Số lần xem
Đang xem 680 Toàn hệ thống 1474 Trong vòng 1 giờ qua
Trang liên kết
Tỉnh thức
giữa đêm thiêng Yên Tử
Để thấm hiểu đức Nhân Tông
Ta thành tâm đi bộ
Lên tận đỉnh chùa Đồng
Tâm sáng Ức Trai
trong tựa ngọc TÌNH YÊU CUỘC SỐNG
DẠY VÀ HỌC Để chấn hưng giáo dục Việt Nam cấp thiết phải có đội ngũ những người thầy giáo ưu tú có tâm đức thiết tha với nghề, có trình độ chuyên môn cao và có kỹ năng giảng dạy tốt. Đây là trang thông tin chuyên đề dạy và học để trao đổi và bàn luận
Norman Borlaug Lời Thầy dặn Việc chính đời người chỉ ít thôi
Chuyên tâm đừng bận chuyện trời ơi
Phúc hậu suốt đời làm việc thiện
Di sản muôn năm mãi sáng ngời.
Thiên hà trong vắt khuya
chuyển mùa
tự nhiên tỉnh
ta ngắm trời, ngắm biển
chòm sao em.
vầng sáng anh,
dưới vòm trời lấp lánh
khoảnh khắc thời gian
thăm thẳm
một tầm nhìn.
(GET UP
clear late galaxies
transfer season
natural awakening
I watch the sun, watching the sea
watching the constellations.
glow from where he
under the sparkling sky
moment of time
chasms
a vision).
SỚM XUÂN ĐI TẢO MỘ Hoàng Kim
Sớm xuân đi tảo mộ
Hoa vàng đua sắc hương
Chùm khế hoa tím ngát
Thung dung vui đời thường.
Lập Xuân tiết xuân mới
Phượng Hoàng trên cành xuân
*
Khuyên em đừng quên nhất thì nhì thục
Di sản Việt Nam học mãi không cùng
Mình học để làm hai bốn tiết khí
Mộc mạc hát vần bài học đầu tiên.
Đất cảm trời thương lòng người gắn bó
Dẫu khó vạn lần khéo liệu cũng xong
Mùa xuân tới tự tiết xuân sẽ đến
Bởi biết rằng năm tháng đó là em.
6 tháng Một bắt đầu rét nhẹ
21 tháng Một trời lạnh cắt da 4 tháng Hai ngày xuân mới đến
20 tháng Hai Thiên Địa Nhân hòa.
Đồng dao cho em khuyên emđừng tưởng
Câu chuyện mùa xuânthêm cho mồng Ba
Trải Cốc Vũ qua ngày Hạ Chí
Đại Thử rồi Sương Giáng thành hoa.
6 tháng Năm là ngày Hè đến
22 tháng Năm mưa nhỏ, vào mùa
5 tháng Sáu ngày Tua Rua mọc
21 tháng Sáu là chính giữa Hè.
7 tháng Bảy là ngày nắng nhẹ
23 tháng Bảy là tiết nóng oi
7 tháng Tám chớm thu rồi đó
23 tháng 8 trời đất mây mưa.
Qua Xử Thử đến tiết trời Bạch Lộ
Sau Mưa Ngâu đến Nắng nhạt đấy em.
Tiết Thu Phân khoảng 23 tháng 9
Đối lịch nhà nông em nhớ đừng quên.
Tiết Hàn Lộ nghĩa là trời mát mẻ
Kế tiếp theo là Sương Giáng (sương mù)
23 tháng 10 mù sa dày đặc Thuyền cỏ mượn tên nhớ chuyện Khổng Minh.
Ngày 7 tháng 11 là tiết lập đông
23 tháng 11 là ngày tiểu tuyết
8 tháng 12 là ngày đại tuyết
22 tháng 12 là chính giữa đông.
Khuyên em đừng quên nhất thì nhì thục
Di sản Việt Nam học mãi không cùng
Mình học để làm 24 tiết khí
Mộc mạc hát vần bài học đầu tiên.
Mùa vụ trồng cây, kinh nghiệm nghề nông
Xin em đừng quên điều ông bà dạy
Xuân Hạ Thu Đông hai bốn tiết khí
Khoa học thiên văn ẩn ngữ đời người.
Đất cảm trời thương, lòng người gắn bó
Dẫu khó vạn lần khéo liệu cũng xong
Mùa xuân tới tự tiết xuân sẽ đến
Bởi biết rằng năm tháng đó là em.
TẢO MAI NHỚ ĐỨC NHÂN TÔNG
Hoàng Kim
Thơ Thiền của đức Nhân Tông,
thẳm sâu kiệt tác mênh mông đất trời.
Sớm xuân nay đến với Người,
cành hoa xuân giấc mộng đời hiền nhân.
TẢO MAI Trần Nhân Tông
Ngũ nhật kinh hàn lãn xuất môn,
Đông phong tiên dĩ đáo cô côn (căn).
Ảnh hoành thuỷ diện băng sơ bạn,
Hoa áp chi đầu noãn vị phân.
Thuý vũ ca trầm sơn điếm nguyệt,
Hoạ long xuy thấp Ngọc Quan vân.
Nhất chi mê nhập cố nhân mộng,
Giác hậu bất kham trì tặng quân.
Chỉ năm ngày sợ rét lười ra khỏi cửa,
Mà gió xuân đã sớm đến với gốc cây cô đơn.
Bóng ngả trên mặt nước, băng giá bắt đầu tan,
Hoa trĩu nặng đầu cành, hơi ấm chưa định rõ.
Giọng ca Thuý vũ lắng chìm mặt trăng xóm núi.
Tiếng sáo Hoạ long ẩm ướt đám mây Ngọc Quan.
Một cành hoa lạc vào giấc mộng cố nhân,
Tỉnh dậy, không thể đem tặng anh được.
Nguồn: Thơ văn Lý Trần, NXB Khoa học xã hội, 1977
TẢO MAI
Trần Nhân Tông
(bản dịch thơ của Lê Mạnh Thát)
Ngại rét năm ngày cửa biếng ra
Gió xuân trước đã đến cây già
Bóng giăng mặt nước băng vừa vỡ
Hoa trĩu đầu cành ấm chửa pha
Xóm núi trăng chìm lời hát Việt
Ải quan mây đẫm tiếng tiêu Hồ
Một cành lạc tới giấc mơ bạn
Tỉnh dậy tặng người chẳng nỡ đưa
TẢO MAI
Trần Nhân Tông
(bản dịch thơ của dịch thơ Trần Lê Văn)
Năm ngày ngại rét, lười ra cửa.
Gốc lẻ nào ngờ đã gió xuân.
Mặt nước băng tan, cây bóng ngả,
Đầu cành hoa trĩu, ấm chưa phân.
Trăng chìm xóm núi, lời ca bổng,
Mây ướt quan hà, tiếng sáo ngân.
Lạc tới chiêm bao, hoa một nhánh,
Muốn đem tặng bạn, khó vô ngần!
TẢO MAI
Trần Nhân Tông
(bản dịch thơ của Nhất Nguyên)
Trốn rét năm ngày biếng bước ra
Gió xuân về sớm gốc cây già
Bóng ngang mặt nước băng dần vỡ
Hoa tụ đầu cành khí ấm qua
Khúc Thuý Vũ lắng chìm trăng quán núi
Điệu Hoạ Long thấm ướt Ngọc Quan mây
Một nhành hoa lạc giấc mộng chầy
Sau khi tỉnh, tặng bạn hiền…nào đâu có được !
TẢO MAI
Trần Nhân Tông
(bản dịch thơ của Nguyễn Văn Dũng)
Năm ngày sợ lạnh lười ra cửa
Gió xuân đã đến trước cây côi
Bóng ngang mặt nước băng vừa vỡ
Hoa nhú đầu cành,rét chưa rời
Thuý vũ ca chìm trăng quán núi
Rồng vẽ thổi mù Ngọc Quan mây
Một cành vào mộng cho bạn cũ
Thức dậy làm sao tặng bạn đây.
TẢO MAI
Trần Nhân Tông
(bản dịch thơ của Trương Việt Linh)
Năm ngày trốn rét biếng dời chân
Mà gốc cây già hẩy gió xuân
Hoa trĩu đầu cành hơi ấm thoảng
Bóng ngang mặt nước mảnh băng tan
Trăng chìm xóm núi lời ca vẳng
Mây đẫm biên thuỳ tiếng sáo vang
Một nhánh hoa trôi vào mộng cũ
Tỉnh ra tặng bạn khó muôn vàn.
GIẤC MƠ LÀNH YÊU THƯƠNG Hoàng Kim
nhắm mắt lại đi em
để thấy rõ giấc mơ hạnh phúc
trời thanh thản xanh
đêm nồng nàn thở
ta có nhau trong cuộc đời này
nghe hương tinh khôi đọng mật
quyến rũ em và khát khao anh
mùi ngây ngất đằm sâu nỗi nhớ
một tiếng chuông ngân
thon thả đầu ghềnh
nhắm mắt lại đi em
hạnh phúc đâu chỉ là đích đến
hạnh phúc là con đường trãi nghiệm
vỗ về, chờ đợi, nhớ thương
nhắm mắt lại đi em
trong giấc mơ của anh
có em và rừng thiêng cổ tích
có suối nước trong veo như ngọc
có vườn trúc và ngôi nhà tranh
có một đàn trẻ thơ tung tăng
heo gà chó mèo ngựa trâu
nhởn nhơ trên đồng cỏ
tươi xanh
nhắm mắt lại đi em,
tận hưởng thú an lành.
Nhắm mắt lại đi em
Giấc ngủ ngoan
giấc mơ hạnh phúc
Em mãi bên anh,
Đồng hành với anh
Bài ca yêu thương
Bài ca hạnh phúc
Giấc mơ lành yêu thương
Ta có nhau trong cuộc đời này.
nghe hương tinh khôi đọng mật
quyến rũ em và khát khao anh
mùi ngây ngất đằm sâu nỗi nhớ
một tiếng chuông ngân
thon thả đầu ghềnh
nhắm mắt lại đi em
hạnh phúc đâu chỉ là đích đến
hạnh phúc là con đường trãi nghiệm
vỗ về, chờ đợi, nhớ thương
nhắm mắt lại đi em
trong giấc mơ của anh
có em và rừng thiêng cổ tích
có suối nước trong veo như ngọc
có vườn trúc và ngôi nhà tranh
có một đàn trẻ thơ tung tăng
heo gà chó mèo ngựa trâu
nhởn nhơ trên đồng cỏ
tươi xanh
nhắm mắt lại đi em,
tận hưởng thú an lành
Nhắm mắt lại đi em
Giấc mơ cuộc đời
giấc mơ hạnh phúc
ngôi nhà tâm thức
Giấc mơ lành yêu thương
Có cánh cửa khép hờ
Có bãi cỏ xanh non.
Đất nước cây và hoa
Một khu vườn tĩnh lặng.
Chim sóc chó mèo gà
luôn quấn quýt sớm hôm.
Ban mai ửng
nghe chim trời gọi cửa.
Hoàng hôn buông
trăng gió nhẹ lay màn.
Sớm xuân cuối đêm lạnh
Tỉnh thức Hoa Bình Minh
Nắng ban mai ghé cửa
Ngày bình an tuyệt vời.
Thích chia cùng thiền sư
Giọt sương mai đầu nụ
bạch ngọc thích tánh tuệ
Ngày xuân vui bạn hiền.
HỮU NGỌC VĂN HÓA VIỆT
Hoàng Kim
Trăm tuổi người tiên đẹp sánh đôi
Thung dung rạng rỡ nét xuân tươi
Hữu Ngọc tròn duyên văn hóa Việt
Tình yêu đất nước sáng muôn đời.
Nhà văn hóa Hữu Ngọc sinh ngày 1 tháng 1 năm 1918 tại Thuận Thành, Bắc Ninh, sống và làm việc tại Hà Nội.. Năm 2020 cụ ở tuổi 102 đã cho ra mắt bộ sách mới “Cảo thơm lần giở” gồm hai quyển với dung lượng gần 1.000 trang. Cụ trước đó đã là tác giả của hai bộ sách lớn Lãng Du Trong Văn Hoá Việt Nam và “Wandering through Vietnamese culture“. Bản tiếng Anh của sách này đã được tặng Giải Vàng sách Việt Nam 2006.
Bộ sách “Cảo thơm lần giở” theo ý kiến của cụ Hữu Ngọc đó là sự chắt lọc những trải nghiệm, suy ngẫm của tác giả về “cuộc đời và xã hội qua lăng kính tư duy của những trí tuệ uyên thâm trên thế giới”, Đó là thành quả miệt mài lao động chữ nghĩa, xuất – nhập khẩu văn hóa: Quảng bá văn hóa Việt Nam ra thế giới và giới thiệu tinh hoa văn hóa thế giới đến Việt Nam của chính tác giả. Bộ sách giới thiệu cuộc đời và tư duy của hơn 180 danh nhân Đông Tây kim cổ, trải rộng trên nhiều lĩnh vực: Tôn giáo, văn hóa, triết học, khoa học, văn học, nghệ thuật, đạo đức học, xã hội học, sử học, tâm lí học, chính trị học… đại diện cho các nền văn hóa của nhân loại; từ những giáo chủ như Phật Thích Ca, Chúa Jésus, tiên tri Muhammad; những triết gia như Khổng Tử, Sokrates, Hegel, Sartre…; những nhà khoa học như Darwin, Einstein; các nhà văn, nhà thơ như Shakespeare, Cesvantes, Dante, Goethe, Dostoyevsky, Lỗ Tấn, Tagor, Molière…; những chính khách như Kennedy, Mandela, Obama…; những nhà chiến lược quân sự như Tôn Tử, Machiavelli…; những nghệ sĩ như Leona de Vinci, Picasso, Guitry… Trong tập sách này, nhà văn hóa Hữu Ngọc đã trân trọng giới thiệu ra thế giới các danh nhân Việt Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Chí Minh; Thích Nhất Hạnh. Đó là tập kí bách khoa thư kiểu ‘Lê Quý Đôn” đậm dấu ấn cá nhân”.
Cụ Hữu Ngọc “Lãng du trong văn hóa Việt Nam” là một rừng thiêng cổ tích văn hóa Việt, một đại từ điển bách khoa toàn thư, ít chữ nhiều nghĩa, đậm đặc thông tin,là “văn chương điện tín, mỗi chữ là một thông tin” (chữ của Trần Đăng Khoa). Hai bộ sách lớn tiếng Việt và tiếng Anh này đều rất dày, 1048 trang mỗi quyển, và rất chuẩn mực. Với 357 bài là 357 từ khóa văn hóa Việt phủ kín ba mảng lớn: Đất Việt (103 bài), Lịch sử – Truyền thống (150 bài) và Văn hóa – Bản sắc dân tộc – Văn học – Nghệ thuật (122 bài). Sách soi thấu nhiều ngõ ngách lịch sử văn hóa. Ta tìm trong những câu chuyện ông kể như mừng rỡ gặp được người thầy thông tuệ và gặp lại chính mình. Dạo chơi cùng cụ Hữu Ngọc “Lãng du trong văn hóa Việt Nam”, lắng nghe cụ trò chuyện qua trang sách, bạn sẽ thấu hiếu câu nói của Bruno – nhà ngoại giao Bỉ: “Tôi bàng hoàng vì chỉ nửa giờ gặp ông Hữu Ngọc, tôi hiểu văn hoá Việt Nam bằng cả bấy lâu tôi đọc bao nhiêu cuốn sách và tìm hiểu nền văn hoá của dân tộc ông. Tôi vô cùng cảm ơn ông”. Loạt tác phẩm của nhà văn hóa Hữu Ngọc là ngọc cho đời “Phác thảo chân dung văn hóa Pháp,” “Mảnh trời Bắc Âu,””Văn hóa Thụy Điển,” “Hồ sơ văn hóa Mỹ,” “Chân dung văn hóa Nhật Bản.” “Chìa khóa để biết và hiểu Lào”. Đời và sách cụ Hữu Ngọc là nhịp cầu văn hóa nối dân tộc Việt với Thế giới.
Nhà văn hóa Hữu Ngọc đã được trao tặng nhiều giải thưởng danh giá như: 2 Huân chương Độc lập; Huân chương Chiến công; Huân chương Cành cọ Hàn lâm (Pháp); Huân chương Bắc Đẩu (Thụy Điển); Giải Mot d’or (Pháp); Giải Vàng Sách Việt Nam 2006; Giải Đồng Sách Việt Nam 2015; Giải Nhất toàn quốc 2015 về Thông tin Đối ngoại; Giải thưởng Lớn Bùi Xuân Phái về Tình yêu Hà Nội 2017…
Nhà văn hóa Hữu Ngọc với tri thức sâu rộng, lại sử dụng thành thạo tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Đức, sử dụng được chữ Hán, trên nữa thế kỷ cầm bút, ông đã góp cho đời một loạt tác phẩm viết về kho tàng văn hóa phong phú của nhiều dân tộc. Đó là “Phác thảo chân dung văn hóa Pháp,” “Mảnh trời Bắc Âu,””Văn hóa Thụy Điển,” “Hồ sơ văn hóa Mỹ,” “Chân dung văn hóa Nhật Bản.” “Chìa khóa để biết và hiểu Lào.”Ông dốc sức giới thiệu văn hóa Việt Nam ra nước ngoài, viết đều đặn hơn chục năm trời mục “Mạn đàm truyền thống” cho Le Courrier Viet Nam (tiếng Pháp) và Vietnam News (tiếng Anh). Mỗi bài viết của ông là một câu chuyên nhỏ dắt người đọc đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác về nền văn hóa phong phú của Việt Nam. Những bài viết đó của Hữu Ngọc đã được tập hợp thành một cuốn sách quý “Phác thảo chân dung văn hóa Việt Nam” bằng hai thứ tiếng Anh và Pháp. Cuốn sách đã được dùng làm món quà quý trao tặng các nguyên thủ quốc gia đến tham dự Hội nghị các nước có sử dụng tiếng Pháp lần thứ bảy tại Hà Nội năm 1997.Tác phẩm của Hữu Ngọc đã được tập hợp thành bộ sách lớn “Lãng du trong văn hóa Việt Nam.” do Nhà Xuất bản Thanh Niên ấn hành năm 2007, phát hành bởi Fahasa, dày 1.048 trang. Cuốn sách tiếng Anh “Sketches for a Portrait of Vietnamese Culture” do Nhà Xuất bản Thế Giới xuất bản lần đầu năm 1995 tái bản lần 2 năm 1997, lần 3 năm 1998; tái bản lần 4 năm 2004 và đổi thành tên mới “Wandering through Vietnamese culture”, tái bản lần 5, lần 6, lần 7, lần 8 vào các năm 2005, 2006, 2007, 2008 và đúc kết thành bộ sách lớn năm 2010. Thành công của cuốn sách tiếng Anh vượt ra ngoài sự mong đợi của tác giả, trở thành món quà tặng quý giá cho những ai muốn tìm hiểu về văn hóa Việt Nam.
Nhà văn Trần Đăng Khoa trong Vài nét Hữu Ngọc đã kể chuyện về tiên ông ở đời thường: “Ngoài những trang viết, Hữu Ngọc còn có nhiều cuộc giao lưu quốc tế. Tôi cũng đã nhiều lần ngồi dự những cuộc gặp gỡ của ông. Những lúc ấy, Hữu Ngọc rất linh hoạt, khi nói tiếng Anh. Lúc chuyển tiếng Pháp, lúc lại quặt sang tiếng Đức. Ai hỏi ông bằng tiếng nước nào thì ông trả lời bằng tiếng nước đó. Hữu Ngọc có khả năng thôi miên người nghe bằng khối lượng kiến thức khá uyên bác của mình. Chúng ta hãy nghe chính những khán giả của ông bộc lộ:
“Xin vô cùng đa tạ bài nói tuyệt vời của ông Hữu Ngọc ngày hôm qua ở Trung tâm văn hoá Nhật Hawii. Tất cả chúng tôi đều bị cuốn hút nghe ông kể về dĩ vãng và hiện tại ở Việt Nam” (Paul Rehob Chủ tịch Phòng Thương mại Việt Mỹ ở bang Hawaii – Mỹ)
“Bài thuyết trình của ông Hữu Ngọc thực là hoàn hảo. Có một thành viên trẻ của đoàn chúng tôi còn bảo phần của ông là điểm hay nhât của cả chương trình nói chung. Bản thân tôi thấy ông Hữu Ngọc sử dụng kỹ năng sư phạm hiện đại rất điêu luyện cho vốn hiểu biết sâu sắc của mình. Tôi ước ao giá được nghe bản thuyết trình này sớm hơn, khi tôi bắt đầu công tác ở Hà Nội. Một bài thuyết trình thật sáng sủa” (Bjorn Lasson, Phụ trách đoàn 30 chuyên gia và nhà doanh nghiệp Thuỵ Điển trong chuyến thăm Việt Nam)
“Đối với nhà trí thức Việt Nam ưu tú này – Ông Hữu Ngọc – ngôn ngữ của chúng ta, di sản nghệ thuật của chúng ta, toàn thể nền văn hoá của chúng ta, là bộ phận của nền văn hoá riêng của ông, bên cạnh nền văn hoá dân tộc, gắn chặt nhau và cùng toả sáng” (Charles Foruniau – Tiến sĩ sử học Pháp- Hội trưởng Hội Pháp Việt hữu nghị)
“Ông Hữu Ngọc quả là một người phi thường – điểm nổi bật nhất ở Hội nghị là nghe ông Hữu Ngọc nói chuyện”
“Hay đến sửng sốt”
“Hữu Ngọc gây ấn tượng mạnh trong tôi. Rát khiêm tốn! Rất thông minh! Rất khoan dung!”
“Tôi bàng hoàng vì chỉ nửa giờ gặp ông Hữu Ngọc, tôi hiểu văn hoá Việt Nam bằng cả bấy lâu tôi đọc bao nhiêu cuốn sách và tìm hiểu nền văn hoá của dân tộc ông. Tôi vô cùng cảm ơn ông” (Bruno- Nhà ngoại giao Bỉ)
Ta có thể còn gặp rất nhiều những tiếng reo vui như thế của bạn bè quốc tế trong các trang báo chí nước ngoài. Tôi cũng muốn nói thêm một điều gì đó về ông. Nhưng rồi tôi lại im lặng. Khẳng định điều gì về ông bây giờ, dường như là …quá sớm. Bởi Hữu Ngọc đang sung sức. Ông vẫn đang đi. Trước mặt tôi vẫn thấp thoáng tấm lưng ông. Tấm lưng lầm lụi trong gió bụi…”
Vinabook.com giới thiệu sáchLãng Du Trong Văn Hoá Việt Nam: Bằng con mắt của một người thuần Việt, Hữu Ngọc nắm bắt được những vẻ đẹp của những nền văn minh nhân loại. Và bằng con mắt của nhân loại, ông phát hiện ra được những tính chất đặc sắc của Việt Nam mà nhiều khi người Việt ta lại không thể nhìn ra.Bàn về các làng quê truyền thống Việt Nam, Hữu Ngọc cho rằng, do chiến tranh, do kinh tế thị trường, lại ảnh hưởng văn hoá phương Tây, các làng truyền thống của Việt Nam, hầu hết đã ít nhiều bị “ô nhiễm” văn hoá. Có chăng, chỉ còn m
Thiên hà trong vắt khuya
chuyển mùa
tự nhiên tỉnh
ta ngắm trời, ngắm biển
chòm sao em.
vầng sáng anh,
dưới vòm trời lấp lánh
khoảnh khắc thời gian
thăm thẳm
một tầm nhìn.
(GET UP
clear late galaxies
transfer season
natural awakening
I watch the sun, watching the sea
watching the constellations.
glow from where he
under the sparkling sky
moment of time
chasms
a vision).
SỚM XUÂN ĐI TẢO MỘ Hoàng Kim
Sớm xuân đi tảo mộ
Hoa vàng đua sắc hương
Chùm khế hoa tím ngát
Thung dung vui đời thường.
Lập Xuân tiết xuân mới
Phượng Hoàng trên cành xuân
*
Khuyên em đừng quên nhất thì nhì thục
Di sản Việt Nam học mãi không cùng
Mình học để làm hai bốn tiết khí
Mộc mạc hát vần bài học đầu tiên.
Đất cảm trời thương lòng người gắn bó
Dẫu khó vạn lần khéo liệu cũng xong
Mùa xuân tới tự tiết xuân sẽ đến
Bởi biết rằng năm tháng đó là em.
6 tháng Một bắt đầu rét nhẹ
21 tháng Một trời lạnh cắt da 4 tháng Hai ngày xuân mới đến
20 tháng Hai Thiên Địa Nhân hòa.
Đồng dao cho em khuyên emđừng tưởng
Câu chuyện mùa xuânthêm cho mồng Ba
Trải Cốc Vũ qua ngày Hạ Chí
Đại Thử rồi Sương Giáng thành hoa.
6 tháng Năm là ngày Hè đến
22 tháng Năm mưa nhỏ, vào mùa
5 tháng Sáu ngày Tua Rua mọc
21 tháng Sáu là chính giữa Hè.
7 tháng Bảy là ngày nắng nhẹ
23 tháng Bảy là tiết nóng oi
7 tháng Tám chớm thu rồi đó
23 tháng 8 trời đất mây mưa.
Qua Xử Thử đến tiết trời Bạch Lộ
Sau Mưa Ngâu đến Nắng nhạt đấy em.
Tiết Thu Phân khoảng 23 tháng 9
Đối lịch nhà nông em nhớ đừng quên.
Tiết Hàn Lộ nghĩa là trời mát mẻ
Kế tiếp theo là Sương Giáng (sương mù)
23 tháng 10 mù sa dày đặc Thuyền cỏ mượn tên nhớ chuyện Khổng Minh.
Ngày 7 tháng 11 là tiết lập đông
23 tháng 11 là ngày tiểu tuyết
8 tháng 12 là ngày đại tuyết
22 tháng 12 là chính giữa đông.
Khuyên em đừng quên nhất thì nhì thục
Di sản Việt Nam học mãi không cùng
Mình học để làm 24 tiết khí
Mộc mạc hát vần bài học đầu tiên.
Mùa vụ trồng cây, kinh nghiệm nghề nông
Xin em đừng quên điều ông bà dạy
Xuân Hạ Thu Đông hai bốn tiết khí
Khoa học thiên văn ẩn ngữ đời người.
Đất cảm trời thương, lòng người gắn bó
Dẫu khó vạn lần khéo liệu cũng xong
Mùa xuân tới tự tiết xuân sẽ đến
Bởi biết rằng năm tháng đó là em.
TẢO MAI NHỚ ĐỨC NHÂN TÔNG
Hoàng Kim
Thơ Thiền của đức Nhân Tông,
thẳm sâu kiệt tác mênh mông đất trời.
Sớm xuân nay đến với Người,
cành hoa xuân giấc mộng đời hiền nhân.
TẢO MAI Trần Nhân Tông
Ngũ nhật kinh hàn lãn xuất môn,
Đông phong tiên dĩ đáo cô côn (căn).
Ảnh hoành thuỷ diện băng sơ bạn,
Hoa áp chi đầu noãn vị phân.
Thuý vũ ca trầm sơn điếm nguyệt,
Hoạ long xuy thấp Ngọc Quan vân.
Nhất chi mê nhập cố nhân mộng,
Giác hậu bất kham trì tặng quân.
Chỉ năm ngày sợ rét lười ra khỏi cửa,
Mà gió xuân đã sớm đến với gốc cây cô đơn.
Bóng ngả trên mặt nước, băng giá bắt đầu tan,
Hoa trĩu nặng đầu cành, hơi ấm chưa định rõ.
Giọng ca Thuý vũ lắng chìm mặt trăng xóm núi.
Tiếng sáo Hoạ long ẩm ướt đám mây Ngọc Quan.
Một cành hoa lạc vào giấc mộng cố nhân,
Tỉnh dậy, không thể đem tặng anh được.
Nguồn: Thơ văn Lý Trần, NXB Khoa học xã hội, 1977
TẢO MAI
Trần Nhân Tông
(bản dịch thơ của Lê Mạnh Thát)
Ngại rét năm ngày cửa biếng ra
Gió xuân trước đã đến cây già
Bóng giăng mặt nước băng vừa vỡ
Hoa trĩu đầu cành ấm chửa pha
Xóm núi trăng chìm lời hát Việt
Ải quan mây đẫm tiếng tiêu Hồ
Một cành lạc tới giấc mơ bạn
Tỉnh dậy tặng người chẳng nỡ đưa
TẢO MAI
Trần Nhân Tông
(bản dịch thơ của dịch thơ Trần Lê Văn)
Năm ngày ngại rét, lười ra cửa.
Gốc lẻ nào ngờ đã gió xuân.
Mặt nước băng tan, cây bóng ngả,
Đầu cành hoa trĩu, ấm chưa phân.
Trăng chìm xóm núi, lời ca bổng,
Mây ướt quan hà, tiếng sáo ngân.
Lạc tới chiêm bao, hoa một nhánh,
Muốn đem tặng bạn, khó vô ngần!
TẢO MAI
Trần Nhân Tông
(bản dịch thơ của Nhất Nguyên)
Trốn rét năm ngày biếng bước ra
Gió xuân về sớm gốc cây già
Bóng ngang mặt nước băng dần vỡ
Hoa tụ đầu cành khí ấm qua
Khúc Thuý Vũ lắng chìm trăng quán núi
Điệu Hoạ Long thấm ướt Ngọc Quan mây
Một nhành hoa lạc giấc mộng chầy
Sau khi tỉnh, tặng bạn hiền…nào đâu có được !
TẢO MAI
Trần Nhân Tông
(bản dịch thơ của Nguyễn Văn Dũng)
Năm ngày sợ lạnh lười ra cửa
Gió xuân đã đến trước cây côi
Bóng ngang mặt nước băng vừa vỡ
Hoa nhú đầu cành,rét chưa rời
Thuý vũ ca chìm trăng quán núi
Rồng vẽ thổi mù Ngọc Quan mây
Một cành vào mộng cho bạn cũ
Thức dậy làm sao tặng bạn đây.
TẢO MAI
Trần Nhân Tông
(bản dịch thơ của Trương Việt Linh)
Năm ngày trốn rét biếng dời chân
Mà gốc cây già hẩy gió xuân
Hoa trĩu đầu cành hơi ấm thoảng
Bóng ngang mặt nước mảnh băng tan
Trăng chìm xóm núi lời ca vẳng
Mây đẫm biên thuỳ tiếng sáo vang
Một nhánh hoa trôi vào mộng cũ
Tỉnh ra tặng bạn khó muôn vàn.
GIẤC MƠ LÀNH YÊU THƯƠNG Hoàng Kim
nhắm mắt lại đi em
để thấy rõ giấc mơ hạnh phúc
trời thanh thản xanh
đêm nồng nàn thở
ta có nhau trong cuộc đời này
nghe hương tinh khôi đọng mật
quyến rũ em và khát khao anh
mùi ngây ngất đằm sâu nỗi nhớ
một tiếng chuông ngân
thon thả đầu ghềnh
nhắm mắt lại đi em
hạnh phúc đâu chỉ là đích đến
hạnh phúc là con đường trãi nghiệm
vỗ về, chờ đợi, nhớ thương
nhắm mắt lại đi em
trong giấc mơ của anh
có em và rừng thiêng cổ tích
có suối nước trong veo như ngọc
có vườn trúc và ngôi nhà tranh
có một đàn trẻ thơ tung tăng
heo gà chó mèo ngựa trâu
nhởn nhơ trên đồng cỏ
tươi xanh
nhắm mắt lại đi em,
tận hưởng thú an lành.
Nhắm mắt lại đi em
Giấc ngủ ngoan
giấc mơ hạnh phúc
Em mãi bên anh,
Đồng hành với anh
Bài ca yêu thương
Bài ca hạnh phúc
Giấc mơ lành yêu thương
Ta có nhau trong cuộc đời này.
nghe hương tinh khôi đọng mật
quyến rũ em và khát khao anh
mùi ngây ngất đằm sâu nỗi nhớ
một tiếng chuông ngân
thon thả đầu ghềnh
nhắm mắt lại đi em
hạnh phúc đâu chỉ là đích đến
hạnh phúc là con đường trãi nghiệm
vỗ về, chờ đợi, nhớ thương
nhắm mắt lại đi em
trong giấc mơ của anh
có em và rừng thiêng cổ tích
có suối nước trong veo như ngọc
có vườn trúc và ngôi nhà tranh
có một đàn trẻ thơ tung tăng
heo gà chó mèo ngựa trâu
nhởn nhơ trên đồng cỏ
tươi xanh
nhắm mắt lại đi em,
tận hưởng thú an lành
Nhắm mắt lại đi em
Giấc mơ cuộc đời
giấc mơ hạnh phúc
ngôi nhà tâm thức
Giấc mơ lành yêu thương
Có cánh cửa khép hờ
Có bãi cỏ xanh non.
Đất nước cây và hoa
Một khu vườn tĩnh lặng.
Chim sóc chó mèo gà
luôn quấn quýt sớm hôm.
Ban mai ửng
nghe chim trời gọi cửa.
Hoàng hôn buông
trăng gió nhẹ lay màn.
Sớm xuân cuối đêm lạnh
Tỉnh thức Hoa Bình Minh
Nắng ban mai ghé cửa
Ngày bình an tuyệt vời.
Thích chia cùng thiền sư
Giọt sương mai đầu nụ
bạch ngọc thích tánh tuệ
Ngày xuân vui bạn hiền.
HỮU NGỌC VĂN HÓA VIỆT
Hoàng Kim
Trăm tuổi người tiên đẹp sánh đôi
Thung dung rạng rỡ nét xuân tươi
Hữu Ngọc tròn duyên văn hóa Việt
Tình yêu đất nước sáng muôn đời.
Nhà văn hóa Hữu Ngọc sinh ngày 1 tháng 1 năm 1918 tại Thuận Thành, Bắc Ninh, sống và làm việc tại Hà Nội.. Năm 2020 cụ ở tuổi 102 đã cho ra mắt bộ sách mới “Cảo thơm lần giở” gồm hai quyển với dung lượng gần 1.000 trang. Cụ trước đó đã là tác giả của hai bộ sách lớn Lãng Du Trong Văn Hoá Việt Nam và “Wandering through Vietnamese culture“. Bản tiếng Anh của sách này đã được tặng Giải Vàng sách Việt Nam 2006.
Bộ sách “Cảo thơm lần giở” theo ý kiến của cụ Hữu Ngọc đó là sự chắt lọc những trải nghiệm, suy ngẫm của tác giả về “cuộc đời và xã hội qua lăng kính tư duy của những trí tuệ uyên thâm trên thế giới”, Đó là thành quả miệt mài lao động chữ nghĩa, xuất – nhập khẩu văn hóa: Quảng bá văn hóa Việt Nam ra thế giới và giới thiệu tinh hoa văn hóa thế giới đến Việt Nam của chính tác giả. Bộ sách giới thiệu cuộc đời và tư duy của hơn 180 danh nhân Đông Tây kim cổ, trải rộng trên nhiều lĩnh vực: Tôn giáo, văn hóa, triết học, khoa học, văn học, nghệ thuật, đạo đức học, xã hội học, sử học, tâm lí học, chính trị học… đại diện cho các nền văn hóa của nhân loại; từ những giáo chủ như Phật Thích Ca, Chúa Jésus, tiên tri Muhammad; những triết gia như Khổng Tử, Sokrates, Hegel, Sartre…; những nhà khoa học như Darwin, Einstein; các nhà văn, nhà thơ như Shakespeare, Cesvantes, Dante, Goethe, Dostoyevsky, Lỗ Tấn, Tagor, Molière…; những chính khách như Kennedy, Mandela, Obama…; những nhà chiến lược quân sự như Tôn Tử, Machiavelli…; những nghệ sĩ như Leona de Vinci, Picasso, Guitry… Trong tập sách này, nhà văn hóa Hữu Ngọc đã trân trọng giới thiệu ra thế giới các danh nhân Việt Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Chí Minh; Thích Nhất Hạnh. Đó là tập kí bách khoa thư kiểu ‘Lê Quý Đôn” đậm dấu ấn cá nhân”.
Cụ Hữu Ngọc “Lãng du trong văn hóa Việt Nam” là một rừng thiêng cổ tích văn hóa Việt, một đại từ điển bách khoa toàn thư, ít chữ nhiều nghĩa, đậm đặc thông tin,là “văn chương điện tín, mỗi chữ là một thông tin” (chữ của Trần Đăng Khoa). Hai bộ sách lớn tiếng Việt và tiếng Anh này đều rất dày, 1048 trang mỗi quyển, và rất chuẩn mực. Với 357 bài là 357 từ khóa văn hóa Việt phủ kín ba mảng lớn: Đất Việt (103 bài), Lịch sử – Truyền thống (150 bài) và Văn hóa – Bản sắc dân tộc – Văn học – Nghệ thuật (122 bài). Sách soi thấu nhiều ngõ ngách lịch sử văn hóa. Ta tìm trong những câu chuyện ông kể như mừng rỡ gặp được người thầy thông tuệ và gặp lại chính mình. Dạo chơi cùng cụ Hữu Ngọc “Lãng du trong văn hóa Việt Nam”, lắng nghe cụ trò chuyện qua trang sách, bạn sẽ thấu hiếu câu nói của Bruno – nhà ngoại giao Bỉ: “Tôi bàng hoàng vì chỉ nửa giờ gặp ông Hữu Ngọc, tôi hiểu văn hoá Việt Nam bằng cả bấy lâu tôi đọc bao nhiêu cuốn sách và tìm hiểu nền văn hoá của dân tộc ông. Tôi vô cùng cảm ơn ông”. Loạt tác phẩm của nhà văn hóa Hữu Ngọc là ngọc cho đời “Phác thảo chân dung văn hóa Pháp,” “Mảnh trời Bắc Âu,””Văn hóa Thụy Điển,” “Hồ sơ văn hóa Mỹ,” “Chân dung văn hóa Nhật Bản.” “Chìa khóa để biết và hiểu Lào”. Đời và sách cụ Hữu Ngọc là nhịp cầu văn hóa nối dân tộc Việt với Thế giới.
Nhà văn hóa Hữu Ngọc đã được trao tặng nhiều giải thưởng danh giá như: 2 Huân chương Độc lập; Huân chương Chiến công; Huân chương Cành cọ Hàn lâm (Pháp); Huân chương Bắc Đẩu (Thụy Điển); Giải Mot d’or (Pháp); Giải Vàng Sách Việt Nam 2006; Giải Đồng Sách Việt Nam 2015; Giải Nhất toàn quốc 2015 về Thông tin Đối ngoại; Giải thưởng Lớn Bùi Xuân Phái về Tình yêu Hà Nội 2017…
Nhà văn hóa Hữu Ngọc với tri thức sâu rộng, lại sử dụng thành thạo tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Đức, sử dụng được chữ Hán, trên nữa thế kỷ cầm bút, ông đã góp cho đời một loạt tác phẩm viết về kho tàng văn hóa phong phú của nhiều dân tộc. Đó là “Phác thảo chân dung văn hóa Pháp,” “Mảnh trời Bắc Âu,””Văn hóa Thụy Điển,” “Hồ sơ văn hóa Mỹ,” “Chân dung văn hóa Nhật Bản.” “Chìa khóa để biết và hiểu Lào.”Ông dốc sức giới thiệu văn hóa Việt Nam ra nước ngoài, viết đều đặn hơn chục năm trời mục “Mạn đàm truyền thống” cho Le Courrier Viet Nam (tiếng Pháp) và Vietnam News (tiếng Anh). Mỗi bài viết của ông là một câu chuyên nhỏ dắt người đọc đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác về nền văn hóa phong phú của Việt Nam. Những bài viết đó của Hữu Ngọc đã được tập hợp thành một cuốn sách quý “Phác thảo chân dung văn hóa Việt Nam” bằng hai thứ tiếng Anh và Pháp. Cuốn sách đã được dùng làm món quà quý trao tặng các nguyên thủ quốc gia đến tham dự Hội nghị các nước có sử dụng tiếng Pháp lần thứ bảy tại Hà Nội năm 1997.Tác phẩm của Hữu Ngọc đã được tập hợp thành bộ sách lớn “Lãng du trong văn hóa Việt Nam.” do Nhà Xuất bản Thanh Niên ấn hành năm 2007, phát hành bởi Fahasa, dày 1.048 trang. Cuốn sách tiếng Anh “Sketches for a Portrait of Vietnamese Culture” do Nhà Xuất bản Thế Giới xuất bản lần đầu năm 1995 tái bản lần 2 năm 1997, lần 3 năm 1998; tái bản lần 4 năm 2004 và đổi thành tên mới “Wandering through Vietnamese culture”, tái bản lần 5, lần 6, lần 7, lần 8 vào các năm 2005, 2006, 2007, 2008 và đúc kết thành bộ sách lớn năm 2010. Thành công của cuốn sách tiếng Anh vượt ra ngoài sự mong đợi của tác giả, trở thành món quà tặng quý giá cho những ai muốn tìm hiểu về văn hóa Việt Nam.
Nhà văn Trần Đăng Khoa trong Vài nét Hữu Ngọc đã kể chuyện về tiên ông ở đời thường: “Ngoài những trang viết, Hữu Ngọc còn có nhiều cuộc giao lưu quốc tế. Tôi cũng đã nhiều lần ngồi dự những cuộc gặp gỡ của ông. Những lúc ấy, Hữu Ngọc rất linh hoạt, khi nói tiếng Anh. Lúc chuyển tiếng Pháp, lúc lại quặt sang tiếng Đức. Ai hỏi ông bằng tiếng nước nào thì ông trả lời bằng tiếng nước đó. Hữu Ngọc có khả năng thôi miên người nghe bằng khối lượng kiến thức khá uyên bác của mình. Chúng ta hãy nghe chính những khán giả của ông bộc lộ:
“Xin vô cùng đa tạ bài nói tuyệt vời của ông Hữu Ngọc ngày hôm qua ở Trung tâm văn hoá Nhật Hawii. Tất cả chúng tôi đều bị cuốn hút nghe ông kể về dĩ vãng và hiện tại ở Việt Nam” (Paul Rehob Chủ tịch Phòng Thương mại Việt Mỹ ở bang Hawaii – Mỹ)
“Bài thuyết trình của ông Hữu Ngọc thực là hoàn hảo. Có một thành viên trẻ của đoàn chúng tôi còn bảo phần của ông là điểm hay nhât của cả chương trình nói chung. Bản thân tôi thấy ông Hữu Ngọc sử dụng kỹ năng sư phạm hiện đại rất điêu luyện cho vốn hiểu biết sâu sắc của mình. Tôi ước ao giá được nghe bản thuyết trình này sớm hơn, khi tôi bắt đầu công tác ở Hà Nội. Một bài thuyết trình thật sáng sủa” (Bjorn Lasson, Phụ trách đoàn 30 chuyên gia và nhà doanh nghiệp Thuỵ Điển trong chuyến thăm Việt Nam)
“Đối với nhà trí thức Việt Nam ưu tú này – Ông Hữu Ngọc – ngôn ngữ của chúng ta, di sản nghệ thuật của chúng ta, toàn thể nền văn hoá của chúng ta, là bộ phận của nền văn hoá riêng của ông, bên cạnh nền văn hoá dân tộc, gắn chặt nhau và cùng toả sáng” (Charles Foruniau – Tiến sĩ sử học Pháp- Hội trưởng Hội Pháp Việt hữu nghị)
“Ông Hữu Ngọc quả là một người phi thường – điểm nổi bật nhất ở Hội nghị là nghe ông Hữu Ngọc nói chuyện”
“Hay đến sửng sốt”
“Hữu Ngọc gây ấn tượng mạnh trong tôi. Rát khiêm tốn! Rất thông minh! Rất khoan dung!”
“Tôi bàng hoàng vì chỉ nửa giờ gặp ông Hữu Ngọc, tôi hiểu văn hoá Việt Nam bằng cả bấy lâu tôi đọc bao nhiêu cuốn sách và tìm hiểu nền văn hoá của dân tộc ông. Tôi vô cùng cảm ơn ông” (Bruno- Nhà ngoại giao Bỉ)
Ta có thể còn gặp rất nhiều những tiếng reo vui như thế của bạn bè quốc tế trong các trang báo chí nước ngoài. Tôi cũng muốn nói thêm một điều gì đó về ông. Nhưng rồi tôi lại im lặng. Khẳng định điều gì về ông bây giờ, dường như là …quá sớm. Bởi Hữu Ngọc đang sung sức. Ông vẫn đang đi. Trước mặt tôi vẫn thấp thoáng tấm lưng ông. Tấm lưng lầm lụi trong gió bụi…”
Vinabook.com giới thiệu sáchLãng Du Trong Văn Hoá Việt Nam: Bằng con mắt của một người thuần Việt, Hữu Ngọc nắm bắt được những vẻ đẹp của những nền văn minh nhân loại. Và bằng con mắt của nhân loại, ông phát hiện ra được những tính chất đặc sắc của Việt Nam mà nhiều khi người Việt ta lại không thể nhìn ra.Bàn về các làng quê truyền thống Việt Nam, Hữu Ngọc cho rằng, do chiến tranh, do kinh tế thị trường, lại ảnh hưởng văn hoá phương Tây, các làng truyền thống của Việt Nam, hầu hết đã ít nhiều bị “ô nhiễm” văn hoá. Có chăng, chỉ còn mỗi làng Đường Lâm. Cũng theo Hữu Ngọc, Đường Lâm có thể xem là mẫu làng truyền thống Việt Nam duy nhất còn lại khá hoàn hảo, ít bị ô nhiễm nhất. Nhà nghiên cứu văn hoá Thái Lan Thainaitis nói với Hữu Ngọc rằng “cần thiết phải cảnh báo để người dân nhận thức về di sản văn hoá của mình trước khi nó bị lãng quên và bị thời gian hủy diệt. Đường Lâm vừa là thắng cảnh đẹp, vừa được tạo nên bởi chính bàn tay của người Việt Nam – đó chính là văn hoá văn minh của nước Việt Nam có một lịch sử lâu dài… Cảnh đẹp Hạ Long là do thiên nhiên tạo nên, không giống như Đường Lâm chỉ do con người tạo dựng”. Cảnh quan Đường Lâm dường như vẫn giữ được vẻ xưa. Nói như hoạ sĩ Phan Kế An, trước kia theo tục lệ làng, không ai được xây dựng nhà cao hơn mái đình. Tuy lệ ấy đã nhạt đi, có vài ba nhà cao tầng đựơc xây nhưng không đáng kể. Cái chính ít xây là do dân nghèo, nông nghiệp là chính, buôn bán ít, nghề phụ chỉ có một số nghề truyền thống: giò chả, nuôi gà, làm kẹo bột, chè lam, bánh bỏng, dệt vải và làm tương. Đưa ra mấy thông tin như thế, rồi Hữu Ngọc bình một câu sắc lẻm mà không kém phần chua xót. May quá! không ngờ chính “cái nghèo đã cứu vớt được một di sản văn hoá”.
Không ít người đã đi Côn Minh bằng đường xe lửa. Nhưng không mấy ai để ý đến con đường sắt này. Trong một bài viết rất ngắn về Lào Cai, mảnh đất biên cương nơi địa đầu Tổ quốc, Hữu Ngọc cho ta biết: “Đường xe lửa Lào Cai – Côn Minh, hoàn thành năm 1910, mà thực dân Pháp khoe là một kỳ công kỹ thuật và một thắng cảnh du lịch. Đây là một trong những đường xe lửa ngoạn mục nhất và hiểm trở nhất Châu Á. Nó băng qua những quang cảnh đa dạng, khi thì đi sâu vào rừng nhiệt đới bao la, khi thì trèo những ngọn núi cheo leo, khi thì uốn khúc ở bên đáy vực thẳm”. Nếu chỉ dừng lại như thế, đoạn văn chẳng ấn tượng gì, cũng không có giá trị gì ngoài một chi tiết thông tin về năm ra đời của con đường sắt. Nhưng Hữu Ngọc đã đẩy lên một nấc nữa: “có điều cuốn này không nói là xây dựng tuyến đường này, công ty xe lửa Vân Nam của Pháp đã làm chết năm vạn cu-li Trung Quốc và Việt Nam”. Và thế là ngay lập tức, ta sẽ nhìn con đường sắt ấy bằng một con mắt khác.
Cũng đề cập đến mảnh đất địa đầu tổ quốc này, Hữu Ngọc còn bàn đến một địa danh với mấy tình tiết khá thú vị. Qua bài viết của Hữu Ngọc, ở thị xã Lào Cai, theo nhân dân kể lại, thì địa danh Cốc Lếu cũng mang ý nghĩa bảo tồn Văn hoá Việt: Cốc Lếu có nghĩa là gốc gạo. Đồn rằng theo lệnh Minh Mạng, người Việt ở đâu đều phải trồng cây gạo để đánh dấu lãnh thổ. Hoá ra thời xưa, cha ông ta đã cắm mốc lãnh thổ… bằng cây.”
Sách hay Bùi Việt Thắng giới thiệu sách Lãng du trong văn hóa Việt Nam: “Cuốn sách có độ dày 1.030 trang (in khổ lớp 15 x 22,7), nó giống như một “bách khoa toàn thư” thu nhỏ, một cẩm nang văn hóa Việt Nam tiện lợi và bổ ích không chỉ cho bạn bè quốc tế muốn hiểu văn hóa Việt Nam mà còn tối cần thiết cho chính mỗi người Việt Nam chúng ta nếu muốn hiểu rõ cội nguồn, truyền thống và tương lai văn hóa dân tộc.
Trước khi “Lãng du trong văn hóa Việt Nam” với vai trò là “sứ giả văn hóa”, Hữu Ngọc đã chu du tới các nền văn hóa lớn như Pháp, Mỹ và các nước Bắc Âu. Tôi rất tâm đắc với ý kiến của nhà thơ Trần Đăng Khoa: “Hữu Ngọc là người Việt Nam, nhưng ông cũng là công dân của cả một thế giới rộng lớn. Ông kết hợp và tận dụng được cùng một lúc hai “nguồn lực” đó (vài nét về Hữu Ngọc – Lời đầu sách).
“Lãng du trong văn hóa Việt Nam” không phải là một công trình nghiên cứu văn hóa theo lối hàn lâm, cũng không phải là một cuốn sách chuyên khảo dạng chuyên đề mà có thể coi như là một tập bút ký hoành tráng với tổng số 357 bài (mỗi bài chỉ khoảng 2,5 trang và ngót 1.000 chữ).
Cuốn sách được cấu tạo bởi 3 mảng lớn: Đất Việt (103 bài), Lịch sử – Truyền thống (150 bài) và Văn hóa – Bản sắc dân tộc – Văn học – Nghệ thuật (122 bài). Một cuốn sách đồ sộ, “nặng ký”, nhưng đọc không mệt, không chán vì lối viết của Hữu Ngọc vốn “chữ ít nghĩa nhiều”, nói một cách khác là chữ ít nhưng lượng thông tin nhiều.
Thật không quá lời và có lẽ cũng không làm nhà văn hóa, “sứ giả văn hóa” Hữu Ngọc tự ái khi Trần Đăng Khoa nhận xét đây là kiểu “văn chương điện tín. Mỗi chữ là một thông tin”. Đúng là một cuộc lãng du chữ nghĩa trong thế giới văn hóa Việt Nam qua bàn tay nghệ nhân Hữu Ngọc với những “bí kíp” tuyệt chiêu. Bạn bè quốc tế và cả người Việt Nam sẽ làm một cuộc lãng du trên một đất nước có hàng nghìn năm lịch sử, có bề dày văn hóa như Việt Nam.
Đặc sắc nhất của “Lãng du trong văn hóa Việt Nam” của Hữu Ngọc, theo tôi, tập trung rõ nhất ở phần thứ ba cuốn sách với tựa đề: Văn hóa – Bản sắc dân tộc – Văn học – Nghệ thuật.
Như chúng ta biết, văn học nghệ thuật là bộ phận quan trọng của văn hóa, qua văn học nghệ thuật mà người ta nhìn thấu và cảm thức được văn hóa của một dân tộc khác. Mặt khác giao lưu văn hóa của nhân loại cũng có nhiều cách thức, con đường khác nhau nhưng qua và nhờ văn học nghệ thuật là con đường ngắn nhất, hiệu quả nhất (chẳng hạn mấy chục năm đầu thế kỷ XX người Việt Nam đã hiểu được thần thái văn hóa Pháp qua Victor Hugo).
Trong phần quan trọng này, khi bàn về bản sắc văn hóa dân tộc nếu chú ý chúng ta thấy Hữu Ngọc đã tiến hành phương pháp so sánh A với B để thấy rõ A hơn.
Vì thế không có gì lạ Hữu Ngọc đã viết một loạt để so sánh, để tìm ra cái giống cũng như cái khác của văn hóa Việt Nam so với thế giới: Giao lưu văn hóa Đông Tây, Cái nhìn của hôm nay, Giao thoa văn hóa Đông Tây, Kết hợp những giá trị văn hóa Đông Tây, Gặp gỡ văn hóa phương Tây, Sợi dây vô hình Đông Tây, Giao thoa văn hóa…
Một cách đặt vấn đề như thế là khoa học và nhân văn bởi vì Việt Nam đang trong quá trình hội nhập khu vực và quốc tế, chúng ta không thể đóng cửa để tự mình “mẹ hát con khen hay” hoặc hơn thế “ta là ta mà cứ mê ta” mãi được. Từ cuối thế kỷ XX và đặc biệt ở thế kỷ XXI này, mỗi cư dân trên trái đất này đều thấm nhuần một sự thật giản dị “Trái đất là ngôi nhà chung của thế giới”. Cả nhân loại đã hát chung bài Chúc mừng năm mới, đã cùng đón Lễ Giáng sinh, Lễ tình yêu…
Hữu Ngọc trong công trình “Lãng du trong văn hóa Việt Nam” cũng đã bộc lộ một thái độ khoa học trung thực khi một mặt đề cao “tính cộng đồng của người Việt” như một nét trội trong tính cách, bản sắc dân tộc nhưng mặt khác cũng đặt vấn đề nghiêm túc “tất cả mọi truyền thống đều là thay đổi”.
Đi sâu vào vấn đề này tác giả đã có sự kiến giải khá thuyết phục: “Làm thế nào để có thể bảo tồn được truyền thống dân tộc trong bối cảnh một nền văn hóa toàn cầu viễn thông tin học có khuynh hướng phá vỡ các đặc điểm dân tộc? Phải chăng phải bám một cách máy móc vào những giá trị cũ, coi như bất di bất dịch hay chỉ cần giữ cái cốt, cái tinh túy, mà biến đổi theo hơi thở của nhịp sống”.
Trên tinh thần này toàn bộ 357 bài viết của Hữu Ngọc trong “Lãng du văn hóa Việt Nam” đã làm phát lộ được “hơi thở của nhịp sống” văn hóa Việt Nam. Ai đó nhận xét đúng về cách viết về văn hóa của Hữu Ngọc là “ròng ròng sự sống” mà vẫn uyên thâm, uyên bác.
Khi bàn về bản sắc văn hóa dân tộc Hữu Ngọc cũng đã đứng trên lập trường khoa học biện chứng để bàn tới vấn đề “tiếp biến văn hóa”. Theo cách lý giải của tác giả, trong quan niệm hiện nay “đối thoại văn hóa” là một phương thức tiếp biến văn hóa.
Đã có một thời gian khá dài chúng ta diễn trò “độc thoại” trên nhiều lĩnh vực, trong đó có văn hóa. Đã đến lúc, do hoàn cảnh lịch sử “thiên thời địa lợi nhân hòa”, sự giao lưu văn hóa của Việt Nam với thế giới đã rộng mở và chính giao lưu tạo ra hiện tượng tiếp biến (tiếp thu và cải tiến) văn hóa.
Đọc “Lãng du trong văn hóa Việt Nam” thấy thêm một Hữu Ngọc nhạy cảm và tinh tế khi bàn về văn học nghệ thuật. Những bài viết của ông về lĩnh vực này vừa thể hiện một Hữu Ngọc – nhà nghiên cứu vừa thể hiện một Hữu Ngọc – người cảm thụ sành điệu. Những bài viết về thơ chữ Hán, thơ Đường, Truyện Kiều, về tranh Hàng Trống, về nghệ thuật gốm, về âm nhạc, điện ảnh… đều tránh được lối “cưỡi ngựa xem hoa” nhưng cũng không quá tỉa tót tỉ mỉ.
Chủ yếu là ông đi tìm cái “thần thái” của đối tượng bằng một lối viết tung bút – nghiêng về chấm phá, gợi mở suy tư và gieo tranh luận. ở vào độ tuổi chín mươi (ông sinh năm 1918) Hữu Ngọc vẫn rất trẻ trung và dí dỏm khi viết về Thế hệ ve sầu Choai choai… ở đó tác giả thể hiện mình như một nhà sư phạm và như một nhà tâm lý học.
Thấu thị bản chất sự vật đã được coi là thành công của người viết nhưng dự cảm được bước đi và tương lai của nó mới quan trọng, nói cách khác đó là năng lực dự báo khoa học của người nghiên cứu (cũng như sáng tác).
Hữu Ngọc trong “Lãng du trong văn hóa Việt Nam” cũng là một nhà dự báo khi hướng tới những vấn đề văn hóa thế kỷ XXI? Thế kỷ XXI có cần đến thơ nữa không? Văn hóa và chiến tranh văn hóa.
Đọc “Lãng du trong văn hóa Việt Nam” của Hữu Ngọc có cảm giác yên tâm về cái gọi là “tương lai văn hóa đọc” trong sự cạnh tranh của “văn hóa nghe nhìn” mà xã hội đang rất quan tâm. Những cuốn sách như thế vẫn rất cần thiết, bổ ích với chúng ta, trong đó có “Lãng du trong văn hóa Việt Nam”.
Nhà sử học Phan Huy Lê cảm nhận: “Hữu Ngọc là một nhà văn, nhà báo nổi tiếngvề những tác phẩm giới thiệu văn hóa nước ngoài vào Việt Nam và văn hóa ViệtNam ra nước ngoài. Trong cuốn sách này, tác giả xuất phát từ hiện thực hàng ngày ở Việt Nam để đi ngược lại nguồn gốc và đi sâu tìm hiểu tính độc đáo của văn hóa Việt Nam.“
Bộ sách lớn văn hóa Việt của Hữu Ngọc ví như bói Kiều, bạn có thể mở một mục bất kỳ để được vui đắm mình vào việc tìm hiểu một vùng đất hoặc một vấn đề lịch sử, truyền thống, văn hóa, bản sắc dân tộc, văn học, nghệ thuật… Nhưng hay nhất, tốt nhất là khi bạn có một điều gì đó băn khoăn trong câu chuyện mà bạn có thể “hỏi” ở sách Hữu Ngọc thì nơi đó đúng là một pho từ điển văn hóa. Thí dụ bài “Vịnh Hạ Long và thơ Hồ Xuân Hương” cụ Hữu Ngọc viết:
“Các cụ ta ngày xưa thường hay ngâm vịnh cảnh đẹp, gửi tình cảm vào thiên nhiênVậy mà thơ cổ điển về vịnh Hạ Long thật hiếm, có lẽ vì nơi này hiểm trở, đi lại khókhăn, xa nơi kinh tế văn hóa của cả nước là đồng bằng Bắc Bộ. Thơ nổi tiếng nhấtvề vịnh Hạ Long có mấy bài của vua Lê Thánh Tông (kế kỷ 15) và chúa TrịnhCương (thế kỷ 18). Năm 1952, nhân làm sách Hán Nôm ở Pháp, học giả HoàngXuân Hãn đã phát hiện ra trong mục “Quảng Yên” của cuốn sách chép tay “Đại Namdư địa chí ước biên” năm bài thơ chữ Hán về vịnh Hạ Long của Hồ Xuân Hương .Những bài thơ này miêu tả phong cảnh vịnh Hạ Long khi thuyền len lõi qua nhữngnúi đá mờ ảo. Non non nước nước, chim bay cá lặn, cảnh sắc huyền ảo dưới bóng chiều tà. Để cảm thông với hồn thơ một nữ thi sĩ ngắm cảnh Hoa Phong (tên cũ vịnh Hạ Long) cách đây gần hai trăm năm, xin trích một bài (nguyên văn chữ Hán, bảndịch của Hoàng Xuân Hãn):
Phiến phàm vô cấp độ Hoa Phong
Lá buồm không vội vượt qua vùng Hoa Phong)
Triệu bích đan nhai xuất thủy trung
(Vách đá đứng, sườn núi đỏ, giữa nước trỗi dựng lên)
Thủy thế mỗi tùy sơn diện chuyển
(Thế nước tùy chỗ theo núi mà biến chuyển)
Sơn hình tà kháo thủy môn thông
(Hình núi nghiêng mình, nép tựa cửa lạch, để nước thông qua)
Ngư long tạp xử thu yên bạc
(Cá rồng lẫn lộn, tăm khuất dưới tầng hơi nước mùa thu)
Âu lộ tề phi nhật chiếu hồng
(Âu cò cùng bay trong ánh đỏ mặt trời chiếu)
Ngọc động vân phòng tam bách lục
(Cõi tiên có ba trăm sáu động ngọc và phòng mây) Bất tri thùy thị thủy tinh cung (Đây không biết chốn nào là cung Thủy tinh).
Phải chăng Hồ Xuân Hương , tác giả bài thơ Hán thanh tao và bác học này , cũng chính là cô Hồ Xuân Hương của truyền thống dân gian với những bài thơ Nôm châm biếm, đáo để, dục tình? Dựa vào thư tịch cổ , ông Hoàng Xuân Hãn khẳng định đúng là thế . Và ông đưa ra chân dung mchân dung một Hồ Xuân Hương trữ tình (qua tập Lưu Hương Ký) mà phần thơ giễu cợt làm lúc thiếu thời chỉ là một sắc thái”
Không ít người đã đi Hạ Long nhưng Hữu Ngọc chỉ bằng một vài nét chấm phá đã khái quát những tuyệt phẩm thơ cổ viết về danh thắng xinh đẹp Hạ Long giúp đánh thức sự tò mò tìm kiếm của những người nặng lòng với Hạ Long và thi ca Việt thì ông quả thật là tài tình. Nhà văn hóa Hữu Ngọc còn đẩy lên một mức cao hơn khi viết “Vịnh Hạ Long và Hồ Xuân Hương” giới thiệu kiệt tác thơ chữ Hán đặc sắc của bà chúa thơ Nôm, hé lộ năm bài thơ chữ Hán và tập Lưu Hương Ký của bà, cùng với sự phát hiện về một Hồ Xuân Hương ở sắc thái khác. Sách từ điển văn hóa của Hữu Ngọc rọi ánh sáng tìm kiếm một Hồ Xuân Hương khác, đó là bạn thân thiết của Nguyễn Du, giúp chúng ta hiểu biết sâu sắc hơn về lịch sử và bản sắc văn hóa Việt.
Hữu Ngọc văn hóa Việt, sách và đời là từ điển cuộc sống.
NGÀY XUÂN ĐỌC TRẠNG TRÌNH
Hoàng Kim
Thảnh thơi chơi cùng cụ Trạng
Thanh nhàn cùng với tháng năm Bà và cháu vui chuyện bé
Thầy thì thong thả nấu cơm …
Ngày mới trông thời đoán tiết
Xuân vui trước ngõ chưa tàn
Phải đợi Hạ về Thu tới
Mới hòng Đông đến Xuân sang
Mùa xuân lộc vừng thay lá
Cây đời mầm mới thêm xanh
Nắng sớm ấm dấn trước ngõ
Tiếng chim ríu rít đầy vườn
Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491–1585) là nhà giáo, nhà tiên tri, nhà thơ triết lý, nhà văn hoá lớn của thời Lê -Mạc, bậc kỳ tài yêu nước thương dân, xuất xử hợp lý, hợp thời, sáng suốt. Bài tựa về Trạng Trình của tiến sĩ Vũ Khâm Lân có vị trí trọng yếu để tìm hiểu thân thế và sự nghiệp của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Tác phẩm được viết năm 1743 cho tập gia phả dòng họ Trạng Trình sau khi cụ Trạng đã mất khoảng 158 năm. Áng văn xuất sắc này là viên ngọc rất quý của người xưa để hiểu và đánh giá đúng về thân thế và sự nghiệp của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Hoàng Kim duyên may sưu tầm được một số sách và tư liệu quý về Người, đã tuyển chọn và biên soạn thư mục CNM365 “Ngày xuân đọc Trạng Trình” để hàng năm bổ sung hoàn thiện, hổ trợ dạy và học gồm: 1) Nguyễn Bỉnh Khiêm tìm trong gia phả; 2) Nguyễn Bỉnh Khiêm trên bách khoa thư; 3) Sấm Trạng Trình bản A 262 câu ; 4) Biển Đông vạn dặm giang tay giữ; 5) Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm; 6) Thầy bạn Nguyễn Bỉnh Khiêm; 7) Hậu duệ và học trò Trạng Trình; 8) Giai thoại về Trạng Trình; 9) Nguyễn Bỉnh Khiêm trí tuệ bậc Thầy.
Vũ Khâm Lân còn có tên là Vũ Khâm Thận, sinh năm 1702 tại làng Ngọc Lặc, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương. Ông đỗ tiến sĩ năm 1727 làm quan đến chức Tham tụng, Ngự Sử đài, tước Ôn Quận công. Bài tựa này được chép trong quyển “Công Dư Tiệp Ký” (Những chuyện ghi nhanh trong lúc rãnh việc quan) của Vũ Phương Đề, cuốn 3, tờ 166- 175. Quyển “Công Dư Tiệp Ký” là của Vũ Phương Đề do vậy có người nghi vấn tác giả bài tựa này là Vũ Phương Đề, sinh năm 1697, người làng Mộ Trạch, huyện Đường An, nay là Bình Giang, Hải Dương, đỗ tiến sĩ năm 1736. Căn cứ trên văn bản thì tác giả “Bài tựa” này là của Vũ Khâm Lân mà Vũ Phương Đề là người chép lại. “Bài tựa” này tuyển chọn từ trích dẫn của nhà nghiên cứu Phạm Đan Quế năm 2000. Bản dịch tại quyển “Bạch Vân Quốc ngữ Thi tập” của Nguyễn Quân, nhà xuất bản Sống Mới – Sài Gòn năm 1974. Đây là một văn bản quý đã trải qua sự sàng lọc của thời gian 277 năm (1743- 2020). Nguồn tư liệu chuẩn mực, tin cậy với những dẫn liệu chọn lọc và xác thực, lời văn chặt chẽ, súc tích, khoáng đạt.
NGUYỄN BỈNH KHIÊM TÌM TRONG GIA PHẢ
Bài tựa Nguyễn Công Văn Đạt phổ ký Tiến sĩ Vũ Khâm Lân viết năm 1743
Trích Gia phả dòng họ Trạng Trình
Nguyễn Văn Đạt) tự Hành Phủ, đạo hiệu là Bạch Vân cư sĩ, người làng Trung Am, huyện Vĩnh Lại, tỉnh Hải Dương. Tiên tổ ngày xưa tu nhân, tích đức nhiều, nay không thể khảo cứu được, chỉ biết từ đời cụ tổ được tập phong Thiếu bảo Tư Quận công, cụ bà được phong Chính phu nhân Phạm Thị Trinh Huệ. Nguyên trước các cụ lập gia cư ở nơi có núi sông bao bọc hợp với kiểu đất của Cao Biền, tay phong thủy trứ danh đời Đường.
Phụ thân cụ Trạng được tặng phong tước Thái bảo Nghiêm Quận công, mỹ tự là Văn Định, đạo hiệu là Cù Xuyên tiên sinh. Cụ Văn Định học rộng, tài cao, có đức tốt và đã có lần sung chức Thái học sinh đời Lê.
Thân mẫu cụ Trạng được phong tặng tước Từ Thục phu nhân. Bà là người làng An Tử Hạ, huyện Tiên Minh cũng thuộc tỉnh Hải Dương, con gáí quan Thượng thư Bộ Hộ Nhữ Văn Lân. Bà thông minh, học rộng, văn hay, lại tinh thông tướng số. Ngay đời Hồng Đức (niên hiệu vua Lê Thánh Tôn), bà đã đoán trước rằng vận mệnh nhà Lê chỉ bốn mươi năm nữa là suy đồi khó gỡ. Bà có chí hướng muốn phò vua giúp nước như một bậc trượng phu nên chỉ chịu kết duyên khi gặp người trai vừa ý. Bà kén chồng đến ngót hai mươi năm, cho đến khi gặp ông Văn Định là người có tướng sinh quý tử, mới thành lập gia thất.
Sau khi lấy ông Văn Định, có lần qua bến đò Hàn thuộc sông Tuyết (sông thuộc làng Cổ Am) gặp một chàng thanh niên khác, bà nhìn người này và ngạc nhiên than rằng “lúc trước không gặp, ngày nay sao đến đây làm gì?”. Bọn theo hầu không hiểu nghĩa gì, cầm roi toan đánh đuổi chàng thanh niên ấy, bà cản lại và hỏi tên họ. khi được biết, bà buồn rầu hối hận đến cả mấy năm trời. Người thanh niên ấy không ai khác hơn là Mạc Đăng Dung, Thái Tổ của nhà Mạc sau này.
Bỉnh Khiêm sinh năm Hồng Đức thứ 21 (tức năm Tân Hợi 1491), lúc nhỏ có vóc dáng kỳ vĩ, chưa đầy một năm đã nói sõi. Một hôm vào buổi sáng sớm, Văn Định được bế cậu trên tay, bỗng thấy cậu nói ngay rằng: “Mặt trời mọc ở phương Đông” ông lấy làm lạ. Xem đó đủ biết con người khác thường, từ lúc thơ ấu đã có vẻ khác thường.
Năm Bỉnh Khiêm được bốn tuổi, thân mẫu dạy cậu học các bài chính nghĩa của Kinh, Truyện (tức các bài chính của các sách Tứ Thư, Ngũ Kinh). Bà dạy bằng cách khi ru, khi hát, nhưng dạy đến đâu cậu thuộc lòng đến đó. Cũng vào khoảng năm ấy, về thi ca, Bỉnh Khiêm đã thuộc vanh vách đến cả mấy chục bài quốc âm (thơ Nôm)…
… Trong tám năm ở triều, tiên sinh dâng sớ hạch tội mười tám kẻ lộng thần, xin đem ra chém để làm gương, bởi vì bản tâm. Tiên sinh chỉ muốn trăm họ được an vui, những người tàn tật mù lòa được hành nghề hát xướng bói toán nhưng rồi thấy người con rể là Phạm Dao ỷ thế lộng hành, tiên sinh sợ liên lụỵ đến mình nên cáo quan về nghỉ. Năm ấy là năm Quảng Hòa thứ hai (1542) đời Hiến Tông nhà Mạc, tiên sinh mới 52 tuổi.
Treo mũ về quê, tiên sinh dựng am Bách Vân ở phía đông làng và vẫn lấy biệt hiệu là Bạch Vân cư sĩ. Tiên sinh bắc hai chiếc cầu là Nghinh Phong và Trường Xuân để hóng mát, đồng thời dựng một cái quán ở bến sông Tuyết gọi là Trung Tân quán, hiện nay quán này còn tấm bia đá làm di tích để lại.
Ngoài ra, tiên sinh còn tu bổ chùa chiền. Tiên sinh thường cùng các lão tăng đàm luận và thường khi thả thuyền dạo chơi Kim hải hay Úc hải để xem người đánh cá. Các chỗ danh lam thắng cảnh như Yên Tử, Ngọa Vân, Kinh Chủ, Đồ Sơn, nơi nào tiên sinh cũng chống gậy trèo lên, thừa hứng ngâm vịnh, có khi quên cả sớm chiều. Mỗi khi ngắm cảnh non cao chót vót, rừng rậm xanh rờn, gió động rì rào, chim ca thánh thót, tiên sinh lại hớn hở tự đắc, phiêu phiêu như một vị lục địa thần tiên (thần tiên ở thế gian).
Thời gian tiên sinh dưỡng lão ở quê hương, tiên sinh không tham dự quốc chính nhưng nhà Mạc vẫn kính như bậc thầy. Mỗi khi có việc trọng đại, vua Mạc thường sai quan về hỏi hoặc mời lên kinh đô nói chuyện. Tiên sinh dâng lên ý kiến được bổ ích rất nhiều. Mỗi lần lên kinh, xong việc, tiên sinh lại xin về, triều đình ân cần lưu lại, thế nào cũng không được. Sau tiên sinh được nhà Mạc xếp vào hạng đệ nhất công thần, phong tước Trình Tuyền hầu, rồi thăng dần tới tước Lại bộ Thượng thư, Thái phó, Trình Quốc công. Ông bà hai đời cũng được truy tặng chức tước, ba người vợ và bảy người con cũng được thứ tự phong hàm.
Năm Cảnh Lịch thứ ba (1555) đời Mạc Tuyên Tôn (Mạc Phúc Nguyên) Thư Quốc công Nguyễn Thiến (người làng Khoa Hoạch, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông) cùng con trai là Quyện và Miễn (cũng đọc Mồi) về hàng quốc triều (nhà Lê), tiên sinh làm bài thơ gửi cho Thiến trong có câu: Cố ngã tồn cô duy nghĩa tại/ Tri quân xử biến khởi cam tâm (Ta giúp con côi vì nghĩa trọng/ Ông khi xử biến khá cam lòng); Lại có câu: “Vận chuyển nhất chu ly phục hợp/ Tràng giang khởi hữu hạn đông nam (Vận chuyển một vòng tan lại hợp/ Trường giang đâu có hạn đông nam). Thiến xem thơ, trong lòng cảm thấy bứt rứt. Quyện là viên tướng có tài, luôn luôn lập được chiến công. Mạc Phúc Nguyên lấy làm lo ngại sai vời tiên sinh lên hỏi kế. Tiên sinh tâu: “Cha Quyện với hạ thần là chỗ bạn chí thân ngày trước, có lúc đã ở tại nhà thần, nay ra trấn thủ Thiên Trường, đang ở vào tình thế bán tín bán nghi nay muốn bắt lại, thật chẳng khó gì, cũng như thò tay vào túi để móc một vật gì ra thôi”. Tiên sinh nói đoạn, xin Mạc Phúc Nguyên giao cho một trăm tráng sĩ, sai đi phục sẵn trên bắc ngạn, rồi tiên sinh gửi thư mời Quyện sang bên thuyền uống rượu để gặp và nói chuyện tâm tình. Quyện nhận lời ngay; thừa lúc quá say, phục binh nổi dậy, bắt cóc đem về nam ngạn. Quyện cảm động quá khóc nức nở. Tiên sinh dẫn Quyện theo lại nhà Mạc và sau đó trở thành một danh tướng lừng lẫy. Nhờ đó nhà Mạc duy trì được mấy chục năm nữa.
Trong thời gian ấy, đức Thế Tổ (tức Trịnh Kiểm) nhà chúa Trịnh đã dấy nghĩa binh, thanh thế vang dội khắp xa gần; trong trận giao tranh ở cửa biển Thần phù, Khiêm Vương Mạc Kính Điển (con thứ của Mạc Đăng Doanh) thua to. Thừa thắng, đức Thế tổ tiến binh theo đường núi phía tây ra tiến đánh Kinh Bắc, trong ngoài nơm nớp lo sợ. Nhà Mạc nhờ tiên sinh hiến kế rất nhiều, mới ổn định được tình thế lúc ấy.
Năm Diên Thành thứ 8 (1585) đời Mạc Mậu Hợp, tiên sinh lâm bệnh. Vua Mạc sai sứ đến thăm và hỏi kế quốc sự. Tiên sinh trả lời: Sau này nước nhà có bề gì thì đất Cao Bằng tuy nhỏ cũng thêm được vài đời (Tha nhật quốc sự hữu cố/Cao Bằng tuy thiểu, khả diên sổ thế). Qủa nhiên, cách bảy năm sau, nhà Mạc mất, các chúa nhà Mạc như Càn Thống, Long Thái, Thuận Đức, Vĩnh Xương rút lên Cao Bằng cũng còn giữ được hơn 70 năm, nghĩa là sau ba, bốn đời mới hoàn toàn bị diệt. Xem đó thấy lời dự đoán của tiên sinh rất nghiệm.
Ngày 28 tháng 11 (âm lịch) năm ấy, tiên sinh tạ thế, hưởng thọ 95 tuổi, học trò tôn hiệu là Tuyết Giang Phu tử. Phần mộ ở trên một mô đất khá cao trong làng…
Năm Thuận Bình thứ tám (1556) vua Lê Trung Tông băng, không hoàng nam nối ngôi, đức Thế Tổ (Trịnh Kiểm) do dự không biết lập ai, hỏi trạng nguyên Phùng Khắc Khoan, cũng không quyết định nổi, mới sai ngầm đem lễ vật ra tận Hải Dương hỏi tiên sinh. Tiên sinh không trả lời, chỉ quay lại bảo các gia nhân rằng: – Vụ này lúa không được mẩy, chỉ tại thóc giống không tốt, vậy hãy đi tìm giống cũ mà gieo mạ. …
Nói xong, tiên sinh xe ra chùa, bảo các chú tiểu quét dọn và thắp nhang, ngoài ra không đã động gì đến chuyện khác, và đó là cái thâm ý tỏ ra cho biết “cứ việc thờ Phật thì sẽ có oản ăn”. Trạng Bùng thấy thế, hiểu ý, xin từ giả. Qua lời kể lại, đức Thế Tổ hiểu ngay, nên đón vua Anh Tôn về lập, tình hình nội bộ mới trở lại bình thường.
Trong thời gian ấy, Đoan Quốc Công Nguyễn Hoàng là con trai thứ Lâm Huân Tĩnh Vương (Nguyễn Kim) đương ở trong tình thế nguy ngập, sợ không thoát khỏi tay Trịnh Kiểm, thân mẫu ông, người làng Phạm Xá, huyện Tứ Kỳ, với tiên sinh là chỗ đồng hương, nên trước cảnh ấy, sai người bí mật về làng nhờ tiên sinh chỉ giúp con trai bà một lối sống. Sứ giả đặt gói bạc nén trước mặt, rồi chắp tay lạy mãi.
Tiên sinh thấy sứ giả cố năn nỉ nhưng vẫn không đáp, rồi đứng phắt dậy, cầm gậy thủng thẳng bước ra sau vườn. Đến chỗ núi non bộ (giả sơn) do mười tảng đá xanh xếp thành một dãy quanh co, tiên sinh thấy trên núi có bầy kiến đang men đá leo lên, đứng ngắm một lúc, mỉm cười đọc:
Hoành Sơn nhất đái, khả dĩ dung thân
Sứ giả hiểu ý trở về thuật lại, Nguyễn Hoàng liền nghĩ ra kế, xin vào trấn thủ Quảng Nam, đến nay con cháu còn hùng cứ một phương.
Trong lúc ngày thường, có lần tiên sinh cùng người học trò là Bùi Thời Cử bói dịch trúng quẻ Càn, thế mà tiên sinh dự đoán “chỉ sau tám đời cuộc can qua nổi dậy”. Sau đúng như thế. Lời đoán của tiên sinh quả thật thần diệu vậy.
Riêng số học trò của tiên sinh thì đông không biết bao nhiêu mà kể. Những người có danh vọng lừng lẫy của bản triều (nhà Lê) như Phùng Khắc Khoan, Lương Hữu Khánh, Nguyễn Dữ và Trương Thời Cử đều là những người nhờ sự dạy dỗ của tiên sinh.
Nhắc đến Phùng Khắc Khoan khi còn theo học, bỗng một đêm tiên sinh đến thẳng nhà trọ, gõ cửa bảo: “Gà gáy rồi, sao chưa dậy nấu cơm, còn nằm ỳ ngủ vậy?”. Khắc Khoan hiểu ý, vội thu xếp hành lý, tìm đường vào Thanh Hóa, nhưng lại ẩn nơi nhà Nguyễn Dữ, người đã soạn bộ “Truyền kỳ mạn lục”. Bộ này được thành một tác phẩm “thiên cổ kỳ bút” là một phần lớn nhờ sự phủ chính rất nhiều của tiên sinh.
Xem đó thì thấy tiên sinh đối với bản triều (nhà Lê) cũng có góp phần đào tạo một số nhân tài vậy.
Tôi thấy tiên sinh là người lòng dạ khoáng đạt, tư chất cao siêu, sử dụng sự hồn nhiên, không chút cạnh góc, ai hỏi thì nói không thì thôi, đã nói câu gì là câu ấy không xê không dịch. Tiên sinh ở nơi thôn dã, vui với cúc tùng, hơn mười năm trời vẫn không quên nước.
Văn chương của tiên sinh thường bộc lộ cái tấc dạ ưu thời mẫn thế, không cần điêu luyện mà tự nhiên, giản dị mà lưu loát, thanh đạm mà ý vị, câu câu đều có chỗ ngụ ý răn đời. Thơ Quốc âm của tiên sinh có nhiều, trước đã soạn thành một tập gọi là Bạch Vân Quốc ngữ Thi tập, có cả ngàn bài nhưng nay chỉ còn độ hơn trăm. Thơ Hán tự cũng nhiều nhưng cũng thất lạc, tôi xem cũng đều thấy chứa những ý nghĩa thanh cao và siêu thoát. Thí dụ câu tiên sinh tự thuật chí hướng mình:
Cao khiết thùy vi thiên hạ sĩAn nhàn ngã thị địa trung tiên(Cao khiết ai là thiên hạ sĩAn nhàn ta chính địa trung tiên)
Nói về gia đình thì tiên sinh có ba vợ:
Bà vợ cả người họ Dương, hiệu Từ Ý, quê tỉnh Hải Dương, người cùng huyện, là con gái quan Hình Bộ Thị lang Dương Đức Nhan.
Bà thứ hai, người họ Nguyễn, hiệu Như Tĩnh
Bà thứ ba hiệu Vi Tĩnh, cùng người họ Nguyễn
Tiên sinh có tất cả mười hai người con, gồm bảy người trai, năm người gái. Con trưởng lấy hiệu Hàn Giang Cư sĩ, được tập ấm phong hàm Trung Trinh đại phu, sau làm quan đến chức Phó hiến. Con thứ hai là Túy An tiên sinh được phong hàm Triều Liệt đại phu, tước Quảng Nghĩa hầu. Con thứ ba hàm Hiển Cung đại phu, tước Xuyên Nghĩa bá. Con thứ tư hiệu Thuần Phu, hàm Hoằng Nghị đại phu, tước Quảng Đô hầu. Con thư năm là Thuần Đức, tước Bá Thư hầu (không thấy ghi người con thứ bảy). Mấy người này đều có quân công cả.
Sau đó, Hàn Giang sinh ra Thiết Đức, Thiết Đức sinh Đạo Tiến, Đạo Tiến sinh Đạo Thông. Đạo Thông sinh Đăng Doanh. Đăng Doanh sinh Thời Đương. Thời Đương lúc này đã 65 tuổi, sinh được ba người con trai, đều là cháu tám đời của tiên sinh vậy.
Năm Vĩnh Hựu nguyên niên (Ất Mão 1735 đời Lê Ý Tôn) người trong làng vì nhớ thịnh đức của tiên sinh nên đã dựng hai đền thờ này. Người hàng tổng cũng nhớ ơn đức, xuân thu hai kỳ đến tế lễ. Người trong họ của tiên sinh là Nguyễn Hữu Lý sợ sau này gia phả thất lạc có soạn lại một quyển và nhờ tôi viết cho bài tựa.
Tôi đây là người đất Hồng Châu, nghĩa là cùng quê với tiên sinh, nhưng nay đã cách 190 năm rồi, còn biết gì để viết.
Lúc thơ ấu, tôi cũng thường được nghe các bậc phụ huynh nói chuyện tiên sinh, nhưng cũng chỉ biết đại khái là cụ Trạng Trình thôi. Sau nhân những buổi bình luận về tiên hiền với các quan đại phu, tôi có thêm ít nhiều nên ước có dịp thuận tiện sẽ về tận quê quán của tiên sinh để tìm hiểu cho tường. Ước mãi chưa được vì cứ luôn luôn bị việc quan bó buộc.May thay! Năm Tân Dậu niên hiệu Cảnh Hưng (1741 đời Lê Hiển Tôn) tôi vâng mệnh đổi đi Hồng Châu, nhận thấy cùng với nơi nhà cũ tiên sinh chỉ trong gang tấc, tới lui dễ dàng, nhưng lại vì việc quân ngũ quá bề bộn nên mãi đến mùa xuân năm sau, tức năm Nhâm Tuất, trong khi vâng mệnh đi bối đắp đê sông Nhị Hà, mới thực hiện được ý định nói trên.
Đến quê hương của tiên sinh, tôi tìm đến nền quán Trung Tân, coi tấm bia cũ, nhưng nét chữ đã quá mờ, không sao đọc nổi. Tôi vào đền thờ bái yết, nhân tiện hỏi người cháu bảy đời là Nguyễn Thời Đương để xem hành trạng nhưng cũng không thâu thập được gì. Hỏi thăm các bô lão thì sau cơn binh lửa cũng chẳng còn ai biết; duy chỉ có viên hương ấp là Trần Bá Quang biết sơ qua về mấy việc cũ. Ông này ôn lại cho nghe bài phú quốc âm tức bài văn bia quán Trung Tân và đưa cho một bản lục ít bài thơ của tiên sinh. Nhân tiện tôi hỏi đến những di tích của cầu Trường Xuân, cầu Nghinh Phong rồi đi thăm nơi vườn cũ, tới nơi chỉ thấy ba gian nhà lá. Thời Đương và con cháu hơn mười người cũng ở căn nhà đó.
Tôi nhìn quang cảnh đã sinh lòng hoài cảm, lại trông bốn phía càng bồi hồi nữa. Này phía bên tả trước mặt là một cái đầm và bốn năm cái vũng, tất cả độ vài trăm mẫu, bề sâu chỉ độ hơn trượng, chỗ đứt chỗ nối, chỗ thắt chỗ phình, khi thì yên lặng, khi nắng vàng tỏa, phải chăng đây chính là chỗ kiểu đất Nghiễn trì thủy ảnh (mặt hồ nghiên, ánh nước long lanh) có khí thiêng chung đúc để sinh ra một đại nhân vậy?
Do đó tôi ngâm vịnh thẩn thơ, chẳng muốn dời chân. Ôi! Tôi muốn vì tiên sinh viết bài tựa quyển Gia phả, nhưng ngặt vì việc quân khẩn cấp, còn phải gác bút để đeo gươm, thành thử phải đợi ngày khác nữa.
Năm Quý Hợi (1743 đời Lê Hiển Tôn) khoảng mùa Đông, tôi vâng mệnh đi dẹp bọn thuỷ khấu ở vùng Đồ Sơn, nhân lúc đóng quân trên bờ sông Tuyết, lại đến yết kiến đền thờ của tiên sinh. Bọn Thời Đường cho tôi xem quyển Gia phả và nói : Trước đây đã trãi bao phen loạn lạc, chẳng còn quyển nào, sau họ mới sưu tầm được mấy trang rách, trong đó chỉ biên tên họ tiền nhân, ngoài ra chẳng có gì khác cả. Vì thế tôi phải thâu nhặt ý kiến nhiều người, rồi hợp với những điều mắt thấy tai nghe để viết nên bài tựa. Còn việc sưu tầm những bài thơ của tiên sinh, xếp thành thiên, đóng thành tập, để lưu lại cho đời sau thì xin nhường phấn các vị cao minh khác.
Than ôi Phượng Hoàng, Kỳ Lân, đâu phải những vật thường thấy trong vũ trụ xưa nay, mà có thì chúng phải hiện ở những chỗ như vườn nhà Đường (vua Nghiêu) sân nhà Nhu (vua Thuấn) mới là điềm tốt lành. Như tiên sinh đã có sẵn tư chất thông tuệ lại thâm hiểu đạo học thánh hiền, ví phỏng gặp thời để thi thố sở học thì chắc sẽ tạo ra được cảnh trị bình, biến đổi được thói ở trọc phù bạc ra lễ nghĩa văn minh. Khá tiếc thay, một người có tài đức phù tá Vương nghiệp lại sinh giữa thời đại bá giả, khiến cho sở học không áp dụng được gì. Tuy nhiên, dùng thì làm, bỏ thì ẩn, sự đắc dụng hay không, đối với tiên sinh cũng chẳng quan trọng gì. Tôi rất hâm mộ điểm ấy của tiên sinh. Tiên sinh sinh trưởng trên đất nhà Mạc, có lúc thử ra làm quan để thi hành sở học thì cũng là việc bắt chước việc Khổng Phu Tử xưa đi ra mắt Công Sơn Phất Nhiễu; rồi khi thấy không thể giúp được, vội bỏ đi thì lại muốn theo trí sáng của Trương Tử Phòng theo gót Xích Tùng Tử xưa.
Nay tôi đọc những thi văn còn lại của tiên sinh, cũng chẳng khác nào được nghe tiếng reo ngọc khua vàng, sáng sủa như thái dương, rực rỡ như mây màu, thơ thái như cái phong vị tắm nước sông Nghi rồi lên hóng mát ở Vũ vu của Tăng Điểm ngày trước, và cái phong độ yêu sen thích lan của các tiên nho xưa. Đồng thời cũng như thấy tiên sinh và được bái kiến tiên sinh ở chỗ đang ngồi dạy học vậy.
Ngoài ra, tiên sinh lại là người tinh thông Lý học, thấu triệt họa phúc, biết rõ dĩ vãng và tương lai, cả trăm đời sau chưa chắc đã có ai hơn được.
Ôi ! Thiên hạ xưa nay, các bậc quân vương và hiền giả thiếu gì nhưng sống thì phú quý vinh hoa còn khuất, hỏi thời gian sau, đã có mấy ai được người đời nhắc đến. Còn tiên sinh, nay con cháu đã bảy tám đời mà gần thì sĩ phu, dân thứ còn xem như sao Đẩu trên trời, cho cách nghìn năm cũng còn mường tượng như mới buổi sớm nào; xa thì sứ giả Thanh triều là Chu Xán khi nói đến nhân vật Lĩnh Nam cũng có câu “An Nam lý học hữu Trình Tuyền” (về môn lý học nước Nam có ông Trình Tuyền) rồi chép vào sách để truyền lại bên Tàu. Như thế, đủ biết tiên sinh là người rất mực của nước ta về thời đại trước vậy
NGUYỄN BỈNH KHIÊM TRÊN BÁCH KHOA THƯ
Hoàng Kim khởi thảo mục https://vi.wikipedia.org/wiki Nguyễn Bỉnh Khiêm, Wikipedia Tiếng Việt. đã trên chục năm, nay qua nhiều biến đổi nhờ sự hiệu đính bổ sung của nhiều thức giả.
Nguyễn Bỉnh Khiêm, huý là Văn Đạt, tự Hanh Phủ, hiệu Bạch Vân cư sĩ, thường gọi là Trạng Trình Tuyết Giang phu tử, là nhà giáo, nhà tiên tri, nhà thơ triết lý, nhà văn hoá lớn nhất thời Lê -Mạc, bậc kỳ tài yêu nước thương dân, xuất xử hợp thời, hợp lý, sáng suốt, nhân vật lịch sử ảnh hưởng nhất Việt Nam thế kỷ 16. Nguyễn Bỉnh Khiêm sinh năm1491 ở Vĩnh Bảo, mất ngày 28 tháng 11 năm 1585, mẹ và bố là Nhữ Thị Thục và Nguyễn Văn Định.
Nguyễn Bỉnh Khiêm có ba người vợ với 12 người con, trong đó có 7 người con trai, con trai trưởng là Nguyễn Văn Chính.; Sau khi ông đậu Trạng nguyên khoa thi Ất Mùi năm 1535 và làm quan dưới triều Mạc được phong tước Trình Tuyền Hầu rồi thăng tới Trình Quốc Công, dân gian quen gọi ông là Trạng Trình. Ông là nhà hiền triết phương Đông, nhà tiên tri số một Việt Nam, được sĩ phu, dân thứ xem như sao Đẩu trên trời, cho cách nghìn năm cũng còn mường tượng như mới buổi sớm nào; xa thì sứ giả Thanh triều là Chu Xán khi nói đến nhân vật Lĩnh Nam cũng có câu “An Nam lý học hữu Trình Tuyền” (về môn lý học nước Nam có ông Trình Tuyền) rồi chép vào sách để truyền lại bên Tàu theo nhận định của tiến sĩ Vũ Khâm Lân trong Bài tựa Nguyễn Công Văn Đạt phổ ký viết năm 1743 trích Gia phả dòng họ Trạng Trình. Ông trao lại kiệt tác kỳ thư Sấm Trạng Trình sau 500 năm đến nay đã giải mã được các dự báo thiên tài chuẩn xác đến lạ lùng. Đạo Cao Đài sau này đã phong thánh cho ông và suy tôn ông là Thanh Sơn đạo sĩ hay Thanh Sơn chân nhân. Nguyễn Bỉnh Khiêm là danh sĩ tinh hoa, hiền tài muôn thuở của người Việt, dân tộc Việt và nhân loại.
SẤM TRẠNG TRÌNH BẢN A 262 CÂU (*)
Đọc Sấm ký Nguyễn Bỉnh Khiêm
Hoàng Kim sưu tầm, tuyển chọn, biên soạn và giới thiệu
trên Danh nhân ngày 1 tháng 2 năm 2008.
Sấm ký Nguyễn Bỉnh Khiêm, hay còn gọi là Sấm Trạng Trình, là những lời tiên tri của Nguyễn Bỉnh Khiêm về các biến cố chính của dân tộc Việt trong khoảng 500 năm, từ năm 1515 đến năm 2015. Đây là các dự báo thiên tài, hợp lý, tùy thời, tự cường, hướng thiện và lạc quan theo lẽ tự nhiên “thuận thời thì an nhàn, trái thời thì vất vả”. “Trạng Trình đã nắm được huyền cơ của tạo hóa” (lời Nguyễn Thiếp – danh sĩ thời Lê mạt). “An Nam lý học hữu Trình Tuyền” (lời Chu Xán sứ giả của triều Thanh). Vua Phật Trần Nhân Tông (1258-1308) là người trước thời Nguyễn Bỉnh Khiêm, rất coi trọng phép biến Dịch. Người đã viết trong “Cư trần lạc đạo”: “Kinh Dịch xem chơi, yêu tính sáng yêu hơn châu báu. Sách Nhàn đọc giấu, trọng lòng rồi trọng nữa hoàng kim”. Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm với “Sấm ký”, “Bạch Vân Am thi văn tập”,“Thái Ất thần kinh”, “huyền thoại và di tích lịch sử” đã lưu lại cho dân tộc Việt Nam và nhân loại một tài sản văn hoá vô giá. Sấm ký gắn với những giai thoại và sự thật lịch sử hiện đã được giải mã, chứng minh tính đúng đắn của những quy luật- dự đoán học trong Kinh Dịch và Thái Ất thần kinh”. Đến nay đã có 36 giai thoại và sự thật lịch sử về Sấm Trạng Trình đã được giải mã mà chúng tôi sẽ lần lượt đăng trong các bài nghiên cứu tiếp theo.
Sấm Trạng Trình bản A 262 câu là bản trích từ sách “Thành ngữ, điển tích, danh nhân từ điển” (tập 2) của Trịnh Văn Thanh – Sài Gòn – 1966. Đây là bản phù hợp nhất với bản tiếng Hán Nôm lưu tại Thư viện Khoa học Xã hội ( trước đây là Viện Viễn Đông Bác Cổ) và lưu tại Thư viện Quốc gia Hà Nội.; Sấm Trạng Trình gồm 14 câu “cảm đề” và 248 câu “sấm ký”. Tài liệu liên quan hiện có ít nhất ba dị bản, Trong số 20 văn bản, có 7 bản tiếng Hán Nôm lưu tại Thư viện Khoa học Xã hội và Thư viện Quốc gia Hà Nội và 13 tựa sách quốc ngữ về sấm Trạng Trình xuất bản từ năm 1948 đến nay. Bản Sấm Trạng Trình tiếng quốc ngữ phát hiện sớm nhất có lẽ tại Bạch Vân Am thi văn tập in trong Quốc Học Tùng Thư năm 1930 nhưng hiện nay sách này vẫn chưa tìm được.
CẢM ĐỀ
Nguyễn Bỉnh Khiêm
Thanh nhàn vô sự là tiên
Năm hồ phong nguyệt ruổi thuyền buông chơi
Cơ tạo hoá
Phép đổi dời
Đầu non mây khói tỏa
Mặt nước cánh buồm trôi
Hươu Tần mặc kệ ai xua đuổi
Lầu Hán trăng lên ngẫm mệnh trời
Tuổi già thua kém bạn
Văn chương gửi lại đời
Dở hay nên tự lòng người cả
Nghiên bút soi hoa chép mấy lời
Bí truyền cho con cháu
Dành hậu thế xem chơi.
Nước Nam từ họ Hồng Bàng
Biển dâu cuộc thế, giang sơn đổi dời
Từ Đinh, Lê, Lý, Trần thuở trước
Đã bao lần ngôi nước đổi thay
Núi sông thiên định đặt bày
Đồ thư một quyển xem nay mới rành
Hoà đao mộc lạc,
Thập bát tử thành.
Đông A xuất nhập
Dị mộc tái sinh.
Chấn cung xuất nhật
Đoài cung vẫn tinh.
Phụ nguyên trì thống,
Phế đế vi đinh.
Thập niên dư chiến,
Thiên hạ cửu bình.
Lời thần trước đã ứng linh,
Hậu lai phải đoán cho minh mới tường.
Hoà đao mộc hồi dương sống lại
Bắc Nam thời thế đại nhiễu nhương.
Hà thời biện lại vi vương,
Thử thời Bắc tận Nam trường xuất bôn
Lê tồn, Trịnh tại,
Lê bại, Trịnh vong.
Bao giờ ngựa đá sang sông,
Thì dân Vĩnh Lại quận công cả làng.
Hà thời thạch mã độ giang.
Thử thời Vĩnh Lại nghênh ngang công hầu.
Chim bằng cất cánh về đâu?
Chết tại trên đầu hai chữ quận công.
Bao giờ trúc mọc qua sông,
Mặt trời sẽ lại đỏ hồng non Tây.
Đoài cung một sớm đổi thay,
Chấn cung sao cũng sa ngay chẳng còn.
Đầu cha lộn xuống chân con,
Mười bốn năm tròn hết số thời thôi.
Phụ nguyên chính thống hẳn hoi,
Tin dê lại phải mắc mồi đàn dê.
Dục lòng chim chích u mê,
Thập trên tứ dưới nhất đè chữ tâm.
Để loại quỷ bạch Nam xâm,
Làm cho trăm họ khổ trầm lưu ly
Ngai vàng gặp buổi khuynh nguy
Gia đình một ở ba đi dần dần.
Cho hay những gã công hầu,
Giầu sang biết gửi nơi đâu chuyến này.
Kìa kìa gió thổi lá rung cây
Rung Bắc, rung Nam, Đông tới Tây
Tan tác kiến kiều an đất nước
Xác xơ cổ thụ sạch am mây.
Lâm giang nổi sóng mù thao cát,
Hưng địa tràn dâng hóa nước đầy.
Một ngựa một yên ai sùng bái?
Nhắn con nhà vĩnh bảo cho hay.
Tiền ma bạc quỷ trao tay
Đồ, Môn, Nghệ, Thái dẫy đầy can qua,
Giữa năm hai bẩy mười ba,
Lửa đâu mà đốt tám gà trên mây.
Rồng nằm bể cạn dễ ai hay,
Rắn mới hai đầu khó chịu thay,
Ngựa đã gác yên không người cưỡi
Dê không ăn lộc ngoảnh về Tây.
Khỉ nọ ôm con ngồi khóc mếu
Gà kia vỗ cánh chập chùng bay
Chó nọ vẫy đuôi mừng thánh chúa
Ăn no ủn ỉn lợn kêu ngày.
Nói cho hay khảm cung ong dậy,
Chí anh hùng biết đấy mới ngoan
Chữ rằng lục, thất nguyệt gian
Ai mà giữ được mới nên anh tài.
Ra tay điều độ hộ mai
Bấy giờ mới rõ là người an dân
Lọ là phải nhọc kéo quân,
Thấy nhân ai chẳng mến nhân tìm về.
Phá điền than đến đàn dê
Hễ mà chuột rúc thì dê về chuồng
Dê đi dê lại tuồn luồn
Đàn đi nó cũng một môn phù trì
Thương những kẻ nam nhi chí cả
Chớ vội sang tất tả chạy rong
Học cho biết chữ cát hung
Biết phương hướng đứng chớ đừng lầm chi
Hễ trời sinh xuống phải thì
Bất kỳ nhi ngộ tưởng gì đợi mong.
Kìa những kẻ vội lòng phú quý
Xem trong mình một tí đều không
Ví dù có gặp ngư ông
Lưới dăng đâu dễ nên công mà hòng
Khuyên những đấng thời trung quân tử
Lòng trung nghi nên giữ cho mình
Âm dương cơ ngẫu hộ sinh
Thái Nhâm, Thái Ất trong mình cho hay.
Chớ vật vờ quen loài ong kiến
Hư vô bàn miệng tiếng nói không.
Ô hô thế sự tự bình bồng
Nam Bắc hà thời thiết lộ thông
Hồ ẩn sơn trung mao tận bạch
Kình ngư hải ngoại huyết lưu hồng.
Kê minh ngọc thụ thiên khuynh bắc
Ngưu xuất lam điền nhật chính đông
Nhược đãi ưng lai sư tử thượng
Tứ phương thiên hạ thái bình phong
Ngỡ may gặp hội mây rồng
Công danh rạng rỡ chép trong vân đài
Nước Nam thường có thánh tài
Sơn hà đặt vững ai hay tỏ tường?
So mấy lề để tàng kim quỹ
Kể sau này ngu bỉ được coi
Đôi phen đất lở, cát bồi
Đó đây ong kiến, dậy trời quỷ ma
Ba con đổi lấy một cha
Làm cho thiên hạ xót xa vì tiền
Mão Thìn Tí Ngọ bất yên
Đợi tam tứ ngũ lai niên cùng gần.
Hoành Sơn nhất đái
Vạn đại dung thân
Đến thời thiên hạ vô quân
Làm vua chẳng dễ, làm dân chẳng lành.
Gà kêu cho khỉ dậy nhanh
Phụ nguyên số đã rành rành cáo chung
Thiên sinh hữu nhất anh hùng
Cứu dân độ thế trừ hung diệt tà.
Thái Nguyên cận Bắc đường xa
Ai mà tìm thấy mới là thần minh
Uy nghi dung mạo khác hình
Thác cư một góc kim tinh non đoài
Cùng nhau khuya sớm chăn nuôi
Chờ cơ mới sẽ ra đời cứu dân
Binh thư mấy quyển kinh luân
Thiên văn địa lý, nhân dân phép màu
Xem ý trời ngõ hầu khải thánh
Dốc sinh ra điều đỉnh hộ mai
Song thiên nhật nguyệt sáng soI
Thánh nhân chẳng biết thì coi như tường
Thông minh kim cổ khác thường
Thuấn Nghiêu là trí, Cao Quang là tài
Đấng hiên ngang nào ai biết trước
Tài lược thao uyên bác vũ văn
Ai còn khoe trí khoe năng
Cấm kia bắt nọ hung hăng với người.
Chưa từng thấy nay đời sự lạ
Chốc lại mòng gá vạ cho dân
Muốn bình sao chẳng lấy nhân
Muốn yên sao lại bắt dân ghê mình?
Đã ngu dại Hoàn, Linh đời Hán
Lại đua nhau quần thán đồ lê
Chức này quyền nọ say mê
Làm cho thiên hạ khôn bề tựa nương
Kẻ thì phải thuở hung hoang
Kẻ thì bận của bổng toan, khốn mình
Cửu cửu càn khôn dĩ định
Thanh minh thời tiết hoa tàn
Trực đáo dương đầu mã vĩ
Hồ binh bát vạn nhập Tràng An
Nực cười những kẻ bàng quang
Cờ tam lại muốn toan đường chống xe
Lại còn áo mũ xun xoe
Còn ra xe ngựa màu mè khoe khoang.
Ghê thay thau lẫn với vàng
Vàng kia thử lửa càng cao giá vàng
Thánh ra tuyết tán mây tan
Bây giờ mới sáng rõ ràng nơi nơi.
Can qua, việc nước bời bời
Trên thuận ý trời, dưới đẹp lòng dân
Oai phong khấp quỷ kinh thần
Nhân nghĩa xa gần bách tính ngợi ca
Rừng xanh, núi đỏ bao la
Đông tàn, Tây bại sang gà mới yên
Sửu Dần thiên hạ đảo điên
Ngày nay thiên số vận niên rành rành.
Long vĩ xà đầu khởi chiến tranh
Can qua xứ xứ khổ đao binh
Mã đề dương cước anh hùng tận
Thân dậu niên lai kiến thái bình
Sự đời tính đã phân minh
Thanh nhàn mới kể chyện mình trước sau
Đầu thu gà gáy xôn xao
Mặt trăng xưa sáng tỏ vào Thăng Long.
Chó kêu ầm ỉ mùa đông
Cha con Nguyễn lại bế bồng nhau đi
Lợn kêu tình thế lâm nguy
Quỷ vương chết giữa đường đi trên giời
Chuột sa chỉnh gạo nằm chơi
Trâu cày ngốc lại chào đời bước ra
Hùm gầm khắp nẽo gần xa
Mèo kêu rợn tiếng, quỷ ma tơi bời.
Rồng bay năm vẻ sáng ngời
Rắn qua sửa soạn hết đời sa tăng
Ngựa hồng quỷ mới nhăn răng
Cha con dòng họ thầy tăng hết thời
Chín con rồng lộn khắp nơi
Nhện giăng lưới gạch dại thời mắc mưu
Lời truyền để lại bấy nhiêu
Phương đoài giặc đã đến chiều bại vong
Hậu sinh thuộc lấy làm lòng
Đến khi ngộ biến đường trong giữ mình
Đầu can Võ tướng ra binh
Ắt là trăm họ thái bình âu ca
Thần Kinh Thái Ất suy ra
Để dành con cháu đem ra nghiệm bàn
Ngày thường xem thấy quyển vàng
Của riêng bảo ngọc để tàng xem chơi
Bởi Thái Ất thấy lạ đời
Ấy thuở sấm trời vô giá thập phân
Kể từ đời Lạc Long Quân
Đắp đổi xoay vần đến lục thất gian
Mỗi đời có một tôi ngoan
Giúp chung nhà nước dân an thái bình
Phú quý hồng trần mộng
Bần cùng bạch phát sinh
Hoa thôn đa khuyển phệ
Mục giã giục nhân canh
Bắc hữu Kim thành tráng
Nam hữu Ngọc bích thành
Phân phân tùng bách khởi
Nhiễu nhiễu xuất đông chinh
Bảo giang thiên tử xuất
Bất chiến tự nhiên thành
Rồi ra mới biết thánh minh
Mừng đời được lúc hiển vinh reo hò
Nhị Hà một dải quanh co
Chính thực chốn ấy đế đô hoàng bào
Khắp hoà thiên hạ nao nao
Cá gặp mưa rào có thích cùng chăng?
Nói đến độ thầy tăng mở nước
Đám quỷ kia xuôi ngược đến đâu
Bấy lâu những cậy phép màu
Bây giờ phép ấy để lâu không hào
Cũng có kẻ non trèo biển lội
Lánh mình vào ở nội Ngô Tề
Có thầy Nhân Thập đi về
Tả hữu phù trì, cây cỏ thành binh
Những người phụ giúp thánh minh
Quân tiên xướng nghĩa chẳng tàn hại ai
Phùng thời nay hội thái lai
Can qua chiến trận để người thưởng công
Trẻ già được biết sự lòng
Ghi làm một bản để hòng giở xem
Đời này những thánh cùng tiên
Sinh những người hiền trị nước an dân
Này những lúc thánh nhân chưa lại
Chó còn nằm đầu khải cuối thu
Khuyên ai sớm biết khuông phù
Giúp cho thiên hạ Đường, Ngu ngỏ hầu.
Cơ tạo hoá phép mầu khôn tỏ,
Cuộc tàn rồi mới tỏ thấp cao.
Thấy sấm từ đây chép vào
Một mảy tơ hào chẳng dám sai ngoa.”
BIỂN ĐÔNG VẠN DẶM GIANG TAY GIỮ
Biển Đông vạn dặm giang tay giữ. Đất Việt muôn năm vững thái bình” và thông điệp ngoại giao của cụ Trạng Trình nhắn gửi con cháu về lý lẽ giữ nước: “Muốn bình sao chẳng lấy nhân / Muốn yên sao lại bắt dân ghê mình. Điều lạ trong câu thơ là dịch lý, ẩn ngữ, chiết tự của cách ứng xử hiện thời. Bình là hòa bình nhưng bình cũng là Tập Cận Bình. Biển Đông, Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam là sự thật hiển nhiên, khó ai có thể lấy mạnh hiếp yếu, cưỡng tình đoạt lý để mưu toan giành giật, cho dù cuộc đấu thời vận và pháp lý trãi hàng trăm, hàng ngàn năm, là “kê cân – gân gà” mà bậc hiền minh cần sáng suốt. “Cổ lai nhân giả tri vô địch, Hà tất khu khu sự chiến tranh” Từ xưa đến nay, điều nhân là vô địch, Cần gì phải khư khư theo đuổi chiến tranh. “Quân vương như hữu quang minh chúc, ủng chiếu cùng lư bộ ốc dân” Nếu nhà vua có bó đuốc sáng thì nên soi đến dân ở nơi nhà nát xóm nghèo.”Trời sinh ra dân chúng, sự ấm no, ai cũng có lòng mong muốn cả”; “Xưa nay nước phải lấy dân làm gốc, nên biết rằng muốn giữ được nước, cốt phải được lòng dân”. Đạo lý, Dịch lý, Chiết tự và Ẩn ngữ Việt thật sâu sắc thay !
Trung Hoa có câu chuyện phong thủy. Núi Cảnh Sơn. Jǐngshān, 景山, “Núi Cảnh”, địa chỉ tại 44 Jingshan W St, Xicheng, Beijing là linh địa đế đô. Cảnh Sơn là Núi Xanh, Green Mount, ngọn núi nhân tạo linh ứng đất trời, phong thủy tuyệt đẹp tọa lạc ở quận Tây Thành, chính bắc của Tử Cấm Thành Bắc Kinh, trục trung tâm của Bắc Kinh, thẳng hướng Cố Cung, Thiên An Môn. Trục khác nối Thiên Đàn (天坛; 天壇; Tiāntán, Abkai mukdehun) một quần thể các tòa nhà ở nội thành Đông Nam Bắc Kinh, tại quận Xuanwu. Trục khác nối Di Hòa Viên (颐和园/頤和園; Yíhé Yuán, cung điện mùa hè) – là “vườn nuôi dưỡng sự ôn hòa” một cung điện được xây dựng từ thời nhà Thanh, nằm cách Bắc Kinh 15 km về hướng Tây Bắc. Một hướng khác nối Hải Nam tại thành phố hải đảo Tam Sa, nơi có pho tượng Phật thuộc loại bề thế nhất châu Á. Tam Sa là thành phố có diện tích đất liền nhỏ nhất, tổng diện tích lớn nhất và có dân số ít nhất tại Trung Quốc. Theo phân định của chính phủ Trung Quốc, Tam Sa bao gồm khoảng 260 đảo, đá, đá ngầm, bãi cát trên biển Đông với tổng diện tích đất liền là 13 km². Địa giới thành phố trải dài 900 km theo chiều đông-tây, 1800 km theo chiều bắc-nam, diện tích vùng biển khoảng 2 triệu km². Đó là đường lưỡi bò huyền bí. Biển Đông, Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam nằm trên trục chính của sự thèm muốn này.
Ngày xuân đọc Trạng Trình. Lạ lùng thay hơn 500 trước Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm đã dự báo điều này và sứ giả Thanh triều là Chu Xán khi nói đến nhân vật Lĩnh Nam cũng có câu “An Nam lý học hữu Trình Tuyền” (về môn lý học nước Nam có ông Trình Tuyền) rồi chép vào sách để truyền lại bên Tàu.
CỰ NGAO ĐỚI SƠN
Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm Bích tầm tiên sơn triệt đế thanh Cự ngao đới đắc ngọc hồ sinh Đáo đầu thạch hữu bổ thiên lực Trước cước trào vô quyển địa thanh Vạn lý Đông minh quy bá ác Ức niên Nam cực điện long bình Ngã kim dục triển phù nguy lực Vãn khước quan hà cựu đế thành Dịch nghĩa: CON RÙA LỚN ĐỘI NÚI Nước biếc ngâm núi tiên trong tận đáy Con rùa lớn đội được bầu ngọc mà sinh ra Ngoi đầu lên, đá có sức vá trời Bấm chân xuống, sóng cuồn cuộn không dội tiếng vào đất Biển Đông vạn dặm đưa về nắm trong bàn tay Muôn năm cõi Nam đặt vững cảnh trị bình Ta nay muốn thi thổ sức phù nguy Lấy lại quan hà, thành xưa của Tổ tiên. Dịch thơ: CON RÙA LỚN ĐỘI NÚI Núi tiên biển biếc nước trong xanh Rùa lớn đội lên non nước thành Đầu ngẩng trời dư sức vá đá Dầm chân đất sóng vỗ an lành Biển Đông vạn dặm dang tay giữ Đất Việt muôn năm vững trị bình Chí những phù nguy xin gắng sức
Cõi bờ xưa cũ Tổ tiên mình.(Bản dịch thơ Nguyễn Khắc Mai)
THƠ VĂN NGUYỄN BỈNH KHIÊM
Bốn tác phẩm tuyển chọn
DƯỠNG SINH THI
Nguyễn Bỉnh Khiêm
Tích khí, tồn tinh, cánh dưỡng thần
Thiểu tư, qủa dục, vật lao thân.
Thực thôi ban bảo, vô kiêm vị,
Tửu chỉ tam phân, mạc quá tần
Mỗi bả hý ngôn, đa thủ tiếu,
Thường hàm, lạc ý, mạc sinh xân
Nhiệt viêm, biến trá, đô hưu vấn
Nhiệm ngã tiêu dao qúa bách xuân
Dịch thơ
Giữ khí, gìn tinh, lại dưỡng thần
Ít lo, ít muốn, ít lao thân.
Cơm nên vừa bụng, đừng nhiều vị,
Rượu chỉ vài phân, chớ qúa từng.
Miệng cứ câu đùa, vui miệng mãi,
Bụng thường nghĩ tốt, bụng lâng lâng.
Bốc đồng, biến trá, thôi đừng hỏi,
Để tớ tiêu dao đến tuổi trăm.
(Bản dịch của GS. Lê Trí Viễn)
NHÀN (Thơ Nôm, bài 73)
Nguyễn Bỉnh Khiêm
Một mai, một cuốc, một cần câu,
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào.
Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn, người đến chốn lao xao.
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao
Rượu đến cội cây, ta sẽ nhắp
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao.
CHÍN MƯƠI (Thơ Nôm, bài 29)
Nguyễn Bỉnh Khiêm
Tóc đã thưa, răng đã mòn,
Việc nhà đã phó mặc dâu con.
Bàn cờ, cuộc rươu, vầy hoa cúc
Bó củi, cần câu, trốn nước non.
Nhàn được thú vui hay nấn ná,
Bữa nhiều muối bể chứa tươi ngon
Chín mươi thì kể xuân đà muộn
Xuân ấy qua thì xuân khác còn.
NGUYỄN BỈNH KHIÊM: MẶT TRỜI MỌC Ở PHƯƠNG ĐÔNG
Vẹn toàn điều Thiện là Trung, không vẹn toàn điều Thiện thì không phải là Trung. Tân là cái bến, biết chỗ dừng lại là bến chính, không biết chỗ dừng lại là bến mê… Nghĩa chữ Trung chính là ở chỗ Chí Thiện. (Trung Tân quán bi ký, 1543)
Làm việc thiện không phải vì công tích mà ở tấm lòng. Nay vừa sau cơn loạn lạc thì chẳng những thân người ta bị chìm đắm, mà tâm người ta càng thêm chìm đắm. Các bậc sĩ đệ nên khuyến khích nhau bằng điều thiện, để làm cho mọi người dấy nên lòng thiện mà tạo nên miền đất tốt lành. (Diên Thọ kiều bi ký, 1568).
Hoành Sơn nhất đái, khả dĩ dung thân
(Nguyễn Bỉnh Khiêm nói với sứ giả của Đoan Quận công Nguyễn Hoàng)
Cao Bằng tuy thiểu, khả diên sổ thế
(Nguyễn Bỉnh Khiêm nói với sứ giả của vua Mạc)
Lê tồn Trịnh tại, Lê bại Trịnh vong
(Nguyễn Bỉnh Khiêm nói về mối quan hệ giữa vua Lê và chúa Trịnh)
Tứ bách niên tiền, chung phục thuỷ / Thập tam thế hậu, dị nhi đồng
(Nguyễn Bỉnh Khiêm viết về con cháu họ Mạc)
Hồng Lam ngũ bách niên thiên hạ / Hưng tộ diên trường ức vạn xuân
(Nguyễn Bỉnh Khiêm viết về thời vận mới của nước Việt)
Cổ lai quốc dĩ dân vi bản / Đắc quốc ưng tri tại đắc dân
(Thơ chữ Hán, Cảm hứng)
Cổ lai nhân giả tư vô địch / Hà tất khu khu sự chiến tranh
(Thơ chữ Hán)
Tất cánh dục cầu ngô lạc xứ / Tri ngô hậu lạc tại tiên ưu
(Thơ chữ Hán, Ngụ hứng)
Có thuở được thời mèo đuổi chuột / Đến khi thất thế kiến tha bò
(Thơ Nôm, Bài 75)
Thớt có tanh tao ruồi đậu đến / Ang không mật mỡ kiến bò chi
(Thơ Nôm, Bài 53)
Hoa càng khoe nở, hoa nên rữa / Nước chứa cho đầy, nước ắt vơi
(Thơ Nôm, Bài 52)
Thế gian biến cải vũng nên đồi / Mặn nhạt chua cay lẫn ngọt bùi
(Thơ Nôm, Bài 77)
Làm người hay một chớ hay hai / Chớ cậy rằng hơn, chớ cậy tài
(Thơ Nôm, Bài 65)
Làm người chớ thấy tài mà cậy / Có nhọn bao nhiêu lại có tù
(Thơ Nôm, Bài 11)
Làm người có dại mới nên khôn / Chớ dại ngây si, chớ quá khôn
(Thơ Nôm, Bài 94)
Chớ cậy rằng khôn khinh rẻ dại / Gặp thời, dại cũng hoá ra khôn
(Thơ Nôm, Bài 94)
Thuở khó dẫu chào, chào cũng lảng/ Khi giàu chẳng hỏi, hỏi thời quen
(Thơ Nôm, Bài 5)
Đạo ở mình ta lấy đạo trung / Chớ cho đục, chớ cho trong
(Thơ Nôm, Bài 104)
THẮP ĐÈN LÊN ĐI EM
Hoàng Kim
Em đã học nhiều gương sáng danh nhân
Hãy biết nhục biết hèn mà rèn chí
Thắp đèn lên đi em ngọn đèn dầu bền bỉ
Sáng giữa đời lấp lánh một niềm tin.