Số lần xem
Đang xem 10144 Toàn hệ thống 23411 Trong vòng 1 giờ qua
Trang liên kết
Tỉnh thức
giữa đêm thiêng Yên Tử
Để thấm hiểu đức Nhân Tông
Ta thành tâm đi bộ
Lên tận đỉnh chùa Đồng
Tâm sáng Ức Trai
trong tựa ngọc TÌNH YÊU CUỘC SỐNG
DẠY VÀ HỌC Để chấn hưng giáo dục Việt Nam cấp thiết phải có đội ngũ những người thầy giáo ưu tú có tâm đức thiết tha với nghề, có trình độ chuyên môn cao và có kỹ năng giảng dạy tốt. Đây là trang thông tin chuyên đề dạy và học để trao đổi và bàn luận
Norman Borlaug Lời Thầy dặn Việc chính đời người chỉ ít thôi
Chuyên tâm đừng bận chuyện trời ơi
Phúc hậu suốt đời làm việc thiện
Di sản muôn năm mãi sáng ngời.
CHÀO NGÀY MỚI 15 THÁNG 12 Hoàng Kim CNM365Linh Giang; Linh Giang Đình Minh Lệ; Thăm nhà cũ của Darwin; Sự chậm rãi minh triết; Đất mẹ vùng di sản; Đi thuyền trên Trường Giang; Chiếu đất ở Thái An; Lên đỉnh Thiên Môn Sơn; Lên Thái Sơn hướng Phật; Qua Trường Giang nhớ Mekong; Chọn giống sắn Việt Nam; Ngày 15 tháng 12 năm 1939, bộ phim “Cuốn theo chiều gió” lần đầu tiên được công chiếu tại nhà hát Loew’s Grand ở Atlanta, Georgia, Mỹ. “Cuốn theo chiều gió” (Gone With the Wind) là bộ phim Mỹ thuộc thể loại phim chính kịch lãng mạn sử thi phỏng theo kiệt tác tiểu thuyết cùng tên của Margaret Mitchell, xuất bản năm 1936. Phim được sản xuất bởi David O.Selznick, đạo diễn Victor Fleming và kịch bản gốc Sidney Howard. Bộ phim được quay ở miền Nam nước Mỹ trong thời gian xảy ra nội chiến. Các diễn viên chính bao gồm Clark Gable, Vivien Leigh, Leslie Howard, Olivia de Havilland và Hattie McDaniel. Nội dung của phim xoay quanh cuộc nội chiến Mỹ và thời kì tái thiết nhìn từ quan điểm của một người Mỹ da trắng ở miền Nam. Ra mắt năm 1939, Gone With the Wind đã chứng tỏ sức sống mãnh liệt, lâu bền trong lòng khán giả khi dẫn đầu danh sách 100 bộ phim thành công nhất mọi thời đại về doanh thu tại Mỹ. Đây là kết quả từ cuộc thăm dò của nhật báo điện ảnh Screen Digest. Bộ phim đoạt 9 giải Oscar và vừa được bình chọn là bộ phim có nhiều khán giả nhất mọi thời đại trong lịch sử chiếu bóng Anh Quốc. Kể từ khi được phát hành năm 1939, phim “Cuốn theo chiều gió” đã mang lại 3.4 tỷ đô la (đứng sau phim Titanic đạt 4 tỷ đô la doanh thu phòng vé, tính đến thời điểm này). Với độ dài ba giờ bốn mươi phút và bốn phút nghỉ giữa các phần, “Cuốn theo chiều gió” là bộ phim Mỹ có lồng tiếng dài nhất từng được thực hiện cho tới nay. Ngày 15 tháng 12 năm 1966 là ngày mất của Walt Disney, họa sĩ phim hoạt hình, đạo diễn, nhà kịch bản, nhà sản xuất người Mỹ. Walter Elias Disney sinh ngày 5 tháng 12 năm 1901 mất ngày 15 tháng 12 năm 1966 . Ông lớn lên tại trang trại ở Macerline, Missouri. Ngay từ nhỏ, Disney đã có thiên hướng kinh doanh vượt trội với việc bán những bức phác họa cho bạn bè cùng lớp tiểu học. Walt Disney nhận ra rằng những nét vẽ nguệch ngoạc ấy lại là ý tưởng kinh doanh tuyệt vời sau việc đổi những bức tranh biếm họa ấy với những lần cắt tóc miễn phí. Disney quan tâm sâu sắc tới hội họa và điện ảnh thời trung học đã tham gia lớp học buổi tối tại Trường Nghệ thuật Chicago. Disney dấn thân vào con đường họa sĩ hoạt hình ở Kansas. Năm 1920, khi đang làm việc tại xưởng quảng cáo phim Kansas City Film Ads, Disney nghĩ ra những nhân vật hoạt hình đầu tiên và năm 1922 lập công ty đầu đời Lau-O-grams. Chẳng bao lâu sau công ty gặp khó khăn, Disney quyết định rời Thành phố Kansas đến Hollywood lập nghiệp chỉ với tinh thần hăng hái của tuổi trẻ, bộ đồ vẽ và những ý tưởng hoạt hình trong đầu. Lúc đi ông nói:”Tôi sẽ làm đạo diễn phim Hollywood! “. Song ước mơ của Disney không trở thành hiện thực vì tìm chỗ đứng trong làng điện ảnh này không hề dễ dàng. Thế rồi một gara để xe của bác Robert cùng với người anh trai là Ron, Walt Disney thành lập xưởng phim “Disney Brothers Studios” với việc vay Ron 200 USD, người chú 500 USD và nhờ bố mẹ thế chấp ngôi nhà để có 2.500 USD nữa. Sau một thời gian dài, Disney thuê trụ sở ở Hollywood và bán được loạt phim hoạt hình đầu tiên dựa trên nhân vật cổ tích là Alice, loạt phim Alice Comedies. Ngày nay, tên tuổi ông Walt Disney là thương hiệu của cả một tập đoàn toàn cầu về phim ảnh và các khu vui chơi giải trí. Công chúng, đặc biệt là các em nhỏ rất thích những con vật nhỏ bé nhưng lanh lợi. Walt Disney nghĩ rằng ông đã mắc nợ Charlie Chaplin một ý tưởng. Ông sáng tạo ra chú chuột nhắt bé xíu Mickey khi nghĩ tới lòng khát khao như Chaplin, một anh chàng nhỏ bé ‘ đã cố gắng làm điều mà anh ta có thể làm một cách tốt nhất”. Bí quyết khiến Chuột Mickey nổi tiếng là như thế là do chú ta “rất người”. Năm 1928, Chuột Mickey ra đời và nhanh chóng trở thành nhân vật yêu thích của không chỉ mọi gia đình Mỹ, mà còn cho trẻ em khắp toàn cầu, tượng trưng cho tinh thần vui vẻ ngay cả khi trong tình huống ngặt nghèo. Ngày 15 tháng 12 năm 1926 là ngày sinh Chính Hữu, nhà thơ, sĩ quan quân đội người Việt Nam Chính Hữu (15 tháng 12 năm 1926 – 27 tháng 11 năm 2007), tên thật là Trần Đình Đắc, là một nhà thơ Việt Nam, nguyên Đại tá, Phó cục trưởng cục Tuyên huấn thuộc Tổng cục chính trị, Quân đội Nhân dân Việt Nam, nguyên Phó tổng thư ký Hội Nhà văn Việt Nam. Ông được Nhà nước Việt Nam trao tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học và nghệ thuật đợt hai (năm 2000). Chính Hữu sinh tại Vinh (Nghệ An), nguyên quán tại huyện Can Lộc (nay là huyện Lộc Hà), tỉnh Hà Tĩnh. Ông học tú tài (triết học) ở Hà Nội trước cách mạng tháng Tám và gia nhập Trung đoàn Thủ Đô năm 1946, sau đó hoạt động liên tục trong quân đội suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp và kháng chiến chống Mỹ. Chính Hữu làm thơ từ năm 1947 và hầu như chỉ viết về người lính và chiến tranh. Thơ Chính Hữu không nhiều, các tác phẩm chính của ông gồm có Đầu súng trăng treo (tập thơ, Nhà xuất bản Văn học, 1966); Thơ Chính Hữu (tập thơ, Nhà xuất bản Hội nhà văn, 1997); Tuyển tập Chính Hữu (Nhà xuất bản Văn học, 1998); Trong đó, tập thơ Đầu súng trăng treo (1966) là tác phẩm chính. Thơ Chính Hữu có nhiều bài đặc sắc, cảm xúc dồn nén, ngôn ngữ và hình ảnh chọn lọc, hàm súc. Bài thơ “Đồng chí” được in vào tháng 2 năm 1948 rất nổi tiếng, sau này đã được phổ nhạc cho bài hát “Tình đồng chí”đã khơi dậy những xúc động mãnh mẽ trong lòng nhiều thế hệ. Ngoài bài thơ Đồng chí được nhạc sỹ Minh Quốc phổ nhạc, một số bài thơ khác của ông cũng là nguồn cảm hứng cho các nhạc sỹ khác sáng tác các bài hát nổi tiếng như bài “Ngọn đèn đứng gác” (nhạc sỹ Hoàng Hiệp), “Bắc cầu” (nhạc sỹ Quốc Anh), “Có những ngày vui sao” (nhạc sỹ Huy Du). Ông mất ngày 27 tháng 11 năm 2007 tại Bệnh viện Hữu Nghị – Hà Nội. Một số trích đoạn nhiều người ưa thích: Nhớ đêm ra đi, đất trời bốc lửa /Cả kinh thành nghi ngút cháy sau lưng / Những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng /Hồn mười phương phất phơ cờ đỏ thắm/ Rách tả tơi rồi đôi giày vạn dặm/ Bụi trường chinh phai bạc áo hào hoa… (Ngày về); Áo anh rách vai / Quần tôi có vài mảnh vá / Miệng cười buốt giá/ Chân không giày/ Thương nhau tay nắm lấy bàn tay… (Đồng chí).; Bài chọn lọc ngày 15 tháng 12: Linh Giang; Linh Giang Đình Minh Lệ; Thăm nhà cũ của Darwin; Sự chậm rãi minh triết; Đất mẹ vùng di sản; Đi thuyền trên Trường Giang; Chiếu đất ở Thái An; Lên đỉnh Thiên Môn Sơn; Lên Thái Sơn hướng Phật; Qua Trường Giang nhớ Mekong; Chọn giống sắn Việt Nam; Thông tin tại http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlong và https://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-15-thang-12/;
LINH GIANG Hoàng Kim Hãy học thái độ của nước mà đi như dòng sông
Nhà mình gần ngã ba sông
Rào Nan, chợ Mới, nguồn Son, Quảng Bình
Linh Giang sông núi hữu tình
Nơi đây cha mẹ sinh thành ra con
“Chèo thuyền cho khuất bến Son
Để con khỏi chộ nước non thêm buồn “
Câu ru quặn thắt đời con
Mẹ cha mất sớm, con còn trẻ thơ
Ra đi từ bấy đến chừ
Lặn trong sương khói bến đò sông quê
Ngày xuân giữ vẹn lời thề
Non sông mở cõi, tụ về trời Nam.
HOME RIVER
Learning the attitude of water that goes like the river
My house is near a confluence
Rao Nan, Cho Moi, Nguon Son, Quang Binh
Linh River charming Mountain River
The place where I was born.
“Rowing far away the SON wharf
Not to see our village that makes me sadder “
Lullaby makes me heart- rending
My parents died early when I was a baby.
Leaving our village since then
Diving in smog from the wharf of our river
Keeping full oath in Spring days
When the country unify, we’ll live together in the South
English translation
by NgocphuongNam
LINH RIVER
Hoang Kim Learning the attitude of water that goes like the river
By confluence sited is my home
Rao Nam, Cho Moi, Nguon Son, Quang Binh
Linh river of charming
That is place releasing a person
Rowing out of the Son
Let is the upset not involved in my mind
Such a sad lunlaby
Parents is dead left five child barren
Leaving home since then
Smog of wharf is driven my life
When Vietnam unified
The South chosen the homeland to live.
English translation
by Vu Manh Hai
TỰ NGUYỆN
Tình Yêu Cuộc Sống. Bạn tôi thích hát bài “Tự nguyện” của Trương Quốc Khánh với lời Việt thật ngọt ngào và lời Anh tự dịch khá sát nghĩa. Tôi đặc biệt thích thú bài hát song ngữ này vì những điều cảm động sâu xa trong lời thơ hay đến mức nao lòng và vì sự dễ nhớ để học cách chia động từ tiếng Anh: “Nếu là chim, tôi sẽ là loài bồ câu trắng / Nếu là hoa, tôi sẽ là một đóa hướng dương/ Nếu là mây, tôi sẽ là một vầng mây ấm/ Là người, tôi sẽ chết cho quê hương” (If a bird, I would be a white pigeon/ If a flower, I would be a sun flower/ If a cloud, I wold be a warm cloud/ A man, I will die for our country …). Trong nguyên bản, lời thơ viết về sự hi sinh trong chiến đấu “Là người, xin một lần khi ngã xuống / Nhìn anh em đứng lên phất cao ngọn cờ.” nay trong thời bình, chúng ta ước khi mình nằm xuống cũng là lúc trỗi dây của một thế hệ mới “Là người, xin một lần khi nằm xuống/ cùng anh em đứng lên phất cao ngọn cờ.” (Being a man, before we die/ We’ll stand up with you raise highly the flag).
TỰ NGUYỆN
Nhạc và lời: Trương Quốc Khánh
Nếu là chim, tôi sẽ là loài bồ câu trắng
Nếu là hoa, tôi sẽ là một đóa hướng dương
Nếu là mây, tôi sẽ là một vầng mây ấm
Là người, tôi sẽ chết cho quê hương
Là chim, tôi sẽ cất cao đôi cánh mềm
Từ Nam ra ngoài Bắc báo tin nối liền
Là hoa, tôi nở tình yêu ban sớm
Cùng muôn trái tim ngất say hoà bình
Là mây, theo làn gió tung bay khắp trời
Nghìn xưa oai hùng đó tôi xin tiếp lời
Là người, xin một lần khi ngã xuống
Nhìn anh em đứng lên phất cao ngọn cờ.
Voluntariness
If a bird, I would be a white pigeon.
If a flower, I would be a sun flower.
If a cloud, I wold be a warm cloud.
A man, I will die for our country.
Being a bird, I would raise the soft wings
From South to the North, all news are joined.
Being a flower, I effloresce the early love
With all the hearts are enthralled the peace.
Being a cloud, with the wind I fly all the sky.
There’s been a superb millenary, today we’ll be catenary.
Being a man, before we die
We’ll stand up with you raise highly the flag.
Góp ý chỉnh sửa của Nguyễn Thị Bích Nga.
Anh Hoang Kim thân mến,
Đây là bản chuyển ngữ tiếng Anh mà Bích Nga có sửa đổi vài chỗ (dựa theo bản chuyển ngữ tiếng Anh “gốc” của cô Tuyết Hợp Ngốc PhươngNam) để chúng ta cùng HÁT với nhau nghen.Bích Nga đã hát thử nhiều lần rồi, hì hì, thấy cũng tạm được,
THE VOLUNTEER
If a bird, I would be a white pigeon.
If a flower, I would be a sun-flower.
If a cloud, I would be a whole warm cloud
A human, I will die for my country.
A bird, I would rise high my soft wings
From South to the North, I give good news.
A flower, I blossom the early love
With all the hearts enthralled by the peace.
A cloud, I would fly to all the skyT
To follow our heroic history
A human, just once before I die
With my brothers, standing, raising the flag
.
(*) Cám ơn anh Bu Lu Khin đã viết “Linh” một câu chuyện xúc động, đó cũng là (tương tự là) câu chuyện Linh Giang dòng sông quê hương trên đây. Cám ơn Ngốc Phương Nam, Vumanh Hai đã chuyển thể bài thơ này sang tiếng Anh.từ 12 tháng 6 năm 2011 và Nguyễn Thị Bích Nga cũng tương tự vậy đã chuyển thể bài hát “Tự Nguyện” của Trương Quốc Khánh sang tiếng Anh và Lâm Cúc cùng anh Từ Vũ đã chuyển tải tài liệu ‘vượt núi cao’ sang tiếng Việt, nuôi dưỡng ước mơ. Ngày này, thời điểm này trong ký ức, nhóm Cây Lương thực chúng tôi có Trần Ngọc Ngoạn, Hoàng Kim, Nguyễn Xuân Kỳ, Trần Văn Mạnh, Hoàng Long, Nguyễn Bạch Mai, Nguyễn Thị Trúc Mai … và nhiều bạn khác đã tự nguyện dấn thân vào cuộc chiến đấu mới
“Trong lòng ta có một dòng sông quê hương thao thiết chảy.” Hoàng Kim
ĐÌNH MINH LỆ Hoàng Kim
Đất nặng ân tình đất nhớ thương
Ta làm hoa đất của quê hương
Để mai mưa nắng con đi học
Lưu dấu chân trần với nước non.
THĂM NHÀ CŨ CỦA DARWIN Hoàng Kim
Đôi mắt Darwin soi thấu nguồn gốc các loài. Thăm nhà cũ của Darwin, tìm đến tư duy mạch lạc của một trí tuệ lớn để vận dụng soi tỏ “Niên biểu lịch sử Việt Nam“, ” 500 năm Nông nghiệp Việt Nam”, “90 năm Nông nghiệp miền Nam” nhằm tìm thấy trong sự rối loạn và góc khuất lịch sử dòng chủ lưu tiến hóa, chấn hưng văn hóa, giáo dục và nông nghiệp Việt.
Tôi may mắn được “Thăm nhà cũ của Darwin” , Down House, là ngôi nhà cũ của nhà tự nhiên học người Anh Charles Darwin và gia đình ông. Darwin tại đó đã làm việc về thuyết tiến hóa bởi chọn lọc tự nhiên và nhiều thí nghiệm khác. “Nguồn gốc các loài” của Charles Darwin (12 tháng 2, 1809 – 9 tháng 4, 1882), xuất bản lần đầu tiên ngày 24 tháng 11, năm 1859 là ấn phẩm khoa học tiêu biểu và là tác phẩm nòng cốt của ngành sinh học tiến hóa. chứng minh rằng mọi loài đều tiến hóa theo thời gian từ những tổ tiên chung qua quá trình chọn lọc tự nhiên. Triết lý của Charles Darwin thật sâu sắc. “Mọi loài đều tiến hóa theo thời gian từ những tổ tiên chung qua quá trình chọn lọc tự nhiên“.
Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam 1925-2015
Đó là tóm tắt nông nghiệp 90 năm khá thú vị: Tác giả Bùi Chí Bửu, Trần Thị Kim Nương, Nguyễn Hồng Vi, Nguyễn Đỗ Hoàng Việt, Nguyễn Hiếu Hạnh, Đinh Thị Lam, Trần Triệu Quân, Võ Minh Thư, Đỗ Thị Nhạn, Lê Thị Ngọc, Trần Duy Việt Cường, Nguyễn Đức Hoàng Lan, Trần Thị Kim Cúc, Nguyễn Thị Kim Thoa, Đinh Thị Hương, Trần Văn Tưởng, Phan Trung Hiếu, Hồ Thị Minh Hợp, Đào Huy Đức* (*Chủ biên chịu trách nhiệm tổng hợp).
“Khoa học nông nghiệp là một tổng thể của kiến thức thực nghiệm, lý thuyết và thực tế về nông nghiệp, nông dân, nông thôn do các nhà nghiên cứu phát triển với các phương pháp khoa học, trong đó đặc biệt là sự quan sát, giải thích, và dự báo những hiện tượng của nông nghiệp. Việt Nam là đất nước “dĩ nông vi bản”, do đó nông nghiệp của chúng ta gắn liền với lịch sử phát triển của đất nước. Viện đã không ngừng phát triển trong chặng đường lịch sử 90 năm. Viện đã cùng đồng hành với nông dân Việt Nam, người mà lịch sử Việt Nam phải tri ân sâu đậm. Chính họ là lực lựơng đông đảo đã làm cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân thành công; đồng thời đã đóng góp xuất sắc trong thời kỳ đổi mới, xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa, với nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, tạo nên những đột phá liên tục làm tiền đề cho công nghiệp và dịch vụ phát triển như ngày nay. Sự kiện 02 triệu người chết đói năm 1945 luôn nhắc người Việt Nam rằng, không có độc lập dân tộc, không có khoa học công nghệ, sẽ không có ổn định lương thực cho dù ruộng đất phì nhiêu của Đồng bằng Sông Cửu Long có tiềm năng vô cùng to lớn.
Lịch sử của Viện cũng là lịch sử của quan hệ hợp tác mật thiết với các tổ chức nông dân, với lãnh đạo địa phương, với các Viện nghiên cứu trực thuộc VAAS và các Trường, Viện khác, với các tổ chức quốc tế. Khoa học nông nghiệp không thể đứng riêng một mình. Khoa học nông nghiệp phải xem xét cẩn thận các yếu tố kinh tế, môi trường, chính trị; trong đó có thị trường, năng lượng sinh học, thương mại hóa toàn cầu. Đặc biệt, nông nghiệp phải nhấn mạnh đến chất lượng nông sản và an toàn lương thực, thực phẩm, khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới.
Lịch sử đang đặt ra cho Viện những thách thức mới trong điều kiện Việt Nam hội nhập quốc tế sâu rộng, hàng rào thuế quan được dỡ bỏ, thay vào đó là rào cản kỹ thuật đối với nông sản trên thương trường quốc tế. Thách thức do bùng nổ dân số, thiếu đất nông nghiệp, thiếu tài nguyên nước ngọt, biến đổi khí hậu với diễn biến thời tiết cực đoan, thu nhập nông dân còn thấp là những nhiệm vụ vô cùng khó khăn, nhưng rất vinh quang của Viện, đang mong đợi sự năng động và thông minh của thế hệ trẻ.”
Lịch sử của Viện được chia là hai phân kỳ : Từ ngày thành lập Viện 1925 đến năm 1975, và từ năm 1975 đến năm 2018.
Từ năm 1975 đến năm 2018 Viện trãi qua 5 đời Viện trưởng GS Trần Thế Thông, GS Phạm Văn Biên, GS Bùi Chí Bửu, TS Ngô Quang Vinh và TS Trần Thanh Hùng. Hiện tại TS. Trần Thanh Hùng là Viện trưởng đương nhiệm.
Viện trưởng TS. Trần Thanh Hùng (giữa) nhận hoa chúc mừng của các đồng nghiệp
Viện từ năm 1975 đến năm 2015 là một Viện nông nghiệp lớn đa ngành, duy nhất trong lĩnh vực nông nghiệp ở Việt Nam. Đó là tầm nhìn phù hợp điều kiện thực tế thời đó. Viện có một đội ngũ cán bộ khoa học nông nghiệp hùng hậu, có trình độ chuyên môn cao, thế hệ đầu tiên của giai đoạn hai mươi lăm năm đầu tiên sau ngày Việt Nam thống nhất (1975 – 2000) gồm các chuyên gia như: Giáo sư Trần Thế Thông, Giáo sư Vũ Công Hậu, Giáo sư Lê Văn Căn, Giáo sư Mai Văn Quyền, Giáo sư Trương Công Tín, Giáo sư Dương Hồng Hiên, Giáo sư Phạm Văn Biên, … là những đầu đàn trong khoa học nông nghiệp.
Viện có sự cộng tác của nhiều chuyên gia lỗi lạc quốc tế đã đến làm việc ở Viện như: GSTS. Norman Bourlaug (CIMMYT), GS.TS. Kazuo Kawano, TS. Reinhardt Howeler, GS.TS. Hernan Ceballos, TS. Rod Lefroy, (CIAT), GS.TS. Peter Vanderzaag, TS. Enrique Chujoy, TS. Il Gin Mok, TS. Zhang Dapheng (CIP), GS.TS. Wiliam Dar, TS. Gowda (ICRISAT), GSTS. V. R. Carangal (IRRI), TS. Magdalena Buresova , GSTS. Pavel Popisil (Tiệp), VIR, AVRDC, …
Thật đáng tự hào về một khối trí tuệ lớn những cánh chim đầu đàn nêu trên. Chúng ta còn nợ những chuyên khảo sâu các đúc kết trầm tích lịch sử, văn hóa, sinh học của vùng đất này để đáp ứng tốt hơn cho các vấn đề nông dân, nông nghiệp, nông thôn, đời sống và an sinh xã hội. để vận dụng soi tỏ “Niên biểu lịch sử Việt Nam“, ” 500 năm Nông nghiệp Việt Nam”, “90 năm Nông nghiệp miền Nam” nhằm tìm thấy trong góc khuất lịch sử dòng chủ lưu tiến hóa của văn hóa, giáo dục , nông nghiệp Việt.
Tôi lưu lại một số bức ảnh tư liệu kỷ niệm một thời của tôi với những sự kiện chính không quên.
Năm tháng đi qua chỉ tình yêu còn lại.
Hoàng Kim
GS Trần Thế Thông nay đã 93 tuổi, trò chuyện về Viện
GS Trần Thế Thông, GS Vũ Công Hậu làm việc cùng chuyên gia Viện Vavilop Liên Xô.
GS.Vũ Công Hậu và chuyên gia Liên Xô chương trình thu thập bảo tồn tài nguyên cây trồng
Mô hình trồng xen lạc, đậu xanh, đậu nành, đậu rồng với ngô lai, sắn có hiệu quả cao ở vùng Đông Nam Bộ và Duyên hải miền Trung. TS. Hoàng Kim đang báo cáo kết quả nghiên cứu và phát triển mô hình trồng xen ngô đậu với bộ trưởng Nguyễn Ngọc Trìu.
GS Mai Văn Quyền hướng dẫn chuyên gia IRRI và chuyên gia Viện Lúa ĐBSCL thăm mô hình trồng xen ngô đậu trong hệ thống cây trồng vùng Đông Nam Bộ.
Những người bạn Sắn Việt Nam và Những người bạn lớn của nông dân trồng sắn châu Á
Viện trưởng GS. Phạm Văn Biên với chuyên gia CIAT và các lãnh đạo Mạng lưới Sắn châu Á, châu Mỹ La tinh tại Hội thảo Sắn châu Á tổ chức tại TP. Hồ Chí Minh năm 2000
Viện trưởng GS. Phạm Văn Biên hướng dẫn Bộ trưởng Lê Huy Ngọ thăm các giống điều ghép PN1 và các giống điều mới chọn tạo tại Trung tâm Hưng Lộc, Đồng Nai
Viện Trưởng GS. Bùi Chí Bửu hướng dẫn Tổng Giám đốc CIAT thăm các giống sắn mới.
Quyền Viện Trưởng TS. Ngô Quang Vình cùng các chuyên gia CIAT
CHÀO NGÀY MỚI 15 THÁNG 12 Hoàng Kim CNM365Linh Giang; Linh Giang Đình Minh Lệ; Thăm nhà cũ của Darwin; Sự chậm rãi minh triết; Đất mẹ vùng di sản; Đi thuyền trên Trường Giang; Chiếu đất ở Thái An; Lên đỉnh Thiên Môn Sơn; Lên Thái Sơn hướng Phật; Qua Trường Giang nhớ Mekong; Chọn giống sắn Việt Nam; Ngày 15 tháng 12 năm 1939, bộ phim “Cuốn theo chiều gió” lần đầu tiên được công chiếu tại nhà hát Loew’s Grand ở Atlanta, Georgia, Mỹ. “Cuốn theo chiều gió” (Gone With the Wind) là bộ phim Mỹ thuộc thể loại phim chính kịch lãng mạn sử thi phỏng theo kiệt tác tiểu thuyết cùng tên của Margaret Mitchell, xuất bản năm 1936. Phim được sản xuất bởi David O.Selznick, đạo diễn Victor Fleming và kịch bản gốc Sidney Howard. Bộ phim được quay ở miền Nam nước Mỹ trong thời gian xảy ra nội chiến. Các diễn viên chính bao gồm Clark Gable, Vivien Leigh, Leslie Howard, Olivia de Havilland và Hattie McDaniel. Nội dung của phim xoay quanh cuộc nội chiến Mỹ và thời kì tái thiết nhìn từ quan điểm của một người Mỹ da trắng ở miền Nam. Ra mắt năm 1939, Gone With the Wind đã chứng tỏ sức sống mãnh liệt, lâu bền trong lòng khán giả khi dẫn đầu danh sách 100 bộ phim thành công nhất mọi thời đại về doanh thu tại Mỹ. Đây là kết quả từ cuộc thăm dò của nhật báo điện ảnh Screen Digest. Bộ phim đoạt 9 giải Oscar và vừa được bình chọn là bộ phim có nhiều khán giả nhất mọi thời đại trong lịch sử chiếu bóng Anh Quốc. Kể từ khi được phát hành năm 1939, phim “Cuốn theo chiều gió” đã mang lại 3.4 tỷ đô la (đứng sau phim Titanic đạt 4 tỷ đô la doanh thu phòng vé, tính đến thời điểm này). Với độ dài ba giờ bốn mươi phút và bốn phút nghỉ giữa các phần, “Cuốn theo chiều gió” là bộ phim Mỹ có lồng tiếng dài nhất từng được thực hiện cho tới nay. Ngày 15 tháng 12 năm 1966 là ngày mất của Walt Disney, họa sĩ phim hoạt hình, đạo diễn, nhà kịch bản, nhà sản xuất người Mỹ. Walter Elias Disney sinh ngày 5 tháng 12 năm 1901 mất ngày 15 tháng 12 năm 1966 . Ông lớn lên tại trang trại ở Macerline, Missouri. Ngay từ nhỏ, Disney đã có thiên hướng kinh doanh vượt trội với việc bán những bức phác họa cho bạn bè cùng lớp tiểu học. Walt Disney nhận ra rằng những nét vẽ nguệch ngoạc ấy lại là ý tưởng kinh doanh tuyệt vời sau việc đổi những bức tranh biếm họa ấy với những lần cắt tóc miễn phí. Disney quan tâm sâu sắc tới hội họa và điện ảnh thời trung học đã tham gia lớp học buổi tối tại Trường Nghệ thuật Chicago. Disney dấn thân vào con đường họa sĩ hoạt hình ở Kansas. Năm 1920, khi đang làm việc tại xưởng quảng cáo phim Kansas City Film Ads, Disney nghĩ ra những nhân vật hoạt hình đầu tiên và năm 1922 lập công ty đầu đời Lau-O-grams. Chẳng bao lâu sau công ty gặp khó khăn, Disney quyết định rời Thành phố Kansas đến Hollywood lập nghiệp chỉ với tinh thần hăng hái của tuổi trẻ, bộ đồ vẽ và những ý tưởng hoạt hình trong đầu. Lúc đi ông nói:”Tôi sẽ làm đạo diễn phim Hollywood! “. Song ước mơ của Disney không trở thành hiện thực vì tìm chỗ đứng trong làng điện ảnh này không hề dễ dàng. Thế rồi một gara để xe của bác Robert cùng với người anh trai là Ron, Walt Disney thành lập xưởng phim “Disney Brothers Studios” với việc vay Ron 200 USD, người chú 500 USD và nhờ bố mẹ thế chấp ngôi nhà để có 2.500 USD nữa. Sau một thời gian dài, Disney thuê trụ sở ở Hollywood và bán được loạt phim hoạt hình đầu tiên dựa trên nhân vật cổ tích là Alice, loạt phim Alice Comedies. Ngày nay, tên tuổi ông Walt Disney là thương hiệu của cả một tập đoàn toàn cầu về phim ảnh và các khu vui chơi giải trí. Công chúng, đặc biệt là các em nhỏ rất thích những con vật nhỏ bé nhưng lanh lợi. Walt Disney nghĩ rằng ông đã mắc nợ Charlie Chaplin một ý tưởng. Ông sáng tạo ra chú chuột nhắt bé xíu Mickey khi nghĩ tới lòng khát khao như Chaplin, một anh chàng nhỏ bé ‘ đã cố gắng làm điều mà anh ta có thể làm một cách tốt nhất”. Bí quyết khiến Chuột Mickey nổi tiếng là như thế là do chú ta “rất người”. Năm 1928, Chuột Mickey ra đời và nhanh chóng trở thành nhân vật yêu thích của không chỉ mọi gia đình Mỹ, mà còn cho trẻ em khắp toàn cầu, tượng trưng cho tinh thần vui vẻ ngay cả khi trong tình huống ngặt nghèo. Ngày 15 tháng 12 năm 1926 là ngày sinh Chính Hữu, nhà thơ, sĩ quan quân đội người Việt Nam Chính Hữu (15 tháng 12 năm 1926 – 27 tháng 11 năm 2007), tên thật là Trần Đình Đắc, là một nhà thơ Việt Nam, nguyên Đại tá, Phó cục trưởng cục Tuyên huấn thuộc Tổng cục chính trị, Quân đội Nhân dân Việt Nam, nguyên Phó tổng thư ký Hội Nhà văn Việt Nam. Ông được Nhà nước Việt Nam trao tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học và nghệ thuật đợt hai (năm 2000). Chính Hữu sinh tại Vinh (Nghệ An), nguyên quán tại huyện Can Lộc (nay là huyện Lộc Hà), tỉnh Hà Tĩnh. Ông học tú tài (triết học) ở Hà Nội trước cách mạng tháng Tám và gia nhập Trung đoàn Thủ Đô năm 1946, sau đó hoạt động liên tục trong quân đội suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp và kháng chiến chống Mỹ. Chính Hữu làm thơ từ năm 1947 và hầu như chỉ viết về người lính và chiến tranh. Thơ Chính Hữu không nhiều, các tác phẩm chính của ông gồm có Đầu súng trăng treo (tập thơ, Nhà xuất bản Văn học, 1966); Thơ Chính Hữu (tập thơ, Nhà xuất bản Hội nhà văn, 1997); Tuyển tập Chính Hữu (Nhà xuất bản Văn học, 1998); Trong đó, tập thơ Đầu súng trăng treo (1966) là tác phẩm chính. Thơ Chính Hữu có nhiều bài đặc sắc, cảm xúc dồn nén, ngôn ngữ và hình ảnh chọn lọc, hàm súc. Bài thơ “Đồng chí” được in vào tháng 2 năm 1948 rất nổi tiếng, sau này đã được phổ nhạc cho bài hát “Tình đồng chí”đã khơi dậy những xúc động mãnh mẽ trong lòng nhiều thế hệ. Ngoài bài thơ Đồng chí được nhạc sỹ Minh Quốc phổ nhạc, một số bài thơ khác của ông cũng là nguồn cảm hứng cho các nhạc sỹ khác sáng tác các bài hát nổi tiếng như bài “Ngọn đèn đứng gác” (nhạc sỹ Hoàng Hiệp), “Bắc cầu” (nhạc sỹ Quốc Anh), “Có những ngày vui sao” (nhạc sỹ Huy Du). Ông mất ngày 27 tháng 11 năm 2007 tại Bệnh viện Hữu Nghị – Hà Nội. Một số trích đoạn nhiều người ưa thích: Nhớ đêm ra đi, đất trời bốc lửa /Cả kinh thành nghi ngút cháy sau lưng / Những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng /Hồn mười phương phất phơ cờ đỏ thắm/ Rách tả tơi rồi đôi giày vạn dặm/ Bụi trường chinh phai bạc áo hào hoa… (Ngày về); Áo anh rách vai / Quần tôi có vài mảnh vá / Miệng cười buốt giá/ Chân không giày/ Thương nhau tay nắm lấy bàn tay… (Đồng chí).; Bài chọn lọc ngày 15 tháng 12: Linh Giang; Linh Giang Đình Minh Lệ; Thăm nhà cũ của Darwin; Sự chậm rãi minh triết; Đất mẹ vùng di sản; Đi thuyền trên Trường Giang; Chiếu đất ở Thái An; Lên đỉnh Thiên Môn Sơn; Lên Thái Sơn hướng Phật; Qua Trường Giang nhớ Mekong; Chọn giống sắn Việt Nam; Thông tin tại http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlong và https://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-15-thang-12/;
LINH GIANG Hoàng Kim Hãy học thái độ của nước mà đi như dòng sông
Nhà mình gần ngã ba sông
Rào Nan, chợ Mới, nguồn Son, Quảng Bình
Linh Giang sông núi hữu tình
Nơi đây cha mẹ sinh thành ra con
“Chèo thuyền cho khuất bến Son
Để con khỏi chộ nước non thêm buồn “
Câu ru quặn thắt đời con
Mẹ cha mất sớm, con còn trẻ thơ
Ra đi từ bấy đến chừ
Lặn trong sương khói bến đò sông quê
Ngày xuân giữ vẹn lời thề
Non sông mở cõi, tụ về trời Nam.
HOME RIVER
Learning the attitude of water that goes like the river
My house is near a confluence
Rao Nan, Cho Moi, Nguon Son, Quang Binh
Linh River charming Mountain River
The place where I was born.
“Rowing far away the SON wharf
Not to see our village that makes me sadder “
Lullaby makes me heart- rending
My parents died early when I was a baby.
Leaving our village since then
Diving in smog from the wharf of our river
Keeping full oath in Spring days
When the country unify, we’ll live together in the South
English translation
by NgocphuongNam
LINH RIVER
Hoang Kim Learning the attitude of water that goes like the river
By confluence sited is my home
Rao Nam, Cho Moi, Nguon Son, Quang Binh
Linh river of charming
That is place releasing a person
Rowing out of the Son
Let is the upset not involved in my mind
Such a sad lunlaby
Parents is dead left five child barren
Leaving home since then
Smog of wharf is driven my life
When Vietnam unified
The South chosen the homeland to live.
English translation
by Vu Manh Hai
TỰ NGUYỆN
Tình Yêu Cuộc Sống. Bạn tôi thích hát bài “Tự nguyện” của Trương Quốc Khánh với lời Việt thật ngọt ngào và lời Anh tự dịch khá sát nghĩa. Tôi đặc biệt thích thú bài hát song ngữ này vì những điều cảm động sâu xa trong lời thơ hay đến mức nao lòng và vì sự dễ nhớ để học cách chia động từ tiếng Anh: “Nếu là chim, tôi sẽ là loài bồ câu trắng / Nếu là hoa, tôi sẽ là một đóa hướng dương/ Nếu là mây, tôi sẽ là một vầng mây ấm/ Là người, tôi sẽ chết cho quê hương” (If a bird, I would be a white pigeon/ If a flower, I would be a sun flower/ If a cloud, I wold be a warm cloud/ A man, I will die for our country …). Trong nguyên bản, lời thơ viết về sự hi sinh trong chiến đấu “Là người, xin một lần khi ngã xuống / Nhìn anh em đứng lên phất cao ngọn cờ.” nay trong thời bình, chúng ta ước khi mình nằm xuống cũng là lúc trỗi dây của một thế hệ mới “Là người, xin một lần khi nằm xuống/ cùng anh em đứng lên phất cao ngọn cờ.” (Being a man, before we die/ We’ll stand up with you raise highly the flag).
TỰ NGUYỆN
Nhạc và lời: Trương Quốc Khánh
Nếu là chim, tôi sẽ là loài bồ câu trắng
Nếu là hoa, tôi sẽ là một đóa hướng dương
Nếu là mây, tôi sẽ là một vầng mây ấm
Là người, tôi sẽ chết cho quê hương
Là chim, tôi sẽ cất cao đôi cánh mềm
Từ Nam ra ngoài Bắc báo tin nối liền
Là hoa, tôi nở tình yêu ban sớm
Cùng muôn trái tim ngất say hoà bình
Là mây, theo làn gió tung bay khắp trời
Nghìn xưa oai hùng đó tôi xin tiếp lời
Là người, xin một lần khi ngã xuống
Nhìn anh em đứng lên phất cao ngọn cờ.
Voluntariness
If a bird, I would be a white pigeon.
If a flower, I would be a sun flower.
If a cloud, I wold be a warm cloud.
A man, I will die for our country.
Being a bird, I would raise the soft wings
From South to the North, all news are joined.
Being a flower, I effloresce the early love
With all the hearts are enthralled the peace.
Being a cloud, with the wind I fly all the sky.
There’s been a superb millenary, today we’ll be catenary.
Being a man, before we die
We’ll stand up with you raise highly the flag.
Góp ý chỉnh sửa của Nguyễn Thị Bích Nga.
Anh Hoang Kim thân mến,
Đây là bản chuyển ngữ tiếng Anh mà Bích Nga có sửa đổi vài chỗ (dựa theo bản chuyển ngữ tiếng Anh “gốc” của cô Tuyết Hợp Ngốc PhươngNam) để chúng ta cùng HÁT với nhau nghen.Bích Nga đã hát thử nhiều lần rồi, hì hì, thấy cũng tạm được,
THE VOLUNTEER
If a bird, I would be a white pigeon.
If a flower, I would be a sun-flower.
If a cloud, I would be a whole warm cloud
A human, I will die for my country.
A bird, I would rise high my soft wings
From South to the North, I give good news.
A flower, I blossom the early love
With all the hearts enthralled by the peace.
A cloud, I would fly to all the skyT
To follow our heroic history
A human, just once before I die
With my brothers, standing, raising the flag
.
(*) Cám ơn anh Bu Lu Khin đã viết “Linh” một câu chuyện xúc động, đó cũng là (tương tự là) câu chuyện Linh Giang dòng sông quê hương trên đây. Cám ơn Ngốc Phương Nam, Vumanh Hai đã chuyển thể bài thơ này sang tiếng Anh.từ 12 tháng 6 năm 2011 và Nguyễn Thị Bích Nga cũng tương tự vậy đã chuyển thể bài hát “Tự Nguyện” của Trương Quốc Khánh sang tiếng Anh và Lâm Cúc cùng anh Từ Vũ đã chuyển tải tài liệu ‘vượt núi cao’ sang tiếng Việt, nuôi dưỡng ước mơ. Ngày này, thời điểm này trong ký ức, nhóm Cây Lương thực chúng tôi có Trần Ngọc Ngoạn, Hoàng Kim, Nguyễn Xuân Kỳ, Trần Văn Mạnh, Hoàng Long, Nguyễn Bạch Mai, Nguyễn Thị Trúc Mai … và nhiều bạn khác đã tự nguyện dấn thân vào cuộc chiến đấu mới
“Trong lòng ta có một dòng sông quê hương thao thiết chảy.” Hoàng Kim
ĐÌNH MINH LỆ Hoàng Kim
Đất nặng ân tình đất nhớ thương
Ta làm hoa đất của quê hương
Để mai mưa nắng con đi học
Lưu dấu chân trần với nước non.
THĂM NHÀ CŨ CỦA DARWIN Hoàng Kim
Đôi mắt Darwin soi thấu nguồn gốc các loài. Thăm nhà cũ của Darwin, tìm đến tư duy mạch lạc của một trí tuệ lớn để vận dụng soi tỏ “Niên biểu lịch sử Việt Nam“, ” 500 năm Nông nghiệp Việt Nam”, “90 năm Nông nghiệp miền Nam” nhằm tìm thấy trong sự rối loạn và góc khuất lịch sử dòng chủ lưu tiến hóa, chấn hưng văn hóa, giáo dục và nông nghiệp Việt.
Tôi may mắn được “Thăm nhà cũ của Darwin” , Down House, là ngôi nhà cũ của nhà tự nhiên học người Anh Charles Darwin và gia đình ông. Darwin tại đó đã làm việc về thuyết tiến hóa bởi chọn lọc tự nhiên và nhiều thí nghiệm khác. “Nguồn gốc các loài” của Charles Darwin (12 tháng 2, 1809 – 9 tháng 4, 1882), xuất bản lần đầu tiên ngày 24 tháng 11, năm 1859 là ấn phẩm khoa học tiêu biểu và là tác phẩm nòng cốt của ngành sinh học tiến hóa. chứng minh rằng mọi loài đều tiến hóa theo thời gian từ những tổ tiên chung qua quá trình chọn lọc tự nhiên. Triết lý của Charles Darwin thật sâu sắc. “Mọi loài đều tiến hóa theo thời gian từ những tổ tiên chung qua quá trình chọn lọc tự nhiên“.
Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam 1925-2015
Đó là tóm tắt nông nghiệp 90 năm khá thú vị: Tác giả Bùi Chí Bửu, Trần Thị Kim Nương, Nguyễn Hồng Vi, Nguyễn Đỗ Hoàng Việt, Nguyễn Hiếu Hạnh, Đinh Thị Lam, Trần Triệu Quân, Võ Minh Thư, Đỗ Thị Nhạn, Lê Thị Ngọc, Trần Duy Việt Cường, Nguyễn Đức Hoàng Lan, Trần Thị Kim Cúc, Nguyễn Thị Kim Thoa, Đinh Thị Hương, Trần Văn Tưởng, Phan Trung Hiếu, Hồ Thị Minh Hợp, Đào Huy Đức* (*Chủ biên chịu trách nhiệm tổng hợp).
“Khoa học nông nghiệp là một tổng thể của kiến thức thực nghiệm, lý thuyết và thực tế về nông nghiệp, nông dân, nông thôn do các nhà nghiên cứu phát triển với các phương pháp khoa học, trong đó đặc biệt là sự quan sát, giải thích, và dự báo những hiện tượng của nông nghiệp. Việt Nam là đất nước “dĩ nông vi bản”, do đó nông nghiệp của chúng ta gắn liền với lịch sử phát triển của đất nước. Viện đã không ngừng phát triển trong chặng đường lịch sử 90 năm. Viện đã cùng đồng hành với nông dân Việt Nam, người mà lịch sử Việt Nam phải tri ân sâu đậm. Chính họ là lực lựơng đông đảo đã làm cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân thành công; đồng thời đã đóng góp xuất sắc trong thời kỳ đổi mới, xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa, với nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, tạo nên những đột phá liên tục làm tiền đề cho công nghiệp và dịch vụ phát triển như ngày nay. Sự kiện 02 triệu người chết đói năm 1945 luôn nhắc người Việt Nam rằng, không có độc lập dân tộc, không có khoa học công nghệ, sẽ không có ổn định lương thực cho dù ruộng đất phì nhiêu của Đồng bằng Sông Cửu Long có tiềm năng vô cùng to lớn.
Lịch sử của Viện cũng là lịch sử của quan hệ hợp tác mật thiết với các tổ chức nông dân, với lãnh đạo địa phương, với các Viện nghiên cứu trực thuộc VAAS và các Trường, Viện khác, với các tổ chức quốc tế. Khoa học nông nghiệp không thể đứng riêng một mình. Khoa học nông nghiệp phải xem xét cẩn thận các yếu tố kinh tế, môi trường, chính trị; trong đó có thị trường, năng lượng sinh học, thương mại hóa toàn cầu. Đặc biệt, nông nghiệp phải nhấn mạnh đến chất lượng nông sản và an toàn lương thực, thực phẩm, khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới.
Lịch sử đang đặt ra cho Viện những thách thức mới trong điều kiện Việt Nam hội nhập quốc tế sâu rộng, hàng rào thuế quan được dỡ bỏ, thay vào đó là rào cản kỹ thuật đối với nông sản trên thương trường quốc tế. Thách thức do bùng nổ dân số, thiếu đất nông nghiệp, thiếu tài nguyên nước ngọt, biến đổi khí hậu với diễn biến thời tiết cực đoan, thu nhập nông dân còn thấp là những nhiệm vụ vô cùng khó khăn, nhưng rất vinh quang của Viện, đang mong đợi sự năng động và thông minh của thế hệ trẻ.”
Lịch sử của Viện được chia là hai phân kỳ : Từ ngày thành lập Viện 1925 đến năm 1975, và từ năm 1975 đến năm 2018.
Từ năm 1975 đến năm 2018 Viện trãi qua 5 đời Viện trưởng GS Trần Thế Thông, GS Phạm Văn Biên, GS Bùi Chí Bửu, TS Ngô Quang Vinh và TS Trần Thanh Hùng. Hiện tại TS. Trần Thanh Hùng là Viện trưởng đương nhiệm.
Viện trưởng TS. Trần Thanh Hùng (giữa) nhận hoa chúc mừng của các đồng nghiệp
Viện từ năm 1975 đến năm 2015 là một Viện nông nghiệp lớn đa ngành, duy nhất trong lĩnh vực nông nghiệp ở Việt Nam. Đó là tầm nhìn phù hợp điều kiện thực tế thời đó. Viện có một đội ngũ cán bộ khoa học nông nghiệp hùng hậu, có trình độ chuyên môn cao, thế hệ đầu tiên của giai đoạn hai mươi lăm năm đầu tiên sau ngày Việt Nam thống nhất (1975 – 2000) gồm các chuyên gia như: Giáo sư Trần Thế Thông, Giáo sư Vũ Công Hậu, Giáo sư Lê Văn Căn, Giáo sư Mai Văn Quyền, Giáo sư Trương Công Tín, Giáo sư Dương Hồng Hiên, Giáo sư Phạm Văn Biên, … là những đầu đàn trong khoa học nông nghiệp.
Viện có sự cộng tác của nhiều chuyên gia lỗi lạc quốc tế đã đến làm việc ở Viện như: GSTS. Norman Bourlaug (CIMMYT), GS.TS. Kazuo Kawano, TS. Reinhardt Howeler, GS.TS. Hernan Ceballos, TS. Rod Lefroy, (CIAT), GS.TS. Peter Vanderzaag, TS. Enrique Chujoy, TS. Il Gin Mok, TS. Zhang Dapheng (CIP), GS.TS. Wiliam Dar, TS. Gowda (ICRISAT), GSTS. V. R. Carangal (IRRI), TS. Magdalena Buresova , GSTS. Pavel Popisil (Tiệp), VIR, AVRDC, …
Thật đáng tự hào về một khối trí tuệ lớn những cánh chim đầu đàn nêu trên. Chúng ta còn nợ những chuyên khảo sâu các đúc kết trầm tích lịch sử, văn hóa, sinh học của vùng đất này để đáp ứng tốt hơn cho các vấn đề nông dân, nông nghiệp, nông thôn, đời sống và an sinh xã hội. để vận dụng soi tỏ “Niên biểu lịch sử Việt Nam“, ” 500 năm Nông nghiệp Việt Nam”, “90 năm Nông nghiệp miền Nam” nhằm tìm thấy trong góc khuất lịch sử dòng chủ lưu tiến hóa của văn hóa, giáo dục , nông nghiệp Việt.
Tôi lưu lại một số bức ảnh tư liệu kỷ niệm một thời của tôi với những sự kiện chính không quên.
Năm tháng đi qua chỉ tình yêu còn lại.
Hoàng Kim
GS Trần Thế Thông nay đã 93 tuổi, trò chuyện về Viện
GS Trần Thế Thông, GS Vũ Công Hậu làm việc cùng chuyên gia Viện Vavilop Liên Xô.
GS.Vũ Công Hậu và chuyên gia Liên Xô chương trình thu thập bảo tồn tài nguyên cây trồng
Mô hình trồng xen lạc, đậu xanh, đậu nành, đậu rồng với ngô lai, sắn có hiệu quả cao ở vùng Đông Nam Bộ và Duyên hải miền Trung. TS. Hoàng Kim đang báo cáo kết quả nghiên cứu và phát triển mô hình trồng xen ngô đậu với bộ trưởng Nguyễn Ngọc Trìu.
GS Mai Văn Quyền hướng dẫn chuyên gia IRRI và chuyên gia Viện Lúa ĐBSCL thăm mô hình trồng xen ngô đậu trong hệ thống cây trồng vùng Đông Nam Bộ.
Những người bạn Sắn Việt Nam và Những người bạn lớn của nông dân trồng sắn châu Á
Viện trưởng GS. Phạm Văn Biên với chuyên gia CIAT và các lãnh đạo Mạng lưới Sắn châu Á, châu Mỹ La tinh tại Hội thảo Sắn châu Á tổ chức tại TP. Hồ Chí Minh năm 2000
Viện trưởng GS. Phạm Văn Biên hướng dẫn Bộ trưởng Lê Huy Ngọ thăm các giống điều ghép PN1 và các giống điều mới chọn tạo tại Trung tâm Hưng Lộc, Đồng Nai
Viện Trưởng GS. Bùi Chí Bửu hướng dẫn Tổng Giám đốc CIAT thăm các giống sắn mới.
Quyền Viện Trưởng TS. Ngô Quang Vình cùng các chuyên gia CIAT đánh giá các giống sắn mới (KM419 bên phải và KM140 bên trái)
SỰ CHẬM RÃI MINH TRIẾT
Hoàng Kim
Chậm rãi học cô đọng
Giản dị văn là người
Lời ngắn mà gợi nhiều
Nói ít nhưng ngân vang .
thiên hà trong vắt khuya
chuyển mùa
tự nhiên tỉnh
ta ngắm trời ngắm biển
chòm sao em
vầng sáng anh
dưới vòm trời lấp lánh
khoảnh khắc thời gian
thăm thẳm
một tầm nhìn.