Trang chủ NLU| KhoaNôngHọc| Mụclục Hoàng KimLong| Tình yêu cuộc sống | CNM365| Khát khao xanh | Dạy và học | Cây Lương thực | FoodCrops| HK1| HK2| HK3| HK4| HKWiki| Violet| FAOSTAT| ThốngkêVN | ThờitiếtVN|
Thống kê
Số lần xem
Đang xem 1007
Toàn hệ thống 1800
Trong vòng 1 giờ qua
Trang liên kết

 

Tỉnh thức
giữa đêm thiêng Yên Tử
Để thấm hiểu đức Nhân Tông
Ta thành tâm đi bộ
Lên tận đỉnh chùa Đồng
Tâm sáng Ức Trai
trong tựa ngọc


TÌNH YÊU CUỘC SỐNG

THUNG DUNG
Nguyễn Bỉnh Khiêm, ...


DẠY VÀ HỌC
Để chấn hưng giáo dục Việt Nam cấp thiết phải có đội ngũ những người thầy giáo ưu tú có tâm đức thiết tha với nghề, có trình độ chuyên môn cao và có kỹ năng giảng dạy tốt. Đây là trang thông tin chuyên đề dạy và học để trao đổi và bàn luận


Khoa Nông Học  
Những nhà khoa học xanh,
http://foodcrops.vn


Norman Borlaug
Lời Thầy dặn

Việc chính đời người chỉ ít thôi
Chuyên tâm đừng bận chuyện trời ơi
Phúc hậu suốt đời làm việc thiện
Di sản muôn năm mãi sáng ngời.


Thông tin Cây Lương thực
 Lúa, Ngô, Sắn, Khoai lang
Nông trại và Hệ thống Canh tác
http://foodcrops.vn
FOOD CROPS
CÂY LƯƠNG THỰC
  



Tình yêu cuộc sống
Thông tin chuyên đề chọn lọc

Science Daily

KHÁT KHAO XANH
HOÀNG KIM
CNM365

Luôn làm mới kiến thức của bạn !



Bút tích NB gửi HK và
Những tư liệu quý về 
GS.TS. Norman Borlaug

Lối vào Phong Nha

 


HOÀNG KIM
NGỌC PHƯƠNG NAM
CHÀO NGÀY MỚI

DẠY VÀ HỌC
CÂY LƯƠNG THỰC
FOOD CROPS



THƯ VIỆN NGHỀ LÚA
Thư viện Khoa học Xã hội





Cassava in Vietnam



A New Future for Cassava in Asia

On-line: Cassava in Asia
(Tải tài liệu PDF tại đây)


 

KimFaceBook
KimYouTube

KimLinkedIn

Songkhongtubien

KIMYOUTUBE. Video nhạc tuyển Sóng không từ biển (xem tiếp).



GỬI THƯ ĐIẾN TỬ VÀ
LIÊN KẾT TRỰC TUYẾN

hoangkimvietnam@gmail.com 
hoangkim@hcmuaf.edu.vn  
TS. Hoàng Kim

http://foodcrops.vn
http://vi.gravatar.com/hoangkimvn
http://en.gravatar.com/hoangkimvn

Thành viên

Email:
Password

Nội dung

  TS. Hoàng Kim

DẠY VÀ HỌC 18 THÁNG 10
Hoàng Kim
CNM365 Tình yêu cuộc sốngBài ca Trường Quảng Trạch; Em ơi can đảm lên; Lời Thầy luôn theo em; Borlaug và Hemingway; Lời Thầy dặn thung dung; Giấc mơ thiêng cùng Goethe; Bài ca nhịp thời gian; Nguyễn Du trăng huyền thoại; Nguyễn Du tư liệu quý,. Ngày 18 tháng 10 năm 1386, Đại học Heidelberg khai hiệu, đây là trường đại học lâu đời nhất của Đức từ thời Thánh chế La Mã. Đại học Heidelberg ngày nay nằm trong số các trường đại học nghiên cứu hàng đầu của châu Âu và Thế giới. Trường có nhiều thành tựu chủ yếu về các lĩnh vực vật lý học, thiên văn học, dược lý học, y học, luật học và xã hội học, 55 trong số đó đã được trao tặng giải Nobel.  Ngày 18 tháng 10 năm 1931 là ngày mất của Thomas Alva Edison (sinh ngày 11 tháng 2 năm 1847) là một nhà phát minh và thương nhân đã phát triển rất nhiều thiết bị có ảnh hưởng lớn tới cuộc sống trong thế kỷ 20. Edison được coi là một trong những nhà phát minh giàu ý tưởng nhất trong lịch sử, ông giữ tổng cộng 1.500 bằng phát minh trên toàn thế giới, trong đó có 1.093 bằng sáng chế tại Hoa Kỳ dưới tên ông. Edison là một trong những nhà phát minh đầu tiên ứng dụng các nguyên tắc sản xuất hàng loạt vào quy trình sáng tạo, và vì thế có thể coi là người đã sáng tạo ra phòng nghiên cứu công nghiệp đầu tiên. Ngày 18 tháng 10 năm 1952 ngày sinh Bảo Ninh, nhà văn Việt Nam, tác giả của “Nỗi buồn chiến tranh”. Bài chọn lọc ngày 18 tháng 10: Bài ca Trường Quảng Trạch; Em ơi can đảm lên; Lời Thầy luôn theo em; Borlaug và Hemingway; Lời Thầy dặn thung dung; Giấc mơ thiêng cùng Goethe; Bài ca nhịp thời gian; Nguyễn Du trăng huyền thoại; Nguyễn Du tư liệu quý, Linh Nhạc thương lời hiền; Trung Liệt đền thờ cổ; “Bang giao tập” Việt Trung; Nguyễn Du niên biểu luận; Chương mục tiêu quốc gia; Hoàng Long dạy và học; Cây Lương thực Việt Nam; Tổ hợp tác nông nghiệp; Phát triển nông thôn mới; Đồng xuân lưu dấu hiền; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-18-thang-10/.

BÀI CA TRƯỜNG QUẢNG TRẠCH
Hoàng Kim

Trường Quảng Trạch bên dòng Gianh ấy1
Bao năm rồi biết mấy đổi thay
Công cha nghĩa mẹ ơn thầy
Ân tình bầu bạn vẹn đầy lòng dân.

Trần Đình Côn là thầy Hiệu trưởng
Trường khai sinh 18 tháng 10
Ba Đồn một chín sáu hai (1962)
Cờ đầu giáo dục của thời vàng son.

Trường Quảng Trạch tiếng thơm vang mãi
“Bài ca Trường Quảng Trạch” tuyệt hay
Bao năm gặp lại hôm nay
Chúng ta chung đọc lời Thầy đầu tiên:

Bài ca Trường Quảng Trạch
Trần Đình Côn
Hiệu trưởng

“Hồi tưởng lại một mùa thu ấy
Mấy thu rồi biết mấy đổi thay
Khởi công ròng rã tháng ngày
Dốc lòng, dốc sức dựng xây trường mình

Vùng cát trắng biến thành ao cá
Rừng dương xanh lộng gió vi vu
Giếng thơi trong suốt ngọt ngào
Cổng trường cao rộng đón chào anh em

Trường Quảng Trạch trên miền Quảng Thọ1
Tên trường ta chữ đỏ vàng son
Tên Tổ Quốc, tên yêu thương
Thơm dòng sữa mẹ quê hương xa gần

Phòng học mới cửa xanh, ngói đỏ
Lá cờ sao trước gió tung bay
Tình em, tình bạn, tình thầy
Mỗi ngày thêm nặng, mỗi ngày thêm sâu.

Lòng những tưởng khởi đầu vất vả
Để năm sau tất cả tiến lên
Ai ngờ giặc Mỹ đê hèn
Tường vôi tan nát, khói hoen mặt người.

Cuộc sống đã sáng ngời lửa thép
Đạn bom nào uy hiếp được ta
Cổng trường, mái ngóii, tường hoa
Đã thành gạch vụn xót xa hận thù

Đã đến lúc thầy trò sơ tán
Xa thị thành về tận xóm thôn
Bầu Mây, Phù Hợp, Đồng Dương 2
Trắng trong cồn cát mái trường thêm xinh

Phá trường ngói trường tranh ta dựng
Đắp luỹ dày, hầm vững, hào sâu
Khiêng bàn, vác gỗ đêm thâu
Lưng trời đạn xé, ngang đầu bom rơi.

Nơi Hầm Cối 3 xa vời em đến
Qua Khe Sâu 4 đá nghiến nát chân
Nhớ khi bụng đói lạc đường
Càng căm giặc Mỹ, càng thương chúng mình.

Chí đã quyết hi sinh chẳng quản
Lòng đã tin vào Đảng , vào dân
Kết liền lưc lượng Công Nông
Ghi sâu tình bạn Hải quân anh hùng

Sông Gianh đó vẫy vùng một cõi
Thép hạm tàu chói lọi chiến công
Đôi ta chiến đấu hợp đồng 5
Vít đầu giặc Mỹ xuôi dòng nước xanh.

Ngày thêm nặng mối tình kết nghĩa
Nơi “vườn đào” đất mẹ Phù Lưu 6
Cùng nhau chung một chiến hào
Trao quà chiến thắng vui nào vui hơn

Từ ấy đã nghìn đêm có lẽ
Có phút nào giặc Mỹ để yên
Chất chồng tội ác ngày đêm
Lửa thù rực cháy đốt tim muôn người

Ôi những cảnh rụng rời thê thảm
Mái nhà tranh giáo án thành tro
Mẹ già, anh chiị, em thơ
Xương bay, thịt nát, cửa nhà tan hoang

Lớp học đó chiến trường em đó
Nín đi em hãy cố học chăm
Giành điểm bốn, giành điểm năm
Ấy là diệt Mỹ chiến công hàng ngày.

Đã có bạn có thầy giúp đỡ
Khó khăn nào lại khó vượt qua
Miếng khi đói gói khi no
Lưng cơm hạt muối giúp cho bạn nghèo

Thương em cảnh gieo neo mẹ mất
Lại cha già giặc giết hôm qua
Tình thầy tình bạn tình cha
Ấy là tình Đảng thiết tha mặn nồng.

Có những lúc đêm đông giá rét
Thầy bên em ai biết ai hay
Hầm luỹ thép, ngọn đèn khuya
Mùa đông sưởi ấm, mùa hè mát sao.

Nào Văn học lại nào Toán Lý
Giảng cho em nhớ kỹ từng lời
Cho em học một biết mười
Cho em học chóng nên người tài cao

Dắt em tận năm châu bốn biển
Mắt nhìn xa nghĩ đến mai sau
Đây Lạng Sơn đó Cà Mau
Giang sơn hùng vĩ, địa cầu lừng danh

Đưa em lên sao Kim sao Hoả
Để em nhìn cho rõ nước ta
Hiểu ngày nay, hiểu ngày xưa
Hùng Vương, Nguyễn Trãi gần là Quang Trung

Em càng hiểu anh hùng thời đại
Có Bác Hồ chỉ lối ta đi
Dù địch phá, dù gian nguy
Trường ta vững lái cứ đi cứ về

Tuổi thanh niên sơ gì việc khó
Khó khăn nhiều tiến bộ càng nhanh
Đã nuôi chí lớn ắt thành
Có thầy, có bạn, có mình, có ta.

Thiếu phấn viết làm ra phấn viết
Sách giáo khoa ta chép thâu đêm
Sản xuất kết hợp học hành
Như chim đủ cánh cất mình bay cao.

Ruộng tăng sản bèo dâu xanh biếc
Cấy thẳng hàng buốt thiịt xương đau
Độ pH cách trừ sâu
Chiêm mùa sau trước trước sau khác gì.

Sổ tay đó em ghi phân bón
Ước mơ sao năm tấn thành công
Bốn mùa Xuân Hạ Thu Đông
Bức tranh tuyệt đẹp ruộng đồng bao la

 

Những đêm sáng trăng ngà trong suốt
Vút lên cao thánh thót lời ca
“Hoa Pơ lang” 7 ấy bông hoa
Tây Nguyên đẹp nhất thiết tha gửi lời
“Nổ trống lên rừng núi ơi” 8
“Bài ca may áo” 9 “Mặc người dèm pha” 10

Thân múa dẽo kết “Hoa Sen” 11 trắng
Giữa hội trường rực sáng đèn xanh
Tưởng chừng lạc đến cảnh tiên
Tưởng chừng thiếu nữ ở miền Thiên Thai.

Ai biết đó con người nghèo khổ
Con Công Nông bỗng hoá thành tiên
Rũ bùn em bước đi lên
Bùn tanh mà đã lọc nên hương trời.

Trường ta đó ấy nơi rèn luyện
Mấy năm qua bao chuyện anh hùng
Ngày xưa Phù Đổng Thiên Vương
Ta nay lớn mạnh phi thường lạ chưa?

Trong chiến đấu xông pha diệt Mỹ
Lập công đầu dũng sĩ tiền phương
Liên Xô, Tiệp Khắc, Ba Lan
Châu Âu châu Á từ trường mà ra

Dù ở tận Cu Ba châu Mỹ
Vẫn ngày đêm suy nghĩ về ta
Dù cho ở lại quê nhà
Xóm thôn xã vắng vẫn lo sớm chiều

Lo nước đủ phân nhiều lúa tốt
Cảnh ruộng đồng hợp tác vui thay
Mỗi khi bưng bát cơm đầy
Dẽo thơm một hạt nhớ thầy năm xưa

Ôi có những phút giờ sung sướng
Là những khi cờ Đảng trao tay 12
Anh em bè bạn sum vầy
Tiếng cười xen tiếng vỗ tay kéo dài

Có những lúc nghe đài Hà Nội
Vang truyền đi thế giới gần xa
Tin trường ta, tin chúng ta
Hả lòng, hả dạ ưóc mơ nào bằng

Có những lúc báo Đoàn báo Đảng
Đăng tin trường khai giảng thành công
Tin một năm, tin ba năm
Như luồng gió mới lửa hồng bùng lên

Trên màn bạc giữa  nền ánh điện
Phim trường ta chiếu rạng khắp nơi  13
Châu Âu châu Mỹ xa xôi
Năm câu bốn biển rõ mười tin vui

Hay biết mấy xem người trong ảnh
Ta xem ta xem cảnh trường ta
Này hầm, này luỹ, này nhà
Kìa thầy kìa bạn kìa là xã viên

Phù Lưu đó ruộng liền thẳng cánh
Bầu Mây đây đúng cảnh trong phim
Sáng bừng như mặt trời lên
Chói ngời như một niềm tin tuyệt trần.

Chào 68 mùa xuân tuyệt đẹp
Cả trường đang vang nhịp tiến công
Đón xuân với cả tấm lòng
Đầy trời lửa đạn súng giòn chào ta

Duyên thiên lý một nhà sum họp
Người tuy đông mà một lòng son
Nào khách quý nào tri âm
Bốn phương quy tụ xa gần về đây

Thời gian hỡi dừng ngay cánh lại
Giờ vui ơi xin hãy khoan thai
Rượu nồng chưa uống mà say
Bữa ăn quên đói, chuyện dài thâu canh

Vui gặp chị gặp anh thân thiết
Chuyện xa gần khôn xiết nói sao
Yêu nhau xin nhớ lời nhau
Thù chung đã nặng càng sâu thù nhà

Con khôn lớn mẹ cha đẹp mặt
Trường vững vàng Đảng ắt mừng vui
Cờ hồng bạn lại trao tay 14
Phất cao cho đến tầng mây xa vời

Sức ta ước chọc trời khuấy nước
Khó khăn nào chặn bước ta đi
Mỗi năm xuân đến một thì
Xuân này hơn hẵn mấy kỳ xuân qua.

Có nghe chăng Bác Hồ ra lệnh
“Tiến lên toàn thắng ắt về ta”
Tiến lên giành lấy tự do
Tiến lên giành lấy thời cơ diệt thù

Hồi tưởng lại những mùa thu ấy
Bao ngày qua biết mấy buồn vui
“Đắng cay nay mới ngọt bùi
Đường đi muôn dặm đã ngời mai sau”

Lời Bác dạy ghi sâu trong dạ
Ngọn đèn pha chiếu toả muôn nơi
Trang sách rộng nghĩa đường đời
Học hành kết hợp nên người tài ba

Nay sum họp mai đà li biệt
Tiễn người đi lại tiếp người vào
Kể sao vui sướng dạt dào
Người sao vương vấn ra vào băn khoăn

Đã vì Đảng vì Dân vì Nước
Tiến lên đi nhanh bước tiến lên
Lòng thầy luôn ở bên em
Đường lên sao Hoả, sao Kim xa gì?

Đi đâu cũng hướng về Quảng Trạch
Cũng có ngày gặp mặt các em
Nhắc bao kỷ niệm êm đềm
Báo công ghi tiếp nên thiên sử vàng …

*

Trường tỏa sáng nhân văn nét đẹp
Nôi luyện rèn bao lớp học sinh
Bao người vì nước hiến dâng
Bao người bình dị chân thành thủy chung.

Phạm Ngọc Căng là thầy Hiệu phó
Chốn đôi quê Thanh Hóa Quảng Bình
Tám mươi vẫn nặng ân tình
Bồi hồi nhớ lại, đinh ninh dặn dò:

Ta gặp nhau từ lúc tóc còn xanh.
Nay tìm lại thì đầu đã bạc.
Để nhớ một thời cùng toàn dân đánh giặc.
Gian khổ chất chồng, mất mát đau thương.
Bốn mươi năm thầy bạn tỏa muôn phương.
Nay ôn lại thầy trò thời chống Mỹ.
Trăm khuôn mặt anh chị nào cũng quý.
Bình dị, chân thành, tình nghĩa, thuỷ chung.
Nét đẹp quê hương Quảng Trạch anh hùng”.

Trường Quảng Trạch âm vang tiếng dội
Quách Mộng Lân bài hát tuyệt vời
Lời ca ấm áp một thời
Lắng sâu cảm xúc tình đời tỏa hương:

Bai ca Truong Quang Trach 4

“MỜI GHÉ THĂM TRƯỜNG EM
Nhạc và lời: Quách Mộng Lân

Ai về Quảng Lưu mời ghé thăm trường em
Lớn lên trong những ngày vui đánh Mỹ
Trường của em theo tiếng gọi Bác Hồ
Lớp học là chiến trường, học sinh là chiến sĩ
Ôi mái trường đẹp xinh
Bao năm trường dạy ta khôn lớn
Có thầy có bạn ngày đêm chan chứa bao tình

Ai về Quảng Lưu mời ghé thăm trường em
Gió reo vui hát bài ca chiến thắng
Ruộng phì nhiêu năm tấn hạt thóc vàng
Sống vui với xóm làng Trường ta thêm gắn bó
Đây mái trường của ta
Bao năm trường day ta khôn lớn
Muôn hạt giống đỏ rồi đây
Đi khắp mọi miền dựng xây Tổ quốc.”

Võ Huy Cát người thầy Vĩnh Phúc
Lúc đạn bom thầy đến thăm Trường‘Về Quảng Trạch” át tiếng bom
Thơ hay một thuở sổ vàng còn ghi:

“VỀ QUẢNG TRẠCH
Võ Huy Cát (Vĩnh Phúc)

Sách giáo khoa anh chép mấy đêm thâu
Mà từng bản thấm mồ hôi trí tuệ
Đồ dạy học biến từ không thành có
Từ mảnh bom vỏ đạn quân thù

Có thầy giáo lội băng đồng đến lớp
Nỗi cảm thông thầm kín trong lòng
Vừa hôm qua đi bới hầm chữa cháy
Soạn xong bài vừa lúc hừng đông

Có thầy giáo cùng các em tâm sự
Cảnh nhà neo mẹ giặc giết hôm qua
Một lon gạo thấm tình người đồng chí
Một lời khuyên ấm tình bạn chan hoà

Có em học điểm năm chen cọc sổ
Chiều lại về làm cán bộ thông tin
Chòi phát thanh tiếng em vang xóm ngõ
Những chiến công lừng lẫy hai miền

Quảng Trạch ơi kể làm sao hết được
Những chiến công của những người con
Trên đất anh hùng hôm trước đạn bom
Mà sáng dậy vẫn cười vui đến lớp

Anh đứng đó mái trường tranh mới lợp
Trái tim sôi máu nóng hờn căm
Mười tám đôi mươi hay tuổi trăng rằm
Mang sức trẻ cùng toàn dân cứu nước

Quảng Trạch ơi đường vào đó bao xa
Cầu phá mấy chuyến phà anh nhỉ
Cho tôi gửi bài thơ tặng người đồng chí
Dưới mái trường xanh đang ươm những mầm hoa

Dưới mái trường tranh đang cứu nước cứu nhà.”

Em ơi em can đảm bước chân lên!
Thơ của Thầy trong em đã thành ngọn lửa
Thầy ơi, nước mắt đời người thấm vào con chữ
Trung hiếu trọn đời rèn chí vươn lên.

EM ƠI CAN ĐẢM LÊN
Nguyễn Khoa Tịnh
gửi em Kim

“Thầy ước mong em noi gương Quốc Tuấn,
nhớ Lời nguyền của thầy Hoàng Ngọc Dộ
“Không vì danh lợi đua chen
Thù nhà nợ nước quyết rèn bản thân.”
*

“Đọc thơ em, tim tôi thắt lại
Lòng nghẹn ngào, nước mắt chảy rưng rưng
Nửa xót xa nhưng nửa lại vui mừng
Xót xa vì đời em còn thơ dại
Mới tuổi thơ mà cuộc đời đầy khổ ải
Mới biết cười đã phải sống mồ côi
Như chiếc thuyền giữa biển tự trôi
Như chiếc lá bay về nơi vô định
Bụng đói” viết ra thơ em vịnh:

“Cơm ngày một bữa sắn trộn khoai
Có biết lòng ta bấy hỡi ai?
Vơi vơi lòng dạ, cồn cào bụng
Kể chi no đói, mặc ngày dài”

Phải!
Kể chi no đói mặc ngày dài
Rất tự hào là thơ em sung sức
Rất tự hào là em tôi đầy nghị lực
Đã hiển lộ mình qua “Cái chảo rang

“Trung dũng ai bằng cái chảo rang
Lửa to mới biết sáp hay vàng
Xào nấu chiên kho đều vẹn cả
Chua cay mặn ngọt giữ an toàn
Ném tung chẳng vỡ như nồi đất
Quăng bừa xó bếp vẫn nằm ngang
Tốt đẹp đâu cần danh tiếng hão
Bạn cùng lửa đỏ, nóng chang chang”

Phải!
Lửa to mới biết sáp hay vàng!
Em hãy là vàng,
Mặc ai chọn sáp!
Tôi vui sướng cùng em
Yêu giấc “Ngủ đồng
Hiên ngang khí phách:

“Sách truyền sướng nhất chức Quận công
Ta sướng khi ra ngủ giữa đồng
Lồng lộng trời hè muôn làn gió
Đêm thanh sao sáng mát thu không
Nằm ngửa ung dung như khanh tướng
Lấy mấy vần thơ tỏ nỗi lòng
Tinh tú bao quanh hồn thời đại
Ngủ đồng khoan khoái ngắm gương trong”

Tôi biết chí em khi “Qua đèo Ngang
Ung dung xướng họa với người anh hùng
Đã làm quân thù khiếp sợ:

“Ta đi qua đèo Ngang
Cũng gặp Người trèo qua núi hiểm
Đỉnh dốc chênh vênh
Xe mù bụi cuốn
Có lẽ thiên nhiên đã định bao giờ
Một dãy Hoành Sơn bát ngát trận đồ
Điệp điệp núi cao
Trùng trùng rừng thẳm.
Người thấy
Súng gác trời xanh
Gió lùa biển lớn
Nông dân rộn rịp đường vui
Thanh Quan nàng nhẽ có hay
Cảnh mới đã thay cảnh cũ.
Ta hay
Máu chồng đất đỏ
Mây cuốn dặm khơi
Nhân công giọt giọt mồ hôi
Hưng Đạo thầy ơi có biết
Người nay nối chí người xưa

Tới đây
Nước biếc non xanh
Biển rộng gió đùa khuấy nước
Đi nữa
Đèo sâu vực thẳm
Núi cao mây giỡn chọc trời

Nhớ thù nhà, luống thẹn làm trai
Thương dân nước, thà sinh phận gái
“Hoành Sơn cổ lũy”
Hỏi đâu dấu tích phân tranh?
Chỉ thấy non sông
Lốc cuốn, bốn phương sấm động.

Người vì việc nước ra đi
Ta muốn cứu dân nên thăm trận thế
Điều không hẹn mà xui gặp mặt
Vô danh lại gặp hữu danh
Cuộc đời dài ắt còn sẽ gặp nhau
Nay hội ngộ giữa đỉnh cao trời đất
Anh em ta ngự trên xe đạp
Còn Người thì lại đáp com măng
Đường xuyên sơn
Anh hùng gặp anh hùng
Nhìn sóng biển Đông
Như ao trời dưới núi.

Xin kính chào
Bậc anh hùng tiền bối
Ta ngưỡng mộ Người
Và tỏ chí với non sông
Mẹ hiền ơi!
Tổ Quốc ơi!
Xin tiếp bước anh hùng!”

Hãy cố lên em!
Noi gương danh nhân mà lập chí
Ta với em
Mình hãy kết thành đôi tri kỷ !
Đất Quảng Trạch này đâu kém Nam Dương
Tôi tự hào bài “Tỏ chí” của em:

“Quốc Tuấn ngày xưa chí vững bền
Thù nhà, nợ nước chẳng hề quên
Đến bữa quên ăn, đêm quên ngủ
Thương dân, yêu nước quyết báo đền
Văn hay thu phục muôn người Việt
Võ giỏi kinh hồn lũ tướng Nguyên
Mươi năm sau nữa ơi ông Tuấn
Nối chí ông, nay cháu tiến lên!”

Tôi thương mến em
Đã chịu khó luyện rèn
Biết HỌC LÀM NGƯỜI !
Học làm con hiếu thảo.
Mười lăm tuổi đã “Tập làm thầy giáo

“Vui gì hơn buổi đầu làm thầy giáo
Của lớp vở lòng đất mẹ yêu thương
Trưa nắng luyến các em cùng đến lớp
Giọng líu lo như chim hót ven đường.

Đứng trước các em tuổi nhỏ đáng yêu
Mà đã tưởng tới bao nhiêu người lớn
Nghe em đọc giọng thanh thanh dễ mến
Mà đã nghe đất nước xuyến xao mình!”

 

Tổ Quốc đang chờ em phía trước.
Em ơi em, can đảm bước chân lên !

Bài ca Trường Quảng Trạch thân thiết yêu thương
Dạy và Học, Học để Làm, suốt đời ta nhớ mãi.

 

Ghi chú của thầy Trần Đình Côn

1) Trường Quảng Trạch đóng ở xã Quảng Thọ từ 9/1962- 6/1965, dựng trường ngày 18 tháng 10 năm 1962 (Trường khai hiệu cùng ngày Đại học Heidelberg khai hiệu ngày 18 tháng 10 năm 1386, đó là trường đại học lâu đời nhất của Đức, theo CNM365, HK)
2) Bầu Mây, Phù Hợp, Đồng Dương là những tên đất, tên làng trường sơ tán từ 1965 đến 1968. (Thuở chiến tranh ác liệt có Trường cấp 3 Bắc Quảng Trạch và Trường Cấp 3 Nam Quảng Trạch, địa danh sơ tán và chuyển đổi tên trường tuy có biến động theo thời gian nhưng sau này quy tụ chung một nôi chung tại thị xã Ba Đồn là Quảng Trạch cũ)
3) Tên rú nơi các em đi lấy gỗ
4) Tên khe nơi các em đi qua
5) Trận chiến đấu hợp đồng giữa Trường và đơn vị kết nghĩa Hải quân sông Gianh
6) Nơi làm lễ kết nghĩa giữa ba đơn vị 11/1965
7, 8, 9, 10) Tên các ca khúc mà các em thường hát
11) Điệu múa truyền thống của Trường
12) Lễ tiếp nhận lần thứ nhất Cờ Lao động XHCN của Hội đồng Chính phủ trao tại Cao Mại ngày 30/8/1967
13) Bộ phim Trường Quảng Trạch do nhà quay phim Ma Văn Cường dựng 5/12/1965
14) Lễ trao tặng lần thứ hai Cờ Lao động XHCN của Hội đồng Chính phủ và Bằng Khen của Tổng Công Đoàn tại Phù Lưu ngày 4/1/1968

 

LỜI THẦY LUÔN THEO EM
Hoàng Kim
tưởng nhớ thầy Nguyễn Khoa Tịnh

Thầy thung dung bước lên bục giảng
Buổi học cuối cùng “Tổng kết sử Việt Nam”
Tiếng Thầy ấm trong từng lời nói
Như muốn truyền cho các em
Tất cả những niềm tin.

Đôi mắt sáng lướt nhìn toàn bộ lớp
Thầy có dừng trên khuôn mặt nào không ?
Thầy có tin trong lớp còn ngồi học
Có những em nung nấu chí anh hùng.

Các em hiểu những gì
Trong tim óc người Thầy
Mái tóc đà điểm bạc
Em biết Thầy tâm huyết rất nhiều
Trên mười năm dạy học
Vẫn canh cánh trong lòng
Luôn tìm kiếm những người
Có chí lớn
và tấm lòng yêu nước
thương dân.

Mười năm
Thức đo thời gian
Dài như cả nỗi đau chia cắt
Sương bạc thời gian phôi pha mái tóc
Câu chuyện mười năm Đông Quan dạy học
Hẳn nhiều đêm rồi
Thầy nhớ Ức Trai xưa?

Mười năm
Trang lòng, trang thơ
Nhớ tráng sĩ Đặng Dung đêm thanh mài kiếm
Ôi câu thơ năm nào
giữa lòng Thầy xao xuyến
“Anh hùng lỡ vận ngẫm càng cay”

Mười năm
Dằng dặc thời gian
Đo lòng Thầy nhớ miền Nam tha thiết
Em tin trong lòng Thầy
Luôn âm ỉ cháy lửa lòng yêu nước
Thầy có tin rằng trong lớp
Có người trò nghèo
Chí nối Ức Trai xưa.

“Dẫu đất này khi thịnh khi suy
Song hào kiệt đời nào cũng có”

Thầy giảng Đại cáo bình Ngô
Liên hệ chuyện chân chúa Nguyễn Hoàng
âm thầm tìm kiếm Đào Duy Từ …
cũng như chuyện “Tam cố thảo lư”
anh em Lưu Bị
vượt núi thẳm, mưa tuyết, đường xa
ba lần đến Long Trung
tìm kiếm Khổng Minh Gia Cát
tuổi chỉ đáng bằng tuổi con mình
nhưng trọng dụng kỳ tài
đã tôn làm quân sư cùng lo việc nước…

Thầy kể chuyện Đào Duy Từ xưa
Bậc khai quốc công thần nhà Nguyễn
dựng nghiệp nhọc nhằn, người hiền lắm nạn
cha mẹ chết oan, chiếc lá giữa dòng…
Đào Duy Từ còn mãi với non sông:
Người có công nghiệp lẫy lừng chẳng kém Ngọa Long
Định Bắc, thu Nam, công đầu Nam tiến.
Người tổ chức phòng ngự chiều sâu
Hoành Sơn, Linh Giang, Lũy Thầy
minh chúa, quân giỏi, tướng tài, ba tầng thủ hiểm
Người xây dựng nên định chế đàng Trong
một chính quyền rất được lòng dân
nức tiếng một thời.
Người viết nên kiệt tác Hổ trướng khu cơ,
tuồng Sơn Hậu, nhã nhạc cung đình
là di sản muôn đời.
Trí tuệ bậc thầy, danh thơm vạn thuở …

Thầy giảng về bài học lịch sử Việt Nam
những người con trung hiếu
tận tụy quên mình vì dân vì nước
hẳn lòng Thầy cháy bỏng khát khao
vượng khí non sông khí thiêng hun đúc
Đất Quảng Trạch này đâu kém Nam Dương
Có nông phu ham học, chăm làm
Mà thao lược chuyển xoay thời vận.

Ôi sử sách cổ kim bao nhiêu gương sáng
Học sử ai người biết sử để noi?

“Lịch sử dân tộc mình
Những năm bảy mươi
Các em sẽ là người viết tiếp
Điểm theo thời gian
Truyền thống ông cha xưa
Oanh liệt vô cùng”

Tiếng Thầy thiết tha
Truyền nguồn cảm xúc
Các em uống từng lời
Lắng nghe từng chữ
Lời tâm huyết thấm sâu vào lòng em:
“Nung gan sắt để dời non lấp bể
Xối máu nóng rửa vết nhơ nô lệ”
Em đã tìm được trong Thầy
Một người anh
Một người đồng chí
Em vững tin trong sự nghiệp cứu dân
Hẳn có lòng Thầy luôn ở bên em!

Thầy nói nhiều về Việt Nam thân yêu
Dựng nước gian nan, người dân còn khổ
Mắt Thầy thiết tha quá chừng
Làm em mãi nhớ
Thầy truyền cho chúng em niềm tin
Đạo làm người, lòng yêu nước
Em càng thấm thía vô cùng
Vì sao những người có tâm huyết ngày xưa
Những Chu Văn An, Nguyễn Bỉnh Khiêm,
Nguyễn Thiếp, Phan Châu Trinh, …
Đều yêu nghề dạy học.

Tổ Quốc cần, gọi em về phía trước
“Em ơi em, can đảm bước chân lên!” (1)
Em sẽ khắc trong lòng
Những lời dạy đầu tiên!

Lời của Thầy theo mãi bước em đi.

Hoàng Kim
Rút trong tập THƠ CHO CON

(1) bài thơ của thầy Nguyễn Khoa Tịnh
Em ơi em can đảm bước chân lên

Trăng rằm

TRĂNG RẰM VUI CHƠI GIĂNG
Hoàng Kim

Trăng rằm vui chơi giăng
Đêm Vu Lan mờ tỏ
Trăng rằm khuya lồng lộng giữa trời
Thăm thẳm lời Người nói …

Mẹ cũ như ngôi nhà cũ
Chiếc áo mẹ mang bạc phếch tháng năm
Cha cũ như con thuyền cũ
Dòng sông quê hương thao thiết đời con

Anh chị cũ tình vẹn nghĩa
Trọn đời thương nhau lồng lộng trăng rằm
Em tôi hồn quê dáng cũ
Con cháu niềm vui thơm thảo tháng năm

Thầy bạn lộc xuân đầy đặn
Bài ca thời gian ngời ngợi trăng rằm.

Thắp đèn lên đi em
Đêm Vu Lan tỉnh thức
Thương nhớ bài thơ cũ
Chuyện đời không nỡ quên …

Ngày mới và đêm Vu Lan
Vầng trăng Sao Hôm Sao Kim thân thiết.
Loanh quanh tìm tòi cái mới
Đêm Vu Lan thức về lại chính mình.

Đêm Vu Lan nhớ mùa thu đi học
Nhớ ngọn đèn mờ tỏ giấc mơ xưa
Thương con vạc gọi sao Mai mọc sớm
Vầng trăng khuya thăm thẳm giữa tâm hồn

Thắp đèn lên đi em (1)
Gốc mai v

DẠY VÀ HỌC 18 THÁNG 10
Hoàng Kim
CNM365 Tình yêu cuộc sốngBài ca Trường Quảng Trạch; Em ơi can đảm lên; Lời Thầy luôn theo em; Borlaug và Hemingway; Lời Thầy dặn thung dung; Giấc mơ thiêng cùng Goethe; Bài ca nhịp thời gian; Nguyễn Du trăng huyền thoại; Nguyễn Du tư liệu quý,. Ngày 18 tháng 10 năm 1386, Đại học Heidelberg khai hiệu, đây là trường đại học lâu đời nhất của Đức từ thời Thánh chế La Mã. Đại học Heidelberg ngày nay nằm trong số các trường đại học nghiên cứu hàng đầu của châu Âu và Thế giới. Trường có nhiều thành tựu chủ yếu về các lĩnh vực vật lý học, thiên văn học, dược lý học, y học, luật học và xã hội học, 55 trong số đó đã được trao tặng giải Nobel.  Ngày 18 tháng 10 năm 1931 là ngày mất của Thomas Alva Edison (sinh ngày 11 tháng 2 năm 1847) là một nhà phát minh và thương nhân đã phát triển rất nhiều thiết bị có ảnh hưởng lớn tới cuộc sống trong thế kỷ 20. Edison được coi là một trong những nhà phát minh giàu ý tưởng nhất trong lịch sử, ông giữ tổng cộng 1.500 bằng phát minh trên toàn thế giới, trong đó có 1.093 bằng sáng chế tại Hoa Kỳ dưới tên ông. Edison là một trong những nhà phát minh đầu tiên ứng dụng các nguyên tắc sản xuất hàng loạt vào quy trình sáng tạo, và vì thế có thể coi là người đã sáng tạo ra phòng nghiên cứu công nghiệp đầu tiên. Ngày 18 tháng 10 năm 1952 ngày sinh Bảo Ninh, nhà văn Việt Nam, tác giả của “Nỗi buồn chiến tranh”. Bài chọn lọc ngày 18 tháng 10: Bài ca Trường Quảng Trạch; Em ơi can đảm lên; Lời Thầy luôn theo em; Borlaug và Hemingway; Lời Thầy dặn thung dung; Giấc mơ thiêng cùng Goethe; Bài ca nhịp thời gian; Nguyễn Du trăng huyền thoại; Nguyễn Du tư liệu quý, Linh Nhạc thương lời hiền; Trung Liệt đền thờ cổ; “Bang giao tập” Việt Trung; Nguyễn Du niên biểu luận; Chương mục tiêu quốc gia; Hoàng Long dạy và học; Cây Lương thực Việt Nam; Tổ hợp tác nông nghiệp; Phát triển nông thôn mới; Đồng xuân lưu dấu hiền; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-18-thang-10/.

BÀI CA TRƯỜNG QUẢNG TRẠCH
Hoàng Kim

Trường Quảng Trạch bên dòng Gianh ấy1
Bao năm rồi biết mấy đổi thay
Công cha nghĩa mẹ ơn thầy
Ân tình bầu bạn vẹn đầy lòng dân.

Trần Đình Côn là thầy Hiệu trưởng
Trường khai sinh 18 tháng 10
Ba Đồn một chín sáu hai (1962)
Cờ đầu giáo dục của thời vàng son.

Trường Quảng Trạch tiếng thơm vang mãi
“Bài ca Trường Quảng Trạch” tuyệt hay
Bao năm gặp lại hôm nay
Chúng ta chung đọc lời Thầy đầu tiên:

Bài ca Trường Quảng Trạch
Trần Đình Côn
Hiệu trưởng

“Hồi tưởng lại một mùa thu ấy
Mấy thu rồi biết mấy đổi thay
Khởi công ròng rã tháng ngày
Dốc lòng, dốc sức dựng xây trường mình

Vùng cát trắng biến thành ao cá
Rừng dương xanh lộng gió vi vu
Giếng thơi trong suốt ngọt ngào
Cổng trường cao rộng đón chào anh em

Trường Quảng Trạch trên miền Quảng Thọ1
Tên trường ta chữ đỏ vàng son
Tên Tổ Quốc, tên yêu thương
Thơm dòng sữa mẹ quê hương xa gần

Phòng học mới cửa xanh, ngói đỏ
Lá cờ sao trước gió tung bay
Tình em, tình bạn, tình thầy
Mỗi ngày thêm nặng, mỗi ngày thêm sâu.

Lòng những tưởng khởi đầu vất vả
Để năm sau tất cả tiến lên
Ai ngờ giặc Mỹ đê hèn
Tường vôi tan nát, khói hoen mặt người.

Cuộc sống đã sáng ngời lửa thép
Đạn bom nào uy hiếp được ta
Cổng trường, mái ngóii, tường hoa
Đã thành gạch vụn xót xa hận thù

Đã đến lúc thầy trò sơ tán
Xa thị thành về tận xóm thôn
Bầu Mây, Phù Hợp, Đồng Dương 2
Trắng trong cồn cát mái trường thêm xinh

Phá trường ngói trường tranh ta dựng
Đắp luỹ dày, hầm vững, hào sâu
Khiêng bàn, vác gỗ đêm thâu
Lưng trời đạn xé, ngang đầu bom rơi.

Nơi Hầm Cối 3 xa vời em đến
Qua Khe Sâu 4 đá nghiến nát chân
Nhớ khi bụng đói lạc đường
Càng căm giặc Mỹ, càng thương chúng mình.

Chí đã quyết hi sinh chẳng quản
Lòng đã tin vào Đảng , vào dân
Kết liền lưc lượng Công Nông
Ghi sâu tình bạn Hải quân anh hùng

Sông Gianh đó vẫy vùng một cõi
Thép hạm tàu chói lọi chiến công
Đôi ta chiến đấu hợp đồng 5
Vít đầu giặc Mỹ xuôi dòng nước xanh.

Ngày thêm nặng mối tình kết nghĩa
Nơi “vườn đào” đất mẹ Phù Lưu 6
Cùng nhau chung một chiến hào
Trao quà chiến thắng vui nào vui hơn

Từ ấy đã nghìn đêm có lẽ
Có phút nào giặc Mỹ để yên
Chất chồng tội ác ngày đêm
Lửa thù rực cháy đốt tim muôn người

Ôi những cảnh rụng rời thê thảm
Mái nhà tranh giáo án thành tro
Mẹ già, anh chiị, em thơ
Xương bay, thịt nát, cửa nhà tan hoang

Lớp học đó chiến trường em đó
Nín đi em hãy cố học chăm
Giành điểm bốn, giành điểm năm
Ấy là diệt Mỹ chiến công hàng ngày.

Đã có bạn có thầy giúp đỡ
Khó khăn nào lại khó vượt qua
Miếng khi đói gói khi no
Lưng cơm hạt muối giúp cho bạn nghèo

Thương em cảnh gieo neo mẹ mất
Lại cha già giặc giết hôm qua
Tình thầy tình bạn tình cha
Ấy là tình Đảng thiết tha mặn nồng.

Có những lúc đêm đông giá rét
Thầy bên em ai biết ai hay
Hầm luỹ thép, ngọn đèn khuya
Mùa đông sưởi ấm, mùa hè mát sao.

Nào Văn học lại nào Toán Lý
Giảng cho em nhớ kỹ từng lời
Cho em học một biết mười
Cho em học chóng nên người tài cao

Dắt em tận năm châu bốn biển
Mắt nhìn xa nghĩ đến mai sau
Đây Lạng Sơn đó Cà Mau
Giang sơn hùng vĩ, địa cầu lừng danh

Đưa em lên sao Kim sao Hoả
Để em nhìn cho rõ nước ta
Hiểu ngày nay, hiểu ngày xưa
Hùng Vương, Nguyễn Trãi gần là Quang Trung

Em càng hiểu anh hùng thời đại
Có Bác Hồ chỉ lối ta đi
Dù địch phá, dù gian nguy
Trường ta vững lái cứ đi cứ về

Tuổi thanh niên sơ gì việc khó
Khó khăn nhiều tiến bộ càng nhanh
Đã nuôi chí lớn ắt thành
Có thầy, có bạn, có mình, có ta.

Thiếu phấn viết làm ra phấn viết
Sách giáo khoa ta chép thâu đêm
Sản xuất kết hợp học hành
Như chim đủ cánh cất mình bay cao.

Ruộng tăng sản bèo dâu xanh biếc
Cấy thẳng hàng buốt thiịt xương đau
Độ pH cách trừ sâu
Chiêm mùa sau trước trước sau khác gì.

Sổ tay đó em ghi phân bón
Ước mơ sao năm tấn thành công
Bốn mùa Xuân Hạ Thu Đông
Bức tranh tuyệt đẹp ruộng đồng bao la

Những đêm sáng trăng ngà trong suốt
Vút lên cao thánh thót lời ca
“Hoa Pơ lang” 7 ấy bông hoa
Tây Nguyên đẹp nhất thiết tha gửi lời
“Nổ trống lên rừng núi ơi” 8
“Bài ca may áo” 9 “Mặc người dèm pha” 10

Thân múa dẽo kết “Hoa Sen” 11 trắng
Giữa hội trường rực sáng đèn xanh
Tưởng chừng lạc đến cảnh tiên
Tưởng chừng thiếu nữ ở miền Thiên Thai.

Ai biết đó con người nghèo khổ
Con Công Nông bỗng hoá thành tiên
Rũ bùn em bước đi lên
Bùn tanh mà đã lọc nên hương trời.

Trường ta đó ấy nơi rèn luyện
Mấy năm qua bao chuyện anh hùng
Ngày xưa Phù Đổng Thiên Vương
Ta nay lớn mạnh phi thường lạ chưa?

Trong chiến đấu xông pha diệt Mỹ
Lập công đầu dũng sĩ tiền phương
Liên Xô, Tiệp Khắc, Ba Lan
Châu Âu châu Á từ trường mà ra

Dù ở tận Cu Ba châu Mỹ
Vẫn ngày đêm suy nghĩ về ta
Dù cho ở lại quê nhà
Xóm thôn xã vắng vẫn lo sớm chiều

Lo nước đủ phân nhiều lúa tốt
Cảnh ruộng đồng hợp tác vui thay
Mỗi khi bưng bát cơm đầy
Dẽo thơm một hạt nhớ thầy năm xưa

Ôi có những phút giờ sung sướng
Là những khi cờ Đảng trao tay 12
Anh em bè bạn sum vầy
Tiếng cười xen tiếng vỗ tay kéo dài

Có những lúc nghe đài Hà Nội
Vang truyền đi thế giới gần xa
Tin trường ta, tin chúng ta
Hả lòng, hả dạ ưóc mơ nào bằng

Có những lúc báo Đoàn báo Đảng
Đăng tin trường khai giảng thành công
Tin một năm, tin ba năm
Như luồng gió mới lửa hồng bùng lên

Trên màn bạc giữa  nền ánh điện
Phim trường ta chiếu rạng khắp nơi  13
Châu Âu châu Mỹ xa xôi
Năm câu bốn biển rõ mười tin vui

Hay biết mấy xem người trong ảnh
Ta xem ta xem cảnh trường ta
Này hầm, này luỹ, này nhà
Kìa thầy kìa bạn kìa là xã viên

Phù Lưu đó ruộng liền thẳng cánh
Bầu Mây đây đúng cảnh trong phim
Sáng bừng như mặt trời lên
Chói ngời như một niềm tin tuyệt trần.

Chào 68 mùa xuân tuyệt đẹp
Cả trường đang vang nhịp tiến công
Đón xuân với cả tấm lòng
Đầy trời lửa đạn súng giòn chào ta

Duyên thiên lý một nhà sum họp
Người tuy đông mà một lòng son
Nào khách quý nào tri âm
Bốn phương quy tụ xa gần về đây

Thời gian hỡi dừng ngay cánh lại
Giờ vui ơi xin hãy khoan thai
Rượu nồng chưa uống mà say
Bữa ăn quên đói, chuyện dài thâu canh

Vui gặp chị gặp anh thân thiết
Chuyện xa gần khôn xiết nói sao
Yêu nhau xin nhớ lời nhau
Thù chung đã nặng càng sâu thù nhà

Con khôn lớn mẹ cha đẹp mặt
Trường vững vàng Đảng ắt mừng vui
Cờ hồng bạn lại trao tay 14
Phất cao cho đến tầng mây xa vời

Sức ta ước chọc trời khuấy nước
Khó khăn nào chặn bước ta đi
Mỗi năm xuân đến một thì
Xuân này hơn hẵn mấy kỳ xuân qua.

Có nghe chăng Bác Hồ ra lệnh
“Tiến lên toàn thắng ắt về ta”
Tiến lên giành lấy tự do
Tiến lên giành lấy thời cơ diệt thù

Hồi tưởng lại những mùa thu ấy
Bao ngày qua biết mấy buồn vui
“Đắng cay nay mới ngọt bùi
Đường đi muôn dặm đã ngời mai sau”

Lời Bác dạy ghi sâu trong dạ
Ngọn đèn pha chiếu toả muôn nơi
Trang sách rộng nghĩa đường đời
Học hành kết hợp nên người tài ba

Nay sum họp mai đà li biệt
Tiễn người đi lại tiếp người vào
Kể sao vui sướng dạt dào
Người sao vương vấn ra vào băn khoăn

Đã vì Đảng vì Dân vì Nước
Tiến lên đi nhanh bước tiến lên
Lòng thầy luôn ở bên em
Đường lên sao Hoả, sao Kim xa gì?

Đi đâu cũng hướng về Quảng Trạch
Cũng có ngày gặp mặt các em
Nhắc bao kỷ niệm êm đềm
Báo công ghi tiếp nên thiên sử vàng …

*

Trường tỏa sáng nhân văn nét đẹp
Nôi luyện rèn bao lớp học sinh
Bao người vì nước hiến dâng
Bao người bình dị chân thành thủy chung.

Phạm Ngọc Căng là thầy Hiệu phó
Chốn đôi quê Thanh Hóa Quảng Bình
Tám mươi vẫn nặng ân tình
Bồi hồi nhớ lại, đinh ninh dặn dò:

Ta gặp nhau từ lúc tóc còn xanh.
Nay tìm lại thì đầu đã bạc.
Để nhớ một thời cùng toàn dân đánh giặc.
Gian khổ chất chồng, mất mát đau thương.
Bốn mươi năm thầy bạn tỏa muôn phương.
Nay ôn lại thầy trò thời chống Mỹ.
Trăm khuôn mặt anh chị nào cũng quý.
Bình dị, chân thành, tình nghĩa, thuỷ chung.
Nét đẹp quê hương Quảng Trạch anh hùng”.

Trường Quảng Trạch âm vang tiếng dội
Quách Mộng Lân bài hát tuyệt vời
Lời ca ấm áp một thời
Lắng sâu cảm xúc tình đời tỏa hương:

Bai ca Truong Quang Trach 4

“MỜI GHÉ THĂM TRƯỜNG EM
Nhạc và lời: Quách Mộng Lân

Ai về Quảng Lưu mời ghé thăm trường em
Lớn lên trong những ngày vui đánh Mỹ
Trường của em theo tiếng gọi Bác Hồ
Lớp học là chiến trường, học sinh là chiến sĩ
Ôi mái trường đẹp xinh
Bao năm trường dạy ta khôn lớn
Có thầy có bạn ngày đêm chan chứa bao tình

Ai về Quảng Lưu mời ghé thăm trường em
Gió reo vui hát bài ca chiến thắng
Ruộng phì nhiêu năm tấn hạt thóc vàng
Sống vui với xóm làng Trường ta thêm gắn bó
Đây mái trường của ta
Bao năm trường day ta khôn lớn
Muôn hạt giống đỏ rồi đây
Đi khắp mọi miền dựng xây Tổ quốc.”

Võ Huy Cát người thầy Vĩnh Phúc
Lúc đạn bom thầy đến thăm Trường‘Về Quảng Trạch” át tiếng bom
Thơ hay một thuở sổ vàng còn ghi:

“VỀ QUẢNG TRẠCH
Võ Huy Cát (Vĩnh Phúc)

Sách giáo khoa anh chép mấy đêm thâu
Mà từng bản thấm mồ hôi trí tuệ
Đồ dạy học biến từ không thành có
Từ mảnh bom vỏ đạn quân thù

Có thầy giáo lội băng đồng đến lớp
Nỗi cảm thông thầm kín trong lòng
Vừa hôm qua đi bới hầm chữa cháy
Soạn xong bài vừa lúc hừng đông

Có thầy giáo cùng các em tâm sự
Cảnh nhà neo mẹ giặc giết hôm qua
Một lon gạo thấm tình người đồng chí
Một lời khuyên ấm tình bạn chan hoà

Có em học điểm năm chen cọc sổ
Chiều lại về làm cán bộ thông tin
Chòi phát thanh tiếng em vang xóm ngõ
Những chiến công lừng lẫy hai miền

Quảng Trạch ơi kể làm sao hết được
Những chiến công của những người con
Trên đất anh hùng hôm trước đạn bom
Mà sáng dậy vẫn cười vui đến lớp

Anh đứng đó mái trường tranh mới lợp
Trái tim sôi máu nóng hờn căm
Mười tám đôi mươi hay tuổi trăng rằm
Mang sức trẻ cùng toàn dân cứu nước

Quảng Trạch ơi đường vào đó bao xa
Cầu phá mấy chuyến phà anh nhỉ
Cho tôi gửi bài thơ tặng người đồng chí
Dưới mái trường xanh đang ươm những mầm hoa

Dưới mái trường tranh đang cứu nước cứu nhà.”

Em ơi em can đảm bước chân lên!
Thơ của Thầy trong em đã thành ngọn lửa
Thầy ơi, nước mắt đời người thấm vào con chữ
Trung hiếu trọn đời rèn chí vươn lên.

EM ƠI CAN ĐẢM LÊN
Nguyễn Khoa Tịnh
gửi em Kim

“Thầy ước mong em noi gương Quốc Tuấn,
nhớ Lời nguyền của thầy Hoàng Ngọc Dộ
“Không vì danh lợi đua chen
Thù nhà nợ nước quyết rèn bản thân.”
*

“Đọc thơ em, tim tôi thắt lại
Lòng nghẹn ngào, nước mắt chảy rưng rưng
Nửa xót xa nhưng nửa lại vui mừng
Xót xa vì đời em còn thơ dại
Mới tuổi thơ mà cuộc đời đầy khổ ải
Mới biết cười đã phải sống mồ côi
Như chiếc thuyền giữa biển tự trôi
Như chiếc lá bay về nơi vô định
Bụng đói” viết ra thơ em vịnh:

“Cơm ngày một bữa sắn trộn khoai
Có biết lòng ta bấy hỡi ai?
Vơi vơi lòng dạ, cồn cào bụng
Kể chi no đói, mặc ngày dài”

Phải!
Kể chi no đói mặc ngày dài
Rất tự hào là thơ em sung sức
Rất tự hào là em tôi đầy nghị lực
Đã hiển lộ mình qua “Cái chảo rang

“Trung dũng ai bằng cái chảo rang
Lửa to mới biết sáp hay vàng
Xào nấu chiên kho đều vẹn cả
Chua cay mặn ngọt giữ an toàn
Ném tung chẳng vỡ như nồi đất
Quăng bừa xó bếp vẫn nằm ngang
Tốt đẹp đâu cần danh tiếng hão
Bạn cùng lửa đỏ, nóng chang chang”

Phải!
Lửa to mới biết sáp hay vàng!
Em hãy là vàng,
Mặc ai chọn sáp!
Tôi vui sướng cùng em
Yêu giấc “Ngủ đồng
Hiên ngang khí phách:

“Sách truyền sướng nhất chức Quận công
Ta sướng khi ra ngủ giữa đồng
Lồng lộng trời hè muôn làn gió
Đêm thanh sao sáng mát thu không
Nằm ngửa ung dung như khanh tướng
Lấy mấy vần thơ tỏ nỗi lòng
Tinh tú bao quanh hồn thời đại
Ngủ đồng khoan khoái ngắm gương trong”

Tôi biết chí em khi “Qua đèo Ngang
Ung dung xướng họa với người anh hùng
Đã làm quân thù khiếp sợ:

“Ta đi qua đèo Ngang
Cũng gặp Người trèo qua núi hiểm
Đỉnh dốc chênh vênh
Xe mù bụi cuốn
Có lẽ thiên nhiên đã định bao giờ
Một dãy Hoành Sơn bát ngát trận đồ
Điệp điệp núi cao
Trùng trùng rừng thẳm.
Người thấy
Súng gác trời xanh
Gió lùa biển lớn
Nông dân rộn rịp đường vui
Thanh Quan nàng nhẽ có hay
Cảnh mới đã thay cảnh cũ.
Ta hay
Máu chồng đất đỏ
Mây cuốn dặm khơi
Nhân công giọt giọt mồ hôi
Hưng Đạo thầy ơi có biết
Người nay nối chí người xưa

Tới đây
Nước biếc non xanh
Biển rộng gió đùa khuấy nước
Đi nữa
Đèo sâu vực thẳm
Núi cao mây giỡn chọc trời

Nhớ thù nhà, luống thẹn làm trai
Thương dân nước, thà sinh phận gái
“Hoành Sơn cổ lũy”
Hỏi đâu dấu tích phân tranh?
Chỉ thấy non sông
Lốc cuốn, bốn phương sấm động.

Người vì việc nước ra đi
Ta muốn cứu dân nên thăm trận thế
Điều không hẹn mà xui gặp mặt
Vô danh lại gặp hữu danh
Cuộc đời dài ắt còn sẽ gặp nhau
Nay hội ngộ giữa đỉnh cao trời đất
Anh em ta ngự trên xe đạp
Còn Người thì lại đáp com măng
Đường xuyên sơn
Anh hùng gặp anh hùng
Nhìn sóng biển Đông
Như ao trời dưới núi.

Xin kính chào
Bậc anh hùng tiền bối
Ta ngưỡng mộ Người
Và tỏ chí với non sông
Mẹ hiền ơi!
Tổ Quốc ơi!
Xin tiếp bước anh hùng!”

Hãy cố lên em!
Noi gương danh nhân mà lập chí
Ta với em
Mình hãy kết thành đôi tri kỷ !
Đất Quảng Trạch này đâu kém Nam Dương
Tôi tự hào bài “Tỏ chí” của em:

“Quốc Tuấn ngày xưa chí vững bền
Thù nhà, nợ nước chẳng hề quên
Đến bữa quên ăn, đêm quên ngủ
Thương dân, yêu nước quyết báo đền
Văn hay thu phục muôn người Việt
Võ giỏi kinh hồn lũ tướng Nguyên
Mươi năm sau nữa ơi ông Tuấn
Nối chí ông, nay cháu tiến lên!”

Tôi thương mến em
Đã chịu khó luyện rèn
Biết HỌC LÀM NGƯỜI !
Học làm con hiếu thảo.
Mười lăm tuổi đã “Tập làm thầy giáo

“Vui gì hơn buổi đầu làm thầy giáo
Của lớp vở lòng đất mẹ yêu thương
Trưa nắng luyến các em cùng đến lớp
Giọng líu lo như chim hót ven đường.

Đứng trước các em tuổi nhỏ đáng yêu
Mà đã tưởng tới bao nhiêu người lớn
Nghe em đọc giọng thanh thanh dễ mến
Mà đã nghe đất nước xuyến xao mình!”

Tổ Quốc đang chờ em phía trước.
Em ơi em, can đảm bước chân lên !

Bài ca Trường Quảng Trạch thân thiết yêu thương
Dạy và Học, Học để Làm, suốt đời ta nhớ mãi.

Ghi chú của thầy Trần Đình Côn

1) Trường Quảng Trạch đóng ở xã Quảng Thọ từ 9/1962- 6/1965, dựng trường ngày 18 tháng 10 năm 1962 (Trường khai hiệu cùng ngày Đại học Heidelberg khai hiệu ngày 18 tháng 10 năm 1386, đó là trường đại học lâu đời nhất của Đức, theo CNM365, HK)
2) Bầu Mây, Phù Hợp, Đồng Dương là những tên đất, tên làng trường sơ tán từ 1965 đến 1968. (Thuở chiến tranh ác liệt có Trường cấp 3 Bắc Quảng Trạch và Trường Cấp 3 Nam Quảng Trạch, địa danh sơ tán và chuyển đổi tên trường tuy có biến động theo thời gian nhưng sau này quy tụ chung một nôi chung tại thị xã Ba Đồn là Quảng Trạch cũ)
3) Tên rú nơi các em đi lấy gỗ
4) Tên khe nơi các em đi qua
5) Trận chiến đấu hợp đồng giữa Trường và đơn vị kết nghĩa Hải quân sông Gianh
6) Nơi làm lễ kết nghĩa giữa ba đơn vị 11/1965
7, 8, 9, 10) Tên các ca khúc mà các em thường hát
11) Điệu múa truyền thống của Trường
12) Lễ tiếp nhận lần thứ nhất Cờ Lao động XHCN của Hội đồng Chính phủ trao tại Cao Mại ngày 30/8/1967
13) Bộ phim Trường Quảng Trạch do nhà quay phim Ma Văn Cường dựng 5/12/1965
14) Lễ trao tặng lần thứ hai Cờ Lao động XHCN của Hội đồng Chính phủ và Bằng Khen của Tổng Công Đoàn tại Phù Lưu ngày 4/1/1968

LỜI THẦY LUÔN THEO EM
Hoàng Kim
tưởng nhớ thầy Nguyễn Khoa Tịnh

Thầy thung dung bước lên bục giảng
Buổi học cuối cùng “Tổng kết sử Việt Nam”
Tiếng Thầy ấm trong từng lời nói
Như muốn truyền cho các em
Tất cả những niềm tin.

Đôi mắt sáng lướt nhìn toàn bộ lớp
Thầy có dừng trên khuôn mặt nào không ?
Thầy có tin trong lớp còn ngồi học
Có những em nung nấu chí anh hùng.

Các em hiểu những gì
Trong tim óc người Thầy
Mái tóc đà điểm bạc
Em biết Thầy tâm huyết rất nhiều
Trên mười năm dạy học
Vẫn canh cánh trong lòng
Luôn tìm kiếm những người
Có chí lớn
và tấm lòng yêu nước
thương dân.

Mười năm
Thức đo thời gian
Dài như cả nỗi đau chia cắt
Sương bạc thời gian phôi pha mái tóc
Câu chuyện mười năm Đông Quan dạy học
Hẳn nhiều đêm rồi
Thầy nhớ Ức Trai xưa?

Mười năm
Trang lòng, trang thơ
Nhớ tráng sĩ Đặng Dung đêm thanh mài kiếm
Ôi câu thơ năm nào
giữa lòng Thầy xao xuyến
“Anh hùng lỡ vận ngẫm càng cay”

Mười năm
Dằng dặc thời gian
Đo lòng Thầy nhớ miền Nam tha thiết
Em tin trong lòng Thầy
Luôn âm ỉ cháy lửa lòng yêu nước
Thầy có tin rằng trong lớp
Có người trò nghèo
Chí nối Ức Trai xưa.

“Dẫu đất này khi thịnh khi suy
Song hào kiệt đời nào cũng có”

Thầy giảng Đại cáo bình Ngô
Liên hệ chuyện chân chúa Nguyễn Hoàng
âm thầm tìm kiếm Đào Duy Từ …
cũng như chuyện “Tam cố thảo lư”
anh em Lưu Bị
vượt núi thẳm, mưa tuyết, đường xa
ba lần đến Long Trung
tìm kiếm Khổng Minh Gia Cát
tuổi chỉ đáng bằng tuổi con mình
nhưng trọng dụng kỳ tài
đã tôn làm quân sư cùng lo việc nước…

Thầy kể chuyện Đào Duy Từ xưa
Bậc khai quốc công thần nhà Nguyễn
dựng nghiệp nhọc nhằn, người hiền lắm nạn
cha mẹ chết oan, chiếc lá giữa dòng…
Đào Duy Từ còn mãi với non sông:
Người có công nghiệp lẫy lừng chẳng kém Ngọa Long
Định Bắc, thu Nam, công đầu Nam tiến.
Người tổ chức phòng ngự chiều sâu
Hoành Sơn, Linh Giang, Lũy Thầy
minh chúa, quân giỏi, tướng tài, ba tầng thủ hiểm
Người xây dựng nên định chế đàng Trong
một chính quyền rất được lòng dân
nức tiếng một thời.
Người viết nên kiệt tác Hổ trướng khu cơ,
tuồng Sơn Hậu, nhã nhạc cung đình
là di sản muôn đời.
Trí tuệ bậc thầy, danh thơm vạn thuở …

Thầy giảng về bài học lịch sử Việt Nam
những người con trung hiếu
tận tụy quên mình vì dân vì nước
hẳn lòng Thầy cháy bỏng khát khao
vượng khí non sông khí thiêng hun đúc
Đất Quảng Trạch này đâu kém Nam Dương
Có nông phu ham học, chăm làm
Mà thao lược chuyển xoay thời vận.

Ôi sử sách cổ kim bao nhiêu gương sáng
Học sử ai người biết sử để noi?

“Lịch sử dân tộc mình
Những năm bảy mươi
Các em sẽ là người viết tiếp
Điểm theo thời gian
Truyền thống ông cha xưa
Oanh liệt vô cùng”

Tiếng Thầy thiết tha
Truyền nguồn cảm xúc
Các em uống từng lời
Lắng nghe từng chữ
Lời tâm huyết thấm sâu vào lòng em:
“Nung gan sắt để dời non lấp bể
Xối máu nóng rửa vết nhơ nô lệ”
Em đã tìm được trong Thầy
Một người anh
Một người đồng chí
Em vững tin trong sự nghiệp cứu dân
Hẳn có lòng Thầy luôn ở bên em!

Thầy nói nhiều về Việt Nam thân yêu
Dựng nước gian nan, người dân còn khổ
Mắt Thầy thiết tha quá chừng
Làm em mãi nhớ
Thầy truyền cho chúng em niềm tin
Đạo làm người, lòng yêu nước
Em càng thấm thía vô cùng
Vì sao những người có tâm huyết ngày xưa
Những Chu Văn An, Nguyễn Bỉnh Khiêm,
Nguyễn Thiếp, Phan Châu Trinh, …
Đều yêu nghề dạy học.

Tổ Quốc cần, gọi em về phía trước
“Em ơi em, can đảm bước chân lên!” (1)
Em sẽ khắc trong lòng
Những lời dạy đầu tiên!

Lời của Thầy theo mãi bước em đi.

Hoàng Kim
Rút trong tập THƠ CHO CON

(1) bài thơ của thầy Nguyễn Khoa Tịnh
Em ơi em can đảm bước chân lên

Trăng rằm

TRĂNG RẰM VUI CHƠI GIĂNG
Hoàng Kim

Trăng rằm vui chơi giăng
Đêm Vu Lan mờ tỏ
Trăng rằm khuya lồng lộng giữa trời
Thăm thẳm lời Người nói …

Mẹ cũ như ngôi nhà cũ
Chiếc áo mẹ mang bạc phếch tháng năm
Cha cũ như con thuyền cũ
Dòng sông quê hương thao thiết đời con

Anh chị cũ tình vẹn nghĩa
Trọn đời thương nhau lồng lộng trăng rằm
Em tôi hồn quê dáng cũ
Con cháu niềm vui thơm thảo tháng năm

Thầy bạn lộc xuân đầy đặn
Bài ca thời gian ngời ngợi trăng rằm.

Thắp đèn lên đi em
Đêm Vu Lan tỉnh thức
Thương nhớ bài thơ cũ
Chuyện đời không nỡ quên …

Ngày mới và đêm Vu Lan
Vầng trăng Sao Hôm Sao Kim thân thiết.
Loanh quanh tìm tòi cái mới
Đêm Vu Lan thức về lại chính mình.

Đêm Vu Lan nhớ mùa thu đi học
Nhớ ngọn đèn mờ tỏ giấc mơ xưa
Thương con vạc gọi sao Mai mọc sớm
Vầng trăng khuya thăm thẳm giữa tâm hồn

Thắp đèn lên đi em (1)
Gốc mai vàng trước ngõ (2)
Tháng bảy mưa ngâu (3)
Đến chốn thung dung (4)

Trăng rằm đêm Trung Thu (5)
Một vùng thiêng tỉnh thức (6)
Quảng Bình đất Mẹ ơn Người (7)
Về lại mái nhà xưa (8)

Đối thoại với Thiền sư (9)
Giấc mơ hạnh phúc (10)
Ngày mới yêu thương (11)
Hoa Đất (12) Hoa Người (13)

Bài đồng dao huyền thoại (14)
Bài ca Trường Quảng Trạch (15)
Em ơi em can đảm bước chân lên (16)
Bài thơ không quên (17)
Bài ca yêu thương (18)

Đêm Vu Lan nhớ bài thơ đi học
Thấm nhọc nhằn củ sắn củ khoai
Nhớ tay chị gối đầu khi mẹ mất
Thương lời cha căn dặn học làm người

*

Em đi chơi cùng Mẹ
Trăng rằm vui chơi giăng
Thảo thơm vui đầy đặn
Ân tình cùng nước non.

Trăng khuyết rồi lại tròn
An nhiên cùng năm tháng
Ơi vầng trăng cổ tích
Soi sáng sân nhà em.

Đêm nay là đêm nao?
Ban mai vừa ló dạng
Trăng rằm soi bóng nắng
Bạch Ngọc trời phương em.

*

Trăng sáng lung linh trăng sáng quá
Đất trời lồng lộng một màu trăng
Dẫu đêm khuya vắng người quên ngắm
Trăng vẫn là trăng, trăng vẫn rằm.

*

Trăng rằm đường sáng dạo chơi giăng,
Nhớ Bác đôi câu hỏi chị Hằng:
“Thế nước thịnh suy sao đoán định?
Lòng dân tan hợp biết hay chăng?
Vành đai thế biến nhiều mưu hiểm,
Con đường lực chuyển lắm lăng nhăng?
Dân Nam Tiếng Việt nhiều gian khó
Hưng thịnh làm sao hỡi chị Hằng?”.

*
“Bác Hồ thơ ‘Chơi giăng’ đó ông
Vầng trăng cổ tích sáng non sông,
Tâm sáng đức cao chăm việc tốt
Chí bền trung hiếu quyết thắng không?
Nội loạn dẹp tan loài phản quốc
Ngoại xâm khôn khéo giữ tương đồng.
Khó dẫu vạn lần dân cũng vượt.
Lòng dân thế nước chắc thành công”.

Nguyên vận thơ Bác Hồ
CHƠI GIĂNG
Hồ Chí Minh


Gặp tuần trăng sáng, dạo chơi giăng,
Sẵn nhắn vài câu hỏi chị Hằng:
“Non nước tơi bời sao vậy nhỉ?
Nhân dân cực khổ biết hay chăng?
Khi nào kéo được quân anh dũng,
Để dẹp cho tàn bọn nhố nhăng?
Nam Việt bao giờ thì giải phóng
Nói cho nghe thử, hỡi cô Hằng?”.

*
Nguyệt rằng: “Tôi kính trả lời ông:
Tôi đã từng soi khắp núi sông,
Muốn biết tự do chầy hay chóng,
Thì xem tổ chức khắp hay không.
Nước nhà giành lại nhờ tài sắt,
Sự nghiệp làm nên bởi chữ đồng.
Tổ chức, tuyên truyền càng rộng rãi,
Tức là cách mệnh chóng thành công”.

Báo Việt Nam độc lập, số 135, ngày 21-8-1942. Nguồn: Hồ Chí Minh toàn tập (tập 3), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000

NGÀY HẠNH PHÚC CỦA EM
Hoàng Kim

Ngày Hạnh Phúc của em
Một niềm tin thắp lửa
Thầy bạn và đồng đội
Cha Mẹ và Quê hương

Em đi chơi cùng Mẹ
Trăng rằm vui chơi giăng
Thảo thơm vui đầy đặn
Ân tình cùng nước non

Ngày hạnh phúc của em

Hieu Nguyenminh Kim Hoàng học trò tỏa sáng là hạnh phúc của thầy đó thầy Kim a.

Thầy
Hieu Nguyenminh và thầy Kim Hoàng thật tự hào về em! Tâm đức và nổ lực vượt khó thật đáng trân trọng. Em đưa được Mẹ lần đầu tiên ra Hà Nội để có được những thước phim và hình ảnh thất đáng quý. Nhớ lần trước em bảo vệ luận án Cha Me cũng lần đầu ra Huế. Thật xúc động tự hào.

MỘT NIỀM TIN THẮP LỬA
Hoàng Kim


Nhìn đàn em ngời niềm vui rạng rỡ.
Chợt thấy lòng rưng rưng.
Công việc nghề nông cực mà hạnh phúc.
Cố lên em nổ lực không ngừng !

Hột mồ hôi lắng vào hạt gạo.
Câu ca ông bà theo suốt tháng năm.
Thêm bữa cơm ngon cho người lao động.
Nâng chén cơm thơm, qúy trọng người trồng.

Em ơi hãy học làm ruộng giỏi.
Nghề nông thời nào cũng quý kỹ năng.
Người dân khá hơn là niềm ao ước
Công việc này giao lại cho em.

Có một mùa Vu Lan hạnh phúc
Ơn mẹ cha lam lũ sớm hôm
Thương con vạc gọi sao Mai dậy sớm
Một niềm tin thắp lửa giữa tâm hồn.

Bước tiếp bước giữa trường đời gian khó
HỌC ĐỂ LÀM người lao động siêng năng
Rèn nhân cách vượt lên bao cám dỗ
Đức và Tài tử tế giữa Nhân Dân.

VideoAnh Minh Nguyen29 12 2020 : https://www.facebook.com/permalink.php?story_fbid=444196760092360&id=100035061194376&comment_id=444215330090503&notif_id=1609296601966880&notif_t=feedback_reaction_generic&ref=notif

Chúc mừng Lễ Tôn vinh NHÀ KHOA HỌC CỦA NHÀ NÔNG tại Hà Nội, Hoàng Thành Di sản thế giới tại Việt Nam. Chúc mừng những gương mặt thầy bạn trân quý, có Giáo sư tiến sĩ Lê Huy Hàm (Chủ tịch Hôi đồng Khoa học Viện Di truyền), với thật nhiều công trình, cũng là người vinh danh Cách mạng Sắn Việt Nam ra Hội thảo Sắn Toàn cầu, https://youtu.be/81aJ5-cGp28 tự hào Việt Nam trên Thế giới , Thạc sĩ Nguyễn Văn Chương Trung tâm Hưng Lôc Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam có trên mười công trình nghiên cứu phát triển đậu đỗ phục vụ sản xuất , trong đó có công trình đầu tiên vang bóng một thời 1983-1986 “Chọn giống và trồng xen sắn, ngô với đậu rồng, đậu xanh, lạc” hợp tác Việt Tiệp, là thầy bạn và đồng đội của những kết quả tốt. Chúc mừng tiến sĩ Nguyễn Thị Trúc Mai cô Út trong đội ngũ trên với giống sắn tốt KM419 và kỹ thuật thâm canh thích hợp tại tỉnh Phú Yên, đã và đang tiếp tục chọn tạo các giống sắn mới theo hướng năng suất tinh bột cao chống chịu một số bệnh chính, góp phần nâng cao thu nhập, sinh kế, việc làm và đời sống người dân. Thật tuyệt vời đội ngũ ấy.

Hoàng Kim

 

DẠY VÀ HỌC

https://hoangkimvn.wordpress.com
CNM365, ngày mới nhất bấm vào đây cập nhật mỗi ngày

Video yêu thích
KimYouTube

Trở về trang chính
Hoàng Kim Long, Ngọc Phương Nam, Thung dung, Dạy và Học, Việt Nam Học, Cây Lương thực Việt Nam, CNM365Tình yêu Cuộc sống, Kim on LinkedIn, Kim on Facebook, Kim on Twitter

Số lần xem trang : 17169
Nhập ngày : 18-10-2021
Điều chỉnh lần cuối :

Ý kiến của bạn về bài viết này


In trang này

Lên đầu trang

Gởi ý kiến

  Việt Nam học

  Dạy và học 14 tháng 7(14-07-2021)

  Dạy và học 13 tháng 7(13-07-2021)

  Dạy và học 12 tháng 7(12-07-2021)

  Dạy và học 11 tháng 7(11-07-2021)

  Dạy và học 10 tháng 7(10-07-2021)

  Dạy và học 9 tháng 7(09-07-2021)

  Dạy và học 8 tháng 7(08-07-2021)

  Dạy và học 7 tháng 7(07-07-2021)

  Dạy và học 6 tháng 7(06-07-2021)

  Dạy và học 5 tháng 7(05-07-2021)

Trang kế tiếp ... 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46

Hoàng Kim, Khoa Nông Học, Trường ĐH Nông Lâm TP.HCM, ĐTDĐ:0903 613024,Email:hoangkimvietnam1953@gmail.com, hoangkim@hcmuaf.edu.vn

Thiết kế: Quản trị mạng- ĐHNL 2007