Số lần xem
Đang xem 3027 Toàn hệ thống 4119 Trong vòng 1 giờ qua
Trang liên kết
Tỉnh thức
giữa đêm thiêng Yên Tử
Để thấm hiểu đức Nhân Tông
Ta thành tâm đi bộ
Lên tận đỉnh chùa Đồng
Tâm sáng Ức Trai
trong tựa ngọc TÌNH YÊU CUỘC SỐNG
DẠY VÀ HỌC Để chấn hưng giáo dục Việt Nam cấp thiết phải có đội ngũ những người thầy giáo ưu tú có tâm đức thiết tha với nghề, có trình độ chuyên môn cao và có kỹ năng giảng dạy tốt. Đây là trang thông tin chuyên đề dạy và học để trao đổi và bàn luận
Norman Borlaug Lời Thầy dặn Việc chính đời người chỉ ít thôi
Chuyên tâm đừng bận chuyện trời ơi
Phúc hậu suốt đời làm việc thiện
Di sản muôn năm mãi sáng ngời.
Chọn giống sắn Việt Nam GIỐNGSẮN CHỦ LỰC KM419
Giống sắn KM 419 được chọn tạo từ tổ hợp lai BKA900 x KM 98-5. Giống do Trường Đại học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh phối hợp với Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Phú Yên, Trường Đại học Nông Lâm Huế tuyển chọn và giới thiệu (Hoàng Kim, Trần Ngọc Ngoạn, Nguyễn Thị Trúc Mai, Võ Văn Quang, Nguyễn Bạch Mai, Nguyễn Thị Lệ Dung, Nguyễn Phương, Hoàng Long, Nguyễn Minh Cường, Đào Trọng Tuấn, Trần Công Khanh, Nguyễn Minh Hiếu, Nguyễn Văn Bộ, Nguyễn Thị Cách, Nguyễn Trọng Hiển, Lê Huy Ham, H. Ceballos and M. Ishitani. (2016), Giống sắn KM419 đượcBộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn công nhận sản xuất thử tại Quyết định số 85 / QĐ-BNN-TT Hà Nội ngày 13 tháng 1 năm 2016 cho vùng sinh thái Bắc Trung Bộ, Duyên hải Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ).
Giống sắn KM419 đã phát triển rộng rãi tại Tây Ninh, Đồng Nai, Đắk Lắk, Phú Yên,…được nông dân các địa phương ưa chuộng với tên gọi sắn giống cao sản siêu bột Nông Lâm. Đặc biệt tại tỉnh Phú Yên giống sắn KM419 được trồng trên 85% tổng diện tích sắn của toàn tỉnh mang lại bội thu năng suất và hiệu quả cao về kinh tế xã hội. Tại Tây Ninh, năm 2019 diện tích sắn bị nhiễm bệnh CMD tuy vẫn còn cao nhưng mức độ hại giảm mạnh, lý do vì KM419 và KM94 là giống chủ lực chiếm trên 76% diện tích mỗi vụ của toàn tỉnh (KM419 chiếm 45% ở vụ Đông Xuân và 54,2% ở vụ Hè Thu; KM94 chiếm 31% ở vụ Đông Xuân và 21,6% ở vụ Hè Thu). Tại Đăk Lắk, năm 2019 diện tích sắn KM419 chiếm trên 70% diện tích mỗi vụ của toàn tỉnh.
Giống KM419 có đặc điểm:
+ Thân xanh xám thẳng, ngọn xanh cọng đỏ, lá xanh đậm, không phân nhánh.
+ Năng suất củ tươi: 34,9-54,9 tấn/ha.
+ Tỷ lệ chất khô: 35,1- 39.0%.
+ Hàm lượng tinh bột: 27,8 – 30,7%.
+ Năng suất tinh bột: 10,1-15,8 tấn/ ha
+ Chỉ số thu hoạch: 62 %.
+ Thời gian thu hoạch: 7-10 tháng.
+ Nhiễm trung bình bệnh chồi rồng và bệnh khảm lá virus CMD
+ Cây cao vừa, nhặt mắt, tán gọn, thích hợp trồng mật độ dày 12,500- 14.000 gốc/ ha .
Sự bùng nổ về năng suất sản lượng và hiệu quả kinh tế sắn đã trùng hợp với sự xuất hiện, lây lan của các bệnh hại bệnh sắn nghiêm trọng. Đặc biệt bệnh khảm lá CMD do virus gây hại (Sri Lanka Cassava Mosaic Virus) lây lan rất nhanh và gây hại khủng hoảng các vùng trồng sắn. Tại Việt Nam, bệnh này được phát hiện vào tháng 5/2017 trên giống sắn HLS11, đến tháng 7/ 2019 bệnh đã gây hại các vùng trồng sắn của 15 tỉnh, thành phố (2018), trên hầu hết các giống sắn hiện có ở Việt Nam. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Cục BVTV đã có văn bản 1068 ngày 9/5/2019 xác định “Việc hướng dẫn nông dân mua giống KM419 sạch bệnh là giải pháp an toàn, kinh tế nhất hiện nay”.
Điểm lưu ý trong sản xuất hiện nay là trồng giống KM419 sạch bệnh. Cần phân biệt giống sắn giống KM419 với HLS11 và các giống sắn chưa rõ lý lịch cha mẹ và nguồn gốc giống. Giống sắn KM419 đăc trưng là 1) thấp cây, tán gọn, cọng đỏ; 2) vỏ cũ xám trắng, 3) chống chịu nhẹ đến trung bình bệnh CMD và CWBD, so với HLS 11 đặc trưng là 1) cao cây, cọng xanh, 2) vỏ củ nâu đỏ, 3) nhiễm nặng bệnh CMD và bệnh đốm lá CBB. Giống sắn chủ lực KM419, được lai tạo đưa thêm gen kháng bệnh của giống C39, KM440, KM397 tạo ra các giống sắn KM568, KM537, KM536, KM535, năng suất bột cao kháng bệnh CMD và CWBD và có dạng hình cây thấp tán gọn,
Nghiên cứu tuyển chọn giống sắn năng suất tinh bột cao, kháng được sâu bệnh hại chính (CMD, CWBD) phù hợp với điều kiện sản xuất tại tỉnh Phú Yên và vùng phụ cận (Nguyễn Thị Trúc Mai, Hoàng Kim, Hoàng Long và đồng sự 2020). Sử dụng giống sắn KM419 năng suất tinh bột cao và nhiễm nhẹ đến trung bình bệnh CMD và bệnh chồi rồng (CWBD) để đưa thêm vào gen mục tiêu (C39) kháng bệnh. Chọn tạo và phát triển 1-2 các giống sắn mới trong phả hệ các giống sắn triển vọng KM568, KM537, KM536, KM535, KM534 là nội dung nghiên cứu quan trọng “Chọn tạo sắn Việt Nam” cấp thiết, có tính khả thi cao, tính mới cao, kế thừa và phát triển bền vững giống sắn ở Việt Nam tốt nhất hiện nay.
Tôi đã nhiều lần tới châu Mỹ, tới cả Trung Mỹ, Bắc Mỹ và Nam Mỹ. Đó là kinh nghiệm sống quý giá cho sự nghiên cứu và giảng dạy khoa học cây trồng, đặc biệt là cây lương thực. Tôi nhớ thầy Norman Boulaug và nhiều thầy bạn ở nơi ấy, nhớ đất. nhớ người. Tôi có thói quen chép lại ghi chú ngắn và ghi hình về kỷ niệm sau mỗi chuyến đi, lần này mới có dịp hệ thống lại. “Châu Mỹ chuyện không quên” lắng đọng trong lòng tôi những ký ức sâu sắc về công việc chuyên môn khoa học cây trồng, cây lương thực yêu thích, kết nối với đất nước, con người, bạn hữu, và nền văn hóa châu Mỹ. Tôi kể từ chuyến đi Mỹ lần đầu tiên năm 1988, cho tới nhiều lần về sau lắng đọng chuỗi trãi nghiệm thân thương với thầy bạn ở bên kia bờ đại dương. Ba nơi chính của châu Mỹ mà tôi may mắn được tới, đó là vùng vật liệu di truyền ở ba trung tâm khởi nguyên cây trồng toàn cầu của chúng tại Châu Mỹ gồm Trung tâm ngô và lúa mì quốc tế CIMMYT ở Mê hi cô. Trung tâm khoai lang và khoai tây quốc tế CIP ở Peru. Trung tâm Quốc tế Nông nghiệp Nhiệt đới CIAT về sắn, đậu thực phẩm, lúa gạo châu Mỹ ở Côlômbia. Những điểm đến này tương tự như Viện Nông nghiệp Nhiệt đời Quốc tế IITA ở Nigeria châu Phí, Viện Nghiên cứu Cây trồng Quốc tế cho vùng Nhiệt đới Bán khô cằn ICRISAT ở Ấn Độ, và Viện Lúa quốc tế IRRI ở Philippines. Những chốn ấy cũng thật thân thuộc với tôi. Tại đấy sách chuyên khảo cây trồng, tạp chí, trang web, video thật phong phú, sâu sắc và thật đáng ao ước. Cũng từ đấy mà tôi may mắn được đi thăm thú rộng ra các vùng lân cận theo điều kiện và hoàn cảnh của mỗi chuyến đi.
“Châu Mỹ chuyện không quên” là các bài học tình yêu cuộc sống trãi nghiệm cá nhân của các chuyến đi thực tế, với mục đích cung cấp các điểm nhấn tư liệu nông nghiệp sinh thái về cây lương thực châu Mỹ cho bạn đọc. Tác phẩm gồm 36 đường dẫn, tựa đề thơ ngũ ngôn, để dễ đọc dễ nhớ, ảnh chi tiết bấm link.
Mục đích sau cùng của DẠY VÀ HỌC là thấu suốtbản chất sự vật, có lời giải đúng và LÀM được việc. Lời Thầy dặn thung dung.
Ngày mỗi ngày phải tự thắng mình
Trận chiến mới em mãi là chiến sĩ
Ngày mỗi ngày cần ghi đều nhật ký
Tự thắng mình là bài học đầu tiên !
Có điện lung linh suốt đêm
Không quên vầng trăng ngọn lửa
Ngày dẫu miệt mài
Đêm về phải cố
Khắc sâu lời nguyền xưa !
“Không vì danh lợi đua chen
Thù nhà nợ nước quyết rèn bản thân”
Lưu bút Norman E. Borlaug gửi Hoàng Kim ngày 17 tháng 7 năm 1989 từ CIMMYT (hình) sau khi tôi đã về Việt Nam. Bài học phúc hậu, minh triết, tân tâm của gương sáng người Thầy, đã theo tôi suốt đời, tỏa sáng nhân cách, trí tuệ.
Chuyện Bài học tự thắng mình trong chùm bài viết Đi như một dòng sôngChâu Mỹ chuyện không quên.nối Con đường di sản LewisClark . Đó là sự tiếp nối Làng Minh Lệ quê tôi của các ghi chú nhỏ (Notes) Linh Giang Đình Minh Lệ; Đá Đứng chốn sông thiêng; Nguồn Son nối Phong NhaĐất Mẹ vùng di sản. Tôi xa quê Quảng Bình từ nhỏ. Quê hương nơi sinh thành là bài học quý cho bất cứ ai lớn nổi thành người, nhưng tôi vì hoàn cảnh lưu lạc xa xứ nên hiểu quê hương có giới hạn, mà ấn tượng lắng đọng sâu sắc nhất là Tổ quốc Quê hương đất nước con người, trãi mười hai bến nước của vận mệnh chiếc lá trôi dạt, đi để hiểu quê hương. Làng Minh Lệ quê tôi là bài học KHAI TÂM đầu đời là của cha mẹ và thầy giáo già mù nơi ngôi nhà tuổi thơ bến quê, với sự chỉ dạy tiếp theo của anh hai Hoàng Ngọc Dộ, chị năm Hoàng Thị Huyền đã thay cha mẹ mất để nuôi em dìu dắt cưu mang em, với thầy Nguyễn Khoa Tịnh khóc trên bục giảng cùng quý thầy bạn và người thân thắp lên ngọn lửa. Bài học của bến nước này là KHAI TRÍ. Chùm ảnh bài này thắp sáng ước mơ. .
LỜI THẦY DẶN Hoàng Kim
Việc chính đời người chỉ ít thôi.
Chuyên tâm đừng bận chuyện trời ơi.
Phúc hậu suốt đời làm việc thiện.
Di sản muôn năm mãi sáng ngời
Biết đủ thời nhàn sống thảnh thơi
Con em và cháu vững tay rồi
An nhàn vô sự là tiên đấy
Minh triết mỗi ngày dạy học chơi.
Bộ Trưởng Nguyễn Ngọc Trìu đến Trung tâm Hưng Lộc năm 1987 thăm thành tựu tiến bộ kỹ thuật “Trồng ngô lai xen đậu ở vùng Đông Nam Bộ” và mô hình “Nghiên cứu phát triển đậu rồng ở các tỉnh phía Nam” (Nguồn: Nhớ cụ Nguyễn Ngọc Trìu, bài và ảnh Hoàng Kim)
NLU hướng tới 65 năm. Chào mừng quý Thầy Cô và Các Bạn 30 năm ngày ra Trường 2010. Ảnh Họp mặt Kỷ niệm 30 năm ngày ra Trường, Khóa 2 Trồng Trọt, Chăn nuôi, Kinh tế, Lâm Nghiệp, Thủy Sản Trường Đại Học Nông Lâm TP Hồ Chí Minh, năm 2010 (Nguồn: Thầy bạn trong đời tôi, Bài và ảnh Hoàng Kim, lưu ảnh truyền thống)
Quê tôi ở miền Trung nghèo khó “Nhà mình gần ngã ba sông/ Rào Nan, chợ Mới, nguồn Son, Quảng Bình,/ Linh Giang sông núi hữu tình / Nơi đây cha mẹ sinh thành ra con/ Chèo thuyền cho khuất bến Son/ Để con khỏi chộ (thấy) nước non thêm buồn/ Câu thơ quặn thắt đời con/ Mẹ cha mất sớm, con còn trẻ thơ”. Tôi xa quê từ nhỏ. Mười tuổi mồ côi mẹ, Mười bốn tuổi cha chết do bom Mỹ giết hại.Tôi với chị gái Hoàng Thị Huyền ở với anh trai Hoàng Ngọc Dộ trong nhà hầm của lớp học ở làng Phù Lưu để học cấp ba Bắc Quảng Trạch. Anh trai tôi dạy cấp một, giáo viên khẩu phần ăn 13 ký lương thực mỗi tháng, trong đó có 70% là khoai sắn. Anh vì nuôi hai em thay cha mẹ mất nên khẩu phần ăn ấy chia cho ba người ăn. Đói. Gia đình tôi năm năm đã ăn ngày một bữa. Thầy Nguyễn Khoa Tịnh đứng khóc trên bục giảng vận động thầy cô, bạn hữu chia sớt khoai sắn giúp đỡ. Tôi cũng dạy năm lớp vở lòng, ba lớp bổ túc văn hóa và cùng anh cuốc đất tăng gia để vượt khó vươn lên. Thầy Hiệu trưởng Trần Đình Côn đã viết những lời xúc động trong Bài ca Trường Quảng Trạch trường ca tình thầy trò: “Thương em nhỏ gieo neo mẹ mất. Lại cha già giặc giết hôm qua. Tình thầy, tình bạ
Chọn giống sắn Việt Nam GIỐNGSẮN CHỦ LỰC KM419
Giống sắn KM 419 được chọn tạo từ tổ hợp lai BKA900 x KM 98-5. Giống do Trường Đại học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh phối hợp với Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Phú Yên, Trường Đại học Nông Lâm Huế tuyển chọn và giới thiệu (Hoàng Kim, Trần Ngọc Ngoạn, Nguyễn Thị Trúc Mai, Võ Văn Quang, Nguyễn Bạch Mai, Nguyễn Thị Lệ Dung, Nguyễn Phương, Hoàng Long, Nguyễn Minh Cường, Đào Trọng Tuấn, Trần Công Khanh, Nguyễn Minh Hiếu, Nguyễn Văn Bộ, Nguyễn Thị Cách, Nguyễn Trọng Hiển, Lê Huy Ham, H. Ceballos and M. Ishitani. (2016), Giống sắn KM419 đượcBộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn công nhận sản xuất thử tại Quyết định số 85 / QĐ-BNN-TT Hà Nội ngày 13 tháng 1 năm 2016 cho vùng sinh thái Bắc Trung Bộ, Duyên hải Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ).
Giống sắn KM419 đã phát triển rộng rãi tại Tây Ninh, Đồng Nai, Đắk Lắk, Phú Yên,…được nông dân các địa phương ưa chuộng với tên gọi sắn giống cao sản siêu bột Nông Lâm. Đặc biệt tại tỉnh Phú Yên giống sắn KM419 được trồng trên 85% tổng diện tích sắn của toàn tỉnh mang lại bội thu năng suất và hiệu quả cao về kinh tế xã hội. Tại Tây Ninh, năm 2019 diện tích sắn bị nhiễm bệnh CMD tuy vẫn còn cao nhưng mức độ hại giảm mạnh, lý do vì KM419 và KM94 là giống chủ lực chiếm trên 76% diện tích mỗi vụ của toàn tỉnh (KM419 chiếm 45% ở vụ Đông Xuân và 54,2% ở vụ Hè Thu; KM94 chiếm 31% ở vụ Đông Xuân và 21,6% ở vụ Hè Thu). Tại Đăk Lắk, năm 2019 diện tích sắn KM419 chiếm trên 70% diện tích mỗi vụ của toàn tỉnh.
Giống KM419 có đặc điểm:
+ Thân xanh xám thẳng, ngọn xanh cọng đỏ, lá xanh đậm, không phân nhánh.
+ Năng suất củ tươi: 34,9-54,9 tấn/ha.
+ Tỷ lệ chất khô: 35,1- 39.0%.
+ Hàm lượng tinh bột: 27,8 – 30,7%.
+ Năng suất tinh bột: 10,1-15,8 tấn/ ha
+ Chỉ số thu hoạch: 62 %.
+ Thời gian thu hoạch: 7-10 tháng.
+ Nhiễm trung bình bệnh chồi rồng và bệnh khảm lá virus CMD
+ Cây cao vừa, nhặt mắt, tán gọn, thích hợp trồng mật độ dày 12,500- 14.000 gốc/ ha .
Sự bùng nổ về năng suất sản lượng và hiệu quả kinh tế sắn đã trùng hợp với sự xuất hiện, lây lan của các bệnh hại bệnh sắn nghiêm trọng. Đặc biệt bệnh khảm lá CMD do virus gây hại (Sri Lanka Cassava Mosaic Virus) lây lan rất nhanh và gây hại khủng hoảng các vùng trồng sắn. Tại Việt Nam, bệnh này được phát hiện vào tháng 5/2017 trên giống sắn HLS11, đến tháng 7/ 2019 bệnh đã gây hại các vùng trồng sắn của 15 tỉnh, thành phố (2018), trên hầu hết các giống sắn hiện có ở Việt Nam. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Cục BVTV đã có văn bản 1068 ngày 9/5/2019 xác định “Việc hướng dẫn nông dân mua giống KM419 sạch bệnh là giải pháp an toàn, kinh tế nhất hiện nay”.
Điểm lưu ý trong sản xuất hiện nay là trồng giống KM419 sạch bệnh. Cần phân biệt giống sắn giống KM419 với HLS11 và các giống sắn chưa rõ lý lịch cha mẹ và nguồn gốc giống. Giống sắn KM419 đăc trưng là 1) thấp cây, tán gọn, cọng đỏ; 2) vỏ cũ xám trắng, 3) chống chịu nhẹ đến trung bình bệnh CMD và CWBD, so với HLS 11 đặc trưng là 1) cao cây, cọng xanh, 2) vỏ củ nâu đỏ, 3) nhiễm nặng bệnh CMD và bệnh đốm lá CBB. Giống sắn chủ lực KM419, được lai tạo đưa thêm gen kháng bệnh của giống C39, KM440, KM397 tạo ra các giống sắn KM568, KM537, KM536, KM535, năng suất bột cao kháng bệnh CMD và CWBD và có dạng hình cây thấp tán gọn,
Nghiên cứu tuyển chọn giống sắn năng suất tinh bột cao, kháng được sâu bệnh hại chính (CMD, CWBD) phù hợp với điều kiện sản xuất tại tỉnh Phú Yên và vùng phụ cận (Nguyễn Thị Trúc Mai, Hoàng Kim, Hoàng Long và đồng sự 2020). Sử dụng giống sắn KM419 năng suất tinh bột cao và nhiễm nhẹ đến trung bình bệnh CMD và bệnh chồi rồng (CWBD) để đưa thêm vào gen mục tiêu (C39) kháng bệnh. Chọn tạo và phát triển 1-2 các giống sắn mới trong phả hệ các giống sắn triển vọng KM568, KM537, KM536, KM535, KM534 là nội dung nghiên cứu quan trọng “Chọn tạo sắn Việt Nam” cấp thiết, có tính khả thi cao, tính mới cao, kế thừa và phát triển bền vững giống sắn ở Việt Nam tốt nhất hiện nay.
Tôi đã nhiều lần tới châu Mỹ, tới cả Trung Mỹ, Bắc Mỹ và Nam Mỹ. Đó là kinh nghiệm sống quý giá cho sự nghiên cứu và giảng dạy khoa học cây trồng, đặc biệt là cây lương thực. Tôi nhớ thầy Norman Boulaug và nhiều thầy bạn ở nơi ấy, nhớ đất. nhớ người. Tôi có thói quen chép lại ghi chú ngắn và ghi hình về kỷ niệm sau mỗi chuyến đi, lần này mới có dịp hệ thống lại. “Châu Mỹ chuyện không quên” lắng đọng trong lòng tôi những ký ức sâu sắc về công việc chuyên môn khoa học cây trồng, cây lương thực yêu thích, kết nối với đất nước, con người, bạn hữu, và nền văn hóa châu Mỹ. Tôi kể từ chuyến đi Mỹ lần đầu tiên năm 1988, cho tới nhiều lần về sau lắng đọng chuỗi trãi nghiệm thân thương với thầy bạn ở bên kia bờ đại dương. Ba nơi chính của châu Mỹ mà tôi may mắn được tới, đó là vùng vật liệu di truyền ở ba trung tâm khởi nguyên cây trồng toàn cầu của chúng tại Châu Mỹ gồm Trung tâm ngô và lúa mì quốc tế CIMMYT ở Mê hi cô. Trung tâm khoai lang và khoai tây quốc tế CIP ở Peru. Trung tâm Quốc tế Nông nghiệp Nhiệt đới CIAT về sắn, đậu thực phẩm, lúa gạo châu Mỹ ở Côlômbia. Những điểm đến này tương tự như Viện Nông nghiệp Nhiệt đời Quốc tế IITA ở Nigeria châu Phí, Viện Nghiên cứu Cây trồng Quốc tế cho vùng Nhiệt đới Bán khô cằn ICRISAT ở Ấn Độ, và Viện Lúa quốc tế IRRI ở Philippines. Những chốn ấy cũng thật thân thuộc với tôi. Tại đấy sách chuyên khảo cây trồng, tạp chí, trang web, video thật phong phú, sâu sắc và thật đáng ao ước. Cũng từ đấy mà tôi may mắn được đi thăm thú rộng ra các vùng lân cận theo điều kiện và hoàn cảnh của mỗi chuyến đi.
“Châu Mỹ chuyện không quên” là các bài học tình yêu cuộc sống trãi nghiệm cá nhân của các chuyến đi thực tế, với mục đích cung cấp các điểm nhấn tư liệu nông nghiệp sinh thái về cây lương thực châu Mỹ cho bạn đọc. Tác phẩm gồm 36 đường dẫn, tựa đề thơ ngũ ngôn, để dễ đọc dễ nhớ, ảnh chi tiết bấm link.
Mục đích sau cùng của DẠY VÀ HỌC là thấu suốtbản chất sự vật, có lời giải đúng và LÀM được việc. Lời Thầy dặn thung dung.
Ngày mỗi ngày phải tự thắng mình
Trận chiến mới em mãi là chiến sĩ
Ngày mỗi ngày cần ghi đều nhật ký
Tự thắng mình là bài học đầu tiên !
Có điện lung linh suốt đêm
Không quên vầng trăng ngọn lửa
Ngày dẫu miệt mài
Đêm về phải cố
Khắc sâu lời nguyền xưa !
“Không vì danh lợi đua chen
Thù nhà nợ nước quyết rèn bản thân”
Lưu bút Norman E. Borlaug gửi Hoàng Kim ngày 17 tháng 7 năm 1989 từ CIMMYT (hình) sau khi tôi đã về Việt Nam. Bài học phúc hậu, minh triết, tân tâm của gương sáng người Thầy, đã theo tôi suốt đời, tỏa sáng nhân cách, trí tuệ.
Chuyện Bài học tự thắng mình trong chùm bài viết Đi như một dòng sôngChâu Mỹ chuyện không quên.nối Con đường di sản LewisClark . Đó là sự tiếp nối Làng Minh Lệ quê tôi của các ghi chú nhỏ (Notes) Linh Giang Đình Minh Lệ; Đá Đứng chốn sông thiêng; Nguồn Son nối Phong NhaĐất Mẹ vùng di sản. Tôi xa quê Quảng Bình từ nhỏ. Quê hương nơi sinh thành là bài học quý cho bất cứ ai lớn nổi thành người, nhưng tôi vì hoàn cảnh lưu lạc xa xứ nên hiểu quê hương có giới hạn, mà ấn tượng lắng đọng sâu sắc nhất là Tổ quốc Quê hương đất nước con người, trãi mười hai bến nước của vận mệnh chiếc lá trôi dạt, đi để hiểu quê hương. Làng Minh Lệ quê tôi là bài học KHAI TÂM đầu đời là của cha mẹ và thầy giáo già mù nơi ngôi nhà tuổi thơ bến quê, với sự chỉ dạy tiếp theo của anh hai Hoàng Ngọc Dộ, chị năm Hoàng Thị Huyền đã thay cha mẹ mất để nuôi em dìu dắt cưu mang em, với thầy Nguyễn Khoa Tịnh khóc trên bục giảng cùng quý thầy bạn và người thân thắp lên ngọn lửa. Bài học của bến nước này là KHAI TRÍ. Chùm ảnh bài này thắp sáng ước mơ. .
LỜI THẦY DẶN Hoàng Kim
Việc chính đời người chỉ ít thôi.
Chuyên tâm đừng bận chuyện trời ơi.
Phúc hậu suốt đời làm việc thiện.
Di sản muôn năm mãi sáng ngời
Biết đủ thời nhàn sống thảnh thơi
Con em và cháu vững tay rồi
An nhàn vô sự là tiên đấy
Minh triết mỗi ngày dạy học chơi.
Bộ Trưởng Nguyễn Ngọc Trìu đến Trung tâm Hưng Lộc năm 1987 thăm thành tựu tiến bộ kỹ thuật “Trồng ngô lai xen đậu ở vùng Đông Nam Bộ” và mô hình “Nghiên cứu phát triển đậu rồng ở các tỉnh phía Nam” (Nguồn: Nhớ cụ Nguyễn Ngọc Trìu, bài và ảnh Hoàng Kim)
NLU hướng tới 65 năm. Chào mừng quý Thầy Cô và Các Bạn 30 năm ngày ra Trường 2010. Ảnh Họp mặt Kỷ niệm 30 năm ngày ra Trường, Khóa 2 Trồng Trọt, Chăn nuôi, Kinh tế, Lâm Nghiệp, Thủy Sản Trường Đại Học Nông Lâm TP Hồ Chí Minh, năm 2010 (Nguồn: Thầy bạn trong đời tôi, Bài và ảnh Hoàng Kim, lưu ảnh truyền thống)
Quê tôi ở miền Trung nghèo khó “Nhà mình gần ngã ba sông/ Rào Nan, chợ Mới, nguồn Son, Quảng Bình,/ Linh Giang sông núi hữu tình / Nơi đây cha mẹ sinh thành ra con/ Chèo thuyền cho khuất bến Son/ Để con khỏi chộ (thấy) nước non thêm buồn/ Câu thơ quặn thắt đời con/ Mẹ cha mất sớm, con còn trẻ thơ”. Tôi xa quê từ nhỏ. Mười tuổi mồ côi mẹ, Mười bốn tuổi cha chết do bom Mỹ giết hại.Tôi với chị gái Hoàng Thị Huyền ở với anh trai Hoàng Ngọc Dộ trong nhà hầm của lớp học ở làng Phù Lưu để học cấp ba Bắc Quảng Trạch. Anh trai tôi dạy cấp một, giáo viên khẩu phần ăn 13 ký lương thực mỗi tháng, trong đó có 70% là khoai sắn. Anh vì nuôi hai em thay cha mẹ mất nên khẩu phần ăn ấy chia cho ba người ăn. Đói. Gia đình tôi năm năm đã ăn ngày một bữa. Thầy Nguyễn Khoa Tịnh đứng khóc trên bục giảng vận động thầy cô, bạn hữu chia sớt khoai sắn giúp đỡ. Tôi cũng dạy năm lớp vở lòng, ba lớp bổ túc văn hóa và cùng anh cuốc đất tăng gia để vượt khó vươn lên. Thầy Hiệu trưởng Trần Đình Côn đã viết những lời xúc động trong Bài ca Trường Quảng Trạch trường ca tình thầy trò: “Thương em nhỏ gieo neo mẹ mất. Lại cha già giặc giết hôm qua. Tình thầy, tình bạn, tình cha. Ấy là ân nghĩa thiết tha mặn nồng” (9) Những gương mặt thầy bạn đã trở thành máu thịt trong đời tôi.
Thi đậu vào Trường Đại học Nông nghiệp 2 Hà Bắc năm 1970, tôi học Trồng trọt 4 cùng khóa với các bạn Trần Văn Minh, Đỗ Thị Minh Huệ, Phan Thanh Kiếm, Đỗ Khắc Thịnh, Vũ Mạnh Hải, Phạm Sĩ Tân, Phạm Huy Trung, Lê Xuân Đính, Nguyễn Hữu Bình, Lê Huy Bá … cho đến ngày 02 tháng 9 năm 1971 thì tôi gia nhập quân đội cùng lứa với Nguyễn Văn Thạc. Đợt tuyển quân sinh viên trong ngày độc lập đã nói lên sự quyết liệt sinh tử và ý nghĩa thiêng liêng của ngày cầm súng. Chiến trường đánh lớn. Đơn vị chúng tôi chỉ huấn luyện rất ngắn rồi vào trận ngay với 81 đại đội vượt sông Thạch Hãn. Chiến dịch Quảng Trị năm 1972 sau này đã đi vào huyền thoại: “Đò lên Thạch Hãn ơi chèo nhẹ/ Đáy sông còn đó bạn tôi nằm/ Có tuổi hai mươi thành sóng nước/ Vỗ yên bờ mãi mãi ngàn năm” Tổ chúng tôi bốn người thì Xuân và Chương hi sinh, chỉ Trung và tôi trở về trường sau ngày đất nước thống nhất. Những vần thơ viết dưới đây là xúc động sâu xa của tôi khi nghĩ về bạn học đồng đội đã khuất: “Trận chiến hôm qua bạn góp máu hồng. Lớp học hôm nay bạn không trở lại. Trách nhiệm trong mình nhân lên gấp bội. Đồng chí ơi, tôi học cả phần anh”
Tôi về học tiếp năm thứ hai tại Trồng trọt 10 của Đại học Nông nghiệp 2 Hà Bắc đến cuối năm 1977 thì chuyển trường vào Đại học Nông nghiệp 4, tiền thân Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh hiện nay. Trồng trọt 2 thuở đó là một lớp chung mãi cuối khóa mới tách ra 2A,2B, 2C. Tôi làm Chủ tịch Hội Sinh viên thay cho anh Nguyễn Anh Tuấn khoa thủy sản ra trường về dạy Đại học Cần Thơ. Trồng trọt khóa hai chúng tôi thuở đó được học với các thầy cô: Nguyễn Đăng Long, Tô Phúc Tường, Nguyễn Tâm Đài, Trịnh Xuân Vũ, Lê Văn Thượng, Ngô Kế Sương, Trần Thạnh, Lê Minh Triết, Phạm Kiến Nghiệp, Nguyễn Bá Khương, Nguyễn Tâm Thu, Nguyễn Bích Liễu, Trần Như Nguyện, Trần Nữ Thanh, Vũ Mỹ Liên, Từ Bích Thủy, Huỳnh Thị Lệ Nguyên, Trần Thị Kiếm, Vũ Thị Chỉnh, Ngô Thị Sáu, Huỳnh Trung Phu, Phan Gia Tân, Nguyễn Văn Tài, Nguyễn Văn Kế, … Ngoài ra còn có nhiều thầy cô hướng dẫn thực hành, thực tập, kỹ thuật phòng thí nghiệm, chủ nhiệm lớp như Bùi Cách Tuyến, Nguyễn Văn Kịp, Lê Quang Hưng, Trương Đình Khôi, Nguyễn Ngọc Châu, Nguyễn Gia Quốc, Nguyễn Văn Biền, Lê Huy Bá, Hoàng Quý Châu, Phạm Lệ Hòa, Đinh Ngọc Loan, Chung Anh Tú và cô Thảo làm thư ký văn phòng Khoa. Bác Năm Quỳnh là Bí thư Đảng ủy đầu tiên của Trường sau đó là thầy Kiên và cô Bạch Trà. Thầy Nguyễn Phan là Hiệu trưởng kiêm Trưởng Trại Thực nghiệm. Thầy Dương Thanh Liêm, Nguyễn Ngọc Tuân, Võ Thị Tuyết, Ngô Văn Mận, Bùi Xuân An … ở khoa Chăn nuôi Thú y, thầy Nguyển Yên Khâu, Nguyễn Quang Lộc … ở khoa Cơ khí, cô Nguyễn Thị Sâm ở Phòng Tổ chức, cô Văn Thị Bạch Mai dạy tiếng Anh, thầy Đặng, thầy Tuyển, thầy Châu ở Kinh tế -Mác Lê …Thầy Trần Thạnh, anh Quang, anh Đính, anh Đống ở trại Trường là những người đã gần gũi và giúp đỡ nhiều các lớp nông học.
Thuở đó đời sống thầy cô và sinh viên thật thiếu thốn. Các lớp Trồng trọt khóa 1, khóa 2, khóa 3 chúng tôi thường hoạt động chung như: thực hành sản xuất ở trại lúa Cát Lái, giúp dân phòng trừ rầy nâu, điều tra nông nghiệp, trồng cây dầu che mát sân trường, rèn nghề ở trại thực nghiệm, huấn luyện quốc phòng toàn dân, tập thể dục sáng, hội diễn văn nghệ, thi đấu bóng chuyền, bóng đá tạo nên sự thân tình gắn bó. Những sinh viên các khóa đầu tiên được đào tạo ở Khoa Nông học sau ngày Việt Nam thống nhất hiện đang công tác tại trường có các thầy cô như Từ Thị Mỹ Thuận, Lê Văn Dũ, Huỳnh Hồng, Cao Xuân Tài, Phan Văn Tự, …
Tháng 5 năm 1981, nhóm sinh viên của khoa Nông học đã bảo vệ thành công đề tài thu thập và tuyển chọn giống khoai lang Hoàng Long, Chiêm Dâu, Gạo, Bí Đà Lạt được Bộ Nông nghiệp công nhận giống ở Hội nghị Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Toàn Quốc Lần thứ Nhất tổ chức tại Thành phố Hố Chí Minh. Đây là một trong những kết quả nghiên cứu khoa học và chuyển giao tiến bộ kỹ thuật đầu tiên của Trường giới thiệu cho sản xuất. Thầy Cô Khoa Nông học và hai lớp Trồng trọt 2, Trồng trọt 3 cũng đã làm họ trai họ gái tác thành đám cưới cho vợ chồng tôi. Sau này, chúng tôi lấy tên khoai Hoàng Long để đặt cho con và thầm hứa việc tiếp nối sự nghiệp nghiên cứu khoa học và giảng dạy, một nghề nghiệp cao quý và lương thiện. “Biết ơn thầy cô giáo dịu hiền. Bằng khích lệ động viên lòng vượt khó. Trăm gian nan buổi ban đầu bở ngỡ. Có bạn thầy càng bền chí vươn lên. Trước mỗi khó khăn tập thể luôn bên. Chia ngọt xẻ bùi động viên tiếp sức. Thân thiết yêu thương như là ruột thịt. Ta tự nhủ lòng cần cố gắng hơn
Bạn học chúng tôi vẫn thỉnh thoảng họp mặt, có Danh sách các lớp Trồng trọt 2, Trồng trọt 3 số điện thoại và địa chỉ liên lạc. Một số hình ảnh của các lớp ngày ấy và bây giờ
TRIẾT LÝ NHÂN SINH CỦA TÔI
Đi như một dòng sông, Đời người là chuỗi hệ thống Học, Làm, Dạy, Nhàn, Viết.của năm quá trình kế tiếp nhau, đan xen nhau, hỗ trợ nhau, trộn vào nhau thành đời tôi.
SỰ HỌC khởi đầu từ lúc con người sinh ra cho đến khi có VIỆC LÀM để mưu sinh, để lao động, để cống hiến, để không còn làm người ăn bám sống trên mồ hôi thành quả của người khác, để biến cái sở trường thành hữu dụng. Đó là sự học chân chính, học để làm. Sự học tốt nhất là tự học suốt đời và sự học hữu dụng nhất, hiệu quả nhất là học làm người có ích. Học để làm tốt một nghề.
VIỆC LÀM VÀ VIỆC DẠY dường như chiếm một nữa đời người khi một phần tư đời người cho tuổi thơ và sự học, Dẫu sự học tốt nhất là tự học suốt đời nhưng thật xấu hổ nếu không biết làm và dạy. Học làm người có ích là có tâm huyết, chuyên nghiệp và kỹ năng học làm người có ích. Có người giảng dạy và việc làm tách riêng , làm thành thạo trước và trao truyền sau nhưng có nhiều người việc làm và việc dạy kết rất nhuyễn, Cha mẹ là thầy cô đầu đời của con.
AN NHÀN VÔ SỰ VÀ VIẾT. Nhàn và viết để lắng đọng di sản. An nhàn vô sự và viết dường như chiếm một phần tư đời người sau cùng. Phúc cho ai hưởng nhàn và đọng lại di sản. Minh triết sống phúc hậu là bài học quý, Bản chất cuộc sống là hạnh phúc và đau khổ, vui vẻ và phiền muộn, sự thiếu hoàn thiện và vô thường. Minh triết của đời người hạnh phúc là biết sống thung dung, phúc hậu, an nhiên tự tại, nhận ra kho báu vô giá của chính mình, không lo âu, không phiền muộn, sống với tinh thần dịu hiền và trái tim nhẹ nhõm.
CON ĐƯỜNG DI SẢN LEVIS CLARK
Tôi sang châu Mỹ nhiều lần, có trên 36 bài đường dẫn, thỉnh thoảng vui đọc lại và viết.Đó là một chặng đường trải nghiệm thích thú, trong con đường di sản của riêng mình. Thầy tôi Norman Borlaugtrao đổi với tôi thật nhiều câu chuyện Thomas Jefferson (1743 – 1826) là Nhà tư tưởng sáng lập nước Mỹ, với Lewis & Clark cuộc thám hiểm miền Tây nước Mỹ. Đó là một ví dụ điển hình về tầm nhìn và dự án khoa học thành công.Con đường di sản LewisClark lắng đọng trong tôi thật sâu Chuyện bây giờ mới kể …
Cuộc thám hiểm của Lewis và Clark đã được khởi sự vào ngày 14 tháng 5 năm 1804 và kết thúc cuối năm 1806. Đây là cuộc thám hiểm trên bộ đầu tiên của người Mỹ đến những tiểu bang duyên hải cận tây nhất của nước Mỹ và ngược lại. Miền Tây nước Mỹ là vùng đất nhiều thổ dân da đỏ sinh sống khoảng 10 ngàn năm trước đó, và thuở ấy miền Tây nước Mỹ có sự hiện diện của những cư dân mới là người thám hiểm và định cư thuộc các nước Tây Ban Nha, Anh, México, Nga và Mỹ. Tổng thống Mỹ Thomas Jefferson đã kiến nghị Quốc hội Mỹ phê chuẩn đầu tư cho chuyến khảo sát đường bộ của cuộc thám hiểm của Lewis và Clark cùng cộng sự. Trong một lá thư đề ngày 20 tháng 6 năm 1803, Tổng thống Mỹ Thomas Jefferson đã viết cho Lewis. “Mục tiêu sứ mạng của anh là thám hiểm Sông Missouri và dòng suối chính của nó qua dòng chảy và sự liên thông của nó với các bộ phận nước khác của Thái Bình Dương để xem Sông Columbia, Xứ Oregon, Colorado hay bất cứ con sông nào có thể cung cấp một sự liên thông mặt nước thực tiễn và trực tiếp nhất ngang qua lục địa này để giúp cho những mục đích thương mại“.
Thầy tôi trong buổi trò chuyện của mình đã khoanh vào các chỉ dấu Thomas JeffersonLewis & Clark thành những điểm chính nhấn mạnh cho các lời diễn đạt của mình
Trong chuyến khảo sát CIANO, OREGON của Miền Tây Mexico và nước Mỹ năm 1989 sau 186 năm từ chuyến thám hiểm miền Tây nước Mỹ của Lewis & Clark và cộng sự, tôi nhớ đinh ninh lời Thầy dặn, thật ấn tượng và thấm thía khi viết bài thơ cảm khái:
ĐI ĐỂ HIỂU QUÊ HƯƠNG
Tạm biệt Oregon !
Tạm biệt Obregon California !
Cánh bay đưa ta về CIMMYT
Bầu trời xanh bát ngát
Lững lờ mây trắng bay
Những ngọn núi cao nhấp nhô
Những dòng sông dài uốn khúc Hồ lớn Ciudad Obregon
ba tỷ khối nước
Nở xòe như chùm pháo bông
Những cánh đồng mênh mông
Thành trăm hình thù dưới làn mây bạc
Con đường dài đưa ta đi
Suốt dọc từ Nam chí Bắc
Thành sợi chỉ màu chạy mút tầm xa…
Ơi vòm trời xanh bao la
Gọi lòng ta nhớ về Tổ Quốc
Ôi Việt Nam, Việt Nam
Một vùng nhớ trong lòng ta tỉnh thức
Đi khắp quê người để hiểu đất quê hương.
Hoàng Kim
Sáu tháng ở CIMMYT với tôi là một câu chuyện ám ảnh. Tôi như cậu bé chăn cừu mà Paulo Coelho kể trong kiệt tác của tâm hồn Nhà Giả Kim (O Alquimista) mà tôi đã viết ở Ngọc lục bảo Paulo Coelho, cũng giống như cô bé Quách Tương tại tiểu thuyết ‘Thần điêu đại hiệp’ của Kim Dung đi vào thế giới bí ẩn của riêng mình với khát khao tìm kiếm
Thầy Norman Borlaug là nhà khoa học xanh sống nhân đạo, và nêu gương tốt. Thầy là nhà nông học Mỹ cha đẻ của cuộc cách mạng xanh được tặng giải Nobel và Tổng thống Mỹ trao tặng huân chương cao quý nhất của nước Mỹ, thế giới tôn vinh là nhà bác học số một của nhân loại trong cuộc chiến chống nghèo đói. Thầy đã suốt đời nghiên cứu giảng dạy về chọn tạo và phát triển cây lương thực, góp phần cải thiện đời sống và nâng cao thu nhập cho hàng trăm triệu nông dân nghèo ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ Latinh. Thầy là người sáng lập Giải thưởng Lương thực Thế giới và tổ chức nhiều hoạt động thiết thực thắp sáng niềm tin yêu cuộc sống.Câu chuyện về Người tôi đã kể vắn tắt tại Norman Borlaug di sản, niềm tin và nổ lực
Tôi được Thầy ghé thăm gần trọn buổi chiều tại phòng riêng ở CIMMYT, Mexico ngày 29.8.1988. Thầy đã một mình ghé thăm người trò nhỏ duy nhất của châu Á trong lớp học “Quản lý Trung tâm Trạm trại Nông nghiệp”. Khi Thầy đến, tôi đang thắp nến trên giá sách trong phòng đề tưởng nhớ ngày cha mất. Biết cha tôi bị bom Mỹ giết hại tại làng nhỏ ở Quảng Bình của buổi chiều này hai mươi năm trước (1968) lúc tôi còn là học sinh trung học của Trường cấp Ba Bắc Quảng Trạch, Thầy bối rối xin lỗi và thật bất ngờ tôi đã có được một buổi chiều vô giá riêng tư bên Thầy.
Người Thầy của tôi đã chọn chỉ cho tôi chỉ dấu Thomas Jefferson đã viết tự truyện của riêng mình để nói ít nhất trong lịch sử nước Mỹ nhưng để lại di sản lớn bằng cách chọn nhấn mạnh các mục từ khi bắt đầu và kết thúc sự nghiệp công cộng lâu dài của mình.
Lời Thầy dặn thật thấm thía: “ Đời người tối thiểu phải ăn, kế đến là học tập, công việc, nhà ở, quần áo và chăm sóc sức khỏe. Quanh ta còn nhiều mảnh đời bất hạnh. Hiểm họa nghèo đói vẫn bùng phát bất cứ lúc nào. Hãy luôn nhớ điều đó”; “Hãy vươn tới những vì sao. Cho dù không chạm được vào nó, nhưng nếu cố gắng hết sức, ít ra, chúng ta cũng chạm được những hạt bụi của ngôi sao”; “Việc chính đời người chỉ ít thôi. Chuyên tâm đừng bận chuyện trời ơi. Phúc hậu suốt đời làm việc thiện. Di sản muôn năm tiếng để đời”.
Tôi nghĩ ngợi nhiều về miền Tây của Mexico và nước Mỹ xưa và nay. Ở đó cũng có những cây xương rồng và những vùng đất cằn cỗi.
Miền Tây của Mexico, CIANO và vùng OREGON của Miền Tây nước Mỹ cũng đồi núi trập trùng hệt Việt Nam và biên độ nóng bức và giá lạnh thật lớn, dân cư thưa thớt với nhiều người dân bản địa.
Chúng tôi đến CIANO và đi dọc miền Tây mà không đi ngang nước Mỹ như Cuộc thám hiểm của Lewis và Clark. CIANO là địa chỉ xanh tuyệt vời để tôi hiểu thế nào là một trạm trại nông nghiệp thực sự.
Khu văn phòng của trại thực nghiệm CIANO không lớn nhưng thực sự tiện nghi và hiệu quả và đồng ruộng nghiên cứu thí nghiệm thì được đầu tư và quản lý thật tuyệt vời.
Cánh đồng lúa mì thí nghiệm thực nghiệm tại CIANO thực sự cuốn hút. Đoàn chúng tôi ngày đi tham quan học tập. Buổi chiều sau khi ăn tối tôi lại mê mãi ghi chép,đọc và viết.
Bài học mà thầy Norman Borlaug chỉ dấu với tôi về Cuộc thám hiểm của Lewis và Clark thật thú vị.
Chuyến khảo sát của Lewis và Clark trong hai năm rưỡi đã đạt được thành tựu:
Hoa Kỳ hiểu biết rộng thêm về địa lý của phía miền tây nước Mỹ trong hình thức các bản đồ về các con sông và dãy núi chính.
Quan sát và mô tả 178 loài thực vật và 122 loài động vật (qua Danh sách của loài thực động vật được mô tả qua chuyến thám hiểm Lewis và Clark)
Khuyến khích giao thương da thú Âu-Mỹ tại miền Tây
Mở rộng quan hệ ngoại giao Âu-Mỹ với người bản thổ Mỹ
Thiết lập một tiền lệ cho việc thám hiểm miền Tây của Quân đội Hoa Kỳ
Củng cố tuyên bố chủ quyền của Hoa Kỳ đối với Lãnh thổ Oregon
Tập trung sự chú ý của truyền thông và của Hoa Kỳ vào miền Tây
Nhật ký của Lewis và Clark với các trang viết về họ đã hình thành một bộ văn chương lớn nói về miền Tây.