Số lần xem
Đang xem 9401 Toàn hệ thống 21446 Trong vòng 1 giờ qua
Trang liên kết
Tỉnh thức
giữa đêm thiêng Yên Tử
Để thấm hiểu đức Nhân Tông
Ta thành tâm đi bộ
Lên tận đỉnh chùa Đồng
Tâm sáng Ức Trai
trong tựa ngọc TÌNH YÊU CUỘC SỐNG
DẠY VÀ HỌC Để chấn hưng giáo dục Việt Nam cấp thiết phải có đội ngũ những người thầy giáo ưu tú có tâm đức thiết tha với nghề, có trình độ chuyên môn cao và có kỹ năng giảng dạy tốt. Đây là trang thông tin chuyên đề dạy và học để trao đổi và bàn luận
Norman Borlaug Lời Thầy dặn Việc chính đời người chỉ ít thôi
Chuyên tâm đừng bận chuyện trời ơi
Phúc hậu suốt đời làm việc thiện
Di sản muôn năm mãi sáng ngời.
Thái Dương hệ có Mặt trời là trung tâm đã trãi 4,6 tỷ năm, có tám hành tinh quay quanh lực hấp dẫn của mặt trời với mặt phẳng quỷ đạo gần tròn gọi là mặt phẳng hoàng đạo. Bốn hành tinh nhỏ vòng trong thành phần chính là đá, kim loại gồm lần lượt có Sao Thủy, Sao Kim, Trái Đất, và Sao Hỏa, Sao Thủy nhỏ nhất, gần mặt trời nhất và quay nhanh nhất, Sao Kim là sao Mai, sao Hôm cũng là Thái Bạch Kim Tinh. Sao Kim tự quay quanh mình với 224,7 ngày Trái Đất. Hành tinh xanh Trái đất là nhà của hàng triệu loại sinh vật. Sao Hỏa nhiều sắt ô xít nên hành tinh này màu đỏ đặc trưng. Bốn hành tinh lớn vòng ngoài thành phần chủ yếu khí thiên nhiên. gồm Sao Mộc, Sao Thổ, Sao Thiên Vương, Sao Hải Vương đôi khi được phân loại thành các hành tinh băng khổng lồ Sao Diêm vương và các hành tinh lùn thuộc vành đai Kuiper bên ngoài của sao Hải Vương thành phần chính là đá và băng. Đọc tiếp … Sao Kim kỳ thú; Sao Mai và Biển
thiên hà trong vắt khuya
chuyển mùa
tự nhiên tỉnh
ta ngắm trời, ngắm biển
chòm sao em.
vầng sáng anh,
dưới vòm trời lấp lánh
khoảnh khắc thời gian
thăm thẳm
một tầm nhìn.
GET UP
clear late galaxies
transfer season
natural awakening
I watch the sun, watching the sea
watching the constellations.
glow from where he
under the sparkling sky
moment of time
chasms
a vision.
Ảnh Soải Nguyễn thật đẹp ! Cuộc đời vui hơn bởi những màu phổ rộng và tươi, luôn làm cho bức tranh đời bạn sáng đẹp. Cám ơn Soải Nguyễn Nhị Hà Thuận Nam Ninh Thuận;
Toni Morrison, gọi tắt là Toni, tên khai sinh Chloe Anthony Wofford, sinh ngày 18 tháng 2 năm 1931, là nhà văn nữ Mỹ gốc Phi, người thành phố New York, giáo sư Mỹ, phụ nữ đoạt giải Nobel Văn học năm 1993, giải Pulitzer năm 1988, nổi tiếng với các tác phẩm Tình yêu, Người yêu dấu, Bài ca Solomon, Mắt xanh. Bà rất được kính trọng trong các phong trào quyền bình đẳng phụ nữ và thường phát biểu trong các đại hội của phụ nữ da đen. Tác phẩm của bà được dịch ra nhiều thứ tiếng và là đối tượng của nhiều công trình nghiên cứu. Morrison gọi Bill Clinton là “Tổng thống da đen đầu tiên”, vì bà cho rằng “Clinton phô bày hầu hết những nét đặc trưng của dân da đen: Một cậu bé gốc Arkansas, sinh ra trong một gia đình nghèo không cha, thuộc tầng lớp lao động, chơi kèn saxophone, và mê thức ăn McDonald”.
Toni Morrison là nhà văn tình yêu như tác phẩm mẫu mực mới đây của bà, một trong những biểu tượng văn hóa khát khao vươn tới. Đó là sự tôn vinh những giá trị đích thực của nhân loại: yêu thương con người, tôn trọng tự do, quan tâm bình đẳng giới, quan tâm người nghèo và những người kém may mắn.
Toni sinh ở Lorain, Ohio, (ảnh Rona Proudfoot) là một thành phố thuộc quận Lorain, tiểu bang Ohio, Hoa Kỳ. Năm 2010, dân số của thành phố này là 64.097 người. Toni là con thứ hai trong một gia đình công nhân da đen có bốn người con. Toni lớn lên cùng cuộc đại suy thoái những năm 1930 ở nước Mỹ. Bà sớm bộc lộ niềm yêu thích văn học. Thuở nhỏ, bà học tiếng Latin, đọc các tác phẩm của văn học Nga, Anh và Pháp. Austen và Tolstoy là bậc thầy thần tượng của Toni. Austen (hìnhUTA) sinh ngày 16 tháng 12 năm 1775 mất ngày 18 tháng 7 năm 1817, là nữ văn sĩ Anh, tác giả của nhiều tác phẩm nổi tiếng. Văn phong tuyệt kỹ trong nghệ thuật dẫn chuyện và xây dựng tình huống cùng với tầm cao văn hóa xã hội đã đem tên tuổi Austen vào trong số những nhà văn nhiều ảnh hưởng và được trọng vọng nhất trên văn đàn nước Anh. Auten chưa bao giờ kết hôn nhưng có câu chuyện tình yêu lãng mạn với Tom Lefroy và thể hiện sâu sắc trong đời văn của mình. Austen đã ảnh hưởng sâu đậm đến phong cách văn chương của Toni.
Toni cũng được ảnh hưởng nhiều bởi Tonstoy (hình). Tolstoy là đại văn hào Nga với các kiệt tác Chiến tranh và hoà bình và Anna Karenina, nhà viết tiểu thuyết vĩ đại nhất trong tất cả các nhà viết tiểu thuyết. Tolstoy sinh ngày 9 tháng 9 năm 1828 mất ngày 20 tháng 11 năm 1910 là nhà giáo dục, nhà triết học, nhà đạo đức, người theo chủ nghĩa nhân đạo, hoà bình, nổi tiếng với tư tưởng đối kháng không bạo động, được thể hiện xuyên suốt các tác phẩm của mình, ảnh hưởng sâu đậm tới nhiều nhân vật danh tiếng của thế kỷ XX như Gandhi, Luther King và Toni.
Toni sau khi tốt nghiệp trung học loại ưu năm 1945 đã theo học ngành khoa học xã hội nhân văn tại trường Đại học Howard và hoàn thành chương trình cao học tại Đại học Cornell, sau đó làm giảng viên tại Đại học Texas, Đại học Howard và Đại học Yale. Biệt danh “Toni” có từ những ngày còn học ở đại học. Năm 1958 bà lấy chồng là Harold Morrison, có hai con là Harold và Slade. Sau năm 1964 bà sống độc thân và làm trợ lí biên tập cho nhà xuất bản Random House chuyên sách giáo khoa tiểu bang New York. Sau đó, bà trở thành biên tập viên chính, biên tập sách của nhiều nhà văn nổi tiếng từ năm 1967. Toni xuất bản cuốn tiểu thuyết đầu tay “Mắt xanh” (The Bluest Eye) năm 1970, thu hút sự chú ý của công chúng Mỹ do sự mô tả sâu sắc cuộc sống và số phận của những người Mỹ gốc Phi. “Mắt xanh” nói về mơ ước của cô gái da đen ước mình có mắt xanh biểu tượng nét đẹp của người Mỹ da trắng, tác động sâu sắc đến sự thành kiến chủng tộc đang nhức nhối lương tâm nước Mỹ . Năm 1973, tiểu thuyết Sula của Toni trở thành sách bán chạy nhất và được trao Giải thưởng sách Quốc gia. Hai năm 1976 và 1977 bà dạy ở Đại học Yale và viết Bài ca Solomon (Song of Solomon), được trao Giải thưởng Quốc gia và Giải thưởng của Viện Hàn lâm Văn học và Nghệ thuật Mỹ. Toni từ năm 1989 giữ chức giáo sư Đại học Princeton, chuyên gia giảng dạy văn học Mỹ – Phi, thỉnh giảng và viết phê bình. Kể từ năm 1981, bà là thành viên Viện Hàn lâm Văn học và Nghệ thuật Mỹ, Viện Hàn lâm các Khoa học xã hội và Khoa học chính xác Mỹ. Bà đã nhận được nhiều giải thưởng văn học có uy tín, trong đó có giải Pulitzer năm 1988 cho tiểu thuyết Người yêu dấu (Beloved). Trong tác phẩm này, bà đã chỉ ra tác động kinh hoàng của kiếp nô lệ đến tình cảm của người mẹ. Câu chuyện của một phụ nữ da đen cho rằng thà tự tay giết chết con gái mình còn hơn phải đưa con đi làm nô lệ đã ám ảnh lương tâm nước Mỹ vừa phục hồi sau cuộc nội chiến, hướng tới giá trị nhân văn đa sắc tộc, tôn trọng quyền con người, quyền được sống, được tự do và mưu cầu hạnh phúc. Tiểu thuyết “Người yêu dấu” đã thành công vang dội. Năm 1993, bà được nhận giải Nobel, trở thành người phụ nữ da đen đầu tiên được trao giả thưởng cao quý này. “Tình yêu” (Love) là tiểu thuyết mới nhất của bà xuất bản năm 2003, rất được yêu thích và bà trở thành một trong những biểu tượng của văn hóa Mỹ.
Những tác phẩm chính của Toni Morrison gồm có:
The Bluest Eye (Mắt xanh, 1970), tiểu thuyết
Sula (1973), tiểu thuyết
Song of Solomon (Bài ca Solomon, 1977), tiểu thuyết
Tar Baby (Thủy thủ nhóc, 1981), tiểu thuyết
Dreaming Emmett (Giấc mơ em, 1986), kịch
Beloved (Người yêu dấu, 1987), tiểu thuyết
Jazz (Nhạc Jazz, 1992), tiểu thuyết
Playing in the Dark (Chơi đêm, 1992), tiểu luận
Racing Justice (Thi đua công bằng, 1992), tiểu luận
Paradise (Thiên đường, 1998), tiểu thuyết
The Big Box (Chiếc hộp lớn, 2000), truyện thiếu nhi
The Book of Mean People (Sách đời thường, 2001), truyện thiếu nhi
Love (Tình yêu, 2003), tiểu thuyết.
Nguồn chính thông tin về Toni Morrison trên Wikipedia tiếng Việt, Literary Encyclopedia biography, Voices from the Gaps biography, The Nobel Prize in Literature 1993, Toni trên thế giới tiếng Anh quá nổi tiếng, đặc biệt với Tình Yêu (Love), Người yêu dấu (Beloved), Bài ca Solomon (Song of Solomon), Mắt xanh (The Bluest Eye).
Toni ở Việt Nam là khát khao xanh chờ đợi của tôi và bạn đọc Việt, mong muốn được thưởng thức các bản chuyển ngữ uy tín, danh tiếng, để người Việt được lắng đọng và chia sẻ tầm tư tưởng nhân văn cao vọi cùng với nghệ thuật văn chương bậc thầy của một nhà văn lớn đương đại. Người Việt mở rộng cửa giao lưu văn hóa nhìn ra thế giới.
Hoàng Kim
THƯƠNGKIM THIẾP VŨ MÔN
Hoàng Kim
Đến với Tây Nguyên, tôi đọc lại “Trịnh Công Sơn tình yêu cuộc sống” và “Kim Thiếp Vũ Môn Trần Gia Ninh“. Trịnh Công Sơn sinh ra ở Buôn Ma Thuột Đăk Lăk tại cõi riêng nhà cha mẹ anh gần đình Lạc Giao và chùa Khải Đoan. Sách Kim Thiếp Vũ Môn của tác giả Thâm Giang Trần Gia Ninh, Chủ tịch Hội đồng khoa học Viện Vật lý ứng dụng và thiết bị khoa học, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam là tiểu thuyết lịch sử nổi tiếng có nội dung chính yếu đề cập tới tài trí tuyệt vời của người Việt trong sự rèn đúc vũ khí chống giặc mà nổi bật nhất là hỏa hổ. GSTS.NGND Trần Văn Minh và tôi tình cờ trong khoảng lặng tâm hồn tìm thấy sách này tại Buôn Ma Thuột và đều tâm đắc.
Kim Thiếp Vũ Môn Trần Gia Ninh. Thác Vũ Môn nằm trên dãy núi Giăng Màn, từ trên cao hơn bốn ngàn thước đổ xuống. Thác nằm ở triền núi phía đông núi Khái Trướng, đỉnh núi là biên giới Việt Lào, thuộc xã Hương Lâm, huyện Hương Khê, Hà Tĩnh ngày nay. Có câu ca “Mồng bảy cá đi ăn thề. Mồng tám cá về vượt thác Vũ Môn” chỉ ngày mồng bảy và mồng tám tháng tư, lúc này đầu mưa nguồn đổ xuống, thác nổi ào ào, mây mù dày đặc không ai dám đến gần.”
NHỮNG CẢM NHẬN ĐỌC LẠI
Kim Thiếp Vũ Môn Trần Gia Ninh nhiều tư liệu quý và nhiều thông tin liên quan cần được nghiên cứu thẩm định. Tôi chưa rõ đúng sai của một số chỉ dấu rất quan trọng nên lưu một số tư liệu cần đọc lại để tìm tòi và suy ngẫm.
1] Cảm nhận của Phan Lan Hoa rất đáng chú ý: a) Khi viết tiểu thuyết lịch sử, chỉ nên hư cấu những chuyện tình, không nên hư cấu sự kiện lịch sử. Ví dụ: “Tác giả để Lê Lợi xưng vương từ Thanh Hóa rồi mới kéo quân vào Hoan Châu là chưa đúng? Cứ theo An Tĩnh cổ lục thì 10 năm Bình Định Vương của Lê Lợi, mãi đến năm thứ 9, Lê Lợi mới dựng Trần Ngỗi lên ngôi, nhằm lấy cớ phò vua để tấu thư sang nhà Minh. Sau thì ép Trần Ngỗi uống thuốc độc chết. Cho nên Trần Ngỗi là vị vua Trần cuối cùng của Trần triều. Chỉ khi đánh Minh thắng lợi, về tới Thăng Long, Lê Lợi mới xưng vương. Thứ tự các trận đánh cũng không đúng lich sử ? Phạm Thị Ngọc Trần không phải vợ đầu của Lê Lợi mà công chúa Huy Chân mới là vợ cả. Khi Lê Lợi xưng vương, bà ấy là hoàng hậu, hiệu là Trịnh Thục? Vụ này gia tộc vị công nương này còn ghi rõ sự tích và ngày giờ mất của bà ấy.” Nhưng dù sao thì con em Nghệ An nên đọc. Họ Trần và họ Lê ở Bắc Kỳ nên đọc nhiều nhất, vì hai họ này rạng danh hay không trong lịch sử, đều nhờ một tay người Nghệ An cả. Không ơn thì thôi đừng đem lòng phụ bạc?!; b) Cảm nhận khi đọc bài “Đi tìm dấu tích Hội thề Lũng Nhai” của Ngọc Minh (ngocminhbtn@gmail.com) đăng trên báo Thanh Niên trực tuyên 06:49 09/01/2020, nêu giả thiết Có giả thiết nhận định, Hội thề Lũng Nhai diễn ra tại xã Phúc Thịnh, hoặc xã Kiên Thọ của huyện Ngọc Lặc tỉnh Thanh Hóa “Sau nhiều lần hội thảo, đặc biệt là cuộc hội thảo do Viện Sử học, Hội Khoa học lịch sử Việt Nam và UBND tỉnh Thanh Hóa tổ chức gần đây đã cơ bản thống nhất, xác định đồi Bái Tranh ở lưng chừng núi Pù Mé là nơi diễn ra Hội thề Lũng Nhai (hiện nơi đây cũng đã được UBND tỉnh Thanh Hóa ra quyết định công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh). Tại hội thảo này cũng vẫn còn ý kiến khác chưa đồng thuận, vì vậy công cuộc nghiên cứu vẫn chưa kết thúc.” Phan Lan Hoa nhận xét: ” Người Thanh Hóa đang mơ à ? Căn cứ vào Dư địa chí Nguyễn Trãi, thì thời của Lê Lợi chả có núi nào ở Thanh Hóa có tên Lam Sơn cả ? Hội thề Lũng Nhai thành lập ở Thanh Hóa thì đúng rồi, nhưng cuộc khởi nghĩa là ở Lam Sơn Thành, núi Lam Sơn ở Thành phố Vinh, Nghệ An. Tuy vậy, Lê Lợi không đóng quân tại núi Lam Sơn, mà núi này là bốt đồn của Trương Phụ tướng Nhà Minh. Còn kinh đô tạm của Lê Lợi trên đỉnh Tam Thai thuộc dãy núi Thiên Nhận thuộc tổng Thanh Hoa, xứ Hoan Châu. Nay thuộc một phần đất đất ba huyện Đức Thọ, Hương Sơn (Hà Tĩnh), Đô Lương (Nghệ An) và toàn bộ huyện Thanh Chương (Nghệ An)..Cho nên cần hiểu, “Khởi nghĩa Lam Sơn” là quân của Lê Lợi công vào thành Lam Sơn, sào huyệt của nhà Minh để đánh bật tên tướng nhà Minh bấy giờ là Thái Phúc ra khỏi thành (nay là thành phố Vinh). Chốt lại: 10 năm chinh chiến của Bình Định Vương Lê Lợi hết 9 năm rưỡi trên đất Hà Tĩnh. Dấu tích đến nay còn cả, từ thành quách, hang động, cho đến chùa đền, khỏi phải mất công lặn lôi tìm đâu? Sự bội bạc của Lê triều thời mạt chính là mâu thuẫn để lại cho tới ngày nay, các gia đình ở Hà Tĩnh cứ hễ nghe con mình yêu trai Thanh Hóa là tỏ ra ái ngại. Đơn giản vì người Hoan Châu không chỉ giúp Lê Lợi dựng nên cơ đồ, mà trắng phớ Lê Lợi không có mấy ả đàn bà đất La Giang cung cấp lương tài vũ khí thì ăn cám mà thành công được sao? Không có người Hà Tĩnh dốc lòng thì Hội thề Lũng Nhai thành công được sao? (rảnh tui sẽ đọc sách và lôi đủ chuyện phản bội ra khoe sau). Cho nên hậu duệ nhà Lê ở Thanh Hóa đời nay đừng buông lời phản tắc? Lê Lợi có tới 3 bà vợ người Hà Tĩnh, trong đó một bà con vua Trần Dụ Tông, một bà (Phạm Thị Ngọc Trần) thác mình cho long vương để cầu an cho Lê Lợi chinh chiến. Và đáng nói thì 3 bà phi này để lại cho nhà Lê bao nhiêu con cái, thời ngần ấy đứa có quê ngoại Hà Tĩnh đấy. Những bài viết kiểu này “Đi tìm dấu tích Hội thề Lũng Nhai” (với kết luận hồ đồ) là vô ơn, vô hậu lắm lắm…
2] Nguyễn Hải có bài: ‘Đọc sách “Huyền thoại Kim Thiếp Vũ Môn”:Tổ tiên ta giỏi quá!‘ đăng trên Tạp Chí Văn Hóa Nghệ An, thứ ba, ngày 8 tháng 9 năm 2015. Cảm nhận của tác giả Nguyễn Hải dài hơn, tôi (HK) xin được trích dẫn nguyên văn như sau:
Thị trường sách gần đây xuất hiện khá nhiều tác phẩm văn thơ của các tác giả không phải là nhà văn chuyên nghiệp và đã ở tuổi xưa nay hiếm. Một số tác phẩm của họ rất đáng đọc, như cuốn Huyền thoại Kim Thiếp Vũ Môn (viết tắt Huyền thoại KTVM) của Thâm Giang Trần Gia Ninh do NXB Văn học xuất bản năm 2015.
Sách dầy 432 trang khổ 14,5×20,5 cm. Tên sách ngoài dòng chữ Việt còn in hai hàng dọc chữ vuông. Chữ thứ nhất với bộ Kim(vàng) bên trái, cùng chữ Thiếp(vợ lẽ) bên phải đã lập tức khiến người đọc chú ý, bởi lẽ chữ này không thấy có trong bất cứ từ điển Hán tự nào, chỉ biết tạm đọc nó là K
Thái Dương hệ có Mặt trời là trung tâm đã trãi 4,6 tỷ năm, có tám hành tinh quay quanh lực hấp dẫn của mặt trời với mặt phẳng quỷ đạo gần tròn gọi là mặt phẳng hoàng đạo. Bốn hành tinh nhỏ vòng trong thành phần chính là đá, kim loại gồm lần lượt có Sao Thủy, Sao Kim, Trái Đất, và Sao Hỏa, Sao Thủy nhỏ nhất, gần mặt trời nhất và quay nhanh nhất, Sao Kim là sao Mai, sao Hôm cũng là Thái Bạch Kim Tinh. Sao Kim tự quay quanh mình với 224,7 ngày Trái Đất. Hành tinh xanh Trái đất là nhà của hàng triệu loại sinh vật. Sao Hỏa nhiều sắt ô xít nên hành tinh này màu đỏ đặc trưng. Bốn hành tinh lớn vòng ngoài thành phần chủ yếu khí thiên nhiên. gồm Sao Mộc, Sao Thổ, Sao Thiên Vương, Sao Hải Vương đôi khi được phân loại thành các hành tinh băng khổng lồ Sao Diêm vương và các hành tinh lùn thuộc vành đai Kuiper bên ngoài của sao Hải Vương thành phần chính là đá và băng. Đọc tiếp … Sao Kim kỳ thú; Sao Mai và Biển
thiên hà trong vắt khuya
chuyển mùa
tự nhiên tỉnh
ta ngắm trời, ngắm biển
chòm sao em.
vầng sáng anh,
dưới vòm trời lấp lánh
khoảnh khắc thời gian
thăm thẳm
một tầm nhìn.
GET UP
clear late galaxies
transfer season
natural awakening
I watch the sun, watching the sea
watching the constellations.
glow from where he
under the sparkling sky
moment of time
chasms
a vision.
Ảnh Soải Nguyễn thật đẹp ! Cuộc đời vui hơn bởi những màu phổ rộng và tươi, luôn làm cho bức tranh đời bạn sáng đẹp. Cám ơn Soải Nguyễn Nhị Hà Thuận Nam Ninh Thuận;
Toni Morrison, gọi tắt là Toni, tên khai sinh Chloe Anthony Wofford, sinh ngày 18 tháng 2 năm 1931, là nhà văn nữ Mỹ gốc Phi, người thành phố New York, giáo sư Mỹ, phụ nữ đoạt giải Nobel Văn học năm 1993, giải Pulitzer năm 1988, nổi tiếng với các tác phẩm Tình yêu, Người yêu dấu, Bài ca Solomon, Mắt xanh. Bà rất được kính trọng trong các phong trào quyền bình đẳng phụ nữ và thường phát biểu trong các đại hội của phụ nữ da đen. Tác phẩm của bà được dịch ra nhiều thứ tiếng và là đối tượng của nhiều công trình nghiên cứu. Morrison gọi Bill Clinton là “Tổng thống da đen đầu tiên”, vì bà cho rằng “Clinton phô bày hầu hết những nét đặc trưng của dân da đen: Một cậu bé gốc Arkansas, sinh ra trong một gia đình nghèo không cha, thuộc tầng lớp lao động, chơi kèn saxophone, và mê thức ăn McDonald”.
Toni Morrison là nhà văn tình yêu như tác phẩm mẫu mực mới đây của bà, một trong những biểu tượng văn hóa khát khao vươn tới. Đó là sự tôn vinh những giá trị đích thực của nhân loại: yêu thương con người, tôn trọng tự do, quan tâm bình đẳng giới, quan tâm người nghèo và những người kém may mắn.
Toni sinh ở Lorain, Ohio, (ảnh Rona Proudfoot) là một thành phố thuộc quận Lorain, tiểu bang Ohio, Hoa Kỳ. Năm 2010, dân số của thành phố này là 64.097 người. Toni là con thứ hai trong một gia đình công nhân da đen có bốn người con. Toni lớn lên cùng cuộc đại suy thoái những năm 1930 ở nước Mỹ. Bà sớm bộc lộ niềm yêu thích văn học. Thuở nhỏ, bà học tiếng Latin, đọc các tác phẩm của văn học Nga, Anh và Pháp. Austen và Tolstoy là bậc thầy thần tượng của Toni. Austen (hìnhUTA) sinh ngày 16 tháng 12 năm 1775 mất ngày 18 tháng 7 năm 1817, là nữ văn sĩ Anh, tác giả của nhiều tác phẩm nổi tiếng. Văn phong tuyệt kỹ trong nghệ thuật dẫn chuyện và xây dựng tình huống cùng với tầm cao văn hóa xã hội đã đem tên tuổi Austen vào trong số những nhà văn nhiều ảnh hưởng và được trọng vọng nhất trên văn đàn nước Anh. Auten chưa bao giờ kết hôn nhưng có câu chuyện tình yêu lãng mạn với Tom Lefroy và thể hiện sâu sắc trong đời văn của mình. Austen đã ảnh hưởng sâu đậm đến phong cách văn chương của Toni.
Toni cũng được ảnh hưởng nhiều bởi Tonstoy (hình). Tolstoy là đại văn hào Nga với các kiệt tác Chiến tranh và hoà bình và Anna Karenina, nhà viết tiểu thuyết vĩ đại nhất trong tất cả các nhà viết tiểu thuyết. Tolstoy sinh ngày 9 tháng 9 năm 1828 mất ngày 20 tháng 11 năm 1910 là nhà giáo dục, nhà triết học, nhà đạo đức, người theo chủ nghĩa nhân đạo, hoà bình, nổi tiếng với tư tưởng đối kháng không bạo động, được thể hiện xuyên suốt các tác phẩm của mình, ảnh hưởng sâu đậm tới nhiều nhân vật danh tiếng của thế kỷ XX như Gandhi, Luther King và Toni.
Toni sau khi tốt nghiệp trung học loại ưu năm 1945 đã theo học ngành khoa học xã hội nhân văn tại trường Đại học Howard và hoàn thành chương trình cao học tại Đại học Cornell, sau đó làm giảng viên tại Đại học Texas, Đại học Howard và Đại học Yale. Biệt danh “Toni” có từ những ngày còn học ở đại học. Năm 1958 bà lấy chồng là Harold Morrison, có hai con là Harold và Slade. Sau năm 1964 bà sống độc thân và làm trợ lí biên tập cho nhà xuất bản Random House chuyên sách giáo khoa tiểu bang New York. Sau đó, bà trở thành biên tập viên chính, biên tập sách của nhiều nhà văn nổi tiếng từ năm 1967. Toni xuất bản cuốn tiểu thuyết đầu tay “Mắt xanh” (The Bluest Eye) năm 1970, thu hút sự chú ý của công chúng Mỹ do sự mô tả sâu sắc cuộc sống và số phận của những người Mỹ gốc Phi. “Mắt xanh” nói về mơ ước của cô gái da đen ước mình có mắt xanh biểu tượng nét đẹp của người Mỹ da trắng, tác động sâu sắc đến sự thành kiến chủng tộc đang nhức nhối lương tâm nước Mỹ . Năm 1973, tiểu thuyết Sula của Toni trở thành sách bán chạy nhất và được trao Giải thưởng sách Quốc gia. Hai năm 1976 và 1977 bà dạy ở Đại học Yale và viết Bài ca Solomon (Song of Solomon), được trao Giải thưởng Quốc gia và Giải thưởng của Viện Hàn lâm Văn học và Nghệ thuật Mỹ. Toni từ năm 1989 giữ chức giáo sư Đại học Princeton, chuyên gia giảng dạy văn học Mỹ – Phi, thỉnh giảng và viết phê bình. Kể từ năm 1981, bà là thành viên Viện Hàn lâm Văn học và Nghệ thuật Mỹ, Viện Hàn lâm các Khoa học xã hội và Khoa học chính xác Mỹ. Bà đã nhận được nhiều giải thưởng văn học có uy tín, trong đó có giải Pulitzer năm 1988 cho tiểu thuyết Người yêu dấu (Beloved). Trong tác phẩm này, bà đã chỉ ra tác động kinh hoàng của kiếp nô lệ đến tình cảm của người mẹ. Câu chuyện của một phụ nữ da đen cho rằng thà tự tay giết chết con gái mình còn hơn phải đưa con đi làm nô lệ đã ám ảnh lương tâm nước Mỹ vừa phục hồi sau cuộc nội chiến, hướng tới giá trị nhân văn đa sắc tộc, tôn trọng quyền con người, quyền được sống, được tự do và mưu cầu hạnh phúc. Tiểu thuyết “Người yêu dấu” đã thành công vang dội. Năm 1993, bà được nhận giải Nobel, trở thành người phụ nữ da đen đầu tiên được trao giả thưởng cao quý này. “Tình yêu” (Love) là tiểu thuyết mới nhất của bà xuất bản năm 2003, rất được yêu thích và bà trở thành một trong những biểu tượng của văn hóa Mỹ.
Những tác phẩm chính của Toni Morrison gồm có:
The Bluest Eye (Mắt xanh, 1970), tiểu thuyết
Sula (1973), tiểu thuyết
Song of Solomon (Bài ca Solomon, 1977), tiểu thuyết
Tar Baby (Thủy thủ nhóc, 1981), tiểu thuyết
Dreaming Emmett (Giấc mơ em, 1986), kịch
Beloved (Người yêu dấu, 1987), tiểu thuyết
Jazz (Nhạc Jazz, 1992), tiểu thuyết
Playing in the Dark (Chơi đêm, 1992), tiểu luận
Racing Justice (Thi đua công bằng, 1992), tiểu luận
Paradise (Thiên đường, 1998), tiểu thuyết
The Big Box (Chiếc hộp lớn, 2000), truyện thiếu nhi
The Book of Mean People (Sách đời thường, 2001), truyện thiếu nhi
Love (Tình yêu, 2003), tiểu thuyết.
Nguồn chính thông tin về Toni Morrison trên Wikipedia tiếng Việt, Literary Encyclopedia biography, Voices from the Gaps biography, The Nobel Prize in Literature 1993, Toni trên thế giới tiếng Anh quá nổi tiếng, đặc biệt với Tình Yêu (Love), Người yêu dấu (Beloved), Bài ca Solomon (Song of Solomon), Mắt xanh (The Bluest Eye).
Toni ở Việt Nam là khát khao xanh chờ đợi của tôi và bạn đọc Việt, mong muốn được thưởng thức các bản chuyển ngữ uy tín, danh tiếng, để người Việt được lắng đọng và chia sẻ tầm tư tưởng nhân văn cao vọi cùng với nghệ thuật văn chương bậc thầy của một nhà văn lớn đương đại. Người Việt mở rộng cửa giao lưu văn hóa nhìn ra thế giới.
Hoàng Kim
THƯƠNGKIM THIẾP VŨ MÔN
Hoàng Kim
Đến với Tây Nguyên, tôi đọc lại “Trịnh Công Sơn tình yêu cuộc sống” và “Kim Thiếp Vũ Môn Trần Gia Ninh“. Trịnh Công Sơn sinh ra ở Buôn Ma Thuột Đăk Lăk tại cõi riêng nhà cha mẹ anh gần đình Lạc Giao và chùa Khải Đoan. Sách Kim Thiếp Vũ Môn của tác giả Thâm Giang Trần Gia Ninh, Chủ tịch Hội đồng khoa học Viện Vật lý ứng dụng và thiết bị khoa học, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam là tiểu thuyết lịch sử nổi tiếng có nội dung chính yếu đề cập tới tài trí tuyệt vời của người Việt trong sự rèn đúc vũ khí chống giặc mà nổi bật nhất là hỏa hổ. GSTS.NGND Trần Văn Minh và tôi tình cờ trong khoảng lặng tâm hồn tìm thấy sách này tại Buôn Ma Thuột và đều tâm đắc.
Kim Thiếp Vũ Môn Trần Gia Ninh. Thác Vũ Môn nằm trên dãy núi Giăng Màn, từ trên cao hơn bốn ngàn thước đổ xuống. Thác nằm ở triền núi phía đông núi Khái Trướng, đỉnh núi là biên giới Việt Lào, thuộc xã Hương Lâm, huyện Hương Khê, Hà Tĩnh ngày nay. Có câu ca “Mồng bảy cá đi ăn thề. Mồng tám cá về vượt thác Vũ Môn” chỉ ngày mồng bảy và mồng tám tháng tư, lúc này đầu mưa nguồn đổ xuống, thác nổi ào ào, mây mù dày đặc không ai dám đến gần.”
NHỮNG CẢM NHẬN ĐỌC LẠI
Kim Thiếp Vũ Môn Trần Gia Ninh nhiều tư liệu quý và nhiều thông tin liên quan cần được nghiên cứu thẩm định. Tôi chưa rõ đúng sai của một số chỉ dấu rất quan trọng nên lưu một số tư liệu cần đọc lại để tìm tòi và suy ngẫm.
1] Cảm nhận của Phan Lan Hoa rất đáng chú ý: a) Khi viết tiểu thuyết lịch sử, chỉ nên hư cấu những chuyện tình, không nên hư cấu sự kiện lịch sử. Ví dụ: “Tác giả để Lê Lợi xưng vương từ Thanh Hóa rồi mới kéo quân vào Hoan Châu là chưa đúng? Cứ theo An Tĩnh cổ lục thì 10 năm Bình Định Vương của Lê Lợi, mãi đến năm thứ 9, Lê Lợi mới dựng Trần Ngỗi lên ngôi, nhằm lấy cớ phò vua để tấu thư sang nhà Minh. Sau thì ép Trần Ngỗi uống thuốc độc chết. Cho nên Trần Ngỗi là vị vua Trần cuối cùng của Trần triều. Chỉ khi đánh Minh thắng lợi, về tới Thăng Long, Lê Lợi mới xưng vương. Thứ tự các trận đánh cũng không đúng lich sử ? Phạm Thị Ngọc Trần không phải vợ đầu của Lê Lợi mà công chúa Huy Chân mới là vợ cả. Khi Lê Lợi xưng vương, bà ấy là hoàng hậu, hiệu là Trịnh Thục? Vụ này gia tộc vị công nương này còn ghi rõ sự tích và ngày giờ mất của bà ấy.” Nhưng dù sao thì con em Nghệ An nên đọc. Họ Trần và họ Lê ở Bắc Kỳ nên đọc nhiều nhất, vì hai họ này rạng danh hay không trong lịch sử, đều nhờ một tay người Nghệ An cả. Không ơn thì thôi đừng đem lòng phụ bạc?!; b) Cảm nhận khi đọc bài “Đi tìm dấu tích Hội thề Lũng Nhai” của Ngọc Minh (ngocminhbtn@gmail.com) đăng trên báo Thanh Niên trực tuyên 06:49 09/01/2020, nêu giả thiết Có giả thiết nhận định, Hội thề Lũng Nhai diễn ra tại xã Phúc Thịnh, hoặc xã Kiên Thọ của huyện Ngọc Lặc tỉnh Thanh Hóa “Sau nhiều lần hội thảo, đặc biệt là cuộc hội thảo do Viện Sử học, Hội Khoa học lịch sử Việt Nam và UBND tỉnh Thanh Hóa tổ chức gần đây đã cơ bản thống nhất, xác định đồi Bái Tranh ở lưng chừng núi Pù Mé là nơi diễn ra Hội thề Lũng Nhai (hiện nơi đây cũng đã được UBND tỉnh Thanh Hóa ra quyết định công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh). Tại hội thảo này cũng vẫn còn ý kiến khác chưa đồng thuận, vì vậy công cuộc nghiên cứu vẫn chưa kết thúc.” Phan Lan Hoa nhận xét: ” Người Thanh Hóa đang mơ à ? Căn cứ vào Dư địa chí Nguyễn Trãi, thì thời của Lê Lợi chả có núi nào ở Thanh Hóa có tên Lam Sơn cả ? Hội thề Lũng Nhai thành lập ở Thanh Hóa thì đúng rồi, nhưng cuộc khởi nghĩa là ở Lam Sơn Thành, núi Lam Sơn ở Thành phố Vinh, Nghệ An. Tuy vậy, Lê Lợi không đóng quân tại núi Lam Sơn, mà núi này là bốt đồn của Trương Phụ tướng Nhà Minh. Còn kinh đô tạm của Lê Lợi trên đỉnh Tam Thai thuộc dãy núi Thiên Nhận thuộc tổng Thanh Hoa, xứ Hoan Châu. Nay thuộc một phần đất đất ba huyện Đức Thọ, Hương Sơn (Hà Tĩnh), Đô Lương (Nghệ An) và toàn bộ huyện Thanh Chương (Nghệ An)..Cho nên cần hiểu, “Khởi nghĩa Lam Sơn” là quân của Lê Lợi công vào thành Lam Sơn, sào huyệt của nhà Minh để đánh bật tên tướng nhà Minh bấy giờ là Thái Phúc ra khỏi thành (nay là thành phố Vinh). Chốt lại: 10 năm chinh chiến của Bình Định Vương Lê Lợi hết 9 năm rưỡi trên đất Hà Tĩnh. Dấu tích đến nay còn cả, từ thành quách, hang động, cho đến chùa đền, khỏi phải mất công lặn lôi tìm đâu? Sự bội bạc của Lê triều thời mạt chính là mâu thuẫn để lại cho tới ngày nay, các gia đình ở Hà Tĩnh cứ hễ nghe con mình yêu trai Thanh Hóa là tỏ ra ái ngại. Đơn giản vì người Hoan Châu không chỉ giúp Lê Lợi dựng nên cơ đồ, mà trắng phớ Lê Lợi không có mấy ả đàn bà đất La Giang cung cấp lương tài vũ khí thì ăn cám mà thành công được sao? Không có người Hà Tĩnh dốc lòng thì Hội thề Lũng Nhai thành công được sao? (rảnh tui sẽ đọc sách và lôi đủ chuyện phản bội ra khoe sau). Cho nên hậu duệ nhà Lê ở Thanh Hóa đời nay đừng buông lời phản tắc? Lê Lợi có tới 3 bà vợ người Hà Tĩnh, trong đó một bà con vua Trần Dụ Tông, một bà (Phạm Thị Ngọc Trần) thác mình cho long vương để cầu an cho Lê Lợi chinh chiến. Và đáng nói thì 3 bà phi này để lại cho nhà Lê bao nhiêu con cái, thời ngần ấy đứa có quê ngoại Hà Tĩnh đấy. Những bài viết kiểu này “Đi tìm dấu tích Hội thề Lũng Nhai” (với kết luận hồ đồ) là vô ơn, vô hậu lắm lắm…
2] Nguyễn Hải có bài: ‘Đọc sách “Huyền thoại Kim Thiếp Vũ Môn”:Tổ tiên ta giỏi quá!‘ đăng trên Tạp Chí Văn Hóa Nghệ An, thứ ba, ngày 8 tháng 9 năm 2015. Cảm nhận của tác giả Nguyễn Hải dài hơn, tôi (HK) xin được trích dẫn nguyên văn như sau:
Thị trường sách gần đây xuất hiện khá nhiều tác phẩm văn thơ của các tác giả không phải là nhà văn chuyên nghiệp và đã ở tuổi xưa nay hiếm. Một số tác phẩm của họ rất đáng đọc, như cuốn Huyền thoại Kim Thiếp Vũ Môn (viết tắt Huyền thoại KTVM) của Thâm Giang Trần Gia Ninh do NXB Văn học xuất bản năm 2015.
Sách dầy 432 trang khổ 14,5×20,5 cm. Tên sách ngoài dòng chữ Việt còn in hai hàng dọc chữ vuông. Chữ thứ nhất với bộ Kim(vàng) bên trái, cùng chữ Thiếp(vợ lẽ) bên phải đã lập tức khiến người đọc chú ý, bởi lẽ chữ này không thấy có trong bất cứ từ điển Hán tự nào, chỉ biết tạm đọc nó là Kim Thiếp. Vậy Kim Thiếp là gì? Điều băn khoăn thú vị ấy bám riết theo độc giả cho tới khi đọc gần hết cuốn sách.
Ở trang đầu, tác giả viết : Chúng tôi xin nói ngay rằng sách này nhắc cho hậu thế về những thân phận con người, về số phận bi hùng của những anh tài trí tuệ đất Việt xưa trong thăng trầm của lịch sử. Như vậy có thể thấy đây là một cuốn tiểu thuyết lịch sử.
Ai đó từng nói viết tiểu thuyết lịch sử khó như đi trên dây, không thể nghiêng về sử cũng như văn. Trần Gia Ninh quả là rất tự tin khi dám thử sức ở thể loại văn chương này.
Lịch sử là tài sản chung của mọi người, nói lịch sử là nói sự thật. Nhưng tiểu thuyết lại đòi hỏi phải hư cấu. Vậy hư cấu thế nào thì vừa ? Có lẽ nên hư cấu sao cho độc giả đã bắt đầu đọc là muốn đọc tới cùng; khi ấy họ không còn câu nệ lắm với sự thật lịch sử. Có người cho rằng « ba phần sự thực, bảy phần hư cấu » là vừa phải. Alexandre Dumas tác giả « Ba chàng ngự lâm » nói “sự thật lịch sử” chỉ là cái đinh để nhà văn móc chiếc áo (ý nói câu chuyện) của mình lên.
Đọc Huyền thoại KTVM ta thấy tác giả đã tôn trọng các sự thật có chép trong chính sử, và bổ sung những sự kiện sử Việt chưa từng chép. Đây là một điểm sáng làm nên giá trị về nội dung của Huyền thoại KTVM. Cũng có thể sử sách từng chép các sự kiện ấy, nhưng bọn xâm lược phương Bắc đã tiêu hủy mọi thư tịch của người Việt viết. Vì thế vườn lịch sử nước ta còn vô số báu vật bị vùi sâu dưới lớp đất thời gian, đang chờ những người có tâm huyết với quê hương, tổ quốc dày công dò tìm, đào bới lấy lên để mọi người cùng chiêm ngưỡng. Trần Gia Ninh là một trong những « thợ đào vàng » hiếm hoi ấy.
Từ tấm bìa có chữ (Kim-Thiếp Vũ Môn) di bút của ông nội còn giữ được, anh phỏng đoán đây là bìa một cuốn sách viết những sự việc có liên quan tới thác Vũ Môn ở quê mình. Vì thế mấy chục năm qua anh cất công tìm kiếm khắp nơi các thư tịch của ông nội cũng như của cả vùng văn hiến Hoan Châu (Nghệ An-Hà Tĩnh). Do có may mắn đi hầu khắp các nước,anh đã sưu tầm được nhiều tư liệu liên quan, cuối cùng giải mã được mấy chữ vuông thần bí ấy. Và bây giờ khi được cử giữ ghế trưởng lão của họ Trần Gia Phố nổi tiếng Hoan Châu, anh tráp lại các tư liệu đã sưu tầm và viết nên Huyền thoại KTVM như một bộ sử về tổ tiên mình.
Huyền thoại KTVMdường như muốn chứng minh một sự thật : Tổ tiên ta giỏi lắm ! Đây không phải là lời « mẹ hát con khen ». Năm 971 khi sang thăm nước ta, sứ thần nhà Tống là Lý Giác viết tặng vua Lê Đại Hành bài thơ Thiên ngoại hữu thiên ưng viễn chiếu, nghĩa là Ngoài trời này còn có trời khác, nên soi cho thấu — tác giả kể, và cho rằng Lý Giác muốn nhắc nhở đồng bào ông biết rằng thế giới này đâu chỉ có một mặt trời Trung Hoa mà còn có một mặt trời Việt Nam, người Trung Hoa chớ nên coi thường người Việt, một dân tộc rất có bản lĩnh trí tuệ.
Quả thật nước ta nhỏ yếu mà lại chống được giặc xâm lược quân đông gấp bội là nhờ tổ tiên ta đã phát huy được trí tuệ tuyệt vời. Kim-Thiếp Vũ Môn là một trong những kết quả sáng tạo công nghệ đã được ông cha ta dùng để đánh thắng quân xâm lược.
Tác giả tỏ ra nghiêm chỉnh khi trình bày các sử liệu mới sưu tầm được. Có thể nhận thấy điều đó từ những ghi chú cuối trang : số lượng nhiều, chất lượng nghiêm túc, tới mức độc giả ngạc nhiên như đang đọc một khảo cứu khoa học. Như 42 trang của Chương VI có tới 37 ghi chú.
Tác giả dùng chữ Hán, Nôm, Phạn, Anh, Pháp để chú giải đủ thứ, từ niên đại sự kiện, công thức hóa học của sắt thép, quặng, cho tới các nghi thức tôn giáo của đạo Bà La Môn. Có chỗ cả chục dòng thơ chữ Hán kèm bản dịch chiếm hết một ghi chú. Tác giả còn sưu tầm được một số chữ Việt cổ hiện còn ở Nghệ Tĩnh, như rào (sông), nác (nước),mấn (váy), cân gấy (con gái) …
Nhiều sách sử của Việt Namvà Trung Hoa được trích dẫn, như Minh Thực Lục, Lam Sơn Thực Lục, Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, .. thậm chí cả Nghệ An Ký ít người biết. Điều đó cho thấy nội dung cốt lõi của sự việc nêu trong sách đều có căn cứ.
Tất cả các địa danh cổ đều được chú thích rõ địa điểm cụ thể ngày nay, người đọc khó có thể nghi ngờ. Các đoạn tả cảnh vùng Hương Khê, núi Giăng Màn, sông Ngàn Sâu, thác Vũ Môn… khiến ta có cảm giác tác giả là thổ công vùng này.
Đọc Huyền thoại KTVM, bạn như được xem cuốn phim nói về một giai đoạn lịch sử bi hùng của dân tộc ta trong cuộc kháng chiến chống xâm lược đầu thế kỷ XV.
Năm 1404, vua Minh Thành Tổ mượn cớ « Phù Trần diệt Hồ » cho quân hộ tống Trần Thiên Bình 1 tiến vào nước Việt. Khi chúng vừa tới Bắc Giang, Hồ Quý Ly bày mưu dùng súng thần cơ tự tạo đánh cho địch phải rút về nước. Năm 1407 giặc Minh kéo đại binh sang chiếm nước ta, bắt được Hồ Quý Ly và con là Hồ Nguyên Trừng tại Hà Tĩnh. Nhà Minh thi hành chính sách cai trị hà khắc và cố tình tiêu diệt nền văn hóa Việt. Chúng đốt mọi thư tịch do người Việt sáng tác, mang về Trung Quốc tất cả các loại hỏa khí cùng nhiều nhân tài, thợ giỏi người Việt.
Năm 1418, Lê Lợi ở Lam Sơn (Thanh Hóa) dấy binh nổi dậy, tập hợp được nhiều nhân tài văn võ như Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn…. Mới đầu Lê Lợi thua nhiều thắng ít, sáu năm sau phải lui về vùng núi Hoan Châu xây dựng căn cứ địa. Xứ này địa linh nhân kiệt lại có địa thế hiểm yếu. Một số cựu tướng sĩ nhà Trần ở đây đã tổ chức đội quân Cốc Sơn chống giặc Minh. Nhờ có tài chế thuốc nổ và luyện sắt tốt đúc súng, quân Cốc Sơn rất mạnh. Lê Lợi xin kết nghĩa với họ. Được các anh tài Hoan Châu hợp sức, lực lượng Lê Lợi mạnh dần. Cuối cùng quân ta vây địch ở Đông Quan (Hà Nội), phục kích ở Chi Lăng, giết Liễu Thăng, kẻ dẫn quân Minh sang tiếp viện. Rốt cuộc chủ tướng Vương Thông phải giảng hòa xin rút quân về nước.
Năm 1428, Lê Lợi lên ngôi vua. Đáng tiếc là, như mọi chính quyền chuyên chế xưa nay, sau đại thắng, khi chuyển sang thời bình, triều nhà Lê suy thoái dần. Lê Sát lộng quyền, hãm hại nhiều công thần tài giỏi, kể từ Nguyễn Trãi. Tên tuổi các anh tài Hoan Châu cùng di sản sáng tạo của họ bị lãng quên dần.
Trần Gia Ninh chuyển tải giai đoạn lịch sử bi hùng kể trên dưới hình thức tiểu thuyết võ hiệp chương hồi. Thể loại này khó viết nhưng hợp với việc ca ngợi các nhân vật nghĩa hiệp. Tác giả đã thành công khi dẫn bạn đọc vào những trường đoạn hấp dẫn với lối hành văn khoa trương, ngôn từ cổ xưa, đồng thời sử dụng các bút pháp hiện thực, trữ tình lãng mạn, các yếu tố đời thường pha trộn với truyền thuyết, huyền thoại, cổ tích. Cấu trúc tiểu thuyết khá linh hoạt về thời gian, không gian, nhân vật, sự kiện. Như đang kể chuyện Hồ Nguyên Trừng năm 1445 được vua nhà Minh thăng chức lại nhảy sang chuyện sinh viên Việt Namtại Đại học Bắc Kinh năm 2007 đi tìm mộ Trừng nhưng chỉ tìm thấy tấm bia do Trừng soạn.
Và khi đọc tới đoạn Vĩ Thanh, độc giả mới vỡ lẽ: thì ra (Kim-Thiếp Vũ Môn), chính là Thép Vũ Môn, thứ sắt pha chất Môlipđen do những người thợ Việt tài giỏi ở vùng thác Vũ Môn luyện được, gọi là sắt mềm, thích hợp dùng để đúc loại súng nòng dài cầm tay có tên Thần Cơ Thương từng giúp Trần Khát Chân đánh tan cuộc xâm lăng của Chế Bồng Nga năm 1390, rồi lại giúp cuộc kháng chiến của Lê Lợi (1418-1427) đuổi giặc Minh ra khỏi nước ta.
Ai đó sẽ hỏi : Trung Quốc phát minh ra thuốc súng và làm được súng trước ta cơ mà? Đúng thế, nhưng họ chỉ đúc được gang (sắt cứng) làm súng thần công chứ không đúc được sắt mềm làm súng cầm tay như tổ tiên ta. Vả lại, phải có thứ thuốc súng thích hợp với loại súng ấy chứ !
Tra Từ điển chữ Nôm bạn sẽ thấy Kim-Thiếp đọc là thép. Người thợ tài hoa Trần Hằng lấy chữ ấy làm gia huy khắc trên các sản phẩm của mình. Người Hán không đọc hiểu chữ này, vì chữ Nôm là chữ viết do người Việt sáng tạo dựa trên cơ sở chữ Hán. Như vậy, người Nghệ-Tĩnh đã sáng tạo ra hai công nghệ hàng đầu thế giới hồi thế kỷ XIV-XV: công nghệ luyện thép Vũ Môn và công nghệ dùng thép này để đúc súng nòng dài vác vai.
Đáng tiếc là chuyện ấy sách sử nước ta không chép. Nhưng sử Trung Hoa và nước ngoài lại có chép! Minh Sử viết : Minh Thành Tổ đánh Giao Chỉ lấy được phép Thần Cơ Thương Pháo, lập riêng Thần Cơ Doanh luyện tập. (Doanh là một cấp đơn vị quân đội, tương đương tiểu đoàn).
Đúng thế, năm 1407, Hồ Quý Ly và con là Nguyên Trừng bị quân Minh bắt đưa về Bắc Kinh ; để cứu mạng cha, Trừng đã dâng phép chế súng cho nhà Minh. Người Trung Hoa giữ tuyệt mật kỹ thuật ấy ; năm 1410 họ dùng nó đánh bại quân Mông Cổ. Trừng được vua Minh hậu đãi, sau làm tới Thượng thư Bộ Công (tương đương hàm Bộ trưởng lo về Quân giới ngày nay), quân nhà Minh khi tế súng đều phải tế Trừng ! Để bày tỏ nỗi lòng luôn nhớ về cố quốc, nhà kỹ nghệ quân sự tài hoa biệt danh Nam Ông ấy đã viết tập ký sự Nam Ông Mộng Lục (Ghi chép giấc mơ của Ông già nước Nam). Năm 2011 người Trung Quốc đã xuất bản sách này.
Huyền thoại thế mà có thật !
Mỏ sắt Thạch Khê (Hà Tĩnh) trữ lượng 550 triệu tấn hiện đang bắt đầu được khai thác. Hơn trăm năm trước, Cao Thắng đã lập xưởng chế súng trường kiểu Pháp cho nghĩa quân Phan Đình Phùng cũng tại cứ địa Hương Khê. Trần Gia Ninh [2] là hậu duệ của họ Trần Gia Phố có chính tổ là Trần triều Phò mã Khâm sai Ngự sử Trần Hằng, người đầu tiên luyện Thép Vũ Môn. Gia tộc này có truyền thống trọng trí tuệ, khinh danh vọng; hậu duệ của họ hiện nay đa phần là nhà hoạt động khoa học kỹ thuật, văn học, y học ở khắp đất Việt và các nước khác.
Như vậy là sau nhiều năm đi tìm lời giải cho mấy chữ (Kim-Thiếp Vũ Môn), Trần Gia Ninh đã phát hiện được hai sáng tạo tuyệt vời của tổ tiên ta bị sử sách lãng quên. Tiếp đó, anh lại dầy công viết nên cuốn tiểu thuyết Huyền thoại Kim Thiếp Vũ Môn để công bố phát hiện đó dưới hình thức văn học. Những cố gắng đầy tâm huyết ấy của Trần Gia Ninh thật đáng để chúng ta tìm hiểu và ngưỡng mộ.
1 Một kẻ tự nhận con cháu vua Trần nước ta, chạy sang cầu cứu nhà Minh đưa hắn về làm vua nước Việt.
[2] Trần Gia Ninh là bút danh của một GS,TSKH đã và đang hoạt động năng nổ trong ngành vật lý nước ta.
(hết trích…)
ĐẾN VỚI TÂY NGUYÊNMỚI
Đến với Tây Nguyên mới
Thăm lại chiến trường xưa
Đất khoai sắn nuôi người
Sử thi vùng huyền thoại.
Vầng đá chốn đại ngàn
Rượu cần nơi bản vắng
Câu cá bên dòng Sêrêpôk
Tắm tiên Chư Jang Sin
Ai ẩn nơi phố núi
Ai tỏ Ngọc Quan Âm
Ai hiện chốn non xanh
Mây trắng trời thăm thẳm
Nước biếc đất an lành
Soi bóng mình đáy nước
Sáng bình minh giữa đời
Thung dung làm việc thiện
Vui bước tới thảnh thơi
TỐT GỖ CHẲNG CẦN SƠN
Thầy bạn chúng tôi đến thăm ký túc xá Cỏ May (ở trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh do doanh nhân Phạm Văn Bên quê Sa Đéc Đồng Tháp xây dựng hiến tặng cho các em sinh viên nghèo hiếu học của các trường đại học phía Nam .Gổ tốt chẳng cần sơn, Nghĩa cử hơn lời nói. Anh Bên làm nghĩa cử xây dựng hiến tặng ký túc xá Cỏ May trước khi anh về cõi vĩnh hằng. Tôi đưa các em sinh viên lớp Ninh Thuận tới thăm Ký túc xá Cỏ May sau khi các em đã tới giảng đường Phượng Vĩ (chữ U ) một biểu tượng của Trường, nơi lưu dấu tấm biển đồng mang tên người kiến trúc sư Ngô Viết Thụ tâm huyết tài hoa đã gửi lại những ẩn ngữ chấn hưng Tổ Quốc. Điều này giúp các em thấm thía sâu hơn sự nhọc nhằn khởi nghiệp và ước mong những tấm lòng Việt. Ký túc xá Cỏ May là sự nâng bước sinh viên nghèo hiếu học. Ngày học trùng hợp với ngày các bạn hữu Trồng trọt 4 Đại học Nông nghiệp 2 Hà Bắc chúng tôi họp mặt ở Trường Đại Học Nông Lâm Huế mà tôi bận lịch dạy nên không về được. Tôi đã đưa các em đi tới một số các địa chỉ văn hóa thân thương của Trường, và nhớ lời thơ của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn tình yêu cuộc sống“Bao nhiêu năm rồi còn mãi ra đi. Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt. Trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt. Rọi suốt trăm năm một cõi đi về…’”; “sống trong đời sống cần có một tấm lòng Để làm gì em biết không? Để gió cuốn đi , để gió cuốn đi …” Phía sau tuyệt phẩm âm nhạc nổi tiếng tấm lòng số phận và sự dấn thân . Đường xuân chúng ta tiếp bước, chung sức để Tổ Quốc và Dân tộc Việt mãi đi tới. Thầy bạn trong đời tôi là câu chuyện chưa hề cũ thúc dục tôi viết tiếp, như suối nguồn tươi trẻ chảy mãi
Cảm ơn thầy Phạm Văn Hiền đã chia sẻ video cảm động (của Minh Đông WinterMan ) nghĩ về anh Phạm Văn Bên, Cỏ May với những lời chân thành sâu sắc: “Chia sẻ clip hay về một con người, một nhân cách đáng trân trọng đã xây dựng và lan tỏa “văn hoá Cỏ May” thấm sâu vào từng người Cỏ May, khách hàng Cỏ May và những tấm lòng nghĩ về Anh Phạm Văn Bên -Cỏ May.. Ba năm vội vàng trôi qua, nhanh quá! Ba năm Anh đã trở về ngủ yên trong lòng đất mẹ ấm cúng, hiền hoà! Chúng tôi thắp một nén hương tưởng niệm nhớ về Anh! “
Cảm ơn Minh Đông WinterMan đã có bài thơ biết ơn thật xúc động video thật đẹp :
CỎ MAY CHẤT LƯỢNG THAY LỜI NÓI
Cả cuộc đời, ông đi tìm lẻ sống,
Cùng trãi lòng theo ước vọng quê hương,
Hơn ba mươi năm, thăm thẳm một chặng đường,
Ông vẫn bước giữa thương trường hối hã.
Mỗi khó khăn, mỗi một lần vấp ngã,
Ông thấy mình như đã vững vàng hơn,
Đời dạy ông “Gổ tốt chẳng cần sơn”,
Một chất lượng vẫn hơn ngàn câu nói
Người thầy không bục giảng Phim lan tỏa giá trị Việt;
Minh Đông WinterMan; Tưởng nhớ đến Chú nhân ngày giỗ của Người!) Với tôi khi nói vế Trường Đại Học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh thì ký túc xá Cỏ May là dấu nhấn ám ảnh. Xin lan tỏa một mái trường, một tấm lòng và một ký ức đẹp về ký túc xá Cỏ May đã và đang nâng bước sinh viên nghèo hiếu học
NGƯỜI LÍNH GIÀ THỜI BÁC
Hoàng Kim
Thấm thoát thoi đưa vừa ngoảnh lại. Phạm Hồng dương thế chín ba tròn. Bốn tư năm lẻ đi đánh giặc. Hưu về tóc bạc vẫn lòng son. Tôi có anh Phạm Hồng người lính già thời Bác, người chính ủy sư đoàn 325 B và sư đoàn 356 xưa, thân như anh em ruột, ngày 10 tháng 9 Kỷ Hợi nhằm ngày 8 tháng 10 năm 2019 anh từ trần lúc 93 tuổi. Buổi khuya đêm 16 tháng 2 năm 2020 tôi thảnh thốt bật dậy vì chuông reo vào giờ khuya, tôi mở máy, thấy hiện số điện thoại của anh nhưng tôi gọi lại thì không được. Hôm sau, ngày 17 tháng 2 lúc mờ sáng, tôi gọi lại thì chị Hảo vợ anh xác nhận là anh đã mất nhưng gia đình không báo tin vì anh em đồng đội ở xa (*) . Năm 2008, anh lúc 82 tuổi vẫn ghi thư cho tôi mà lời văn và câu thơ minh mẫn lắm. Anh đã có một thời gian làm thư ký của bác Giáp, tuyên huấn và nhân cách thật tuyệt vời Anh thật vui vẻ, tráng kiện, lạc quan và thực sự là “người lính già đầu bạc, kể mãi chuyện Nguyên Phong“: Câu chuyện về bộ đội anh Văn, người lính cụ Hồ, năm cha con ra trận. Câu chuyện về một gia đình quân nhân, thanh bạch, trung trinh, nặng lòng vì nước. Tôi nhớ mãi kỷ niệm ngày tôi lần hồi về Hải Dương thăm anh. Anh nghe chuyện tôi đã nhận quyết định chuyển ngành trở về trường đại học trước kỳ lĩnh quân trang hàng năm và tự trọng không chịu trả quyết định để có thêm bộ quần áo mủ giày và lương khô mà cả cười. Năm anh em trong phòng tham mưu sư đoàn 325 B sau này tăng cường khung cho sư đoàn 356 ‘nước mắt Vị Xuyên ” đều không trở về. Đó là một câu chuyện dài cảm động Tôi nhớ anh chị Hồng Hảo cùng gia đình (xem ảnh) nên lần hồi tìm thư anh đọc lại (Hoàng Kim). Thư và thơ anh như một lời ký thác.
Hải Dương những ngày đầu năm 2008 Út Kim thương nhớ!
Xa em, càng nhớ những ngày này 35 năm trước, theo lệnh tổng động viên của Chủ tịch Nước, hàng chục vạn sinh viên của các trường đại học, cao đẳng trong cả nước đã xếp bút nghiên lên đường cùng cả nước “đánh cho Mỹ cút” như lời Bác Hồ dặn. Anh cùng đơn vị được đón em từ Trường Đại học Nông nghiệp cùng hàng ngàn anh em về huấn luyện chi viện chiến trường.
Biết em là con út, mới lớn lên đã sớm mồ côi cha mẹ, ngày chỉ được ăn một bữa, áo chỉ mặc một manh … mà đã có chí học hành thành sinh viên đại học, tình nguyện vào chiến trường đánh Mỹ!
Anh và đồng đội để em cùng đơn vị vào miền Nam đánh vài trận rồi gọi ra ngay để có kinh nghiệm về đội huấn luyện, góp sức đào tạo hàng vạn tiểu đội trưởng “khuôn vàng thước ngọc” của phân đội nhỏ nhất trong quân đội ta. Hàng vạn tiểu đội trưởng từ đoàn 568 anh hùng đã phụ trách hàng vạn tiểu đội với hơn mười vạn quân đi khắp chiến trường chống Mỹ xâm lược.
Cùng lúc ấy, trong giai đoạn ác liệt nhất của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước năm 1972, đã có nhiều bạn sinh viên của em trong 81 đại đội vượt sông Thạch Hãn vào đánh giặc ở thành cổ Quảng Trị 81 ngày đêm… Sau này, cả nước và thế giới đều biết những người con “tiền trí thức” yêu quý của dân tộc và quân đội ta từ trường đại học hiên ngang đi thẳng ra chiến trường đánh Mỹ, trở thành những anh hùng bất tử với dòng Thạch Hãn:
Đò xuôi Thạch Hãn xin chèo nhẹ Đáy sông còn đó bạn tôi nằm Có tuổi thanh xuân thành sóng nước Vỗ yên bờ bãi mãi ngàn năm.
Em cùng với những bạn trí thức ngày ấy đã xứng đáng với lòng tin yêu và truyền thống của đoàn 568 làm tốt nhiệm vụ đào tạo tiểu đội trưởng cho chiến trường, rồi học tiếp đại học, lấy bằng tiến sĩ, về làm giám đốc trung tâm nghiên cứu khoa học nông nghiệp, ngày đêm gắn bó với Đông Nam Bộ, đồng bằng sông Cửu Long, Tây Nguyên và duyên hải miền Trung. Nay em lại làm giảng viên đại học, góp phần đào tạo những kỹ sư, thạc sỹ, tiến sỹ của hơn 45 triệu nông dân đã đang nuôi sống cả xã hội và đi lên công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn.
Nhân năm mới, mừng hai em không ngừng tiến bộ và thành đạt trên con đường khoa học của mình, mừng hai cháu Nguyên Long nối tiếp truyền thống gia đình, luôn tiến bộ trưởng thành. Mong được đón các em và các cháu. Gửi các em những dòng tâm tình của anh trong trang thơ kèm đây nhân 80 mùa xuân.
Anh chị Hồng, Hảo
MỪNG TUỔI TÁM MƯƠI Phạm Hồng
Thấm thoát thoi đưa vừa ngoảnh lại
Xuân nay mình đã tám mươi tròn
Bốn tư năm lẻ đi đánh giặc
Hưu về tóc bạc vẫn lòng son
Nhớ buổi đầu vào Vệ quốc quân
Dối nhà đi họp đã hơn tuần
Kiểm tra sức khoẻ năm phòng huyện
Suýt bị trả về: chưa đủ cân!
Trận đầu bố trí ở Cầu Bây
Giáo búp đa sắc lẹm trong tay
Đợi địch tràn sang là xốc tới
“Đánh giáp lá cà” với giặc Tây.
Trận hai chặn Pháp ở cầu Ghềnh
Quê hương Bãi Sậy giáp Như Quỳnh
Với khẩu súng trường, viên đạn thép
Quần với thằng Tây cao lênh khênh
Trận ba được nhận khẩu tiểu liên
Với mười viên đạn một băng liền
Chặn giặc từ đầu đường “ba chín”
Thôn nghèo Yên Lịch dạ trung kiên!
Vừa đánh Tây vừa cõng thương binh
Vượt sông giá lạnh lúc bình minh
Máu đồng đội thấm đầy quân phục
Vẫn chẳng rời nhau nghĩa tử sinh!
Thế rồi hơn bốn chục mùa xuân
Chiến trường giục giã chẳng dừng chân
Theo anh Văn, ngọn cờ Quyết thắng
Bác Hồ cùng chúng cháu hành quân!
Cả đời mãi miết cuộc trường chinh
Ơn vợ, quê hương vẹn nghĩa tình
Tần tảo nuôi con, chăm cha mẹ
Vượt ngàn gian khó, giỏi mưu sinh!
Pháp Mỹ chạy rồi, nước chửa yên
Hai đầu biên giới lửa triền miên
Năm cha con lại cùng thắng giặc
Trên biên phía Bắc bảy năm liền.
Trở về đội ngũ cựu chiến binh
Cháu con đều tiến bộ, trưởng thành
Cùng anh em tiếp vun truyền thống
Chung tay làm rạng rỡ quê mình…
Sức mạnh nhân dân và đồng đội
Dựng làng văn hoá thật kiên trung
Vượt bao thử thách hai thời đại
Quê hương Tán Thuật xã anh hùng.
Tám chục tuổi đời vẫn thanh xuân
Sáu hai tuổi Đảng vẫn kiệm, cần
Liêm chính làm theo lời Bác day
Vinh nào bằng “công bộc nhân dân”
Mười tám năm qua hưu chẳng nghỉ
Đồng đội luôn về sum họp vui
Mọi việc làm đều cùng suy nghĩ
Đơm hoa, kết trái đẹp cho đời
Vui thay mình đang tới tám hai
Phía trước đường xuân vẫn rộng dài
Nước mạnh, dân giàu, nhà hạnh phúc
Ngẩng đầu thẳng bước tới tương lai.
Xuân Mậu Tý 2008
PHẠM HỒNG
CCB nhà 8/17 đường Trần Khánh Dư, Bạch Đằng
Phường Trần Phú, Thành phố Hải Dương; ĐT 0396620183.
anh Phạm Hồng là chính ủy sư đoàn 325 B, sư đoàn 356 Anh Phạm Hồng từ trần ngày 20 tháng 9 âm lịch Kỷ Hợi nhằm ngày 10 tháng 8 dương lịch năm 2019 hưởng thọ 93 tuổi,