truyền việc quân, việc nước. Vua cưỡi ngựa đi trước, Lê Quýnh cưỡi ngựa đi sau, quân lính hộ vệ chỉ vài chục người. Người trong kinh có kẻ không biết là vua. Hoặc có người biết, thì họ nói riêng với nhau rằng: Nước Nam ta từ khi có đế, có vương tới nay, chưa thấy bao giờ có ông vua luồn cúi đê hèn như thế. Tiếng là làm vua, nhưng niên hiệu thì viết là Càn Long, việc gì cũng do viên tổng đốc, có khác gì phụ thuộc vào Trung Quốc?“. Tuy nhiên, nhà Nguyễn do Nguyễn Ánh thành lập ra sau đó, lại nhìn nhận khá rộng lượng với Chiêu Thống. Hoàng đế Tự Đức có lời phê về Chiêu Thống, đại ý nói: “Nhà vua bị người ta lừa gạt, bị giám buộc ở quê người đất khách, đến nỗi lo buồn phẫn uất, ôm hận mà chết, thân dẫu chết, nhưng tâm không chết, kể cũng đáng thương! Vậy nên truy đặt tên thụy là Mẫn Đế“.
Năm 1793, ở Đàng Trong , Nguyễn Ánh nhân Bắc Hà biến loạn kéo đại quân từ Gia Định kéo ra đánh vua Thái Đức (Nguyễn Nhạc) ở thành Quy Nhơn. Nguyễn Nhạc sai người đến chỗ Cảnh Thịnh xin cứu viện. Cảnh Thịnh cho Trần Quang Diệu làm Đại Tổng quản, Phạm Công Hưng, Nguyễn Văn Huấn đem quân cứu Nguyễn Nhạc. Quân của Nguyễn Ánh rút về. Các tướng của vua Quang Toản chiếm luôn thành trì của vua Thái Đức. Tháng 8 năm này, vua Thái Đức uất hận mà qua đời, con cả là Nguyễn Bảo lên nối ngôi bị các tướng của Cảnh Thịnh chia quân giữ thành và an trí ra huyện Phù Ly. Nhà Tây Sơn nhánh Nguyễn Nhạc chấm dứt từ đó.
Năm Quý Sửu (1793), Nguyễn Du về thăm quê Tiên Điền và đến cuối năm ông vào kinh đô Phú Xuân thăm anh là Nguyễn Nễ đang làm thái sử ở viện cơ mật và anh vợ là Đoàn Nguyễn Tuấn.
Năm Giáp Dần (1794). Nguyễn Du 29 tuổi. Vua Nguyễn Quang Toản sai Vũ Văn Dũng ra coi binh mã bốn trấn Bắc Hà. Dũng đến trạm Hoàng Giang, gặp trung thư lệnh Trần Văn Kỷ phạm tội bị đày ở đó, Kỷ nói với Dũng rằng: Quan thái sư chức vị đã cao tột bực, trong tay nắm quyền làm oai làm phúc, lại đẩy ông ra ngoài, nếu có sự chẳng lợi cho nhà nước, các ông phỏng còn giữ được đầu chăng? Bây giờ chẳng sớm liệu đi, sau này ăn năn sao kịp? Dũng tin và trọng Kỷ, nên cho lời Kỷ là phải. Hôm sau, Dũng đem quân bản bộ quay về, hợp mưu với thái bảo Hóa, bắt phe đảng Đắc Tuyên bỏ ngục; lại sai người vào Quy Nhơn bắt Bùi Đắc Trụ (con Bùi Đắc Tuyên) và sai đô đốc Hài ra thành Thăng Long lập mưu bắt Ngô Văn Sở đưa về, thêu dệt thành tội trạng làm phản để dìm xuống nước cho chết hết. Sau đó, Dũng lại sai Hóa vào giữ thành Quy Nhơn. Cũng trong năm 1794, Cảnh Thịnh sai Bùi Đắc Trụ làm tán nghị, vào Quy Nhơn trấn giữ thành và lấy Quang Diệu làm thống suất, lĩnh đại quân tiến đánh thành Nha Trang. Bảy tướng từ Lê Văn Trung trở xuống đều được gia phong làm quận công quản binh và nghe theo lệnh chỉ huy của Quang Diệu. Diệu tiến sát thành Nha Trang, mà quân tuần tiễu thì đã đến địa phận Bình Thuận. Quân nhà Nguyễn hết sức chống giữ khiến Diệu không thể thắng nổi. Giai đoạn này, quân Tây Sơn luôn luôn tấn công miền Nam đã thuộc quyền Nguyễn Ánh, quân hai bên chống chọi với nhau đến hàng năm.
Trần Quang Diệu đang ở Nha Trang thì được tin cha con Bùi Đắc Tuyên và Ngô Văn Sở đều đã bị Vũ Văn Dũng giết chết, sợ vạ lây đến mình, bèn kéo quân về, họp bàn cùng bọn tướng tá, định dùng quân lực bắt Vũ Văn Dũng. Ngay lập tức Diệu giải vây cho thành Nha Trang rồi kéo quân về thành Quy Nhơn để sau đó tiếp tục về kinh đô Phú Xuân (Huế). Về tới làng Yên Cựu ở phía nam kinh thành, trên bờ sông Hương, Diệu đóng quân ở bờ nam sông. Dũng cùng bọn nội hầu Tứ đem quân bản bộ đóng ở bờ bắc sông, mượn lệnh vua để chống lại với Diệu.
Vua Quang Toản phải sai các trung sứ qua lại vỗ về hoà giải, Quang Diệu mới chịu đem tả hữu vào yết kiến Cảnh Thịnh và giảng hòa với Vũ Văn Dũng; kế đó Diệu lại xin cho gọi Hóa về và xin cho Lê Trung thay chân Hóa, trấn giữ Quy Nhơn. Khi ấy, các cận thần ở bên Cảnh Thịnh gièm pha rằng oai quyền của Diệu quá lớn, đang toan có mưu khác. Toản tin là thật, liền rút hết binh quyền của Diệu, chỉ cho giữ một chức quan vào hàng thị thần mà thôi. Quang Diệu vốn tương đắc với Lê Trung, nên gửi mật thư vào Quy Nhơn, hẹn Trung cất quân lập Nguyễn Quang Thiệu (con Nguyễn Huệ, anh Cảnh Thịnh) làm vua. Trung theo lời kéo quân về, Quang Thiệu đem quân tiếp ứng phía sau. Quân của Trung về đến Quảng Nam, vua Quang Toản sai Diệu đi bảo Trung lui quân. Trung không thông báo cho Quang Thiệu mà một mình một ngựa theo Diệu về yết kiến Cảnh Thịnh. Quang Thiệu sợ hãi phải rút quân về Quy Nhơn, đóng chặt cửa thành để cố thủ. Nguyễn Quang Toản sai tướng đến đánh liên tiếp mấy tuần không hạ được, tự mình làm tướng đem quân đi. Đến Lê Giang, thái phủ tên là Mân tâu với Toản rằng: Cuộc biến loạn Quang Thiệu thực do Lê Trung gây nên, tội không thể tha, xin giết ngay để răn kẻ khác. Cảnh Thịnh nghe theo và cho vời Trung vào dinh, sai võ sĩ trói lại đem chém. Con rể Lê Trung là đại đô đốc Lê Chất hận việc giết cha vợ nên đầu hàng Nguyễn Ánh. Sau đó, Toản tiến đánh Quy Nhơn, mười ngày sau hạ được thành, bắt Quang Thiệu cùm đưa về, dùng thuốc độc giết chết. Toản để Mân ở lại giữ thành Quy Nhơn.
Cũng năm Giáp Dần (1794), Nguyễn Nễ (Nguyễn Đề) được thăng Tả phụng nghi bộ Binh và vào Quy Nhơn giữ chức Hiệp tán nhung vụ. Đến năm 1795 Nguyễn Đề đi sứ sang Yên Kinh dự lễ nhường ngôi của vua Càn Long nhà Thanh, đến năm 1796 trở về được thăng chức Tả đồng nghị Trung thư sảnh.
Năm Ất Mẹo (1795). Nguyễn Du 30 tuổi. Các tướng Tây Sơn lại lục đục. Vũ Văn Dũng giết Bùi Đắc Tuyên và lừa giết Ngô Văn Sở. Trần Quang Diệu cũng bị nghi ngờ nên rút quân về. Hai tướng Quang Diệu và Văn Dũng giảng hoà Sau đó Lê Chất làm phản theo Nguyễn Ánh, đem quân đánh nhau với tướng Tây Sơn là Mân (Mân Thành hầu Lê Văn Ứng?). Quân của Mân thua trận, Mân phải chạy vào núi rừng mà trốn; quân, voi, khí giới đều bị Chất thu sạch. Vua Quang Toản nghe tin, lại sai Đại Tư Vũ Tuấn (Đại Đô đốc Trần Danh Tuấn?) dẫn binh tới trấn, chiêu tập tàn quân để đóng giữ.
Năm Bính Thìn (1796). Nguyễn Du 31 tuổi. Mùa đông năm Bính Thìn (1796), Nguyễn Du trốn vào Gia Định theo chúa Nguyễn Ánh nhưng bị Quận công Nguyễn Thận bắt giam ba tháng ở Nghệ An. sau khi được tha ông về sống ở Tiên Điền. Trong thời gian bị giam ông có làm thơ My trung mạn hứng (Cảm hứng trong tù). Nguyễn Du đến đây kết thúc 15 năm lưu lạc.
*
Nguyễn Du những sự thật mới biết soi sáng nhiều góc khuất lịch sử. Với những phát hiện mới về cuộc đời và thời thế Nguyễn Du được chính ông dùng nhân cách và kiệt tác của mình để trao lại ngọc quý cho đời, bản đồ Hình thể đàng Trong đàng Ngoài năm 1760, khối hồ sơ chính biên của triều Nguyễn và Bang giao hảo thoại. Tài liệu nghiên cứu lịch sử này góp phần vén bức màn sự thật thời Tây Sơn. Tài liệu này cũng thêm tư liệu tương quan để thấu hiểu Bí mật kho báu trên đỉnh Tuyết Sơn, không chỉ giúp tư liệu đánh giá ba vấn đề lớn tồn nghi trong lịch sử: 1) Ngoại giao thời vua Càn Long với nhà Tây Sơn. 2) Lý Tự Thành và kho báu nhà Minh. 3) Vì sao Trung Quốc quyết không cho Tây Tạng tự trị?
(còn nữa …)
THẦY BẠN TRONG ĐỜI TÔI Hoàng Kim Thầy bạn là lộc xuân cuộc đời…. Những gương mặt thầy bạn đã trở thành máu thịt trong đời tôi.Thi đậu vào Trường Đại học Nông nghiệp 2 Hà Bắc năm 1970, tôi học Trồng trọt 4 cùng khóa với các bạn Trần Văn Minh, Đỗ Thị Minh Huệ (Hue DO Thi Minh), Nguyễn Thị Bồng (Trung Trung), Lâm Kim Thành, Phan Thanh Kiếm (Phan Kiếm), Đỗ Khắc Thịnh (Khacthinh Do), Vũ Mạnh Hải , Phạm Sĩ Tân (Pham Sy Tan), Phạm Huy Trung (Phạm Huy Trung), Lê Xuân Đính (Pine Le Xuan), Phạm Xuân Liêm, Nguyễn Văn Toàn, Lâm Quang Hinh (Hinh Lâm Quang), Nguyễn Văn Niêm (Nguyen Van Niem), Lại Thị Đua, Nguyễn Hữu Bình, Lê Huy Bá, … cho đến ngày 02 tháng 9 năm 1971 thì tôi gia nhập quân đội cùng lứa với Nguyễn Văn Thạc. Đợt tuyển quân sinh viên trong ngày độc lập đã nói lên sự quyết liệt sinh tử và ý nghĩa thiêng liêng của ngày cầm súng. Chiến trường đánh lớn. Đơn vị chúng tôi chỉ huấn luyện rất ngắn rồi vào trận ngay với 81 đại đội vượt sông Thạch Hãn. Chiến dịch Quảng Trị năm 1972 sau này đã đi vào huyền thoại: “Đò lên Thạch Hãn ơi chèo nhẹ/ Đáy sông còn đó bạn tôi nằm/ Có tuổi hai mươi thành sóng nước/ Vỗ yên bờ mãi mãi ngàn năm” (10) Tổ chúng tôi bốn người thì Xuân và Chương hi sinh, chỉ Trung và tôi trở về trường sau ngày đất nước thống nhất. Những vần thơ viết dưới đây là xúc động sâu xa của tôi khi nghĩ về bạn học đồng đội đã khuất: “Trận chiến hôm qua bạn góp máu hồng. Lớp học hôm nay bạn không trở lại. Trách nhiệm trong mình nhân lên gấp bội. Đồng chí ơi, tôi học cả phần anh” (11) Tôi về học tiếp năm thứ hai tại Trồng trọt 10 của Đại học Nông nghiệp 2 Hà Bắc với biết bao thân thiết của những bạn Dong Van Quang Van Tran Chắt ĐỗNguyễn Thị ThanhThuan Nguyễn Thị, Khang Le VanThuong NguyenNguyễn TháiTuyet NguyenTan Nguyen Van … đến cuối năm 1977 thì chuyển trường vào Đại học Nông nghiệp 4, tiền thân Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh hiện nay… Dưới mái trường thân yêu này, có biết bao nhà khoa học xanh, nhà giáo nghề nông vô danh đã thầm lặng gắn bó đời mình với nhà nông, sinh viên, ruộng đồng, giảng đường và phòng thí nghiệm. Thật xúc động và tự hào được góp phần giới thiệu một góc nhìn về sự dấn thân và kinh nghiệm của họ.
Mừng em làm người Thầy nhân văn
Ngắm ảnh đại gia đình mà thương trào nước mắt.
Nguyễn Du 250 năm nhìn lại.
Bài học sâu xa dạy và học làm Người
.
Nhớ Mẹ và Dì xưa đi ở và thoát li.
Mẹ mang khoai cho ông Hòa khi ông gặp nạn.
Cha bán sạch gia tài nuôi Mẹ ốm,
Tối lửa tắt đèn nhà hoạn nạn đau thương
Mồng Ba Tết kín đặc người làng đến tiễn Mẹ đi
Cơm ngày một bữa suốt năm năm
Cha lại mất bởi bom thù.
Nhà Cậu Dì bé tí một gian mà đầy ắp chở che
Dòng họ nghèo vang xa thảo thơm nhân ái
Nếp nhà thư hương của làng quê nghèo đói
Phúc hậu nghĩa tình đùm bọc bao dung
Thắm thiết yêu thương, giấy rách giữ lấy lề …
*
Mừng em làm người Thầy nhân văn
Bồi đắp hiền tài cho dân tộc Việt.
Lớp lớp người thân trước em, cùng em, nối theo em
Học làm người minh triết
Mình về thăm nhau thôi
không thể chờ nhau mà hóa đá.
Nơi ấy khắc khoải
một niềm thương
thật lạ
ta như con trẻ
kiếm tìm nhau
suốt cuộc đời này.
Nơi ấy
vùng cổ tích hoang sơ
hoa gạo đỏ
tháng Ba
lúa xuân thì
mơn mởn.
Nơi ấy
líu ríu
mưa xuân
ngôi đền thiêng
trấn quốc
bóng chùa
non nước ngân nga.
Nơi ấy
không lo toan
không quay cuồng
không bộn bề
mọi khó nhọc bỏ qua
chỉ ngọt lịm
hương trời hương đất.
Nơi ấy
biển trời
xanh tím
ngẫn ngơ đời
và khát khao xanh.
NHỚ NGƯỜI Hoàng Kim
Đêm muộn bâng khuâng về với Bác.
Rưng rưng sen trắng nắng mai vàng.
Trời xanh bảng lãng Người khuất nẽo.
Hồ vơi đồng vắng tím niềm thương
SỚM ĐÔNG Hoàng Kim
Sớm Đông
Trời tạnh mây quang
Vươn vai
Đón nắng
Mặc cơn gió lùa
‘Vấn vương’ * câu hẹn ngày qua
Đông tàn
Ủ mộng
Xuân sang nõn cành …
SỚM ĐÔNG Hoàng Kim
Đêm lạnh đông tàn chậm nắng lên
Nghe hơi sương giá buốt bên thềm
Em đi làm sớm trời đang ngủ
Giữ ấm xin đừng vội để quên.
VẤN VƯƠNG
Đỗ Hoàng Phong
Giã bạn rồi mà vẫn ngóng theo
Thuyền vừa buông mái sóng xô theo
Người đi lãng đãng qua sông suối
Kẻ ở bâng khuâng khuất núi đèo
Gặp gỡ đôi nơi chừng xế bóng
Đợi chờ hai ngả đã sang chiều
Đò đưa ai hẹn vào chung bến
Hỏi đến bao giờ mới thả neo?
(*) VẤN VƯƠNG’ thơ của cụ Đỗ Hoàng Phong, 92 tuổi, danh thủ Đường thi, Câu Lạc Bộ Đường Thi Nhà giáo Hải Dương