Số lần xem
Đang xem 1710 Toàn hệ thống 2757 Trong vòng 1 giờ qua
Trang liên kết
Tỉnh thức
giữa đêm thiêng Yên Tử
Để thấm hiểu đức Nhân Tông
Ta thành tâm đi bộ
Lên tận đỉnh chùa Đồng
Tâm sáng Ức Trai
trong tựa ngọc TÌNH YÊU CUỘC SỐNG
DẠY VÀ HỌC Để chấn hưng giáo dục Việt Nam cấp thiết phải có đội ngũ những người thầy giáo ưu tú có tâm đức thiết tha với nghề, có trình độ chuyên môn cao và có kỹ năng giảng dạy tốt. Đây là trang thông tin chuyên đề dạy và học để trao đổi và bàn luận
Norman Borlaug Lời Thầy dặn Việc chính đời người chỉ ít thôi
Chuyên tâm đừng bận chuyện trời ơi
Phúc hậu suốt đời làm việc thiện
Di sản muôn năm mãi sáng ngời.
Đêm Yên Tử rừng trúc thăm thẳm huyền thoại, vững chãi cây tre Việt Nam ngoan cường, như Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn chi đồ năm 1363, bức họa Phật Hoàng Trần Nhân Tông do Trần Giám Như vẽ, trôi nổi trong nhân gian, như Nghê Việt ẩn tàng sức mạnh văn hóa Việt.
Vị Thiền sư Trúc Lâm Yên Tử hỏi và tôi trả lời: “- Người đi đâu tối qua? – Con trở về tự thân. – Người thấy gì đêm thiêng? – Con ngộ khi ngày mới. Đêm Yên Tử là bài học lớn. Tình yêu cuộc sống thật kỳ diệu. Nghê Việt là rồng thiêng ẩn ngữ. Sách Nhàn đọc dấu lúc có lúc không”. Yên Tử là hình ảnh không lời. Trúc Lâm Yên Tử là tìm lại chính mình.
Hữu cú vô cú -有句無句- của Trần Nhân Tông
Nguyên văn chữ Hán phiên âm Hán Việt
有句無句,Hữu cú vô cú,
藤枯樹倒。Đằng khô thụ đảo.
幾個衲僧,Kỷ cá nạp tăng,
撞頭嗑腦。Chàng đầu hạp não,
有句無句,Hữu cú vô cú,
體露金風。Thể lộ kim phong.
兢伽沙數,Căng già sa số.
犯刃傷鋒。Phạm nhẫn thương phong.
有句無句,Hữu cú vô cú
立宗立旨。Lập tông lập chỉ.
打瓦鑽龜,Đả ngõa toàn quy,
登山涉水。Đăng sơn thiệp thủy.
有句無句,Hữu cú vô cú,
非有非無。Phi hữu phi vô.
刻舟求劍,Khắc chu cầu kiếm,
索驥按圖。Sách ký án đồ.
有句無句,Hữu cú vô cú,
互不回互。Hỗ bất hồi hỗ.
笠雪鞋花,Lạp tuyết hài hoa,
守株待兔。Thủ chu đãi thố.
有句無句,Hữu cú vô cú,
自古自今。Tự cổ tự kim.
執指忘月,Chấp chỉ vong nguyệt,
平地陸沉。Bình địa lục trầm.
有句無句,Hữu cú vô cú,
如是如是。Như thị như thị.
八字打開,Bát tự đả khai,
全無巴鼻。Toàn vô ba tị.
有句無句,Hữu cú vô cú,
顧左顧右。Cố tả cố hữu.
阿刺刺地,A thích thích địa,
鬧聒聒地。Náo quát quát địa.
有句無句,Hữu cú vô cú,
忉忉怛怛。Điêu điêu đát đát.
截斷葛藤,Tiệt đoạn cát đằng,
彼此快活。Bỉ thử khoái hoạt.
—- DỊCH NGHĨA
Câu hữu câu vô,
Như cây đổ,
dây leo héo khô.
Mấy gã thầy tăng,
Đập đầu mẻ trán.
Câu hữu câu vô,
Như thân thể lộ ra trước gió thu.
Vô số cát sông Hằng,
Phạm vào kiếm,
bị thương vì mũi nhọn.
Câu hữu câu vô,
Lập công phái, ý chỉ.
Cũng là dùi rùa, đập ngói,
Trèo núi lội sông.
Câu hữu câu vô,
Chẳng phải hữu, chẳng phải vô,
Khác nào anh chàng khắc mạn thuyền mò gươm,
Theo tranh vẽ đi tìm ngựa ký.
Câu hữu câu vô,
Tác động qua lại với nhau.
Nón tuyết giày hoa,
Ôm gốc cây đợi thỏ.
Câu hữu câu vô,
Từ xưa đến nay,
Chỉ chấp ngón tay mà quên vầng trăng,
Thế là chết đuối trên đất bằng.
Câu hữu câu vô,
Như thế như thế!
Tám chữ mở ra rồi,
Hoàn toàn không còn điều gì lớn nữa.
Câu hữu câu vô,
Quay bên phải, ngoái bên trái.
Thuyết lý ầm ĩ,
Ồn ào tranh cãi.
Câu hữu câu vô,
Khiến người rầu rĩ.
Cắt đứt mọi duyên quấn quýt như dây leo,
Thì hữu và vô đều hoàn toàn thông suốt.
HIỂU ‘SÁCH NHÀN ĐỌC GIẤU‘ Hoàng Kim
Kinh Dịch xem chơi,
365 ngày mê mãi.
Sách Nhàn đọc giấu, câu có câu không.
Nhà Trần trong sử Việt
Trúc Lâm Trần Nhân Tông
Trước đèn bảy trăm năm,
thăm thẳm một tầm nhìn.
*
1 “Câu hữu câu vô, Quay bên phải, ngoái bên trái. Thuyết lý ầm ĩ, Ồn ào tranh cãi. Câu hữu câu vô, Khiến người rầu rĩ. Cắt đứt mọi duyên quấn quýt như dây leo, Thì hữu và vô đều hoàn toàn thông suốt”.
2.
“Kinh Dịch xem chơi Yêu TÍNH SÁNG yêu hơn châu báu> Sách Nhàn đọc giấu Trọng LÒNG NGƯỜI trọng nữa hoàng kim”
3. “Ở đời vui đạo thả tùy duyên Đói cứ ăn đi , mệt ngủ liền Kho báu trong nhà thôi tìm kiếm Vô tâm đối cảnh hỏi chi thiền”
(Trúc Lâm Trần Nhân Tông)
“Sách nhàn đọc dấu câu CÓ câu KHÔNG”. Thời nhà Tùy, sách vở chưa có dấu chấm câu. Bình thường vì không có dấu chấm nên một câu văn thường xuất hiện nhiều loại nghĩa khác nhau. Trịnh Ngôn Khánh đọc Luận Ngữ đành sắp xếp lại đặt dấu câu vào trong đó. “Soán Đường là sách mới của tác giả Canh Tân trên trang đọc truyện online. Sống trong thời loạn thế, thân thế khó bề phân biệt. Trong lòng ta không hướng tới phú quý nhưng không biết vì sao phú quý lại liên tục xuất hiện. Đây là một câu chuyện một người hiện đại xuyên Việt về Tùy Đường“. Hoàng Kim đọc chơi trang sách, chợt dưng lại nhớ về đời Trần và đức Nhân Tông “Đường Trần ta lại rong chơi. Vui thêm chút nữa, buồn thôi lại về“. “Sách nhàn đọc dấu câu CÓ câu KHÔNG”, “giấu” hay là “dấu” đây?
Thương nước biết ơn bao người ngọc (1)
Vì dân qua bến nhẹ tênh lòng
Nhớ bao tài đức đời thanh thản
Ân tình lưu dấu những dòng sông.
“Mây núi nào không bay cạnh núi,
Sóng nào chẳng ở chốn xa khơi.” (2)
Ban mai nắng hửng Tiên Sơn đẹp
Vàng sáng trời quang Biển Hồ ơi.
Linh Giang Kỳ Lộ tới Đồng Nai
Mỗi chốn đều ghi chuyện cảm hoài
Đá Bia núi Nhạn vùng huyền thoại
Nam Tiến ân tình thương nhớ ai.
Vì nước đâu nề cảnh biệt ly
Nghìn trùng thăm thẳm buổi ra đi
Thanh Lương an tĩnh hiền thoát tục
Lương Chánh thanh nhàn đức từ bi
Chí thiện cha nêu gương trung hiếu
Yêu thương người chấp mọi thị phi
Chuông chùa vang vọng niềm an lạc
Sông núi trời Nam mãi mãi ghi.
Trúc Lâm thăm thẳm đức Hoàng Thành
A Na bà chúa Ngọc Phương Nam
Đất phú trời yên người hạnh phúc
Hồn Việt đường vui tới cõi hiền.
(1) An Tư, Huyền Trân, Ngọc Hoa, Ngọc Vạn, …
(2) Bạch Ngọc tiếp dẫn thơ Tuệ Trung Thượng Sĩ
Huyền Trân công chúa Đại Việt kết duyên với vua Chế Mân Chiêm Thành nhiều người cho rằng đó là mưu lược chính trị nhờ vậy mà Đại Việt thêm được hai châu Ô Lý. Sự thật đó là một liên minh của dân tộc Việt mà nếu không thành thì hai nước khó có thể tồn tại. Chế Mân là vị vua Chiêm Thành trong hoàn cảnh đất nước bị đế quốc Angkor sát nách luôn muốn thôn tính và vó ngựa quân Nguyên Mông đang thần tốc tràn xuống phương Nam. Ông đã bỏ qua vinh nhục bản thân nhiều lần tỏ lòng thành liên kết với Đại Việt bằng cách dâng lễ vật là hai châu Ô Lý để xin cầu hôn với Huyền Trân công chúa con vua Trần Nhân Tông. Hai châu Ô Lý thực chất là chiến phí cho công cuộc liên kết kháng chiến chống kẻ địch mạnh đến cướp đất cướp dân, trả ơn cho Đại Việt đã hai lần gánh chịu tổn thất nặng nề làm tiền phương chống trả quân Nguyên Mông, cản đường của kẻ đã lấy cớ mượn đường Đại Việt để đánh Chiêm Thành.
Chế Mân là vị vua anh minh ưu tú xứng đáng và thực lòng yêu thương Huyền Trân. Các vị vương mưu lược tài năng và các danh thần triều Trần hiểu rõ vận nước và sự chân thành đó của ông nên mới tán đồng cuộc hôn nhân, khi công chúa Huyền Trân đã bén duyên Trần Khắc Chung và mang ơn cứu mạng của chàng đối với cả cha và con trong trận chiến đẫm máu mà hai vua Trần và Huyền Trân xuýt bị giết. Thiết tưởng việc dành sự trong trắng của một cô gái đang độ xuân thì phải lìa bỏ người yêu để dấn thân cứu nạn nước và thực tâm yêu người khác làm chồng đó là một sự hi sinh lớn lao. Hậu thế cần một đánh giá công bằng đối với Chế Mân và Huyền Trân để thấu hiểu trọn vẹn những uẩn khúc sau này lúc Huyền Trân đi tu, thực thấu hiểu cuộc tình duyên nổi tiếng này trong lịch sử.
Tác giả Sao Khuê trong bài “Cảm nhận Huyền Trân” đã cho rằng: “Công chúa Huyền Trân là người đoan chính, chuyện bà tư thông với danh tướng Trần Khắc Chung là vô lý. Có năm lý do để Sao Khuê tin như thế, vì:
1) Trần Nhân Tông là một vị vua lỗi lạc từng lập kỳ tích chiến thắng quân Nguyên 2 lần. Sau đó khi còn rất trẻ đã từ bỏ danh lợi, thoái vị trao ngai vàng lại cho con mà xuất gia quy y Phật pháp, trở thành tôn sư sáng lập một Thiền phái Phật giáo. “Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh” – Có người cha anh hùng xuất chúng như thế thì Công chúa Huyền Trân khó thể là đứa con hư hỏng làm ô danh hoàng tộc.
2) Trần Khắc Chung là công thần qua mấy đời vua. Làm quan đến chức Nhập Nội Hành Khiển, Thượng Thư Tả Bộc Xạ (tương đương Tể Tướng). Công lao to tát đến độ được vua cho đổi sang quốc tính (họ Trần) – Xét về tuổi tác, luận về danh tiếng, đức độ…thì không lý gì ông lại làm ra chuyện xấu xa cùng Công chúa Huyền Trân để thân bại danh liệt.
3) Trên chuyến vượt thoát về Đại Việt ngoài Trần Khắc Chung còn có nhiều người khác (như An phủ sứ Đặng Vân và quân lính tùy tùng…) chứ không chỉ có Trần Khắc Chung và Công chúa Huyền Trân hai người…
4) Nếu là chuyện xấu xa thì tại sao những vị Vương Tướng cương trực cùng thời với Trần Khắc Chung (như Trần Hưng Đạo, Trần Quang Khải, …) không ai có thái độ gì?
5) Ngoài ra, còn bởi một lẽ riêng tư (mà Sao Khuê cho là rất quan trọng): Khi trốn khỏi Chiêm Thành thì hoàng tử Chế Đa Đa do Công chúa Huyền Trân hạ sinh mới vừa được mấy tháng tuổi không thể mang theo cùng! Lúc đó bà chẳng những là một người vợ vừa mất chồng mà còn là một người mẹ phải đoạn lìa núm ruột của mình. Sao Khuê cùng phận nữ, vô cùng cảm thương cho Công chúa Huyền Trân nên có thơ
CẢM PHẬN HUYỀN TRÂN
Ô, Rí năm nào đổi biệt ly
Huyền Trân Công Chúa bước vu qui
Ba sinh chưa vẹn đà tan tác
Hương lửa đang nồng vội thảm bi!
Đại Việt cướp người thuyền vượt lướt
Chiêm Thành ôm hận ngựa cuồng phi
Kiên trinh há thẹn dòng Long Phụng
Trung Đẳng (*) lòng son sử sách ghi!
(*) Sau này Công chúa Huyền Trân chẳng những được dân chúng lập miếu thờ phượng vì linh ứng, mà còn được nhiều đời vua xưng tụng là Thần hộ quốc. Vào năm Khải Định thứ chín đã chính thức sắc phong bà là “Trai Tĩnh Trung Đẳng thần”.
Hoàng Kim có “bài thơ yêu thương” họa vần”Cảm phận Huyền Trân”. Huyền Trân mang ơn cứu mạng của Lê Phụ Trần xả thân cứu cha và con trong cuộc chiến đẫm máu nhưng vẫn chấp nhận gác tình riêng vì NƯỚC NON NGÀN DẶM RA ĐI. Có Cha ấy và có Con ấy, dân tộc Việt thật là hồng phúc ! Tôi tâm đắc với câu trả lời của GS Trần Văn Giàu trước câu hỏi “Chúng ta có nên đề cập đến vấn đề châu Ô châu Rí không? GS. Trần Văn Giàu đã trả lời: “Có lúc nói, có lúc không. Chúng ta dựa vào lịch sử để nói, nhưng chúng ta không nên đi quá nhiều về lịch sử, bây giờ thì không cần nói vấn đề đó. Qua lịch sử, chúng ta nói về những vấn đề vượt lên trên lịch sử. Qua lịch sử ta nói đến con người, nhân cách của Người. Từ nhân cách ấy, cho ta thấy nhân cách của một dân tộc. Một đất nước sản sinh ra được một con người có một không hai trên thế giới, thử hỏi đất nước ấy và dân tộc ấy có đặc biệt hay không?”
Giáo sư Tôn Thất Trình đã nhận xét thật sâu sắc và chí lý, đại ý: Văn học Việt Nam hội nhập toàn cầu thiếu những tác phẩm lớn đích thực như “Chiến tranh và Hòa bình” của Lev Tonstoy để xây dựng nên hình tượng Natasa bản tính Nga, chứ huyền sử Việt không thiếu những biểu tượng cảm động như Huyền Trân công chúa và đất phương Nam. Chúng ta chưa đủ tầm để thấu hiểu lịch sử văn hóa Việt đó thôi”.
Thu Bồn có bài thơ “Tạm biệt Huế” dữ dội và cảm động in trong “Một trăm bài thơ tình chưa kịp đặt tên” phảng phất huyền sử mối tình say đắm và quyết liệt của Chế Mân – Huyền Trân với sự hi sinh thầm lặng cao cả của bốn nhân vật huyền thoại Trần Nhân Tông – Chế Mân- Huyền Trân- Lê Phụ Trần, bừng sáng bình minh Yên Tử.
TẠM BIỆT HUẾ
Thu Bồn
bởi vì em dắt anh lên những ngôi đền cổ
nên chén ngọc giờ chìm dưới đáy sông sâu
những lăng tẩm như hoàng hôn chống lại ngày quên lãng
mặt trời vàng và mắt em nâu
xin chào Huế một lần anh đến
để ngàn lần anh nhớ hư vô
em rất thực nắng thì mờ ảo
xin đừng lầm em với cố đô
áo trắng hỡi thuở tìm em không thấy
nắng minh mang mấy nhịp Tràng Tiền
nón rất Huế mà đời không phải thế
mặt trời lên từ phía nón em nghiêng
nhịp cầu cong và con đường thẳng
một đời anh đi mãi chẳng về đâu
con sông dùng dằng con sông không chảy
sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu
tạm biệt Huế với em là vĩnh biệt
Hải Vân ơi xin người đừng tắt ngọn sao khuya
tạm biệt nhé với chiếc hôn thầm lặng
anh trở về hoá đá phía bên kia.
Huế 1980
Huế xưa và nay là nơi lưu dấu đức hi sinh cao cả vì nước của cha con vua Phật Trần Nhân Tông và công chúa Huyền Trân. Đền thờ công chúa Huyền Trân trong không gian Trung tâm Văn hóa Huyền Trân có không gian rộng 28 ha tọa lạc tại 151 đường Thiên Thai, phường An Tây, chân núi Ngũ Phong, cách trung tâm thành phố Huế khoảng 7 km. “núi không cần cao, có tiên ắt thiêng. Sông không cần sâu, rồng chầu thành nổi tiếng”… Đến cố đô Huế, tôi dạo chơi cùng Trần Văn Minh người bạn thân thuở nhỏ nay là giáo sư tiến sĩ nhà giáo nhân dân nguyên Hiệu trưởng Trường Đại học Nông Lâm Huế. Chúng tôi cùng thành kính ngưỡng mộ đức Nhân Tông và Huyền Trân Công Chúa, cùng lắng nghe thông xanh đàn Nam Giao trò chuyện và lắng nghe tiếng chuông hòa bình mờ tỏ trong mây trên đỉnh tháp núi Ngũ Phong của vùng Trung tâm Văn hóa Huyền Trân. Đây là nơi giao hòa Trời Đất và hương linh các bậc Thầy, những người con trung hiếu tận tụy hi sinh hết lòng vì Nước vì Dân. Tôi đã cảm khái viết bài thơ nhớ Thầy Nguyễn Khoa Tịnh:
THẦY ƠI
Hoàng Kim
Thầy ơi, em nặng lòng với Huế
Mừng duyên lành con em xe về miền Trung
Nơi LỘC Khê Hầu NGUYÊN vẹn công nghìn năm mở cõi
Với dòng sông Hương soi bóng núi Ngự Bình.
Huế là cố đô Nhà Nguyễn trãi mười đời chúa mười ba đời vua, từ khi Nguyễn Hoàng vào trấn thủ vùng Thuận Hóa năm 1558, cai quản xứ Đàng Trong sáng lập và tạo dựng mười đời chúa Nguyễn trong hơn 2 thế kỷ và chỉ chấm dứt sau khi nhà Tây Sơn nổi dậy và đánh đổ cả hai tập đoàn Chúa Trịnh và Chúa Nguyễn vào cuối thế kỷ 18. Nhà Nguyễn được tiếp nối khi nhà Tây Sơn sụp đổ, vua Gia Long lên ngôi năm 1802 và chấm dứt triều Nguyễn khi hoàng đế Bảo Đại thoái vị vào năm 1945, với 143 năm.
Thầy Nguyễn Khoa Tịnh thông xanh núi Huế là người thầy dạy nhân cách và lịch sử, khai sáng thế hệ chúng tôi. Tôi đã viết bài ‘Thầy bạn là lộc xuân cuộc đời‘ để tỏ lòng tri ân sâu nặng đối với người Thầy lớn và những thầy bạn mà tôi không thể có được ngày hôm nay nếu thiếu sự động viên, giúp đỡ này: “Em đã học nhiều gương sáng danh nhân. Hãy biết nhục, biết hèn mà lập chí. Thắp đèn lên đi em, ngọn đèn dầu bền bỉ. Sáng giữa đời lấp lánh một niềm tin”.
Dân Việt đi như dòng sông về biển. Gia đình tôi cũng đi theo con đường Nam Tiến của dân tộc, từ Linh Giang dòng sông quê hương đến bao dòng sông thao thiết chảy. Chúng tôi đã đi từ Sông Thương, Sông Hồng, Sông Lam, Sông Nhật Lệ, Sông Thu Bồn, đến Sông Tiền, Sông Hậu, … từ Mekong nhớ Neva, Từ Sông Hương, Kỳ Lộ tới Đồng Nai… Những con sông tắm mát đời người.
Huyền Trân, Ngọc Khoa, Ngọc Vạn là ba người Mẹ Việt đã chịu điều tiếng thị phi để tạo dựng cơ nghiệp muôn đời cho dân tộc Việt. Huyền Trân công chúa là con gái của vua Trần Nhân Tông đã vì “nước non ngàn dặm ra đi” kết duyên vợ chồng với vua Chế Mân đất phương Nam. Hai công nữ Ngọc Vạn và Ngọc Khoa là con gái của chúa Nguyễn Phúc Nguyên đã được chúa Nguyễn gả cho vua Chiêm Thành và vua Cao Miên “dùng chính sách hoà bình, thân thiện để kết hòa hiếu”. Năm 1620, Chúa Sãi gả Công Nữ Ngọc Vạn cho vua Cao Miên là Chư Chetta II (1618-1686) nên dân Việt đã vào làm ăn sinh sống thuận lợi tại vùng sông Đồng Nai Cù Lao Phố Biên Hòa ngày nay, thuộc đất Thủy Chân Lạp của Cao Miên. Năm 1631, Chúa Nguyễn Phúc Nguyên cũng lại gả Công Nữ Ngọc Khoa cho Vua Chiêm Thành Pô Romê. Dân Việt đã vào sinh cơ lập nghiệp ở kinh đô Chiêm Thành thời ấy tại ven sông Kỳ Lộ thuộc huyện Đồng Xuân, Tuy An ngày nay. Sông Kỳ Lộ dài 120 km, bắt nguồn từ vùng núi La Hiên cao trên 1000 m, vùng giáp ranh giữa Bình Định và Gia Lai, chảy theo hướng Tây Bắc – Đông Nam đổ ra cửa biển Tiên Châu ở Tuy An (Phú Yên), với một phân lưu đổ vào Đầm Ô Loan, nhờ vậy mà hai dân tộc Chiêm-Việt có được sự hoà hiếu” (Theo Nguyễn Phúc tộc Thế phả xuất bản ở Huế 1995).
Tôi lưu một ghi chép nhỏ “Bài ca yêu thương” “Sông Hương, Kỳ Lộ tới Đồng Nai” và tản văn “PHỤNG SỰ XÃ HỘI” của anh Đoàn Nam Sinh để thỉnh thoảng quay lại.
Cuối dòng sông là biển.
PHỤNG SỰ XÃ HỘI.
Đoàn Nam Sinh
( tt và hết)
Cuối cùng, tôi muốn nói với các bạn trẻ, các anh chị sinh viên của tôi một đôi lời. Khi còn ở lớp, tôi từng hỏi rằng vì sao hôm qua các anh chị còn là thí sinh, khi có tên trong danh sách trúng tuyển người ta bắt đầu gọi là sinh viên ?
Hầu hết đều không tự nhận ra rằng mình đã là công dân, tức là đủ sự chín chắn trong mọi suy nghĩ và hành động, chịu trách nhiệm về mọi hành vi, và có trách nhiệm với xã hội. Trước nhất, tôi yêu cầu các anh chị phải nuôi dưỡng tinh thần phụng sự, không vụ lợi vị kỷ.
Sự vinh quang của người có học là được bà con bóc lột. Nếu không, thì học thức sẽ vô bổ, chẳng cần tích lũy kiến thức hay đào sâu suy nghĩ để tiêu hóa chúng làm gì. Tiếp theo là tìm mọi phương cách để đưa cái học đến được với thực tế cuộc sống.
Ngày trước, học văn ở lớp 9 có được học về tác phẩm của cụ Nguyễn Công Trứ, ông nhắc đến nhiệm vụ của kẻ sĩ/ người có học rằng phải “…đem tất cả sở tồn làm sở dụng…
“Không ít người thủ đắc được một số kiến văn đã giữ như bảo bối để kiếm sống. Không chịu học hỏi thêm để mở rộng tầm nhìn, thiếu sự chuyển hóa từ quá trình được đào tạo trong nhà trường thành quá trình tự đào tạo chính mình, thì không thể thành tài.
Hơn nữa, cần có sự phê phán để nhận ra cái đúng, cái tốt đẹp, cái hay cái tích cực để ủng hộ, theo đuổi, phát huy. Ngược lại, nhìn cho rõ trước sau những tệ trạng xã hội mà chống lại. Các anh chị có toàn quyền bày tỏ chính kiến và đấu tranh bất bạo động. Nhờ đó mà đạo đức cá nhân và xã hội mới có thể thăng tiến.
Xã hội dân sự/ nghề nghiệp rồi sẽ tái lập, chính quyền sẽ phải thay đổi triệt để mới thoát khỏi suy vong. Nhiệm vụ của mọi người dân vẫn là nhà kiến tạo, đổi mới xã hội vì chính cuộc sống của họ đang bị thách thức.
Đêm Yên Tử rừng trúc thăm thẳm huyền thoại, vững chãi cây tre Việt Nam ngoan cường, như Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn chi đồ năm 1363, bức họa Phật Hoàng Trần Nhân Tông do Trần Giám Như vẽ, trôi nổi trong nhân gian, như Nghê Việt ẩn tàng sức mạnh văn hóa Việt.
Vị Thiền sư Trúc Lâm Yên Tử hỏi và tôi trả lời: “- Người đi đâu tối qua? – Con trở về tự thân. – Người thấy gì đêm thiêng? – Con ngộ khi ngày mới. Đêm Yên Tử là bài học lớn. Tình yêu cuộc sống thật kỳ diệu. Nghê Việt là rồng thiêng ẩn ngữ. Sách Nhàn đọc dấu lúc có lúc không”. Yên Tử là hình ảnh không lời. Trúc Lâm Yên Tử là tìm lại chính mình.
Hữu cú vô cú -有句無句- của Trần Nhân Tông
Nguyên văn chữ Hán phiên âm Hán Việt
有句無句,Hữu cú vô cú,
藤枯樹倒。Đằng khô thụ đảo.
幾個衲僧,Kỷ cá nạp tăng,
撞頭嗑腦。Chàng đầu hạp não,
有句無句,Hữu cú vô cú,
體露金風。Thể lộ kim phong.
兢伽沙數,Căng già sa số.
犯刃傷鋒。Phạm nhẫn thương phong.
有句無句,Hữu cú vô cú
立宗立旨。Lập tông lập chỉ.
打瓦鑽龜,Đả ngõa toàn quy,
登山涉水。Đăng sơn thiệp thủy.
有句無句,Hữu cú vô cú,
非有非無。Phi hữu phi vô.
刻舟求劍,Khắc chu cầu kiếm,
索驥按圖。Sách ký án đồ.
有句無句,Hữu cú vô cú,
互不回互。Hỗ bất hồi hỗ.
笠雪鞋花,Lạp tuyết hài hoa,
守株待兔。Thủ chu đãi thố.
有句無句,Hữu cú vô cú,
自古自今。Tự cổ tự kim.
執指忘月,Chấp chỉ vong nguyệt,
平地陸沉。Bình địa lục trầm.
有句無句,Hữu cú vô cú,
如是如是。Như thị như thị.
八字打開,Bát tự đả khai,
全無巴鼻。Toàn vô ba tị.
有句無句,Hữu cú vô cú,
顧左顧右。Cố tả cố hữu.
阿刺刺地,A thích thích địa,
鬧聒聒地。Náo quát quát địa.
有句無句,Hữu cú vô cú,
忉忉怛怛。Điêu điêu đát đát.
截斷葛藤,Tiệt đoạn cát đằng,
彼此快活。Bỉ thử khoái hoạt.
—- DỊCH NGHĨA
Câu hữu câu vô,
Như cây đổ,
dây leo héo khô.
Mấy gã thầy tăng,
Đập đầu mẻ trán.
Câu hữu câu vô,
Như thân thể lộ ra trước gió thu.
Vô số cát sông Hằng,
Phạm vào kiếm,
bị thương vì mũi nhọn.
Câu hữu câu vô,
Lập công phái, ý chỉ.
Cũng là dùi rùa, đập ngói,
Trèo núi lội sông.
Câu hữu câu vô,
Chẳng phải hữu, chẳng phải vô,
Khác nào anh chàng khắc mạn thuyền mò gươm,
Theo tranh vẽ đi tìm ngựa ký.
Câu hữu câu vô,
Tác động qua lại với nhau.
Nón tuyết giày hoa,
Ôm gốc cây đợi thỏ.
Câu hữu câu vô,
Từ xưa đến nay,
Chỉ chấp ngón tay mà quên vầng trăng,
Thế là chết đuối trên đất bằng.
Câu hữu câu vô,
Như thế như thế!
Tám chữ mở ra rồi,
Hoàn toàn không còn điều gì lớn nữa.
Câu hữu câu vô,
Quay bên phải, ngoái bên trái.
Thuyết lý ầm ĩ,
Ồn ào tranh cãi.
Câu hữu câu vô,
Khiến người rầu rĩ.
Cắt đứt mọi duyên quấn quýt như dây leo,
Thì hữu và vô đều hoàn toàn thông suốt.
HIỂU ‘SÁCH NHÀN ĐỌC GIẤU‘ Hoàng Kim
Kinh Dịch xem chơi,
365 ngày mê mãi.
Sách Nhàn đọc giấu, câu có câu không.
Nhà Trần trong sử Việt
Trúc Lâm Trần Nhân Tông
Trước đèn bảy trăm năm,
thăm thẳm một tầm nhìn.
*
1 “Câu hữu câu vô, Quay bên phải, ngoái bên trái. Thuyết lý ầm ĩ, Ồn ào tranh cãi. Câu hữu câu vô, Khiến người rầu rĩ. Cắt đứt mọi duyên quấn quýt như dây leo, Thì hữu và vô đều hoàn toàn thông suốt”.
2.
“Kinh Dịch xem chơi Yêu TÍNH SÁNG yêu hơn châu báu> Sách Nhàn đọc giấu Trọng LÒNG NGƯỜI trọng nữa hoàng kim”
3. “Ở đời vui đạo thả tùy duyên Đói cứ ăn đi , mệt ngủ liền Kho báu trong nhà thôi tìm kiếm Vô tâm đối cảnh hỏi chi thiền”
(Trúc Lâm Trần Nhân Tông)
“Sách nhàn đọc dấu câu CÓ câu KHÔNG”. Thời nhà Tùy, sách vở chưa có dấu chấm câu. Bình thường vì không có dấu chấm nên một câu văn thường xuất hiện nhiều loại nghĩa khác nhau. Trịnh Ngôn Khánh đọc Luận Ngữ đành sắp xếp lại đặt dấu câu vào trong đó. “Soán Đường là sách mới của tác giả Canh Tân trên trang đọc truyện online. Sống trong thời loạn thế, thân thế khó bề phân biệt. Trong lòng ta không hướng tới phú quý nhưng không biết vì sao phú quý lại liên tục xuất hiện. Đây là một câu chuyện một người hiện đại xuyên Việt về Tùy Đường“. Hoàng Kim đọc chơi trang sách, chợt dưng lại nhớ về đời Trần và đức Nhân Tông “Đường Trần ta lại rong chơi. Vui thêm chút nữa, buồn thôi lại về“. “Sách nhàn đọc dấu câu CÓ câu KHÔNG”, “giấu” hay là “dấu” đây?
Thương nước biết ơn bao người ngọc (1)
Vì dân qua bến nhẹ tênh lòng
Nhớ bao tài đức đời thanh thản
Ân tình lưu dấu những dòng sông.
“Mây núi nào không bay cạnh núi,
Sóng nào chẳng ở chốn xa khơi.” (2)
Ban mai nắng hửng Tiên Sơn đẹp
Vàng sáng trời quang Biển Hồ ơi.
Linh Giang Kỳ Lộ tới Đồng Nai
Mỗi chốn đều ghi chuyện cảm hoài
Đá Bia núi Nhạn vùng huyền thoại
Nam Tiến ân tình thương nhớ ai.
Vì nước đâu nề cảnh biệt ly
Nghìn trùng thăm thẳm buổi ra đi
Thanh Lương an tĩnh hiền thoát tục
Lương Chánh thanh nhàn đức từ bi
Chí thiện cha nêu gương trung hiếu
Yêu thương người chấp mọi thị phi
Chuông chùa vang vọng niềm an lạc
Sông núi trời Nam mãi mãi ghi.
Trúc Lâm thăm thẳm đức Hoàng Thành
A Na bà chúa Ngọc Phương Nam
Đất phú trời yên người hạnh phúc
Hồn Việt đường vui tới cõi hiền.
(1) An Tư, Huyền Trân, Ngọc Hoa, Ngọc Vạn, …
(2) Bạch Ngọc tiếp dẫn thơ Tuệ Trung Thượng Sĩ
Huyền Trân công chúa Đại Việt kết duyên với vua Chế Mân Chiêm Thành nhiều người cho rằng đó là mưu lược chính trị nhờ vậy mà Đại Việt thêm được hai châu Ô Lý. Sự thật đó là một liên minh của dân tộc Việt mà nếu không thành thì hai nước khó có thể tồn tại. Chế Mân là vị vua Chiêm Thành trong hoàn cảnh đất nước bị đế quốc Angkor sát nách luôn muốn thôn tính và vó ngựa quân Nguyên Mông đang thần tốc tràn xuống phương Nam. Ông đã bỏ qua vinh nhục bản thân nhiều lần tỏ lòng thành liên kết với Đại Việt bằng cách dâng lễ vật là hai châu Ô Lý để xin cầu hôn với Huyền Trân công chúa con vua Trần Nhân Tông. Hai châu Ô Lý thực chất là chiến phí cho công cuộc liên kết kháng chiến chống kẻ địch mạnh đến cướp đất cướp dân, trả ơn cho Đại Việt đã hai lần gánh chịu tổn thất nặng nề làm tiền phương chống trả quân Nguyên Mông, cản đường của kẻ đã lấy cớ mượn đường Đại Việt để đánh Chiêm Thành.
Chế Mân là vị vua anh minh ưu tú xứng đáng và thực lòng yêu thương Huyền Trân. Các vị vương mưu lược tài năng và các danh thần triều Trần hiểu rõ vận nước và sự chân thành đó của ông nên mới tán đồng cuộc hôn nhân, khi công chúa Huyền Trân đã bén duyên Trần Khắc Chung và mang ơn cứu mạng của chàng đối với cả cha và con trong trận chiến đẫm máu mà hai vua Trần và Huyền Trân xuýt bị giết. Thiết tưởng việc dành sự trong trắng của một cô gái đang độ xuân thì phải lìa bỏ người yêu để dấn thân cứu nạn nước và thực tâm yêu người khác làm chồng đó là một sự hi sinh lớn lao. Hậu thế cần một đánh giá công bằng đối với Chế Mân và Huyền Trân để thấu hiểu trọn vẹn những uẩn khúc sau này lúc Huyền Trân đi tu, thực thấu hiểu cuộc tình duyên nổi tiếng này trong lịch sử.
Tác giả Sao Khuê trong bài “Cảm nhận Huyền Trân” đã cho rằng: “Công chúa Huyền Trân là người đoan chính, chuyện bà tư thông với danh tướng Trần Khắc Chung là vô lý. Có năm lý do để Sao Khuê tin như thế, vì:
1) Trần Nhân Tông là một vị vua lỗi lạc từng lập kỳ tích chiến thắng quân Nguyên 2 lần. Sau đó khi còn rất trẻ đã từ bỏ danh lợi, thoái vị trao ngai vàng lại cho con mà xuất gia quy y Phật pháp, trở thành tôn sư sáng lập một Thiền phái Phật giáo. “Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh” – Có người cha anh hùng xuất chúng như thế thì Công chúa Huyền Trân khó thể là đứa con hư hỏng làm ô danh hoàng tộc.
2) Trần Khắc Chung là công thần qua mấy đời vua. Làm quan đến chức Nhập Nội Hành Khiển, Thượng Thư Tả Bộc Xạ (tương đương Tể Tướng). Công lao to tát đến độ được vua cho đổi sang quốc tính (họ Trần) – Xét về tuổi tác, luận về danh tiếng, đức độ…thì không lý gì ông lại làm ra chuyện xấu xa cùng Công chúa Huyền Trân để thân bại danh liệt.
3) Trên chuyến vượt thoát về Đại Việt ngoài Trần Khắc Chung còn có nhiều người khác (như An phủ sứ Đặng Vân và quân lính tùy tùng…) chứ không chỉ có Trần Khắc Chung và Công chúa Huyền Trân hai người…
4) Nếu là chuyện xấu xa thì tại sao những vị Vương Tướng cương trực cùng thời với Trần Khắc Chung (như Trần Hưng Đạo, Trần Quang Khải, …) không ai có thái độ gì?
5) Ngoài ra, còn bởi một lẽ riêng tư (mà Sao Khuê cho là rất quan trọng): Khi trốn khỏi Chiêm Thành thì hoàng tử Chế Đa Đa do Công chúa Huyền Trân hạ sinh mới vừa được mấy tháng tuổi không thể mang theo cùng! Lúc đó bà chẳng những là một người vợ vừa mất chồng mà còn là một người mẹ phải đoạn lìa núm ruột của mình. Sao Khuê cùng phận nữ, vô cùng cảm thương cho Công chúa Huyền Trân nên có thơ
CẢM PHẬN HUYỀN TRÂN
Ô, Rí năm nào đổi biệt ly
Huyền Trân Công Chúa bước vu qui
Ba sinh chưa vẹn đà tan tác
Hương lửa đang nồng vội thảm bi!
Đại Việt cướp người thuyền vượt lướt
Chiêm Thành ôm hận ngựa cuồng phi
Kiên trinh há thẹn dòng Long Phụng
Trung Đẳng (*) lòng son sử sách ghi!
(*) Sau này Công chúa Huyền Trân chẳng những được dân chúng lập miếu thờ phượng vì linh ứng, mà còn được nhiều đời vua xưng tụng là Thần hộ quốc. Vào năm Khải Định thứ chín đã chính thức sắc phong bà là “Trai Tĩnh Trung Đẳng thần”.
Hoàng Kim có “bài thơ yêu thương” họa vần”Cảm phận Huyền Trân”. Huyền Trân mang ơn cứu mạng của Lê Phụ Trần xả thân cứu cha và con trong cuộc chiến đẫm máu nhưng vẫn chấp nhận gác tình riêng vì NƯỚC NON NGÀN DẶM RA ĐI. Có Cha ấy và có Con ấy, dân tộc Việt thật là hồng phúc ! Tôi tâm đắc với câu trả lời của GS Trần Văn Giàu trước câu hỏi “Chúng ta có nên đề cập đến vấn đề châu Ô châu Rí không? GS. Trần Văn Giàu đã trả lời: “Có lúc nói, có lúc không. Chúng ta dựa vào lịch sử để nói, nhưng chúng ta không nên đi quá nhiều về lịch sử, bây giờ thì không cần nói vấn đề đó. Qua lịch sử, chúng ta nói về những vấn đề vượt lên trên lịch sử. Qua lịch sử ta nói đến con người, nhân cách của Người. Từ nhân cách ấy, cho ta thấy nhân cách của một dân tộc. Một đất nước sản sinh ra được một con người có một không hai trên thế giới, thử hỏi đất nước ấy và dân tộc ấy có đặc biệt hay không?”
Giáo sư Tôn Thất Trình đã nhận xét thật sâu sắc và chí lý, đại ý: Văn học Việt Nam hội nhập toàn cầu thiếu những tác phẩm lớn đích thực như “Chiến tranh và Hòa bình” của Lev Tonstoy để xây dựng nên hình tượng Natasa bản tính Nga, chứ huyền sử Việt không thiếu những biểu tượng cảm động như Huyền Trân công chúa và đất phương Nam. Chúng ta chưa đủ tầm để thấu hiểu lịch sử văn hóa Việt đó thôi”.
Thu Bồn có bài thơ “Tạm biệt Huế” dữ dội và cảm động in trong “Một trăm bài thơ tình chưa kịp đặt tên” phảng phất huyền sử mối tình say đắm và quyết liệt của Chế Mân – Huyền Trân với sự hi sinh thầm lặng cao cả của bốn nhân vật huyền thoại Trần Nhân Tông – Chế Mân- Huyền Trân- Lê Phụ Trần, bừng sáng bình minh Yên Tử.
TẠM BIỆT HUẾ
Thu Bồn
bởi vì em dắt anh lên những ngôi đền cổ
nên chén ngọc giờ chìm dưới đáy sông sâu
những lăng tẩm như hoàng hôn chống lại ngày quên lãng
mặt trời vàng và mắt em nâu
xin chào Huế một lần anh đến
để ngàn lần anh nhớ hư vô
em rất thực nắng thì mờ ảo
xin đừng lầm em với cố đô
áo trắng hỡi thuở tìm em không thấy
nắng minh mang mấy nhịp Tràng Tiền
nón rất Huế mà đời không phải thế
mặt trời lên từ phía nón em nghiêng
nhịp cầu cong và con đường thẳng
một đời anh đi mãi chẳng về đâu
con sông dùng dằng con sông không chảy
sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu
tạm biệt Huế với em là vĩnh biệt
Hải Vân ơi xin người đừng tắt ngọn sao khuya
tạm biệt nhé với chiếc hôn thầm lặng
anh trở về hoá đá phía bên kia.
Huế 1980
Huế xưa và nay là nơi lưu dấu đức hi sinh cao cả vì nước của cha con vua Phật Trần Nhân Tông và công chúa Huyền Trân. Đền thờ công chúa Huyền Trân trong không gian Trung tâm Văn hóa Huyền Trân có không gian rộng 28 ha tọa lạc tại 151 đường Thiên Thai, phường An Tây, chân núi Ngũ Phong, cách trung tâm thành phố Huế khoảng 7 km. “núi không cần cao, có tiên ắt thiêng. Sông không cần sâu, rồng chầu thành nổi tiếng”… Đến cố đô Huế, tôi dạo chơi cùng Trần Văn Minh người bạn thân thuở nhỏ nay là giáo sư tiến sĩ nhà giáo nhân dân nguyên Hiệu trưởng Trường Đại học Nông Lâm Huế. Chúng tôi cùng thành kính ngưỡng mộ đức Nhân Tông và Huyền Trân Công Chúa, cùng lắng nghe thông xanh đàn Nam Giao trò chuyện và lắng nghe tiếng chuông hòa bình mờ tỏ trong mây trên đỉnh tháp núi Ngũ Phong của vùng Trung tâm Văn hóa Huyền Trân. Đây là nơi giao hòa Trời Đất và hương linh các bậc Thầy, những người con trung hiếu tận tụy hi sinh hết lòng vì Nước vì Dân. Tôi đã cảm khái viết bài thơ nhớ Thầy Nguyễn Khoa Tịnh:
THẦY ƠI
Hoàng Kim
Thầy ơi, em nặng lòng với Huế
Mừng duyên lành con em xe về miền Trung
Nơi LỘC Khê Hầu NGUYÊN vẹn công nghìn năm mở cõi
Với dòng sông Hương soi bóng núi Ngự Bình.
Huế là cố đô Nhà Nguyễn trãi mười đời chúa mười ba đời vua, từ khi Nguyễn Hoàng vào trấn thủ vùng Thuận Hóa năm 1558, cai quản xứ Đàng Trong sáng lập và tạo dựng mười đời chúa Nguyễn trong hơn 2 thế kỷ và chỉ chấm dứt sau khi nhà Tây Sơn nổi dậy và đánh đổ cả hai tập đoàn Chúa Trịnh và Chúa Nguyễn vào cuối thế kỷ 18. Nhà Nguyễn được tiếp nối khi nhà Tây Sơn sụp đổ, vua Gia Long lên ngôi năm 1802 và chấm dứt triều Nguyễn khi hoàng đế Bảo Đại thoái vị vào năm 1945, với 143 năm.
Thầy Nguyễn Khoa Tịnh thông xanh núi Huế là người thầy dạy nhân cách và lịch sử, khai sáng thế hệ chúng tôi. Tôi đã viết bài ‘Thầy bạn là lộc xuân cuộc đời‘ để tỏ lòng tri ân sâu nặng đối với người Thầy lớn và những thầy bạn mà tôi không thể có được ngày hôm nay nếu thiếu sự động viên, giúp đỡ này: “Em đã học nhiều gương sáng danh nhân. Hãy biết nhục, biết hèn mà lập chí. Thắp đèn lên đi em, ngọn đèn dầu bền bỉ. Sáng giữa đời lấp lánh một niềm tin”.
Dân Việt đi như dòng sông về biển. Gia đình tôi cũng đi theo con đường Nam Tiến của dân tộc, từ Linh Giang dòng sông quê hương đến bao dòng sông thao thiết chảy. Chúng tôi đã đi từ Sông Thương, Sông Hồng, Sông Lam, Sông Nhật Lệ, Sông Thu Bồn, đến Sông Tiền, Sông Hậu, … từ Mekong nhớ Neva, Từ Sông Hương, Kỳ Lộ tới Đồng Nai… Những con sông tắm mát đời người.
Huyền Trân, Ngọc Khoa, Ngọc Vạn là ba người Mẹ Việt đã chịu điều tiếng thị phi để tạo dựng cơ nghiệp muôn đời cho dân tộc Việt. Huyền Trân công chúa là con gái của vua Trần Nhân Tông đã vì “nước non ngàn dặm ra đi” kết duyên vợ chồng với vua Chế Mân đất phương Nam. Hai công nữ Ngọc Vạn và Ngọc Khoa là con gái của chúa Nguyễn Phúc Nguyên đã được chúa Nguyễn gả cho vua Chiêm Thành và vua Cao Miên “dùng chính sách hoà bình, thân thiện để kết hòa hiếu”. Năm 1620, Chúa Sãi gả Công Nữ Ngọc Vạn cho vua Cao Miên là Chư Chetta II (1618-1686) nên dân Việt đã vào làm ăn sinh sống thuận lợi tại vùng sông Đồng Nai Cù Lao Phố Biên Hòa ngày nay, thuộc đất Thủy Chân Lạp của Cao Miên. Năm 1631, Chúa Nguyễn Phúc Nguyên cũng lại gả Công Nữ Ngọc Khoa cho Vua Chiêm Thành Pô Romê. Dân Việt đã vào sinh cơ lập nghiệp ở kinh đô Chiêm Thành thời ấy tại ven sông Kỳ Lộ thuộc huyện Đồng Xuân, Tuy An ngày nay. Sông Kỳ Lộ dài 120 km, bắt nguồn từ vùng núi La Hiên cao trên 1000 m, vùng giáp ranh giữa Bình Định và Gia Lai, chảy theo hướng Tây Bắc – Đông Nam đổ ra cửa biển Tiên Châu ở Tuy An (Phú Yên), với một phân lưu đổ vào Đầm Ô Loan, nhờ vậy mà hai dân tộc Chiêm-Việt có được sự hoà hiếu” (Theo Nguyễn Phúc tộc Thế phả xuất bản ở Huế 1995).
Tôi lưu một ghi chép nhỏ “Bài ca yêu thương” “Sông Hương, Kỳ Lộ tới Đồng Nai” và tản văn “PHỤNG SỰ XÃ HỘI” của anh Đoàn Nam Sinh để thỉnh thoảng quay lại.
Cuối dòng sông là biển.
PHỤNG SỰ XÃ HỘI.
Đoàn Nam Sinh
( tt và hết)
Cuối cùng, tôi muốn nói với các bạn trẻ, các anh chị sinh viên của tôi một đôi lời. Khi còn ở lớp, tôi từng hỏi rằng vì sao hôm qua các anh chị còn là thí sinh, khi có tên trong danh sách trúng tuyển người ta bắt đầu gọi là sinh viên ?
Hầu hết đều không tự nhận ra rằng mình đã là công dân, tức là đủ sự chín chắn trong mọi suy nghĩ và hành động, chịu trách nhiệm về mọi hành vi, và có trách nhiệm với xã hội. Trước nhất, tôi yêu cầu các anh chị phải nuôi dưỡng tinh thần phụng sự, không vụ lợi vị kỷ.
Sự vinh quang của người có học là được bà con bóc lột. Nếu không, thì học thức sẽ vô bổ, chẳng cần tích lũy kiến thức hay đào sâu suy nghĩ để tiêu hóa chúng làm gì. Tiếp theo là tìm mọi phương cách để đưa cái học đến được với thực tế cuộc sống.
Ngày trước, học văn ở lớp 9 có được học về tác phẩm của cụ Nguyễn Công Trứ, ông nhắc đến nhiệm vụ của kẻ sĩ/ người có học rằng phải “…đem tất cả sở tồn làm sở dụng…
“Không ít người thủ đắc được một số kiến văn đã giữ như bảo bối để kiếm sống. Không chịu học hỏi thêm để mở rộng tầm nhìn, thiếu sự chuyển hóa từ quá trình được đào tạo trong nhà trường thành quá trình tự đào tạo chính mình, thì không thể thành tài.
Hơn nữa, cần có sự phê phán để nhận ra cái đúng, cái tốt đẹp, cái hay cái tích cực để ủng hộ, theo đuổi, phát huy. Ngược lại, nhìn cho rõ trước sau những tệ trạng xã hội mà chống lại. Các anh chị có toàn quyền bày tỏ chính kiến và đấu tranh bất bạo động. Nhờ đó mà đạo đức cá nhân và xã hội mới có thể thăng tiến.
Xã hội dân sự/ nghề nghiệp rồi sẽ tái lập, chính quyền sẽ phải thay đổi triệt để mới thoát khỏi suy vong. Nhiệm vụ của mọi người dân vẫn là nhà kiến tạo, đổi mới xã hội vì chính cuộc sống của họ đang bị thách thức.
SẮN VIỆT NAM BẢO TỒN VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Hoàng Kim
Ngành sắn Việt Nam với trên một tỷ đô la kim ngạch xuất khẩu mỗi năm đang gặp thảm họa bệnh virus khảm lá sắn CMD lây lan nhanh như dịch rầy nâu hại lúa trước đây. Tây Ninh thủ phủ sắn Việt Nam diện tích sắn nhiễm bệnh khảm lá (CMD) nay là 31.216 ha chiếm 91,1% tổng diện tích sắn trồng của tỉnh tại ‘Báo cáo công tác phòng chống dịch bệnh khảm lá cây khoai mì trong sáu tháng đầu năm 2018 và giải pháp quản lý dịch bệnh trong thời gian tới’ của Sở Nông Nghiệp PTNT Tây Ninh.
Nguyên nhân chính của tình hình nghiêm trọng này là:
1) người dân thiếu triệt để sử dụng hom giống sắn sạch bệnh CMD trên quy mô lớn của các giống sắn KM419, KM94, KM440, KM397, KM505 ít mẫn cảm với bệnh CMD và Bọ phấn trắng (Whitefly), mức nhiễm bệnh quá rộng, dân tiếc tiền và công sức, ngại tiêu hủy và ngại tự đầu tư thay giống tốt sạch bệnh
2) Người dân và các cấp hữu quan chưa tiêu hủy triệt để đối với nguồn giống sắn nhiễm bệnh; chưa kiểm dịch thực vật nghiêm ngặt và giám sát chặt chẽ sự vận chuyển trồng mới cây giống sắn nhiễm bệnh từ vùng này sang vùng khác nên bệnh CMD đã không thể khoang vùng và ngăn chặn kịp thời;
3) Người dân và các cấp hữu quan chưa dập dịch được Bọ phấn trắng (Whitefly) là môi giới truyền bệnh làm lây lan bệnh khảm lá CMD,
4) Hệ thống liên kết hổ trợ kịp thời các nghiên cứu sâu bệnh CMD ở Việt Nam và Đông Nam Á sử dụng các giống kháng CMD trên nền di truyền của giống sắn năng suất bột cao, phổ thích nghi rộng nhất Việt Nam là sắn KM419 và KM94, thanh lọc giống sạch bệnh và lai tạo với giống kháng CMD có năng suất bột đủ tốt hiện có, do thiếu nguồn đầu tư kịp thời nên sự chọn tạo, khảo nghiệm, xây dựng mô hình trình diễn và nhân nhanh giống sắn kháng bệnh chưa theo kịp với yêu cầu.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn trước đây đã có công điện khẩn số 5920/ CĐ-BNN-BVTV ngày 19/7/2017 về việc thực hiện cấp bách việc tiêu hủy nguồn bệnh khảm lá sắn (mì) ở tỉnh Tây Ninh và những nơi phát hiện dịch bệnh. Sau đó đã có ngay Quy trình kỹ thuật phòng trừ bệnh khảm lá sắn với văn bản số 1605 BVTV -TV 1605/ BVTV-TV ngày 21/7/ 2017 và gần đây nhất là chỉ thị của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp Phát triển Nông thôn, công văn số 4142 BNN PTNT ngày 31/5/2018, công văn số 1465 Cục Bảo vệ Thực vật ngày 6/6/2018 hướng dẫn chi tiết giải pháp ứng phó dịch hại và cách phòng trừ.
Kế hoạch hành động theo vùng gồm kế hoạch ngắn hạn, trung hạn và dài hạn đã được tiến sĩ Claude M. Fauquest Giám đốc Quan hệ đối tác Sắn toàn cầu Thế kỷ 21 (Director of the Global Cassava Partnership for the 21st Century – GCP21) kết luận tại Hội thảo Quốc tế đăng tại đây https://hoangkimlong.wordpress.com/…/san-viet-nam-hom-nay-…/
Sắn Việt Nam đầy thách thức cho một cuộc trường chinh mới. Sự đòi hỏi dấn thân, nghị lực, tấm lòng, trí tuệ và tài năng kết nối vì chén cơm ngon của hàng triệu người dân và sức sống của một ngành hàng. Giáo sư Kazuo Kawano và các thành viên Hãng phim NHK Nhật Bản ghi nhận hình ảnh giống sắn KM419 siêu bột cao sản ít sâu bệnh thích ứng rộng tại hai tỉnh Tây Ninh và Đồng Nai năm 2009 tạo nên bước đột phá “Cách mạng sắn ở Việt Nam” đã đưa bội thu sắn Tây Ninh lên 27-30 tấn/ ha trên phạm vi toàn tỉnh, gấp ba lần năng suất sắn trước năm 2000. So với giống sắn KM94 và các giống sắn tốt trước đó đã đưa năng suất sắn Tây Ninh và cả nước lên gấp đôi. Giống sắn KM419 từ năm 2009 đã chuyển dần thành giống sắn chủ lực ở tỉnh Tây Ninh và mở rộng diện tích trồng khắp cả nước chiếm 38% tổng diện tích sắn Việt Nam, so giống sắn KM94 chiếm 31,7%
Sắn Việt Nam là câu chuyện thành công và điểm sáng toàn cầu, là cơ hội của người nghèo và thách thức của các nhà khoa học, hôm nay và ngày mai đang đối diện với nguy cơ nghiêm trọng và thời cơ hành động.
Giáo sư tiến sĩ Kazuo Kawano thật sâu sắc khi đặt tựa đề cho phóng sự ảnh của mình là “Cassava and Vietnam: Now and Then” (Sắn và Việt Nam: bây giờ và sau đó). Đây là một chủ đề mở, rất gợi, thật ẩn ý của thiền đạo và gợi những dự báo trầm lặng. Chủ đề này hãng phim NHK nổi tiếng của Nhật đã xây dựng nên thành một bộ phim tài liệu khoa học hoành tráng về một nhà bác học lớn ngành sắn của Nhật Bản và công chiếu năm 2009. Thông điệp của giáo sư Kazuo Kawano thật rõ: Các nước lớn không thể thắng trong chiến tranh với Việt Nam, mà chỉ tìm được sự cùng thắng khi biết sống chân thành, minh triết, tận tâm và thấu hiểu khát khao sâu lắng của người dân Việt. Câu chuyện ‘Sắn và Việt Nam: bây giờ và sau đó’ thật sự lắng đọng nhân cách và tài năng lớn của một người thầy, người bạn lớn của nông dân và đồng nghiệp Việt Nam trong suốt trên hai mươi năm tận tụy trên đồng ruộng đưa năng suất sắn Việt Nam từ 8 tấn lên gấp đôi trên 16 tấn/ ha và sản lượng sắn Việt Nam tăng lên gấp năm lần. Sắn Việt Nam là bài học thành công. Câu chuyện cuộc đời của giáo sư Kazuo Kawano đã được ông ẩn ý nói lãng sang chuyện “Người Mỹ trầm lặng” (tựa tiếng Anh: The Quiet American) là một bộ phim chiến tranh tình cảm tâm lý xã hội của Mỹ do đạo diễn Phillip Noyce thực hiện, đã được trao giải Oscar tháng 11 năm 2002. Phim công chiếu vào năm 2002, chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của tác giả người Anh Graham Greene. Bộ phim có sự tham gia của các ngôi sao như Michael Caine, Brendan Fraser và Đỗ Thị Hải Yến.
Giáo sư tiến sĩ Kazuo Kawano đã viết “Thật vui khi được đi qua Việt Nam với “Người Mỹ trầm lặng” trong tay. Đây là lần thứ ba tôi đọc cuốn sách này. Đến cuối cuộc hành trình, cuốn sách của tôi đã gần như cũ nát. Trong khi tôi không thể tìm thấy cuốn tiểu thuyết này được bán trong các cửa hàng sách ở Hồ Chí Minh và Hà Nội, những người bán hàng rong đã có một phiên bản lậu của cuốn sách. Tôn vinh tính thông minh của người bán hàng rong khi tìm kiếm giá trị của “Người Mỹ trầm lặng” làm quà lưu niệm, tôi đã trả 80.000 đồng mua cuốn sách này cho một người bán hàng rong tại thành phố Hồ Chí Minh. Ở Hà Nội, một người bán hàng rong khác đã chạy theo sau tôi khoảng 50m để cung cấp cho tôi cuốn sách với giá chỉ 50.000 đồng“.