Trang chủ NLU| KhoaNôngHọc| Mụclục Hoàng KimLong| Tình yêu cuộc sống | CNM365| Khát khao xanh | Dạy và học | Cây Lương thực | FoodCrops| HK1| HK2| HK3| HK4| HKWiki| Violet| FAOSTAT| ThốngkêVN | ThờitiếtVN|
Thống kê
Số lần xem
Đang xem 1942
Toàn hệ thống 4456
Trong vòng 1 giờ qua
Trang liên kết

 

Tỉnh thức
giữa đêm thiêng Yên Tử
Để thấm hiểu đức Nhân Tông
Ta thành tâm đi bộ
Lên tận đỉnh chùa Đồng
Tâm sáng Ức Trai
trong tựa ngọc


TÌNH YÊU CUỘC SỐNG

THUNG DUNG
Nguyễn Bỉnh Khiêm, ...


DẠY VÀ HỌC
Để chấn hưng giáo dục Việt Nam cấp thiết phải có đội ngũ những người thầy giáo ưu tú có tâm đức thiết tha với nghề, có trình độ chuyên môn cao và có kỹ năng giảng dạy tốt. Đây là trang thông tin chuyên đề dạy và học để trao đổi và bàn luận


Khoa Nông Học  
Những nhà khoa học xanh,
http://foodcrops.vn


Norman Borlaug
Lời Thầy dặn

Việc chính đời người chỉ ít thôi
Chuyên tâm đừng bận chuyện trời ơi
Phúc hậu suốt đời làm việc thiện
Di sản muôn năm mãi sáng ngời.


Thông tin Cây Lương thực
 Lúa, Ngô, Sắn, Khoai lang
Nông trại và Hệ thống Canh tác
http://foodcrops.vn
FOOD CROPS
CÂY LƯƠNG THỰC
  



Tình yêu cuộc sống
Thông tin chuyên đề chọn lọc

Science Daily

KHÁT KHAO XANH
HOÀNG KIM
CNM365

Luôn làm mới kiến thức của bạn !



Bút tích NB gửi HK và
Những tư liệu quý về 
GS.TS. Norman Borlaug

Lối vào Phong Nha

 


HOÀNG KIM
NGỌC PHƯƠNG NAM
CHÀO NGÀY MỚI

DẠY VÀ HỌC
CÂY LƯƠNG THỰC
FOOD CROPS



THƯ VIỆN NGHỀ LÚA
Thư viện Khoa học Xã hội





Cassava in Vietnam



A New Future for Cassava in Asia

On-line: Cassava in Asia
(Tải tài liệu PDF tại đây)


 

KimFaceBook
KimYouTube

KimLinkedIn

Songkhongtubien

KIMYOUTUBE. Video nhạc tuyển Sóng không từ biển (xem tiếp).



GỬI THƯ ĐIẾN TỬ VÀ
LIÊN KẾT TRỰC TUYẾN

hoangkimvietnam@gmail.com 
hoangkim@hcmuaf.edu.vn  
TS. Hoàng Kim

http://foodcrops.vn
http://vi.gravatar.com/hoangkimvn
http://en.gravatar.com/hoangkimvn

Thành viên

Email:
Password

Nội dung

  TS. Hoàng Kim


 

 

DẠY VÀ HỌC 30 THÁNG 6
Hoàng Kim

CNM365 Tình yêu cuộc sốngĐến với Tây Nguyên mới; Đặng Kim Sơn lắng đọng; Tím một trời yêu thương; Nhà Trần trong sử Việt; Chùa Bửu Minh Biển Hồ; Đình Lạc Giao Hồ Lắk; Hải Như thơ về Người; Nhớ bạn nhớ châu Phi Luân Đôn trong mắt tôi; Thăm nhà cũ của Darwin. Ngày 30 tháng 6 năm 1894, Cầu Tháp Luân Đôn (Tower Bridge) được khánh thành,là cầu bắc qua sông Thames đoạn chảy qua thủ đô của Anh Quốc. Cầu nằm liền với cung điện và pháo đài của Nữ hoàng, tạo thành quần thể danh thắng di sản thế giới của UNESCO biểu tượng nổi tiếng của thành phố Luân Đôn và nước Anh. Cầu Tháp Luân Đôn là một công trình kết hợp cầu treo với cầu nâng (có thể mở ra cho tàu thuyền lớn đi qua). Ngày 30 tháng 6 năm 1337 là ngày sinh của Trần Duệ Tông hoàng đế thứ 9 thời nhà Trần, là vị hoàng đế duy nhất trong lịch sử Việt Nam bị tử trận khi đương quyền. Trần Duệ Tông hoàng đế có lòng dũng cảm, mong muốn chấn hưng Đại Việt và trấn áp kẻ thù nhưng vì ông quá nóng vội nên bại trận. Đại Việt sau trận thua lớn ở Đồ Bàn, những người kế vị đều vô tài nên nhà Trần ngày càng suy, cho đến năm 1400, Hồ Quý Ly chiếm ngôi nhà Trần .Ngày 30 tháng 6 năm 1905, Albert Einstein giới thiệu thuyết tương đối hẹp với tác phẩm “Zur Elektrodynamik bewegter Körper” được tiếp nhận và xuất bản. Bài chọn lọc ngày 30 tháng 6: Đến với Tây Nguyên mới; Đặng Kim Sơn lắng đọng; Tím một trời yêu thương; Nhà Trần trong sử Việt; Chùa Bửu Minh Biển Hồ; Đình Lạc Giao Hồ Lắk; Hải Như thơ về Người; Nhớ bạn nhớ châu Phi Luân Đôn trong mắt tôi; Thăm nhà cũ của Darwin. Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.comhttp://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-30-thang-6/

 

 

ĐẾN VỚI TÂY NGUYÊN MỚI
Hoàng Kim

Đến với Tây Nguyên mới
Thăm lại chiến trường xưa
Đất khoai sắn nuôi người
Sử thi vùng huyền thoại.

Vầng đá chốn đại ngàn
Rượu cần nơi bản vắng
Câu cá bên dòng Sêrêpôk
Tắm tiên Chư Jang Sin

 

 

Thương Kim Thiết Vũ Môn
Nhớ người hiền một thuở
Hồ Lắk Đình Lạc Giao
Biển Hồ Chùa Bửu Minh

Nước rừng và sự sống
Chuyện đời không thể quên
Cây Lương thực bạn hiền
Lớp học vui ngày mới

 

 

Ai ẩn nơi phố núi
Ai tỏ Ngọc Quan Âm
Ai hiện chốn non xanh
Mây trắng trời thăm thẳm
Nước biếc đất an lành

 

 

Soi bóng mình đáy nước
Sáng bình minh giữa đời
Thung dung làm việc thiện
Vui bước tới thảnh thơi

 

 

Đến với Tây Nguyên mới
Bao chuyện đời không quên

ĐẾN VỚI TÂY NGUYÊN MỚI
Hoàng Kim

Tôi thật tâm đắc với lời bình của tiến sĩ Nguyễn An Tiêm, cựu Phân Viện Trưởng Viện Quy Hoạch và Thiết Kế Nông Nghiệp Việt Nam, là bạn học cũ, khi anh trao đổi cùng với giáo sư Nguyễn Tử Siêm là chuyên gia khoa học đất về bài viết “Giá chúng ta giữ được Tây Nguyên như Bhutan” của nhà văn Nguyên Ngọc. Anh Tiêm nhận xét: “Vâng. Bài viết đáng để chúng ta suy nghĩ, nhất là sinh thái rừng và văn hoá Tây Nguyên. Tuy nhiên cần có cái nhìn đa chiều về bối cảnh lịch sử. Nước ta dân số đông, tốc độ tăng dân số nhanh, kinh tế kém phát triển, đói ăn, nên phải phá rừng để mở rộng đất nông nghiệp. Cái dở là không kiểm soát được quá trình đó một cách hợp lý. Theo quy luật khi nền kinh tế phát triển ở mức nào đó sẽ chuyển đất nông nghiệp sang đất rừng thiết lập hệ sinh thái mới. Quá trình này nhanh hay chậm phụ thuộc vào nhận thức của chúng ta”.

Tây Nguyên mới là một chuỗi chính sách lớn liên tục liên hoàn nhiều năm. Cụ Nguyên Ngọc cảnh báo những vấn đề “Nước mội rừng xanh và sự sống“; “Phát triển bền vững ở Tây Nguyên ” từ rất sớm, nhưng không thay đổi được, không điều chỉnh được dòng chảy của xu thế.

Ngày nay, Tây Nguyên mới đã là vùng đất đa sắc tộc, đa văn hóa, (dân số tăng lên gấp mười lần so với trước đây) theo kết quả điều tra dân số ngày 1/4/2019 dân số Tây Nguyên là 5.842.605 người (dân tộc Kinh: 3.642.726 người, chiếm 62,30%, dân tộc khác : 2.199.879 người, chiếm 37,70%). hình thành được những ngành hàng nông nghiệp quy mô lớn tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu như cà phê, hồ tiêu, cao su. Đặc biệt Cà phê Tây Nguyên nổi tiếng trên thị trường thế giới (2019 diện tích: 630,9 nghìn ha, diện tích thu hoach: 569,4 nghìn ha; năng suất: 27,8 tạ/ha, sản lượng 1,58 triệu tấn , kim ngạch xuất khẩu 2,64 tỷ USD) . Công nghiệp, nhất là chế biến nông, lâm sản từng bước phát triển, gắn kết với vùng nguyên liệu nông nghiệp hình thành chuỗi giá trị hàng hóa ngày càng phát triển. Du lịch phát triển mạnh, với trung tâm là Đà Lạt, Buôn Ma Thuột gắn với đặc sắc về tự nhiên, văn hóa đặc thù Tây Nguyên; Tài nguyên đất Tây Nguyên đa dạng, đa màu sắc với 11 nhóm đất với 33 loại loại đất. Độ phì của đất đai , đặc biệt đất đỏ ba zan đã tạo ra những giá trị đặc trưng cho hệ sinh thái nông nghiệp cao nguyên cho sự phát triển cây công nghiệp, cây ăn quả có giá trị hàng hóa quy mô lớn. Tài nguyên nước Tây Nguyên phần lớn (khoảng 80%) thuộc thượng nguồn lưu vực sông Sê San, Sê rê pôk (chảy sang Căm Pu Chia), sông Đồng Nai và sông Ba. (trong lãnh thổ Việt Nam) và gần 20% diện tích tự nhiên thuộc lưu vục sông Thu Bồn, Trà Khúc, sông Lũy, sông La Ngà … Trên địa bàn Tây Nguyên có 882 hồ chứa nước tự nhiên và 810 đập dâng nước. Tài nguyên rừng Tây Nguyên với diện tích có rừng (2019) : 2.557.322 ha, chiếm 17,95% tổng diện tích rừng cả nước (xếp thứ 3 so với các vùng) , gồm rừng tự nhiên: 2.206.975 ha, rừng trồng 350.347 ha, độ che phủ: 46,01% (đứng thứ 4 so với các vùng).

Bảo tồn và phát triển là bài toán khó, mọi thời đều phải đối mặt . Đến với Tây Nguyên mới, đọc lại và suy ngẫm:(Hoàng Kim)

 

 

Đến với Tây Nguyên mới Nguyễn Bạch Mai viết:” Khai mạc Lễ hội Cà phê Buôn Ma Thuột lần thứ 7. Hy vọng Lễ hội sẽ thành công và mang lại niềm vui cho người nông dân quê tôi”. Đến với Tây Nguyên chúng ta thật vui mừng đang cùng đi trong một đội ngũ tâm huyết, thao thức một niềm tin và ước vọng. Các ngành hàng nông nghiệp Việt Nam đang chuyển đổi và vươn tới mạnh mẽ đầy sức xuân.

Tây Nguyên tầm nhìn và giải pháp.

Hội nghị xúc tiến đầu tư vùng Tây Nguyên lần thứ Tư năm 2017 đã tổ chức tại thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk, ngày 11 tháng 3. Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã đến dự và chứng kiến dòng vốn đầu tư kỷ lục vào Tây Nguyên với lễ trao cam kết tín dụng đầu tư của các ngân hàng cho các dự án đầu tư, trao chứng nhận đầu tư, quyết định đầu tư, thỏa thuận đầu tư cho các dự án với tổng vốn kỷ lục hơn 100.000 tỷ đồng.

Tầm nhìn Chính phủ đối với Tây Nguyên: Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cho rằng: “Tây Nguyên có tiềm năng, thế mạnh to lớn, độc đáo nhưng chưa được khai thác tốt. Tây Nguyên không chỉ là phên dậu của Tổ quốc, mà là điểm tựa phát triển của miền Trung, Đông Nam Bộ và cả Tây Nam Bộ. Thời gian qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, chỉ đạo của Nhà nước, sự phấn đấu của cấp ủy, chính quyền 5 tỉnh Tây Nguyên, vùng đã có sự phát triển khởi sắc. Tuy nhiên, sau 40 năm giải phóng, Tây Nguyên còn tồn tại nhiều bất cập như tình trạng mất rừng, mất nguồn nước, mất nhiều cơ hội về đầu tư phát triển, đặc biệt là quy mô, hiệu quả của vùng đất tiềm năng chưa được khai thác đúng mức để phát triển và nâng cao mức sống người dân“. Trang website Thử tướng chính phủ khẳng định.

Thủ tướng chia sẻ tầm nhìn về một Tây Nguyên mới.Đó là Tây Nguyên phải phấn đấu trở thành cao nguyên trù phú về nông nghiệp hữu cơ, đa dạng về sinh thái, giàu có về vốn văn hóa. Chìa khóa cho sự vươn lên giàu có của Tây Nguyên là phát triển ngành chế biến nông lâm nghiệp, dược liệu theo hướng đề cao bản sắc, tính độc đáo trong chuỗi giá trị nông sản thế giới. Đồng thời Tây Nguyên phải là biểu tượng nổi bật của du lịch Việt Nam, mang đậm sắc thái huyền thoại và di sản của châu Á trong thế kỷ thứ 21. Để thực hiện hóa điều đó, Tây Nguyên phải có chiến lược bền vững trong việc hồi sinh trở lại vẻ đẹp đại ngàn của một vùng đất đậm chất sử thi, phải luôn ý thức giữ gìn không gian sống, phát huy các giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể, là truyền thống, niềm tự hào thiêng liêng của các cộng đồng Ê Đê, Jrai, M’nông, Ba Na, Kinh… trong đại các gia đình các dân tộc Việt Nam anh em”.

Các giải pháp lớn đối với Tây Nguyên: Thủ tướng đã gợi mở một số giải pháp chính.

Về du lịch, Tây Nguyên là một kho tàng văn hóa phi vật thể cùng với điều kiện tự nhiên, Chính phủ quyết tâm cùng với Tây Nguyên đưa sử thi Tây Nguyên trở thành di sản văn hóa phi vật thể của thế giới. Càng nhiều người biết đến sử thi này thì sức lan tỏa của du lịch Tây Nguyên càng lớn. Du lịch Việt Nam nói chung và du lịch Tây Nguyên nói riêng cần có chiến lược phát triển đa dạng.

Về nông nghiệp, phải hình thành những vùng chuyên canh lớn và phát triển nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp sạch, tập trung quy mô lớn, giá trị hàng hóa lớn, đặc biệt phải đi vào chế biến sâu, mở rộng chuỗi giá trị sản phẩm.

Về nguồn nhân lực, chất lượng giáo dục cơ bản ở vùng Tây Nguyên phải bằng hoặc cao hơn mức trung bình của cả nước. Tây Nguyên là nóc nhà Đông Dương, là vùng cao về địa lý thì không thể và không nên là vùng trũng giáo dục của cả nước.

Về bảo vệ, phát triển rừng, “cách đây gần một năm, cũng tại Đắk Lắk này, tôi đã tuyên bố đóng cửa rừng tự nhiên. Hôm nay, tôi tái khẳng định quyết tâm mạnh mẽ hơn nữa của Chính phủ, bảo vệ rừng là bảo vệ phần cốt lõi của an ninh, không chỉ là an ninh của vùng đất được mệnh danh là nóc nhà Đông Dương, mà là an ninh của toàn Nam Trung Bộ, Tây Nam Bộ và cả nước”, Thủ tướng nhấn mạnh. 

Bảo vệ rừng là bảo vệ không gian sinh tồn, nguồn nước, sinh kế của người dân, không gian di sản của cha ông. Mọi hành vi phá rừng, khai thác lâm sản trái phép là tội ác. Tiếp tục trồng rừng, không phá rừng nghèo để trồng cây công nghiệp mà tập trung tái canh, nâng cao năng suất thông qua thâm canh các loại cây công nghiệp.

Về công nghiệp, bài toán công nghiệp cho Tây Nguyên chính là công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nâng cao hàm lượng chế biến, mở rộng chuỗi giá trị sản phẩm cây công nghiệp. Đồng ý chủ trương phát triển năng lượng tái tạo, Thủ tướng đặt vấn đề phát triển ở đâu và chỉ rõ: Ở vùng đất không thể trồng được cây gì.

Về hạ tầng, cần tránh tư tưởng làm manh mún. Cần tập trung nguồn lực, “góp gạo thổi cơm” để có công trình hạ tầng then chốt ở Tây Nguyên. Phải xã hội hóa mạnh mẽ việc phát triển hạ tầng, kể cả hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội. Thủ tướng cũng cho rằng, Tây Nguyên cần liên kết với duyên hải miền Trung, miền Đông Nam Bộ, TPHCM và các vùng có thể tiêu thụ được các sản phẩm có giá trị gia tăng cao của Tây Nguyên. Liên kết cả cơ sở hạ tầng, đặc biệt là liên kết du lịch.

Về tín dụng, khuyến khích vay tín chấp, nhất là với hộ nông dân, đồng bào dân tộc; có nhiều hình thức hỗ trợ như cấp bù lãi suất…”

 

 

Đến với Tây Nguyên mới Tôi bắt đầu ký ức bằng bài thơ Câu cá bên dòng Sêrêpôk .tôi viết tại binh trạm gần Buôn Đôn và ít năm sau, khi tôi đã về miền Đông thì đó là nơi rất gần trận Buôn Mê Thuột ngày 10 tháng 3 năm 1975, Chiến tranh Việt Nam Quân Giải phóng bắt đầu tiến đánh Buôn Ma Thuột trong Chiến dịch Tây Nguyên, và chiếm lĩnh thị xã vào hôm sau. Tôi nhớ về Cách mạng sắn ở Việt Nam thành tựu và bài học là điểm sáng toàn cầu được vinh danh tại Hội thảo Cây Có Củ Thế Giới được tổ chức tại Nam Ninh, Quảng Tây, Trung Quốc từ ngày 18 đến ngày 22 tháng 1 năm 2016 trong đó có câu chuyện sắn Miền Đông, sắn Tây Nguyên “Người lính cây sắn và tuổi thơ“.

 

 

”Nghiên cứu kỹ thuật rãi vụ sắn tại tỉnh Đăk Lắk”. Đó là câu chuyện tìm giống sắn mới và kỹ thuật rãi vụ sắn thích hợp ở Tây Nguyên. …

 

denvoitaynguyen

 

Dạy và học Giáo dục Văn hóa, Nông Nghiệp Việt Nam, Khoa học Cây trồng, Du lịch Sinh thái …  bước khởi đầu là phải  tìm hiểu con người, kế đến là thực sự sống với thiên nhiên, nghiên cứu các nét đặc trưng tiêu biểu nhất của vùng đất.

 

 

Đến với Tây Nguyên mới của chúng tôi lần ấy là Bạch Mai và sắn Tây Nguyên. Chúng tôi may gặp bạn cố hương và gặp cả những nhân vật lớn của Học viện Nông nghiệp Việt Nam cựu Hiệu trưởng GS.TS. NGND. Trần Đức Viên (2007 – 2014), tân Hiệu trưởng GS.TS. Nguyễn Thị Lan (2015 – nay) người vừa đoạt Giải thưởng Kovalevskaia 2018, TS. Lê Ngọc Báu Liên hiệp các hội KHKT tỉnh Đắk Lắk với nhiều người khác với những mẫu chuyện hay chưa kịp chép lại

 

 

ĐẾN VỚI TÂY NGUYÊN MỚI
Hoàng Kim

Đến với Tây Nguyênmới,
Phát triển bền vững ở Tây Nguyên,
Nguyên Ngọc với Tây Nguyên
Có những lớp sinh viên như thế

Trà Biển Hồ, Sắn Tây Nguyên
Cách mạng sắn ở Việt Nam
Tắm tiên ở Chư Yang Sin
Chuyện đồng dao cho em

Cao Biền trong sử Việt
Vườn Quốc gia ở Việt Nam
Đào Thế Tuấn chân dung người Thầy
Việt Nam con đường xanh

 

 

“Nóc nhà Đông Dương” là nơi giao hội sinh lộ Đông Tây và sinh lộ Bắc Nam (hình), là chìa khóa vàng kinh tế xã hội quốc phòng địa chính trị văn hóa sử thi Tây Nguyên, Tôi trao đổi với GS.TS. NGND Trần Đức Viên, cũng là Thầy nghề nông chiến sĩ cựu Hiệu trưởng (2007 – 2014) Học Viện Nông nghiệp Việt Nam. Tôi đồng cảm với phát biểu của thầy Viên “Đất đai chưa mang lại yên bình và giàu có cho nông dân !” khi thầy trả lời phỏng vấn của Báo Nông nghiệp Việt Nam ngày 31/07/2019 .Thầy Viên tdvien@vnua.edu.vn nói “Anh Kim Cây Lương thực. Tôi vẫn vào FB của anh để đọc. Nhiều bài viết về Tây Nguyên rất hay. Anh có thể gửi cho tôi các bài/ ý tưởng của Anh/ và những người khác về phát triển nông nghiệp nông thôn Tây Nguyên qua địa chỉ email của tôi: Trân trọng cám ơn anh”.

 

 

ĐẶNG KIM SƠN LẮNG ĐỌNG
Hoàng Kim


TS. Đặng Kim Sơn: Cần lập ‘tuyến đường xanh’ cho nông sản là bài báo nóng hổi tính thời sự và có sức lan tỏa, nguồn VnExpress, Hoàng Phương, chuyển tiếp bởi Báo Tiếp thị Nông sản Việt. Đặng Kim Sơn lắng đọng, Hoàng Kim DẠY VÀ HỌC là chuyện thật đời thường, xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/dang-kim-son-lang-dong/

DẠY VÀ HỌCNông sản Việt đột phá tốt“. Nông nghiệp sẽ không loay hoay trồng cây gì, nuôi con gì; Thương hiệu nông sản Việt cái vòng luẩn quẩn đang được chung tay tháo gỡ vướng mắc; Dự án tổng hợp những giải pháp quyết sách kinh doanh tiếp thị trong và sau Covid 2020-2021; Tổ chức và Thư viện tiếp thị nông sản Việt đã và được xây dựng cũng cố hệ thống bảo tồn và phát triển bền vững. Trong các chuyên gia kinh tế nông sản Việt đang thực sự tác chiến ở tuyến đầu có tiến sĩ Đặng Kim Sơn ở đấy. Tôi liên tưởng tới người cha yêu quý của anh là tướng Đặng Kim Giang làm tổng phụ trách công tác hậu cần cho chiến trường Điện Biên Phủ xưa; sau đó ông làm Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp chuyên về nông trường. Chiến trường điểm nóng và thời điễm quyết liệt cần vị tướng hiền tài dấn thân ấy,

 

 

1

CẦN LẬP TUYẾN ĐƯỜNG XANH CHO NÔNG SẢN
TS Đặng Kim Sơn

“Các bộ ngành, địa phương cần tổ chức một “tuyến đường xanh” ưu tiên nông sản để đảm bảo lưu thông, tránh tình trạng ngăn sông cấm chợ trong bối cảnh dịch bệnh.TS Đặng Kim Sơn, Phó chủ tịch Hiệp hội các doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp, đưa ra đề xuất trên khi trả lời VnExpress.

– Ông nhận thấy điều gì trong suốt quá trình quan sát tình hình tiêu thụ nông sản ở Hải Dương, Bắc Giang qua các đợt dịch?

– Tiêu thụ nông sản trong điều kiện bình thường đã luôn là mối lo thường trực của nông dân và lại càng căng thẳng hơn khi dịch hoành hành. Câu chuyện nông sản ùn ứ phải giải cứu ở Hải Dương trong đợt dịch hồi đầu năm, đến tiêu thụ thuận lợi vải thiều Bắc Giang đã có sự thay đổi khá rõ ràng nhờ được chuẩn bị cẩn thận, bài bản hơn.

Tôi nghĩ có bốn yếu tố làm nên sự khác biệt này. Thứ nhất, sự chuẩn bị của các bộ ngành từ mấy năm trước đã tạo điều kiện mở rộng thị trường quốc tế, nhất là các thị trường cao cấp, tạo thuận lợi cho nông sản xuất khẩu.

Hai, vải thiều trồng đã quy hoạch thành vùng chuyên canh, quản lý khá tốt về tiêu chuẩn chất lượng, vệ sinh an toàn và truy xuất nguồn gốc.

Ba, tỉnh đã chuẩn bị sẵn kịch bản tiêu thụ và tìm cách gỡ tình thế “ngăn sông cấm chợ” để đưa hàng đến cửa khẩu, nơi tập kết. Cuối cùng là sự nhanh nhạy trong khai thác công nghệ, số hóa để giới thiệu sản phẩm, đưa quả vải lên sàn thương mại điện tử kết hợp các chuỗi bán lẻ, bán buôn ở chợ truyền thống trong nước.

– Sự thay đổi này đặt ra cho các tỉnh, thành bài học gì về tiêu thụ nông sản trong dịch?

– Cần sự vào cuộc của cả bộ ngành trung ương, chính quyền địa phương, doanh nghiệp và người dân. Nếu tất cả các bên cùng nỗ lực phối hợp nhịp nhàng thì có thể xử lý được nhiều vấn đề của nông sản. Nhất là các địa phương, luôn cần chủ động chuẩn bị kịch bản ứng phó với các tình huống phát sinh, giúp doanh nghiệp và nông dân tiêu thụ, lưu thông cho nông sản trong dịch, phá thế “ngăn sông cấm chợ”.

Việc chuyển hướng tiêu thụ tốt trong nước cũng là cơ hội nhìn nhận lại tiềm năng của thị trường gần 100 triệu dân có thu nhập đang tăng. Nhất là các loại nông sản dễ hỏng, khó quản lý như hoa tươi, trái cây.

Việc phủ kín thị trường trong nước là thách thức, cũng là cơ hội cho nông sản từng vùng miền, nên có sự tính toán thêm.

– Dịch bệnh vẫn diễn biến phức tạp. Theo ông, nên làm gì để việc vận chuyển, tiêu thụ nông sản không bị ách tắc bởi các chốt kiếm soát?

– “Ngăn sông, cấm chợ” luôn có thể xảy ra khi địa phương sản xuất nào đó trở thành vùng dịch, tại thị trường tiêu thụ bị phong tỏa, hoặc các tỉnh dọc đường lưu thông kiểm soát dịch. Một số địa phương đặt mục tiêu an toàn trên hết, kiểm soát chặt người và phương tiện đi qua đã biến địa bàn mình thành “lãnh địa riêng”. Dù không nơi nào tuyên bố cấm hẳn lưu thông, nhưng các thủ tục rườm rà với chi phí tốn kém có thể triệt tiêu mọi nhiệt huyết hỗ trợ nông dân đang phải xoay sở trong đại dịch.

 

Nông dân Bắc Giang đem vải thiều đi cân, tháng 6/2021. Ảnh: Giang Huy
Nông dân Bắc Giang đem vải thiều đi cân, tháng 6/2021. Ảnh: Giang Huy

 

Việc tổ chức tiêu thụ vải thiều bài bản hơn ở Bắc Giang đã đặt ra vấn đề xác lập tình trạng bình thường mới trong bối cảnh đợt dịch, ổ dịch mới có thể bùng phát bất cứ đâu. Việc này đòi hỏi nỗ lực liên ngành, đi kèm phân định trách nhiệm người lãnh đạo địa phương. Rõ ràng đã đến lúc cần chuyển từ tư duy “giải cứu” bị động sang chủ động trong tổ chức sản xuất, lưu thông hàng hóa, di chuyển lao động, chuyên gia nước ngoài cho cả nông nghiệp và công nghiệp.

Với nông sản, cần tổ chức đồng bộ một “tuyến đường xanh”. Trong đó hàng hóa được kiểm soát tốt ngay từ vùng sản xuất, với những tổ chức và quy chuẩn lưu thông chặt chẽ, tín hiệu chỉ báo dán trên xe có thể phá thế “lãnh địa riêng”, khơi dòng chảy thông suốt cho hàng hóa các vùng phải kiểm soát. Đây là việc nên làm ngay để đối phó với không chỉ dịch bệnh mà còn thiên tai và các tình huống đột xuất.

– Đề xuất cụ thể của ông về việc này như thế nào?

– Tại vùng sản xuất, địa phương, bộ ngành làm việc với doanh nghiệp, nông dân xem nông sản chính nào sắp thu hoạch, khối lượng hàng hóa ra sao, thị trường tiêu thụ ở đâu. Sau đó lên kế hoạch các điểm tập kết hàng đảm bảo an toàn vệ sinh, lái xe được tiêm chủng, xét nghiệm định kỳ. Khi đã xong khâu kiểm định, xe hàng được kẹp chì niêm phong và dán biển hiệu chỉ báo “xe của tuyến đường xanh” chẳng hạn.

Dọc đường đi, xe phải đi đúng tuyến đường định sẵn, có thể theo dõi bằng camera hành trình, hệ thống GPS, đi theo đoàn… Phương tiện nào làm sai quy định về đường đi, người vận chuyển, thời gian, địa điểm, hàng hóa phải bị loại ngay, xóa logo hoặc biển hiệu “tuyến đường xanh”. Xe đi qua các tỉnh thành, chốt kiểm soát được khử khuẩn phòng dịch và hỗ trợ kỹ thuật nhưng không ngăn chặn, kiểm soát lại.

Tại điểm đến, chính quyền địa phương tổ chức sẵn điểm tiếp nhận là nơi trung chuyển hoặc vùng đệm để giao hàng. Kiểm tra giấy tờ, mở kẹp chì xong, đưa ngay vào hệ thống tiêu thụ. Điểm bán cũng cần kiểm soát an toàn dịch bệnh. Loại bỏ các khâu trung gian, chấm dứt các điểm bán hàng “giải cứu” ngoài lề đường.

Tôi cho rằng đây là giải pháp khả thi nếu có sự phối hợp đồng bộ liên ngành, liên vùng, liên tỉnh. Chính phủ xây dựng tổ công tác liên ngành (công thương, nông nghiệp, giao thông, y tế, công an) để thống nhất chương trình, phân công địa phương liên quan cùng tham gia kế hoạch. Tổ công tác này cũng sẽ là “đầu mối” để doanh nghiệp đăng ký thủ tục vào tuyến đường xanh. Ta nói nhiều về 4.0, thương mại điện tử, kinh doanh trực tuyến. Song quyết định thành bại của tiêu thụ nông sản trong tình hình dịch bệnh phải là sự kết hợp đồng bộ giữa các khâu chào hàng, giao dịch, thanh toán và nhất là không bị cản trở trong quá trình vận chuyển hàng hóa từ nơi sản xuất đến nơi tiêu dùng. Nếu khâu này tắc thì 4.0 cũng không làm được gì.

 

Xe chở vải thiều xuất khẩu được đi luồng ưu tiên.Ảnh: Thế Phương
Xe chở vải thiều xuất khẩu được đi luồng ưu tiên. Ảnh: Thế Phương

 

Lần đầu tiên Bắc Giang đã đề nghị truyền thông không dùng từ “giải cứu” vì lo ngại tụt giá nông sản. Như vậy, đây là thông điệp cho thấy đã đến lúc cần thay đổi tư duy về “giải cứu”?

– Tôi nghĩ đề nghị đó là hợp lý, vấn đề không phải chỉ là khiến giá cả xuống thấp nếu dùng từ đó, mà đã đến lúc cả xã hội cần thay đổi cả tư duy định hướng cho hành động. Từ “giải cứu” làm người ta liên tưởng đến cứu trợ nhân đạo – nghĩa cử tình cảm ngắn hạn. Trong bối cảnh “bình thường mới”, việc tiêu thụ nông sản khi xuất hiện ổ dịch là hoạt động kinh tế mang tính dài hạn.

Trước hết, không thể cư xử với nông sản, nông dân theo kiểu nhân đạo như kẻ mạnh nhìn xuống người yếu thế mà ban phát sự hỗ trợ. Đông đảo nông dân có lẽ không cần và cũng không thể sản xuất kinh doanh lâu dài dựa vào điều đó. Việt Nam có lợi thế cao về n&o


 

 

DẠY VÀ HỌC 30 THÁNG 6
Hoàng Kim

CNM365 Tình yêu cuộc sốngĐến với Tây Nguyên mới; Đặng Kim Sơn lắng đọng; Tím một trời yêu thương; Nhà Trần trong sử Việt; Chùa Bửu Minh Biển Hồ; Đình Lạc Giao Hồ Lắk; Hải Như thơ về Người; Nhớ bạn nhớ châu Phi Luân Đôn trong mắt tôi; Thăm nhà cũ của Darwin. Ngày 30 tháng 6 năm 1894, Cầu Tháp Luân Đôn (Tower Bridge) được khánh thành,là cầu bắc qua sông Thames đoạn chảy qua thủ đô của Anh Quốc. Cầu nằm liền với cung điện và pháo đài của Nữ hoàng, tạo thành quần thể danh thắng di sản thế giới của UNESCO biểu tượng nổi tiếng của thành phố Luân Đôn và nước Anh. Cầu Tháp Luân Đôn là một công trình kết hợp cầu treo với cầu nâng (có thể mở ra cho tàu thuyền lớn đi qua). Ngày 30 tháng 6 năm 1337 là ngày sinh của Trần Duệ Tông hoàng đế thứ 9 thời nhà Trần, là vị hoàng đế duy nhất trong lịch sử Việt Nam bị tử trận khi đương quyền. Trần Duệ Tông hoàng đế có lòng dũng cảm, mong muốn chấn hưng Đại Việt và trấn áp kẻ thù nhưng vì ông quá nóng vội nên bại trận. Đại Việt sau trận thua lớn ở Đồ Bàn, những người kế vị đều vô tài nên nhà Trần ngày càng suy, cho đến năm 1400, Hồ Quý Ly chiếm ngôi nhà Trần .Ngày 30 tháng 6 năm 1905, Albert Einstein giới thiệu thuyết tương đối hẹp với tác phẩm “Zur Elektrodynamik bewegter Körper” được tiếp nhận và xuất bản. Bài chọn lọc ngày 30 tháng 6: Đến với Tây Nguyên mới; Đặng Kim Sơn lắng đọng; Tím một trời yêu thương; Nhà Trần trong sử Việt; Chùa Bửu Minh Biển Hồ; Đình Lạc Giao Hồ Lắk; Hải Như thơ về Người; Nhớ bạn nhớ châu Phi; Luân Đôn trong mắt tôi; Thăm nhà cũ của Darwin. Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.comhttp://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-30-thang-6/

 

 

ĐẾN VỚI TÂY NGUYÊN MỚI
Hoàng Kim

Đến với Tây Nguyên mới
Thăm lại chiến trường xưa
Đất khoai sắn nuôi người
Sử thi vùng huyền thoại.

Vầng đá chốn đại ngàn
Rượu cần nơi bản vắng
Câu cá bên dòng Sêrêpôk
Tắm tiên Chư Jang Sin

 

 

Thương Kim Thiết Vũ Môn
Nhớ người hiền một thuở
Hồ Lắk Đình Lạc Giao
Biển Hồ Chùa Bửu Minh

Nước rừng và sự sống
Chuyện đời không thể quên
Cây Lương thực bạn hiền
Lớp học vui ngày mới

 

 

Ai ẩn nơi phố núi
Ai tỏ Ngọc Quan Âm
Ai hiện chốn non xanh
Mây trắng trời thăm thẳm
Nước biếc đất an lành

 

 

Soi bóng mình đáy nước
Sáng bình minh giữa đời
Thung dung làm việc thiện
Vui bước tới thảnh thơi

 

 

Đến với Tây Nguyên mới
Bao chuyện đời không quên

ĐẾN VỚI TÂY NGUYÊN MỚI
Hoàng Kim

Tôi thật tâm đắc với lời bình của tiến sĩ Nguyễn An Tiêm, cựu Phân Viện Trưởng Viện Quy Hoạch và Thiết Kế Nông Nghiệp Việt Nam, là bạn học cũ, khi anh trao đổi cùng với giáo sư Nguyễn Tử Siêm là chuyên gia khoa học đất về bài viết “Giá chúng ta giữ được Tây Nguyên như Bhutan” của nhà văn Nguyên Ngọc. Anh Tiêm nhận xét: “Vâng. Bài viết đáng để chúng ta suy nghĩ, nhất là sinh thái rừng và văn hoá Tây Nguyên. Tuy nhiên cần có cái nhìn đa chiều về bối cảnh lịch sử. Nước ta dân số đông, tốc độ tăng dân số nhanh, kinh tế kém phát triển, đói ăn, nên phải phá rừng để mở rộng đất nông nghiệp. Cái dở là không kiểm soát được quá trình đó một cách hợp lý. Theo quy luật khi nền kinh tế phát triển ở mức nào đó sẽ chuyển đất nông nghiệp sang đất rừng thiết lập hệ sinh thái mới. Quá trình này nhanh hay chậm phụ thuộc vào nhận thức của chúng ta”.

Tây Nguyên mới là một chuỗi chính sách lớn liên tục liên hoàn nhiều năm. Cụ Nguyên Ngọc cảnh báo những vấn đề “Nước mội rừng xanh và sự sống“; “Phát triển bền vững ở Tây Nguyên ” từ rất sớm, nhưng không thay đổi được, không điều chỉnh được dòng chảy của xu thế.

Ngày nay, Tây Nguyên mới đã là vùng đất đa sắc tộc, đa văn hóa, (dân số tăng lên gấp mười lần so với trước đây) theo kết quả điều tra dân số ngày 1/4/2019 dân số Tây Nguyên là 5.842.605 người (dân tộc Kinh: 3.642.726 người, chiếm 62,30%, dân tộc khác : 2.199.879 người, chiếm 37,70%). hình thành được những ngành hàng nông nghiệp quy mô lớn tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu như cà phê, hồ tiêu, cao su. Đặc biệt Cà phê Tây Nguyên nổi tiếng trên thị trường thế giới (2019 diện tích: 630,9 nghìn ha, diện tích thu hoach: 569,4 nghìn ha; năng suất: 27,8 tạ/ha, sản lượng 1,58 triệu tấn , kim ngạch xuất khẩu 2,64 tỷ USD) . Công nghiệp, nhất là chế biến nông, lâm sản từng bước phát triển, gắn kết với vùng nguyên liệu nông nghiệp hình thành chuỗi giá trị hàng hóa ngày càng phát triển. Du lịch phát triển mạnh, với trung tâm là Đà Lạt, Buôn Ma Thuột gắn với đặc sắc về tự nhiên, văn hóa đặc thù Tây Nguyên; Tài nguyên đất Tây Nguyên đa dạng, đa màu sắc với 11 nhóm đất với 33 loại loại đất. Độ phì của đất đai , đặc biệt đất đỏ ba zan đã tạo ra những giá trị đặc trưng cho hệ sinh thái nông nghiệp cao nguyên cho sự phát triển cây công nghiệp, cây ăn quả có giá trị hàng hóa quy mô lớn. Tài nguyên nước Tây Nguyên phần lớn (khoảng 80%) thuộc thượng nguồn lưu vực sông Sê San, Sê rê pôk (chảy sang Căm Pu Chia), sông Đồng Nai và sông Ba. (trong lãnh thổ Việt Nam) và gần 20% diện tích tự nhiên thuộc lưu vục sông Thu Bồn, Trà Khúc, sông Lũy, sông La Ngà … Trên địa bàn Tây Nguyên có 882 hồ chứa nước tự nhiên và 810 đập dâng nước. Tài nguyên rừng Tây Nguyên với diện tích có rừng (2019) : 2.557.322 ha, chiếm 17,95% tổng diện tích rừng cả nước (xếp thứ 3 so với các vùng) , gồm rừng tự nhiên: 2.206.975 ha, rừng trồng 350.347 ha, độ che phủ: 46,01% (đứng thứ 4 so với các vùng).

Bảo tồn và phát triển là bài toán khó, mọi thời đều phải đối mặt . Đến với Tây Nguyên mới, đọc lại và suy ngẫm:(Hoàng Kim)

 

 

Đến với Tây Nguyên mới Nguyễn Bạch Mai viết:” Khai mạc Lễ hội Cà phê Buôn Ma Thuột lần thứ 7. Hy vọng Lễ hội sẽ thành công và mang lại niềm vui cho người nông dân quê tôi”. Đến với Tây Nguyên chúng ta thật vui mừng đang cùng đi trong một đội ngũ tâm huyết, thao thức một niềm tin và ước vọng. Các ngành hàng nông nghiệp Việt Nam đang chuyển đổi và vươn tới mạnh mẽ đầy sức xuân.

Tây Nguyên tầm nhìn và giải pháp.

Hội nghị xúc tiến đầu tư vùng Tây Nguyên lần thứ Tư năm 2017 đã tổ chức tại thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk, ngày 11 tháng 3. Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã đến dự và chứng kiến dòng vốn đầu tư kỷ lục vào Tây Nguyên với lễ trao cam kết tín dụng đầu tư của các ngân hàng cho các dự án đầu tư, trao chứng nhận đầu tư, quyết định đầu tư, thỏa thuận đầu tư cho các dự án với tổng vốn kỷ lục hơn 100.000 tỷ đồng.

Tầm nhìn Chính phủ đối với Tây Nguyên: Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cho rằng: “Tây Nguyên có tiềm năng, thế mạnh to lớn, độc đáo nhưng chưa được khai thác tốt. Tây Nguyên không chỉ là phên dậu của Tổ quốc, mà là điểm tựa phát triển của miền Trung, Đông Nam Bộ và cả Tây Nam Bộ. Thời gian qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, chỉ đạo của Nhà nước, sự phấn đấu của cấp ủy, chính quyền 5 tỉnh Tây Nguyên, vùng đã có sự phát triển khởi sắc. Tuy nhiên, sau 40 năm giải phóng, Tây Nguyên còn tồn tại nhiều bất cập như tình trạng mất rừng, mất nguồn nước, mất nhiều cơ hội về đầu tư phát triển, đặc biệt là quy mô, hiệu quả của vùng đất tiềm năng chưa được khai thác đúng mức để phát triển và nâng cao mức sống người dân“. Trang website Thử tướng chính phủ khẳng định.

Thủ tướng chia sẻ tầm nhìn về một Tây Nguyên mới.Đó là Tây Nguyên phải phấn đấu trở thành cao nguyên trù phú về nông nghiệp hữu cơ, đa dạng về sinh thái, giàu có về vốn văn hóa. Chìa khóa cho sự vươn lên giàu có của Tây Nguyên là phát triển ngành chế biến nông lâm nghiệp, dược liệu theo hướng đề cao bản sắc, tính độc đáo trong chuỗi giá trị nông sản thế giới. Đồng thời Tây Nguyên phải là biểu tượng nổi bật của du lịch Việt Nam, mang đậm sắc thái huyền thoại và di sản của châu Á trong thế kỷ thứ 21. Để thực hiện hóa điều đó, Tây Nguyên phải có chiến lược bền vững trong việc hồi sinh trở lại vẻ đẹp đại ngàn của một vùng đất đậm chất sử thi, phải luôn ý thức giữ gìn không gian sống, phát huy các giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể, là truyền thống, niềm tự hào thiêng liêng của các cộng đồng Ê Đê, Jrai, M’nông, Ba Na, Kinh… trong đại các gia đình các dân tộc Việt Nam anh em”.

Các giải pháp lớn đối với Tây Nguyên: Thủ tướng đã gợi mở một số giải pháp chính.

Về du lịch, Tây Nguyên là một kho tàng văn hóa phi vật thể cùng với điều kiện tự nhiên, Chính phủ quyết tâm cùng với Tây Nguyên đưa sử thi Tây Nguyên trở thành di sản văn hóa phi vật thể của thế giới. Càng nhiều người biết đến sử thi này thì sức lan tỏa của du lịch Tây Nguyên càng lớn. Du lịch Việt Nam nói chung và du lịch Tây Nguyên nói riêng cần có chiến lược phát triển đa dạng.

Về nông nghiệp, phải hình thành những vùng chuyên canh lớn và phát triển nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp sạch, tập trung quy mô lớn, giá trị hàng hóa lớn, đặc biệt phải đi vào chế biến sâu, mở rộng chuỗi giá trị sản phẩm.

Về nguồn nhân lực, chất lượng giáo dục cơ bản ở vùng Tây Nguyên phải bằng hoặc cao hơn mức trung bình của cả nước. Tây Nguyên là nóc nhà Đông Dương, là vùng cao về địa lý thì không thể và không nên là vùng trũng giáo dục của cả nước.

Về bảo vệ, phát triển rừng, “cách đây gần một năm, cũng tại Đắk Lắk này, tôi đã tuyên bố đóng cửa rừng tự nhiên. Hôm nay, tôi tái khẳng định quyết tâm mạnh mẽ hơn nữa của Chính phủ, bảo vệ rừng là bảo vệ phần cốt lõi của an ninh, không chỉ là an ninh của vùng đất được mệnh danh là nóc nhà Đông Dương, mà là an ninh của toàn Nam Trung Bộ, Tây Nam Bộ và cả nước”, Thủ tướng nhấn mạnh. 

Bảo vệ rừng là bảo vệ không gian sinh tồn, nguồn nước, sinh kế của người dân, không gian di sản của cha ông. Mọi hành vi phá rừng, khai thác lâm sản trái phép là tội ác. Tiếp tục trồng rừng, không phá rừng nghèo để trồng cây công nghiệp mà tập trung tái canh, nâng cao năng suất thông qua thâm canh các loại cây công nghiệp.

Về công nghiệp, bài toán công nghiệp cho Tây Nguyên chính là công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nâng cao hàm lượng chế biến, mở rộng chuỗi giá trị sản phẩm cây công nghiệp. Đồng ý chủ trương phát triển năng lượng tái tạo, Thủ tướng đặt vấn đề phát triển ở đâu và chỉ rõ: Ở vùng đất không thể trồng được cây gì.

Về hạ tầng, cần tránh tư tưởng làm manh mún. Cần tập trung nguồn lực, “góp gạo thổi cơm” để có công trình hạ tầng then chốt ở Tây Nguyên. Phải xã hội hóa mạnh mẽ việc phát triển hạ tầng, kể cả hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội. Thủ tướng cũng cho rằng, Tây Nguyên cần liên kết với duyên hải miền Trung, miền Đông Nam Bộ, TPHCM và các vùng có thể tiêu thụ được các sản phẩm có giá trị gia tăng cao của Tây Nguyên. Liên kết cả cơ sở hạ tầng, đặc biệt là liên kết du lịch.

Về tín dụng, khuyến khích vay tín chấp, nhất là với hộ nông dân, đồng bào dân tộc; có nhiều hình thức hỗ trợ như cấp bù lãi suất…”

 

 

Đến với Tây Nguyên mới Tôi bắt đầu ký ức bằng bài thơ Câu cá bên dòng Sêrêpôk .tôi viết tại binh trạm gần Buôn Đôn và ít năm sau, khi tôi đã về miền Đông thì đó là nơi rất gần trận Buôn Mê Thuột ngày 10 tháng 3 năm 1975, Chiến tranh Việt Nam Quân Giải phóng bắt đầu tiến đánh Buôn Ma Thuột trong Chiến dịch Tây Nguyên, và chiếm lĩnh thị xã vào hôm sau. Tôi nhớ về Cách mạng sắn ở Việt Nam thành tựu và bài học là điểm sáng toàn cầu được vinh danh tại Hội thảo Cây Có Củ Thế Giới được tổ chức tại Nam Ninh, Quảng Tây, Trung Quốc từ ngày 18 đến ngày 22 tháng 1 năm 2016 trong đó có câu chuyện sắn Miền Đông, sắn Tây Nguyên “Người lính cây sắn và tuổi thơ“.

 

 

”Nghiên cứu kỹ thuật rãi vụ sắn tại tỉnh Đăk Lắk”. Đó là câu chuyện tìm giống sắn mới và kỹ thuật rãi vụ sắn thích hợp ở Tây Nguyên. …

 

denvoitaynguyen

 

Dạy và học Giáo dục Văn hóa, Nông Nghiệp Việt Nam, Khoa học Cây trồng, Du lịch Sinh thái …  bước khởi đầu là phải  tìm hiểu con người, kế đến là thực sự sống với thiên nhiên, nghiên cứu các nét đặc trưng tiêu biểu nhất của vùng đất.

 

 

Đến với Tây Nguyên mới của chúng tôi lần ấy là Bạch Mai và sắn Tây Nguyên. Chúng tôi may gặp bạn cố hương và gặp cả những nhân vật lớn của Học viện Nông nghiệp Việt Nam cựu Hiệu trưởng GS.TS. NGND. Trần Đức Viên (2007 – 2014), tân Hiệu trưởng GS.TS. Nguyễn Thị Lan (2015 – nay) người vừa đoạt Giải thưởng Kovalevskaia 2018, TS. Lê Ngọc Báu Liên hiệp các hội KHKT tỉnh Đắk Lắk với nhiều người khác với những mẫu chuyện hay chưa kịp chép lại

 

 

ĐẾN VỚI TÂY NGUYÊN MỚI
Hoàng Kim

Đến với Tây Nguyênmới,
Phát triển bền vững ở Tây Nguyên,
Nguyên Ngọc với Tây Nguyên
Có những lớp sinh viên như thế

Trà Biển Hồ, Sắn Tây Nguyên
Cách mạng sắn ở Việt Nam
Tắm tiên ở Chư Yang Sin
Chuyện đồng dao cho em

Cao Biền trong sử Việt
Vườn Quốc gia ở Việt Nam
Đào Thế Tuấn chân dung người Thầy
Việt Nam con đường xanh

 

 

“Nóc nhà Đông Dương” là nơi giao hội sinh lộ Đông Tây và sinh lộ Bắc Nam (hình), là chìa khóa vàng kinh tế xã hội quốc phòng địa chính trị văn hóa sử thi Tây Nguyên, Tôi trao đổi với GS.TS. NGND Trần Đức Viên, cũng là Thầy nghề nông chiến sĩ cựu Hiệu trưởng (2007 – 2014) Học Viện Nông nghiệp Việt Nam. Tôi đồng cảm với phát biểu của thầy Viên “Đất đai chưa mang lại yên bình và giàu có cho nông dân !” khi thầy trả lời phỏng vấn của Báo Nông nghiệp Việt Nam ngày 31/07/2019 .Thầy Viên tdvien@vnua.edu.vn nói “Anh Kim Cây Lương thực. Tôi vẫn vào FB của anh để đọc. Nhiều bài viết về Tây Nguyên rất hay. Anh có thể gửi cho tôi các bài/ ý tưởng của Anh/ và những người khác về phát triển nông nghiệp nông thôn Tây Nguyên qua địa chỉ email của tôi: Trân trọng cám ơn anh”.

 

 

ĐẶNG KIM SƠN LẮNG ĐỌNG
Hoàng Kim


TS. Đặng Kim Sơn: Cần lập ‘tuyến đường xanh’ cho nông sản là bài báo nóng hổi tính thời sự và có sức lan tỏa, nguồn VnExpress, Hoàng Phương, chuyển tiếp bởi Báo Tiếp thị Nông sản Việt. Đặng Kim Sơn lắng đọng, Hoàng Kim DẠY VÀ HỌC là chuyện thật đời thường, xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/dang-kim-son-lang-dong/

DẠY VÀ HỌCNông sản Việt đột phá tốt“. Nông nghiệp sẽ không loay hoay trồng cây gì, nuôi con gì; Thương hiệu nông sản Việt cái vòng luẩn quẩn đang được chung tay tháo gỡ vướng mắc; Dự án tổng hợp những giải pháp quyết sách kinh doanh tiếp thị trong và sau Covid 2020-2021; Tổ chức và Thư viện tiếp thị nông sản Việt đã và được xây dựng cũng cố hệ thống bảo tồn và phát triển bền vững. Trong các chuyên gia kinh tế nông sản Việt đang thực sự tác chiến ở tuyến đầu có tiến sĩ Đặng Kim Sơn ở đấy. Tôi liên tưởng tới người cha yêu quý của anh là tướng Đặng Kim Giang làm tổng phụ trách công tác hậu cần cho chiến trường Điện Biên Phủ xưa; sau đó ông làm Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp chuyên về nông trường. Chiến trường điểm nóng và thời điễm quyết liệt cần vị tướng hiền tài dấn thân ấy,

 

 

1

CẦN LẬP TUYẾN ĐƯỜNG XANH CHO NÔNG SẢN
TS Đặng Kim Sơn

“Các bộ ngành, địa phương cần tổ chức một “tuyến đường xanh” ưu tiên nông sản để đảm bảo lưu thông, tránh tình trạng ngăn sông cấm chợ trong bối cảnh dịch bệnh.TS Đặng Kim Sơn, Phó chủ tịch Hiệp hội các doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp, đưa ra đề xuất trên khi trả lời VnExpress.

– Ông nhận thấy điều gì trong suốt quá trình quan sát tình hình tiêu thụ nông sản ở Hải Dương, Bắc Giang qua các đợt dịch?

– Tiêu thụ nông sản trong điều kiện bình thường đã luôn là mối lo thường trực của nông dân và lại càng căng thẳng hơn khi dịch hoành hành. Câu chuyện nông sản ùn ứ phải giải cứu ở Hải Dương trong đợt dịch hồi đầu năm, đến tiêu thụ thuận lợi vải thiều Bắc Giang đã có sự thay đổi khá rõ ràng nhờ được chuẩn bị cẩn thận, bài bản hơn.

Tôi nghĩ có bốn yếu tố làm nên sự khác biệt này. Thứ nhất, sự chuẩn bị của các bộ ngành từ mấy năm trước đã tạo điều kiện mở rộng thị trường quốc tế, nhất là các thị trường cao cấp, tạo thuận lợi cho nông sản xuất khẩu.

Hai, vải thiều trồng đã quy hoạch thành vùng chuyên canh, quản lý khá tốt về tiêu chuẩn chất lượng, vệ sinh an toàn và truy xuất nguồn gốc.

Ba, tỉnh đã chuẩn bị sẵn kịch bản tiêu thụ và tìm cách gỡ tình thế “ngăn sông cấm chợ” để đưa hàng đến cửa khẩu, nơi tập kết. Cuối cùng là sự nhanh nhạy trong khai thác công nghệ, số hóa để giới thiệu sản phẩm, đưa quả vải lên sàn thương mại điện tử kết hợp các chuỗi bán lẻ, bán buôn ở chợ truyền thống trong nước.

– Sự thay đổi này đặt ra cho các tỉnh, thành bài học gì về tiêu thụ nông sản trong dịch?

– Cần sự vào cuộc của cả bộ ngành trung ương, chính quyền địa phương, doanh nghiệp và người dân. Nếu tất cả các bên cùng nỗ lực phối hợp nhịp nhàng thì có thể xử lý được nhiều vấn đề của nông sản. Nhất là các địa phương, luôn cần chủ động chuẩn bị kịch bản ứng phó với các tình huống phát sinh, giúp doanh nghiệp và nông dân tiêu thụ, lưu thông cho nông sản trong dịch, phá thế “ngăn sông cấm chợ”.

Việc chuyển hướng tiêu thụ tốt trong nước cũng là cơ hội nhìn nhận lại tiềm năng của thị trường gần 100 triệu dân có thu nhập đang tăng. Nhất là các loại nông sản dễ hỏng, khó quản lý như hoa tươi, trái cây.

Việc phủ kín thị trường trong nước là thách thức, cũng là cơ hội cho nông sản từng vùng miền, nên có sự tính toán thêm.

– Dịch bệnh vẫn diễn biến phức tạp. Theo ông, nên làm gì để việc vận chuyển, tiêu thụ nông sản không bị ách tắc bởi các chốt kiếm soát?

– “Ngăn sông, cấm chợ” luôn có thể xảy ra khi địa phương sản xuất nào đó trở thành vùng dịch, tại thị trường tiêu thụ bị phong tỏa, hoặc các tỉnh dọc đường lưu thông kiểm soát dịch. Một số địa phương đặt mục tiêu an toàn trên hết, kiểm soát chặt người và phương tiện đi qua đã biến địa bàn mình thành “lãnh địa riêng”. Dù không nơi nào tuyên bố cấm hẳn lưu thông, nhưng các thủ tục rườm rà với chi phí tốn kém có thể triệt tiêu mọi nhiệt huyết hỗ trợ nông dân đang phải xoay sở trong đại dịch.

 

Nông dân Bắc Giang đem vải thiều đi cân, tháng 6/2021. Ảnh: Giang Huy
Nông dân Bắc Giang đem vải thiều đi cân, tháng 6/2021. Ảnh: Giang Huy

 

Việc tổ chức tiêu thụ vải thiều bài bản hơn ở Bắc Giang đã đặt ra vấn đề xác lập tình trạng bình thường mới trong bối cảnh đợt dịch, ổ dịch mới có thể bùng phát bất cứ đâu. Việc này đòi hỏi nỗ lực liên ngành, đi kèm phân định trách nhiệm người lãnh đạo địa phương. Rõ ràng đã đến lúc cần chuyển từ tư duy “giải cứu” bị động sang chủ động trong tổ chức sản xuất, lưu thông hàng hóa, di chuyển lao động, chuyên gia nước ngoài cho cả nông nghiệp và công nghiệp.

Với nông sản, cần tổ chức đồng bộ một “tuyến đường xanh”. Trong đó hàng hóa được kiểm soát tốt ngay từ vùng sản xuất, với những tổ chức và quy chuẩn lưu thông chặt chẽ, tín hiệu chỉ báo dán trên xe có thể phá thế “lãnh địa riêng”, khơi dòng chảy thông suốt cho hàng hóa các vùng phải kiểm soát. Đây là việc nên làm ngay để đối phó với không chỉ dịch bệnh mà còn thiên tai và các tình huống đột xuất.

– Đề xuất cụ thể của ông về việc này như thế nào?

– Tại vùng sản xuất, địa phương, bộ ngành làm việc với doanh nghiệp, nông dân xem nông sản chính nào sắp thu hoạch, khối lượng hàng hóa ra sao, thị trường tiêu thụ ở đâu. Sau đó lên kế hoạch các điểm tập kết hàng đảm bảo an toàn vệ sinh, lái xe được tiêm chủng, xét nghiệm định kỳ. Khi đã xong khâu kiểm định, xe hàng được kẹp chì niêm phong và dán biển hiệu chỉ báo “xe của tuyến đường xanh” chẳng hạn.

Dọc đường đi, xe phải đi đúng tuyến đường định sẵn, có thể theo dõi bằng camera hành trình, hệ thống GPS, đi theo đoàn… Phương tiện nào làm sai quy định về đường đi, người vận chuyển, thời gian, địa điểm, hàng hóa phải bị loại ngay, xóa logo hoặc biển hiệu “tuyến đường xanh”. Xe đi qua các tỉnh thành, chốt kiểm soát được khử khuẩn phòng dịch và hỗ trợ kỹ thuật nhưng không ngăn chặn, kiểm soát lại.

Tại điểm đến, chính quyền địa phương tổ chức sẵn điểm tiếp nhận là nơi trung chuyển hoặc vùng đệm để giao hàng. Kiểm tra giấy tờ, mở kẹp chì xong, đưa ngay vào hệ thống tiêu thụ. Điểm bán cũng cần kiểm soát an toàn dịch bệnh. Loại bỏ các khâu trung gian, chấm dứt các điểm bán hàng “giải cứu” ngoài lề đường.

Tôi cho rằng đây là giải pháp khả thi nếu có sự phối hợp đồng bộ liên ngành, liên vùng, liên tỉnh. Chính phủ xây dựng tổ công tác liên ngành (công thương, nông nghiệp, giao thông, y tế, công an) để thống nhất chương trình, phân công địa phương liên quan cùng tham gia kế hoạch. Tổ công tác này cũng sẽ là “đầu mối” để doanh nghiệp đăng ký thủ tục vào tuyến đường xanh. Ta nói nhiều về 4.0, thương mại điện tử, kinh doanh trực tuyến. Song quyết định thành bại của tiêu thụ nông sản trong tình hình dịch bệnh phải là sự kết hợp đồng bộ giữa các khâu chào hàng, giao dịch, thanh toán và nhất là không bị cản trở trong quá trình vận chuyển hàng hóa từ nơi sản xuất đến nơi tiêu dùng. Nếu khâu này tắc thì 4.0 cũng không làm được gì.

 

Xe chở vải thiều xuất khẩu được đi luồng ưu tiên.Ảnh: Thế Phương
Xe chở vải thiều xuất khẩu được đi luồng ưu tiên. Ảnh: Thế Phương

 

Lần đầu tiên Bắc Giang đã đề nghị truyền thông không dùng từ “giải cứu” vì lo ngại tụt giá nông sản. Như vậy, đây là thông điệp cho thấy đã đến lúc cần thay đổi tư duy về “giải cứu”?

– Tôi nghĩ đề nghị đó là hợp lý, vấn đề không phải chỉ là khiến giá cả xuống thấp nếu dùng từ đó, mà đã đến lúc cả xã hội cần thay đổi cả tư duy định hướng cho hành động. Từ “giải cứu” làm người ta liên tưởng đến cứu trợ nhân đạo – nghĩa cử tình cảm ngắn hạn. Trong bối cảnh “bình thường mới”, việc tiêu thụ nông sản khi xuất hiện ổ dịch là hoạt động kinh tế mang tính dài hạn.

Trước hết, không thể cư xử với nông sản, nông dân theo kiểu nhân đạo như kẻ mạnh nhìn xuống người yếu thế mà ban phát sự hỗ trợ. Đông đảo nông dân có lẽ không cần và cũng không thể sản xuất kinh doanh lâu dài dựa vào điều đó. Việt Nam có lợi thế cao về nông nghiệp, nông dân là lực lượng mạnh nếu được phát huy và bảo vệ. Việc cần làm là tìm đường cho nông sản tiếp cận thị trường tiêu thụ, nông dân có cơ hội phát triển và nông nghiệp phát huy tiềm năng.

Những chính sách hỗ trợ trong Covid-19 hầu như vắng bóng nông dân sản xuất nhỏ, vùng đồng bào, và các chính sách liên quan chỉ đến được tay họ với một tỷ lệ rất nhỏ. Nông dân là nền móng của sức mạnh ổn định chính trị xã hội trong khó khăn và là động lực quan trọng phát triển kinh tế khi thuận lợi. Giữa đại dịch, trọng tâm không phải giảm nghèo mà là bảo vệ sinh kế tối thiểu để số đông nông dân và kinh tế hộ dễ tổn thương không rơi xuống mức nghèo. Khi chưa có chính sách hỗ trợ thì cần tháo gỡ khó khăn cho họ trước.”

(Nguồn VnExpress – Hoàng Phương)

2

THẦY BẠN TRONG ĐỜI TÔI

Tiến sĩ Đặng Kim Sơn (phải) Giáo sư Mai Văn Quyền, tiến sĩ Hoàng Kim, tiến sĩ Phạm Sĩ Tân với GS TS. V. R. Carangal cùng làm việc trên đồng (hình đầu trang), thăm giống mới và mô hình trồng xen đầu rồng, đậu xanh, đậu nành, lạc với sắn; mô hình trồng xen ngô đậu trong hệ thống cây trồng vùng Đông Nam Bộ. Sự hợp tác giữa chuyên gia IRRI với chuyên gia Việt Nam (Viện Lúa ĐBSCL, Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam) chương trình phát triển lúa và hệ thống canh tác. Đặng Kim Sơn là bạn quý, sâu sắc trong tình bạn của chúng tôi đời thường. Tôi chép lại bài học, anh viết lời tưởng nhớ thầy Đào Thế Tuấn và điếu văn khóc Me thật cảm động..

Hai mẫu chuyện tình bạn đời thường của Đặng Kim Sơn làm tôi nhớ mãi: Anh Sơn là bạn quý biết lưu lại cho đời nhiều điều cao hơn trang sách, nhưng lắng đọng sâu sắc nhất trong tôi là điếu văn khóc Me, lời tưởng nhớ thầy Đào Thế Tuấn kinh tế hộ và đôi điều tình bạn đời thường.

Chúng tôi gắn bó khá thân thiết trong Chương trình Hệ thống Nông nghiệp Việt Nam thuở 1985-1995, khi mà ở các tỉnh phía Bắc giáo sư Đào Thế Tuấn trọng tâm nghiên cứu và phát triển kinh tế hộ nông dân vùng trung du miền núi và đồng bằng sông Hồng, giáo sư Vũ Tuyên Hoàng và phó giáo sư Đinh Văn Cự tập trung nghiên cứu và phát triển hệ thống cây trồng trung du, miền núi và đất cạn đồng bằng. Tại các tỉnh phía Nam, giáo sư Võ Tòng Xuân xây dựng chương trình nghiên cứu và phát triển hệ thống canh tác Đồng Bằng Sông Cửu Long; giáo sư Nguyễn Văn Luật, tiến sĩ Đặng Kim Sơn, tiến sĩ Phạm Sỹ Tân, phó giáo sư Dương Văn Chín xâu chuỗi và lồng ghép chương trình nghiên cứu và phát triển hệ thống canh tác Đồng Bằng Sông Cửu Long với các dự án trong và ngoài nước hợp tác với IRRI, … tập trung chọn tạo giống lúa và nghiên cứu các giải pháp kinh tế kỹ thuật khoa học công nghệ thâm canh lúa; giáo sư Mai Văn Quyền trọng tâm nghiên cứu thâm canh lúa Việt Nam. nghiên cứu và phát triển hệ thống canh tác . Thầy Quyền và tôi chú trong hơn trong việc Nghiên cứu và phát triển hệ thống nông nghiệp; Phương pháp lập kế hoạch hợp lý và tổ chức xây dựng mô hình chuyển giao tiến bộ kỹ thuật hiệu qủa cho các đề tài nghiên cứu nông nghiệp.

 

 

Đặng Kim Sơn thì ngày càng chuyên sâu hơn về Chính sách và Chiến lược Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam. Anh trở thành một chuyân gia đầu ngành về lĩnh vực này. .

Tôi nhớ dịp trước tới thăm mẹ Sơn khi Cụ đã gần trăm tuổi Cụ tuổi cao nhưng vẫn tỉnh táo lạ thường. Tôi hỏi Cụ: – Sinh thời, Cụ kính trọng ai nhất? Cụ nói: Đương nhiên là Bác rồi . – Người thứ hai là ai? Là ông PVĐ, ông ấy là người tốt. (và Cụ nói rất rõ chính kiến của Cụ về những người khác còn lại) – Thế còn chuyện riêng tư này thì sao ạ? – Chuyện ấy là có thật đấy, vì Cụ sống rất gần và nhiều năm chung trong ATK.

Đặng Kim Sơn ngày 25 tháng 5 năm 2019, có bài điếu văn thật cảm động đọc trước mộ Mẹ, là bà Nguyễn Thị Mỹ, quả phụ của tướng Đăng Kim Giang. Tôi lưu lại bài viết này nơi đây như là một nén tâm hương để suy ngẫm.

Tôi vẫn thường đọc lại trích đoạn lời di nguyện cuối cùng Đặng Kim Sơn điếu văn khóc Me:

Mẹ yêu thương. Lũ con cháu chúng con bình sinh tầm thường: thấy thiếu lo đói, thấy nguy sợ hãi, lúc vinh kiêu ngạo, lúc nhục trốn tránh, có lúc ham chơi lười học, có lúc chìm đắm chức quyền, chăm con cái hơn phụng dưỡng thân sinh, tham vật chất hơn trau dồi trí tuệ, nhiều lúc không nghe lời cha, lắm lúc làm buồn lòng mẹ, may mắn thay có được đấng sinh thành là Bố Mẹ. Chính gương sống đẹp đẽ, nhân cách sáng trong của Người đã giúp lũ chúng con biết hổ thẹn, sửa đổi mình, đoàn kết lại thành một gia đình hạnh phúc, và kì diệu thay, đã hình thành gốc rễ vững chắc để cháu con vượt qua muôn ngàn bất định tương lai.

Không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời. Của cải, chức tước, quan hệ, sức khỏe, sắc đẹp không phải là đặc ân người trước truyền mãi được cho đời sau. Trước biến động thế gian, biết bao kẻ đang chết trên quyền lực, sẽ khóc giữa bạc tiền. Chỉ có lẽ sống mà bố mẹ để lại cho chúng con mới thực sự là giá trị vĩnh cửu!. Con cháu sẽ đời đời khắc ghi lời mẹ di chúc: “Các con! các cháu! Hãy thương yêu đùm bọc nhau cố phấn đấu vươn lên, sống tử tế nhân hậu. Có tài có đức sẽ thành đạt” .

Chúng con, các cháu, xin vâng lời mẹ dạy!

Mẹ hãy yên tâm mà siêu thoát.“

Tôi cũng đã chép lại Đặng Kim Sơn lời tưởng nhớ thầy Đào Thế Tuấn kinh tế hộ, sự lắng đọng thật sâu sắc “đậy nắp quan tài định luận” cao hơn trang văn là một con người: “Thầy Tuấn kinh tế hộ” bài viết của Mai Văn Quyền, Hoàng Kim có đoạn này: Tiến sĩ Đặng Kim Sơn, nguyên Viện trưởng Viện Chính sách và Chiến lược Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam đã viết về giáo sư viện sĩ Đào Thế Tuấn ngày 19 tháng 1 năm 2011 lúc tiễn Thầy lên đường về cõi vĩnh hằng: “Không còn nữa nhà trí thức tài hoa Đào Thế Tuấn; người yêu nước từ thủa ấu thơ, khi có giặc thì cầm súng bảo vệ tổ quốc, khi hoà bình thì nghiên cứu hạt lúa, củ khoai; người lãnh đạo mà tài sản quí nhất trong nhà chỉ là sách vở. Nhưng còn mãi với chúng ta giọng nói miền Trung sang sảng của giáo sư khẳng khái tranh cãi học thuật; mãi còn đó nụ cười hóm hỉnh, dí dỏm của Giáo sư khi bàn bạc về lẽ đời; nhớ mãi dáng vẻ ngơ ngác, cặm cụi tìm tòi của con người mà trí tuệ và lòng bao dung vượt qua những trăn trở đời thường. Chỉ có tương lai mới cho chúng ta biết đã mất gì khi mất đi Đào Thế Tuấn và cũng chỉ có thời gian mới cho chúng ta biết mình được gì do ông để lại. Vĩnh biệt Giáo sư Đào Thế Tuấn – Con Người tuyệt đẹp của một Gia Đình tuyệt đẹp”.

Đó là hai mẫu chuyện đời thường của Đặng Kim Sơn và Hoàng Kim mà tôi luôn nhớ mãi:

Dưới đây là toàn văn Đặng Kim Sơn điếu văn khóc Me

 

3

MẸ HÃY YÊN TÂM MÀ SIÊU THOÁT
Điếu văn Bà Nguyễn Thị Mỹ quả phụ tướng Đặng Kim Giang
(Đặng Kim Sơn đọc trước mộ mẹ ngày 25 tháng 5 năm 2019)

 

Kính thưa các ông bà, cô bác họ hàng, láng giềng, quí vị quan khách. Gia đình chúng tôi vô cùng cảm kích được đón tiếp quí vị đến vĩnh biệt Mẹ, Bà, Cụ của chúng tôi: Nguyễn Thị Mỹ, sinh ngày 2 tháng 3 năm 1919, mất ngày 22 tháng 5 năm 2019 (tức ngày 18 tháng 4 âm lịch), tròn 100 tuổi đời đóng góp cho đất nước, hi sinh vì gia đình.

Một đời làm mẹ. Ông ngoại tôi sang Lào làm việc, sinh ra mẹ tôi ở thành phố Luangpharabang. Gia đình về Việt Nam để lại bà khi đó mới mười mấy tuổi, suốt 7 năm một mình thay bố mẹ nuôi dạy hai em trên xứ người. Năm 1944, bà về Đà Lạt học trường cao đẳng nữ công thì chiến tranh nổ ra, mất liên lạc với lũ em nhỏ, bà trở về quê hương ở làng Kim Lũ, phủ Hà Đông.

Cuối năm 1946, bà lập gia đình với ông Đặng Kim Giang. Hạnh phúc đến đúng lúc toàn quốc kháng chiến, bà phải làm mẹ từ lúc chưa sinh con. Chồng gánh nhiệm vụ chủ tịch Ủy ban Hành chính Kháng chiến tỉnh Hà Đông, bà phải một mình nuôi con chồng, nuôi cháu chồng, chạy giặc từ quê hương Hà Đông đi xa dần ra Hà Nam, Ninh Bình, Thanh Hóa rồi lên Việt Bắc. Kiếm sống gian nan mà mẹ vẫn mở lòng đón thêm con nuôi đang cảnh bơ vơ.

Đàn con đầu đã lớn lên đi học và tham gia kháng chiến. Bà một mình sinh con gái ở vùng tự do Thanh Hóa trong lúc chồng đang đánh chiến dịch Biên Giới, sinh con trai trong khi ông đang chỉ huy hậu cần chiến dịch Điện Biên Phủ. Năm 1954, Hà Nội hòa bình, hai ông bà được ở bên nhau khi hai con giai và gái ra đời và đón thêm con gái chồng về cùng gia đình, tưởng như phúc phận người mẹ đã đủ đầy nhưng những biến động chính trị một lần buộc bà tiếp tục thiên chức làm mẹ.

Năm 1967, cụ ông đang là thứ trưởng Bộ Nông trường Quốc doanh thì lâm nạn chính trị. Gia đình đang là cán bộ cao cấp trở thành đối tượng thù địch. Trong gian khó thời chiến tranh và kinh tế bao cấp, mọi người dân đều khổ, các đối tượng bị phân biệt đối xử lại càng gian nan hơn. Con cái phải phiêu bạt đào than ngoài mỏ Quảng Ninh, đi xuất khẩu lao động xứ người, lên nông trường trên Yên Thế, vào khai hoang trong Hà Tiên,… Bà chìa đôi vai nhỏ bé gánh mọi sức nặng, làm trụ cột cho cả nhà.

Bà một mình chăm ông và làm mẹ nuôi dạy cả lũ 6 đứa cháu nội, cháu ngoại. Chăm cháu ốm, dạy cháu học, chạy chợ, nấu ăn, chăm sóc cả nhà, bà còn lo kiếm thêm tiền bằng trông trẻ, khâu vá thuê. Đúng lúc gia cảnh tối tăm, người ngoài xa lánh, bà vẫn dang tay cưu mang thêm con nuôi – con người bạn chiến đấu đang gặp nạn là cháu Tân con bác Kỳ Vân.

Tình mẹ nhân hậu và vô tư ấy đã làm rung động mọi trái tim của 9 người con và dâu rể, cháu, chắt và làm chúng tôi thay đổi dù rất khác nhau về tính cách. Trong gia đình chúng tôi, mẹ là mẹ chung. Di chúc của mẹ kể tên cả 9 đứa con và căn dặn: “ Mẹ không có tiền của để lại cho các con nhưng để lại cho các con muôn vàn tình thương yêu và nếu quả thật có linh hồn và có quyền lực thì sẽ hết sức giúp đỡ con cái sau khi chết ”. Cả đến khi đã đi xa mẹ vẫn dốc lòng chăm sóc đàn con.

Suốt đời làm thày. Tốt nghiệp Thành chung năm 1937, cô giáo Mỹ bắt đầu nghề dạy học từ năm 18 tuổi, 7 năm dạy dỗ những trò nhỏ xứ Xiêng Khoảng và Thà Khẹt. Trở về quê hương bà tiếp tục dạy học ở thị xã Hà Đông. Suốt 7 năm đầu kháng chiến, bà giáo tiếp tục dạy các trường vùng tự do Thanh Môn, Nho Quan, nữ trung học Liên khu 3 và Nguyễn Thượng Hiền ở Hà Đông, Hà Nam, Ninh Bình, Thanh Hóa. Năm 1953, kháng chiến trở nên quyết liệt, bà tạm biệt học trò, theo chồng lên chiến khu.

Hòa bình lập lại, tháng 11 năm 1954 bà rời quân ngũ với tấm Huy chương kháng chiến hạng nhất và huy chương Chiến Thắng hạng nhì, về với bục giảng Hà Nội. Cô giáo Mỹ dạy trường Thanh Quan, Đống Đa, Nguyễn Công Trứ, Chu Văn An, Nguyễn Trãi. Năm 1966, gia đình lại rời Hà Nội về Bắc Ninh, bà dạy học sinh nông thôn ở trường cấp 2 Việt Đoàn, trường Hiên Vân. Dù trường tỉnh, thủ đô hay trường làng, ở đâu những bài giảng văn học, những câu chuyện lịch sử, những kiến thức địa lý của cô giáo Mỹ cũng thổi vào hồn học sinh tình người, nghĩa nước.

Cuộc chiến cam go nhất cho sự nghiệp giáo dục của bà là đòi quyền học hành cho con mình. Suốt 40 năm “trồng người” nhưng bà bị cách chức Hiệu phó trường làng, bị đưa ra khỏi Đảng. Người phụ nữ gày yếu, nhỏ bé kiên cường gõ mọi cánh cửa từ trung ương đến địa phương đòi quyền học hành cho con cái. Chỉ nhờ sự dũng cảm của mẹ và lòng tử tế của những người trong cuộc mà cánh cửa đại học, cao đẳng tưởng như đã sập lại hẳn, mới hé mở cho 3 người con nhỏ nhất trong nhà.

Thật vinh hạnh là anh chị em nhà tôi có những ngày được học lớp do mẹ mình truyền dạy. Trước lớp, con cái vẫn “thưa cô” với mẹ. Người thày trong mẹ đã nâng giữ nhịp cầu để chúng tôi tiếp cận nền học vấn hiện đại, có cơ hội thành đạt bằng trí tuệ. Điều quan trọng hơn cả là truyền thống văn hóa của Bố, gương sống của Mẹ đã hướng cho đội ngũ học trò và các lớp cháu con lẽ đời tử tế, tiếp sức mạnh của tình người mà chẳng một ngôi trường danh tiếng nào khắp thế giới truyền dạy nổi.

Một lòng giữ nước, cứu nhà.

Đến Đà Lạt học đúng lúc miền Bắc chìm trong nạn đói 1945, cô nữ sinh trường Pháp ngày đêm đi quyên tiền cứu giúp người. Cách mạng Tháng Tám, như ngàn vạn trí thức đến với cách mạng, bà diện áo dài thêu hoa, đeo đồ trang sức xuống đường tham gia tuần hành dành chính quyền rồi làm việc tại Ủy ban Lâm thời Đà Lạt và tham gia ban Chấp hành phụ nữ Cứu quốc thành phố. Hưởng ứng “tuần lễ vàng” năm 1945, bà dốc hết đồ trang sức và của nả đóng sạch cho ngân khố.

Hồ hởi đến với cách mạng, bà giáo vào quân ngũ và thấm dần nỗi đớn đau cùng cực của chiến tranh. Ngày Hà Nội chìm trong lửa kháng chiến 1947, bà trực tiếp giữ kho vũ khí 300 ở Hà Đông và dẫn dắt đám học trò nhỏ đẩy toa tàu điện chở đạn từ Hà Đông ra tiếp tế cho mặt trận. Khi cuộc chiến trở nên quyết liệt năm 1953, bà gia nhập quân đội, đánh máy cho Tổng cục Hậu cần và làm báo địch vận tiếng Pháp trên chiến khu Việt Bắc.

Nhân thế đảo lộn dạy bà rằng cách mạng là hy sinh chứ không phải là ngày hội và phải cuộc chiến áo cơm tàn ác chẳng kém đạn bom. Nhà tan cửa nát, kiếm ăn từng bữa, bà vẫn kiên cường trước đe dọa, dụ dỗ quyền lợi, một lòng bảo vệ chồng con. Lũ con đi xuất khẩu lao động xa xứ đổi mồ hôi, nước mắt gửi hàng hóa về, bà ở nhà một mình nhận hàng, bán đồ, tả xung hữu đột với đám buôn bán giang hồ, tích cóp cho con cái về mua xong nhà, xin được việc.

Một chiều năm 1996, cuối cùng gánh nặng công việc, sức ép chính trị, nỗi lo gia đình đã xô ngã bà giáo già 77 tuổi, bà gục xuống một mình trong căn bếp nhỏ. Mấy tiếng mê man, đợi cháu đi học về, bà còn cố bò ra, đu lên mở cửa, hoàn thành nhiệm vụ cuối. Suốt 23 năm nằm liệt, bà kiên cường chiến đấu với bệnh tật, vẫn vui vẻ bình luận thời sự, nói chuyện đời xưa cho đến ngày im lặng, nhẹ nhàng ra đi.

Mẹ yêu quí của chúng con, nhìn lại 100 năm cuộc đời, đi qua 2 cuộc chiến tranh, chịu đựng bao biến động bể dâu, chứng kiến nhiều lẽ đời ngang trái nhưng không ai hiểu nổi người mẹ vóc hạc, sức mây làm sao có được sức lực, tinh thần để vượt qua sóng gió, chịu bao tủi nhục, xây hậu phương vững chắc cho bố yên tâm chiến đấu bảo vệ tổ quốc, bảo vệ lẽ phải; cho 16 con cái, dâu rể và 59 cháu chắt nội ngoại lớn khôn và rộng đường tiến tới tương lai.

Mẹ Mỹ yêu thương. Lũ con cháu chúng con bình sinh tầm thường: thấy thiếu lo đói, thấy nguy sợ hãi, lúc vinh kiêu ngạo, lúc nhục trốn tránh, có lúc ham chơi lười học, có lúc chìm đắm chức quyền, chăm con cái hơn phụng dưỡng thân sinh, tham vật chất hơn trau dồi trí tuệ, nhiều lúc không nghe lời cha, lắm lúc làm buồn lòng mẹ, may mắn thay có được đấng sinh thành là Bố Mẹ. Chính gương sống đẹp đẽ, nhân cách sáng trong của Người đã giúp lũ chúng con biết hổ thẹn, sửa đổi mình, đoàn kết lại thành một gia đình hạnh phúc, và kì diệu thay, đã hình thành gốc rễ vững chắc để cháu con vượt qua muôn ngàn bất định tương lai.

Không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời. Của cải, chức tước, quan hệ, sức khỏe, sắc đẹp không phải là đặc ân người trước truyền mãi được cho đời sau. Trước biến động thế gian, biết bao kẻ đang chết trên quyền lực, sẽ khóc giữa bạc tiền. Chỉ có lẽ sống mà bố mẹ để lại cho chúng con mới thực sự là giá trị vĩnh cửu!. Con cháu sẽ đời đời khắc ghi lời mẹ di chúc: “Các con! các cháu! Hãy thương yêu đùm bọc nhau cố phấn đấu vươn lên, sống tử tế nhân hậu. Có tài có đức sẽ thành đạt” .

Chúng con, các cháu, xin vâng lời mẹ dạy!

Mẹ hãy yên tâm mà siêu thoát

Literature Ms. Nguyen Thi My, widow Dang Kim Giang

(Dang Kim Son read before his mother’s grave on May 25, 2019)

Dear grandparents, relatives, neighbors, guests. Our family is extremely grateful to welcome you to our farewell Mother, Mrs., and Mrs. Nguyen Thi My, born on March 2, 1919, died on May 22, 2019 (ie April 18th). lunar calendar), 100 years old, contributing to the country, sacrificing for the family.

A mother’s life. My grandfather went to Laos to work, born my mother in Luangpharabang city. The family returned to Vietnam to leave her when she was only ten years old, for 7 years alone, replacing her parents raising two children in the country. In 1944, she went back to Dalat to study at a college of women, the war broke out, lost contact with the children, she returned to her hometown in Kim Lu village, Ha Dong province.

At the end of 1946, she married Mr. Dang Kim Giang. Happiness comes at the right time for the whole country to resist the war, she has to be a mother since she was not born. Husband is in charge of chairing the Resistance Administrative Committee of Ha Dong province, she must raise her husband, raise her husband and run the enemy from Ha Dong homeland to go further to Ha Nam, Ninh Binh and Thanh Hoa and then go to Vietnam. North. The arduous living sword still opened my heart to welcome more adopted children.

The first children grew up going to school and joined the resistance. She alone gave birth to a daughter in the Thanh Hoa Free Zone while her husband was fighting the Border Campaign, giving birth to a son while he was conducting the logistics of the Dien Bien Phu campaign. In 1954, Hanoi was peaceful, the two grandparents were together when the two daughters and girls were born and welcomed their husbands and daughters back to their families. times forced her to continue to be a mother.

In 1967, he was the deputy minister of the State Agricultural Ministry, then he was in political trouble. Families are high-ranking officials to become hostile. In the difficult time of war and subsidized economy, all people were suffering, the discriminated subjects became even more arduous. Children have to go out to dig coal outside Quang Ninh mine, export labor from the country, to the farm on Yen The, to reclaim the land in Ha Tien, … She holds small shoulders to carry all the weight, as a pillar for whole house.

She alone takes care of him and serves as a foster mother to teach all 6 grandchildren and grandchildren. Take care of her sick, teach her to learn, run the market, cook, take care of the whole family, she also worries about earning more money by looking after children and sewing. At the right time in the dark scene, the people are alienated, she still has a hand to carry more adopted children – the son of a fighting friend who is in danger is a child of a new son Ky Van.

That motherly and carefree motherhood has touched all the hearts of 9 children and bride-in-law, grandchildren, great-grandchildren and made us change despite being very different in personality. In our family, mother is a common mother. The mother’s will tells the names of all 9 children and tells them: ” I have no money to leave for you but leave you with a great deal of love and if there is indeed a soul and power, it will end Helping children after death ”. Even when she was away, she was still keen to take care of her cubs.

Lifelong work. Graduating from the General City in 1937, the American teacher started her teaching career from the age of 18, 7 years of teaching small games of Xieng Khoang and Tha Khet. Back home, she continued to teach in Ha Dong town. During the first 7 years of the resistance, the teacher continued to teach the liberal schools Thanh Mon, Nho Quan, high school girls of the 3rd and Nguyen Thuong Hien districts in Ha Dong, Ha Nam, Ninh Binh and Thanh Hoa. In 1953, the resistance became fierce, and she bid farewell to the student, following her husband to the war zone.

Peace was repeated, in November 1954 she left the army with the first-class Resistance Medal and the Second Victory Medal, returning to the Hanoi podium. The American teacher taught the schools Thanh Quan, Dong Da, Nguyen Cong Tru, Chu Van An and Nguyen Trai. In 1966, the family left Hanoi for Bac Ninh, she taught rural students at Viet Doan secondary school, Hien Van school. Whether the provincial school, the capital or the village school, where the literature lectures, historical stories, the geography knowledge of American teachers also blew into the souls of the human love, the country.

The hardest fight for her education career is to demand the right to study for her child. During 40 years of “planting people”, she was dismissed from the village vice-rector. The frail woman, small and stubborn, knocked on every door from the central to the local level, demanding her children’s education. Only thanks to the courage of the mother and the kindness of the insiders, the door of the university and college seems to have collapsed completely, opening it to the three youngest children in the house.

It is a pleasure to have my brothers and sisters have the days of class taught by my mother. Before the class, the children were still “ladies” with their mother. The teacher in the mother has raised the bridge so that we can approach the modern education, have the opportunity to succeed by intellect. The most important thing is the cultural tradition of Dad, Mother’s life example has directed the team of students and their grandchildren’s class to be kind, receiving the power of human love without any famous school all over the world. well-known teaching circles.

A heart to keep the water, save the house.

Arriving in Da Lat at the right time when the North was sunk in famine 1945, the French school girl day and night went to collect money to help people. August Revolution, like thousands of intellectuals who came to the revolution, she wore a floral embroidery, jewelry and accessories to participate in the government’s march, then worked at the Provisional Committee of Da Lat and participated in the Committee. Executive City of the National Salvation Responding to the “golden week” in 1945, she slipped all of her jewelry and made it clear to the treasury.

Ho came to the revolution, the teacher entered the army and absorbed the extreme pain of the war. On the day of Hanoi sunk in the fire of resistance in 1947, she directly held the 300 arsenal in Ha Dong and led the small pupils to push the electric carriages carrying bullets from Ha Dong to supply the front. When the war became fierce in 1953, she joined the army, typed for the General Department of Logistics and made enemy soldiers move in French on the Viet Bac war zone.

The world reversed to teach her that the revolution was sacrificed, not a festival, and a war of cruelly like rice bombs. The house was broken, and ate every meal, she was resilient to threaten, seduce benefits, and protect her husband and children. Children go to export labor from abroad to change sweat, tears to send goods, she stays home alone to receive goods, sell goods, describe the sudden conflict with the trafficking traffickers, accumulate children to finish buying home, get a job.

One afternoon in 1996, finally the burden of work, political pressure, worrying about the family falling over a 77-year-old teacher, she collapsed alone in a small kitchen. Some coma, waiting for her to go home, she tried to crawl out, swing up and open the door, complete the last mission. During 23 years of paralysis, she was resilient in fighting the disease, still happily commenting on the news, talking the old life until the day of silence, gently leaving.

Our beloved mother, looking back on 100 years of life, went through 2 wars, endured many changes in the strawberry tank, witnessed many things left and right, but no one understood the mother of the crane, how to do it to gain strength and spirit to overcome the turbulence, to suffer humiliation, to build a solid rear for him to be assured of fighting to defend the country, to protect righteousness; for 16 children, bridegroom and 59 grandchildren to grow up and expand to the future.

My mother loves. Our children and grandchildren are born mediocre: see lack of hunger, fear of fear, pride in pride, shame and escape, sometimes sluggish play, sometimes sinking in power, taking care of children more and more body and mind, materiality is better than cultivating intellect, sometimes disobeying his father’s words, sometimes saddening his mother, fortunately having the birth of a parent. It is the beautiful example of his life, his bright personality, helping us to be ashamed, to modify ourselves, to become a happy family, and miraculously, have formed a solid root for our children. overcome thousands of uncertainties in the future.

Nobody is rich in three families, no one is difficult for three lives. Wealth, title, relationship, health, beauty are not the privilege of the people who passed on to the next life. Before the world fluctuations, so many people are dying on power, will cry among the money. Only the life that my parents left for us is truly an eternal value !. The children and grandchildren will forever inscribe their mother’s wishes: “Children! children! Please love to protect each other and strive to live up and live kindly and kindness. Having talent and virtue will succeed ” .

We, grandchildren, obey my mother! Please rest assured that you escape.

Tôi xin được chép lại Đặng Kim Sơn lời tưởng nhớ thầy Đào Thế Tuấn kinh tế hộ, sự lắng đọng thật sâu sắc “Không còn nữa nhà trí thức tài hoa Đào Thế Tuấn; người yêu nước từ thủa ấu thơ, khi có giặc thì cầm súng bảo vệ tổ quốc, khi hoà bình thì nghiên cứu hạt lúa, củ khoai; người lãnh đạo mà tài sản quí nhất trong nhà chỉ là sách vở. Nhưng còn mãi với chúng ta giọng nói miền Trung sang sảng của giáo sư khẳng khái tranh cãi học thuật; mãi còn đó nụ cười hóm hỉnh, dí dỏm của Giáo sư khi bàn bạc về lẽ đời; nhớ mãi dáng vẻ ngơ ngác, cặm cụi tìm tòi của con người mà trí tuệ và lòng bao dung vượt qua những trăn trở đời thường. Chỉ có tương lai mới cho chúng ta biết đã mất gì khi mất đi Đào Thế Tuấn và cũng chỉ có thời gian mới cho chúng ta biết mình được gì do ông để lại. Vĩnh biệt Giáo sư Đào Thế Tuấn – Con Người tuyệt đẹp của một Gia Đình tuyệt đẹp”.

Tôi cũng xin được trích lời Đặng Kim Sơn điếu văn khóc Me,

“Mẹ yêu thương. Lũ con cháu chúng con bình sinh tầm thường: thấy thiếu lo đói, thấy nguy sợ hãi, lúc vinh kiêu ngạo, lúc nhục trốn tránh, có lúc ham chơi lười học, có lúc chìm đắm chức quyền, chăm con cái hơn phụng dưỡng thân sinh, tham vật chất hơn trau dồi trí tuệ, nhiều lúc không nghe lời cha, lắm lúc làm buồn lòng mẹ, may mắn thay có được đấng sinh thành là Bố Mẹ. Chính gương sống đẹp đẽ, nhân cách sáng trong của Người đã giúp lũ chúng con biết hổ thẹn, sửa đổi mình, đoàn kết lại thành một gia đình hạnh phúc, và kì diệu thay, đã hình thành gốc rễ vững chắc để cháu con vượt qua muôn ngàn bất định tương lai.

Không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời. Của cải, chức tước, quan hệ, sức khỏe, sắc đẹp không phải là đặc ân người trước truyền mãi được cho đời sau. Trước biến động thế gian, biết bao kẻ đang chết trên quyền lực, sẽ khóc giữa bạc tiền. Chỉ có lẽ sống mà bố mẹ để lại cho chúng con mới thực sự là giá trị vĩnh cửu!. Con cháu sẽ đời đời khắc ghi lời mẹ di chúc: “Các con! các cháu! Hãy thương yêu đùm bọc nhau cố phấn đấu vươn lên, sống tử tế nhân hậu. Có tài có đức sẽ thành đạt” .

Chúng con, các cháu, xin vâng lời mẹ dạy!

Mẹ hãy yên tâm mà siêu thoát.

 

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là c490ang-kim-son-lang-dong-3.jpg

 

4

CHUYỆN CỔ TÍCH NGƯỜI LỚN

Giáo sư Nguyễn Văn Luật;Thầy Luật lúa OMCS OM, anh hùng lao động, tác giả chính cụm công trình lúa ĐBSCL giải thưởng Hồ Chí Minh, chủ biên sách ‘Lúa Việt Nam thế kỷ 20’ 1500 trang đã viết: “Bài điếu văn khóc mẹ qua đời thật sâu sắc, xúc động! vì nói lên từ trái tim mình về Người Mẹ đã vượt qua bao khó khăn trong kháng chiến chống xâm lược làm tròn nhiệm vụ cô giáo; nỗi nhọc nhằn bởi oan trái do sự đố kị l trong hoàn cảnh nào thì Cụ Mỹ vẫn làm tròn “Thiên chức của Người Mẹ!”: nuôi dậy đàn con cháu phát triển gia đình đóng góp cho đất nước như TS Đặng Kim Sơn!“.

Giáo sư Nguyễn Tử Siêm là người trong
Chuyện thầy Nguyễn Tử Siêm, chuyên gia đất, trưởng ban biên soạn tập 9 Bách khoa thư Việt Nam về Nông nghiệp và Thủy lợi đã viết: “Tưởng nhớ và biết ơn tướng Đặng Kim Giang, phó tư lệnh mặt trận Điện Biên Phủ, nguyên thứ trưởng Bộ Nông nghiệp. Ngưỡng mộ phu nhân Nguyễn Thị Mỹ – người phụ nữ yêu nước, nhà giáo mẫu mực, người mẹ hiền thục nuôi dạy TS Đặng Kim Sơn và các con cháu chắt thành những công dân xứng đáng. Lịch sử của một gia đình cũng là mảnh ghép của dân tộc ta. Cảm ơn TS Hoàng Kim về bài tổng quan công phu”.

Tôi cảm ơn giáo sư
Luat Nguyen và giáo sư Nguyễn Tử Siêm về những trao đổi sâu lắng.và nêu thêm lời tâm đắc: CNM365 “THẦY BẠN TRONG ĐỜI TÔI” là một dạng thức hồi ký, bút ký triết học tình yêu cuộc sống nhằm lưu lại những chuyện thực đời thường ảnh hưởng tới DẠY VÀ HỌC LÀM NGƯỜI, là sự tập hợp và xâu chuỗi những ghi chú ngắn mỗi ngày. Tiến sĩ Đặng Kim Sơn cựu Viện trưởng Viện Chính sách và Chiến lược Nông nghiệp Phát triển Nông thôn có nhiều đóng góp trong công việc và chính sách, chiến lược cho ngành.Viết về Đặng Kim Sơn thì Hoàng Kim sâu sắc nhất 5 ý: 1) Mẹ, 2) Cha (sâu lắng sự ảnh hưởng người cha ẩn trong tính cách, nghề nghiệp của Sơn) 3) Thầy, 4) Bạn, 5) Lời Mẹ dặn (lời Cụ dặn con cháu và lời Cụ nói với HK đánh giá các nhân vật lịch sử)

Tôi chưa kịp hoàn thiện bài viết này chỉ lưu lại chút hình ảnh và ghí chú (Note) Đặng Kim Sơn lắng đọng để quay lại. Sơn hãy đọc bài
Ông Bảy Nhị An GiangChuyện cổ tích người  lớn nhé. Mỗi chúng ta chỉ nhỏ nho thôi trong sự đi tới của dân tộc Việt. Nhưng chúng mình đều thực sự tin rằng”Chung tay vỗ nên bộp“. Chung sức trên đường xuân

 

 

CHÙA BỬU MINH BIỂN HỒ
Hoàng Kim


Thương trà Biển Hồ
Chùa Bửu Minh
Sương che mờ sáng
Biển ẩn thâm xanh
Chẳng giấu được Tháp Hiền

Nhớ Trà Tân Cương
Cụ Phùng Cung
“Quất mãi nước sôi
Trà đau nát bã
Không đổi giọng Tân Cương”

Người hiền dân tin
Đất lành chim đậu
Trần Huyền Trang và
Tháp Đại Nhạn
Thăm thẳm một góc nhìn.

Một đời người
Một ngôi chùa
Một Biển Hồ
Một bóng nắng
Một dát vàng
Gần trần nhưng thoát tục

https://www.youtube.com/embed/eY88tcaKI14?version=3&rel=1&fs=1&autohide=2&showsearch=0&showinfo=1&iv_load_policy=1&wmode=transparent

Chua Buu Minh – Nghĩa Hưng, Chư Păh, Gia Lai.
Nguồn:
https://www.youtube.com/watch?v=eY88tcaKI14

 

 

Đến với Tây Nguyên mới Đọc tiếp và xem hình
https://hoangkimlong.wordpress.com/category/den-voi-tay-nguyen-moi-2/

 

 

HẢI NHƯ THƠ VỀ NGƯỜI
Hoàng Kim

DẠY VÀ HỌC. Nghiên cứu về Con Người và Sự nghiệp của Bác Hồ cần đọc Hồ Chí Minh tuyển tập trọn bộ ba tập Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội năm 2002, 2178 trang. Tiếp đến là cụm bảy tác phẩm chính, chứa đựng nhiều thông tin đầu nguồn, đó là: 1) “Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam” của đại tướng Võ Nguyên Giáp chủ biên; 2) “Điếu văn của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam do đồng chí Lê Duẩn, Bí thư thứ nhất, đọc tại Lễ truy điệu trọng thể Hồ Chủ tịch, ngày 9 tháng 9 năm 1969 đúc kết sâu sắc năm cống hiến kiệt xuất nhất của chủ tịch Hồ Chí Minh đối với đất nước; 3).”Nhân cách lớn của chủ tịch Hồ Chí Minh ” do giáo sư Trần Văn Giàu đúc kết bảy phẩm chất cơ bản của Bác “được con dân nước Việt và thế giới ngợi ca”. 4) “Bác Hồ rất ít trích dẫn !” bài của chủ tịch Trường Chinh về phong cách văn chương của chủ tịch Hồ Chí Minh; 5) “Những nhận thức về tư tưởng Hồ Chí Minh” của thủ tướng Phạm Văn Đồng nhà lãnh đạo gần gũi nhất bên cạnh Bác; 6) “Búp sen xanh ” và cụm 20 tác phẩm của “nhà văn Sơn Tùng – người viết về Bác Hồ thành công nhất 7) Chúng cháu canh giấc Bác ngủ, Bác Hồ ơi” và chùm 41 bài thơ của nhà thơ Hải Như – người làm thơ về Bác Hồ ấn tượng nhất. Trong bảy tài liệu trên, thơ Hải Như ở vị trí khiêm nhường nhưng làm sáng góc nhìn Con Người Bác Hồ; xem tiếp Hải Như thơ về Ngườihttps://hoangkimlong.wordpress.com/category/hai-nhu-tho-ve-nguoi/

 

 

Bài viết mới trên DẠY VÀ HỌC
https://hoangkimvn.wordpress.com bấm vào đây cập nhật mỗi ngày

PDF và Video yêu thích

 

 

Mùa xuân đầu tiên (Văn Cao) -Thanh Thúy
Ban Mai; Chỉ tình yêu ở lại
Ngày hạnh phúc của em
Giúp bà con cải thiện mùa vụ
Quà tặng cuộc sống yêu thích
Kỷ yếu Khoa Nông Học 65 năm thành lập Khoa
Kỷ yếu 65 năm Trường Đại học Nông Lâm TP Hồ Chí Minh
Kỷ niệm 65 năm Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh
Bài học quý giá biết chăm sóc sức khỏe
Secret Garden, Bí mật vườn thiêng 
KimYouTube

Trở về trang chính
Hoàng Kim Long, Ngọc Phương NamThung dungDạy và Học, Việt Nam Học, Cây Lương thực Việt Nam, Tình yêu Cuộc sống, CNM365; Kim on LinkedIn Kim on Facebook Kim on Twitter

Số lần xem trang : 15365
Nhập ngày : 30-06-2021
Điều chỉnh lần cuối : 30-06-2021

Ý kiến của bạn về bài viết này


In trang này

Lên đầu trang

Gởi ý kiến

  Việt Nam học

  #cnm365 #cltvn 1 tháng 1(01-01-2022)

  Dạy và học 31 tháng 12(31-12-2021)

  Dạy và học 30 tháng 12(30-12-2021)

  Dạy và học 29 tháng 12(29-12-2021)

  Dạy và học 28 tháng 12(29-12-2021)

  Dạy và học 27 tháng 12(28-12-2021)

  Dạy và học 26 tháng 12(26-12-2021)

  Dạy và học 25 tháng 12(26-12-2021)

  Dạy và học 24 tháng 12(24-12-2021)

  Dạy và học 23 tháng 12(23-12-2021)

Trang kế tiếp ... 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46

Hoàng Kim, Khoa Nông Học, Trường ĐH Nông Lâm TP.HCM, ĐTDĐ:0903 613024,Email:hoangkimvietnam1953@gmail.com, hoangkim@hcmuaf.edu.vn

Thiết kế: Quản trị mạng- ĐHNL 2007