Số lần xem
Đang xem 1453 Toàn hệ thống 2385 Trong vòng 1 giờ qua
Trang liên kết
Tỉnh thức
giữa đêm thiêng Yên Tử
Để thấm hiểu đức Nhân Tông
Ta thành tâm đi bộ
Lên tận đỉnh chùa Đồng
Tâm sáng Ức Trai
trong tựa ngọc TÌNH YÊU CUỘC SỐNG
DẠY VÀ HỌC Để chấn hưng giáo dục Việt Nam cấp thiết phải có đội ngũ những người thầy giáo ưu tú có tâm đức thiết tha với nghề, có trình độ chuyên môn cao và có kỹ năng giảng dạy tốt. Đây là trang thông tin chuyên đề dạy và học để trao đổi và bàn luận
Norman Borlaug Lời Thầy dặn Việc chính đời người chỉ ít thôi
Chuyên tâm đừng bận chuyện trời ơi
Phúc hậu suốt đời làm việc thiện
Di sản muôn năm mãi sáng ngời.
Năm 1988, tôi đến CIANO thăm nơi làm việc của nhà khoa học xanh Norman Borlaug nhà nhân đạo người Mỹ đã ‘cứu sống nhiều người hơn bất cứ ai khác trong lịch sử’ và thăm nơi lưu dấu di sản Ernest Hemingway, tác giả của kiệt tác Ông già và biển cả là bài học tự do sáng tạo sống giữa thiên nhiên. Tôi mang theo suốt đời ấn tượng sâu sắc với Borlaug và Hemingway. Tôi chỉ mới chép đôi điều về họ trên Wikipedia Tiếng Việt, nay lưu điểm nhấn này để thỉnh thoảng quay lại chiêm nghiệm sâu hơn về di sản của hai người thầy kỳ dị và bạn lớn này.
Thầy Norman Borlaug là nhà nhân đạo, nhà nông học Mỹ, cha đẻ của cuộc cách mạng xanh được tặng giải Nobel và Tổng thống Mỹ trao tặng huân chương cao quý nhất của nước Mỹ, thế giới tôn vinh là nhà bác học số một của nhân loại trong cuộc chiến chống nghèo đói. Thầy đã suốt đời nghiên cứu giảng dạy về chọn tạo và phát triển cây lương thực, góp phần cải thiện đời sống và nâng cao thu nhập cho hàng trăm triệu nông dân nghèo ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ Latinh. Thầy là người sáng lập Giải thưởng Lương thực Thế giới và tổ chức nhiều hoạt động thiết thực thắp sáng niềm tin yêu cuộc sống. Tôi được Thầy ghé thăm gần trọn buổi chiều tại phòng riêng ở CIMMYT, Mexico ngày 29 tháng 8 (âm lịch) năm 1988. Thầy đã đi một mình ghé thăm người trò nhỏ duy nhất của châu Á trong lớp học “Quản lý Trung tâm/ Trạm trại Nông nghiệp”. Khi Thầy đến, tôi đang thắp nến trên giá sách trong phòng đề tưởng nhớ ngày mất của cha tôi. Biết cha tôi bị bom Mỹ giết hại tại làng nhỏ ở Quảng Bình của buổi chiều này hai mươi năm trước (1968) lúc tôi còn là học sinh trung học của Trường cấp Ba Bắc Quảng Trạch. Thầy bối rối xin lỗi và thật bất ngờ tôi đã có được một buổi chiều vô giá riêng tư bên Thầy. Điều này tôi đã kể tại bài viết “Thầy bạn là lộc xuân cuộc đời” đăng ở kỷ yếu Khoa Nông học Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh năm 2010 và bảo tồn trên trang Thầy bạn là lộc xuân
Norman Borlaug nhà khoa học xanh, lời Thầy dặn thật thấm thía “Đời người tối thiểu phải ăn, kế đến là học tập, công việc, nhà ở, quần áo và chăm sóc sức khỏe. Quanh ta còn nhiều mảnh đời bất hạnh. Hiểm họa nghèo đói vẫn bùng phát bất cứ lúc nào. Hãy luôn nhớ điều đó”; “Hãy vươn tới những vì sao. Cho dù không chạm được vào nó, nhưng nếu cố gắng hết sức, ít ra, chúng ta cũng chạm được những hạt bụi của ngôi sao”; “Việc chính đời người chỉ ít thôi. Chuyên tâm đừng bận chuyện trời ơi. Phúc hậu suốt đời làm việc thiện. Di sản muôn năm mãi sáng ngời”
Đời người có những dịp may kỳ lạ khó cắt nghĩa, Tôi đã lưu lại câu chuyện Giấc mơ thiêng cùng Goethe.kể về duyên may từ một cậu bé chân đất làng Minh Lệ có cơ hội học Goethe ở châu Âu và được đàm đạo với Thầy Norman Borlaug khai tâm đường vào khoa học. Noi gương Goethe, Borlaug dạy học, viết sử thi về đất nước con người văn hóa giáo dục Việt Nam, Cây Lương thực Việt Nam khoa học cây trồng, lĩnh vực am hiểu sâu của chính mình
GIẤC MƠ THIÊNG CÙNG GOETHE
Người già kể chuyện sử thi
ở Kalovi Vary, Roma, Oregon
Thắp lên trong tôi ngọn lửa Hoàng Kim
“Mọi lý thuyết đều là màu xám, chỉ có cây đời mãi mãi xanh tươi”
Goethe trao tặng cho tôi
Ngọc minh triết của Người.
Người hóa thân
trong thanh thản
bóng cây xanh
Người đàm đạo
với Norman Borlaug
và cậu học trò nghèo
Về ý tưởng xanh
Con đường xanh
Hành trình xanh
Sự nghiệp xanh
Nhà khoa học xanh
và giấc mơ hạnh phúc
Goethe là vòm cây xanh Goethe cũng là lão nông
ngồi cùng chúng ta
chuyện trò
trên cánh đồng xanh
hạnh phúc.
Goethe và Norman Borlaug
là những trí tuệ bậc Thầy.
Họ không màng hư vình
mà hướng tới đỉnh cao hòa bình
sự an lành tiến bộ.
Anh và em cùng Goethe
Ở FAO, Rome, Italy Người hóa thân
thành nữ thần Tình Yêu
Trời xanh tuyệt vời !
Trời nhân loại mênh mông !
Ernest HemingwayÔng già và biển cả, sinh ngày 21 tháng 7 năm 1899, mất ngày 2 tháng 7 năm 1961, là một tiểu thuyết gia người Mỹ, một nhà văn viết truyện ngắn, và là một nhà báo. Ông là một người xa xứ Paris và một cựu quân nhân. Ông đã nhận được Giải Nobel Văn học năm 1954 và Giải Pulitzer năm 1953 với tiểu thuyết Ông già và biển cả. Ngày 21 tháng 10 là ngày ông đã phát hành lần đầu cuốn tiểu thuyết kiệt tác Chuông nguyện hồn ai.
Ngôi nhà nơi Hemingway sinh ra tại Oak Park, Illinois là nơi lưu dấu tuổi thơ dữ dội của ông nay là chứng tích nơi Hemingway viết những kiệt tác Giã từ vũ khí, Chuông nguyện hồn ai. Ông già và biển cả. Hemingway là một người lính đã đi qua hai cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất và thứ hai ở những chiến trường và thời điểm khốc liệt nhất, ông có có một cuộc đời giàu trãi nghiệm nên kịp trao lại cho đời một di sản văn chương đồ sộ
Hemingway sinh tại Oak Park, Illinois, một vùng ngoại ô của Chicago, Mỹ. Hemingway lúc ở tuổi mười tám đã bắt đầu sự nghiệp viết văn của mình với tư cách là một phóng viên cho báo The Kansas City Star. Tờ báo này đã ghi danh ông là phóng viên hàng đầu của báo trong một trăm năm qua,
Hemingway có phong cách văn chương nổi bật “Sử dụng những câu văn ngắn. Sử dụng những đoạn mở đầu ngắn. Sử dụng thứ tiếng Anh hùng hồn. Phải khẳng định, không phủ nhận” (“Use short sentences. Use short first paragraphs. Use vigorous English. Be positive, not negative.”). Lối văn ấy, sau này tôi nghiệm thấy, người đã học và dùng thật khéo, thật giỏi và thật nhuyễn lối phong cách văn chương độc đáo ấy là tổng thống Mỹ Trump (cho dù ông có nhìn nhận điều ấy hay không.
Hemingway ngừng làm phóng viên chỉ sau đó một vài tháng và tình nguyện gia nhập Quân đội Mỹ vào hàng ngũ quân y sang chiến đấu ờ Pháp và Italia. Ông bị thương khi đang lái xe chuyển thương binh và được huân chương từ chính phủ Ý. Sau chiến tranh thế giới thứ nhất ông trở về Mỹ lấy vợ là Hadley Richardson và sống một cuộc đời nghèo túng ở quê. Từ năm 1921 gia đình ông định cư ở Pari Pháp. Sau nhiều thành công với tư cách là thông tín viên nước ngoài, Hemingway trở lại Toronto, Canada năm 1923. ông có người con trai đầu tên là Jack. Hemingway. Ông chia tay người vợ đầu năm 1927 và cưới Pauline Pfeiffer, một phóng viên thời trang không thường xuyên, người sùng đạo Thiên Chúa đến từ Piggott, Arkansas. Họ có với nhau hai người con năm 1928 và 1930.
Hemingway năm 1929 viết tác phẩm “Giả từ vũ khí” thành công nên thu nhập sau đò khá hơn. Năm 1931 Hemingway quay về Key West, Florida và sống ở đó đến năm 1940 ông thường đi câu cá và nhiều lần sang Tây Ban Nha để tìm tư liệu và đi săn ở châu Phi để lấy cảm hứng viết văn ở Mombasa, Nairobi Machakos tại Kenya, Tanganyika. Serengeti, quanh Hồ Manyara và vùng phía tây và đông nam của Công viên Quốc gia Tarangire ngày nay. Hemingway đã bị bệnh trong chuyến đi này. Sự sa sút sức khỏe và tình hình gia đình xã hội chính trị tôn giáo luôn không thể dung hòa đã làm ông kiệt sức. Bố Hemingway nghèo khó quản bách tài chính phải tự sát. Ông đã viết ‘Chuông nguyện hồn ai ‘ năm 1940 trong hoàn cảnh đó.
Hemingway là mẫu mực kinh điển trong văn học Mỹ với đặc trưng văn chương chuẩn mực, kiệm lời, sáng tạo, khắc họa vĩnh cữu những từ chìa khóa (Key words). Hemingway là một người theo chủ nghĩa khắc kỷ (stoicism), vui lòng chịu sức ép (grace under pressure), thuận theo tự nhiên và nghịch cảnh. Ông là một cựu quân nhân trãi gần trọn đời trong chiến tranh và nghèo đói, nên ông đã mô tả người như ông là “Thế hệ bỏ đi” (Lost Generation) của cộng đồng người Paris xa xứ.
Điều thú vị là tôi thật nhiều năm hiểu nhưng chưa tìm được một lối diễn đạt nào để mô tả phong cách Hemingway trong bản lĩnh người lính khi phải bộc lộ sự thật quan điểm lính của mình đối mặt với một quyết định sinh tử để không bị lợi dụng cho một mưu đồ chính trị trái lòng mình. Hemingway tôn trọng Cu Ba không đồng tình chiến tranh lạnh..Cho đến khị tôi tình cờ đọc được một đoản văn ngắn của Lưu Huy Chiêm một người bạn nghề thủy lợi, nghiệp nhà văn đã nói về Hemingway đúng tính cách ông ấy, của “Thế hệ bỏ đi”. Nguyên văn đoạn văn ấy như sau:
LÒNG TỰ TRỌNG CAO QUÍ. Chiêm Lưu Huy Năm 1953, Stalin chết. Nikita Khrushchev (1894 – 1971) lên cầm quyền Liên bang xô viết. Ông quyết định cải tổ. Việc đầu tiên trong quan hệ ngoại giao, ông chọn cách bắt tay chung sống và thi đua hòa bình với cường quốc thù địch ý thức hệ Hoa kỳ. Chuyến thăm chính thức có hàng tấn thông tin từ cả hai phía, đầy ắp sự kiện. Bài viết này chỉ chú ý đến chi tiết nhỏ nhặt gần như bị lãng quên. Nikita khrushchev mang theo nhà văn Nga – Mikhail Aleksandrovich Solokhov (1905 -1984). Nikita ngầm cho người Mỹ hiểu rằng văn hóa Liên xô yêu chuộng hòa bình, lên án chiến tranh mà Sông Đông êm đềm của Solokhov đại diện làm sứ giả – Sứ giả Hòa bình!
Đáp lễ, chuẩn bị cho chuyến thăm chính thức Liên bang cộng hòa xã hội chủ nghĩa xô viết, Tổng thống Hoa kỳ Dwight F Eisenhower (1890 -1969) muốn có tác giả lừng danh thiên hạ với tác phẩm Ông già và biển cả, được viết ở Cu Ba (cánh tay nối dài của Liên xô ở ngay sát nách Mỹ!) là Ernest Hemingway (1899 – 1961) tháp tùng. Bất ngờ, nhận được lời mời, Ernest Hemingway mỉm cười nói: Tại sao Ernest Hemingway lại phải tháp tùng Dwight F. Eisenhower. Lẽ ra ông ấy phải tháp tùng tôi chứ !? Và, dĩ nhiên Ernest từ chối thẳng thừng một cơ hội ngàn vàng, ngàn năm mong đợi của không ít người!?
3 – Không ai biết có 1001 lý do từ chối, nhưng chắc chắn có một cái gì… như là lòng tự trọng cao quý của Người Văn…!
Đây là chân dung Người Văn có lòng tự trọng cao quý mà tôi hiến tặng các bạn, trong đó có Tình Yêu Của Tôi…
Tôi dự tiệc cưới con một người bạn lính thuộc Lớp thanh niên xếp bút nghiên lên đường chiến đấu và trở về trường học sau chiến tranh. Thế hệ của chúng tôi cũng trãi gần trọn đời trong cuộc chiến chống lại giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm, cùng những biến thái của điều này sau chiến tranh, theo cách nói Hemingway là “Thế hệ bỏ đi” (Lost Generation) vì thế hệ chúng tôi Hemingway văn chương ông dường như có sự đồng cảm và thấu hiểu tâm trạng.
Chúng tôi cũng là quân nhân, cũng là người xa xứ ‘cuốn theo chiều gió’, cũng sống thuận theo tự nhiên và nghịch cảnh, cũng vui lòng chịu sức ép. Đọc “Những người lính sinh viện” của Lê Anh Quốc FB Phan Chi dưới đây, đã nói lên thật đúng và thật đồng cảm kỳ lạ tâm trạng chúng tôi , và cũng thật sâu sắc khi đối thoại thầm lặng với tác giả của kiệt tác “Giã từ vũ khí”:
“Những người lính có bao giờ định liệu Cái giá mình trước Tổ Quốc, Nhân Dân! “Vì Nhân Dân quên mình! Vì Nhân Dân hy sinh!” Lẽ sống ấy làm nên Nhân cách Lính.Ngay cả khi mình không mang quân phục, Nhưng Lính thì chẳng lẫn với ai đâu? Không biết người ta sống mai sau, Có đời hơn thời chúng tôi đang sống? Rồi đến lúc phải quên đi tiếng súng, Ta vẫn tin! Đồng đội chẳng quên nhau! Nhân Dân mình sống có trước có sau. Cứ nhìn những Nghĩa trang, những Tượng đài thì biết. Và cả những Tượng đài thơm hương tha thiết, Cho người sống,Cho người còn mà chết tuổi thanh xuân. Nếu Cuộc đời biết vì Nhân Dân Thì Nhân Dân cũng vì ta năm tháng. Như mặt trời cho cỏ cây nguồn sáng, Cỏ cây nào chẳng cho đất những mùa hoa? Bom đạn tạnh đi rồi Chiến tranh đã lùi xa! Cuộc sống mới bảo chúng tôi đổi mới!”
Tôi học Norman, noi theo Norman bởi những lời Thầy dặn tôi mãi mãi làm người Thầy nhà nông chiến sĩ, đã khai tâm cho tôi làm thay đổi chính cuộc đời mình, nhưng tôi thật thích Hemingway về văn chương kiệm lời trong như ngọc chắt lọc từ khóa (key word) Ông già và biển cả; Giả từ vũ khí; Chuông nguyện hồn ai; “Sử dụng những câu văn ngắn. Sử dụng những đoạn mở đầu ngắn. Sử dụng thứ tiếng Anh hùng hồn. Phải khẳng định, không phủ nhận”; “Thế hệ bỏ đi” Hemingway với những tác phẩm để đời và các câu văn ngắn gây ám ảnh và ấn tượng đặc biệt sâu sắc trong lòng tôi.và say mê đến kỳ lạ của ông ham thích tự do. Đó là đại dương khát vọng “Ông già và biển cả” khai mở tự do tâm thức tình yêu cuộc sống. Tôi cũng vẫn thường quay lại với Nguyễn Khải, với các tác phẩm văn chương ưng ý mà Nguyễn Khải đã trao lại ngọc cho đời và những lời thương nhớ Nguyễn Khải của các bạn văn, người đọc viết về Nguyễn Khải để tìm câu giải thích cho điều tâm đắc ông viết: “Trên cuộc đời không có bước đường cùng, chỉ có những ranh giới, điều cốt yếu là phải vượt qua được những ranh giới ấy”. “Tôi viết vậy thì tôi tồn tại ! Viết văn không chỉ do nhu cầu kiếm sống, viết văn cũng không chỉ do những bức xúc khôn khuây của cá nhân, mà viết còn là mong muốn được trao trở về với cái vô hạn”.
Thoáng chốc tháng năm nhìn trở lại
An nhiên chào ngày mới yêu thương.
Đi qua chiến tranh mừng hạnh phúc
Bạn học chung mâm nhớ lớp trường.
Borlaug và Hemingway là câu chuyện thú vị làm vui cả ngày
Hoàng Kim
Xem thêm
Đọc NHỮNG NGƯỜI LÍNH SINH VIÊN của Lê Anh Quốc
FB Phan Chi
Tôi hoàn toàn không quen biết người lính Lê Anh Quốc, càng không biết có nhà thơ tên là Lê Anh Quốc. Vô tình đọc được thơ anh trên Facebook, tôi không thể làm được việc gì khác ngoài việc viết cảm nhận về trường ca hơn 500 câu “Những người lính sinh viên” của anh.Tôi rất ít khi bình thơ, phải xúc động lắm mới viết.
Được biết anh nhập ngũ năm 1971, khi đang là sinh viên. Một người lính sinh viên, một nhà thơ lính. Một người trong số hơn 10.000 sinh viên các trường đại học của Hà Nội lên đường vào Nam chiến đấu từ năm 1970 đến năm 1972. Hơn một nửa đã hy sinh tại các mặt trận, nhưng nhiều hơn cả là hy sinh tại chiến dịch bảo vệ Thành cổ Quảng Trị những tháng ngày đỏ lửa.
Tôi gõ tên anh cùng tên bài trường ca của anh trong Google. Không thấy.Nghĩa là anh không nổi tiếng, thơ anh thuộc loại “chưa được xếp hạng” theo cách xếp hạng của giới tự phong cho mình là chuyên nghiệp.
Thơ về chiến tranh có hai giai đoạn. Giai đoạn trong chiến tranh và giai đoạn sau chiến tranh.
Thơ chiến tranh trong chiến tranh mang tính động viên ca ngợi với âm hưởng chủ đạo là cảm hứng sử thi. Phạm Tiến Duật: “Đường ra trận mùa này đẹp lắm!” hay Nam Hà “Chúng con chiến đấu cho Người sống mãi Việt Nam ơi!”.
Thời kì hậu chiến, khi đã có độ lùi của thời gian, bối cảnh xã hội và tâm thế sáng tạo cho phép người viết được tái hiện chiến tranh thiên về chất trữ tình triết lí, chiêm nghiệm. Cốt truyện không còn là điều quan trọng như trong trường ca truyền thống mà mang yếu tố tự sự nhiều hơn.
Trường ca Những người lính sinh viên nằm trong số đó.Tác giả không nhận mình là thi sĩ chuyên nghiệp:“Chúng tôi đi đánh giặc những tháng năm dài Phút khuây khỏaLàm thơ trên báng súng.Đời chẳng tĩnh Nên câu thơ quá động.Lục bát trèo Lên võng Đung đưa…”
Lục bát trèo lên võng đung đưa là thơ nó tự trèo lên người lính. Câu thơ thật hay, chuyên nghiệp chắc gì nghĩ ra.Thơ anh tự sự nhưng không phải tự sự của “tôi” mà là của “chúng tôi”, những người người lính có học mà anh gọi là lính sinh viên, từ ruột gan người lính.
Những vần thơ mộc mạc, tự nhiên như chính đời lính gian khổ, đói rét, hy sinh, ngời sáng tình đồng đội thiêng liêng cao thượng.
Nói về thế hệ mình, anh tự hào:
“Thế hệ chúng tôi ! Ai cũng dễ thương,Thơm thảo như hoa,Ngọt ngào như trái.Tình đồng đội lòng không cỏ dại, Nghĩa đồng bào – Bầu, Bí thương nhau.”
Anh nói về sự hy sinh của các chị các em các mẹ mà anh cho là cao cả hơn sự hy sinh của người đàn ông:
“Thế hệ chúng tôi phụ nữ muộn chồng Nhiều đứa quá thì nên cầm lòng vậy Đời con gái chín dần trong cây gậy Rụng xuống đường lọc cọc tiếng đơn côi.”
Chỉ người đàn ông đích thực mới nhìn thấy cái mất mát đáng sợ do chiến tranh mang lại cho người đàn bà:
“Con dâu nằm chung với mẹ chồng,Tay bó gối phòng lúc mình mê ngủ.Hai cái thiếu chẳng làm nên cái đủ.Dưới mái nghèo năm tháng vắng đàn ông.”
Hình ảnh chiếc võng được lính liên tưởng như vầng trăng khuyết, như con thuyền chở lòng căm thù giặc, như cánh cung mà mỗi người lính là một mũi tên. Người lính còn biết mơ mộng một ngày đỗ đạt vinh quy bái tổ ngồi trên võng. Thương quá những chàng sinh viên gác bút nghiên đi đánh giặc! Nói về sự lạc quan của người lính, khó ai có thể nói hay hơn:
“Chúng tôi cười Cười chật đất Cười chật sông Cười chật suối…”
Về cái đói của lính, anh cũng có cách nói rất độc đáo đồng thời lại rất thật:
“Không sợ giặc, không sợ đạn bom rơi,Cái sợ nhất lúc này là đói.Đói vàng mắt, Đói long đầu gối, Đói phạc phờ,Đói thừa cả chân tay…!Mà lạ chưa?Vào chính lúc này,Chúng tôi lại đánh lui quân giặc.”
Kết thúc chiến tranh, anh không quá say sưa chiến thắng mà nói về làng quê, về đời sống của người dân và đương nhiên là nói về mẹ:
“Bây giờ mắt mẹ đã mờ,Nhìn tôi bằng “ngón tay rờ” run run”
Câu thơ tuyệt hay. Cần gì phải nói bao năm chờ đợi mẹ khóc đến mù hai mắt, chỉ cần hình ảnh nhìn bằng tay là đủ lay động lòng người.Anh có một “nỗi buồn chiến tranh” giống mọi người:
“Bao cô gái Bao chàng trai Lứa tuổi đôi mươi Đã nằm xuống dưới bạt ngàn nấm mộ Những cái tên…ngày nào xanh nhãn vở Giờ xếp hàng Đỏ rực nghĩa trang.”
Không phải rất nhiều nấm mộ mà là chỉ một nấm mộ thôi nhưng bạt ngàn. Thơ đấy chứ đâu, nghệ thuật đấy chứ đâu nữa! Và một nỗi buồn rất khác. Các anh trở về với luống cày cây lúa. Thời trai trẻ đã qua đi, không được học hành như mơ ước. Trong thời đại công nghệ, tiến bộ khoa học kỹ thuật, các anh bị lạc hậu:
“Không thể đem việc đổi xạ – bóp cò,Làm công nghiệp trong thời mở cửa.Ta sẽ chẳng vượt qua đói khổ,Nếu chân mình còn nặng đế cao su!”
Đau hơn cả là cái tương lai tươi sáng mà vì nó các anh đã chiến đấu hy sinh vẫn còn xa chưa đến:
“Ta đã qua dài rộng rừng sâu,Chân đã thuộc những nẻo đường ngang dọc,Mà bây giờ trước đồng, trước ruộng Sao ta đi, đi mãi… chẳng đến bờ? Vẫn chỉ là muôn thuở: Đói hay No? Mà lăn lóc cả đời với đất Từ mặt trận, mang Cái còn – Cái mấtTrở về làng đánh đổi Cái có – Cái không…
*
Tôi bỏ cả ăn sáng, viết cho xong bài này.Hãy cho tôi một lần được làm người bình thơ, hãy cho tôi thắp nén tâm nhang cho anh, người lính thơ, nhà thơ lính.Có thể anh không có danh xưng nhà thơ (tôi không rõ lắm) nhưng anh là nhà thơ trang trọng trong tôi, trong những người bình thường và những người yêu thơ.Chúng ta căm ghét chiến tranh, chúng ta mong con cháu mình không bao giờ phải cầm súng, không muốn rồi sẽ có những người lính sinh viên như anh. Nhưng để mong muốn đó thành hiện thực, chúng ta phải trân quý những người như anh – người lính vô danh, nhà thơ thầm lặng! Bài thơ rất dài nhưng tôi khuyên bạn nên đọc
KHOẢNG TRỜI NGƯỜI LÍNH
Chương 1 :
KHÚC DẠO ĐẦU
Thế hệ chúng tôi!
Chưa kịp lớn lên,
Bom đạn Mỹ xé rách trời, nát đất.
Vừa buông nách đứa em bé nhất,
Trên đầu mình,
Già dặn khoảng trời xanh.
Thế hệ chúng tôi-
Thế hệ chiến tranh.
Hoa lau trắng những ngày tiễn biệt
Người lên đường –
Đất Nước là Tiền tuyến
Người ở nhà
– Tổ quốc hóa Hậu phương
Thế hệ chúng tôi !
Ai cũng dễ thương,
Thơm thảo như hoa,
Ngọt ngào như trái.
Tình đồng đội lòng không cỏ dại,
Nghĩa đồng bào
– Bầu, Bí thương nhau.
Thế hệ chúng tôi con gái cũng “mày râu”
Chẻ lạt lợp nhà, đốn cây, bổ củi
Đêm trăng lên nhoi nhói câu thầm hỏi:
– Mình đàn bà sao bóng tựa đàn ông?
Thế hệ chúng tôi phụ nữ muộn chồng
Nhiều đứa quá thì nên cầm lòng vậy
Đời con gái chín dần trong cây gậy
Rụng xuống đường lọc cọc tiếng đơn côi.
Thế hệ chúng tôi…
Meo mốc bình vôi,
Mùa cau lại vàng,
Mùa trầu lại đỏ,
Mẹ cần chổi gom những mùa lá đổ,
Đợi con về …
Run rẩy quét thời gian.
Ngôn ngữ Tình Yêut
hời của chúng tôi:
Một đôi chim bay trên áo gối,
Một bông hồng thả hương bối rối,
Một khoảng tròn quanh những chiếc khung thêu.
Thế là thương
Là nhớ
Là yêu
Là gánh vác việc nhà người ra trận.
Dẫu không hóa làm thân Núi Vọng,
Cũng một đời chín đợi, mười trông.
Đêm.Con dâu nằm chung với mẹ chồng,
Tay bó gối phòng lúc mình mê ngủ.
Hai cái thiếu chẳng làm nên cái đủ.
Dưới mái nghèo năm tháng vắng đàn ông.
Thệ hệ chúng tôi,
Ra ngõ gặp Anh hùng.
Đâu cũng thấy hy sinh cho Tổ quốc.
Người trước ngã,
Người sau không bỏ cuộc.
Trận đánh này,Phải TOÀN THẮNG ngày mai …
Ngày mai
Ngày mai
Ngày mai…
Có thể là gần
Có thể xa vời vợi…
Sẽ chẳng tới nếu ta ngồi chờ đợi.
Chỉ con đường duy nhất phải vượt lên !
Dù ngày mai sẽ chẳng vẹn nguyên,
Những cô gái, chàng trai tuổi xuân hơ hớ.
Dù ngày mai sẽ bạt ngàn nấm mộ.
Những con người của thế hệ chúng tôi.
Mặc gian nan!
Mặc đạn bom rơi!
Đích phải đến là TỰ DO – ĐỘC LẬP.
Là Đất Nước sạch bóng quân xâm lược.
Là Bắc – Nam sum họp một nhà.
Mẹ sẽ vui
Ngày mai .Khải hoàn ca !
Chúng con hát dọc đường về thăm mẹ.
Ta tưng bừng,Ta thương người lặng lẽ.
Bởi Mất – Còn,
Cũng đến một ngày mai…
Chương hai:
KHOẢNG TRỜI NGƯỜI LÍNH
1- ĐƯỜNG VÀO
Đêm đầu tiên, Ngủ giữa rừng cây Chúng tôi níu rừng vào hai đầu cánh võng.Chống chếnh thế, Những ngôi nhà của Lính,Gió hướng nào thổi đến cũng thông thênh.Khoảng trời vuông trên mỗi “mái tăng” Không che được hạt mưa xiên xối xả.Đêm đầu tiên nên ai cũng lạ,Giấc ngủ chập chờn như lá rừng rơi …Anh lính gác hết đứng lại ngồi, Nghe tí tách mưa rơi trên áo bạt;Cách dăm nhà có ai khe khẽ hát. Đêm bỗng òa…Một thoáng nhớ xôn xao …Lại đằng kia có tiếng rít thuốc lào, Đêm vo lại, đỏ lừ mắt điếu.Ước gì có chiếc Hồ lô Kì diệu, Hút Đêm vào cho Lính khỏi chờ lâu…Đêm không ngủ. Là đêm rất sâu, Lính hóm hỉnh nghĩ ra đủ chuyện. Đứa thì bảo,Võng như hình trăng khuyết Treo giữa rừng và thức với ngàn cây.Đứa thì bảo, Võng như con thuyền đầy, Chở hờn căm trên dòng sông cạn.Dòng sông ấy là Đường ra Mặt trận. Bao Con Thuyền mải miết vượt bằng chân…Đứa lại nói Võng như cánh cung.Đêm để ngửa, bình minh lên sẽ “úp” Còn Người Lính là mũi tên vun vút, Phút bình minh là lao thẳng ngực thù! Có đứa láu lỉnh đến lạ chưa? Bảo, Mái Tăng giống như chiếc lọng, Lính xếp bằng ngồi trên cánh võng,Chẳng khác gì Quan Trạng ngày xưa.Thì, bây giờ nào có kém chi Khoa Đánh giặc,đậu nhiều Dũng sĩ. Ngày bái tổ, Ngày Ta thắng Mỹ, Dũng sĩ về còn hơn Trạng vinh qui… Đêm va vào xoong chảo đằng kia Vỡ từng tiếng.Lanh canh trên bếp lửa…Chúng tôi hiểu, Bình Minh về gọi cửa, Chỉ tích tắc thôi, Nhà Lính dỡ xong rồi. Chúng tôi lại đi…Náo nức những dòng người. Bình tông nước nối hai đầu Binh trạm. Nắm cơm vắt tòng teng trên lưng bạn, Biết độ đường còn mấy “đoạn dao quăng”. Gửi Đại Ngàn, những đêm phía sau.Phía Nỗi nhớ cứ dài vào vô tận. Bao gương mặt cỏ cây chưa kịp nhận. Đã vội ào đi trước lúc trời hừng. Để lại những địa danh – Khắc lên cây rừng.Những dấu thời gian còn tươi roi rói.Hàng Lốc lịch treo trên lưng chừng núi. Dọc đường vào Năm tháng cũng vào theo .
2. TÂN BINH
Thắc thỏm quá. Trận đánh đầu tiên.Những tân binh chưa thạo bắn.Giặc tràn lên sọc sằn như đàn rắn. Chúng tôi rợn người! Nhắm mắt! Ngồi im…! Bên chiến hào, người Lính Cựu thản nhiên. Anh thủ thỉ,” Lần đầu, ai chả thế!” Nói cho biết,” Tớ chẳng bằng Cánh Trẻ.Còn tệ hơn. Tè cả ra quần!…” Tôi thoáng nhìn, những cựu quân nhân.Gương mặt các anh như tạc bằng đá núi. Nét phong trần, làn da xẩm lại.Trước chúng tôi. Các anh hóa thiên thần! Bọn giặc ào lên! Mỗi lúc một gần.Lệnh phát hỏa! Chúng tôi ào ào bắn! Những viên đạn xả nòng không cần ngắm …Phía bên nào cũng có tiếng rên la …Nghe gằn đầy âm thanh AK Mà trận đánh tưởng chừng còn rất dữ … Mãi sau này chúng tôi mới rõ, Cánh tân binh,đã bắn phứa lên trời. Rồi trận đánh nào cũng kết thúc thôi. Chỉ huy bảo:“ Chúng ta đã thắng…”Bãi chiến trường ngổn ngang xác giặc.Ta cũng nhiều chiến sĩ hy sinh Chúng tôi đi tìm Đồng đội của mình. Lóng ngóng quá, Những vòng tay ôm bạn. Người Lính Cựu đã dạn dày bom đạn, Bế đứa này… Rồi bồng đứa kia …Chàng lính ví mình như Quan Trạng xưa, Một trận thôi đã thành liệt sĩ. Ngày trở về, Ngày Ta thắng Mỹ Anh chẳng thể làm “Trạng vinh qui” Trước mộ các anh,chúng tôi lặng đi. Nhớ chuyện hôm xưa làm ai cũng khóc…Hoàng hôn xuống. Đỏ mọng từng con mắt. Đêm nặng đè lên mỗi “cánh cung”
3. TIẾNG CƯỜI CỦA LÍNH
Cuộc đời lính.Đạn trước mặt.Bom trên đầu.Mìn vùi dưới đất …Sống và chết đo bằng gang tấc.Thắng và thua đọ ở sức người. Có phải thế? Ch&u
Năm 1988, tôi đến CIANO thăm nơi làm việc của nhà khoa học xanh Norman Borlaug nhà nhân đạo người Mỹ đã ‘cứu sống nhiều người hơn bất cứ ai khác trong lịch sử’ và thăm nơi lưu dấu di sản Ernest Hemingway, tác giả của kiệt tác Ông già và biển cả là bài học tự do sáng tạo sống giữa thiên nhiên. Tôi mang theo suốt đời ấn tượng sâu sắc với Borlaug và Hemingway. Tôi chỉ mới chép đôi điều về họ trên Wikipedia Tiếng Việt, nay lưu điểm nhấn này để thỉnh thoảng quay lại chiêm nghiệm sâu hơn về di sản của hai người thầy kỳ dị và bạn lớn này.
Thầy Norman Borlaug là nhà nhân đạo, nhà nông học Mỹ, cha đẻ của cuộc cách mạng xanh được tặng giải Nobel và Tổng thống Mỹ trao tặng huân chương cao quý nhất của nước Mỹ, thế giới tôn vinh là nhà bác học số một của nhân loại trong cuộc chiến chống nghèo đói. Thầy đã suốt đời nghiên cứu giảng dạy về chọn tạo và phát triển cây lương thực, góp phần cải thiện đời sống và nâng cao thu nhập cho hàng trăm triệu nông dân nghèo ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ Latinh. Thầy là người sáng lập Giải thưởng Lương thực Thế giới và tổ chức nhiều hoạt động thiết thực thắp sáng niềm tin yêu cuộc sống. Tôi được Thầy ghé thăm gần trọn buổi chiều tại phòng riêng ở CIMMYT, Mexico ngày 29 tháng 8 (âm lịch) năm 1988. Thầy đã đi một mình ghé thăm người trò nhỏ duy nhất của châu Á trong lớp học “Quản lý Trung tâm/ Trạm trại Nông nghiệp”. Khi Thầy đến, tôi đang thắp nến trên giá sách trong phòng đề tưởng nhớ ngày mất của cha tôi. Biết cha tôi bị bom Mỹ giết hại tại làng nhỏ ở Quảng Bình của buổi chiều này hai mươi năm trước (1968) lúc tôi còn là học sinh trung học của Trường cấp Ba Bắc Quảng Trạch. Thầy bối rối xin lỗi và thật bất ngờ tôi đã có được một buổi chiều vô giá riêng tư bên Thầy. Điều này tôi đã kể tại bài viết “Thầy bạn là lộc xuân cuộc đời” đăng ở kỷ yếu Khoa Nông học Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh năm 2010 và bảo tồn trên trang Thầy bạn là lộc xuân
Norman Borlaug nhà khoa học xanh, lời Thầy dặn thật thấm thía “Đời người tối thiểu phải ăn, kế đến là học tập, công việc, nhà ở, quần áo và chăm sóc sức khỏe. Quanh ta còn nhiều mảnh đời bất hạnh. Hiểm họa nghèo đói vẫn bùng phát bất cứ lúc nào. Hãy luôn nhớ điều đó”; “Hãy vươn tới những vì sao. Cho dù không chạm được vào nó, nhưng nếu cố gắng hết sức, ít ra, chúng ta cũng chạm được những hạt bụi của ngôi sao”; “Việc chính đời người chỉ ít thôi. Chuyên tâm đừng bận chuyện trời ơi. Phúc hậu suốt đời làm việc thiện. Di sản muôn năm mãi sáng ngời”
Đời người có những dịp may kỳ lạ khó cắt nghĩa, Tôi đã lưu lại câu chuyện Giấc mơ thiêng cùng Goethe.kể về duyên may từ một cậu bé chân đất làng Minh Lệ có cơ hội học Goethe ở châu Âu và được đàm đạo với Thầy Norman Borlaug khai tâm đường vào khoa học. Noi gương Goethe, Borlaug dạy học, viết sử thi về đất nước con người văn hóa giáo dục Việt Nam, Cây Lương thực Việt Nam khoa học cây trồng, lĩnh vực am hiểu sâu của chính mình
GIẤC MƠ THIÊNG CÙNG GOETHE
Người già kể chuyện sử thi
ở Kalovi Vary, Roma, Oregon
Thắp lên trong tôi ngọn lửa Hoàng Kim
“Mọi lý thuyết đều là màu xám, chỉ có cây đời mãi mãi xanh tươi”
Goethe trao tặng cho tôi
Ngọc minh triết của Người.
Người hóa thân
trong thanh thản
bóng cây xanh
Người đàm đạo
với Norman Borlaug
và cậu học trò nghèo
Về ý tưởng xanh
Con đường xanh
Hành trình xanh
Sự nghiệp xanh
Nhà khoa học xanh
và giấc mơ hạnh phúc
Goethe là vòm cây xanh Goethe cũng là lão nông
ngồi cùng chúng ta
chuyện trò
trên cánh đồng xanh
hạnh phúc.
Goethe và Norman Borlaug
là những trí tuệ bậc Thầy.
Họ không màng hư vình
mà hướng tới đỉnh cao hòa bình
sự an lành tiến bộ.
Anh và em cùng Goethe
Ở FAO, Rome, Italy Người hóa thân
thành nữ thần Tình Yêu
Trời xanh tuyệt vời !
Trời nhân loại mênh mông !
Ernest HemingwayÔng già và biển cả, sinh ngày 21 tháng 7 năm 1899, mất ngày 2 tháng 7 năm 1961, là một tiểu thuyết gia người Mỹ, một nhà văn viết truyện ngắn, và là một nhà báo. Ông là một người xa xứ Paris và một cựu quân nhân. Ông đã nhận được Giải Nobel Văn học năm 1954 và Giải Pulitzer năm 1953 với tiểu thuyết Ông già và biển cả. Ngày 21 tháng 10 là ngày ông đã phát hành lần đầu cuốn tiểu thuyết kiệt tác Chuông nguyện hồn ai.
Ngôi nhà nơi Hemingway sinh ra tại Oak Park, Illinois là nơi lưu dấu tuổi thơ dữ dội của ông nay là chứng tích nơi Hemingway viết những kiệt tác Giã từ vũ khí, Chuông nguyện hồn ai. Ông già và biển cả. Hemingway là một người lính đã đi qua hai cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất và thứ hai ở những chiến trường và thời điểm khốc liệt nhất, ông có có một cuộc đời giàu trãi nghiệm nên kịp trao lại cho đời một di sản văn chương đồ sộ
Hemingway sinh tại Oak Park, Illinois, một vùng ngoại ô của Chicago, Mỹ. Hemingway lúc ở tuổi mười tám đã bắt đầu sự nghiệp viết văn của mình với tư cách là một phóng viên cho báo The Kansas City Star. Tờ báo này đã ghi danh ông là phóng viên hàng đầu của báo trong một trăm năm qua,
Hemingway có phong cách văn chương nổi bật “Sử dụng những câu văn ngắn. Sử dụng những đoạn mở đầu ngắn. Sử dụng thứ tiếng Anh hùng hồn. Phải khẳng định, không phủ nhận” (“Use short sentences. Use short first paragraphs. Use vigorous English. Be positive, not negative.”). Lối văn ấy, sau này tôi nghiệm thấy, người đã học và dùng thật khéo, thật giỏi và thật nhuyễn lối phong cách văn chương độc đáo ấy là tổng thống Mỹ Trump (cho dù ông có nhìn nhận điều ấy hay không.
Hemingway ngừng làm phóng viên chỉ sau đó một vài tháng và tình nguyện gia nhập Quân đội Mỹ vào hàng ngũ quân y sang chiến đấu ờ Pháp và Italia. Ông bị thương khi đang lái xe chuyển thương binh và được huân chương từ chính phủ Ý. Sau chiến tranh thế giới thứ nhất ông trở về Mỹ lấy vợ là Hadley Richardson và sống một cuộc đời nghèo túng ở quê. Từ năm 1921 gia đình ông định cư ở Pari Pháp. Sau nhiều thành công với tư cách là thông tín viên nước ngoài, Hemingway trở lại Toronto, Canada năm 1923. ông có người con trai đầu tên là Jack. Hemingway. Ông chia tay người vợ đầu năm 1927 và cưới Pauline Pfeiffer, một phóng viên thời trang không thường xuyên, người sùng đạo Thiên Chúa đến từ Piggott, Arkansas. Họ có với nhau hai người con năm 1928 và 1930.
Hemingway năm 1929 viết tác phẩm “Giả từ vũ khí” thành công nên thu nhập sau đò khá hơn. Năm 1931 Hemingway quay về Key West, Florida và sống ở đó đến năm 1940 ông thường đi câu cá và nhiều lần sang Tây Ban Nha để tìm tư liệu và đi săn ở châu Phi để lấy cảm hứng viết văn ở Mombasa, Nairobi Machakos tại Kenya, Tanganyika. Serengeti, quanh Hồ Manyara và vùng phía tây và đông nam của Công viên Quốc gia Tarangire ngày nay. Hemingway đã bị bệnh trong chuyến đi này. Sự sa sút sức khỏe và tình hình gia đình xã hội chính trị tôn giáo luôn không thể dung hòa đã làm ông kiệt sức. Bố Hemingway nghèo khó quản bách tài chính phải tự sát. Ông đã viết ‘Chuông nguyện hồn ai ‘ năm 1940 trong hoàn cảnh đó.
Hemingway là mẫu mực kinh điển trong văn học Mỹ với đặc trưng văn chương chuẩn mực, kiệm lời, sáng tạo, khắc họa vĩnh cữu những từ chìa khóa (Key words). Hemingway là một người theo chủ nghĩa khắc kỷ (stoicism), vui lòng chịu sức ép (grace under pressure), thuận theo tự nhiên và nghịch cảnh. Ông là một cựu quân nhân trãi gần trọn đời trong chiến tranh và nghèo đói, nên ông đã mô tả người như ông là “Thế hệ bỏ đi” (Lost Generation) của cộng đồng người Paris xa xứ.
Điều thú vị là tôi thật nhiều năm hiểu nhưng chưa tìm được một lối diễn đạt nào để mô tả phong cách Hemingway trong bản lĩnh người lính khi phải bộc lộ sự thật quan điểm lính của mình đối mặt với một quyết định sinh tử để không bị lợi dụng cho một mưu đồ chính trị trái lòng mình. Hemingway tôn trọng Cu Ba không đồng tình chiến tranh lạnh..Cho đến khị tôi tình cờ đọc được một đoản văn ngắn của Lưu Huy Chiêm một người bạn nghề thủy lợi, nghiệp nhà văn đã nói về Hemingway đúng tính cách ông ấy, của “Thế hệ bỏ đi”. Nguyên văn đoạn văn ấy như sau:
LÒNG TỰ TRỌNG CAO QUÍ. Chiêm Lưu Huy Năm 1953, Stalin chết. Nikita Khrushchev (1894 – 1971) lên cầm quyền Liên bang xô viết. Ông quyết định cải tổ. Việc đầu tiên trong quan hệ ngoại giao, ông chọn cách bắt tay chung sống và thi đua hòa bình với cường quốc thù địch ý thức hệ Hoa kỳ. Chuyến thăm chính thức có hàng tấn thông tin từ cả hai phía, đầy ắp sự kiện. Bài viết này chỉ chú ý đến chi tiết nhỏ nhặt gần như bị lãng quên. Nikita khrushchev mang theo nhà văn Nga – Mikhail Aleksandrovich Solokhov (1905 -1984). Nikita ngầm cho người Mỹ hiểu rằng văn hóa Liên xô yêu chuộng hòa bình, lên án chiến tranh mà Sông Đông êm đềm của Solokhov đại diện làm sứ giả – Sứ giả Hòa bình!
Đáp lễ, chuẩn bị cho chuyến thăm chính thức Liên bang cộng hòa xã hội chủ nghĩa xô viết, Tổng thống Hoa kỳ Dwight F Eisenhower (1890 -1969) muốn có tác giả lừng danh thiên hạ với tác phẩm Ông già và biển cả, được viết ở Cu Ba (cánh tay nối dài của Liên xô ở ngay sát nách Mỹ!) là Ernest Hemingway (1899 – 1961) tháp tùng. Bất ngờ, nhận được lời mời, Ernest Hemingway mỉm cười nói: Tại sao Ernest Hemingway lại phải tháp tùng Dwight F. Eisenhower. Lẽ ra ông ấy phải tháp tùng tôi chứ !? Và, dĩ nhiên Ernest từ chối thẳng thừng một cơ hội ngàn vàng, ngàn năm mong đợi của không ít người!?
3 – Không ai biết có 1001 lý do từ chối, nhưng chắc chắn có một cái gì… như là lòng tự trọng cao quý của Người Văn…!
Đây là chân dung Người Văn có lòng tự trọng cao quý mà tôi hiến tặng các bạn, trong đó có Tình Yêu Của Tôi…
Tôi dự tiệc cưới con một người bạn lính thuộc Lớp thanh niên xếp bút nghiên lên đường chiến đấu và trở về trường học sau chiến tranh. Thế hệ của chúng tôi cũng trãi gần trọn đời trong cuộc chiến chống lại giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm, cùng những biến thái của điều này sau chiến tranh, theo cách nói Hemingway là “Thế hệ bỏ đi” (Lost Generation) vì thế hệ chúng tôi Hemingway văn chương ông dường như có sự đồng cảm và thấu hiểu tâm trạng.
Chúng tôi cũng là quân nhân, cũng là người xa xứ ‘cuốn theo chiều gió’, cũng sống thuận theo tự nhiên và nghịch cảnh, cũng vui lòng chịu sức ép. Đọc “Những người lính sinh viện” của Lê Anh Quốc FB Phan Chi dưới đây, đã nói lên thật đúng và thật đồng cảm kỳ lạ tâm trạng chúng tôi , và cũng thật sâu sắc khi đối thoại thầm lặng với tác giả của kiệt tác “Giã từ vũ khí”:
“Những người lính có bao giờ định liệu Cái giá mình trước Tổ Quốc, Nhân Dân! “Vì Nhân Dân quên mình! Vì Nhân Dân hy sinh!” Lẽ sống ấy làm nên Nhân cách Lính.Ngay cả khi mình không mang quân phục, Nhưng Lính thì chẳng lẫn với ai đâu? Không biết người ta sống mai sau, Có đời hơn thời chúng tôi đang sống? Rồi đến lúc phải quên đi tiếng súng, Ta vẫn tin! Đồng đội chẳng quên nhau! Nhân Dân mình sống có trước có sau. Cứ nhìn những Nghĩa trang, những Tượng đài thì biết. Và cả những Tượng đài thơm hương tha thiết, Cho người sống,Cho người còn mà chết tuổi thanh xuân. Nếu Cuộc đời biết vì Nhân Dân Thì Nhân Dân cũng vì ta năm tháng. Như mặt trời cho cỏ cây nguồn sáng, Cỏ cây nào chẳng cho đất những mùa hoa? Bom đạn tạnh đi rồi Chiến tranh đã lùi xa! Cuộc sống mới bảo chúng tôi đổi mới!”
Tôi học Norman, noi theo Norman bởi những lời Thầy dặn tôi mãi mãi làm người Thầy nhà nông chiến sĩ, đã khai tâm cho tôi làm thay đổi chính cuộc đời mình, nhưng tôi thật thích Hemingway về văn chương kiệm lời trong như ngọc chắt lọc từ khóa (key word) Ông già và biển cả; Giả từ vũ khí; Chuông nguyện hồn ai; “Sử dụng những câu văn ngắn. Sử dụng những đoạn mở đầu ngắn. Sử dụng thứ tiếng Anh hùng hồn. Phải khẳng định, không phủ nhận”; “Thế hệ bỏ đi” Hemingway với những tác phẩm để đời và các câu văn ngắn gây ám ảnh và ấn tượng đặc biệt sâu sắc trong lòng tôi.và say mê đến kỳ lạ của ông ham thích tự do. Đó là đại dương khát vọng “Ông già và biển cả” khai mở tự do tâm thức tình yêu cuộc sống. Tôi cũng vẫn thường quay lại với Nguyễn Khải, với các tác phẩm văn chương ưng ý mà Nguyễn Khải đã trao lại ngọc cho đời và những lời thương nhớ Nguyễn Khải của các bạn văn, người đọc viết về Nguyễn Khải để tìm câu giải thích cho điều tâm đắc ông viết: “Trên cuộc đời không có bước đường cùng, chỉ có những ranh giới, điều cốt yếu là phải vượt qua được những ranh giới ấy”. “Tôi viết vậy thì tôi tồn tại ! Viết văn không chỉ do nhu cầu kiếm sống, viết văn cũng không chỉ do những bức xúc khôn khuây của cá nhân, mà viết còn là mong muốn được trao trở về với cái vô hạn”.
Thoáng chốc tháng năm nhìn trở lại
An nhiên chào ngày mới yêu thương.
Đi qua chiến tranh mừng hạnh phúc
Bạn học chung mâm nhớ lớp trường.
Borlaug và Hemingway là câu chuyện thú vị làm vui cả ngày
Hoàng Kim
Xem thêm
Đọc NHỮNG NGƯỜI LÍNH SINH VIÊN của Lê Anh Quốc
FB Phan Chi
Tôi hoàn toàn không quen biết người lính Lê Anh Quốc, càng không biết có nhà thơ tên là Lê Anh Quốc. Vô tình đọc được thơ anh trên Facebook, tôi không thể làm được việc gì khác ngoài việc viết cảm nhận về trường ca hơn 500 câu “Những người lính sinh viên” của anh.Tôi rất ít khi bình thơ, phải xúc động lắm mới viết.
Được biết anh nhập ngũ năm 1971, khi đang là sinh viên. Một người lính sinh viên, một nhà thơ lính. Một người trong số hơn 10.000 sinh viên các trường đại học của Hà Nội lên đường vào Nam chiến đấu từ năm 1970 đến năm 1972. Hơn một nửa đã hy sinh tại các mặt trận, nhưng nhiều hơn cả là hy sinh tại chiến dịch bảo vệ Thành cổ Quảng Trị những tháng ngày đỏ lửa.
Tôi gõ tên anh cùng tên bài trường ca của anh trong Google. Không thấy.Nghĩa là anh không nổi tiếng, thơ anh thuộc loại “chưa được xếp hạng” theo cách xếp hạng của giới tự phong cho mình là chuyên nghiệp.
Thơ về chiến tranh có hai giai đoạn. Giai đoạn trong chiến tranh và giai đoạn sau chiến tranh.
Thơ chiến tranh trong chiến tranh mang tính động viên ca ngợi với âm hưởng chủ đạo là cảm hứng sử thi. Phạm Tiến Duật: “Đường ra trận mùa này đẹp lắm!” hay Nam Hà “Chúng con chiến đấu cho Người sống mãi Việt Nam ơi!”.
Thời kì hậu chiến, khi đã có độ lùi của thời gian, bối cảnh xã hội và tâm thế sáng tạo cho phép người viết được tái hiện chiến tranh thiên về chất trữ tình triết lí, chiêm nghiệm. Cốt truyện không còn là điều quan trọng như trong trường ca truyền thống mà mang yếu tố tự sự nhiều hơn.
Trường ca Những người lính sinh viên nằm trong số đó.Tác giả không nhận mình là thi sĩ chuyên nghiệp:“Chúng tôi đi đánh giặc những tháng năm dài Phút khuây khỏaLàm thơ trên báng súng.Đời chẳng tĩnh Nên câu thơ quá động.Lục bát trèo Lên võng Đung đưa…”
Lục bát trèo lên võng đung đưa là thơ nó tự trèo lên người lính. Câu thơ thật hay, chuyên nghiệp chắc gì nghĩ ra.Thơ anh tự sự nhưng không phải tự sự của “tôi” mà là của “chúng tôi”, những người người lính có học mà anh gọi là lính sinh viên, từ ruột gan người lính.
Những vần thơ mộc mạc, tự nhiên như chính đời lính gian khổ, đói rét, hy sinh, ngời sáng tình đồng đội thiêng liêng cao thượng.
Nói về thế hệ mình, anh tự hào:
“Thế hệ chúng tôi ! Ai cũng dễ thương,Thơm thảo như hoa,Ngọt ngào như trái.Tình đồng đội lòng không cỏ dại, Nghĩa đồng bào – Bầu, Bí thương nhau.”
Anh nói về sự hy sinh của các chị các em các mẹ mà anh cho là cao cả hơn sự hy sinh của người đàn ông:
“Thế hệ chúng tôi phụ nữ muộn chồng Nhiều đứa quá thì nên cầm lòng vậy Đời con gái chín dần trong cây gậy Rụng xuống đường lọc cọc tiếng đơn côi.”
Chỉ người đàn ông đích thực mới nhìn thấy cái mất mát đáng sợ do chiến tranh mang lại cho người đàn bà:
“Con dâu nằm chung với mẹ chồng,Tay bó gối phòng lúc mình mê ngủ.Hai cái thiếu chẳng làm nên cái đủ.Dưới mái nghèo năm tháng vắng đàn ông.”
Hình ảnh chiếc võng được lính liên tưởng như vầng trăng khuyết, như con thuyền chở lòng căm thù giặc, như cánh cung mà mỗi người lính là một mũi tên. Người lính còn biết mơ mộng một ngày đỗ đạt vinh quy bái tổ ngồi trên võng. Thương quá những chàng sinh viên gác bút nghiên đi đánh giặc! Nói về sự lạc quan của người lính, khó ai có thể nói hay hơn:
“Chúng tôi cười Cười chật đất Cười chật sông Cười chật suối…”
Về cái đói của lính, anh cũng có cách nói rất độc đáo đồng thời lại rất thật:
“Không sợ giặc, không sợ đạn bom rơi,Cái sợ nhất lúc này là đói.Đói vàng mắt, Đói long đầu gối, Đói phạc phờ,Đói thừa cả chân tay…!Mà lạ chưa?Vào chính lúc này,Chúng tôi lại đánh lui quân giặc.”
Kết thúc chiến tranh, anh không quá say sưa chiến thắng mà nói về làng quê, về đời sống của người dân và đương nhiên là nói về mẹ:
“Bây giờ mắt mẹ đã mờ,Nhìn tôi bằng “ngón tay rờ” run run”
Câu thơ tuyệt hay. Cần gì phải nói bao năm chờ đợi mẹ khóc đến mù hai mắt, chỉ cần hình ảnh nhìn bằng tay là đủ lay động lòng người.Anh có một “nỗi buồn chiến tranh” giống mọi người:
“Bao cô gái Bao chàng trai Lứa tuổi đôi mươi Đã nằm xuống dưới bạt ngàn nấm mộ Những cái tên…ngày nào xanh nhãn vở Giờ xếp hàng Đỏ rực nghĩa trang.”
Không phải rất nhiều nấm mộ mà là chỉ một nấm mộ thôi nhưng bạt ngàn. Thơ đấy chứ đâu, nghệ thuật đấy chứ đâu nữa! Và một nỗi buồn rất khác. Các anh trở về với luống cày cây lúa. Thời trai trẻ đã qua đi, không được học hành như mơ ước. Trong thời đại công nghệ, tiến bộ khoa học kỹ thuật, các anh bị lạc hậu:
“Không thể đem việc đổi xạ – bóp cò,Làm công nghiệp trong thời mở cửa.Ta sẽ chẳng vượt qua đói khổ,Nếu chân mình còn nặng đế cao su!”
Đau hơn cả là cái tương lai tươi sáng mà vì nó các anh đã chiến đấu hy sinh vẫn còn xa chưa đến:
“Ta đã qua dài rộng rừng sâu,Chân đã thuộc những nẻo đường ngang dọc,Mà bây giờ trước đồng, trước ruộng Sao ta đi, đi mãi… chẳng đến bờ? Vẫn chỉ là muôn thuở: Đói hay No? Mà lăn lóc cả đời với đất Từ mặt trận, mang Cái còn – Cái mấtTrở về làng đánh đổi Cái có – Cái không…
*
Tôi bỏ cả ăn sáng, viết cho xong bài này.Hãy cho tôi một lần được làm người bình thơ, hãy cho tôi thắp nén tâm nhang cho anh, người lính thơ, nhà thơ lính.Có thể anh không có danh xưng nhà thơ (tôi không rõ lắm) nhưng anh là nhà thơ trang trọng trong tôi, trong những người bình thường và những người yêu thơ.Chúng ta căm ghét chiến tranh, chúng ta mong con cháu mình không bao giờ phải cầm súng, không muốn rồi sẽ có những người lính sinh viên như anh. Nhưng để mong muốn đó thành hiện thực, chúng ta phải trân quý những người như anh – người lính vô danh, nhà thơ thầm lặng! Bài thơ rất dài nhưng tôi khuyên bạn nên đọc
KHOẢNG TRỜI NGƯỜI LÍNH
Chương 1 :
KHÚC DẠO ĐẦU
Thế hệ chúng tôi!
Chưa kịp lớn lên,
Bom đạn Mỹ xé rách trời, nát đất.
Vừa buông nách đứa em bé nhất,
Trên đầu mình,
Già dặn khoảng trời xanh.
Thế hệ chúng tôi-
Thế hệ chiến tranh.
Hoa lau trắng những ngày tiễn biệt
Người lên đường –
Đất Nước là Tiền tuyến
Người ở nhà
– Tổ quốc hóa Hậu phương
Thế hệ chúng tôi !
Ai cũng dễ thương,
Thơm thảo như hoa,
Ngọt ngào như trái.
Tình đồng đội lòng không cỏ dại,
Nghĩa đồng bào
– Bầu, Bí thương nhau.
Thế hệ chúng tôi con gái cũng “mày râu”
Chẻ lạt lợp nhà, đốn cây, bổ củi
Đêm trăng lên nhoi nhói câu thầm hỏi:
– Mình đàn bà sao bóng tựa đàn ông?
Thế hệ chúng tôi phụ nữ muộn chồng
Nhiều đứa quá thì nên cầm lòng vậy
Đời con gái chín dần trong cây gậy
Rụng xuống đường lọc cọc tiếng đơn côi.
Thế hệ chúng tôi…
Meo mốc bình vôi,
Mùa cau lại vàng,
Mùa trầu lại đỏ,
Mẹ cần chổi gom những mùa lá đổ,
Đợi con về …
Run rẩy quét thời gian.
Ngôn ngữ Tình Yêut
hời của chúng tôi:
Một đôi chim bay trên áo gối,
Một bông hồng thả hương bối rối,
Một khoảng tròn quanh những chiếc khung thêu.
Thế là thương
Là nhớ
Là yêu
Là gánh vác việc nhà người ra trận.
Dẫu không hóa làm thân Núi Vọng,
Cũng một đời chín đợi, mười trông.
Đêm.Con dâu nằm chung với mẹ chồng,
Tay bó gối phòng lúc mình mê ngủ.
Hai cái thiếu chẳng làm nên cái đủ.
Dưới mái nghèo năm tháng vắng đàn ông.
Thệ hệ chúng tôi,
Ra ngõ gặp Anh hùng.
Đâu cũng thấy hy sinh cho Tổ quốc.
Người trước ngã,
Người sau không bỏ cuộc.
Trận đánh này,Phải TOÀN THẮNG ngày mai …
Ngày mai
Ngày mai
Ngày mai…
Có thể là gần
Có thể xa vời vợi…
Sẽ chẳng tới nếu ta ngồi chờ đợi.
Chỉ con đường duy nhất phải vượt lên !
Dù ngày mai sẽ chẳng vẹn nguyên,
Những cô gái, chàng trai tuổi xuân hơ hớ.
Dù ngày mai sẽ bạt ngàn nấm mộ.
Những con người của thế hệ chúng tôi.
Mặc gian nan!
Mặc đạn bom rơi!
Đích phải đến là TỰ DO – ĐỘC LẬP.
Là Đất Nước sạch bóng quân xâm lược.
Là Bắc – Nam sum họp một nhà.
Mẹ sẽ vui
Ngày mai .Khải hoàn ca !
Chúng con hát dọc đường về thăm mẹ.
Ta tưng bừng,Ta thương người lặng lẽ.
Bởi Mất – Còn,
Cũng đến một ngày mai…
Chương hai:
KHOẢNG TRỜI NGƯỜI LÍNH
1- ĐƯỜNG VÀO
Đêm đầu tiên, Ngủ giữa rừng cây Chúng tôi níu rừng vào hai đầu cánh võng.Chống chếnh thế, Những ngôi nhà của Lính,Gió hướng nào thổi đến cũng thông thênh.Khoảng trời vuông trên mỗi “mái tăng” Không che được hạt mưa xiên xối xả.Đêm đầu tiên nên ai cũng lạ,Giấc ngủ chập chờn như lá rừng rơi …Anh lính gác hết đứng lại ngồi, Nghe tí tách mưa rơi trên áo bạt;Cách dăm nhà có ai khe khẽ hát. Đêm bỗng òa…Một thoáng nhớ xôn xao …Lại đằng kia có tiếng rít thuốc lào, Đêm vo lại, đỏ lừ mắt điếu.Ước gì có chiếc Hồ lô Kì diệu, Hút Đêm vào cho Lính khỏi chờ lâu…Đêm không ngủ. Là đêm rất sâu, Lính hóm hỉnh nghĩ ra đủ chuyện. Đứa thì bảo,Võng như hình trăng khuyết Treo giữa rừng và thức với ngàn cây.Đứa thì bảo, Võng như con thuyền đầy, Chở hờn căm trên dòng sông cạn.Dòng sông ấy là Đường ra Mặt trận. Bao Con Thuyền mải miết vượt bằng chân…Đứa lại nói Võng như cánh cung.Đêm để ngửa, bình minh lên sẽ “úp” Còn Người Lính là mũi tên vun vút, Phút bình minh là lao thẳng ngực thù! Có đứa láu lỉnh đến lạ chưa? Bảo, Mái Tăng giống như chiếc lọng, Lính xếp bằng ngồi trên cánh võng,Chẳng khác gì Quan Trạng ngày xưa.Thì, bây giờ nào có kém chi Khoa Đánh giặc,đậu nhiều Dũng sĩ. Ngày bái tổ, Ngày Ta thắng Mỹ, Dũng sĩ về còn hơn Trạng vinh qui… Đêm va vào xoong chảo đằng kia Vỡ từng tiếng.Lanh canh trên bếp lửa…Chúng tôi hiểu, Bình Minh về gọi cửa, Chỉ tích tắc thôi, Nhà Lính dỡ xong rồi. Chúng tôi lại đi…Náo nức những dòng người. Bình tông nước nối hai đầu Binh trạm. Nắm cơm vắt tòng teng trên lưng bạn, Biết độ đường còn mấy “đoạn dao quăng”. Gửi Đại Ngàn, những đêm phía sau.Phía Nỗi nhớ cứ dài vào vô tận. Bao gương mặt cỏ cây chưa kịp nhận. Đã vội ào đi trước lúc trời hừng. Để lại những địa danh – Khắc lên cây rừng.Những dấu thời gian còn tươi roi rói.Hàng Lốc lịch treo trên lưng chừng núi. Dọc đường vào Năm tháng cũng vào theo .
2. TÂN BINH
Thắc thỏm quá. Trận đánh đầu tiên.Những tân binh chưa thạo bắn.Giặc tràn lên sọc sằn như đàn rắn. Chúng tôi rợn người! Nhắm mắt! Ngồi im…! Bên chiến hào, người Lính Cựu thản nhiên. Anh thủ thỉ,” Lần đầu, ai chả thế!” Nói cho biết,” Tớ chẳng bằng Cánh Trẻ.Còn tệ hơn. Tè cả ra quần!…” Tôi thoáng nhìn, những cựu quân nhân.Gương mặt các anh như tạc bằng đá núi. Nét phong trần, làn da xẩm lại.Trước chúng tôi. Các anh hóa thiên thần! Bọn giặc ào lên! Mỗi lúc một gần.Lệnh phát hỏa! Chúng tôi ào ào bắn! Những viên đạn xả nòng không cần ngắm …Phía bên nào cũng có tiếng rên la …Nghe gằn đầy âm thanh AK Mà trận đánh tưởng chừng còn rất dữ … Mãi sau này chúng tôi mới rõ, Cánh tân binh,đã bắn phứa lên trời. Rồi trận đánh nào cũng kết thúc thôi. Chỉ huy bảo:“ Chúng ta đã thắng…”Bãi chiến trường ngổn ngang xác giặc.Ta cũng nhiều chiến sĩ hy sinh Chúng tôi đi tìm Đồng đội của mình. Lóng ngóng quá, Những vòng tay ôm bạn. Người Lính Cựu đã dạn dày bom đạn, Bế đứa này… Rồi bồng đứa kia …Chàng lính ví mình như Quan Trạng xưa, Một trận thôi đã thành liệt sĩ. Ngày trở về, Ngày Ta thắng Mỹ Anh chẳng thể làm “Trạng vinh qui” Trước mộ các anh,chúng tôi lặng đi. Nhớ chuyện hôm xưa làm ai cũng khóc…Hoàng hôn xuống. Đỏ mọng từng con mắt. Đêm nặng đè lên mỗi “cánh cung”
3. TIẾNG CƯỜI CỦA LÍNH
Cuộc đời lính.Đạn trước mặt.Bom trên đầu.Mìn vùi dưới đất …Sống và chết đo bằng gang tấc.Thắng và thua đọ ở sức người. Có phải thế? Chúng tôi cười Cười chật đất Cười chật sông Cười chật suối…Đường ra trận nào ai tính tuổi ? Nên tiếng cười cứ lẫn cả vào nhau …Nếu gom được – Xin giữ cho mai sau. Phòng có giặc hãy phát làm vũ khí, Nếu còn sống nhớ mang về quê tớ, Những trận cười rừng rực sức trai …Những nụ cười hình hoa mơ, hoa mai Rụng trắng gốcvẫn khát ngày xây quả Những nụ cười thấm cả vào máu đổ Chôn dưới mồ vẫn cứ vút bay lên! Những nụ cười mang hình mũi tên Làm thế trận bủa vây quân giặc Những nụ cười nối phương Nam – Phương Bắc Cứ trùng trùng …Theo bước những đoàn quân Những nụ cười nuôi từ Lòng Dân Thành sức mạnh Kẻ thù nào thắng được? Những nụ cười của Bốn ngàn năm Dựng nước.Hóa thành đồng Muôn thuở Việt Nam ơi! Những nụ cười làm khô giọt lệ rơi.Ngày TOÀN THẮNG nếu con không về nữa Mẹ lắng nghe trong từng làn gió Có tiếng cười của đứa con yêu …
4. THI SĨ
Chúng tôi đi đánh giặc những tháng năm dài Phút khuây khỏa Làm thơ trên báng súng.Đời chẳng tĩnh Nên câu thơ quá động.Lục bát trèo Lên võng Đung đưa…Có phải vì quen với nắng mưa Nên câu thơ biết xòe ô cho bạn? Có phải quanh mình ùng oàng bom đạn, Nên trong thơ khao khát một nụ hồng! Có phải vì thương,vì nhớ cháy lòng Nên lửa cứ bập bùng nơi ta viết? Có phải vì anh yêu da diết Nên bài nào cũng nói về em? Chẳng tài đâu! Làm mãi rồi quen Như đánh giặc lâu ngày thành lính cựu.Trước cuộc sống Bao cái Hùng tề tựu Dẫu chẳng là Thi Sĩ …Cũng Thơ! Ẫy là nói những đứa ngu ngơ Chứ thế hệ thì thiếu gì đứa giỏi.Đánh giặc cừ Làm thơ cũng sõi, Dũng Sĩ và Thi Sĩ rất xứng danh. Đêm bồi hồi bên cánh rừng xanh Náo nức quá! Nghe Chương trình văn nghệ“ Thơ Chiến sĩ ”? Sao nhạc buồn đến thế? Lính nhớ nhà…càng nhớ nhà hơn! Ơi!Tiếng đàn bầu Nỉ non Nỉ non…Đem thân phận thả vào đêm chiến trận Này Cung Nhớ! Này Cung Thương! Này Cung Hờn! Này Cung Hận! Hỏi cung nào Người Lính chẳng từng qua ???
5. ĐÓI
Trận đánh này. Chúng tôi giữ điểm cao,Quần cả tháng, lương ăn không còn nữa! Giặc vây chốt đông như đàn kiến lửa Phía chúng tôi … Còn lại mấy đứa thôi.Không sợ giặc, không sợ đạn bom rơi, Cái sợ nhất lúc này là đói. Đói vàng mắt, Đói long đầu gối, Đói phạc phờ, Đói thừa cả chân tay…! Mà lạ chưa?Vào chính lúc này, Chúng tôi lại đánh lui quân giặc. Có lẽ vì chẳng cách nào khác được! Có lẽ vì… Còn – Mất đó thôi…Phía chân đồi, giặc đã rút rồi. Cái Đói lại xông lên ngợp chốt. Không thể bắn, Và cũng không thể giết Muốn cầm hòa…Cái Đói Chẳng buông tha ! Đồng đội tôi gục xuống giữa chiều tà… Gạo vừa tới, cơm còn đang nấu dở Boong canh rừng lục bục sôi trên lửa Bạn đi rồi… Chẳng kip bữa cơm no ! Ôm xác bạn chúng tôi khóc hu hu! Người đói chết trên tay người đói lả Chôn bạn xong… Đói tràn lên cỏ Tôi cầm cành cây, đói lả trước mồ …Chúng tôi thường cúng bạn cả nồi to Cơm đấy, canh đấy… Bạn ăn đi khỏi đói ! Sống giữ chốt Chết thành ma đói Đêm đứt rời … Bởi những cơn đau….
6. TIẾN VỀ THÀNH PHỐ
Từng trận đánh, cứ nối tiếp nhau Như mùa lũ ngập dần đôi bờ đất Từng chiến dịch mở bung mặt trận Như gió ngàn ồ ạt thổi võng thung. Mùa mưa đi qua.Khô khát những cánh rừng. Cây trút lá bên đường tơi tả. Đất như choàng tấm chăn màu đỏ. Những nấm mồ đồng đội rực lên! Tiến về Sài gòn Từ khắp nẻo Trường Sơn .Đại bác Xe tăng Chuyển rung thành phố Rầm rập những Binh đoàn Ào ào thác đổ Cả nước dồn về Trùng điệp quân đi. Các hướng tấn công Thần tốc – diệu kỳ Ngày mai hiện dần Bằng xương Bằng máu Ngày mai sẽ về Gang tấc nữa thôi! Gang tấc nữa thôi! Cờ giải phóng tung bay dinh Độc Lập Tổ quốc tưng bừng niềm vui thống nhất Chúng con sẽ về Bên mẹ Mẹ hiền ơi! Gang tấc nữa thôi! Ác liệt lại ngàn lần ác liệt Sào huyệt cuối cùng Sào huyệt lửa bung ra. Máu Người Lính đã thấm rừng già, Nay lại đổ dọc đường vào Thành Phố ! Người lính cựu, Mang nửa đời chữ thọ, Có ai ngờ! Ngã xuống,Trước ngày mai.Chúng tôi nghiêm trang Đứng trước thi hài Người Đồng đội,Người Anh, Người Thầy trong trận mạc.Giữa Sài Gòn – 30 THÁNG TƯ.
Chương ba: SAU CHIẾN TRANH
1. LÀNG XƯA
Giặc tan rồi Chúng tôi trở về quê Bồi hồi quá! Những bàn chân lính Chiếc ba lô trên lưng nhẹ tếch Chỉ nặng nhiều là mấy búp bê.Khao khát gì mà bồng bế thế kia? Hay ở rừng lâu ngày không bóng trẻ? Ngoài mặt trận nào ai thành bố – mẹ Tìm đâu ra tiếng bé khóc chào đời. Hay tuổi xuân ta trầm bổng cuối trời? Như hạt mưa sa xuống vườn đồng đội Hay vì thương cây tháng năm ngóng đợi? Mùa hoa về cho tươi lại cành xanh.Thôi! Gác lại một thời chiến tranh, Ào về nơi chôn nhau, cắt rốn. Để ngắm Mẹ Cho hả hê nỗi nhớ. Để nhìn Cha Cho đã buổi thương Người.Để được gặp, Nàng mặc áo nâu tươi Khoe với Em rằng: chỉ thêu vẫn thắm, Rằng: hai đứa chẳng còn xa ngàn dặm, Rằng: hôm nay thuyền đã cập bến rồi. Đây mái nhà tuổi thơ của tôi. Đây bậu cửa chắn ngang thời lẫm chẫm. Đây hình vẽ ngu ngơ thời chấy rận, Màu than đen còn nhánh đến bây giờ.Đây hàng cau cha trồng từ ngày xưa. Rụng đỏ đất…Những mùa đành để lỡ. Đây vườn trầu mẹ ươm hồi ta nhỏ, Rơi vàng trời như thể khát tìm cau. Đây con đường nối sang nhà nhau. Bên ấy, bên này đi về một ngõ. Đêm. Họp Đoàn cùng chung đuốc tỏ, Ta soi cho Em về tới sân nhà. Đây xóm làng lam lũ của ta. Những bữa cơm còn đầy mâm rau má. Người ra trận vẫn mang manh áo vá. Trẻ tới trường, quyển sách đọc thay nhau. Mùa đông về chăn chưa đủ ấm đâu, Mùa hạ đến chẳng đủ màn ngăn muỗi.Ta gặp ai cũng già trước tuổi.Biết: Hy sinh đâu chỉ ở chiến trường! Ơi! Xóm làng mà ta gọi Quê hương, Người ra trận đông hơn người ở lại, Đã kín vách BẢNG VÀNG DANH DỰ, Giờ lại nhiều BẰNG TỔ QUỐC GHI CÔNG. Bao hố bom chằng chịt trên đồng, Nghe lành lạnh tiếng cá cờ búng nước. Hiểu hạt gạo nuôi quân ngày chiến cuộc, Đã chan hòa, Máu với Mồ hôi.
2. MẸ
Con về với Mẹ hôm nay Thật đây! Sao Mẹ tưởng ngày…mình mơ. Bây giờ mắt mẹ đã mờ, Nhìn tôi bằng “ngón tay rờ” run run. Như là để thật tôi hơn Mẹ rờ vết sẹo vai con ngày nào. Nhận ra, mắt Mẹ lệ trào Rưng rưng…vào khoảng khát khao con về.Và tôi cứ thế lặng đi Trước pho Tượng Phật từ bi giữa nhà. Mấy năm đánh giặc đường xa Chẳng ngờ đâu Mẹ tôi già thế kia? Hàm răng đen nhánh ngày xưa Đi đâu vội,để nắng mưa cối trầu? Hạt sương kéo sợi trên đầu Bảo tôi: Đời Mẹ dãi dầu đấy thôi. Mắt huyền xưa buộc Cha tôi Bây giờ,Mẹ buộc lá rơi ngoài thềm. Mỏng manh chiếc áo vải mềm,Tuổi thơ tôi để trong nền yếm nâu. Yếm Người nào có rộng đâu. Mà sao như thửa đất giàu mênh mông…Ở đây cũng thể Thành đồng Ở đây nuôi những Anh hùng nước non.Yếm vuông cho giọt sữa tròn Đọng trong mỗi dấu chân con tháng ngày. Con về với Mẹ hôm nay Thật đây! Sao Mẹ tưởng ngày mình mơ! Mẹ tôi giờ, mắt đã lòa Nhìn tôi bằng ngón tay già… rưng rưng…
3. MẶT TRẬN KHÔNG TIẾNG SÚNG
Chúng tôi về với việc nhà nông, Đông hơn cả, Vì đồng rộng lắm Những người lính một thời chiến trận Giờ lại về cuốc bẫm cày sâu. Ruộng có bờ, Việc chẳng có bờ đâu Buổi lật cỏ đã lo ngày bắc mạ. Gieo trên đất những mầm vui hối hả, Những lo toan, thắc thỏm, trông chờ.Tưởng đã quen rồi, sao vẫn gặp bất ngờ? Bất ngờ hạn – mặt đồng khô như ngói. Bất ngờ úng – lúa chìm trong tê tái. Bất ngờ sâu – đau thắt ruột người trồng. Cấy cây lúa Là cấy phận nhà nông. Xòe bàn tay tính từng ngày, từng tháng. Mặt trời lên đến thâu đêm lại sáng. Bóng người còng, mơ…lúa tròn bông.Hạt gạo dẻo thơm? nào dễ hiểu đồng, Khi chưa có một lần với lúa. Khi cuộc đời lượt là trong nhung lụa, Đã chắc gì hiểu nổi bát cơm bưng ? Đã chắc gì biết cái rét cuối đông? Chân mẹ nẻ ngậm bùn rét giá. Đã chắc gì biết những chiều nắng hạ? Áo cha dầy thêm mỗi bận mồ hôi. Về với đồng mới hiểu hết đồng ơi! Bát cơm chan mồ hôi – nước mắt Lại có chuyện… những người khuất tất Lại bão giông… rình rập trên đầu…Ta đã qua dài rộng rừng sâu,Chân đã thuộc những nẻo đường ngang dọc,Mà bây giờ trước đồng, trước ruộng Sao ta đi, đi mãi… chẳng đến bờ? Vẫn chỉ là muôn thuở: Đói hay No? Mà lăn lóc cả đời với đất Từ mặt trận, mang Cái còn – Cái mất Trở về làng đánh đổi Cái có – Cái không… Phải vượt lên thôi! Mình tự cứu mình.Than phận làm gì cho thêm yếu lính? Đất Nước chiến tranh ra đi đánh giặc.Đất Nước hòa bình, tất cả dựng xây. Nào tập đi! Cho thẳng những đường cày Cho con trâu khỏi nhắc người: vắt – diệt Cho vụ mùa gối tiếp nhau mải miết Cho đồng làng bông lúa gọi : đời no! Nào học đi! Ta mới chỉ i tờ. Nghề nhà nông còn bao điều mới lạ, Muốn xênh xang từ cọng rơm, gốc rạ. Phải hiểu đồng, như hiểu chiến trường xưa. Ta đã nghe ! Nhiều đồng đội gần, xa Bát ăn đủ rồi, giờ thêm bát để.Đã rộng cửa nhà,Đã yên dâu – rể, Đã ông – bà… còn rất lính mà Em! Ta lại nghe.Từ phía mặt trời lên Tiếng tần tảo gõ vang đường xuống chợ Những mảnh vườn cho mùa chín đỏ Thơm chật gùi…Đồng đội địu trên lưng. Và đằng kia, trên khắp nẻo núi rừng, Bao trang trại mở đường vào giàu có. Nhiều người lính đã thành ông chủ. Cũng đình huỳnh xe máy hon đa. Vườn-Ao-Chuồng xây cất Vi la, Ai bảo lính không biết làm kinh tế? Bao doanh nghiệp tư nhân Bao nhiêu nhà tỷ phú Cũng đều từ những Cựu Chiến binh.Ta dõi theo vóc dáng những công trình.Bao người lính trở về xây thủy điện Đời lại thắp những NGỌN ĐÈN trước biển Sóng gầm gào…Đèn vẫn sáng lung linh. Ấy là khi Ta tự biết vượt mình Trước cuộc sống Có bao điều Cầu ước.Nếu được ước Xin ước cho tất cả Đừng hóa mình xa lạ với Nhân Dân.
Chương 4: HỒI TƯỞNG
Thế hệ chúng tôi, Đi qua Chiến Tranh.Đời mỗi đứa là một thời để nhớ Về đồng đội, Về những ngày khói lửa Về những hy sinh,… không nói hết bằng lời. Bao cô gái Bao chàng trai Lứa tuổi đôi mươi Đã nằm xuống dưới bạt ngàn nấm mộ Những cái tên…ngày nào xanh nhãn vở Giờ xếp hàng Đỏ rực nghĩa trang.Có những hy sinh Âm ỉ với thời gian Người trở về trên mình đầy thương tích Chiếc nạng gỗ gõ dọc chiều cơn lốc Hiểu con đường đang chín giọt mồ hôi.Có đứa về lành lặn hẳn hoi Nào ai hay?Chất độc vùi trong bạn Lúc làm cha mới biết mình trúng đạn Vết thương – Là con anh. “Vì Nhân Dân quên mình! Vì Nhân Dân hy sinh!” Bài hát gọi ta về quân ngũ.Cuộc sống Lính có khi nào đầy đủ? Thiếu thốn nhiều nên cũng phải quen đi! Cũng phải quen. Như thể chẳng thiếu gì Vì khi ấy chiến trường cần phải thế! Ngày trở về Ta không còn trai trẻ.Giữa đời thường cái thiếu lại thiếu thêm.Những hy sinh không thể bắc lên cân. Càng không thể quy thành tem phiếu. Những người lính có bao giờ định liệu Cái giá mình trước Tổ Quốc, Nhân Dân! “Vì Nhân Dân quên mình! Vì Nhân Dân hy sinh!” Lẽ sống ấy làm nên Nhân cách Lính.Ngay cả khi mình không mang quân phục, Nhưng Lính thì chẳng lẫn với ai đâu? Không biết người ta sống mai sau, Có đời hơn thời chúng tôi đang sống? Rồi đến lúc phải quên đi tiếng súng, Ta vẫn tin! Đồng đội chẳng quên nhau! Nhân Dân mình sống có trước có sau. Cứ nhìn những Nghĩa trang, những Tượng đài thì biết. Và cả những Tượng đài thơm hương tha thiết, Cho người sống,Cho người còn mà chết tuổi thanh xuân. Nếu Cuộc đời biết vì Nhân Dân Thì Nhân Dân cũng vì ta năm tháng. Như mặt trời cho cỏ cây nguồn sáng, Cỏ cây nào chẳng cho đất những mùa hoa? Bom đạn tạnh đi rồi Chiến tranh đã lùi xa! Cuộc sống mới bảo chúng tôi đổi mới! Không thể đem những ngày lửa khói Giữa thị trường đánh đổi lấy ấm no! Không thể đem việc đổi xạ – bóp cò, Làm công nghiệp trong thời mở cửa. Ta sẽ chẳng vượt qua đói khổ, Nếu chân mình còn nặng đế cao su! “Vì Nhân Dân quên mình! Vì Nhân Dân hy sinh!” Bài ca ấy đã trở thành lẽ sống! Chúng tôi hát từ buổi tò te lính.Đến bây giờ vẫn hát- Những Cựu binh.