Số lần xem
Đang xem 362 Toàn hệ thống 1130 Trong vòng 1 giờ qua
Trang liên kết
Tỉnh thức
giữa đêm thiêng Yên Tử
Để thấm hiểu đức Nhân Tông
Ta thành tâm đi bộ
Lên tận đỉnh chùa Đồng
Tâm sáng Ức Trai
trong tựa ngọc TÌNH YÊU CUỘC SỐNG
DẠY VÀ HỌC Để chấn hưng giáo dục Việt Nam cấp thiết phải có đội ngũ những người thầy giáo ưu tú có tâm đức thiết tha với nghề, có trình độ chuyên môn cao và có kỹ năng giảng dạy tốt. Đây là trang thông tin chuyên đề dạy và học để trao đổi và bàn luận
Norman Borlaug Lời Thầy dặn Việc chính đời người chỉ ít thôi
Chuyên tâm đừng bận chuyện trời ơi
Phúc hậu suốt đời làm việc thiện
Di sản muôn năm mãi sáng ngời.
Di sản thế giớilà danh hiệu cao quý và lâu đời nhất trong các danh hiệu của UNESCO. Di sản thế giới gồm ba loại hình di sản văn hóa thế giới, di sản thiên nhiên thế giới và di sản hỗn hợp văn hóa và thiên nhiên thế giới. Việt Nam hiện có 8 di sản được UNESCO công nhận di sản thế giới gồm 5 di sản văn hóa thế giới là Hoàng Thành Thăng Long, cố đô Huế, Vịnh Hạ Long, Vườn Quốc gia Phong Nha Kẻ Bàng, Quần thể danh thắng Tràng An, Thánh địa Mỹ Sơn, phố cổ Hội An, Thành Nhà Hồ. Ngoài 8 di sản thế giới ở Việt Nam được UNESCO công nhận còn có 1 di sản thế giới Cao nguyên đá Đồng Văn công viên địa chất toàn cầu thuộc Vườn Quốc Gia ở Việt Nam với 11 di sản văn hóa thế giới phi vật thể và 6 di sản tư liệu. Tổng cộng có 26 di sản thế giới tại Việt Nam.
HOÀNG THÀNH THĂNG LONG
Hoàng thành Thăng Long Hà Nội khu di tích Trung tâm được Ủy ban di sản thế giới (thuộc UNESCO) chính thức công nhận là di sản văn hóa thế giới ngày 31-07-2010 tại Hội nghị lần thứ 34, tổ chức tại thủ đô Brasilia của Braxin. Khu di tích Trung tâm Hoàng thành Thăng Long- Hà Nội nằm trong khu vực thuộc quận Ba Đình – Hà Nội với tổng diện tích là 18,395 ha. Trong đó bao gồm khu khảo cổ học được khai quật (ở số 18 đường Hoàng Diệu) và các di tích còn lưu giữ được trong khu di tích Thành cổ Hà Nội như: cột cờ Hà Nội, Đoan Môn, Điện Kính thiên, Hậu Lâu, Bắc Môn cùng phần tường bao và 8 cổng hành cung được xây dựng thời Nguyễn. Khu di tích Trung tâm Hoàng thành Thăng Long – Hà Nội được hình thành từ thời nhà Lý, từ sau những năm 1011 cùng với kinh thành Thăng Long. Kinh thành Thăng long được xây dựng theo mô hình “Tam Trùng Thành Quách”, bao gồm có 3 vòng thành: La thành hay còn gọi là Kinh thành bao quanh kinh đô men theo 3 con sông: sông Hồng, Tô Lịch và sông Kim Ngưu. Tiếp đến là Hoàng thành (vòng thành thứ 2) và trong cùng là Tử Cấm thành (vòng thành thứ 3). Trải qua hơn 10 thế kỷ với nhiều triều đại phong kiến cũng như bao biến cố thăng trầm trong lịch sử Việt Nam, Hoàng thành Thăng Long đã có nhiều sự thay đổi, song riêng khu vực Tử Cấm thành hầu như không thay đổi, chỉ có các kiến trúc bên trong là có sự tu sửa, xây dựng thêm. Vì vậy các di tích ở đây đã có mối liên hệ liên kết khá chặt chẽ tạo nên một tổng thể liên hoàn rất phức tạp nhưng rất phong phú và có sức hấp dẫn đặc biệt trong việc nghiên cứu về vấn đề quy hoạch đô thị và không gian kiến trúc tiếp nối giữa các triều đại trong lịch sử Việt Nam. Đây cũng chính là giá trị độc đáo nhất của khu di tích.
2. CỐ ĐÔ HUẾ
Quần thể di tích cố đô Huế được tổ chức UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới ngày 03/7/1993 tại hội nghị tổ chức ở Colombia. Đây là di sản văn hóa đầu tiên của Việt Nam được vinh danh là Di sản văn hóa thế giới. Quần thể di tích cố đô Huế được phân bố dọc theo tả ngạn và hữu ngạn sông Hương, thuộc thành phố Huế và một vài vùng ngoại ô thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế. Nơi đây là kinh đô của Việt Nam thời Phong kiến – Triều đại nhà Nguyễn từ năm 1802 đến 1945. Trải qua 143 năm dưới sự trị vì của 13 đời vua, kinh đô Huế đã hình thành một hệ thống kiến trúc biểu thị cho quyền uy của chế độ quân chủ trung ương tập quyền Nhà Nguyễn ở Việt Nam thời bấy giờ. Đó là một hệ thống thành quách mẫu mực, những công trình kiến trúc, lịch sử văn hóa vừa mang đậm dấu ấn của nghệ thuật kiến trúc phương Đông vừa có sự giao thoa với nghệ thuật kiến trúc phương Tây. Tất cả được sắp đặt ở những vị thế đặc biệt lồng trong khung cảnh thiên nhiên thơ mộng toát lên một vẻ đẹp cổ kính, uy nghiêm nhưng vẫn rất trữ tình. Một vẻ đẹp độc đáo của kinh đô “rất Việt Nam” với những công trình tiêu biểu như: Hoàng Thành, Tử Cấm Thành, Nghinh Lương Đình, Phu Văn Lâu, Kỳ Đài, Ngọ Môn và các ngôi điện Thái Hòa, Cần Chánh, Kiến Trung,..Ngoài ra còn có 7 cụm lăng tẩm của 9 vị vua, Đàn Nam Giao, Hổ quyền, cùng nhiều kiến trúc đình, điện, chùa phật giáo cổ kính và nhiều địa danh thiên nhiên kỳ thú, thơ mộng như chùa Thiên Mụ, điện Hòn Chén, Lăng Cô, núi Ngự, sông Hương,…đã góp phần tô điểm thêm vẻ đẹp rất đặc trưng của cố đô Huế.
3. VỊNH HẠ LONG
Di sản thiên nhiên Thế giới Vịnh Hạ Long Việt Nam được tổ chức UNESCO 2 lần công nhận là Di sản thiên nhiên Thế giới. Lần 1 vào ngày 17/12/1994, lần 2 vào ngày 02/12/2000 với giá trị ngoại hạng về thẩm mỹ và giá trị địa chất, địa mạo. Vịnh Hạ Long là một phần của Vịnh Bắc bộ, nằm ở vùng Đông Bắc Việt Nam. Vịnh có diện tích 1.553 km2 với 1969 đảo lớn, nhỏ. Trong đó vùng di sản được công nhận bao gồm 775 hòn đảo có diện tích là 434km2. Đây là di sản độc đáo được đánh gía độc nhất vô nhị trên thế giới. Nó không những chứa đựng nhiều dấu tích quan trọng trong quá trình hình thành và phát triển của trái đất, là cái nôi cư trú của người Việt cổ mà còn là một tuyệt tác nghệ thuật của thiên nhiên với hàng trăm, nghìn đảo đá “muôn hình vạn trạng”, cùng nhiều hang động kỳ bí tuyệt đẹp có tuổi kiến tạo địa chất cách đây từ 250-28 triệu năm. Vịnh Hạ Long không những là kỳ quan thiên nhiên của thế giới mà còn là một bảo tàng địa chất quý giá được gìn giữ ngoài trời đến 300 triệu năm. Bên cạnh đó Vịnh còn là nơi tập trung đa dạng sinh học với các hệ sinh thái của vùng biển nhiệt đới rất phong phú, đa dạng trong đó có nhiều loài động thực vật quý hiếm nằm trong Sách đỏ Việt Nam và Thế giới. Vịnh Hạ Long còn là vùng đất được coi là cái nôi của loài người với nền văn hóa Hạ Long qua những di chỉ khảo cổ nổi tiếng như Đồng Mang, Xích Thổ, Thoi Giếng cùng nhiều địa danh gắn với lịch sử đấu tranh oanh liệt, hào hùng của dân tộc như thương cảng Ba Đồn, núi Bài Thơ, sông Bạch Đằng.
4. VƯỜN QUỐC GIA PHONG NHA KẺ BÀNG
Vườn Quốc gia Phong Nha Kẻ Bàng nằm trên địa bàn các huyện Bố Trạch, Quảng Ninh, Minh Hóa của tỉnh Quảng Bình, có tổng diện tích 343.300 ha. Nơi đây được ví như một bảo tàng địa chất khổng lồ bởi cấu trúc địa hình, địa mạo rất phức tạp trải qua quá trình kiến tạo địa chất từ 4 triệu năm trước của trái đất với những cảnh quan thiên nhiên kỳ bí cùng hơn 300 hang động lớn nhỏ đẹp nổi tiếng như Phong Nha, Tiên Sơn, Thiên Đường. Đặc biệt là hang Sơn Đoòng được đánh giá là hang động lớn và dài nhất thể giới (hang cao 250m, rộng 200m, dài 8,5km). Vườn Quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng còn là nơi có hệ động thực vật phong phú, đa dạng và độc đáo với 2400 loài thực vật bậc cao, 140 loài thú, 356 loài chim và hàng trăm loài lưỡng thể cá côn trùng trong đó có nhiều loài quý hiếm được ghi trong Sách đỏ Việt Nam và IUCN của thế giới như: sao la, mang lớn, mang Trường Sơn, Voọc Hà Tĩnh … Có thể nói, Vườn Quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng vừa là một bảo tàng địa chất và cũng là một bảo tàng sinh học khổng lồ ở Việt Nam. Nó có nhiều giá trị to lớn không những đối với Việt Nam mà còn mang ý nghĩa toàn cầu. Vườn Quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng cũng từng được UNESCO công nhận 2 lần là Di sản thiên nhiên Thế giới (Lần 1 vào ngày 3/7/2003 tại Hội nghị Pari – Pháp; lần 2 vào tháng 7/2015 tại Hội nghị họp tại Bon- Đức).
5. QUẦN THỂ DANH THẮNG TRÀNG AN
Quần thể danh thắng Tràng An Bái Đính là di sản thế giới hỗn hợp đầu tiên của Việt Nam được UNESCO chính thức công nhận vào ngày 23/6/2014 dựa trên 3 tiêu chí về văn hóa, thẩm mỹ và các giá trị địa chất, địa mạo. thuộc địa bàn các huyện Hoa Lư, Gia Viễn, Nho Quan và Thành phố Ninh Bình, với tổng diện tích khoảng 10.000 ha trong đó vùng lõi của di sản gồm: khu sinh thái Tràng An, cố đô Hoa Lư, Tam Cốc – Bích Động, ở đây có khoảng 100 hang động vừa là động khô, vừa là động nước. Các hang động xuyên thủy thông giữa các thung được thiên nhiên tạo tác muôn hình muôn vẻ, xung quanh được bao bọc bởi những ngọn núi đá vôi dựng đứng với những hình thù ký thú. Mỗi địa danh hang động nơi đây đều mang ý nghĩa gắn với những câu chuyện, sự kiện lịch sử dựng nước và giữ nước của cha ông từ triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần. Xen lẫn giữa các tuyệt tác thiên nhiên còn có cả những công trình kiến trúc cổ kính do bàn tay con người tạo nên, chúng hòa quyện với nhau trong một không gian huyền ảo, thơ mộng tạo nên vẻ đẹp linh thiêng, huyền bí cho Tràng An. Với sự đa dạng về địa chất địa mạo, về hệ thống cảnh quan hang động được kiến tạo trong thời gian kéo dài hàng triệu năm, Tràng An cũng là khu vực có hệ sinh thái phong phú, đa dạng, vừa trên cạn, vừa dưới nước. ở đây có hàng trăm đến hàng nghìn loài động thực vật khách nhau tropng đó có nhiều loài được ghi trong sách đỏ Việt Nam và Thế giới. Không những chỉ có môi trường thiên nhiên đa dạng, cảnh quan kỳ bí, thơ mộng, Tràng An còn mang trong mình nhiều giá trị lịch sử văn hóa vô giá với những di tích lịch sử thời nguyên thủy đến các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần. Tràng An đã từng là nơi cu trú của người tiền sử, là mảnh đất vua Đinh chọn xây dựng kinh đô đầu tiên của nhà nước Việt Nam phong kiến độc lập: Đại Cồ Việt. Nơi đây cũng từng là thủ đô kháng chiến của vua tôi nhà Trần trong 2 lần chống quân Nguyên xâm lược. Qua đó có thể nói thật hiếm thấy một di sản văn hóa nào hội đủ các giá trị lịch sử, khoa học, thẩm mỹ, sinh thái và môi truờng như Quần thể danh thắng Tràng An của Việt Nam.
6. THÁNH ĐỊA MỸ SƠN
Khu đền tháp Mỹ Sơn được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới ngày 01-12-1999. Khu đền tháp Mỹ Sơn được phân bố tập trung trong một thung lũng được bao bọc xung quanh là đồi núi có đường kính khoảng 2km, từ Đông Trường Sơn đến kinh đô Trà Kiệu (nay thuộc xã Duy Phú, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam). Đây chính là khu thánh địa Ấn Độ giáo của vương quốc Chăm Pa được xây dựng và tồn tại từ thế kỷ VII đến thế kỷ XIII. Đền tháp ở Mỹ Sơn được xây theo từng cụm. Mỗi cụm thường có một đền thờ chính và bao quanh có nhiều tháp nhỏ hoặc một số công trình phụ. Đền tháp được xây bằng gạch, có ghép những mảng trang trí bằng sa thạch. Với kỹ thuật xây tường rất độc đáo (kỹ thuật mài chập xếp khít). Sau khi xây xong tường mới điêu khắc chạm trổ hình hoa lá, người, thú linh lên tháp. Theo đánh giá của các nhà nghiên cứu thì Mỹ Sơn là nơi nghệ thuật kiến trúc Chăm Pa hội tụ một cách đầy đủ nhất. Các phong cách được phát triển liên tục mà chủ yếu nhất là từ thế kỷ VII – XIII. Mỹ Sơn tập trung đến 70 đền tháp, 32 bia ký tồn tại ở nhiều dạng khác nhau. Mặc dù trải qua bao thăng trầm của lịch sử và tác động của mưa nắng, thời gian chúng không còn được hoàn toàn nguyên vẹn nhưng đây vẫn là những cứ liệu tốt và rất quan trọng để nghiên cứu tìm hiểu về nghệ thuật Chăm. Đặc biệt là nghệ thuật điêu khắc Chăm, một nền nghệ thuật độc đáo chịu ảnh hưởng sâu sắc của Ấn Độ giáo có vẻ đẹp mang đậm nét văn hóa dân tộc hấp dẫn đến lạ kỳ.
7. PHỐ CỔ HỘI AN
Đô thị cổ Hội An được Ủy ban di sản thế giới (thuộc UNESCO) chính thức công nhận là Di sản văn hóa thế giới ngày 04-12-1999 tại Hội nghị thứ 23 tổ chức ở Maroc. Đô thị cổ Hội An nằm ở vùng hạ lưu ngã ba sông Thu Bồn, cách thành phố Đà Nằng 30km về phía Nam, thuộc địa phận tỉnh Quảng Nam. Đây là một cảng thị truyền thống Đông Nam Á duy nhất ở Việt Nam và hiếm có trên thế giới. Theo đánh giá của các nhà nghiên cứu thì “các kiến trúc cổ của đô thị cổ Hội An hầu hết được làm mới từ thế kỷ XIX mặc dù năm khởi dựng xưa hơn nhiều”. Ở đây còn lưu giữ và bảo tồn gần như nguyên vẹn được trên 1000 di tích kiến trúc cổ bao gồm: các khu phố, nhà cửa, các hội quán, nhà thờ họ tộc, đình chùa, miếu mạo, giếng cổ,… Các kiến trúc cổ ở đây hầu hết được xây bằng vật liệu truyền thống như gạch, gỗ, phong cách kiến trúc vừa mang yếu tố nghệ thuật Việt Nam vừa có sự tiếp thu tinh hoa kiến trúc của các nước phương Đông( như Nhật Bản, Trung Hoa) và phương Tây. Điều đặc biệt của Hội An là mặc dù đã trải qua bao thế kỷ nhưng những phong tục tập quán, sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng lễ hội, những món ăn truyền thống, nghề thủ công truyền thống vẫn được người dân gìn giữ, bảo tồn và lưu truyền qua nhiều thế hệ cho đến ngày nay. Hội An từng là một thương cảng, nơi có điều kiện giao lưu với nhiều nền văn hóa khác nhau nên người Hội An ngoài những giá trị văn hóa truyền thống đã tiếp thu tinh hoa của các nền văn hóa các dân tộc khác hình thành nên một bản sắc văn hóa phong phú, đa dạng rất riêng và độc đáo. Người Hội An hồn hậu, dễ gần và rất mến khách. Đây cũng là một trong những yếu tố tạo nên sự hấp dẫn đối với du khách khi tới khám phá khu đô thị cổ Hội An.
8. THÀNH NHÀ HỒ
Thành nhà Hồ được Ủy ban di sản thế giới (thuộc UNESCO) chính thức công nhận là di sản văn hóa thế giới ngày 27-06-2011 tại hội nghị lần thứ 35 tổ chức tại Paris (Pháp). Phạm vi phân bố của Thành nhà Hồ gồm các xã Vĩnh Tiến, Vĩnh Long, Vĩnh Quang, Vĩnh Yên, Vĩnh Phúc, Vĩnh Ninh, Vĩnh Khang, vĩnh Thành và thị trấn Vĩnh Lộc thuộc huyện Vĩnh lộc, tỉnh Thanh Hóa. Thành nhà Hồ là kinh đô của Việt Nam giai đoạn từ 1398 đến 1407. Thành được Hồ Quý Ly xây dựng năm 1397. Trong lịch sử Thành còn có nhiều tên gọi khác như: Thành An Tôn, Tây Đô, Tây Kinh, Tây Nhai, Tây Giai. Khu di tích Thành nhà Hồ bao gồm: khu Thành nội, Hào thành, La thành và Đàn tế Nam Giao. Trong đó Thành nội được xây dựng hình vuông, tất cả phần tường thành và 4 cổng chính được xây dựng bằng đá phiến xanh với kỹ thuật xây dựng và điêu khắc rất tinh xảo. Hào thành được đào đắp bao quanh khu Thành nội có 4 cửa đá bắc vào 4 cửa của Thành nội. La thành của Thành nhà Hồ dài khoảng 10km là vòng thành ngoài được xây dựng để che chắn, bảo vệ cho thành nội được dựa theo địa hình sông núi tự nhiên và chủ yếu là đắp bằng đất, tường tre gai bao vệ. Đàn tế Nam Giao được xây dựng năm 1402, đây là một kiến trúc cung đình quan trọng – nơi các vua tế lễ tạ ơn trời đất, cầu quốc thái dân an. Đàn Nam Giao có diện tích khoảng 43.000m2, có 5 nền đất với 5 bậc cấp. Từ nền Đàn cao nhất đến nền thấp nhất có độ chênh lệch nhau tới 7,80m. Thành nhà Hồ được đánh giá là “một công trình kỳ vĩ bởi kỹ thuật và nghệ thuật xây dựng đá lớn và sự kết hợp các truyền thống xây dựng độc đáo có một không hai ở Việt Nam, khu vực Đông Á và Đông Nam Á trong thời kỳ cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV”.
9. CAO NGUYÊN ĐÁ ĐỒNG VĂN
Công viên địa chất toàn cầu Cao nguyên đá Đồng Văn là công viên địa chất đầu tiên của Việt Nam và thứ 2 ở khu vực Đông Nam Á được Hội đồng tư vấn mạng lưới công viên địa chất toàn cầu (GGN) công nhận là công viên địa chất toàn cầu ngày 3/ 10/ 2010, nằm ở độ cao trung bình từ 1000-1600m so với mực nước biển, có diện tích gần 2356km2 thuộc địa bàn 4 huyện: Đồng Văn, Mèo Vạc, Yên Minh, Quảng Bạ của tỉnh Hà Giang, Cao nguyên đá Đồng Văn mang trong mình nhiều di sản về địa chất, địa tầng, kiến trúc phong phú, đa dạng: điển hình như các vườn đá, rừng đá Khâu Vai, Lũng Pù (Mèo Vạc). Cao nguyên đá Đồng Văn được đánh giá là một trong những vùng có hệ địa sinh thái núi đá đẹp, độc đáo và đa dạng nhất trên thế giới. Đặc biệt nơi đây còn phát hiện được 4 di chỉ khảo cổ thời tiền sử thuộc thời kỳ đồ đá cách đây hàng vạn năm. Đây cũng là nơi sinh sống lâu đời cử 17 dân tộc thiểu số vùng cao Bắc Việt Nam có nhiều nét văn hóa độc đáo mang đậm bản sắc văn hóa vùng miền.
10. TÍN NGƯỠNG THỜ CÚNG HÙNG VƯƠNG
Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Phú Thọ là di sản văn hóa phi vật thể đầu tiên của Việt Nam được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại ngày 6/12/2012. Phạm vi công nhận của di sản này được xác định gồm: 109 làng có đình, đền thờ vua Hùng thuộc địa phận Tp.Việt Trì, thị xã Phú Thọ và các huyện Cẩm Khê, Đoan Hùng, Hạ Hòa, Lâm Thao, Phú Ninh, Tam Nông, Thanh Sơn, Thanh Ba, Thanh Thủy, Yên Lộc của tỉnh Phú Thọ. Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương được khởi nguồn từ thời đại các vua Hùng sau đó đã được phát triển mạnh và rất được chú trọng ở các triều đại phong kiến Việt Nam trước đây, đặc biệt thời Hậu Lê, Tây Sơn, nhà Nguyễn đã liên tục sắc phong cho các đền thờ tại Phú Thọ, pháp điển hóa nghi thức thờ cúng, cấp ruộng đất để thu hoa lợi phục vụ cho việc thờ cúng, coi sóc. Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương được gắn với truyền thuyết Lạc Long Quân – Âu Cơ “bọc trăm trứng”, cả dân tộc cùng chung giống nòi, nguồn cội. đồng thời thể hiện đạo lý “uống nuớc nhớ nguồn”, sự gắn kết cộng đồngcũng như tinh thần đoàn kết dân tộc của người Việt Nam. Hàng năm lễ Giỗ tổ Hùng Vương được tổ chức ở các đền thờ vua Hùng trên khắp cả nước trong đó nghi lễ lớn nhất diễn ra tại khu di tích lịch sử đền Hùng tại Phú Thọ. Trong thời gian diễn ra lễ hội còn có nhiều trò chơi dân gian truyền thống như bịt mắt, bát dê, Kéo co, bắt vịt, bắt chạch thi bơi… Ngày nay Đảng và nhà nước ta cũng rất quan tâm đến công tác bảo tồn các di sản văn hóa đặc biệt là tín ngưỡng thờ Quốc tổ Hùng vương và đã đưa vào Quốc lễ. hằng năm cứ vào ngày 10/3 âm lịch nhân dân cả nước đều được nghỉ lễ để tham gia các hoạt động giỗ tổ được tổ chức trọng thể tại các đình, đền thờ vua Hùng ở các địa phương và nô nức hành hương về đất tổ Phú Thọ để tham dự nghi lễ tại khu di tích lịch sử đền Hùng.
11. NHÃ NHẠC CUNG ĐÌNH HUẾ
Nhã nhạc – âm nhạc cung đình Việt Nam là di sản văn hóa phi vật thể đầu tiên của Việt Nam được UNESCO công nhận là kiệt tác di sản văn hóa phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại tại một phiên họp được tổ chức tại Paris nước Pháp ngày 07-11-2003. Nhã nhạc – âm nhạc cung đình Huế bao gồm nhiều thể loại khác nhau: Nhạc lễ nghi sử dụng riêng cho việc cúng tế và triều chính, các ngày quốc lễ và Yến nhạc dùng cho sinh hoạt vui chơi giải trí trong cung của vua chúa và hoàng tộc. Trong đó có cả thể loại ca nhạc đi kèm với múa và kịch hát (múa cung đình, tuồng cung đình). Nhạc cung đình Huế xưa có nhiều thể loại: Giao nhạc, Miếu nhạc, Ngũ Tự nhạc dùng trong các dịp cúng tế trời đất; tổ tông; Đại triều nhạc dùng trong dịp lễ lớn, nghênh tiếp sứ thần; Triều nhạc và Yến nhạc phục vụ nội cung. Múa cung đình Huế tiêu biểu có: Bát Dật, Lục Cung, Tam Tinh, Đấu Chiến Thắng Phật, Tứ Linh, Trình Tường,Tập Khách, Lục Triệt Hoa Mã Đăng… được phân định và sử dụng phù hợp vào các dịp, mục đích khác nhau. Các dàn nhạc và các bản nhạc cung đình triều Nguyễn cũng rất phong phú được biên soạn khá công phu bao gồm nhiều loại có biên chế khác nhau nhằm phục vụ các Nghi lễ và nhu cầu giải trí trong cung như: Nhã Nhạc, Huyền Nhạc, Ti Trúc Tế Nhạc, Tiểu nhạc, Đại nhạc, Nhạc Thiểu, Cổ Xúy Đại Nhạc, … Có thể nói “Nhã nhạc Huế là di sản văn hóa âm nhạc cổ điển bác học Việt Nam” được hình thành trên cơ sờ kế thừa thành tựu của dòng nhạc cung đình, các triều đại quân chủ trước đó ở Việt Nam và có sự sáng tạo phát triển lên một đỉnh cao mới, đây cũng chính là những giá trị vô giá và trường tồn của dân tộc Việt Nam .
12. KHÔNG GIAN VĂN HÓA CỒNG CHIÊNG TÂY NGUYÊN
Không gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên được UNESCO chính thức công nhận là di sản văn hóa phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại vào ngày 25- 11- 2005. Đây là một di sản văn hóa độc đáo của đồng bào các dân tộc Vùng Tây Nguyên Việt Nam. Phạm vị phân bố của “ Không gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên bao gồm 5 tỉnh: Từ KonTum, Gia Lai, Đăk Lăk, Đăk Nông, Lâm Đồng. Chủ nhân của di sản văn hóa độc đáo này là 12 dân tộc tụ cư lâu đời nơi đây: Bana, Ê đê, Xê Đăng, Mơ Nông, Rơ Măm, Mạ, Cơho, Gia Rai… Cồng Chiêng Tây Nguyên là một loại nhạc cụ độc đáo được chế tác chủ yếu bằng đồng có pha thêm một số kim loại khác như vàng, bạc, đồng đen. Các tộc người Tây Nguyên sử dụng cồng chiêng làm nhạc cụ nhưng không tự đúc được Cồng Chiêng mà phải mua của các dân tộc láng giềng. Nhưng sau khi mua về với bàn tay khéo léo, óc sáng tạo, đôi tai thính các nghệ nhân đã biết chỉnh âm lại phù hợp theo hàng âm của tộc người. Chiêng sau khi đã được chỉnh âm sẽ được tổ chức một lễ hiến sinh mời thần Chiêng về trú ngụ trong Chiêng và từ đó “Chiêng mới thật sự là của cải vật chất và tinh thần của con người”,vì vậy Cồng Chiêng mang đậm bản sắc văn hóa tộc người. Đối với người Tây Nguyên, cồng chiêng là cầu nối giao tiếp giữa con người với thần linh. Vì vậy nó được sử dụng nhiều trong các nghi lễ và lệ hội. Thường mỗi tộc người Tây Nguyên đều có một biên chế dàn Chiêng riêng, bản nhạc riêng tùy theo tính chất đặc trưng của từng nghi Lễ mà có nhưng dàn chiêng và bài chiêng phù hợp. Dàn Chiêng và bài Chiêng dùng trong các nghi thức cúng thần khác với dàn Chiêng và bài Chiêng dùng trong nghi thức cầu màu, cầu sức khỏe… Đối với các tộc người Tây Nguyên cồng chiêng là biểu tượng cho sự quyền lực và sự giàu có. Người sở hữu nhiều cồng chiêng không chỉ là người giàu có của cải mà hơn thế còn là người có sức mạnh linh thiêng lớn hơn người khác. Bởi có thần chiêng làm bạn.Chiêng càng cổ thì quyền lực của vị thần càng cao. Tự lâu đời, cồng Chiêng có sự gắn bó mật thiết và không thể thiếu trong đời sống tinh thần của người Tây Nguyên. Cồng Chiêng và không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên là tài sản vô giá về văn hóa lẫn âm nhạc, là di sản văn hóa độc đáo của nhân loại.
13. CA TRÙ
Ca trù là di sản văn hóa phi vật thể của Việt Nam được tổ chức UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại cần được bảo vệ khẩn cấp vào ngày 01-10-2009. Đây là một di sản văn hóa phi vật thể có phạm vi ảnh hưởng lớn nhất, nó có mặt ở 15 tỉnh thành trong cả nước nhưng nhiều nhất ở phía Bắc Việt Nam. Tiêu biểu như ở Hà Nội, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hải Phòng, Hưng Yên, Nam Định, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Tp. Hồ Chí Minh. Được khởi nguồn từ trong dân ca dân vũ dân nhạc Việt Nam, Ca trù là “một bộ môn nghệ thuật tổng hợp với nét độc đáo là sự phối hợp đa dạng tinh tế, nhuần nhuyễn giữa thi ca và âm nhạc, đôi khi có cả múa”. Nó được ra đời từ thế kỉ XI và được phát triển rộng rãi từ thế kỉ XV nhưng mãi đến cuối thể kỷ XX mới được thế giới biết đến và được các nhà Nhạc gia, nhạc sĩ nước ngoài tìm hiểu, nghiên cứu giới thiệu tại nhiều trường đại học nổi tiếng trên thế giới. Ca trù còn được gọi là hát Ả đào, hát Cô Đầu, hát Cửa Đình, hát Nhà Trò, … hát Ca trù thường có 5 không gian trình diễn chính, mỗi không gian đều có lối hát và cách thức trình diễn riêng. Để biểu diễn ca trù ít nhất phải có 3 người: một “Đào nương” hay còn gọi là “Ca Nương” vừa hát vừa gõ phách, một “Kép” (Nam nhạc Công) đệm đàn đáy cho người hát và một “Quan Viên” là người điểm trống chầu. Trong đó ca nương là người được đánh giá cao nhất nhưng cũng là người phải khổ luyện và trải qua nhiều thử thách mới được công nhận. Ca trù xưa được tổ chức khá chặc chẽ và có những quy định cụ thể về sự truyền nghề, học đàn, hát, chọn đào nương đi thi hát… Ca trù là một bộ môn nghệ thuật độc đáo uyên bác. Ca Trù phong phú về lối hát, tinh tế, công phu trong kĩ thuật hát. Ca trù là một trong những kết tinh, nghệ thuật văn hóa tinh tế của tâm hồn người Việt Nam qua bao thế kỷ. Nó mãi là niềm tự hào và xứng đáng là Di sản Văn hóa Phi vật thể và Truyền Khẩu của Việt Nam và nhân loại.
14. QUAN HỌ BẮC NINH
Quan họ Bắc Ninh được tổ chức UNESCO công nhận là: Di sản văn hóa phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại vào ngày 30-9-2009. Phạm vi được công nhận chính thức gồm có 49 làng quan họ ở hai tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang, nhưng tập trung nhiều nhất là ở Bắc Ninh (có 44 làng quan họ). Quan họ Bắc Ninh là những làn điệu dân ca mượt mà, trữ tình của người dân vùng đồng bằng Bắc bộ, với lối hát giao duyên dân dã mộc mạc nhưng mang đậm nghĩa tình của trai gái thông qua những “Liền Anh” “Liền Chị” hát quan họ. Quan Họ Bắc Ninh cũng là môn nghệ thuật được hợp thành từ những yếu tố như: âm nhạc, lời ca, trang phục và lễ hội. Đây cũng là một trong những thể loại dân ca phong phú nhất về mặt giai điệu trong dân ca Việt Nam.
Di sản thế giớilà danh hiệu cao quý và lâu đời nhất trong các danh hiệu của UNESCO. Di sản thế giới gồm ba loại hình di sản văn hóa thế giới, di sản thiên nhiên thế giới và di sản hỗn hợp văn hóa và thiên nhiên thế giới. Việt Nam hiện có 8 di sản được UNESCO công nhận di sản thế giới gồm 5 di sản văn hóa thế giới là Hoàng Thành Thăng Long, cố đô Huế, Vịnh Hạ Long, Vườn Quốc gia Phong Nha Kẻ Bàng, Quần thể danh thắng Tràng An, Thánh địa Mỹ Sơn, phố cổ Hội An, Thành Nhà Hồ. Ngoài 8 di sản thế giới ở Việt Nam được UNESCO công nhận còn có 1 di sản thế giới Cao nguyên đá Đồng Văn công viên địa chất toàn cầu thuộc Vườn Quốc Gia ở Việt Nam với 11 di sản văn hóa thế giới phi vật thể và 6 di sản tư liệu. Tổng cộng có 26 di sản thế giới tại Việt Nam.
HOÀNG THÀNH THĂNG LONG
Hoàng thành Thăng Long Hà Nội khu di tích Trung tâm được Ủy ban di sản thế giới (thuộc UNESCO) chính thức công nhận là di sản văn hóa thế giới ngày 31-07-2010 tại Hội nghị lần thứ 34, tổ chức tại thủ đô Brasilia của Braxin. Khu di tích Trung tâm Hoàng thành Thăng Long- Hà Nội nằm trong khu vực thuộc quận Ba Đình – Hà Nội với tổng diện tích là 18,395 ha. Trong đó bao gồm khu khảo cổ học được khai quật (ở số 18 đường Hoàng Diệu) và các di tích còn lưu giữ được trong khu di tích Thành cổ Hà Nội như: cột cờ Hà Nội, Đoan Môn, Điện Kính thiên, Hậu Lâu, Bắc Môn cùng phần tường bao và 8 cổng hành cung được xây dựng thời Nguyễn. Khu di tích Trung tâm Hoàng thành Thăng Long – Hà Nội được hình thành từ thời nhà Lý, từ sau những năm 1011 cùng với kinh thành Thăng Long. Kinh thành Thăng long được xây dựng theo mô hình “Tam Trùng Thành Quách”, bao gồm có 3 vòng thành: La thành hay còn gọi là Kinh thành bao quanh kinh đô men theo 3 con sông: sông Hồng, Tô Lịch và sông Kim Ngưu. Tiếp đến là Hoàng thành (vòng thành thứ 2) và trong cùng là Tử Cấm thành (vòng thành thứ 3). Trải qua hơn 10 thế kỷ với nhiều triều đại phong kiến cũng như bao biến cố thăng trầm trong lịch sử Việt Nam, Hoàng thành Thăng Long đã có nhiều sự thay đổi, song riêng khu vực Tử Cấm thành hầu như không thay đổi, chỉ có các kiến trúc bên trong là có sự tu sửa, xây dựng thêm. Vì vậy các di tích ở đây đã có mối liên hệ liên kết khá chặt chẽ tạo nên một tổng thể liên hoàn rất phức tạp nhưng rất phong phú và có sức hấp dẫn đặc biệt trong việc nghiên cứu về vấn đề quy hoạch đô thị và không gian kiến trúc tiếp nối giữa các triều đại trong lịch sử Việt Nam. Đây cũng chính là giá trị độc đáo nhất của khu di tích.
2. CỐ ĐÔ HUẾ
Quần thể di tích cố đô Huế được tổ chức UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới ngày 03/7/1993 tại hội nghị tổ chức ở Colombia. Đây là di sản văn hóa đầu tiên của Việt Nam được vinh danh là Di sản văn hóa thế giới. Quần thể di tích cố đô Huế được phân bố dọc theo tả ngạn và hữu ngạn sông Hương, thuộc thành phố Huế và một vài vùng ngoại ô thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế. Nơi đây là kinh đô của Việt Nam thời Phong kiến – Triều đại nhà Nguyễn từ năm 1802 đến 1945. Trải qua 143 năm dưới sự trị vì của 13 đời vua, kinh đô Huế đã hình thành một hệ thống kiến trúc biểu thị cho quyền uy của chế độ quân chủ trung ương tập quyền Nhà Nguyễn ở Việt Nam thời bấy giờ. Đó là một hệ thống thành quách mẫu mực, những công trình kiến trúc, lịch sử văn hóa vừa mang đậm dấu ấn của nghệ thuật kiến trúc phương Đông vừa có sự giao thoa với nghệ thuật kiến trúc phương Tây. Tất cả được sắp đặt ở những vị thế đặc biệt lồng trong khung cảnh thiên nhiên thơ mộng toát lên một vẻ đẹp cổ kính, uy nghiêm nhưng vẫn rất trữ tình. Một vẻ đẹp độc đáo của kinh đô “rất Việt Nam” với những công trình tiêu biểu như: Hoàng Thành, Tử Cấm Thành, Nghinh Lương Đình, Phu Văn Lâu, Kỳ Đài, Ngọ Môn và các ngôi điện Thái Hòa, Cần Chánh, Kiến Trung,..Ngoài ra còn có 7 cụm lăng tẩm của 9 vị vua, Đàn Nam Giao, Hổ quyền, cùng nhiều kiến trúc đình, điện, chùa phật giáo cổ kính và nhiều địa danh thiên nhiên kỳ thú, thơ mộng như chùa Thiên Mụ, điện Hòn Chén, Lăng Cô, núi Ngự, sông Hương,…đã góp phần tô điểm thêm vẻ đẹp rất đặc trưng của cố đô Huế.
3. VỊNH HẠ LONG
Di sản thiên nhiên Thế giới Vịnh Hạ Long Việt Nam được tổ chức UNESCO 2 lần công nhận là Di sản thiên nhiên Thế giới. Lần 1 vào ngày 17/12/1994, lần 2 vào ngày 02/12/2000 với giá trị ngoại hạng về thẩm mỹ và giá trị địa chất, địa mạo. Vịnh Hạ Long là một phần của Vịnh Bắc bộ, nằm ở vùng Đông Bắc Việt Nam. Vịnh có diện tích 1.553 km2 với 1969 đảo lớn, nhỏ. Trong đó vùng di sản được công nhận bao gồm 775 hòn đảo có diện tích là 434km2. Đây là di sản độc đáo được đánh gía độc nhất vô nhị trên thế giới. Nó không những chứa đựng nhiều dấu tích quan trọng trong quá trình hình thành và phát triển của trái đất, là cái nôi cư trú của người Việt cổ mà còn là một tuyệt tác nghệ thuật của thiên nhiên với hàng trăm, nghìn đảo đá “muôn hình vạn trạng”, cùng nhiều hang động kỳ bí tuyệt đẹp có tuổi kiến tạo địa chất cách đây từ 250-28 triệu năm. Vịnh Hạ Long không những là kỳ quan thiên nhiên của thế giới mà còn là một bảo tàng địa chất quý giá được gìn giữ ngoài trời đến 300 triệu năm. Bên cạnh đó Vịnh còn là nơi tập trung đa dạng sinh học với các hệ sinh thái của vùng biển nhiệt đới rất phong phú, đa dạng trong đó có nhiều loài động thực vật quý hiếm nằm trong Sách đỏ Việt Nam và Thế giới. Vịnh Hạ Long còn là vùng đất được coi là cái nôi của loài người với nền văn hóa Hạ Long qua những di chỉ khảo cổ nổi tiếng như Đồng Mang, Xích Thổ, Thoi Giếng cùng nhiều địa danh gắn với lịch sử đấu tranh oanh liệt, hào hùng của dân tộc như thương cảng Ba Đồn, núi Bài Thơ, sông Bạch Đằng.
4. VƯỜN QUỐC GIA PHONG NHA KẺ BÀNG
Vườn Quốc gia Phong Nha Kẻ Bàng nằm trên địa bàn các huyện Bố Trạch, Quảng Ninh, Minh Hóa của tỉnh Quảng Bình, có tổng diện tích 343.300 ha. Nơi đây được ví như một bảo tàng địa chất khổng lồ bởi cấu trúc địa hình, địa mạo rất phức tạp trải qua quá trình kiến tạo địa chất từ 4 triệu năm trước của trái đất với những cảnh quan thiên nhiên kỳ bí cùng hơn 300 hang động lớn nhỏ đẹp nổi tiếng như Phong Nha, Tiên Sơn, Thiên Đường. Đặc biệt là hang Sơn Đoòng được đánh giá là hang động lớn và dài nhất thể giới (hang cao 250m, rộng 200m, dài 8,5km). Vườn Quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng còn là nơi có hệ động thực vật phong phú, đa dạng và độc đáo với 2400 loài thực vật bậc cao, 140 loài thú, 356 loài chim và hàng trăm loài lưỡng thể cá côn trùng trong đó có nhiều loài quý hiếm được ghi trong Sách đỏ Việt Nam và IUCN của thế giới như: sao la, mang lớn, mang Trường Sơn, Voọc Hà Tĩnh … Có thể nói, Vườn Quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng vừa là một bảo tàng địa chất và cũng là một bảo tàng sinh học khổng lồ ở Việt Nam. Nó có nhiều giá trị to lớn không những đối với Việt Nam mà còn mang ý nghĩa toàn cầu. Vườn Quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng cũng từng được UNESCO công nhận 2 lần là Di sản thiên nhiên Thế giới (Lần 1 vào ngày 3/7/2003 tại Hội nghị Pari – Pháp; lần 2 vào tháng 7/2015 tại Hội nghị họp tại Bon- Đức).
5. QUẦN THỂ DANH THẮNG TRÀNG AN
Quần thể danh thắng Tràng An Bái Đính là di sản thế giới hỗn hợp đầu tiên của Việt Nam được UNESCO chính thức công nhận vào ngày 23/6/2014 dựa trên 3 tiêu chí về văn hóa, thẩm mỹ và các giá trị địa chất, địa mạo. thuộc địa bàn các huyện Hoa Lư, Gia Viễn, Nho Quan và Thành phố Ninh Bình, với tổng diện tích khoảng 10.000 ha trong đó vùng lõi của di sản gồm: khu sinh thái Tràng An, cố đô Hoa Lư, Tam Cốc – Bích Động, ở đây có khoảng 100 hang động vừa là động khô, vừa là động nước. Các hang động xuyên thủy thông giữa các thung được thiên nhiên tạo tác muôn hình muôn vẻ, xung quanh được bao bọc bởi những ngọn núi đá vôi dựng đứng với những hình thù ký thú. Mỗi địa danh hang động nơi đây đều mang ý nghĩa gắn với những câu chuyện, sự kiện lịch sử dựng nước và giữ nước của cha ông từ triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần. Xen lẫn giữa các tuyệt tác thiên nhiên còn có cả những công trình kiến trúc cổ kính do bàn tay con người tạo nên, chúng hòa quyện với nhau trong một không gian huyền ảo, thơ mộng tạo nên vẻ đẹp linh thiêng, huyền bí cho Tràng An. Với sự đa dạng về địa chất địa mạo, về hệ thống cảnh quan hang động được kiến tạo trong thời gian kéo dài hàng triệu năm, Tràng An cũng là khu vực có hệ sinh thái phong phú, đa dạng, vừa trên cạn, vừa dưới nước. ở đây có hàng trăm đến hàng nghìn loài động thực vật khách nhau tropng đó có nhiều loài được ghi trong sách đỏ Việt Nam và Thế giới. Không những chỉ có môi trường thiên nhiên đa dạng, cảnh quan kỳ bí, thơ mộng, Tràng An còn mang trong mình nhiều giá trị lịch sử văn hóa vô giá với những di tích lịch sử thời nguyên thủy đến các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần. Tràng An đã từng là nơi cu trú của người tiền sử, là mảnh đất vua Đinh chọn xây dựng kinh đô đầu tiên của nhà nước Việt Nam phong kiến độc lập: Đại Cồ Việt. Nơi đây cũng từng là thủ đô kháng chiến của vua tôi nhà Trần trong 2 lần chống quân Nguyên xâm lược. Qua đó có thể nói thật hiếm thấy một di sản văn hóa nào hội đủ các giá trị lịch sử, khoa học, thẩm mỹ, sinh thái và môi truờng như Quần thể danh thắng Tràng An của Việt Nam.
6. THÁNH ĐỊA MỸ SƠN
Khu đền tháp Mỹ Sơn được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới ngày 01-12-1999. Khu đền tháp Mỹ Sơn được phân bố tập trung trong một thung lũng được bao bọc xung quanh là đồi núi có đường kính khoảng 2km, từ Đông Trường Sơn đến kinh đô Trà Kiệu (nay thuộc xã Duy Phú, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam). Đây chính là khu thánh địa Ấn Độ giáo của vương quốc Chăm Pa được xây dựng và tồn tại từ thế kỷ VII đến thế kỷ XIII. Đền tháp ở Mỹ Sơn được xây theo từng cụm. Mỗi cụm thường có một đền thờ chính và bao quanh có nhiều tháp nhỏ hoặc một số công trình phụ. Đền tháp được xây bằng gạch, có ghép những mảng trang trí bằng sa thạch. Với kỹ thuật xây tường rất độc đáo (kỹ thuật mài chập xếp khít). Sau khi xây xong tường mới điêu khắc chạm trổ hình hoa lá, người, thú linh lên tháp. Theo đánh giá của các nhà nghiên cứu thì Mỹ Sơn là nơi nghệ thuật kiến trúc Chăm Pa hội tụ một cách đầy đủ nhất. Các phong cách được phát triển liên tục mà chủ yếu nhất là từ thế kỷ VII – XIII. Mỹ Sơn tập trung đến 70 đền tháp, 32 bia ký tồn tại ở nhiều dạng khác nhau. Mặc dù trải qua bao thăng trầm của lịch sử và tác động của mưa nắng, thời gian chúng không còn được hoàn toàn nguyên vẹn nhưng đây vẫn là những cứ liệu tốt và rất quan trọng để nghiên cứu tìm hiểu về nghệ thuật Chăm. Đặc biệt là nghệ thuật điêu khắc Chăm, một nền nghệ thuật độc đáo chịu ảnh hưởng sâu sắc của Ấn Độ giáo có vẻ đẹp mang đậm nét văn hóa dân tộc hấp dẫn đến lạ kỳ.
7. PHỐ CỔ HỘI AN
Đô thị cổ Hội An được Ủy ban di sản thế giới (thuộc UNESCO) chính thức công nhận là Di sản văn hóa thế giới ngày 04-12-1999 tại Hội nghị thứ 23 tổ chức ở Maroc. Đô thị cổ Hội An nằm ở vùng hạ lưu ngã ba sông Thu Bồn, cách thành phố Đà Nằng 30km về phía Nam, thuộc địa phận tỉnh Quảng Nam. Đây là một cảng thị truyền thống Đông Nam Á duy nhất ở Việt Nam và hiếm có trên thế giới. Theo đánh giá của các nhà nghiên cứu thì “các kiến trúc cổ của đô thị cổ Hội An hầu hết được làm mới từ thế kỷ XIX mặc dù năm khởi dựng xưa hơn nhiều”. Ở đây còn lưu giữ và bảo tồn gần như nguyên vẹn được trên 1000 di tích kiến trúc cổ bao gồm: các khu phố, nhà cửa, các hội quán, nhà thờ họ tộc, đình chùa, miếu mạo, giếng cổ,… Các kiến trúc cổ ở đây hầu hết được xây bằng vật liệu truyền thống như gạch, gỗ, phong cách kiến trúc vừa mang yếu tố nghệ thuật Việt Nam vừa có sự tiếp thu tinh hoa kiến trúc của các nước phương Đông( như Nhật Bản, Trung Hoa) và phương Tây. Điều đặc biệt của Hội An là mặc dù đã trải qua bao thế kỷ nhưng những phong tục tập quán, sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng lễ hội, những món ăn truyền thống, nghề thủ công truyền thống vẫn được người dân gìn giữ, bảo tồn và lưu truyền qua nhiều thế hệ cho đến ngày nay. Hội An từng là một thương cảng, nơi có điều kiện giao lưu với nhiều nền văn hóa khác nhau nên người Hội An ngoài những giá trị văn hóa truyền thống đã tiếp thu tinh hoa của các nền văn hóa các dân tộc khác hình thành nên một bản sắc văn hóa phong phú, đa dạng rất riêng và độc đáo. Người Hội An hồn hậu, dễ gần và rất mến khách. Đây cũng là một trong những yếu tố tạo nên sự hấp dẫn đối với du khách khi tới khám phá khu đô thị cổ Hội An.
8. THÀNH NHÀ HỒ
Thành nhà Hồ được Ủy ban di sản thế giới (thuộc UNESCO) chính thức công nhận là di sản văn hóa thế giới ngày 27-06-2011 tại hội nghị lần thứ 35 tổ chức tại Paris (Pháp). Phạm vi phân bố của Thành nhà Hồ gồm các xã Vĩnh Tiến, Vĩnh Long, Vĩnh Quang, Vĩnh Yên, Vĩnh Phúc, Vĩnh Ninh, Vĩnh Khang, vĩnh Thành và thị trấn Vĩnh Lộc thuộc huyện Vĩnh lộc, tỉnh Thanh Hóa. Thành nhà Hồ là kinh đô của Việt Nam giai đoạn từ 1398 đến 1407. Thành được Hồ Quý Ly xây dựng năm 1397. Trong lịch sử Thành còn có nhiều tên gọi khác như: Thành An Tôn, Tây Đô, Tây Kinh, Tây Nhai, Tây Giai. Khu di tích Thành nhà Hồ bao gồm: khu Thành nội, Hào thành, La thành và Đàn tế Nam Giao. Trong đó Thành nội được xây dựng hình vuông, tất cả phần tường thành và 4 cổng chính được xây dựng bằng đá phiến xanh với kỹ thuật xây dựng và điêu khắc rất tinh xảo. Hào thành được đào đắp bao quanh khu Thành nội có 4 cửa đá bắc vào 4 cửa của Thành nội. La thành của Thành nhà Hồ dài khoảng 10km là vòng thành ngoài được xây dựng để che chắn, bảo vệ cho thành nội được dựa theo địa hình sông núi tự nhiên và chủ yếu là đắp bằng đất, tường tre gai bao vệ. Đàn tế Nam Giao được xây dựng năm 1402, đây là một kiến trúc cung đình quan trọng – nơi các vua tế lễ tạ ơn trời đất, cầu quốc thái dân an. Đàn Nam Giao có diện tích khoảng 43.000m2, có 5 nền đất với 5 bậc cấp. Từ nền Đàn cao nhất đến nền thấp nhất có độ chênh lệch nhau tới 7,80m. Thành nhà Hồ được đánh giá là “một công trình kỳ vĩ bởi kỹ thuật và nghệ thuật xây dựng đá lớn và sự kết hợp các truyền thống xây dựng độc đáo có một không hai ở Việt Nam, khu vực Đông Á và Đông Nam Á trong thời kỳ cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV”.
9. CAO NGUYÊN ĐÁ ĐỒNG VĂN
Công viên địa chất toàn cầu Cao nguyên đá Đồng Văn là công viên địa chất đầu tiên của Việt Nam và thứ 2 ở khu vực Đông Nam Á được Hội đồng tư vấn mạng lưới công viên địa chất toàn cầu (GGN) công nhận là công viên địa chất toàn cầu ngày 3/ 10/ 2010, nằm ở độ cao trung bình từ 1000-1600m so với mực nước biển, có diện tích gần 2356km2 thuộc địa bàn 4 huyện: Đồng Văn, Mèo Vạc, Yên Minh, Quảng Bạ của tỉnh Hà Giang, Cao nguyên đá Đồng Văn mang trong mình nhiều di sản về địa chất, địa tầng, kiến trúc phong phú, đa dạng: điển hình như các vườn đá, rừng đá Khâu Vai, Lũng Pù (Mèo Vạc). Cao nguyên đá Đồng Văn được đánh giá là một trong những vùng có hệ địa sinh thái núi đá đẹp, độc đáo và đa dạng nhất trên thế giới. Đặc biệt nơi đây còn phát hiện được 4 di chỉ khảo cổ thời tiền sử thuộc thời kỳ đồ đá cách đây hàng vạn năm. Đây cũng là nơi sinh sống lâu đời cử 17 dân tộc thiểu số vùng cao Bắc Việt Nam có nhiều nét văn hóa độc đáo mang đậm bản sắc văn hóa vùng miền.
10. TÍN NGƯỠNG THỜ CÚNG HÙNG VƯƠNG
Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Phú Thọ là di sản văn hóa phi vật thể đầu tiên của Việt Nam được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại ngày 6/12/2012. Phạm vi công nhận của di sản này được xác định gồm: 109 làng có đình, đền thờ vua Hùng thuộc địa phận Tp.Việt Trì, thị xã Phú Thọ và các huyện Cẩm Khê, Đoan Hùng, Hạ Hòa, Lâm Thao, Phú Ninh, Tam Nông, Thanh Sơn, Thanh Ba, Thanh Thủy, Yên Lộc của tỉnh Phú Thọ. Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương được khởi nguồn từ thời đại các vua Hùng sau đó đã được phát triển mạnh và rất được chú trọng ở các triều đại phong kiến Việt Nam trước đây, đặc biệt thời Hậu Lê, Tây Sơn, nhà Nguyễn đã liên tục sắc phong cho các đền thờ tại Phú Thọ, pháp điển hóa nghi thức thờ cúng, cấp ruộng đất để thu hoa lợi phục vụ cho việc thờ cúng, coi sóc. Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương được gắn với truyền thuyết Lạc Long Quân – Âu Cơ “bọc trăm trứng”, cả dân tộc cùng chung giống nòi, nguồn cội. đồng thời thể hiện đạo lý “uống nuớc nhớ nguồn”, sự gắn kết cộng đồngcũng như tinh thần đoàn kết dân tộc của người Việt Nam. Hàng năm lễ Giỗ tổ Hùng Vương được tổ chức ở các đền thờ vua Hùng trên khắp cả nước trong đó nghi lễ lớn nhất diễn ra tại khu di tích lịch sử đền Hùng tại Phú Thọ. Trong thời gian diễn ra lễ hội còn có nhiều trò chơi dân gian truyền thống như bịt mắt, bát dê, Kéo co, bắt vịt, bắt chạch thi bơi… Ngày nay Đảng và nhà nước ta cũng rất quan tâm đến công tác bảo tồn các di sản văn hóa đặc biệt là tín ngưỡng thờ Quốc tổ Hùng vương và đã đưa vào Quốc lễ. hằng năm cứ vào ngày 10/3 âm lịch nhân dân cả nước đều được nghỉ lễ để tham gia các hoạt động giỗ tổ được tổ chức trọng thể tại các đình, đền thờ vua Hùng ở các địa phương và nô nức hành hương về đất tổ Phú Thọ để tham dự nghi lễ tại khu di tích lịch sử đền Hùng.
11. NHÃ NHẠC CUNG ĐÌNH HUẾ
Nhã nhạc – âm nhạc cung đình Việt Nam là di sản văn hóa phi vật thể đầu tiên của Việt Nam được UNESCO công nhận là kiệt tác di sản văn hóa phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại tại một phiên họp được tổ chức tại Paris nước Pháp ngày 07-11-2003. Nhã nhạc – âm nhạc cung đình Huế bao gồm nhiều thể loại khác nhau: Nhạc lễ nghi sử dụng riêng cho việc cúng tế và triều chính, các ngày quốc lễ và Yến nhạc dùng cho sinh hoạt vui chơi giải trí trong cung của vua chúa và hoàng tộc. Trong đó có cả thể loại ca nhạc đi kèm với múa và kịch hát (múa cung đình, tuồng cung đình). Nhạc cung đình Huế xưa có nhiều thể loại: Giao nhạc, Miếu nhạc, Ngũ Tự nhạc dùng trong các dịp cúng tế trời đất; tổ tông; Đại triều nhạc dùng trong dịp lễ lớn, nghênh tiếp sứ thần; Triều nhạc và Yến nhạc phục vụ nội cung. Múa cung đình Huế tiêu biểu có: Bát Dật, Lục Cung, Tam Tinh, Đấu Chiến Thắng Phật, Tứ Linh, Trình Tường,Tập Khách, Lục Triệt Hoa Mã Đăng… được phân định và sử dụng phù hợp vào các dịp, mục đích khác nhau. Các dàn nhạc và các bản nhạc cung đình triều Nguyễn cũng rất phong phú được biên soạn khá công phu bao gồm nhiều loại có biên chế khác nhau nhằm phục vụ các Nghi lễ và nhu cầu giải trí trong cung như: Nhã Nhạc, Huyền Nhạc, Ti Trúc Tế Nhạc, Tiểu nhạc, Đại nhạc, Nhạc Thiểu, Cổ Xúy Đại Nhạc, … Có thể nói “Nhã nhạc Huế là di sản văn hóa âm nhạc cổ điển bác học Việt Nam” được hình thành trên cơ sờ kế thừa thành tựu của dòng nhạc cung đình, các triều đại quân chủ trước đó ở Việt Nam và có sự sáng tạo phát triển lên một đỉnh cao mới, đây cũng chính là những giá trị vô giá và trường tồn của dân tộc Việt Nam .
12. KHÔNG GIAN VĂN HÓA CỒNG CHIÊNG TÂY NGUYÊN
Không gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên được UNESCO chính thức công nhận là di sản văn hóa phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại vào ngày 25- 11- 2005. Đây là một di sản văn hóa độc đáo của đồng bào các dân tộc Vùng Tây Nguyên Việt Nam. Phạm vị phân bố của “ Không gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên bao gồm 5 tỉnh: Từ KonTum, Gia Lai, Đăk Lăk, Đăk Nông, Lâm Đồng. Chủ nhân của di sản văn hóa độc đáo này là 12 dân tộc tụ cư lâu đời nơi đây: Bana, Ê đê, Xê Đăng, Mơ Nông, Rơ Măm, Mạ, Cơho, Gia Rai… Cồng Chiêng Tây Nguyên là một loại nhạc cụ độc đáo được chế tác chủ yếu bằng đồng có pha thêm một số kim loại khác như vàng, bạc, đồng đen. Các tộc người Tây Nguyên sử dụng cồng chiêng làm nhạc cụ nhưng không tự đúc được Cồng Chiêng mà phải mua của các dân tộc láng giềng. Nhưng sau khi mua về với bàn tay khéo léo, óc sáng tạo, đôi tai thính các nghệ nhân đã biết chỉnh âm lại phù hợp theo hàng âm của tộc người. Chiêng sau khi đã được chỉnh âm sẽ được tổ chức một lễ hiến sinh mời thần Chiêng về trú ngụ trong Chiêng và từ đó “Chiêng mới thật sự là của cải vật chất và tinh thần của con người”,vì vậy Cồng Chiêng mang đậm bản sắc văn hóa tộc người. Đối với người Tây Nguyên, cồng chiêng là cầu nối giao tiếp giữa con người với thần linh. Vì vậy nó được sử dụng nhiều trong các nghi lễ và lệ hội. Thường mỗi tộc người Tây Nguyên đều có một biên chế dàn Chiêng riêng, bản nhạc riêng tùy theo tính chất đặc trưng của từng nghi Lễ mà có nhưng dàn chiêng và bài chiêng phù hợp. Dàn Chiêng và bài Chiêng dùng trong các nghi thức cúng thần khác với dàn Chiêng và bài Chiêng dùng trong nghi thức cầu màu, cầu sức khỏe… Đối với các tộc người Tây Nguyên cồng chiêng là biểu tượng cho sự quyền lực và sự giàu có. Người sở hữu nhiều cồng chiêng không chỉ là người giàu có của cải mà hơn thế còn là người có sức mạnh linh thiêng lớn hơn người khác. Bởi có thần chiêng làm bạn.Chiêng càng cổ thì quyền lực của vị thần càng cao. Tự lâu đời, cồng Chiêng có sự gắn bó mật thiết và không thể thiếu trong đời sống tinh thần của người Tây Nguyên. Cồng Chiêng và không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên là tài sản vô giá về văn hóa lẫn âm nhạc, là di sản văn hóa độc đáo của nhân loại.
13. CA TRÙ
Ca trù là di sản văn hóa phi vật thể của Việt Nam được tổ chức UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại cần được bảo vệ khẩn cấp vào ngày 01-10-2009. Đây là một di sản văn hóa phi vật thể có phạm vi ảnh hưởng lớn nhất, nó có mặt ở 15 tỉnh thành trong cả nước nhưng nhiều nhất ở phía Bắc Việt Nam. Tiêu biểu như ở Hà Nội, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hải Phòng, Hưng Yên, Nam Định, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Tp. Hồ Chí Minh. Được khởi nguồn từ trong dân ca dân vũ dân nhạc Việt Nam, Ca trù là “một bộ môn nghệ thuật tổng hợp với nét độc đáo là sự phối hợp đa dạng tinh tế, nhuần nhuyễn giữa thi ca và âm nhạc, đôi khi có cả múa”. Nó được ra đời từ thế kỉ XI và được phát triển rộng rãi từ thế kỉ XV nhưng mãi đến cuối thể kỷ XX mới được thế giới biết đến và được các nhà Nhạc gia, nhạc sĩ nước ngoài tìm hiểu, nghiên cứu giới thiệu tại nhiều trường đại học nổi tiếng trên thế giới. Ca trù còn được gọi là hát Ả đào, hát Cô Đầu, hát Cửa Đình, hát Nhà Trò, … hát Ca trù thường có 5 không gian trình diễn chính, mỗi không gian đều có lối hát và cách thức trình diễn riêng. Để biểu diễn ca trù ít nhất phải có 3 người: một “Đào nương” hay còn gọi là “Ca Nương” vừa hát vừa gõ phách, một “Kép” (Nam nhạc Công) đệm đàn đáy cho người hát và một “Quan Viên” là người điểm trống chầu. Trong đó ca nương là người được đánh giá cao nhất nhưng cũng là người phải khổ luyện và trải qua nhiều thử thách mới được công nhận. Ca trù xưa được tổ chức khá chặc chẽ và có những quy định cụ thể về sự truyền nghề, học đàn, hát, chọn đào nương đi thi hát… Ca trù là một bộ môn nghệ thuật độc đáo uyên bác. Ca Trù phong phú về lối hát, tinh tế, công phu trong kĩ thuật hát. Ca trù là một trong những kết tinh, nghệ thuật văn hóa tinh tế của tâm hồn người Việt Nam qua bao thế kỷ. Nó mãi là niềm tự hào và xứng đáng là Di sản Văn hóa Phi vật thể và Truyền Khẩu của Việt Nam và nhân loại.
14. QUAN HỌ BẮC NINH
Quan họ Bắc Ninh được tổ chức UNESCO công nhận là: Di sản văn hóa phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại vào ngày 30-9-2009. Phạm vi được công nhận chính thức gồm có 49 làng quan họ ở hai tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang, nhưng tập trung nhiều nhất là ở Bắc Ninh (có 44 làng quan họ). Quan họ Bắc Ninh là những làn điệu dân ca mượt mà, trữ tình của người dân vùng đồng bằng Bắc bộ, với lối hát giao duyên dân dã mộc mạc nhưng mang đậm nghĩa tình của trai gái thông qua những “Liền Anh” “Liền Chị” hát quan họ. Quan Họ Bắc Ninh cũng là môn nghệ thuật được hợp thành từ những yếu tố như: âm nhạc, lời ca, trang phục và lễ hội. Đây cũng là một trong những thể loại dân ca phong phú nhất về mặt giai điệu trong dân ca Việt Nam. Hát quan họ là hình thức hát đối đáp nam nữ giữa làng này với làng kia mà người ta còn gọi là “Bọn nam” “ Bọn nữ”. Một làng quan họ thường có nhiều “Bọn nam” và “Bọn nữ”. Khi hát có sự phân công hát dẫn, hát cặp để tạo được sự tương hợp về giọng ca. Việc truyền dạy dân ca quan họ cũng rất khác biệt so với các loại dân ca khác đó là tục “ngủ bọn”. Thường thiếu niên nam nữ trong làng từ 9-17 tuổi thường rủ nhau buổi tối tập trung tại nhà ông trùm để học cách nói năng, ứng đối và luyện giọng ghép đôi giữa “Liền anh” và “Liền chị” cho hợp giọng để đi hát. Trang phục và ẩm thực trong Quan họ Bắc Ninh cũng đặc biệt ấn tượng: vừa đẹp và trang trọng, thể hiện tình cảm thắm thiết của chủ nhà đối với khách cũng như tập quán của mỗi làng quê. Đó là trầu têm cánh phượng cánh quế, chè Thái, mâm son, thịt gà, giò lụa. Trang phục liền chị nổi bật với nón ba tầm, quai thao, khăn mỏ quạ, yếm váy… Liền anh áo the khăn xếp, ô lục soạn, áo the dài nâu thâm đi với quần, dép. Quan họ Bắc Ninh là nét văn hóa tiêu biểu của người dân vùng Kinh Bắc và là một trong những thể loại dân ca có làn điệu phong phú nhất trong kho tàng dân ca Việt Nam.
15. HỘI GIÓNG
Hội Gióng ở đền Phù Đổng và đền Sóc là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại được UNESCO công nhận chính thức vào ngày 16-11-2010 tại Hội nghị lần thứ V của Uỷ Ban Liên Chính Phủ theo Công ước năm 2003 tổ chức tại thành phố Nairobi – thủ đô của Kenya. Hội Gióng hằng năm được tổ chức ở đền Sóc (xã Phù Linh, huyện Sóc Sơn, Hà Nội) từ ngày 6-8 tháng Giêng âm lịch và ở đền Phù Đổng (xã Phù Đổng, huyện Gia Lâm, ngoại thành Hà Nội) từ ngày 6-12 tháng tư âm lịch. Đây là hai địa danh theo truyền thuyết là nơi sinh ra người anh hùng Thánh Gióng và là nơi dừng chân cuối cùng sau khi dẹp tan giặc Ân ông bay về trời. Đây là lễ hội truyền thống để ca ngợi chiến công và tưởng nhớ công ơn của người anh hùng Thánh Gióng. Trong lễ hội có sự tái hiện lại một cách sinh động cảnh các trận đấu giao tranh quyết liệt giữa Thánh Gióng và nhân dân Văn Lang với giặc Ân theo hình thức chiến tranh giữa các bộ lạc cổ xưa. Lễ hội nhằm giáo dục lòng yêu nước và truyền thống đoàn kết cộng đồng và tinh thần thượng võ, ý chí đấu tranh kiên cường đồng thời cũng thể hiện khát vọng độc lập tự do của dân tộc.
16. HÁT XOAN Ở PHÚ THỌ
Hát Xoan ở Phú Thọ Việt Nam được UNESCO chính thức công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại vào ngày 24-11-/2011. Hát Xoan còn được gọi là khúc môn đình (hát cửa đình) được xuất hiện từ thời đại Hùng Vương cách ngày nay khoảng hơn 2000 năm. Đây là lối hát thờ thần xưa thường được tổ chức hát vào mùa Xuân. Hát Xoan có 3 hình thức: hát thờ cúng các vua Hùng, thành Hoàng làng, hát cầu mùa, cầu sức khỏe, hát lễ hội (giao duyên nam nữ). Phạm vi phân bố của Hát Xoan tập trung chủ yếu từ những làng cổ thuộc địa bàn trung tâm Văn Lang xưa thời vua Hùng ở Phú Thọ, tiêu điểm như An Thái, Phù Đức, Kim Đới ở hai xã Kim Đức và Phương Lâu (Phú Thọ) và sau được lan tỏa ra một số làng quê dọc theo hai bên bờ sông Lô, sông Hồng và tỉnh Vĩnh Phúc. Trong Hát Xoan khi biểu diễn thể hiện nhiều dạng thức như: hát nói, hát ngâm, ngâm thơ và ca khúc, đồng ca nữ, đồng ca nam, tốp ca, đối ca, hát đối đáp, hát xen, hát đuổi, hát có lĩnh xướng…Về sắc thái âm nhạc cũng rất phong phú đa dạng. Múa và hát luôn đi cùng và kết hợp với nhau. Nội dung lời ca có phần khấn nguyện, chúc tụng và mô tả sản xuất, sinh hoạt, ca ngợi cảnh vật thiên nhiên, kể nói về truyện xưa. Hát Xoan là một di sản văn hóa phi vật thể chưa đựng nhiều giá trị lịch sử văn hóa nghệ thuật độc đáo của dân tộc Việt Nam. Nó có một sức sống mãnh liệt được lưu truyền gìn giữ qua bao thế hệ và sẽ mãi trường tồn, đồng hành cùng cộng đồng dân tộc Việt Nam trong thời hiện đại.
17. ĐỜN CA TÀI TỬ NAM BỘ
Nghệ thuật đờn ca tài tử Nam bộ còn được gọi là: “Đờn ca tài tử” đã được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại ngày 5-12-2013. Đây là một loại hình nghệ thuật dân gian đặc trưng của người dân vùng Nam bộ Việt Nam, được hình thành và phát triển vào cuối Thế kỷ XIX. Đờn ca tài tử Nam bộ được người dân Nam bộ sáng tác để hát chơi sau những buổi lao động mệt nhọc. Các bản nhạc thường được sáng tạo dựa trên cơ sở của nhạc lễ, nhạc cung đình, nhạc dân gian miền Trung. Các bản nhạc của Đờn ca tài tử được cải biên liên tục từ bản nhạc cổ trong đó đặc biệt là từ 20 bài gốc. Nhạc cụ sử dụng trong Đờn ca tài tử thường là các loại đàn kìm, đàn tranh, đàn cò, đàn tỳ Bà, đàn độc huyền, sáo, tiêu…Về sau có sử dụng thêm một số đàn hiện đại như Guitar phím lõm, Violon… Đờn ca tài tử được thực hành theo nhóm, câu lạc bộ và gia đình. Nhạc công thường là song tấu, tam tấu, hòa tấu. Khi biểu diễn dàn nhạc thường cùng ngồi trên chiếu hoặc trên bộ ván với phong cách rất ung dung, thảnh thơi. Người nghe cũng có thể tham gia thực hành và bình luận. Đờn ca tài tử là một sinh hoạt văn hóa tinh thần không thể thiếu trong các dịp lễ hội, tết, cưới, sinh nhật, họp mặt giao lưu bạn bè… Đờn ca tài tử phản ánh tâm tư tình cảm mang tính cộng đồng cao và rất phù hợp với lối sống phóng khoáng, cởi mở, chân thật nhưng rất kiên cường của người dân vùng Nam bộ. Đây cũng là nét đẹp văn hóa truyền thống đang được bảo tồn và phát huy.
18. DÂN CA VÍ DẶM NGHỆ TĨNH
Dân ca Ví dặm Nghệ Tĩnh được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại ngày 27-11-2014. Đây là một loại hình nghệ thuật trình diễn dân ca khá phổ biến và chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống tinh thần của người dân thuộc hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh. Nó mang đậm bản sắc, tâm hồn cũng như cốt cách của người dân Nghệ Tĩnh. Dân ca Ví dặm được người dân nơi đây hát trong mọi hoạt động của đời sống như khi ru con, dệt vải, gặt lúa, chèo thuyền… Nội dung lời ca của dân ca Ví dặm ca ngợi những giá trị nhân văn sâu sắc như tinh thần yêu nước, tôn sư trọng đạo, hiếu kính với cha mẹ, lòng chung thủy, cách ứng xử, sống có nghĩa có tình…kêu gọi gắn kết cộng đồng chống áp bức bất công trong xã hội. Hát ví thường là hát tự do, ngẫu hứng theo lối hát ví von để đối đáp hai bên nam nữ. Có nhiều loại ví khác nhau như: ví phường cấy, phường gặt, phường nón, phường vải, ví đò đưa… Hát dặm là thể hát nói bằng thơ ngụ ngôn thường có tiết tấu rõ ràng. Dặm mang tính tự sự, tự tình, khuyên răng, giải bày. Nhiều khi lại dí dỏm khôi hài, châm biếm trào lộng. Hát dặm Nghệ Tĩnh cũng có rất nhiều loại khác nhau: dặm nói, dặm kể, dặm vè, dặm ru, dặm nam nữ, dặm cửa quyền, dặm xẩm… Dân ca ví dặm có lối hát rất gần gũi, mộc mạc đặc biệt sử dụng nhiều từ ngữ và ngữ điệu phương ngữ Nghệ Tĩnh có khả nặng biểu đạt tư tưởng tình cảm của người dân xứ Nghệ Tĩnh đồng thời góp phần giáo dục những giá trị đạo đức truyền thống, lòng yêu nước, gắn kết cộng đồng. Nó có một sức sống mãnh liệt và là nguồn cảm hứng âm hưởng dân ca cho các nghệ sĩ kế thừa và phát huy trong các tác phẩm đương đại, góp phần làm giàu thêm di sản văn hóa tinh thần và sự phát triển bền vững của xã hội thời hiện đại.
19.KÉO CO
Nghi lễ và trò chơi kéo co là di sản văn hóa phi vật thể được UNESCO công nhận vào ngày 02-12-2015 cùng với nghi lễ và trò chơi kéo co ở Campuchia và Hàn Quốc, là một tập quán phổ biến trong văn hóa của những cư dân trồng lúa nước ở vùng Đông Á và Đông Nam Á. Nó phản ánh nhân sinh quan, thế giới quan của con người đặc biệt là niềm tin vào lực lượng siêu nhiên. Ở Việt Nam, Nghi lễ và trò chơi kéo co tập trung chủ yếu ở vùng Trung du, đồng bằng Sông Hồng và Bắc Trung bộ. Tiêu biểu như ở các tỉnh Vĩnh Phúc, thành phố Hà Nội và cả…. ở vùng núi phía bắc trong cộng đồng người Tày, người Thái và người Giáy ở Lào Cai. Đây là những cư dân lúa nước sớm nhất trong lịch sử và là cái nôi của nền văn minh lúa nước. Kéo co không chỉ là một trò chơi dân gian mà còn là một sinh hoạt văn hóa gắn với quan niệm tâm linh của các dân tộc. Kéo co được tổ chức như một lễ nghi trong các lễ hội là để cầu mùa( mưa thuận, gió hòa, mùa màng tươi tốt), cầu sức khỏe, cầu an… Kéo co được biểu hiện ở hai hình thức: có dây hoặc không dây. Việc chuẩn bị người thi đấu và dây kéo cũng được chuẩn bị kỹ lưỡng vì theo quan niệm tâm linh của cư dân nông nghiệp điều này rất quan trọng liên quan đến sự bình an, may mắn trong làm ăn cho cả làng và cộng đồng.
20. TÍN NGƯỠNG THỜ MẪU TAM PHỦ
Thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu Tam Phủ của người Việt được tổ chức UNESCO chính thức công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại ngày 01-12-2016. Đây là một tín ngưỡng dân gian thờ các thần linh thiên nhiên có từ lâu đời của người Việt được xuất hiện từ thời tiền sử với khái niệm Thánh Mẫu, sau dần phát triển thành tín ngưỡng Tam Phủ (Thiên phủ, Địa phủ, Thoại phủ). Đến thế kỷ XVI cùng với sự xuất hiện của Thánh mẫu Liễu Hạnh một tín ngưỡng bản địa mới được hình thành đó là đạo Mẫu. Tín ngưỡng thờ Mẫu còn gắn liền với nghệ thuật hát chầu văn (hát hầu đồng) – một loại hình nghệ thuật dân gian độc đáo của người Việt. Nghi lễ hầu đồng là nghi thức tín ngưỡng tiêu biểu của đạo Mẫu. Đây là nghi thức giao tiếp với thần linh, các vị thánh thông qua các ông đồng, bà đồng. Thường các vị thánh sẽ hóa thân vào nhân vật dùng nhạc thơ, lời kể lại chuyện. Đồng thời thể hiện quyền lực như trừ ma, phán bệnh, ban phúc lộc… Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam Phủ là một phong tục tập quán thờ cúng nữ thần và những nhân vật anh hùng có trong lịch sử, những người có công với đất nước là một nét văn hóa đặc sắc trong văn hóa tâm linh của người Việt và một số dân tộc khác như Mường, Dao, Nùng…Đây là loại hình nghệ thuật dân tộc độc đáo có lối trình diễn kết hợp nhiều yếu tố như: âm nhạc, trang phục, múa và diễn xướng.
21. MỘC BẢN TRIỀU NGUYỄN
Mộc bản triều Nguyễn là di sản tư liệu của Việt Nam được Uỷ ban tư vấn quốc tế (IAC) thuộc UNESCO công nhận là di sản tư liệu thế giới vào ngày 31/7/2009. Đây là một loại hình tài liệu đặc biệt quý hiếm không chỉ ở Việt Nam mà còn hiếm có trên toàn thế giới. Mộc bản triều Nguyễn là những văn bản chữ Hán – Nôm được khắc trên gỗ để in các loại sách lưu hành tại Việt Nam vào thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX. Mộc bản triều Nguyễn hiện còn lưu giữ được 34.619 tấm trong đó bao gồm cả những ván khắc in thu được ở Văn Miếu Quốc Tử Giám Hà Nội đua vào Huế lưu trữ. Tài liệu được khắc trên mộc bản rất tinh xảo và sắc nét với nội dung ghi lại các sự kiện lịch sử, các cuộc tiểu trừ giặc giã, công danh sự nghiệp của các bậc quân vương. Đồng thời nhân bản các bộ luật, các quy định về chuẩn mực xã hội để phổ biến bắt buộc mọi thần dân phải tuân thủ. Tất cả các bản thảo nói trên đều phải qua sự ngự lãm và phê duyệt bằng bút tích của Hoàng đế trước khi chuyển giao cho những nghệ nhân tài hoa trong ngự xưởng của cung đình khắc lên các loại gỗ quý như gỗ thị, nha đồng… Tài liệu Mộc bản triều Nguyễn là những bản khắc in các tác phẩm chính văn, chính sử được hình thành trong quá trình hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước và cuộc đời, hoạt động của những nhân vật lịch sử có ảnh hưởng lớn tới những biến cố xã hội cũng như tiến trình lịch sử của một dân tộc, của một đất nước. Hiện nay những tài liệu này rất hiếm có trên thế giới. Nó đặc biệt có giá trị trong việc nghiên cứu lịch sử văn hóa Việt Nam nói riêng và thể giới nói chung.
22. BIA TIẾN SĨ Ở VĂN MIẾU
Bia đá các khoa tiến sĩ triều Lê – Mạc (1442 – 1779) Bia đá các khoa tiến sĩ triều Lê – Mạc (gồm 82 tám bia tiến sĩ) được Uỷ ban ký ức thế giới khu vực châu Á Thái Bình Dương công nhận là di sản tư liệu thế giới thuộc Chương trình Ký ức thế giới của UNÉSCO vào ngày 09/3/2010. Bia tiến sĩ tại Văn miếu Quốc Tử Giám Hà Nội là di sản tư liệu độc đáo duy nhất trên thế giới “không chỉ lưu danh các tiến sĩ đỗ đạt trong các kỳ thi suốt gần 300 năm (1442 – 1779) mà còn ghi lại lịch sử các khoa thi và triết lý của triều đại về nền giáo dục và đào tạo, sử dụng nhân tài”. Trên các bia còn ghi rõ người viết văn bia, người dựng bia, ngày tháng dựng bia. Những điều này đã có tác động tích cực đối với xã hội đương thời và hậu thế cũng như khẳng định về tính xác thực, nguyên gốc và duy nhất của tư liệu. Nội dung văn bia đều do các nhà trí thức, danh nhân văn hóa biên soạn. Chữ viết và hoa văn trang trí trên các tấm bia sắc sảo, cầu kỳ mang tính nghệ thuật cao. Có thể nói mỗi tấm bia vừa là một tác phẩm thư pháp vừa là một tác phẩm thuật điêu khắc tinh tế và độc đáo với phong cách trang trí mang đậm dấu ấn của nghệ thuật đương thời. Với những giá trị lịch sử, văn hóa. nghệ thuật cũng như tính duy nhất, hiếm có của 82 tấm bia tiến sĩ, bia đá các khoa tiến sĩ triều Lê – Mạc tại Văn miếu Quốc Tử Giám (Hà Nội) là di sản tư liệu vô giá, là niềm tự hào của nhân dân Việt Nam và nhân loại trên toàn thế giới.
23. MỘC BẢN KINH PHẬT
Mộc bản Kinh Phật Thiền phái Trúc Lâm chùa Vĩnh Nghiêm được Ủy ban UNESCO công nhận là Di sản tư liệu thế giới thuộc Chương trình Ký ức thế giới khu vực Châu Á – Thái Bình Dương ngày 16-05-2012. Đây là bộ Mộc bản gốc, duy nhất của Phật phái Trúc Lâm còn lưu giữ được đến ngày nay tại chùa Vĩnh Nghiêm thuộc xã Trí Yên, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang. Ở đây còn lưu giữ được 3.050 bản khắc với hơn 10 đầu sách kinh phật. Trong đó chủ yếu là kinh sách, luật giới nhà Phật, trước tác của Tam Thế Tổ: Điếu Ngư Giác Hoàng Trần Nhân Tông, Thiền Sư Pháp Loa Đồng Kiên Cương, Thiền Sư Huyền Quang Lý Đạo Tái và một số bản in sớ điệp của Phật phái Trúc Lâm, mộc thư ghi chép lại cách chữa bệnh bằng châm cứu, bằng các loại thảo dược (thuốc nam). Các mộc bản này được san khắc vào giai đoạn vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, khi chùa Vĩnh Nghiêm là một trong những trung tâm đào tạo và ấn hành xuất bản lớn nhất của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam. Đồng thời cũng là nơi lưu giữ hồ sơ các tăng ni trên toàn quốc. Mộc bản Kinh Phật Thiền phái Trúc Lâm chùa Vĩnh Nghiêm đều được làm bằng gỗ thị, chữ được khắc ngược trên cả hai mặt. Kỹ thuật khắc và trang trí thực hiện đúng theo quy chuẩn in của Việt Nam. Chữ khắc chủ yếu là chữ Hán cổ, chữ Nôm và một số ít có khắc xen cài thêm chữ Phạn. Mộc bản Kinh Phật Thiền phái Trúc Lâm chùa Vĩnh Nghiêm là một di sản văn hóa phi vật thể vô giá của Việt Nam và của nhân loại bởi nó không những hàm chứa những giá trị tư tưởng, giáo lý của Phật phái Trúc Lâm mà còn có tính độc bản, nguyên gốc mang tính nghệ thuật cao. Đồng thời đây cũng là nguồn cung cấp thông tin phong phú và đáng tin cậy khi người xem có nhu cầu tìm hiểu nghiên cứu trên nhiều lĩnh vực như: tôn giáo, ngôn ngữ, văn hóa, y học, mỹ thuật.
24. CHÂU BẢN NHÀ NGUYỄN
Châu bản triều Nguyễn được công nhận là Di sản tư liệu thế giới thuộc Chương trình Ký ức thế giới khu vực Châu Á – Thái Bình Dương ngày 14-05-2014 tại Hội nghị lần thứ 6 của Uỷ Ban Chương trình Ký ức thế giới khu vực Châu Á – Thái Bình Dương (MOW CAP). Đây là những văn bản triều chính mà trong quá trình điều hành được các vua triều Nguyễn tự phê bằng mực son đỏ (từ 1802-1945). Toàn bộ khối Châu bản triều Nguyễn có 773 tập với khoảng 85.000 văn bản của 11 triều vua thời Nguyễn từ Gia Long đến Bảo Đại (không có của một vài vị vua không tại vị lâu). Các châu bản hầu hết được viết tay trên giấy dó và có nội dung khá phong phú về loại hình: chiếu, dụ, chỉ, sớ, tấu, khải, phúc, phiếu trình, phiếu nghỉ…Trong đó quy định rất rõ và chặt chẽ về chức năng và thẩm quyền. Nội dung phản ánh các vấn đề trong đời sống xã hội, các biến động về lịch sử, chính sách đối nội, đối ngoại của Việt Nam giai đoạn từ thế kỷ XIX đến nữa đầu thế kỷ XX. Các sự kiện ghi chép trong Châu bản có tính xác thực cao bởi đó là những thông tin được tiếp nhận và xử lý của các vua triều Nguyễn trong công tác quản lý xã hội. Đây cũng là nguồn sử liệu quan trọng để biên soạn các bộ sách sử và các sách điển lệ chính thống như: Đại Nam thực lục chính biên, Đại Nam nhất thống chí, Quốc Triều chính biên…Châu bản triều Nguyễn còn là tư liệu lịch sử có giá trị đặc biệt quan trọng trong việc minh chứng chủ quyền của Việt Nam về hai quần đào Trường Sa và Hoàng Sa. Ngoài ra các bút tích phê duyệt của các vua triều Nguyễn và hệ thống chữ viết trên Châu bản (sử dụng bốn loại chữ viết: chữ Hán, chữ Nôm, chữ Pháp, chữ Quốc ngữ) đã phản ánh sự biến động của hệ tư tưởng xã hội và sự tác động du nhập của văn hóa phương Tây cũng như hoạt động giao thương của Việt Nam đối với các nước trong khu vực và trên thế giới. Hiện nay toàn bộ số Châu bản này đang được gìn giữ bảo quản tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I (tại tòa nhà số 16 đường Vũ Phạm Hàm, phường Yên Hòa, Cầu Giấy – Hà Nội).
25. THƠ VĂN TRÊN KIẾN TRÚC CUNG ĐÌNH HUẾ
Thơ văn trên kiến trúc Cung đình Huế được Ủy ban chương trình ký ức thế giới khu vực Châu Á Thái Bình Dương (MOW CAP- thuộc UNESCO) chính thức công nhận là di sản tư liệu thế giới vào ngày 19-05-2016. Thơ văn trên kiến trúc Cung đình Huế bao gồm toàn bộ hệ thống văn tự chữ Hán chủ yếu là các bài văn, thơ được khắc chạm rất công phu và sắc sảo trên gỗ các kiến trúc thuộc quần thể kiến trúc cố đô Huế trong giai đoạn 1802-1945. Theo sự đánh giá của các chuyên gia và các nhà nghiên cứu thì Thơ văn trên kiến trúc Cung đình Huế là “di sản tư liệu độc đáo, là những bản gốc duy nhất hiện chỉ có ở Việt Nam và có giá trị nổi bật toàn cầu”.
26. MỘC BẢN TRƯỜNG HỌC PHÚC GIANG HÀ TĨNH
Mộc bản trường học Phúc Giang (Hà Tĩnh) đã chính thức được UNESCO công nhận là Di sản tư liệu thuộc chương trình ký ức thế giới khu vực Châu Á – Thái Bình Dương ngày 19-05-2016 cùng với thơ văn trên kiến trúc Cung đình Huế. Mộc bản trường học Phúc Giang (Hà Tĩnh) là những bản khắc gỗ chữ Hán ngược dùng đề in sách do dòng họ Nguyễn Huy, làng Trường Lưu, xã Lai Thạch, huyện Thiên Lộc (nay là xã Trường Lộc, huyện Can Lộc), tỉnh Hà Tĩnh biên soạn và khắc in để phục vụ việc dạy và học. Mộc bản trường học Phúc Giang (Hà Tĩnh), được hình thành trong quá trình hoạt động giáo dục văn hóa từ giữ thế ký XIIX đến đầu thế kỷ XX. Mộc bản trường học Phúc Giang (Hà Tĩnh) là di sản tư liệu hiện có 383 bản được làm bằng gỗ những cây thị “đực”, nét chữ khắc tinh xảo với nhiều dạng chữ khác nhau như: Lệ thư, Thảo thư, Giản tự, Cô tự, … Mộc bản trường học Phúc Giang (Hà Tĩnh) là khối mộc bản cổ nhất và duy nhất về văn hóa giáo dục của một dòng họ còn được lưu giữ ở Việt Nam. Với những giá trị đặc biệt về hình thức, nội dung cũng như tính xác thực, độc đáo di sản tư liệu này đã có tầm ảnh hưởng tới cả khu vực và quốc tế. Hiện nay khối Mộc bản này đang được bảo quản tại tư gia dòng họ Nguyễn Huy và Bảo tàng Hà Tĩnh.
Người Việt, tiếng Việt và nông nghiệp Việt Nam là ba di sản quý nhất của dân tộc Việt được bảo tồn và phát triển. Người Việt gồm cộng đồng 54 dân tộc và 1 nhóm “người nước ngoài’ trong Danh mục các dân tộc Việt Nam, theo Quyết định số 421, ngày 2/3/1979 Tổng cục Thống kê). Người Việt bản địa là chủ nhân của nền văn hóa thời đồ đá tại Việt Nam từ 7.000 – 20.000 năm trước, là chủ nhân của tiếng Việt và nền văn minh lúa nước, chốn tổ của nghề trồng lúa nước trên thế giới. Tiếng Việt là ngôn ngữ chính tiếng nói theo nhóm Việt-Mường của 8 nhóm ngôn ngữ Việt. Nông nghiệp Việt Nam là một trong ba ngành kinh tế, chiếm tỷ trọng trong tổng GDP Việt Nam năm 2015 ước tính: Nông nghiệp (nông lâm thủy sản) 17.4%; Công nghiệp (khai thác khoáng sản, công nghiệp chế biến, công nghiệp vật liệu xây dựng, sản xuất phân phối khí, điện, nước,…) 38.8%; Dịch vụ (thương mại, tài chính, du lịch, văn hóa, giáo dục, y tế) 43.7%.
Nông nghiệp sinh thái Việt Nam là bài giảng của tiến sĩ Hoàng Tố Nguyên, giảng viên khoa Ngữ văn Trung Quốc, Trừờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, được đào tạo chuyên ngành tiếng Trung hiện đại tại Trường Đại học Sư phạm Hoa Trung (Trung Quốc), với sự hổ trợ đúc kết thông tin liên ngành của tiến sĩ Hoàng Long, giảng viên Cây Lương thực, Bộ môn Cây Lương thực Rau Hoa Quả Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh và tiến sĩ nông học Hoàng Kim. Bài giảng này là tài liệu học tập cho sinh viên nước ngoài đang giao lưu ngôn ngữ văn hóa Việt Trung Anh và tìm hiểu kinh tế xã hội, nông nghiệp sinh thái, giáo dục, du lịch Việt Nam tại Trường. Đề cương bài giảng chương Nông nghiệp sinh thái Việt Nam gồm 9 nội dung tóm tắt: 1) Nông nghiệp sinh thái Việt Nam là nền tảng của kinh tế; 2) Bảy vùng nông nghiệp sinh thái Việt Nam; 3) Đặc điểm bảy vùng nông nghiệp sinh thái Việt Nam; 4) Hiện trạng tầm nhìn lao động nông nghiệp sinh thái Việt Nam; 5) Du lịch nông nghiệp sinh thái Việt Nam; 6) Nông nghiệp sinh thái Việt Nam ngày nay; 7) Tết Việt khởi đầu 24 tiết khí lịch nhà nông; 8) Việt Nam con đường xanh Ứng dụng công nghệ nâng cao chuỗi giá trị nông nghiệp (Technological application enhances agriculture value chain); 9) Nông nghiệp sinh thái Việt Nam điểm đến yêu thích của bạn. Thông tin được đúc kết, cập nhật, xem tiếp tại https://hoangkimvn.wordpress.com/ và http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlong và https://hoangkimlong.wordpress.com/category/nong-nghiep-sinh-thai-viet/
THẦY BẠN TRONG ĐỜI TÔI
Hoàng Kim
Thoáng chốc đã trăm năm
Chén vàng lưu đũa ngọc
Nhớ Người thời Chung sức Thầy bạn trong đời tôi.
Trần Đăng Khoa có những câu thơ sâu thẳm: “Chiều buông ngọn khói hoang sơ/ Tiếng chuông ngàn tuổi tỏ mờ trong mây… Người xưa hồn ở đâu đây/ Nhìn ra chỉ thấy tuyết bay trắng chiều…” “Ta ngự giữa đỉnh trời / Canh một vùng biên ải/ Cho làn sương mong manh/ Hoá trường thành vững chãi … / Bỗng ngời ngời chóp núi / Em xoè ô thăm ta ?/ Bàng hoàng xô toang cửa/ Hoá ra vầng trăng xa…”. Đó là những câu thơ hay đến chốn thung dung, về nơi tĩnh lặng. Nhưng, bài thơ đầu tiên của Khoa hay ám ảnh mà tôi lựa chọn đồng hành từ tuổi thơ là “Hạt gạo làng ta” và tiếng hát của đội hát Vàng Anh do nhac sĩ Trần Viết Bính phổ nhạc.
Đọc Lão Khoa, blog chính thức của nhà văn Trần Đăng Khoa khởi đầu từ năm 2011, bạn gặp bài đầu tiên là Tựa (Lời thưa), kế đến là Nông thôn bây giờ, Nguyên Ngọc, Chuyện tào lao Lão Khoa, và Thơ Trần Đăng Khoa. Tôi không nghĩ trình tự sắp xếp những bài đầu tiên này của Khoa là ngẫu nhiên mà đó chính là những điều lắng đọng. Cuộc đời cao hơn trang sách lưu lại kinh nghiệm sống được trãi nghiệm. Theo Lời thưa của Trần Đăng Khoa, chúng ta nên đọc chính văn, thơ văn và trao đổi của chính tác giả để tránh những điều ngộ nhận qua lời đồn. Cám ơn anh Lưu Trọng Văn với bài viết ngắn “Hạt gạo làng ta” và những hình ảnh lưu lại thật lắng đọng. Trần Đăng Khoa trong tôi. https://hoangkimlong.wordpress.com/category/tran-dang-khoa-trong-toi/
Văn của Khoa hay không kém thơ. Tôi thích đoạn văn kết trong ‘Lão Khoa làm diễn viên’ tự truyện mới đây của tác giả. Lời văn của Khoa viết thực lòng và thật bùi ngùi: “Tôi rất yêu bộ phim này, không phải vì trong đó có tuổi thơ của tôi, mà có hình ảnh con người thật của Xuân Diệu. Tôi cứ tiếc, giá hồi đó, mình xuất hiện ít hơn, để giành nhiều thời gian cho Xuân Diệu, Trần Thị Duyên và bạn bè tôi, những người không bao giờ còn về lại được nữa. Bây giờ, chúng ta có Bảo tàng Hội Nhà Văn, lại có Hãng phim Hội Nhà văn, tôi mong Hãng phim chỉ làm phim về các nhà văn thôi. Làm sao ghi lại được hết hình ảnh, bóng dáng và vẻ đẹp của họ. Đừng để khi họ đã mất rồi, chúng ta mới khẳng định giá trị của họ. Và đến lúc ấy, chúng ta mới lại thấy tiếc. Tiếc nhưng tất cả đều đã muộn rồi. Có muốn làm lại cũng không làm lại được nữa. Buồn vô cùng…” . Những ý nghĩ trên có vẻ cực đoan nhưng chân thành. Tôi thầm nghĩ, Khoa có lẽ mang ơn Xuân Diệu nhiều hơn cả trong tư cách một nhà thơ mang ơn một nhà thơ. Xuân Diệu chính là người phát hiện, giới thiệu rất thuyết phục cái “thần đồng” tinh tế trong văn chương của Trần Đăng Khoa ra bè bạn. Xuân Diệu là một người Thầy lớn. “Ngoài thềm rơi cáí lá đa.Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng”. Câu thơ tinh tế của Khoa do Xuân Diệu phát hiện, bốn mươi năm sau tôi mới cảm nhận được thực sự. Những bài viết của Khoa không thật nhiều, nhưng tôi cũng nghĩ như Khoa ” không cho rằng nhà báo thua nhà văn, hay Văn chương vĩnh cửu hơn Báo chí. Sức sống của tác phẩm không nằm trong thể loại, mà hoàn toàn phụ thuộc vào tài năng của người sáng tạo ra nó. Một bài báo hay có giá trị hơn một truyện ngắn, hay một cuốn tiểu thuyết mà lại viết xoàng”. Một tác phẩm “giản dị, xúc động, ám ảnh” thà ít mà tốt vẫn hay hơn là một tác phẩm dài hoặc viết nhiều tác phẩm mà chưa đến tầm.
Trần Đăng Khoa là người nông dân viết thơ văn. Khoa viết trong Nông thôn bây giờ: “Mươi năm về trước, Trần Đăng Khoa có những nhận định … trong tiểu phẩm có tên là Nông dân: Nông dân thời nào cũng rất khổ. Hình như họ sinh ra để khổ. Có cho sướng cũng không sướng được. Có phủ lên vai họ tấm áo bào lộng lẫy của vua thì họ cũng không thể thành được ông vua. Họ có sức chịu đựng gian khổ đến vô tận. Nhưng mất hoàn toàn thói quen để làm một người sung sướng. Thế mới khổ. Họ khổ đến mức không còn biết là mình khổ nữa. Người nông dân ta dường như không có thói quen so sánh mình với người dân ở các nước tiên tiến, cũng như người dân đô thị. Họ chỉ so mình với chính mình thời tăm tối thôi. Và thế là thấy sướng quá”. Cho đến ngày nay, sau mười năm suy ngẫm, Khoa lại viết tiếp:Theo tôi, muốn đánh giá hiệu quả của công cuộc đổi mới đất nước thì phải nhìn vào chất lượng đời sống của những người nghèo nhất xã hội là nông dân. Nếu người nông dân không thay đổi được số phận mình thì công cuộc đổi mới của chúng ta vẫn chưa đạt được hiệu quả đích thực.” “… những sáng tác hay nhất của chúng ta vừa qua vẫn là về đề tài nông thôn. Người đầu tiên viết hay về nông thôn phải nói đến các cụ Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Phạm Duy Tốn, rồi đến Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Nam Cao, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Bính… Sau này là Nguyễn Kiên, Nguyễn Thị Ngọc Tú, Đào Vũ, Ngô Ngọc Bội, Lê Lựu, Nguyễn Khắc Trường, Trần Nhuận Minh, Nguyễn Duy, Phạm Công Trứ… và gần đây nhất trong giới trẻ là Nguyễn Ngọc Tư…. Đến bây giờ, tôi vẫn cho rằng, đề tài nông thôn không hề kém hấp dẫn. Đấy vẫn là mảnh đất mầu mỡ. Hi vọng ở đó, chúng ta sẽ có những tác phẩm lớn. Nông thôn vẫn gắn bó xương cốt với người viết, là vùng người viết thông thạo hơn cả. Trở về vùng đất màu mỡ ấy, hi vọng chúng ta mới có được những vụ mùa văn chương. Còn có ý kiến cho rằng văn sĩ quay lưng với nông thôn, vuốt ve thành thị thì tôi cho rằng cái đó không hẳn đâu. Tôi không tin như thế. Còn việc nhà văn sống ở đâu thì không quan trọng. Cái quan trọng là người đó có am tường nông thôn không và họ đã viết như thế nào. Tất cả những gì đã có, dù ít dù nhiều cũng cho chúng ta niềm hy vọng”.
Văn thơ Khoa viết về nông thôn khéo phản ảnh thực trạng nông nghiệp Việt Nam nửa thế kỷ qua. Đó là một sự thật sâu thẳm tác giả gửi bạn đọc. Nguyên Ngọc, Hữu Ngọc, Tô Hoài, Trần Nhuận Minh, Nguyễn Khải, Xuân Diệu, Lê Lựu … ảnh hưởng nhiều đến chất liệu và chất lượng sáng tác của Trần Đăng Khoa. Hình như những chân dung văn Trần Đăng Khoa về những người này là hay hơn cả. Trong bài viết ““Nông nghiệp sinh thái Việt Nam” của Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim, chúng tôi có nhiều đồng cảm với Trần Đăng Khoa về vấn đề này. Nông nghiệp Việt Nam là giá đỡ của nền kinh tế, là lĩnh vực đặc biệt quan trọng ngày nay. Việt Nam năm 2017 giá trị xuất khẩu thủy sản đạt 8,3 tỷ USD, hạt điều với 3,516 tỷ USD, rau quả đạt 3,502 tỷ USD, cà phê với 3,24 tỷ USD, gạo đạt 2,6 tỷ USD, hạt tiêu đạt 1,1 tỷ USD, sắn và các sản phẩm từ sắn đạt 1,03 tỷ USD … thế nhưng doanh nghiệp nông nghiệp đến quý II/ 2018 chỉ mới đạt tỷ lệ rất thấp 8%, chủ yếu nhỏ và siêu nhỏ 92,35%. Chính phủ Việt Nam gần đây đã thể chế hóa tầm nhìn, đột phá đầu tư, cơ chế, chính sách khuyến khích đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn bởi Nghị định số 57/2018/NĐ-CP, khi đất nước bao nhiêu năm trả giá đau đớn cho quốc nạn tham nhũng, và cũng vì cơ chế, chính sách khuyến khích đầu tư vào nông nghiệp chưa đủ tâm đức và hiệu quả đầu tư đối với chất lượng cuộc sống nông dân, đối với con người, cơ chế chính sách, tiền vốn, hạ tầng cơ sở nông thôn, khoa học công nghệ, …cho một lĩnh vực ‘rất quen mà lạ’ này.
Trần Đăng Khoa là Nghê Việt của gia tộc họ Trần chính khí mà tôi may mắn cảm nhận được từ chuyện Đêm Yên Tử. Hiền tài là nguyên khí của quốc gia. Dòng nguyên khí gia tiên là suối nguồn hạnh phúc tùy thời và môi trường mà biến đổi nhưng sự kế thừa di truyền là nền tảng bảo tồn phát triển và phúc ấm nhân duyên. Hà Nội có Nguyễn Du và đền cổ Trung Liệt (**) liên quan gia tộc nhà thơ Trần Đăng Khoa. Anh em Nguyễn Du là người trực tiếp trông coi xây dựng đền cổ Trung Liệt này:“…Cụ tổ sáu đời là Trần Khuê. Cụ đã cùng anh ruột là Phương Trì Hầu Trần Lương, Sùng Lĩnh Hầu Trần Thai cùng em con chú ruột là Côn Lĩnh Bá Trần Đĩnh, Thủ lệnh trấn Hải Dương và Tổng trấn Kinh Bắc Trần Quang Châu, hộ giá vua Lê Chiêu Thống khi vị vua này bôn ba ở các tỉnh phía Bắc, chưa sang cầu cứu nhà Thanh. Đến năm Tự Đức thứ 14 nhà Nguyễn (1862), các vị trên được thờ ở đền Trung Liệt, Hà Nội, cùng với ba con của Trần Đĩnh là Trần Dần, Trần Hạc và Vũ Trọng Dật (con rể) …” (*). Tôi tin vào gia tộc và người tử tế.
“Chiều buông ngọn khói hoang sơ/ Tiếng chuông ngàn tuổi tỏ mờ trong mây…” (Trần Đăng Khoa). Văn chương đích thực là món ăn tinh thần sạch và ngon của người dân, là chân thiện mỹ, ngọc cho đời. Tôi tin nhiều thế kỷ, bạn đọc sẽ còn quay lại với Trần Đăng Khoa để hiểu một thời. May mắn thay tôi là người cùng thời. Tôi viết bài Trần Đăng Khoa trong tôi, sau khi cẩn thận đọc kỹ lại blog Lão Khoa, bổ sung thêm và hệ thống tư liệu. https://hoangkimlong.wordpress.com/category/tran-dang-khoa-trong-toi/
Trần Đăng Khoa thần đồng văn chương
Trần Đăng Khoa là nhà thơ, là giấy thông hành của thơ Việt hiện đại đi ra thế giới. Trần Đăng Khoa, Nguyễn Khải, Nguyên Ngọc là ba nhà văn, nhà thơ đương đại mà tôi yêu thích. Trần Đăng Khoa là tên giống nhau của ba người khác nhau. họ đều và tài năng, đó là Trần Đăng Khoa (nhà thơ) với Trần Đăng Khoa (bộ trưởng) và Trần Đăng Khoa (diễn giả). Trần Đăng Khoa trong tôi là Trần Đăng Khoa nhà thơ, có tính hướng nội, văn chương viết ít nhưng cẩn trọng và đều hướng tới “giản dị, xúc động, ám ảnh“. Tôi trích dẫn văn Khoa để thỉnh thoảng đọc lại. Riêng với Lão Khoa thì tôi may mắn ở chung xóm Lá nên trò chuyện tự nhiên, đôi khi suồng sả thân tình vì nghĩ mình người quen và nhiều tuổi hơn Khoa một chút. Đọc Đảo Chìm của Trần Đăng Khoa, nhà văn Lê Lựu nhận xét : “Tất cả những truyện viết trong Đảo chìm, Khoa đã kể cho tôi nghe không dưới 10 lần, nhưng đến khi đọc văn vẫn thấy có cái gì như mình mới khám phá, như mới bắt gặp, như mới đột nhiên ngỡ ngàng và cứ như thần. Mà chuyện thì rõ ràng là đã nghe kể đến thuộc làu rồi”. Tôi cũng đã đọc Chuyện ở Quảng Bình của Trần Đăng Khoa không dưới 10 lần và tự mình chép lại những bài tâm đắc nhất. Lạ thật! một thời gian sau rỗi rãi đọc lại, cũng vẫn thấy như Lê Lựu “có cái gì như mình mới khám phá, như mới bắt gặp, như mới đột nhiên ngỡ ngàng và cứ như thần”. Lão Khoa Vài nét về thơ Việt Nam hiện đại là một thí dụ. Khoa đã xuất sắc khái quát nửa thế kỷ thơ Việt tại cuộc gặp gỡ các nhà thơ thế giới tổ chức tại Pháp từ ngày 22-5 đến 02-6- 2013. Tài thật ! Đúng là văn chương đích thực giản dị, xúc động, ám ảnh! Tôi tâm đắc với bài viết và thật sự thú vị khi đọc kỹ nhiều lần chính văn cùng các lời bình hay của bạn hữu.
Trần Đăng Khoa sinh ngày 24 tháng 4 năm 1958 ở làng Trực Trì, xã Quốc Tuấn huyện Nam Sách tỉnh Hải Dương là nhà thơ, nhà báo, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam hiện làm Trưởng ban Văn nghệ Đài Tiếng nói Việt Nam, Giám đốc Hệ Phát thanh có hình.
Trần Đăng Khoa là thần đồng văn chương Việt Nam. Bài thơ đầu tiên của Trần Đăng Khoa được in trên báo Văn nghệ năm 1966 khi đó Khoa 8 tuổi, đang học kỳ hai lớp Một trường làng. Năm 1968, khi mới 10 tuổi, tập thơ đầu tiên của ông Từ góc sân nhà em (tập thơ tiếp theo là Góc sân và khoảng trời) được Nhà Xuất bản Kim Đồng xuất bản. Tác phẩm nổi tiếng nhất là bài thơ “Hạt gạo làng ta”, sáng tác năm 1968, được thi sĩ Xuân Diệu hiệu đính, sau được nhạc sĩ Trần Viết Bính (Đồng Nai) phổ nhạc năm 1971.
Những bài thơ thuở thơ ấu của Trần Đăng Khoa từ một làng quê bé nhỏ hẻo lánh, lúc bấy giờ chiến tranh ác liệt, bom đạn mù mịt, đã được bạn đọc cả nước đón nhận nồng nhiệt và được dịch ra hơn 40 thứ tiếng trên thế giới đầu tiên là nước Pháp, với chùm thơ in trên báo “Nhân đạo” năm 1968, do nhà thơ nhà báo Mađơlen Riphô dịch, giới thiệu và sau đó là tập thơ “Tiếng hát kế tục”, mà Trần Đăng Khoa có tới 35 bài. Cũng năm đó, hãng Truyền hình Pháp đã làm một cuốn phim tài liệu dài 30 phút mang tên “Thế giới nhỏ của Khoa” (Le petit monde de Khoa) do đạo diễn Gerard Guillaume trực tiếp viết kịch bản và lời bình. Bộ phim này đã được phát trên các kênh truyền hình Pháp và Châu Âu theo lời giới thiệu của nhà thơ Xuân Diệu, vào thời điểm giao thừa ngày 1-1-1969.
“Cuốn phim tài liệu này 40 năm sau mới xuất hiện trên kênh truyền hình Đài Tiếng nói Việt Nam VOV và thành một hiện tượng có sức ám ảnh rất mạnh đối với khán giả, đặc biệt là những người dân quê ở Nam Sách, Hải Dương. Nhiều người xem đã khóc vì bất ngờ gặp lại người thân của mình. Hầu hết các nhân vật của phim đã chết. Trong đó, có nhiều liệt sĩ mà bây giờ vẫn chưa tìm được hài cốt. Bộ phim đã hóa thành một viện bảo tàng, lưu giữ những vẻ đẹp sống động của con người và cảnh sắc một làng quê Bắc bộ, mà giờ đây không còn nữa” như Trần Đăng Khoa đã kể lại như vậy trong bài viết của mình khi nhìn lại nửa thế kỷ thơ Việt.
Trần Đăng Khoa nhập ngũ ngày 26 tháng 2 năm 1975 khi đang học lớp 10/10 tại trường phổ thông cấp 3 Nam Sách, quân số tại Tiểu đoàn 691 Trung đoàn 2 Quân tăng cường Hải Hưng. Sau đó Trần Đăng Khoa được bổ sung về quân chủng hải quân có thời gian ở Trường Sa (để sau này tác phẩm Đảo chìm nổi tiếng ra đời năm 2006 đến 2009 đã tái bản 14 ?-25 lần) . Sau đó ông theo học Trường Viết văn Nguyễn Du và được cử sang học tại Viện Văn học Thế giới M. Gorki thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Nga. Khi trở về nước ông làm biên tập viên Văn nghệ Quân đội. Từ tháng 6 năm 2004, khi đã mang quân hàm thượng tá Quân đội nhân dân Việt Nam, ông chuyển sang phụ trách Ban văn nghệ Đài Tiếng nói Việt Nam. Hiện nay ông giữ chức giám đốc của hệ phát thanh có hình VOVTV của đài.
Trần Đăng Khoa không có nhiều tác phẩm thơ và văn chương nhưng viết rất kỹ, rất có trách nhiệm với xã hội, với một lối thơ hay văn đều hướng tới “giản dị, xúc động, ám ảnh” như ý thức thường xuyên suốt đời của Khoa. Những tác phẩm văn chương nổi bật có : Từ góc sân nhà em, (thơ, 1968).Góc sân và khoảng trời (thơ, 1968, tái bản khoảng 30 lần, được dịch và xuất bản tại nhiều nước trên toàn thế giới); Khúc hát người anh hùng (trường ca, 1974). Bên cửa sổ máy bay (tập thơ, 1986); Chân dung và đối thoại (tiểu luận phê bình, Hà Nội: Nxb Thanh niên, 1998, tái bản nhiều lần. Tác giả cho biết ban đầu đã dự kiến phát hành tập II của tác phẩm này, nhưng hiện đã gộp bản thảo vào phần I để tái bản); “Thơ tình người lính biển” (bài thơ đã được Hoàng Hiệp phổ nhạc); Đảo chìm (tập truyện – ký, Nxb Văn hóa thông tin 2006, tái bản nhiều lần). Khoa đã có đóng phim từ tuổi thơ được lưu lại trong chuyện đời tự kể Lão Khoa làm diễn viên và ít nhất ba lần được tặng giải thưởng : Giải thơ của báo Thiếu niên Tiền phong (các năm 1968, 1969, 1971), Giải nhất báo Văn nghệ (1982) và Giải thưởng Nhà nước (năm 2000).
Nhà thơ Trần Đăng Khoa nhận giải thưởng văn học tại Thái Lan, Giải thưởng Sunthorn Phu trao cho các nhà thơ Đông Nam Á có những cống hiến xuất sắc trong lĩnh vực văn học nghệ thuật, ngày 29 tháng 6 năm 2013. Sunthorn Phu (สุนทรภู่, 1786–1855) là nhà thơ Thái Lan, danh nhân văn hoá thế giới, có tác phẩm lớn là pho sử thi đồ sộ Phra Aphai Mani và hàng ngàn bài thơ đã đi vào đời sống tinh thần của nhân dân Thái Lan suốt mấy trăm năm nay. Sunthorn Phu là một thường dân đã phá bỏ lối thơ tháp ngà của nhiều thi sĩ trước đó bằng cách viết dung dị với ngôn ngữ bình dân cùng các chủ đề gần gũi với đời sống bình thường của người dân Thái lam lũ. Khoa đã có một bài phát biểu thật ngắn “giản dị, xúc động và ám ảnh” khi nhận giải mà ý sau cùng của bốn ý phát biểu là: “Thật kỳ diệu khi đất nước Thái Lan văn hiến đã có sáng kiến rất đẹp trong việc giữ gìn di sản của Sunthorn Phu, và biến những di sản ấy không còn là những hiện vật bất động ở trong viện bảo tàng mà là một hiện thực sống động được giữ gìn trong thế phát triển và hội nhập, để nhà thơ vĩ đại Sunthorn Phu vẫn tiếp tục đồng hành cùng chúng ta đến với tương lai. Chúng ta tin, và rất tin rằng, cùng với Nguyễn Du, cây đại thụ Sunthorn Phu không phải chỉ tỏa bóng xuống các miền đất Đông Nam Á, mà còn tiếp tục tỏa bóng xuống nhiều châu lục trên nhiều bến bờ thế giới.”
Nhà thơ Trần Đăng Khoa có vợ và con gái. Hai cụ thân sinh sống ở quê với chị gái của Khoa là Trần Thị Bình, một cụ vừa mất gần đây. Nhà thơ có anh trai là nhà thơ, nhà báo Trần Nhuận Minh, tác giả các tập thơ Nhà thơ và Hoa cỏ, Bản xô nát hoang rã, 45 Khúc Đàn bầu của kẻ vô danh…, nguyên là Chủ tịch Hội văn học Nghệ thuật tỉnh Quảng Ninh và một người em gái nữa tên là Trần Thị Thuý Giang, hiện làm giáo viên tại Cẩm Phả Quảng Ninh. Đời thường của Khoa là một người tử tế, thông minh, giỏi ăn nói, có khiếu hài hước, không thích bia rượu, gái gú, chẳng có đam mê gì ngoài những trang viết mà ở đấy “thường là y dồn hết tâm lực” như chính Trần Đăng Khoa chân dung tự họa.
Trần Đăng Khoa thơ văn nết đất
Nguyên Hùng tả chân ‘Trần Đăng Khoa’ hay và chuẩn. Phục! Trần Đăng Khoa trong mắt bạn bè có khá nhiều bài hay và thật tâm đắc nhưng tôi thích hơn cả là sự phác thảo chân dung thật thú vị ‘Trần Đăng Khoa’ của nhà thơ tiến sĩ công trình thủy Nguyên Hùng trong tác phẩm 102 MẢNH GHÉP VĂN NHÂN : “Từ góc sân nhà em / Chơi với Vàng với Vện / Ăn hạt gạo làng ta / Lớn lên thành lính biển. / Khúc hát người anh hùng / Vẫn còn vang vọng mãi / Yêu bạn, họa chân dung / Quý tài, mời đối thoại. / Những năm học Gorky / Luôn nhớ ngày trực chiến / Đợi mưa đảo sinh tồn/ Như mong người yêu đến. / Thần đồng nay làm quan / Vẫn em em bác bác / Dáng củ lạc nông dân / Mà hoạt ngôn, hóm phết ! “.
Với tôi, Trần Đăng Khoa thơ văn nết đất, Khoa là Nghê Việt một trong những sáng tạo đỉnh cao của văn hóa Việt. “Sách Nhàn đọc dấu câu có câu không” ẩn hiện như tiềm long, một trong chín đứa con của rồng (long sinh cửu tử) theo thời mà biến hóa. Nghê Việt được phổ biến rộng trong dân gian thời Trần và được đúc kết bởi tác phẩm ““Tiềm Xác Loại Thư” của Trần Nhân Tích. Nghê Dân Gian là linh vật gác cổng giữ nhà hiền lành, tin cẩn như chó nhà và hung dữ, nguy hiểm, tinh khôn như chó sói. Nghê Thường là linh vật ngây dại như trẻ thơ, nhởn nhơ như nai rừng, tin yêu như thục nữ nhưng vô cùng quý hiếm. Toan Nghê là linh vật có sức mạnh phi thường giống như sư tử, như mèo thần, thích nghỉ ngơi, điềm tĩnh, chăm chú chọn cơ hội, khi ra tay thì cực kỳ mau lẹ, dũng mãnh và hiệu quả. Kim Nghê là linh vật giống như kỳ lân, trâu ngựa thần, có tài nuốt lửa nhả khói, nội lực thâm hậu, nhanh mạnh lạ lùng, dùng để cưỡi đưa chủ nhanh đến đích. Đêm Yên Tử tôi ngộ ra điều những gia đình phúc hậu qua chín đời đạt đến thuần âm hoặc thuần dương có thể có Nghê Việt.
(*) Theo các thư tịch cổ thì cụ tổ chín đời của nhà thơ Trần Đăng Khoa là cụ Trần Thọ, (1639 – 1700), tự là Nhuận Phủ, đỗ tiến sĩ khoa Canh Tuất (1670), làm quan đến chức Hình bộ thượng thư. Cụ là con Hàn lâm viện Thừa chỉ, Dụ Phái Hầu Trần Phúc (theo sắc phong hiện còn lưu tại Từ Đường dòng họ). Khi là Tả thị lang bộ Hộ, tước Hầu (Phương Trì Hầu), tháng 4 năm Canh Ngọ (1690), cụ Trần Thọ là phó sứ đi Trung Hoa với nhiệm vụ đòi lại đất bốn châu biên giới đã bị nhà Thanh lấn chiếm gồm: Bảo Lạc, Vị Xuyên, Thủy Vĩ và Quỳnh Nhai, trong đó Vị Xuyên nay vẫn mang tên cũ, thuộc tỉnh Hà Giang. Trong bộ sách “Lịch triều hiến chương loại chí”, học giả Phan Huy Chú khen Trần Thọ là một trong số các nhà bang giao tài giỏi của nhà nước ta ở thời Lê. Cụ Trần Thọ có tác phẩm “Nhuận Phủ thi tập”, hiện còn ba bài thơ về bang giao với nhà Thanh trong “Toàn Việt thi lục” của Lê Quý Đôn.
Cụ tổ tám đời là Trần Cảnh (1684 – 1758), đỗ tiến sĩ khoa Mậu Tuất (1718), làm quan Tế tửu Quốc Tử Giám (tương đương Bộ trưởng Bộ giáo dục bây giờ). Trong 18 năm cuối đời, từ 1740 – 1758, cụ được phong tước Công, lần lượt giữ chức Thượng thư bốn bộ: bộ Công, bộ Hình, bộ Binh, bộ Lễ, hai lần giữ chức Tham tụng, tước Thái bảo (một trong ba tước cao nhất của triều đình), Đặc tiến Kim tử Vinh lộc Đại phu, Thượng trụ quốc. Mặc dầu đương chức Tể tướng đứng đầu triều, cụ vẫn khẩn thiết xin vua cho về hưu. Rồi cùng nhân dân khẩn hoang, mở ấp. Cùng với việc làm ấy, cụ đã soạn bộ sách “Minh nông chiêm phả”, dâng vua Lê Hiển Tông năm Kỷ Tị (1749), được coi là bộ sách khoa học nông nghiệp đầu tiên của nước ta. Viết về cụ Trần Cảnh, nhà văn, nhà sử học Phạm Đình Hổ (1768 – 1839) ghi rằng: “Làm quan đến chức công khanh mà vẫn ở trong nhà tranh vách đất như ông thì tôi chưa thấy có ai”. Khi cụ về triều nhận chức Tể tướng lần thứ hai, cả nhà chỉ có 30 quan tiền lẻ, và khi theo vua đi công cán, vợ con đói đến mức, Trần Tiến, là con trưởng, phải đến bộ Lại nhờ cấp tiền gạo cứu đói. Cụ đưa các quan đi làm việc ở đâu, đều lệnh trước cho nơi đó, cấm không được tiếp đón bằng rượu thịt, cấm giết gà lợn để thết đãi.
Cụ tổ bảy đời là Trần Tiến (1709 – 1770), tự là Khiêm Đường, hiệu là Cát Xuyên, đỗ tiến sĩ khoa Mậu Thìn (1748) làm quan Phó đô Ngự sử, tước Bá (Sách Huân Bá), Đặc tiến Kim tử Vinh lộc Đại phu, sau thăng Lễ bộ Thượng thư, tác giả các bộ sách: Đăng khoa lục sưu giảng, Lưỡng quốc Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi, Cát Xuyên thi tập, Cát Xuyên tiệp bút, Niên phả lục… Sách giáo khoa phổ thông “Ngữ văn lớp 10 nâng cao”, vinh danh cụ là một trong 5 nhà viết ký xuất sắc nhất của nền văn học trung đại Việt Nam (938 – 1858) gồm: Vũ Phương Đề, Trần Tiến, Lê Hữu Trác, Phạm Đình Hổ, Lý Văn Phức. Cụ Trần Tiến sinh ra Trần Trợ (1745 – ?) và Trần Khuê… Trần Trợ, tên khai sinh là Trần Quý, lịch sử văn học Việt Nam ghi là Trần Quý Nha, làm quan Trợ giáo thái tử (dạy con vua Lê học, nên gọi là cụ Trợ), Viên ngoại lang bộ Lễ, sau làm Tri phủ huyện Đoan Hùng, Hoài Đức, tác giả tập ký “Tục Công dư tiệp ký”.
Cụ tổ sáu đời là Trần Khuê. Cụ đã cùng anh ruột là Phương Trì Hầu Trần Lương, Sùng Lĩnh Hầu Trần Thai cùng em con chú ruột là Côn Lĩnh Bá Trần Đĩnh, Thủ lệnh trấn Hải Dương và Tổng trấn Kinh Bắc Trần Quang Châu, hộ giá vua Lê Chiêu Thống khi vị vua này bôn ba ở các tỉnh phía Bắc, chưa sang cầu cứu nhà Thanh. Đến năm Tự Đức thứ 14 nhà Nguyễn (1862), các vị trên được thờ ở đền Trung Liệt, Hà Nội, cùng với ba con của Trần Đĩnh là Trần Dần , Trần Hạc và Vũ Trọng Dật (con rể).
Cụ tổ năm đời là Trần Ích, Tri phủ huyện Phú Xuyên và huyện Đồng Sơn.
Cụ tổ bốn đời là Trần Tấn (1863 – 1887), tham gia phong trào Cần Vương của vua Hàm Nghi, là tiểu tướng của Nguyễn Thiện Thuật. Cụ đã hy sinh năm 24 tuổi, trong một trận chỉ huy chống càn, khi quân Pháp đánh vào căn cứ Bãi Sậy.
Đến đời ông nội nhà thơ Trần Đăng Khoa chỉ là nhà nho nghèo, học giỏi nhưng người Pháp không trọng dụng. Ông dạy học tư ở xã xa, lấy con gái ông chủ nhà trọ, gia cảnh sa sút, đói nghèo.
Khám phá ra sự thật về gia tộc thuộc dòng dõi trâm anh thế phiệt của nhà thơ Trần Đăng Khoa, tôi mới phát hiện ra rằng: cái hun đúc nên tài thơ đặc biệt của cậu bé được mệnh danh là thần đồng khi mới 7-8 tuổi đầu ấy chính là dòng nguyên khí của tổ tiên bao đời với những tên tuổi lẫy lừng trong lịch sử nước Việt. Dòng nguyên khí ấy bị gián đoạn một vài chặng cho đến khi cậu bé Khoa chào đời, cậu đã đủ đầy nhân duyên để lĩnh hội và tỏa sáng, trở thành một thần đồng thơ lừng lẫy, một nhà văn, nhà báo nổi tiếng như bây giờ.” (Nguồn: Gia tộc Trần Đăng Khoa của nhà báo Hoàng Anh Sướng đăng trên Văn Hiến Việt Nam).
Nhà thơ Trần Đăng Khoa khuyến khích tôi viết về Đêm Yên Tử. Tôi cũng tự nhận thấy, đây là một trong những trãi nghiệm quý giá nhất đời mình nhưng mãi đến nay mới tỉnh thức được đôi điều. Hôm trước tôi đã “Đêm Yên Tử” trên facebook Notes nhân đọc “Thu Nguyệt Gai và Hoa” (1) và Hoàng Kim Hoa và Ong (2). Trần Đăng Khoa trò chuyện cùng tôi về “Đêm Yên Tử”: @Hoàng Kim Cám ơn bác đã yêu quý cậu Khoa. Nhưng chuyện đã qua lâu rồi, chúng ta hãy để cậu “yên giấc ngàn thư”, vì cu cậu cũng đã xong phận sự. Tôi chỉ tò mò, sao bác lên Yên Tử giữa đêm? Bác lại có nhiều vốn liếng về Yên Tử và Trần Nhân Tông, giá bác làm thơ hay viết bút ký, tùy bút về Đêm Yên Tử thì hay biết mấy. Đặc biệt là không khí Yên Tử. Đã có nhiều bài thơ, ca khúc rất hay viết về vùng đất này. Thêm một tấm lòng và góc nhìn nữa của Hoàng Kim cũng sẽ làm cho Yên Tử phong phú thêm đấy.
Đêm Yên Tử câu khuyên của Lão Khoa là một kết nối kỳ lạ, bất chợt và thật khó cắt nghĩa. Trên blogtiengViet, Trần Đăng Khoa có Lão Khoa còn tôi thì có Dạy và học Tôi viết cảm nhận trò chuyện trực tuyến trên trang mạng của Khoa. Ý nghĩ chảy nhanh ra đầu bút. Trước đó, tôi hào hứng, liều lĩnh nhận định với Khoa rằng: Theo tôi, Khoa có ba đóng góp nổi trội cho văn chương Việt đó là “thơ”, “chân dung văn” và “văn thông tấn”. Đó là ba sở trường cũng là ba chặng đường sự nghiệp của Trần Đăng Khoa. Bạn nếu có chút khoảng lặng mời ghé vào góc riêng của tôi cùng nhấm nháp đọc lại thư mục Trần Đăng Khoa thì thấy điều tôi nói là đúng; Thơ văn Trần Đăng Khoa tôi thích nhất các bài: Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Đảo chìm, Hoa xương rồng nở, Ngày xuân nghĩ về Bác, Nguyên Ngọc, Vài nét Hữu Ngọc, Ivan Noviski, Nhớ thày cũ, Người từ cõ trước, Thời sự làng tôi, Quyền lực thứ tư.Lão Khoa, Vài nét về thơ Việt Nam hiện đại; Khoảng khắc và muôn đời ; Tôi đặc biệt tâm đắc với Trần Đăng Khoa là câu “thơ văn hay phải giản dị, xúc động, ám ảnh” . Tôi cũng quyết rèn luyện thơ văn theo hướng đó . Tôi đã kể cho Khoa nghe về chuyện tôi đã thuộc lòng bài thơ dài “Em kể chuyện này” của Khoa dù chỉ nghe nhà thơ Xuân Diệu đọc chỉ một lần và nay sau bao năm vẫn có thể lập tức đọc lại; Tôi là bạn học Đại học Nông nghiệp 2 Hà Bắc và cùng đi bộ đội cùng đợt với anh Ái trong “Chuyện ở Quảng Bình” của Khoa nhưng tuy tôi là người trong cuộc vẫn không kể lại thật hay như Khoa đã viết chuyện này; Và hai câu thơ của Trần Đăng Khoa “Ngoài thềm rơi cáí lá đa.Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng” khi tôi nghe tiếng lá cây gạo trên 700 tuổi rơi rất mỏng lúc canh khuya ở hang cọp Yên Tử tại chùa Bảo Sái tôi mới thấm hiểu ra sao. Chiếc lá Yên Tử tôi đã mang về…
Đêm Yên Tử và ba câu chuyện này tôi đã dẫn trên mạng và Văn nghệ Quảng Minh
Thứ nhất, thuở 17 tuổi, tôi được nghe duy nhất một lần bài thơ dài của Trần Đăng Khoa “Em kể chuyện này” do bác Xuân Diệu đọc. Thế mà không hiểu sao, tôi đã nhập tâm thuộc luôn cho đến ngày nay. Bình sinh tôi cũng chẳng mấy khi thuộc thơ văn một ai, kể cả thơ văn mình, nhưng lại thuộc được Hịch Tướng sĩ, phần lớn Truyện Kiều, nhiều bài thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm “Qua đèo chợt gặp mai đầu suối” của Bác Hố, và bài thơ trên của Trần Đăng Khoa. Tôi nghiệm ra: khi mình rất thích ai đó và thích điều gì đó thì mới tự nhớ được. Thơ Trần Đăng Khoa có nhiều bài được bạn đọc nhớ.
Thứ hai, Trần Đăng Khoa trên blog treo hai câu thơ “Cái còn thì vẫn còn nguyên. Cái tan dù tưởng vững bền cũng tan“. Hẵn anh chàng tâm đắc nhất hai câu này! Riêng tôi thì cho đến lúc này vẫn thích nhất chọn ở Khoa hai câu “Ngoài thềm rơi cáí lá đa.Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng”. Sự tinh tế đến kỳ lạ ! Tôi tin một cách thành thực là Khoa có năng khiếu dự cảm và nhận được chiếc lá tâm linh để làm thư đồng thời đại. Tôi đã ngồi một mình ở hang cọp sau chùa Bảo Sái lúc gần ba giờ khuya đêm 17 tháng 1 năm 2010. Trời rất tối. Đêm rất sâu và vắng, Lắng nghe một tiếng xạc rất khẽ từ vời vợi trên cao kia của chiếc lá cây gạo 700 tuổi ở non thiêng Yên Tử thả vào thinh không. Tôi chợt rùng mình thấm hiểu sự nhọc nhằn của đức Nhân Tông “giờ Tý. Ta phải đi rồi”. Người tại thế võn vẹn chỉ 50 năm, lúc 35 tuổi sung mãn nhất đời người đã trao lại ngôi vua, chia tay người đẹp, rũ bỏ vinh hoa, tìm về Yên Tử, kịp làm năm việc chính trong đời ! Tôi ngộ ra câu thơ thần của Nguyễn Trãi viết về Người “Non thiêng Yên Tử chòm cao nhất/ Trời mới canh năm đã sáng trưng” khi và chỉ khi, tôi đã 57 tuổi và tự mình chứng nghiệm Lên non thiêng Yên Tử: “Tỉnh thức giữa non thiêng Yên Tử/ Để thấm hiểu đức Nhân Tông/ Ta thành tâm đi bộ. Lên tân đỉnh chùa Đồng/ Tâm sáng Ức Trai trong tựa ngọc…” Trần Đăng Khoa thì đã viết hai câu thơ thần đồng trên khi Khoa còn tuổi thơ. Tôi lẫn thẫn nghĩ rằng Trần Đăng Khoa có được sự tinh tế đặc biệt này có lẽ là đã nhận được chỉ dấu “lá bối” tâm linh của thiên tài văn chương Ức Trai gửi lại.
Và thứ ba là bài ký “Chuyện ở Quảng Bình” . Tôi có sự đồng cảm lạ lùng của người trong cuộc. Anh Hoàng Hữu Ái cùng quê Quảng Bình, cùng học Trường Đại học Nông nghiệp 2 Hà Bắc. Anh học lớp Trồng Trọt ba, tôi học lớp Trồng Trọt bốn. Chúng tôi đi bộ đội cùng ngày 2.9 và cùng chung đơn vị. Sau này tổ chúng tôi bốn người thì anh Xuân và anh Chương hi sinh, chỉ còn Phạm Huy Trung và tôi về Trường cũ học tiếp. Tôi kể chuyện này trong “Thầy bạn là lộc xuân cuộc đời” và vẫn tự hỏi là vì sao mình là người trong cuộc mà chưa thể viết được như thế ?
“Trần Đăng Khoa trong tôi” với tôi là một trãi nghiệm quý. Cuộc đời thực cao hơn trang văn lưu lại kinh nghiệm sống được trãi nghiệm. Cám ơn Trần Đăng Khoa.
Hoàng Kim
Trích dẫn ba ghi chép và đối thoại XUÂN DIỆU BÌNH THƠ TRẦN ĐĂNG KHOA
Tôi nhớ cách đây 40 năm khi nhà thơ Xuân Diệu đến đọc thơ ở Trường Đại học Nông nghiệp 2 Hà Bắc. Mấy ngày hôm trước, trên bảng thông tin của Trường viết hàng chữ bằng phấn trắng: “Lúc 7g tối thứ Bảy này có phim TRƯỜNG HỢP ĐẶC BIỆT CÓ THỂ HOÃN ! “Thuở đó liên hệ phim rạp thật khó. Người viết có lẽ vì không chắc chắn nên đã viết câu trước rất khiêm tốn, nhỏ nhắn, còn câu sau thì viết rất to, ý muốn nói có thể có phim mà cũng có thể không, trường hợp đặc biệt có thể hoãn (để mọi người đừng phiền). Buồn cười là không hiểu sao, có lẽ là vì quá mong mỏi nên các lớp sinh viên chúng tôi lại kháo nhau, rũ nhau đi xem vì tên phim hay lắm, ngộ lắm. Trời mới chập tối, sân trường đã có nhiều người đến xí chỗ tốt gần rạp chiếu. Mặc dù thứ bảy là ngày cuối tuần, nhiều bạn thường về Hà Nội hoặc đi Bích Động. Cuối cùng, thì việc sẽ đến phải đến. Tối đó không có phim thật nhưng thay vào đó Đoàn trường đã rước được nhà thơ Xuân Diệu về nói chuyện.
Tôi thích thơ nên ngồi gần và nhớ như in cái chuyện thay kính của nhà thơ Xuân Diệu khi ông trò chuyện đến chỗ hứng nhất (Sau này trong Chân dung và đối thoại, tôi đặc biệt ấn tượng cái chi tiết tả thực này của Trần Đăng Khoa là Xuân Diệu không có thói quen lau kính mà ông có hai kính để luôn thay đổi., khi kính bị mờ là ông thay kính khác và nói chuyện thật say mê). Ông nói rất hào hứng và tôi thì nhìn ông như bị thôi miên. Đột nhiên ông chỉ vào mặt tôi : “Đố em biết Trần Đăng Khoa mấy tuổi?”. Tôi sững người hơi lúng túng vì bất ngờ nhưng sau đó kịp đáp ngay là Trần Đăng Khoa cỡ tuổi Hoàng Hiếu Nhân nên tôi nghĩ rằng có lẽ Khoa nhỏ hơn tôi ba tuổi. Hình như chú Xuân Diệu quên béng mất câu hỏi và cũng chẳng quan tâm đến tôi đang chờ đợi ông giải đáp cho mọi người là đúng hay sai. Mắt Xuân Diệu tự dưng như mơ màng, như thảnh thốt nhìn vào một chốn xa xăm … Giọng ông hạ chùng hẵn xuống như nói thủ thỉ với riêng tôi trước mặt mà quên mất cả một cử toạ đông đảo: “Tôi học bà má Năm Căn gọi anh giải phóng quân bằng thằng giải phóng quân cho nó thân mật. Tôi gọi Trần Đăng Khoa là thằng cháu Khoa vì sự thân mật, chứ thực tình Trần Đăng Khoa lớn lắm…. lớn lắm… lớn lắm (ông lắc lắc đầu và lặp lại ba lần). Mai sau, muốn biết thời gian lao của nước mình, người đọc chắc chắn phải tìm đến Khoa. Xuân Diệu đây này (Ông gập người xuống, tay nắm mũi làm điệu bộ )Tôi phải cúi..úi ..i xuống như thế này (Xuân Diệu gập người thấp, rất thấp, tay lay mũi, tay đỡ kính) đến lấm mũi và gọi là …. ông Khoa. Ông đột ngột nói to : ÔNG KHOA ! (mọi người cười ồ lên). Tôi – Xuân Diệu nói tiếp- đang chuyển thể và giới thiệu thơ Khoa ra thế giới. Hay lắm ! Thú lắm ! Tôi đọc cho các anh chị nghe nhé. EM KỂ CHUYỆN NÀY … Ông đọc chậm rãi – Chưa khi nào và chưa bao giờ tôi nghe thơ hay vậy. Và tôi thuộc , thuộc năm lòng suốt 40 năm! Các bạn biết không, tôi rất dỡ việc nhớ số điện thoại, thế mà lại thuộc một bài thơ dài. Số điện thoại của tôi đây, Hoàng Kim 0903613024. Bạn hãy kiểm tra bất chợt bất cứ lúc nào để biết chắc rằng tôi không có thủ một cuốn thơ của Khoa trong tay. Và rằng thật may mắn trên đời , chúng tôi có Khoa cùng xóm lá và Khoa thì may mắn có người thầy không lồ như Xuân Diệu để đứng lên vai, để lắng nghe những lời khen chê và tự soi lại mình, để Khoa mãi là Khoa trong lòng người cùng thời và Khoa không thể viết nhạt, không phụ lòng người đọc.
Để minh chúng , tôi xin chép lại bài thơ tôi nghe từ dịp đó. Bản này so với các bản in sau này, hình như Khoa có sửa một ít chữ hoặc cũng có thể nhà thơ Xuân Diệu hoặc tôi nhớ sai …
* Phản hồi từ: Trần Đăng Khoa @Hoang Kim Cám ơn bác đã cho tôi những tư liệu rất hay về nhà thơ XD. Động tác và tính cách là rất chuẩn. XD đúng như vậy. Hy vọng dịp nào chúng ta gặp nhau. Chúc bác thành công trong sự nghiệp Dạy và Học.
EM KỂ CHUYỆN NÀY…
Trần Đăng Khoa
Sáng nay
Bọn em đi đánh dậm
Ở ao làng
Bên ruộng Lúa xanh non
Những cô Lúa phất phơ bím tóc
Những cậu Tre
Bá vai nhau
Thầm thì đứng học
Những chị Cò trắng
Khiêng Nắng
Qua Sông
Cô Gió chăn Mây trên Đồng
Bác Mặt trời
đạp xe qua đỉnh Núi
vẻ vui tươi
nhìn chúng em nhăn nhó cười …
Chúng em rất vui
vì đánh được nhiều Cá.
Này chị Cua càng
giơ tay chào biển Lúa
Này thằng Rói nhớ ai
mà khóc mãi
mắt đỏ ngầu như lửa.
Này câu Trê
đánh võ ở đâu
mà ngã bẹp đầu.
Lòng chúng em dào dạt …
Bỗng …
Trên con đường cát
Có vài bạn gái
Dáng chừng vừa đi học về
Đầu đội mủ rơm
Lưng đeo túi thuốc
Khăn quàng nở xòe trước ngực
Theo gió bay bay…
-Các bạn tìm gì ở đây?
Hây tìm lọ mực
Hay tìm bút máy đánh rơi ?
Các bạn đều trả lời
– Hôm qua
Thằng Mỹ bị bắn rơi
xuống cánh đồng ta
Các chú dân quân dong nó đi xa
Vẫn còn lại
những dấu chân in trên cát
Vẫn còn lại
những dấu chân tội ác
Trông vào nhức mắt
Các bạn đào đổ xuống ao sâu
Đổ xuống lòng mương
Từ lúc mờ sương
Cho tới khi
tiếng trống gọi về trường
Vẫn chưa hết
những dấu chân trên cát
Vẫn chưa hết
những dấu chân tội ác
Các bạn còn đào
đổ xuống ao sâu.
– Chao ôi !
Những lão Trê
đánh võ ngã bẹp đầu
Thắng Rói
mắt đỏ ngầu như lửa
và những chị Cua càng
dơ tay chào biển Lúa
đã ăn phải dấu chân này
bẩn thỉu biết bao …
Chúng em lặng nhìn nhau
Chẳng ai bảo ai
Chúng em đổ cả xuống ao
Trở về nhà với chiếc giỏ không
Và hát nghêu ngao
(Em kể chuyện này… Mẹ không mắng nên chúng em rất thích)
Những chị chim Sâu trên cành
Nhìn chúng em cười
Tích !
Tích !
* Phản hồi từ: Trần Đăng Khoa @Hoangkim Tôi quên bài thơ này rồi mà bác thì nhớ. Tài thật. Có nhiều câu thêm vào như “mẹ không mắng đâu nên em rất thích”. Còn thì cơ bản chính xác. Vái bác
ĐÊM YÊN TỬ NGHĨ VỀ CÔN SƠN
Tôi viết cảm nhận này trực tiếp trên trang mạng của Khoa . Ý nghĩ chảy nhanh ra đầu bút. Tôi đang đánh máy bài thơ EM KỂ CHUYỆN NÀY chưa kịp lưu thì cảm nhận của Khoa hiện ra: “@Hoang Kim. Cám ơn bác đã cho tôi những tư liệu rất hay về nhà thơ Xuân Diệu. Động tác và tính cách là rất chuẩn. Xuân Diệu đúng như vậy. Hy vọng dịp nào chúng ta gặp nhau. Chúc bác thành công trong sự nghiệp Dạy và Học”. Hãy khoan, Khoa ơi để mình kể bạn nghe chuyện Đêm Yên Tử nghĩ về Côn Sơn nhé. Mình ám ảnh chuyện này quá. Chuyện này ví như: Sự ghi ơn người khai sinh chữ quốc ngữ; Nguyễn Du đâu chỉ đại thi hào; Hồ Chí Minh rất ít trích dẫn; Bác có nhầm lẫn kẻ phi thường; Qua đèo chợt gặp mai đầu suối, Tâm linh đọc lại và suy ngẫm … Đó đều là những bí ẩn lịch sử cần người minh triết để thấu hiểu để trao lại… Mình nếu như không viết được vào ô cảm nhận này, vào chính thời điểm này thì hình như ít người hiểu thấu.
Đêm Côn Sơn của Khoa là đêm lạ lùng ! Đêm Yên Tử nghĩ về Côn Sơn là đêm thiêng kỳ l ạ. “Tỉnh thức giữa đêm thiêng Yên Tử. Để thấm hiểu đức Nhân Tông. Ta thành tâm đi bộ . Lên tận đỉnh chùa Đồng. Tâm sáng Ức Trai trong tựa ngọc.” Hình như bí ần của Nhân Tông và Nguyễn Trãi đã mách Khoa ở Đêm Côn Sơn và đã gợi cho mình nhìn thấy một chút dấu hiệu nhận biết để mách cho Khoa ghi lại. Bác Trường Chinh là người viết nhiều thơ, trước tác thơ của bác chọn lưu lại là Dưới đèn đọc Ức Trai. Thơ văn Lý Trần, Lê, Mạc, đặc biệt là các tác gia Trần Nhân Tông, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan, Đào Duy Từ, Nguyễn Du đều cần những chuyên luận.
Năm trước khi “Chân dung và đối thoại” vừa mới ra lò. Mình nhớ cái chi tiết của Khoa khi nói về Đêm Côn Sơn trong đó có bốn câu:
“Ngoài thềm rơi cái lá đa.
Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng.
Mờ mờ ông bụt ngồi nghiêm.
Nghĩ gì ông vẫn ngồi yên lưng đền”.
Khoa viết rằng Xuân Diệu khen Khoa nghe tinh, có giác quan tinh tế và Xuân Diệu đã thay một chữ “nghĩ” cho chữ “sợ”mà ông Bụt hóa thành cơ thể sống, đã thành sự sống. Sự thẩm thơ tinh tưởng của Xuân Diệu là vậy. Ông chỉ thay đổi một chữ mà bài thơ biến đổi cả thần thái. Chữ “nghĩ “ này hay tương tự chữ “đi” trong câu thơ “Trái đất ba phần tư nước mắt/ Đi như giọt lệ giữa không trung” làm đổi thần thái câu thơ “Trôi như giọt lệ giữa không trung” mà Khoa đã bình luận.
Mình muốn bình thêm cái ý “thần đồng” nghĩa là “tuổi nhi đồng mà làm được những điều như có thần mách bảo”. Khoa né tránh bình luận chuyện này và viết “bây giờ thì y đã già và dứt khoát không phải là kẻ đắc đạo , vậy mà y vẫn phải còng lưng , ý ạch vác cái cây thánh giá ở lứa tuổi trẻ con.” Thực ra, phải nhìn nhận rằng Khoa có những câu thơ rất quý và rất lạ , lúc trẻ con mà đã viết được những câu “thần đồng” như trên mà người lớn không thể viết nổi.
Tôi đã có cảm giác thật kỳ lạ khi một mình lúc ba giờ khuya ngồi ở dưới chân Bụt Trần Nhân Tông nơi vòm đá hang cọp phía sau chùa Bảo Sái gần đỉnh chùa Đồng. Nơi đó và giờ đó là lúc Trần Nhân Tông mất. Người từ chùa Hoa Yên lúc nữa đêm đã nhờ Bảo Sái- một danh tướng cận vệ và đại đệ tử thân tín – cõng Người lên đây.
Bảy trăm năm sau, giữa đêm thiêng Yên Tử, ngồi một mình trong đêm lạnh, đúng nơi và kh oảng ba giờ khuya lúc đức Nh ân Tông mất Lắng nghe tiếng lá cây gạo trên 700 tuổi rơi rất mỏng lúc canh khuya. Bóng của Phật Nhân Tông mờ mờ ngồi nghiêm ngồi yên bình thản lưng đền. Lúc đó vụt hiện trong đầu tôi bài kệ “Cư trần lạc đạo” của đức Nhân Tông, bài thơ Yên Tử “đề Yên Tử sơn, Hoa Yên Tự” của Nguyễn Trãi và văng vẳng trong thinh không thăm thẳm vô cùng bài thơ chiêu tuyết Nguyễn Trãi “đêm Côn Sơn” của Khoa. Tôi phục Khoa quá!
Khoa ơi, hãy tin tôi đi. Những câu thơ thần đồng sức người không viết được. Khoa đã may mắn chạm được mạch tâm linh dân tộc, như tiếng đàn bầu ngân lên từ ruột trúc, mới viết được những câu thơ hay và lạ đến thế. Khoa ngẫm xem những câu thơ sau đây của Nguyễn Trãi tả Bình minh trên Yên Tử thật đúng là thần bút: “Non thiêng Yên Tử, đỉnh kỳ phong. Trời mới ban mai đã rạng hồng. Vũ trụ mắt soi ngoài biển cả. Nói cười lồng lộng giữa không trung.” http://hoangkimvietnam.wordpress.com/2010/07/14/truclamyentu/
Nguyễn Trãi viết thơ trên đỉnh Yên Tử lúc ban mai. Vậy Người leo núi từ khi nào? Đi từ hôm trước hay đi từ lúc nửa đêm như đức Nhân Tông? E chỉ có Yên Tử trả lời.
* Phản hồi từ: TRẦN ĐĂNG KHOA @Hoàng Kim Cám ơn bác đã yêu quý cậu Khoa. Nhưng chuyện đã qua lâu rồi, chúng ta hãy để cậu “yên giấc ngàn thư”, vì cu cậu cũng đã xong phận sự. Tôi chỉ tò mò, sao bác lên Yên Tử giữa đêm? Bác lại có nhiều vốn liếng về Yên Tử và Trần Nhân Tông, giá bác làm thơ hay viết bút ký, tùy bút về Đêm Yên Tử thì hay biết mấy. Đặc biệt là không khí Yên Tử. Đã có nhiều bài thơ, ca khúc rất hay viết về vùng đất này. Thêm một tấm lòng và góc nhìn nữa của HK cũng sẽ làm cho YT phong phú thêm đấy.
Cảm ơn Trần Đăng Khoa đã khuyến khích mình viết về Yên Tử. Hôm trước Bùi Anh Tấn, tác giả của cuốn sách Đàm đạo về Điếu Ngự Giác Hoàng (Trần Nhân Tông) 405 trang, được nhiều người yêu thích, cũng đã khuyến khích mình như ý của Khoa. Mình sẽ cố gắng và rất mong được sư góp ý thẩm định của các bạn đọc.
Nhà thơ họ Trần từ Hà Nội vào Sài Gòn, lọ mọ tới Biên Hoà để gặp ông nhạc sĩ cũng họ Trần.
Gã nhận được điện thoại của Nguyễn Cường
.- Ông đang ở đâu?
– Buôn Mê Thuột.
– Còn ông?
– Đang ngồi với Trần Viết Bính và Trần Đăng Khoa.
– Ồi, ông Bính còn sống à? Nguyễn Cường oang oang reo lên.Trần Đăng Khoa kể – em nhận tin bác Bính mất từ phóng viên báo Tiền Phong rồi viết ngay một bài sướt mướt thương nhớ nhạc sĩ đã phổ bài “Hạt gạo làng ta” làm cho cả nước biết đến bài thơ này. May quá có người bảo có ông nhạc sĩ Bính ở Đồng Nai bị tai nạn chết, nhưng là Nguyễn Bính chứ không phải Trần Viết Bính. Hú hồn, em đến ngay báo Tiền Phong rút bài.
Nghe Khoa kể vậy, bác Bính tuổi 85 cười ngất ngơ: cậu cứ cho in thì hay biết mấy nhở, tớ được đọc bài vĩnh biệt mình của thần đồng thơ khi còn đủ sức cùng lũ cháu ngoại toe toe hát “Hạt gạo làng ta có nắng tháng bảy có mưa tháng ba…”.
Khi nghe bác Bính nhắc đến bài hát “Hạt gạo làng ta” như có cái nút tự động của thế giới hồi tưởng trong gã, bật lên ngay âm vang giọng hát rất trẻ trâu quê mùa Nam Định của tốp ca Vàng Anh bài hát “Hạt gạo làng ta” ấy.
Gã thích lũ trẻ trâu hát mộc mạc không điệu đàng mà rơn rơn tình quê hơn bất cứ tốp ca hoặc ca sĩ tên tuổi nào hát bài “Hạt gạo làng ta” này.
Hơn nữa bài này thu thanh từ năm 1971 khi Khoa còn là một cậu nhóc cũng dân quê.
Khoa kể cho bác Bính: buổi gần trưa, em đang thổi cơm thì bật cái đài bán dẫn kê trên ghế nghe chương trình thiếu nhi. Bài hát không sai thơ của em một nhời nào.
Hạt gạo làng ta
Có vị phù sa
Của sông Kinh Thầy
Có hương sen thơm
Trong hồ nước đầy
Có lời mẹ hát
Ngọt bùi đắng cay…
Sau này câu ngọt bùi đắng cay bị đổi lại thành ngọt bùi hôm nay. Bởi các bác ở trên bảo, đất nước mình chỉ có ngọt bùi thôi chứ không có… đắng cay.
Hạt gạo làng ta
Có bão tháng bảy
Có mưa tháng ba
Giọt mồ hôi sa
Những trưa tháng sáu
Nước như ai nấu
Chết cả cá cờ
Cua ngoi lên bờ
Mẹ em xuống cấy…
Hồi đó em đọc những bài văn mẫu bình về đoạn thơ này: tuy tuổi còn nhỏ, nhà thơ của chúng ta đã biết ca ngợi tinh thần lao động của người nông dân làm ra hạt gạo thật tuyệt vời.
Hì, lúc làm câu thơ này em chỉ thương mẹ em vất vả quá thôi, nóng đến cua phải chạy trốn mà mẹ vẫn phải đi cấy.
Hạt gạo làng ta
Có công các bạn
Sớm nào chống hạn
Vục mẻ miệng gàu
Trưa nào bắt sâu
Lúa cao rát mặt
Chiều nào gánh phân
Quang trành quết đất
Câu gánh phân có bác phê bình, phân là cứt, hình ảnh không có đẹp, thế là sửa lại gánh… khoai.
Nhạc sĩ Trần Viết Bính kể, năm 1971 đạp xe đến nhà bạn chơi, vớ được tập thơ của Khoa, thích quá bài “Hạt gạo làng ta”. Thế là vừa đạp xe về trên đường giữa cánh đồng lúa vừa lẩm nhẩm giai điệu. Về Nam Định tập cho tốp ca trẻ con Vàng Anh hát nguyên si bài thơ.
Trước đó khi còn sống, nhà thơ Nguyễn Bính thường trà rượu với tôi, tôi bảo, sẽ phổ một bài thơ của Nguyễn Bính. Nguyễn Bính bảo: cậu muốn đi tù hay sao mà muốn phổ thơ của tôi… A, bác Trần Viết Bính độp hỏi Khoa: nghe bảo Xuân Diệu chữa mấy câu thơ trên của cậu à?
Khoa lắc đầu. Không phải Xuân Diệu mà cô Nh ở nhà xuất bản Kim Đồng. Rồi Khoa kể khi bài hát được phát trên Đài TNVN bài thơ của Khoa thành nổi tiếng cả miền Bắc. Thế là Đài Truyền hình VN về quê Khoa làm cả một phóng sự về Khoa và các bạn của Khoa.
Họ bảo tụi em quét cái sân để quay phim. Hì, cái sân vốn sạch boong tụi em cứ thế đứa nào cũng đeo khăn quàng đỏ ào ào quét mà chả có tẹo rác nào. Họ còn bảo em vác cuốc ra đồng vừa đi vừa đọc thơ “Hạt gạo làng ta” nữa. Đã thế cổ cũng đeo khăn quàng đỏ. Em bảo em ra đồng có bao giờ đeo khăn quàng đỏ với vừa vác cuốc vừa đọc thơ như thằng hâm đâu. Các chú đạo diễn, quay phim bảo: em cứ làm thế đi để các bạn nơi khác xem phim học tập.
Trần Đăng Khoa với tay đặt lên vai của nhạc sĩ Trần Viết Bính rồi cười với gã: công nhận hồi đó em đóng vai vừa vác cuốc vừa đọc thơ… dơ thật.
Ảnh 1. Nhạc sĩ Trần Viết Bính và Trần Đăng Khoa.
Ảnh 2. Bên phải, nhà thơ Trần Quốc Toàn và bà Bính…
LÃO MAI ĐINH ĐÌNH CHIẾN
Hoàng Kim
Lão Mai Đinh Đình Chiến
Văn chương sáng đời thường
Dạy và Học Góc khuất
Người hiền đời mến thương
Chiến Sự Đức Linh mới
Hùng Vương giữ kỷ cương
Lâm Cúc, Kim Em quý
Hoàng Kim mừng đồng hương
Thu Nguyệt Đêm Yên Tử
Trăng rằm trãi đêm trường
Thủy chung vui hạnh phúc
Bạn hiền hơn soi gương.
Cảm ơn quý thầy bạn Đinh Đình Chiến cựu Hiệu trưởng Hùng Vương Đức Linh Bình Thuận. Hôm nay là Ngày Bạn Hiền .Chúc vui hạnh phúc.