Số lần xem
Đang xem 1024 Toàn hệ thống 3245 Trong vòng 1 giờ qua
Trang liên kết
Tỉnh thức
giữa đêm thiêng Yên Tử
Để thấm hiểu đức Nhân Tông
Ta thành tâm đi bộ
Lên tận đỉnh chùa Đồng
Tâm sáng Ức Trai
trong tựa ngọc TÌNH YÊU CUỘC SỐNG
DẠY VÀ HỌC Để chấn hưng giáo dục Việt Nam cấp thiết phải có đội ngũ những người thầy giáo ưu tú có tâm đức thiết tha với nghề, có trình độ chuyên môn cao và có kỹ năng giảng dạy tốt. Đây là trang thông tin chuyên đề dạy và học để trao đổi và bàn luận
Norman Borlaug Lời Thầy dặn Việc chính đời người chỉ ít thôi
Chuyên tâm đừng bận chuyện trời ơi
Phúc hậu suốt đời làm việc thiện
Di sản muôn năm mãi sáng ngời.
CHÀO NGÀY MỚI 31 THÁNG 8 Hoàng Kim CNM365MARDI và những người bạn; Chuyện đồng dao cho em; Nghê Việt am Ngọa Vân; Thầy Tuệ Trung Thượng Sĩ; Sớm Thu thơ giữa lòng; Ngày Độc lập tại Malaysia (1957) Trinidad và Tobago (1962), Kyrgyzstan (1991). Ngày 31 tháng 8 năm 1957, Liên bang Malaya giành được độc lập từ Anh Quốc.Ngày 31 tháng 8 năm 1963, Sabah được Vương thất Anh trao quyền tự trị đã tham gia hình thành Malaysia nửa tháng sau đó, Bài chọn lọc ngày 31 tháng 8: MARDI và những người bạn; Chuyện đồng dao cho em; Nghê Việt am Ngọa Vân; Thầy Tuệ Trung Thượng Sĩ; Sớm Thu thơ giữa lòng; Thông tin tại http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlong và https://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-31-thang-8/
MARDI VÀ NHỮNG NGƯỜI BẠN
Hoàng Kim Malaya giành được độc lập từ Anh Quốc ngày 31 tháng 8 năm 1957, .Sabah được Vương thất Anh trao quyền tự trị đã tham gia hình thành Liên bang Malaysia nửa tháng sau đó Kuala Lumpur trở thành thủ đô liên bang và là điểm dân cư đầu tiên của Malaysia được trao địa vị này ngày 1 tháng 2 năm 1972 sau khi độc lập theo chiếu chỉ Quốc vương Yang di-Pertuan Agong của Malaysia. Kuala Lumpur đến ngày 1 tháng 2 năm 1974, trở thành lãnh thổ liên bang và thành phố đông dân nhất ở Malaysia. Kuala Lumpur từ năm 1978 thôi làm thủ đô của Selangor sau khi thành phố Shah Alam được tuyên bố là thủ đô mới của bang. Ngày 1 tháng 2 năm 2001, Putrajaya được tuyên bố là một lãnh thổ liên bang, cũng như là nơi đặt trụ sở chính phủ liên bang và các chức năng hành pháp tư pháp của chính phủ chuyển từ Kuala Lumpur đến Putrajaya. Kuala Lumpur hiện vẫn giữ lại chức năng lập pháp, và là nơi có cung điện của Quốc vương.
Kuala Lumpur cũng là nơi có tòa Tháp đôi Petronas nổi tiếng thế giới do kiến trúc sư César Pelli thiết kế. Tòa tháp này động thổ ngày 1 tháng 1 năm 1992, khởi công ngày 1 tháng 3 năm 1992, hoàn thành ngày 1 tháng 3 năm 1996, khánh thành ngày 1 tháng 8 năm 1996, gồm 88 tầng, cao 375 m đến sàn cao nhất, 403 m đến mái, 452 m đến angten, từng là tòa nhà cao nhất thế giới trước năm 2003.
MARDI là Viện Nghiên cứu và Phát triển Nông nghiệp Malaysia (Malaysian Agricultural Research and Development Institute), trụ sở chính tại Persiaran MARDI-UPM, 43400 Serdang Selangor, Kuala Lumpur.
Tiến sĩ Tan Swee Lian, người đứng giữa của ảnh Những bạn tốt của nông dân trồng sắn châu Á trên đây, là chuyên gia nông nghiệp rất nổi tiếng của Viện Nghiên cứu và Phát triển Nông nghiệp Malaysia (MARDI) Bà nghiên cứu phát triển sắn, khoai lang, ngô, nghề làm vườn và nông học ở Malaysia và cũng là thành viên chính của Mạng lưới Cây Có Củ châu Á và Toàn cầu trên một phần tư thế kỷ. Bà là tác giả của 266 bài báo khoa học, trong đó có 115 bài báo trình bày ở các hội thảo quốc tế, 68 bài đăng trên các tạp chí khoa học và kỹ thuật nông nghiệp, 60 bài báo thông dụng và 23 sách chuyên khảo.
Tôi có được vài lần sang dự họp ở đấy, có báo cáo được chọn đăng trên trang báo địa phương. Các báo cáo khoa học nông nghiệp Quốc tế của nhóm bạn MARDI trong nghiên cứu, phát triển cây có củ (mời xem dưới đây) luôn tạo cho người nghe nhiều điều để trao đổi, học hỏi.
Tôi kể bạn nghe câu chuyện về Malaysia Kuala Lumpur MARDI và những bạn tôi ở nơi ấy. Đó là những bạn tốt của nông dân trồng khoai sắn châu Á. Trước hết mời bạn xem một số hình ảnh kỷ niệm một thời.
Bạn có tin chuyện phiêu lưu và kho báu không? Tôi thì tin ‘Nhà Giả Kim’ là có thật.Ông Paulo Coelho, tác giả người Brazil, với tác phẩm ‘Nhà giả kim’ (O Alquimista tiếng Bồ Đào Nha đã đoạt giải năm 2007. Bà J.K. Rowling, tác giả người Scotland, với tác phẩm ‘Harry Potter’ đã đoạt giải năm 2010. Bà Isabel Allende, nhà văn Chile, tư cách công dân Mỹ, với 2 tác phẩm Ngôi nhà của các linh hồn (La casa de los espíritus) 1982 và Thành phố của những tên ác quỷ (La ciudad de las bestias) 2002 tiếng Tây Ban Nha, đã đoạt giải năm 2012). Rio thành phố giữa núi và biển ở Brazil ẩn tàng 500 năm nông nghiệp Brazil, Ngọc lục bảo Paulo Coelho. Ở Malaysia ẩn tàng nhiều câu chuyện cổ về những kẻ cướp biển với kho báu và những cẩm nang quý của nông nghiệp châu Á.
Malaysia, Kuala Lumpur, MARDI, đất nước và con người là câu chuyện thú vị không chỉ kể một lần. Tôi neo đậu một thư mục và sẽ quay lại để kể sâu hơn.
Tôi đang tìm kho báu của chính mình phúc hậu, an nhiên.
MARDI và những người bạn, chuyện không quên tại đây
Hoàng Kim
CHUYỆNĐỒNG DAO CHO EM
Hoàng Kim
Đồng dao là chuyện tháng năm
Lời ru của mẹ Trăng rằm thảnh thơi
Biết tìm bạn quý mà chơi
Học ăn học nói làm người siêng năng
Hiểu nhàn biết đủ thời an
Thung dung minh triếr thanh nhàn thảnh thơi
Người sung sướng biết sống vui
Những người hiếu hạnh được đời yêu thương.
Việc chính là học làm người
Khắc sâu nhân nghĩa nhớ đời đừng quên
Hiếu trung phải học đầu tiên
Đừng tham tưởng bở mà quên ân tình.
Đừng tưởng cứ đẹp là tiên
Cứ trên là sáng cứ tiền là xong
Đừng tưởng không nói là câm
Không nghe tưởng điếc không trông tưởng mù
Đừng tưởng cứ trọc là sư
Cứ vâng là chịu cứ ừ là ngoan
Đừng tưởng có của là sang
Cứ im lặng tưởng là vàng nguyên cây.
Đừng tưởng cứ uống là say
Tai trâu đàn gẩy lời hay ham bàn
Đừng tưởng giàu hết gian tham
Không thời chẳng vận lạm bàn chuyện dân
Đừng tưởng cứ mới là tân
Cứ hứa là chắc cứ ân là tình
Đừng tưởng cứ thấp là khinh
Cứ chùa là tĩnh cứ đình là to.
Đừng tưởng già hết hồ đồ
Cứ trẻ là chẳng âu lo buồn phiền
Đừng tưởng cứ quyết là nên
Cứ mạnh là thắng cứ mềm là thua.
Đừng tưởng đã dấm là chua
Sấm rền là sẽ có mưa ngập trời
Đừng tưởng vui chỉ có cười
Buồn thì ủ rũ chỉ ngồi khóc than
Đừng tưởng cứ lớn là khôn
Cứ bé là dại cứ hôn là chồng
Đừng tưởng bịa có thành không
Nhìn gà hóa cuốc lẫn ông với thằng
Lúc vui tham bát bỏ mâm
Đến khi hoạn nạn tần mần bỏ đi
Đừng tưởng không nhất thì nhì
Phò thịnh sung sướng giúp suy nghèo hèn
Gặp trăng thì vội quên đèn
Hám tiền quên nghĩa đỏ đen lạc đường
Đừng tưởng giàu hết cô đơn
Cao sang hết ốm gian tham hết nghèo.
Đừng tưởng cứ núi là cao
Cứ sông là chảy, cứ ao là tù
Đừng tưởng cứ dưới là ngu
Tham giành là được thấy tu tưởng hiền.
Đừng tưởng cứ thấp là hèn
Cứ sang là trọng cứ tiền là xong
Đừng tưởng quan chức là rồng
Dân thường thấp cổ thì không biết gì.
Đời người lúc thịnh lúc suy
Lúc khỏe lúc yếu lúc đi lúc dừng
Đắng cay chua ngọt đã từng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau.
Ở đời nhân nghĩa làm đầu
Thủy chung sau trước tình sâu nghĩa bền
Học làm người việc đầu tiên
Hiếu trung phúc hậu đừng quên nối vần
“Lênh đênh qua cửa Thần Phù
Khéo tu thì nổi , vụng tu thì chìm”
“Người trồng cây hạnh mà chơi
Ta trồng cây đức để đời mai sau” (*)
(**) Cảm ơn bạn ‘Nga Thi Bich Nguyen’ tác giả bài viết “Đàn ông cho đáng đàn ông” và anh Nam Sinh Đoàn đã bàn luận về “Phụng sự xã hội” 5 phẩm chất tối thiểu ‘đàn ông cho đáng đàn ông’ là chân chính liêm sĩ, nghĩa khí, nghị lực, nói đi đôi với làm, bao dung. Đó đúng là 5 phẩm chất tối thiểu thật quý. Hoàng Kim xin phép được chép về suy ngẫm bàn luận chung ở trang CHUYỆN ĐỒNG DAO CHO EM.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từ thời là Nguyễn Ái Quốc Đường Kách mệnh năm 1927 đã viết Tư cách một người cách mệnh: Tự mình phải: Cần kiệm. Hoà mà không tư. Cả quyết sửa lỗi mình. Cẩn thận mà không nhút nhát. Hay hỏi. Nhẫn nại (chịu khó). Hay nghiên cứu, xem xét. Vị công vong tư. Không hiếu danh, không kiêu ngạo. Nói thì phải làm. Giữ chủ nghĩa cho vững. Hy sinh. Ít lòng ham muốn về vật chất. Bí mật. Đối người phải: Với từng người thì khoan thứ. Với đoàn thể thì nghiêm. Có lòng bày vẽ cho người. Trực mà không táo bạo. Hay xem xét người. Làm việc phải: Xem xét hoàn cảnh kỹ càng. Quyết đoán. Dũng cảm. Phục tùng đoàn thể.
Bác Hồ sau này, trong bài “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân” viết vào đầu năm 1969, đã đúc kết những chuẩn mực đạo đức cách mạng ‘nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm’ là “cần kiệm liêm chính chí công vô tư’; “cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “muôn việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém”. Trong công tác cán bộ, đạo đức cách mạng là yếu tố quan trọng hàng đầu, bởi: “cũng như sông thì phải có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”.
Ngày nay sự bình tâm bàn luận, đánh giá rõ hơn thực trạng văn hóa xã hội và suy ngẫm về giáo dục đào tạo là cần thiết.
Nhưng như thế nào mới là người đàn ông đáng đàn ông cơ chứ? Nào giờ, chúng ta, cả đàn ông và đàn bà, thường vô thức tự vẽ ra cho mình một hình mẫu nhất định về người đàn ông mà ta nghĩ đáng gọi là đàn ông. Cái hình vẽ đó thường không rõ nét, không định hình định tính một cách rõ rệt, cứ chung chung vậy thôi, nó còn phụ thuộc vào từng giai đoạn trưởng thành của người vẽ ra. Do vậy, mỗi người, trong tiềm thức, đều có một mẫu người nhất định, theo một hình ảnh mà trước đó họ nghĩ hình ảnh đó đẹp và tốt. Đa số đều hổng cẳng bởi cái tưởng tượng, hình vẽ đó chỉ là sự suy luận chủ quan của bản thân, thực tế nó khác hẳn.
Đàn ông, đàn bà đều là con người và có những bản năng, trách nhiệm, nghĩa vụ y như nhau về mặt xã hội và có giá trị như nhau. Nhưng, do khác biệt về giới, sức khỏe, tâm sinh lý, chức năng…nên theo đó, mỗi giới có những giá trị riêng làm nên bản sắc của giới mình. Khi nói đến đàn bà, ta thường nghe những giá trị nổi trội: Tinh tế, nhạy cảm, khéo léo, mềm mỏng, đảm đang, bao dung.. Còn đàn ông, giá trị nổi trội của họ là: Hào sảng, phóng khoáng, dũng cảm, trách nhiệm, có tầm nhìn, biết gánh vác, vị tha..
Những phẩm chất tạo nên giá trị giới của đàn bà và đàn ông Việt có bị mai một đi nhiều chưa? Nói thánh nói tướng khoe khoang phẩm chất, giá trị của mình thì đàn ông đàn bà nói rất dễ, lắm lúc nổ vung trời mây, nhưng, qua hành vi và hành động cụ thể thì mới biết họ có phẩm giá của đàn ông, đàn bà hay không. Trong bài này, tôi đề cập đến các ông trước.
Từ chục năm trở lại đây, tôi ngày càng ít bắt gặp cảnh đàn ông tươi cười đề nghị giúp đỡ người yếu hơn khi thấy họ mang xách nặng. Đàn ông ngồi nhìn hoặc đi lướt vội qua hoặc không quan tâm. Rất nhiều lần tôi đưa mắt cầu cứu một đàn ông lạ nào đó xung quanh để mong họ giúp hoặc chí ít là họ cất lời đề nghị giúp khi tôi xách nặng, hay dù chỉ là một ánh mắt áy náy thôi thì tôi cũng đã cảm thấy ổn và cảm kích rồi. Nhưng không. Họ đã luôn làm ngơ. Tôi xách va li to, đeo ba lô nặng lè lặc lên xuống cầu thang bộ ở sân ga, tôi khuân vác thứ gì đó khi đi đường, tôi thấy người đàn bà khác làm nặng và rất nặng..nhưng đàn ông xung quanh giả vờ chăm chú vào việc của mình, thường là chơi hoặc chẳng gì cả, rất rất nhiều lần như thế. Thậm chí, có lần, tôi mở lời đề nghị, dĩ nhiên là khi không thể từ chối thì đàn ông có giúp tôi xách cái túi lên cầu thang bộ, nhưng chỉ một đoạn rất ngắn đàn ông đã viện cớ thoái thác và lủi đi chỗ khác.
Lần khác, vất vả với túi đồ từ thiện to đùng kẹt ở cửa thang máy không lôi ra được, nhờ đàn ông đang đứng ở ngoài kéo ra giúp, đàn ông bước vào một thang máy khác. Nửa đêm, mưa to, mất điện toàn khu vực, nhà tốc mái tôn, tôi viết stt đăng lên facebook và thêm cái p/s: thèm chồng. Rất ít đàn ông hiểu tôi đang cần một sự bảo vệ và che chở trong cảnh huống đó, họ chỉ “thấy” cái p/s “thèm chồng” và nghĩ tôi thèm làm tình, thế là họ nhắn tin mời cà cà..hức..phê đi! Tôi còn bận leo mái nhà lợp lại mái tôn, ngu ạ!
Tất cả những đàn ông khi thấy người yếu hơn mình làm việc nặng mà không ra tay giúp đỡ hoặc đề nghị được giúp đỡ hoặc không cảm thấy áy náy khi không giúp được người ta thì đều không còn chất đực trong người nữa và họ cũng không biết yêu thương là gì, không có lòng trắc ẩn. Mọi biện minh, mọi lý giải, mọi lý cớ đều là ngụy biện để che đậy bản chất. Vậy cho nhanh.
Đàn ông không nhìn thấy những bất công xã hội, hoặc thấy mà làm ngơ, không dám nói, không dám kêu, không dám thể hiện thái độ, không dám phản kháng kêu đòi, không dám nhúc nhích kháng cự thì làm gì có cái phẩm chất dũng cảm, trách nhiệm và tầm nhìn? Mà đàn ông thiếu vắng những phẩm chất ấy đâu còn là đàn ông nữa. Địa vị, học vấn, nhà đẹp, xe sang…những thứ đó không hề tạo nên giá trị thực chất của một đàn ông, nó chỉ là những thứ bồi đắp và dễ dàng rơi rụng theo thời gian. Rất nhiều đàn ông rất ngu khi chỉ chăm chú xây dựng giá trị bản thân bằng những thứ bên ngoài và bằng lòng với điều đó, thậm chí có đầy đứa rất tự hào.
Đàn ông nói và làm không đi đôi, không nhất quán: Miệng bảo vệ nhân quyền tay đánh vợ, tay gõ phím bàn về dân chủ tự do nhưng quát vợ con im mồm khi họ có ý kiến, lên trang mạng chém phần phật về các giá trị nhân văn nhưng lại không hề thấy áy náy khi chính mình là nguyên nhân làm cho người khác tổn thương. Luôn mồm nói yêu thương nhưng rất ít khi đem lại niềm vui cho người khác. Thích thể hiện là người văn minh nhưng hành xử thì lại u mê. Rồi đầy ra đó những người yêu không dám yêu, làm không dám làm, chết không dám chết, sống không dám sống, không dám thay đổi và không có ý muốn thay đổi. Mọi thứ ở họ cứ tàng tàng, mờ nhạt, chẳng có một cái vị gì nên hồn, thì…đàn ông ở đâu? Không có đạo lý mà cũng chẳng có đạo đức, chẳng có phẩm giá, nói chung, chẳng có gì ngoài cái hình dong thằng người tồn tại vật vờ, vớ phải cô nào thì cô đó chịu!
Còn nữa: đàn ông suốt ngày để ý chuyện vặt, kích bác, châm chọc, chỉ trích, xúc phạm sỉ nhục người khác kể cả đối với đàn bà, chuyện nhỏ không hề biết cách thu xếp mà thường xé ra to, không biết đặt cái tổng thể lên trên để dẹp bỏ cái tôi hư hỏng…thì hay bị gọi là “loại có tính đàn bà.” Tôi nghe câu ví này, biết là người ta quen mồm, nhưng tôi vẫn cảm thấy xúc phạm vì là đàn bà tôi có tủn mủn thế đâu? Nhiều đàn bà tôi biết cũng không vụn như thế. Họ có còn biết thế nào là một đàn ông đúng nghĩa? Tôi đồ rằng họ còn không biết ý nghĩa, giá trị của sự tồn tại của bản thân.
Cách đây 20-30 năm, tôi còn gặp kha khá đàn ông. Họ làm việc, sống trong nhiều môi trường khác nhau, có người thành công có người chưa, nhưng ở họ luôn có một điểm chung: biết yêu thương, đàng hoàng đỉnh đạc và nhân văn. Giờ, vì đâu mà những người đàn ông dần trở nên hiếm hoi? Vì sao lại có quá nhiều hình dong đàn ông chứ không còn đàn ông nữa?
Trước tiên, tôi xin lỗi khi quy trách nhiệm lớn nhất cho những bà mẹ yêu con bằng tình yêu tử cung bảo bọc thái quá làm trẻ sinh ra ỷ lại, vô trách nhiệm, không biết yêu thương. Kế tiếp, tại nền tảng giáo dục gia đình, giáo dục nhà trường, xã hội sai cách làm tư duy con người bị lệch lạc, một chiều và cung cúc. Rất nhiều gia đình không biết cách dạy con đúng đắn nên dạy toàn thứ hư và làm cho con trai mình không thể trưởng thành thành một đàn ông. Bản thân người mẹ, người bố trong gia đình không có kiến thức nuôi dạy con, chỉ lặp lại những gì bắt chước từ bố mẹ của họ và dĩ nhiên bắt chước luôn những cái sai, cái xấu, cái phản tự nhiên, phản khoa học, phản tình yêu, đầy những vòng lặp di chứng tổn thương và cay nghiệt. Xã hội xuống cấp về mặt đạo lý và cả đạo đức. Các giá trị bị đảo lộn, trộn lẫn, nhập nhèm không còn ranh giới để dễ ngụy biện, chống chế, che đậy, làm sai. Đặt lợi ích lên trên tất cả. Thì hỏi làm sao có được những con người đúng nghĩa? Đàn ông hiếm cũng phải.
Thay vì khoe sức mạnh giống đực bằng việc giúp đỡ người yếu hơn, thì giờ người ta khoe sức mạnh bằng cách ngồi quán nhậu vỉa hè khoe ngủ với bao cô mỗi cô bao phút; hoặc lên mạng xã hội đi hóng chuyện giường chiếu nhà người rồi bình phẩm cô này bụng béo cô kia vú xệ, lúc nào trong đầu óc cũng có tinh trùng ngo ngoe. Thay vì khoe sự can trường trong việc giúp người yếu thế trong xã hội thì người ta khoe sự dũng cảm bằng cách ném đá nạn nhân. Thay vì khoe bản lĩnh và tầm nhìn ở những quyết định trọng đại của gia đình hay đất nước thì người ta khoe bản lĩnh bằng cách quát tháo và “xử lý” khi vợ con làm gì không vừa ý… Cũng thể hiện, cũng ra dáng, nhưng là dáng của hình dong, không phải dáng đàn ông.
Đàn ông ra dáng đàn ông, khó, không phải chuyện đùa. Đâu phải cứ sinh ra trên đời có cu ở háng thì đã được mặc định là đàn ông. Đầy người lầm tưởng như vậy.
Một đất nước thiếu vắng đàn ông, có lẽ từ lâu lắm rồi, và ngày càng hiếm, nên đàn bà đất nước ấy cứ bị cái hình ảnh lưng còng, gánh nặng, lủi thủi, vất vả, lam lũ, chịu đựng, hi sinh…bám riết vô thân phận. Tôi ước đàn ông nước ấy phải biết cảm thấy tự nhục chứ không phải là cảm thấy tự hào khi ca tụng hình ảnh người mẹ, vợ, người đàn bà quá khổ như thế.
Tôi yêu đàn ông, nhưng rủi thay, họ như kim cương vùi trong hang động, các thể loại hình dong thì lại diễu dện đầy đường, thế mới đau!
Lụt lớn ngập phương Bắc
Mưa to quét vùng Nam
Ngựa lành chun trong ngõ
Lợn hoang rông ngoài đường.
SỚM THU THƠ GIỮA LÒNG
Hoàng Kim
6
Thanh thản an vui dạo dọn vườn
Vui thầy mừng bạn ngát thêm hương
Đường xuân nhàn hạ phai mưa nắng
Tâm sáng an lành trãi gió sương
Thoắt đó vườn thơm nhiều quả ngọt
Mới hay nhà phước lắm con đường
An nhiên vô sự là tiên cảnh
Sớm thu mai nở nắng thu vương.(*)
Ban mai rười rượi – thu vừa chớm Gió lạc vườn ai bỡn trái hồng Khóm trúc dáng chừng đang độ lớn Ngỡ ngàng lối ngõ đẫm hơi sương!
Mây bông lặng vén rèm che mỏng Để nắng non nghiêng liếc trộm vườn Hàng cúc xốn xang gờn gợn sóng … Hình như trời đất biếc xanh hơn!
Qua bao giông bão bao mưa lũ Đất lại hồi sinh lại mượt mà Chấp chới cánh diều loang loáng đỏ Cố giữ tầm cao, níu khoảng xa!
1998
[1] Chớm thu, Hoàng Gia Cương THEO DÒNG THỜI GIAN
Thơ tuyển chọn 2013. NXB Văn Học Hà Nội, tr.101
VƯỜN THU Hoàng Thanh Luận
Nhỏ nhỏ con con một mảnh vườn
Bầu trời xanh ngắt đượm mùi hương
Phong lam một nhánh đang khoe sắc
Gốc bưởi nhiều cành trĩu nặng sương
Sớm sớm chim về vui hội mới
Chiều chiều ong đến rộn gia đường
Môi trường sinh thái ru nhè nhẹ
Cảnh ấy người đây cứ vấn vương
THU MƯA
Đỗ Phủ
Dịch thơ Khương Hữu Dụng
Hết gió liền mưa bời bời thu,
Tám hướng tứ bề mây mịt mù.
Ngựa lại trâu qua thấy loáng thoáng,
Vị trong Kinh đục trông xô bồ.
Lúa ngâm nứt mông ngô nếp thối,
Nhà nông già trẻ ai dám nói.
Trong thành đấu gạo so áo chăn,
Hơn thiệt kể gì miễn được đổi.
Nguồn: Thơ Đỗ Phủ, Hoàng Trung Thông, NXB Văn học, 1962
THU MƯA Nguyễn Hoài Nhơn
Thu về vườn lá chớm xanh
Ngõ cũ mưa đưa gọi nhớ
Ai người hạnh phúc bất thành
Ai người tình yêu dang dở?
Mưa rây tận cùng ướt lạnh
Thấm tháp gì tôi mưa ơi
Úp mặt vào tay cóng buốt
Đi hoang xa, vắng cõi người
Nỗi quê nửa đời thao thức
Hạt mưa tha hương phương nào
Ta như đất và…như cỏ
Như chẳng còn ta nữa sao ?
Chiếc lá ngập ngừng xoay, rớt
Mùa đi ai nỡ giữ mùa
Em về hòan nguyên hòai ước
Hãy giữ giùm tôi thu mưa.
THU VỊNH
Nguyễn Khuyến
Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao,
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu.
Nước biếc trông như tầng khói phủ,
Song thưa để mặc bóng trăng vào.
Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái,
Một tiếng trên không ngỗng nước nào?
Nhân hứng cũng vừa toan cất bút,
Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào.
Rút từ Quốc văn tùng ký (AB.383), Nam âm thảo (VHv.2381), Quế Sơn thi tập (A.469). Tiêu đề trong Nam âm thảo chép là Mùa thu ngồi mát ngâm thơ.. Ông Đà: tức Đào Tiềm, tự Uyên Minh, từ quan về ở ẩn đời nhà Tấn, nổi tiếng thanh cao.
Nguồn:
1. Thơ văn Nguyễn Khuyến, NXB Văn học, 1971 (tái bản 1979)
2. Nguyễn Khuyến – Tác phẩm, Nguyễn Văn Huyền chủ biên, NXB Khoa học xã hội, 1984
3. Thi hào Nguyễn Khuyến: đời và thơ, Nguyễn Huệ Chi chủ biên, NXB Giáo dục, 1994
Gió bụi nổi vạn dặm,
Giặc giã đang hoành hành.
Nhà xa gửi thư lắm,
Thư đến, khách buồn tênh.
Chim bay, cao buồn ngắm,
Già lưu lạc theo người.
Bụng muốn đến Tam Giáp,
Về hai kinh chịu thôi.
Nguồn: Phan Ngọc, Đỗ Phủ – Nhà thơ thánh với hơn một ngàn bài thơ, NXB Văn hoá thông tin, 2001
THU HỨNG 1
CHÀO NGÀY MỚI 31 THÁNG 8 Hoàng Kim CNM365MARDI và những người bạn; Chuyện đồng dao cho em; Nghê Việt am Ngọa Vân; Thầy Tuệ Trung Thượng Sĩ; Sớm Thu thơ giữa lòng; Ngày Độc lập tại Malaysia (1957) Trinidad và Tobago (1962), Kyrgyzstan (1991). Ngày 31 tháng 8 năm 1957, Liên bang Malaya giành được độc lập từ Anh Quốc.Ngày 31 tháng 8 năm 1963, Sabah được Vương thất Anh trao quyền tự trị đã tham gia hình thành Malaysia nửa tháng sau đó, Bài chọn lọc ngày 31 tháng 8: MARDI và những người bạn; Chuyện đồng dao cho em; Nghê Việt am Ngọa Vân; Thầy Tuệ Trung Thượng Sĩ; Sớm Thu thơ giữa lòng; Thông tin tại http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlong và https://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-31-thang-8/
MARDI VÀ NHỮNG NGƯỜI BẠN
Hoàng Kim Malaya giành được độc lập từ Anh Quốc ngày 31 tháng 8 năm 1957, .Sabah được Vương thất Anh trao quyền tự trị đã tham gia hình thành Liên bang Malaysia nửa tháng sau đó Kuala Lumpur trở thành thủ đô liên bang và là điểm dân cư đầu tiên của Malaysia được trao địa vị này ngày 1 tháng 2 năm 1972 sau khi độc lập theo chiếu chỉ Quốc vương Yang di-Pertuan Agong của Malaysia. Kuala Lumpur đến ngày 1 tháng 2 năm 1974, trở thành lãnh thổ liên bang và thành phố đông dân nhất ở Malaysia. Kuala Lumpur từ năm 1978 thôi làm thủ đô của Selangor sau khi thành phố Shah Alam được tuyên bố là thủ đô mới của bang. Ngày 1 tháng 2 năm 2001, Putrajaya được tuyên bố là một lãnh thổ liên bang, cũng như là nơi đặt trụ sở chính phủ liên bang và các chức năng hành pháp tư pháp của chính phủ chuyển từ Kuala Lumpur đến Putrajaya. Kuala Lumpur hiện vẫn giữ lại chức năng lập pháp, và là nơi có cung điện của Quốc vương.
Kuala Lumpur cũng là nơi có tòa Tháp đôi Petronas nổi tiếng thế giới do kiến trúc sư César Pelli thiết kế. Tòa tháp này động thổ ngày 1 tháng 1 năm 1992, khởi công ngày 1 tháng 3 năm 1992, hoàn thành ngày 1 tháng 3 năm 1996, khánh thành ngày 1 tháng 8 năm 1996, gồm 88 tầng, cao 375 m đến sàn cao nhất, 403 m đến mái, 452 m đến angten, từng là tòa nhà cao nhất thế giới trước năm 2003.
MARDI là Viện Nghiên cứu và Phát triển Nông nghiệp Malaysia (Malaysian Agricultural Research and Development Institute), trụ sở chính tại Persiaran MARDI-UPM, 43400 Serdang Selangor, Kuala Lumpur.
Tiến sĩ Tan Swee Lian, người đứng giữa của ảnh Những bạn tốt của nông dân trồng sắn châu Á trên đây, là chuyên gia nông nghiệp rất nổi tiếng của Viện Nghiên cứu và Phát triển Nông nghiệp Malaysia (MARDI) Bà nghiên cứu phát triển sắn, khoai lang, ngô, nghề làm vườn và nông học ở Malaysia và cũng là thành viên chính của Mạng lưới Cây Có Củ châu Á và Toàn cầu trên một phần tư thế kỷ. Bà là tác giả của 266 bài báo khoa học, trong đó có 115 bài báo trình bày ở các hội thảo quốc tế, 68 bài đăng trên các tạp chí khoa học và kỹ thuật nông nghiệp, 60 bài báo thông dụng và 23 sách chuyên khảo.
Tôi có được vài lần sang dự họp ở đấy, có báo cáo được chọn đăng trên trang báo địa phương. Các báo cáo khoa học nông nghiệp Quốc tế của nhóm bạn MARDI trong nghiên cứu, phát triển cây có củ (mời xem dưới đây) luôn tạo cho người nghe nhiều điều để trao đổi, học hỏi.
Tôi kể bạn nghe câu chuyện về Malaysia Kuala Lumpur MARDI và những bạn tôi ở nơi ấy. Đó là những bạn tốt của nông dân trồng khoai sắn châu Á. Trước hết mời bạn xem một số hình ảnh kỷ niệm một thời.
Bạn có tin chuyện phiêu lưu và kho báu không? Tôi thì tin ‘Nhà Giả Kim’ là có thật.Ông Paulo Coelho, tác giả người Brazil, với tác phẩm ‘Nhà giả kim’ (O Alquimista tiếng Bồ Đào Nha đã đoạt giải năm 2007. Bà J.K. Rowling, tác giả người Scotland, với tác phẩm ‘Harry Potter’ đã đoạt giải năm 2010. Bà Isabel Allende, nhà văn Chile, tư cách công dân Mỹ, với 2 tác phẩm Ngôi nhà của các linh hồn (La casa de los espíritus) 1982 và Thành phố của những tên ác quỷ (La ciudad de las bestias) 2002 tiếng Tây Ban Nha, đã đoạt giải năm 2012). Rio thành phố giữa núi và biển ở Brazil ẩn tàng 500 năm nông nghiệp Brazil, Ngọc lục bảo Paulo Coelho. Ở Malaysia ẩn tàng nhiều câu chuyện cổ về những kẻ cướp biển với kho báu và những cẩm nang quý của nông nghiệp châu Á.
Malaysia, Kuala Lumpur, MARDI, đất nước và con người là câu chuyện thú vị không chỉ kể một lần. Tôi neo đậu một thư mục và sẽ quay lại để kể sâu hơn.
Tôi đang tìm kho báu của chính mình phúc hậu, an nhiên.
MARDI và những người bạn, chuyện không quên tại đây
Hoàng Kim
CHUYỆNĐỒNG DAO CHO EM
Hoàng Kim
Đồng dao là chuyện tháng năm
Lời ru của mẹ Trăng rằm thảnh thơi
Biết tìm bạn quý mà chơi
Học ăn học nói làm người siêng năng
Hiểu nhàn biết đủ thời an
Thung dung minh triếr thanh nhàn thảnh thơi
Người sung sướng biết sống vui
Những người hiếu hạnh được đời yêu thương.
Việc chính là học làm người
Khắc sâu nhân nghĩa nhớ đời đừng quên
Hiếu trung phải học đầu tiên
Đừng tham tưởng bở mà quên ân tình.
Đừng tưởng cứ đẹp là tiên
Cứ trên là sáng cứ tiền là xong
Đừng tưởng không nói là câm
Không nghe tưởng điếc không trông tưởng mù
Đừng tưởng cứ trọc là sư
Cứ vâng là chịu cứ ừ là ngoan
Đừng tưởng có của là sang
Cứ im lặng tưởng là vàng nguyên cây.
Đừng tưởng cứ uống là say
Tai trâu đàn gẩy lời hay ham bàn
Đừng tưởng giàu hết gian tham
Không thời chẳng vận lạm bàn chuyện dân
Đừng tưởng cứ mới là tân
Cứ hứa là chắc cứ ân là tình
Đừng tưởng cứ thấp là khinh
Cứ chùa là tĩnh cứ đình là to.
Đừng tưởng già hết hồ đồ
Cứ trẻ là chẳng âu lo buồn phiền
Đừng tưởng cứ quyết là nên
Cứ mạnh là thắng cứ mềm là thua.
Đừng tưởng đã dấm là chua
Sấm rền là sẽ có mưa ngập trời
Đừng tưởng vui chỉ có cười
Buồn thì ủ rũ chỉ ngồi khóc than
Đừng tưởng cứ lớn là khôn
Cứ bé là dại cứ hôn là chồng
Đừng tưởng bịa có thành không
Nhìn gà hóa cuốc lẫn ông với thằng
Lúc vui tham bát bỏ mâm
Đến khi hoạn nạn tần mần bỏ đi
Đừng tưởng không nhất thì nhì
Phò thịnh sung sướng giúp suy nghèo hèn
Gặp trăng thì vội quên đèn
Hám tiền quên nghĩa đỏ đen lạc đường
Đừng tưởng giàu hết cô đơn
Cao sang hết ốm gian tham hết nghèo.
Đừng tưởng cứ núi là cao
Cứ sông là chảy, cứ ao là tù
Đừng tưởng cứ dưới là ngu
Tham giành là được thấy tu tưởng hiền.
Đừng tưởng cứ thấp là hèn
Cứ sang là trọng cứ tiền là xong
Đừng tưởng quan chức là rồng
Dân thường thấp cổ thì không biết gì.
Đời người lúc thịnh lúc suy
Lúc khỏe lúc yếu lúc đi lúc dừng
Đắng cay chua ngọt đã từng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau.
Ở đời nhân nghĩa làm đầu
Thủy chung sau trước tình sâu nghĩa bền
Học làm người việc đầu tiên
Hiếu trung phúc hậu đừng quên nối vần
“Lênh đênh qua cửa Thần Phù
Khéo tu thì nổi , vụng tu thì chìm”
“Người trồng cây hạnh mà chơi
Ta trồng cây đức để đời mai sau” (*)
(**) Cảm ơn bạn ‘Nga Thi Bich Nguyen’ tác giả bài viết “Đàn ông cho đáng đàn ông” và anh Nam Sinh Đoàn đã bàn luận về “Phụng sự xã hội” 5 phẩm chất tối thiểu ‘đàn ông cho đáng đàn ông’ là chân chính liêm sĩ, nghĩa khí, nghị lực, nói đi đôi với làm, bao dung. Đó đúng là 5 phẩm chất tối thiểu thật quý. Hoàng Kim xin phép được chép về suy ngẫm bàn luận chung ở trang CHUYỆN ĐỒNG DAO CHO EM.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từ thời là Nguyễn Ái Quốc Đường Kách mệnh năm 1927 đã viết Tư cách một người cách mệnh: Tự mình phải: Cần kiệm. Hoà mà không tư. Cả quyết sửa lỗi mình. Cẩn thận mà không nhút nhát. Hay hỏi. Nhẫn nại (chịu khó). Hay nghiên cứu, xem xét. Vị công vong tư. Không hiếu danh, không kiêu ngạo. Nói thì phải làm. Giữ chủ nghĩa cho vững. Hy sinh. Ít lòng ham muốn về vật chất. Bí mật. Đối người phải: Với từng người thì khoan thứ. Với đoàn thể thì nghiêm. Có lòng bày vẽ cho người. Trực mà không táo bạo. Hay xem xét người. Làm việc phải: Xem xét hoàn cảnh kỹ càng. Quyết đoán. Dũng cảm. Phục tùng đoàn thể.
Bác Hồ sau này, trong bài “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân” viết vào đầu năm 1969, đã đúc kết những chuẩn mực đạo đức cách mạng ‘nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm’ là “cần kiệm liêm chính chí công vô tư’; “cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “muôn việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém”. Trong công tác cán bộ, đạo đức cách mạng là yếu tố quan trọng hàng đầu, bởi: “cũng như sông thì phải có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”.
Ngày nay sự bình tâm bàn luận, đánh giá rõ hơn thực trạng văn hóa xã hội và suy ngẫm về giáo dục đào tạo là cần thiết.
Nhưng như thế nào mới là người đàn ông đáng đàn ông cơ chứ? Nào giờ, chúng ta, cả đàn ông và đàn bà, thường vô thức tự vẽ ra cho mình một hình mẫu nhất định về người đàn ông mà ta nghĩ đáng gọi là đàn ông. Cái hình vẽ đó thường không rõ nét, không định hình định tính một cách rõ rệt, cứ chung chung vậy thôi, nó còn phụ thuộc vào từng giai đoạn trưởng thành của người vẽ ra. Do vậy, mỗi người, trong tiềm thức, đều có một mẫu người nhất định, theo một hình ảnh mà trước đó họ nghĩ hình ảnh đó đẹp và tốt. Đa số đều hổng cẳng bởi cái tưởng tượng, hình vẽ đó chỉ là sự suy luận chủ quan của bản thân, thực tế nó khác hẳn.
Đàn ông, đàn bà đều là con người và có những bản năng, trách nhiệm, nghĩa vụ y như nhau về mặt xã hội và có giá trị như nhau. Nhưng, do khác biệt về giới, sức khỏe, tâm sinh lý, chức năng…nên theo đó, mỗi giới có những giá trị riêng làm nên bản sắc của giới mình. Khi nói đến đàn bà, ta thường nghe những giá trị nổi trội: Tinh tế, nhạy cảm, khéo léo, mềm mỏng, đảm đang, bao dung.. Còn đàn ông, giá trị nổi trội của họ là: Hào sảng, phóng khoáng, dũng cảm, trách nhiệm, có tầm nhìn, biết gánh vác, vị tha..
Những phẩm chất tạo nên giá trị giới của đàn bà và đàn ông Việt có bị mai một đi nhiều chưa? Nói thánh nói tướng khoe khoang phẩm chất, giá trị của mình thì đàn ông đàn bà nói rất dễ, lắm lúc nổ vung trời mây, nhưng, qua hành vi và hành động cụ thể thì mới biết họ có phẩm giá của đàn ông, đàn bà hay không. Trong bài này, tôi đề cập đến các ông trước.
Từ chục năm trở lại đây, tôi ngày càng ít bắt gặp cảnh đàn ông tươi cười đề nghị giúp đỡ người yếu hơn khi thấy họ mang xách nặng. Đàn ông ngồi nhìn hoặc đi lướt vội qua hoặc không quan tâm. Rất nhiều lần tôi đưa mắt cầu cứu một đàn ông lạ nào đó xung quanh để mong họ giúp hoặc chí ít là họ cất lời đề nghị giúp khi tôi xách nặng, hay dù chỉ là một ánh mắt áy náy thôi thì tôi cũng đã cảm thấy ổn và cảm kích rồi. Nhưng không. Họ đã luôn làm ngơ. Tôi xách va li to, đeo ba lô nặng lè lặc lên xuống cầu thang bộ ở sân ga, tôi khuân vác thứ gì đó khi đi đường, tôi thấy người đàn bà khác làm nặng và rất nặng..nhưng đàn ông xung quanh giả vờ chăm chú vào việc của mình, thường là chơi hoặc chẳng gì cả, rất rất nhiều lần như thế. Thậm chí, có lần, tôi mở lời đề nghị, dĩ nhiên là khi không thể từ chối thì đàn ông có giúp tôi xách cái túi lên cầu thang bộ, nhưng chỉ một đoạn rất ngắn đàn ông đã viện cớ thoái thác và lủi đi chỗ khác.
Lần khác, vất vả với túi đồ từ thiện to đùng kẹt ở cửa thang máy không lôi ra được, nhờ đàn ông đang đứng ở ngoài kéo ra giúp, đàn ông bước vào một thang máy khác. Nửa đêm, mưa to, mất điện toàn khu vực, nhà tốc mái tôn, tôi viết stt đăng lên facebook và thêm cái p/s: thèm chồng. Rất ít đàn ông hiểu tôi đang cần một sự bảo vệ và che chở trong cảnh huống đó, họ chỉ “thấy” cái p/s “thèm chồng” và nghĩ tôi thèm làm tình, thế là họ nhắn tin mời cà cà..hức..phê đi! Tôi còn bận leo mái nhà lợp lại mái tôn, ngu ạ!
Tất cả những đàn ông khi thấy người yếu hơn mình làm việc nặng mà không ra tay giúp đỡ hoặc đề nghị được giúp đỡ hoặc không cảm thấy áy náy khi không giúp được người ta thì đều không còn chất đực trong người nữa và họ cũng không biết yêu thương là gì, không có lòng trắc ẩn. Mọi biện minh, mọi lý giải, mọi lý cớ đều là ngụy biện để che đậy bản chất. Vậy cho nhanh.
Đàn ông không nhìn thấy những bất công xã hội, hoặc thấy mà làm ngơ, không dám nói, không dám kêu, không dám thể hiện thái độ, không dám phản kháng kêu đòi, không dám nhúc nhích kháng cự thì làm gì có cái phẩm chất dũng cảm, trách nhiệm và tầm nhìn? Mà đàn ông thiếu vắng những phẩm chất ấy đâu còn là đàn ông nữa. Địa vị, học vấn, nhà đẹp, xe sang…những thứ đó không hề tạo nên giá trị thực chất của một đàn ông, nó chỉ là những thứ bồi đắp và dễ dàng rơi rụng theo thời gian. Rất nhiều đàn ông rất ngu khi chỉ chăm chú xây dựng giá trị bản thân bằng những thứ bên ngoài và bằng lòng với điều đó, thậm chí có đầy đứa rất tự hào.
Đàn ông nói và làm không đi đôi, không nhất quán: Miệng bảo vệ nhân quyền tay đánh vợ, tay gõ phím bàn về dân chủ tự do nhưng quát vợ con im mồm khi họ có ý kiến, lên trang mạng chém phần phật về các giá trị nhân văn nhưng lại không hề thấy áy náy khi chính mình là nguyên nhân làm cho người khác tổn thương. Luôn mồm nói yêu thương nhưng rất ít khi đem lại niềm vui cho người khác. Thích thể hiện là người văn minh nhưng hành xử thì lại u mê. Rồi đầy ra đó những người yêu không dám yêu, làm không dám làm, chết không dám chết, sống không dám sống, không dám thay đổi và không có ý muốn thay đổi. Mọi thứ ở họ cứ tàng tàng, mờ nhạt, chẳng có một cái vị gì nên hồn, thì…đàn ông ở đâu? Không có đạo lý mà cũng chẳng có đạo đức, chẳng có phẩm giá, nói chung, chẳng có gì ngoài cái hình dong thằng người tồn tại vật vờ, vớ phải cô nào thì cô đó chịu!
Còn nữa: đàn ông suốt ngày để ý chuyện vặt, kích bác, châm chọc, chỉ trích, xúc phạm sỉ nhục người khác kể cả đối với đàn bà, chuyện nhỏ không hề biết cách thu xếp mà thường xé ra to, không biết đặt cái tổng thể lên trên để dẹp bỏ cái tôi hư hỏng…thì hay bị gọi là “loại có tính đàn bà.” Tôi nghe câu ví này, biết là người ta quen mồm, nhưng tôi vẫn cảm thấy xúc phạm vì là đàn bà tôi có tủn mủn thế đâu? Nhiều đàn bà tôi biết cũng không vụn như thế. Họ có còn biết thế nào là một đàn ông đúng nghĩa? Tôi đồ rằng họ còn không biết ý nghĩa, giá trị của sự tồn tại của bản thân.
Cách đây 20-30 năm, tôi còn gặp kha khá đàn ông. Họ làm việc, sống trong nhiều môi trường khác nhau, có người thành công có người chưa, nhưng ở họ luôn có một điểm chung: biết yêu thương, đàng hoàng đỉnh đạc và nhân văn. Giờ, vì đâu mà những người đàn ông dần trở nên hiếm hoi? Vì sao lại có quá nhiều hình dong đàn ông chứ không còn đàn ông nữa?
Trước tiên, tôi xin lỗi khi quy trách nhiệm lớn nhất cho những bà mẹ yêu con bằng tình yêu tử cung bảo bọc thái quá làm trẻ sinh ra ỷ lại, vô trách nhiệm, không biết yêu thương. Kế tiếp, tại nền tảng giáo dục gia đình, giáo dục nhà trường, xã hội sai cách làm tư duy con người bị lệch lạc, một chiều và cung cúc. Rất nhiều gia đình không biết cách dạy con đúng đắn nên dạy toàn thứ hư và làm cho con trai mình không thể trưởng thành thành một đàn ông. Bản thân người mẹ, người bố trong gia đình không có kiến thức nuôi dạy con, chỉ lặp lại những gì bắt chước từ bố mẹ của họ và dĩ nhiên bắt chước luôn những cái sai, cái xấu, cái phản tự nhiên, phản khoa học, phản tình yêu, đầy những vòng lặp di chứng tổn thương và cay nghiệt. Xã hội xuống cấp về mặt đạo lý và cả đạo đức. Các giá trị bị đảo lộn, trộn lẫn, nhập nhèm không còn ranh giới để dễ ngụy biện, chống chế, che đậy, làm sai. Đặt lợi ích lên trên tất cả. Thì hỏi làm sao có được những con người đúng nghĩa? Đàn ông hiếm cũng phải.
Thay vì khoe sức mạnh giống đực bằng việc giúp đỡ người yếu hơn, thì giờ người ta khoe sức mạnh bằng cách ngồi quán nhậu vỉa hè khoe ngủ với bao cô mỗi cô bao phút; hoặc lên mạng xã hội đi hóng chuyện giường chiếu nhà người rồi bình phẩm cô này bụng béo cô kia vú xệ, lúc nào trong đầu óc cũng có tinh trùng ngo ngoe. Thay vì khoe sự can trường trong việc giúp người yếu thế trong xã hội thì người ta khoe sự dũng cảm bằng cách ném đá nạn nhân. Thay vì khoe bản lĩnh và tầm nhìn ở những quyết định trọng đại của gia đình hay đất nước thì người ta khoe bản lĩnh bằng cách quát tháo và “xử lý” khi vợ con làm gì không vừa ý… Cũng thể hiện, cũng ra dáng, nhưng là dáng của hình dong, không phải dáng đàn ông.
Đàn ông ra dáng đàn ông, khó, không phải chuyện đùa. Đâu phải cứ sinh ra trên đời có cu ở háng thì đã được mặc định là đàn ông. Đầy người lầm tưởng như vậy.
Một đất nước thiếu vắng đàn ông, có lẽ từ lâu lắm rồi, và ngày càng hiếm, nên đàn bà đất nước ấy cứ bị cái hình ảnh lưng còng, gánh nặng, lủi thủi, vất vả, lam lũ, chịu đựng, hi sinh…bám riết vô thân phận. Tôi ước đàn ông nước ấy phải biết cảm thấy tự nhục chứ không phải là cảm thấy tự hào khi ca tụng hình ảnh người mẹ, vợ, người đàn bà quá khổ như thế.
Tôi yêu đàn ông, nhưng rủi thay, họ như kim cương vùi trong hang động, các thể loại hình dong thì lại diễu dện đầy đường, thế mới đau!
Lụt lớn ngập phương Bắc
Mưa to quét vùng Nam
Ngựa lành chun trong ngõ
Lợn hoang rông ngoài đường.
SỚM THU THƠ GIỮA LÒNG
Hoàng Kim
6
Thanh thản an vui dạo dọn vườn
Vui thầy mừng bạn ngát thêm hương
Đường xuân nhàn hạ phai mưa nắng
Tâm sáng an lành trãi gió sương
Thoắt đó vườn thơm nhiều quả ngọt
Mới hay nhà phước lắm con đường
An nhiên vô sự là tiên cảnh
Sớm thu mai nở nắng thu vương.(*)
Ban mai rười rượi – thu vừa chớm Gió lạc vườn ai bỡn trái hồng Khóm trúc dáng chừng đang độ lớn Ngỡ ngàng lối ngõ đẫm hơi sương!
Mây bông lặng vén rèm che mỏng Để nắng non nghiêng liếc trộm vườn Hàng cúc xốn xang gờn gợn sóng … Hình như trời đất biếc xanh hơn!
Qua bao giông bão bao mưa lũ Đất lại hồi sinh lại mượt mà Chấp chới cánh diều loang loáng đỏ Cố giữ tầm cao, níu khoảng xa!
1998
[1] Chớm thu, Hoàng Gia Cương THEO DÒNG THỜI GIAN
Thơ tuyển chọn 2013. NXB Văn Học Hà Nội, tr.101
VƯỜN THU Hoàng Thanh Luận
Nhỏ nhỏ con con một mảnh vườn
Bầu trời xanh ngắt đượm mùi hương
Phong lam một nhánh đang khoe sắc
Gốc bưởi nhiều cành trĩu nặng sương
Sớm sớm chim về vui hội mới
Chiều chiều ong đến rộn gia đường
Môi trường sinh thái ru nhè nhẹ
Cảnh ấy người đây cứ vấn vương
THU MƯA
Đỗ Phủ
Dịch thơ Khương Hữu Dụng
Hết gió liền mưa bời bời thu,
Tám hướng tứ bề mây mịt mù.
Ngựa lại trâu qua thấy loáng thoáng,
Vị trong Kinh đục trông xô bồ.
Lúa ngâm nứt mông ngô nếp thối,
Nhà nông già trẻ ai dám nói.
Trong thành đấu gạo so áo chăn,
Hơn thiệt kể gì miễn được đổi.
Nguồn: Thơ Đỗ Phủ, Hoàng Trung Thông, NXB Văn học, 1962
THU MƯA Nguyễn Hoài Nhơn
Thu về vườn lá chớm xanh
Ngõ cũ mưa đưa gọi nhớ
Ai người hạnh phúc bất thành
Ai người tình yêu dang dở?
Mưa rây tận cùng ướt lạnh
Thấm tháp gì tôi mưa ơi
Úp mặt vào tay cóng buốt
Đi hoang xa, vắng cõi người
Nỗi quê nửa đời thao thức
Hạt mưa tha hương phương nào
Ta như đất và…như cỏ
Như chẳng còn ta nữa sao ?
Chiếc lá ngập ngừng xoay, rớt
Mùa đi ai nỡ giữ mùa
Em về hòan nguyên hòai ước
Hãy giữ giùm tôi thu mưa.
THU VỊNH
Nguyễn Khuyến
Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao,
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu.
Nước biếc trông như tầng khói phủ,
Song thưa để mặc bóng trăng vào.
Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái,
Một tiếng trên không ngỗng nước nào?
Nhân hứng cũng vừa toan cất bút,
Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào.
Rút từ Quốc văn tùng ký (AB.383), Nam âm thảo (VHv.2381), Quế Sơn thi tập (A.469). Tiêu đề trong Nam âm thảo chép là Mùa thu ngồi mát ngâm thơ.. Ông Đà: tức Đào Tiềm, tự Uyên Minh, từ quan về ở ẩn đời nhà Tấn, nổi tiếng thanh cao.
Nguồn:
1. Thơ văn Nguyễn Khuyến, NXB Văn học, 1971 (tái bản 1979)
2. Nguyễn Khuyến – Tác phẩm, Nguyễn Văn Huyền chủ biên, NXB Khoa học xã hội, 1984
3. Thi hào Nguyễn Khuyến: đời và thơ, Nguyễn Huệ Chi chủ biên, NXB Giáo dục, 1994
Gió bụi nổi vạn dặm,
Giặc giã đang hoành hành.
Nhà xa gửi thư lắm,
Thư đến, khách buồn tênh.
Chim bay, cao buồn ngắm,
Già lưu lạc theo người.
Bụng muốn đến Tam Giáp,
Về hai kinh chịu thôi.
Nguồn: Phan Ngọc, Đỗ Phủ – Nhà thơ thánh với hơn một ngàn bài thơ, NXB Văn hoá thông tin, 2001
Thê lương sương phủ ủ rừng phong
Vu Giáp Vu Sơn ảm đạm buồn.
Ải tiếp gió mây hòa đất lạnh
Sóng đùa sông nước hợp trời tung.
Hai mùa cúc nở còn vương lệ
Một chiếc thuyền tình mãi sắt son.
Đan áo nơi nơi cho giá rét
Giục chày thành Bạch mỗi chiều buông.
Nghe nói Trường An rối cuộc cờ
Trăm năm thế sự não lòng chưa
Lâu đài khanh tướng thay người mới
Áo mũ công hầu khác thưở xưa
Xe ngựa xứ tây tin rộn đến
Cõi bờ đất bắc trống vang đưa
Cá rồng quạnh quẽ sông thu lạnh
Nước cũ mơ màng chuyện gió mưa
Ốm lâu,trong bụng cũng lười
Sáng nay lên núi dạo chơi một lần
Núi thu mây cảnh lạnh lùng
Xanh xao cũng tựa mặt mình như in
Dây xanh dựa bước dễ vin
Trắng tinh gối đá ta nằm ta chơi
Trải lòng thoả dạ mừng vui
Cuối ngày nhưng chửa muốn lui về nhà
Trăm năm trong cõi người ta
Cái thân nhăng nhít đáng là chi đâu
Chuyện xưa khéo nghĩ bạc đầu
Một ngày có được mấy hồi thảnh thơi
Lưới trần khi gỡ ra rồi
Về đây khép cửa nghỉ ngơi thanh nhàn
CHIỀU THU
Nguyễn Bính
Thăm thẳm trời xanh lộng đáy hồ,
Mùi hoa thiên lý thoảng chiều thu.
Con cò bay lả trong câu hát,
Giấc trẻ say dài nhịp võng ru.
Lá thấp cành cao gió đuổi nhau,
Góc vườn rụng vội chiếc mo cau.
Trái na mở mắt, nhìn ngơ ngác,
Đàn kiến trường chinh tự thủa nào.
Lúa trổ đòng tơ, ngậm cốm non,
Lá dài vươn sắc lưỡi gươm con.
Tiếng chim mách lẻo cây hồng chín,
Điểm nhạt da trời những chấm son.
Hai cánh chia quân chiếm mặt gò,
Bê con đùa mẹ bú chưa no.
Cờ lau súng sậy giam chân địch,
Trận Điện Biên này lại thắng to.
Sông đỏ phù sa, nước lớn rồi,
Nhà bè khói bếp lững lờ trôi.
Đường mòn rộn bước chân về chợ,
Vú sữa đẫy căng mặt yếm sồi.
Thong thả trăng non dựng cuối làng,
Giữa nhà cây lá bóng xiên ngang.
Chiều con, cặm cụi đôi ngày phép,
Ngồi bẻ đèn sao, phất giấy vàng.
Nguồn: Hoàng Xuân, Nguyễn Bính – thơ và đời, NXB Văn học, 2003
Em không nghe mùa thu
Dưới trăng mờ thổn thức?
Em không nghe rạo rực
Hình ảnh kẻ chinh phu
Trong lòng người cô phụ?
Em không nghe rừng thu
Lá thu kêu xào xạc
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô?
Bài thơ này đã được nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc thành bài hát cùng tên.
Nguồn:
1. Lưu Trọng Lư, Tiếng thu, 1939, Librairie Centrale ấn hành, 1939
2. Tuyển tập Lưu Trọng Lư, NXB Văn học, 1987
3. Hoài Thanh, Hoài Chân, Thi nhân Việt Nam (1932-1941), NXB Văn học, 2007
4. Nguyễn Tấn Long, Nguyễn Hữu Trọng, Việt Nam thi nhân tiền chiến, quyển thượng, NXB Sống Mới, 1968
Ưng ửng chiều hôm tỏa ánh hồng
Trời quang cảnh sắc biếc thanh trong
Mây bay lơ lửng muôn hình thú
Bóng nguyệt thu mình lộ dáng cong
Trời Bắc bâng khuâng chờ cánh nhạn
Suối Nam dồn dập tiếng chày buông
Trời thu hiu hắt tình muôn ý
Đợi tuổi già chi mới cảm lòng ?
ĐÊM THU
Trần Đăng Khoa
Thu về lành lạnh trời mây
Bỗng nhiên thức giấc nào hay mấy giờ
Ánh trăng vừa thực vừa hư
Vườn sau gió nổi nghe như mưa rào
1972
Nguồn: Trần Đăng Khoa, Góc sân và khoảng trời, NXB Văn hóa dân tộc, 1999
ĐÊM THU
Quách Tấn
Vườn thu óng ả nét thuỳ dương,
Đưa nhẹ đêm thu cánh hải đường.
Lóng lánh rẻo vàng gieo bến nguyệt,
Phất phơ tơ nhện tủa ngàn sương.
Chim hồi hộp mộng cơn mưa lá,
Cúc vẩn vơ hồn ngọn gió hương.
Say khướt hơi men thời Lý Bạch,
Non xa mây phới nếp nghê thường.
Nguồn:
1. Quách Tấn, Mùa cổ điển (tái bản lần thứ 1), NXB Tân Việt, Sài Gòn, 1960
2. Quách Tấn, Mùa cổ điển, NXB Thuỵ Ký, 1941
3. Phạm Thanh, Thi nhân Việt Nam hiện đại – quyển thượng, NXB Xuân Thu tái bản, 1990
THU ẨM
Nguyễn Khuyến
Năm gian nhà cỏ thấp le te,
Ngõ tối đêm sâu đóm lập loè.
Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt,
Làn ao lóng lánh bóng trăng loe.
Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt?
Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe.
Rượu tiếng rằng hay, hay chẳng mấy.
Độ năm ba chén đã say nhè.
Rút từ Quốc văn tùng ký (AB.383), Nam âm thảo (VHv.2381), Quế Sơn thi tập (A.469), Quế Sơn Tam nguyên thi tập (A.3160). Tiêu đề trong Nam âm thảo chép là Mùa thu ngồi mát uống rượu, trong Quế Sơn Tam nguyên thi tập chép là Dạ toạ ngẫu tác 夜坐偶作 (Chợt làm khi ngồi trong đêm).
Nguồn:
1. Thơ văn Nguyễn Khuyến, NXB Văn học, 1971 (tái bản 1979)
2. Nguyễn Khuyến – Tác phẩm, Nguyễn Văn Huyền chủ biên, NXB Khoa học xã hội, 1984
3. Thi hào Nguyễn Khuyến: đời và thơ, Nguyễn Huệ Chi chủ biên, NXB Giáo dục, 1994
Tiếng vĩ cầm nức nở
Của mùa thu ngân dài
Giọng đều đều buồn tẻ
Cứa mãi vào tim tôi.
Tất cả chợt lịm đi
Trong giây phút tái tê
Khi chuông giờ gõ điểm.
Tôi miên man tưởng niệm
Những ngày xưa xa xôi
Và nước mắt tôi rơi.
Rồi tôi đi, đi mãi
Giữa cơn gió phũ phàng
Cuốn tôi mang đây đó
Như chiếc lá úa vàng.
Nguồn: Mùa thu trong thi ca, tuyển thơ nhiều tác giả, NXB Hội nhà văn, 2007
Thu buồn, – cặp mắt đắm say,
Tôi yêu sắc đẹp em ngày chia phôi.
Thiên nhiên tàn úa bỗng tươi,
Rừng thay áo mới, cả trời vàng au.
Ồn ào hơi gió thở mau,
Bầu trời gợn sóng như màu khói sương.
Vài tia nắng hiếm nhớ thương
Sợ mùa đông sớm quen đường đến nhanh.
Đắm trong yên tĩnh ngọt lành,
Tôi quên thế giới thức thành tiếng thơ.
Tâm hồn xáo động ngẩn ngơ,
Tơ lòng run rẩy, mộng chờ đợi ai.
Nguồn: Alexxandr Puskin, Tuyển tập tác phẩm – Thơ và trường ca, NXB Văn học, Trung tâm VHNN Đông Tấy, 1999
THU VÀNG
Thu Bồn
Tặng T. A.
ập thoáng chốc… thu về như lá rụng
ngoài hiên em đã đến tự bao giờ
trời xanh ngắt anh không còn trẻ nữa
cây sấu cho hè hết cả trái chua
thế là hạ đã qua trong giây lát
giọt thơ anh thánh thót đã thu vàng
em đã đến mà như chưa đến
tiếng chim kêu se sắt muộn màng
mắt le lói nhìn sao khuya rụng
Hà Nội trôi sông Hồng đêm nay
nghe hơi thở đất trời trong tiếng dế
nâng trái tim mình lên uống để mà say
em nhanh quá anh về chậm quá
trái đất vô tư níu giữ vòng quay
chân anh mỏi âm thầm mặc cảm
véo von em lảnh lót giữa đời bay
mầm nhú ban đêm lá úa ban ngày
anh lẩn thẩn mài đời lên trang giấy
thời gian cứ lạnh lùng như viên tẩy
chút thu vàng mờ nhạt lẩn đâu đây
đừng hát nữa thu vàng em hãy ngủ
để anh nghe lá rụng cọ tim mình
xào xạc đấy những trời yên tĩnh lạ
tay mơ hồ đang chạm những lời ru…
(Hà Nội đêm 29-08-1990)
Nguồn: 100 bài thơ tình nhờ em đặt tên (thơ), Thu Bồn, NXB Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, 1992
GIỌT MƯA THU
Thái Lượng
Mưa thu rơi, rơi đều trong đêm vắng
Tiếng mưa buồn sâu lắng giữa canh thâu
Mưa từ đâu tí tách những giọt sầu
Như nức nở vọng lầu thương bóng nguyệt
Đêm cô tịch mưa kéo dài cay nghiệt
Thương dòng đời ru nghịch cảnh trái ngang
Mưa thu rơi như lệ chảy từng hàng
Nghe lạnh lẽo những lời than vô vọng
Mặt đường phố giọt mưa còn khơi đọng
Nỗi lạnh lùng cây cỏ cũng buồn tênh
Giữa lưng trời giọt nhớ mãi lênh đênh
Như khắc khoải không ngừng câu ai oán
Mưa thu rơi giọt sầu thêm ngao ngán
Tiếng ngậm ngùi đang vỗ giấc tương tư
Biết nói sao cho hết được ngôn từ
Đêm hoang lạnh lòng chìm trong thương nhớ
Mưa rơi nhẹ nhịp hoà cùng hơi thở
Giữa vũng lầy bỡ ngỡ những bước chân
Tiếng mưa rơi não nuột chẳng ngại ngần
Sầu phong kín nỗi lòng người lữ thứ
Thu man mác gợi thêm sầu cô lữ
Gió muộn màng thổi nhẹ lá vàng rơi
Mưa thu ơi xin trút hết cho đời
Bao nỗi nhớ trôi về nơi xa ấy…
NẮNG THU
Nam Trân
Tặng Hoàng Khôi
Hát bài hát ngô nghê và êm ái,
Bên sườn non, mục tử cỡi trâu về,
Nắng chiều rây vàng bột xuống dân quê,
Lúa chín đỏ theo gió nồm sắp mái.
Trên suối nhỏ, chiếc cầu treo hẻo lánh
Tốp người qua, lẩy bẩy vịn thanh ngang
Lũ trẻ con sung sướng nổ cười vang
Đùa với bóng chảy theo giòng nước lạnh.
Dãy núi tím bỗng thay mầu xanh ngắt
Rồi ố làn trong giây khắc nhá nhem.
Âm thầm cảnh vật vào Đêm:
Vết ráng đỏ, tiếng còi xa cũng tắt.
Nguồn:
1. Nam Trân, Huế, đẹp và thơ, 1939
2. Hoài Thanh, Hoài Chân, Thi nhân Việt Nam, NXB Văn học, 2007
3. Phạm Thanh, Thi nhân Việt Nam hiện đại (quyển thượng), NXB Xuân Thu, 1990
THƠ GỬI MÙA THU
Nguyễn Hoài Nhơn
Thu ạ, tôi như lọn mây phiêu lạc
Đắp đỗi cho em vụng dại mấy mươi mùa
Đôi mắt sẽ muộn phiền trăm năm nữa
Ba ngả sông đời nghẹn chảy xót xa chưa ?
Thị trấn nhỏ lắm bùn, nhiều cát thế
Để bước chân lỡ hẹn với Ngân Hà
Triền đê gió dỗi hờn, ai ru dỗ
Đêm lạc loài sương cỏ dấu em qua
Quán trọ tình yêu tôi về tạ lỗi
Cùng cơn mơ tiền kiếp đắng cay đầy
Em tỉnh giấc trắng trời mưa lông ngỗng
Và con đường buôn buốt gió heo may.
THƠ TÌNH CUỐI MÙA THU
Xuân Quỳnh
Cuối trời mây trắng bay
Lá vàng thưa thớt quá
Phải chăng lá về rừng
Mùa thu đi cùng lá
Mùa thu ra biển cả
Theo dòng nước mênh mang
Mùa thu vào hoa cúc
Chỉ còn anh và em
Chỉ còn anh và em
Là của mùa thu cũ
Chợt làn gió heo may
Thổi về xao động cả:
Lối đi quen bỗng lạ
Cỏ lật theo chiều mây
Đêm về sương ướt má
Hơi lạnh qua bàn tay
Tình ta như hàng cây
Đã qua mùa gió bão
Tình ta như dòng sông
Đã yên ngày thác lũ
Thời gian như là gió
Mùa đi cùng tháng năm
Tuổi theo mùa đi mãi
Chỉ còn anh và em
Chỉ còn anh và em
Cùng tình yêu ở lại…
– Kìa bao người yêu mới
Đi qua cùng heo may
Nguồn: Thơ tình cuối mùa thu; trong Tự hát, Xuân Quỳnh, NXB Tác phẩm mới, 1984. Bài thơ này đã được nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu phổ nhạc thành bài hát Thư tình cuối mùa thu.
EM Ở NƠI NÀO Hoàng Đình Quang
Em ở nơi nào trong nỗi nhớ của anh
Dù đi hết một mùa đầy gió bão
Vẫn không thể đến bầu trời huyền ảo
Tưởng đã gần hơn, mà xa thẳm mịt mù.
Anh biết mỗi người còn có một mùa thu
Mùa thu em không có anh trong đó
Dù chiếc lá gói bầu trời bé nhỏ
Đã làm rơi bông hoa tím cuối cùng.
Mùa chia tay nhìn bóng đứng triền sông
Người ngoảnh lại nhớ người không ngoái lại
Hoa rạo rực suốt một thời con gái
Anh trở về say đắm một mình anh.
Biết cầm tay rồi dừng lại không đành
Mỗi chuyến đi xa lại phải lòng người lạ
Ai bất chợt hát một mình trong lá
Lại ngỡ mình đang hát với mùa thu!