Số lần xem
Đang xem 7928 Toàn hệ thống 21438 Trong vòng 1 giờ qua
Trang liên kết
Tỉnh thức
giữa đêm thiêng Yên Tử
Để thấm hiểu đức Nhân Tông
Ta thành tâm đi bộ
Lên tận đỉnh chùa Đồng
Tâm sáng Ức Trai
trong tựa ngọc TÌNH YÊU CUỘC SỐNG
DẠY VÀ HỌC Để chấn hưng giáo dục Việt Nam cấp thiết phải có đội ngũ những người thầy giáo ưu tú có tâm đức thiết tha với nghề, có trình độ chuyên môn cao và có kỹ năng giảng dạy tốt. Đây là trang thông tin chuyên đề dạy và học để trao đổi và bàn luận
Norman Borlaug Lời Thầy dặn Việc chính đời người chỉ ít thôi
Chuyên tâm đừng bận chuyện trời ơi
Phúc hậu suốt đời làm việc thiện
Di sản muôn năm mãi sáng ngời.
“Sáng nghiệp Việt, Đường hai Thái Tông/ Đường xưng: Trinh Quán, Việt: Nguyên Phong/ Kiến Thành bị giết, An Sinh sống/ Miếu hiệu tuy đồng, đức chẳng đồng”. Vua Trần Thái Tông (1218- 1277) người sáng nghiệp nhà Trần là bậc minh quân đức tài Việt Nam vô song . Người được so sánh với Đường Thái Tông Lý Thế Dân (598- 649) là vị vua giỏi Trung Hoa sáng nghiệp nhà Đường thời trước đó. Đường Thái Tông đã thiết lập nên sự cường thịnh của nhà Đường phát triển về kinh tế và hùng mạnh về quân sự bậc nhất của thế giới lúc ấy, và được hậu thế đánh giá là một trong những vị vua giỏi nhất Trung Hoa mọi thời đại; thế.nhưng so đức độ với vua Trần Thái Tông thì vua Việt được người đời ca ngợi hơn. Đức sáng Trần Thái Tông; được tiếp nối là Minh quân Trần Thánh Tông và Yên Tử Trần Nhân Tông đã trọng dụng được bậc thiên tài chính trị, quân sự, nhà văn Trần Quốc Tuấn. Quốc Công Tiết chế Hưng Đạo Đại Vương đã tổ chức quân dân Việt ba lần đánh tan đội quân Nguyên Mông mạnh nhất thế giới thời ấy . Thái Tông Thánh Tông Quốc Tuấn là ba đỉnh cao vọi của của tâm đức và trí tuệ. “Vua tôi đồng lòng, toàn dân gắng sức” Vua Trần Nhân Tông khi lên đỉnh Yên Tử có hỏi về ba đỉnh cao vọi trong dãy núi Nham Biền thăm thẳm kia là gì thì được trả lời đó là dãy núi Yên Phụ của vòng cung Đông Triều trấn Bắc. Đức Nhân Tông đã lạy Yên Phụ và chọn Yên Tử làm chốn an nghĩ nơi Cư trần lạc đạo của mình. Câu chuyện Trần Thái Tông và Trần Quốc Tuấn, minh quân ấy và thiên tài ấy lưu dấu muôn đời nơi đất Việt thật lạ lùng và sâu sắc thay.
Vua Trần Thái Tông người sáng nghiệp nhà Trần đã để lại cho đời câu nói nổ tiếng: “Nếu chỉ để lời nói suông cho đời sau, sao bằng đem thân mình đảm nhận trọng trách cho thiên hạ trước đã”. Thiên tài Trần Quốc Tuấn không thể phát lộ tỏa sáng nếu không có vua Trần Thái Tông minh quân đặc biệt hiếm có và tiếp nối là vua giỏi Trần Thánh Tông và vua Phật Trần Nhân Tông hết lòng “Vua tôi đồng lòng, toàn dân gắng sức” mới đạt được thành tựu như vậy.
Vua Trần Thái Tông không chỉ tha cho An Sinh Vương Trần Liễu là người chống lại Thái Tông và hận thù giữa họ sâu đến nỗi Trần Liễu còn di nguyện cho Trần Quốc Tuấn sau này nhất thiết phải đoạt lại ngôi vua. Vua Trần Thái Tông trước việc yêu thương của hai trẻ là Quốc Tuấn và Thiên Thành: Người con trai Quốc Tuấn thì dám lẻn vào cung Nhân Đạo Vương ngủ với người mình yêu mà không sợ cái chết. Người con gái là công chúa Thiên Thành thì đã dám chọn cái chết mà trao thân cho người mình yêu ngay trước hôm vua Trần Thái Tông đã sắp làm đám cưới cho Trung Thành Vương, con trai của Nhân Đạo Vương một vị quan đầu triều. Tình yêu đó, khí phách đó thật lớn lao.
Vua Trần Thái Tông tiếc tài của Trần Quốc Tuấn nên quyết không làm ngơ để Quốc Tuấn bị giết. Vua chủ động kết nối lương duyên cho hai người Thiên Thành và Quốc Tuấn bất chấp lẽ thường tình và bao dung không giết Trần Quốc Tuấn, con của Trần Liễu kẻ đang thù hận mình và đang “cố tình phạm tội ngông cuồng” trái nhân tình. Câu chuyện ứng xử mau lẹ và tuyệt vời của vua Trần Thái Tông với lòng yêu thương và trí tuệ cao cả đã ứng xử đặc biệt kiệt xuất và chủ động tác thành hạnh phúc cho công chúa Thiên Thành và Quốc Tuấn nên vợ chồng, hóa giải mọi điều, thu phục được tấm lòng của bậc anh hùng và giữ lại được cho non sông Việt một bậc kỳ tài muôn thuở là Đức Thánh Trần.
Chuyện lạ và hay hiếm thấy !
Mẹ tôi họ Trần. Tôi về dâng hương Đức Thánh Trần tại đền Tổ. Chùa cổ Thắng Nghiêm là nơi Đức Thánh Trần thuở nhỏ theo công chúa Thụy Bà về đây để tìm minh sư học phép Chọn người, Đạo làm tướng và viết nên kiệt tác quân sự chính trị kiệt xuất Binh thư Yếu lược, một trong hai tác phẩm quân sự cổ đại xuất sắc nhất Việt Nam từ trước đến nay (mời đọc Lời dặn lại của Đức Thánh Trần).
Trần Quốc Tuấn Quốc Công Tiết Chế Hưng Đạo Đại Vương là một trong mười nhà quân sự kiệt xuất nhất lịch sử Thế Giới và Việt Nam. Vương là nhà chính trị, nhà văn, tư lệnh tối cao của Việt Nam thời nhà Trần, đã ba lần đánh thắng đội quân Nguyên – Mông đế quốc hùng mạnh nhất thế giới thời đó.
Trần Hưng Đạo sinh năm 1232, mất ngày 20 tháng 8 âm lịch năm 1300, ông là con thứ ba của An Sinh Vương Trần Liễu, gọi Trần Thái Tông bằng chú ruột, mẹ ông là Thiện Đạo quốc mẫu, một người trong tôn thất họ Trần. Ông có người mẹ nuôi đồng thời là cô ruột là Thụy Bà công chúa [1]. Ông sinh ra ở kinh đô Thăng Long, quê quán ở thôn Tức Mặc, phường Lộc Vượng, thành phố Nam Định ngày nay[2]. Năm 1237, khi lên 5 tuổi ông làm con nuôi của người cô ruột là Thụy Bà công chúa, vì cha ông là Trần Liễu chống lại triều đình (Trần Thủ Độ). Đại Việt sử ký toàn thư mô tả ông là người có dung mạo khôi ngô, thông minh hơn người, nhờ được những người tài giỏi đến giảng dạy mà ông sớm trở thành người đọc thông hiểu rộng, có tài văn võ [3]
Vua Trần Thái Tông tên thật là Trần Cảnh, sinh ngày 16 tháng 6 năm 1218 mất ngày 1 tháng 4 năm 1277, là vị hoàng đế đầu tiên của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam. Ông ở ngôi hơn 32 năm (1225 – 1258), làm Thái thượng hoàng trong 19 năm. Trần Cảnh sinh ra dưới thời kỳ nhà Lý còn tại vị, ông cùng tuổi với vị Nữ hoàng nhà Lý lúc bấy giờ là Lý Chiêu Hoàng. Ông được Chiêu Hoàng yêu mến, hay gọi vào vui đùa, Trần Cảnh khi ấy không nói năng gì nhưng khi về đều nói lại với chú họ là Trung Vũ Vương Trần Thủ Độ. Nhà Lý thuở ấy loạn cung đình đã vào đỉnh điểm. Vua Lý tuy có hai con gái rất giỏi và thông minh, hiền hậu nhưng không có con trai nối dõi, trong khi hoàng tộc nhà Lý dòm ngó ngôi báu đều là những kẻ mưu mô và kém đức. Nước Đại Việt lúc đó bên ngoài thì họa ngoại xâm từ đế quốc Nguyên Mông đang rình rập rất gần, bên trong thì biến loạn bùng nổ liên tục nhiều sự kiện rất nguy hiểm. Trần Thủ Độ nắm thực quyền chốn cung đình, nhận thấy Trần Cảnh cháu mình cực kỳ thông minh đỉnh ngộ, thiên tư tuyệt vời xứng là một minh quân, lại được Lý Chiêu Hoàng yêu mến nên đã đặt cược việc sắp đặt hôn nhân giữa Trần Cảnh và Lý Chiêu Hoàng với họa diệt tộc Trần “tru di chín họ” nếu CHỌN LẦM NGƯỜI. Trần Thủ Độ đánh giá cao Trần Cảnh sau này là vua Trần thái Tông để quyết tâm thực hiện cuộc đổi họ trong lịch sử thực hiện chính biến cung đình. Sự kiện này xảy ra vào năm 1225, chấm dứt triều đại nhà Lý đã tồn tại hơn 200 năm và khai sáng nhà Trần.
Trớ trêu thay, Trần Thái Tông không có người kế vị chính danh phận, trong lúc sự chỉ trích và chống đối của tôn thất nhà Lý do Hoàng Thái hậu cầm đầu lại đẩy lên cao trào và rất nặng nề do Lý hoàng hậu (tức Lý Chiêu Hoàng) vợ Trần Thái Tông sinh con nhưng người con lại bị chết yểu ngay sau khi sinh. Sự dòm ngó cướp ngôi của nhiều kẻ tôn thất mượn tiếng có con trai nối dõi âm ưu phế vua đoạt quyền trong khi giặc ngoài lăm le sát biên ải, chỉ chờ trong nước có biến là hành động. Thuận Thiên công chúa là vợ của Trần Liễu khi ấy lại đang mang thai được 3 tháng. Năm 1237, Thái sư Trần Thủ Độ đang nắm thực quyền phụ chính đã ép Trần Liễu là cha của Trần Quốc Tuấn phải nhường vợ Thuận Thiên công chúa (chị của Lý Chiêu Hoàng) thay làm Chính cung Hoàng hậu cho Trần Thái Tông, đồng thời giáng Lý hoàng hậu xuống làm công chúa. Việc này khiến Trần Thái Tông bỏ lên tu ở núi Yên Tử. Người sau này đã chứng ngộ vận nước lâm nguy, cường địch bên ngoài câu kết nội gián bên trong không thể không xử thời biến “non sông đất nước Việt trên hết “. Người đã chấp nhận quay về “Nếu chỉ để lời nói suông cho đời sau, sao bằng đem thân mình đảm nhận trọng trách cho thiên hạ trước đã”. Trần Thái Tông đã chấp nhận sự sắp xếp của Triều đình. Sau này ngày 24 tháng 2 năm 1258, ông truyền ngôi cho Thái tử Trần Hoảng, là con thứ, (em của Trần Quốc Khang vốn con Trần Liễu) để lui về làm Thái thượng hoàng, Trần Thái Tông được tôn làm Hiển Nghiêu Thánh Thọ Thái Thượng Hoàng Đế. Trần Hoảng lên ngôi tức Trần Thánh Tông. Tước vị và thông lệ Thái thượng hoàng của nhà Trần từ đấy đã trở thành truyền thống, vừa rèn luyện cho vị Hoàng đế mới cai trị đất nước càng sớm càng tốt vừa tránh được việc tranh giành ngôi báu giữa các con do chính danh sớm được định đoạt, nhưng cái chính là xử lý được thực việc chính danh của vua con là con của Lý hoàng hậu tránh được thảm họa tranh chấp cung đình. Việc làm thái thượng hoàng sau này thành điển lệ tốt của triều Trần
Trần Liễu gửi con là Trần Quốc Tuấn cho Thụy Bà công chúa mai danh ẩn tích ở chùa Thắng Nghiêm tìm minh sư luyện rèn văn võ (Chùa cổ Thắng Nghiêm lưu nhiều dấu tích Trần Hưng Đạo mà sau này tôi may mắn được chứng kiến và giác ngộ . HK. Sau khi Trần Liễu gửi con, ông đã dấy binh làm loạn ở sông Cái, cuối cùng bị thất thế, phải xin đầu hàng. Trần Thủ Độ toan chém nhưng Trần Thái Tông liều chết đưa thân mình ra ngăn cãn buộc lòng Thủ Độ phải tự mình ném bảo kiếm xuống sông. Trần Liễu được tha tội nhưng quân lính theo ông làm phản đều bị giết sạch và vua Thái Tông đã đổi ông làm An Sinh vương ở vùng đất Yên Phụ, Yên Tử thuộc tỉnh Quảng Ninh ngày nay.
Trần Quốc Tuấn từ 5 tuổi đã được minh sư rèn luyện tỏ ra và một vị nhân tướng lỗi lạc phi phàm lúc trở về sớm được Trần Thái Tông quý trọng vì đức độ và tài năng vượt bậc so trong số con cháu vương thất. Qua sự biến Trần Quốc Tuấn yêu thương công chúa Thiên Thành, là con gái của vua Trần Thái Tông, nhân lễ hội trăng rằm nửa đêm đã lẻn vào chỗ ở của công chúa và thông dâm với nàng[5]. Thời nhà Trần đã có quy định, để tránh ngôi vua truyền ra ngoài, chỉ có người trong tộc mới được lấy nhau nên kết hôn cùng huyết thống là điều không lạ và chuyện “quái” ấy cũng là để khuất tất việc Trần Thái Tông lấy vợ Trần Liễu không bị người đời đàm tiếu.
Thật oái oăm sự lựa chọn sinh tử, công chúa Thiên Thành, người mà Trần Quốc Tuấn yêu say đắm, là con vua Trần Thái Tông năm 1251 đã đính ước gả cho Trung Thành Vương là con trai của Nhân Đạo Vương, vị vương đầu triều. Vua đã nhận sính lễ, thông báo đến mọi đại thần và đã chuẩn bị tiệc cưới. Trần Quốc Tuấn nửa đêm trăng rằm đột nhập vào phòng riêng công chúa tại dinh thự của Nhân Đạo Vương. Đôi trai gái trẻ đã đồng lòng dâng hiến cho nhau và Quốc Tuấn nói với công chúa Thiên Thành sai thị nữ đi gặp Công chúa Thụy Bà cấp báo với vua ngay trong đêm về việc Quốc Tuấn Thiên Thành đồng lòng làm việc ấy. Vua hỏi có việc gì, Thụy Bà trả lời:“Không ngờ Quốc Tuấn ngông cuồng càn rỡ, đang đêm lẻn vào chỗ Thiên Thành, Nhân Đạo đã bắt giữ hắn rồi, e sẽ bị hại, xin bệ hạ rủ lòng thương, sai người đến cứu”. Trần Thái Tông vội sai người đến dinh Nhân Đạo vương, vào chỗ Thiên Thành, thì thấy Trần Quốc Tuấn đã ở đấy. Hôm sau, Thụy Bà công chúa dâng 10 mâm vàng sống đến chỗ Trần Thái Tông xin làm lễ cưới Thiên Thành công chúa cho Trần Quốc Tuấn. Thái Tông bắt đắc dĩ phải gả công chúa cho ông và lấy 2000 khoảnh ruộng ở phủ Ứng Thiên để hoàn lại sính vật cho Trung Thành vương[5].Tháng 4 năm đó, Trần Liễu ốm nặng. Lúc sắp mất, Trần Liễu cầm tay Trần Quốc Tuấn, trăng trối rằng: “Con không vì cha lấy được thiên hạ, thì cha chết dưới suối vàng cũng không nhắm mắt được”. Trần Quốc Tuấn ghi để trong lòng, nhưng không cho là phải.
Câu chuyện Trần Quốc Tuấn yêu thương công chúa Thiên Thành và đã dám lấy tính mạng của mình để làm liều, mấy ai thấu hiểu đó là phép biến Dịch của quy tắc “Chọn người” tin yêu mình trong thực tiễn trước khi trao sinh mệnh đời mình cho Người đó.
Tôi ghi thêm ngoại truyện về hai chuyện ‘quái’ có thật trong lịch sử để làm rõ hơn câu chuyện và bài học lịch sử của Trần Thái Tông và Trần Quốc Tuấn, với chiến công nhà Trần ba lần đánh thắng quân Nguyên và những trang binh thư kiệt tác muôn đời của nhân loại.
Trần Thái Tông và Trần Quốc Tuấn vua tôi đồng lòng, toàn dân đồng sức’ có minh quân ấy và có lương tướng thiên tài ấy đã tỏa sáng và trao lại cho hậu thế muôn đời dân Việt một bài học lịch sử vô giá. ‘KẾ SÁCH MỘT CHỮ ĐỒNG‘ minh quân lương tướng đồng lòng cố kết lòng dân thì mọi nguy khó đều vượt qua.
Trung Hoa và Việt Nam cùng có vua Thái Tông. Nhà Đường có vua Đường Thái Tông húy là Lý Thế Dân, niên hiệu Trinh Quán, là vua thứ hai của nhà Đường. Việt Nam có vua Trần Thái Tông húy là Trần Cảnh, niên hiệu Nguyên Phong, là vua đầu tiên của nhà Trần. Miếu hiệu tuy giống nhau nhưng đức độ lại khác nhau.
ĐƯỜNG THÁI TÔNG (627-650)
Vua Đường Cao Tổ (Lý Uyên) có ba con trai, con trưởng là Lý Kiến Thành, kế đến là Lý Thế Dân và Lý Nguyên Cát.
Sau khi dứt được nhà Tùy, Lý Uyên lên ngôi tức là Đường Cao Tổ (618-627), phong cho con trưởng là Lý Kiến Thành làm Thái tử, con thứ là Lý Thế Dân làm Tần Vương và Lý Nguyên Cát làm Tề Vương.
Trong ba người con thì Lý Thế Dân có công hơn cả, giỏi võ nghệ, có tài thao lược và theo cha đánh thắng nhiều trận lớn. Việc khởi binh chiếm Thái Nguyên phủ rồi Trường An để lập căn cứ đều do ông đề xuất. Trong những cuộc chiến sau đó, ông lập được nhiều chiến công hiển hách. Nguyên Cát cũng khá, chỉ có Kiến Thành là kém nhất.
Lý Thế Dân là viên tướng biết trọng dụng nhân tài. Dưới trướng ông, bên văn có mười tám học sĩ tên tuổi như Phòng Huyền Linh, Đỗ Như Hối, Ngụy Trưng… bên võ có các dũng tướng danh tiếng vang lừng như Uất Trì Kính Đức, Tần Thúc Bảo, Trình Giảo Kim… Thái tử Kiến Thành biết mình kém thế, e rằng cái ngôi Thái tử không vững nên hợp cùng Nguyên Cát để loại trừ Lý Thế Dân.
Có lần Kiến Thành mời Thế Dân đến Đông cung uống rượu. Bị trúng độc, Thế Dân đau bụng dữ dội, thủ hạ phải vực về cung, ông bị thổ huyết, thuốc thang mãi mới khỏi. Ông biết bị anh mình đầu độc nhưng không phản ứng gì. Kiến Thành còn dùng một xe vàng bạc mua chuộc Uất Trì Kính Đức nhưng thất bại.
Nhân lúc rợ Đột Quyết xâm phạm Trung Nguyên, Kiến Thành tâu vua cha cử Nguyên Cát đem binh đi chinh phạt thay cho Lý Thế Dân. Đường Cao Tổ chuẩn tấu. Sau khi được phong làm chủ soái, Lý Nguyên Cát xin ba viên đại tướng của Thế Dân là Uất Trì Kính Đức, Tần Thúc Bảo và Trình Giảo Kim cùng binh lính dưới quyền họ sáp nhập vào đạo quân của mình, cốt để lực lượng của Thế Dân suy yếu.
Biết được âm mưu đó, Thế Dân lập tức cho mời người con cậu là Trưởng Tôn Vô Kỵ và Uất Trì Kính Đức đến bàn bạc. Hai người khuyên Thế Dân nên ra tay trước, nếu không thì chết cả nút. Thế Dân ban đầu còn do dự vì ngại anh em tàn sát lẫn nhau, nhưng trước quyết tâm của hai người, cuối cùng ông cũng phải nghe theo.
Ngay đêm đó, Thế Dân vào cung tâu với vua cha về việc Kiến Thành và Nguyên Cát âm mưu hại mình. Đường Cao Tổ truyền cho ba con sáng hôm sau phải vào cung để ông xét hỏi.
Sáng sớm hôm sau, Thế Dân sai Trưởng Tôn Vô Kỵ và Uất Trì Kính Đức dẫn một toán tinh binh mai phục tại cửa Huyền Vũ phía bắc hoàng cung. Lát sau, Kiến Thành và Nguyên Cát cưỡi ngựa tới, thấy tình hình có vẻ khác thường liền quay ngựa bỏ chạy. Lý Thế Dân phóng ngựa ra kêu to: – “Điện hạ đừng đi”. Nguyên Cát quay lại định bắn chết Thế Dân, nhưng vì run quá không giương cung lên được. Thế Dân nhanh tay bắn một phát giết chết Kiến Thành trên lưng ngựa. Ngay lúc đó, Uất Trì Kính Đức dẫn kỵ binh xông ra bắn chết Nguyên Cát.
Vua Cao Tổ đang chờ ba con đến thì Uất Trì Kính Đức hộc tốc chạy vào báo tin: “Thái tử và Tề Vương nổi loạn, Tần Vương đã giết chúng rồi”, vua Cao Tổ đau xót, ngồi lặng đi không nói nên lời (1).
Sau đó, Thế Dân được phong làm Thái tử và được vua cha nhường ngôi. Năm 627, ông lên ngôi, niên hiệu Trinh Quán, tức là vua Đường Thái Tông. Vẫn biết Thế Dân ở vào cái thế chẳng đặng đừng, nhưng việc ông giết cả anh và em ruột của mình để tranh ngôi Thái tử cũng bị người đương thời và đời sau phê phán.
TRẦN THÁI TÔNG (1225-1258)
Trần Thái Tông huý là Trần Cảnh, lên ngôi năm 1225 do vợ là Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi. Ông lấy niên hiệu Kiến Trung, Thiên Ứng Chính Bình rồi Nguyên Phong (1251-1258). Lúc lên ngôi ông mới 8 tuổi, mọi việc trong triều đều do một tay Trần Thủ Độ quyết đoán.
Khi Chiêu Hoàng mới lên ngôi, Thái hậu là Trần thị cùng với người anh họ là Trần Thủ Độ nắm chính trị bên trong, bên ngoài, chọn con em các quan viên đưa vào cung chầu hầu hoàng đế. Thủ Độ lại đưa cháu mình là Trần Cảnh vào hầu Chiêu Hoàng. Chiêu Hoàng rất yêu thích Trần Cảnh, mỗi khi buồn thì cho gọi Trần Cảnh vào chơi, khi thì trêu chọc, khi thì tặng Cảnh chiếc khăn trầu, tình cảm giữa hai người ngày càng thêm đằm thắm. Từ đó họ cùng ở với nhau như vợ chồng.
Thủ Độ sợ việc tiết lộ mới đem gia thuộc thân thích vào trong cung cấm, sai đóng cửa thành và các cửa cung, cắt người coi giữ, các quan không được vào chầu.
Một hôm Thủ Độ loan báo với các quan rằng: “Bệ hạ đã có chồng rồi”, các quan xin vào lạy mừng. Ngày 11, tháng 12, Chiêu Hoàng đặt hội lớn ở điện Thiên An, ngự trên bảo sàng, các quan vào chầu lạy ở dưới sân. Chiêu Hoàng trút bỏ ngự bào, mời Trần Cảnh lên ngôi hoàng đế tức là vua Trần Thái Tông, đổi niên hiệu là Kiến Trung năm thứ nhất (1225).
Lý Chiêu Hoàng trở thành Chiêu Thánh Hoàng hậu. Bà lấy vua Thái Tông đã 12 năm mà không có con, tuy mới 19 tuổi. Trần Thủ Độ rất lo không có người kế vị, bèn bắt vua Thái Tông phải bỏ bà, giáng xuống làm Chiêu Thánh công chúa, rồi bắt chị bà là vợ của Hoài vương Trần Liễu (anh Trần Cảnh) đem vào cung phong làm Thuận Thiên Hoàng hậu vì bà này đang có thai ba tháng (bắt vua lấy chị dâu) sau sinh ra Quốc Khang (2).
Trần Liễu rất phẫn nộ vì mất vợ, họp quân ngoài sông lớn làm loạn. Vua Thái Tông lòng cũng không yên, đêm trốn ra khỏi thành đến ở nhà Kinh Vân quốc sư (quốc sư là bạn cũ của Thái Tông) trên núi Yên Tử.
Hôm sau Thủ Độ đem các quan đến đón vua về. Vua nói : “Trẫm còn ít tuổi, không kham nổi việc lớn, Thượng hoàng (Trần Thừa) đã vội lìa bỏ, sớm mất chỗ nhờ cậy, không dám ở ngôi vua để làm nhục xã tắc”. Thủ Độ cố nài xin, vua vẫn không nghe. Thủ Độ bèn bảo các quan rằng: “Vua ở đâu thì triều đình ở đó”. Bèn cắm nêu trong núi, bắt chước các tên như điện Thiên An, các Đoan Minh… sai thợ xây dựng. Quốc sư nghe thấy vội xin vua rằng: “Bệ hạ nên gấp trở về, đừng để làm nát núi rừng của đệ tử”, vua mới chịu về cung (Theo Đại Việt sử ký tiền biên) (3).
Được hai tuần, Trần Liễu biết mình thế cô, sức không địch nổi Thủ Độ nên nhân khi vua Thái Tông ngự thuyền vãn cảnh trên sông, ông mới ngầm đi thuyền độc mộc, giả làm người đánh cá, lẻn đến thuyền ngự tạ tội. Hai anh em ôm nhau mà khóc. Thủ Độ nghe thấy, đến thẳng thuyền vua, rút gươm thét lớn “Giết thằng giặc Liễu”. Vua vội vàng giấu Liễu trong thuyền rồi bảo Thủ Độ rằng: “Phụng Càn vương (Phụng Càn là hiệu của Liễu thời Lý) đến hàng rồi đấy”, đoạn lấy thân mình che cho Liễu nên Thủ Độ không chém được.
Thủ Độ giận lắm, quăng gươm xuống sông nói: “Thủ Độ này chỉ là con chó săn cho các người thôi. Thế này thì còn hiểu thế nào là lẽ thuận nghịch!”. Vua hòa giải rồi bảo Thủ Độ mang quân về. Thủ Độ sai giết hết những binh lính theo Trần Liễu làm loạn.
Vua Thái Tông biết nếu để Trần Liễu ở kinh đô thì khó toàn tính mạng với Thủ Độ nên cắt đất Yên Phụ, Yên Dưỡng, Yên Sinh, Yên Hưng và Yên Bang (thuộc tỉnh Hải Dương) cấp cho Trần Liễu làm thái ấp và phong làm An Sinh Vương.
THƠ VỀ HAI VUA THÁI TÔNG
Do việc vua Đường Thái Tông của Trung Hoa giết anh là Kiến Thành để đoạt ngôi Thái tử, còn vua Trần Thái Tông của Đại Việt không ngại nguy hiểm, lấy thân mình để che đỡ cho anh là Trần Liễu khỏi bị Thủ Độ giết nên hậu duệ của vua Trần Thái Tông là vua Trần Dụ Tông (1341-1369) làm thơ ca ngợi cái đức của tiên vương mình:
Phiên âm:
Đường Thái Tông dữ bản triều Thái Tông
Đường, Việt khai cơ lưỡng Thái Tông,
Bỉ xưng Trinh Quán, ngã Nguyên Phong.
Kiến Thành tru tử, An Sinh tại,
Miếu hiệu tuy đồng, đức bất đồng.
Dịch nghĩa:
Vua Thái Tông nhà Đường với vua Thái Tông triều ta
Đường và Việt đều có vua mở mang cơ nghiệp thụy là Thái Tông,
Bên họ xưng là Trinh Quán, bên ta xưng là Nguyên Phong.
Kiến Thành bị giết chết, An Sinh thì được sống,
Miếu hiệu tuy giống nhau nhưng đức độ lại khác nhau.
Đào Phương Bình dịch thơ:
Sáng nghiệp Việt, Đường hai Thái Tông,
Đường xưng: Trinh Quán, Việt: Nguyên Phong.
Kiến Thành bị giết, An Sinh sống,
Miếu hiệu tuy đồng, đức chẳng đồng.
(1)
Sách Đại Việt sử ký toàn thư (NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1985) cho rằng: Biến cố ở cửa Huyền Vũ (Thế Dân giết Kiến Thành và Nguyên Cát) xảy ra sau khi Đường Cao Tổ chết (tập II, trang 40, trong phần chú thích) nhưng theo bộ Lịch sử Trung Quốc 5000 năm của Lâm Hán Đạt và Tào Dư Chương (Trung Quốc) thì việc ấy xảy ra khi Đường Cao Tổ còn sống (NXB Văn Hóa Thông Tin, Hà Nội, tập II trang 309). Cuốn Sử Trung Quốc của Nguyễn Hiến Lê (NXB Văn Hóa Thông Tin, Hà Nội, 1997) cũng viết như bộ Lịch sử Trung Quốc 5000 năm (tập II trang 294).
(2)
Quốc Khang là con của Trần Liễu và Thuận Thiên công chúa. Khoảng năm 1267 (Thiệu Long thứ 10) vào mùa đông, vua (Thánh Tông – Trần Hoảng) vào chầu Thượng hoàng. Vua cùng với anh là Quốc Khang đùa nhau trước mặt Thượng hoàng. Quốc Khang múa kiểu người Hồ, Thượng hoàng cởi áo bông đang mặc ban cho Quốc Khang. Vua cũng múa kiểu người Hồ để xin áo. Quốc Khang nói: “Cái quí nhất là ngôi hoàng đế, thần không dám tranh với chú hai. Nay đức chí tôn cho thần vật nhỏ này mà chú hai lại muốn cướp lấy chăng? Thượng hoàng cả cười nói: “Mày coi ngôi vua với chiếc áo thường này không hơn kém nhau sao?” rồi cho Quốc Khang cái áo ấy. Họ thoả chí vui đùa rồi về (theo Đại Việt sử ký tiền biên).
(3)
Theo Ngoại truyện: Giờ Tý, ngày rằm, tháng tư năm Bính Thân, Thái Tông cùng bảy cận thần bơi qua sông Bàn Than đến chùa Hoa Yên trên núi Yên Tử gặp Trúc Lâm thiền sư muốn xin được trụ trì ở đó. Không bao lâu, Thủ Độ cùng quần thần đến đón vua về. Vua hỏi thiền sư, thiền sư tâu rằng: “Kể ra người làm vua phải lấy lòng dân làm lòng mình, ý muốn của dân làm ý muốn của mình. Nay dân tình như thế, xin xe vua hãy tạm trở về, những việc kê cứu về nội điển thì nên chớ quên tu tâm luyện tính. Sau này hoàng tử khôn lớn, có thể nhường được ngôi thì lúc đó hãy vào núi tu luyện cũng được”. Vua cho lời nói đó là phải mới trở về kinh. Sau này, khi nhường ngôi cho Thánh Tông, vua mới hơn 40 tuổi đã có ý chán trần tục, muốn tu luyện, cho nên các vua triều Trần đều noi theo việc cũ. Có lẽ đó là hiểu được cái bí quyết của Trúc Lâm. Nhà Trần sùng Phật, trọng tăng cũng bắt đầu từ đó (theo Đại Việt sử ký tiền biên).
“Yên Sinh Vương trước đây vốn có hiềm khích với Chiêu Lăng [Vua Trần Thái Tông] , mang lòng hậm hực, tìm khắp những người tài nghệ để dạy Quốc Tuấn. Lúc sắp mất, Yên Sinh cầm tay Quốc Tuấn giối giăng rằng:
“Con không vì cha lấy được thiên hạ, thì cha chết dưới suối vàng cũng không nhắm mắt được?.
Quốc Tuấn ghi điều đó trong lòng, nhưng không cho là phải.” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 6.
BÀI ĐỒNG DAO HUYỀN THOẠI Hoàng Kim
Tháng 6 năm 1950 nhà văn Sơn Tùng được cụ Nguyễn Sinh Khiêm anh ruột Bác Hồ tặng sách “ Tất Đạt tự ngôn” kể chuyện Bài đồng dao huyền thoại: Năm 1895 Hồ Chí Minh lúc ấy là Nguyễn Sinh Cung đã có bài thơ “Biển là ao lớn Thuyền là con bò Thuyền ăn no gió Lội trên mặt nước Em nhìn thấy trước Anh trông thấy sau Ta lớn mau mau Vượt qua ao lớn” xem tiếp http://lethuy.edu.vn/index.aspx?u=nws&su=d&cid=350&id=3478
“Sáng nghiệp Việt, Đường hai Thái Tông/ Đường xưng: Trinh Quán, Việt: Nguyên Phong/ Kiến Thành bị giết, An Sinh sống/ Miếu hiệu tuy đồng, đức chẳng đồng”. Vua Trần Thái Tông (1218- 1277) người sáng nghiệp nhà Trần là bậc minh quân đức tài Việt Nam vô song . Người được so sánh với Đường Thái Tông Lý Thế Dân (598- 649) là vị vua giỏi Trung Hoa sáng nghiệp nhà Đường thời trước đó. Đường Thái Tông đã thiết lập nên sự cường thịnh của nhà Đường phát triển về kinh tế và hùng mạnh về quân sự bậc nhất của thế giới lúc ấy, và được hậu thế đánh giá là một trong những vị vua giỏi nhất Trung Hoa mọi thời đại; thế.nhưng so đức độ với vua Trần Thái Tông thì vua Việt được người đời ca ngợi hơn. Đức sáng Trần Thái Tông; được tiếp nối là Minh quân Trần Thánh Tông và Yên Tử Trần Nhân Tông đã trọng dụng được bậc thiên tài chính trị, quân sự, nhà văn Trần Quốc Tuấn. Quốc Công Tiết chế Hưng Đạo Đại Vương đã tổ chức quân dân Việt ba lần đánh tan đội quân Nguyên Mông mạnh nhất thế giới thời ấy . Thái Tông Thánh Tông Quốc Tuấn là ba đỉnh cao vọi của của tâm đức và trí tuệ. “Vua tôi đồng lòng, toàn dân gắng sức” Vua Trần Nhân Tông khi lên đỉnh Yên Tử có hỏi về ba đỉnh cao vọi trong dãy núi Nham Biền thăm thẳm kia là gì thì được trả lời đó là dãy núi Yên Phụ của vòng cung Đông Triều trấn Bắc. Đức Nhân Tông đã lạy Yên Phụ và chọn Yên Tử làm chốn an nghĩ nơi Cư trần lạc đạo của mình. Câu chuyện Trần Thái Tông và Trần Quốc Tuấn, minh quân ấy và thiên tài ấy lưu dấu muôn đời nơi đất Việt thật lạ lùng và sâu sắc thay.
Vua Trần Thái Tông người sáng nghiệp nhà Trần đã để lại cho đời câu nói nổ tiếng: “Nếu chỉ để lời nói suông cho đời sau, sao bằng đem thân mình đảm nhận trọng trách cho thiên hạ trước đã”. Thiên tài Trần Quốc Tuấn không thể phát lộ tỏa sáng nếu không có vua Trần Thái Tông minh quân đặc biệt hiếm có và tiếp nối là vua giỏi Trần Thánh Tông và vua Phật Trần Nhân Tông hết lòng “Vua tôi đồng lòng, toàn dân gắng sức” mới đạt được thành tựu như vậy.
Vua Trần Thái Tông không chỉ tha cho An Sinh Vương Trần Liễu là người chống lại Thái Tông và hận thù giữa họ sâu đến nỗi Trần Liễu còn di nguyện cho Trần Quốc Tuấn sau này nhất thiết phải đoạt lại ngôi vua. Vua Trần Thái Tông trước việc yêu thương của hai trẻ là Quốc Tuấn và Thiên Thành: Người con trai Quốc Tuấn thì dám lẻn vào cung Nhân Đạo Vương ngủ với người mình yêu mà không sợ cái chết. Người con gái là công chúa Thiên Thành thì đã dám chọn cái chết mà trao thân cho người mình yêu ngay trước hôm vua Trần Thái Tông đã sắp làm đám cưới cho Trung Thành Vương, con trai của Nhân Đạo Vương một vị quan đầu triều. Tình yêu đó, khí phách đó thật lớn lao.
Vua Trần Thái Tông tiếc tài của Trần Quốc Tuấn nên quyết không làm ngơ để Quốc Tuấn bị giết. Vua chủ động kết nối lương duyên cho hai người Thiên Thành và Quốc Tuấn bất chấp lẽ thường tình và bao dung không giết Trần Quốc Tuấn, con của Trần Liễu kẻ đang thù hận mình và đang “cố tình phạm tội ngông cuồng” trái nhân tình. Câu chuyện ứng xử mau lẹ và tuyệt vời của vua Trần Thái Tông với lòng yêu thương và trí tuệ cao cả đã ứng xử đặc biệt kiệt xuất và chủ động tác thành hạnh phúc cho công chúa Thiên Thành và Quốc Tuấn nên vợ chồng, hóa giải mọi điều, thu phục được tấm lòng của bậc anh hùng và giữ lại được cho non sông Việt một bậc kỳ tài muôn thuở là Đức Thánh Trần.
Chuyện lạ và hay hiếm thấy !
Mẹ tôi họ Trần. Tôi về dâng hương Đức Thánh Trần tại đền Tổ. Chùa cổ Thắng Nghiêm là nơi Đức Thánh Trần thuở nhỏ theo công chúa Thụy Bà về đây để tìm minh sư học phép Chọn người, Đạo làm tướng và viết nên kiệt tác quân sự chính trị kiệt xuất Binh thư Yếu lược, một trong hai tác phẩm quân sự cổ đại xuất sắc nhất Việt Nam từ trước đến nay (mời đọc Lời dặn lại của Đức Thánh Trần).
Trần Quốc Tuấn Quốc Công Tiết Chế Hưng Đạo Đại Vương là một trong mười nhà quân sự kiệt xuất nhất lịch sử Thế Giới và Việt Nam. Vương là nhà chính trị, nhà văn, tư lệnh tối cao của Việt Nam thời nhà Trần, đã ba lần đánh thắng đội quân Nguyên – Mông đế quốc hùng mạnh nhất thế giới thời đó.
Trần Hưng Đạo sinh năm 1232, mất ngày 20 tháng 8 âm lịch năm 1300, ông là con thứ ba của An Sinh Vương Trần Liễu, gọi Trần Thái Tông bằng chú ruột, mẹ ông là Thiện Đạo quốc mẫu, một người trong tôn thất họ Trần. Ông có người mẹ nuôi đồng thời là cô ruột là Thụy Bà công chúa [1]. Ông sinh ra ở kinh đô Thăng Long, quê quán ở thôn Tức Mặc, phường Lộc Vượng, thành phố Nam Định ngày nay[2]. Năm 1237, khi lên 5 tuổi ông làm con nuôi của người cô ruột là Thụy Bà công chúa, vì cha ông là Trần Liễu chống lại triều đình (Trần Thủ Độ). Đại Việt sử ký toàn thư mô tả ông là người có dung mạo khôi ngô, thông minh hơn người, nhờ được những người tài giỏi đến giảng dạy mà ông sớm trở thành người đọc thông hiểu rộng, có tài văn võ [3]
Vua Trần Thái Tông tên thật là Trần Cảnh, sinh ngày 16 tháng 6 năm 1218 mất ngày 1 tháng 4 năm 1277, là vị hoàng đế đầu tiên của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam. Ông ở ngôi hơn 32 năm (1225 – 1258), làm Thái thượng hoàng trong 19 năm. Trần Cảnh sinh ra dưới thời kỳ nhà Lý còn tại vị, ông cùng tuổi với vị Nữ hoàng nhà Lý lúc bấy giờ là Lý Chiêu Hoàng. Ông được Chiêu Hoàng yêu mến, hay gọi vào vui đùa, Trần Cảnh khi ấy không nói năng gì nhưng khi về đều nói lại với chú họ là Trung Vũ Vương Trần Thủ Độ. Nhà Lý thuở ấy loạn cung đình đã vào đỉnh điểm. Vua Lý tuy có hai con gái rất giỏi và thông minh, hiền hậu nhưng không có con trai nối dõi, trong khi hoàng tộc nhà Lý dòm ngó ngôi báu đều là những kẻ mưu mô và kém đức. Nước Đại Việt lúc đó bên ngoài thì họa ngoại xâm từ đế quốc Nguyên Mông đang rình rập rất gần, bên trong thì biến loạn bùng nổ liên tục nhiều sự kiện rất nguy hiểm. Trần Thủ Độ nắm thực quyền chốn cung đình, nhận thấy Trần Cảnh cháu mình cực kỳ thông minh đỉnh ngộ, thiên tư tuyệt vời xứng là một minh quân, lại được Lý Chiêu Hoàng yêu mến nên đã đặt cược việc sắp đặt hôn nhân giữa Trần Cảnh và Lý Chiêu Hoàng với họa diệt tộc Trần “tru di chín họ” nếu CHỌN LẦM NGƯỜI. Trần Thủ Độ đánh giá cao Trần Cảnh sau này là vua Trần thái Tông để quyết tâm thực hiện cuộc đổi họ trong lịch sử thực hiện chính biến cung đình. Sự kiện này xảy ra vào năm 1225, chấm dứt triều đại nhà Lý đã tồn tại hơn 200 năm và khai sáng nhà Trần.
Trớ trêu thay, Trần Thái Tông không có người kế vị chính danh phận, trong lúc sự chỉ trích và chống đối của tôn thất nhà Lý do Hoàng Thái hậu cầm đầu lại đẩy lên cao trào và rất nặng nề do Lý hoàng hậu (tức Lý Chiêu Hoàng) vợ Trần Thái Tông sinh con nhưng người con lại bị chết yểu ngay sau khi sinh. Sự dòm ngó cướp ngôi của nhiều kẻ tôn thất mượn tiếng có con trai nối dõi âm ưu phế vua đoạt quyền trong khi giặc ngoài lăm le sát biên ải, chỉ chờ trong nước có biến là hành động. Thuận Thiên công chúa là vợ của Trần Liễu khi ấy lại đang mang thai được 3 tháng. Năm 1237, Thái sư Trần Thủ Độ đang nắm thực quyền phụ chính đã ép Trần Liễu là cha của Trần Quốc Tuấn phải nhường vợ Thuận Thiên công chúa (chị của Lý Chiêu Hoàng) thay làm Chính cung Hoàng hậu cho Trần Thái Tông, đồng thời giáng Lý hoàng hậu xuống làm công chúa. Việc này khiến Trần Thái Tông bỏ lên tu ở núi Yên Tử. Người sau này đã chứng ngộ vận nước lâm nguy, cường địch bên ngoài câu kết nội gián bên trong không thể không xử thời biến “non sông đất nước Việt trên hết “. Người đã chấp nhận quay về “Nếu chỉ để lời nói suông cho đời sau, sao bằng đem thân mình đảm nhận trọng trách cho thiên hạ trước đã”. Trần Thái Tông đã chấp nhận sự sắp xếp của Triều đình. Sau này ngày 24 tháng 2 năm 1258, ông truyền ngôi cho Thái tử Trần Hoảng, là con thứ, (em của Trần Quốc Khang vốn con Trần Liễu) để lui về làm Thái thượng hoàng, Trần Thái Tông được tôn làm Hiển Nghiêu Thánh Thọ Thái Thượng Hoàng Đế. Trần Hoảng lên ngôi tức Trần Thánh Tông. Tước vị và thông lệ Thái thượng hoàng của nhà Trần từ đấy đã trở thành truyền thống, vừa rèn luyện cho vị Hoàng đế mới cai trị đất nước càng sớm càng tốt vừa tránh được việc tranh giành ngôi báu giữa các con do chính danh sớm được định đoạt, nhưng cái chính là xử lý được thực việc chính danh của vua con là con của Lý hoàng hậu tránh được thảm họa tranh chấp cung đình. Việc làm thái thượng hoàng sau này thành điển lệ tốt của triều Trần
Trần Liễu gửi con là Trần Quốc Tuấn cho Thụy Bà công chúa mai danh ẩn tích ở chùa Thắng Nghiêm tìm minh sư luyện rèn văn võ (Chùa cổ Thắng Nghiêm lưu nhiều dấu tích Trần Hưng Đạo mà sau này tôi may mắn được chứng kiến và giác ngộ . HK. Sau khi Trần Liễu gửi con, ông đã dấy binh làm loạn ở sông Cái, cuối cùng bị thất thế, phải xin đầu hàng. Trần Thủ Độ toan chém nhưng Trần Thái Tông liều chết đưa thân mình ra ngăn cãn buộc lòng Thủ Độ phải tự mình ném bảo kiếm xuống sông. Trần Liễu được tha tội nhưng quân lính theo ông làm phản đều bị giết sạch và vua Thái Tông đã đổi ông làm An Sinh vương ở vùng đất Yên Phụ, Yên Tử thuộc tỉnh Quảng Ninh ngày nay.
Trần Quốc Tuấn từ 5 tuổi đã được minh sư rèn luyện tỏ ra và một vị nhân tướng lỗi lạc phi phàm lúc trở về sớm được Trần Thái Tông quý trọng vì đức độ và tài năng vượt bậc so trong số con cháu vương thất. Qua sự biến Trần Quốc Tuấn yêu thương công chúa Thiên Thành, là con gái của vua Trần Thái Tông, nhân lễ hội trăng rằm nửa đêm đã lẻn vào chỗ ở của công chúa và thông dâm với nàng[5]. Thời nhà Trần đã có quy định, để tránh ngôi vua truyền ra ngoài, chỉ có người trong tộc mới được lấy nhau nên kết hôn cùng huyết thống là điều không lạ và chuyện “quái” ấy cũng là để khuất tất việc Trần Thái Tông lấy vợ Trần Liễu không bị người đời đàm tiếu.
Thật oái oăm sự lựa chọn sinh tử, công chúa Thiên Thành, người mà Trần Quốc Tuấn yêu say đắm, là con vua Trần Thái Tông năm 1251 đã đính ước gả cho Trung Thành Vương là con trai của Nhân Đạo Vương, vị vương đầu triều. Vua đã nhận sính lễ, thông báo đến mọi đại thần và đã chuẩn bị tiệc cưới. Trần Quốc Tuấn nửa đêm trăng rằm đột nhập vào phòng riêng công chúa tại dinh thự của Nhân Đạo Vương. Đôi trai gái trẻ đã đồng lòng dâng hiến cho nhau và Quốc Tuấn nói với công chúa Thiên Thành sai thị nữ đi gặp Công chúa Thụy Bà cấp báo với vua ngay trong đêm về việc Quốc Tuấn Thiên Thành đồng lòng làm việc ấy. Vua hỏi có việc gì, Thụy Bà trả lời:“Không ngờ Quốc Tuấn ngông cuồng càn rỡ, đang đêm lẻn vào chỗ Thiên Thành, Nhân Đạo đã bắt giữ hắn rồi, e sẽ bị hại, xin bệ hạ rủ lòng thương, sai người đến cứu”. Trần Thái Tông vội sai người đến dinh Nhân Đạo vương, vào chỗ Thiên Thành, thì thấy Trần Quốc Tuấn đã ở đấy. Hôm sau, Thụy Bà công chúa dâng 10 mâm vàng sống đến chỗ Trần Thái Tông xin làm lễ cưới Thiên Thành công chúa cho Trần Quốc Tuấn. Thái Tông bắt đắc dĩ phải gả công chúa cho ông và lấy 2000 khoảnh ruộng ở phủ Ứng Thiên để hoàn lại sính vật cho Trung Thành vương[5].Tháng 4 năm đó, Trần Liễu ốm nặng. Lúc sắp mất, Trần Liễu cầm tay Trần Quốc Tuấn, trăng trối rằng: “Con không vì cha lấy được thiên hạ, thì cha chết dưới suối vàng cũng không nhắm mắt được”. Trần Quốc Tuấn ghi để trong lòng, nhưng không cho là phải.
Câu chuyện Trần Quốc Tuấn yêu thương công chúa Thiên Thành và đã dám lấy tính mạng của mình để làm liều, mấy ai thấu hiểu đó là phép biến Dịch của quy tắc “Chọn người” tin yêu mình trong thực tiễn trước khi trao sinh mệnh đời mình cho Người đó.
Tôi ghi thêm ngoại truyện về hai chuyện ‘quái’ có thật trong lịch sử để làm rõ hơn câu chuyện và bài học lịch sử của Trần Thái Tông và Trần Quốc Tuấn, với chiến công nhà Trần ba lần đánh thắng quân Nguyên và những trang binh thư kiệt tác muôn đời của nhân loại.
Trần Thái Tông và Trần Quốc Tuấn vua tôi đồng lòng, toàn dân đồng sức’ có minh quân ấy và có lương tướng thiên tài ấy đã tỏa sáng và trao lại cho hậu thế muôn đời dân Việt một bài học lịch sử vô giá. ‘KẾ SÁCH MỘT CHỮ ĐỒNG‘ minh quân lương tướng đồng lòng cố kết lòng dân thì mọi nguy khó đều vượt qua.
Trung Hoa và Việt Nam cùng có vua Thái Tông. Nhà Đường có vua Đường Thái Tông húy là Lý Thế Dân, niên hiệu Trinh Quán, là vua thứ hai của nhà Đường. Việt Nam có vua Trần Thái Tông húy là Trần Cảnh, niên hiệu Nguyên Phong, là vua đầu tiên của nhà Trần. Miếu hiệu tuy giống nhau nhưng đức độ lại khác nhau.
ĐƯỜNG THÁI TÔNG (627-650)
Vua Đường Cao Tổ (Lý Uyên) có ba con trai, con trưởng là Lý Kiến Thành, kế đến là Lý Thế Dân và Lý Nguyên Cát.
Sau khi dứt được nhà Tùy, Lý Uyên lên ngôi tức là Đường Cao Tổ (618-627), phong cho con trưởng là Lý Kiến Thành làm Thái tử, con thứ là Lý Thế Dân làm Tần Vương và Lý Nguyên Cát làm Tề Vương.
Trong ba người con thì Lý Thế Dân có công hơn cả, giỏi võ nghệ, có tài thao lược và theo cha đánh thắng nhiều trận lớn. Việc khởi binh chiếm Thái Nguyên phủ rồi Trường An để lập căn cứ đều do ông đề xuất. Trong những cuộc chiến sau đó, ông lập được nhiều chiến công hiển hách. Nguyên Cát cũng khá, chỉ có Kiến Thành là kém nhất.
Lý Thế Dân là viên tướng biết trọng dụng nhân tài. Dưới trướng ông, bên văn có mười tám học sĩ tên tuổi như Phòng Huyền Linh, Đỗ Như Hối, Ngụy Trưng… bên võ có các dũng tướng danh tiếng vang lừng như Uất Trì Kính Đức, Tần Thúc Bảo, Trình Giảo Kim… Thái tử Kiến Thành biết mình kém thế, e rằng cái ngôi Thái tử không vững nên hợp cùng Nguyên Cát để loại trừ Lý Thế Dân.
Có lần Kiến Thành mời Thế Dân đến Đông cung uống rượu. Bị trúng độc, Thế Dân đau bụng dữ dội, thủ hạ phải vực về cung, ông bị thổ huyết, thuốc thang mãi mới khỏi. Ông biết bị anh mình đầu độc nhưng không phản ứng gì. Kiến Thành còn dùng một xe vàng bạc mua chuộc Uất Trì Kính Đức nhưng thất bại.
Nhân lúc rợ Đột Quyết xâm phạm Trung Nguyên, Kiến Thành tâu vua cha cử Nguyên Cát đem binh đi chinh phạt thay cho Lý Thế Dân. Đường Cao Tổ chuẩn tấu. Sau khi được phong làm chủ soái, Lý Nguyên Cát xin ba viên đại tướng của Thế Dân là Uất Trì Kính Đức, Tần Thúc Bảo và Trình Giảo Kim cùng binh lính dưới quyền họ sáp nhập vào đạo quân của mình, cốt để lực lượng của Thế Dân suy yếu.
Biết được âm mưu đó, Thế Dân lập tức cho mời người con cậu là Trưởng Tôn Vô Kỵ và Uất Trì Kính Đức đến bàn bạc. Hai người khuyên Thế Dân nên ra tay trước, nếu không thì chết cả nút. Thế Dân ban đầu còn do dự vì ngại anh em tàn sát lẫn nhau, nhưng trước quyết tâm của hai người, cuối cùng ông cũng phải nghe theo.
Ngay đêm đó, Thế Dân vào cung tâu với vua cha về việc Kiến Thành và Nguyên Cát âm mưu hại mình. Đường Cao Tổ truyền cho ba con sáng hôm sau phải vào cung để ông xét hỏi.
Sáng sớm hôm sau, Thế Dân sai Trưởng Tôn Vô Kỵ và Uất Trì Kính Đức dẫn một toán tinh binh mai phục tại cửa Huyền Vũ phía bắc hoàng cung. Lát sau, Kiến Thành và Nguyên Cát cưỡi ngựa tới, thấy tình hình có vẻ khác thường liền quay ngựa bỏ chạy. Lý Thế Dân phóng ngựa ra kêu to: – “Điện hạ đừng đi”. Nguyên Cát quay lại định bắn chết Thế Dân, nhưng vì run quá không giương cung lên được. Thế Dân nhanh tay bắn một phát giết chết Kiến Thành trên lưng ngựa. Ngay lúc đó, Uất Trì Kính Đức dẫn kỵ binh xông ra bắn chết Nguyên Cát.
Vua Cao Tổ đang chờ ba con đến thì Uất Trì Kính Đức hộc tốc chạy vào báo tin: “Thái tử và Tề Vương nổi loạn, Tần Vương đã giết chúng rồi”, vua Cao Tổ đau xót, ngồi lặng đi không nói nên lời (1).
Sau đó, Thế Dân được phong làm Thái tử và được vua cha nhường ngôi. Năm 627, ông lên ngôi, niên hiệu Trinh Quán, tức là vua Đường Thái Tông. Vẫn biết Thế Dân ở vào cái thế chẳng đặng đừng, nhưng việc ông giết cả anh và em ruột của mình để tranh ngôi Thái tử cũng bị người đương thời và đời sau phê phán.
TRẦN THÁI TÔNG (1225-1258)
Trần Thái Tông huý là Trần Cảnh, lên ngôi năm 1225 do vợ là Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi. Ông lấy niên hiệu Kiến Trung, Thiên Ứng Chính Bình rồi Nguyên Phong (1251-1258). Lúc lên ngôi ông mới 8 tuổi, mọi việc trong triều đều do một tay Trần Thủ Độ quyết đoán.
Khi Chiêu Hoàng mới lên ngôi, Thái hậu là Trần thị cùng với người anh họ là Trần Thủ Độ nắm chính trị bên trong, bên ngoài, chọn con em các quan viên đưa vào cung chầu hầu hoàng đế. Thủ Độ lại đưa cháu mình là Trần Cảnh vào hầu Chiêu Hoàng. Chiêu Hoàng rất yêu thích Trần Cảnh, mỗi khi buồn thì cho gọi Trần Cảnh vào chơi, khi thì trêu chọc, khi thì tặng Cảnh chiếc khăn trầu, tình cảm giữa hai người ngày càng thêm đằm thắm. Từ đó họ cùng ở với nhau như vợ chồng.
Thủ Độ sợ việc tiết lộ mới đem gia thuộc thân thích vào trong cung cấm, sai đóng cửa thành và các cửa cung, cắt người coi giữ, các quan không được vào chầu.
Một hôm Thủ Độ loan báo với các quan rằng: “Bệ hạ đã có chồng rồi”, các quan xin vào lạy mừng. Ngày 11, tháng 12, Chiêu Hoàng đặt hội lớn ở điện Thiên An, ngự trên bảo sàng, các quan vào chầu lạy ở dưới sân. Chiêu Hoàng trút bỏ ngự bào, mời Trần Cảnh lên ngôi hoàng đế tức là vua Trần Thái Tông, đổi niên hiệu là Kiến Trung năm thứ nhất (1225).
Lý Chiêu Hoàng trở thành Chiêu Thánh Hoàng hậu. Bà lấy vua Thái Tông đã 12 năm mà không có con, tuy mới 19 tuổi. Trần Thủ Độ rất lo không có người kế vị, bèn bắt vua Thái Tông phải bỏ bà, giáng xuống làm Chiêu Thánh công chúa, rồi bắt chị bà là vợ của Hoài vương Trần Liễu (anh Trần Cảnh) đem vào cung phong làm Thuận Thiên Hoàng hậu vì bà này đang có thai ba tháng (bắt vua lấy chị dâu) sau sinh ra Quốc Khang (2).
Trần Liễu rất phẫn nộ vì mất vợ, họp quân ngoài sông lớn làm loạn. Vua Thái Tông lòng cũng không yên, đêm trốn ra khỏi thành đến ở nhà Kinh Vân quốc sư (quốc sư là bạn cũ của Thái Tông) trên núi Yên Tử.
Hôm sau Thủ Độ đem các quan đến đón vua về. Vua nói : “Trẫm còn ít tuổi, không kham nổi việc lớn, Thượng hoàng (Trần Thừa) đã vội lìa bỏ, sớm mất chỗ nhờ cậy, không dám ở ngôi vua để làm nhục xã tắc”. Thủ Độ cố nài xin, vua vẫn không nghe. Thủ Độ bèn bảo các quan rằng: “Vua ở đâu thì triều đình ở đó”. Bèn cắm nêu trong núi, bắt chước các tên như điện Thiên An, các Đoan Minh… sai thợ xây dựng. Quốc sư nghe thấy vội xin vua rằng: “Bệ hạ nên gấp trở về, đừng để làm nát núi rừng của đệ tử”, vua mới chịu về cung (Theo Đại Việt sử ký tiền biên) (3).
Được hai tuần, Trần Liễu biết mình thế cô, sức không địch nổi Thủ Độ nên nhân khi vua Thái Tông ngự thuyền vãn cảnh trên sông, ông mới ngầm đi thuyền độc mộc, giả làm người đánh cá, lẻn đến thuyền ngự tạ tội. Hai anh em ôm nhau mà khóc. Thủ Độ nghe thấy, đến thẳng thuyền vua, rút gươm thét lớn “Giết thằng giặc Liễu”. Vua vội vàng giấu Liễu trong thuyền rồi bảo Thủ Độ rằng: “Phụng Càn vương (Phụng Càn là hiệu của Liễu thời Lý) đến hàng rồi đấy”, đoạn lấy thân mình che cho Liễu nên Thủ Độ không chém được.
Thủ Độ giận lắm, quăng gươm xuống sông nói: “Thủ Độ này chỉ là con chó săn cho các người thôi. Thế này thì còn hiểu thế nào là lẽ thuận nghịch!”. Vua hòa giải rồi bảo Thủ Độ mang quân về. Thủ Độ sai giết hết những binh lính theo Trần Liễu làm loạn.
Vua Thái Tông biết nếu để Trần Liễu ở kinh đô thì khó toàn tính mạng với Thủ Độ nên cắt đất Yên Phụ, Yên Dưỡng, Yên Sinh, Yên Hưng và Yên Bang (thuộc tỉnh Hải Dương) cấp cho Trần Liễu làm thái ấp và phong làm An Sinh Vương.
THƠ VỀ HAI VUA THÁI TÔNG
Do việc vua Đường Thái Tông của Trung Hoa giết anh là Kiến Thành để đoạt ngôi Thái tử, còn vua Trần Thái Tông của Đại Việt không ngại nguy hiểm, lấy thân mình để che đỡ cho anh là Trần Liễu khỏi bị Thủ Độ giết nên hậu duệ của vua Trần Thái Tông là vua Trần Dụ Tông (1341-1369) làm thơ ca ngợi cái đức của tiên vương mình:
Phiên âm:
Đường Thái Tông dữ bản triều Thái Tông
Đường, Việt khai cơ lưỡng Thái Tông,
Bỉ xưng Trinh Quán, ngã Nguyên Phong.
Kiến Thành tru tử, An Sinh tại,
Miếu hiệu tuy đồng, đức bất đồng.
Dịch nghĩa:
Vua Thái Tông nhà Đường với vua Thái Tông triều ta
Đường và Việt đều có vua mở mang cơ nghiệp thụy là Thái Tông,
Bên họ xưng là Trinh Quán, bên ta xưng là Nguyên Phong.
Kiến Thành bị giết chết, An Sinh thì được sống,
Miếu hiệu tuy giống nhau nhưng đức độ lại khác nhau.
Đào Phương Bình dịch thơ:
Sáng nghiệp Việt, Đường hai Thái Tông,
Đường xưng: Trinh Quán, Việt: Nguyên Phong.
Kiến Thành bị giết, An Sinh sống,
Miếu hiệu tuy đồng, đức chẳng đồng.
(1)
Sách Đại Việt sử ký toàn thư (NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1985) cho rằng: Biến cố ở cửa Huyền Vũ (Thế Dân giết Kiến Thành và Nguyên Cát) xảy ra sau khi Đường Cao Tổ chết (tập II, trang 40, trong phần chú thích) nhưng theo bộ Lịch sử Trung Quốc 5000 năm của Lâm Hán Đạt và Tào Dư Chương (Trung Quốc) thì việc ấy xảy ra khi Đường Cao Tổ còn sống (NXB Văn Hóa Thông Tin, Hà Nội, tập II trang 309). Cuốn Sử Trung Quốc của Nguyễn Hiến Lê (NXB Văn Hóa Thông Tin, Hà Nội, 1997) cũng viết như bộ Lịch sử Trung Quốc 5000 năm (tập II trang 294).
(2)
Quốc Khang là con của Trần Liễu và Thuận Thiên công chúa. Khoảng năm 1267 (Thiệu Long thứ 10) vào mùa đông, vua (Thánh Tông – Trần Hoảng) vào chầu Thượng hoàng. Vua cùng với anh là Quốc Khang đùa nhau trước mặt Thượng hoàng. Quốc Khang múa kiểu người Hồ, Thượng hoàng cởi áo bông đang mặc ban cho Quốc Khang. Vua cũng múa kiểu người Hồ để xin áo. Quốc Khang nói: “Cái quí nhất là ngôi hoàng đế, thần không dám tranh với chú hai. Nay đức chí tôn cho thần vật nhỏ này mà chú hai lại muốn cướp lấy chăng? Thượng hoàng cả cười nói: “Mày coi ngôi vua với chiếc áo thường này không hơn kém nhau sao?” rồi cho Quốc Khang cái áo ấy. Họ thoả chí vui đùa rồi về (theo Đại Việt sử ký tiền biên).
(3)
Theo Ngoại truyện: Giờ Tý, ngày rằm, tháng tư năm Bính Thân, Thái Tông cùng bảy cận thần bơi qua sông Bàn Than đến chùa Hoa Yên trên núi Yên Tử gặp Trúc Lâm thiền sư muốn xin được trụ trì ở đó. Không bao lâu, Thủ Độ cùng quần thần đến đón vua về. Vua hỏi thiền sư, thiền sư tâu rằng: “Kể ra người làm vua phải lấy lòng dân làm lòng mình, ý muốn của dân làm ý muốn của mình. Nay dân tình như thế, xin xe vua hãy tạm trở về, những việc kê cứu về nội điển thì nên chớ quên tu tâm luyện tính. Sau này hoàng tử khôn lớn, có thể nhường được ngôi thì lúc đó hãy vào núi tu luyện cũng được”. Vua cho lời nói đó là phải mới trở về kinh. Sau này, khi nhường ngôi cho Thánh Tông, vua mới hơn 40 tuổi đã có ý chán trần tục, muốn tu luyện, cho nên các vua triều Trần đều noi theo việc cũ. Có lẽ đó là hiểu được cái bí quyết của Trúc Lâm. Nhà Trần sùng Phật, trọng tăng cũng bắt đầu từ đó (theo Đại Việt sử ký tiền biên).
“Yên Sinh Vương trước đây vốn có hiềm khích với Chiêu Lăng [Vua Trần Thái Tông] , mang lòng hậm hực, tìm khắp những người tài nghệ để dạy Quốc Tuấn. Lúc sắp mất, Yên Sinh cầm tay Quốc Tuấn giối giăng rằng:
“Con không vì cha lấy được thiên hạ, thì cha chết dưới suối vàng cũng không nhắm mắt được?.
Quốc Tuấn ghi điều đó trong lòng, nhưng không cho là phải.” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 6.
BÀI ĐỒNG DAO HUYỀN THOẠI Hoàng Kim
Tháng 6 năm 1950 nhà văn Sơn Tùng được cụ Nguyễn Sinh Khiêm anh ruột Bác Hồ tặng sách “ Tất Đạt tự ngôn” kể chuyện Bài đồng dao huyền thoại: Năm 1895 Hồ Chí Minh lúc ấy là Nguyễn Sinh Cung đã có bài thơ “Biển là ao lớn Thuyền là con bò Thuyền ăn no gió Lội trên mặt nước Em nhìn thấy trước Anh trông thấy sau Ta lớn mau mau Vượt qua ao lớn” xem tiếp http://lethuy.edu.vn/index.aspx?u=nws&su=d&cid=350&id=3478