Số lần xem
Đang xem 3058 Toàn hệ thống 5666 Trong vòng 1 giờ qua
Trang liên kết
Tỉnh thức
giữa đêm thiêng Yên Tử
Để thấm hiểu đức Nhân Tông
Ta thành tâm đi bộ
Lên tận đỉnh chùa Đồng
Tâm sáng Ức Trai
trong tựa ngọc TÌNH YÊU CUỘC SỐNG
DẠY VÀ HỌC Để chấn hưng giáo dục Việt Nam cấp thiết phải có đội ngũ những người thầy giáo ưu tú có tâm đức thiết tha với nghề, có trình độ chuyên môn cao và có kỹ năng giảng dạy tốt. Đây là trang thông tin chuyên đề dạy và học để trao đổi và bàn luận
Norman Borlaug Lời Thầy dặn Việc chính đời người chỉ ít thôi
Chuyên tâm đừng bận chuyện trời ơi
Phúc hậu suốt đời làm việc thiện
Di sản muôn năm mãi sáng ngời.
Ngày Nhà Giáo Việt Nam ở Trường tôi năm 2020 có nhiều chuyện vui và thật cảm động. Anh Đoàn Nhật Châu cùng với các anh chị Bùi Đức Hàn, LS Nguyen Huu Duc, Thanhminh Nguyen, Huỳnh Hồng , Hung Huynh; Tuấn Lê; Xuyen Ho; Tuan Nguyen,… với nhiều anh chi khác, đa số là từ khóa 15 U70 của Cựu SV Nông Nghiệp ( Đại Gia Đình NÔNG LÂM MỤC SÚC ), những lớp cựu sinh viên ngay trước ngày Việt Nam thống nhất, mà ngày nay phần lớn làm thầy cô và chuyên gia trên nhiều lĩnh vực. Họ cùng nhau về Trường và lưu dấu video Cựu sinh viên Khóa 15 (1973) THAM DỰ KỶ NIỆM 65 NĂM KHOA NÔNG HỌC https://www.facebook.com/chau.doannhat/posts/3550807504980087 của anh Đoàn Nhật Châu và bạn hữu. Video thật tuyệt vời !
Chuyện thầy Tôn Thất Trình là ghi chép nhỏ của Hoàng Kim về thầy Tôn Thất Trình, chuyện ngoài chính sử chưa có trong kỷ yếu. Đây là những ghi chép cá nhân, chỉ có ít trích đoạn đã lưu tại kỷ yếu 55 năm khoa Nông học thuở trước Tôi cảm phục, tâm đắc về nhân cách, trí tuệ, sự dạy và học của Thầy nên lưu lại Điều này là sự học Lê Quý Đôn tinh hoa chép lại những ghi chú nhỏ (Notes) không nỡ quên này. (xem tiếp…)
Chuyện thầy Tôn Thất Trình là ghi chép nhỏ của Hoàng Kim về thầy Tôn Thất Trình, chuyện ngoài chính sử chưa có trong kỷ yếu. Đây là những ghi chép cá nhân, chỉ có ít trích đoạn đã lưu tại kỷ yếu 55 năm khoa Nông học thuở trước Tôi cảm phục, tâm đắc về nhân cách, trí tuệ, sự dạy và học của Thầy nên lưu lại Điều này là sự học Lê Quý Đôn tinh hoachép lại những ghi chú nhỏ (Notes) không nỡ quên này. .
CHUYỆN THẦY TÔN THẤT TRÌNH Hoàng Kim
Tôi noi theo dấu chân những thầy tôn kính Lương Định Của, Mai Văn Quyền con đường lúa gạo Việt Nam để làm nhà khoa học xanh. Thật may mắn cho tôi trong mươi năm cuối được về lại Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh dạy học, trọn con đường nhà khoa học xanh người thầy chiến sĩ. “Bao năm Trường Viện là nhà. Sắn khoai ngô lúa đều là thịt xương. Một đời người một rừng cây. Thầy ươm giống tốt để mai thành rừng”. Trường Đại Học Nông Lâm là nôi trưởng thành của tôi từ khi là sinh viên nông học, ra đi khoác áo lính cho sự thống nhất toàn vẹn Tổ Quốc, sau về làm nhà nghiên cứu nông học gần ba mươi năm và cuối cùng trở thành người thầy nghề nông. Thật hết sức thân thương khi mỗi ngày, tôi được gần gũi chiếc bàn kỷ vật thầy Tôn Thất Trình và gian phòng của Thầy với môn học Cây Lương thực. Di sản thầm lặng này đã giúp tôi cơ hội cao quý kể lại câu chuyện cổ tích cho người lớn, một tia sáng của Trường tôi. Bài này tiếp nối bài “Thầy bạn là lộc xuân“.
Tôi chưa được học thầy Trình nhưng cuộc đời, việc làm, trang sách của thầy ám ảnh tôi đến lạ. Thầy Tôn Thất Trình trong mắt tôi là người “sống nhân cách, dạy từ xa và chăm viết sách”.Trong bài “Thầy bạn là lộc xuân“ tôi đã giới thiệu đôi nét về thầy Tôn Thất Trình, nay xin được chép lại ở đây để bạn đọc khỏi mất công lục lại
ĐÔI NÉT VỀ THẦY TRÌNH
Giáo sư Tôn Thất Trình sinh ngày 27 tháng 9 năm 1931 ở huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên (Huế), thuộc hoàng tộc nhà Nguyễn Phước, hiện hưu trí tại Irvine, California, Hoa Kỳ Thầy đã có nhiều đóng góp thiết thưc, hiệu quả cho nông nghiệp, giáo dục, kinh tế Việt Nam. Thầy làm giám đốc Trường Cao Đẳng Nông Lâm Súc Sài Gòn theo bổ nhiệm của GS. Phạm Hoàng Hộ, tổng trưởng giáo dục đương thời chỉ sau bác sỹ Đặng Quan Điện vài tháng. Giáo sư Tôn Thất Trình đã hai lần làm Tổng Trưởng Bộ Canh Nông và Cải Cách Điền Địa năm 1967 và 1973, nguyên chánh chuyên viên, tổng thư ký Ủy Ban Lúa Gạo Quốc Tế của FAO (Rome).
Thành tựu nổi bật của giáo sư trên lĩnh vực nông nghiệp bao gồm việc chỉ đạo phát triển đại trà năm 1967-1973 lúa Thần Nông (IR8…) nguồn gốc IRRI mang lại chuyển biến mới cho nghề lúa Việt Nam; Giáo sư trong những năm làm việc ở FAO đã giúp đỡ Bộ Nông nghiệp Việt Nam phát triển các giống lúa thuần thấp cây, ngắn ngày nguồn gốc IRRI cho các tỉnh phìa Bắc; giúp phát triển lúa lai, đẩy mạnh các chưong trình cao su tiểu điền, mía, bông vải, đay, đậu phộng , dừa, chuối, nuôi cá bè ở Châu Đốc An Giang, nuôi tôm ở Bạc Liêu, Sóc Trăng, nuôi cá măng ở Bình Định, nuôi tôm càng xanh ở ruộng nước ngọt, trồng phi lao chống cát bay, trồng bạch đàn xen cây họ đậu phủ xanh đất trống đồi trọc, trồng lại thông hai lá, ba lá ở Huế và ở Đà Lạt, nuôi heo lai ba dòng nhiều nạc, nuôi dê sữa , bò sữa, trồng rau, hoa, cây cảnh. Trong lĩnh vực giáo dục, giáo sư đã trực tiếp giảng dạy, đào tạo nhiều khóa học viên cao đẳng, đại học, biên soạn nhiều sách. Giáo sư có nhiều kinh nghiệm và đóng góp trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại và quan hệ quốc tế với Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản, Mỹ, Pháp…
Tôi học gián tiếp Thầy qua sách báo và internet. Giáo trình nông học sau ngày Việt Nam thống nhất thật thiếu thốn. Những sách Sinh lý Thực vật, Nông học Đại cương, Di truyền học, Khoa học Bệnh cây , Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam … do tập thể hoặc chuyên gia đầu ngành phía Bắc biên soạn thời đó hiếm và quý như vàng. Cái khó khác cho thầy trò chúng tôi là thiếu kinh nghiệm thực tiễn của đồng ruộng phương Nam. Những bộ sách của thầy Trình như Cải Thiện Trồng Lúa 1965-66 (hai lần tái bản), Nông Học Đại Cương 1967 (ba lần tái bản), Mía Đường 1972 (hai lần tái bản), Cây Ăn Trái Có Triển Vọng 1995 (ba lần tái bản), Cây Ăn Trái Cho Vùng Cao 2004, … cùng với sách của các thầy Nguyễn Hiến Lê, Trần Văn Giàu, Phạm Hoàng Hộ, Lương Định Của, Lê Văn Căn, Vũ Công Hậu, Vũ Tuyên Hoàng, Đường Hồng Dật, Nguyễn Văn Luật, Võ Tòng Xuân, Mai Văn Quyền, Thái Công Tụng, Chu Phạm Ngọc Sơn, Phạm Thành Hổ … đã bổ khuyết rất nhiều cho sự học hỏi và thực tế đồng ruộng của chúng tôi. Sau này khi đã ra nước ngoài, thầy Trình cũng viết rất nhiều những bài báo khoa học kỹ thuật, khuyến học trên các báo nước ngoài, báo Việt Nam và blog The Gift.
Điều tôi thầm phục Thầy là nhân cách kẻ sĩ vượt lên cái khó của hoàn cảnh để phụng sự đất nước. Lúa Thần Nông áp dụng ở miền Nam sớm hơn miền Bắc gần một thập kỷ. Sự giúp đỡ liên tục và hiệu quả của FAO sau ngày Việt Nam thống nhất có công lớn của thầy Trình và anh Nguyễn Văn Đạt làm chánh chuyên gia của FAO. Blog The Gift là nơi lưu trữ những “tâm tình” của gíáo sư dành cho Việt Nam, đăng các bài chọn lọc của Thầy từ năm 2005 sau khi về hưu. Đa số các bài viết trên blog của giáo sư về Phát triển Nông nghiệp, Kinh Tế Việt Nam, Khoa học và Đời sống trong chiều hướng khuyến khích sự hiếu học của lớp trẻ. Nhân cách và tầm nhìn của Thầy đối với tương lai và vận mệnh của đất nước đã đưa đến những đóng góp hiệu quả của Thầy kết nối giữa quá khứ và hiện tại, tạo niềm tin tương lai, hòa giải và hòa hợp dân tộc”.
‘Thầy Trình với thầy Của’, ‘Chiếc bàn của thầy Trình’, ‘FAO Trình Đạt Ngưu Bổng’, ‘Thầy Trình với lúa cá’, ‘Thầy Trình với The Gift’ là những mẫu chuyện chiêm nghiệm mà tôi thích trích dẫn và kể tại Các lớp học trên đồng .
THẦY TRÌNH VỚI THẦY CỦA
Chuyện này gợi cho tôi nhiều suy tư: Thầy Trình quý trọng thầy Của và thầy Của tìm đến ngay thầy Trình sau ngày Việt Nam thống nhất. Thầy Trình ra đi vì không thể ở lại nhưng sự ứng xử của thầy sau ngày ra đi là một bài học lớn. Thầy Của mất thật sớm, ngay cuối năm 1975, lúc Thầy mới 55 tuổi, còn rất nhiều khả năng cống hiến và chưa được hưởng không khí hoà bình bao lâu. Cuộc đời, số phận, nhân cách và cống hiến của hai người Thầy nghề nông vượt lên khen chê và lắng đọng một di sản.
Chuyện kể rằng năm 1952, giáo sư Lương Định Của lúc ấy đã đạt được học vị bác sĩ ở Nhật Bản. Đó là một danh vị thực chất cao quý thời đó mà sau này ông kiên quyết từ chối mọi danh xưng tiến sĩ mà người đời khoác cho. Thầy Lương Định Của đạt được học vị cao, có công ăn việc làm, vẫn nghĩ tới việc về nước phục vụ, kịp trước khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi hoàn toàn. Luồng gió từ Hà Nội đã thôi thúc ông hướng về Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đang tạo lập. Ông từ chối các cơ hội đi Mỹ, IRRI để tìm cách về nước tham gia kháng chiến nhưng “Đường về Việt Bắc xa xôi lắm!”. Sau nhiều nỗ lực móc nối, chờ đợi, xoay đường này cách khác, Ông đã đưa cả gia đình về Sài Gòn, làm việc một thời gian ngắn ở Viện Khảo cứu Nông nghiệp Sài Gòn, Bộ Canh Nông (nay là Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam), sau đó quá cảnh bưng biền và đầu năm 1954 cả nhà cùng lên một chuyến tàu tập kết ra Bắc
Nhà báo Phan Quang kể câu chuyện Kỷ niệm đời thường về nhà khoa học Lương Định Của đã cho hay: “Hồi còn là sinh viên, ông đã cùng nhiều lưu học sinh Nhật và nước ngoài trong đó có Đặng Văn Ngữ, tham gia các cuộc biểu tình tuần hành phản đối thực dân Pháp xâm lược Việt Nam. Theo như ông còn nhớ, ít nhất có bốn cuộc lớn, ba lần ở Tokyo, và một lần ở Kyoto. Hoạt động chống chiến tranh Việt Nam có thuận lợi là Đảng Cộng sản Nhật Bản hết lòng ủng hộ cuộc chiến đấu của nhân dân ta. Nhiều Việt kiều ở Nhật nhờ thông qua Đảng Cộng sản Nhật Bản hoặc các tổ chức nhân dân do Đảng lãnh đạo mà giữ được mối liên hệ liên tục với phong trào kháng chiến trong nước.
Qua sự giới thiệu của một người bạn, một mặt Lương Định Của tiếp xúc với các nghị sĩ tiến bộ trong Quốc hội Nhật, nhờ giúp đỡ tạo điều kiện cho ông sớm được trở về vùng tự do nước Việt Nam. Thượng Nghị sĩ Kazami được các bạn Nhật cử đứng ra lo liệu việc này. Mặt khác, Lương viết thư gửi Đại sứ quán ta ở Bắc Kinh bày tỏ mong muốn của mình, và chẳng bao lâu sau nhận được thư Đại sứ trả lời đã chuyển nguyện vọng của ông về nhà. Theo sự hướng dẫn của ông Kazami, mùa hè 1952 Lương Định Của xin thôi việc ở Kyoto, lên thủ đô Tokyo chờ ngày về nước.
Ông xin việc làm ở Sở Nghiên cứu Khoa học Nông nghiệp Trung ương của Nhật Bản để có thể thu nhập trong thời gian chờ đợi. Đầu những năm 50, sau chiến thắng biên giới, tình hình nước ta rất sôi động. Đảng Lao động Việt Nam đảm nhiệm công khai sứ mệnh lịch sử lãnh đạo toàn dân kháng chiến. Mặt trận Liên Việt thành lập, giương cao ngọn cờ đại đoàn kết. Các vùng tự do được giữ vững. Chiến tranh nhân dân phát triển mạnh ở vùng sau lưng địch.
Thực dân Pháp ý thức rõ, tiến hành phá hoại kinh tế, gây nạn đói kém, cắt nguồn hậu cần của Quân đội Nhân dân Việt Nam là một mặt trận có ý nghĩa chiến lược đối với thành bại của chúng trong chiến tranh.Thông tri của tướng De Linarès, tư lệnh chiến trường Bắc Bộ gửi các cấp dưới đề ngày 14-3-1951 hướng dẫn cụ thể như sau:
“… Về phá hoại, có hai cách thực tế có thể áp dụng: a) làm ướt thóc hoặc bắt dân phải để thóc lúa ngoài trời trong mùa mưa ẩm. Tuy nhiên, để chắc chắn hạt gạo sẽ thối hẳn, phải dấp nước cho ướt thóc trong thời gian bốn mươi tám giờ. Ngoài ra, để cho sự phá hoại bảo đảm hiệu quả chắc chắn của nó, trong thời gian ấy, phải canh giữ không để cho dân chúng đến lọc lấy phần thóc còn tốt mang đi cất giấu; b) những kho thóc quan trọng nào phát hiện được, cho tưới xăng hoặc dầu nặng vào…” .
Tháng Chín năm 1952, ông Kazami báo cho Lương Định Của biết, có một tàu buôn Nhật Bản sắp sang Hồng Công rồi từ đó đến thành phố Thiên Tân của Trung Quốc. Ông đề nghị Lương đáp chuyến tàu ấy. Vào được Trung Quốc rồi thì rất dễ dàng về Việt Bắc vì biên giới Việt Trung đã thông, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cùng Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã kiến lập quan hệ ngoại giao; giữa hai nước có tình hữu nghị sâu sắc. Ông nói đã nhờ Hội Hoa kiều tại Nhật Bản làm các thủ tục cần thiết cho gia đình Lương nhập cảnh Trung Quốc, ông cũng đã có liên hệ để thông báo với Chính phủ Việt Nam về chuyện này.
Lương Định Của vào Hồng Công, đến biên giới Cửu Long trình giấy giới thiệu của Hội Hoa kiều tại Nhật Bản. Biên phòng Trung Quốc cho biết chưa nhận được chỉ thị. Các bạn khuyên Lương nên trở lại Hồng Công lấy visa nhập cảnh. Hành lý có thể cho chuyển trước sang biên giới, đưa về thành phố Quảng Châu. Vài hôm nữa gia đình Lương đến thì có thể vào Trung Quốc, đến thẳng Quảng Châu luôn.
Trở lại khách sạn, Lương tìm cách liên hệ với Đại sứ quán ta ở Bắc Kinh, vừa gọi điện thoại vừa gửi thư song chờ mãi không thấy hồi âm. Tiền túi cạn dần: phòng trọ khách sạn rất đắt. Hàng ngày bà Của xuống phố mua bánh mì cho cả nhà ăn. Lúc này mới thấy hết bản lĩnh của người phụ nữ ấy. Ông lo cuống lên, bà chỉ cười: “Không sao, để tính xem”. Về đến Việt Nam ông thú thật với bạn bè, nếu không có bà thì với hai đứa con nhỏ, ông chẳng biết đường nào xoay xở trong những ngày quá cảnh Hồng Công. Thái độ bình tĩnh và đầy thông cảm của bà có tác dụng trấn an ông.
Sau một tuần chờ đợi trong lo âu, xuất hiện một người lạ mặt ăn mặc sang trọng. Ông nói: nếu Lương có giấy giới thiệu của Ngân hàng Trung Hoa thì ông có thể giúp cho qua biên giới. Lương Định Của chẳng có giấy tờ gì khác ngoài thư giới thiệu của Hội Hoa kiều tại Nhật Bản. Người lạ mặt khuyên, nếu vậy thì nên theo ông về Macao, ở nhờ nhà con trai ông một thời gian, chờ xin phép nhập cảnh.
Hồng Công là điểm quá cảnh, khách không được phép ở lại lâu. Lương Định Của hết sức phân vân. Người này ông chưa từng quen biết. Trong túi ông lại không có tiền, trừ gói hạt giống dưa. Đến áo quần thay hằng ngày cũng không có đủ vì các valy đã gửi hết vào Trung Quốc rồi.
Ông quyết định hẵng trở về Sài Gòn, rồi tìm cách ra vùng tự do sau. Ông đánh điện cho một người bạn ở Sài Gòn, báo tin mình đang trên đường về nước, đến Hồng Công thì mất hết đồ đạc, nhờ bạn đặt mua vé máy bay cho hai người lớn hai trẻ con, và cho vay tạm hai nghìn USD.
Ngay chiều hôm ấy, nhận được ngân khoản người bạn gửi đến thông qua một ngân hàng lớn. Có tiền, có vé trong tay, ông còn nấn ná lại thành phố này ba tuần nữa, hy vọng có tin tức Đại sứ quán ta tại Bắc Kinh. Cuối cùng hết hạn quá cảnh mới đáp máy bay về Sài Gòn.
Chính quyền Sài Gòn nồng nhiệt đón bác sĩ nông học Lương Định Của du học từ Nhật Bản về. Bộ trưởng Nông Lâm mời ông đến cơ quan, mở rượu whisky chúc mừng, và ngỏ ý mời ông làm thứ trưởng. Lương tìm cách thoái thác khéo. Ông khiêm tốn nói mình xa đất nước đã lâu, xin cho làm việc hợp đồng một thời gian để quen thêm thung thổ và bạn bè, rồi mới dám chính thức nhận nhiệm vụ.”
“Gia đình ông sống cùng gia đình người em trong ngôi nhà ở Đa Cao. Em gái ông có chồng đi kháng chiến, thỉnh thoảng lại kiếm cớ vắng nhà. Ông biết chị ra bưng thăm chồng. Một hôm, vào ngày chủ nhật, ông đang ngồi chơi trước cửa thì thấy một người ăn vận có vẻ như vừa từ nông thôn ra, đi thẳng vào nhà sau nói chuyện với cô em gái. Khách về, Lương hỏi ai vậy, cô em trả lời: “Người ta muốn mời anh ra vùng kháng chiến đấy”. – Vậy em trả lời họ thế nào? Cô em cười: “Em nói, anh vợ con tùm lum thế kia thì làm sao đi kháng chiến được”. Lương Định Của lặng im, vì dự định từ Nhật Bản về thẳng miền Bắc không thành, ông không hề hé răng cho ai biết.
Hiệp định Genève về Đông Dương (1954) được ký kết. Trong giới trí thức Sài Gòn lại một lần nữa xôn xao – tuy thầm lặng – về việc ra đi hay ở lại. Nơi cơ quan Lương làm việc có một chị tên là B., em gái một bác sĩ nha khoa vốn là bạn của ông sau này cũng tập kết ra Bắc và cùng gặp lại nhau tại Hà Nội, có lần hỏi giọng nửa đùa nửa thật: “Nè, Chính phủ Việt Minh kêu gọi trí thức ra Bắc đấy, anh có đi không?”.
Lương nghiêm trang trả lời ông muốn đi. Chị B. bắt liên lạc, bố trí kế hoạch cho ông rời Sài Gòn. Chờ đợi một thời gian khá lâu mới có hồi âm. Lương Định Của nói với các em, ông muốn cho gia đình đi nghỉ mát ở Ô Cấp (Cap Saint Jacques – Vũng Tàu ngày nay) mấy hôm. Nửa đường, theo mật hiệu “cứ theo người có chửa mà đi”, ông đổi xe, đổi hướng, theo người phụ nữ ấy về thành phố Mỹ Tho. Từ đấy lại đổi xe khác, có người khác đón ra bưng biền.
Lương Định Của được nhà lãnh đạo Phạm Hùng tiếp ngay khi vừa đến cứ. Anh Bảy trò chuyện thân tình, và cho ông một bộ quần áo bà ba. Năm 1954, qua liên lạc biệt động, gia đình giáo sư gửi thư xin phép đi tập kết. Anh Hồng Việt kể lại: “Từ Sài Gòn, theo biệt động đưa về Cần Thơ, xuống căn cứ Cà Mau và đi tàu Ba Lan ra Sầm Sơn, Thanh Hoá. Ấn tượng đầu tiên là hưởng luôn một trận gió mùa đông bắc. Nhưng ngày hôm sau là 1.1.1955, gia đình được chứng kiến ngày lễ tưng bừng”.
Luồng gió từ Hà Nội là bước ngoặt của nhà nông học Lương Định Của.
Theo hồi ức của thầy Phan Gia Tân, giảng viên Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh, thì sau ngày Việt Nam thống nhất 30.4.1975, giáo sư Lương Định Của đã đi tìm Giáo sư Tôn Thất Trình ở Trường Đại học Nông nghiệp Sài Gòn (nay là Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh). Thầy Của tiếc không gặp được thầy Trình vì thầy đã ra đi trước đó.
Tấm lòng tri ngộ của họ là dấu ấn “biết mình, biết người” của hai trí thức lớn…
CHIẾC BÀN CỦA THẦY TRÌNH
Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh có di sản biểu tượng là tòa nhà chữ U (nay gọi là tòa nhà Phượng Vĩ) do kiến trúc sư Ngô Viết Thụ thiết kế. Trong tòa nhà chữ U này có chiếc bàn của thầy Tôn Thất Trình ở lầu 1 tại Phòng Cây Lương thực Rau Hoa Quả thuộc Khoa Nông học. Đây cũng là phòng cuối nối liền gần gũi nhất với khu Thư Viện (cũ). Tầng dưới của Thư Viện là Hội Trường Lớn. Góc phải đầu nhà chữ U nay còn bảng đồng lưu danh Kiến Trúc Sư Ngô Viết Thu là Khôi Nguyên La Mã.
Viện Khảo cứu Nông Lâm Đông Dương được thành lập ngày 2 tháng 4 năm 1925 tại Sài Gòn là Viện nghiên cứu khoa học nông lâm nghiệp đầu tiên và duy nhất tại Đông Dương, nay là Viện Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam là nơi thầy Tôn Thất Trình có nhiều năm làm việc ở đấy. Thầy Trình đã tham gia dự án thực hiện hợp tác nghiên cứu lúa với Đài Loan giai đoạn 1950-1957, gồm các ông Trương Văn Hiếu, Phạm Huy Lân, Tôn Thất Trình, Trần Thiện Tín, Trần Bình Cư, Đoàn Kim Quan. Hai tác giả Bùi Minh Lương, Tôn Thất Trình, Tổng Nha Canh Nông đã biên soạn sách “Đất Nông nghiệp Việt Nam” – Bắc Kontum (1959) rất công phu.
Thầy Tôn Thất Trình làm Hiệu Trưởng Trường Cao Đẳng Nông Lâm Súc Sài Gòn từ năm 1964 đến năm 1968. Trước thầy Trình là thầy Đặng Quan Điện (1962-1964). Tiền thân Trường Cao Đẳng Nông Lâm Súc Sài Gòn là Trường Quốc Gia Nông Lâm Mục Blao Bảo Lộc (1955-1962), Hiệu trưởng đầu tiên là thầy Vũ Ngọc Tân (1955-1958),và thầy Phan Lương Báu (1958-1962). Trường Cao Đẳng Nông Lâm Súc Sài Gòn sau này được thay thế bằng Trung tâm Quốc gia Nông nghiệp Sài Gòn (1968-1972), Học Viện Quốc Gia Nông nghiệp Sài Gòn (1972-1974) và trở thành Trường Đại học Nông nghiệp trực thuộc Viện Đại Học Bách Khoa Thủ Đức (1974 -1975) do thầy Lê Văn Ký làm Hiệu trưởng (1974-1975).
Giáo sư Tôn Thất Trình vẫn trực tiếp giảng dạy môn cây lương thực cho dù hai lần Thầy làm Tổng Trưởng Bộ Canh Nông và Cải Cách Điền Địa năm 1967 và 1973, tên Trường thay đổi nhiều lần và xã hội quá nhiều biến động. Chiếc bàn to quá khổ (dài 1,8m rộng 1,2m, gỗ tốt, chắc, nặng, nằm ở phòng cuối góc bên phải của khối nhà. Cái bàn này có lẽ vì quá to và nặng, không dễ mang ra khỏi cửa, phòng lại là góc khuất làm việc dạy học của người thầy “full professer” (giáo sư) Hiệu trưởng đầu tiên, mà phòng không phải ở tâm điểm chính diện phong thủy, nên nơi này và chiếc bàn này 40 năm qua có lẽ vì vậy mà rất ít thay đổi chỉ mấy lần tách nhập Bộ môn.
Chuyện tôi được may mắn về phòng này và được nghe kể lại là một câu chuyện dài …
THẦY TRÌNH NGÀY RA ĐI
Khi thời cơ lịch sử thống nhất Việt Nam xuất hiện, ngày 7 tháng 4 năm 1975, Đại tướng Võ Nguyên Giáp từ Tổng Hành Dinh Hà Nội đã phát đi mệnh lệnh tác chiến nổi tiếng đến toàn mặt trận “Thần tốc, thần tốc hơn nữa; táo bạo, táo bạo hơn nữa; tranh thủ từng phút, từng giờ; xốc tới mặt trận; giải phóng miền Nam. Quyết chiến và toàn thắng!”. Năm cánh quân lớn của lực lượng giải phóng đã nhanh chóng áp sát gần thành phố. Ngày 29 tháng 4 năm 1975 Chiến dịch Gió lốc (Cuộc hành quân Frequent Wind) Những người Mỹ cuối cùng rút khỏi Việt Nam. Cũng ngày này, Quân đội Nhân dân Việt Nam đánh chiếm đảo Trường Sa từ Quân lực Việt Nam Cộng hòa, hoàn thành tiếp quản các đảo thuộc quần đảo Trường Sa do Việt Nam Cộng hòa chiếm giữ. Sài Gòn trước ngày thất thủ hoảng loạn cực độ. Trừ một số quan chức và tướng lĩnh cao cấp có điều kiện và thế lực đã kiếm cớ rời đi trước đó. Số còn lại hoang mang tính toán. Nhiều người bỏ nhiệm sở lánh lo việc riêng. Thầy Tôn Thất Trình làm gì trong ngày này? Theo lời kể của thầy Phan Gia Tân thì giáo sư Tôn Thất Trình vẫn đến trường trước ngày Sài Gòn sụp đổ.
Chặng đường lịch sử 90 năm (1925 – 2015) của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam (Bùi Chí Bửu, Đào Huy Đức, Trần Thị Kim Nương và cộng tác viên 2015) và Kỷ yếu Trường Đại học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh 60 năm (1955- 2015) xây dựng và phát triển (Dương Duy Đồng, Bùi Xuân Nhã, Nguyễn Phú Hòa, Bùi Văn Miên và cộng tác viên) ghi nhận rằng: Trường Cao Đằng Nông Lâm Súc Sài Gòn (1962-1968) thầy Tôn Thất Trình đã làm Hiệu trưởng năm 1964-1967 sau bác sĩ thú y Đặng Quan Điện (1962- 1964). Thầy Tôn Thất Trình làm Tổng trưởng Bộ Canh Nông và Cải Cách Điền Địa lần thứ nhất năm 1967. Thầy cũng kiêm nhiệm Giám đốc Nha Khảo cứu và Sưu tầm Nông Lâm Súc (thông tin đang kiểm chứng) và thầy làm Tổng Ủy Trưởng Kế Hoạch cuối năm 1968 đến cuối năm 1969 thì giải nhiệm. Thầy Trình được Hội Đồng Giảng Huấn Cao Đẳng Nông Lâm Súc bầu làm giáo sư hạng nhất và được Bộ Giáo Dục Quốc Gia nền đệ nhị Cộng hòa bổ nhiệm giáo sư chính thức. Năm 1973 thầy nhận chức Tổng trưởng Bộ Canh Nông và Cải Cách Điền Địa lần thứ hai nhưng Thầy Trình vẫn làm giáo sư ở Trường Đại Học Nông nghiệp thuộc Viện Đại Học Thủ Đức (1974-1975) Thầy dạy Cây Lương thực, Nông học Đại cương, Mía Đường và Cây ăn trái. Trường Đại Học Nông nghiệp lúc đó do thầy Lê Văn Ký (1974-1975) làm Hiệu trưởng.
Anh Vo Hoang Nguyen có trao đổi rằng Giảng đường 45 Cường Để đẹp và vui hơn. Trong khi anh Nguyễn Huệ Chí Thái thì đánh giá việc hình thành Viện Đại Học, Làng Đại Học và di chuyển Trường từ 45 Cường Để lên Thủ Đức là thể hiện tầm nhìn của các Hiệu trưởng thưở ấy. Tôi đồng tình v
Ngày Nhà Giáo Việt Nam ở Trường tôi năm 2020 có nhiều chuyện vui và thật cảm động. Anh Đoàn Nhật Châu cùng với các anh chị Bùi Đức Hàn, LS Nguyen Huu Duc, Thanhminh Nguyen, Huỳnh Hồng , Hung Huynh; Tuấn Lê; Xuyen Ho; Tuan Nguyen,… với nhiều anh chi khác, đa số là từ khóa 15 U70 của Cựu SV Nông Nghiệp ( Đại Gia Đình NÔNG LÂM MỤC SÚC ), những lớp cựu sinh viên ngay trước ngày Việt Nam thống nhất, mà ngày nay phần lớn làm thầy cô và chuyên gia trên nhiều lĩnh vực. Họ cùng nhau về Trường và lưu dấu video Cựu sinh viên Khóa 15 (1973) THAM DỰ KỶ NIỆM 65 NĂM KHOA NÔNG HỌC https://www.facebook.com/chau.doannhat/posts/3550807504980087 của anh Đoàn Nhật Châu và bạn hữu. Video thật tuyệt vời !
Chuyện thầy Tôn Thất Trình là ghi chép nhỏ của Hoàng Kim về thầy Tôn Thất Trình, chuyện ngoài chính sử chưa có trong kỷ yếu. Đây là những ghi chép cá nhân, chỉ có ít trích đoạn đã lưu tại kỷ yếu 55 năm khoa Nông học thuở trước Tôi cảm phục, tâm đắc về nhân cách, trí tuệ, sự dạy và học của Thầy nên lưu lại Điều này là sự học Lê Quý Đôn tinh hoa chép lại những ghi chú nhỏ (Notes) không nỡ quên này. (xem tiếp…)
Chuyện thầy Tôn Thất Trình là ghi chép nhỏ của Hoàng Kim về thầy Tôn Thất Trình, chuyện ngoài chính sử chưa có trong kỷ yếu. Đây là những ghi chép cá nhân, chỉ có ít trích đoạn đã lưu tại kỷ yếu 55 năm khoa Nông học thuở trước Tôi cảm phục, tâm đắc về nhân cách, trí tuệ, sự dạy và học của Thầy nên lưu lại Điều này là sự học Lê Quý Đôn tinh hoachép lại những ghi chú nhỏ (Notes) không nỡ quên này. .
CHUYỆN THẦY TÔN THẤT TRÌNH Hoàng Kim
Tôi noi theo dấu chân những thầy tôn kính Lương Định Của, Mai Văn Quyền con đường lúa gạo Việt Nam để làm nhà khoa học xanh. Thật may mắn cho tôi trong mươi năm cuối được về lại Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh dạy học, trọn con đường nhà khoa học xanh người thầy chiến sĩ. “Bao năm Trường Viện là nhà. Sắn khoai ngô lúa đều là thịt xương. Một đời người một rừng cây. Thầy ươm giống tốt để mai thành rừng”. Trường Đại Học Nông Lâm là nôi trưởng thành của tôi từ khi là sinh viên nông học, ra đi khoác áo lính cho sự thống nhất toàn vẹn Tổ Quốc, sau về làm nhà nghiên cứu nông học gần ba mươi năm và cuối cùng trở thành người thầy nghề nông. Thật hết sức thân thương khi mỗi ngày, tôi được gần gũi chiếc bàn kỷ vật thầy Tôn Thất Trình và gian phòng của Thầy với môn học Cây Lương thực. Di sản thầm lặng này đã giúp tôi cơ hội cao quý kể lại câu chuyện cổ tích cho người lớn, một tia sáng của Trường tôi. Bài này tiếp nối bài “Thầy bạn là lộc xuân“.
Tôi chưa được học thầy Trình nhưng cuộc đời, việc làm, trang sách của thầy ám ảnh tôi đến lạ. Thầy Tôn Thất Trình trong mắt tôi là người “sống nhân cách, dạy từ xa và chăm viết sách”.Trong bài “Thầy bạn là lộc xuân“ tôi đã giới thiệu đôi nét về thầy Tôn Thất Trình, nay xin được chép lại ở đây để bạn đọc khỏi mất công lục lại
ĐÔI NÉT VỀ THẦY TRÌNH
Giáo sư Tôn Thất Trình sinh ngày 27 tháng 9 năm 1931 ở huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên (Huế), thuộc hoàng tộc nhà Nguyễn Phước, hiện hưu trí tại Irvine, California, Hoa Kỳ Thầy đã có nhiều đóng góp thiết thưc, hiệu quả cho nông nghiệp, giáo dục, kinh tế Việt Nam. Thầy làm giám đốc Trường Cao Đẳng Nông Lâm Súc Sài Gòn theo bổ nhiệm của GS. Phạm Hoàng Hộ, tổng trưởng giáo dục đương thời chỉ sau bác sỹ Đặng Quan Điện vài tháng. Giáo sư Tôn Thất Trình đã hai lần làm Tổng Trưởng Bộ Canh Nông và Cải Cách Điền Địa năm 1967 và 1973, nguyên chánh chuyên viên, tổng thư ký Ủy Ban Lúa Gạo Quốc Tế của FAO (Rome).
Thành tựu nổi bật của giáo sư trên lĩnh vực nông nghiệp bao gồm việc chỉ đạo phát triển đại trà năm 1967-1973 lúa Thần Nông (IR8…) nguồn gốc IRRI mang lại chuyển biến mới cho nghề lúa Việt Nam; Giáo sư trong những năm làm việc ở FAO đã giúp đỡ Bộ Nông nghiệp Việt Nam phát triển các giống lúa thuần thấp cây, ngắn ngày nguồn gốc IRRI cho các tỉnh phìa Bắc; giúp phát triển lúa lai, đẩy mạnh các chưong trình cao su tiểu điền, mía, bông vải, đay, đậu phộng , dừa, chuối, nuôi cá bè ở Châu Đốc An Giang, nuôi tôm ở Bạc Liêu, Sóc Trăng, nuôi cá măng ở Bình Định, nuôi tôm càng xanh ở ruộng nước ngọt, trồng phi lao chống cát bay, trồng bạch đàn xen cây họ đậu phủ xanh đất trống đồi trọc, trồng lại thông hai lá, ba lá ở Huế và ở Đà Lạt, nuôi heo lai ba dòng nhiều nạc, nuôi dê sữa , bò sữa, trồng rau, hoa, cây cảnh. Trong lĩnh vực giáo dục, giáo sư đã trực tiếp giảng dạy, đào tạo nhiều khóa học viên cao đẳng, đại học, biên soạn nhiều sách. Giáo sư có nhiều kinh nghiệm và đóng góp trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại và quan hệ quốc tế với Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản, Mỹ, Pháp…
Tôi học gián tiếp Thầy qua sách báo và internet. Giáo trình nông học sau ngày Việt Nam thống nhất thật thiếu thốn. Những sách Sinh lý Thực vật, Nông học Đại cương, Di truyền học, Khoa học Bệnh cây , Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam … do tập thể hoặc chuyên gia đầu ngành phía Bắc biên soạn thời đó hiếm và quý như vàng. Cái khó khác cho thầy trò chúng tôi là thiếu kinh nghiệm thực tiễn của đồng ruộng phương Nam. Những bộ sách của thầy Trình như Cải Thiện Trồng Lúa 1965-66 (hai lần tái bản), Nông Học Đại Cương 1967 (ba lần tái bản), Mía Đường 1972 (hai lần tái bản), Cây Ăn Trái Có Triển Vọng 1995 (ba lần tái bản), Cây Ăn Trái Cho Vùng Cao 2004, … cùng với sách của các thầy Nguyễn Hiến Lê, Trần Văn Giàu, Phạm Hoàng Hộ, Lương Định Của, Lê Văn Căn, Vũ Công Hậu, Vũ Tuyên Hoàng, Đường Hồng Dật, Nguyễn Văn Luật, Võ Tòng Xuân, Mai Văn Quyền, Thái Công Tụng, Chu Phạm Ngọc Sơn, Phạm Thành Hổ … đã bổ khuyết rất nhiều cho sự học hỏi và thực tế đồng ruộng của chúng tôi. Sau này khi đã ra nước ngoài, thầy Trình cũng viết rất nhiều những bài báo khoa học kỹ thuật, khuyến học trên các báo nước ngoài, báo Việt Nam và blog The Gift.
Điều tôi thầm phục Thầy là nhân cách kẻ sĩ vượt lên cái khó của hoàn cảnh để phụng sự đất nước. Lúa Thần Nông áp dụng ở miền Nam sớm hơn miền Bắc gần một thập kỷ. Sự giúp đỡ liên tục và hiệu quả của FAO sau ngày Việt Nam thống nhất có công lớn của thầy Trình và anh Nguyễn Văn Đạt làm chánh chuyên gia của FAO. Blog The Gift là nơi lưu trữ những “tâm tình” của gíáo sư dành cho Việt Nam, đăng các bài chọn lọc của Thầy từ năm 2005 sau khi về hưu. Đa số các bài viết trên blog của giáo sư về Phát triển Nông nghiệp, Kinh Tế Việt Nam, Khoa học và Đời sống trong chiều hướng khuyến khích sự hiếu học của lớp trẻ. Nhân cách và tầm nhìn của Thầy đối với tương lai và vận mệnh của đất nước đã đưa đến những đóng góp hiệu quả của Thầy kết nối giữa quá khứ và hiện tại, tạo niềm tin tương lai, hòa giải và hòa hợp dân tộc”.
‘Thầy Trình với thầy Của’, ‘Chiếc bàn của thầy Trình’, ‘FAO Trình Đạt Ngưu Bổng’, ‘Thầy Trình với lúa cá’, ‘Thầy Trình với The Gift’ là những mẫu chuyện chiêm nghiệm mà tôi thích trích dẫn và kể tại Các lớp học trên đồng .
THẦY TRÌNH VỚI THẦY CỦA
Chuyện này gợi cho tôi nhiều suy tư: Thầy Trình quý trọng thầy Của và thầy Của tìm đến ngay thầy Trình sau ngày Việt Nam thống nhất. Thầy Trình ra đi vì không thể ở lại nhưng sự ứng xử của thầy sau ngày ra đi là một bài học lớn. Thầy Của mất thật sớm, ngay cuối năm 1975, lúc Thầy mới 55 tuổi, còn rất nhiều khả năng cống hiến và chưa được hưởng không khí hoà bình bao lâu. Cuộc đời, số phận, nhân cách và cống hiến của hai người Thầy nghề nông vượt lên khen chê và lắng đọng một di sản.
Chuyện kể rằng năm 1952, giáo sư Lương Định Của lúc ấy đã đạt được học vị bác sĩ ở Nhật Bản. Đó là một danh vị thực chất cao quý thời đó mà sau này ông kiên quyết từ chối mọi danh xưng tiến sĩ mà người đời khoác cho. Thầy Lương Định Của đạt được học vị cao, có công ăn việc làm, vẫn nghĩ tới việc về nước phục vụ, kịp trước khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi hoàn toàn. Luồng gió từ Hà Nội đã thôi thúc ông hướng về Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đang tạo lập. Ông từ chối các cơ hội đi Mỹ, IRRI để tìm cách về nước tham gia kháng chiến nhưng “Đường về Việt Bắc xa xôi lắm!”. Sau nhiều nỗ lực móc nối, chờ đợi, xoay đường này cách khác, Ông đã đưa cả gia đình về Sài Gòn, làm việc một thời gian ngắn ở Viện Khảo cứu Nông nghiệp Sài Gòn, Bộ Canh Nông (nay là Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam), sau đó quá cảnh bưng biền và đầu năm 1954 cả nhà cùng lên một chuyến tàu tập kết ra Bắc
Nhà báo Phan Quang kể câu chuyện Kỷ niệm đời thường về nhà khoa học Lương Định Của đã cho hay: “Hồi còn là sinh viên, ông đã cùng nhiều lưu học sinh Nhật và nước ngoài trong đó có Đặng Văn Ngữ, tham gia các cuộc biểu tình tuần hành phản đối thực dân Pháp xâm lược Việt Nam. Theo như ông còn nhớ, ít nhất có bốn cuộc lớn, ba lần ở Tokyo, và một lần ở Kyoto. Hoạt động chống chiến tranh Việt Nam có thuận lợi là Đảng Cộng sản Nhật Bản hết lòng ủng hộ cuộc chiến đấu của nhân dân ta. Nhiều Việt kiều ở Nhật nhờ thông qua Đảng Cộng sản Nhật Bản hoặc các tổ chức nhân dân do Đảng lãnh đạo mà giữ được mối liên hệ liên tục với phong trào kháng chiến trong nước.
Qua sự giới thiệu của một người bạn, một mặt Lương Định Của tiếp xúc với các nghị sĩ tiến bộ trong Quốc hội Nhật, nhờ giúp đỡ tạo điều kiện cho ông sớm được trở về vùng tự do nước Việt Nam. Thượng Nghị sĩ Kazami được các bạn Nhật cử đứng ra lo liệu việc này. Mặt khác, Lương viết thư gửi Đại sứ quán ta ở Bắc Kinh bày tỏ mong muốn của mình, và chẳng bao lâu sau nhận được thư Đại sứ trả lời đã chuyển nguyện vọng của ông về nhà. Theo sự hướng dẫn của ông Kazami, mùa hè 1952 Lương Định Của xin thôi việc ở Kyoto, lên thủ đô Tokyo chờ ngày về nước.
Ông xin việc làm ở Sở Nghiên cứu Khoa học Nông nghiệp Trung ương của Nhật Bản để có thể thu nhập trong thời gian chờ đợi. Đầu những năm 50, sau chiến thắng biên giới, tình hình nước ta rất sôi động. Đảng Lao động Việt Nam đảm nhiệm công khai sứ mệnh lịch sử lãnh đạo toàn dân kháng chiến. Mặt trận Liên Việt thành lập, giương cao ngọn cờ đại đoàn kết. Các vùng tự do được giữ vững. Chiến tranh nhân dân phát triển mạnh ở vùng sau lưng địch.
Thực dân Pháp ý thức rõ, tiến hành phá hoại kinh tế, gây nạn đói kém, cắt nguồn hậu cần của Quân đội Nhân dân Việt Nam là một mặt trận có ý nghĩa chiến lược đối với thành bại của chúng trong chiến tranh.Thông tri của tướng De Linarès, tư lệnh chiến trường Bắc Bộ gửi các cấp dưới đề ngày 14-3-1951 hướng dẫn cụ thể như sau:
“… Về phá hoại, có hai cách thực tế có thể áp dụng: a) làm ướt thóc hoặc bắt dân phải để thóc lúa ngoài trời trong mùa mưa ẩm. Tuy nhiên, để chắc chắn hạt gạo sẽ thối hẳn, phải dấp nước cho ướt thóc trong thời gian bốn mươi tám giờ. Ngoài ra, để cho sự phá hoại bảo đảm hiệu quả chắc chắn của nó, trong thời gian ấy, phải canh giữ không để cho dân chúng đến lọc lấy phần thóc còn tốt mang đi cất giấu; b) những kho thóc quan trọng nào phát hiện được, cho tưới xăng hoặc dầu nặng vào…” .
Tháng Chín năm 1952, ông Kazami báo cho Lương Định Của biết, có một tàu buôn Nhật Bản sắp sang Hồng Công rồi từ đó đến thành phố Thiên Tân của Trung Quốc. Ông đề nghị Lương đáp chuyến tàu ấy. Vào được Trung Quốc rồi thì rất dễ dàng về Việt Bắc vì biên giới Việt Trung đã thông, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cùng Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã kiến lập quan hệ ngoại giao; giữa hai nước có tình hữu nghị sâu sắc. Ông nói đã nhờ Hội Hoa kiều tại Nhật Bản làm các thủ tục cần thiết cho gia đình Lương nhập cảnh Trung Quốc, ông cũng đã có liên hệ để thông báo với Chính phủ Việt Nam về chuyện này.
Lương Định Của vào Hồng Công, đến biên giới Cửu Long trình giấy giới thiệu của Hội Hoa kiều tại Nhật Bản. Biên phòng Trung Quốc cho biết chưa nhận được chỉ thị. Các bạn khuyên Lương nên trở lại Hồng Công lấy visa nhập cảnh. Hành lý có thể cho chuyển trước sang biên giới, đưa về thành phố Quảng Châu. Vài hôm nữa gia đình Lương đến thì có thể vào Trung Quốc, đến thẳng Quảng Châu luôn.
Trở lại khách sạn, Lương tìm cách liên hệ với Đại sứ quán ta ở Bắc Kinh, vừa gọi điện thoại vừa gửi thư song chờ mãi không thấy hồi âm. Tiền túi cạn dần: phòng trọ khách sạn rất đắt. Hàng ngày bà Của xuống phố mua bánh mì cho cả nhà ăn. Lúc này mới thấy hết bản lĩnh của người phụ nữ ấy. Ông lo cuống lên, bà chỉ cười: “Không sao, để tính xem”. Về đến Việt Nam ông thú thật với bạn bè, nếu không có bà thì với hai đứa con nhỏ, ông chẳng biết đường nào xoay xở trong những ngày quá cảnh Hồng Công. Thái độ bình tĩnh và đầy thông cảm của bà có tác dụng trấn an ông.
Sau một tuần chờ đợi trong lo âu, xuất hiện một người lạ mặt ăn mặc sang trọng. Ông nói: nếu Lương có giấy giới thiệu của Ngân hàng Trung Hoa thì ông có thể giúp cho qua biên giới. Lương Định Của chẳng có giấy tờ gì khác ngoài thư giới thiệu của Hội Hoa kiều tại Nhật Bản. Người lạ mặt khuyên, nếu vậy thì nên theo ông về Macao, ở nhờ nhà con trai ông một thời gian, chờ xin phép nhập cảnh.
Hồng Công là điểm quá cảnh, khách không được phép ở lại lâu. Lương Định Của hết sức phân vân. Người này ông chưa từng quen biết. Trong túi ông lại không có tiền, trừ gói hạt giống dưa. Đến áo quần thay hằng ngày cũng không có đủ vì các valy đã gửi hết vào Trung Quốc rồi.
Ông quyết định hẵng trở về Sài Gòn, rồi tìm cách ra vùng tự do sau. Ông đánh điện cho một người bạn ở Sài Gòn, báo tin mình đang trên đường về nước, đến Hồng Công thì mất hết đồ đạc, nhờ bạn đặt mua vé máy bay cho hai người lớn hai trẻ con, và cho vay tạm hai nghìn USD.
Ngay chiều hôm ấy, nhận được ngân khoản người bạn gửi đến thông qua một ngân hàng lớn. Có tiền, có vé trong tay, ông còn nấn ná lại thành phố này ba tuần nữa, hy vọng có tin tức Đại sứ quán ta tại Bắc Kinh. Cuối cùng hết hạn quá cảnh mới đáp máy bay về Sài Gòn.
Chính quyền Sài Gòn nồng nhiệt đón bác sĩ nông học Lương Định Của du học từ Nhật Bản về. Bộ trưởng Nông Lâm mời ông đến cơ quan, mở rượu whisky chúc mừng, và ngỏ ý mời ông làm thứ trưởng. Lương tìm cách thoái thác khéo. Ông khiêm tốn nói mình xa đất nước đã lâu, xin cho làm việc hợp đồng một thời gian để quen thêm thung thổ và bạn bè, rồi mới dám chính thức nhận nhiệm vụ.”
“Gia đình ông sống cùng gia đình người em trong ngôi nhà ở Đa Cao. Em gái ông có chồng đi kháng chiến, thỉnh thoảng lại kiếm cớ vắng nhà. Ông biết chị ra bưng thăm chồng. Một hôm, vào ngày chủ nhật, ông đang ngồi chơi trước cửa thì thấy một người ăn vận có vẻ như vừa từ nông thôn ra, đi thẳng vào nhà sau nói chuyện với cô em gái. Khách về, Lương hỏi ai vậy, cô em trả lời: “Người ta muốn mời anh ra vùng kháng chiến đấy”. – Vậy em trả lời họ thế nào? Cô em cười: “Em nói, anh vợ con tùm lum thế kia thì làm sao đi kháng chiến được”. Lương Định Của lặng im, vì dự định từ Nhật Bản về thẳng miền Bắc không thành, ông không hề hé răng cho ai biết.
Hiệp định Genève về Đông Dương (1954) được ký kết. Trong giới trí thức Sài Gòn lại một lần nữa xôn xao – tuy thầm lặng – về việc ra đi hay ở lại. Nơi cơ quan Lương làm việc có một chị tên là B., em gái một bác sĩ nha khoa vốn là bạn của ông sau này cũng tập kết ra Bắc và cùng gặp lại nhau tại Hà Nội, có lần hỏi giọng nửa đùa nửa thật: “Nè, Chính phủ Việt Minh kêu gọi trí thức ra Bắc đấy, anh có đi không?”.
Lương nghiêm trang trả lời ông muốn đi. Chị B. bắt liên lạc, bố trí kế hoạch cho ông rời Sài Gòn. Chờ đợi một thời gian khá lâu mới có hồi âm. Lương Định Của nói với các em, ông muốn cho gia đình đi nghỉ mát ở Ô Cấp (Cap Saint Jacques – Vũng Tàu ngày nay) mấy hôm. Nửa đường, theo mật hiệu “cứ theo người có chửa mà đi”, ông đổi xe, đổi hướng, theo người phụ nữ ấy về thành phố Mỹ Tho. Từ đấy lại đổi xe khác, có người khác đón ra bưng biền.
Lương Định Của được nhà lãnh đạo Phạm Hùng tiếp ngay khi vừa đến cứ. Anh Bảy trò chuyện thân tình, và cho ông một bộ quần áo bà ba. Năm 1954, qua liên lạc biệt động, gia đình giáo sư gửi thư xin phép đi tập kết. Anh Hồng Việt kể lại: “Từ Sài Gòn, theo biệt động đưa về Cần Thơ, xuống căn cứ Cà Mau và đi tàu Ba Lan ra Sầm Sơn, Thanh Hoá. Ấn tượng đầu tiên là hưởng luôn một trận gió mùa đông bắc. Nhưng ngày hôm sau là 1.1.1955, gia đình được chứng kiến ngày lễ tưng bừng”.
Luồng gió từ Hà Nội là bước ngoặt của nhà nông học Lương Định Của.
Theo hồi ức của thầy Phan Gia Tân, giảng viên Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh, thì sau ngày Việt Nam thống nhất 30.4.1975, giáo sư Lương Định Của đã đi tìm Giáo sư Tôn Thất Trình ở Trường Đại học Nông nghiệp Sài Gòn (nay là Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh). Thầy Của tiếc không gặp được thầy Trình vì thầy đã ra đi trước đó.
Tấm lòng tri ngộ của họ là dấu ấn “biết mình, biết người” của hai trí thức lớn…
CHIẾC BÀN CỦA THẦY TRÌNH
Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh có di sản biểu tượng là tòa nhà chữ U (nay gọi là tòa nhà Phượng Vĩ) do kiến trúc sư Ngô Viết Thụ thiết kế. Trong tòa nhà chữ U này có chiếc bàn của thầy Tôn Thất Trình ở lầu 1 tại Phòng Cây Lương thực Rau Hoa Quả thuộc Khoa Nông học. Đây cũng là phòng cuối nối liền gần gũi nhất với khu Thư Viện (cũ). Tầng dưới của Thư Viện là Hội Trường Lớn. Góc phải đầu nhà chữ U nay còn bảng đồng lưu danh Kiến Trúc Sư Ngô Viết Thu là Khôi Nguyên La Mã.
Viện Khảo cứu Nông Lâm Đông Dương được thành lập ngày 2 tháng 4 năm 1925 tại Sài Gòn là Viện nghiên cứu khoa học nông lâm nghiệp đầu tiên và duy nhất tại Đông Dương, nay là Viện Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam là nơi thầy Tôn Thất Trình có nhiều năm làm việc ở đấy. Thầy Trình đã tham gia dự án thực hiện hợp tác nghiên cứu lúa với Đài Loan giai đoạn 1950-1957, gồm các ông Trương Văn Hiếu, Phạm Huy Lân, Tôn Thất Trình, Trần Thiện Tín, Trần Bình Cư, Đoàn Kim Quan. Hai tác giả Bùi Minh Lương, Tôn Thất Trình, Tổng Nha Canh Nông đã biên soạn sách “Đất Nông nghiệp Việt Nam” – Bắc Kontum (1959) rất công phu.
Thầy Tôn Thất Trình làm Hiệu Trưởng Trường Cao Đẳng Nông Lâm Súc Sài Gòn từ năm 1964 đến năm 1968. Trước thầy Trình là thầy Đặng Quan Điện (1962-1964). Tiền thân Trường Cao Đẳng Nông Lâm Súc Sài Gòn là Trường Quốc Gia Nông Lâm Mục Blao Bảo Lộc (1955-1962), Hiệu trưởng đầu tiên là thầy Vũ Ngọc Tân (1955-1958),và thầy Phan Lương Báu (1958-1962). Trường Cao Đẳng Nông Lâm Súc Sài Gòn sau này được thay thế bằng Trung tâm Quốc gia Nông nghiệp Sài Gòn (1968-1972), Học Viện Quốc Gia Nông nghiệp Sài Gòn (1972-1974) và trở thành Trường Đại học Nông nghiệp trực thuộc Viện Đại Học Bách Khoa Thủ Đức (1974 -1975) do thầy Lê Văn Ký làm Hiệu trưởng (1974-1975).
Giáo sư Tôn Thất Trình vẫn trực tiếp giảng dạy môn cây lương thực cho dù hai lần Thầy làm Tổng Trưởng Bộ Canh Nông và Cải Cách Điền Địa năm 1967 và 1973, tên Trường thay đổi nhiều lần và xã hội quá nhiều biến động. Chiếc bàn to quá khổ (dài 1,8m rộng 1,2m, gỗ tốt, chắc, nặng, nằm ở phòng cuối góc bên phải của khối nhà. Cái bàn này có lẽ vì quá to và nặng, không dễ mang ra khỏi cửa, phòng lại là góc khuất làm việc dạy học của người thầy “full professer” (giáo sư) Hiệu trưởng đầu tiên, mà phòng không phải ở tâm điểm chính diện phong thủy, nên nơi này và chiếc bàn này 40 năm qua có lẽ vì vậy mà rất ít thay đổi chỉ mấy lần tách nhập Bộ môn.
Chuyện tôi được may mắn về phòng này và được nghe kể lại là một câu chuyện dài …
THẦY TRÌNH NGÀY RA ĐI
Khi thời cơ lịch sử thống nhất Việt Nam xuất hiện, ngày 7 tháng 4 năm 1975, Đại tướng Võ Nguyên Giáp từ Tổng Hành Dinh Hà Nội đã phát đi mệnh lệnh tác chiến nổi tiếng đến toàn mặt trận “Thần tốc, thần tốc hơn nữa; táo bạo, táo bạo hơn nữa; tranh thủ từng phút, từng giờ; xốc tới mặt trận; giải phóng miền Nam. Quyết chiến và toàn thắng!”. Năm cánh quân lớn của lực lượng giải phóng đã nhanh chóng áp sát gần thành phố. Ngày 29 tháng 4 năm 1975 Chiến dịch Gió lốc (Cuộc hành quân Frequent Wind) Những người Mỹ cuối cùng rút khỏi Việt Nam. Cũng ngày này, Quân đội Nhân dân Việt Nam đánh chiếm đảo Trường Sa từ Quân lực Việt Nam Cộng hòa, hoàn thành tiếp quản các đảo thuộc quần đảo Trường Sa do Việt Nam Cộng hòa chiếm giữ. Sài Gòn trước ngày thất thủ hoảng loạn cực độ. Trừ một số quan chức và tướng lĩnh cao cấp có điều kiện và thế lực đã kiếm cớ rời đi trước đó. Số còn lại hoang mang tính toán. Nhiều người bỏ nhiệm sở lánh lo việc riêng. Thầy Tôn Thất Trình làm gì trong ngày này? Theo lời kể của thầy Phan Gia Tân thì giáo sư Tôn Thất Trình vẫn đến trường trước ngày Sài Gòn sụp đổ.
Chặng đường lịch sử 90 năm (1925 – 2015) của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam (Bùi Chí Bửu, Đào Huy Đức, Trần Thị Kim Nương và cộng tác viên 2015) và Kỷ yếu Trường Đại học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh 60 năm (1955- 2015) xây dựng và phát triển (Dương Duy Đồng, Bùi Xuân Nhã, Nguyễn Phú Hòa, Bùi Văn Miên và cộng tác viên) ghi nhận rằng: Trường Cao Đằng Nông Lâm Súc Sài Gòn (1962-1968) thầy Tôn Thất Trình đã làm Hiệu trưởng năm 1964-1967 sau bác sĩ thú y Đặng Quan Điện (1962- 1964). Thầy Tôn Thất Trình làm Tổng trưởng Bộ Canh Nông và Cải Cách Điền Địa lần thứ nhất năm 1967. Thầy cũng kiêm nhiệm Giám đốc Nha Khảo cứu và Sưu tầm Nông Lâm Súc (thông tin đang kiểm chứng) và thầy làm Tổng Ủy Trưởng Kế Hoạch cuối năm 1968 đến cuối năm 1969 thì giải nhiệm. Thầy Trình được Hội Đồng Giảng Huấn Cao Đẳng Nông Lâm Súc bầu làm giáo sư hạng nhất và được Bộ Giáo Dục Quốc Gia nền đệ nhị Cộng hòa bổ nhiệm giáo sư chính thức. Năm 1973 thầy nhận chức Tổng trưởng Bộ Canh Nông và Cải Cách Điền Địa lần thứ hai nhưng Thầy Trình vẫn làm giáo sư ở Trường Đại Học Nông nghiệp thuộc Viện Đại Học Thủ Đức (1974-1975) Thầy dạy Cây Lương thực, Nông học Đại cương, Mía Đường và Cây ăn trái. Trường Đại Học Nông nghiệp lúc đó do thầy Lê Văn Ký (1974-1975) làm Hiệu trưởng.
Anh Vo Hoang Nguyen có trao đổi rằng Giảng đường 45 Cường Để đẹp và vui hơn. Trong khi anh Nguyễn Huệ Chí Thái thì đánh giá việc hình thành Viện Đại Học, Làng Đại Học và di chuyển Trường từ 45 Cường Để lên Thủ Đức là thể hiện tầm nhìn của các Hiệu trưởng thưở ấy. Tôi đồng tình với nhận định của anh Nguyễn Huệ Chí Thái và trở lại hồi ức Thầy Tôn Thất Trình ngày ra đi
Thầy Phan Gia Tân kể: “Thầy Tôn Thất Trình gọi tôi lên. Thầy rất thương tôi. Thầy hỏi: Cậu tính sao? (đi hay ở?). Thầy Tân xin ý kiến thầy Trình. Thầy nói: Gia cảnh và năng lực cậu vậy. Cậu ráng ở lại làm thầy là được. Thầy thì chắc không ở lại nổi vì đến hai lần làm Tổng trưởng Bộ Canh Nông và Cải Cách Điền Địa (Thời nay, có nghĩa là hai lần làm Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp & PTNT – Hoàng Kim chú giải), lại là dòng họ Nguyễn Phúc (Hoàng tộc) rồi lại làm Hiệu trưởng của Trường này với hàm Giáo sư gốc. Sự dính líu với chế độ cũ sâu thế, làm sao yên mà dùng. Hãy coi gương cách mạng Nga xử sạch nhà và thân tín Nga hoàng Nikolai II còn có sót ai đâu?”.Thầy trầm tư lâu, thật lâu. Tôi cứ ngồi yên vậy không dám hỏi. Thốt nhiên, thầy vỗ bàn và tôi nghe một câu nói buồn thẳm: Chúng nó chạy hết rồi!Sau đó, thầy Trình đứng dậy, lầm lũi về.Ít hôm sau ngày Việt Nam thống nhất 30.4.1975, giáo sư Lương Định Của đã đi tìm Giáo sư Tôn Thất Trình ở Trường Đại học Nông nghiệp Sài Gòn (nay là Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh), có gặp tôi (thầy Phan Gia Tân). Thầy Của tiếc không gặp được thầy Trình vì thầy đã ra đi trước đó”.
Thầy Trình đi đâu? Trong cơn lốc của các sự biến thầy Trình không đi Pháp, không đi Mỹ, cũng chẳng sang Đài Loan Trung Hoa Dân Quốc, cũng không đi Nhật là những nơi thầy có nhiều mối quan hệ từ trước mà đi sang FAO (Roma). Giáo sư Tôn Thất Trình đã làm Tổng Thư ký Chương trình lúa gạo toàn cầu và bằng uy tín chuyên môn của mình trong những năm làm việc ở FAO đã giúp đỡ Bộ Nông nghiệp Việt Nam phát triển các giống lúa thuần thấp cây, ngắn ngày nguồn gốc IRRI cho các tỉnh phìa Bắc; giúp phát triển lúa lai, đẩy mạnh các chưong trình cao su tiểu điền, mía, bông vải, đay, đậu phộng , dừa, chuối, nuôi cá bè ở Châu Đốc An Giang, nuôi tôm ở Bạc Liêu, Sóc Trăng, nuôi cá măng ở Bình Định, nuôi tôm càng xanh ở ruộng nước ngọt, trồng phi lao chống cát bay, trồng bạch đàn xen cây họ đậu phủ xanh đất trống đồi trọc, trồng lại thông hai lá, ba lá ở Huế và ở Đà Lạt, nuôi heo lai ba dòng nhiều nạc, nuôi dê sữa , bò sữa, trồng rau, hoa, cây cảnh.
FAO TRÌNH ĐẠT NGƯU BỔNG
Giáo sư Tôn Thất Trình, tiến sĩ Trần Văn Đạt, tiến sĩ Nguyễn Văn Ngưu, phó giáo sư tiến sĩ Bùi Bá Bổng là những người Việt ở FAO (Tổ chức Lương Thực Nông nghiệp Quốc tế. FAO Bốn người Việt ở FAO đều nguồn gốc từ Khoa Nông Học Trường Đại Học Nông Lâm Hồ Chí Minh ngày nay. FAO quá danh tiếng gắn với tên bốn người thầy thành một chùm tên năm chữ mà các thầy bạn nước ngoài hay gọi làm tăng thêm sự thân thiết quý trọng chứ không làm giảm sự tôn kính. Tôi đã đến FAO Rome năm 2000 trong hội thảo của FAO về tầm nhìn toàn cầu cây sắn. Tôi nhớ mãi sự thân tình của tiến sĩ Trần Văn Đạt đối với tôi những ngày tại đó. Thầy Tôn Thất Trình, tiến sĩ Trần Văn Đạt và tiến sĩ Nguyễn Văn Ngưu nay đều đã nghỉ hưu. PGS. TS. Bùi Bá Bổng hoàn thành nhiệm vụ Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp Phát triển Nông thôn Việt Nam ( 2001-2013) từ ngày 3 tháng 11 năm 2013 sau đó làm chuyên gia cao cấp về sản xuất lúa gạo tại FAO- RAP trước khi nghỉ hưu. Anh Bùi Bá Bổng học khóa 13 cùng tuổi với anh Bùi Chí Bửu, Diệp Kỉnh Tần, Đào Tấn Lộc, Dương Văn Chín … và tương đương tuổi tác cũng như lớp học với các anh Trần Văn Minh, Vũ Mạnh Hải, Nguyễn Văn Toàn, Nguyễn Hữu Bình, Lê Xuân Đính, Đỗ Khắc Thịnh , Phạm Sĩ Tân, Nguyễn An Tiêm ở lớp chúng tôi Trồng trọt 4 (Khoa Nông Học) Trường Đại Học Nông nghiệp 2 Hà Bắc, tiền thân của Đại học Nông Lâm Huế sau này. (Tôi HK dường như là bạn chung khóa với các anh chị khóa 13-15 ở Trường mình, vì có thời gian 1971-1976 ở quân đội, từng học năm lớp TT4, TT10, Trường Đại Học Nông nghiệp 2 Hà Bắc và TT2A, TT2B, TT2C của Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh)
Viện Lúa Việt Nam có câu chuyện thú vị Giao ban cây lúa của bốn đời Viện Trưởng gồm GS. Nguyễn Văn Luật, PGS. Bùi Bá Bổng, GS. Bùi Chí Bửu và TS. Lê Văn Bảnh thì ở FAO Rome cũng có sự Giao ban cây lúa của bốn đời Chánh chuyên gia, Thư ký Điều hành, Thư ký Kỹ thuật của Ủy ban Lúa Gạo Quốc tế, đó là GS. Tôn Thất Trình, TS. Trần Văn Đạt, TS. Nguyễn Văn Ngưu và PGS. TS. Bùi Bá Bổng. Một sự so sánh thật thú vị chuyển tầm nhìn từ tầm nền nông nghiệp quốc gia đến nền nông nghiệp toàn cầu.
Chúng ta tự hào về những người Việt lỗi lạc ở FAO, những diện mạo lớn của con người Việt Nam hội nhập và đóng góp tài năng, nhân cách vào vị trí chăm lo hột gạo, chén cơm ngon cho người dân không chỉ ở Việt Nam mà cho Tổ chức Lương Nông Quốc tế. Đó là người Việt, hạt gạo Việt và con đường lúa gạo Việt Nam vươn ra thế giới.
Tôi đã kể câu chuyện Việt Nam con đường xanh, Trường tôi nôi yêu thương, Về Trường để nhớ thương; Một niềm tin thắp lửa, Sóc Trăng Lương Định Của , Thầy bạn là lộc xuân, Thầy bạn trong đời tôi, Những người Việt lỗi lạc ở FAO . Nay viết Chuyện thầy Tôn Thất Trình để kính tặng quý thầy cô giáo, các bạn sinh viên Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh, gia đình Nông nghiệp và những người quan tâm.
MẸ ĐI THANH THẢN CHÚNG CON NHỚ NGƯỜI Thơ anhHoàng Trung Trực
Mẹ đi về chốn vĩnh hằng
Quên đi bao nỗi nhọc nhằn Mẹ ơi
Thế là Mẹ đã xa rồi
Vành khăn tang thấm nghĩa đời chúng con
Tháng ngày lời Mẹ chẳng còn
Mẹ đi thanh thản, chúng con nhớ người
Gần trăm năm sống với đời
Biết bao gian khổ cuộc đời Mẹ lo
Có ngày cơm chẳng đủ no
Vầng trăng trí tuệ Mẹ lo chu toàn
Cho con khôn lớn bình an
Vượt lên số mệnh, hiên ngang với đời
Kiến thức khoa học sáng ngời
Hiền tài giúp nước, giúp đời Mẹ ơi!
VIẾNG MỘ CHA MẸ Thơ anhHoàng Trung Trực
Dưới lớp đất này là mẹ là cha
Là khởi phát đời con từ bé bỏng
Là lời mẹ ru dịu dàng cánh võng
Là gươm đao cha một thuở đau đời
Hành trang cho con đi bốn phương trời
Là nghĩa khí của cha, là nhân từ của mẹ
Vẫn bầu sữa tinh thần không ngừng không nghỉ
Để hành trang cho con đi tiếp cuộc đời
Cuộc đời con bươn chãi bốn phương trời
Nay về lại nơi cội nguồn sinh trưởng
Dâng nén hương mà lòng hồi tưởng
Thuở thiếu thời dưới lồng cánh mẹ cha
“Ước hẹn anh em một lời nguyền
Thù nhà đâu sá kể truân chiên
Bao giờ đền được ơn trung hiếu
Suối vàng nhắm mắt mới nằm yên”.
MỘT GIA ĐÌNH YÊU THƯƠNG Hoàng Kim
Tổ tiên công đức muôn đời thịnh
Con cháu thảo hiền vạn kiếp vinh
Hà Nội Đồng Nai hai bầu sữa
Hoàng Trần Lê Nguyễn một con đường
Cậu Mẹ chở che tròn Nam Bắc
Anh Em thân thiết suốt tháng năm Làng Minh Lệ quê tôiHoa Đất Quảng Bình đất Mẹ ơn Người
MỪNG ĐÓN CẬU MẸ
Thơ em Nguyễn Hữu Khánh
Lòng Cậu Mẹ mênh mông như trời rộng
Phủ ấm cháu con suốt cả một đời
Và ngay cả khi Cậu Mẹ đã về Trời
Tròn 10 năm Cậu vân du * cùng Mẹ
Trong tâm tưởng con Cậu Mẹ vẫn về đây
Về với cháu con trong những dịp sum vầy
Như hôm nay, ngày gia đình họp mặt.
Trong vấn vít khói hương trầm thơm ngát
Con thấy Cậu vui, mắt miệng cùng cười
Bỏm bẻm nhai trầu như thường thấy trong đời
Mẹ ngồi đó nhìn cháu con trìu mến.
Con lại thấy ký ức xưa hiện đến
Chủ nhật cả nhà bên nồi canh chua đầu cá thật “to”
“Đặc sản” nhà mình thường là đầu, thủ, chân giò
Những thực phẩm ít gia đình muốn lấy
Nhưng nhà mình đông con, biết sao, đành vậy
Lấy loại nhiều xương khối lượng được nhân đôi
Nhọc nhằn nuôi 4 con khôn lớn thành người.
Khó khăn vượt qua rồi
Mong Cậu Mẹ giờ chỉ còn thanh thản tiếng cười
Nhà mình vững vàng hơn
Luôn mừng đón Cậu Mẹ về thăm
Các cháu con gắng học giỏi, làm chăm
Để thêm nhiều niềm vui dâng Cậu Mẹ.
Làn khói trầm vẫn vờn bay nhè nhẹ
Tỏa hương thơm ngan ngát trong nhà./.
* Vân du tiên cảnh cõi VĨNH HẰNG
Giỗ Cậu lần 10 – 10/10/2020 AL
nhắm mắt lại đi em
để thấy rõ giấc mơ hạnh phúc
trời thanh thản xanh
đêm nồng nàn thở
ta có nhau trong cuộc đời này
nghe hương tinh khôi đọng mật
quyến rũ em và khát khao anh
mùi ngây ngất đằm sâu nỗi nhớ
một tiếng chuông ngân
thon thả đầu ghềnh
nhắm mắt lại đi em
hạnh phúc đâu chỉ là đích đến
hạnh phúc là con đường trãi nghiệm
vỗ về, chờ đợi, nhớ thương
nhắm mắt lại đi em
trong giấc mơ của anh
có em và rừng thiêng cổ tích
có suối nước trong veo như ngọc
có vườn trúc và ngôi nhà tranh
có một đàn trẻ thơ tung tăng
heo gà chó mèo ngựa trâu
nhởn nhơ trên đồng cỏ
tươi xanh.
nhắm mắt lại đi em,
tận hưởng thú an lành.
LINH GIANG
Hoàng Kim
Nhà mình gần ngã ba sông
Rào Nan, chợ Mới, nguồn Son, Quảng Bình
Linh Giang sông núi hữu tình
Nơi đây cha mẹ sinh thành ra con.
“Chèo thuyền qua bến sông Son Để con khỏi chộ nước non thêm buồn”
Câu thơ quặn thắt đời con
Mẹ Cha mất sớm con còn trẻ thơ.
Ra đi từ bấy đến chừ
Lặn trong sương khói bến đò sông quê
Ngày xuân giữ vẹn lời thề
Non sông mở cõi, tụ về trời Nam.
CẦU TRỜI NỐI MẸ CHA XƯA
Hoàng Kim
Cầu trời nối mẹ cha xưa
Mưa dày thấm đất nắng thưa thấu trời
Lời thương giao cảm lòng người
Ngày Cha Mẹ suốt trọn đời trong con.
THĂM NGÔI NHÀ CŨ DARWIN
Hoàng Kim
Đôi mắt Darwin soi thấu nguồn gốc các loài. “Kẻ sống sót không phải là kẻ mạnh nhất hay thông minh nhất, mà là kẻ thích nghi tốt nhất” Charles Darwin đã nói vậy: “It is not the strongest of the species that survives, nor the most intelligent that survives. It is the one that is most adaptable to change” Bảo tồn và phát triển bền vững, thích nghi để tồn tại là câu chuyện lớn của mỗi người và nhân loại, là lời nhắc của quá khứ hiện tại và tương lai cho nhân loại và chính cộng đồng người dân Việt Nam để không bao giờ được phép quên lãng. Thích nghi để tồn tại mới là người thắng sau cùng. Cân bằng hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế, bảo vệ môi trường, tiến bộ và công bằng an sinh xã hội, giữ vững độc lập thống nhất chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia là vấn đề trọng yếu trong chính sách kinh tế xã hội tự nhiên và an sinh.
Thăm ngôi nhà cũ của Darwin là tìm đến tư duy mạch lạc của một trí tuệ lớn “Darwin thích nghi để tồn tại” để vận dụng soi tỏ “Niên biểu lịch sử Việt Nam“, ” 500 năm Nông nghiệp Việt Nam”, “Nông nghiệp Việt trăm năm” (1925 -2025); nhằm tìm trong sự rối loạn và góc khuất lịch sử dòng chủ lưu tiến hóa, chấn hưng văn hóa, giáo dục và nông nghiệp Việt. Down House là ngôi nhà cũ của nhà tự nhiên học người Anh Charles Darwin (12 tháng 2, 1809 – 9 tháng 4, 1882) và gia đình ông. Nơi đây Darwin đã làm việc về thuyết tiến hóa bởi chọn lọc tự nhiên và nhiều thí nghiệm khác. “Nguồn gốc các loài” của Charles Darwin xuất bản lần đầu tiên ngày 24 tháng 11 năm 1859 là ấn phẩm khoa học tiêu biểu và là tác phẩm nòng cốt của ngành sinh học tiến hóa, chứng minh rằng mọi loài đều tiến hóa theo thời gian từ những tổ tiên chung qua quá trình chọn lọc tự nhiên. Hiện nay học thuyết tiến hóa của Darwin đang được tôn vinh và phê phán dữ dội. Vượt qua mọi khen chê của nhân loại và thời đại biến đổi, triết lý của Charles Darwin thật sâu sắc. “Mọi loài đều tiến hóa theo thời gian từ những tổ tiên chung qua quá trình chọn lọc tự nhiên“, “thích nghi để tồn tại” bài học tình yêu cuộc sống đắt giá của tự nhiên, chính mỗi người, cộng đồng dân tộc và nhân loại.
Nông nghiệp Việt trăm năm (1925-2025) thao thức trong tôi . “Trăm năm trong cõi người ta” cụ Nguyễn Du khởi đầu kiệt tác Truyện Kiều hồn Việt, đất Việt, người Việt bằng câu này. Nông nghiệp Việt trăm năm bảo tồn và phát triển là bài học lớn Nông nghiệp Việt thích nghi để tồn tại kết nối và hội nhập nhưng không quên bản sắc mình là ai và ở đâu trong thế giới phát triển. Nông nghiệp Việt 100 năm bảo tồn và phát triển chúng ta sẽ lắng đọng các bài học lý luận và thực tiễn đúc kết chuỗi hệ thống lịch sử địa lý sinh thái kinh tê xã hội tầm nhìn dài hạn 100 năm.Tôi duyên may gặp được các trang vàng của những người thầy lớn, có tầm nhìn xa rộng, sức khái quát cao và tài năng khoa học phi thường, để tự mình đọc kỹ lại và suy ngẫm. Tôi vì giới hạn nhiều điều chưa kịp chiêm nghiệm chép lại, nay bất chợt gặp lại chùm ảnh tư liệu cũ “một thời để nhớ” bỗng bâng khuâng ngưỡng mộ sức khái quát trong đúc kết .Thật thú vị khi được trãi nghiệm một phần đời mình gắn bó máu thịt với Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh và Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam; Thật yêu thích được dạy và học bảo tồn và phát triển, tìm dòng chủ lưu tiến hóa chấn hưng đất nước.
(*) Cây Cỏ Việt Nam, giáo sư Phạm Hoàng Hộ
Cây cỏ Việt Nam gồm hai Tập, mỗi Tập 3 Quyển, tổng cộng khoảng 3,600 trang, chưa kể Phần Từ Vựng tên Việt Nam và Từ Vựng tên Khoa học các Giống (Chi) bao gồm thêm cả công trình của những năm tháng giáo sư rời quê hương Việt Nam sang Pháp, vẫn tiếp tục cặm cụi làm việc Theo Giáo sư Phạm Hoàng Hộ thì bộ sách Cây cỏ Việt Nam đã được thực hiện qua 4 giai đoạn: Nghiên cứu giai đoạn một:hợp tác với GS Nguyễn Văn Dương về phần dược tính, Cây cỏ Miền Nam Việt Nam, do bộ Quốc gia Giáo dục ấn hành năm 1960 mô tả 1,650 loài thông thường của Miền Nam, “Đó là giai đoạn còn mò mẫm, học hỏi một thực-vật-chúng chưa quen thuộc đối với một sinh viên vừa tốt nghiệp từ vùng xa lạ mới về. Nghiên cứu giai đoạn hai: kỳ tái bản lần hai 1970 bộCây cỏ Miền Nam Việt Nam, số loài lên được 5,328 loài… ; Nghiên cứu giai đoạn ba:tiếp tục công việc nghiên cứu sau 1975, đưa thêm được vào bộ sách Cây cỏ Miền Nam Việt Nam 2,500 loài và bộ được nới rộng cho toàn cõi Việt Nam. Nghiên cứu giai đoạn bốn: bộ sách Cây cỏ Việt Nam được bổ sung trên 3000 loài. Số loài mô tả khoảng 10,500. Sau khi hoàn tất bộ sách Cây Cỏ Việt Nam, Giáo sư Phạm Hoàng Hộ đã bày tỏ lòng tri ân sâu xa đối với Viện Bảo Tàng Thiên nhiên Quốc gia Paris và các bạn đồng sự Pháp, ông đã rất chân thành tâm sự: “thực hiện những điều mà lúc nhỏ dù điên rồ tới đâu tôi cũng không dám mơ ước: nô lệ của một thuộc địa, học ở một trường thường, ở một tỉnh nhỏ, bao giờ dám nghĩ đến tạo một quyển sách dù nhỏ bé, mê cây cỏ xung quanh nhưng bao giờ nghĩ đến biết cây cỏ cả nước!” Người “trí thức đau khổ” Phạm Hoàng Hộ đã vươn lên và hoàn tất được “giấc mơ điên rồ” tưởng như không thể được ấy và trở thành cây “đại thụ” trong Khoa học Thực vật của Việt Nam và cả Thế giới.”
Bộ Trưởng Nguyễn Ngọc Trìu đến Trung tâm Hưng Lộc năm 1987 thăm thành tựu tiến bộ kỹ thuật “trồng ngô lai xen đậu ở vùng Đông Nam Bộ” và mô hình “nghiên cứu phát triển đậu rồng ở các tỉnh phía Nam. Hai công trình này do Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam giới thiệu, đã được Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn công nhận là tiến bộ kỹ thuật nông nghiệp và được phát triển rộng rãi trong sản xuất. Cụ Trứ Nguyễn Ngọc Trìu là một chính khách lớn, có cuộc đời và sự nghiệp dường như là cụ Nguyễn Công Trứ của thời đại Hồ Chí Minh. Mọi người khi nhắc đến Cụ đều nhớ ngay đến vị Chủ tịch tỉnh Thái Bình sinh ở Tây Giang, Tiền Hải đã làm rạng ngời “quê hương 5 tấn”, nhớ ông Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp trí tuệ, xông xáo và rất biết lắng nghe, sau này làm Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng phụ trách mảng Nông – Lâm – Ngư nghiệp và Đặc phái viên của Thủ tướng Phạm Văn Đồng đối với vùng Nam Bộ . Cụ Trìu cũng là Chủ tịch Hội làm vườn Việt Nam, nơi tâm nguyện của ông được bạn thơ Thợ Rèn mến tặng’ “Danh vọng hão huyền như mây khói . Làm vườn cây trái để ngàn năm”, như nhà văn Nguyễn Tuân nhận xét: “Trìu làm lãnh đạo nhưng trước hết là một Con Người”.