Số lần xem
Đang xem 473 Toàn hệ thống 869 Trong vòng 1 giờ qua
Trang liên kết
Tỉnh thức
giữa đêm thiêng Yên Tử
Để thấm hiểu đức Nhân Tông
Ta thành tâm đi bộ
Lên tận đỉnh chùa Đồng
Tâm sáng Ức Trai
trong tựa ngọc TÌNH YÊU CUỘC SỐNG
DẠY VÀ HỌC Để chấn hưng giáo dục Việt Nam cấp thiết phải có đội ngũ những người thầy giáo ưu tú có tâm đức thiết tha với nghề, có trình độ chuyên môn cao và có kỹ năng giảng dạy tốt. Đây là trang thông tin chuyên đề dạy và học để trao đổi và bàn luận
Norman Borlaug Lời Thầy dặn Việc chính đời người chỉ ít thôi
Chuyên tâm đừng bận chuyện trời ơi
Phúc hậu suốt đời làm việc thiện
Di sản muôn năm mãi sáng ngời.
Bến Lội, Bốn Miếu tinh anh
Cồn Dưa, Đá Đứng kết thành Bắc Nam
Rào Nan, Chợ Mới, Nguồn Son
Làng tôi khoai lúa thơm hương quê nhà
anh Hoàng Trung là người đồng hương Làng Minh Lệ khi đọc bài thơ trên có góp ý: Hoàng Kim xa quê lâu nên có thể không nhớ. Làng Minh Lệ có Nghè Bốn Miếu (không có Bến Lội Đền Bốn Miếu đâu). Tôi trả lời anh: Làng Minh Lệ có Bến Lội Nghè Bốn Miếu nhưng Đền Bốn Miếu là ngôi đền thiêng tâm thức rất xứng đáng với quê hương anh hùng trong quần thể du lịch sinh thái. Tôi trao đổi sâu hơn tại năm ý:1) Đền, Miếu, Nghè, Đình, Am; 2) Cầu Minh Lệ Rào Nan 3) Bến Lội Đền Bốn Miếu 4) Đá Đứng chốn sông thiêng; 5) Quê Mẹ vùng di sản (Cao Biền trong sử Việt; Vạn Xuân nơi An Hải; Đồng Xuân lưu người hiền; Đào Duy Từ còn mãi). Thông tin tại http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlong và https://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-16-thang-9/
ĐỀN MIẾU NGHÈ ĐÌNH AM
Đền, miếu, nghè, đình, am là những thuật ngữ văn hóa Việt xác định rõ danh xưng của chủ thể để bảo tồn và có thể chuyển hóa công năng phù hợp, tùy theo bản chất và thời thế.
Đền là công trình kiến trúc được xây dựng để thờ cúng những nhân vật lịch sử được tôn kính như thần thánh..Đền thờ Việt Nam được xây dựng phổ biến ghi ơn các bậc anh hùng hay các bậc tiên hiền có công đức với nước với dân như Đền Hùng, đền Kiếp Bạc, đền Trần, đền Sóc (nơi gắn với truyền thuyết anh hùng thánh Gióng bay về trời sau khi đánh thắng giặc Ân), đền Bạch Mã, đền Quán Thánh, đền bến Tượng (A Sào Vũ Thư thờ con voi chiến của đức Trần Quốc Tuấn) (xem thêm để phân biệt đền thờ Đào Duy Từ và từ đường Đào Duy Từ)
Miếu có quy mô nhỏ hơn đền,.là một dạng di tích văn hóa trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam Đối tượng được thờ ở miếu rất đa dạng (dạng miếu lớn như Hưng Tổ Miếu ở di sản văn hóa Huế ,cách Thế Miếu chừng 50 mét về phía Bắc, dạng miếu vừa như miếu Sơn thần, miếu Thủy thần,. miếu Thổ thần, thường được xây trên gò cao, nơi sườn núi, bờ sông hoặc đầu làng, cuối làng, những nơi yên tĩnh để quỷ thần có thể an vị, không bị mọi sự ồn ào của đời sống dân sinh. dạng miếu nhỏ như miếu Cô, miếu Cậu) Miếu trong các ngày giỗ thần làng mở tế lễ, mở hội, nghinh rước thần từ miếu về đình. Tế lễ xong, lại rước thần từ đình về miếu..Miếu nhỏ còn được gọi là miễu (theo cách gọi của người miền Nam).
Nghè là một hình thức của đền miếu. Nghè thờ thành hoàng của làng nhỏ được tách ra từ làng gốc, hoặc một ngôi đền nhỏ của một thần trong xã nhằm thích ứng với dân sở tại để tiện sinh hoạt tâm linh khi ngôi đền chính khó đáp ứng được nhu cầu thờ cúng thường nhật.
Đình là nơi thờ Thành hoàng của làng, đồng thời là nơi hội họp, bàn việc làng. Đình được coi là trung tâm sinh hoạt văn hóa gắn bó với một cộng đồng cư dân Việt Nam.Thành hoàng là người có công với dân, với nước, lập làng, dựng ấp hay sáng lập nên một nghề (ông tổ của nghề). Đình có lưu giữ sắc phong của vua cho đức Thành hoàng để lưu giữ chứng tích; Ngày nay, Bộ Văn hóa Thông tin Việt Nam có Bằng Công nhân Di tích lịch sử Văn hóa số Quyết định. đối với chứng tích được xác nhân
Đình làng Minh Lệ xã Quảng Minh, huyện Quảng Trạch (nay là thị xã Ba Đồn) Tỉnh Quảng Bình có Bằng Công nhân Di tích lịch sử Văn hóa Di tích được xếp cấp Quốc gia theo Quyết định số 1430 QĐ/BT ngày 12 tháng 10 năm 1993 của Bộ Văn hóa Thông tin. Đình được xây dựng vào thời ‘Hồng Đức Lê Triều’. Trùng tân năm Bảo Đại nhị niên năm 1927, trùng tu vào các năm 1998, 2003, 2011 và chống xuống cấp năm 2018. Đình thờ Thành hoàng làng Trung lang Thượng tướng quân Trương Hy Trọng và các vị Thần tổ của bốn họ Trương, Nguyễn, Hoàng, Trần. Đình là nơi diễn ra các lễ hội của làng, nơi gắn liền với những sự kiện lịch sử tiêu biểu trong thời kỳ vận động thành lập Đảng, khởi nghĩa giành chính quyền cách mạng tháng Tám năm 1945 và trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ của dân tộc. Đình là chứng nhân sự hi sinh to lớn và những chiến công xuất sắc của xã Quảng Minh đơn vị anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Bia dựng năm 2018.
Am là một kiến trúc nhỏ thờ Phật, thường được mô tả như ngôi nhà nhỏ, tu tại tâm, để con cái khi cha mẹ còn thì hiếu kính cha mẹ, khi cha mẹ mất thì tu tâm dưỡng tánh, làm nơi ở, nơi đọc sách, nơi thờ Phật, tổ tiên và cha mẹ theo đạo thờ ông bà của người Việt.(Hương Hải am tức Chùa Thầy, Thọ Am tức Chùa Đậu Hà Tây…) cũng có khi am là ngôi miếu nhỏ thờ thần linh của xóm làng. Miếu thờ thần linh ở làng hoặc miếu cô hồn ở bãi tha ma cũng gọi là Am. Tại vùng đồi Ma Ca Đá Đứng Làng Minh Lệ có miếu cổ ‘cao cát mạc sơn’ .
Bến Lội Nghè Bốn Miếu Làng Minh Lệ là quen dùng nhưng BẾN LỘI ĐỀN BỐN MIẾU là chính xác trong tâm thức và định hướng một điểm nhấn của quần thể vùng du lịch sinh thái thị xã Ba Đồn.
CẦU MINH LỆ RÀO NAN
Cầu Minh Lệ gần Đá Đứng, Bến Lội Đền Bốn Miếu, khi xưa và ngày nay đều được coi là một trọng điểm chính yếu trong hệ thống huyết mạch Nam Tiến của người Việt. Quảng Bình là nơi hẹp nhất Việt Nam, là địa bàn đặc biệt quan trọng trong chiến tranh bảo vệ Tổ Quốc và thống nhất đất nước. Quàng Bình từ biển Đông sang Lào chỉ khoảng 50 km. Một cuộc chiến uy lực rất mạnh, thần tốc, bất ngờ có thể bẻ gãy Việt Nam làm đôi ở địa bàn xung yếu Quảng Bình này. Do vậy, điểm huyệt địa linh phong thủy nhằm hội tụ thiên thời địa lợi nhân hòa tại nơi sinh tử trọng điểm này của vận nước, thế núi, mạch sông, người hiền tài, tướng giỏi, lòng dân để kết nối thống nhất Bắc Nam, bước qua lời nguyền là nơi chia cắt đôi bờ (Linh Giang/ sông Gianh / Ranh (giới)
Cao Biền (xem Cao Biền trong sử Việt) đã lưu hậu thế tấm bản đồ Việt Nam thời Đường (hình) khi mà Cao Biền làm Tỉnh Hải Quân năm 864 – 868 và Cao Tầm tiếp nối năm 868 – 878 với chú giải về con người, thế núi, mạch sông đất Việt. Cao Biền là danh tướng, đạo sư, nhà phong thủy và tiên tri trứ danh. Cao Vương là người được vua Lý Thái Tổ là vua Lý Công Uẩn vị vua sáng nghiệp nhà Lý tôn vinh là “Hoàng Thành Thăng Long công lớn Cao Vương”. Chiếu dời đô do vua Lý Thái Tổ ban hành vào mùa xuân năm 1010 để chuyển kinh đô của nước Đại Cồ Việt từ Hoa Lư (Ninh Bình) ra thành Đại La (Hà Nội). (trích) Huống chi thành Đại La, kinh đô cũ của Cao Vương, ở vào nơi trung tâm trời đất, được thế rồng cuộn hổ ngồi, chính giữa nam bắc đông tây, tiện nghi núi sông sau trước. Vùng này mặt đất rộng mà bằng phẳng, thế đất cao mà sáng sủa, dân cư không khổ thấp trũng tối tăm, muôn vật hết sức tươi tốt phồn thịnh. Xem khắp nước Việt đó là nơi thắng địa, thực là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương, đúng là nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời.Trẫm muốn nhân địa lợi ấy mà định nơi ở, các khanh nghĩ thế nào? Bản dịch của Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, in trong Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1993). Nguyên văn: 况高王故都大羅城。宅天地區域之中。得龍蟠虎踞之勢。正南北東西之位。便江山向背之宜。其地廣而坦平。厥土高而爽塏。民居蔑昏墊之困。万物極繁阜之丰。遍覽越邦。斯爲勝地。誠四方輻輳之要会。爲万世帝王之上都。朕欲因此地利以定厥居。卿等如何。). Cao Biền tại Đá Đứng Làng Minh Lệ cũng lưu miếu thờ và huyền thoại “cao cát mạc sơn”, người đã ném bút thần tạo nên. Vợ Cao Biền là Lã Thị Nga, ngày nay dân làng vẫn thờ làm thành hoàng của nghề tằm tơ dệt lụa tại làng Vạn Phúc, Hà Đông. Mộ Cao Biền ở thôn 5 đầm Môn xóm Cát, Tuy An, Phú Yên vẫn lưu truyền huyền thoại ngàn năm. Ông đã bỏ tối theo sáng, hai vợ chồng đều về làm dân Việt. Chuyện này còn dài và kể trong nhiều thần tích khác. Sự thật lịch sử sẽ dần được sáng tỏ đối với những ai ‘chân chính bao nhiêu phúc bấy nhiêu” thật lòng sống chết với dân Việt.
Từ cầu Minh Lệ gần Đá Đứng, Bến Lội Đền Bốn Miếu, theo đường tắt thượng đạo là lối đi nhanh nhất, bất ngờ nhất để đến hệ thống Lũy Thầy Đào Duy Từ . Lịch sử Việt Nam nhiều trận chiến nổi tiếng có liên quan đến trục đường thiên lý thượng đạo Đông Trường Sơn thuở xưa tới Lũy Thầy gồm Lũy Trấn Ninh, Lũy Trường Dục, Lũy Trường Sa, gần cầu / phà Long Đại).
‘Linh Giang ơi Linh Giang / Với Hoành Sơn, Lũy Thầy / Tuyến ba tầng thủ hiểm / Đá Đứng chốn sông thiêng’ những câu thơ trên của Hoàng Kim là giản lược kế lớn của quan Nội tán Đào Duy Từ thời chúa Nguyễn Phúc Nguyên. Kế sách đó mời xem tại Đào Duy Từ còn mãi. Kế của Đào Duy Từ là nhà Nguyễn muốn Nam tiến thành công phải khóa được quân Trịnh ở mặt Bắc bằng hệ thống phòng thủ chiều sâu liên hoàn ba tầng gồm Hoành Sơn, Linh Giang và Lũy Thầy. Quân Trịnh vượt qua được hai tầng phòng thủ bên ngoài, khi đến tầng thứ ba là lũy Thầy thì như viên đạn đuối tầm không còn sức công phá nữa.
Thượng Đức thương nhìn lại là đúc kết của Hoàng Kim về trang sử mới vận dụng mưu kế cũ. Lữ Giang có bài “Thường Đức: Trận đánh quyết định số phận của miền Nam!”. Nơi đây là “mắt ngọc của đầu rồng“, (chữ của tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu). Đó là cuộc đọ sức quyết liệt nhất của cả hai bên đối chiến với những lực lượng tinh nhuệ nhất trên chiến trường cuối năm 1974. Những vị tướng của trận đánh lớn: Ba lần vào “Kỳ Sơn” Thượng Đức.Từ trái qua phải: Thiếu tướng Hoàng Đan, Đại tướng Võ Nguyên Giáp (giữa), Đại tướng Lê Trọng Tấn (cuối phải). Thường Đức là lũy Thầy Đào Duy Từ, “Kỳ Sơn” Việt Nam, nơi Quân đoàn 2 Quân đội Nhân dân Việt Nam gìm chân sư đoàn Nhảy Dù, sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến, sư đoàn 1 bộ binh đóng ở phía bắc đèo Hải Vân, sư đoàn 2 và sư đoàn 3 bộ binh đóng ở phía nam đèo Hải Vân cùng với nhiều đơn vị biệt động quân, địa phương quân, nghĩa dũng quân của quân lực Việt Nam Cộng hòa để Quân đoàn 3 thực hiện được cú đánh điểm huyệt Buôn Ma Thuột làm sụp đổ khả năng phòng thủ của chính quyền Sài Gòn, dẫn đến trận thắng 30 tháng Tư năm 1975.
Trận Thường Đức là dấu hỏi lớn của lịch sử. “Ngày xưa, khi đến cai trị Đông Dương, người Pháp đã nhận ra ngay tầm quan trọng của cái chốt Thường Đức trên đường 14, nên đã lập một đồn tại đó để kiểm soát. Chính phủ Ngô Đình Diệm cũng đã nhận ra tầm quan trọng của Thường Đức trên đường tiến quân của Bắc Việt, nên đã biến Thường Đức thành một quận và hình thành Chi Khu Thường Đức để trấn giữ. Mỹ can thiệp vào Đông Dương cũng đã đánh giá cao tầm quan trọng của Thường Đức, nên đã tìm cách khóa chặt chốt này, không cho Cộng quân di chuyển xuống miền Nam. Cộng quân phải sử dụng con đường Tây Trường Sơn trên đất Lào rất vất vả.” Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu gọi Thượng Đức là “mắt ngọc của đầu rồng“.
Ngã ba sông Con, sông Cái và sông Vu Gia hiểm yếu lạ lùng giống hệt như Đá Đứng chốn sông thiêng Rào Nan, Nguồn Son và Linh Giang của Quảng Bình. Thường Đức là lũy Thầy Đào Duy Từ, Kỳ Sơn của Khổng Minh. Các chuyên gia quân sự Mỹ và quân lực Việt Nam Cộng hòa cũng tính toán việc ngăn chặn sự xâm nhập của Cộng quân Bắc Việt bằng cách thiết lập tuyến phòng thủ ba tầng ở đất lửa Quảng Bình, “hàng rào điện tử Măc na ma ra” với ” chốt bẫy Khe Sanh” Quảng Trị và “hiểm địa” Thường Đức để ngăn chặn sự tiếp liệu và vận chuyển quân với khí tài quân sự, xăng dầu với lương thực nhu yếu thuốc men tối quan trọng của tuyến đường huyết mạch Trường Sơn Đông.
Lối cầu Minh Lệ ngày nay và lối mòn bên phải Đá Đứng của hình này, là hình ảnh của con đường thượng đạo đó.
ĐÁ ĐỨNG CHỐN SÔNG THIẾNG
Hoàng Kim
Con về Đá Đứng Rào Nan
Cồn Dưa Minh Lệ của làng quê hương
Linh Giang chảy giữa vô thường
Đôi bờ thăm thẳm nối đường tử sinh.
Hoàng Kim viết bài nghiên cứu lịch sử địa lý “Đá Đứng chốn sông thiêng “ từ gợi ý của anh trai Hoàng Trung Trực dấu chân người lính với cậu Hoàng Thúc Tấn đã nhận xét rất công phu và khuyến khích viết sâu bài Cao Biền trong sử Việt , với người cậu cũng là nhà thơ Hoàng Gia Cương thơ hiền có thơ hay và ảnh đẹp gợi kết nối cho Hoàng Kim
ĐẤT MẸ VÙNG DI SẢN
Cao Biền trong sử Việt / Vạn Xuân nơi An Hải/ Đồng Xuân lưu người hiền/ Đào Duy Từ con mãi. Đó là bốn ghi chú kèm theo.
Đá Đứng chốn sông thiêng là điểm huyệt địa linh phong thủy của Cao Biền huyền thoại đánh dấu sinh lộ Nam tiến của người Việt kết nối tuyến giao thông dọc đường Trường Sơn với tuyến ngang từ Biển Đông tới Sông Mekong nối mả Cao Biền ở Phú Yên đến ngã ba Đông Dương tại Champasak Lào là ngã năm hợp lưu sông Mekong.Đó là một chỉ dấu địa chính trị trên bản đồ thời Đường rất quan trọng (hình trên) và ngày nay (ngày nay) oi thấu nhiều giá trị địa chính trị lịch sử văn hóa.
CAO BIỀN TRONG SỬ VIỆT Hoàng Kim
Cao Vương1 tinh đẩu trời xứ Bắc
Lão sư 2 An Hải đất phương Nam
Sống gửi chốn xưa lưu thiên cổ 3
Thác về đất mới đón Vạn Xuân4
Vùng cao tụ khí bình an tới 5
Biển thẳm hoàn lưu chính khí về 6
Danh tướng Lão sư 2 Thầy địa lý 7
Nghe tiếng nghìn năm ta xuống xe 8
(1) Chiếu dời đô do vua Lý Thái Tổ ban hành vào mùa xuân năm 1010 để chuyển kinh đô của nước Đại Cồ Việt từ Hoa Lư (Ninh Bình) ra thành Đại La (Hà Nội). (đã trích dẫn trên )
(2) Mả Cao Biền ở Đồng Môn, xóm Cát, thôn 5 xã An Hải, Tuy An, Phú Yên. Cao Biền thời Đường được phong Cao Vương, tĩnh Hải Quân
(3) Lưu thiên cổ: Cựu Đường thư, Tân Đường thư Tư trị Thông giám, là ba bộ sách chính sử của Trung Quốc lưu danh thiên cổ Cao Biền
(4) Đón Vạn Xuân: Vạn cổ thử giang san. Cao Biền buông kiếm tìm về An Hải, sống và chết làm dân Việt Nam. Nhà Đường sụp đổ., Chu Ôn lập nhà Hậu Lương. Khúc Thừa Dụ nhân thế lập nước Vạn Xuân. Việt Nam bắt đầu thời độc lập tự chủ.
(5) Bình an tới: Ngôi đất Cao Biền chọn là làng An Hải, đầm Ô Long Phú Yên. Thời Cao Vương, ông đã lập tuyến phòng thủ từ Ô Long Vũng Rô biển Phú Yên theo sinh lộ Đắk Lắk nối Stung Treng tới hợp lưu sông Me kong (xem bản đồ hình 1 thời hậu Đường) kết nối sinh lộ Bắc Nam dọc Trường Sơn. Mặt Bắc ông đã lập tuyến phòng thủ chắc tiếp ứng nhanh đắp thành Đại La kết nối Vân Đồn của Tĩnh Hải quân, và Lĩnh Nam Đông đạo (nối Hà Nội với Hải Phòng và Quảng Châu ngày nay) nối thủy lộ sông Hồng sông Ka Long sông Bắc Luân.
(6) Chính khí về : chùa Thanh Lương có tượng Phật Quan Âm từ biển dạt vào
(7) Danh tướng đại sư thầy địa lý là ba đánh giá chính về Cao Biền
Cao Biền là kiêu vệ tướng quân thời Đường mạt,
Chịu mệnh của vua đánh Nam Chiếu cứu An Nam.
Ông dẫn Thần Sách quân là đội Ngự lâm quân
Cấp tốc xuống Quảng Châu điều binh cứu Việt.
Chuyện giống “Thủy Hử” sau này với Lư Tuấn Nghĩa,
Lý Duy Chu nắm hai vạn quân không chịu phát binh
Mưu hiểm mượn tay Nam Chiếu để giết Cao Biền.
Ông vẫn thắng với 5000 thủy quân nhờ tài thao lược.
Cao Biền xây La Thành cứu 40 vạn dân và chặn giặc.
Vua Lý Công Uẩn “Chiếu dời đô” đã nói thật rõ ràng:
“Hoàng Thành Thăng Long công lớn Cao Vương”
La thành – Hải Phòng – Bắc Luân ngàn năm di sản.
Ông trị thủy sông Tô Lịch thoát lũ chuyển mạch sông
Nối tam giác châu Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Châu
Phòng thủ chắc, tiếp viện nhanh, tầm nhìn sâu sắc
Lê Văn Hưu, Ngô Sĩ Liên, Ngô Thì Sĩ đều khen ngợi
Cao Biền là bậc kỳ tài Tịnh Hải Quân an dân thật giỏi
Lê Quý Đôn chép thơ ông Nam Tiến năm năm
Tuyến phòng thủ Cao Biền bản đồ cổ thời Đường
Nối biển với hợp lưu Me kong tầm nhìn thiên nhãn
Vua Đường bị bọn hoạn quan thuật sĩ mưu mô
Chúng mượn tay địch mạnh để hãm hại hiền tài
Trương Lân, Chu Bảo, Cao Tầm, Lã Thị Nga
Tướng giỏi người thân Cao Biền bị ngầm giết hại
Ông chịu tiếng phản thần khi vua chẳng ra vua
Vợ chồng ông đều trở thành dân Việt Nam
Vợ ông đền làng Vạn Phúc là tổ sư nghề lụa Hà Đông
Mả Cao Biền ở Đầm Môn, Xóm Cát, An Hải, Phú Yên
Cao Biền dòng dõi tướng môn, quản lý Thần Sách quân thân tín bên cạnh vua. Cao Biền là danh tướng, đạo sư, thầy địa lý công trình sư và nhà tiên tri thời hậu Đường qua đúc kết bởi ba danh mục chính sử Trung Quốc là Cựu Đường Thư, Tân Đường Thư, Tư Trị Thông Giám của ba Tể tướng sử quan và danh sĩ tinh hoa Trung Quốc lần lượt là Lưu Hu, Âu Dương Tu ,Tư Mã Quang. Cao Biền là con người có thật trong lịch sử, giỏi như Gia Cát Vũ Hầu Khổng Minh thời Hán mạt Tam quốc trước đó. Sự khác biệt là Khổng Minh cúc cung tận tụy đến chết mới thôi, còn Cao Biền thì gặp lúc mạt Đường, nhiều kẻ mưu mô, lũ phương sĩ, hoạn quan, quyền thần và kẻ hám lợi cầu danh khắp mọi nơi, với sự kiệt sức của một triều đại đã khủng hoảng đến cực điểm Đặc biệt, Cao Biền bị bó tay khi vua kém tài đức, buông bỏ chính sự, mê muội đồng bóng, tin theo lời dèm pha và mưu kế nghịch tặc tìm cách mượn tay giặc giết lần giết mòn thân tín của ông vì sợ Cao Biền tiếm quyền. Nguy hại thay vua giỏi bị hoạn quan đầu độc chết; vua kém, nhỏ tuổi, bất tài, dễ khiến thì bị đẩy lên ngôi. Sự bi thảm của Cao Biền là ở chỗ đó nhưng sự kiệt xuất của ông là di sản ngàn năm còn mãi với thời gian.“Cao Biền cuộc đời và thời thế” đối chiếu sử Việt tại Đại Việt sử ký toàn thư (1675), Nguyễn Công Văn Đạt phổ ký Gia phả Trạng Trình của Vũ Khâm Lân (1743) Việt sử tiêu án, Đại Việt sử ký tiền biên của Ngô Thì Sĩ (1775), Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim (1919) với nhiều dẫn liệu về Cao Biền đặc biệt trong Thiên đô chiếu của Lý Thái Tổ năm 1010, Thiền Uyển Tập Anh (Ngô Đức Thọ và Nguyễn Thúy Nga dịch từ bản chữ Hán được khắc in năm 1715. Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 1990) cùng với các huyền tích, huyền thoại và sự đánh giá của các sử thần Lê Văn Hưu, Ngô Sĩ Liên. Đồng thời tập hợp gạn đục khơi trong các giai thoại ‘Lẩy bẫy như Cao Biền dậy non’ ‘Long mạch đất Việt và Cao Biền’ để có được thông tin Chuyện Cao Biền tích cũ viết lại. Chân dung Cao Biền khá trùng khớp với nhận định trên. Ông là một danh tướng, đạo sư, thầy địa lý công trình sư và nhà tiên tri thời hậu Đường. Ông là một danh tướng khi đánh bại các cuộc xâm nhập của Nam Chiếu, giữ yên cương vực Tĩnh Hải (trong đó có phần đất của Việt Nam ngày nay). Ông cũng cai trị có phép tắc khi nhậm chức Hữu kim ngô đại tướng quân (868), kiểm hiệu công bộ thượng thư (870), Thiên Bình tiết độ sứ (873), Tây Xuyên tiết độ sứ (874), Thành Đô doãn (875) Kinh Nam tiết độ sứ (878), Trấn Hải tiết độ sứ (879), Hoài Nam tiết độ sứ (880) được dân chúng ngợi ca, nhưng ông đã thất bại trong việc đẩy lui cuộc nổi dậy của Hoàng Sào, ông bị coi là phản thần tạo phản ở Hoài Nam quân, bị Tần Ngạn mưu hại, (nhưng sử Việt và tâm thức dân gian thì cho rằng vợ chồng Cao Biền đều chết ở đất phương Nam , vợ Cao Biền là bà Lã Thị Nga tổ sư nghề dệt lụa Hà Đông đền thờ tại làng Vạn Phúc, Hà Đông ngày nay, Cao Biền thì thành công sau kế “kim thuyền thoát xác” để Cao Biền sau đó về chết ở Đầm Môn xóm cát, thôn 5, An Hải, Tuy An, Phú Yên .Ông bà Cao Biền sống và chết ở đất Việt.Viếng mộ Cao Biền đất Phú Yên là thăm và chiêu tuyết một danh tướng, đạo sư, thầy địa lý công trình sư và nhà tiên tri thời hậu Đường mà sự nghiệp của ông dẫu khen hay chê, dẫu bia đời bia miệng công tội ngàn năm thì dấu ấn và bài học lịch sử vẫn đọng mãi với thời gian. Bài học thấm thía nhất là cuối đời ông đã rũ bỏ kẻ làm vua không xứng để biết tìm về với dân và giá trị cốt lõi. Tuy ông về nơi cát đá nhưng dấu ấn của ông thì không thể xóa nhòa. Người ấy nay đã trãi trên ngàn năm về vùng bình an sông núi hữu tình ở vùng an hải tên xưa và nay làm bạn với đất phú trời yên dân lành . Kẻ sĩ trong thiên hạ quý người thân thương, tri âm tri kỷ, trọng hiền tài, thầy quý bạn hiền, việc làm và lời nói luôn giữ gìn chí thiện, minh triết, thật không thẹn với lòng mình.
VẠN XUÂN NƠI AN HẢI
Vạn Xuân thế nước ngàn năm
Cao Vương đã chọn nước Nam tìm về.
Địa linh nhân kiệt chở che
An Hải, Vạn Phúc ước thế tròn duyên (1).
“Cái quạt” Nguyễn Bính “Mưa xuân”
xin nối đôi vần kể chuyện nước Nam
“Cái quạt mười tám cái nan
Anh phất vào đấy muôn vàn nhớ nhung
Gió sông, gió núi, gió rừng
Anh niệm thần chú thì ngừng lại đây.
Gió Nam Bắc, gió Đông Tây
Hãy hầu công chúa thâu ngày, thâu đêm
Em ơi công chúa là em
Anh là quan trạng đi xem hoa về
Trên giời có vẩy tê tê
Đôi bên ước thề duyên hãy tròn duyên
Quạt này trạng để làm tin
Đêm nay khép mở tình duyên với nàng.” (2)
Lã Thị Nga vợ Cao Biền
Tổ sư nghề lụa Hà Đông đền thờ
Dân làng Vạn Phúc đến giờ
Đức thương công lớn, phước nhờ ơn thiêng (3)
“Đầm Môn xóm Cát Cao Biền
có đôi chim Nhạn đang chuyền cành Mai”
“Ngó ra thấy mả Cao Biền.
Nhìn vào thấp thoáng Ma Liên Chóp Chài”(4)
‘Đá Dựng’ ‘miếu cổ Cao Quân’
‘Giang sơn bến Lội’ ‘Hoành Linh Long Xà’
‘Tử Sinh’ ‘Cao Cát Mạc Sơn’
‘Tầm Long’ ‘Địa Lý Toàn Thư’ lưu truyền (5).
Thân thiết một người hiền cũ
Tháng năm nhanh thật là nhanh
Tùng Châu, Hoài Nhơn, Phụng Dụ
Dừa xanh, sắn biếc tâm hồn
Cứ nhớ thương thầm dấu cũ
Dòng đời đâu dễ nguôi quên
Chuyên “Đào Duy Từ còn mãi”
Đồng xuân lưu dấu người hiền
Một giấc mơ lành hạnh phúc
Tùng Châu, Châu Đức, Đào Công
Một góc vườn thiêng cổ tích
Lời thương thăm thẳm giữa lòng
ĐÀO DUY TỪ CÒN MÃI Hoàng Kim
Đời trãi bốn trăm năm
Đào Công lưu tâm đức
Hoàng Kim về chốn cũ
Thăm vườn thiêng thiên thu.
Ngược gió đi không nản
Rừng thông tuyết phủ dày
Ngọa Long cương đâu nhỉ
Đầy trời hoa tuyết bay.
Lồng lộng vầng trăng rằm
Lộc Khê Hầu cổ tích
Người là ngọc cho đời
Tháng năm còn nhớ mãi ! .
Hoàng Kim đã về dâng hương tưởng nhớ cụ Đào Duy Từ ở đất Tùng Châu xưa. Tôi lần tìm theo những trang ghi chép cũ để thấu hiểu sự nhọc nhằn khởi nghiệp của bậc anh hùng và để thấy dấu ấn cùng với những ảnh hưởng lớn lao của cụ Đào Duy Từ đối với mảnh đất này. Tôi may mắn đã thăm Đình Lạc Giao, Lũy Thầy và các nơi ở Quảng Bình, Thanh Hóa để chứng ngộ công đức của Người và cảm nhận.
Cám ơn gia tộc Đào Duy, phó giáo sư Đào Thế Anh, giáo sư Mai Văn Quyền, giáo sư Lê Văn Tố, phó giáo sư sử học Trương Minh Dục, thầy Dương Duy Đồng, thầy Nguyễn Minh Hiếu, em Nguyễn Thị Trúc Mai, em Phạm Văn Ngọc, một số người đã trực tiếp chứng kiến các cuộc khảo sát điền dã nông nghiệp lịch sử thận trọng kính mến của tôi và đã gợi ý cho tôi tiếp tục hoàn thiện bài viết này.
Đào Duy Từ (1572–1634) là quân sư danh tiếng của chúa Nguyễn Phúc Nguyên, bậc kỳ tài chính trị quân sự lỗi lạc, danh nhân văn hóa kiệt xuất, khai quốc công thần số một được thờ ở Thái Miếu của nhà Nguyễn. Hàng năm vào ngày 17 tháng 10 âm lịch (nhằm ngày 13 đến 23 tháng 11 dương lịch, tùy theo từng năm) là ngày giỗ Đào Duy Từ. Ông bắt đầu thi thố tài năng từ năm 53 tuổi đến năm 62 tuổi thì mất. Đào Duy Từ chỉ trong 9 năm ngắn ngủi (1625-1634) đã kịp làm nên năm kỳ tích phi thường với nhiều hiền tài và di sản còn mãi với non sông. Mộ của cụ Đào Duy Từ nằm khiêm nhường giữa vườn sắn KM94 xanh tốt tại thôn Phụng Du, xã Hoài Hảo, huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định . Đầu mộ của cụ là hai trụ đá lớn, đỉnh tạo dáng búp sen. Cuối mộ của cụ có một cây cổ thụ, tán lẫn với rặng dừa.
Đào Duy Từ còn mãi với non sông
Đào Duy Từ (1572–1634) là quân sư danh tiếng của chúa Nguyễn Phúc Nguyên, bậc kỳ tài chính trị quân sự lỗi lạc, danh nhân văn hóa kiệt xuất, khai quốc công thần số một được thờ ở Thái Miếu của nhà Nguyễn. Hàng năm vào ngày 17 tháng 10 âm lịch (nhằm ngày 16 đến 23 tháng 11 dương lịch tùy theo từng năm) là ngày giỗ Đào Duy Từ. Ông bắt đầu thi thố tài năng từ năm 53 tuổi đến năm 62 tuổi thì mất. Đào Duy Từ chỉ trong 9 năm ngắn ngủi (1625-1634) đã kịp làm nên năm kỳ tích phi thường với nhiều hiền tài và di sản còn mãi với non sông.
ĐÀO DUY TỪ THỜI THẾ VÀ SỰ NGHIỆP
Đào Duy Từ sinh năm 1572 ở làng Hoa Trai, huyện Ngọc Sơn, phủ Tỉnh Gia, tỉnh Thanh Hóa. Thời ấy, Nguyễn Hoàng, chúa khởi nghiệp nhà Nguyễn, có quê tại huyện Tống Sơn (nay là huyện Hà Trung). Nhà thờ họ Nguyễn hiện ở đình Gia Miêu, xã Hà Long, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa. Ông Nguyễn Hoàng là con thứ hai của ông Nguyễn Kim (tức Hữu vệ Điện tiền Tướng quân An Thanh hầu Nguyễn Hoằng Kim) cháu của ông Nguyễn Hoằng Dụ, chắt của ông Nguyễn V
Bến Lội, Bốn Miếu tinh anh
Cồn Dưa, Đá Đứng kết thành Bắc Nam
Rào Nan, Chợ Mới, Nguồn Son
Làng tôi khoai lúa thơm hương quê nhà
anh Hoàng Trung là người đồng hương Làng Minh Lệ khi đọc bài thơ trên có góp ý: Hoàng Kim xa quê lâu nên có thể không nhớ. Làng Minh Lệ có Nghè Bốn Miếu (không có Bến Lội Đền Bốn Miếu đâu). Tôi trả lời anh: Làng Minh Lệ có Bến Lội Nghè Bốn Miếu nhưng Đền Bốn Miếu là ngôi đền thiêng tâm thức rất xứng đáng với quê hương anh hùng trong quần thể du lịch sinh thái. Tôi trao đổi sâu hơn tại năm ý:1) Đền, Miếu, Nghè, Đình, Am; 2) Cầu Minh Lệ Rào Nan 3) Bến Lội Đền Bốn Miếu 4) Đá Đứng chốn sông thiêng; 5) Quê Mẹ vùng di sản (Cao Biền trong sử Việt; Vạn Xuân nơi An Hải; Đồng Xuân lưu người hiền; Đào Duy Từ còn mãi). Thông tin tại http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlong và https://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-16-thang-9/
ĐỀN MIẾU NGHÈ ĐÌNH AM
Đền, miếu, nghè, đình, am là những thuật ngữ văn hóa Việt xác định rõ danh xưng của chủ thể để bảo tồn và có thể chuyển hóa công năng phù hợp, tùy theo bản chất và thời thế.
Đền là công trình kiến trúc được xây dựng để thờ cúng những nhân vật lịch sử được tôn kính như thần thánh..Đền thờ Việt Nam được xây dựng phổ biến ghi ơn các bậc anh hùng hay các bậc tiên hiền có công đức với nước với dân như Đền Hùng, đền Kiếp Bạc, đền Trần, đền Sóc (nơi gắn với truyền thuyết anh hùng thánh Gióng bay về trời sau khi đánh thắng giặc Ân), đền Bạch Mã, đền Quán Thánh, đền bến Tượng (A Sào Vũ Thư thờ con voi chiến của đức Trần Quốc Tuấn) (xem thêm để phân biệt đền thờ Đào Duy Từ và từ đường Đào Duy Từ)
Miếu có quy mô nhỏ hơn đền,.là một dạng di tích văn hóa trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam Đối tượng được thờ ở miếu rất đa dạng (dạng miếu lớn như Hưng Tổ Miếu ở di sản văn hóa Huế ,cách Thế Miếu chừng 50 mét về phía Bắc, dạng miếu vừa như miếu Sơn thần, miếu Thủy thần,. miếu Thổ thần, thường được xây trên gò cao, nơi sườn núi, bờ sông hoặc đầu làng, cuối làng, những nơi yên tĩnh để quỷ thần có thể an vị, không bị mọi sự ồn ào của đời sống dân sinh. dạng miếu nhỏ như miếu Cô, miếu Cậu) Miếu trong các ngày giỗ thần làng mở tế lễ, mở hội, nghinh rước thần từ miếu về đình. Tế lễ xong, lại rước thần từ đình về miếu..Miếu nhỏ còn được gọi là miễu (theo cách gọi của người miền Nam).
Nghè là một hình thức của đền miếu. Nghè thờ thành hoàng của làng nhỏ được tách ra từ làng gốc, hoặc một ngôi đền nhỏ của một thần trong xã nhằm thích ứng với dân sở tại để tiện sinh hoạt tâm linh khi ngôi đền chính khó đáp ứng được nhu cầu thờ cúng thường nhật.
Đình là nơi thờ Thành hoàng của làng, đồng thời là nơi hội họp, bàn việc làng. Đình được coi là trung tâm sinh hoạt văn hóa gắn bó với một cộng đồng cư dân Việt Nam.Thành hoàng là người có công với dân, với nước, lập làng, dựng ấp hay sáng lập nên một nghề (ông tổ của nghề). Đình có lưu giữ sắc phong của vua cho đức Thành hoàng để lưu giữ chứng tích; Ngày nay, Bộ Văn hóa Thông tin Việt Nam có Bằng Công nhân Di tích lịch sử Văn hóa số Quyết định. đối với chứng tích được xác nhân
Đình làng Minh Lệ xã Quảng Minh, huyện Quảng Trạch (nay là thị xã Ba Đồn) Tỉnh Quảng Bình có Bằng Công nhân Di tích lịch sử Văn hóa Di tích được xếp cấp Quốc gia theo Quyết định số 1430 QĐ/BT ngày 12 tháng 10 năm 1993 của Bộ Văn hóa Thông tin. Đình được xây dựng vào thời ‘Hồng Đức Lê Triều’. Trùng tân năm Bảo Đại nhị niên năm 1927, trùng tu vào các năm 1998, 2003, 2011 và chống xuống cấp năm 2018. Đình thờ Thành hoàng làng Trung lang Thượng tướng quân Trương Hy Trọng và các vị Thần tổ của bốn họ Trương, Nguyễn, Hoàng, Trần. Đình là nơi diễn ra các lễ hội của làng, nơi gắn liền với những sự kiện lịch sử tiêu biểu trong thời kỳ vận động thành lập Đảng, khởi nghĩa giành chính quyền cách mạng tháng Tám năm 1945 và trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ của dân tộc. Đình là chứng nhân sự hi sinh to lớn và những chiến công xuất sắc của xã Quảng Minh đơn vị anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Bia dựng năm 2018.
Am là một kiến trúc nhỏ thờ Phật, thường được mô tả như ngôi nhà nhỏ, tu tại tâm, để con cái khi cha mẹ còn thì hiếu kính cha mẹ, khi cha mẹ mất thì tu tâm dưỡng tánh, làm nơi ở, nơi đọc sách, nơi thờ Phật, tổ tiên và cha mẹ theo đạo thờ ông bà của người Việt.(Hương Hải am tức Chùa Thầy, Thọ Am tức Chùa Đậu Hà Tây…) cũng có khi am là ngôi miếu nhỏ thờ thần linh của xóm làng. Miếu thờ thần linh ở làng hoặc miếu cô hồn ở bãi tha ma cũng gọi là Am. Tại vùng đồi Ma Ca Đá Đứng Làng Minh Lệ có miếu cổ ‘cao cát mạc sơn’ .
Bến Lội Nghè Bốn Miếu Làng Minh Lệ là quen dùng nhưng BẾN LỘI ĐỀN BỐN MIẾU là chính xác trong tâm thức và định hướng một điểm nhấn của quần thể vùng du lịch sinh thái thị xã Ba Đồn.
CẦU MINH LỆ RÀO NAN
Cầu Minh Lệ gần Đá Đứng, Bến Lội Đền Bốn Miếu, khi xưa và ngày nay đều được coi là một trọng điểm chính yếu trong hệ thống huyết mạch Nam Tiến của người Việt. Quảng Bình là nơi hẹp nhất Việt Nam, là địa bàn đặc biệt quan trọng trong chiến tranh bảo vệ Tổ Quốc và thống nhất đất nước. Quàng Bình từ biển Đông sang Lào chỉ khoảng 50 km. Một cuộc chiến uy lực rất mạnh, thần tốc, bất ngờ có thể bẻ gãy Việt Nam làm đôi ở địa bàn xung yếu Quảng Bình này. Do vậy, điểm huyệt địa linh phong thủy nhằm hội tụ thiên thời địa lợi nhân hòa tại nơi sinh tử trọng điểm này của vận nước, thế núi, mạch sông, người hiền tài, tướng giỏi, lòng dân để kết nối thống nhất Bắc Nam, bước qua lời nguyền là nơi chia cắt đôi bờ (Linh Giang/ sông Gianh / Ranh (giới)
Cao Biền (xem Cao Biền trong sử Việt) đã lưu hậu thế tấm bản đồ Việt Nam thời Đường (hình) khi mà Cao Biền làm Tỉnh Hải Quân năm 864 – 868 và Cao Tầm tiếp nối năm 868 – 878 với chú giải về con người, thế núi, mạch sông đất Việt. Cao Biền là danh tướng, đạo sư, nhà phong thủy và tiên tri trứ danh. Cao Vương là người được vua Lý Thái Tổ là vua Lý Công Uẩn vị vua sáng nghiệp nhà Lý tôn vinh là “Hoàng Thành Thăng Long công lớn Cao Vương”. Chiếu dời đô do vua Lý Thái Tổ ban hành vào mùa xuân năm 1010 để chuyển kinh đô của nước Đại Cồ Việt từ Hoa Lư (Ninh Bình) ra thành Đại La (Hà Nội). (trích) Huống chi thành Đại La, kinh đô cũ của Cao Vương, ở vào nơi trung tâm trời đất, được thế rồng cuộn hổ ngồi, chính giữa nam bắc đông tây, tiện nghi núi sông sau trước. Vùng này mặt đất rộng mà bằng phẳng, thế đất cao mà sáng sủa, dân cư không khổ thấp trũng tối tăm, muôn vật hết sức tươi tốt phồn thịnh. Xem khắp nước Việt đó là nơi thắng địa, thực là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương, đúng là nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời.Trẫm muốn nhân địa lợi ấy mà định nơi ở, các khanh nghĩ thế nào? Bản dịch của Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, in trong Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1993). Nguyên văn: 况高王故都大羅城。宅天地區域之中。得龍蟠虎踞之勢。正南北東西之位。便江山向背之宜。其地廣而坦平。厥土高而爽塏。民居蔑昏墊之困。万物極繁阜之丰。遍覽越邦。斯爲勝地。誠四方輻輳之要会。爲万世帝王之上都。朕欲因此地利以定厥居。卿等如何。). Cao Biền tại Đá Đứng Làng Minh Lệ cũng lưu miếu thờ và huyền thoại “cao cát mạc sơn”, người đã ném bút thần tạo nên. Vợ Cao Biền là Lã Thị Nga, ngày nay dân làng vẫn thờ làm thành hoàng của nghề tằm tơ dệt lụa tại làng Vạn Phúc, Hà Đông. Mộ Cao Biền ở thôn 5 đầm Môn xóm Cát, Tuy An, Phú Yên vẫn lưu truyền huyền thoại ngàn năm. Ông đã bỏ tối theo sáng, hai vợ chồng đều về làm dân Việt. Chuyện này còn dài và kể trong nhiều thần tích khác. Sự thật lịch sử sẽ dần được sáng tỏ đối với những ai ‘chân chính bao nhiêu phúc bấy nhiêu” thật lòng sống chết với dân Việt.
Từ cầu Minh Lệ gần Đá Đứng, Bến Lội Đền Bốn Miếu, theo đường tắt thượng đạo là lối đi nhanh nhất, bất ngờ nhất để đến hệ thống Lũy Thầy Đào Duy Từ . Lịch sử Việt Nam nhiều trận chiến nổi tiếng có liên quan đến trục đường thiên lý thượng đạo Đông Trường Sơn thuở xưa tới Lũy Thầy gồm Lũy Trấn Ninh, Lũy Trường Dục, Lũy Trường Sa, gần cầu / phà Long Đại).
‘Linh Giang ơi Linh Giang / Với Hoành Sơn, Lũy Thầy / Tuyến ba tầng thủ hiểm / Đá Đứng chốn sông thiêng’ những câu thơ trên của Hoàng Kim là giản lược kế lớn của quan Nội tán Đào Duy Từ thời chúa Nguyễn Phúc Nguyên. Kế sách đó mời xem tại Đào Duy Từ còn mãi. Kế của Đào Duy Từ là nhà Nguyễn muốn Nam tiến thành công phải khóa được quân Trịnh ở mặt Bắc bằng hệ thống phòng thủ chiều sâu liên hoàn ba tầng gồm Hoành Sơn, Linh Giang và Lũy Thầy. Quân Trịnh vượt qua được hai tầng phòng thủ bên ngoài, khi đến tầng thứ ba là lũy Thầy thì như viên đạn đuối tầm không còn sức công phá nữa.
Thượng Đức thương nhìn lại là đúc kết của Hoàng Kim về trang sử mới vận dụng mưu kế cũ. Lữ Giang có bài “Thường Đức: Trận đánh quyết định số phận của miền Nam!”. Nơi đây là “mắt ngọc của đầu rồng“, (chữ của tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu). Đó là cuộc đọ sức quyết liệt nhất của cả hai bên đối chiến với những lực lượng tinh nhuệ nhất trên chiến trường cuối năm 1974. Những vị tướng của trận đánh lớn: Ba lần vào “Kỳ Sơn” Thượng Đức.Từ trái qua phải: Thiếu tướng Hoàng Đan, Đại tướng Võ Nguyên Giáp (giữa), Đại tướng Lê Trọng Tấn (cuối phải). Thường Đức là lũy Thầy Đào Duy Từ, “Kỳ Sơn” Việt Nam, nơi Quân đoàn 2 Quân đội Nhân dân Việt Nam gìm chân sư đoàn Nhảy Dù, sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến, sư đoàn 1 bộ binh đóng ở phía bắc đèo Hải Vân, sư đoàn 2 và sư đoàn 3 bộ binh đóng ở phía nam đèo Hải Vân cùng với nhiều đơn vị biệt động quân, địa phương quân, nghĩa dũng quân của quân lực Việt Nam Cộng hòa để Quân đoàn 3 thực hiện được cú đánh điểm huyệt Buôn Ma Thuột làm sụp đổ khả năng phòng thủ của chính quyền Sài Gòn, dẫn đến trận thắng 30 tháng Tư năm 1975.
Trận Thường Đức là dấu hỏi lớn của lịch sử. “Ngày xưa, khi đến cai trị Đông Dương, người Pháp đã nhận ra ngay tầm quan trọng của cái chốt Thường Đức trên đường 14, nên đã lập một đồn tại đó để kiểm soát. Chính phủ Ngô Đình Diệm cũng đã nhận ra tầm quan trọng của Thường Đức trên đường tiến quân của Bắc Việt, nên đã biến Thường Đức thành một quận và hình thành Chi Khu Thường Đức để trấn giữ. Mỹ can thiệp vào Đông Dương cũng đã đánh giá cao tầm quan trọng của Thường Đức, nên đã tìm cách khóa chặt chốt này, không cho Cộng quân di chuyển xuống miền Nam. Cộng quân phải sử dụng con đường Tây Trường Sơn trên đất Lào rất vất vả.” Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu gọi Thượng Đức là “mắt ngọc của đầu rồng“.
Ngã ba sông Con, sông Cái và sông Vu Gia hiểm yếu lạ lùng giống hệt như Đá Đứng chốn sông thiêng Rào Nan, Nguồn Son và Linh Giang của Quảng Bình. Thường Đức là lũy Thầy Đào Duy Từ, Kỳ Sơn của Khổng Minh. Các chuyên gia quân sự Mỹ và quân lực Việt Nam Cộng hòa cũng tính toán việc ngăn chặn sự xâm nhập của Cộng quân Bắc Việt bằng cách thiết lập tuyến phòng thủ ba tầng ở đất lửa Quảng Bình, “hàng rào điện tử Măc na ma ra” với ” chốt bẫy Khe Sanh” Quảng Trị và “hiểm địa” Thường Đức để ngăn chặn sự tiếp liệu và vận chuyển quân với khí tài quân sự, xăng dầu với lương thực nhu yếu thuốc men tối quan trọng của tuyến đường huyết mạch Trường Sơn Đông.
Lối cầu Minh Lệ ngày nay và lối mòn bên phải Đá Đứng của hình này, là hình ảnh của con đường thượng đạo đó.
ĐÁ ĐỨNG CHỐN SÔNG THIẾNG
Hoàng Kim
Con về Đá Đứng Rào Nan
Cồn Dưa Minh Lệ của làng quê hương
Linh Giang chảy giữa vô thường
Đôi bờ thăm thẳm nối đường tử sinh.
Hoàng Kim viết bài nghiên cứu lịch sử địa lý “Đá Đứng chốn sông thiêng “ từ gợi ý của anh trai Hoàng Trung Trực dấu chân người lính với cậu Hoàng Thúc Tấn đã nhận xét rất công phu và khuyến khích viết sâu bài Cao Biền trong sử Việt , với người cậu cũng là nhà thơ Hoàng Gia Cương thơ hiền có thơ hay và ảnh đẹp gợi kết nối cho Hoàng Kim
ĐẤT MẸ VÙNG DI SẢN
Cao Biền trong sử Việt / Vạn Xuân nơi An Hải/ Đồng Xuân lưu người hiền/ Đào Duy Từ con mãi. Đó là bốn ghi chú kèm theo.
Đá Đứng chốn sông thiêng là điểm huyệt địa linh phong thủy của Cao Biền huyền thoại đánh dấu sinh lộ Nam tiến của người Việt kết nối tuyến giao thông dọc đường Trường Sơn với tuyến ngang từ Biển Đông tới Sông Mekong nối mả Cao Biền ở Phú Yên đến ngã ba Đông Dương tại Champasak Lào là ngã năm hợp lưu sông Mekong.Đó là một chỉ dấu địa chính trị trên bản đồ thời Đường rất quan trọng (hình trên) và ngày nay (ngày nay) oi thấu nhiều giá trị địa chính trị lịch sử văn hóa.
CAO BIỀN TRONG SỬ VIỆT Hoàng Kim
Cao Vương1 tinh đẩu trời xứ Bắc
Lão sư 2 An Hải đất phương Nam
Sống gửi chốn xưa lưu thiên cổ 3
Thác về đất mới đón Vạn Xuân4
Vùng cao tụ khí bình an tới 5
Biển thẳm hoàn lưu chính khí về 6
Danh tướng Lão sư 2 Thầy địa lý 7
Nghe tiếng nghìn năm ta xuống xe 8
(1) Chiếu dời đô do vua Lý Thái Tổ ban hành vào mùa xuân năm 1010 để chuyển kinh đô của nước Đại Cồ Việt từ Hoa Lư (Ninh Bình) ra thành Đại La (Hà Nội). (đã trích dẫn trên )
(2) Mả Cao Biền ở Đồng Môn, xóm Cát, thôn 5 xã An Hải, Tuy An, Phú Yên. Cao Biền thời Đường được phong Cao Vương, tĩnh Hải Quân
(3) Lưu thiên cổ: Cựu Đường thư, Tân Đường thư Tư trị Thông giám, là ba bộ sách chính sử của Trung Quốc lưu danh thiên cổ Cao Biền
(4) Đón Vạn Xuân: Vạn cổ thử giang san. Cao Biền buông kiếm tìm về An Hải, sống và chết làm dân Việt Nam. Nhà Đường sụp đổ., Chu Ôn lập nhà Hậu Lương. Khúc Thừa Dụ nhân thế lập nước Vạn Xuân. Việt Nam bắt đầu thời độc lập tự chủ.
(5) Bình an tới: Ngôi đất Cao Biền chọn là làng An Hải, đầm Ô Long Phú Yên. Thời Cao Vương, ông đã lập tuyến phòng thủ từ Ô Long Vũng Rô biển Phú Yên theo sinh lộ Đắk Lắk nối Stung Treng tới hợp lưu sông Me kong (xem bản đồ hình 1 thời hậu Đường) kết nối sinh lộ Bắc Nam dọc Trường Sơn. Mặt Bắc ông đã lập tuyến phòng thủ chắc tiếp ứng nhanh đắp thành Đại La kết nối Vân Đồn của Tĩnh Hải quân, và Lĩnh Nam Đông đạo (nối Hà Nội với Hải Phòng và Quảng Châu ngày nay) nối thủy lộ sông Hồng sông Ka Long sông Bắc Luân.
(6) Chính khí về : chùa Thanh Lương có tượng Phật Quan Âm từ biển dạt vào
(7) Danh tướng đại sư thầy địa lý là ba đánh giá chính về Cao Biền
Cao Biền là kiêu vệ tướng quân thời Đường mạt,
Chịu mệnh của vua đánh Nam Chiếu cứu An Nam.
Ông dẫn Thần Sách quân là đội Ngự lâm quân
Cấp tốc xuống Quảng Châu điều binh cứu Việt.
Chuyện giống “Thủy Hử” sau này với Lư Tuấn Nghĩa,
Lý Duy Chu nắm hai vạn quân không chịu phát binh
Mưu hiểm mượn tay Nam Chiếu để giết Cao Biền.
Ông vẫn thắng với 5000 thủy quân nhờ tài thao lược.
Cao Biền xây La Thành cứu 40 vạn dân và chặn giặc.
Vua Lý Công Uẩn “Chiếu dời đô” đã nói thật rõ ràng:
“Hoàng Thành Thăng Long công lớn Cao Vương”
La thành – Hải Phòng – Bắc Luân ngàn năm di sản.
Ông trị thủy sông Tô Lịch thoát lũ chuyển mạch sông
Nối tam giác châu Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Châu
Phòng thủ chắc, tiếp viện nhanh, tầm nhìn sâu sắc
Lê Văn Hưu, Ngô Sĩ Liên, Ngô Thì Sĩ đều khen ngợi
Cao Biền là bậc kỳ tài Tịnh Hải Quân an dân thật giỏi
Lê Quý Đôn chép thơ ông Nam Tiến năm năm
Tuyến phòng thủ Cao Biền bản đồ cổ thời Đường
Nối biển với hợp lưu Me kong tầm nhìn thiên nhãn
Vua Đường bị bọn hoạn quan thuật sĩ mưu mô
Chúng mượn tay địch mạnh để hãm hại hiền tài
Trương Lân, Chu Bảo, Cao Tầm, Lã Thị Nga
Tướng giỏi người thân Cao Biền bị ngầm giết hại
Ông chịu tiếng phản thần khi vua chẳng ra vua
Vợ chồng ông đều trở thành dân Việt Nam
Vợ ông đền làng Vạn Phúc là tổ sư nghề lụa Hà Đông
Mả Cao Biền ở Đầm Môn, Xóm Cát, An Hải, Phú Yên
Cao Biền dòng dõi tướng môn, quản lý Thần Sách quân thân tín bên cạnh vua. Cao Biền là danh tướng, đạo sư, thầy địa lý công trình sư và nhà tiên tri thời hậu Đường qua đúc kết bởi ba danh mục chính sử Trung Quốc là Cựu Đường Thư, Tân Đường Thư, Tư Trị Thông Giám của ba Tể tướng sử quan và danh sĩ tinh hoa Trung Quốc lần lượt là Lưu Hu, Âu Dương Tu ,Tư Mã Quang. Cao Biền là con người có thật trong lịch sử, giỏi như Gia Cát Vũ Hầu Khổng Minh thời Hán mạt Tam quốc trước đó. Sự khác biệt là Khổng Minh cúc cung tận tụy đến chết mới thôi, còn Cao Biền thì gặp lúc mạt Đường, nhiều kẻ mưu mô, lũ phương sĩ, hoạn quan, quyền thần và kẻ hám lợi cầu danh khắp mọi nơi, với sự kiệt sức của một triều đại đã khủng hoảng đến cực điểm Đặc biệt, Cao Biền bị bó tay khi vua kém tài đức, buông bỏ chính sự, mê muội đồng bóng, tin theo lời dèm pha và mưu kế nghịch tặc tìm cách mượn tay giặc giết lần giết mòn thân tín của ông vì sợ Cao Biền tiếm quyền. Nguy hại thay vua giỏi bị hoạn quan đầu độc chết; vua kém, nhỏ tuổi, bất tài, dễ khiến thì bị đẩy lên ngôi. Sự bi thảm của Cao Biền là ở chỗ đó nhưng sự kiệt xuất của ông là di sản ngàn năm còn mãi với thời gian.“Cao Biền cuộc đời và thời thế” đối chiếu sử Việt tại Đại Việt sử ký toàn thư (1675), Nguyễn Công Văn Đạt phổ ký Gia phả Trạng Trình của Vũ Khâm Lân (1743) Việt sử tiêu án, Đại Việt sử ký tiền biên của Ngô Thì Sĩ (1775), Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim (1919) với nhiều dẫn liệu về Cao Biền đặc biệt trong Thiên đô chiếu của Lý Thái Tổ năm 1010, Thiền Uyển Tập Anh (Ngô Đức Thọ và Nguyễn Thúy Nga dịch từ bản chữ Hán được khắc in năm 1715. Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 1990) cùng với các huyền tích, huyền thoại và sự đánh giá của các sử thần Lê Văn Hưu, Ngô Sĩ Liên. Đồng thời tập hợp gạn đục khơi trong các giai thoại ‘Lẩy bẫy như Cao Biền dậy non’ ‘Long mạch đất Việt và Cao Biền’ để có được thông tin Chuyện Cao Biền tích cũ viết lại. Chân dung Cao Biền khá trùng khớp với nhận định trên. Ông là một danh tướng, đạo sư, thầy địa lý công trình sư và nhà tiên tri thời hậu Đường. Ông là một danh tướng khi đánh bại các cuộc xâm nhập của Nam Chiếu, giữ yên cương vực Tĩnh Hải (trong đó có phần đất của Việt Nam ngày nay). Ông cũng cai trị có phép tắc khi nhậm chức Hữu kim ngô đại tướng quân (868), kiểm hiệu công bộ thượng thư (870), Thiên Bình tiết độ sứ (873), Tây Xuyên tiết độ sứ (874), Thành Đô doãn (875) Kinh Nam tiết độ sứ (878), Trấn Hải tiết độ sứ (879), Hoài Nam tiết độ sứ (880) được dân chúng ngợi ca, nhưng ông đã thất bại trong việc đẩy lui cuộc nổi dậy của Hoàng Sào, ông bị coi là phản thần tạo phản ở Hoài Nam quân, bị Tần Ngạn mưu hại, (nhưng sử Việt và tâm thức dân gian thì cho rằng vợ chồng Cao Biền đều chết ở đất phương Nam , vợ Cao Biền là bà Lã Thị Nga tổ sư nghề dệt lụa Hà Đông đền thờ tại làng Vạn Phúc, Hà Đông ngày nay, Cao Biền thì thành công sau kế “kim thuyền thoát xác” để Cao Biền sau đó về chết ở Đầm Môn xóm cát, thôn 5, An Hải, Tuy An, Phú Yên .Ông bà Cao Biền sống và chết ở đất Việt.Viếng mộ Cao Biền đất Phú Yên là thăm và chiêu tuyết một danh tướng, đạo sư, thầy địa lý công trình sư và nhà tiên tri thời hậu Đường mà sự nghiệp của ông dẫu khen hay chê, dẫu bia đời bia miệng công tội ngàn năm thì dấu ấn và bài học lịch sử vẫn đọng mãi với thời gian. Bài học thấm thía nhất là cuối đời ông đã rũ bỏ kẻ làm vua không xứng để biết tìm về với dân và giá trị cốt lõi. Tuy ông về nơi cát đá nhưng dấu ấn của ông thì không thể xóa nhòa. Người ấy nay đã trãi trên ngàn năm về vùng bình an sông núi hữu tình ở vùng an hải tên xưa và nay làm bạn với đất phú trời yên dân lành . Kẻ sĩ trong thiên hạ quý người thân thương, tri âm tri kỷ, trọng hiền tài, thầy quý bạn hiền, việc làm và lời nói luôn giữ gìn chí thiện, minh triết, thật không thẹn với lòng mình.
VẠN XUÂN NƠI AN HẢI
Vạn Xuân thế nước ngàn năm
Cao Vương đã chọn nước Nam tìm về.
Địa linh nhân kiệt chở che
An Hải, Vạn Phúc ước thế tròn duyên (1).
“Cái quạt” Nguyễn Bính “Mưa xuân”
xin nối đôi vần kể chuyện nước Nam
“Cái quạt mười tám cái nan
Anh phất vào đấy muôn vàn nhớ nhung
Gió sông, gió núi, gió rừng
Anh niệm thần chú thì ngừng lại đây.
Gió Nam Bắc, gió Đông Tây
Hãy hầu công chúa thâu ngày, thâu đêm
Em ơi công chúa là em
Anh là quan trạng đi xem hoa về
Trên giời có vẩy tê tê
Đôi bên ước thề duyên hãy tròn duyên
Quạt này trạng để làm tin
Đêm nay khép mở tình duyên với nàng.” (2)
Lã Thị Nga vợ Cao Biền
Tổ sư nghề lụa Hà Đông đền thờ
Dân làng Vạn Phúc đến giờ
Đức thương công lớn, phước nhờ ơn thiêng (3)
“Đầm Môn xóm Cát Cao Biền
có đôi chim Nhạn đang chuyền cành Mai”
“Ngó ra thấy mả Cao Biền.
Nhìn vào thấp thoáng Ma Liên Chóp Chài”(4)
‘Đá Dựng’ ‘miếu cổ Cao Quân’
‘Giang sơn bến Lội’ ‘Hoành Linh Long Xà’
‘Tử Sinh’ ‘Cao Cát Mạc Sơn’
‘Tầm Long’ ‘Địa Lý Toàn Thư’ lưu truyền (5).
Thân thiết một người hiền cũ
Tháng năm nhanh thật là nhanh
Tùng Châu, Hoài Nhơn, Phụng Dụ
Dừa xanh, sắn biếc tâm hồn
Cứ nhớ thương thầm dấu cũ
Dòng đời đâu dễ nguôi quên
Chuyên “Đào Duy Từ còn mãi”
Đồng xuân lưu dấu người hiền
Một giấc mơ lành hạnh phúc
Tùng Châu, Châu Đức, Đào Công
Một góc vườn thiêng cổ tích
Lời thương thăm thẳm giữa lòng
ĐÀO DUY TỪ CÒN MÃI Hoàng Kim
Đời trãi bốn trăm năm
Đào Công lưu tâm đức
Hoàng Kim về chốn cũ
Thăm vườn thiêng thiên thu.
Ngược gió đi không nản
Rừng thông tuyết phủ dày
Ngọa Long cương đâu nhỉ
Đầy trời hoa tuyết bay.
Lồng lộng vầng trăng rằm
Lộc Khê Hầu cổ tích
Người là ngọc cho đời
Tháng năm còn nhớ mãi ! .
Hoàng Kim đã về dâng hương tưởng nhớ cụ Đào Duy Từ ở đất Tùng Châu xưa. Tôi lần tìm theo những trang ghi chép cũ để thấu hiểu sự nhọc nhằn khởi nghiệp của bậc anh hùng và để thấy dấu ấn cùng với những ảnh hưởng lớn lao của cụ Đào Duy Từ đối với mảnh đất này. Tôi may mắn đã thăm Đình Lạc Giao, Lũy Thầy và các nơi ở Quảng Bình, Thanh Hóa để chứng ngộ công đức của Người và cảm nhận.
Cám ơn gia tộc Đào Duy, phó giáo sư Đào Thế Anh, giáo sư Mai Văn Quyền, giáo sư Lê Văn Tố, phó giáo sư sử học Trương Minh Dục, thầy Dương Duy Đồng, thầy Nguyễn Minh Hiếu, em Nguyễn Thị Trúc Mai, em Phạm Văn Ngọc, một số người đã trực tiếp chứng kiến các cuộc khảo sát điền dã nông nghiệp lịch sử thận trọng kính mến của tôi và đã gợi ý cho tôi tiếp tục hoàn thiện bài viết này.
Đào Duy Từ (1572–1634) là quân sư danh tiếng của chúa Nguyễn Phúc Nguyên, bậc kỳ tài chính trị quân sự lỗi lạc, danh nhân văn hóa kiệt xuất, khai quốc công thần số một được thờ ở Thái Miếu của nhà Nguyễn. Hàng năm vào ngày 17 tháng 10 âm lịch (nhằm ngày 13 đến 23 tháng 11 dương lịch, tùy theo từng năm) là ngày giỗ Đào Duy Từ. Ông bắt đầu thi thố tài năng từ năm 53 tuổi đến năm 62 tuổi thì mất. Đào Duy Từ chỉ trong 9 năm ngắn ngủi (1625-1634) đã kịp làm nên năm kỳ tích phi thường với nhiều hiền tài và di sản còn mãi với non sông. Mộ của cụ Đào Duy Từ nằm khiêm nhường giữa vườn sắn KM94 xanh tốt tại thôn Phụng Du, xã Hoài Hảo, huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định . Đầu mộ của cụ là hai trụ đá lớn, đỉnh tạo dáng búp sen. Cuối mộ của cụ có một cây cổ thụ, tán lẫn với rặng dừa.
Đào Duy Từ còn mãi với non sông
Đào Duy Từ (1572–1634) là quân sư danh tiếng của chúa Nguyễn Phúc Nguyên, bậc kỳ tài chính trị quân sự lỗi lạc, danh nhân văn hóa kiệt xuất, khai quốc công thần số một được thờ ở Thái Miếu của nhà Nguyễn. Hàng năm vào ngày 17 tháng 10 âm lịch (nhằm ngày 16 đến 23 tháng 11 dương lịch tùy theo từng năm) là ngày giỗ Đào Duy Từ. Ông bắt đầu thi thố tài năng từ năm 53 tuổi đến năm 62 tuổi thì mất. Đào Duy Từ chỉ trong 9 năm ngắn ngủi (1625-1634) đã kịp làm nên năm kỳ tích phi thường với nhiều hiền tài và di sản còn mãi với non sông.
ĐÀO DUY TỪ THỜI THẾ VÀ SỰ NGHIỆP
Đào Duy Từ sinh năm 1572 ở làng Hoa Trai, huyện Ngọc Sơn, phủ Tỉnh Gia, tỉnh Thanh Hóa. Thời ấy, Nguyễn Hoàng, chúa khởi nghiệp nhà Nguyễn, có quê tại huyện Tống Sơn (nay là huyện Hà Trung). Nhà thờ họ Nguyễn hiện ở đình Gia Miêu, xã Hà Long, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa. Ông Nguyễn Hoàng là con thứ hai của ông Nguyễn Kim (tức Hữu vệ Điện tiền Tướng quân An Thanh hầu Nguyễn Hoằng Kim) cháu của ông Nguyễn Hoằng Dụ, chắt của ông Nguyễn Văn Lang, đều là các trọng thần của nhà Lê. Nguyên khi xưa ông Nguyễn Kim khởi nghĩa giúp nhà Lê đánh nhà Mạc đã lấy được đất Thanh Nghệ nhưng khi thừa thắng đem quân ra đánh Sơn Nam thì bị hàng tướng nhà Mạc là Dương Chấp Nhất đánh thuốc độc chết, binh quyền giao lại cho con rể Trịnh Kiểm. Người anh của Nguyễn Hoàng là Nguyễn Uông bị Trịnh Kiểm kiếm chuyện giết đi vì sợ đức độ và tài năng của hai anh em nhà vợ đoạt mất quyền mình. Nguyễn Hoàng sợ Trịnh Kiểm ám hại nên đã hỏi kế của Nguyễn Bỉnh Khiêm và được Trạng Trình bảo rằng “Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân”. Ông đã xin vào trấn thủ Thuận Hóa từ năm 1558.
Năm Đào Duy Từ ra đời thì Trịnh Kiểm vừa mới mất (1570) trao quyền lại cho Trịnh Cối để lo việc đánh dẹp. Trịnh Cối say đắm tửu sắc, tướng sĩ nhiều người không phục. Trịnh Tùng, con thứ của Trịnh Kiểm, đã rước vua Lê về đồn Vạn Lại và công khai chống lại anh ruột, Nhân lúc anh em họ Trịnh đánh nhau, Mạc Kính Điển cùng với các danh tướng Nguyễn Quyện, Mạc Ngọc Liễn đem 10 vạn quân vào đánh Thanh Hóa. Trịnh Cối liệu thế không địch nổi đã đầu hàng Mạc. Trình Tùng đưa vua về Đông Sơn, phòng ngự chắc chắn, liều chết cố thủ. Mâc Kính Điển đánh mãi không được, lâu ngày hết lương, phải rút quân về. Trình Tùng oai quyền vượt vua, Anh Tông lo ngại tìm cách giết Trịnh Tùng. Mưu việc không thành, vua sợ chạy vào Nghệ An, bị Trịnh Tùng lập vua mới Thế Tông Lê Duy Đàm bảy tuổi lên làm vua và cho người truy sát giết chết vua cũ. Suốt 10 năm 1573-1583 Trịnh Tùng cố thủ vững chắc Thanh Hóa. Sau khi Mạc Kính Điển mất (1579) thế lực hai bên thay đổi. Năm 1591, Trịnh Tùng cử đại binh đánh ra Thăng Long, bắt được Nguyễn Quyện, phá hào lũy và rút về Thanh Hóa. Vua Mạc Mậu Hợp say đắm vợ người, bạc đãi tướng sĩ, làm nát cơ nghiệp nhà Mạc. Tướng nhà Mạc là Văn Khuê về hàng nhà Lê. Trịnh Tùng đem đại binh trở lại Thăng Long, đánh tan quân Mạc, giết Mạc Mậu Hợp. Nhà Mạc mất ngôi. Con cháu nhà Mạc giữ đất Cao Bằng được ba đời nữa. Vua Lê chỉ còn trên danh nghĩa được cấp bổng lộc thượng tiến, thu thuế 1000 xã và 5000 lính túc vệ và chỉ thiết triều tiếp sứ. Mọi việc lớn nhỏ đều do chúa Trịnh điều hành. Họ Trịnh tôn Lê vì sợ nhà Minh sinh sự lôi thôi và sợ những kẻ chống đối lấy cớ phù Lê, hơn nữa họ Nguyễn có thế lực mạnh và họ Mạc còn đang giữ đất Cao Bằng .
Năm 1572, nhân lúc anh em Trịnh Cối, Trịnh Tùng đánh nhau, nhà Mạc đem quân đánh Thanh Hóa và cho một cánh thủy quân do tướng Lập Bạo chỉ huy đánh Thuận Hóa. Nguyễn Hoàng đã cho gái đẹp Ngô thị giả cách đưa vàng bạc đến cầu hòa, dụ Lập Bạo ra ái ân trên bãi biển vắng. Lập Bạo không đề phòng nên bị quân Nguyễn trong cát nổi lên giết chết. Quân Mạc bị đánh tan. Nguyễn Hoàng từ năm 1592 đến năm 1600, đã kéo quân ra Bắc giúp Trịnh diệt Mạc và lập được nhiều công to nhưng Trịnh Tùng luôn để ý đề phòng và Nguyễn Hoàng đã không thể có cớ gì để trở lại đất cũ. Năm 1600 nhân dịp đi đánh giặc, Nguyễn Hoàng đã theo đường biển về lại Thuận Hóa. Sợ họ Trịnh nghi ngờ, ông đã gả con gái Ngọc Tú cho Trịnh Tráng là con trai thứ của Trịnh Tùng. Năm 1613, Nguyễn Hoàng sắp mất, gọi người con thứ 6 là Nguyễn Phúc Nguyên vào dặn rằng: “Đất Thuận, Quảng này, bên bắc thì có núi Hoành Sơn, sông Linh Giang, bên nam có Hải Vân và núi Bì Sơn, thật là một nơi trời để cho người anh hùng dụng võ. Vậy ta phải thương yêu nhân dân, luyện tập quân sĩ để mà gây dựng cơ nghiệp về muôn đời”/ Sãi Vương Nguyễn Phúc Nguyên nối nghiệp cha giữ đất phương Nam, theo đúng lời di huấn của cha “thương yêu nhân dân, luyện tập quân sĩ”, bên ngoài kính cẩn nhận chức do vua Lê phong cho, giữ hòa hiếu với anh rể Trịnh Tráng, nhưng bên trong đã ngầm súc tích nội lực, tỉnh táo đối phó với mưu mô giảo hoạt tìm mọi cách thôn tính, khống chế của họ Trịnh.
Đào Duy Từ với tầm nhìn xa rộng và nhãn quan chính trị sâu sắc đã nhận ra tình cảnh trớ trêu trên. Hình thái Lê Trịnh, Mạc, Nguyễn thời ấy thật giống như “Tam Quốc”: Họ Trịnh noi cách Tào Tháo mượn uy thiên tử để sai khiến chư hầu. Họ Mạc tuy sức cùng lực kiệt nhưng được nhà Minh hậu thuẫn Nhà Minh luôn rình đợi thời cơ để can thiệp vào nước ta như cách “giúp Trần, cầm Hồ” của triều trước. Họ Nguyễn giữ đất phương Nam chân chúa lô rõ, hiền tài theo về. Đào Duy Từ như Ngọa Long ở Long Trung ẩn nhẫn đợi thời. Ông chỉ quyết định vào Nam khi đã định rõ minh quân, danh tướng, chiến lược, sách lược các đối sách trước mắt và lâu dài của bàn cờ lớn.
Lịch sử ghi nhận rằng Đào Duy Từ có bố là Đào Tá Hán, trước làm lính cấm vệ trong triều Lê Trịnh, bị phạm húy khi làm thơ đã dám nói tên của chúa Trịnh Kiểm nên bị phạt đánh đòn và đuổi về nhà làm dân thường. Bố của ông sau trở thành kép hát nổi tiếng khắp vùng và kết duyên với bà Vũ Thị Kim Chi ở làng Ngọc Lâm. Đào Duy Từ được sinh ra ở làng Hoa Trai, khi ông lên 5 tuổi thì bố bị bệnh mất, người mẹ ở góa, tần tảo nuôi con ăn học. Theo luật lệ của triều đình bấy giờ thì con cái những người làm nghề ca xướng đều không được quyền thi cử. Bà Kim Chi tiếc cho tài học của con nên đã nhờ viên xã trưởng đổi họ Đào của con theo cha thành họ Vũ theo mẹ. Năm 1593 lúc Đào Duy Từ 21 tuổi, vào đời vua Lê Thế Tông (l567-1584) đã đỗ á nguyên tại kỳ thi Hương. Ông dự thi Hội thì bị viên xã trưởng mật báo và tố giác vì mẹ ông đã không chịu gian díu với hắn. Ông bị cấm thi vì trọng tội “gian lận trong thi cử”, bị giam giữ xét hỏi, trong khi mẹ ông ở nhà đã phẫn uất tự tử. Đào Duy Từ lấy vợ họ Cao ở Tống Sơn nên có quen biết chúa Nguyễn Hoàng từ trước. Đào Duy Từ đã rời quê hương vào Đàng Trong lập nghiệp khoảng năm 1622 đến 1625 khi ông đã 50- 53 tuổi. Đào Duy Từ vào Nam sau ba mươi năm trầm tĩnh đợi thời. Ứng xử của ông giống như Nguyễn Bỉnh Khiêm đã nhẫn nại đợi thời cơ sau hai mươi năm mới ra lựa chọn triều Mạc và ra dự thi lập tức đoạt Trạng nguyên. Đào Duy Từ cũng chọn hướng vào Nam rất sâu sắc, có tính toán và đúng thời cơ. Đây không phải là một sự uất ức tầm thường mà là sự nhẫn nại của bậc trí giả, thời thế nhiễu loạn, vàng lầm trong cát mà thôi. Đào Duy Từ được Chúa Nguyễn trọng dụng, đã hết lòng giúp chúa Nguyễn đạt được năm kỳ tích lạ lùng và nổi bật ngời sáng trong lịch sử Việt Nam:
1) Giữ vững cơ nghiệp của chúa Nguyễn ở Đàng Trong chống cự thành công với họ Trịnh ở phía Bắc. Ông đã cùng các danh tướng Nguyễn Hữu Dật, Nguyễn Hữu Tiến bày mưu định kế, luyện tập quân sĩ, xây đồn đắp lũy, tổ chức tuyến phòng ngự chiều sâu từ phía nam sông Linh Giang đến Lũy Trường Dục (ở huyện Phong Lộc, tỉnh Quảng Bình) và Lũy Thầy (từ cửa sông Nhật Lệ đến núi Đâu Mâu, Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình). Suốt thời Trịnh Nguyễn phân tranh kéo dài suốt 45 năm (1627-1672) đánh nhau cả thảy bảy lần, họ Trịnh thường mạnh hơn nhưng quân Nam tướng sĩ hết lòng, đồn lũy chắc chắn nên đã chống cự rất hiệu quả với quân Trịnh.
2) Mở đất phương Nam làm cho Nam Việt thời ấy trở nên phồn thịnh, nước lớn lên, người nhiều ra. Đào Duy Từ có duyên kỳ ngộ với tiên chúa Nguyễn Hoàng và chân chúa Nguyễn Phúc Nguyên. Ông hết lòng phò vua giúp nước “cúc cungtận tụyđến chết mới thôi” như Ngọa Long Gia Cát Lượng Khổng Minh. Đào Duy Từ mang tâm nguyện và chí hướng lớn lao như vua Trần Thái Tông “Nếu chỉ để lời nói suông cho đời sau, sao bằng đem thân mình đảm nhận trọng trách cho thiên hạ trước đã”. Di sản của ông không chỉ là trước tác mà còn là triều đại.
3) Đào Duy Từ là bậc kỳ tài muôn thuở với những di sản còn mãi với non sông. Ông là nhà thực tiễn sáng suốt có tầm nhìn sâu rộng lạ thường. Ông đã đặt nền móng vững chắc cho triều Nguyễn, sửa sang chính trị, quan chế, thi cử, võ bị, thuế khóa, nội trị, ngoại giao gắn với hệ thống chính trị tiến bộ hợp lòng dân. Với tài năng tổ chức kiệt xuất của Đào Duy Từ, chỉ trong thời gian ngắn ngủi chín năm (1625-1634), ông đã kịp xây dựng được một định chế chính quyền rất được lòng dân. Triều Nguyễn sau khi Đào Duy Từ mất (1634) còn truyền được 8 đời (131 năm), cho đến năm 1735, khi Vũ Vương mất, thế tử chết, Trương Phúc Loan chuyên quyền, lòng người li tán, nhà Tây Sơn nổi lên chiếm đất Quy Nhơn, họ Trịnh lấy đất Phú Xuân, thì cơ nghiệp chúa Nguyễn mới bị xiêu đổ.
4) Tác phẩm “Hổ trướng khu cơ”; Nhã nhạc cung đình Huế, vũ khúc tuồng Sơn Hậu, thơ Ngọa Long cương vãn, Tư Dung vãn đều là những kiệt tác và di sản văn hóa vô giá cùng với giai thoại, ca dao, thơ văn truyền đời trong tâm thức dân tộc. Binh thư “Hổ trướng khu cơ” sâu sắc, thực tiễn, mưu lược yếu đánh mạnh, ít địch nhiều, là một trong hai bộ sách quân sự cổ quý nhất của Việt Nam (bộ kia là Binh thư yếu lược của Trần Hưng Đạo) ; Nhã nhạc cung đình Huế, vũ khúc, tuồng cổ Sơn Hậu gắn với di sản văn hóa Huế thành di sản văn hóa thế giới; Những giai thoại, ca dao truyền đời trong tâm thức dân tộc của lòng dân mến người có nhân. Ngay trong trước tác của ông cũng rất trọng gắn lý luận với thực tiễn. Binh thư “Hổ trướng khu cơ” gắn với những danh tướng cầm quân lỗi lạc một thời như Nguyễn Hữu Dật, Nguyễn Hữu Tiến. Vũ khúc cung đình, tuồng cổ Sơn Hậu, thơ Ngọa Long cương vãn, Tư Dung vãn đều thể hiện tầm cao văn hóa.
5) Đào Duy Từ là người Thầy đức độ, tài năng, bậc kỳ tài muôn thuở của dân tộc Việt, người khai sinh một dòng họ lớn với nhiều hiền tài và di sản. Đào Duy Từ lúc đương thời đã gả con gái mình cho Nguyễn Hữu Tiến sau này là một đại tướng của nhà Nguyễn. Đào Duy Từ đã đem tài trí của mình cống hiến cho xã hội về nhiều lĩnh vực. Ông là một nhà quân sự tài ba, kiến trúc sư xây dựng lũy Trường Dục ở Phong Lộc và lũy Nhật Lệ ở Đồng Hới, thuộc tỉnh Quảng Bình, để chống lại các cuộc tấn công của quân Trịnh. Lũy Nhật Lệ còn gọi là lũy Thầy (vì chúa Nguyễn và nhân dân Đàng Trong tôn kính gọi Đào Duy Từ là Thầy). Lũy này được hoàn thành năm 1631, có chiều dài hơn 3000 trượng (khoảng hơn 12 km), cao 1 trượng 5 thước (khoảng 6 m), mặt lũy rất rộng (voi có thể đi lại được) cứ cách một quãng lại xây pháo đài để đặt súng thần công. Chiến lũy này có vị trí gần khe, dựa vào thế núi, chạy dài suốt cửa biển Nhật Lệ, trông giống hình cầu vồng, có tác dụng chặn được bước tiến của quân Trịnh trong hàng trăm cuộc giao tranh. Đương thời có các câu ca dao: Khôn ngoan qua cửa sông La/ Dù ai có cánh chớ qua lũy Thầy “Hữu trí dũng hề, khả quá Thanh Hà / Túng hữu dực hề, Trường lũy bất khả khoa”. Mạnh thì qua được Thanh Hà/ Dẫu rằng có cánh khôn qua lũy Thầy. Đường vô xứ Huế quanh quanh / Non xanh nước như tranh họa đồ/ Yêu anh em cũng muốn vô / Sợ truông nhà Hồ, sợ phá Tam Giang. Phá Tam Giang bây giờ đã cạn/ Truông nhà Hồ, Nội tán cấm nghiêm. Chùm thơ và giai thoại trên và dưới đây đã tồn tại lâu dài trong bia miệng người đời. Lời thơ đẹp, hợp logic và tình tự dân tộc, mọi việc đều khớp đúng với sự kiện lịch sử.
ĐÀO DUY TỪ GIAI THOẠI LỊCH SỬ
Giai thoại kể rằng Đào Duy Từ vốn người Đàng Ngoài , quê gốc ở làng Hoa Trai, nay thuộc xã Nguyên Bình, huyện Tĩnh Gia, Thanh Hóa. Bố là Đào Tá Hán, trước làm lính cấm vệ trong triều, thời Lê – Trịnh. Một hôm, nhân lúc nổi hứng, Tá Hán đã sáng tác bài thơ ca ngợi chúa Trịnh như sau:
Trang quốc sử ai bằng Trịnh Kiểm
Tỏ thần uy đánh chiếm hai châu
Thẳng đường rong ruổi vó câu
Phù Lê, diệt Mạc trước sau một lời…
Tá Hán liền bị quy là phạm thượng, trong thơ dám nói cả tên húy của chúa là Trịnh Kiểm. Ông bị tội phạt đánh đòn 20 roi và bị đuổi về nhà làm dân thường.
Nhờ có tài đàn hát nên Tá Hán bèn đi theo một gánh hát để kiếm sống và ít lâu sau đã trở thành kép hát tài giỏi, nổi tiếng khắp vùng.
Có lần, gánh hát đến diễn ở làng Ngọc Lâm trong huyện. Đào Tá Hán trọ trong nhà vị tiên chỉ của làng này là Vũ Đàm. Ông tiên chỉ họ Vũ có cô cháu gái là Vũ Thị Kim Chi đem lòng yêu Tá Hán. Lúc đầu Tá Hán sợ phận mình nghèo khổ, khó kết thành vợ chồng. Nhưng sau khi nghe người nhà vị tiên chỉ thuyết phục rằng cô Chi có sẵn vốn liếng làm ăn, không phải lo nghèo chẳng nuôi nổi vợ, nên Tá Hán nghe theo.
Họ làm lễ thành hôn rồi mua đất, dựng nhà ở Hoa Trai, sau hơn một năm thì sinh ra Đào Duy Từ. Khi Duy Từ lên năm, chẳng may bố bị bệnh mất. Người mẹ chịu ở góa, một mình ngược xuôi tần tảo quyết nuôi cho con ăn học. Duy Từ tỏ ra rất sáng dạ, lại ham mê đèn sách, báo trước khả năng có thể thành đạt trên bước đường cử nghiệp.
Thế nhưng số phận thật là oái oăm! Theo luật lệ của triều đình bấy giờ, thì con cái những người làm nghề ca xướng đều không được quyền thi cử. Bà Kim Chi tiếc cho tài học của con, bèn thu gom vay mượn tiền bạc đến đút lót cho viên xã trưởng làng Hoa Trai là Lưu Minh Phương, để nhờ đổi họ Đào của con theo cha thành họ Vũ của mẹ, mong sao Duy Từ được dự kì thi Hương sắp tới .Viên xã trưởng thấy người vợ góa của Đào Tá Hán còn nhan sắc, nên nhận lời và ra điều kiện nếu xong việc thì phải lấy y.
Theo một vài tài liệu cho biết Đào Duy Từ đã dự khoa thi Hương năm 1593 đời vua Lê Thế Tông (l 567-1584) và đã đỗ á nguyên (thứ hai). Ông được mẹ khuyến khích dự tiếp kì thi Hội. Lúc này Duy Từ mới 2l tuổi.
Thấy việc đổi họ cho Duy Từ đi thi đã trót lọt, xã trưởng họ Lưu bèn đòi bà Kim Chi thực hiện giao ước tái giá về làm vợ mình. Bà Chi cứ lần chần, chối khéo, với lí do con mới thi đỗ, mẹ làm thế sẽ khó coi…
Viên xã trưởng tức giận, đem chuyện trình bày với tri huyện Ngọc Sơn, vốn là chỗ thân quen, để nhờ áp lực quan trên bắt bà mẹ Duy Từ phải thực hiện giao ước.
Viên tri huyện biết chuyện liền lập tức mật báo lên trên. Lúc này Duy Từ đang dự kì thi Hội. Bài Từ làm rất hay, chỉ có một điểm lập luận chưa vừa ý chúa, nên quan chủ khảo là Thái phó Nguyễn Hữu Liêu đang còn cân nhắc.
Giữa lúc đó thì có tin “sét đánh” ập đến lệnh triều đình truyền xuống đòi xóa ngay tên Vũ Duy Từ, hủy bỏ bài thi, lột hết mũ áo được ban, bắt ngay để tra xét. Đồng thời, gửi trát về cho tri huyện Ngọc Sơn trừng trị những kẻ liên đới.
Luật lệ thời đó quy định xử phạt rất nặng những ai dám phạm vào quy chế thi cử. Sắc chỉ vua Lê về các kì thi Hương đã ghi: ”Nếu người nào mà bị nghi gian thì bắt giữ đích thân đem việc tâu lên để trên xét”. Vì thế, ngay sau đó, Đào Duy Từ đã bị giam giữ, xét hỏi.
Ở quê bà Vũ Thị Kim Chi cũng không tránh khỏi sự truy xét. Bà vừa lo cho tính mạng của con, vừa oán giận sự khắc nghiệt, bất công của triều đình, nên đã phẫn uất đi đến tự tử.
Duy Từ biết tin mẹ mất, nhưng không được về chịu tang, thương cảm quá thành bệnh ngày càng nguy kịch.
Chính trong thời gian Đào Duy Từ gặp cảnh ngộ éo le này, thì chúa Nguyễn Hoàng (1558-1613), cát cứ ở Đàng Trong, đang làm chuyến du hành ra Bắc với mục đích chúc mừng chúa Trịnh diệt được họ Mạc, luôn thể dò la tình hình của xứ Đàng Ngoài và thăm viếng phần mộ của cha ông xây cất ở vùng Tống Sơn (nay là huyện Hà Trung), Thanh Hóa.
Nguyễn Hoàng có đến thăm Thái phó Nguyễn Hữu Liêu nên tình cờ nghe được chuyện ông này kể về tài năng và số phận hẩm hiu của người học trò nghèo Đào Duy Từ. Chúa Nguyễn đang nuôi ý đồ xây dựng cơ nghiệp riêng ở Đàng Trong nên muốn ”chiêu hiền đãi sĩ” lôi kéo người tài xứ Bắc về mình. Vì thế, khi biết chuyện Duy Từ, chúa đem lòng ái mộ, cảm mến, ngầm giúp Từ tiền bạc để sinh sống, chạy chữa thuốc men.
Giai thoại dân gian kể tiếp, trước lúc trở về Đàng Trong, Nguyễn Hoàng đã đến thăm Đào Duy Từ. Chúa chợt thấy trên vách buồng Duy Từ đang ở có treo bức tranh cầu hiền vẽ ba anh em Lưu Bị thời Tam Quốc bên Tàu lặn lội tìm đến đất Long Trung để vời đón Gia Cát Lượng là một bậc hiền tài.
Nguyễn Hoàng bèn chỉ lên bức tranh, tức cảnh đọc mấy câu thơ để tỏ lòng cầu hiền của chúa và cũng để dò xét tâm ý Đào Duy Từ:
Vó ngựa sườn non đá chập chùng
Cầu hiền lặn lội biết bao công
Duy Từ bèn đọc tiếp:
Đem câu phò Hán ra dò ý
Lấy nghĩa tôn Lưu để ướm lòng. ..
Nguyễn Hoàng nối thêm:
Lãnh thổ đoạn chia ba xứ sở
Biên thùy vạch sẵn một dòng sông
và Duy Từ kết
Ví như chẳng có lời Nguyên Trực
Thì biết đâu mà đón Ngọa Long
Thế nhưng, kể từ khi có cuộc hội ngộ này, phải đến chục năm sau, Đào Duy Từ mới trốn được vào Nam. Lúc đó, Nguyễn Hoàng đã mất và ông phải đi ở chăn trâu cho nhà hào phú ở đất Tùng Châu, để chờ thời đem tài trí của mình cống hiến cho xã hội.
Giai thoại ‘Kẻ chăn trâu kỳ dị’ kể rằng Nhà phú hộ Lê Phú ở thôn Tùng Châu, phủ Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định thuê được một đứa ở chăn trâu tên là Đào Duy Từ tuy đã đứng tuổi, nhưng cần mẫn, siêng năng. Ngày ngày cứ sáng, sớm lùa trâu đi ăn, mãi chập tối mới đánh trâu về, trời nắng cũng như trời mưa, khiến gia chủ rất vừa lòng, chưa hề có tiếng chê trách.
Một hôm, phú hộ họ Lê mời các Nho sĩ hay chữ khắp vùng đến nhà dự hội bình văn. Chập tối, sau khi tiệc tùng xong, mọi người còn trà thuốc, bàn cãi chữ nghĩa văn chương, thì vừa lúc Đào Duy Từ chăn trâu về. Thấy đám đông khách khứa trò chuyện rôm rả, Duy Từ bèn lại gần, đứng ghếch chân lên bậc thềm nhìn, tay vẫn cầm chiếc roi trâu, vai đeo nón lá, lưng quấn khố vải… Chủ nhà ngồi phía trong nhìn thấy cho là vô lễ, giận dữ quát:
– Kẻ chăn trâu kia! Hạng tiểu nhân biết gì mà dám đứng nhìn các quan khách đây là những bậc danh Nho ?
Duy Từ nghe mắng song không tỏ ra sợ hãi, cười ha hả, rồi nói một cách thản nhiên:
– Nho cũng có hạng ”nho quân tử”, hạng ”nho tiểu nhân”. Chăn trâu cũng có kẻ ”chăn trâu anh hùng”, kẻ ”chăn trâu tôi tớ”, cao thấp không giống nhau, hiền ngu không là một ! Còn kẻ tiểu nhân tôi chỉ đứng nhìn, có xâm phạm gì đến cái phú quý, sang trọng của các vị, mà chủ nhân lại mắng đuổi ?
Mấy người khách nghe Duy Từ là đứa chăn trâu, mà nói lí như vậy, liền vặn hỏi:
– Vậy nhà người bảo ai là “nho quân tử”, ai là “nho tiểu nhân” hả?
Đào Duy Từ chẳng cần nghĩ ngợi, nói luôn một mạch:
– “Nho quân tử” thì trên thông thiên văn, dưới thấu địa lí, giữa hiểu việc đời, trong nhà giữ được đạo cha con, tình nghĩa vợ chồng, anh em, bè bạn, ngoài xã hội thì biết lo việc nước, vỗ yên dân, giúp đời, phò nguy cứu hiểm, để lại sự nghiệp muôn đời. Còn “nho tiểu nhân” thì chỉ là bọn học vẹt, cầu danh cầu lộc, khoe ít chữ nghĩa, coi thường hào kiệt, may được giữ một chức quan nhất thời, thì chỉ tìm trăm phương ngàn kế để mưu đồ lợi riêng làm sâu mọt hại dân đục nước, thật là đáng sợ !
Đám khách nghe Duy Từ nói thế, đều giật mình kinh ngạc, không ngờ một đứa chăn trâu mà lí lẽ cứng cỏi làm vậy, bèn tò mò hỏi thêm:
– Còn ”kẻ chăn trâu anh hùng”, kẻ ”chăn trâu tôi tớ” thì nghĩa làm sao, nhà ngươi thử nói nghe luôn thể ? Duy Từ mỉm cười, ung dung trả lời:
– ”Chăn trâu anh hùng” thì như Ninh Thích phục hưng nước Tề, Điền Đan thu lại thành trì cho nước Yên, Hứa Do cho trâu uống nước ở khe mà biết được hưng vong trị loạn, Bạch Lý Hề chăn dê mà hiểu thấu thời vận thịnh suy. Đó là những kẻ ”chăn trâu anh hùng”. Còn những bọn chỉ biết cam phận tôi tớ, chơi bời lêu lổng, khi vui thì reo hô hoán, khi giận thì chửi rủa, đánh đấm, chẳng kể gì thân sơ, làm cha ông phải xấu lây, xóm làng chịu điều oan. Đấy là hạng ”chăn trâu tiểu nhân” cả !
Mọi người nghe Duy Từ đối đáp trôi chảy, sách vở tinh thông, nghĩa lí sâu sắc, càng thêm kinh ngạc, nhìn nhau, rồi đứng cả dậy, bước ra ngoài thềm mời Duy Từ cùng vào nhà ngồi. Nhưng Duy Từ vẫn tỏ ra khiêm tốn chối từ. Cả bọn bèn dắt tay Duy Từ lên nhà, ép ngồi vào chiếu trên.
Gã phú hộ Lê Phú rất đỗi ngạc nhiên, thấy kẻ đầy tớ chăn trâu nhà mình mà nói toàn chữ nghĩa nên còn ngờ, bèn giục mấy nhà Nho văn hỏi thêm, thử sức Duy Từ về kiến thức, sách vở cổ kim xem hư thực ra sao.
Các vị Nho học nhất vùng hỏi đến đâu, Đào Duy Từ đều đối đáp trôi chảy đến đó và tỏ ra không có sách nào chưa đọc đến, không có chữ nào không thấu hiểu, khiến cho cả bọn phải thất kinh, bái phục sát đất !
Chủ nhà cũng không kém phần sửng sốt, mới vỗ vai Duy Từ, đổi giận làm lành, mà rằng:
– Tài giỏi như thế, sao bấy lâu cứ giấu mặt không cho lão già này biết, để đến nỗi phải chăn trâu và chịu đối xử bạc bẽo theo bọn tôi tớ ? Quả lão phu có mắt cũng như không. Có tội lắm ! Có tội lắm!
Từ đó chủ nhà may sắm quần áo mới xem Duy Từ là khách quý, mời ngồi giảng học, đối đãi hết sức trọng vọng. Chủ nhà đã tiến cử Đào Duy Từ cho quan Khám lý Trần Đức Hòa. Vì mến tài của Đào Duy Từ, Trần Đức Hòa đã gả con gái cho, đồng thời tiến cử Đào Duy Từ cho Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên. Sau cuộc gặp gỡ với Đào Duy Từ, Chúa Sãi đã phong cho ông làm Nha uý Nội tán.
Giai thoại “bước ngoạt cuộc đời” kể rằng: Sau buổi đối đáp với các nhà nho ở Tùng Châu, tiếng tăm Đào Duy Từ – một kẻ chăn trâu kì lạ, tài giỏi hơn người, lan truyền khắp nơi. Bấy giờ có vị quận công, anh em kết nghĩa với chúa Nguyễn, rất có thế lực, là Khám lí Trần Đức Hòa hay tin. Ông này cho đón Đào Duy Từ đến nhà chơi. Qua các buổi chuyện trò, đàm đạo văn chương, Khám lí họ Trần đã nhận thấy Duy Từ có học vấn uyên bác, lại tỏ ra chí lớn hơn người, bèn đem lòng yêu quý và gả người con gái là Trần Thị Chính cho Từ làm vợ.
Khi đã có chốn nương thân vững chắc Đào Duy Từ mới dần dà lộ rõ chí hướng phò vua giúp nước đã nung nấu suốt mấy chục năm cho bố vợ biết. Ông đưa tác phẩm “Ngọa Long cương vãn” của mình cho Trần Đức Hoà xem. Nội dung bài chính là nỗi lòng của Duy Từ, tự ví mình như Gia Cát Lượng (là một nhà quân sự, chính trị nổi tiếng bên Trung Quốc, vì chưa được thi thố tài năng, nên còn ẩn náu ở chốn Ngọa Long). Nỗi lòng đó của Duy Từ được thể hiện rõ ở đoạn kết:
Chốn này thiên hạ đã dùng
Ắt là cũng có Ngọa Long ra đời
Chúa hay dùng đặng tôi tài
Mừng xem bốn bể dưới trời đều yên
Khám lí Trần Đức Hòa xem đi xem lại bài ”Ngọa Long cương” của con rể, thấy văn từ khoáng đạt, điển tích tinh thông, ý chí mạnh mẽ, hoài bão lớn lao, đã tấm tắc khen, rồi tìm cách dâng lên chúa Nguyễn xem để tiến cử Duy Từ với chúa.
Bấy giờ chúa Nguyễn là Sãi Vương Nguyễn Phúc Nguyên (16l3- l635) đang có ý định kén chọn nhân tài, để dựng nghiệp lớn, nên khi xem xong bài vãn của Đào Duy Từ đã rất tâm đắc, bèn lệnh cho Khám lí Trần Đức Hòa dẫn ngay người con rể vào gặp chúa.
Gia đình nhà vợ vội may sắm quần áo, khăn mũ hợp nghi thức để Duy Từ mặc vào chầu cho thật chỉnh tề nhưng Duy Từ nhất mực từ chối, viện lẽ rằng mình không dám dùng, vì chưa có chức tước!
Trước buổi tiếp, Sãi Vương muốn thử tư cách Đào Duy Từ, nên chúa mặc y phục xuềnh xoàng, cầm gậy đứng trước cửa, thái độ lơ đãng, như chờ một kẻ hầu nào đấy.
Từ xa, Đào Duy Từ đã nhìn thấy vẻ thờ ơ của chúa, bèn giả tảng hỏi bố vợ:
– Người kia là ai vậy, thưa cha?
Trần Đức Hòa sợ hãi, trả lời:
– Ấy chết! Sao con dám hỏi vậy? Vương thượng đấy, Người đứng chờ, con mau mau đến bái lạy!
Duy Từ nghe bố vợ nói, chỉ cười nhạt rồi quay lại chực không đi nữa. Khám lí Trần đi trước, ngoảnh lại thấy con rể bỏ về, sợ khiếp đảm, liền níu lại quở trách:
– Con làm thế này thì tội phạm thượng sẽ trút lên đầu cha
Duy Từ đáp:
– Thưa cha, vì con thấy chúa đang trong tư thế đi dạo với các cung tần mỹ nữ, chứ không có nghi lễ gì gọi là tiếp đón khách hiền. Nếu con lạy chào tất phạm vào tội khinh vua.
Nghe con rể nói vậy, ông bố vợ lại càng thất kinh, cáu kỉnh cầm tay Duy Từ bắt trở lại ngay, để lạy chào chúa, không được để chúa phải chờ. Nhưng Duy Từ vẫn dùng dằng không chịu nghe lời.
Từ xa, Sãi Vương đã để ý quan sát thấy tất cả, biết Đào Duy Từ là kẻ tài giỏi thực, tính khí khái, chứ không giống những bọn tầm thường, chỉ cốt quỵ lụy, được ra mắt chúa, hòng tiến thân để kiếm chút bổng lộc, chức tước mà thôi. Chúa bèn quay vào nội phủ, thay đổi áo quần và bảo thái giám đem áo mũ ban cho Duy Từ, rồi vời vào sảnh đường tiếp kiến.
Kể từ buổi đó, Đào Duy Từ được chúa Sãi Vương tin yêu, trọng vọng, tôn làm quân sư, luôn ở cạnh chúa để bàn bạc việc quốc gia trọng sự. Ông được phong chức Tán trị, tước Lộc Khê hầu, nên người đời vẫn quen gọi ông là Lộc Khê.
Năm 1627, chúa Trịnh Đàng Ngoài muốn bắt họ Nguyễn ở Đàng Trong thần phục, bèn cử đoàn sứ giả mang sắc vua Lê vào phong cho Sãi Vương và đòi lễ vật cống nạp. Chúa Sãi không chịu, nhưng bề ngoài chưa biết xử trí ra sao, bèn hỏi ý kiến Lộc Khê Đào Duy Từ. Theo một số tư liệu, thì chính Duy Từ là người khuyên chúa bước đầu cứ nhận sắc phong, rồi sau sẽ tìm kế đối phó.
Ba năm sau, thấy thời cơ thuận lợi, bấy giờ Lộc Khê mới bàn với Sãi Vương, sai thợ làm một chiếc mâm đồng có hai đáy, bỏ sắc vua Lê phong kèm với một tờ giấy có 4 câu chữ Hán vào giữa, rồi hàn kín lại. Trên mâm cho bày nhiều lễ vật hậu hĩnh, rồi cử sứ giả mang ra Thăng Long, để tạ ơn vua Lê, chúa Trịnh.
Triều đình Đàng Ngoài nhận được mâm lễ vật tỏ ý ngờ vực, bèn cho khám phá bí mật ở phía trong và cuối cùng họ đã phát hiện chiếc mâm có hai đáy. Khi đem đục ra thì thấy có sắc vua phong dạo trước và tờ giấy viết bốn câu chữ Hán sau:
Mâu nhi vô dịch
Mịch phi kiến tích
Ái lạc tâm trường
Lực lai tương địch
Dịch nghĩa từng câu là: chữ ”mâu” không có dấu phết; chữ ”mịch” bỏ bớt chữ ”kiến”; chữ ”ái” để mất chữ ”tâm” và chữ ”lực” đối cùng chữ ”lai”.
Thoạt đầu, chúa Trịnh và cả đình thần không ai hiểu bốn câu trên ngụ ý gì. Sau chúa phải cho vời viên quan thông thái nhất triều vào hỏi, thì mới vỡ lẽ rằng, trong chữ Hán, chữ ”mâu” viết không có dấu phết thì thành chữ ”dư”. Chữ ”mịch” mà bỏ chữ ”kiến” thì là chữ “bất”. Chữ ”ái” nếu viết thiếu chữ ”tâm” thì ra chữ ”thụ” và chữ ”lực để cạnh chữ ”lai” sẽ là chữ ”sắc”. Gộp cả bốn chữ mới lại thành câu: ”Dư bất thụ sắc”, nghĩa là ”Ta chẳng chịu phong”.
Chúa Trịnh thấy họ Nguyễn chối từ, trả lại sắc phong bằng một mẹo kế tài tình, thì vừa tức giận, vừa phục tài, bèn cho dò la và biết được đều do Lộc Khê Đào Duy Từ bày đặt ra cả. Chúa tính kế làm sao để lôi kéo Lộc Khê bỏ chúa Nguyễn Đàng Trong về với triều đình Lê – Trịnh Đàng Ngoài.
Chúa lập mưu sai người mang nhiều vàng bạc bí mật vào biếu Đào Duy Từ, kèm một bức thư riêng để nhắc ông rằng tổ tiên, quê quán vốn ở Đàng Ngoài, nếu trở về sẽ được triều đình trọng vọng, cho giữ chức quan to.
“Trèo lên cây bưởi hái hoa
Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân
Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc
Em có chồng anh tiếc lắm thay”
Đào Duy Từ đã trả lại quà tặng và viết bài thơ phúc đáp chúa Trịnh như sau:
Ba đồng một mớ trầu cay
Sao anh chẳng hỏi những ngày còn không?
Bây giờ em đã có chồng
Như chim vào lồng như cá cắn câu
Cá cắn câu biết đâu mà gỡ
Chim vào lồng biết thuở nào ra?…
Chúa Trịnh đọc thơ biết khó lòng lôi kéo được họ Đào, nhưng thấy bài thơ chưa có câu kết, ý còn bỏ ngỏ, nên vẫn nuôi hi vọng, bèn cho người đem lễ vật hậu hơn, cầm thư chúa vào gặp Đào Duy Từ lần nữa.
Lần này, ông mới viết nốt hai câu kết gửi ra, để trả lời dứt khoát việc mời mọc của chúa Trịnh. Hai câu đó như sau:
Có lòng xin tạ ơn lòng
Đừng đi lại nữa mà chồng em ghen!
Từ đấy Đào Duy Từ ở lại giúp chúa Nguyễn ổn định và phát triển vùng đất miền trong, mở mang bờ cõi đất nước ta cho đến lúc qua đời.
ĐÀO DUY TỪ DI TÍCH DANH THẮNG
Đào Duy Từ với Lũy Thầy, Quảng Bình
Năm Canh Ngọ 1630, Đào Duy Từ chủ xướng việc thiết kế và chỉ đạo xây dựng hai công trình phòng thủ quan trọng là Lũy Trường Dục ở huyện Phong Lộc và Lũy Thầy từ cửa sông Nhật Lệ đến núi Đâu Mâu nay thuộc thị xã Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình. Sách Việt Nam sử lược có viết chi tiết về việc Đào Duy Từ, Nguyễn Hữu Dật, Nguyễn Hữu Tiến đã giúp chúa Nguyễn bày mưu định kế,luyện tập quân lính xây đồn đắp lũy để chống với quân họ Trịnh. Người ta thường gọi lũy ấy là lũy Thầy, nghĩa là lũy của Đào Duy Từ đắp ra. Lũy Thầy là chiến lũy quan trọng, giúp chúa Nguyễn có thể phòng thủ hiệu quả trước nguy cơ tấn công của quân Trịnh. Năm 1992, Bộ Văn hóa, Thông tin và Thể thao đã ra quyết định công nhận di tích lịch sử đối với hệ thống Lũy Thầy tại thị xã Đồng Hới và huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình với nhiều giá trị to lớn. Mặc dù Đào Duy Từ không phải là người quê ở đây nhưng là người có công rất lớn đối với Quảng Bình nên được nhân dân mến mộ , xếp vào danh nhân tiêu biểu của Quảng Bình
Lũy Thầy là một hệ thống thành lũy bằng đất, đá được hình thành trong thời gian 3 năm (1630-1634) với tổng chiều dài gần 34 km gồm lũy Trường Dục, lũy Trấn Ninh (lũy Đầu Mâu) và lũy Trường Sa. Lũy Thầy là một công trình kiến trúc quân sự có giá trị trong việc nghiên cứu lịch sử xây dựng thành lũy ở Việt Nam, thể hiện sự kết hợp một cách khoa học giữa thành lũy, sông ngòi, hầm hào liên hoàn, hỗ trợ cho nhau. Ngoài công dụng quân sự, lũy còn có tác dụng về nông nghiệp, thủy nông, thủy lợi như ngăn gió bão, gió mùa, hạn chế cát bay. Và nhiều nét sinh hoạt văn hóa khác gắn liền… Trong cả hệ thống, lũy Đầu Mâu thuộc làng Lệ Kỳ, xã Vĩnh Ninh, huyện Quảng Ninh được cho là còn khá nguyên vẹn. Năm 1631, sau khi xây xong lũy Trường Dục, chúa Nguyễn chưa yên tâm bèn sai Đào Duy Từ và Nguyễn Hữu Dật đi Quảng Bình xem xét hình thế núi sông vùng Đông Hải để xây thêm thành lũy phòng ngự. Khảo sát xong, Đào Duy Từ tâu: Thần xem từ cửa Nhật Lệ đến núi Đầu Mâu, phía ngoài có nước khe, bùa lũy sâu rộng Nguyễn Phúc Nguyên đồng ý cho xây ngay. Bia Định Bắc Trường Thành mô tả lũy Đầu Mâu như sau: “Lũy Đầu Mâu cao 1 tượng 5 thước (tương đương 6m), phía ngoài đóng cọc gỗ lim, phía sau cọc tre, đổ đất lên 5 tầng cấp để voi ngựa có thể bước lên và di chuyển dễ dàng trên mặt lũy. Cứ cách 3-5 tượng thì xây 1 pháo đài để đặt 1 súng thần công, cứ cách 1 tượng thì đặt 1 súng phóng đá, sỏi – tất cả tạo thành một công trình phòng thủ hiểm yếu và kiên cố nhất. Lũy có chiều dài 12 km.”
Lũy Thầy theo kế sách của Đào Duy Từ là hệ thống phòng thủ chiều sâu “Đèo Ngang – Sông Gianh – Lũy Thầy”. Đào Duy Từ phân tích rằng quân Trịnh dẫu đông và mạnh gấp bội quân Nguyễn nhưng bị chặn bởi ba tuyến phòng thủ liên hoàn lợi hại tạo bởi trở núi, cách sông kết hợp hệ thống chiến lũy liên hoàn. Sự sắc bén của quân Trịnh sẽ giống như mũi tên đuối tầm, dẫu có thể vượt qua Hoành Sơn, nhưng sẽ kiệt sức ở Linh Giang, và bị chặn đứng tại Định Bắc Trường Thành. Sự thật lịch sử, suốt thời Trịnh Nguyễn phân tranh kéo dài 45 năm (1627- 1672) đánh nhau cả thảy bảy lần, họ Trịnh thường mạnh hơn nhưng quân Nam tướng sĩ hết lòng, đồn lũy chắc chắn nên đã chống cự rất hiệu quả với quân Trịnh.
Sau này, hệ thống phòng thủ chiều sâu “túi bom Quảng Bình- tuyến phòng thủ Khe Sanh Quảng Trị- chốt Thượng Đức Quảng Nam” người Pháp, người Mỹ, Ngô Đình Diệm và Nguyễn Văn Thiệu đều hiểu tầm quan trọng của chốt Thường Đức như “mắt ngọc của đầu rồng” trên đường 14. Họ đã lập đồn lũy để kiểm soát trấn giữ nhằm tìm cách khóa chặt đường tiến và tiếp liệu của quân Bắc xuống phương Nam, phải sử dụng đường Tây Trường Sơn trên đất Lào rất vất vả. Chốt Thượng Đức Quảng Nam với cao điểm 1062, ngã ba sông Con, sông Cái, sông Vu Gia, Hà Tân Đại Lãnh lập thành thế trận hiểm yếu giống như hệ thống phòng thủ đèo Ngang, Rào Nan, Nguồn Son, Linh Giang, lũy Trấn Ninh, Trường Dục của thời Đào Duy Từ. Do thiếu tầm nhìn chiến lược kỳ tài của Đào Duy Từ với các danh tướng tài ba như Nguyễn Hữu Dật, Nguyễn Hữu Tiến nên cửa thép Đà Nẵng miền Nam đã sụp đổ. Đó là điểm nhìn tham chiếu sâu sắc cho hậu thế. (Đêm ngủ ở Hà Tân Đại Lãnh, Hoàng Kim liên tưởng)
Đền thờ Đào Duy Từ ở làng Hoa Trai, Tỉnh Gia, Thanh Hóa
Đào Duy Từ là người làng Hoa Trai, Ngọc Sơn, Tỉnh Gia, Thanh Hóa. Nơi đây hiện có đền thờ của Đào Duy Từ. Huyện Tỉnh Gia hiện là điểm đến du lịch của tỉnh Thanh Hóa. Sự kết hợp hài hòa giữa các cảnh quan biển, đảo, đồng bằng, trung du và miền núi đã tạo cho Tĩnh Gia thế mạnh phát triển kinh tế – xã hội, đặc biệt là du lịch. Ðến với Tĩnh Gia, du khách ghé thăm những địa danh nổi tiếng như Hòn Bảng, Hòn Biện Sơn, Hòn Mê, núi Ngọc Sơn, núi Am, núi Thề Nguyền, hồ Yên Mỹ, động Trúc Lâm, nhà thờ Ðào Duy Từ, nhà thờ Bùi Thị Xuân, nhà thờ Lê Ðình Châu … Tất cả tạo thành quần thể du lịch vô cùng độc đáo, là sự tổng hoà giữa những cảnh đẹp do thiên nhiên ban tặng cùng các truyền thuyết, dấu tích lịch sử. Cụm di tích Lạch Bạng có chùa Đót Tiên, đền thờ Quang Trung, nhà thờ Ba Làng xây dựng năm 1893 sớm nhất ở Việt Nam. Trên đường về thành phố Thanh Hóa, du khách dừng lại làng Hoa Trai (Nguyên Bình – Tĩnh Gia) để dâng hương tại đền thờ Đào Duy Từ – một danh nhân văn hóa ở quê Thanh…”
Đền thờ Đào Duy Từ tại làng Tùng Châu, Hoài Nhơn
Đào Duy Từ qua đời năm 1634, chúa Nguyễn Phúc Nguyên cho đưa thi hài ông về mai táng và lập đền thờ tại làng Tùng Châu thuộc xã Hoài Thanh huyện Hoài Nhơn. Di tích lăng mộ Đào Duy Từ thuộc địa phận thôn Phụng Du, xã Hoài Hảo, huyện Hoài Nhơn. Năm Gia Long 4 (1805) nhà Nguyễn xét công trạng khai quốc công thần, Đào Duy Từ được xếp hàng đầu, được cấp 15 mẫu tự điền và 6 người trông coi phần mộ. Đến năm Minh Mệnh 17 (1836), triều đình lại sai dân sở tại sửa chữa lăng mộ cho ông. Mộ Đào Duy Từ bị hư hại nhiều trãi qua thời gian và chiến tranh. Lần sửa sang gần đây nhất, nghe nói, được tiến hành năm 1999. Mộ của cụ Đào Duy Từ giữa vườn sắn KM94 xanh tốt. Đầu mộ của cụ là hai trụ đá lớn, đỉnh tạo dáng búp sen. Cuối mộ của cụ có một gốc cây cổ thụ, tán lẫn với rặng dừa. (ảnh Hoàng Kim)
Mưa rồi tạnh. Hương chợt bùng lên hóa sạch trước mộ của Người. Cả một vùng đất bình lặng trong thế núi tuyệt đẹp, cồn đất an lành và khu đầm ruộng lúa vòng cung rộng rãi như một vầng trăng non ôm gần trọn doi đất, nghe nói trước đây là vùng đầm sen, chốn ngọa long ẩn mình của kẻ sĩ chăn trâu kỳ dị.
Di tích Nhà thờ Đào Duy Từ hiện tại thuộc thôn Ngọc Sơn, xã Hoài Thanh Tây, huyện Hoài Nhơn (cách Quy Nhơn khoảng 80km về phí Bắc). Nhà thờ nằm trong khuôn viên một thửa đất hình chữ T có diện tích 1.616 m2, được xây dựng vào năm Tự Đức 12 (1859), đã trãi qua nhiều lần trùng tu. Nhà thờ có tam quan cao khoảng 6m, hai mái lợp ngói âm dương, trên có bốn chữ lớn “Quốc công từ môn” (cổng đến thờ Quốc công) ghép bằng mảnh sứ, hai bên đắp phù điêu hình hai con dơi cánh điệu, đường nét khá sắc sảo, bốn trụ góc có hình rồng uốn lượn. Qua Tam Quan có sân nhỏ hình chữ nhật, kích thước 6,9m x 7,8m. tiếp đến là bình phong đắp hình long mã lưng có hà đồ nỗi trên mặt nước, mặt sau đề bốn chữ “Bách thế bất di” (Trăm đời không thay đổi). Ở hai bên là đôi câu đối nhắc đến lai lịch Đào Duy Từ: “Ngọc sơn chung tú Bắc/ Bồng lãnh hiển danh Nam”. Cách đều bình phong 2,6m về hai bên có hai cột trụ cao 4m, trên đỉnh đắp tượng hạc đứng chầu đối xứng, phía sau là sân lớn hình chữ nhật với kích thước 15,4m x 14m. qua sân lớn đến nhà thờ được thiết kế kiểu nhà mái lá, một kiểu kiến trúc truyền thống ở Bình Định. Khám thờ bên trong có bài vị của Đào Tá Hán, Nguyễn Thị Minh (thân phụ và thân mẫu của Đào Duy Từ), Đào Duy Từ và vợ. Trên bài vị Đào Duy Từ có dòng chữ “ô Thủy tổ khảo nội tán lộc khê hầu Đào Công, tặng khai quốc công thần, đặc tiến Vinh lộc đại phu, Đông các đại học sỹ, Thái sư, nhưng thủy Trung Lương, phong Hoàng Quốc Công thần chủ” Bài vị của vợ Đào Duy Từ viết “ô Thủy tổ tỉ nội tán Lộc khê hầu Hoàng Quốc Công phu nhân, Trinh thục cao thị thần chủ”. Trong nhà thờ còn có đôi câu đối nhưng nay đã sứt mòn, mờ không đọc được. Ngoài ra, tại thôn Ngọc Sơn còn có lăng Đào Tá Hán. Truyền rằng khi đã làm quan ở Thuận Hóa, Đào Duy Từ cho đắp mộ phụ thân rồi tung tin rằng đã đưa hài cốt cha mẹ vào đây để phòng việc trả thù của họ Trịnh ở Đàng Ngoài. Lăng mộ hiện nằm trên một quả đồi rộng. Cũng tại Ngọc Sơn hiện có một ngôi chùa nhỏ, tương truyền là nơi đi tu của bà vợ cả họ Cao.
Di tích đền thờ Đào Duy Từ tại thôn Cự Tài thuộc xã Hoài Phú, huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định. Trong đền thờ khám thờ là bài vị Đào Duy Từ cũng ghi giống như bài vị bên nhà thờ thôn Ngọc Sơn. Sách Đại Nam Nhất Thống Chí và Đồng Khánh Dư Địa Chí đều chép đền thờ Hoàng Quốc Công Đào Duy Từ ở thôn Cự Tài, huyện Bồng Sơn (nay là Hoài Nhơn). Trong chiến tranh nhà thờ này đã bị sụp đổ. Năm 1978 dòng họ Đào xin kinh phí của tỉnh Nghĩa Bình để xây dựng lại đền thờ trên nền cũ hiện chỉ còn lại hai trụ cổng và tấm đại tự cũng đề “Quốc Công từ môn” (giống như nhà thờ ở thôn Ngọc Sơn, xã Hoài Thanh Tây) là dấu tích kiến trúc năm Tự Đức thứ 32 (1880) và lần trùng tu năm Khải Định thứ 1 (1861).
Những di tích kể trên, theo đơn vị hành chính hiện nay, 1) Lăng (mộ) Đào Duy Từ tại thôn Phụng Du, xã Hoài Hảo, 2) Đền thờ Đào Duy Từ tại thôn Cự Tài, xã Hoài Phú, huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định. 3) Nhà từ đường họ Đào thờ cụ Đào Tá Hán và cụ Vũ Thị Kim Chi là cha mẹ của cụ Đào Duy Từ cùng với viễn tổ và hậu duệ của ông tại thôn Tài Lương (Ngọc Sơn), xã Hoài Thanh Tây, huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định. Các bàn thờ tại Từ đường được đặt như sau: Bàn thờ chính giữa là thờ cụ ông Đào Tá Hán và cụ bà Vũ Thị Kim Chi; bàn thờ phía bên tay trái nhìn từ ngoài vào là thờ viễn tổ ông nội Đào Duy Từ là cụ Đào Duy Trung…; bàn thờ bên tay phải là thờ cụ Đào Duy Từ và cụ Cao Thị Nguyên còn bàn thờ hai bên là thờ hậu duệ Đào Duy Từ… . Lăng (mộ), đền thờ đình Tùng Châu, và nhà từ đường họ Đào tuy nằm ở các thôn, xã khác nhau hiện nay nhưng tất cả vùng đất này đều của trại Tùng Châu xưa. Đây là những xã thôn mà hiện nay con cháu Đào Duy Từ còn rất đông đảo, đặc biệt là ở thôn Cự Tài.
Hàng năm vào ngày 17 tháng 10 (âm lịch) là ngày giỗ Đào Duy Từ, con cháu họ Đào tổ chức cúng tế rất long trọng. Theo quy ước, cứ vào dịp này con cháu dòng tộc đều nghỉ việc đồng áng trong ba ngày. Sau khi làm lễ thắp hương tại lăng mộ Đào Duy Từ (thôn Phụng Du) con cháu về họp mặt và dâng hương tại đền thờ cha mẹ và vợ chồng Đào Duy Từ ở thôn Ngọc Sơn rồi sau đó mới trở về tế lễ chính thức tại đền thờ Đào Duy Từ ở thôn Cự Tài. Ngoài ngày giỗ chính (17 tháng 10), hàng năm tại các di tích trên còn có 5 ngày lễ phụ vào dịp Đông chí, Chạp mả, Thanh minh, Trung thu và Tết Nguyên đán. Ngày giỗ Đào Duy Từ cũng là ngày con cháu phối hợp cúng tế thân phụ và thân mẫu cùng vợ của ông. Duy bà vợ cả còn có ngày riêng là 12 tháng 2 âm lịch tại chùa tu của bà ở thôn Tài Lương. Giỗ bà hàng năm( gọi là tiểu chẩn) chỉ sửa cơm chay, cứ mười năm (gọi là trung chẩn) thì lễ vật có thêm đôi chim sống, một đôi gà sống cúng xong thả chim gà ra rồi con cháu thi nhau đuổi bắt, cứ 30 năm (đại chẩn) mới sửa cỗ mặn.
Tôi đã về mảnh đất Tùng Châu xưa, đã lần tìm theo những trang ghi chép cũ để thấu hiểu sự nhọc nhằn khởi nghiệp của bậc anh hùng và để thấy dấu ấn cùng với ảnh hưởng lớn lao của cụ Đào Duy Từ đối với vùng đất này.
Gia thế Đào Duy Từ qua hai cuốn gia phả ảnh của TS. Đinh Bá Hòa . Dấu tích của Gia phả họ Đào niên hiệu Thành Thái năm thứ 3 (1891) – một trong những tài liệu ghi chép rất tỉ mỉ, cụ thể về gia thế Đào Duy Từ. Nơi đây, không chỉ có con cháu họ Đào tự hào về vị tổ tiên của mình mà tất cả mọi người dân đều hãnh diện về ông. Cuộc đời và sự nghiệp Đào Duy Từ đã trở thành niềm tự hào chung của dân Hoài Nhơn, của nhân dân Bình Định. Cuộc hành hương về mảnh đất xưa nơi Đào Duy Từ chăn trâu để tìm chân chúa và thời vận. Cuộc đời và sự nghiệp Đào Duy Từ còn mãi với thời gian.
Đào Duy Từ thành hoàng đất Hoàng triều cương thổ
Đình Lạc Giao thuộc phường Thống Nhất, thành phố Buôn Ma Thuột, được lập năm 1929, là ngôi đình làng đầu tiên của những người Việt từ đồng bằng lên đây lập nghiệp thờ thành hoàng làng là Đào Duy Từ.
Đình Lạc Giao năm 1932 được xây dựng lại bằng gạch lợp ngói theo hình chữ Môn, gồm có nhà thờ Thần Hoàng và những người có công với nước, hai nhà tả hữu hai bên dùng làm nơi hội họp mỗi khi tế lễ, phía trước có cổng tam quan đi vào, sau cổng có bức bình phong có chạm khắc hổ phù, sau nữa là một lư hương lớn.
Đình Lạc Giao năm 1932, vua Bảo Đại ra chiếu sắc phong thần hoàng Đào Duy Từ, khẳng định đây là đất của “Hoàng triều cương thổ”.
Làng Lạc Giao ban đầu chỉ dăm nóc nhà dọc theo con đường suối Ea Tam, xóm người Việt ấy được gọi là thôn Nam Bang. Họ từ những người bị tù lưu đày xa xứ, rồi những dân phiêu bạt từ các vùng đất miền Trung nghèo khó tìm nơi lập nghiệp sinh sống, rồi những công chức, thầy giáo, binh lính được bổ nhiệm lên vùng đất xa xôi. làm rẫy dọc theo khu rừng già ven suối, bên cạnh một buôn của Ama Thuột. Năm 1924, họ gọi xóm người Việt di cư đến là Lạc Giao với ý nghĩa: Lạc là con Lạc cháu Hồng, Giao nghĩa là nơi bang giao Kinh – Thượng. Tên gọi Lạc Giao là lời nguyền giao ước an cư lạc nghiệp của đồng bào Kinh- Thượng, cùng chung lưng đấu cật xây dựng vùng đất mới này. Năm 1925, làng Lạc Giao được mở rộng bao trùm cả một khu vực rộng lớn ở ngay trung tâm Buôn Ma Thuột.
Đình Lạc Giao trước đó được hình thành theo tài liệu của đình được ghi nhận là do ông Phan Hộ, người Quảng Nam, vào Ninh Hoà, Khánh Hoà) sinh sống. Thuở ấy, lên cao nguyên Dak Lak chưa có đường, ông Phan Hộ cùng một số trai tráng đi bằng voi, ngựa xuyên rừng vài tháng mới tới vùng M’Drak rồi đến Buôn Ma Thuột trao đổi hàng hoá với người Ê Đê, thấy người dân ở đây giàu lòng mến khách, đất đai màu mỡ lại dễ làm ăn, nên ông vận động nhiều gia đình lên đây sinh sống, khai phá đất hoang để lập làng. Nỗi nhớ thương quê nhà bản quán, anh em khôn nguôi trong lòng những người đi xa quê, làm ăn xứ lạ. Từ đó họ có nhu cầu gặp gỡ, trao đổi công việc làm ăn, nhất là Lễ Tết có nơi cúng kiếng ông bà tổ tiên, nhắc chuyện quê hương làng xóm. Họ đã góp tiền của công sức dựng nên ngôi đình trên để thoả nỗi ước mong đó. Đình Lạc Giao ra đời ghi dấu bước chân của người Việt trên mảnh đất cao nguyên, là nơi mọi người cầu mong sức khoẻ và làm ăn phát đạt, nơi thờ các vị tiên hiền và người có công với đất nước, nơi sinh hoạt trong những ngày lễ tết của cư dân Việt trên vùng đất mới.
Năm 1932, vua Bảo Đại ra chiếu sắc phong cho thần hoàng của làng là Đào Duy Từ, khẳng định đây là đất của “Hoàng triều cương thổ”. Nhân vật được sắc phong Thần Hoàng là một danh nhân văn hoá, một tài năng lớn trong nhiều lĩnh vực: chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá … đặc biệt ông là người có công mở mang đất nước, xây dựng nên nhiều vùng đất mới.
Hằng năm cứ đến ngày 17-10 âm lịch, nhân dân Buôn Ma Thuột lại tổ chức ngày tưởng niệm tại đình …’’
Ngược gió đi không nản
Rừng thông tuyết phủ dày
Ngọa Long cương đâu nhỉ?
Đầy trời hoa tuyết bay!
Lồng lộng vầng trăng rằm
Một vườn thiêng cổ tích
Người là ngọc cho đời
Tháng năm còn nhớ mãi.
Về Tùng Châu thương người hiền
Đời trãi năm trăm năm
Thương người hiền một thuở
Hậu sinh về chốn cũ
Thăm vườn thiêng thiên thu.
Hoàng Kim đã về dâng hương tưởng nhớ Đào Duy Từ ở đất Tùng Châu xưa. Tôi lần tìm theo những trang ghi chép cũ để thấu hiểu sự nhọc nhằn khởi nghiệp của bậc anh hùng và để thấy dấu ấn cùng với những ảnh hưởng lớn lao của Đào Duy Từ đối với mảnh đất này. Tôi may mắn thăm Đình Lạc Giao, Lũy Thầy và các nơi để chứng ngộ công đức của Người và cảm nhận. Cám ơn gia tộc Đào Duy, phó giáo sư Đào Thế Anh, giáo sư Mai Văn Quyền, giáo sư Lê Văn Tố, phó giáo sư sử học Trương Minh Dục, thầy Dương Duy Đồng, thầy Nguyễn Minh Hiếu, em Nguyễn Thị Trúc Mai, em Phạm Văn Ngọc, một số người đã trực tiếp chứng kiến các khảo sát điền dã nông nghiệp lịch sử của tôi đã gợi ý cho tôi tiếp tục hoàn thiện bài viết này.
Một thông tin quan trong
ĐỀN THỜ ĐÀO DUY TỪ VÀ TỪ ĐƯỜNG HỌ ĐÀO
Đền thờ Đào Duy Từ và từ đường Đào Duy Từ
Đào Duy Lộc; Đào Duy An
Đền thờ là công trình kiến trúc nhằm thờ một vị thần hoặc anh hùng dân tộc hoặc danh nhân quá cố. Từ đường là công trình kiến trúc nhằm thờ tổ tiên của họ nào đó. Từ đường còn gọi là nhà thờ họ. Trong lịch sử có vị danh nhân mà vua chúa vừa cho lập đền thờ vừa cho xây từ đường, đó là Thái sư Hoằng Quốc Công Đào Duy Từ.
Đền thờ Đào Duy Từ
Đào Duy Từ sinh năm 1572 tại Thanh Hóa; tộc phả và sử liệu không ghi ngày sinh và tháng sinh. Lận đận “lý lịch” và ẩn nhẫn chờ thời cho đến năm 1627 ông mới phò Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên, giữ chức Nha uý Nội tán, tước Lộc Khê hầu, trông coi việc quân cơ trong ngoài và tham lý quốc chính.
Kế sách ông dâng Chúa Sãi ngay buổi đầu diện kiến gồm 5 điểm chính sau: (1) Thống nhất giang sơn: Ông khuyên Chúa Sãi nên nối nghiệp Tiên Vương Nguyễn Hoàng diệt Chúa Trịnh để thống nhất sơn hà. (2) Mở mang bờ cõi: Đánh chiếm Chiêm Thành để mở mang bờ cõi phương Nam, làm thành một nước rộng lớn hơn Đàng Ngoài của Chúa Trịnh. (3) Phát triển dân số và dân sinh: Chiêu mộ dân khai khẩn đất hoang để sản xuất nông nghiệp; trước là có nhiều thóc gạo làm lương thực, sau là có nhiều người để tăng quân số. Giảm bớt sưu thuế cho dân đỡ khổ, nâng cao đời sống của dân, giúp đỡ họ làm ăn cày cấy, buôn bán. Mở nhiều trường học, ra lệnh cho mọi người đều phải đi học, dân có biết chữ mới biết yêu nước thiết tha. Làm được như thế dân không bị áp bức, lại được sống sung túc thì bao giờ cũng tận tâm phò Chúa. (4) Chỉnh đốn nội trị: Chọn người tài giỏi có công tâm không kể thân sơ ra giúp nước còn những kẻ tham nhũng thì trừng phạt và thải hồi. (5) Xây dựng quân đội: Muốn cho quân đội hùng hậu phải mộ thêm lính, xây đắp đồn lũy, huấn luyện cho quân lính có tinh thần, có kỷ luật.
Chỉ vỏn vẹn 8 năm phò Chúa Sãi từ 1627 đến 1634 nhưng Đào Duy Từ đã khắc hoạ hình ảnh đặc dị một người thầy của Chúa Sãi, một học giả, một chính trị gia, một chiến lược gia, một kiến trúc gia, một kỹ thuật gia, một nghệ sư tài hoa, là người góp phần định hình được nhà nước, địa lý và bản sắc Đàng Trong.
Ông mất ngày 17 tháng 10 năm Giáp Tuất (1634). Chúa Sãi thương tiếc khôn nguôi, tặng Hiệp mưu Đồng đức công thần, Đặc tiến Trụ quốc Kim tử Vinh Lộc đại phu, Thái thường Tự khanh, cho đưa về mai táng và sai lập đền thờ phụng tại xã Tùng Châu mà nay là thôn Cự Tài, xã Hoài Phú, huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định.
Xã Tùng Châu đến đời Gia Long được chia làm 9 thôn là Cự Tài, Phụng Du, Tấn Thạnh, Tân Bình, Phú Mỹ, Hội Phú, Phú Thọ, Cự Nghi và Cự Lễ mà trong đó có đền thờ, đình Tùng Châu tại thôn Cự Tài và lăng (mộ) tại thôn Phụng Du. Đây là 3 địa danh lịch sử bất di bất dịch chính thống xứ Đàng Trong gắn liền với cuộc đời và sự nghiệp của Đào Duy Từ.
Hiện nay 9 thôn trên thuộc địa giới hành chính của hai xã Hoài Phú và xã Hoài Hảo, huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định. Đền thờ Thái sư Hoằng Quốc Công-Đệ nhất Khai quốc công thần Đào Duy Từ do Chúa Sãi cho xây dựng như đã chép trong Đại Nam Liệt truyện Tiền biên bằng kinh phí nhà nước Đàng Trong bấy giờ và việc thờ phụng cũng do Nhà nước tổ chức. Từ đời Gia Long trở đi đền thờ được liệt vào “Điển thờ của Nhà nước”, có tự điền tự phụ và hằng năm đến ngày 17 tháng 10 âm lịch là ngày húy kỵ (chánh giỗ) của ông thì quan đầu tỉnh đến dâng lễ tế gọi là quốc tế. Đền thờ bị hư hại trong chiến tranh, sau đó đã được con cháu xây dựng lại.
Hiện tại trong đền thờ còn một thần vị bằng gỗ, sơn son thếp vàng, khắc họ tên thụy hiệu cùng quan hàm tước vị của Đào Duy Từ và của phu nhân là Cao Thị Nguyên. Ngoài ra Đền thờ còn lập bàn thờ ông Trần Đức Hòa là cha vợ Đào Duy Từ và bàn thờ dưỡng tổ Lê Đại Lang.
Hiện nay lễ húy kỵ hằng năm do dòng họ tổ chức và có đại diện quan chức đến dự.
Từ đường Đào Duy Từ- “Đền thờ Đào Tá Hán”
Dù Chúa Sãi đã cho lập đền thờ Đào Duy Từ tại thôn Cự Tài 1, xã Hoài Phú, huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định sau khi ông mất vào năm Giáp Tuất (1634) nhưng Vua Tự Đức vẫn cho xây thêm từ đường Đào Duy Từ vào năm 1859 (xây sau Đền thờ 225 năm) tại thôn Tài Lương (Ngọc Sơn), xã Hoài Thanh Tây, huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định.
Đây là nơi thờ chính cha mẹ ông (Đào Tá Hán và Vũ Thị Kim Chi), viễn tổ và hậu duệ của ông. Các bàn thờ tại Từ đường được đặt như sau: Bàn thờ chính giữa là thờ Đào Tá Hán và Vũ Thị Kim Chi; bàn thờ phía bên tay trái nhìn từ ngoài vào là thờ viễn tổ ông nội Đào Duy Từ-Đào Duy Trung…; bàn thờ bên tay phải là thờ Đào Duy Từ và Cao Thị Nguyên còn bàn thờ hai bên là thờ hậu duệ Đào Duy Từ…
Con cháu trong dòng họ Đào Duy Từ ấn định ngày 15, 16 tháng Giêng hằng năm sau khi công việc đồng áng đã xong, rảnh rỗi thì chạp mả (tảo mộ) cho cha, mẹ ông và các bậc tiên tổ, hậu duệ… Đồ cúng chạp mả (tảo mộ) được nấu tại đền thờ Đào Duy Từ rồi gánh về từ đường Đào Duy Từ và cúng tại đây vào sáng ngày 16 tháng Giêng hằng năm. Sau này, để tiện lợi nên nấu cúng tại từ đường Đào Duy Từ.
Lẫn lộn đền thờ Đào Duy Từ và từ đường Đào Duy Từ
Trớ trêu là ngày 15 tháng 10 năm 1994 Bộ Văn hoá Thông tin lại cấp bằng di tích lịch sử văn hoá cấp quốc gia “Đền thờ Đào Duy Từ” cho chính từ đường Đào Duy Từ và theo đó dân chúng nhầm lẫn, viếng từ đường Đào Duy Từ mà bỏ qua đền thờ Đào Duy Từ sừng sững từ năm 1634 đến nay.
Thêm nữa mỗi 5 năm UBND huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định vào ngày chạp mả (tảo mộ) của dòng họ Đào Duy Từ lại tổ chức kỷ niệm năm sinh (sinh nhật) ông tại từ đường Đào Duy Từ mà họ cho là đền thờ Đào Duy Từ; họ đã tổ chức kỷ niệm năm sinh (sinh nhật) ông vào năm 2012 và 2017. Họ nhầm lẫn giữa từ đường (nhà thờ họ) Đào Duy Từ với đền thờ Đào Duy Từ chăng? Buồn thay!
(Bài này Hoàng Kim đã viết từ trước, nay đã hiệu đính thêm một số chi tiết về Đền thờ/Từ đường Đào Duy Từ, bổ sung trích dẫn tại thông tin này của Đào Duy An bài đính chính gởi ngày 24 tháng 11 năm 2018)
Tài liệu tham khảo chính
1) Đào Xuân Hưng 2010. Họ Đào Việt Nam http://hodaovietnam.com/home 2) Nguyễn Khắc Thuần 2012. Giai thoại dã sử Việt Nam; Nhà Xuất bản Giáo dục
3) Trần Trọng Kim 1921 Việt Nam sử lược, Nhà Xuất bản Văn hóa Thông tin 1999;
4) Trịnh – Nguyễn diễn chí, quyển 2;
5) Trang thông tin điện tử tỉnh Bình Định http://www.baobinhdinh.com.vn;
(TS. Đinh Bá Hòa 2012. Gia thế Đào Duy Từ qua hai cuốn gia phả, Trong: Báo Bình Định, http://www.baobinhdinh.com.vn/vanhoa-nghethuat/2012/2/122623). Cuốn thứ nhất chép năm Tự Đức 30 Đinh Sửu (1872) và cuốn thứ hai chép năm Thành Thái thứ 3, vào tháng 2 năm Tân Mão (1891)… Về nội dung, hai cuốn gia phả đều chép giống nhau về các đời của họ Đào, trong cùng một khung niên đại, từ đời viễn tổ Đào Duy Trung đến mốc soạn tu gia phả. Bản năm Tự Đức bị mất một số trang phần liệt kê các chi phái. Bản Thành Thái do trùng tu trên cơ sở của bản trước nên văn phong sáng sủa, ghi chép cẩn thận, tỉ mỉ hơn… Về lai lịch họ Đào, kể từ Đào Duy Từ và vợ ông là Cao Thị Nguyên trở về trước, cả hai bản đều ghi là ở Thanh Hóa. Về vợ Đào Duy Từ, sử sách về ông đều chép, ông được khám lý Trần Đức Hòa gả con gái cho. Vậy nên có cơ sở để nói rằng Đào Duy Từ có hai vợ. Về bà Cao Thị Nguyên, gia phả họ Đào ghi bà là vợ Đào Duy Từ. Về bà Trần Thị (không nói rõ tên) cả chính sử và dã sử đều chép là vợ của Lộc Khê hầu. Ở Hoài Nhơn, cách đền thờ Đào Duy Từ 300 m có đền thờ bà Trần Thị, trước cổng đề biển “Quốc Công phu nhân tự”... Đối chiết tài liệu gia phả do TS. Đinh Bá Hòa cung cấp với dã sử và khảo sát thực tế cần xác định rõ thêm người vợ Trần Thị của Đào Duy Từ và gia tộc khám lý Trần Đức Hòa, để rõ thêm con cái và hành trạng hai người vợ của ông. Con cháu họ Đào cũng cho biết, không hiểu từ bao giờ tại vùng này, trai gái hai họ Trần và Đào không được lấy nhau mà coi nhau như anh em ruột thịt. Hiện nay tục này vẫn giữ tuy không còn nghiêm ngặt.Theo hai bản gia phả, bà Cao Thị Nguyên là vợ của Đào Duy Từ… Đào Duy Từ và vợ cả đều là người Tĩnh Gia – Thanh Hóa. Ông lấy bà Cao Thị Nguyên trước khi vào Đàng Trong. Tài liệu chính sử và dã sử đều ghi Đào Duy Từ vào Đàng Trong năm 1625, lúc này đã 53 tuổi. Năm 1627, Đào Duy Từ gặp Trần Đức Hòa, được ông gả con gái và tiến cử lên chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên… Các tài liệu ghi năm 1631 Đào Duy Từ gả con gái cho Nguyễn Hữu Tiến, tuy không nói rõ con bà vợ nào nhưng chắc chắn là con bà Cao Thị Nguyên. Tài liệu cũng chép, bà Cao Thị Nguyên không theo ông vào Đàng Trong mà ở quê nhà trông coi phần mộ cha mẹ Đào Duy Từ, ông chỉ mang các con vào sau khi đã thành danh. Vậy mộ song thân của Đào Duy Từ và bà vợ họ Cao được đón vào lúc nào cần tìm hiểu rõ hơn.
6) Trang thông tin điện tử tỉnh Quảng Bình http://www.quangbinh.gov.vn ;
7) Trang thông tin điện tử tỉnh Thanh Hóa http://www.thanhhoa.gov.vn
8) Đào Duy Từ (chuyên luận Hoàng Kim) đã bổ sung, chỉnh sửa , hiệu đính nhân ngày 17 tháng 10 âm lịch năm 2015, và đăng lại ở Đào Duy Từ còn mãi
9) Đến Thái Sơn nhớ Đào Duy Từ. Bài và ảnh Hoàng Kim, đăng lại ở Đào Duy Từ còn mãi
THIÊN ĐƯỜNG NÀY ĐÂU Ở QUÁ XA
Hoàng Kim
Tứ Cô Nương Lâm Cúc, Thanh Chung, Kim Oanh , Hoài Vân là bốn người bạn thân, bốn loài hoa xuân phơi phới hạnh phúc. Đó là nhóm bạn quý của tình bạn, văn chương, thơ và lòng người. Hoài Vân dẫn đoàn gặp bạn đầu xuân ở nhà tôi và chúng tôi kéo nhau đi thăm Lâm Cúc những năm đầu tiên, sau đó ít năm dự sự kiện “Bay qua giấc mơ” và gần đây vẫn thường ghé thăm nhau ở Thiền Viện và thỉnh thoảng chào nhau trên Face Book. Gặp lại Tứ Cô Nương bạn sẽ gặp lai giấc mơ xanh … Tôi kể câu chuyện này, chụp bức ảnh này và lưu kỷ niệm này cách đây bảy năm để năm nay trở lại https://hoangkimlong.wordpress.com/…/tu-co-nuong-bay-qua-g…/
Câu chuyên họ kể thật lung linh “Buổi tối chúng tôi đi dạo phố núi kề biển đông đảo người qua lại, bác tài thi thoảng lại nhìn trước ngó sau rồi rồi đếm chúng tôi : One, two, three. và Ok một cách sung sướng vì chúng tôi vẫn đông đủ, không ai bị lạc. Thiên đường này đâu ở quá xa.”
Năm ngoái tôi đã gửi đùa lời nhắn. Em ơi xin em đừng lạc. Đi đâu thì đi đừng có lạc đường”
Em có lạc đường không đấy em
Mãi nghe chuyện lạ ngẩn ngơ quen
Chỉ vài điều ước sao chưa tới
Ngẫm bạn nhìn ta lại phát thèm.
Đường tốt và không ai thu phí
Không bề bộn ‘nút’ chẳng nilon
Hoa công cộng không ai bứt hái
‘Biển cấm’ vì ai hóa thẹn thùng.
Vé số, ăn xin đâu chẳng thấy
Không ai chèo kéo chém chặt ai
Hàng chôm cháo chửi không hề thấy
Rừng nguyên sinh xanh suốt đường dài
Đi khắp quê người để hiểu đất quê hương
Em cứ tung tăng nhưng xin đừng lạc.
Em ơi, ơi em, xin em đừng lạc.
Đi đâu thì đi đừng có lạc đường …
Lâm Cúc, Thanh Chung, Kim Oanh, Hoài Vân cùng nhóm bạn hữu “Vì ta cần nhau” đang “Bay qua giấc mơ” của họ. Giấc mơ những người phụ nữ Việt Nam bình thường, tử tế, nhân hậu, sống tốt, thân ái, chân tình trong đời thường và luôn vui vẻ “cúi xuống gieo hạt thiện” tùy hoàn cảnh của mình. Họ luôn sống vui, sống khỏe, sống nhân ái và luôn tìm thêm nguồn vui sống trong cộng đồng và chia sẽ với những người kém may mắn. Cuộc đời cao hơn trang văn, tình người ấm hơn bài viết. Họ neo đậu trong lòng tôi một tình bạn thân thiết cao quý, Tôi chẳng vội gì viết về họ mà chỉ phác vài tư liệu hình ảnh để nhớ …
Bạn nhìn thấy cái ông tóc bạc, râu bạc mà người ta ngỡ là Dương Trung Quốc nhà sử học, đại biểu quốc hội. Ông đó là Phạm Xuân Nguyên nhà phê bình văn học. Ngôi bân cạnh là Lê Thanh Chung. Cô chưa bao giờ tự nhận mình là nhà văn và có lẽ cũng chưa mong mình vào cái hội sang trọng đó. Thành Chung viết vì đơn giản vì ta cần nhau. “Cô viết cho bạn bè, cho người thân và biến nó thành món quà tặng của cuộc sống. Văn chương cũng giống như con người. Ngòi bút trăn trở đầy suy tưởng, đâu đó lại pha chút nghịch ngợm và ngang tàng giống như Hồ Xuân Hương đã khiến cái tên Thanh Chung nổi tiếng trong cộng đồng mạng” Thanh Thanh VOV bình luận. Những tản văn đầu tiên “Bay qua những giấc mơ” trên blog “Gửi hương cho gió” (mà blog LeThuanNghia tiếu lâm trêu đùa trên blog Lão Hâm là “gửi xương cho chó”) đã được cộng đồng mạng rất yêu thích . “Bay qua giấc mơ” là đứa con tinh thần của Lê thanh Chung và ba ba tiên mát tay của Thiền Viện. Sau này họ thừa thắng xốc tới với “Tin nhắn một chiều”.
Thanh Chung dí dỏm: “Được sự động viên, cổ vũ từ bạn bè, độc giả trên các mạng xã hội… tôi lại một lần nữa ‘liều lĩnh tấn công’ vào văn học”. Bỏ toàn bộ tiền túi cùng một số nhà hảo tâm để in cuốn sách, Thanh Chung muốn sử dụng cuốn sách để gây quỹ hướng về những em nhỏ miền núi có hoàn cảnh khó khăn.Cùng với nhóm “Vì ta cần nhau”, Thanh Chung sẽ đi những chuyến thiện nguyện, mang áo ấm, sách vở đến với thầy trò vùng cao. Giá sách chỉ khiêm tốn với 60.000/cuốn nhưng Thanh Chung vẫn rất mãn nguyện. Chị chia sẻ: “Sách chỉ in có 2000 quyển nhưng đã bán được gần hết. Mọi người vừa mua sách vừa ủng hộ. Đó đều là tấm lòng giúp đỡ các em nhỏ vùng xa còn nhiều khó khăn”.Thanh Thanh VOV trao đổi tiếp.
Anh Phan Chí Thắng nhận xét “Con người luôn chắp cánh ước mơ. Uớc mơ là động lực cho sự tồn tại. Tội nghiệp thay những kẻ không có ước mơ. Thán phục thay những người ước mơ táo bạo. Và kính trọng vô cùng những ai đã buộc phải và bay vượt qua giấc mơ cá nhân của mình để đến với giấc mơ cao cả hơn….Thanh Chung bay qua giấc mơ của cá nhân mình. Chị bay qua không giống như những lần chị bay qua đại dương, bay qua núi cao để đến nơi khác. Chị bay qua nhưng không bỏ lại giấc mơ ở phía sau mà để đến với giấc mơ mới. Đó là giấc mơ đến với những số phận phận bất hạnh, những người bằng cách này hay cách khác, đang bị Thượng đế bắt phải chịu cảnh trái ngang như đã từng làm với chị. Lượng sức mình, với tình yêu học trò của người đã làm nghề giáo, chị bay đến với trẻ em đói nghèo ở những địa điểm nghèo đói trong nước. Chị lập blog Vì ta cần nhau và nhóm Vì ta cần nhau để thu hút bạn bè cùng mình tìm mọi cách giúp học sinh vùng sâu vùng xa trong tâm thế chúng ta cần nhau chứ không phải tư cách của kẻ làm ơn làm phúc.”
Tôi mãi sau này mới viết được một bài thơ vụng về “Phan Thiết có nhà tôi” mà tôi yêu thích, với những câu lắng đọng “nên câu tuyệt diệu ngụ trong tính tình”.(Kiều-Nguyễn Du)
PHAN THIẾT CÓ NHÀ TÔI
Hoàng Kim
Phan Thiết có nhà tôi
Ra khỏi cửa rừng là nhà cửa biển
Tà Cú ngất cao, thong thả tượng Phật nằm
Đồi Trinh nữ nhũ hồng đắm say cảm mến.
Phan Thiết có nhà tôi
Quên hết bụi trần
Lãng đãng tứ cô nương
Ngọt lịm một lời thách đối:
Chứa Chan, Chán Chưa, Chưa Chán.
Phan Thiết có nhà tôi
Vị tướng trỏ tay thề
Mũi Kê Gà mắt thần canh biển
Ai đi xa nhớ nước mắm mặn mòi
Phan Thiết có nhà tôi
Sau đồi cát kia là dinh Thầy Thím
Lánh chốn ồn ào, tìm nơi tĩnh vắng
Tin nhắn một chiều Im lặng và Nghe
Tứ Cô Nương bay qua giấc mơ Tin nhắn một chiều Im lặng và Nghe là bài học lớn.
Một số tư liệu và hình ảnh:
Vài hình ảnh ở buổi họp mặt “Bay qua giấc mơ”
Hành trình xanh
GẶP BẠN ĐẦU XUÂN
Đầu xuân gặp bạn thật mừng vui
Rượu ngọt, trà thơm sóng sánh mời
NƯỚC suối ban mai trong tựa ngọc
OANH vàng, CÚC tím, nắng xuân tươi.
MÂY TRẮNG quyện lưng trời lảng đảng
Thiên NGA từng cặp nhởn nhơ bay
Nhớ xưa CHIẾN SỰ vùng đất lửa
HÒA bình về lại Chứa Chan nay.
Lâm râm mưa bụi gội hoa mai,
Khép chặt phòng thơ ngất ngưởng ngồi.
Già nửa phần xuân cam bỏ uổng,
Tới năm chục tuổi biết suy rồi.
Mơ màng nước cũ chim bay mỏi,
Khơi thẳm nguồn ân, cá khó bơi.
Đảm khí ngày nào rày vẫn đó,
Đè nghiêng ngọn gió đọc thơ chơi!
(Ngô Tất Tố dịch)
PHÍM CHIẾNHoa Huyen & Thanh Chung
THUNG DUNG: Chim khôn ăn trái nhãn lồng
Người ngoan nói chuyện lòng vòng cũng ngoan.
Chép lại cuộc ”Phím chiến” giữa Hoa Huyền (HH)
với hai nàng Thanh Chung (TC) và Lâm Cúc (LC)
Trăng đáy hồ – trăng đáy ao
Ngẩn ngơ một gã họ Đào tên Hoa
Trêu chàng Cuội, tán Hằng Nga
Dọc ngang một cõi – trời già cũng thua.
TC
Rõ là miệng lưỡi chanh chua
Gặp ngay phải lão thích đùa nên vui
Tuổi tam hợp Hợi… khoái Mùi
Rủi may duyên số hên xui xá gì
HH
Gã này có họ chàng… si
Chanh chua tưởng khế sao kì thế anh?
Đèn vàng lại ngỡ đèn xanh
Trái mơ anh ngỡ… cam sành he he.
TC
Em như trái sấu, quả me
Phải lão to bè có lẽ vừa đôi
Sơ cua dẻo mép mềm môi
Để cho lắm kẻ đứng ngồi không yên
HH
Lão H này rõ lắm duyên
Xanh xanh cũng buộc, huyền huyền cũng vơ
Một tay khuấy đảo mấy bờ?
Phen này e phải cậy nhờ Liên Bang!
NLC
Chào LC ghé gia trang
Tham gia tác chiến… hai nàng một anh
Dẫu cho cam giấy, cam sành
Hoahuyen cũng quyết tung hoành tả tơi!
HH
Nghênh ngang khuấy nước chọc trời
Bến Đông cũng ghé, bến Đoài cũng thăm
Có sao còn muốn hái trăng
Được voi đòi cả chị Hằng Tiên Nga.
TC
Dại gì mặc áo cà sa
Chính chuyên chết cũng thành ma cà rồng
Giấu tờ hôn thú chơi ngông
Đèn xanh ai bật là ông ứ… ừ
HH
Kiếp này trót vụng đường…đua
Làm vua một cõi còn thua lão… liều
Xem ra còn khổ vì yêu
Vì trăng, vì gió, vì diều không dây
TC
Hỏi ai ghẹo gió vờn mây?
Mà không khốn đốn đêm ngày nghiêng siêu?
Càng đau khổ… lại càng iêu
Hoa thơm càng ngát quả liều càng ngon
HH
Tìm nhau xuống biển lên non
Trăng nay cuối tháng, anh còn… hàm nhai?
Vin cành trúc, bẻ cành mai
Có về phố Hiến nhắn ai về cùng (!)
TC
Chỉ e “cầu” đã lệch ”cung”
Rồi lại phải lùng mua gấp đi-văng(*)
Xa thì chín nhớ, mười mong
Gần nhãn đau lòng sao chẳng ngọt ngon?
HH
Trăng mười sáu bảo trăng non
Mồng tơi một thuở anh còn nhớ chăng?
Lỡ lời ước hẹn trăm năm
Thương nhau ta lộn về Bần – kiếp sau (!)
TC
Sẵn lòng vui vẻ làm… trâu?
Anh hầu cho đến bạc đầu mới thôi?
Kiếp này biết đã thiu ôi
Nhìn nhau thế cũng đã rồi phải không?
HH
hehehe
Hoahuyen***
Hoang Kim
Chim khôn ăn trái nhãn lồng
Người ngoan nói chuyện lòng vòng cũng ngoan
LỘC XUÂN
Hoàng Kim. Bốn tác giả nữ Hoài Vân, Thanh Chung, Lâm Cúc, Kim Oanh vừa giới thiệu tập ký và tản văn “Tin nhắn cuối cùng”. Đây là tập sách hay được công bố tiếp sau tập sách in chung “Im lặng & Nghe” của 50 tác giả nữ . Buổi họp mặt giới thiệu sách thật trang trọng, vui vẻ, đầm ấm giữa những người bạn thân quen. Một số bạn tiếc chưa có mặt. Tôi ghi lại một số hình ảnh và dành chỗ bình văn. Trân trọng mời bạn.
Hoài Vân, Lâm Cúc ân cần đón bạn
“Tin nhắn một chiều” có thêm Hồng Hà tham gia diễn xuất
và cô Mai Khoa (Thu Hà Nội) trong Chủ tịch đoàn
Một số người bạn thân quen có mặt..
Ký tặng sách thật thân tình và cảm động. Gia đình êm ấm, thầy quý bạn hiền, thiên nhiên an lành là quà tặng vô giá của cuộc sống. Đó là lộc xuân của cuộc đời
Hoàng Kim Blog
PHAN THIẾT CÓ BẠN TÔI
Thanh Chung
Phan Thiết có bạn tôi
Lâm Cúc ở rừng – Kim Oanh ở biển
Thân nhau như chị em ruột thịt
Hoài Vân và tôi thành “tứ cô nương”
Phan Thiết có bạn tôi
Chiều lãng đãng qua chùa
Thắp hương cầu Phật
Bật cười nghe sư thầy hát
“Em ơi trái đất vẫn tròn…”
Phan Thiết có bạn tôi
Bãi biển đêm bỗng sáng rực đèn trời
Bập bùng ánh lửa
Chú rể – cô dâu nắm tay nhảy múa
Ì ầm cơn mưa
Phan Thiết có bạn tôi
Đêm chẳng thể dài hơn
Mặt trời tỉnh giấc
Tay nắm bàn tay
Âm thầm nước mắt
Thương nhau.
(Tháng 7 năm 2009) Chùm ảnh của Hoài Vân
Tượng Phật nằm dài 49 m nằm giữa rừng nguyên sinh trong khuôn viên
chùa Linh Sơn Trường Thọ trên núi Tà kú thuộc Hàm Thuận Nam.
Điểm đến đầu tiên là Chùa núi Tà kú trên đường đến Phan Thiết. Điểm du lịch này rất tuyệt, đã và đang được nâng cấp và xây dựng thành một quần thể du lịch hấp dẫn. Với giá vé vào cửa chỉ 65,000 đồng, bạn có thể đi xe điện đến chân núi, rồi sau đó đi cáp treo vượt qua 2 ngọn núi đến thăm chùa và tượng phật nằm giữa khu rừng nguyên sinh.
Ngọn đèn biển Kê Gà 100 m hơn trăm tuổi bằng đá cao nhất Việt Nam
Bãi tắm Mũi Né bên khu resort Canary
Đồi cát hồng Mũi Né
Suối tiên huyền thoại đẹp mê hồn, du khách lội bộ đến tận đầu nguồn.
Thác nước đầu nguồn suối tiên
Đồi cát bên suối Tiên nhìn từ đường bộ
Phan Thiết nổi tiếng với nước mắm ngon. (Gửi được ba thùng ra thủ đô ăn dần.)
Tắm bùn và nước khoáng tại trung tâm bùn khoáng nóng Mũi Né.
Ghé thăm Mỏm đá chim Hàm Thuận Nam trên đường về Sài Gòn
Thăm chùa Cát với nhiều kỷ lục Việt Nam.
Đặc sản bánh căn, mồm mực hấp và nước thanh long ép
Phan Thiết do bạn tôi chỉ dẫn địa điểm và giới thiệu.