Số lần xem
Đang xem 2426 Toàn hệ thống 4293 Trong vòng 1 giờ qua
Trang liên kết
Tỉnh thức
giữa đêm thiêng Yên Tử
Để thấm hiểu đức Nhân Tông
Ta thành tâm đi bộ
Lên tận đỉnh chùa Đồng
Tâm sáng Ức Trai
trong tựa ngọc TÌNH YÊU CUỘC SỐNG
DẠY VÀ HỌC Để chấn hưng giáo dục Việt Nam cấp thiết phải có đội ngũ những người thầy giáo ưu tú có tâm đức thiết tha với nghề, có trình độ chuyên môn cao và có kỹ năng giảng dạy tốt. Đây là trang thông tin chuyên đề dạy và học để trao đổi và bàn luận
Norman Borlaug Lời Thầy dặn Việc chính đời người chỉ ít thôi
Chuyên tâm đừng bận chuyện trời ơi
Phúc hậu suốt đời làm việc thiện
Di sản muôn năm mãi sáng ngời.
Tôi lưu lại một ít hình ảnh không quên và năm ghi chú nhỏ: 1) Cha con người anh hùng; 2) Nhớ người muôn năm cũ; 3) Thương người thân bạn quý; 4) Sắn và lúa siêu xanh; 5) Đáy đại dương là ngọc; https://hoangkimlong.wordpress.com/category/day-dai-duong-la-ngoc/
Anh Nguyễn Thành Phước (Phuoc Nguyen Thanh) nói: “Chỉ có những người cùng cam khổ mới hiểu hết nỗi cực khổ” Tôi xúc động nói với anh: “Tôi cùng Hoang Long con tôi theo chân anh Phạm Trung Nghĩa Viện Lúa về Sóc Trăng Lương Định Của tới quê hương người anh hùng lao động Hồ Quang Cua gạo ST để chung sức cùng với vợ chồng anh và các bạn hữu và học trò gắng gỏi tuyển chọn giống lúa siêu xanh thích ứng với biến đổi khí hậu, có năng suất cao, chất lượng tốt, ngắn ngày, ít sâu bệnh. Mười năm qua từ nguồn vật liệu lúa siêu xanh (Green Super Rice GSR) quý hiếm đã nhập nội, bảo tồn và phát triển tại Trung tâm Giống nông nghiệp tỉnh Sóc Trăng lan tỏa ra Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh Phú Yên với nhiều tỉnh. Ngày nay đã tuyển chọn được các giống lúa siêu xanh tốt GSR90, GSR65, GSR38 (HHZ5 Y7- Y3), nhìn lại Việt Nam con đường xanh gian khổ vươn tới của Gạo Việt và thương hiệu càng thấm thía Đáy đại dương là ngọc.
CHA CON NGƯỜI ANH HÙNG
Hôm bác Năm Hoằng mất, chúng tôi gần như đi suốt đêm từ Trung tâm Nghiên cứu Thực nghiệm Nông nghiệp Hưng Lộc (Đồng Nai) về Nông trường sông Hậu (Hậu Giang) để kịp viếng bác. Tôi biết ơn bác Năm đã năm lần lội ruộng thăm đồng Trung tâm Hưng Lôc và đã gợi ý cho tôi nhiều điều. Trong đó, có một lần bác tặng cho tôi chiếc máy điện thoại di động “Cháu giữ mà dùng, bác mua lại cái khác”, “Thông tin là cần thiết, đừng tiết kiệm quá con ạ” “Chưa kỹ đâu con, đừng vội làm sư”; “Bác có chút kinh nghiệm thau chua, rửa phèn, lấn biến” “Hiểu cây và đất thì mới làm ra được giống mới, con ạ ”; “Phải sản xuất kinh doanh khép kín mới khá được”; “Đáy đại dương là ngọc”. Những bài học của bác Năm Hoằng và chị Ba Sương đã giúp chúng tôi rất nhiều. Lâu nay chúng ta đã xúc động nhiều với cuộc đời bất hạnh của chị Ba Sương nhưng hình như việc “tích tụ ruộng đất”, “xây dựng nông trại điển hình”, và “lập quỹ trái phép”, của Nông trường sông Hậu thời bác Năm Hoằng và chị Ba Sương cho đến nay vẫn chưa được nghiên cứu thấu đáo để rút ra những bài học sâu sắc về quan điểm, tầm nhìn, cách đầu tư khép kín trong nông nghiệp. Không chỉ vậy, những bài học tổng kết thực tiễn kinh nghiệm phát triển nông nghiệp của Thế giới và Việt Nam việc soát xét 10 năm, 40 năm, 90 năm, 500 năm để tính toán một tầm nhìn trung và dài hạn vẫn rất cần những công trình xứng tầm để đúc kết bài học bảo tồn và phát triển. Tôi mắc nợ câu chuyện “Hai cha con đều là anh hùng” của bác Năm Hoằng và chị Ba Sương đã nhiều năm. Khi tôi may mắn ngồi trọn buổi giữa nhóm bạn quý của Trung tâm Nghiên cứu Nông nghiệp Đồng Tháp Mười gồm vợ chồng anh Mai Thành Phụng, Nguyễn Thị Kim Hoàng, vợ chồng của nhà báo Quang Ngọc, và các bạn Thạc, Thuận, Cường, Thắm, là các thế hệ chí cốt của trung tâm suốt chặng đường lịch sử. Thật xúc động nhớ về thuở xưa của rốn phèn Đồng Tháp Mười và Tứ giác Long Xuyên nay đã biết bao đổi thay. Trò chuyện với các bạn câu chuyện Trở lại nụ cười Ba Sương : “Hậu Giang gió nổi bời bời/ Người ta một nắng, chị thời … Ba Sương/ Theo cha đi mở nông trường/ Sáu mươi tóc vẫn còn vương mùi phèn/ Giữa bùn lòng mở cánh sen/ Thương bao phận khó mà quên phận mình, …” . Sự kiện ngày 15 tháng 8 năm 2009 đến nay lòng dân đâu đã quên và chuyện đâu đã khép lại. Bác Năm đã yên nghĩ, chị Ba Sương kêu án tù 8 năm và được thả. Người đương thời chưa thể mổ xẻ và phân tích đúng sai về cách “tích tụ ruộng đất” và “lập quỷ trái phép” nhưng nếu khép lại điều này thì không thể nói rõ nhiều việc đúng tâm nguyện của những bậc anh hùng trượng nghĩa Nam Bộ đã dấn thân quyết liệt trọn đời cho sự nghiệp và niềm tin ấy.
NHỚ NGƯỜI MUÔN NĂM CŨ
Giáo sư Nguyễn Tử Siêm viết: “Nhớ một trí thức chân chính GSTS, NGUYÊN BT NGUYỄN QUANG HÀ” với hình ảnh giáo sư Nguyễn Quang Hà đứng giữa các đồng nghiệp Nguyễn Thị Lang, Nguyễn Ích Chương, Nguyễn Tử Siêm, … đang lắng nghe chuyên gia IRRI giới thiệu dùng biotech để lai xa, tạo giống ‘siêu lúa’ (supper rice) ngày 28.8.1996. Xin thắp một nén tâm hương nhân ngày giỗ 24 tháng 11 năm 2016 của cụ Nguyễn Quang Hà, một bậc đàn anh đáng kính trong nghề, hiền lành và đức độ bậc nhất theo lời đánh giá của giáo sư Nguyễn Tử Siêm mà tôi tâm đắc. “Sinh ra ở làng lụa Vạn Phúc, trong một gia đình có công với cách mạng, ông Nguyễn Quang Hà tu dưỡng, học hành bài bản, trở thành nhà khoa học lâm nghiệp đầu đàn, Viện trưởng Viện Điều tra Qui hoạch Rừng, rồi làm Bộ trưởng Bộ Lâm Nghiệp; khi sát nhập 2 bộ, ông giữ chức Thứ trưởng thường trực Bộ NN & PTNT.Đúng cái lúc ông về hưu, nhẹ nhàng, thanh thản, những tưởng vui thú điền viên nơi mành vườn quê, thì vụ án động trời ở Bộ bùng phát sau nhiều năm âm ỉ, làm ông vướng vòng lao lý. Vụ án là chuyện của pháp luật. Tôi chỉ muốn biểu thị lòng tin rằng ông trong sạch, không toan tính tơ hào gì về lợi ích. Với tôi, vẫn nguyên vẹn hình ảnh một trí thức chân chính, dù rằng cấp trên trực tiếp của ông ngoảnh mặt đi“. Câu chuyện cụ Hà dường như rất giống câu chuyện bác Năm Hoằng và chị Ba Sương Nông trường Sông Hậu mà cả hai đều “thế thời thế thế thời phải thế”. Tôi xin được lưu lại để suy ngẫm.
THƯƠNG NGƯỜI THÂN BẠN QUÝ
Phạm Trung Nghĩa Viện Lúa “Hãy cúi xuống học tốt. Khi kết quả thành rồi, người đời sẽ dắt bạn lên ” tưởng nhớ nhà khoa học xanh Phạm Trung Nghĩa. Rạng sáng ngày 19 tháng 10 năm 2012, lúc 6 giờ. Tiến sĩ Phạm Trung Nghĩa Phó Viện Trưởng Viện Lúa Đồng Bằng Sông Cửu Long từ trần. Anh ra đi sau cơn đột quỵ và hôn mê sâu để lại sự tiếc thương vô hạn cho gia đình, đồng nghiệp, học trò nghề nông, người thân và người dân khắp vùng Nam Bộ.
Anh đi xa đã mấy năm nhưng anh cũng đã đi vào bữa cơm mỗi gia đình thầm lặng thiết thực mà hiệu quả. Anh đi xa lúc 51 tuổi khi sức cống hiến của anh đối với khoa học đang ở độ rực rỡ nhất. Anh để lại những công trình dang dở, những giống lúa triển vọng đang xanh mướt trên đồng. Anh để lại những trang viết chưa dừng, những việc tốt đang làm và những dự định đang ấp ủ thực hiện. Anh là nhà khoa học xanh hiền hậu, tài năng, chịu khó, người bạn hiền của nông dân, người thầy giỏi của con tôi và nhiều lớp học trò may mắn được anh chỉ dạy. Mãi còn đó lời khuyên của anh chân thành mà minh triết: “Hãy cúi xuống làm việc. Khi kết quả thành rồi, người đời sẽ dắt bạn lên !”. “Hãy cúi xuống học trên đồng, cúi xuống học trong phòng thí nghiệm, cúi xuống học thầy, học bạn và lắng nghe tiếng nói người dân”.
Thương người thân bạn quý, bạn nhà nông thân thương mà dưới đây chỉ là vài hình ảnh
SẮN VÀ LÚA SIÊU XANH
Giống sắn KM419, KM440 sự thật tốt hơn ngàn lời nói. Tiến sĩ Trúc Mai nghiên cứu thành công giống sắn mới,Người tâm huyết với cây sắn và lúa, vừa đạt giải Nhất Hội thi Sáng tạo kỹ thuật tỉnh Phú Yên lần thứ 8 (2018-2019) tổ chức tại Liên hiệp các Hội Khoa học kỹ thuật tỉnh,về giải pháp “Nghiên cứu tuyển chọn giống sắn năng suất tinh bột cao và kỹ thuật thâm canh tại tỉnh Phú Yên”. Trúc Mai được tôn vinh là nhà khoa học của nhà nông tại Hà Nội đêm 29 tháng 12 năm 2020. Ngày Hạnh Phúc của em Sản phẩm của giải pháp này là giống sắn KM419 trở thành giống sắn chủ lực cho tỉnh Phú Yên từ năm 2016 đến nay với quy trình kỹ thuật có mật độ trồng và công thức bón phân thích hợp cho sự thâm canh giống sắn KM419 trong cơ cấu thời vụ thu hoạch rải vụ của vụ Xuân kết hợp vụ Hè tại tỉnh Phú Yên để nâng cao hiệu quả hoạt động của nhà máy chế biến tinh bột sắn và thu nhập của nông dân. Giống sắn KM419 đã được Bộ Nông nghiệp và PTNT công nhận tại Quyết định số: 85/QĐ-BNN-TT, ngày 13/01/2016, các tác giả giải pháp là tác giả của KM419. Một số biện pháp kỹ thuật thâm canh rải vụ sắn tối ưu cho giống sắn KM419 tại tỉnh Phú Yên đạt năng suất và hiệu quả kinh tế cao nhất; đã được Cục Trồng trọt công nhận tại Quyết định số 208/QĐ-TT- CLT, ngày 27/5/2016, các tác giả giải pháp là tác giả của quy trình kỹ thuật. Tôi thành thực quý trọng công sức của đội ngũ lao động giỏi, trân trọng tài năng với tấm lòng và sự tận tâm vì chén cơm ngon của người dân.
ĐÁY ĐẠI DƯƠNG LÀ NGỌC
Sao anh chưa về miền Tây.
Nơi một góc đời anh ở đó.
Cần Thơ Sóc Trăng sông Tiền Sông Hậu
Tên đất tên người chín nhớ mười thương.
Anh có về Bảy Núi Cửu Long
Nắng đồng bằng miên man bao nỗi nhớ
Kênh ông Kiệt thương mùa mưa lũ
Anh có về nơi ấy với em không?
Nay miền Tây mai miền Trung
Đáy đại dương là Ngọc.
Tôi có câu chuyện không quên Bảy Nhị kênh ông Kiệt và tôi, nay ngắm lại các bức ảnh và trang văn tìm lại chính mình mà xúc động nghĩ về một thời với một lớp người. Tôi nhờ ơn tri ngộ ‘cầu hiền’ của ông Bảy và sự dẫn dắt trước đó của giáo sư Mai Văn Quyền, giáo sư Nguyễn Văn Luật, giáo sư Võ Tòng Xuân, giáo sư Đào Thế Tuấn trong Chương trình Hệ thống Canh tác Việt Nam với lối Học để Làm (Learning by Doing) rất thiết thực. Sự hợp tác thân thiện giữa Viện Lúa ĐBSCL với Trường Đại học Nông Lâm TP Hồ Chí Minh, Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam, Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam, Trường Đại học Cần Thơ, Nông trường Sông Hậu, Trung tâm Giống Cây trồng Sóc Trăng, Trung tâm Giống và Kỹ thuật Cây trồng Phú Yên, …là bài học lớn để chúng tôi vượt lên chính mình, đóng góp được những thành tựu và cống hiến tốt hơn cho sản xuất.
BẢY NHỊ
Ông Bảy Nhị tên thật là Nguyễn Minh Nhị, nguyên chủ tịch tỉnh An Giang. Ông vừa có bài viết “Giá lúa nằm ngoài hạt gạo” mà tôi đã chọn đưa vào bài giảng cây lúa. Suy tư về thương hiệu gạo Việt (trích dẫn cuối bài này) cũng không thể không nhớ ông Bảy.
Bạn xuống An Giang hỏi ông Bảy Chủ tịch ai cũng biết. Tôi gọi trõng tên ông biết là không phải nhưng với tôi thì ông tuy còn khỏe và đang sống sờ sờ nhưng đã là người lịch sử, tựa như Mạc Cữu, Mạc Thiên Tích xưa, oai chấn Hà Tiên góp sức mộ dân mở cõi, làm phên dậu đất phương Nam của dân tộc Việt. Ông Bảy là nhân vật lịch sử trong lòng tôi.
Tôi có một kỷ niệm quí rất khó quên. Ông Bảy Nhị ba lần lặn lội lên Trung tâm Nghiên cứu Thực nghiệm Nông nghiệp Hưng Lộc tìm tôi là giám đốc Trung tâm để hỏi cách đưa cây gì vào khai hoang phục hóa hiệu quả cho vùng đất hoang hóa Tri Tôn, Tịnh Biên. Ông đồng tình với tôi việc ứng dụng canh tác giống lúa thơm Khao Dawk Mali 105 (KDM 105) nhưng trồng cây gì luân canh lúa hiệu quả trong các tháng mùa khô thì đó vẫn là bài toán khó?
Mờ sớm một ngày đầu tháng mười một. Trời se lạnh. Nhà tôi có chim về làm tổ. Buổi khuya, tôi mơ hồ nghe chim khách líu ríu lạ trên cây me góc vườn nên thức dậy. Tôi bước ra sân thì thấy một chiếc xe ô tô đậu và cậu lái xe đang ngủ nướng. Khi tôi ra, cậu lái xe thức dậy nói: “Chú Bảy Nhị, chủ tịch tỉnh An Giang lên thăm anh nhờ tuyển chọn giống mì ngắn ngày để giúp An Giang né lũ. Đợt trước chú đã đi cùng chú Tùng (là ông Lê Minh Tùng sau này làm Phó Chủ Tịch Tỉnh, Hiệu trưởng Trường Đại học An Giang) lên làm việc với anh rồi. Nay mì đã được năm tháng tuổi, chú muốn lên coi kỹ ở trên ruộng xem củ to bằng ngần nào. Chú Bảy giờ hành chính bận họp nên thăm sớm. Đến nhà anh, thấy sớm quá chú ngại nên ra thẳng ngoài đồng rồi, nhờ tui đón anh ra sau”.
Tôi giật mình nghĩ: “Cái ông này không thể xạo được. Mình nói là có giống mì bảy tháng. Năm tháng ông lên kiểm tra đồng ruộng nhổ thử, thiệt chu đáo. Ông thật biết cách kiểm tra sâu sát”. Chợt dưng tôi nhớ đến MỘT LỐI ĐI RIÊNG của Bác Hồ trong thơ Hải Như: “ Chúng ta thích đón đưa/ Bác Hồ không thích/ Đến thăm chúng ta Bác Hồ thường “đột kích”/ Chữ “đột kích” vui này Người nói lại cùng ta/ Và đường quen thuộc/ Bác chẳng đi đâu/ Đường quen thuộc thường xa/ Bác hiện đến bằng lối tự tìm ra:/ Ngắn nhất/ Bác không muốn giẫm lên mọi đường mòn có sẵn/ Khi đích đã nhắm rồi/ Người luôn luôn tạo cho mình:/ Một lối đi riêng”. Sau này hiếm có đồng chí lãnh đạo nào học được cách làm như Bác. Họ đi đâu đều thường xếp lịch hành chính và đưa đón đàng hoàng, chẳng cần một lối đi riêng. Tôi thầm chợt cảm phục ông Bảy.
Suy tư về thương hiệu gạo Việt, tôi đọc đi đọc lại nhiều lần thư của ông Bảy Nhị đã viết cho tôi : “Hoàng Kim thân mến. Sang năm mới, nhìn lại năm cũ, thấy giống khoai mì của Hoàng Kim củ to và nhiều quá chừng. Phải hồi anh Bảy có Nhà máy tinh bột Lương An Trà thì mê hết hồn với giống nầy rồi. Chúc mừng Hoàng Kim nhé! Nhân đây anh trích gởi đoạn nhật ký mới nhất ghi lại sự kiên anh đến xã Vĩnh Phước huyện Tri Tôn trên vùng đất “rún phèn” Tứ giác Long Xuyên của An Giang mà Chánh phủ điều chỉnh địa giới cho An Giang hơn 20 năm trước. Nơi này, Ngô Vi Nghĩa và anh em Nông trường Khoai mì Afiex đã cực khổ khai hoang làm rõ phèn, chuyển đổi vùng đất hoang hóa, phèn nặng, thành nơi canh tác giống lúa thơm Khao Dawk Mali 105 (KDM 105) luân canh với giống khoai mì ngắn ngày né lũ KM98-1. Cho đến nay, sau 20 năm vùng này đã thành cánh đồng trù phú. Anh hay quay về kỷ niệm cũ, những nơi ngày xưa cực khổ để tìm lại dấu tích cái đẹp của hồn người! Thân thiết, Bảy Nhị “
Ông Bảy Nhị trích Nhật ký đầu xuân 2017, đã viết: “Ngày 30-12-2016 dự “ngày hội thu hoạch lúa mùa nổi lần 3” với bà con xã Vĩnh Phước (Tri Tôn) trên vùng đất “rún phèn” Tứ giác Long Xuyên của An Giang mà Chánh phủ điều chỉnh địa giới cho An Giang hơn 20 năm trước. Đồng ruộng kiến thiết khá hiện đại, đi lại bằng xe máy không bị cách trở, đất, nước không còn màu phèn, lúa Thần nông xanh tươi ước chừng năng suất trên 6 tấn/ha. Đất nầy trước chưa từng được canh tác vì là cái “rún phèn”. Nay sản xuất lúa Thần nông trên vùng đất khai hoang trồng khoai mì, đất được rõ phèn, ngọt hóa sau khi Nông trường của Nhà máy tinh bột Công ty AFIEX đã giải thể năm 2004. Khi lúa gạo thừa, lúa bị nhiễm thuốc bảo vệ thực vật, người dân theo gợi ý của thị trường chuyển qua sản xuất lúa mùa nổi từ năm 2014. Nhưng không dễ! Năm trước nước nhỏ, chuột phá đến gần như mất giống, năm nay lại bị bịnh đạo ôn cổ bông, cháy lá, bạc bông, lem lép hạt … như lúa Thần nông, nhưng không dám xài thuốc, vì như vậy thì không ai mua. Hiện còn duy trì sản xuất 30 ha trong vùng theo mô hình một vụ lúa mùa, một vụ màu trên nền rạ. Đứng trên ruộng lúa mùa nổi đang vào thu hoạch, bồi hồi nhớ lại cũng trên cánh đồng nầy, 56 năm về trước (12-1960), tôi “một mình suy nghĩ một mình đi”, đi qua cánh đồng lúa mùa cũng đang vào mùa gặt thế nầy đến ngọn núi trước mặt – Núi Dài Vạn Liên – Bây giờ, ngọn núi sau lưng tôi trong tấm hình nầy. Trong ảnh, tôi đang hỏi người gặt thì được biết công cắt 140 kg lúa/ha, và đám lúa nầy năng suất chừng 1,4 tấn/ha. Hỏi giá bán chưa ai biết. Nhưng báo An Giang (02-01-17) đăng bài về sự kiện nầy nói giá 14.000đ/kg do Tổ chức phi lợi nhuận Đức mua (giá lúa IR 50404 giá 4.500đ/kg). Một bài toán chuyển dịch cơ cấu sản xuất không dễ! Tôi buồn vì mình không còn có điều kiện cùng bà con tháo gở khó khăn trong chuyển dịch cơ cấu sản xuất mà tôi tin rằng nếu làm thì tôi sẽ làm được như những năm Đổi mới 1988 – 2004 tôi đã cùng làm với bà con nông dân trên cương vị Giám đốc Sở Nông nghiệp, Phó Chủ tịch phụ trách Nông nghiệp rồi Chủ tịch – Vực dậy nông nghiệp An Giang 2002 – 2004 rồi mới về hưu, kết thúc phút 89’ – Một chặng đường!” “Con đường qua, lúc ban đầu do ta định hướng và bước đi thế nào đó mà kết quả thu được và hệ quả phải nhận là rất bất cập! Ta thi đua làm cho ra năng suất, sản lượng cao nhất mà không quan tâm môi trường thiên nhiên trong lành bị nhiễm hóa chất nông dược, thiên địch không còn, cá tôm, chim thú bị tận diệt, bây giờ quay lại sản xuất hữu cơ trong điều kiện cân bằng tự nhiên không còn không khác nào đi tìm “hành tinh mới”! Khó hơn là trong lòng người đã mất chữ TIN thì làm sao trị căn bịnh “dối trá” đang thành” đại dịch”? Hơn 20 năm xuất khẩu gạo mà gạo không có tên thương hiệu, thì tái cơ cấu cái gì đây cho có chữ TÍN?“
KÊNH ÔNG KIỆT
“Vẫn là Thủ tướng của nhân dân / Vẫn là anh Sáu mọi gia đình/ Lồng lộng bóng soi miền sông nước/ Đời nặng ân tình, đất nặng chân”. Đó là những câu thơ cảm khái khóc tiễn cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt của ông Bảy Nhị, nguyên Chủ tịch tỉnh An Giang (kênh Võ Văn Kiệt, ảnh Thanh Dũng).
Một năm sau khi cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt từ trần, Hội đồng nhân dân tỉnh An Giang khóa VII đã Quyết nghị đặt tên công trình kênh T5 là kênh Võ Văn Kiệt và đặt bia lưu niệm tại đầu kênh để ghi nhớ công lao của cố Thủ tướng với hệ thống kênh huyết mạch, tháo chua, rửa phèn, mở mang vùng đất hoang hóa của khu vực Tứ giác Long Xuyên.
Báo An Giang, Trường Đại học An Giang đã đăng bài Kênh “ông Kiệt” tắm mát đồng bằng của tác giả Bảo Trị – Thành Chinh. Báo Đất Việt đăng bài Kênh ông Kiệt của tác giả Võ Ngọc- Bảo Châu. Báo Tuổi Trẻ đăng loạt bài Từ kênh Vĩnh Tế đến kênh Võ Văn Kiệt của tác giả Quốc Việt. Kỳ 1: Hào lũy đất phương Nam ; Kỳ 2: Trấn giữ biên giới ; Kỳ 3: Thương hồ Vĩnh Tế ; Kỳ 4: Dấu chân lấm bùn của ông Sáu Dân; Kỳ 5: Đào kênh T5 . Tôi đã viết bài thơ Kênh ông Kiệt giữa lòng dân với lòng biết ơn sâu sắc.
Kênh ông Kiệt giữa lòng dân
Hoàng Kim
Thơ cho em giữa tháng năm này
Là lời người dân nói vể kênh ông Kiệt
Là con kênh xanh mang dòng nước mát
Làm ngọt ruộng đồng Tứ giác Long Xuyên
Con kênh T5 thoát lũ xả phèn
Dẫn nước ngọt về vùng quê nghèo khó
Tri Tôn, Tịnh Biên trong mùa mưa lũ
Giữa hoang hóa, sình lầy, thấm hiểu lòng dân
Nguyễn Công Trứ xưa khẩn hoang đất dinh điền
Thoại Ngọc Hầu mở mang kênh Vĩnh Tế
Kênh ông Kiệt giữa lòng dân bền bỉ
Ân nghĩa cuộc đời lưu dấu nghìn năm
Em ơi khi nuôi dạy con
Hãy dạy những điều vì dân, vì nước
Người ta sinh ra cho đến khi nhắm mắt
Đọng lại trong nhau vẫn chỉ những CON NGƯỜI.
Kênh Vĩnh Tế và Kênh Võ Văn Kiệt
Hai công trình kênh Vĩnh Tế và kênh ông Kiệt sống mãi với thời gian trong lòng dân.
Kênh Vĩnh Tế dài gần 100km chạy dọc biên giới hai tỉnh An Giang, Kiên Giang với vương quốc Campuchia. Kênh do Thượng đạo Khâm sai, trấn thủ Vĩnh Thanh Thoại Ngọc Hầu Nguyễn Văn Thoại chỉ huy hơn 80.000 dân binh đào ròng rã 5 năm liền (1819-1824). Sau khi hoàn thành, vua Minh Mạng đã lấy tên vợ của Thoại Ngọc Hầu , bà Châu Thị Vĩnh Tế, đặt tên cho con kênh này là kênh Vĩnh Tế. Thượng nguồn con kênh tiếp dòng sông Hậu ở thị xã Châu Đốc, hạ nguồn nhập sông Giang Thành ở Hà Tiên để ra biển Tây. Kênh Vĩnh Tế hiện rộng khoảng 40-70m, sâu 3-4m so với mực nước biển tùy từng đoạn. Kênh Vĩnh Tế là tuyến thủy lộ, tuyến kênh biên giới đặc biệt quan trọng mở mang vùng đất Tây Nam Bộ mang tầm vóc của một công trình chiến lược nhất thế kỷ 19 hào lũy đất phương Nam, khẳng định chủ quyền lãnh thổ, mở mang vùng đất mới.
Kênh Võ Văn Kiệt (kênh T5) dài 48km, rộng 30-36m và sâu 3m, thông kênh Vĩnh Tế ở Tri Tôn, An Giang, chảy qua Hòn Đất, Kiên Giang rồi đổ ra vịnh Thái Lan. Đây là một cụm “công trình thủy lợi cấp bách” mang dấn ấn Thủ tướng Võ Văn Kiệt, “bác Sáu Dân” nhằm “thoát lũ biển Tây” ngọt hóa vùng đất năng lác hoang hóa sình lầy của hai tỉnh An Giang, Kiên Giang biến thành đất sản xuất nông nghiệp…. Ông Bảy Nhị đã chia sẻ: “Thời điểm trước năm 1997 (trước khi tuyến kênh T5 hoàn thành) cứ dạo lũ về là các cấp, các ngành lo ngai ngái. Lũ về là những vùng trũng, đầu nguồn lại phải lo cảnh sơ tán dân, cứu đói, cắt lúa chạy lũ. Từ khi hệ thống kênh mương cấp 2, 3 hoàn thành theo Quyết định 99/TTg như: Nạo vét kênh Tám Ngàn, H7, các kênh 5, 13, 16… , phần nào lũ đã khống chế. Tuy vậy, những vùng như Tứ giác Long Xuyên, cảnh lũ trắng đồng vẫn là nỗi lo lớn, buộc những người lãnh đạo phải bàn quyết sách tháo gỡ vấn đề”. “Tứ giác Long Xuyên, vùng đất trũng phèn có diện tích gần 500.000 ha đất nông nghiệp vẫn còn hoang hóa nhiễm phèn, trong đó An Giang chiếm diện tích khá lớn chính là vùng đất chúng ta bỏ quên bấy lâu nay chưa khai phá. Đất không phụ người, chỉ sợ người phụ đất mà thôi”.
Thủ tướng Võ Văn Kiệt trong chuyến về thăm và làm việc tại An Giang trong hai ngày 21, 22-7-1996, đã đi thị sát cánh đồng Lạc Quới, kênh mương nội đồng vùng Tứ giác Long Xuyên. Thủ tướng đã chỉ thị: “Đề án quy hoạch thủy lợi vùng Tứ giác Long Xuyên cần nhanh chóng thực hiện vì nó sẽ giúp khu vực sử dụng được nguồn phù sa vô giá của lũ sông Cửu Long, chính nó sẽ đảm đương việc thoát lũ, rửa phèn khai phá đất nông nghiệp cho vùng Tứ giác Long Xuyên. Các Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Thủy lợi, Bộ Khoa học-Công nghệ và Môi trường cần nhanh chóng phối hợp lập kế hoạch xây dựng tuyến kênh thoát lũ ra Vịnh Thái Lan“.
Sau việc đào xong kênh T6, đưa nước từ Vĩnh Tế qua kênh Mới về biển Hà Tiên vào năm 1996. Đầu năm 1997, công trình chống lũ cấp bách kênh T5 – Tuần Thống, Luỳnh Quỳnh, Tân Thành – Lò Gạch, tuyến đê bờ nam Vĩnh Tế; hệ thống cống ngăn, xả lũ và 2 đập điều chỉnh lũ Tha La, Trà Sư; các cống ngăn mặn giữ ngọt thoát lũ ven biển… đã được cấp bách xây dựng theo Quyết định 159/TTg của Thủ tướng Chính phủ. Hàng loạt công trình thủy lợi phục vụ dẫn ngọt, tiêu chua, tiêu úng, xổ phèn, ngăn mặn và hàng vạn cây số bờ bao bảo vệ lúa hè thu được xây dựng đã góp phần quyết định vào việc phát triển nông nghiệp và các ngành kinh tế khác trong vùng. Trong đó, kênh T5 có ý nghĩa chiến lược, được khởi công giữa quý I đến cuối tháng 8-1997 là hoàn thành. Đây là công trình thủy lợi hoàn thành nhanh nhất trong lịch sử đào kênh ở Việt Nam. Ngày mùng 8 Tết Mậu Dần 1998 (nhằm ngày 4-2-1998), 50.000 ha đất hai tỉnh An Giang, Kiên Giang được ngọt hóa. Ngày mùng 9 Tết Mậu Dần khởi công nạo vét kênh Vĩnh Tế, điều tiết lũ cùng dòng Võ Văn Kiệt thoát lũ ra biển Tây. Chọn bờ Nam song song tuyến kênh hình thành những tuyến dân cư vượt lũ trên toàn tuyến. Đây là đại công trình thủy lợi gồm hệ thống các kênh T4, T5, T6 thoát lũ, dẫn ngọt, tháo chua, rửa phèn, khai hoang, phục hóa hàng trăm ngàn ha đất .
Những năm sau, cụm từ “lũ đẹp” bắt đầu xuất hiện và định nghĩa “sống chung với lũ “cũng từ đó hình thành, Từ một công trình thủy lợi đã mở mang diện tích sản xuất, giảm thiểu ngập lũ. Ổn định vững chắc hai vụ sản xuất đông xuân và hè thu; giảm thấp mức lũ chính vụ, tạo điều kiện phát triển sản xuất, giảm chi phí xây dựng các công trình hạ tầng cơ sở, giảm thiệt hại về người và của mùa lũ về. Từ đó, tạo thế đưa nước ngọt giàu phù sa từ sông Hậu vào kết hợp ngăn mặn, giữ ngọt, tháo chua rửa phèn, cải tạo đất sản xuất nông nghiệp, cải tạo môi trường nước, vệ sinh đồng ruộng phục vụ phát triển sản xuất, sinh hoạt của nhân dân trong vùng. Tất cả đã được kênh T5 đảm trách hiệu quả.
Tri Tôn, Tịnh Biên là những huyện khó khăn của tỉnh An Giang. Hệ thống thủy lợi nội đồng nối với “Kênh ông Kiệt” đã mang nguồn nước ngọt về ruộng. Bạn xem chùm ảnh cũ trong blog của tôi để rõ hơn cách làm. Giống lúa KĐM105 ngon cơm sinh trưởng phát triển tốt trên vùng đất hoang hóa được tưới đã mang lại niềm vui cho người nghèo. Các giống cây màu rau đậu trồng vụ khô sau khi thu hoạch lúa đã giúp nâng cao đời sống người dân. Khoa học kỹ thuật bám dân bám ruộng âm thầm nhưng hiệu quả làm đổi thay vùng Tri Tôn Tịnh Biên. Tôi đã có tám năm gắn bó với mảnh đất này. Đi đâu người dân cũng khen ông sáu Kiệt và ông bảy Nhị. Kênh ông Kiệt giữa lòng dân. Vùng đất hoang hóa sình lầy nay đã thành vựa lúa. Tỉnh An Giang nay đã thành vùng lúa sản lượng cao nhất nước. Tôi sang giảng dạy ở Campuchia đối diện với An Giang Kiên Giang ngắm nhìn các giống lúa OM các giống sắn KM sâu đậm trong lòng dân mà thương về những con người trượng nghĩa đất Nam Bộ, hiểu sâu xa thêm bài học an sinh xã hội và ổn định kinh tế. Ăn học chăm sóc sức khỏe chất lượng cuộc sống của người dân lao động vẫn là những câu hỏi và bài học lớn ám ảnh ở những vùng này
Giống sắn ưu tú năng suất bột cao ngắn ngày đáp ứng yêu cầu cấp thiết sản xuất trong đề tài này là KM98-1, nay đã được bảo tồn và phát triển. Giống sắn KM440 tuyển chọn từ xử lý đột biến lý học 20.000 hạt sắn KM94 chọn lọc khô và ướt được ươm nẩy mầm và chiếu xạ đột biến bằng tia Gam ma nguồn Co 60 nay được trồng ở Tây Ninh, Đồng Nai và Phú Yên có liên quan hình ảnh và câu chuyên này.
ÔNG BẢYÔNG KIỆT TRONG LÒNG TÔI
Bảy Nhị kênh ông Kiệt trong lòng tôi (ảnh tác giả chọn giống mì mới năng suất cao ngắn ngày ở vùng đất Tri Tôn,Tịnh Biên). Ông Bảy ông Kiệt đã lưu ấn tượng sâu sắc và sự tin cậy quý mến trong lòng tôi. “Kênh ông Kiệt” và vùng đất Nam Bộ đã là nôi nuôi dưỡng phát triển của các giống mì ngắn ngày KM98-1, KM140 đươc chọn tạo để đáp ứng nhu cầu né lũ nay đã phát triển rộng khắp toàn quốc.
Giống sắn KM140 đã nhận giải Nhất VIFOTECH Hội thi sáng tạo c kỹ thuật toàn quốc lần thứ 10. An Giang là nôi ứng dụng đầu tiên của Việt Nam và thế giới đối với những dòng khoai mì đột biến theo hướng ngắn ngày. Chúng tôi những người tạo chọn giống củ mì thật biết ơn kênh ông Kiệt và ông Bảy Nhị. Không có ông Bảy Nhị và kênh ông Kiệt thì củ mì ngắn ngày năng suất cao của tôi chẳng thể nào ra đời và phát triển nhanh như vậy.
Đề tài chọn tạo giống sắn ngắn ngày “né lũ” giúp tôi tiếp cận vùng đất hoang hóa, thấu hiểu những khổ cực của người dân nghèo vùng lũ và ấn tượng sâu sắc trong lòng tôi. Sau
Tôi lưu lại một ít hình ảnh không quên và năm ghi chú nhỏ: 1) Cha con người anh hùng; 2) Nhớ người muôn năm cũ; 3) Thương người thân bạn quý; 4) Sắn và lúa siêu xanh; 5) Đáy đại dương là ngọc; https://hoangkimlong.wordpress.com/category/day-dai-duong-la-ngoc/
Anh Nguyễn Thành Phước (Phuoc Nguyen Thanh) nói: “Chỉ có những người cùng cam khổ mới hiểu hết nỗi cực khổ” Tôi xúc động nói với anh: “Tôi cùng Hoang Long con tôi theo chân anh Phạm Trung Nghĩa Viện Lúa về Sóc Trăng Lương Định Của tới quê hương người anh hùng lao động Hồ Quang Cua gạo ST để chung sức cùng với vợ chồng anh và các bạn hữu và học trò gắng gỏi tuyển chọn giống lúa siêu xanh thích ứng với biến đổi khí hậu, có năng suất cao, chất lượng tốt, ngắn ngày, ít sâu bệnh. Mười năm qua từ nguồn vật liệu lúa siêu xanh (Green Super Rice GSR) quý hiếm đã nhập nội, bảo tồn và phát triển tại Trung tâm Giống nông nghiệp tỉnh Sóc Trăng lan tỏa ra Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh Phú Yên với nhiều tỉnh. Ngày nay đã tuyển chọn được các giống lúa siêu xanh tốt GSR90, GSR65, GSR38 (HHZ5 Y7- Y3), nhìn lại Việt Nam con đường xanh gian khổ vươn tới của Gạo Việt và thương hiệu càng thấm thía Đáy đại dương là ngọc.
CHA CON NGƯỜI ANH HÙNG
Hôm bác Năm Hoằng mất, chúng tôi gần như đi suốt đêm từ Trung tâm Nghiên cứu Thực nghiệm Nông nghiệp Hưng Lộc (Đồng Nai) về Nông trường sông Hậu (Hậu Giang) để kịp viếng bác. Tôi biết ơn bác Năm đã năm lần lội ruộng thăm đồng Trung tâm Hưng Lôc và đã gợi ý cho tôi nhiều điều. Trong đó, có một lần bác tặng cho tôi chiếc máy điện thoại di động “Cháu giữ mà dùng, bác mua lại cái khác”, “Thông tin là cần thiết, đừng tiết kiệm quá con ạ” “Chưa kỹ đâu con, đừng vội làm sư”; “Bác có chút kinh nghiệm thau chua, rửa phèn, lấn biến” “Hiểu cây và đất thì mới làm ra được giống mới, con ạ ”; “Phải sản xuất kinh doanh khép kín mới khá được”; “Đáy đại dương là ngọc”. Những bài học của bác Năm Hoằng và chị Ba Sương đã giúp chúng tôi rất nhiều. Lâu nay chúng ta đã xúc động nhiều với cuộc đời bất hạnh của chị Ba Sương nhưng hình như việc “tích tụ ruộng đất”, “xây dựng nông trại điển hình”, và “lập quỹ trái phép”, của Nông trường sông Hậu thời bác Năm Hoằng và chị Ba Sương cho đến nay vẫn chưa được nghiên cứu thấu đáo để rút ra những bài học sâu sắc về quan điểm, tầm nhìn, cách đầu tư khép kín trong nông nghiệp. Không chỉ vậy, những bài học tổng kết thực tiễn kinh nghiệm phát triển nông nghiệp của Thế giới và Việt Nam việc soát xét 10 năm, 40 năm, 90 năm, 500 năm để tính toán một tầm nhìn trung và dài hạn vẫn rất cần những công trình xứng tầm để đúc kết bài học bảo tồn và phát triển. Tôi mắc nợ câu chuyện “Hai cha con đều là anh hùng” của bác Năm Hoằng và chị Ba Sương đã nhiều năm. Khi tôi may mắn ngồi trọn buổi giữa nhóm bạn quý của Trung tâm Nghiên cứu Nông nghiệp Đồng Tháp Mười gồm vợ chồng anh Mai Thành Phụng, Nguyễn Thị Kim Hoàng, vợ chồng của nhà báo Quang Ngọc, và các bạn Thạc, Thuận, Cường, Thắm, là các thế hệ chí cốt của trung tâm suốt chặng đường lịch sử. Thật xúc động nhớ về thuở xưa của rốn phèn Đồng Tháp Mười và Tứ giác Long Xuyên nay đã biết bao đổi thay. Trò chuyện với các bạn câu chuyện Trở lại nụ cười Ba Sương : “Hậu Giang gió nổi bời bời/ Người ta một nắng, chị thời … Ba Sương/ Theo cha đi mở nông trường/ Sáu mươi tóc vẫn còn vương mùi phèn/ Giữa bùn lòng mở cánh sen/ Thương bao phận khó mà quên phận mình, …” . Sự kiện ngày 15 tháng 8 năm 2009 đến nay lòng dân đâu đã quên và chuyện đâu đã khép lại. Bác Năm đã yên nghĩ, chị Ba Sương kêu án tù 8 năm và được thả. Người đương thời chưa thể mổ xẻ và phân tích đúng sai về cách “tích tụ ruộng đất” và “lập quỷ trái phép” nhưng nếu khép lại điều này thì không thể nói rõ nhiều việc đúng tâm nguyện của những bậc anh hùng trượng nghĩa Nam Bộ đã dấn thân quyết liệt trọn đời cho sự nghiệp và niềm tin ấy.
NHỚ NGƯỜI MUÔN NĂM CŨ
Giáo sư Nguyễn Tử Siêm viết: “Nhớ một trí thức chân chính GSTS, NGUYÊN BT NGUYỄN QUANG HÀ” với hình ảnh giáo sư Nguyễn Quang Hà đứng giữa các đồng nghiệp Nguyễn Thị Lang, Nguyễn Ích Chương, Nguyễn Tử Siêm, … đang lắng nghe chuyên gia IRRI giới thiệu dùng biotech để lai xa, tạo giống ‘siêu lúa’ (supper rice) ngày 28.8.1996. Xin thắp một nén tâm hương nhân ngày giỗ 24 tháng 11 năm 2016 của cụ Nguyễn Quang Hà, một bậc đàn anh đáng kính trong nghề, hiền lành và đức độ bậc nhất theo lời đánh giá của giáo sư Nguyễn Tử Siêm mà tôi tâm đắc. “Sinh ra ở làng lụa Vạn Phúc, trong một gia đình có công với cách mạng, ông Nguyễn Quang Hà tu dưỡng, học hành bài bản, trở thành nhà khoa học lâm nghiệp đầu đàn, Viện trưởng Viện Điều tra Qui hoạch Rừng, rồi làm Bộ trưởng Bộ Lâm Nghiệp; khi sát nhập 2 bộ, ông giữ chức Thứ trưởng thường trực Bộ NN & PTNT.Đúng cái lúc ông về hưu, nhẹ nhàng, thanh thản, những tưởng vui thú điền viên nơi mành vườn quê, thì vụ án động trời ở Bộ bùng phát sau nhiều năm âm ỉ, làm ông vướng vòng lao lý. Vụ án là chuyện của pháp luật. Tôi chỉ muốn biểu thị lòng tin rằng ông trong sạch, không toan tính tơ hào gì về lợi ích. Với tôi, vẫn nguyên vẹn hình ảnh một trí thức chân chính, dù rằng cấp trên trực tiếp của ông ngoảnh mặt đi“. Câu chuyện cụ Hà dường như rất giống câu chuyện bác Năm Hoằng và chị Ba Sương Nông trường Sông Hậu mà cả hai đều “thế thời thế thế thời phải thế”. Tôi xin được lưu lại để suy ngẫm.
THƯƠNG NGƯỜI THÂN BẠN QUÝ
Phạm Trung Nghĩa Viện Lúa “Hãy cúi xuống học tốt. Khi kết quả thành rồi, người đời sẽ dắt bạn lên ” tưởng nhớ nhà khoa học xanh Phạm Trung Nghĩa. Rạng sáng ngày 19 tháng 10 năm 2012, lúc 6 giờ. Tiến sĩ Phạm Trung Nghĩa Phó Viện Trưởng Viện Lúa Đồng Bằng Sông Cửu Long từ trần. Anh ra đi sau cơn đột quỵ và hôn mê sâu để lại sự tiếc thương vô hạn cho gia đình, đồng nghiệp, học trò nghề nông, người thân và người dân khắp vùng Nam Bộ.
Anh đi xa đã mấy năm nhưng anh cũng đã đi vào bữa cơm mỗi gia đình thầm lặng thiết thực mà hiệu quả. Anh đi xa lúc 51 tuổi khi sức cống hiến của anh đối với khoa học đang ở độ rực rỡ nhất. Anh để lại những công trình dang dở, những giống lúa triển vọng đang xanh mướt trên đồng. Anh để lại những trang viết chưa dừng, những việc tốt đang làm và những dự định đang ấp ủ thực hiện. Anh là nhà khoa học xanh hiền hậu, tài năng, chịu khó, người bạn hiền của nông dân, người thầy giỏi của con tôi và nhiều lớp học trò may mắn được anh chỉ dạy. Mãi còn đó lời khuyên của anh chân thành mà minh triết: “Hãy cúi xuống làm việc. Khi kết quả thành rồi, người đời sẽ dắt bạn lên !”. “Hãy cúi xuống học trên đồng, cúi xuống học trong phòng thí nghiệm, cúi xuống học thầy, học bạn và lắng nghe tiếng nói người dân”.
Thương người thân bạn quý, bạn nhà nông thân thương mà dưới đây chỉ là vài hình ảnh
SẮN VÀ LÚA SIÊU XANH
Giống sắn KM419, KM440 sự thật tốt hơn ngàn lời nói. Tiến sĩ Trúc Mai nghiên cứu thành công giống sắn mới,Người tâm huyết với cây sắn và lúa, vừa đạt giải Nhất Hội thi Sáng tạo kỹ thuật tỉnh Phú Yên lần thứ 8 (2018-2019) tổ chức tại Liên hiệp các Hội Khoa học kỹ thuật tỉnh,về giải pháp “Nghiên cứu tuyển chọn giống sắn năng suất tinh bột cao và kỹ thuật thâm canh tại tỉnh Phú Yên”. Trúc Mai được tôn vinh là nhà khoa học của nhà nông tại Hà Nội đêm 29 tháng 12 năm 2020. Ngày Hạnh Phúc của em Sản phẩm của giải pháp này là giống sắn KM419 trở thành giống sắn chủ lực cho tỉnh Phú Yên từ năm 2016 đến nay với quy trình kỹ thuật có mật độ trồng và công thức bón phân thích hợp cho sự thâm canh giống sắn KM419 trong cơ cấu thời vụ thu hoạch rải vụ của vụ Xuân kết hợp vụ Hè tại tỉnh Phú Yên để nâng cao hiệu quả hoạt động của nhà máy chế biến tinh bột sắn và thu nhập của nông dân. Giống sắn KM419 đã được Bộ Nông nghiệp và PTNT công nhận tại Quyết định số: 85/QĐ-BNN-TT, ngày 13/01/2016, các tác giả giải pháp là tác giả của KM419. Một số biện pháp kỹ thuật thâm canh rải vụ sắn tối ưu cho giống sắn KM419 tại tỉnh Phú Yên đạt năng suất và hiệu quả kinh tế cao nhất; đã được Cục Trồng trọt công nhận tại Quyết định số 208/QĐ-TT- CLT, ngày 27/5/2016, các tác giả giải pháp là tác giả của quy trình kỹ thuật. Tôi thành thực quý trọng công sức của đội ngũ lao động giỏi, trân trọng tài năng với tấm lòng và sự tận tâm vì chén cơm ngon của người dân.
ĐÁY ĐẠI DƯƠNG LÀ NGỌC
Sao anh chưa về miền Tây.
Nơi một góc đời anh ở đó.
Cần Thơ Sóc Trăng sông Tiền Sông Hậu
Tên đất tên người chín nhớ mười thương.
Anh có về Bảy Núi Cửu Long
Nắng đồng bằng miên man bao nỗi nhớ
Kênh ông Kiệt thương mùa mưa lũ
Anh có về nơi ấy với em không?
Nay miền Tây mai miền Trung
Đáy đại dương là Ngọc.
Tôi có câu chuyện không quên Bảy Nhị kênh ông Kiệt và tôi, nay ngắm lại các bức ảnh và trang văn tìm lại chính mình mà xúc động nghĩ về một thời với một lớp người. Tôi nhờ ơn tri ngộ ‘cầu hiền’ của ông Bảy và sự dẫn dắt trước đó của giáo sư Mai Văn Quyền, giáo sư Nguyễn Văn Luật, giáo sư Võ Tòng Xuân, giáo sư Đào Thế Tuấn trong Chương trình Hệ thống Canh tác Việt Nam với lối Học để Làm (Learning by Doing) rất thiết thực. Sự hợp tác thân thiện giữa Viện Lúa ĐBSCL với Trường Đại học Nông Lâm TP Hồ Chí Minh, Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam, Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam, Trường Đại học Cần Thơ, Nông trường Sông Hậu, Trung tâm Giống Cây trồng Sóc Trăng, Trung tâm Giống và Kỹ thuật Cây trồng Phú Yên, …là bài học lớn để chúng tôi vượt lên chính mình, đóng góp được những thành tựu và cống hiến tốt hơn cho sản xuất.
BẢY NHỊ
Ông Bảy Nhị tên thật là Nguyễn Minh Nhị, nguyên chủ tịch tỉnh An Giang. Ông vừa có bài viết “Giá lúa nằm ngoài hạt gạo” mà tôi đã chọn đưa vào bài giảng cây lúa. Suy tư về thương hiệu gạo Việt (trích dẫn cuối bài này) cũng không thể không nhớ ông Bảy.
Bạn xuống An Giang hỏi ông Bảy Chủ tịch ai cũng biết. Tôi gọi trõng tên ông biết là không phải nhưng với tôi thì ông tuy còn khỏe và đang sống sờ sờ nhưng đã là người lịch sử, tựa như Mạc Cữu, Mạc Thiên Tích xưa, oai chấn Hà Tiên góp sức mộ dân mở cõi, làm phên dậu đất phương Nam của dân tộc Việt. Ông Bảy là nhân vật lịch sử trong lòng tôi.
Tôi có một kỷ niệm quí rất khó quên. Ông Bảy Nhị ba lần lặn lội lên Trung tâm Nghiên cứu Thực nghiệm Nông nghiệp Hưng Lộc tìm tôi là giám đốc Trung tâm để hỏi cách đưa cây gì vào khai hoang phục hóa hiệu quả cho vùng đất hoang hóa Tri Tôn, Tịnh Biên. Ông đồng tình với tôi việc ứng dụng canh tác giống lúa thơm Khao Dawk Mali 105 (KDM 105) nhưng trồng cây gì luân canh lúa hiệu quả trong các tháng mùa khô thì đó vẫn là bài toán khó?
Mờ sớm một ngày đầu tháng mười một. Trời se lạnh. Nhà tôi có chim về làm tổ. Buổi khuya, tôi mơ hồ nghe chim khách líu ríu lạ trên cây me góc vườn nên thức dậy. Tôi bước ra sân thì thấy một chiếc xe ô tô đậu và cậu lái xe đang ngủ nướng. Khi tôi ra, cậu lái xe thức dậy nói: “Chú Bảy Nhị, chủ tịch tỉnh An Giang lên thăm anh nhờ tuyển chọn giống mì ngắn ngày để giúp An Giang né lũ. Đợt trước chú đã đi cùng chú Tùng (là ông Lê Minh Tùng sau này làm Phó Chủ Tịch Tỉnh, Hiệu trưởng Trường Đại học An Giang) lên làm việc với anh rồi. Nay mì đã được năm tháng tuổi, chú muốn lên coi kỹ ở trên ruộng xem củ to bằng ngần nào. Chú Bảy giờ hành chính bận họp nên thăm sớm. Đến nhà anh, thấy sớm quá chú ngại nên ra thẳng ngoài đồng rồi, nhờ tui đón anh ra sau”.
Tôi giật mình nghĩ: “Cái ông này không thể xạo được. Mình nói là có giống mì bảy tháng. Năm tháng ông lên kiểm tra đồng ruộng nhổ thử, thiệt chu đáo. Ông thật biết cách kiểm tra sâu sát”. Chợt dưng tôi nhớ đến MỘT LỐI ĐI RIÊNG của Bác Hồ trong thơ Hải Như: “ Chúng ta thích đón đưa/ Bác Hồ không thích/ Đến thăm chúng ta Bác Hồ thường “đột kích”/ Chữ “đột kích” vui này Người nói lại cùng ta/ Và đường quen thuộc/ Bác chẳng đi đâu/ Đường quen thuộc thường xa/ Bác hiện đến bằng lối tự tìm ra:/ Ngắn nhất/ Bác không muốn giẫm lên mọi đường mòn có sẵn/ Khi đích đã nhắm rồi/ Người luôn luôn tạo cho mình:/ Một lối đi riêng”. Sau này hiếm có đồng chí lãnh đạo nào học được cách làm như Bác. Họ đi đâu đều thường xếp lịch hành chính và đưa đón đàng hoàng, chẳng cần một lối đi riêng. Tôi thầm chợt cảm phục ông Bảy.
Suy tư về thương hiệu gạo Việt, tôi đọc đi đọc lại nhiều lần thư của ông Bảy Nhị đã viết cho tôi : “Hoàng Kim thân mến. Sang năm mới, nhìn lại năm cũ, thấy giống khoai mì của Hoàng Kim củ to và nhiều quá chừng. Phải hồi anh Bảy có Nhà máy tinh bột Lương An Trà thì mê hết hồn với giống nầy rồi. Chúc mừng Hoàng Kim nhé! Nhân đây anh trích gởi đoạn nhật ký mới nhất ghi lại sự kiên anh đến xã Vĩnh Phước huyện Tri Tôn trên vùng đất “rún phèn” Tứ giác Long Xuyên của An Giang mà Chánh phủ điều chỉnh địa giới cho An Giang hơn 20 năm trước. Nơi này, Ngô Vi Nghĩa và anh em Nông trường Khoai mì Afiex đã cực khổ khai hoang làm rõ phèn, chuyển đổi vùng đất hoang hóa, phèn nặng, thành nơi canh tác giống lúa thơm Khao Dawk Mali 105 (KDM 105) luân canh với giống khoai mì ngắn ngày né lũ KM98-1. Cho đến nay, sau 20 năm vùng này đã thành cánh đồng trù phú. Anh hay quay về kỷ niệm cũ, những nơi ngày xưa cực khổ để tìm lại dấu tích cái đẹp của hồn người! Thân thiết, Bảy Nhị “
Ông Bảy Nhị trích Nhật ký đầu xuân 2017, đã viết: “Ngày 30-12-2016 dự “ngày hội thu hoạch lúa mùa nổi lần 3” với bà con xã Vĩnh Phước (Tri Tôn) trên vùng đất “rún phèn” Tứ giác Long Xuyên của An Giang mà Chánh phủ điều chỉnh địa giới cho An Giang hơn 20 năm trước. Đồng ruộng kiến thiết khá hiện đại, đi lại bằng xe máy không bị cách trở, đất, nước không còn màu phèn, lúa Thần nông xanh tươi ước chừng năng suất trên 6 tấn/ha. Đất nầy trước chưa từng được canh tác vì là cái “rún phèn”. Nay sản xuất lúa Thần nông trên vùng đất khai hoang trồng khoai mì, đất được rõ phèn, ngọt hóa sau khi Nông trường của Nhà máy tinh bột Công ty AFIEX đã giải thể năm 2004. Khi lúa gạo thừa, lúa bị nhiễm thuốc bảo vệ thực vật, người dân theo gợi ý của thị trường chuyển qua sản xuất lúa mùa nổi từ năm 2014. Nhưng không dễ! Năm trước nước nhỏ, chuột phá đến gần như mất giống, năm nay lại bị bịnh đạo ôn cổ bông, cháy lá, bạc bông, lem lép hạt … như lúa Thần nông, nhưng không dám xài thuốc, vì như vậy thì không ai mua. Hiện còn duy trì sản xuất 30 ha trong vùng theo mô hình một vụ lúa mùa, một vụ màu trên nền rạ. Đứng trên ruộng lúa mùa nổi đang vào thu hoạch, bồi hồi nhớ lại cũng trên cánh đồng nầy, 56 năm về trước (12-1960), tôi “một mình suy nghĩ một mình đi”, đi qua cánh đồng lúa mùa cũng đang vào mùa gặt thế nầy đến ngọn núi trước mặt – Núi Dài Vạn Liên – Bây giờ, ngọn núi sau lưng tôi trong tấm hình nầy. Trong ảnh, tôi đang hỏi người gặt thì được biết công cắt 140 kg lúa/ha, và đám lúa nầy năng suất chừng 1,4 tấn/ha. Hỏi giá bán chưa ai biết. Nhưng báo An Giang (02-01-17) đăng bài về sự kiện nầy nói giá 14.000đ/kg do Tổ chức phi lợi nhuận Đức mua (giá lúa IR 50404 giá 4.500đ/kg). Một bài toán chuyển dịch cơ cấu sản xuất không dễ! Tôi buồn vì mình không còn có điều kiện cùng bà con tháo gở khó khăn trong chuyển dịch cơ cấu sản xuất mà tôi tin rằng nếu làm thì tôi sẽ làm được như những năm Đổi mới 1988 – 2004 tôi đã cùng làm với bà con nông dân trên cương vị Giám đốc Sở Nông nghiệp, Phó Chủ tịch phụ trách Nông nghiệp rồi Chủ tịch – Vực dậy nông nghiệp An Giang 2002 – 2004 rồi mới về hưu, kết thúc phút 89’ – Một chặng đường!” “Con đường qua, lúc ban đầu do ta định hướng và bước đi thế nào đó mà kết quả thu được và hệ quả phải nhận là rất bất cập! Ta thi đua làm cho ra năng suất, sản lượng cao nhất mà không quan tâm môi trường thiên nhiên trong lành bị nhiễm hóa chất nông dược, thiên địch không còn, cá tôm, chim thú bị tận diệt, bây giờ quay lại sản xuất hữu cơ trong điều kiện cân bằng tự nhiên không còn không khác nào đi tìm “hành tinh mới”! Khó hơn là trong lòng người đã mất chữ TIN thì làm sao trị căn bịnh “dối trá” đang thành” đại dịch”? Hơn 20 năm xuất khẩu gạo mà gạo không có tên thương hiệu, thì tái cơ cấu cái gì đây cho có chữ TÍN?“
KÊNH ÔNG KIỆT
“Vẫn là Thủ tướng của nhân dân / Vẫn là anh Sáu mọi gia đình/ Lồng lộng bóng soi miền sông nước/ Đời nặng ân tình, đất nặng chân”. Đó là những câu thơ cảm khái khóc tiễn cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt của ông Bảy Nhị, nguyên Chủ tịch tỉnh An Giang (kênh Võ Văn Kiệt, ảnh Thanh Dũng).
Một năm sau khi cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt từ trần, Hội đồng nhân dân tỉnh An Giang khóa VII đã Quyết nghị đặt tên công trình kênh T5 là kênh Võ Văn Kiệt và đặt bia lưu niệm tại đầu kênh để ghi nhớ công lao của cố Thủ tướng với hệ thống kênh huyết mạch, tháo chua, rửa phèn, mở mang vùng đất hoang hóa của khu vực Tứ giác Long Xuyên.
Báo An Giang, Trường Đại học An Giang đã đăng bài Kênh “ông Kiệt” tắm mát đồng bằng của tác giả Bảo Trị – Thành Chinh. Báo Đất Việt đăng bài Kênh ông Kiệt của tác giả Võ Ngọc- Bảo Châu. Báo Tuổi Trẻ đăng loạt bài Từ kênh Vĩnh Tế đến kênh Võ Văn Kiệt của tác giả Quốc Việt. Kỳ 1: Hào lũy đất phương Nam ; Kỳ 2: Trấn giữ biên giới ; Kỳ 3: Thương hồ Vĩnh Tế ; Kỳ 4: Dấu chân lấm bùn của ông Sáu Dân; Kỳ 5: Đào kênh T5 . Tôi đã viết bài thơ Kênh ông Kiệt giữa lòng dân với lòng biết ơn sâu sắc.
Kênh ông Kiệt giữa lòng dân
Hoàng Kim
Thơ cho em giữa tháng năm này
Là lời người dân nói vể kênh ông Kiệt
Là con kênh xanh mang dòng nước mát
Làm ngọt ruộng đồng Tứ giác Long Xuyên
Con kênh T5 thoát lũ xả phèn
Dẫn nước ngọt về vùng quê nghèo khó
Tri Tôn, Tịnh Biên trong mùa mưa lũ
Giữa hoang hóa, sình lầy, thấm hiểu lòng dân
Nguyễn Công Trứ xưa khẩn hoang đất dinh điền
Thoại Ngọc Hầu mở mang kênh Vĩnh Tế
Kênh ông Kiệt giữa lòng dân bền bỉ
Ân nghĩa cuộc đời lưu dấu nghìn năm
Em ơi khi nuôi dạy con
Hãy dạy những điều vì dân, vì nước
Người ta sinh ra cho đến khi nhắm mắt
Đọng lại trong nhau vẫn chỉ những CON NGƯỜI.
Kênh Vĩnh Tế và Kênh Võ Văn Kiệt
Hai công trình kênh Vĩnh Tế và kênh ông Kiệt sống mãi với thời gian trong lòng dân.
Kênh Vĩnh Tế dài gần 100km chạy dọc biên giới hai tỉnh An Giang, Kiên Giang với vương quốc Campuchia. Kênh do Thượng đạo Khâm sai, trấn thủ Vĩnh Thanh Thoại Ngọc Hầu Nguyễn Văn Thoại chỉ huy hơn 80.000 dân binh đào ròng rã 5 năm liền (1819-1824). Sau khi hoàn thành, vua Minh Mạng đã lấy tên vợ của Thoại Ngọc Hầu , bà Châu Thị Vĩnh Tế, đặt tên cho con kênh này là kênh Vĩnh Tế. Thượng nguồn con kênh tiếp dòng sông Hậu ở thị xã Châu Đốc, hạ nguồn nhập sông Giang Thành ở Hà Tiên để ra biển Tây. Kênh Vĩnh Tế hiện rộng khoảng 40-70m, sâu 3-4m so với mực nước biển tùy từng đoạn. Kênh Vĩnh Tế là tuyến thủy lộ, tuyến kênh biên giới đặc biệt quan trọng mở mang vùng đất Tây Nam Bộ mang tầm vóc của một công trình chiến lược nhất thế kỷ 19 hào lũy đất phương Nam, khẳng định chủ quyền lãnh thổ, mở mang vùng đất mới.
Kênh Võ Văn Kiệt (kênh T5) dài 48km, rộng 30-36m và sâu 3m, thông kênh Vĩnh Tế ở Tri Tôn, An Giang, chảy qua Hòn Đất, Kiên Giang rồi đổ ra vịnh Thái Lan. Đây là một cụm “công trình thủy lợi cấp bách” mang dấn ấn Thủ tướng Võ Văn Kiệt, “bác Sáu Dân” nhằm “thoát lũ biển Tây” ngọt hóa vùng đất năng lác hoang hóa sình lầy của hai tỉnh An Giang, Kiên Giang biến thành đất sản xuất nông nghiệp…. Ông Bảy Nhị đã chia sẻ: “Thời điểm trước năm 1997 (trước khi tuyến kênh T5 hoàn thành) cứ dạo lũ về là các cấp, các ngành lo ngai ngái. Lũ về là những vùng trũng, đầu nguồn lại phải lo cảnh sơ tán dân, cứu đói, cắt lúa chạy lũ. Từ khi hệ thống kênh mương cấp 2, 3 hoàn thành theo Quyết định 99/TTg như: Nạo vét kênh Tám Ngàn, H7, các kênh 5, 13, 16… , phần nào lũ đã khống chế. Tuy vậy, những vùng như Tứ giác Long Xuyên, cảnh lũ trắng đồng vẫn là nỗi lo lớn, buộc những người lãnh đạo phải bàn quyết sách tháo gỡ vấn đề”. “Tứ giác Long Xuyên, vùng đất trũng phèn có diện tích gần 500.000 ha đất nông nghiệp vẫn còn hoang hóa nhiễm phèn, trong đó An Giang chiếm diện tích khá lớn chính là vùng đất chúng ta bỏ quên bấy lâu nay chưa khai phá. Đất không phụ người, chỉ sợ người phụ đất mà thôi”.
Thủ tướng Võ Văn Kiệt trong chuyến về thăm và làm việc tại An Giang trong hai ngày 21, 22-7-1996, đã đi thị sát cánh đồng Lạc Quới, kênh mương nội đồng vùng Tứ giác Long Xuyên. Thủ tướng đã chỉ thị: “Đề án quy hoạch thủy lợi vùng Tứ giác Long Xuyên cần nhanh chóng thực hiện vì nó sẽ giúp khu vực sử dụng được nguồn phù sa vô giá của lũ sông Cửu Long, chính nó sẽ đảm đương việc thoát lũ, rửa phèn khai phá đất nông nghiệp cho vùng Tứ giác Long Xuyên. Các Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Thủy lợi, Bộ Khoa học-Công nghệ và Môi trường cần nhanh chóng phối hợp lập kế hoạch xây dựng tuyến kênh thoát lũ ra Vịnh Thái Lan“.
Sau việc đào xong kênh T6, đưa nước từ Vĩnh Tế qua kênh Mới về biển Hà Tiên vào năm 1996. Đầu năm 1997, công trình chống lũ cấp bách kênh T5 – Tuần Thống, Luỳnh Quỳnh, Tân Thành – Lò Gạch, tuyến đê bờ nam Vĩnh Tế; hệ thống cống ngăn, xả lũ và 2 đập điều chỉnh lũ Tha La, Trà Sư; các cống ngăn mặn giữ ngọt thoát lũ ven biển… đã được cấp bách xây dựng theo Quyết định 159/TTg của Thủ tướng Chính phủ. Hàng loạt công trình thủy lợi phục vụ dẫn ngọt, tiêu chua, tiêu úng, xổ phèn, ngăn mặn và hàng vạn cây số bờ bao bảo vệ lúa hè thu được xây dựng đã góp phần quyết định vào việc phát triển nông nghiệp và các ngành kinh tế khác trong vùng. Trong đó, kênh T5 có ý nghĩa chiến lược, được khởi công giữa quý I đến cuối tháng 8-1997 là hoàn thành. Đây là công trình thủy lợi hoàn thành nhanh nhất trong lịch sử đào kênh ở Việt Nam. Ngày mùng 8 Tết Mậu Dần 1998 (nhằm ngày 4-2-1998), 50.000 ha đất hai tỉnh An Giang, Kiên Giang được ngọt hóa. Ngày mùng 9 Tết Mậu Dần khởi công nạo vét kênh Vĩnh Tế, điều tiết lũ cùng dòng Võ Văn Kiệt thoát lũ ra biển Tây. Chọn bờ Nam song song tuyến kênh hình thành những tuyến dân cư vượt lũ trên toàn tuyến. Đây là đại công trình thủy lợi gồm hệ thống các kênh T4, T5, T6 thoát lũ, dẫn ngọt, tháo chua, rửa phèn, khai hoang, phục hóa hàng trăm ngàn ha đất .
Những năm sau, cụm từ “lũ đẹp” bắt đầu xuất hiện và định nghĩa “sống chung với lũ “cũng từ đó hình thành, Từ một công trình thủy lợi đã mở mang diện tích sản xuất, giảm thiểu ngập lũ. Ổn định vững chắc hai vụ sản xuất đông xuân và hè thu; giảm thấp mức lũ chính vụ, tạo điều kiện phát triển sản xuất, giảm chi phí xây dựng các công trình hạ tầng cơ sở, giảm thiệt hại về người và của mùa lũ về. Từ đó, tạo thế đưa nước ngọt giàu phù sa từ sông Hậu vào kết hợp ngăn mặn, giữ ngọt, tháo chua rửa phèn, cải tạo đất sản xuất nông nghiệp, cải tạo môi trường nước, vệ sinh đồng ruộng phục vụ phát triển sản xuất, sinh hoạt của nhân dân trong vùng. Tất cả đã được kênh T5 đảm trách hiệu quả.
Tri Tôn, Tịnh Biên là những huyện khó khăn của tỉnh An Giang. Hệ thống thủy lợi nội đồng nối với “Kênh ông Kiệt” đã mang nguồn nước ngọt về ruộng. Bạn xem chùm ảnh cũ trong blog của tôi để rõ hơn cách làm. Giống lúa KĐM105 ngon cơm sinh trưởng phát triển tốt trên vùng đất hoang hóa được tưới đã mang lại niềm vui cho người nghèo. Các giống cây màu rau đậu trồng vụ khô sau khi thu hoạch lúa đã giúp nâng cao đời sống người dân. Khoa học kỹ thuật bám dân bám ruộng âm thầm nhưng hiệu quả làm đổi thay vùng Tri Tôn Tịnh Biên. Tôi đã có tám năm gắn bó với mảnh đất này. Đi đâu người dân cũng khen ông sáu Kiệt và ông bảy Nhị. Kênh ông Kiệt giữa lòng dân. Vùng đất hoang hóa sình lầy nay đã thành vựa lúa. Tỉnh An Giang nay đã thành vùng lúa sản lượng cao nhất nước. Tôi sang giảng dạy ở Campuchia đối diện với An Giang Kiên Giang ngắm nhìn các giống lúa OM các giống sắn KM sâu đậm trong lòng dân mà thương về những con người trượng nghĩa đất Nam Bộ, hiểu sâu xa thêm bài học an sinh xã hội và ổn định kinh tế. Ăn học chăm sóc sức khỏe chất lượng cuộc sống của người dân lao động vẫn là những câu hỏi và bài học lớn ám ảnh ở những vùng này
Giống sắn ưu tú năng suất bột cao ngắn ngày đáp ứng yêu cầu cấp thiết sản xuất trong đề tài này là KM98-1, nay đã được bảo tồn và phát triển. Giống sắn KM440 tuyển chọn từ xử lý đột biến lý học 20.000 hạt sắn KM94 chọn lọc khô và ướt được ươm nẩy mầm và chiếu xạ đột biến bằng tia Gam ma nguồn Co 60 nay được trồng ở Tây Ninh, Đồng Nai và Phú Yên có liên quan hình ảnh và câu chuyên này.
ÔNG BẢYÔNG KIỆT TRONG LÒNG TÔI
Bảy Nhị kênh ông Kiệt trong lòng tôi (ảnh tác giả chọn giống mì mới năng suất cao ngắn ngày ở vùng đất Tri Tôn,Tịnh Biên). Ông Bảy ông Kiệt đã lưu ấn tượng sâu sắc và sự tin cậy quý mến trong lòng tôi. “Kênh ông Kiệt” và vùng đất Nam Bộ đã là nôi nuôi dưỡng phát triển của các giống mì ngắn ngày KM98-1, KM140 đươc chọn tạo để đáp ứng nhu cầu né lũ nay đã phát triển rộng khắp toàn quốc.
Giống sắn KM140 đã nhận giải Nhất VIFOTECH Hội thi sáng tạo c kỹ thuật toàn quốc lần thứ 10. An Giang là nôi ứng dụng đầu tiên của Việt Nam và thế giới đối với những dòng khoai mì đột biến theo hướng ngắn ngày. Chúng tôi những người tạo chọn giống củ mì thật biết ơn kênh ông Kiệt và ông Bảy Nhị. Không có ông Bảy Nhị và kênh ông Kiệt thì củ mì ngắn ngày năng suất cao của tôi chẳng thể nào ra đời và phát triển nhanh như vậy.
Đề tài chọn tạo giống sắn ngắn ngày “né lũ” giúp tôi tiếp cận vùng đất hoang hóa, thấu hiểu những khổ cực của người dân nghèo vùng lũ và ấn tượng sâu sắc trong lòng tôi. Sau này, khi giới thiệu với các chuyên gia Nhật Bản, như giáo sư tiến sĩ Motoaki Seki – RIKEN PSC và tiến sĩ Hirano – RIKEN Nishina về đề tài “Ứng dụng đột biến lý học và nuôi cấy mô để tạo giống khoai mì có thời gian sinh trưởng ngắn, năng suất củ tươi và hàm lượng tinh bột cao phù hợp với việc né lũ của tỉnh An Giang” thực hiện năm 2002-2004 tại vùng đất hoang hóa Tri Tôn Tịnh Biên. Họ đều ngạc nhiên thích thú vì Việt Nam đã triển khai hướng nghiên cứu ứng dụng đột biến lý học để tạo giống sắn ngắn ngày để luân canh lúa sắn trên vùng đất hoang hóa Tri Tôn Tịnh Biên An Giang từ rất sớm.
Câu chuyện cây sắn “né lũ” mà tôi vừa kể trên cũng tương tự như câu chuyện Giống khoai lang Việt Nam HL518 và HL491. Những kết nối nghiên cứu và sản xuất đã giúp cơ hội cho các giống khoai lang HL518 (Nhật đỏ) chất lượng cao, vỏ đỏ, ruột cam; giống khoai lang HL491 (Nhật tím) vỏ đỏ ruột tím, giống khoai lang Kokey 14 (Nhật vàng) … phổ biến rộng rãi trong sản xuất mang lại bội thu cho nông dân như Kỳ tích từ cây lúa, củ khoai ở Hòn Ðất Kiên Giang với doanh nghiệp của ông Đỗ Quý Hạo trồng khoai lang rất thành công. Đất và Người phương Nam là nôi nuôi dưỡng hột lúa, củ khoai, giống mì mới bén rễ và sinh sôi.
Tôi là người con xa xứ của vùng đất nghèo miền Trung. Gia đình chúng tôi đi như dòng sông tụ về phương Nam và nay đã gắn bó nhiều năm với đất lành Nam Bộ. Tôi cùng đồng nghiệp đã chọn tạo được nhiều giống tốt cho mảnh đất này. Đó là các giống sắn cao sản KM419, KM94, KM140, KM98-5, KM98-1, KM937-26, KM60, KM23, KM24, KM20; các giống lúa KĐM 105, GSR, KĐM, giống ngô VN25-99, giống đậu nành HL92, HL203, giống lạc HL25, giống đậu xanh HL89-E3, HL115, giống đậu rồng Bình Minh Chim Bu Long Khánh, giống khoai lang HL518 (Nhật đỏ), HL491 (Nhật tím), Hoàng Long, Chiêm Dâu. Biết ơn người mở đất và những con kênh, lòng tôi thật cảm phục, yêu thương.
Ngày mất của ông Sáu, tôi chép lại bài thơ và phóng sự ảnh như là nén hương tưởng nhớ. Bài viết này tiếp loạt bài CON ĐƯỜNG LÚA GẠO VIỆT NAM. Ngày sinh của ông Sáu, tôi bồi hồi bổ sung thêm và hoàn chỉnh dần.
Kênh ông Kiệt giữa lòng dân.
Hoàng Kim
Những hình ảnh không quên
Tri Tôn Tịnh Biên là những huyện khó khăn cuả tỉnh An Giang
Hệ thống thủy lợi nội đồng nối với “Kênh ông Kiệt” đã mang nước ngọt về ruộng
Giống lúa KĐM 105 ngon cơm sinh trưởng phát triển tốt trên vùng đất hoang hóa được tưới đã mang lại niềm vui cho nhiều người dân nghèo.
Các giống mì, bắp, rau, đậu trồng vụ khô sau khi thu hoạch lúa KĐM105<a
Khoa học kỹ thuật bám dân bám ruộng âm thầm nhưng hiệu quả làm đổi thay vùng Tri Tôn Tịnh Biên
“Kênh ông Kiệt” và vùng đất An Giang cũng là nôi nuôi dưỡng phát triển của các giống mì ngắn ngày KM98-1, KM140 đươc chọn tạo để đáp ứng nhu cầu né lũ nay đã phát triển rộng khắp toàn quốc (ảnh Thầy Lê Minh Tùng, Hiệu trưởng Trường Đại học An Giang, Phó Chủ tịch tỉnh An Giang với giống mì KM98-1).
Gạo Việt chất lượng và thương hiệu tôi tâm đắc nhất yếu tố CON NGƯỜI là quyết định trong sáu yếu tố chìa khóa của bảo tồn và phát triển 6M gồm Con người (Man Power), Vật liệu mới Công nghệ mới (Materials) Thị trường (Market), Quản lý Chính sách (Management), Cách làm (Method) Nguồn vốn (Money). Tôi đồng tình với ý kiến ” Nhà nước cần đóng vai trò kiến tạo kết nối để nông dân sản xuất hiệu quả trong chuỗi cung ứng thị trường :lúa gạo, trái cây, thực phẩm .v.v… ” phát triển hài hòa bền vững ba trụ cột tăng trưởng kinh tế, bảo vệ môi trường. thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội”.
Hoang Kim, K. Kawano, Tran Hong Uy, Tran Ngoc Quyen, Vo Van Tuan and Tran Cong Khanh.1999. Result of selection KM98-1 cassava variety. Recognition document report of KM98-1 variety. Scientific Conference of Agriculture and Rural Development, held in Da Lat. July 29-31, 1999. 29 p.
Hoang Kim, K. Kawano, Pham Van Bien, Tran Ngoc Ngoan, Tran Ngoc Quyen and Trinh Phuong Loan. 2001. Cassava breeding and varietal dissemination in Vietnam from 1975 to 2000. In: R.H. Howeler and S.L. Tan (Eds.). Cassava’s Potential in the 21st Century: Present Situation and Future Research and Development Needs. Proc. 6th Regional Workshop, held in Ho Chi Minh city, Vietnam. Feb. 21-25, 2000. pp. 147-160. http://danforthcenter.org/iltab/cassavanet
Hoang Kim, Pham Van Bien and R. Howeler 2003. Status of cassava in Vietnam: Implications for future research and development. In: A review of cassava in Asia with country case studies on Thailand and Viet Nam. FAO-IFAD-CIAT-CIRAD-IITA-NRI. Proc. Validation Forum on theGlobal Cassava Development Strategy, held in FAO, Rome, Italy. April 26-28, 2000. Vol/3.Rome, Italy. pp. 103-184 http://www.globalcassavastrategy.net
Hoang Kim, Tran Ngoc Quyen, Nguyen Thi Thuy, Vo Van Tuan, Tran Cong Khanh, Nguyen Thi Sam, Truong Van Ho, Nguyen Thanh Binh, Nguyen Dang Mai, Luong Thi Quyet, Hoang Thi Hien, K. Kawano, R. Howeler, P. Vanderzaag, E. Chujoy, Il Gin Mok, Zhang Dapheng and YehFang Ten. 2006a. Final Report, Breeding of Cassava and Sweet Potatoes Suitable for Agroecological Regions of South Vietnam (1981-2006). Institute of Agricultural Sciences for Southern Vietnam, Proc. 90th Establishment Anniversary (1925-2015).
Hoang Kim, Pham Van Bien, R. Howeler, H. Ceballos, Joel J. Wang, Tran Ngoc Ngoan, Tran Cong Khanh, Nguyen Huu Hy, Nguyen Thi Thuy, Tran Ngoc Quyen, Vo Van Tuan, Trinh Phuong Loan, Nguyen Trong Hien, Nguyen Thi Sam, Tran Thi Dung, Tran Van Minh, Dao Huy Chien,Nguyen Thi Cach, Nguyen Thi Bong, Nguyen Viet Hung, Le Van Luan, Ngo Vi Nghia, Tran Quang Phuoc and Nguyen Xuan Thuong. 2006b. Cassava Development Project Summary (2001-2005). In: Institute of Agricultural Sciences for Southern Vietnam, Proc. 90th Establishment Anniversary (1925-2015).
Hoang Kim, Nguyen Van Bo, Hoang Long, Nguyen Trong Hien, H. Ceballos and R. Howeler. 2010.Current situation of cassava in Vietnam. In: R.H. Howeler (Ed.). A New Future for Cassava in Asia: Its Use as Food, Feed and Fuel to Benefit the Poor. Proc. 8th Regional Workshop, held in Vientiane, Lao PDR. Oct 20-24, 2008. pp. 100-112.
Hoang Kim, Nguyen Thi Truc Mai, Nguyen Bach Mai, Hoang Long, Tran Ngoc Ngoan, Le Huy Ham, R. Howeler and M. Ishitani. 2014a. Cassava in Vietnam: Save and Grow. Recent progress of sustainable cultivation techniques for cassava in Vietnam. In: Intern. Symp. “CollaborationBetween Japan and Vietnam for the Sustainable Future – Plant Science, Agriculture and Biorefinery”, held in Hanoi, Vietnam. Dec 8, 2014.
Hoang Kim, Tran Ngoc Ngoan, Nguyen Thi Truc Mai, Vo Van Quang, Nguyen Bach Mai, Nguyen Thi Le Dung, Nguyen Phuong, Hoang Long, Nguyen Minh Cuong, Dao Trong Tuan, Tran Cong Khanh, Nguyen Minh Hieu, Nguyen Van Bo, Nguyen Thi Cach, Nguyen Trong Hien, Le Huy Ham, H. Ceballos and M. Ishitani. (2014, 2016). New variety KM419. Recogition Report of KM419 variety, the Ministry of Agriculture and Rural Development, National Council of Plant Varieties, Hanoi. 89p. MARD recognition for trial production in Decision No. 85/QD- 85/ QĐ-BNN-TT Jan 13, 2016.
Hoang Long, Nguyen Thi Truc Mai, Nguyen Bach Mai, Hoang Kim, M. Ishitani and R. Howeler. 2014. Cassava in Vietnam: production and research; an overview. Paper presented at Asia Cassava Research Workshop, hosted by ILCMB- CIAT-VAAS/ AGI, in Hanoi, Vietnam. Nov3, 2014. 15 p.
500 NĂM NÔNG NGHIỆP BRAZIL Hoàng Kim
Tôi kể về một thoáng Brazil đất nước con người và 500 năm nông nghiệp Brazil. Các chính khách chuyên gia hàng đầu Brazil đã soi lại 500 năm nông nghiệp Brazil trong sự hòa quyện với lịch sử đất nước và thương mại. Họ đã lần tìm trong những biến động của lịch sử vùng đất với các yếu tố nguồn lực căn bản Đất đai và Thức ăn (Land and Food) để bảo tồn và phát triển. 500 năm nông nghiệp Brazil là bài học lớn cho Nông Nghiệp Việt Nam. Tôi xin được chia sẻ điều này với quý thầy bạn nhân đối chiếu so sánh Gạo Việt và thương hiệu; Trường tôi nôi yêu thương; IAS đường tới trăm năm; Viện Lúa Sao Thần Nông, Việt Nam con đường xanhNông nghiệp Việt trăm năm;
ÔNG BẢY NHỊ AN GIANG Hoàng Kim
Ông Nguyễn Minh Nhị, bên phải, cùng anh Ngô Vi Nghĩa với giống mì ngắn ngày trên ruộng tăng vụ (ảnh) là Chuyện cổ tích người lớn. Ông Nguyễn Minh Nhị, thường gọi là ông Bảy Nhị nguyên Chủ tịch tỉnh rồi Bí thư tỉnh An Giang. Ông sống tử tế và đã nghỉ hưu, Tôi lưu câu chuyện Kênh ông Kiệt giữa lòng dân và Bảy Nhị kênh ông Kiệt và tôi với mỗi năm ngày này đều quay lại. Có những giá trị cần chiêm nghiệm thử thách “ủ ngấu” thời gian. Bạn xuống An Giang hỏi ông Bảy Nhị cựu Chủ tịch tỉnh ai cũng biết. Tôi gọi trỏng tên ông dẫu biết là không phải nhưng với tôi thì ông tuy còn khỏe và đang sống sờ sờ nhưng ông đã là người lịch sử, tựa như Mạc Cữu, Mạc Thiên Tích xưa, oai chấn Hà Tiên, góp sức mộ dân mở cõi, làm phên dậu đất phương Nam của dân tộc Việt. Ông Bảy là nhân vật lịch sử trong lòng tôi.
Tôi có một kỷ niệm quí rất khó quên. Ông Bảy Nhị ba lần lên Trung tâm Nghiên cứu Thực nghiệm Nông nghiệp Hưng Lộc tìm tôi khi đó làm Giám đốc Trung tâm. Ông tham khảo ý kiến chuyển đổi cơ cấu cây trồng, khai hoang phục hóa hiệu quả cho vùng đất phèn mặn ngập năn lác của hai huyện Tri Tôn và Tịnh Biên. Ông đồng tình với tôi việc ứng dụng canh tác giống lúa thơm Khao Dawk Mali 105 (KDM 105) nhưng trồng cây gì để luân canh với lúa hiệu quả nhất trong các tháng mùa khô thì đó vẫn là bài toán khó?
Mờ sớm một ngày đầu tháng mười một. Trời se lạnh. Nhà tôi có chim về làm tổ. Buổi khuya, tôi mơ hồ nghe chim khách líu ríu lạ trên cây me góc vườn nên thức dậy. Tôi bước ra sân thì thấy một chiếc xe ô tô đậu và cậu lái xe đang ngủ nướng. Khi tôi ra, cậu lái xe thức dậy nói: “Chú Bảy Nhị, chủ tịch tỉnh An Giang lên thăm anh nhờ tuyển chọn giống mì ngắn ngày để giúp An Giang né lũ. Đợt trước chú đã đi cùng chú Tùng (là ông Lê Minh Tùng sau này làm Phó Chủ Tịch Tỉnh, Hiệu trưởng Trường Đại học An Giang) lên làm việc với anh rồi. Nay mì đã được năm tháng tuổi, chú muốn lên coi kỹ ở trên ruộng xem củ mì to bằng ngần nào. Chú Bảy giờ hành chính bận họp nên thăm sớm. Đến nhà anh, thấy sớm quá chú ngại nên ra thẳng ngoài đồng rồi, nhờ tui đón anh ra sau”.
Tôi giật mình nghĩ: “Cái ông này không thể xạo được. Mình nói là có giống mì bảy tháng. Năm tháng ông lên kiểm tra đồng ruộng nhổ thử, thiệt chu đáo. Ông thật biết cách kiểm tra sâu sát”. Chợt dưng tôi nhớ đến “Một lối đi riêng” của Bác Hồ trong Hải Như “Thơ viết về Người”: “Chúng ta thích đón đưa/ Bác Hồ không thích/ Đến thăm chúng ta Bác Hồ thường “đột kích”/ Chữ “đột kích” vui này Người nói lại cùng ta/ Và đường quen thuộc/ Bác chẳng đi đâu/ Đường quen thuộc thường xa/ Bác hiện đến bằng lối tự tìm ra:/ Ngắn nhất/ Bác không muốn giẫm lên mọi đường mòn có sẵn/ Khi đích đã nhắm rồi/ Người luôn luôn tạo cho mình:/ Một lối đi riêng”. Sau này hiếm có đồng chí lãnh đạo nào học được cách làm việc như Bác Hồ. Họ đi đâu đều thường xếp lịch hành chính và đưa đón đàng hoàng, chẳng cần một lối đi riêng. Tôi thầm chợt cảm phục ông Bảy.
Ông Nguyễn Minh Nhị có những bài viết hay “Giá lúa nằm ngoài hạt gạo“, “Một hạt lúa cõng bao nhiêu phí?” “Thu mua tạm trữ lúa gạo, nông dân chưa được hưởng lợi …”. Tôi trầm tư trước câu hỏi: Làm thế nào để tháo gỡ “những vật cản không dễ vượt qua”. Tôi tâm đắc với lời Bác Giáp suốt đời học Bác Hồ “dĩ công vi thượng” việc công trên hết. Câu trả lời thật rõ ràng là: Khi Nhân Dân, Tổ Quốc trên hết, thì bất cứ giải pháp nào có lợi cho Dân cho Nước cũng đều nghiên cứu vận dụng được cả, không từ một giải pháp nào. Thực chất đó là phép quyền biến “dĩ bất biến ứng vạn biến”. Đó là trích đoạn tôi ghi chép về ông Bảy trong bài “Bảy Nhị kênh ông Kiệt và tôi”
BẢY NHỊ TÔI ĐÃ QUA
Ông Bảy là con người thực tiễn. Ông đã nghỉ hưu, nay viết hồi ký “Tôi đã qua”. Ông kể lại những mẫu chuyện thực của đời mình. Sách “Tôi đã qua” gồm hai tập với 675 trang. Lối kể chuyện của ông là tôn trọng sự thật, sát thực tế và tâm huyết. Tôi háo hức đọc và chia sẻ đôi lời cảm nhận với bạn, để mong cùng bạn từ trong chuyện đời thường rút tỉa được đôi điều về bài học cuộc sống.
Tôi bâng khuâng nhớ chuyệnxưa Đào Duy Từ còn mãi mang tâm nguyện và chí hướng lớn lao như sự thổ lộ của vua Trần Thái Tông “Nếu chỉ để lời nói suông cho đời sau, sao bằng đem thân mình đảm nhận trọng trách cho thiên hạ trước đã”. Di sản của vua Trần Thái Tông và Đào Duy Từ đều không phải ở trước tác mà là triều đại. Họ đều là những nhà thực tiễn sáng suốt, trọng thực tiễn hơn lý thuyết và có tầm nhìn sâu rộng lạ thường, ngay trong trước tác cũng rất chú trọng gắn thực tiễn với lý luận. Họ đều đặc biệt chú trọng thực tiễn mà không theo lối khoa trương, hủ nho của người đương thời.
Ôn cũ nói mới để không phải so sánh những vĩ nhân lỗi lạc kia với ông Bảy mà là để thấm thía lời ông Bảy, cũng là một mẫu người rất coi trọng thực tiễn : “Người dân hỏi chính khách làm gì cho dân nhờ chớ không hỏi hàng ngày ông làm gì? Cụ Đồ Chiểu có cho Tiểu Đồng nói trong thơ Lục Vân Tiên rất hay: “Đồng rằng trong túi vắng hoe/ Bởi tin nên mắc bởi nghe nên lầm” ! Ông Bảy nói vậy vì con đường đi lên của nông nghiệp Việt Nam thật vất vả và nhọc nhằn quá !
Nông nghiệp nông dân nông thôn Việt Nam sau khoán 10, sau nghị quyết 100, sau đổi mới, sau liên kết nông nghiệp 10 năm, nay tái cơ cấu sản xuất nông nghiệp, … thực tế đời sống người nông dân đã tăng lên bao nhiêu? tăng nhiều hay tăng ít ? có ổn định và bền vững không? đã thật sự công bằng chưa? Hỏi xem thu nhập thực tế của nông dân túi họ có bao nhiêu tiền thì biết. Làm gì để chất lượng cuộc sống nông thôn tốt hơn?
Ông Bảy làm Chủ tịch Tỉnh, sau đó làm Bí thư Tỉnh ủy An Giang là một tỉnh nông nghiệp. Vất vả đi lên từ hột lúa, con cá, ông thấm thía thật nhiều về sự liên kết nông nghiệp, đưa hiện đại hóa, công nghiệp hóa vào nông nghiệp, nông thôn. Ông đã từng tìm tòi và trả giá cho những bứt phá đúng nhưng chưa hợp thời như chuyện “Hai dự án tranh cãi”. Dự án thứ nhất là trồng bắp thu trái non, trồng đậu nành rau và xây dựng nhà máy đông lạnh rau quả xuất khẩu. Dự án thứ hai là nhà máy tinh bột khoai mì.
Hơn 20 năm sau nhìn lại, ông viết: “Hai dự án đầy tranh cãi mà Thủ tướng Võ Văn Kiệt, Phó Thủ tướng Nguyễn Công Tạn, Chủ tịch Nước Trần Đức Lương,… từng đến thăm mấy lần và khen ghê lắm. Dự án thứ nhất nay lãi hằng năm cũng vài tỷ rồi cả vài chục tỷ đồng; có việc làm ổn định cho gần một ngàn công nhân (không kể lao động ngoài nhà máy). Dự án thứ hai, dù cho nhà máy bán đi nhưng An Giang được 9.000 ha đất từ Kiên Giang được Thủ tướng Chính phủ điều chỉnh cho, từ hoang hoá và phèn nặng trở thành đất sản xuất 2-3 vụ/năm, lập thêm hai xã mới với gần một vạn dân. Đây là mồ hôi và cả nước mắt của hàng vạn con người. Nhưng không có ai tranh cãi. Chỉ có tôi và những người không đổ mồ hôi mới tranh cãi mà thôi.”
Ông vui buồn trăn trở mà nói vậy thôi. An Giang nay đã vươn lên đứng đầu toàn quốc về sản lượng và xuất khẩu lúa, cá nhưng con đường nhọc nhằn của nghề nông, tâm huyết của một kẻ sĩ, luôn cánh cánh trong lòng câu hỏi: “Người dân hỏi chính khách làm gì cho dân nhờ chớ không hỏi hàng ngày ông làm gì?”. Tìm được câu trả lời vẹn toàn. Thật khó lắm thay!
Tôi kính trọng những người thực tiễn, tâm huyết, biết thao thức vận dụng học để làm trong thực tế cụ thể của chính mình, biến những điều học ở trường, học ở trong sách vở, học lẫn nhau và học ở dân để làm được điều gì đó thiết thực cụ thể cho dân, cho nước, cho cộng động xã hội gia đình, và cho chính bản thân mình.
Ông Bảy mail cho tôi những trang hồi ký chỉ để đọc giữa một ít người trong gia đình và thân quen. Ông vui khi đọc bài viết Kênh ông Kiệt giữa lòng dân và nhận xét: “Hoàng Kim viết lúc mình đã nghĩ hưu nên cả Hoàng Kim cũng không bị ai hiểu là “tâng kẻ có chức”. Tôi thì ám ảnh bởi những điều trong đời mình, chính đời mình mắt thấy tai nghe, nếu mà tôi không lưu lại, không kể lại được thì thật khó có thể trao truyền lại những bài học thực tiễn cho người thân và các bạn trẻ nên tôi lựa chọn để kể.
BẢY NHỊ VĂN VÀ ĐỜI
Ông Bảy Nhị An Giang viết: “Hôm nay, mồng 1 tháng 5 năm 2015, kỷ niệm 40 năm ngày tôi “Đến bờ mong đợi” tại Cây số 5 Long Sơn – Tân Châu và cũng là kỷ niệm ngày sanh cháu ngoại đầu lòng – Nguyễn Minh Tú Anh đã tròn 10 tuổi. Tôi vừa tự in xong tập hồi ký “TÔI ĐÃ QUA” gồm hai tập 675 trang như là câu chuyện về “nguồn cội” của hai họ Nguyễn – Đặng trên vùng đất khai hoang – mở cỏi và cũng là “lượt qua” cuộc đời tôi đã trãi.
Tôi đang vào tuổi 70 không tư duy, không suy nghĩ ra cái gì hay và không làm được việc gì mới. Nói như Nhà văn Nguyễn Trọng Tín năm tôi 60 tuổi về hưu: “Anh giờ như tằm chín chỉ còn ‘nhả ra’ chớ không còn ‘thâu vô’ được nữa”.
Đúng vậy! Mười năm qua, vợ chồng tôi chỉ tiếp tục lao động tạo ra của cải, giải quyết việc làm cho 60 lao động, lập ra trang trại làm lúa, nuôi cá, trồng rừng và lập cơ sở nuôi dạy trẻ… Những việc làm ấy tưởng như mới, nhưng thực ra cũng chỉ là tiếp tục cái vốn có của gia đình và bản thân thân tích lũy được. Nếu nói về cương vị xã hội thì vợ chồng tôi từ quan hệ “một chiều” là “người đày tớ”, hay “người lãnh đạo” tuy nhỏ nhưng là trách nhiệm tập thể, còn bây giờ thì chuyển sang quan hệ “hai chiều” nghĩa là vừa “làm chủ” vừa “làm thuê” cho dù quy mô không lớn nhưng phải tự chịu trách nhiệm. Một khi con tầm còn tơ là còn phải nhả vậy thôi!
Mười năm làm những công việc ấy; đồng thời nhớ lại và suy nghĩ dài theo đường đời mà “Tôi đã qua” ngót 60 năm, từ khi tôi chập chững vào đời,. Ngoài những con người, sự việc đã ghi trong hồi ký, mấy hôm nay tôi lục bài vỡ, tư liệu cũ sắp xếp lại cho ngăn nấp…Tôi như sống lại một thời sôi động với những việc làm vẫn còn tên gọi mà nay chỉ còn là kỷ niệm! Tất cả đều đã cũ, tôi gom lại, hệ thống, phân loại và in thành tập. Tôi đặt cho tập sách mới nầy cái tên “CÒN LÀ KỶ NIỆM”, hay Tập 3 của hồi ký “Tôi đã qua”.
“Còn là kỷ niệm” có mấy phần: Phần I – Những người tôi nhớ. Phần II – Những lời tôi nghe. Phần III – Những bài tôi viết trong 10 năm đầu nghĩ hưu. Và phần kết. Nguyễn Minh Nhị
(mục này đăng theo đúng bản gốc của email tác giả gửi).
CHUYỆN CỔ TÍCH NGƯỜI LỚN
Sự thật và giá trị nhân văn lắng đọng. Sự thật tốt hơn ngàn lời nói. Đừng phán xét vội vã một ai Nên đánh giá thực tiễn. Tôi tháng năm nhớ lại, năm 2018 xong tâm nguyện giúp hai con học nghề, đã thành tâm đi bộ Lên Thái Sơn hướng Phật, Trung Quốc một suy ngẫm. Ngẫm lời thơ và đánh giá của Bác.
Sâu sắc thay thơ “Thăm Khúc Phụ/ Hồ Chí Minh/ Mười chín tháng năm thăm Khúc Phụ,/ Thông già, miếu cổ thảy lu mờ./ Uy quyền họ Khổng giờ đâu nhỉ?/ Bia cũ còn soi chút nắng tà”. “Nếu Khổng Tử sống ở thời đại chúng ta và nếu ông khăng khăng giữ những quan điểm cũ thì ông sẽ trở thành phần tử phản cách mạng. Chính phủ Trung Quốc đã làm mất đi một thể chế cũ trái với dân chủ. Còn những người An Nam chúng ta hãy tự hoàn thiện mình, về mặt tinh thần bằng đọc các tác phẩm của Khổng Tử và về mặt cách mạng thì cần đọc các tác phẩm của Lênin”. “Chúa Giêsu dạy: Đạo đức là bác ái. Phật Thích Ca dạy: Đạo đức là từ bi. Khổng Tử dạy: Đạo đức là nhân nghĩa” (Báo Nhân Dân ngày 14/6/1951).
Sự tu dưỡng đạo đức cá nhân và tự nguyện thực hành trọn đời của Hồ Chí Minh (và theo Hồ Chí Minh) về “cần kiệm liêm chính, chí công vô tư” là có noi theo Khổng Tử. Các đồng sự, học trò, đồng chí, đồng tâm, của thời đại Hồ Chí Minh bao nhiêu người thực lòng, lặng lẽ không phô trương, học để làm, học bởi làm (Learning by Doing) theo tinh thần ấy?
Nguyễn Du trăng huyền thoại NGUYỄN DU NIÊN BIỂU LUẬN Hoàng Kim 2
Mười lăm năm tuổi thơ (1766-1780)
Mười lăm năm lưu lạc (1781-1796)
Thời Hồng Sơn Liệp Hộ (1797-1802)
Bắc Hành và Truyện Kiều (1802-1820)
Cuộc đời Nguyễn Du có hai thời: Nguyễn Du thời Tây Sơn (1766 -1802) và Nguyễn Du thời Nhà Nguyễn (1892-1820). Nguyễn Du thời Tây Sơn có ba giai đoạn: Mười lăm năm tuổi thơ (1766-1780); Mười lăm năm lưu lạc (1781-1796); và, Thời Hồng Sơn Liệp Hộ (1797-1802).. Nguyễn Du thời Nhà Nguyễn có tiêu điểm chính là Bắc Hành và Truyện Kiều.
Vị thiền sư Linh Nhạc Phật Ý tại Tổ Đình ngôi chùa cổ Thủ Đức trong giấc mơ lạ “Nguyễn Du nửa đêm đọc lại” đã khuyên tôi lập “Nguyễn Du niên biểu luận” cuộc đời và thời thế Nguyễn Du để tìm hiểu về Người. Theo vị Thiền sư này thì dấu vết chứng cứ sự thật hàng năm của Nguyễn Du là chỉ dấu đáng tin cậy nhất về những sự kiện trọng yếu trong cuộc đời và thời thế của ông. Điều này chi phối quyết định và gợi ý sâu sắc nhất thế xuất xử của bình sinh hành trạng Nguyễn Du. Chúng ta muốn hiểu đúng sự thật huyền thoại về Nguyễn Du cần có những sự kiện chính yếu của thời thế đàng Trong và đàng Ngoài với các nước liên quan soi vào hệ quy chiếu lấy chính cuộc đời Nguyễn Du và gia tộc của ông làm trung tâm; Đó là dẫn liệu thông tin thực sự có ích để thấu hiểu chính xác ẩn ngữ Truyện Kiều, lịch sử, văn hóa, con người, bối cảnh hình thành kiệt tác”Thúy Kiều”. Để thuận lợi sự đọc Nguyễn Duniên biểu luận” mới quý bạn đọc xem lại Nguyễn Du tư liệu quý là bài 2 trong chùm chuyện khảo Nguyễn Du trăng huyền thoại của Hoàng Kim.
Nguyễn Duniên biểu luận là thời thế và cuộc đời Nguyễn Du theo từng năm của 54 năm. Bài này trích đăng hai năm của Nguyễn Du với hai sự kiện chính năm ấy: 1) Năm Nhâm Dần (1782), Nguyễn Du mười bảy tuổi. Gia tộc Nguyễn Du mạnh cỡ nào năm ấy “Chọc trời khuấy nước mặc dầu/ Dọc ngang nào biết trên đầu có ai” Truyện Kiều ẩn ngữ Từ Hải; 2) Năm Nhâm Tuất Nguyễn Du ba mươi bảy tuổi.Triều đại Tây Sơn chấm dứt. Nguyễn Du viết “Đi săn” khoảng cuối năm 1801 đầu năm 1802 “Kẻ đạt quan trường chí đỉnh mây, Còn ta vui thú với hươu nai. Cốt lòng thư thái không mong được, Không hại điều nhân diệt các loài.”
Năm Nhâm Dần (1782), Nguyễn Du mười bảy tuổi
Năm ấy, Trịnh Sâm mất, Kiêu binh phế Trịnh Cán, lập Trịnh Khải (Trịnh Tông) lên ngôi chúa. Hai anh của Nguyễn Du là Nguyễn Khản được làm Thượng thư bộ Lại, tước Toản Quận công, Nguyễn Điều là anh cùng cha khác mẹ của Nguyễn Du, làm Trấn thủ Sơn Tây. Tướng trấn nhậm Sơn Nam Thượng, Sơn Nam Hạ đều là học trò Nguyễn Nhiễm và đó cũng là đất tổ nghiệp của nhà Nguyễn Tiên Điền. Họ Nguyễn Tiên Điền và Nguyễn Du ý định dấy nghiệp ở Bắc Hà, tạo đất căn bản, lập thế chân vạc, tranh hùng với Nguyễn Huệ nhà Tây Sơn ở Thuận Hóa và Nguyễn Ánh ở đất Gia Định, kế lớn là dựng cờ phù Lê, liên thủ với vùng Nam Trung Quốc, vùng Nghệ Tĩnh và Trấn Ninh Vạn Tượng, giao kết kẻ sĩ, xây dựng lực lượng, trầm tĩnh theo chuyển biến thời cuộc để hành động.
Chọc trời khuấy nước mặc dầu
Dọc ngang nào biết trên đầu có ai
Trịnh Sâm vốn kiêu hãnh khi quân Trịnh lấy được Thuận Hóa, đã có ý định cướp ngôi nhà Lê, bèn sai quan thị lang Vũ Trần Thiệu đi cùng quan nội giám mang biểu sang tấu trình vua Thanh rằng con cháu nhà Lê không có ai đáng làm vua nữa. Nhưng, Vũ Trần Thiệu khi sang hồ Đồng Đình đã đem đốt tờ biểu rồi uống thuốc độc mà chết nên việc cầu phong bỏ không nói đến nữa. Trịnh Sâm say đắm Đặng Thị Huệ, trước khi chết để di chiếu phế con trưởng là Trịnh Khải lập con thứ là Trịnh Cán làm thế tử và giao Huy Quận Công Hoàng Đình Bảo (Tố Lý) làm phụ chính. Trịnh Cán ít tuổi, lắm bệnh không mấy người phục, nên xảy ra biến loạn. Tháng 9 năm 1782 Trịnh Sâm mất, Trịnh Khải mưu với quân tam phủ kéo đến vây phủ giết Hoàng Đình Bảo, bỏ Trịnh Cán và Đặng Thị Huệ, lập Trịnh Khải lên làm chúa, tức Đoan Nam Vương (Trịnh Khải là chúa giỏi vá con trưởng, Nguyễn Khản là anh cùng cha khác mẹ Nguyễn Du là thầy dạy Trịnh Khải).
Tháng 10 năm 1782, Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ đem hơn 100 chiến thuyền vào cửa Cần Giờ đánh nhau với quân Nguyễn Ánh ở Ngã Bảy. Thủy binh Tây Sơn tinh nhuệ và thiện chiến áp sát và dùng hỏa hổ tấn công. Quân Nguyễn Ánh mặc dù có người Pháp và người Bồ Đào Nha điều khiển tàu châu Âu bảo vệ vòng ngoài vẫn thua to. Cai cơ Mạn Hòe (Manuel) người Pháp chết tại trận. Nguyễn Ánh phải bỏ thành Sài Gòn chạy về Ba Giồng. Quận công Tống Phước Thiêm bị quân Đông Sơn giết chết. Nguyễn Ánh dẫn tàn quân lánh ra đảo Phú Quốc. Nguyễn Nhạc bình xong đất Gia Định, rút quân về Quy Nhơn, để hàng tướng Đông Sơn là Đỗ Nhàn Trập giữ Sài Gòn. Khi quân Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ về Quy Nhơn rồi, Chu Văn Tiếp đem quân từ Phú Yên về hợp với quân các đạo, đánh đuổi quân Tây Sơn đi, lấy lại thành Sài Gòn rồi đón Nguyễn Ánh về, sửa sang mọi việc để chống giữ với Tây Sơn.
(trích)
Năm Nhâm Tuất (1802), Nguyễn Du ba mươi bảy tuổi.
Mùa xuân năm 1802, quân nhà Nguyễn qua sông Gianh tiến đánh quân Tây Sơn, hạ được đồn Tâm Hiệu thuộc châu Bố Chính. Quân Tây Sơn tan vỡ, chạy về doanh Hà Trung trong hạt Kỳ Anh. Tháng 5 năm này, Nguyễn Ánh hạ chiếu đổi niên hiệu làm năm đầu niên hiệu Gia Long. Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng sau khi hạ được thành Quy Nhơn liền đem quân về đánh Phú Xuân. Khi Diệu đem quân ra khỏi địa giới Quy Nhơn thì bị tướng của nhà Nguyễn là Đắc Lộc hầu chặn lại. Quân của Trần Quang Diệu đánh phá nửa ngày nhưng không thể hạ được với vô số người chết và bị thương. Diệu đành đem quân theo đường núi vào Ai Lao, định ra Nghệ An. Được tin, Nguyễn Ánh lập tức cắt đặt các tướng, thống lĩnh các đạo quân thuỷ bộ, hẹn ngày kéo ra Bắc. Ngày 28 tháng 5, thủy quân của nhà Nguyễn tới cửa biển Đan Nhai thuộc Nghệ An, tiến đánh và phá được đồn Quần Mộc. Quân bộ cũng tiến đến phía nam sông Thanh Long rồi vượt sang bờ phía Bắc. Hai mặt thủy bộ đều tiến công, quân Tây Sơn bỏ chạy tán loạn. Quân nhà Nguyễn bèn xông lên cướp kho thóc Kỳ Lân. Trấn thủ của nhà Tây Sơn là Nguyễn Văn Thận cùng với hiệp trấn Nguyễn Triêm, thống lĩnh Nguyễn Văn Đại, thiếu uý Đặng Văn Đằng bỏ thành chạy ra miền Bắc. Đến đồn Tiên Lý, Nguyễn Triêm tự thắt cổ; còn Nguyễn Văn Thận chạy ra trấn Thanh Hoa. Quân nhà Nguyễn lấy được thành Nghệ An. Trần Quang Diệu ở Quỳ Hợp xuống đến địa phận Hương Sơn thì nghe tin Nghệ An đã thất thủ, bèn đến Thanh Chương, qua sông Thanh Long, rồi chạy ra trấn Thanh Hoa. Tướng sĩ đi theo Diệu dần dần tản mát mỗi người một nơi. Quân nhà Nguyễn đuổi kịp, bắt sống được Diệu. Tháng 6, quân nhà Nguyễn tiến đánh thành Thanh Hoa. Em vua Quang Toản là đốc trấn Nguyễn Quang Bàn cùng Nguyễn Văn Thận, Đặng Văn Đằng đều đầu hàng. Ngày 18, Nguyễn Ánh tiến ra Thăng Long, quân Tây Sơn hoàn toàn tan vỡ. Nguyễn Quang Toản bỏ thành cùng với em là Nguyễn Quang Thùy và đô đốc Tú qua sông Nhĩ Hà chạy về hướng bắc. Sau đó, Quang Thùy và vợ chồng Tú đều tự thắt cổ. Còn vua cùng các bề tôi đều bị thổ hào Kinh Bắc bắt được đóng cũi giao nộp cho Nguyễn Ánh. Quan lại của nhà Tây Sơn ở các trấn hoặc trốn, hoặc hàng, không ai dám chống lại. Vua Gia Long vài tháng sau về lại Phú Xuân, sửa lễ cáo miếu dâng tù, đem Nguyễn Quang Toản ra dùng cực hình giết chết, rồi bố cáo cho khắp cả nước đều biết. Quang Toản cùng những người con khác của anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ đều bị Gia Long sai dùng cực hình 5 voi xé xác. Nguyễn Huệ, Nguyễn Nhạc cũng bị trả thù rất dã man: Mồ mả bị khai quật, hài cốt bị giã nát vứt đi; đầu lâu của Nhạc, Huệ, Toản và mộc chủ của vợ chồng Nguyễn Huệ đều bị giam ở nhà Đồ Ngoại, sau lại đưa vào cấm cố vĩnh viễn trong ngục thất (Nơi ấy, nay thuộc địa điểm Trường Đại học Nông Lâm Huế). Quang Toản khi bị hành hình, mới 19 tuổi. Triều đại Tây Sơn chấm dứt. Nguyễn Du viết “Đi săn” vào khoảng năm 1801- 1802 ( bài này sau này Nguyễn Du chọn lưu lại rõ tâm ý của ông).
1 ĐI SĂN
Nguyễn Du thơ chữ Hán,
Nhất Uyên dịch thơ
Kẻ đạt quan trường chí đỉnh mây,
Còn ta vui thú với hươu nai.
Cốt lòng thư thái không mong được,
Không hại điều nhân diệt các loài.
Xạ ngủ cỏ thơm hương ướt ẩm,
Núi xa, chó sủa tiếng ngoài tai.
Thú vui phù thế âu tùy thích,
Xe đón lộng che ấy những ai ?
Nguyên tác phiên âm Hán Việt :
LIỆP
Y quan đạt giả chí thanh vân,
Ngô diệc lạc ngô mi lộc quân.
Giải thích nhàn tình an tại hoạch,
Bỉnh trừ dị loại bất phương nhân.
Xạ miên thiển thảo hương do thấp,
Khuyển độ trùng sơn phệ bất văn.
Phù thế vi hoan các hữu đạo,
Khu xa ủng cái thị hà nhân.
Chú thích:
Thanh vân, mây xanh, chỉ công danh thành đạt.
Triều đại Tây Sơn chấm dứt. Nguyễn Du năm ấy viết hai bài Hành lạc từ. Theo lời bình của nhà Kiều học đích thực, giáo sư văn chương, tiến sĩ Phạm Trọng Chánh, đại học Paris Pháp thì “Bài thơ phản phất không khí thơ bài Lý Bạch mời rượu, Trương Tiến Tửu, hãy vui chơi hôm nay. Đừng lo danh tiếng hảo xa vời khi đã chết, công danh, giàu sang trần thế như phù vân, có rồi lại mất, đời người ai sống được trăm tuổi, làm chi cho mệt cuộc đời. Đọc bài này rồi ta không thể nghĩ rằng Nguyễn Du có thể viết ngược lại đòi ba trăm năm lẻ nữa có người khóc mình trong bài Độc Tiểu Thanh Ký“. (Nguyễn Du- Người đi săn núi Hồng)
HÀNH LẠC I
Nguyễn Du thơ và từ
Nhất Uyên dịch thơ
Chó săn vàng đốm trắng,
Cổ đẹp đeo chuông vàng.
Chàng trai mặc áo ngắn,
Dắt về phía núi Nam.
Núi Nam nhiều nai hương,
Huyết ngọt thịt thơm ngon.
Dao vàng thái món quý,
Rượu ngon uống trăm chung.
Đời ai sống trăm tuổi,
Gặp thời cứ vui chơi.
Tội chi sống bần tiện,
Lo âu suốt đời người.
Di Tề chẳng danh lớn,
Chích Cược không giàu to.
Sống lâu chỉ tám chục,
Tội gì ngàn năm lo.
Có chó cứ làm thịt,
Có rượu cứ nghiêng bầu.
Hay dỡ trên đời sao biết được,
Cần gì lo tiếng hão về sau.
HÀNH LẠC (I)
Tuấn khuyển hoàng bạch mao,
Kim linh hệ tú cảnh,
Kinh sam thiếu niên lam,
Khiển hướng Nam sơn lĩnh.
Nam sơn hương đa mi,
Huyết nhục cam thả phì.
Kim đao thiết ngọc soạn,
Mỹ tửu lũy bách chi.
Nhân sinh vô bách tải,
Hành lạc dương cập kỳ.
Vô vi thủ bần tiện,
Cùng niên bất khai mi.
Di Tề vô đại danh,
Chích Cược vô đại lợi,
Trung thọ chỉ bát thập,
Hà sự thiên niên kế.
Hữu khuyển khả tu sát,
Hữu tửy thả tu khuynh.
Nhãn tiền đắc táng dĩ nan nhận,
Hà sự mang mang thân hậu danh.
Núi phía nam có lắm nai hương,
huyết thơm thịt lại béo,
dao vàng thái thành món ăn quý,
rượu ngon uống hàng trăm chén.
Đời người ai sống trăm tuổi,
vui chơi nên kịp thì,
tội gì giữ nếp nghèo nàn,
suốt năm không mở mặt mở mày.
Bá Di, Thúc Tề cũng chẳng có danh lớn.
Đạo Chích, Trang Cược cũng chẳng giàu to.
Sống lâu cũng chỉ tám mươi tuổi,
cần gì tính chuyện nghìn năm.
Có chó cứ giết ăn thịt,
có rượu cứ uống cho hết;
chuyện trước mắt hay dỡ khó mà biết được,
cần gì phải lo cái danh xa xôi sau khi chết rồi.
Chú thích :
– Di, Tề : Bá Di, Thúc Tề con vua Cô Trúc, một nước thuộc nhàÂn nay thuộc tỉnh Trực Lệ, Khi nhà Ân bị nhà Chu lấy, hai người không phục nhà Chu, lên núi Thú Dương ở ẩn rồi nhịn đói mà chết chứ không thèm ăn thóc nhà Chu.
– Chích, Cược : Đạo Chích và Trang Cược hai tên trộm cướp nổi tiếng thời Xuân Thu. Đạo Chích em của Liễu Hạ Huệ có khoảng chín ngàn lâu la, đi bắt bò trâu trộm, cướp vợ người. Trang Cược em Sở Trang Vương cũng là tay cướp đại bợm.
– Trung thọ : Người xưa chia tuổi làm ba bậc : Hạ thọ (60 tuổi), Trung thọ (80 tuổi), Đại thọ (90 tuổi).
HÀNH LẠC II
Nguyễn Du thơ và từ
Nhất Uyên dịch thơ
Núi cao hoa đào nở,
Tươi như màu lụa đỏ.
Sáng mai đùa xuân xanh,
Chiều tối rơi bùn nhọ.
Hoa nào đẹp trăm ngày ?
Người sống ai trăm tuổi ?
Chuyện đời lắm đổi thay,
Kiếp phù sinh chơi mãi.
Trong tiệc mỹ nữ đẹp như hoa,
Trong hồ có rượu như vàng pha,
Tiếng kèn tiếng sáo như khoan nhặt,
Được dịp hát to cứ hát ca.
Anh có thấy ông Vương Nhung tự tay cầm bàn ngà,
Ngày ngày tính toán lòng chưa vui sướng,
Đài Tam công đổ, cây mận ngon tàn,
Bạc vàng tiêu tán người khác hưởng.
Lại thấy không, ông Phùng Đạo khi về già còn phú quý.
Trải mấy triều vua ngôi cao khanh sĩ,
Chuông minh đỉnh vạc lại hoàn không,
Nghìn năm lưu bài Trường Lạc Tự.
Giàu sang trước mắt như phù vân,
Người nay chỉ biết cười người trước,
Người trước chết chôn đầy tha ma,
Người nay sao vẫn còn xuôi ngược.
Hiền ngu xưa nay một nấm mồ,
Nào ai vượt qua được sống chết.
Anh ơi uống rượu rồi vui chơi,
Kìa trông phía Tây trời đã xế.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
HÀNH LẠC (II)
Sơn thượng hữu đào hoa,
Xước ước như hồng ỷ,
Thanh thần lộng xuân nghiên,
Nhật mộ trước nê trỉ.
Hảo hoa vô bách nhật,
Nhân thọ vô bách tuế,
Thế sự đã suy di,
Phù sinh hành lạc sự.
Tịch thượng hữu kỹ hiểu như hoa,
Hổ trung hữu tửu như kim ba,
Thúy quản ngọc tiêu hoãn cánh cấp.
Đắc cao ca xứ thả cao ca.
Quân bất kiến:
Vương Nhung nha trù thủ tự tróc,
Nhật nhật cối kê thường bất túc,
Tam công đài khuynh hảo lý tử,
Kim tiền tán tán tha nhân phúc.
Nhãn tiền phú quý như phù vân,
Lãng đắc kim nhân tiếu cổ nhân.
Cổ nhân phần doanh dĩ luy luy,
Kim nhân bôn tẩu hà phân phân,
Cổ kim hiền ngu nhất khâu khổ,
Sinh tử quan đầu mạc năng độ.
Khuyến quân ẩm tửu thả vi hoan,
Tây song nhật lạc thiên tương mộ.
HÀNH LẠC (Bài từ số II dịch nghĩa)
Trên núi có hoa đào tươi
đẹp như tấm lụa đỏ,
sáng sớm còn đùa giỡn với màu xuân đẹp,
chiều tối đã nằm giữa bùn lầy.
Hoa đẹp không được trăm ngày,
người sống lâu mấy ai trăm tuổi,
chuyện đời lắm đổi thay,
kiếp phù sinh nên cứ vui chơi.
Trên tiệc có gái đẹp như hoa,
trong vò có rượu quý như nổi sóng vàng,
tiếng thúy quản, tiếng ngọc tiêu (tiếng kèn, tiếng sáo)
khi mau khi chậm,
được dịp hát to cứ hát to.
Người không thấy
ông Vương Nhung cầm thẻ ngà,
ngày nào cũng tính toán mà trong bụng vẫn thấy chưa đủ.
Đài Tam công cũng đổ, cây mận ngon cũng chết,
bạc vàng tiêu tan cho người khác hưởng.
Lại không thấy
ông Phùng Đạo lúc về già phú quý xiếc bao,
trải mấy triều vua không rời gối khanh tướng,
thế mà miếng đỉnh chung rốt cuộc vẫn không,
nghìn năm chỉ lưu lại bài Trường Lạc Tự.
Phú quý trước mắt không khác gì phù vân,
người nay chỉ biết cười người xưa,
người chết mồ mả đã ngổn ngang,
người sau vẫn bôn tẩu rộn ràng ?
Xưa nay kẻ hiền người ngu cũng chỉ trơ lại một nấm đất,
không ai vượt qua cửa ải sống chết,
khuyên anh nên uống rượu rồi vui chơi,
kìa trong cửa sổ phía tây,
bóng mặt trời đã xế.
Chú thích: Vương Nhung: một trong Trúc Lâm thất hiền đời Tấn, nhà giàu ruộng vườn khắp các châu, nhưng lại là tay biển lận, ngày nào cũng cầm bàn tính, thẻ ngà trong tay để tính toán, trong nhà có cây mận rất ngon, bán quả sợ người ta được giống, nền dùi nát hột đi rồi mới bán.Phùng Đạo, người đời Ngũ Đạo, tính chất phác văn chương hay, làm khanh tướng dưới bốn triều Đường, Tấn.. tự đặt hiệu là Trường Lạc lão có làm bài Trường Lão lạc tứ tự kể chuyện mình thờ bốn họ, sáu ông vua.
Đọc bài thơ Hành Lạc Từ của Nguyễn Du chúng ta tìm lại được cái an vui thanh thản triết lý Á Đông của nhà nho ngày xưa.
2
Nguyễn Du trong bài Hành Lạc Từ dường như có sự đối thoại ‘ngôn chí’ với Ngô Thì Nhậm. Ngô Thì Nhậm thời điểm này (1801-1802) đã rời bỏ Nhà Tây Sơn để tu Phật. Nguyễn Du viết : Trên núi có hoa đào tươi đẹp như tấm lụa đỏ, sáng sớm còn đùa giỡn với màu xuân đẹp, chiều tối đã nằm giữa bùn lầy. Hoa đẹp không được trăm ngày, người sống lâu mấy ai trăm tuổi, chuyện đời lắm đổi thay, kiếp phù sinh nên cứ vui chơi.Trên tiệc có gái đẹp như hoa, trong vò có rượu quý như nổi sóng vàng, tiếng thúy quản, tiếng ngọc tiêu (tiếng kèn, tiếng sáo) khi mau khi chậm, được dịp hát to cứ hát to. Người không thấy ông Vương Nhung cầm thẻ ngà, ngày nào cũng tính toán mà trong bụng vẫn thấy chưa đủ. Đài Tam công cũng đổ, cây mận ngon cũng chết, bạc vàng tiêu tan cho người khác hưởng. Lại không thấy ông Phùng Đạo lúc về già phú quý xiết bao, trải mấy triều vua không rời gối khanh tướng, thế mà miếng đỉnh chung rốt cuộc vẫn không, nghìn năm chỉ lưu lại bài Trường Lạc Tự. Phú quý trước mắt không khác gì phù vân, người nay chỉ biết cười người xưa, người chết mồ mả đã ngổn ngang, người sau vẫn bôn tẩu rộn ràng ? Xưa nay kẻ hiền người ngu cũng chỉ trơ lại một nấm đất,không ai vượt qua cửa ải sống chết,khuyên anh nên uống rượu rồi vui chơi, kìa trong cửa sổ phía tây, bóng mặt trời đã xế. Chú thích: Vương Nhung: một trong Trúc Lâm thất hiền đời Tấn, nhà giàu ruộng vườn khắp các châu, nhưng lại là tay biển lận, ngày nào cũng cầm bàn tính, thẻ ngà trong tay để tính toán, trong nhà có cây mận rất ngon, bán quả sợ người ta được giống, nên dùi nát hột đi rồi mới bán. Phùng Đạo, người đời Ngũ Đạo, tính chất phác văn chương hay, làm khanh tướng dưới bốn triều Đường, Tấn, tự đặt hiệu là Trường Lạc lão có làm bài Trường Lão lạc tứ tự kể chuyện mình thờ bốn họ, sáu ông vua.Đọc bài thơ Hành Lạc Từ của Nguyễn Du chúng ta tìm lại được cái an vui thanh thản triết lý Á Đông của nhà nho ngày xưa.
3
Đọc vụ án năm Canh Thìn 1780 và câu chuyện Ngô Thời Nhiệm nhà Tây Sơn là nhân vật lịch sử gây ra nhiều tranh luận, nhưng cho dù khen hay chê thì Ngô Thời Nhiệm dấu chân thời gian vẫn bền vững là một mưu thần lỗi lạc và nhà ngoại giao xuất chúng của Nguyễn Huệ. Ngô Thời Nhiệm có công lớn trong việc tổ chức cai trị Bắc Hà và ngoại giao thời Tây Sơn đã đánh lui và chế thắng nhà Thanh dòm ngó, chia rẽ, lợi dụng tranh đoạt nước Đại Việt lúc ấy. Ngô Thời Nhiệm tự Hi Doãn, hiệu Ðạt Hiên, pháp danh Hải Lượng thiền sư, sinh ngày 25 tháng 10 năm 1746, nhằm ngày 11 tháng 9 năm Bính Dần, người làng Tả Thanh Oai, nay thuộc huyện Thanh Trì Hà Nội. Ngô Thời Nhiệm sinh trưởng trong một gia đình đại trí thức ở chốn Bắc Hà, cha của ông là Ngô Thì Sĩ. Hai cha con của ông đều là quan đại thần giữ trọng trách lớn được tin dùng đặc biệt của chúa Trịnh Sâm và nhà Hậu Lê. Do sự tranh đoạt không đội trời chung giữa chúa Trịnh Sâm và thái tử Lê Duy Vĩ gây nên sự chia rẽ và nội loạn đặc biệt sâu sắc của triều đình Lê Trịnh mà sau vụ án Canh Tý 1780, Nguyễn Khắc Tuân, Nguyễn Phương Ðỉnh, Chu Xuân Hán đều bị khép án tử hình, Nguyễn Khản (anh Nguyễn Du) cũng bị khép án trọng tội. Nghi án lớn nhất của Ngô Thời Nhiệm liên quan trực tiếp đến vụ án năm Canh Tý 1780. Trịnh Tông là con trai trưởng của Tĩnh Đô vương Trịnh Sâm âm mưu đảo chính diệt trừ phe Ðặng Thị Huệ và Quận Huy, lúc Trịnh Sâm bị bệnh nặng. Trịnh Tông biết rõ cha định phế trưởng lập thứ là Trịnh Cán con trai Ðặng Thị Huệ lên ngôi chúa nên đã liên kết với thầy học là Nguyễn Khản trấn thủ Sơn Tây, Nguyễn Khắc Tuân trấn thủ Kinh bắc, và một số quan lại khác tại triều như Nguyễn Phương Ðỉnh, Chu Xuân Hán…xuất tiền mua vũ khí, chiêu mộ binh mã, chờ Trịnh Sâm chết là khởi sự. Bất ngờ Trịnh Sâm khỏi bệnh và âm mưu bị bại lộ. Sâm đích thân đàn áp những người tham dự vào âm mưu đảo chính.Sau vụ đàn áp đẫm máu này, Ngô Thời Nhiệm được thăng chức làm Công bộ Hữu Thị lang..Vụ án năm Canh Tý 1780 khiến giới sĩ phu Bắc Hà cho rằng Ngô Thời Nhiệm cùng Nguyễn Huy Bá tố cáo âm mưu đảo chính cho Trịnh Sâm biết, nhờ thế sau khi đàn áp, Sâm thưởng công cho Ngô Thời Nhiệm bằng chức tước cao trọng. Sách ”Việt sử thông giám cương mục” của triều Nguyễn viết: “Ngô Thì Sĩ bị nhục nhã vì đứa con bất hiếu nên đã uống thuốc độc tự tử. Ngô Thời Nhiệm “sát tứ phụ nhi thị lang” (giết bốn cha để được chức Thị lang). Bốn cha là chỉ Ngô Thì Sĩ tự tử và ba người bạn vong niên của cha là Nguyễn Khản, Nguyễn Phương Ðỉnh và Nguyễn Khắc Tuân bị giết. Sách “Hoàng Lê Nhất Thống Chí” và “Ngô gia thế phả” của dòng họ Ngô Thì biên soạn thì Ngô Thời Nhiệm hoàn toàn không liên can vào vụ án, Cha ông là Ngô Thì Sĩ không hề buồn phiền về ông mà trái lại rất tự hào về ông. Ngô Thời Nhiệm sở dĩ được chúa Trịnh Sâm thăng chức chỉ vì Ngô Thời Nhiệm bị Quận Huy ganh ghét, nên đã sàm tấu làm ông phải mắc oan tai tiếng với đời. Theo nghiên cứu và trích dẫn của Nguyễn Mộng Giác thì những tài liệu lịch sử khác, độc lập hơn, như “Hậu Lê Thời Sự Kỷ Lược”, “Lịch Triều Tạp Kỷ” tuy ghi nhận dư luận đương thời nhưng cũng không hề nói Ngô Thời Nhiệm có liên quan tố cáo vụ đảo chính. Cũng theo Nguyễn Mộng Giác thì có hay không, cho đến ngày nay tuy còn là một nghi vấn, nhưng việc xét công tội của Ngô Thời Nhiệm thì không là vấn đề quan trọng nữa. Ngô Thời Nhiệm tham dự vào trò chơi chính trị thì phải gánh lấy những hậu quả của các âm mưu tranh giành quyền bính. Oan hay ưng, không thành vấn đề. Sau loạn kiêu binh, ông đã phải trả giá cho trò chơi quyền bính này, phải trốn nấp suốt sáu năm trong nhục nhã, khổ cực.” Ngô Thời Nhiệm từ quan quy ẩn về quê vợ Thái Bình cho đến năm 1778, đến lúc Nguyễn Huệ ra Bắc lần thứ hai giết Vũ Văn Nhậm và xuống chiếu tìm quan lại cũ của cựu triều Hậu Lê để giao trọng trách cai trị Bắc Hà. Ngô Thời Nhiệm chấp nhận ra phò tá Nguyễn Huệ. Cựu thần nhà Lê phân hóa cao độ, kẻ theo vua Lê, kẻ theo Nguyễn Ánh, người theo Tây Sơn. Nguyễn Du không ra làm quan mà mười lăm năm lưu lạc và sau về làm “Nam Hải điếu đồ”.(Người câu cá ở biển Nam). Ngô Thời Nhiệm lập công đầu cho nhà Tây Sơn trong việc cai trị Bắc Hà và ngoại giao với nhà Thanh. Vua Càn Long và Phúc Khang An có kế sách tinh vi, sâu sắc. Ngoại giao thời Tây Sơn với nhà Thanh được giải mã một phần qua các chuyên luận Bí mật kho báu trên đỉnh Tuyết Sơn và Nguyễn Du 255 năm nhìn lại của Hoàng Kim. Ngô Thời Nhiệm cuối năm Mậu Thân 1788 khi 29 vạn quân Thanh kéo sang Đại Việt, do mẹ vua Lê Chiêu Thống cầu viện, ông đã đề ra kế sách cho quân Tây Sơn phòng thủ Bắc Hà là bỏ thành Thăng Long lui binh về giữ phòng tuyến Tam Điệp – Biện Sơn (Ninh Bình) để nuôi khí kiêu của địch, dụ địch vào sâu giúp Nguyễn Huệ ra quân thần tốc xuất kỳ bất ý dụng binh thiên tài làm nên chiến thắng xuân Kỷ Dậu năm 1790 của nhà Tây Sơn. Ngô Thời Nhiệm sau chiến thắng vang dội này đã được vua Quang Trung giao cho trọng trách Binh bộ Thượng thư chủ trì các chính sách ngoại giao với nhà Thanh. Ông cũng là người đứng đầu một trong những sứ bộ ngoại giao sang Trung Hoa. Từ năm 1792, sau khi vua Quang Trung bị mất đột ngột, ông không còn được tin dùng nữa, đã cáo quan quay về nghiên cứu Phật học.Năm 1802 vua Gia Long tiêu diệt nhà Tây Sơn. Năm 1803, Ngô Thời Nhiệm , Phan Huy Ích, Nguyễn Thế Lịch và một số sĩ phu Bắc Hà vốn ăn lộc nhà Lê nhưng theo triều Tây Sơn đã bị bắt điệu tới Văn Miếu nọc đánh bằng roi. Đặng Trần Thường là Binh bộ Bắc thành, sau là Binh bộ Thượng thư của triều Nguyễn, do có tư thù với Ngô Thời Nhiệm nên đã cho người tẩm thuốc độc vào roi để đánh đòn. Đặng Trần Thường cũng ra một vế câu đối hiễm hóc và kiêu hãnh: “Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai”. Ngô Thời Nhiệm khẳng khái đáp: “Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế”.Vế ra của câu đối thật hiểm hóc vì có 5 chữ ai nói lên sự xuất chúng kiêu hãnh của bậc hào kiệt thành công và có chữ trần, tên đệm của Đặng Trần Thường. Vế đối của người trả lời cũng thật tài tình vì có 5 chữ thế, nói lên hoàn cảnh và khí phách của người anh hùng thất thế vẫn hiên ngang khí tiết và có chữ thời, tên đệm của Ngô Thời Nhiệm. Lạ thay và hay thay thời biến từ Thì sang Thời. Ngô Thời Nhiệm cũng đọc bốn câu thơ dự báo: “Ai tai Đặng Trần Thường – Chân như yến xử đường – Vi Ương cung cố sự – Diệc nhĩ thị thu trường”. (Thương thay Đặng Trần Thường, Tổ yến nhà xử đường, Vị Ương cung chuyện cũ, Tránh sao kiếp tai ương). Ngô Thời Nhiệm khi về nhà bị hộc máu mà chết, Bia đá Văn Miếu từng vinh danh tiến sĩ tên ông năm Cảnh Hưng 36 (1775) cũng bị đục bỏ với tội danh bất trung, bất hiếu. Đặng Trần Thường sau cũng chết thảm vì triều Nguyền hành tội ông dám lưu danh công thần Viêm Quận Công Hoàng Ngũ Phúc danh tướng chúa Trịnh nhưng tử thù với nhà Nguyễn, triều Nguyễn đúng như tiên đoán tài tình của Ngô Thời Nhiệm .Kho báu đỉnh Tuyết Sơn, Nguyễn Du trăng huyền thoại, Nguyễn Du niên biểu luận, lưu giấu một chặng đường lịch sử dân tộc và văn chương Việt.
4
Lê Quýnh và 23 trung thần thời Hậu Lê được Nguyễn Du và em trai trân trong lập đền thờ tại Trung Liệt Hà Nội ở 124 Thụy Khuê là một chỉ dấu địa lý quan trọng về nhận thức luận đối với Nguyễn Du. Tiến sĩ Phạm Quý Thích rõ dấu hiệu của người nghiên cứu, bàn luận Truyện Kiều đầu tiên. Đó là những chứng cứ lịch sử văn hóa “chứng minh đường vòng” cho nguồn gốc Truyện Kiều sách chữ Hán Nôm và quốc âm đều là của Nguyễn Du. Chất liệu sáng tác với tỷ lệ lớn là đất Việt, người Việt nhưng tỷ lệ ít hơn về bối cảnh và một ít nhân vật từ bên ngoài là không phủ nhận (phải mượn danh nghĩa đó để thuận tình lý và lập luận chặt chẽ, không bị trả thù).
5
Đề tựa bản Truyện Thúy Kiều của cụ Bùi Kỷ trong sách “Truyện Thúy Kiều” do Bùi Kỷ Trần Trọng Kim hiệu khảo là một chỉ dấu quan trọng thứ ba , về bình sinh hành trạng Nguyễn Du (chứng cứ quan trọng thứ 3 này là sau 2 văn bản chính thức của chính sử Nhà nước Nhà Nguyễn về 2 sách Nguyễn Du với Minh Mệnh tổng thuyết, do Quốc sử Quán Nhà Nguyễn biên soạn). Vì giá trị học thuật quan trọng của Bài tựa của cụ Bùi Kỷ mà HK chép nguyên văn để mọi người cùng đọc. Cụ Bùi Kỷ viết: Quyển truyện Thúy Kiều này là một quyển sách kiệt-tác làm bằng quốc-âm ta. Người trong nước từ kẻ ngu-phu ngu-phụ cho chí người có văn-học, ai cũng biết, ai cũng đọc, mà ai cũng chịu là hay. Một quyển sách có giá-trị như thế, mà chỉ hiềm vì các bản in ra, có nhiều bản không giống nhau, rồi có người lại tự ý mình đem chữa đi, chữa lại, thành ra càng ngày càng sai-lầm nhiều thêm ra. Mới đây những bản in bằng quốc-ngữ, tuy có dễ đọc và dễ xem hơn trước, nhưng chưa thấy có bản in nào thật chính đáng, những điều sai lầm vẫn còn như các bản chữ Nôm cũ, mà chữ Quốc ngữ viết lại không được đúng, và những lời giải-thích cũng không kỹ càng lắm. Chúng tôi thấy vậy, mới nhặt nhạnh các bản cũ, rồi so sánh với các bản mới để hiệu chính lại cho gần được nguyên văn. Chúng tôi lại hết sức tìm tòi đủ các điển tích mà giải thích cho rõ ràng, để ai xem cũng hiểu, không phải ngờ điều gì nữa.Hiện nay tập nguyên văn của tác giả làm ra thì không tìm thấy nữa, chỉ có hai bản khác nhau ít nhiều, là bản Phường, in ở phố hàng Gai, Hà Nội, và bản Kinh của vua Dực Tông bản Triều đã chữa lại.Bản Phường là bản của ông Phạm Quí Thích đem khắc in ra trước hết cả. Ông hiệu là Lập Trai, người làng Huê Đường (nay đổi là làng Lương Đường) phủ Bình Giang, tỉnh Hải Dương, đỗ tiến sĩ về cuối đời Lê, cùng với tác-giả là bạn đồng thanh đồng khí, cho nên khi quyển truyện này làm xong thì tác giả đưa cho ông xem. Chắc cũng có sửa-đổi lại một vài câu, nhưng xem lời văn thì chỗ nào cũng một giọng cả. Vậy nên chúng tôi thiết tưởng rằng lấy bản Phường làm cốt, thì có lẽ không sai lầm là mấy. Còn những chỗ mà bản Kinh đổi khác đi, hoặc những câu mà về sau người ta sửa lại, thì chúng tôi phụ lục cả ở dưới, để độc giả có thể xem mà cân nhắc hơn kém. Lại có một vài chữ người ta muốn đổi đi, nhưng không đúng với các bản Nôm cũ, thì chúng tôi cũng thích xuống dưới, chứ không tự tiện mà đổi nguyên-văn đi. Chủ-ý của chúng tôi là muốn giữ cho đúng như các bản cũ, chứ không muốn làm cho hay hơn.Truyện Thúy Kiều này nguyên lúc đầu tác giả nhan đề là “ĐOẠN-TRƯỜNG TÂN-THANH” 斷腸新聲. Sau nghe đâu ông Phạm Quí Thích đổi lại là “KIM VÂN KIỀU TÂN-TRUYỆN “金雲翹新傳. Nhưng vì trong truyện chỉ có Thúy Kiều là vai chính, còn Kim Trọng và Thúy Vân là vai phụ cả. Nếu đề như vậy, thì e không hợp lẽ. Vả chăng tục thường gọi là Truyện Kiều, thì chi bằng ta cứ theo thói thường mà nhan đề là Truyện Thúy Kiều, rồi ở dưới đề thêm tên cũ ĐOẠN TRƯỜNG TÂN THANH”, gọi là để tỏ cái ý tồn cổ. Song đấy là nói về phần hình-thức ở bề ngoài, còn về phần tinh thần văn chương trong truyện Thúy Kiều, thì sau này chúng tôi sẽ đem ý kiến riêng mà bày tỏ ra đây, họa may có bổ ích được điều gì chăng. Vậy trước hết xin lược thuật cái tiểu sử của tác giả để độc giả hiểu rõ tác giả là người thế nào.
Tác-giả húy là Du 攸, tự là Tố-Như 素如, hiệu là Thanh-Hiên 清軒, biệt hiệu là Hồng-Sơn Liệp-hộ 鴻山獵戶, quán tại làng Tiên-Điền, huyện Nghi-Xuân, tỉnh Hà-Tĩnh, con thứ bảy ông Hoàng-giáp Xuân-Quận-công Nguyễn Nghiễm, làm thủ-tướng Lê-triều. Bác ruột là ông Nguyễn Huệ cùng anh là ông Nguyễn Khản đều đỗ tiến-sĩ, làm quan đồng thời. Ông Nguyễn Khản làm đến Lại-bộ Thượng-thư, sung chức Tham-tụng. Còn người anh thứ hai là Điều-nhạc-hầu, húy là Điều, làm Trấn-thủ Sơn-Tây. Cả nhà, cha con, chú bác, anh em, đều là người khoa-giáp, làm quan to đời nhà Lê. Tố-Như tiên-sinh là con bà trắc-thất, người huyện Đông-Ngạn, tỉnh Bắc-Ninh, tên là Thấn 殯. Bà sinh được bốn người con trai tên là Trụ 伷, Nệ 儞, Du 攸 (tức là tiên-sinh) và Ức 億. Tiên-sinh sinh vào ngày nào, thì nay ta không rõ, chỉ biết vào năm ất-dậu là năm Cảnh-Hưng thứ 26 (1765), nghĩa là vào đời Lê-mạt.Xem gia-thế nhà tiên sinh, thì tiên sinh là dòng dõi một nhà thế phiệt trâm anh đệ nhất trong nước lúc bấy giờ. Không rõ tiên sinh thụ nghiệp ai, có lẽ là học tập phụ huynh trong nhà. Tiên sinh thuở còn trẻ thiên tư dĩnh ngộ, năm 19 tuổi đã đỗ ba trường, tức là đỗ tú tài. Tiên sinh là người có khí tiết, gặp khi trong nước có biến, nhà Nguyễn Tây Sơn dấy lên, nhà Lê bại vong, tiên sinh đã nhiều phen lo toan sự khôi phục, nhưng vì sự không thành, bỏ về quê ở, lấy sự chơi bời săn bắn làm vui thú. Trong vùng chín mươi chín ngọn núi Hồng Lĩnh không có chỗ nào là chỗ tiên sinh không đi đến. Phải thời quốc phá gia vong, tiên-sinh đã toan bỏ việc đời ra ngoài tai, đem cái thân thế mà vui với non sông. Ấy là cái chí của tiên sinh đã định như thế, nhưng đến khi vua Thế Tổ Cao Hoàng bản Triều đã thống-nhất được giang sơn, có ý muốn thu phục lòng người miền Bắc, xuống chiếu trưng triệu những nhà dòng dõi cựu thần nhà Lê ra lục dụng. Tiên sinh phải triệu ra làm quan, hai ba lần từ chối không được. Năm Gia Long nguyên-niên (1802), tiên sinh phải ra làm tri huyện huyện Phù Dực, (nay thuộc tỉnh Thái-Bình). Được ít lâu bổ đi Tri phủ Thường Tín. Sau tiên-sinh cáo bệnh xin về. Đến năm Gia Long thứ năm (1806) lại phải triệu vào Kinh thụ chức Đông các học sĩ. Năm thứ tám (1809) bổ ra làm Cai Bạ (tức là Bố chính) Quảng-Bình. Năm thứ 12 (1813) thăng lên làm Cần chính điện học sĩ, sung chức chánh sứ sang cống Tàu. Đến khi về, được thăng Lễ bộ Hữu tham tri. Năm Minh Mệnh nguyên niên (1820) lại có chỉ sai tiên sinh đi sứ Tàu lần nữa, nhưng chưa kịp đi thì phải bệnh mất. (HK hết trích dẫn). Những dẫn liệu NGUYỄN DU NIÊN BIỂU LUẬN là căn cứ trên 3 tài liệu chính này với sự phối kiểm thông tin ở 13 TƯ LIỆU QUÝ. Lối viết “kể chuyện lịch sử của HK là học theo cách viết của Lê Quý Đôn tinh hoa, khi ông đúc kết để viết các sách của ông như Đại Việt thông sử (còn gọi là “Lê triều thông sử”) Kiến văn tiểu lục (12 quyển), Phủ biên tạp lục, Vân đài loại ngữ (gồm 9 quyển), Toàn Việt thi lục, Quế Đường thi tập, (gồm 4 quyển) là đều dựa chắc vào chính sử, Có những điều còn mơ hồ thì ông lưu vào giai thoại để tiếp tục truy tìm. Nguyễn Du và Nguyễn Công Trứ đều là những danh nhân văn hóa của “Ví Dặm Hát Nói Nghệ Tĩnh” mà Phan Lan Hoa dồi dào thông tin nên đủ tin cậy cho lập luận và chất vấn đó, nên mình sẽ đọc kỹ từng mục và trao đổi với bạn sau để cùng học hỏi.
6 Kim Hoàng cho rằng “Đối với Nguyễn Du cũng phải thật công khai, thật công phu, thật công bằng và thật công tâm khi nghiên cứu và bàn luận”. Chúng ta đồng tình với cách nói của thượng tướng Trần Văn Trà khi ông đề xuất nghiên cứu đánh giá về đại tướng Võ Nguyên Giáp vị tướng của lòng dân. Và chúng ta thiết nghĩ cũng phải làm như vậy đối với Nguyễn Du đại thi hào dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới, Nữ sĩ Phan Lan Hoa tác giả chuyên luận ví dặm đò đưa https://vidamdodua.com/ đã có bài nghiên cứu HÀNH TRẠNG NGUYỄN DU QUA GHI CHÉP CỦA CHÍNH SỬ Phan Lan Hoa, FB 31/10/2020, trong đó tác giả ghi rõ: Có bốn Nguyễn Du được đề cập qua các văn bản ghi chép của chính sử, mà nếu không nghiên cứu kỹ lưỡng thì rất dễ bị nhầm lẫn và dẫn liệu không chính xác. Trước hết, có ông Nguyễn Du khác, với gốc ở Thanh Oai, đề cập ở sách Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục (hình) là cộng tác với nhà Tây Sơn.
“Tháng 5, Nguyễn Văn Huệ triệu tập các cựu thần văn võ nhà Lê ép bảo họ khuyên mời Văn Huệ lên ngôi vua. Tham tri chính sự Nguyễn Huy Trạc tử tiết. Văn Huệ liền sai Sùng Nhượng Công Lê Duy Cận đứng Giám quốc, rồi kéo quân về Nam. Văn Huệ sai người lùng hết các bầy tôi văn võ , cưỡng ép họ đến cửa cung khuyết, để cùng đứng tên vào tờ biểu khuyên mời Văn Huệ lên ngôi vua. Huy Trạc bị bắt đến Ngự sử đài, không chịu ký tên vào tờ biểu ấy, đêm đến, uống thuốc độc tự tử. Việc này do đó cũng đình chỉ. Văn Huệ ở lại vài ngày, bèn sai Duy Cẩn đứng Giám quốc, giữ việc thờ cúng [tôn miếu nhà Lê] còn mình thì rút quân về Nam. Văn Huệ dùng Ngô [Thì] Nhậm làm Lại bộ tả thị lang (Cương mục vì kiêng tên Tự Đức chép là Ngô Nhậm), Phan Huy Ích làm hình bộ tả thị lang, lại dùng Nguyễn Thế Lịch, Ninh Tốn, Nguyễn Du (Nguyễn Du này là người Văn Xá, huyện Thanh Oai, Hà Đông, khác với Nguyễn Du tác giả Truyện Kiều); và Nguyễn Bá Lan làm Hàn lâm trực học sĩ , để ở lại cùng làm việc với Ngô Văn Sở. Bọn Nguyễn Hoàn và Phan Lê Phiên ra thú, được Văn Huệ cho giữ nguyên quan hàm đã có mà về điền viên. Chỉ có mấy người này đi ẩn không chịu ra: Phạm Trọng Huyến đồng xu mật viện sự; Phạm Quý Thích thiêm sai tri Công phiên; Nguyễn Đình Tứ đô cấp sự trung; Nguyễn Đăng Vận giám sát ngự sử; Lê Trọng Dĩnh cấp sự trung; Đỗ Lệnh Thiện tiến sĩ.”