Số lần xem
Đang xem 2167 Toàn hệ thống 3614 Trong vòng 1 giờ qua
Trang liên kết
Tỉnh thức
giữa đêm thiêng Yên Tử
Để thấm hiểu đức Nhân Tông
Ta thành tâm đi bộ
Lên tận đỉnh chùa Đồng
Tâm sáng Ức Trai
trong tựa ngọc TÌNH YÊU CUỘC SỐNG
DẠY VÀ HỌC Để chấn hưng giáo dục Việt Nam cấp thiết phải có đội ngũ những người thầy giáo ưu tú có tâm đức thiết tha với nghề, có trình độ chuyên môn cao và có kỹ năng giảng dạy tốt. Đây là trang thông tin chuyên đề dạy và học để trao đổi và bàn luận
Norman Borlaug Lời Thầy dặn Việc chính đời người chỉ ít thôi
Chuyên tâm đừng bận chuyện trời ơi
Phúc hậu suốt đời làm việc thiện
Di sản muôn năm mãi sáng ngời.
LỜI THỀ SOCRATES DÀNH CHO GIẢNG VIÊN TRONG VIỆN ĐẠI HỌC NGHIÊN CỨU
(A Socratic Oath for Faculty of Research Universities)
1. Tôi xin tuyên thệ cống hiến sức mình cho sự tiến bộ và mở mang tri thức, nhận thức rằng tôi có nghĩa vụ đối với sinh viên, với lĩnh vực chuyên môn, với các giảng viên đồng nghiệp, với viện đại học, và với công chúng.
2. Tôi dấn thân vào nghề dạy học và xem nó như là một thiên chức đạo đức. Tôi thừa nhận nghiên cứu và hoạt động học thuật hàm chứa sự tín thác của công chúng và chấp thuận công việc chuyên môn như là một nghĩa vụ xã hội. Trong quá trình thực hiện những nghĩa vụ của mình, tôi sẽ dành cho công tác giảng dạy lẫn nghiên cứu lòng tận tâm bền bỉ, sáng tạo, và kiên định. Tôi sẽ theo đuổi kiến thức mới và những hoạt động sáng tạo một cách cẩn trọng phù hợp với những tiêu chuẩn nghề nghiệp cao nhất trong lĩnh vực của mình. Và tôi sẽ làm hết sức mình để phục vụ cộng đồng rộng lớn hơn. Khi thực hiện những nhiệm vụ này, tôi thừa nhận rằng giảng dạy, nghiên cứu, và phục vụ công chúng là những trách nhiệm căn bản của mỗi giảng viên đại học; rằng đó là những trách nhiệm cần phải được cân đối thường xuyên; và rằng trong khi những trách nhiệm này có tầm quan trọng như nhau, giảng dạy luôn là trọng tâm trong sứ mệnh của viện đại học.
3. Vì mục đích đó, tôi chấp nhận lòng tín thác hàm chứa trong việc truyền tải kiến thức để có được sự chính xác, công bằng, cân đối, và thống nhất trong cách trình bày chuyên môn của tôi và trong việc xử lý những quan điểm khác nhau. Dù giảng dạy chủ đề gì đi nữa tôi cũng sẽ thực hiện một cách nghiêm ngặt, nhưng cũng với tinh thần khai phóng, “nêu bật cái tổng quát trong bản thân cái cụ thể,” với tầm nhìn sâu, rộng và cách nhìn nhân bản đối với những vấn đề nền tảng, với bối cảnh, những mối quan hệ, và những hệ quả của nó.
4. Tôi sẽ tôn trọng sự chính trực trong mối quan hệ giữa giảng viên và sinh viên, ở khía cạnh cá nhân lẫn tri thức, nhằm loại bỏ từ trong ý thức những biểu hiện quá trớn nhằm thuyết phục người khác hay bao biện, cũng như đối với hành vi lạm dụng hay quấy rối.
5. Tôi sẽ rất cẩn trọng trong việc chuẩn bị cho các giờ giảng trên lớp, các buổi thảo luận, các buổi thực hành trong phòng thí nghiệm, hay những hoạt động khác và giám sát với cùng cung cách như vậy đối với việc chuẩn bị của các sinh viên trợ giảng cộng tác với tôi. Tôi sẽ khách quan, nghiêm khắc, và công bằng trong đánh giá sinh viên và sẽ có mặt trong các buổi thảo luận của sinh viên, những giờ tiếp sinh viên, những buổi thực hành trong phòng thí nghiệm, và những cuộc tiếp xúc chính thức khác bên ngoài giảng đường.
6. Cuối cùng, tôi sẽ tham gia vào đời sống của cộng đồng viện đại học, hợp tác với các đồng nghiệp của tôi trong những nỗ lực giáo dục và tham gia vào các hoạt động trong khuôn viên đại học. Và, trong khi phát triển sự nghiệp của chính mình, tôi sẽ khuyến khích, giúp đỡ, và hướng dẫn các đồng nghiệp của mình, đặc biệt là những người mới được bổ nhiệm, để họ có thể trở thành những giảng viên hiệu năng và những học giả thành công.Lời thề này do tôi tự nguyện thực hiện và gìn giữ với ý thức rằng đặc ân của quyền tự do học thuật được dành cho tôi đi liền với bổn phận của trách nhiệm nghề nghiệp để vinh danh và phục vụ sinh viên, ngành học, nghề nghiệp, đồng nghiệp, và viện đại học của tôi, và xã hội rộng lớn hơn.
Nguồn: "Tạo dựng tương lai (The Creation of the Future)" - Frank T.H. RhodesBiên dịch bởi Hoàng Kháng, Tô Diệu Lan. Cảm ơn Giáo sư Trần Đăng Hòa đã chép lại và chia sẻ
BA BÀI HỌC QUÝ GIÁ
Hoài Vân sưu tầm tuyển chọn và hiệu đính
Tháng 8 mùa thu, lá khởi vàng chưa nhỉ? (ảnh trên)
1. Vàng hay bùn, thứ nào giá trị hơn?
Một cao tăng hỏi: Anh cho rằng một hạt vàng và một đống bùn, thứ gì tốt hơn? Người cầu đạo đáp: “Tất nhiên là vàng rồi!”Vị cao tăng mỉm cười, nói tiếp: “Vậy nếu anh là một hạt giống thì sao?”Lời bình: Trên thế giới này không có cái gì là xấu, tốt tuyệt đối. Chỉ cần phù hợp với bạn sẽ là tốt.
2. Gạo vẫn là gạo
Một thanh niên thỉnh giáo vị đạo sĩ: “Sư phụ, có người nói con là thiên tài, cũng có người mắng con là ngốc nghếch, ý kiến của thầy thế nào ạ?”“Vậy con đánh giá mình thế nào?” – vị đạo sĩ hỏi lại. Người thanh niên nọ vẻ mặt ngơ ngác.“Ví dụ một cân gạo, trong mắt người làm bánh thì nó là bánh nướng, trong mắt người nấu rượu thì nó là rượu, trong mắt người ăn xin thì đó là một bữa cơm cứu mạng. Còn gạo thì vẫn là gạo mà thôi. ”Lời bình: Cách bạn tự đánh giá bản thân mình có vai trò quyết định đến giá trị của chính bạn.
3. Một cốc nước và một hồ nước
Đạo trưởng có một đệ tử thường hay oán thán. Một hôm, ông bỏ muối vào một cốc nước và bảo người đó uống. Đệ tử nói: “Mặn đến phát đắng.”Vị đạo trưởng tiếp tục bỏ nhiều muối hơn vào hồ nước và bảo đệ tử thử lại. Sau khi uống xong, người này nói: “Nước rất tinh khiết và ngọt”. Lúc này, vị đạo trưởng mới nói: “Đời người, đau khổ chính là muối, vị mặn của nó được quyết định bởi thứ vật dụng chứa nó.”Lời bình: Những người thường hay ca thán, oán trách thế giới, hãy xem lại liệu có phải trái tim của mình quá hẹp hòi?
QUẢN LÝ BỀN VỮNG SẮN CHÂU Á Từ Nghiên cứu đến Thực hành là sách sắn được viết bởi Reinhardt Howeler and Tin Maung Aye. Người dịch Hoàng Kim, Hoàng Long, Nguyễn Thị Trúc Mai, Nguyễn Bạch Mai. Nguyên bản tiếng Anh: Sustainable management of cassava in Asia – From research to practice/ Reinhatdt Howeler and Tin Maung Aye. Cali, CO: Centro Internacional de Agricultura Tropical (CIAT), 2015, 148 trang, (CIAT Publication No. 396), chỉ số xuất bản ISBN 978-958-694-136-5, Bản tiếng Việt CIAT VAAS The Nippon Foundation Nhà xuất bản thông tấn 2015. Chỉ số xuất bản 9786049450471 Sách không bán. Tiến sĩ Clair Hershey, Trưởng Chương trình sắn CIAT giới thiệu: (trích) ” Công việc tóm tắt trong tài liệu này thay cho những lời khuyên tốt nhất hiện có sau hơn 50 năm kinh nghiệm thực tiễn kết hợp nghiên cứu và làm việc với nông dân để hiểu những thách thức thực tế cuộc sống và cơ hội mà họ phải đối mặt.”. Được sự đồng ý của tác giả, tài liệu sách sắn mới này được giới thiệu song ngữ Anh Việt lần lượt tại trang Quản lý bền vững sắn châu Á chuyên mục Khoa học Cây trồng http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlong và www.hoangkimlong.wordpress.com chuyên mục cùng tên Quản lý bền vững sắn châu Á
SUSTAINABLE MANAGEMENT OF CASSAVA IN ASIA
From Research to Practice
By Reinhardt Howeler and Tin Maung Aye
FOREWORD
Cassava is one of the most popular crops in Asia’s uplands for its flexibility in cropping systems, its ability to produce well in challenging conditions and for its multiple uses – providing food, animal feed, and income to support farming families. But although cassava has a reputation as an easy crop to grow, it requires good management in order to get good yields year after year, while protecting the soil and water resources.
The world of agriculture is changing quickly, and cassava is not immune to this change. On the one hand, the market for cassava and cassava products is growing in several Asian countries, with the potential to become more lucrative. Many new, higher yielding varieties are available for farmers to use, and their knowledge about crop and soil management has grown steadily.
Yet at the same time, pests and diseases are growing in importance and can often impact yields. Their control requires very good knowledge and careful integrated management practices. There are many options for managing soil preparation, planting density, weeds and harvesting. The production of high-quality planting material (stakes or seed) is a kind of invisible benefit that is often not fully appreciated by growers, and understanding and implementing the inputs and practices that contribute to long-term optimized productivity is fundamental to a cassava farmer’s success. For example, soil fertility management is the core practice for long-term success for many cassava farmers.
But the right combination of practices will be specific for each farm. Farmers who grow cassava often do not have easy access to good information on best management practices. In most countries, the extension systems for providing technical advice to cassava farmers are non‑existent or not as well developed as for rice or maize, for example. The experts, charged with providing that advice – usually extension agents, sales representatives of companies providing inputs, such as fertilizer or pesticides, or the technical outreach staff of processing companies – typically work with many crops and many farmers, or may have a commercial interest in advice that motivates the purchase of specific products or services. Most technologies developed for cassava are designed to be environmentally friendly, that is, they do not rely on high inputs of chemicals or destructive practices. It is important that technologies that are disseminated and promoted take full advantage of this concern for the environment.
This book aims to provide well-founded and unbiased information on managing the cassava crop for maximum profitability and household well-being, while protecting the soil for long-term sustainability. It is based on the experience and research results from many decades, especially in Asia but also in Africa and Latin America. Much of the information was developed by the International Center for Tropical Agriculture (CIAT) – with headquarters in Cali, Colombia, and a regional office for Asia, previously in Bangkok, Thailand, and currently in Hanoi, Vietnam – and partner institutions throughout the region. These partners are mentioned throughout the manual in discussion of the relevant experiments or technologies. Many farmers themselves participated in developing research ideas and solutions through a process of Farmer Participatory Research (FPR). This has been a key part of assuring the practical relevance of the results.
The book is designed both for those who provide advice directly to farmers, as well as the teachers who train students to become extension agents, agronomists, or industry representatives. It can also serve to provide advice and information directly to well-informed farmers, who can understand some of the more technical information and apply it for their own needs and conditions. No manual can provide detailed advice at the individual farm level, but it will give good guidance for extension agents and others who work with farming communities to adjust and adapt to specific needs. We invite national partners to use this manual freely to develop additional material for local training and extension purposes.
The authors of this book, Drs. Reinhardt Howeler and Tin Maung Aye, have worked extensively with a broad range of partners, on experiment stations and on farmer fields across the region. The work summarized in this manual represents the best available advice from more than 50 years of combined research experience and work with farmers to understand their real-life challenges and opportunities.
This manual would not have been possible without the support of the Nippon Foundation. This support involved more than two decades of funding for research, training, and network development activities throughout Southeast Asia. CIAT gratefully acknowledges the key role of the Nippon Foundation, both in the research initiatives that developed the information included in this manual, and the support to write, translate, and produce it.
CIAT’s Cassava Program is pleased to present this manual for use in managing cassava production systems that will optimize the short- and long-term benefits for farmers who grow the crop, while protecting the environment.
Clair Hershey
Leader, CIAT Cassava Program
QUẢN LÝ BỀN VỮNG SẮN CHÂU Á
Từ Nghiên cứu đến Thực hành
Tác giả: Reinhardt Howeler và Tin Maung Aye.
Người dịch: Hoàng Kim, Hoàng Long, Nguyễn Thị Trúc Mai, Nguyễn Bạch Mai
LỜI NÓI ĐẦU
Sắn là một trong những loại cây trồng thích nghi vùng cao phổ biến nhất ở châu Á vì tính linh hoạt của nó trong hệ thống cây trồng, khả năng sản xuất thuận lợi trong điều kiện khó khăn và tính đa dụng cung cấp thực phẩm, thức ăn gia súc, nguồn thu nhập cho hộ nông dân. Mặc dù sắn có tiếng là cây dễ trồng, nó vẫn đòi hỏi phải quản lý tốt để có được năng suất cao qua các năm, đi đôi việc bảo vệ nguồn đất và nước.Thế giới nông nghiệp đang chuyển đổi một cách nhanh chóng và cây sắn cũng không tránh khỏi sự thay đổi này. Một mặt, thị trường sắn và sản phẩm sắn đang tăng trưởng ở một số nước châu Á với khả năng thu lợi nhiều hơn từ cây này. Nhiều giống sắn mới năng suất cao là có giá trị đối với hệ thống sản xuất và sự hiểu biết về quản lý đất và cây trồng tối ưu đã được tăng đều đặn. Đồng thời, vấn đề sâu bệnh cũng trở nên quan trọng và thường ảnh hưởng đến sản lượng cây trồng. Kiểm soát chúng đòi hỏi kiến thức tốt và quản lý cẩn thận. Có nhiều lựa chọn trong hoạt động quản lý cây trồng như chuẩn bị đất, mật độ trồng, quản lý cỏ dại và các công cụ thu hoạch. Việc sản xuất cây giống chất lượng cao (hom và hạt giống) có lợi thế tiềm năng mà thường không được đánh giá đầy đủ bởi người trồng sắn. Quản lý độ phì đất là thực hành cốt lõi mang lại thành công lâu dài cho nhiều nông dân trồng sắn. Hiểu biết thấu đáo các yếu tố đầu vào và thực hiện những điều đó góp phần tối ưu hóa năng suất, về lâu dài là nền tảng thành công của một người nông dân trồng sắn.
Nhưng kết hợp đúng thực tiễn cần được cụ thể cho mỗi trang trại. Những người nông dân trồng sắn thường không dễ tiếp cận thông tin chuẩn mực về thực hành quản lý tốt nhất. Ở hầu hết các nước, hệ thống khuyến nông cung cấp tư vấn kỹ thuật cho người nông dân trồng sắn không phát triển như đối với cây lúa hoặc cây ngô và thỉnh thoảng còn không có. Các chuyên gia tư vấn thường là cán bộ khuyến nông, các đại diện bán hàng của công ty cung cấp nguyên liệu đầu vào như phân bón hay thuốc trừ sâu, hay các chuyên viên kỹ thuật của các công ty chế biến. Họ thường làm việc với nhiều loại cây trồng và nhiều nông dân, hoặc có thể có các lợi ích thương mại với động cơ mua bán sản phẩm hoặc dịch vụ cụ thể. Hầu hết các công nghệ được phát triển cho sắn được thiết kế thân thiện môi trường, nghĩa là không phụ thuộc vào đầu vào cao của hóa chất hoặc các thực hành bất lợi. Điều quan trọng là công nghệ được phổ biến và phát huy tận dụng mối quan tâm đối với môi trường.
Cuốn sách này nhằm mục đích cung cấp thông tin có cơ sở tốt về quản lý cây sắn để nông hộ thu lợi tối đa và phát triển tốt hơn trong khi vẫn bảo tồn độ phì nhiêu của đất và phát triển bền vững lâu dài. Nó được dựa trên những kinh nghiệm và kết quả nghiên cứu từ nhiều thập kỷ qua, đặc biệt không chỉ ở châu Á mà còn ở châu Phi và châu Mỹ Latinh. Rất nhiều thông tin được phát triển bởi sự tham gia làm việc giữa Trung tâm Quốc tế Nông nghiệp Nhiệt đới (CIAT) – có trụ sở ở Cali, Colombia, và một văn phòng khu vực châu Á, trước đây đặt ở Bangkok, Thái Lan và hiện nay đang đặt ở Hà Nội, Việt Nam – với các tổ chức đối tác trong khu vực. Các đối tác này được đề cập trong tài liệu thông qua hướng dẫn thảo luận các thí nghiệm hoặc công nghệ liên quan. Nhiều nông dân tham gia phát triển ý tưởng và giải pháp trong chương trình nghiên cứu có sự tham gia của nông dân (FPR). Đây là một phần quan trọng trong việc đảm bảo sự phù hợp thực tế của các kết quả.
Cuốn sách được thiết kế cho những người cung cấp tư vấn trực tiếp đến nông dân, cũng như các giáo viên, nhà nông học, sinh viên, cán bộ khuyến nông, đại lý nông sản và công nghiệp chế biến cùng những ai quan tâm đến quản lý đất và cây trồng bền vững đối với sắn ở châu Á. Sách cũng được dùng để cung cấp thông tin tư vấn trực tiếp đến nông dân, những người hiểu biết kỹ thuật canh tác sắn để vận dụng phù hợp với điều kiện cụ thể của mình. Tuy sách chưa có hướng dẩn chi tiết tại trang trại cá nhân nhưng nó là cẩm nang hướng dẫn cho cán bộ khuyến nông và những người làm việc với cộng đồng nông dân để điều chỉnh thích hợp với nhu cầu cụ thể. Chúng tôi mời các đối tác quốc gia sử dụng hướng dẫn này một cách tự do để phát triển các tài liệu bổ sung cho mục đích đào tạo và khuyến nông địa phương.
Các tác giả cuốn sách này là tiến sĩ Reinhardt Howeler và Tin Maung Aye đã làm việc rộng khắp với một loạt các đối tác, các trạm thí nghiệm và trên đồng ruộng của nông dân. Công việc tóm tắt trong tài liệu này thay cho những lời khuyên tốt nhất hiện có sau hơn 50 năm kinh nghiệm thực tiễn kết hợp nghiên cứu và làm việc với nông dân để hiểu những thách thức thực tế cuộc sống và cơ hội mà họ phải đối mặt.
Sách hướng dẫn này sẽ không thể thực hiện được nếu không có sự hỗ trợ của quỹ Nippon. Những gắn bó hơn hai thập kỷ hỗ trợ kinh phí cho các hoạt động nghiên cứu, đào tạo và phát triển mạng lưới trên khắp Đông Nam Á. CIAT trân trọng cảm ơn vai trò quan trọng của Quỹ Nippon trong các sáng kiến nghiên cứu phát triển thông tin bao gồm hướng dẫn này, cũng như hỗ trợ biên dịch và sản xuất tài liệu hướng dẫn.
Chương trình sắn CIAT hân hạnh giới thiệu hướng dẫn này để sử dụng trong việc quản lý hệ thống sản xuất trồng sắn nhằm tối ưu hóa lợi ích ngắn và dài hạn cho nông dân cũng như để bảo vệ môi trường.
Clair Hershey
Trưởng Chương trình sắn CIAT
QUẢN LÝ BỀN VỮNG SẮN CHÂU Á Hoàng Kim Jonathan Newby với Ed Sarobol và 3 người khác ngày 15 tháng 8 năm 2020 đã thông tin: tại Giải pháp bền vững bệnh hại sắn ở Đông Nam ÁWebinar Series: No 1. Những thông tin mới cập nhật này đúc kết những nổ lực và tiến bộ mới.
Nguồn gen sắn kháng CMD
Các hàng sắn ở Tây Ninh minh chứng phát huy được sức mạnh của di truyền học (hình). “Giữ niềm tin: Tiến bộ trong việc phát triển các loại chống CMD khả thi thương mại cho châu Á”. Bài thuyết trình https://cassavadiseasesolutionsasia.net/webinar-series/ từ buổi hội thảo sáng nay có thể được tải xuống tại đây .
Chúc mừng tiến bộ mới của đề tài qua thông tin này.Thật tuyệt vời nguồn gen kháng bệnh CMD.
Hai câu hỏi đối với bạn 1) Giống sắn kháng bệnh CMD trong hình trên là giống sắn gì và quan hệ nguồn gốc di truyền như thế nào đối với giống sắn “KM419 siêu bột cọng đỏ”? 2) Giống sắn này có điểm mới gì về đặc tính nông sinh học trong sự so sánh năng suất bột với giống sắn thương mại chủ lực KM419 và KM94 hiện nay chiếm díện tích trồng 42% và 31% diện tích sắn Việt Nam ?
Vui đi dưới mặt trời
Nắng dát vàng trên đồng xuân
Mưa ướt vệt bóng mây, tím sắc trời cuối hạ
Đất ước, cây trông, lòng nhớ …
Em trốn tìm đâu trong giấc mơ tâm tưởng
Ngôi nhà con hạnh phúc trăm năm
Bếp lửa ngọn đèn khuya
Vận mệnh cuộc đời cố gắng
Tình yêu là người thầy tốt hơn trách nhiệm
Đồng lòng đất cảm trời thương
Phúc hậu minh triết tận tâm
Cố gắng làm người có ích
Tháng năm tròn đầy vườn thiêng cổ tích
Mừng ban mai mỗi ngày tỉnh thức bình an
Chào ngày mới CNM365 Tình yêu cuộc sống
Thảnh thơi vui cõi phúc được thanh nhàn.
(*) Thầy Viên tdvien@vnua.edu.vn trưa nay nhắn tin cho tôi: “Anh Kim sắn, tôi là Viên ở Học Viện Nông nghiệp Việt Nam. Tôi vẫn vào FB của anh để đọc. Nhiều bài viết về Tây Nguyên rất hay. Anh có thể gửi cho tôi các bài/ ý tưởng của Anh/ và những người khác về phát triển nông nghiệp nông thôn Tây Nguyên qua địa chỉ email của tôi: Trân trọng cám ơn anh”. Tôi trả lời thầy Viên “Cám ơn anh” và nhắn gửi thư này.
Học Viện Nông nghiệp Việt Nam là địa chỉ xanh. Thầy GS.TS. NGND Trần Đức Viên, cựu Hiệu trưởng (2007 – 2014) đã gắn bó lâu dài ở nơi ấy và rất được tín nhiệm. Thầy Viên là Thầy nghề nông chiến sĩ có lý lịch khoa học thật ngưỡng mộ. Chúc mừng quý thầy cô đang kết nối với Đại học Tây Nguyên. Tôi rất đồng cảm với phát biểu của thầy Viên khi thầy trả lời phỏng vấn của Báo Nông nghiệp Việt Nam ngày 31/07/2019 “Đất đai chưa mang lại yên bình và giàu có cho nông dân !” Phát triển nông nghiệp nông thôn Tây Nguyên tôi có chút chỉ dấu “Đến với Tây Nguyên mớ
LỜI THỀ SOCRATES DÀNH CHO GIẢNG VIÊN TRONG VIỆN ĐẠI HỌC NGHIÊN CỨU
(A Socratic Oath for Faculty of Research Universities)
1. Tôi xin tuyên thệ cống hiến sức mình cho sự tiến bộ và mở mang tri thức, nhận thức rằng tôi có nghĩa vụ đối với sinh viên, với lĩnh vực chuyên môn, với các giảng viên đồng nghiệp, với viện đại học, và với công chúng.
2. Tôi dấn thân vào nghề dạy học và xem nó như là một thiên chức đạo đức. Tôi thừa nhận nghiên cứu và hoạt động học thuật hàm chứa sự tín thác của công chúng và chấp thuận công việc chuyên môn như là một nghĩa vụ xã hội. Trong quá trình thực hiện những nghĩa vụ của mình, tôi sẽ dành cho công tác giảng dạy lẫn nghiên cứu lòng tận tâm bền bỉ, sáng tạo, và kiên định. Tôi sẽ theo đuổi kiến thức mới và những hoạt động sáng tạo một cách cẩn trọng phù hợp với những tiêu chuẩn nghề nghiệp cao nhất trong lĩnh vực của mình. Và tôi sẽ làm hết sức mình để phục vụ cộng đồng rộng lớn hơn. Khi thực hiện những nhiệm vụ này, tôi thừa nhận rằng giảng dạy, nghiên cứu, và phục vụ công chúng là những trách nhiệm căn bản của mỗi giảng viên đại học; rằng đó là những trách nhiệm cần phải được cân đối thường xuyên; và rằng trong khi những trách nhiệm này có tầm quan trọng như nhau, giảng dạy luôn là trọng tâm trong sứ mệnh của viện đại học.
3. Vì mục đích đó, tôi chấp nhận lòng tín thác hàm chứa trong việc truyền tải kiến thức để có được sự chính xác, công bằng, cân đối, và thống nhất trong cách trình bày chuyên môn của tôi và trong việc xử lý những quan điểm khác nhau. Dù giảng dạy chủ đề gì đi nữa tôi cũng sẽ thực hiện một cách nghiêm ngặt, nhưng cũng với tinh thần khai phóng, “nêu bật cái tổng quát trong bản thân cái cụ thể,” với tầm nhìn sâu, rộng và cách nhìn nhân bản đối với những vấn đề nền tảng, với bối cảnh, những mối quan hệ, và những hệ quả của nó.
4. Tôi sẽ tôn trọng sự chính trực trong mối quan hệ giữa giảng viên và sinh viên, ở khía cạnh cá nhân lẫn tri thức, nhằm loại bỏ từ trong ý thức những biểu hiện quá trớn nhằm thuyết phục người khác hay bao biện, cũng như đối với hành vi lạm dụng hay quấy rối.
5. Tôi sẽ rất cẩn trọng trong việc chuẩn bị cho các giờ giảng trên lớp, các buổi thảo luận, các buổi thực hành trong phòng thí nghiệm, hay những hoạt động khác và giám sát với cùng cung cách như vậy đối với việc chuẩn bị của các sinh viên trợ giảng cộng tác với tôi. Tôi sẽ khách quan, nghiêm khắc, và công bằng trong đánh giá sinh viên và sẽ có mặt trong các buổi thảo luận của sinh viên, những giờ tiếp sinh viên, những buổi thực hành trong phòng thí nghiệm, và những cuộc tiếp xúc chính thức khác bên ngoài giảng đường.
6. Cuối cùng, tôi sẽ tham gia vào đời sống của cộng đồng viện đại học, hợp tác với các đồng nghiệp của tôi trong những nỗ lực giáo dục và tham gia vào các hoạt động trong khuôn viên đại học. Và, trong khi phát triển sự nghiệp của chính mình, tôi sẽ khuyến khích, giúp đỡ, và hướng dẫn các đồng nghiệp của mình, đặc biệt là những người mới được bổ nhiệm, để họ có thể trở thành những giảng viên hiệu năng và những học giả thành công.Lời thề này do tôi tự nguyện thực hiện và gìn giữ với ý thức rằng đặc ân của quyền tự do học thuật được dành cho tôi đi liền với bổn phận của trách nhiệm nghề nghiệp để vinh danh và phục vụ sinh viên, ngành học, nghề nghiệp, đồng nghiệp, và viện đại học của tôi, và xã hội rộng lớn hơn.
BA BÀI HỌC QUÝ GIÁ
Hoài Vân sưu tầm tuyển chọn và hiệu đính
Tháng 8 mùa thu, lá khởi vàng chưa nhỉ? (ảnh trên)
1. Vàng hay bùn, thứ nào giá trị hơn?
Một cao tăng hỏi: Anh cho rằng một hạt vàng và một đống bùn, thứ gì tốt hơn? Người cầu đạo đáp: “Tất nhiên là vàng rồi!”Vị cao tăng mỉm cười, nói tiếp: “Vậy nếu anh là một hạt giống thì sao?”Lời bình: Trên thế giới này không có cái gì là xấu, tốt tuyệt đối. Chỉ cần phù hợp với bạn sẽ là tốt.
2. Gạo vẫn là gạo
Một thanh niên thỉnh giáo vị đạo sĩ: “Sư phụ, có người nói con là thiên tài, cũng có người mắng con là ngốc nghếch, ý kiến của thầy thế nào ạ?”“Vậy con đánh giá mình thế nào?” – vị đạo sĩ hỏi lại. Người thanh niên nọ vẻ mặt ngơ ngác.“Ví dụ một cân gạo, trong mắt người làm bánh thì nó là bánh nướng, trong mắt người nấu rượu thì nó là rượu, trong mắt người ăn xin thì đó là một bữa cơm cứu mạng. Còn gạo thì vẫn là gạo mà thôi. ”Lời bình: Cách bạn tự đánh giá bản thân mình có vai trò quyết định đến giá trị của chính bạn.
3. Một cốc nước và một hồ nước
Đạo trưởng có một đệ tử thường hay oán thán. Một hôm, ông bỏ muối vào một cốc nước và bảo người đó uống. Đệ tử nói: “Mặn đến phát đắng.”Vị đạo trưởng tiếp tục bỏ nhiều muối hơn vào hồ nước và bảo đệ tử thử lại. Sau khi uống xong, người này nói: “Nước rất tinh khiết và ngọt”. Lúc này, vị đạo trưởng mới nói: “Đời người, đau khổ chính là muối, vị mặn của nó được quyết định bởi thứ vật dụng chứa nó.”Lời bình: Những người thường hay ca thán, oán trách thế giới, hãy xem lại liệu có phải trái tim của mình quá hẹp hòi?
QUẢN LÝ BỀN VỮNG SẮN CHÂU Á Từ Nghiên cứu đến Thực hành là sách sắn được viết bởi Reinhardt Howeler and Tin Maung Aye. Người dịch Hoàng Kim, Hoàng Long, Nguyễn Thị Trúc Mai, Nguyễn Bạch Mai. Nguyên bản tiếng Anh: Sustainable management of cassava in Asia – From research to practice/ Reinhatdt Howeler and Tin Maung Aye. Cali, CO: Centro Internacional de Agricultura Tropical (CIAT), 2015, 148 trang, (CIAT Publication No. 396), chỉ số xuất bản ISBN 978-958-694-136-5, Bản tiếng Việt CIAT VAAS The Nippon Foundation Nhà xuất bản thông tấn 2015. Chỉ số xuất bản 9786049450471 Sách không bán. Tiến sĩ Clair Hershey, Trưởng Chương trình sắn CIAT giới thiệu: (trích) ” Công việc tóm tắt trong tài liệu này thay cho những lời khuyên tốt nhất hiện có sau hơn 50 năm kinh nghiệm thực tiễn kết hợp nghiên cứu và làm việc với nông dân để hiểu những thách thức thực tế cuộc sống và cơ hội mà họ phải đối mặt.”. Được sự đồng ý của tác giả, tài liệu sách sắn mới này được giới thiệu song ngữ Anh Việt lần lượt tại trang Quản lý bền vững sắn châu Á chuyên mục Khoa học Cây trồng http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlong và www.hoangkimlong.wordpress.com chuyên mục cùng tên Quản lý bền vững sắn châu Á
SUSTAINABLE MANAGEMENT OF CASSAVA IN ASIA
From Research to Practice
By Reinhardt Howeler and Tin Maung Aye
FOREWORD
Cassava is one of the most popular crops in Asia’s uplands for its flexibility in cropping systems, its ability to produce well in challenging conditions and for its multiple uses – providing food, animal feed, and income to support farming families. But although cassava has a reputation as an easy crop to grow, it requires good management in order to get good yields year after year, while protecting the soil and water resources.
The world of agriculture is changing quickly, and cassava is not immune to this change. On the one hand, the market for cassava and cassava products is growing in several Asian countries, with the potential to become more lucrative. Many new, higher yielding varieties are available for farmers to use, and their knowledge about crop and soil management has grown steadily.
Yet at the same time, pests and diseases are growing in importance and can often impact yields. Their control requires very good knowledge and careful integrated management practices. There are many options for managing soil preparation, planting density, weeds and harvesting. The production of high-quality planting material (stakes or seed) is a kind of invisible benefit that is often not fully appreciated by growers, and understanding and implementing the inputs and practices that contribute to long-term optimized productivity is fundamental to a cassava farmer’s success. For example, soil fertility management is the core practice for long-term success for many cassava farmers.
But the right combination of practices will be specific for each farm. Farmers who grow cassava often do not have easy access to good information on best management practices. In most countries, the extension systems for providing technical advice to cassava farmers are non‑existent or not as well developed as for rice or maize, for example. The experts, charged with providing that advice – usually extension agents, sales representatives of companies providing inputs, such as fertilizer or pesticides, or the technical outreach staff of processing companies – typically work with many crops and many farmers, or may have a commercial interest in advice that motivates the purchase of specific products or services. Most technologies developed for cassava are designed to be environmentally friendly, that is, they do not rely on high inputs of chemicals or destructive practices. It is important that technologies that are disseminated and promoted take full advantage of this concern for the environment.
This book aims to provide well-founded and unbiased information on managing the cassava crop for maximum profitability and household well-being, while protecting the soil for long-term sustainability. It is based on the experience and research results from many decades, especially in Asia but also in Africa and Latin America. Much of the information was developed by the International Center for Tropical Agriculture (CIAT) – with headquarters in Cali, Colombia, and a regional office for Asia, previously in Bangkok, Thailand, and currently in Hanoi, Vietnam – and partner institutions throughout the region. These partners are mentioned throughout the manual in discussion of the relevant experiments or technologies. Many farmers themselves participated in developing research ideas and solutions through a process of Farmer Participatory Research (FPR). This has been a key part of assuring the practical relevance of the results.
The book is designed both for those who provide advice directly to farmers, as well as the teachers who train students to become extension agents, agronomists, or industry representatives. It can also serve to provide advice and information directly to well-informed farmers, who can understand some of the more technical information and apply it for their own needs and conditions. No manual can provide detailed advice at the individual farm level, but it will give good guidance for extension agents and others who work with farming communities to adjust and adapt to specific needs. We invite national partners to use this manual freely to develop additional material for local training and extension purposes.
The authors of this book, Drs. Reinhardt Howeler and Tin Maung Aye, have worked extensively with a broad range of partners, on experiment stations and on farmer fields across the region. The work summarized in this manual represents the best available advice from more than 50 years of combined research experience and work with farmers to understand their real-life challenges and opportunities.
This manual would not have been possible without the support of the Nippon Foundation. This support involved more than two decades of funding for research, training, and network development activities throughout Southeast Asia. CIAT gratefully acknowledges the key role of the Nippon Foundation, both in the research initiatives that developed the information included in this manual, and the support to write, translate, and produce it.
CIAT’s Cassava Program is pleased to present this manual for use in managing cassava production systems that will optimize the short- and long-term benefits for farmers who grow the crop, while protecting the environment.
Clair Hershey
Leader, CIAT Cassava Program
QUẢN LÝ BỀN VỮNG SẮN CHÂU Á
Từ Nghiên cứu đến Thực hành
Tác giả: Reinhardt Howeler và Tin Maung Aye.
Người dịch: Hoàng Kim, Hoàng Long, Nguyễn Thị Trúc Mai, Nguyễn Bạch Mai
LỜI NÓI ĐẦU
Sắn là một trong những loại cây trồng thích nghi vùng cao phổ biến nhất ở châu Á vì tính linh hoạt của nó trong hệ thống cây trồng, khả năng sản xuất thuận lợi trong điều kiện khó khăn và tính đa dụng cung cấp thực phẩm, thức ăn gia súc, nguồn thu nhập cho hộ nông dân. Mặc dù sắn có tiếng là cây dễ trồng, nó vẫn đòi hỏi phải quản lý tốt để có được năng suất cao qua các năm, đi đôi việc bảo vệ nguồn đất và nước.Thế giới nông nghiệp đang chuyển đổi một cách nhanh chóng và cây sắn cũng không tránh khỏi sự thay đổi này. Một mặt, thị trường sắn và sản phẩm sắn đang tăng trưởng ở một số nước châu Á với khả năng thu lợi nhiều hơn từ cây này. Nhiều giống sắn mới năng suất cao là có giá trị đối với hệ thống sản xuất và sự hiểu biết về quản lý đất và cây trồng tối ưu đã được tăng đều đặn. Đồng thời, vấn đề sâu bệnh cũng trở nên quan trọng và thường ảnh hưởng đến sản lượng cây trồng. Kiểm soát chúng đòi hỏi kiến thức tốt và quản lý cẩn thận. Có nhiều lựa chọn trong hoạt động quản lý cây trồng như chuẩn bị đất, mật độ trồng, quản lý cỏ dại và các công cụ thu hoạch. Việc sản xuất cây giống chất lượng cao (hom và hạt giống) có lợi thế tiềm năng mà thường không được đánh giá đầy đủ bởi người trồng sắn. Quản lý độ phì đất là thực hành cốt lõi mang lại thành công lâu dài cho nhiều nông dân trồng sắn. Hiểu biết thấu đáo các yếu tố đầu vào và thực hiện những điều đó góp phần tối ưu hóa năng suất, về lâu dài là nền tảng thành công của một người nông dân trồng sắn.
Nhưng kết hợp đúng thực tiễn cần được cụ thể cho mỗi trang trại. Những người nông dân trồng sắn thường không dễ tiếp cận thông tin chuẩn mực về thực hành quản lý tốt nhất. Ở hầu hết các nước, hệ thống khuyến nông cung cấp tư vấn kỹ thuật cho người nông dân trồng sắn không phát triển như đối với cây lúa hoặc cây ngô và thỉnh thoảng còn không có. Các chuyên gia tư vấn thường là cán bộ khuyến nông, các đại diện bán hàng của công ty cung cấp nguyên liệu đầu vào như phân bón hay thuốc trừ sâu, hay các chuyên viên kỹ thuật của các công ty chế biến. Họ thường làm việc với nhiều loại cây trồng và nhiều nông dân, hoặc có thể có các lợi ích thương mại với động cơ mua bán sản phẩm hoặc dịch vụ cụ thể. Hầu hết các công nghệ được phát triển cho sắn được thiết kế thân thiện môi trường, nghĩa là không phụ thuộc vào đầu vào cao của hóa chất hoặc các thực hành bất lợi. Điều quan trọng là công nghệ được phổ biến và phát huy tận dụng mối quan tâm đối với môi trường.
Cuốn sách này nhằm mục đích cung cấp thông tin có cơ sở tốt về quản lý cây sắn để nông hộ thu lợi tối đa và phát triển tốt hơn trong khi vẫn bảo tồn độ phì nhiêu của đất và phát triển bền vững lâu dài. Nó được dựa trên những kinh nghiệm và kết quả nghiên cứu từ nhiều thập kỷ qua, đặc biệt không chỉ ở châu Á mà còn ở châu Phi và châu Mỹ Latinh. Rất nhiều thông tin được phát triển bởi sự tham gia làm việc giữa Trung tâm Quốc tế Nông nghiệp Nhiệt đới (CIAT) – có trụ sở ở Cali, Colombia, và một văn phòng khu vực châu Á, trước đây đặt ở Bangkok, Thái Lan và hiện nay đang đặt ở Hà Nội, Việt Nam – với các tổ chức đối tác trong khu vực. Các đối tác này được đề cập trong tài liệu thông qua hướng dẫn thảo luận các thí nghiệm hoặc công nghệ liên quan. Nhiều nông dân tham gia phát triển ý tưởng và giải pháp trong chương trình nghiên cứu có sự tham gia của nông dân (FPR). Đây là một phần quan trọng trong việc đảm bảo sự phù hợp thực tế của các kết quả.
Cuốn sách được thiết kế cho những người cung cấp tư vấn trực tiếp đến nông dân, cũng như các giáo viên, nhà nông học, sinh viên, cán bộ khuyến nông, đại lý nông sản và công nghiệp chế biến cùng những ai quan tâm đến quản lý đất và cây trồng bền vững đối với sắn ở châu Á. Sách cũng được dùng để cung cấp thông tin tư vấn trực tiếp đến nông dân, những người hiểu biết kỹ thuật canh tác sắn để vận dụng phù hợp với điều kiện cụ thể của mình. Tuy sách chưa có hướng dẩn chi tiết tại trang trại cá nhân nhưng nó là cẩm nang hướng dẫn cho cán bộ khuyến nông và những người làm việc với cộng đồng nông dân để điều chỉnh thích hợp với nhu cầu cụ thể. Chúng tôi mời các đối tác quốc gia sử dụng hướng dẫn này một cách tự do để phát triển các tài liệu bổ sung cho mục đích đào tạo và khuyến nông địa phương.
Các tác giả cuốn sách này là tiến sĩ Reinhardt Howeler và Tin Maung Aye đã làm việc rộng khắp với một loạt các đối tác, các trạm thí nghiệm và trên đồng ruộng của nông dân. Công việc tóm tắt trong tài liệu này thay cho những lời khuyên tốt nhất hiện có sau hơn 50 năm kinh nghiệm thực tiễn kết hợp nghiên cứu và làm việc với nông dân để hiểu những thách thức thực tế cuộc sống và cơ hội mà họ phải đối mặt.
Sách hướng dẫn này sẽ không thể thực hiện được nếu không có sự hỗ trợ của quỹ Nippon. Những gắn bó hơn hai thập kỷ hỗ trợ kinh phí cho các hoạt động nghiên cứu, đào tạo và phát triển mạng lưới trên khắp Đông Nam Á. CIAT trân trọng cảm ơn vai trò quan trọng của Quỹ Nippon trong các sáng kiến nghiên cứu phát triển thông tin bao gồm hướng dẫn này, cũng như hỗ trợ biên dịch và sản xuất tài liệu hướng dẫn.
Chương trình sắn CIAT hân hạnh giới thiệu hướng dẫn này để sử dụng trong việc quản lý hệ thống sản xuất trồng sắn nhằm tối ưu hóa lợi ích ngắn và dài hạn cho nông dân cũng như để bảo vệ môi trường.
Clair Hershey
Trưởng Chương trình sắn CIAT
QUẢN LÝ BỀN VỮNG SẮN CHÂU Á Hoàng Kim Jonathan Newby với Ed Sarobol và 3 người khác ngày 15 tháng 8 năm 2020 đã thông tin: tại Giải pháp bền vững bệnh hại sắn ở Đông Nam ÁWebinar Series: No 1. Những thông tin mới cập nhật này đúc kết những nổ lực và tiến bộ mới.
Nguồn gen sắn kháng CMD
Các hàng sắn ở Tây Ninh minh chứng phát huy được sức mạnh của di truyền học (hình). “Giữ niềm tin: Tiến bộ trong việc phát triển các loại chống CMD khả thi thương mại cho châu Á”. Bài thuyết trình https://cassavadiseasesolutionsasia.net/webinar-series/ từ buổi hội thảo sáng nay có thể được tải xuống tại đây .
Chúc mừng tiến bộ mới của đề tài qua thông tin này.Thật tuyệt vời nguồn gen kháng bệnh CMD.
Hai câu hỏi đối với bạn 1) Giống sắn kháng bệnh CMD trong hình trên là giống sắn gì và quan hệ nguồn gốc di truyền như thế nào đối với giống sắn “KM419 siêu bột cọng đỏ”? 2) Giống sắn này có điểm mới gì về đặc tính nông sinh học trong sự so sánh năng suất bột với giống sắn thương mại chủ lực KM419 và KM94 hiện nay chiếm díện tích trồng 42% và 31% diện tích sắn Việt Nam ?
Vui đi dưới mặt trời
Nắng dát vàng trên đồng xuân
Mưa ướt vệt bóng mây, tím sắc trời cuối hạ
Đất ước, cây trông, lòng nhớ …
Em trốn tìm đâu trong giấc mơ tâm tưởng
Ngôi nhà con hạnh phúc trăm năm
Bếp lửa ngọn đèn khuya
Vận mệnh cuộc đời cố gắng
Tình yêu là người thầy tốt hơn trách nhiệm
Đồng lòng đất cảm trời thương
Phúc hậu minh triết tận tâm
Cố gắng làm người có ích
Tháng năm tròn đầy vườn thiêng cổ tích
Mừng ban mai mỗi ngày tỉnh thức bình an
Chào ngày mới CNM365 Tình yêu cuộc sống
Thảnh thơi vui cõi phúc được thanh nhàn.
(*) Thầy Viên tdvien@vnua.edu.vn trưa nay nhắn tin cho tôi: “Anh Kim sắn, tôi là Viên ở Học Viện Nông nghiệp Việt Nam. Tôi vẫn vào FB của anh để đọc. Nhiều bài viết về Tây Nguyên rất hay. Anh có thể gửi cho tôi các bài/ ý tưởng của Anh/ và những người khác về phát triển nông nghiệp nông thôn Tây Nguyên qua địa chỉ email của tôi: Trân trọng cám ơn anh”. Tôi trả lời thầy Viên “Cám ơn anh” và nhắn gửi thư này.