Số lần xem
Đang xem 1851 Toàn hệ thống 2619 Trong vòng 1 giờ qua
Trang liên kết
Tỉnh thức
giữa đêm thiêng Yên Tử
Để thấm hiểu đức Nhân Tông
Ta thành tâm đi bộ
Lên tận đỉnh chùa Đồng
Tâm sáng Ức Trai
trong tựa ngọc TÌNH YÊU CUỘC SỐNG
DẠY VÀ HỌC Để chấn hưng giáo dục Việt Nam cấp thiết phải có đội ngũ những người thầy giáo ưu tú có tâm đức thiết tha với nghề, có trình độ chuyên môn cao và có kỹ năng giảng dạy tốt. Đây là trang thông tin chuyên đề dạy và học để trao đổi và bàn luận
Norman Borlaug Lời Thầy dặn Việc chính đời người chỉ ít thôi
Chuyên tâm đừng bận chuyện trời ơi
Phúc hậu suốt đời làm việc thiện
Di sản muôn năm mãi sáng ngời.
Ngày ghi nhớ trong trái tim tôi. CIMMYT tươi rói một kỷ niệm. Ngày 29 tháng 8 (âm lịch) năm 1988 là kỷ niệm ngày mất của cha tôi. Ngày này năm xưa, dưới vòm cây xanh do Thầy Norman Borlaug trồng ở CIMMYT Thầy với tôi đã trò chuyện về Goethe, cây xanh, nhà khoa học xanh.
LỜI THẦY DẶN THUNG DUNG Norman Borlaug nhà khoa học xanh‘
Hoàng Kim
Việc chính đời người chỉ ít thôi
Chuyên tâm đừng bận chuyện trời ơi
Phúc hậu suốt đời làm việc thiện
Di sản muôn năm mãi sáng ngời.
Norman Borlaug người Thầy sống nhân đạo, làm nhà khoa học xanh và nêu gương tốt. Thầy là nhà nhân đạo, nhà nông học Mỹ cha đẻ của cuộc cách mạng xanh được tặng giải Nobel và Tổng thống Mỹ trao tặng huân chương cao quý nhất của nước Mỹ, thế giới tôn vinh là nhà bác học số một của nhân loại trong cuộc chiến chống nghèo đói. Thầy đã suốt đời nghiên cứu giảng dạy về chọn tạo và phát triển cây lương thực, góp phần cải thiện đời sống và nâng cao thu nhập cho hàng trăm triệu nông dân nghèo ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ Latinh. Thầy là người sáng lập Giải thưởng Lương thực Thế giới và tổ chức nhiều hoạt động thiết thực thắp sáng niềm tin yêu cuộc sống.
Tôi được Thầy ghé thăm gần trọn buổi chiều tại phòng riêng ở CIMMYT, Mexico ngày 29.8.1988. Thầy đã một mình ghé thăm người trò nhỏ duy nhất của châu Á trong lớp học “Quản lý Trung tâm/ Trạm trại Nông nghiệp”. Khi Thầy đến, tôi đang thắp nến trên giá sách trong phòng đề tưởng nhớ ngày cha mất. Biết cha tôi bị bom Mỹ giết hại tại làng nhỏ ở Quảng Bình của buổi chiều này hai mươi năm trước (1968) lúc tôi còn là học sinh trung học của Trường cấp Ba Bắc Quảng Trạch, Thầy bối rối xin lỗi và thật bất ngờ tôi đã có được một buổi chiều vô giá riêng tư bên Thầy.
Lời Thầy dặn thật thấm thía: “ Đời người tối thiểu phải ăn, kế đến là học tập, công việc, nhà ở, quần áo và chăm sóc sức khỏe. Quanh ta còn nhiều mảnh đời bất hạnh. Hiểm họa nghèo đói vẫn bùng phát bất cứ lúc nào. Hãy luôn nhớ điều đó”; “Hãy vươn tới những vì sao. Cho dù không chạm được vào nó, nhưng nếu cố gắng hết sức, ít ra, chúng ta cũng chạm được những hạt bụi của ngôi sao”; “Việc chính đời người chỉ ít thôi. Chuyên tâm đừng bận chuyện trời ơi. Phúc hậu suốt đời làm việc thiện. Di sản muôn năm mãi sáng ngời”. Trích “Thầy bạn là lộc xuân cuộc đời” – Hoàng Kim
NGÀY GHI NHỚ TRONG TRÁI TIM TÔI
Ngày ghi nhớ trong trái tim tôi là ngày mất của cha tôi 29 tháng 8 âm lịch. Mỗi gia đình đều có những ngày riêng để ghi nhớ. Với gia đình chúng tôi ngày này là một kỹ niệm không bao giờ quên. Lịch Vạn Niên ngày dương lịch có thể đổi thay nhưng ý nghĩa của sự kiện vẫn vậy. Ngày này cha tôi mất năm 1968 và thầy Hiệu trưởng Trần Đình Côn đã viết Bài ca Trường Quảng Trạch với những câu thơ đẫm nước mắt “Thương em cảnh gieo neo mẹ mất, lại cha già giặc giết hôm qua”. Hai mươi năm sau, ngày này năm 1988, tại phòng riêng của tôi ở CIMMYT Mexico, tôi bất ngờ được thầy Norman Borlaug, người đoạt giải Nobel hòa bình, cha đẻ cách mạng xanh, nhà bác học hàng đầu của nông nghiệp hiện đại tới thăm. Thầy đã dành trọn buổi chiều để trò chuyện và khai mở tâm thức cho tôi….
29 tháng 8 âm lịch năm 2016 trùng ngày 29 tháng 9 kỷ niệm 50 năm thành lập CIMMYT tôi nhớ đến cha tôi, người thầy và cũng là anh hai Hoàng Ngọc Dộ tần tảo thay cha mẹ nuôi em năm năm ngày một bữa, thầy Nguyễn Khoa Tịnh khóc trên bục giảng cùng thầy bạn nhường cơm xẻ áo cho tôi, thầy Mai Văn Quyền mà tôi viết trên trang cảm ơn của luận án tiến sĩ để nói lên tình cảm của tôi đối với thầy cô: “Ơn Thầy. Cha ngày xưa nuôi con đi học. Một nắng hai sương trên những luống cày. Trán tư lự, cha thường suy nghĩ. Phải dạy con mình như thế nào đây? Cha mất sớm, bom thù rung mặt đất. Cái chết giằng cha ra khỏi tay con. Mắt cha lắng bao niềm ao ước. Vẫn lo cho con đến phút cuối cùng. Giặc giết cha, cha chưa kịp thấy. Tương lai con đi, sự nghiệp con làm. Cha có biết, luống cày cha bỏ dỡ. Cha ngã xuống rồi trao lại tay con. Trên luống cày này, đường cày con vững. Bởi có dáng thầy thay bóng cha xưa. Hiểu mảnh đất máu đào cha nhuộm đỏ. Thôi thúc tim con học tập phút giờ
Tôi nhớ Thầy Norman Borlaug trong biết bao câu chuyện đời thường và sự kiện. Tôi nhớ về ngày ghi nhớ trong trái tim tôi. Tôi nhớ Cha Mẹ tôi, nhớ Thầy Mai Văn Quyền, nhớ người anh cũng là thầy tôi Hoàng Ngọc Dộ, nhớ thầy Nguyễn Khoa Tịnh và biết bao thầy bạn trong đời tôi đã cho tôi học làm người. Norman Borlaug và ngày 29 tháng 8 (âm lịch) năm 1988 là kỷ niệm ngày mất của cha tôi dưới vòm cây xanh do Thầy trồng ở CIMMYT gợi nhớ buổi chuyện trò của Thầy với tôi về Goethe và cây xanh.
Một ngày không thể nào quên. Ngày này cũng gợi nhớ ngày Lương thực thế giới (World Food Day) 16 tháng 10 là ngày kỷ niệm thành lập Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hiệp Quốc năm 1945, cũng là ngày Khoa học kỹ thuật thực phẩm. Ngày 17 tháng 10 là ngày Thế giới chống đói nghèo; Năm 1979, mẹ Têrêsa được trao giải Nobel Hòa bình do những hoạt động nhằm đấu tranh vượt qua nghèo khó tại Ấn Độ; Năm 1849 ngày mất Chopin nhà soạn nhạc nổi tiếng người Ba Lan.
“Những gì tốt đẹp nhất phải được cảm nhận bằng trái tim”. “Tôi đã khóc vì không có giày để đi chỉ đến khi tôi gặp một người khóc vì không có chân để đi giày” .Đây là hai câu nói đặc biệt nổi tiếng của Helen Keller người mù điếc huyền thoại. Helen Keller sinh ngày 27 tháng 6 năm 1880 mất ngày 1 tháng 6 năm 1968 là nữ văn sĩ nổi tiếng, nhà hoạt động xã hội và diễn giả người Mỹ rất được tôn trọng ở Mỹ và toàn thế giới. Bà là một trong những biểu tượng đời thường có thật về đức nhẫn và sự hi sinh, biến số không nghịch cảnh thành cho bất cứ ai gục ngã trên trường đời biết gượng đứng dậy tự thắng mình. Bà vì viêm màng não nên bị mù, câm và điếc nhưng đã tốt nghiệp Đại học Harvard. Bà là người khiếm thị, khiếm thính đầu tiên của nước Mỹ giành học vị Cử nhân Nghệ thuật. Ảnh trên là Helen Keller và cô Anne người Thầy lớn.
Tại Việt Nam hiện đã có một số tác phẩm giới thiệu về người mù câm điếc huyền thoại này đã vượt lên số phận nghiệt ngã để làm được những điều tốt đẹp cho thế giới chúng ta. Hoàng Kim đã biên tập bài viết này từ nguồn Helen Keller Biography.com, Wikipedia Tiếng Anh &Tiếng Việt và danh ngôn của Helen Keller ở trong Từ điển Danh ngôn. Tôi cũng đang biên soạn Tôi cũng đang biên soạn “Người mù điếc huyền thoại” để dành kể cho các em nhỏ và cho con nghe về câu chuyện cảm động này không chỉ cho Ngày Người khuyết tật Quốc tế (International Day of Disabled Persons).mà cả cho những ngày thường để thấu hiểu tình yêu nghị lực và sự cố gắng. Năm tháng đi qua chỉ tình yêu ở lại.
Nhiều người trong chúng ta thường phàn nàn là cuộc đời kém may mắn và số phận chưa cho họ những cơ hội tốt hơn để có thể vinh hiển giàu có và hạnh phúc. Cho đến khi một tai họa giáng xuống đầu họ hoặc gia đình họ, để buộc họ phải tự chính mình trãi nghiệm, hoặc họ phải đối diện với những con người khuyết tật thì mới tỉnh ngộ và thấu hiểu rằng cuộc đời này là may mắn hơn rất nhiều so với số phận khốn khổ kia. Và, vượt lên chính mình để sống phúc hậu yêu thương minh triết mới thực sự là điều quan trọng nhất. Tôi ngồi với thầy Vu Trinh, Duong Dong bên cuốn sổ lưu niệm của thầy Dương Thanh Liêm để nghĩ về câu chuyện “Trường tôi với thầy Dương Thanh Liêm” trong đêm thiêng đưa tiễn Thầy. Có những tấm gương trong đời mà khoảng lặng tâm đắc mới thấu hiểu.
(* Notes: Tôi nói với Cám ơn Trúc MaiHuỳnh Hồng, Trần Đình Lý, The Anh Dao, Van Tho Le và các bạn đã đồng cảm . Một số bạn sinh viên thích học song ngữ Anh Việt danh ngôn hợp ngữ cảnh nên dọc danh ngôn Helen Keler trong bài này. “Trong lúc họ còn đang nói với nhau không thể làm được điều đó đâu, nó đã được làm xong rồi”.( While they were saying among themselves it cannot be done, it was done) (như giống sắn KM419, KM440, KM536, KM568 vậy !!!). Những gì tốt đẹp nhất phải được cảm nhận bằng trái tim”.(The best of all must be felt with the heart.); “Tôi đã khóc vì không có giày để đi chỉ đến khi tôi gặp một người khóc vì không có chân để đi giày” (I cried because I had no shoes until I met a man who had no feet) “Hãy quay về hướng mặt trời, và bạn sẽ không thấy bóng tối”.(Keep your face to the sunshine and you cannot see a shadow.) xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/nguoi-mu-diec-huyen-thoai
HELEN KENLER CUỘC ĐỜI VÀ DI SẢN
Helen Adams Keller sinh ra tại Tuscumbia, Alabama. Gia đình bà sống trong khu điền trang Ivy Green được ông nội của bà xây dựng từ những thập kỉ trước..Cha của bà Helen Kenler là Arthur H. Keller, một người thầy lâu năm làm biên tập cho tờ báo Tuscumbia North Alabamian và từng là đại úy trong Quân đội miền nam. Bà nội của Helen là chị em họ với Robert E. Lee là là sĩ quan quân đội Hoa Kỳ, nổi tiếng vì ông nhận chức Đại tướng thống lãnh quân đội Liên minh miền Nam trong cuộc Nội chiến Hoa Kỳ (1861-1865). Mẹ bà là Kate Adams, con gái của Charles W. Adams là người gốc từ Massachusetts và từng tham chiến cho Quân đội miền nam trong suốt Cuộc nội chiến Mỹ và trở thành đại tá. Họ nội của Helen thuộc dòng dõi với Casper Keller, người có gốc gác Thụy Sỹ. Keller không bị mù và điếc bẩm sinh nhưng khi bà chào đời được khoảng 19 tháng thì bị sốt viêm màng não rất nặng bị mù mất đôi mắt và sau đó tai cũng bị điếc. Gia đình chứng kiến nỗi bất hạnh của số phận nghiệt ngã giáng xuống đứa con gái nhỏ bé vừa lớn lên đã phải chống chọi với một nghịch cảnh quá đau đớn . Vì thế tính tình của Keller càng lớn càng cáu gắt nóng nảy.
Thầy bạn nghị lực và học vấn đã thay đổi cuộc đời Helen. Năm 1886, bà mẹ của Helen tình cờ biết được một đứa bé cũng bị mù điếc như con mình nhưng đã được dạy dỗ thành công, liền tới Baltimore, Maryland gặp bác sĩ để xin lời khuyên. Người bác sĩ này khuyên bà nên tới gặp Alexander Graham Bell, lúc đó còn đang là một nhà chuyên môn chuyên làm việc với những trẻ em bị điếc tại địa phương. Bell lại giới thiệu bà mẹ đưa con gái của mình tới học trường Perkins dành cho người mù ở Nam Boston, tiểu bang Massachusetts. Tại đây Keller đã được gặp cô gia sư Anne Sullivan người Ireland vừa mới tốt nghiệp. Từ đó họ bắt đầu một tình bạn kéo dài suốt 49 năm. Có một lần Anne tặng cho Keller một con búp bê bằng vải mà cô ôm trên tay. Chờ cho Keller chơi một hồi, Anne liền cầm lấy bàn tay Keller và viết chữ “búp bê” (doll) lên lòng bàn tay em. Keller rất thích thú với cách thể hiện đó, từ đó về sau Anne thường xuyên tập cho Keller ghép chữ cái theo cách này. Sau 3 tháng, thông qua ngôn ngữ động tác tay và sờ xem cử động môi của Anne, Keller đã học được hơn 400 từ đơn và một số ngữ ngắn. Năm Keller 8 tuổi, cô Anne đưa bà tới học tại trường Perkins, nơi có các loại sách chữ nổi và các trẻ em bị mù điếc khác. Chẳng bao lâu, Keller đã bộc lộ rõ tài năng vượt trội về các môn toán, địa lý, sinh học, tập đọc; em còn học cả bơi, chèo thuyền, cưỡi ngựa, đi xe. Sau đó Keller vào học trường nữ học tiểu bang Massachusetts, cô giáo Anne luôn luôn ở bên cạnh Keller để viết lại nội dung bài giảng vào lòng bàn tay Keller. Năm 1900 Keller thi đậu vào trường Radcliffe College, học tài liệu chữ nổi dành cho người mù. Cô kiên trì học tới mức khi nào đầu ngón tay rớm máu mới chịu dừng. Đến năm 1904 Keller tốt nghiệp và trở thành người mù điếc đầu tiên được tốt nghiệp đại học.
Hoạt động chính trị nổi bật của Helen Keller. Hai năm sau ngày tốt nghiệp, Keller được vinh dự bầu vào chức chủ tịch hội người mù tiểu bang Massachusetts, bắt tay vào công việc xã hội cụ thể phục vụ cho cộng đồng người mù. Keller đón tiếp rất nhiều người mù, trả lời nhiều thư từ và đi thuyết giảng lưu động tại 39 nước trên thế giới. Cô không quản ngại vất vả, cống hiến hết sức mình cho chương trình giáo dục và chữa trị cho người mù. Năm 1920 với sự phấn đấu không mệt mỏi, Keller đã thành lập được tổ chức quần chúng trên phạm vi toàn quốc của Hội người mù toàn nước Mỹ. Tổ chức này vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay. Keller trở thành một biểu tượng của tinh thần tự lực phi thường khi suốt đời sống trong thế giới không ánh sáng, không âm thanh nhưng vẫn cống hiến hết sức lực nhằm đem niềm vui đến với người tàn tật, có cùng hoàn cảnh như mình. Cô đã được gặp nhiều tổng thống Mỹ như Grover Cleveland, Benjamin Harrison,William McKinley, Theodore Roosevelt, William Howard Taft, Franklin D. Roosevelt, John F. Kennedy…Cô cũng trở thành bạn của những con người nổi tiếng như Alexander Graham Bell, Charlie Chaplin, Mark Twain. Bà bắt đầu tham gia phong trào xã hội tại nước Mỹ. Keller gia nhập Đảng Xã hội Hoa Kỳ, và về sau bỏ đảng đó để gia nhập Industrial Workers of the World (Công nhân kỹ nghệ của Thế giới). Những nhà báo mà về trước khen ngợi sự can đảm và thông minh của bà bây giờ chỉ ra là bà bị tàn tật. Chủ báo Brooklyn Eagle viết rằng “những sai lầm [của bà] xuất hiện từ những hạn chế rõ ràng khi lớn lên”. Keller trả lời chủ báo này, nói đến lần gặp ông trước khi ông biết đến những quan điểm chính trị của bà: “Vào thời điểm đó, những lời khen ngợi mà anh ta trả cho tôi rất hào phóng đến nỗi tôi đỏ mặt nhớ lại chúng. Nhưng bây giờ tôi hoạt động xã hội ngược hướng với ông ấy thì ông ấy đã nhắc nhở tôi và công chúng rằng tôi bị mù và điếc và đặc biệt là trách nhiệm với lỗi. Tôi phải bị thu nhỏ trí thông minh trong những năm kể từ khi tôi gặp anh ấy … Ôi, Brooklyn Eagle vô lý! Bị mù và khiếm thị về mặt xã hội, ông bảo vệ một hệ thống không thể chấp nhận được, một hệ thống là nguyên nhân gây ra nhiều sự mù lòa về thể chất và điếc mà chúng tôi đang cố gắng ngăn chặn”. Bà cũng biểu tình chống chiến tranh và đồng sáng lập tổ chức dân quyền ACLU. Các hoạt động này có liên quan đến quan điểm công bằng của Keller.
Helen Keller là người giới thiệu loài chó quý Akita tới Mỹ. Keller khi tới thăm tỉnh Akita của nước Nhật Bản vào tháng 7 năm 1937, bà đã hỏi thăm về con chó Hachiko một giống chó thuộc loài Akita nổi tiếng đã chết từ năm 1935, và bày tỏ ý định muốn có một chú chó như thế. Chỉ trong vòng một tháng, một chú chó tên là Kamikaze-go đã được gửi đến, nhưng sau đó đã chết bệnh quá sớm. Chính phủ Nhật Bản quyết định tặng cho Helen Keller một chú chó thứ hai tên là Kenzan-go vào tháng 7 năm 1939 để bà mang về Mỹ giới thiệu. Những tiêu chuẩn để nuôi dưỡng và chăm sóc giống chó này đã được xây dựng, đồng thời các cuộc biểu diễn cũng đã được tổ chức. Tuy nhiên tất cả đã bị hoãn vô thời hạn vì Thế chiến thứ hai nổ ra. Ngày 14 tháng 9 năm 1964 Keller được Tổng thống Lyndon B. Johnson tặng thưởng Huân chương Tự do, một trong hai phần thưởng cao quý nhất của chính phủ Mỹ dành cho nhân dân. Ngày 1 tháng 6 năm 1968 Helen Keller tạ thế ở tuổi 87 trong căn nhà của mình tại Easton, Connecticut, trong khi chỉ còn 26 ngày nữa là tới sinh nhật thứ 88 của bà.
Bệnh viện Helen Keller đã được xây dựng tại Alabama để tưởng nhớ người phụ nữ giàu nghị lực này.
HELEN KENLER TRANG SÁCH VÀ LỜI VÀNG
Helen Keller trong đời đã viết được 12 cuốn sách và rất nhiều bài báo. Tác phẩm đầu tiên của bà là tự truyện “Câu chuyện đời tôi” (The Story of My Life) viết năm 1902, khi Helen Keller là sinh viên đại học Harvard University năm thứ 2,. Sách được Helen Keller hoàn thành tác phẩm đầu tay với sự giúp đỡ của cô Anne, một số nhà phê bình văn học và được xuất bản năm 1903. Tác phẩm theo thể loại tự truyện, bút pháp súc tích chân thực được đón nhận với sự xúc động của công chúng. Những tác phẩm phẩm khác bà vượt lên chính mình, tìm về với tự thân và tiếng nói nội tâm đích thực, lay động trái tim và khối óc của người đọc. Tác phẩm cuối cùng là Ánh sáng trong bóng tối của tôi hoặc Ánh sáng trong màn đêm (Light in My Darkness) xuất bản năm 1960, tám năm trước khi bà mất. Bà nói lên sự đồng cảm sâu sắc của mình đối với các lời giáo huấn của nhà khoa họa triết gia người Thụy Điển Emanuel Swedenborg. Tám năm cuối đời bà cũng viết lời vàng suy nghiệm cho mỗi ngày thực hiên giống như Leo Tolstoy . Helen Keller là một phụ nữ tràn đầy lạc quan, thiết tha yêu cuộc sống tuy cuộc đời bất hạnh tật nguyền. Helen bất ngờ có một chàng trai ngỏ lời cầu hôn và đã sung sướng chấp nhận chờ đợi hạnh phúc nhưng sau đó đã nghe lời mẹ để ngậm ngùi chia tay người yêu và dành hết tình yêu cuộc sống của mình cho sự nghiệp phúc lợi mang lại niềm vui cho người mù. Hai cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất và lần thứ hai đã gây ra bao đau thương chết chóc và tàn phế cho hàng trăm triệu người. Keller đã tìm đến hơn 70 bệnh viện để an ủi bệnh binh, động viên họ kiên cường chống chọi với số phận, làm cho họ hiểu rằng tàn phế không có nghĩa là hết hy vọng trước cuộc sống. Bà đã từng ba lần sang thăm nước Nhật sau chiến tranh và được người dân Tokyo tiếp đón nồng nhiệt. Bà kể với mọi người rằng mình chỉ là một người không may mắn, nhưng đã dùng ý chí nghị lực để chống trả lại số phận trớ trêu, hoàn thành sự nghiệp khơi gợi tấm lòng nhân hậu của mọi người, nhằm mang lại tình thương cho người tàn tật. Cuộc đời và trang sách Helen Keller bổ sung cho cho là nên trang vàng của tình yêu cuộc sống.
Helen Keller lời vàng từ trái tim nâng đỡ ước mơ và nghị lực
Lạc quan là niềm tin dẫn tới thành tựu. Bạn chẳng thể làm được điều gì mà thiếu đi hy vọng và sự tự tin.
Optimism is the faith that leads to achievement. Nothing can be done without hope and confidence.
Cùng bước với một người bạn trong bóng tối tốt hơn là bước một mình trong ánh sáng.
Walking with a friend in the dark is better than walking alone in the light.
Thành công và hạnh phúc nằm trong bạn. Quyết tâm hạnh phúc, và niềm vui sẽ đi cùng bạn để hình thành đạo quân bất khả chiến bại chống lại nghịch cảnh.
Your success and happiness lies in you. Resolve to keep happy, and your joy and you shall form an invincible host against difficulties.
Chừng nào mà kỷ niệm về những người bạn thân thương vẫn sống trong tim tôi, tôi sẽ nói rằng đời tốt đẹp.
So long as the memory of certain beloved friends lives in my heart, I shall say that life is good.
Tính cách không thể phát triển một cách dễ dàng và yên lặng. Chỉ qua trải nghiệm thử thách và gian khổ mà tâm hồn trở nên mạnh mẽ hơn, hoài bão hình thành và thành công đạt được.
Character cannot be developed in ease and quiet. Only through experience of trial and suffering can the soul be strengthened, ambition inspired, and success achieved.
Một mình, ta làm được rất ít; cùng nhau, ta làm được rất nhiều.
Alone we can do so little; together we can do so much.
Thật tuyệt vời là con người đã sử dụng biết bao thời gian để chống lại cái ác. Giá mà họ cũng sử dụng năng lượng đó để yêu thương người khác, cái ác sẽ tự chết vì buồn chán.
It is wonderful how much time good people spend fighting the devil. If they would only expend the same amount of energy loving their fellow men, the devil would die in his own tracks of ennui.
Sự khoan dung là món quà lớn nhất của tâm hồn; nó đòi hỏi nỗi lực của bộ não cũng nhiều như khi bạn phải giữ thăng bằng khi đi xe đạp.
Toleration is the greatest gift of the mind; it requires the same effort of the brain that it takes to balance oneself on a bicycle.
Cũng như sự ích kỷ và phàn nàn làm tha hóa tâm hồn, tình yêu với những niềm vui của mình làm tầm nhìn trở nên rõ ràng và sắc nét.
As selfishness and complaint pervert the mind, so love with its joy clears and sharpens the vision.
Không ai có quyền hưởng thụ hạnh phúc mà không tạo ra nó.
No one has a right to consume happiness without producing it.
Ta không thể đánh mất những gì ta từng tận hưởng. Tất cả những gì ta yêu sâu sắc trở thành một phần trong ta.
What we have once enjoyed we can never lose. All that we love deeply becomes a part of us.
Chúng ta không bao giờ có thể học được sự can đảm và kiên nhẫn nếu chỉ có niềm vui trên thế gian này.
We could never learn to be brave and patient, if there were only joy in the world.
Cuộc sống là một chuỗi bài học mà bạn cần phải sống mới hiểu được.
Life is a succession of lessons which must be lived to be understood.
Niềm tin là sức mạnh có thể khiến thế giới tan vỡ xuất hiện trong ánh sáng.
Faith is the strength by which a shattered world shall emerge into the light.
Kết quả cao nhất của giáo dục là sự khoan dung.
The highest result of education is tolerance.
Sự đảm bảo chỉ là mê tín mà thôi. Nó không tồn tại trong tự nhiên, loài người nói chung cũng không trải nghiệm nó. Lảng tránh nguy hiểm về lâu dài không an toàn hơn nhảy thẳng vào nguy hiểm. Cuộc sống hoặc là một cuộc phiêu lưu táo bạo, hoặc chẳng là gì cả.
Security is mostly a superstition. It does not exist in nature, nor do the children of men as a whole experience it. Avoiding danger is no safer in the long run than outright exposure. Life is either a daring adventure, or nothing.
Chúng ta có thể đã chữa trị được hầu hết thói xấu xa; nhưng chúng ta vẫn chưa tìm ra liều thuốc cho thói xấu tồi tệ nhất, sự vô cảm của con người.
We may have found a cure for most evils; but we have found no remedy for the worst of them all, the apathy of human beings.
Điều tôi đi tìm không ở ngoài kia, nó ở trong bản thân tôi.
What I am looking for is not out there, it is in me.
Thay vì so sánh mình với những người may mắn hơn mình, ta nên so sánh mình với số đông con người. Và rồi sẽ có vẻ như chúng ta là những người may mắn.
Instead of comparing our lot with that of those who are more fortunate than we are, we should compare it with the lot of the great majority of our fellow men. It then appears that we are among the privileged.
Hãy quay về hướng mặt trời, và bạn sẽ không thấy bóng tối.
Keep your face to the sunshine and you cannot see a shadow.
Nhiều người có ý tưởng sai lầm về điều sản sinh ra hạnh phúc đích thực. Nó không đạt được qua sự tự thỏa mãn mà qua sự trung thành với một mục đích đáng giá.
Many persons have a wrong idea of what constitutes true happiness. It is not attained through self-gratification but through fidelity to a worthy purpose.
Điều tốt đẹp nhất trên thế gian này không thể nhìn thấy hoặc thậm chí chạm vào – chúng phải được cảm nhận bằng trái tim.
The best and most beautiful things in the world cannot be seen or even touched – they must be felt with the heart.
Cuộc sống rất thú vị, và thú vị nhất khi nó được sống vì người khác.
Life is an exciting business, and most exciting when it is lived for others.
Cả thế giới ngập tràn thống khổ. Nó cũng ngập tràn chiến thắng.
All the world is full of suffering. It is also full of overcoming.
Trước khi số đông con người tràn đầy tinh thần trách nhiệm đối với lợi ích của người khác, công bằng xã hội sẽ chẳng bao giờ đạt được.
Until the great mass of the people shall be filled with the sense of responsibility for each other’s welfare, social justice can never be attained.
Đừng bao giờ cúi đầu. Hãy luôn ngẩng cao. Nhìn thẳng vào mắt thế giới.
Never bend your head. Always hold it high. Look the world straight in the eye.
Thật khó để khiến những người có mọi thứ quan tâm tới những người chẳng có thứ gì.
It is hard to interest those who have everything in those who have nothing.
Mọi thứ đều chứa đựng điều bí ẩn, thậm chí cả bóng tối và sự câm lặng, và tôi học được rằng cho dù tôi ở trạng thái nào, tôi cũng có thể yên bình.
Everything has its wonders, even darkness and silence, and I learn, whatever state I may be in, therein to be content.
Tôi chỉ là một, nhưng tôi vẫn là một. Tôi không thể làm mọi thứ, nhưng tôi vẫn có thể làm gì đó; và bởi vì tôi không thể làm tất cả, tôi sẽ không từ chối làm điều tôi có thể.
I am only one, but still I am one. I cannot do everything, but still I can do something; and because I cannot do everything, I will not refuse to do something that I can do.
Ngày ghi nhớ trong trái tim tôi. CIMMYT tươi rói một kỷ niệm. Ngày 29 tháng 8 (âm lịch) năm 1988 là kỷ niệm ngày mất của cha tôi. Ngày này năm xưa, dưới vòm cây xanh do Thầy Norman Borlaug trồng ở CIMMYT Thầy với tôi đã trò chuyện về Goethe, cây xanh, nhà khoa học xanh.
LỜI THẦY DẶN THUNG DUNG Norman Borlaug nhà khoa học xanh‘
Hoàng Kim
Việc chính đời người chỉ ít thôi
Chuyên tâm đừng bận chuyện trời ơi
Phúc hậu suốt đời làm việc thiện
Di sản muôn năm mãi sáng ngời.
Norman Borlaug người Thầy sống nhân đạo, làm nhà khoa học xanh và nêu gương tốt. Thầy là nhà nhân đạo, nhà nông học Mỹ cha đẻ của cuộc cách mạng xanh được tặng giải Nobel và Tổng thống Mỹ trao tặng huân chương cao quý nhất của nước Mỹ, thế giới tôn vinh là nhà bác học số một của nhân loại trong cuộc chiến chống nghèo đói. Thầy đã suốt đời nghiên cứu giảng dạy về chọn tạo và phát triển cây lương thực, góp phần cải thiện đời sống và nâng cao thu nhập cho hàng trăm triệu nông dân nghèo ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ Latinh. Thầy là người sáng lập Giải thưởng Lương thực Thế giới và tổ chức nhiều hoạt động thiết thực thắp sáng niềm tin yêu cuộc sống.
Tôi được Thầy ghé thăm gần trọn buổi chiều tại phòng riêng ở CIMMYT, Mexico ngày 29.8.1988. Thầy đã một mình ghé thăm người trò nhỏ duy nhất của châu Á trong lớp học “Quản lý Trung tâm/ Trạm trại Nông nghiệp”. Khi Thầy đến, tôi đang thắp nến trên giá sách trong phòng đề tưởng nhớ ngày cha mất. Biết cha tôi bị bom Mỹ giết hại tại làng nhỏ ở Quảng Bình của buổi chiều này hai mươi năm trước (1968) lúc tôi còn là học sinh trung học của Trường cấp Ba Bắc Quảng Trạch, Thầy bối rối xin lỗi và thật bất ngờ tôi đã có được một buổi chiều vô giá riêng tư bên Thầy.
Lời Thầy dặn thật thấm thía: “ Đời người tối thiểu phải ăn, kế đến là học tập, công việc, nhà ở, quần áo và chăm sóc sức khỏe. Quanh ta còn nhiều mảnh đời bất hạnh. Hiểm họa nghèo đói vẫn bùng phát bất cứ lúc nào. Hãy luôn nhớ điều đó”; “Hãy vươn tới những vì sao. Cho dù không chạm được vào nó, nhưng nếu cố gắng hết sức, ít ra, chúng ta cũng chạm được những hạt bụi của ngôi sao”; “Việc chính đời người chỉ ít thôi. Chuyên tâm đừng bận chuyện trời ơi. Phúc hậu suốt đời làm việc thiện. Di sản muôn năm mãi sáng ngời”. Trích “Thầy bạn là lộc xuân cuộc đời” – Hoàng Kim
NGÀY GHI NHỚ TRONG TRÁI TIM TÔI
Ngày ghi nhớ trong trái tim tôi là ngày mất của cha tôi 29 tháng 8 âm lịch. Mỗi gia đình đều có những ngày riêng để ghi nhớ. Với gia đình chúng tôi ngày này là một kỹ niệm không bao giờ quên. Lịch Vạn Niên ngày dương lịch có thể đổi thay nhưng ý nghĩa của sự kiện vẫn vậy. Ngày này cha tôi mất năm 1968 và thầy Hiệu trưởng Trần Đình Côn đã viết Bài ca Trường Quảng Trạch với những câu thơ đẫm nước mắt “Thương em cảnh gieo neo mẹ mất, lại cha già giặc giết hôm qua”. Hai mươi năm sau, ngày này năm 1988, tại phòng riêng của tôi ở CIMMYT Mexico, tôi bất ngờ được thầy Norman Borlaug, người đoạt giải Nobel hòa bình, cha đẻ cách mạng xanh, nhà bác học hàng đầu của nông nghiệp hiện đại tới thăm. Thầy đã dành trọn buổi chiều để trò chuyện và khai mở tâm thức cho tôi….
29 tháng 8 âm lịch năm 2016 trùng ngày 29 tháng 9 kỷ niệm 50 năm thành lập CIMMYT tôi nhớ đến cha tôi, người thầy và cũng là anh hai Hoàng Ngọc Dộ tần tảo thay cha mẹ nuôi em năm năm ngày một bữa, thầy Nguyễn Khoa Tịnh khóc trên bục giảng cùng thầy bạn nhường cơm xẻ áo cho tôi, thầy Mai Văn Quyền mà tôi viết trên trang cảm ơn của luận án tiến sĩ để nói lên tình cảm của tôi đối với thầy cô: “Ơn Thầy. Cha ngày xưa nuôi con đi học. Một nắng hai sương trên những luống cày. Trán tư lự, cha thường suy nghĩ. Phải dạy con mình như thế nào đây? Cha mất sớm, bom thù rung mặt đất. Cái chết giằng cha ra khỏi tay con. Mắt cha lắng bao niềm ao ước. Vẫn lo cho con đến phút cuối cùng. Giặc giết cha, cha chưa kịp thấy. Tương lai con đi, sự nghiệp con làm. Cha có biết, luống cày cha bỏ dỡ. Cha ngã xuống rồi trao lại tay con. Trên luống cày này, đường cày con vững. Bởi có dáng thầy thay bóng cha xưa. Hiểu mảnh đất máu đào cha nhuộm đỏ. Thôi thúc tim con học tập phút giờ
Tôi nhớ Thầy Norman Borlaug trong biết bao câu chuyện đời thường và sự kiện. Tôi nhớ về ngày ghi nhớ trong trái tim tôi. Tôi nhớ Cha Mẹ tôi, nhớ Thầy Mai Văn Quyền, nhớ người anh cũng là thầy tôi Hoàng Ngọc Dộ, nhớ thầy Nguyễn Khoa Tịnh và biết bao thầy bạn trong đời tôi đã cho tôi học làm người. Norman Borlaug và ngày 29 tháng 8 (âm lịch) năm 1988 là kỷ niệm ngày mất của cha tôi dưới vòm cây xanh do Thầy trồng ở CIMMYT gợi nhớ buổi chuyện trò của Thầy với tôi về Goethe và cây xanh.
Một ngày không thể nào quên. Ngày này cũng gợi nhớ ngày Lương thực thế giới (World Food Day) 16 tháng 10 là ngày kỷ niệm thành lập Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hiệp Quốc năm 1945, cũng là ngày Khoa học kỹ thuật thực phẩm. Ngày 17 tháng 10 là ngày Thế giới chống đói nghèo; Năm 1979, mẹ Têrêsa được trao giải Nobel Hòa bình do những hoạt động nhằm đấu tranh vượt qua nghèo khó tại Ấn Độ; Năm 1849 ngày mất Chopin nhà soạn nhạc nổi tiếng người Ba Lan.
“Những gì tốt đẹp nhất phải được cảm nhận bằng trái tim”. “Tôi đã khóc vì không có giày để đi chỉ đến khi tôi gặp một người khóc vì không có chân để đi giày” .Đây là hai câu nói đặc biệt nổi tiếng của Helen Keller người mù điếc huyền thoại. Helen Keller sinh ngày 27 tháng 6 năm 1880 mất ngày 1 tháng 6 năm 1968 là nữ văn sĩ nổi tiếng, nhà hoạt động xã hội và diễn giả người Mỹ rất được tôn trọng ở Mỹ và toàn thế giới. Bà là một trong những biểu tượng đời thường có thật về đức nhẫn và sự hi sinh, biến số không nghịch cảnh thành cho bất cứ ai gục ngã trên trường đời biết gượng đứng dậy tự thắng mình. Bà vì viêm màng não nên bị mù, câm và điếc nhưng đã tốt nghiệp Đại học Harvard. Bà là người khiếm thị, khiếm thính đầu tiên của nước Mỹ giành học vị Cử nhân Nghệ thuật. Ảnh trên là Helen Keller và cô Anne người Thầy lớn.
Tại Việt Nam hiện đã có một số tác phẩm giới thiệu về người mù câm điếc huyền thoại này đã vượt lên số phận nghiệt ngã để làm được những điều tốt đẹp cho thế giới chúng ta. Hoàng Kim đã biên tập bài viết này từ nguồn Helen Keller Biography.com, Wikipedia Tiếng Anh &Tiếng Việt và danh ngôn của Helen Keller ở trong Từ điển Danh ngôn. Tôi cũng đang biên soạn Tôi cũng đang biên soạn “Người mù điếc huyền thoại” để dành kể cho các em nhỏ và cho con nghe về câu chuyện cảm động này không chỉ cho Ngày Người khuyết tật Quốc tế (International Day of Disabled Persons).mà cả cho những ngày thường để thấu hiểu tình yêu nghị lực và sự cố gắng. Năm tháng đi qua chỉ tình yêu ở lại.
Nhiều người trong chúng ta thường phàn nàn là cuộc đời kém may mắn và số phận chưa cho họ những cơ hội tốt hơn để có thể vinh hiển giàu có và hạnh phúc. Cho đến khi một tai họa giáng xuống đầu họ hoặc gia đình họ, để buộc họ phải tự chính mình trãi nghiệm, hoặc họ phải đối diện với những con người khuyết tật thì mới tỉnh ngộ và thấu hiểu rằng cuộc đời này là may mắn hơn rất nhiều so với số phận khốn khổ kia. Và, vượt lên chính mình để sống phúc hậu yêu thương minh triết mới thực sự là điều quan trọng nhất. Tôi ngồi với thầy Vu Trinh, Duong Dong bên cuốn sổ lưu niệm của thầy Dương Thanh Liêm để nghĩ về câu chuyện “Trường tôi với thầy Dương Thanh Liêm” trong đêm thiêng đưa tiễn Thầy. Có những tấm gương trong đời mà khoảng lặng tâm đắc mới thấu hiểu.
(* Notes: Tôi nói với Cám ơn Trúc MaiHuỳnh Hồng, Trần Đình Lý, The Anh Dao, Van Tho Le và các bạn đã đồng cảm . Một số bạn sinh viên thích học song ngữ Anh Việt danh ngôn hợp ngữ cảnh nên dọc danh ngôn Helen Keler trong bài này. “Trong lúc họ còn đang nói với nhau không thể làm được điều đó đâu, nó đã được làm xong rồi”.( While they were saying among themselves it cannot be done, it was done) (như giống sắn KM419, KM440, KM536, KM568 vậy !!!). Những gì tốt đẹp nhất phải được cảm nhận bằng trái tim”.(The best of all must be felt with the heart.); “Tôi đã khóc vì không có giày để đi chỉ đến khi tôi gặp một người khóc vì không có chân để đi giày” (I cried because I had no shoes until I met a man who had no feet) “Hãy quay về hướng mặt trời, và bạn sẽ không thấy bóng tối”.(Keep your face to the sunshine and you cannot see a shadow.) xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/nguoi-mu-diec-huyen-thoai
HELEN KENLER CUỘC ĐỜI VÀ DI SẢN
Helen Adams Keller sinh ra tại Tuscumbia, Alabama. Gia đình bà sống trong khu điền trang Ivy Green được ông nội của bà xây dựng từ những thập kỉ trước..Cha của bà Helen Kenler là Arthur H. Keller, một người thầy lâu năm làm biên tập cho tờ báo Tuscumbia North Alabamian và từng là đại úy trong Quân đội miền nam. Bà nội của Helen là chị em họ với Robert E. Lee là là sĩ quan quân đội Hoa Kỳ, nổi tiếng vì ông nhận chức Đại tướng thống lãnh quân đội Liên minh miền Nam trong cuộc Nội chiến Hoa Kỳ (1861-1865). Mẹ bà là Kate Adams, con gái của Charles W. Adams là người gốc từ Massachusetts và từng tham chiến cho Quân đội miền nam trong suốt Cuộc nội chiến Mỹ và trở thành đại tá. Họ nội của Helen thuộc dòng dõi với Casper Keller, người có gốc gác Thụy Sỹ. Keller không bị mù và điếc bẩm sinh nhưng khi bà chào đời được khoảng 19 tháng thì bị sốt viêm màng não rất nặng bị mù mất đôi mắt và sau đó tai cũng bị điếc. Gia đình chứng kiến nỗi bất hạnh của số phận nghiệt ngã giáng xuống đứa con gái nhỏ bé vừa lớn lên đã phải chống chọi với một nghịch cảnh quá đau đớn . Vì thế tính tình của Keller càng lớn càng cáu gắt nóng nảy.
Thầy bạn nghị lực và học vấn đã thay đổi cuộc đời Helen. Năm 1886, bà mẹ của Helen tình cờ biết được một đứa bé cũng bị mù điếc như con mình nhưng đã được dạy dỗ thành công, liền tới Baltimore, Maryland gặp bác sĩ để xin lời khuyên. Người bác sĩ này khuyên bà nên tới gặp Alexander Graham Bell, lúc đó còn đang là một nhà chuyên môn chuyên làm việc với những trẻ em bị điếc tại địa phương. Bell lại giới thiệu bà mẹ đưa con gái của mình tới học trường Perkins dành cho người mù ở Nam Boston, tiểu bang Massachusetts. Tại đây Keller đã được gặp cô gia sư Anne Sullivan người Ireland vừa mới tốt nghiệp. Từ đó họ bắt đầu một tình bạn kéo dài suốt 49 năm. Có một lần Anne tặng cho Keller một con búp bê bằng vải mà cô ôm trên tay. Chờ cho Keller chơi một hồi, Anne liền cầm lấy bàn tay Keller và viết chữ “búp bê” (doll) lên lòng bàn tay em. Keller rất thích thú với cách thể hiện đó, từ đó về sau Anne thường xuyên tập cho Keller ghép chữ cái theo cách này. Sau 3 tháng, thông qua ngôn ngữ động tác tay và sờ xem cử động môi của Anne, Keller đã học được hơn 400 từ đơn và một số ngữ ngắn. Năm Keller 8 tuổi, cô Anne đưa bà tới học tại trường Perkins, nơi có các loại sách chữ nổi và các trẻ em bị mù điếc khác. Chẳng bao lâu, Keller đã bộc lộ rõ tài năng vượt trội về các môn toán, địa lý, sinh học, tập đọc; em còn học cả bơi, chèo thuyền, cưỡi ngựa, đi xe. Sau đó Keller vào học trường nữ học tiểu bang Massachusetts, cô giáo Anne luôn luôn ở bên cạnh Keller để viết lại nội dung bài giảng vào lòng bàn tay Keller. Năm 1900 Keller thi đậu vào trường Radcliffe College, học tài liệu chữ nổi dành cho người mù. Cô kiên trì học tới mức khi nào đầu ngón tay rớm máu mới chịu dừng. Đến năm 1904 Keller tốt nghiệp và trở thành người mù điếc đầu tiên được tốt nghiệp đại học.
Hoạt động chính trị nổi bật của Helen Keller. Hai năm sau ngày tốt nghiệp, Keller được vinh dự bầu vào chức chủ tịch hội người mù tiểu bang Massachusetts, bắt tay vào công việc xã hội cụ thể phục vụ cho cộng đồng người mù. Keller đón tiếp rất nhiều người mù, trả lời nhiều thư từ và đi thuyết giảng lưu động tại 39 nước trên thế giới. Cô không quản ngại vất vả, cống hiến hết sức mình cho chương trình giáo dục và chữa trị cho người mù. Năm 1920 với sự phấn đấu không mệt mỏi, Keller đã thành lập được tổ chức quần chúng trên phạm vi toàn quốc của Hội người mù toàn nước Mỹ. Tổ chức này vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay. Keller trở thành một biểu tượng của tinh thần tự lực phi thường khi suốt đời sống trong thế giới không ánh sáng, không âm thanh nhưng vẫn cống hiến hết sức lực nhằm đem niềm vui đến với người tàn tật, có cùng hoàn cảnh như mình. Cô đã được gặp nhiều tổng thống Mỹ như Grover Cleveland, Benjamin Harrison,William McKinley, Theodore Roosevelt, William Howard Taft, Franklin D. Roosevelt, John F. Kennedy…Cô cũng trở thành bạn của những con người nổi tiếng như Alexander Graham Bell, Charlie Chaplin, Mark Twain. Bà bắt đầu tham gia phong trào xã hội tại nước Mỹ. Keller gia nhập Đảng Xã hội Hoa Kỳ, và về sau bỏ đảng đó để gia nhập Industrial Workers of the World (Công nhân kỹ nghệ của Thế giới). Những nhà báo mà về trước khen ngợi sự can đảm và thông minh của bà bây giờ chỉ ra là bà bị tàn tật. Chủ báo Brooklyn Eagle viết rằng “những sai lầm [của bà] xuất hiện từ những hạn chế rõ ràng khi lớn lên”. Keller trả lời chủ báo này, nói đến lần gặp ông trước khi ông biết đến những quan điểm chính trị của bà: “Vào thời điểm đó, những lời khen ngợi mà anh ta trả cho tôi rất hào phóng đến nỗi tôi đỏ mặt nhớ lại chúng. Nhưng bây giờ tôi hoạt động xã hội ngược hướng với ông ấy thì ông ấy đã nhắc nhở tôi và công chúng rằng tôi bị mù và điếc và đặc biệt là trách nhiệm với lỗi. Tôi phải bị thu nhỏ trí thông minh trong những năm kể từ khi tôi gặp anh ấy … Ôi, Brooklyn Eagle vô lý! Bị mù và khiếm thị về mặt xã hội, ông bảo vệ một hệ thống không thể chấp nhận được, một hệ thống là nguyên nhân gây ra nhiều sự mù lòa về thể chất và điếc mà chúng tôi đang cố gắng ngăn chặn”. Bà cũng biểu tình chống chiến tranh và đồng sáng lập tổ chức dân quyền ACLU. Các hoạt động này có liên quan đến quan điểm công bằng của Keller.
Helen Keller là người giới thiệu loài chó quý Akita tới Mỹ. Keller khi tới thăm tỉnh Akita của nước Nhật Bản vào tháng 7 năm 1937, bà đã hỏi thăm về con chó Hachiko một giống chó thuộc loài Akita nổi tiếng đã chết từ năm 1935, và bày tỏ ý định muốn có một chú chó như thế. Chỉ trong vòng một tháng, một chú chó tên là Kamikaze-go đã được gửi đến, nhưng sau đó đã chết bệnh quá sớm. Chính phủ Nhật Bản quyết định tặng cho Helen Keller một chú chó thứ hai tên là Kenzan-go vào tháng 7 năm 1939 để bà mang về Mỹ giới thiệu. Những tiêu chuẩn để nuôi dưỡng và chăm sóc giống chó này đã được xây dựng, đồng thời các cuộc biểu diễn cũng đã được tổ chức. Tuy nhiên tất cả đã bị hoãn vô thời hạn vì Thế chiến thứ hai nổ ra. Ngày 14 tháng 9 năm 1964 Keller được Tổng thống Lyndon B. Johnson tặng thưởng Huân chương Tự do, một trong hai phần thưởng cao quý nhất của chính phủ Mỹ dành cho nhân dân. Ngày 1 tháng 6 năm 1968 Helen Keller tạ thế ở tuổi 87 trong căn nhà của mình tại Easton, Connecticut, trong khi chỉ còn 26 ngày nữa là tới sinh nhật thứ 88 của bà.
Bệnh viện Helen Keller đã được xây dựng tại Alabama để tưởng nhớ người phụ nữ giàu nghị lực này.
HELEN KENLER TRANG SÁCH VÀ LỜI VÀNG
Helen Keller trong đời đã viết được 12 cuốn sách và rất nhiều bài báo. Tác phẩm đầu tiên của bà là tự truyện “Câu chuyện đời tôi” (The Story of My Life) viết năm 1902, khi Helen Keller là sinh viên đại học Harvard University năm thứ 2,. Sách được Helen Keller hoàn thành tác phẩm đầu tay với sự giúp đỡ của cô Anne, một số nhà phê bình văn học và được xuất bản năm 1903. Tác phẩm theo thể loại tự truyện, bút pháp súc tích chân thực được đón nhận với sự xúc động của công chúng. Những tác phẩm phẩm khác bà vượt lên chính mình, tìm về với tự thân và tiếng nói nội tâm đích thực, lay động trái tim và khối óc của người đọc. Tác phẩm cuối cùng là Ánh sáng trong bóng tối của tôi hoặc Ánh sáng trong màn đêm (Light in My Darkness) xuất bản năm 1960, tám năm trước khi bà mất. Bà nói lên sự đồng cảm sâu sắc của mình đối với các lời giáo huấn của nhà khoa họa triết gia người Thụy Điển Emanuel Swedenborg. Tám năm cuối đời bà cũng viết lời vàng suy nghiệm cho mỗi ngày thực hiên giống như Leo Tolstoy . Helen Keller là một phụ nữ tràn đầy lạc quan, thiết tha yêu cuộc sống tuy cuộc đời bất hạnh tật nguyền. Helen bất ngờ có một chàng trai ngỏ lời cầu hôn và đã sung sướng chấp nhận chờ đợi hạnh phúc nhưng sau đó đã nghe lời mẹ để ngậm ngùi chia tay người yêu và dành hết tình yêu cuộc sống của mình cho sự nghiệp phúc lợi mang lại niềm vui cho người mù. Hai cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất và lần thứ hai đã gây ra bao đau thương chết chóc và tàn phế cho hàng trăm triệu người. Keller đã tìm đến hơn 70 bệnh viện để an ủi bệnh binh, động viên họ kiên cường chống chọi với số phận, làm cho họ hiểu rằng tàn phế không có nghĩa là hết hy vọng trước cuộc sống. Bà đã từng ba lần sang thăm nước Nhật sau chiến tranh và được người dân Tokyo tiếp đón nồng nhiệt. Bà kể với mọi người rằng mình chỉ là một người không may mắn, nhưng đã dùng ý chí nghị lực để chống trả lại số phận trớ trêu, hoàn thành sự nghiệp khơi gợi tấm lòng nhân hậu của mọi người, nhằm mang lại tình thương cho người tàn tật. Cuộc đời và trang sách Helen Keller bổ sung cho cho là nên trang vàng của tình yêu cuộc sống.
Helen Keller lời vàng từ trái tim nâng đỡ ước mơ và nghị lực
Lạc quan là niềm tin dẫn tới thành tựu. Bạn chẳng thể làm được điều gì mà thiếu đi hy vọng và sự tự tin.
Optimism is the faith that leads to achievement. Nothing can be done without hope and confidence.
Cùng bước với một người bạn trong bóng tối tốt hơn là bước một mình trong ánh sáng.
Walking with a friend in the dark is better than walking alone in the light.
Thành công và hạnh phúc nằm trong bạn. Quyết tâm hạnh phúc, và niềm vui sẽ đi cùng bạn để hình thành đạo quân bất khả chiến bại chống lại nghịch cảnh.
Your success and happiness lies in you. Resolve to keep happy, and your joy and you shall form an invincible host against difficulties.
Chừng nào mà kỷ niệm về những người bạn thân thương vẫn sống trong tim tôi, tôi sẽ nói rằng đời tốt đẹp.
So long as the memory of certain beloved friends lives in my heart, I shall say that life is good.
Tính cách không thể phát triển một cách dễ dàng và yên lặng. Chỉ qua trải nghiệm thử thách và gian khổ mà tâm hồn trở nên mạnh mẽ hơn, hoài bão hình thành và thành công đạt được.
Character cannot be developed in ease and quiet. Only through experience of trial and suffering can the soul be strengthened, ambition inspired, and success achieved.
Một mình, ta làm được rất ít; cùng nhau, ta làm được rất nhiều.
Alone we can do so little; together we can do so much.
Thật tuyệt vời là con người đã sử dụng biết bao thời gian để chống lại cái ác. Giá mà họ cũng sử dụng năng lượng đó để yêu thương người khác, cái ác sẽ tự chết vì buồn chán.
It is wonderful how much time good people spend fighting the devil. If they would only expend the same amount of energy loving their fellow men, the devil would die in his own tracks of ennui.
Sự khoan dung là món quà lớn nhất của tâm hồn; nó đòi hỏi nỗi lực của bộ não cũng nhiều như khi bạn phải giữ thăng bằng khi đi xe đạp.
Toleration is the greatest gift of the mind; it requires the same effort of the brain that it takes to balance oneself on a bicycle.
Cũng như sự ích kỷ và phàn nàn làm tha hóa tâm hồn, tình yêu với những niềm vui của mình làm tầm nhìn trở nên rõ ràng và sắc nét.
As selfishness and complaint pervert the mind, so love with its joy clears and sharpens the vision.
Không ai có quyền hưởng thụ hạnh phúc mà không tạo ra nó.
No one has a right to consume happiness without producing it.
Ta không thể đánh mất những gì ta từng tận hưởng. Tất cả những gì ta yêu sâu sắc trở thành một phần trong ta.
What we have once enjoyed we can never lose. All that we love deeply becomes a part of us.
Chúng ta không bao giờ có thể học được sự can đảm và kiên nhẫn nếu chỉ có niềm vui trên thế gian này.
We could never learn to be brave and patient, if there were only joy in the world.
Cuộc sống là một chuỗi bài học mà bạn cần phải sống mới hiểu được.
Life is a succession of lessons which must be lived to be understood.
Niềm tin là sức mạnh có thể khiến thế giới tan vỡ xuất hiện trong ánh sáng.
Faith is the strength by which a shattered world shall emerge into the light.
Kết quả cao nhất của giáo dục là sự khoan dung.
The highest result of education is tolerance.
Sự đảm bảo chỉ là mê tín mà thôi. Nó không tồn tại trong tự nhiên, loài người nói chung cũng không trải nghiệm nó. Lảng tránh nguy hiểm về lâu dài không an toàn hơn nhảy thẳng vào nguy hiểm. Cuộc sống hoặc là một cuộc phiêu lưu táo bạo, hoặc chẳng là gì cả.
Security is mostly a superstition. It does not exist in nature, nor do the children of men as a whole experience it. Avoiding danger is no safer in the long run than outright exposure. Life is either a daring adventure, or nothing.
Chúng ta có thể đã chữa trị được hầu hết thói xấu xa; nhưng chúng ta vẫn chưa tìm ra liều thuốc cho thói xấu tồi tệ nhất, sự vô cảm của con người.
We may have found a cure for most evils; but we have found no remedy for the worst of them all, the apathy of human beings.
Điều tôi đi tìm không ở ngoài kia, nó ở trong bản thân tôi.
What I am looking for is not out there, it is in me.
Thay vì so sánh mình với những người may mắn hơn mình, ta nên so sánh mình với số đông con người. Và rồi sẽ có vẻ như chúng ta là những người may mắn.
Instead of comparing our lot with that of those who are more fortunate than we are, we should compare it with the lot of the great majority of our fellow men. It then appears that we are among the privileged.
Hãy quay về hướng mặt trời, và bạn sẽ không thấy bóng tối.
Keep your face to the sunshine and you cannot see a shadow.
Nhiều người có ý tưởng sai lầm về điều sản sinh ra hạnh phúc đích thực. Nó không đạt được qua sự tự thỏa mãn mà qua sự trung thành với một mục đích đáng giá.
Many persons have a wrong idea of what constitutes true happiness. It is not attained through self-gratification but through fidelity to a worthy purpose.
Điều tốt đẹp nhất trên thế gian này không thể nhìn thấy hoặc thậm chí chạm vào – chúng phải được cảm nhận bằng trái tim.
The best and most beautiful things in the world cannot be seen or even touched – they must be felt with the heart.
Cuộc sống rất thú vị, và thú vị nhất khi nó được sống vì người khác.
Life is an exciting business, and most exciting when it is lived for others.
Cả thế giới ngập tràn thống khổ. Nó cũng ngập tràn chiến thắng.
All the world is full of suffering. It is also full of overcoming.
Trước khi số đông con người tràn đầy tinh thần trách nhiệm đối với lợi ích của người khác, công bằng xã hội sẽ chẳng bao giờ đạt được.
Until the great mass of the people shall be filled with the sense of responsibility for each other’s welfare, social justice can never be attained.
Đừng bao giờ cúi đầu. Hãy luôn ngẩng cao. Nhìn thẳng vào mắt thế giới.
Never bend your head. Always hold it high. Look the world straight in the eye.
Thật khó để khiến những người có mọi thứ quan tâm tới những người chẳng có thứ gì.
It is hard to interest those who have everything in those who have nothing.
Mọi thứ đều chứa đựng điều bí ẩn, thậm chí cả bóng tối và sự câm lặng, và tôi học được rằng cho dù tôi ở trạng thái nào, tôi cũng có thể yên bình.
Everything has its wonders, even darkness and silence, and I learn, whatever state I may be in, therein to be content.
Tôi chỉ là một, nhưng tôi vẫn là một. Tôi không thể làm mọi thứ, nhưng tôi vẫn có thể làm gì đó; và bởi vì tôi không thể làm tất cả, tôi sẽ không từ chối làm điều tôi có thể.
I am only one, but still I am one. I cannot do everything, but still I can do something; and because I cannot do everything, I will not refuse to do something that I can do.
Thật tuyệt vời khi trèo lên những ngọn núi trong trẻo của bầu trời. Đằng sau tôi và trước tôi là Chúa, và tôi không sợ hãi.
It’s wonderful to climb the liquid mountains of the sky. Behind me and before me is God and I have no fears.
Khi ta làm hết sức của mình, ta không thể biết điều kỳ diệu nào sẽ xảy đến trong cuộc sống của ta, hoặc trong cuộc sống của người khác.
When we do the best that we can, we never know what miracle is wrought in our life, or in the life of another.
Sự phong phú tuyệt diệu của trải nghiệm sẽ mất đi đôi chút phần thưởng niềm vui nếu không có giới hạn để vượt qua. Thời khắc lên tới đỉnh núi sẽ chẳng tuyệt vời được bằng một nửa nếu không phải đi qua những thung lũng tối tăm.
The marvelous richness of human experience would lose something of rewarding joy if there were no limitations to overcome. The hilltop hour would not be half so wonderful if there were no dark valleys to traverse.
Nhiều người không biết nhiều hơn những gì nằm ngoài tầm trải nghiệm nhỏ bé của mình. Họ nhìn vào trong mình – và chẳng tìm thấy gì cả! Vì thế họ kết luận rằng cũng chẳng có gì ở bên ngoài họ.
Many people know so little about what is beyond their short range of experience. They look within themselves – and find nothing! Therefore they conclude that there is nothing outside themselves either.
Trường học không phải nơi để đi tìm ý tưởng.
College isn’t the place to go for ideas.
Thế giới đang tiến về phía trước, không phải bởi cú đẩy mạnh mẽ của những anh hùng, mà bởi tổng hòa cú đẩy yếu hơn của những người lao động lương thiện.
The world is moved along, not only by the mighty shoves of its heroes, but also by the aggregate of tiny pushes of each honest worker.
Tôi khao khát làm được những điều vĩ đại và cao cả, nhưng trách nhiệm chính của tôi là làm được những điều nhỏ nhặt như thể chúng vĩ đại và cao cả.
I long to accomplish a great and noble task, but it is my chief duty to accomplish small tasks as if they were great and noble.
Không kẻ bi quan nào có thể phát hiện ra bí ẩn của những vì sao, hay căng buồm tới miền đất mới, hay mở cánh cửa vào linh hồn của con người.
No pessimist ever discovered the secret of the stars, or sailed to an uncharted land, or opened a new doorway for the human spirit.
Than thân trách phận là kẻ thù tồi tệ nhất của chúng ta, và nếu ta đầu hàng nó, ta sẽ chẳng làm được gì khôn ngoan trên thế giới này.
Self-pity is our worst enemy and if we yield to it, we can never do anything wise in this world.
Người ta không thích suy nghĩ. Nếu một người nghĩ, anh ta phải đi đến kết luận. Kết luận không phải lúc nào cũng dễ chịu.
People do not like to think. If one thinks, one must reach conclusions. Conclusions are not always pleasant.
Trong lúc họ còn đang nói với nhau không thể làm được điều đó đâu, nó đã được làm xong rồi.
While they were saying among themselves it cannot be done, it was done.
CUỐI DÒNG SÔNG LÀ BIỂN Hoàng Kim
Minh triết là yêu thương
Cuối dòng sông là biển
Niềm tin thắp lên nghị lực
Yêu thương mở cửa thiên đường.
Hiểu tình yêu cuộc sống
Hiền tài dày sử thi
“Mọi lý thuyết đều là màu xám, chỉ có cây đời mãi mãi xanh tươi”
Goethe trao tặng cho tôi
Ngọc minh triết của Người.
Người hóa thân
trong thanh thản
bóng cây xanh
Người đàm đạo
với Norman Borlaug
và cậu học trò nghèo
Về ý tưởng xanh
Con đường xanh
Hành trình xanh
Sự nghiệp xanh
Nhà khoa học xanh
và giấc mơ hạnh phúc
Goethe là vòm cây xanh Goethe cũng là lão nông
ngồi cùng chúng ta
chuyện trò
trên cánh đồng xanh
hạnh phúc.
Goethe và Norman Borlaug
là những trí tuệ bậc Thầy.
Họ không màng hư vình
mà hướng tới đỉnh cao hòa bình
sự an lành tiến bộ.
Anh và em cùng Goethe
Ở FAO, Rome, Italy Người hóa thân
thành nữ thần Tình Yêu (*)
Chung sức bao năm một chặng đường
Cuộc đời nhìn lại phúc lưu hương
Ngô khoai chẳng phụ dày công Viện
Lúa sắn chuyên tâm mến nghĩa Trường
Dạy học tinh hoa giàu trí tuệ
Chuyển giao chuyên nghiệp khiếu văn chương
Người chọn vãng sanh vui một cõi
Ai theo cực lạc đức muôn phương
Liên vận bài
TIỄN ĐƯA
Tố Hữu
(Tặng bạn thơ Th.)
Đưa tiễn anh đi mấy dặm đường
Nặng tình đồng chí lại đồng hương!
Đã hay đâu cũng say tiền tuyến
Mà vẫn bâng khuâng mộng chiến trường!
Dẫu một cây chông trừ giặc Mỹ
Hơn nghìn trang giấy luận văn chương
Đi đi, non nước chờ anh đó!
Tiền tuyến cần thêm? Có hậu phương…
TỈNH THỨC
Hoàng Kim
“Thiên hà trong vắt khuya/ chuyển mùa/ tự nhiên tỉnh/ Ta ngắm trời, ngắm biển/ chòm sao em/vầng sáng anh,/ dưới vòm trời lấp lánh/ khoảnh khắc thời gian/ thăm thẳm/ một tầm nhìn. (Get up /Greeting from Hoàng Kim Vietnam to Kenny Rogers/ Clear late galaxies/ transfer season/ natural awakening/ I watch the sun, watching the sea/ watching the constellations./ glow from where he/ under the sparkling sky/ moment of time/ chasms/ a vision.’. Ngày này mấy năm trước tôi ốm nặng. Huỳnh Hồng, Nguyễn Bạch Mai và các bạn lúc ban ngày đến thăm.Buổi tối, tôi lên sân thượng bệnh viện ngắm sao. Nhớ lại bức ảnh đẹp nổi tiếng của Kenny Rogers. Tôi bật ra tứ thơ trên và nhắn gửi ông. Rất nhanh sau đó, tôi đã kết nối được với Kenny Rogers, lắng nghe từ ông lời cảm ơn. I love you all… thank you. -Kenny; Sự Tỉnh thức trong tôi. Thế giới phẳng chưa bao giờ gần đến thế Tôi vào trang của ông và sáng lên trang văn CNM365 Tình yêu cuộc sống của ngày này. https://hoangkimlong.wordpress.com/category/cnm365-tinh-yeu-cuoc-song/
Mỗi nhân cách tự tỏa sáng khi khai mở chính mình. Cảm ơn Kenny Rogers đã giúp tôi học cách thông minh để làm cho Hoàng Kim biết tương tác tốt hơn với bạn hữu và mọi người. Mỗi chúng ta là một thế giới. Dạy, học và làm từ bài học của chính bản thân mình.
TỈNH THỨC VỚI KENNY ROGERS
Kenneth Donald “Kenny” Rogers sinh ngày 21 tháng 8 năm 1938, mất ngày 20 tháng 3 năm 2020, thọ 82 tuổi, Ông là một ca sĩ, nhạc sĩ, nhiếp ảnh gia, nhà sản xuất thu âm, diễn viên, doanh nhân người Mỹ, và là thành viên của Country Music Hall of Fame. Kenny Rogers là nghệ sĩ có nhạc bán chạy nhất mọi thời đại.Ông thành công nhất với thể loại nhạc đồng quê, dẫu vậy ông đã ghi hơn 120 đĩa đơn trên các thể loại âm nhạc khác nhau, đứng đầu các quốc gia và bảng xếp hạng album pop cho hơn 200 tuần ở Hoa Kỳ và đã bán được hơn 165 triệu bản trên toàn thế giới. Hai trong số các album của ông, The Gambler và Kenny, được nêu tên trong cuộc thăm dò “200 Albums có ảnh hưởng nhất từ trước tới nay” của About.com.[4] Ông được bình chọn là “Ca sĩ được yêu thích nhất mọi thời đại” trong một cuộc thăm dò năm 1986 của độc giả hai tạp chí USA Today và People. Ông đã nhận được nhiều giải thưởng như AMAs, giải Grammy, ACMs , CMA, và một giải thưởng thành tựu trọn đời cho sự nghiệp của Kenny Rogers một ca sĩ, nhạc sĩ, nhiếp ảnh gia, nhà sản xuất thu âm, diễn viên, doanh nhân người Mỹ được trao tặng theo ghi nhận của Wikipedia Tiếng Việt.
Kenny Rogers lắng đọng CHUYỆN CỦA CHÚNG TÔI thật cảm động: ” Siêu sao đồng quê và biểu tượng âm nhạc từng đoạt giải thưởng GRAMMY Kenny Rogers đã gặt hái thành công lớn trong suốt sự nghiệp kéo dài hơn sáu thập kỷ.
Thành viên của Đại sảnh vinh danh nhạc đồng quê và siêu sao nhạc pop đã làm say mê những người yêu nhạc trên toàn cầu với những bài hát tuyệt vời, những màn trình diễn chân thành, giọng hát đặc biệt, món quà kể chuyện và sự hấp dẫn phổ quát, và năm 2016, Rogers bắt đầu chuyến lưu diễn thế giới cuối cùng của mình với một chương trình sẽ ca ngợi di sản âm nhạc của anh ấy: Thỏa thuận cuối cùng của người đánh bạc.
Rogers đã chơi cho hàng triệu người hâm mộ trên khắp thế giới, biểu diễn các bài hát đứng đầu bảng xếp hạng từ một danh mục các bản hit phong phú, bao gồm: “The Gambler,” “Lady,” “Islands In The Stream,” “Lucille,” “Coward of the County,” “She Believes In Me,” “Ruby, Don’t Take Your Love To Town,” “We’ve Got Tonight,” “Daytime Friends,” “Through The Years,” “Love Will Turn You Around,” “You Decorated My Life,” “Crazy,” “Every Time Two Fools Collide,” and “Buy Me A Rose.”
Nghệ sĩ đồng quê đầu tiên liên tục bán hết đấu trường, Rogers đã chơi cho hàng triệu người hâm mộ trên khắp thế giới. Thật đáng kinh ngạc, ông đã lập một kỷ lục trong vòng bảy thập kỷ qua (các thập kỷ 50, 60, 70, 80, 90, 2000, 2010), trong khi gửi 24 bài hát đến vị trí số 1 của bảng xếp hạng. Rogers đã bán được hơn 120 triệu album trên toàn thế giới, đưa anh ấy trở thành một trong mười nghệ sĩ solo nam bán chạy nhất mọi thời đại, theo RIAA. Rogers đã giành được nhiều giải thưởng cho công việc âm nhạc và từ thiện của mình, bao gồm ba giải thưởng GRAMMY, 21 giải thưởng âm nhạc Mỹ, 11 giải thưởng lựa chọn của mọi người, 10 giải thưởng của Viện âm nhạc quốc gia, sáu giải thưởng Hiệp hội âm nhạc quốc gia (bao gồm giải thưởng thành tựu trọn đời CMA năm 2013) và Giải thưởng Nghệ sĩ của một đời trong chương trình trao giải Nghệ sĩ của năm 2015 CMT. Rogers đã nhận được giải thưởng Thành tựu trọn đời từ Hiệp hội người mua giải trí quốc tế, giải thưởng Cliffie Stone Pioneer từ Học viện âm nhạc quốc gia và giải thưởng Horatio Alger, được trao cho những người nổi bật dù khởi đầu khiêm tốn. Vào ngày 29 tháng 2 năm 2016, Rogers đã được vinh danh với Giải thưởng Thành tựu Giải trí trọn đời Tony Martell 2016 tại TJ Martell Foundation Columbia Honors Gala lần thứ 8. Vào ngày 5 tháng 11 năm 2017, Rogers đã nhận được giải thưởng SESAC Legacy tại Nashville.
Rogers đã giành được một đề cử giải thưởng GRAMMY® và đề cử giải thưởng CMA năm 2014, cùng với người bạn và cộng tác viên lâu năm Dolly Parton, cho bản song ca của họ, https://www.youtube.com/embed/jT4_ohTS3Os….
Giữa bao nổ lực lo toan cần ngủ ngon và tỉnh thức. Nhạc thiền tỉnh tâm an nhiên tự tại
OSHO CON ĐƯỜNG HOÀN HẢO
Hoàng Kim
Osho (11/12/1931- 19/1/1990) là vị thiền sư nổi tiếng người Ấn Độ, được nhắc tới nhiều nhất và gây ra nhiều tranh luận nhất trong thời hiện đại, với bài giảng nổi tiếng “Con đường hoàn hảo” thuật lại câu chuyện của chính ông bảy ngày đêm tỉnh lặng với những bạn đồng hành. “Hạnh phúc tại tâm” bản chất sự sống, khả năng hạnh phúc và hạnh phúc chân thật của con người, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong toàn bộ những tác phẩm của Osho.“Osho là bậc thầy chứng ngộ đang làm việc với tất cả mọi khả năng để giúp cho nhân loại vượt qua giai đoạn khó khăn trong sự phát triển tâm thức“. Dailai Latma đã viết như vậy về người thầy lỗi lạc này cuối trang bìa của tác phẩm Osho “Con đường của nhà huyền môn“.
Osho con đường hoàn hảo là sự thực hành ngủ ngon và tỉnh thức. Tôi may mắn đã có được bảy ngày đêm tĩnh lặng đối thoại và thực hành với vị Thiền sư người Thầy tâm linh lỗi lạc này. Osho dẫn ta đi vào thế giới tịch lặng, thiền định sâu, chỉ dẫn cho ta bí quyết thiết yếu Năng lượng tích tụ và giải phóng giúp ta tâm thế tỉnh lặng, an nhiên tự tại, thung dung trong cuộc sống. Ta chạm đáy sự thật, đối diện với sinh tử, về nơi tịch lặng, đến chốn thung dung để thấu hiểu sự sống.
Tôi nhớ ký ức Bảy ngày đêm tỉnh lặng. Đời người là một chuỗi trãi nghiệm.Trãi nghiệm sự sống chính là hiện tại. Tỉnh lặng là sự chứng ngộ ám ảnh nhất. Bạn đã bao giờ về trong tịch lặng, xuống đáy địa ngục, đối diện sinh tử, lạc vào thế giới vô thức, hoàn toàn khác thế giới thường nhật, trút bỏ bận tâm, lo âu phiền muộn, danh vị chức phận, không trò chuyện, không điện thoại, không email, chỉ nổ lực duy nhất bảo tồn sự sống.
Tôi đã từng Dạo chơi non nước Việt: về Nghĩa Lĩnh đền Hùng ở Việt Trì, Phú Thọ; lên non thiêng Yên Tử viếng mộ đức Nhân Tông; về thủ đô Hà Nội thăm dấu xưa đức Trần Hưng Đạo và chùa Thắng Nghiêm; đến Kiếp Bạc Côn Sơn ngưỡng vọng đức thánh Trần và thấu hiểu sâu sắc hơn Những kiệt tác thơ văn Nguyễn Trãi; vào Tràng An Thần Phù Ninh Bình “Lênh đênh trên cửa Thần Phù, khéo tu thì nổi vụng tu thì chìm“, Ngày xuân đọc Trạng Trình, Nhớ Đào Duy Từ; đức thánh Nguyễn Minh Không huyền thoại Bái Đính ; trọn đời làm nhà khoa học xanh người thầy chiến sĩ; Lương Định Của con đường lúa gạo; Thầy bạn là lộc xuân cuộc đời; Con theo Người nguyện làm hoa lúa, …
Tôi đã từng đi Praha, Goethe và lâu đài cổ, Dạo chơi cùng Goethe; Học để làm ở Ấn Độ; Đến Neva nhớ Pie Đại Đế; Đến Thái Sơn; Thăm Borlaug và Hemingway ở CIANO; Đi khắp quê người để hiểu đất quê hương; Qua Ghent nhớ … Di sản Walter Scott; Những người Việt lỗi lạc ở FAO; Đêm trắng và bình minh; Đến với các nước châu Phi; Vua Solomon và sách Khôn ngoan; Sông Nin và hồ Victoria; Mười hai ngày ở Ghana
Tôi cũng đã Câu cá bên dòng Sêrêpok, nhưng Bảy ngày đêm tỉnh lặng là sâu đậm nhất. Sau tĩnh lặng tôi nhìn cuộc đời dường như mới hơn, nhẹ nhàng hơn, thanh thản hơn…Cám ơn đời, hôm nay là ngày mới.
ĐI NHƯ MỘT DÒNG SÔNG
Hoàng Kim
với chị Hoàng Huyền và các cháu
Linh Giang sông quê hương
Đời dòng sông độ lượng
Đèo Ngang câu thơ cũ
Chọn lọc nhớ và quên.
Khổ cực thành sẹo biển
Nước mát chảy vào trong
Mọi lý thuyết đều xám
Chỉ cây đời tươi xanh
Sóc Trăng Lương Định Của
Nguyễn Du trăng huyền thoại
Ngày xuân đọc Trạng Trình
Lên Trúc Lâm Yên Tử
Sự thật tốt hơn ngàn lời nói
Theo Người con đường xanh
Lúa, sắn Việt Nam bài học lớn
Vui chào ngày mới, cố lên em !
The truth is better than a thousandwords
Follow Uncle, Vietnam is the green road
Vietnamese rice and cassava are great lessons
Glad to celebrate the new day, try to come up!
VẠN AN LỜI YÊU THƯƠNG
Hoàng Kim
MẸ, bút họa Nguyễn Vạn An và “Bài diễn văn của Seattle” với bản dịch Tiếng Việt của nhà văn họa sĩ Nguyễn Vạn An là một tác phẩm tuyệt vời thức tỉnh con người. Chính tác giả đã viết: “tôi đã chăm chiu từng chữ một. Đây là bài tôi thích nhất trong tất cả các bài tôi viết bằng tiếng Mẹ“. Hôm nay anh về lại ngôi nhà Dạy và họcCNM365 Tình yêu cuộc sống với lời nhắn yêu thương: CÁT BỤI….Một người bạn quen từ xưa, bỗng nẩy ý sưu tầm trên mạng hình ảnh về các tảng đá. Không biết định sẽ làm gì. Tôi tán thán : “Một ngày kia đá sẽ thành vàng và ta sẽ thành cát bụi… “. Viết vậy thôi, rồi tìm cách biến hình các tảng đá thành…vàng ! Rồi đi tìm một bức ảnh về… cát bụi !!! “Một ngày kia đá sẽ thành vàng và ta sẽ thành cát bụi…”. Cảm ơn anh Vạn An lời yêu thương. Ngọc Phương Nam ngày mới. Vạn An lời yêu thươnghttps://hoangkimlong.wordpress.com/category/van-an-loi-yeu-thuong/
Anh Nguyễn Vạn An là một họa sĩ tài hoa Việt kiều tại Pháp. Anh viết thơ văn hay, giỏi chơi đàn và có khiếu thưởng thức nghệ thuật tinh tế. Xem tranh anh vẽ, hình điêu khắc anh chế tác và đọc “Hồn của tượng”, “Viết thư pháp bằng nước lã” trên trang Nguyễn Vạn An ta chợt sững sờ nhận thấy sự tài hoa đích thực củamột họa sĩ nhà thơ và nhà thiền học bậc Thầy. Thơ văn anh giản dị, giàu tính nhân văn, sau trang viết thấp thoáng hình bóng một người tử tế, hiền lành, có chút hài hước kín đáo. Bài “Bài diễn văn của Seattle”, “Nhớ Mẹ”, “Lời Mẹ dạy” tôi thường đọc lại.Tôi đã viết bài “Đợi anh ngày trở lại” được nhiều bạn đọc cảm mến cùng với bài thơ “Phút bên em” do cảm hứng ám ảnh trong đời tôi nhưng cũng phải nhờ sức khai mở từ những con chữ nhân hậu của anh mới thăng hoa cảm xúc. Anh An có ở http://Nguyễn Vạn An blog . Tôi lưu các bài viết này tại trang Nguyễn Vạn An .Xin trân trọng giới thiệu tác phẩm “Bài diễn văn của Seattle” thức tỉnh con người rất nổi tiếng đã được NVA dịch tiếng Việt
Anh Nguyễn Vạn An viết: “BÀI DIỄN VĂN CỦA SEATTLE bài dịch này tôi đã viết từ lâu và đăng trong BTV. Bạn tôi bên đó đã đọc rồi. Xin đăng lại ở đây để quí vị đọc, và để tặng một người bạn mà tôi vô cùng trân quý, anh Hoàng Kim … nông học gia, người (mà) đầu và tim đầy thơ văn, ADN sắn, khoai, lúa và tình đất nước. Anh đã có nhiều lời ưu ái về tôi. Để cảm ơn, xin anh nhận bài này tôi gửi tặng anh. Bài đã được dịch sang tiếng Pháp bởi một văn sỹ rất nổi tiếng, nhưng người đó không nói tên ra. Khi dịch từ tiếng Pháp ra tiếng Mẹ, tôi đã chăm chiu từng chữ một. Đây là bài tôi thích nhất trong tất cả các bài tôi viết bằng tiếng Mẹ. Tôi tin rằng không ai đọc bài này thấm thía bằng anh. Mong anh giữ lại trong các dữ liệu. Trân trọng và thân mến, NVA”
BÀI DIỄN VĂN CỦA SEATTLE
Seatle (1786-1866) là ông trùm các bộ lạc da đỏ Duwamish và Suquamish, lúc đó sinh sống bên vùng đông nước Mỹ. Sau khi đã tạo nên Khu vực Washington năm 1853, chính phủ Wahington « đề nghị » (!) người da đỏ ký các hiệp định để mua đất của họ. Người da đỏ biết là không thể nào từ chối được.
Dưới đây là bài diễn văn hùng hồn và đau đớn của ông Seattle, trùm da đỏ, đọc trước thống đốc Isaac Stevens. Nhiều ý và căn dặn được nhắc đi nhắc lại, đọc lên thấy rất thấm thiết. Bài diễn văn này được coi là một bài học, một gia tài văn học thiêng liêng để đời và đã được dịch sang nhiều thứ tiếng. Bài dưới đây Nguyễn Vạn An dịch từ bản đã dịch sang Pháp Ngữ.
Làm sao các người có thể mua bán khung trời và hơi ấm của đất ?
Ý nghĩ đó đối với chúng tôi thật kỳ lạ. Thế nếu chúng tôi không sở hữu cái mát mẻ của không khí và cái lung linh của mặt nước, thì các người làm sao mà mua ?
Mỗi mẩu đất này đều thiêng liêng cho dân tộc chúng tôi.
Mỗi cái kim óng ánh của lá thông, mỗi bờ cát, mỗi mảnh sa mù trong khu rừng âm u, mỗi bờ suối, mỗi tiếng vo vo của côn trùng đều là thiêng liêng trong ký ức và từng trải của chúng tôi.
Nhựa chấy trong thân cây mang đầy kỷ niệm của người dân da đỏ.
Linh hồn những người da trắng đã quên xứ mình sinh ra khi đi vào giữa các vì sao. Linh hồn những người chết chúng tôi không bao giờ quên trái đất tuyệt vời này, vì trái đất là mẹ của người da đỏ. Chúng tôi là thành phần của đất và đất là thành phần của chúng tôi. Hoa thơm là em gái chúng tôi, con hươu, con ngựa, con đại bàng là anh em chúng tôi. Các đỉnh núi, các chất ngọt trong đồng ruộng, hơi ấm con ngựa nhỏ, và con người, tất cả đều cùng một gia đình.
Cho nên khi ông Sếp Lớn ở Hoa Thịnh Đốn cho người tới nói ông muốn mua đất của chúng tôi, thì ông đã đòi hỏi rất nhiều ở chúng tôi. Ông Sếp cho nói là ông sẽ dành một nơi để chúng tôi có thể sống thoải mái với nhau. Ông sẽ là cha chúng tôi và chúng tôi sẽ là con cái của ông. Chúng tôi cũng phải xét đề nghị mua đất của ông. Nhưng cái đó quả thật là rất khó. Bởi vì đất này thiêng liêng đối với chúng tôi.
Nước lung linh chảy trong các giòng suối và giòng sông không phải chỉ là nước mà còn là máu của tổ tiên chúng tôi. Nếu chúng tôi bán đất cho các ông, thì các ông phải nhớ đất là của thiêng và mỗi phản chiếu đầy mấu sắc của mặt nước trong dưới hồ luôn nhắc nhở những biến cố và kỷ niệm cúa dân tộc chúng tôi. Tiêng nước suối thì thầm là tiếng của người cha của cha tôi.
Các con sông là anh em chúng tôi, đã cho chúng tôi đỡ khát. Các giòng sông mang thuyền chèo và nuôi các con tôi. Nếu chúng tôi bán đất cho các ông, thì từ đây các ông phải nhớ, và phải dậy cho con các ông, là các giòng sông là anh em chúng tôi và cũng là anh em các ông, và các ông phải có thân thương với giòng sông như các ông thân thương huynh đệ các ông. Chúng tôi biết người da trắng không hiểu tập quán chúng tôi. Đối với họ, mảnh đất này cũng như mảnh đất kia, họ là người ngoại xứ ban đêm đến lấy của đất cái gì họ cần. Đất không phải là anh em họ, mà là kẻ thù, khi họ lấy được thì họ tiến nữa. Họ bỏ mồ mả của tổ tiên mà không trăn trở gì. Họ lấy đất của con cái mà không trăn trở gì. Mồ mả của tổ tiên và gia tài của con cái họ rơi vào quên lãng. Họ coi mẹ, đất đai, anh em, trời đất, như là đồ vật mua bán, cướp phá, bán đi như bán những con cừu, hay những hạt ngọc óng ánh. Lòng tham lam sui họ nghiến ngấu đất đai và chí còn để lại một cái sa mạc.
Không có nơi nào an bình trong các tỉnh của người da trắng.
Không có chỗ nào để nghe tiếng lá cuộn mình trong mùa xuân, hay tiếng cọ sát của cánh những con bọ. Cũng có thể vì tôi là người man rợ nên tôi không hiểu. Những tiếng động đó hình như chỉ làm nhức tai họ. Sống làm chi nếu con người không nghe thấy tiếng kêu lẻ loi của con én hay tiếng trò chuyện tào lao của các con ếch trong cái ao ban đêm ? Chắc tôi là người da đỏ nên tôi không hiểu. Người chúng tôi ưa tiếng gió êm ru lườn trên mặt hồ, ngay cả mùi của gió đã được nước mưa trưa nay rửa sạch, hay đã được lá thông cho thêm hương thơm.
Không khí rất trân quí cho người da đỏ, vì mọi sự đều chia nhau một hơi thở.
Súc vật, cây cối, con người. Đều chung với nhau một hơi thở.
Người da trắng hình như không để ý đến không khí họ thở. Như người phải để ra mấy ngày mới tắt thở, họ không biết mùi hôi thối. Nếu chúng tôi bán đất này cho các ông, các ông phải nhớ là không khí rất quý cho chúng tôi và nhớ là không khí chia xẻ hồn nó với nhứng sinh vật nó nuôi sống. Cơn gió đã cho ông cha chúng tôi hơi thở đầu cũng là cơn gió đã nhận ở ông cha tôi hơi thở cuối cùng. Nếu chúng tôi bán đất này cho các ông, các ông phải giữ riêng nó và coi nó là thiêng liêng, là nơi mà cả người da trắng các ông cũng được đến để hưởng làn gió đã được dịu lại với hương hoa của đồng nội. Chúng tôi phải xét đề nghị của ông. Nhưng nếu chúng tôi nhận lời, tôi cho các ông một điều kiện : người da trắng phải coi các sinh vật trên mảnh đất này như những anh em !
Tôi là người man rợ, tôi không biết cách sống khác !
Tôi đã thấy xác một ngàn con bò rừng thối rữa trên cánh đồng, bỏ lại khi các người da trắng từ trên các chuyến tầu hỏa đi qua bắn chúng nó chết. Tôi là một người man rợ, tôi không hiểu tại sao con ngựa sắt phun khói của các ông lại quan trọng hơn những con bò rừng mà chúng tôi chỉ giết để sinh sống.
Con người là gì nếu không còn thú vật ? Nếu tất cả thú vật đều mất hết, con người sẽ chết trong một tâm linh lẻ loi. Bởi vì cái gì đến cho thú vật rồi sẽ đến với con người. Mọi sự trên đời đều liên can với nhau.
Các ông phải dạy cho con cháu là đất chúng bước lên được tạo bởi tàn hương của tổ tiên. Dạy cho chúng biết tôn trọng đất, bảo chúng là đất được giầu có bởi đời sống của giòng giõi. Dạy cho con cái các ông những điều mà chúng tôi dạy cho con cái chúng tôi, là đất là người mẹ. Cái gì xẩy đến cho đất sẽ xẩy đến cho con cái của đất. Ai khạc nhổ lên đất là khạc nhổ lên chính mình.
Ít nhất chúng tôi cũng biết điều này : là đất không thuộc về người mà người thuộc về đất. Điều đó chúng tôi biết. Mọi điều đều liên đới với nhau như máu mủ trong một gia đình. Mọi sự đều liên đới với nhau.
Cái gì đến với đất sẽ đến với con cái của đất.
Không phải con người đã xây lên cái khung của cuộc đời. Người chỉ là một sợi giây. Cái gì người làm cho cái khung của cuộc đời là họ làm cho chính mình.
Người da trắng được thượng đế của họ đi cùng và nói chuyện như những người bạn, nhưng cũng không thể vượt qua được số mạng chung. Nói cho cùng, chúng ta và người da trắng có thể cũng là anh em. Để rồi xem sao. Có một điều chúng tôi biết, điều mà người da trắng có thể một ngày kia sẽ khám phá ra, là chúng ta có cùng một thượng đế. Có thể bây giờ các người cho là đã có được thượng đế của các người như các người muốn sở hữu đất đai của chúng tôi. Nhưng các người không làm được điều đó. Vì thượng đế là của mọi người và lòng từ bi dành cho người da trắng và cho người da đỏ đều như nhau. Đất là của quý của trời. Phá hại đất là mang nặng khinh khi với đấng tạo hóa đã sanh ra đất. Rồi người da trắng cũng sẽ bị tiêu diệt, có thể trước các bộ lạc khác. Làm lây trùng cái giường, các người đêm sẽ ngủ trong xu uế của chính mình.
Rồi khi chết các người sẽ huy hoàng với đầy sức mạnh của thượng đế đã đem các người đến vùng đất này, rồi vì một sứ mạng nào đó, đã giúp các người ngự trị vùng đất này và ngự trị dân da đỏ. Cái định mệnh đó là một bí hiểm cho chúng tôi, vì chúng tôi không hiểu khi tất cả những con bò rừng đã bị tàn sát, các con ngựa đã bị chế ngự, những góc bí mật của các khu rừng đã mang đầy hơi của những nhóm người, và các ngọn đồi đầy hoa đã bị tàn lụi bởi những người đến nói bi bô.
Thì dẫy rừng đâu ? Đã biến mất. Và con đại bàng đâu ? Đã biến mất.
Ngày tận cùng của sự sống, ngày bắt đầu của sự sống còn.
Trùm da đó Seattle, 1854.
VIỆT NAM CON ĐƯỜNG XANH
Bảo tồn và phát triển bền vững, thích nghi để tồn tại là câu chuyện lớn của nhân loại và lời nhắc của quá khứ cho nhân loại và cho cộng đồng người dân Việt Nam để không bao giờ được phép quên lãng. Cân bằng hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế, bảo vệ môi trường, tiến bộ và công bằng an sinh xã hội, giữ vững độc lập thống nhất chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia là những vấn đề trọng yếu trong chính sách kinh tế. Charles Darwin (1809- 1882) cha đẻ của thuyết tiến hóa nổi tiếng đã viết: “Kẻ sống sót không phải là kẻ mạnh nhất, mà là kẻ thích nghi tốt nhất”. Ông trùm da đỏ Seattle (1854) trong bài diễn văn trước thống đốc Isaac Stevens, đã chỉ ra năm sự thật và bài học lich sử của nước Mỹ và châu Mỹ để thức tỉnh con người 1) Làm sao các người có thể mua bán khung trời và hơi ấm của đất ? 2) Không có nơi nào an bình trong các tỉnh của người da trắng (sự thật sau này là sự hòa huyết đa sắc tộc để bảo tồn và phát triển). 3) Tôi là người man rợ, tôi không biết cách sống khác ! 4) Cái gì đến với đất sẽ đến với con cái của đất. 5) Ngày tận cùng của sự sống, ngày bắt đầu của sự sống còn. Đi khắp quê người để hiểu đất quê hương; Việt Nam con đường xanh góp phần thức tỉnh con người.
Việt Nam Châu Phi hợp tác Nam Nam là câu chuyện về ý tưởng và cách làm Việt Nam. Con người tìm đường sống theo bản năng và bị chi phối bởi số phận lịch sử. Thế giới được viết lại sau năm 1492 khi Tân Thế Giới được khám phá. Sự di cư của người da trắng châu Âu cùng với sự xuất khẩu lao động nô lệ của người châu Phi sang vùng đất hứa đã đồng hóa người da đỏ. Ngoài những điều tốt đẹp có sự cưỡng chiếm và cướp đất đat, tước đoạt và mua tài nguyên, giảm tộc người bản xứ, hòa huyệt trộ lẫn tái phân phối châu Mỹ, xây dựng nên chủ nghĩa thực dân cũ và mới, tạo nên Đông Tây hai nẻo đường nhân loại. Châu Phi hôm nay vốn đã chi phối mạnh mẽ của hợp tác Bắc Nam từ nhiều thập kỷ trước, nay đang tìm đường hợp tác Nam Nam phối hợp với hợp tác Bắc Nam. Châu Phi không nghèo, chỉ nghèo quản lý, cần tìm kiếm phương thức bảo tồn phát triển bền vững. Định hướng quan trọng hơn tốc độ. Tương lai của châu Phi nằm trong nông nghiệp. Tại diễn đàn kinh tế thế giới ở châu Phi tổ chức tại Kigali 11-13 tháng 5 năm 2016 các nhà lãnh đạo châu Phi nhấn mạnh.
Bạn Quốc tế đến tìm kiếm cơ hội hợp tác tại Việt Nam đã hỏi: “Chúng tôi sử dụng sản phẩm A để làm nguyên liệu thô. Tuy nhiên, nguồn cung thị trường đang biến động bởi nhiều yếu tố khác nhau. Vì vậy, chúng tôi đã bắt tay vào tự cung cấp nguyên liệu bằng việc tự trồng nguyên liệu bằng cách thuê đất của một nước có tiềm năng và hiệu quả cao trồng cây đó. Chúng tôi đã được giao đất từ Chính phủ và bắt đầu canh tác(ghi chú: nước đó không phải là Việt Nam, HK). Tuy nhiên, thật không may, khi chúng tôi mở rộng canh tác, những người dân gần đó liên tục xin tiền và đe dọa nhân viên của chúng tôi bằng súng nếu chúng tôi không cho họ tiền. Vì vậy, chúng tôi không có lựa chọn nào khác ngoài việc từ bỏ dự án. Kể từ đó, chúng tôi chỉ tập trung vào mua bán nguyên liệu chứ không trồng trọt. Tuy nhiên, dịch bệnh gần đây đã tấn công thị trường và giá cả vượt quá giới hạn chi phí sản xuất của công ty. Vì vậy, liệu có giải pháp nào cho việc thành lập nông trại trực tiếp tại Việt Nam?
TS Hoàng Kim trả lời: CÓ. Việt Nam có cách phát triển nông nghiệp đã được thể hiện tại các bài viết The cassava revolution in Vietnam;Việt Nam Châu Phi hợp tác Nam Nam ; Lúa Sắn Việt Nam đến châu Phi; Lúa sắn Cămpuchia và lúa sắn Lào; … để bạn tham khảo. Nguyên tắc hợp tác là hai bên cùng có lợi về tăng trưởng kinh tế, bảo vệ môi trường, tiến bộ và công bằng an sinh xã hội, cam kết đảm bảo tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia. Địa điểm hợp tác cụ thể được lưa chọn tại nơi có điều kiện tốt cho người dân, cơ sở hạ tầng, đồng ruộng và điều kiện sinh hoạt để tiếp nhận chuyên gia, giống mới, cơ giới hóa và ứng dụng kỹ thuật nông nghiệp công nghệ cao; đào tạo nguồn nhân lực, tăng giá trị sau thu hoạch của ngành hàng và tạo thuận lợi cho thương mại. Thủ tướng Việt Nam khẳng định tầm nhìn, cơ chế, chính sách mới nhằm khuyến khích đầu tư vào nông nghiệp và nông thôn tại Nghị định 57/2018 / ND-CP. Theo đó, trục sản phẩm chính nhắm đến các sản phẩm chính quốc gia. Chuỗi giá trị sản phẩm chính ở cấp tỉnh cần đủ lớn, liên kết các khu vực nguyên liệu thô với các thương hiệu, ứng dụng nông nghiệp công nghệ cao và đào tạo nguồn nhân lực.
Việt Nam Châu Phi hợp tác Nam Nam cách hợp tác nông nghiệp trọng điểm là “gạo sắn điều rau xanh hoa quả châu Phi, chuyên môn Việt Nam” đã lan tỏa Con đường lúa gạo Việt Nam.vươn ra làm bạn thân thiện ân tình với thế giới Kinh nghiệm này của Việt Nam chúng tôi đã giới thiệu với các bạn Châu Phi được đồng tình và ủng hộ. Có nhiều đoàn du lịch sinh thái đến học tập trao đổi, cùng làm việc tại Việt Nam và Châu Phi, Các bạn dành một chút tiền đến với chúng tôi cùng hổ trợ và tham gia trong chuỗi sản phẩm ấy, xác định vướng mắc chính của sản xuất, lựa chọn giải pháp giống tốt, kỹ thuật thâm canh, chế biến sau thu hoạch, thị trường, đào tạo nguồn lực, Học bởi làm (Learning by Doing), không đợi giàu mới làm việc thiện , không chờ giàu mới giúp người nghèo mà cùng nhau làm việc, chia sẻ kết quả, hợp tác thân thiên vì chất lượng cuộc sống của người dân lao động quanh mình. Đó là Việt Nam con đường xanh
Các nước Tây Phi và Việt Nam có điều kiện sinh thái cùng trên một nền khí hậu nhiệt đới là hoàn toàn tương tự nhau dễ dàng ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật cây trồng và thâm canh phù hợp. Lúa gạo là một trong ba cây lương thực quan trọng nhất trên thế giới, sản lượng đứng sau ngô và trước lúa mì. Gạo là lương thực ổn định thân thiết và không thể thay thế ở châu Phi, đặc biệt là ở Tây Phi, nơi mà những năm gần đây mức tiêu thụ gạo trong gia đình người dân vùng Tây Phi đang tăng lên đáng kể do thu nhập đời sống, gia tăng dân số và quá trình đô thị hóa. Lúa Sắn ở nhiều nước châu Phi là cây lương thực chính. Bài học lúa sắn và chén cơm thường ngày của người dân là ấn tượng sâu sắc trong lòng mỗi người khách đến thăm châu Phi. GMX Consulting đang mở rộng tư vấn từ Lúa, Sắn đến Cá, Rau xanh. Đó thực sự là một câu chuyện dài. Tôi tạm đưa lên một ít hình về câu chuyện “Cassava in Ghana: Save and Grow” có nhiều thông tin liên quan về lúa và Dr. Rice Võ Tòng Xuân. Vùng Tây Phi là một khu vực nhập khẩu gạo lớn nhất toàn cầu trong khi Việt Nam là một trong những nhà xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới. Tây Phi mỗi năm đang chi 3 tỷ đô la Mỹ cho sự nhập khẩu gạo. Châu Phi là vùng tiềm năng cho sự tăng trưởng nhu cầu tiêu thụ gạo lớn hơn, như Nigeria và Ghana vẫn đang trong khoảng 30- 40kg so với hơn 100kg ở các nước như Sierra Leone, Guinea and Liberia. Chuyên môn lúa Việt Nam là đáng tin cậy Tốc độ tăng năng suất lúa gạo Việt Nam (1975-2014) vượt 1,73 lần so với tốc độ tăng năng suất lúa gạo bình quân chung của toàn thế giới. Năm 2015, diện tích đất trồng lúa ở Việt Nam là 7,83 triệu ha, tổng sản lượng lúa đạt 45,22 triệu tấn, năng suất bình quân đạt 57,7 tạ/ha, đã xuất khẩu 6,7 triệu tấn, tăng 5,8% so với năm 2014. Việt Nam đã được một trong 3 nhà xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới trong 25 năm qua. Quá trình chuyển đổi của Việt Nam đến một nước xuất khẩu gạo hàng đầu của những năm gần đây đã sản sinh ra nhiều chuyên gia lúa gạo, hạt giống phù hợp, thủy lợi và phát triển các kỹ thuật mà có thể được triển khai tới châu Phi. Trong chuỗi giá trị hàng hóa từ cây lúa đến hạt gạo đến chén cơm ngon có biết bao những vấn đề bức xúc , niềm vui, nổi buồn và những vấn nạn.
“Vị thần Mặt trời bị lãng quên của người Inca“ tại Machu Picchu lưu dấu tại Châu Mỹ chuyện không quên Lời cảnh báo của ông trùm người da đỏ Seattle (1854) Làm sao các người có thể mua bán khung trời và hơi ấm của đất ? với câu chuyện huyền thoại “O Alquimista” của Paulo Coelho tựa đề tiếng Anh là “The Alchemist” do Alan R. Clarke chuyển ngữ, đã nổi tiếng và bán chạy khắp thế giới, đến mức độ 65 triệu bản được in chỉ xếp sau Kinh Thánh . Di sản vật thể và phi vật thể nổi bật liên quan đến câu chuyện trên của bài dịch anh Nguyễn Vạn An là Machu Picchu một di sản thế giới UNESCO ở Peru, nơi được Tổ chức New7Wonders chọn là một trong 7 kỳ quan thế giới mới. Đó là di sản nền văn minh Inca, người da đỏ Inca và thần Mặt trời, thực sự là một kho báu vĩ đại tâm linh khoa học kỳ bí chưa thể giải thích được đầy đủ. Đền thờ thần Mặt trời tựa lưng vào cột chống trời “Cổ Sơn”, theo tiếng quechua của người Inca; thỉnh thoảng được gọi là “Thành phố đã mất của người Inca” là một khu tàn tích Inca thời tiền Columbo trong tình trạng bảo tồn tốt ở độ cao 2.430 m trên một quả núi có chóp nhọn tại thung lũng Urubamba ở Peru, khoảng 70 km phía tây bắc Cusco. Tất cả các chuyến đi tới Machu Picchu đều xuất phát từ Cusco. Tại thủ đô Lima có một đường bay nội địa dẫn tới Cusco.
*
Cám ơn anh Nguyễn Vạn An đã chia sẻ để tôi nối dài bài viết này.
Peaingpen, Sheela, Alfredo, Yona, Kim enjoy fufu. Chúng tôi đã ăn tối thật ngon tại nhà Martin Fregene ở CIAT. Chiều nay, trong đền thờ “Vị thần Mặt trời bị lãng quên của người Inca“, gia đình sắn chúng tôi đã cam kết cùng nhau làm “những người bạn của nông dân trồng sắn châu Á , châu Phi và châu Mỹ”. Hoàng Kim bế con của Martin và giao hẹn: Nhờ trời, bác sẽ trở lại châu Phi”. Tôi vừa đọc sách “O Alquimista” của Paulo Coelho tựa đề tiếng Anh là “The Alchemist” do Alan R. Clarke chuyển ngữ và thích thú hứa với cháu bé. Hóa ra, ‘Nhớ châu Phi’ và “Vị thần Mặt trời bị lãng quên của người Inca“ là có thật ! Chào ngày mới 26 tháng 7 https://cnm365.wordpress.com/…/…/chao-ngay-moi-26-thang-7-2/
Vị thần mặt trời Inca bị quên lãng
CIMMYT, CIAT, CIP là những ấn tượng sâu sắc, đậm nét trong lòng tôi. Châu Mỹ là nôi ngô sắn khoai của Trái Đất. Ngô tại CIMMYT ở Mexico. Khoai lang, khoai tây tại CIP ở Peru. Sắn tại CIAT ở Colombia. Tôi may mắn được trãi nghiệm qua những nơi này và lưu lại Châu Mỹ chuyện không quên. Tôi đùa với các bạn là “Hoàng Kim có nhiều bạn ở nơi đó”. “Châu Mỹ có vị thần Mặt trời Inca bị quên lãng”. Phổ hệ chọn giống sắn ở Việt Nam có quan hệ nhiều trong chuyện này.. Ngày nay giống sắn Việt Nam trồng nhiều nhất là KM419 chiếm 42% và KM94 chiếm 38% tổng diện tích trồng sắn của Việt Nam. Chuyện lai tạo giống sắn bây giờ mới kể.
Chareinsak Rojanaridpiched là giáo sư tại Kasetsart University (Bangkhen, Băng Cốc, Thái Lan). Ông nguyên là Hiệu trưởng Trường Đại học Kasetsart. Ông và nhóm đồng nghiệp sắn Thái Lan đã chọn tạo ra ” Kasetsart 50: giống sắn quan trọng nhất trên thế giới”. KU 50 với hơn 20 năm kinh nghiệm ở Thái Lan và Việt Nam, tăng từ 60 đến 75 phần trăm của tất cả nông dân trồng sắn, trên tổng số diện tích khoảng 1,0 – 1,5 triệu ha mỗi năm, là một cây trồng an ninh lương thực quan trọng và nguồn thu nhập cho nông dân nghèo ở Đông Nam Á. ChareinsakRojanaridpiched từng học ở Cornell University, một trường đại học nổi tiếng nhất của nước Mỹ nơi mà Ezra Cornell, người sáng lập trường năm1865 từng nói: “Tôi sẽ thành lập một trường mà bất cứ người nào cũng có thể tìm thấy hướng dẫn về bất cứ ngành nào”.
Kim nói với Chareinsak: “Chúng tôi biết ơn các bạn CIAT Thai Lan. Sắn Việt Nam học để làm (Learning by Doing) theo lý thuyết và thực hành của Sắn CIAT sắn Thái Lan và cố gắng vươn lên theo cách riêng, điều kiện riêng của mình. Phổ hệ các giống sắn phổ biến tại Việt Nam đã nói lên điều đó. “Châu Mỹ chuyện không quên” là sự ghi lại của tôi về những ngày cùng học tập và làm việc ở CIAT, CIMMYT, CIP và các nước châu Mỹ.
Bạn hỏi tôi: Bạn ấn tượng nhất điều gì ở Nam Mỹ?. Tôi đến nay ấn tượng nhất vẫn là Machu Picchu, di sản thế giới UNESCO ở Peru, nơi được Tổ chức New7Wonders chọn là một trong 7 kỳ quan thế giới mới. Đó là di sản nền văn minh Inca, người da đỏ Inca và thần Mặt trời, thực sự là một kho báu vĩ đại tâm linh khoa học kỳ bí chưa thể giải thích được đầy đủ. Đền thờ thần Mặt trời tựa lưng vào cột chống trời “Cổ Sơn”, theo tiếng quechua của người Inca; thỉnh thoảng được gọi là “Thành phố đã mất của người Inca” [1] là một khu tàn tích Inca thời tiền Columbo trong tình trạng bảo tồn tốt ở độ cao 2.430 m [2] trên một quả núi có chóp nhọn tại thung lũng Urubamba ở Peru, khoảng 70 km phía tây bắc Cusco. Tất cả các chuyến đi tới Machu Picchu đều xuất phát từ Cusco. Tại thủ đô Lima có một đường bay nội địa dẫn tới Cusco. CIP gần trung tâm Lima và sân bay nên rỗi hai ngày là có thể đi thăm được. Ở Colombia, tôi ấn tượng nhất ba nơi: Đó là 1) CIAT tại Cali, 2) sông Magdalena và đền thần Mặt trời, với dãy núi Andes và nhiều đồn điền cà phê; 3) thủ đô Bogota tại Zona Rosa nổi tiếng với các nhà hàng và cửa hiệu, có Cartagena một khu phố cổ trên bờ biển Caribê gợi nhớ biển Nha Trang của Việt Nam.
Hernán Ceballos, chuyên gia chọn giống sắn CIAT, đã nhận được giải thưởng sắn vàng tại cuộc họp liên minh đối tác sắn toàn cầu GCP21 được tổ chúc tại Berin từ 11 đến 15 tháng 6 năm 2018: http://ow.ly/QKPL30jI9Bd