Số lần xem
Đang xem 1158 Toàn hệ thống 1915 Trong vòng 1 giờ qua
Trang liên kết
Tỉnh thức
giữa đêm thiêng Yên Tử
Để thấm hiểu đức Nhân Tông
Ta thành tâm đi bộ
Lên tận đỉnh chùa Đồng
Tâm sáng Ức Trai
trong tựa ngọc TÌNH YÊU CUỘC SỐNG
DẠY VÀ HỌC Để chấn hưng giáo dục Việt Nam cấp thiết phải có đội ngũ những người thầy giáo ưu tú có tâm đức thiết tha với nghề, có trình độ chuyên môn cao và có kỹ năng giảng dạy tốt. Đây là trang thông tin chuyên đề dạy và học để trao đổi và bàn luận
Norman Borlaug Lời Thầy dặn Việc chính đời người chỉ ít thôi
Chuyên tâm đừng bận chuyện trời ơi
Phúc hậu suốt đời làm việc thiện
Di sản muôn năm mãi sáng ngời.
Trường Quảng Trạch bên dòng Gianh ấy1 Bao năm rồi biết mấy đổi thay
Công cha nghĩa mẹ ơn thầy
Ân tình bầu bạn vẹn đầy lòng dân.
Trần Đình Côn là thầy Hiệu trưởng
Trường khai sinh 18 tháng 10
Ba Đồn một chín sáu hai (1962)
Cờ đầu giáo dục của thời vàng son.
Trường Quảng Trạch tiếng thơm vang mãi
“Bài ca Trường Quảng Trạch” tuyệt hay
Bao năm gặp lại hôm nay
Chúng ta chung đọc lời Thầy đầu tiên:
Bài ca Trường Quảng Trạch Trần Đình Côn Hiệu trưởng
“Hồi tưởng lại một mùa thu ấy Mấy thu rồi biết mấy đổi thay Khởi công ròng rã tháng ngày Dốc lòng, dốc sức dựng xây trường mình
Vùng cát trắng biến thành ao cá Rừng dương xanh lộng gió vi vu Giếng thơi trong suốt ngọt ngào Cổng trường cao rộng đón chào anh em
Trường Quảng Trạch trên miền Quảng Thọ1 Tên trường ta chữ đỏ vàng son Tên Tổ Quốc, tên yêu thương Thơm dòng sữa mẹ quê hương xa gần
Phòng học mới cửa xanh, ngói đỏ Lá cờ sao trước gió tung bay Tình em, tình bạn, tình thầy Mỗi ngày thêm nặng, mỗi ngày thêm sâu.
Lòng những tưởng khởi đầu vất vả Để năm sau tất cả tiến lên Ai ngờ giặc Mỹ đê hèn Tường vôi tan nát, khói hoen mặt người.
Cuộc sống đã sáng ngời lửa thép Đạn bom nào uy hiếp được ta Cổng trường, mái ngóii, tường hoa Đã thành gạch vụn xót xa hận thù
Đã đến lúc thầy trò sơ tán Xa thị thành về tận xóm thôn Bầu Mây, Phù Hợp, Đồng Dương 2 Trắng trong cồn cát mái trường thêm xinh
Phá trường ngói trường tranh ta dựng Đắp luỹ dày, hầm vững, hào sâu Khiêng bàn, vác gỗ đêm thâu Lưng trời đạn xé, ngang đầu bom rơi.
Nơi Hầm Cối 3 xa vời em đến Qua Khe Sâu 4 đá nghiến nát chân Nhớ khi bụng đói lạc đường Càng căm giặc Mỹ, càng thương chúng mình.
Chí đã quyết hi sinh chẳng quản Lòng đã tin vào Đảng , vào dân Kết liền lưc lượng Công Nông Ghi sâu tình bạn Hải quân anh hùng
Sông Gianh đó vẫy vùng một cõi Thép hạm tàu chói lọi chiến công Đôi ta chiến đấu hợp đồng 5 Vít đầu giặc Mỹ xuôi dòng nước xanh.
Ngày thêm nặng mối tình kết nghĩa Nơi “vườn đào” đất mẹ Phù Lưu 6 Cùng nhau chung một chiến hào Trao quà chiến thắng vui nào vui hơn
Từ ấy đã nghìn đêm có lẽ Có phút nào giặc Mỹ để yên Chất chồng tội ác ngày đêm Lửa thù rực cháy đốt tim muôn người
Ôi những cảnh rụng rời thê thảm Mái nhà tranh giáo án thành tro Mẹ già, anh chiị, em thơ Xương bay, thịt nát, cửa nhà tan hoang
Lớp học đó chiến trường em đó Nín đi em hãy cố học chăm Giành điểm bốn, giành điểm năm Ấy là diệt Mỹ chiến công hàng ngày.
Đã có bạn có thầy giúp đỡ Khó khăn nào lại khó vượt qua Miếng khi đói gói khi no Lưng cơm hạt muối giúp cho bạn nghèo
Thương em cảnh gieo neo mẹ mất Lại cha già giặc giết hôm qua Tình thầy tình bạn tình cha Ấy là tình Đảng thiết tha mặn nồng.
Có những lúc đêm đông giá rét Thầy bên em ai biết ai hay Hầm luỹ thép, ngọn đèn khuya Mùa đông sưởi ấm, mùa hè mát sao.
Nào Văn học lại nào Toán Lý Giảng cho em nhớ kỹ từng lời Cho em học một biết mười Cho em học chóng nên người tài cao
Dắt em tận năm châu bốn biển Mắt nhìn xa nghĩ đến mai sau Đây Lạng Sơn đó Cà Mau Giang sơn hùng vĩ, địa cầu lừng danh
Đưa em lên sao Kim sao Hoả Để em nhìn cho rõ nước ta Hiểu ngày nay, hiểu ngày xưa Hùng Vương, Nguyễn Trãi gần là Quang Trung
Em càng hiểu anh hùng thời đại Có Bác Hồ chỉ lối ta đi Dù địch phá, dù gian nguy Trường ta vững lái cứ đi cứ về
Tuổi thanh niên sơ gì việc khó Khó khăn nhiều tiến bộ càng nhanh Đã nuôi chí lớn ắt thành Có thầy, có bạn, có mình, có ta.
Thiếu phấn viết làm ra phấn viết Sách giáo khoa ta chép thâu đêm Sản xuất kết hợp học hành Như chim đủ cánh cất mình bay cao.
Ruộng tăng sản bèo dâu xanh biếc Cấy thẳng hàng buốt thiịt xương đau Độ pH cách trừ sâu Chiêm mùa sau trước trước sau khác gì.
Sổ tay đó em ghi phân bón Ước mơ sao năm tấn thành công Bốn mùa Xuân Hạ Thu Đông Bức tranh tuyệt đẹp ruộng đồng bao la
Những đêm sáng trăng ngà trong suốt Vút lên cao thánh thót lời ca “Hoa Pơ lang” 7 ấy bông hoa Tây Nguyên đẹp nhất thiết tha gửi lời “Nổ trống lên rừng núi ơi” 8 “Bài ca may áo” 9 “Mặc người dèm pha” 10
Thân múa dẽo kết “Hoa Sen” 11 trắng Giữa hội trường rực sáng đèn xanh Tưởng chừng lạc đến cảnh tiên Tưởng chừng thiếu nữ ở miền Thiên Thai.
Ai biết đó con người nghèo khổ Con Công Nông bỗng hoá thành tiên Rũ bùn em bước đi lên Bùn tanh mà đã lọc nên hương trời.
Trường ta đó ấy nơi rèn luyện Mấy năm qua bao chuyện anh hùng Ngày xưa Phù Đổng Thiên Vương Ta nay lớn mạnh phi thường lạ chưa?
Trong chiến đấu xông pha diệt Mỹ Lập công đầu dũng sĩ tiền phương Liên Xô, Tiệp Khắc, Ba Lan Châu Âu châu Á từ trường mà ra
Dù ở tận Cu Ba châu Mỹ Vẫn ngày đêm suy nghĩ về ta Dù cho ở lại quê nhà Xóm thôn xã vắng vẫn lo sớm chiều
Lo nước đủ phân nhiều lúa tốt Cảnh ruộng đồng hợp tác vui thay Mỗi khi bưng bát cơm đầy Dẽo thơm một hạt nhớ thầy năm xưa
Ôi có những phút giờ sung sướng Là những khi cờ Đảng trao tay 12 Anh em bè bạn sum vầy Tiếng cười xen tiếng vỗ tay kéo dài
Có những lúc nghe đài Hà Nội Vang truyền đi thế giới gần xa Tin trường ta, tin chúng ta Hả lòng, hả dạ ưóc mơ nào bằng
Có những lúc báo Đoàn báo Đảng Đăng tin trường khai giảng thành công Tin một năm, tin ba năm Như luồng gió mới lửa hồng bùng lên
Trên màn bạc giữa nền ánh điện Phim trường ta chiếu rạng khắp nơi 13 Châu Âu châu Mỹ xa xôi Năm câu bốn biển rõ mười tin vui
Hay biết mấy xem người trong ảnh Ta xem ta xem cảnh trường ta Này hầm, này luỹ, này nhà Kìa thầy kìa bạn kìa là xã viên
Phù Lưu đó ruộng liền thẳng cánh Bầu Mây đây đúng cảnh trong phim Sáng bừng như mặt trời lên Chói ngời như một niềm tin tuyệt trần.
Chào 68 mùa xuân tuyệt đẹp Cả trường đang vang nhịp tiến công Đón xuân với cả tấm lòng Đầy trời lửa đạn súng giòn chào ta
Duyên thiên lý một nhà sum họp Người tuy đông mà một lòng son Nào khách quý nào tri âm Bốn phương quy tụ xa gần về đây
Thời gian hỡi dừng ngay cánh lại Giờ vui ơi xin hãy khoan thai Rượu nồng chưa uống mà say Bữa ăn quên đói, chuyện dài thâu canh
Vui gặp chị gặp anh thân thiết Chuyện xa gần khôn xiết nói sao Yêu nhau xin nhớ lời nhau Thù chung đã nặng càng sâu thù nhà
Con khôn lớn mẹ cha đẹp mặt Trường vững vàng Đảng ắt mừng vui Cờ hồng bạn lại trao tay 14 Phất cao cho đến tầng mây xa vời
Sức ta ước chọc trời khuấy nước Khó khăn nào chặn bước ta đi Mỗi năm xuân đến một thì Xuân này hơn hẵn mấy kỳ xuân qua.
Có nghe chăng Bác Hồ ra lệnh “Tiến lên toàn thắng ắt về ta” Tiến lên giành lấy tự do Tiến lên giành lấy thời cơ diệt thù
Hồi tưởng lại những mùa thu ấy Bao ngày qua biết mấy buồn vui “Đắng cay nay mới ngọt bùi Đường đi muôn dặm đã ngời mai sau”
Lời Bác dạy ghi sâu trong dạ Ngọn đèn pha chiếu toả muôn nơi Trang sách rộng nghĩa đường đời Học hành kết hợp nên người tài ba
Nay sum họp mai đà li biệt Tiễn người đi lại tiếp người vào Kể sao vui sướng dạt dào Người sao vương vấn ra vào băn khoăn
Đã vì Đảng vì Dân vì Nước Tiến lên đi nhanh bước tiến lên Lòng thầy luôn ở bên em Đường lên sao Hoả, sao Kim xa gì?
Đi đâu cũng hướng về Quảng Trạch Cũng có ngày gặp mặt các em Nhắc bao kỷ niệm êm đềm Báo công ghi tiếp nên thiên sử vàng …”
*
Trường tỏa sáng nhân văn nét đẹp
Nôi luyện rèn bao lớp học sinh
Bao người vì nước hiến dâng
Bao người bình dị chân thành thủy chung.
Phạm Ngọc Căng là thầy Hiệu phó
Chốn đôi quê Thanh Hóa Quảng Bình
Tám mươi vẫn nặng ân tình
Bồi hồi nhớ lại, đinh ninh dặn dò:
“Ta gặp nhau từ lúc tóc còn xanh. Nay tìm lại thì đầu đã bạc. Để nhớ một thời cùng toàn dân đánh giặc. Gian khổ chất chồng, mất mát đau thương. Bốn mươi năm thầy bạn tỏa muôn phương. Nay ôn lại thầy trò thời chống Mỹ. Trăm khuôn mặt anh chị nào cũng quý. Bình dị, chân thành, tình nghĩa, thuỷ chung. Nét đẹp quê hương Quảng Trạch anh hùng”.
Trường Quảng Trạch âm vang tiếng dội
Quách Mộng Lân bài hát tuyệt vời
Lời ca ấm áp một thời
Lắng sâu cảm xúc tình đời tỏa hương:
“MỜI GHÉ THĂM TRƯỜNG EM Nhạc và lời: Quách Mộng Lân
Ai về Quảng Lưu mời ghé thăm trường em Lớn lên trong những ngày vui đánh Mỹ Trường của em theo tiếng gọi Bác Hồ Lớp học là chiến trường, học sinh là chiến sĩ Ôi mái trường đẹp xinh Bao năm trường dạy ta khôn lớn Có thầy có bạn ngày đêm chan chứa bao tình
Ai về Quảng Lưu mời ghé thăm trường em Gió reo vui hát bài ca chiến thắng Ruộng phì nhiêu năm tấn hạt thóc vàng Sống vui với xóm làng Trường ta thêm gắn bó Đây mái trường của ta Bao năm trường day ta khôn lớn Muôn hạt giống đỏ rồi đây Đi khắp mọi miền dựng xây Tổ quốc.”
Võ Huy Cát người thầy Vĩnh Phúc
Lúc đạn bom thầy đến thăm Trường‘Về Quảng Trạch” át tiếng bom
Thơ hay một thuở sổ vàng còn ghi:
“VỀ QUẢNG TRẠCH Võ Huy Cát (Vĩnh Phúc) … Sách giáo khoa anh chép mấy đêm thâu Mà từng bản thấm mồ hôi trí tuệ Đồ dạy học biến từ không thành có Từ mảnh bom vỏ đạn quân thù
Có thầy giáo lội băng đồng đến lớp Nỗi cảm thông thầm kín trong lòng Vừa hôm qua đi bới hầm chữa cháy Soạn xong bài vừa lúc hừng đông
Có thầy giáo cùng các em tâm sự Cảnh nhà neo mẹ giặc giết hôm qua Một lon gạo thấm tình người đồng chí Một lời khuyên ấm tình bạn chan hoà
Có em học điểm năm chen cọc sổ Chiều lại về làm cán bộ thông tin Chòi phát thanh tiếng em vang xóm ngõ Những chiến công lừng lẫy hai miền
Quảng Trạch ơi kể làm sao hết được Những chiến công của những người con Trên đất anh hùng hôm trước đạn bom Mà sáng dậy vẫn cười vui đến lớp
Anh đứng đó mái trường tranh mới lợp Trái tim sôi máu nóng hờn căm Mười tám đôi mươi hay tuổi trăng rằm Mang sức trẻ cùng toàn dân cứu nước
Quảng Trạch ơi đường vào đó bao xa Cầu phá mấy chuyến phà anh nhỉ Cho tôi gửi bài thơ tặng người đồng chí Dưới mái trường xanh đang ươm những mầm hoa
Dưới mái trường tranh đang cứu nước cứu nhà.”
Em ơi em can đảm bước chân lên!
Thơ của Thầy trong em đã thành ngọn lửa
Thầy ơi, nước mắt đời người thấm vào con chữ
Trung hiếu trọn đời rèn chí vươn lên.
“EM ƠI CAN ĐẢM LÊN Nguyễn Khoa Tịnh gửi em Kim
“Thầy ước mong em noi gương Quốc Tuấn, nhớ Lời nguyền của thầy Hoàng Ngọc Dộ “Không vì danh lợi đua chen Thù nhà nợ nước quyết rèn bản thân.” *
“Đọc thơ em, tim tôi thắt lại Lòng nghẹn ngào, nước mắt chảy rưng rưng Nửa xót xa nhưng nửa lại vui mừng Xót xa vì đời em còn thơ dại Mới tuổi thơ mà cuộc đời đầy khổ ải Mới biết cười đã phải sống mồ côi Như chiếc thuyền giữa biển tự trôi Như chiếc lá bay về nơi vô định “Bụng đói” viết ra thơ em vịnh:
“Cơm ngày một bữa sắn trộn khoai Có biết lòng ta bấy hỡi ai? Vơi vơi lòng dạ, cồn cào bụng Kể chi no đói, mặc ngày dài”
Phải! Kể chi no đói mặc ngày dài Rất tự hào là thơ em sung sức Rất tự hào là em tôi đầy nghị lực Đã hiển lộ mình qua “Cái chảo rang”
“Trung dũng ai bằng cái chảo rang Lửa to mới biết sáp hay vàng Xào nấu chiên kho đều vẹn cả Chua cay mặn ngọt giữ an toàn Ném tung chẳng vỡ như nồi đất Quăng bừa xó bếp vẫn nằm ngang Tốt đẹp đâu cần danh tiếng hão Bạn cùng lửa đỏ, nóng chang chang”
Phải! Lửa to mới biết sáp hay vàng! Em hãy là vàng, Mặc ai chọn sáp! Tôi vui sướng cùng em Yêu giấc “Ngủ đồng” Hiên ngang khí phách:
“Sách truyền sướng nhất chức Quận công Ta sướng khi ra ngủ giữa đồng Lồng lộng trời hè muôn làn gió Đêm thanh sao sáng mát thu không Nằm ngửa ung dung như khanh tướng Lấy mấy vần thơ tỏ nỗi lòng Tinh tú bao quanh hồn thời đại Ngủ đồng khoan khoái ngắm gương trong”
Tôi biết chí em khi “Qua đèo Ngang” Ung dung xướng họa với người anh hùng Đã làm quân thù khiếp sợ:
“Ta đi qua đèo Ngang Cũng gặp Người trèo qua núi hiểm Đỉnh dốc chênh vênh Xe mù bụi cuốn Có lẽ thiên nhiên đã định bao giờ Một dãy Hoành Sơn bát ngát trận đồ Điệp điệp núi cao Trùng trùng rừng thẳm. Người thấy Súng gác trời xanh Gió lùa biển lớn Nông dân rộn rịp đường vui Thanh Quan nàng nhẽ có hay Cảnh mới đã thay cảnh cũ. Ta hay Máu chồng đất đỏ Mây cuốn dặm khơi Nhân công giọt giọt mồ hôi Hưng Đạo thầy ơi có biết Người nay nối chí người xưa
Tới đây Nước biếc non xanh Biển rộng gió đùa khuấy nước Đi nữa Đèo sâu vực thẳm Núi cao mây giỡn chọc trời
Nhớ thù nhà, luống thẹn làm trai Thương dân nước, thà sinh phận gái “Hoành Sơn cổ lũy” Hỏi đâu dấu tích phân tranh? Chỉ thấy non sông Lốc cuốn, bốn phương sấm động.
Người vì việc nước ra đi Ta muốn cứu dân nên thăm trận thế Điều không hẹn mà xui gặp mặt Vô danh lại gặp hữu danh Cuộc đời dài ắt còn sẽ gặp nhau Nay hội ngộ giữa đỉnh cao trời đất Anh em ta ngự trên xe đạp Còn Người thì lại đáp com măng Đường xuyên sơn Anh hùng gặp anh hùng Nhìn sóng biển Đông Như ao trời dưới núi.
Xin kính chào Bậc anh hùng tiền bối Ta ngưỡng mộ Người Và tỏ chí với non sông Mẹ hiền ơi! Tổ Quốc ơi! Xin tiếp bước anh hùng!”
Hãy cố lên em! Noi gương danh nhân mà lập chí Ta với em Mình hãy kết thành đôi tri kỷ ! Đất Quảng Trạch này đâu kém Nam Dương Tôi tự hào bài “Tỏ chí” của em:
“Quốc Tuấn ngày xưa chí vững bền Thù nhà, nợ nước chẳng hề quên Đến bữa quên ăn, đêm quên ngủ Thương dân, yêu nước quyết báo đền Văn hay thu phục muôn người Việt Võ giỏi kinh hồn lũ tướng Nguyên Mươi năm sau nữa ơi ông Tuấn Nối chí ông, nay cháu tiến lên!”
Tôi thương mến em Đã chịu khó luyện rèn Biết HỌC LÀM NGƯỜI ! Học làm con hiếu thảo. Mười lăm tuổi đã “Tập làm thầy giáo”
“Vui gì hơn buổi đầu làm thầy giáo Của lớp vở lòng đất mẹ yêu thương Trưa nắng luyến các em cùng đến lớp Giọng líu lo như chim hót ven đường.
Đứng trước các em tuổi nhỏ đáng yêu Mà đã tưởng tới bao nhiêu người lớn Nghe em đọc giọng thanh thanh dễ mến Mà đã nghe đất nước xuyến xao mình!”
Tổ Quốc đang chờ em phía trước. Em ơi em, can đảm bước chân lên !
Bài ca Trường Quảng Trạch thân thiết yêu thương
Dạy và Học, Học để Làm, suốt đời ta nhớ mãi.
Ghi chú của thầy Trần Đình Côn
1) Trường Quảng Trạch đóng ở xã Quảng Thọ từ 9/1962- 6/1965, dựng trường ngày 18 tháng 10 năm 1962 (Trường khai hiệu cùng ngày Đại học Heidelberg khai hiệu ngày 18 tháng 10 năm 1386, đó là trường đại học lâu đời nhất của Đức, theo CNM365, HK) 2) Bầu Mây, Phù Hợp, Đồng Dương là những tên đất, tên làng trường sơ tán từ 1965 đến 1968. (Thuở chiến tranh ác liệt có Trường cấp 3 Bắc Quảng Trạch và Trường Cấp 3 Nam Quảng Trạch, địa danh sơ tán và chuyển đổi tên trường tuy có biến động theo thời gian nhưng sau này quy tụ chung một nôi chung tại thị xã Ba Đồn là Quảng Trạch cũ) 3) Tên rú nơi các em đi lấy gỗ 4) Tên khe nơi các em đi qua 5) Trận chiến đấu hợp đồng giữa Trường và đơn vị kết nghĩa Hải quân sông Gianh 6) Nơi làm lễ kết nghĩa giữa ba đơn vị 11/1965 7, 8, 9, 10) Tên các ca khúc mà các em thường hát 11) Điệu múa truyền thống của Trường 12) Lễ tiếp nhận lần thứ nhất Cờ Lao động XHCN của Hội đồng Chính phủ trao tại Cao Mại ngày 30/8/1967 13) Bộ phim Trường Quảng Trạch do nhà quay phim Ma Văn Cường dựng 5/12/1965 14) Lễ trao tặng lần thứ hai Cờ Lao động XHCN của Hội đồng Chính phủ và Bằng Khen của Tổng Công Đoàn tại Phù Lưu ngày 4/1/1968
LỜI THẦY LUÔN THEO EM
Hoàng Kim
tưởng nhớ thầy Nguyễn Khoa Tịnh
Thầy thung dung bước lên bục giảng
Buổi học cuối cùng “Tổng kết sử Việt Nam”
Tiếng Thầy ấm trong từng lời nói
Như muốn truyền cho các em
Tất cả những niềm tin.
Đôi mắt sáng lướt nhìn toàn bộ lớp
Thầy có dừng trên khuôn mặt nào không ?
Thầy có tin trong lớp còn ngồi học
Có những em nung nấu chí anh hùng.
Các em hiểu những gì
Trong tim óc người Thầy
Mái tóc đà điểm bạc
Em biết Thầy tâm huyết rất nhiều
Trên mười năm dạy học
Vẫn canh cánh trong lòng
Luôn tìm kiếm những người
Có chí lớn
và tấm lòng yêu nước
thương dân.
Mười năm
Thức đo thời gian
Dài như cả nỗi đau chia cắt
Sương bạc thời gian phôi pha mái tóc
Câu chuyện mười năm Đông Quan dạy học
Hẳn nhiều đêm rồi
Thầy nhớ Ức Trai xưa?
Mười năm
Trang lòng, trang thơ
Nhớ tráng sĩ Đặng Dung đêm thanh mài kiếm
Ôi câu thơ năm nào
giữa lòng Thầy xao xuyến
“Anh hùng lỡ vận ngẫm càng cay”
Mười năm
Dằng dặc thời gian
Đo lòng Thầy nhớ miền Nam tha thiết
Em tin trong lòng Thầy
Luôn âm ỉ cháy lửa lòng yêu nước
Thầy có tin rằng trong lớp
Có người trò nghèo
Chí nối Ức Trai xưa.
“Dẫu đất này khi thịnh khi suy
Song hào kiệt đời nào cũng có”
Thầy giảng Đại cáo bình Ngô
Liên hệ chuyện chân chúa Nguyễn Hoàng
âm thầm tìm kiếm Đào Duy Từ …
cũng như chuyện “Tam cố thảo lư”
anh em Lưu Bị
vượt núi thẳm, mưa tuyết, đường xa
ba lần đến Long Trung
tìm kiếm Khổng Minh Gia Cát
tuổi chỉ đáng bằng tuổi con mình
nhưng trọng dụng kỳ tài
đã tôn làm quân sư cùng lo việc nước…
Thầy kể chuyện Đào Duy Từ xưa
Bậc khai quốc công thần nhà Nguyễn
dựng nghiệp nhọc nhằn, người hiền lắm nạn
cha mẹ chết oan, chiếc lá giữa dòng…
Đào Duy Từ còn mãi với non sông:
Người có công nghiệp lẫy lừng chẳng kém Ngọa Long
Định Bắc, thu Nam, công đầu Nam tiến.
Người tổ chức phòng ngự chiều sâu
Hoành Sơn, Linh Giang, Lũy Thầy
minh chúa, quân giỏi, tướng tài, ba tầng thủ hiểm
Người xây dựng nên định chế đàng Trong
một chính quyền rất được lòng dân
nức tiếng một thời.
Người viết nên kiệt tác Hổ trướng khu cơ,
tuồng Sơn Hậu, nhã nhạc cung đình
là di sản muôn đời.
Trí tuệ bậc thầy, danh thơm vạn thuở …
Thầy giảng về bài học lịch sử Việt Nam
những người con trung hiếu
tận tụy quên mình vì dân vì nước
hẳn lòng Thầy cháy bỏng khát khao
vượng khí non sông khí thiêng hun đúc
Đất Quảng Trạch này đâu kém Nam Dương
Có nông phu ham học, chăm làm
Mà thao lược chuyển xoay thời vận.
Ôi sử sách cổ kim bao nhiêu gương sáng
Học sử ai người biết sử để noi?
“Lịch sử dân tộc mình
Những năm bảy mươi
Các em sẽ là người viết tiếp
Điểm theo thời gian
Truyền thống ông cha xưa
Oanh liệt vô cùng”
Tiếng Thầy thiết tha
Truyền nguồn cảm xúc
Các em uống từng lời
Lắng nghe từng chữ
Lời tâm huyết thấm sâu vào lòng em:
“Nung gan sắt để dời non lấp bể
Xối máu nóng rửa vết nhơ nô lệ”
Em đã tìm được trong Thầy
Một người anh
Một người đồng chí
Em vững tin trong sự nghiệp cứu dân
Hẳn có lòng Thầy luôn ở bên em!
Thầy nói nhiều về Việt Nam thân yêu
Dựng nước gian nan, người dân còn khổ
Mắt Thầy thiết tha quá chừng
Làm em mãi nhớ
Thầy truyền cho chúng em niềm tin
Đạo làm người, lòng yêu nước
Em càng thấm thía vô cùng
Vì sao những người có tâm huyết ngày xưa
Những Chu Văn An, Nguyễn Bỉnh Khiêm,
Nguyễn Thiếp, Phan Châu Trinh, …
Đều yêu nghề dạy học.
Tổ Quốc cần, gọi em về phía trước
“Em ơi em, can đảm bước chân lên!” (1)
Em sẽ khắc trong lòng
Những lời dạy đầu tiên!
Trường Quảng Trạch bên dòng Gianh ấy1 Bao năm rồi biết mấy đổi thay
Công cha nghĩa mẹ ơn thầy
Ân tình bầu bạn vẹn đầy lòng dân.
Trần Đình Côn là thầy Hiệu trưởng
Trường khai sinh 18 tháng 10
Ba Đồn một chín sáu hai (1962)
Cờ đầu giáo dục của thời vàng son.
Trường Quảng Trạch tiếng thơm vang mãi
“Bài ca Trường Quảng Trạch” tuyệt hay
Bao năm gặp lại hôm nay
Chúng ta chung đọc lời Thầy đầu tiên:
Bài ca Trường Quảng Trạch Trần Đình Côn Hiệu trưởng
“Hồi tưởng lại một mùa thu ấy Mấy thu rồi biết mấy đổi thay Khởi công ròng rã tháng ngày Dốc lòng, dốc sức dựng xây trường mình
Vùng cát trắng biến thành ao cá Rừng dương xanh lộng gió vi vu Giếng thơi trong suốt ngọt ngào Cổng trường cao rộng đón chào anh em
Trường Quảng Trạch trên miền Quảng Thọ1 Tên trường ta chữ đỏ vàng son Tên Tổ Quốc, tên yêu thương Thơm dòng sữa mẹ quê hương xa gần
Phòng học mới cửa xanh, ngói đỏ Lá cờ sao trước gió tung bay Tình em, tình bạn, tình thầy Mỗi ngày thêm nặng, mỗi ngày thêm sâu.
Lòng những tưởng khởi đầu vất vả Để năm sau tất cả tiến lên Ai ngờ giặc Mỹ đê hèn Tường vôi tan nát, khói hoen mặt người.
Cuộc sống đã sáng ngời lửa thép Đạn bom nào uy hiếp được ta Cổng trường, mái ngóii, tường hoa Đã thành gạch vụn xót xa hận thù
Đã đến lúc thầy trò sơ tán Xa thị thành về tận xóm thôn Bầu Mây, Phù Hợp, Đồng Dương 2 Trắng trong cồn cát mái trường thêm xinh
Phá trường ngói trường tranh ta dựng Đắp luỹ dày, hầm vững, hào sâu Khiêng bàn, vác gỗ đêm thâu Lưng trời đạn xé, ngang đầu bom rơi.
Nơi Hầm Cối 3 xa vời em đến Qua Khe Sâu 4 đá nghiến nát chân Nhớ khi bụng đói lạc đường Càng căm giặc Mỹ, càng thương chúng mình.
Chí đã quyết hi sinh chẳng quản Lòng đã tin vào Đảng , vào dân Kết liền lưc lượng Công Nông Ghi sâu tình bạn Hải quân anh hùng
Sông Gianh đó vẫy vùng một cõi Thép hạm tàu chói lọi chiến công Đôi ta chiến đấu hợp đồng 5 Vít đầu giặc Mỹ xuôi dòng nước xanh.
Ngày thêm nặng mối tình kết nghĩa Nơi “vườn đào” đất mẹ Phù Lưu 6 Cùng nhau chung một chiến hào Trao quà chiến thắng vui nào vui hơn
Từ ấy đã nghìn đêm có lẽ Có phút nào giặc Mỹ để yên Chất chồng tội ác ngày đêm Lửa thù rực cháy đốt tim muôn người
Ôi những cảnh rụng rời thê thảm Mái nhà tranh giáo án thành tro Mẹ già, anh chiị, em thơ Xương bay, thịt nát, cửa nhà tan hoang
Lớp học đó chiến trường em đó Nín đi em hãy cố học chăm Giành điểm bốn, giành điểm năm Ấy là diệt Mỹ chiến công hàng ngày.
Đã có bạn có thầy giúp đỡ Khó khăn nào lại khó vượt qua Miếng khi đói gói khi no Lưng cơm hạt muối giúp cho bạn nghèo
Thương em cảnh gieo neo mẹ mất Lại cha già giặc giết hôm qua Tình thầy tình bạn tình cha Ấy là tình Đảng thiết tha mặn nồng.
Có những lúc đêm đông giá rét Thầy bên em ai biết ai hay Hầm luỹ thép, ngọn đèn khuya Mùa đông sưởi ấm, mùa hè mát sao.
Nào Văn học lại nào Toán Lý Giảng cho em nhớ kỹ từng lời Cho em học một biết mười Cho em học chóng nên người tài cao
Dắt em tận năm châu bốn biển Mắt nhìn xa nghĩ đến mai sau Đây Lạng Sơn đó Cà Mau Giang sơn hùng vĩ, địa cầu lừng danh
Đưa em lên sao Kim sao Hoả Để em nhìn cho rõ nước ta Hiểu ngày nay, hiểu ngày xưa Hùng Vương, Nguyễn Trãi gần là Quang Trung
Em càng hiểu anh hùng thời đại Có Bác Hồ chỉ lối ta đi Dù địch phá, dù gian nguy Trường ta vững lái cứ đi cứ về
Tuổi thanh niên sơ gì việc khó Khó khăn nhiều tiến bộ càng nhanh Đã nuôi chí lớn ắt thành Có thầy, có bạn, có mình, có ta.
Thiếu phấn viết làm ra phấn viết Sách giáo khoa ta chép thâu đêm Sản xuất kết hợp học hành Như chim đủ cánh cất mình bay cao.
Ruộng tăng sản bèo dâu xanh biếc Cấy thẳng hàng buốt thiịt xương đau Độ pH cách trừ sâu Chiêm mùa sau trước trước sau khác gì.
Sổ tay đó em ghi phân bón Ước mơ sao năm tấn thành công Bốn mùa Xuân Hạ Thu Đông Bức tranh tuyệt đẹp ruộng đồng bao la
Những đêm sáng trăng ngà trong suốt Vút lên cao thánh thót lời ca “Hoa Pơ lang” 7 ấy bông hoa Tây Nguyên đẹp nhất thiết tha gửi lời “Nổ trống lên rừng núi ơi” 8 “Bài ca may áo” 9 “Mặc người dèm pha” 10
Thân múa dẽo kết “Hoa Sen” 11 trắng Giữa hội trường rực sáng đèn xanh Tưởng chừng lạc đến cảnh tiên Tưởng chừng thiếu nữ ở miền Thiên Thai.
Ai biết đó con người nghèo khổ Con Công Nông bỗng hoá thành tiên Rũ bùn em bước đi lên Bùn tanh mà đã lọc nên hương trời.
Trường ta đó ấy nơi rèn luyện Mấy năm qua bao chuyện anh hùng Ngày xưa Phù Đổng Thiên Vương Ta nay lớn mạnh phi thường lạ chưa?
Trong chiến đấu xông pha diệt Mỹ Lập công đầu dũng sĩ tiền phương Liên Xô, Tiệp Khắc, Ba Lan Châu Âu châu Á từ trường mà ra
Dù ở tận Cu Ba châu Mỹ Vẫn ngày đêm suy nghĩ về ta Dù cho ở lại quê nhà Xóm thôn xã vắng vẫn lo sớm chiều
Lo nước đủ phân nhiều lúa tốt Cảnh ruộng đồng hợp tác vui thay Mỗi khi bưng bát cơm đầy Dẽo thơm một hạt nhớ thầy năm xưa
Ôi có những phút giờ sung sướng Là những khi cờ Đảng trao tay 12 Anh em bè bạn sum vầy Tiếng cười xen tiếng vỗ tay kéo dài
Có những lúc nghe đài Hà Nội Vang truyền đi thế giới gần xa Tin trường ta, tin chúng ta Hả lòng, hả dạ ưóc mơ nào bằng
Có những lúc báo Đoàn báo Đảng Đăng tin trường khai giảng thành công Tin một năm, tin ba năm Như luồng gió mới lửa hồng bùng lên
Trên màn bạc giữa nền ánh điện Phim trường ta chiếu rạng khắp nơi 13 Châu Âu châu Mỹ xa xôi Năm câu bốn biển rõ mười tin vui
Hay biết mấy xem người trong ảnh Ta xem ta xem cảnh trường ta Này hầm, này luỹ, này nhà Kìa thầy kìa bạn kìa là xã viên
Phù Lưu đó ruộng liền thẳng cánh Bầu Mây đây đúng cảnh trong phim Sáng bừng như mặt trời lên Chói ngời như một niềm tin tuyệt trần.
Chào 68 mùa xuân tuyệt đẹp Cả trường đang vang nhịp tiến công Đón xuân với cả tấm lòng Đầy trời lửa đạn súng giòn chào ta
Duyên thiên lý một nhà sum họp Người tuy đông mà một lòng son Nào khách quý nào tri âm Bốn phương quy tụ xa gần về đây
Thời gian hỡi dừng ngay cánh lại Giờ vui ơi xin hãy khoan thai Rượu nồng chưa uống mà say Bữa ăn quên đói, chuyện dài thâu canh
Vui gặp chị gặp anh thân thiết Chuyện xa gần khôn xiết nói sao Yêu nhau xin nhớ lời nhau Thù chung đã nặng càng sâu thù nhà
Con khôn lớn mẹ cha đẹp mặt Trường vững vàng Đảng ắt mừng vui Cờ hồng bạn lại trao tay 14 Phất cao cho đến tầng mây xa vời
Sức ta ước chọc trời khuấy nước Khó khăn nào chặn bước ta đi Mỗi năm xuân đến một thì Xuân này hơn hẵn mấy kỳ xuân qua.
Có nghe chăng Bác Hồ ra lệnh “Tiến lên toàn thắng ắt về ta” Tiến lên giành lấy tự do Tiến lên giành lấy thời cơ diệt thù
Hồi tưởng lại những mùa thu ấy Bao ngày qua biết mấy buồn vui “Đắng cay nay mới ngọt bùi Đường đi muôn dặm đã ngời mai sau”
Lời Bác dạy ghi sâu trong dạ Ngọn đèn pha chiếu toả muôn nơi Trang sách rộng nghĩa đường đời Học hành kết hợp nên người tài ba
Nay sum họp mai đà li biệt Tiễn người đi lại tiếp người vào Kể sao vui sướng dạt dào Người sao vương vấn ra vào băn khoăn
Đã vì Đảng vì Dân vì Nước Tiến lên đi nhanh bước tiến lên Lòng thầy luôn ở bên em Đường lên sao Hoả, sao Kim xa gì?
Đi đâu cũng hướng về Quảng Trạch Cũng có ngày gặp mặt các em Nhắc bao kỷ niệm êm đềm Báo công ghi tiếp nên thiên sử vàng …”
*
Trường tỏa sáng nhân văn nét đẹp
Nôi luyện rèn bao lớp học sinh
Bao người vì nước hiến dâng
Bao người bình dị chân thành thủy chung.
Phạm Ngọc Căng là thầy Hiệu phó
Chốn đôi quê Thanh Hóa Quảng Bình
Tám mươi vẫn nặng ân tình
Bồi hồi nhớ lại, đinh ninh dặn dò:
“Ta gặp nhau từ lúc tóc còn xanh. Nay tìm lại thì đầu đã bạc. Để nhớ một thời cùng toàn dân đánh giặc. Gian khổ chất chồng, mất mát đau thương. Bốn mươi năm thầy bạn tỏa muôn phương. Nay ôn lại thầy trò thời chống Mỹ. Trăm khuôn mặt anh chị nào cũng quý. Bình dị, chân thành, tình nghĩa, thuỷ chung. Nét đẹp quê hương Quảng Trạch anh hùng”.
Trường Quảng Trạch âm vang tiếng dội
Quách Mộng Lân bài hát tuyệt vời
Lời ca ấm áp một thời
Lắng sâu cảm xúc tình đời tỏa hương:
“MỜI GHÉ THĂM TRƯỜNG EM Nhạc và lời: Quách Mộng Lân
Ai về Quảng Lưu mời ghé thăm trường em Lớn lên trong những ngày vui đánh Mỹ Trường của em theo tiếng gọi Bác Hồ Lớp học là chiến trường, học sinh là chiến sĩ Ôi mái trường đẹp xinh Bao năm trường dạy ta khôn lớn Có thầy có bạn ngày đêm chan chứa bao tình
Ai về Quảng Lưu mời ghé thăm trường em Gió reo vui hát bài ca chiến thắng Ruộng phì nhiêu năm tấn hạt thóc vàng Sống vui với xóm làng Trường ta thêm gắn bó Đây mái trường của ta Bao năm trường day ta khôn lớn Muôn hạt giống đỏ rồi đây Đi khắp mọi miền dựng xây Tổ quốc.”
Võ Huy Cát người thầy Vĩnh Phúc
Lúc đạn bom thầy đến thăm Trường‘Về Quảng Trạch” át tiếng bom
Thơ hay một thuở sổ vàng còn ghi:
“VỀ QUẢNG TRẠCH Võ Huy Cát (Vĩnh Phúc) … Sách giáo khoa anh chép mấy đêm thâu Mà từng bản thấm mồ hôi trí tuệ Đồ dạy học biến từ không thành có Từ mảnh bom vỏ đạn quân thù
Có thầy giáo lội băng đồng đến lớp Nỗi cảm thông thầm kín trong lòng Vừa hôm qua đi bới hầm chữa cháy Soạn xong bài vừa lúc hừng đông
Có thầy giáo cùng các em tâm sự Cảnh nhà neo mẹ giặc giết hôm qua Một lon gạo thấm tình người đồng chí Một lời khuyên ấm tình bạn chan hoà
Có em học điểm năm chen cọc sổ Chiều lại về làm cán bộ thông tin Chòi phát thanh tiếng em vang xóm ngõ Những chiến công lừng lẫy hai miền
Quảng Trạch ơi kể làm sao hết được Những chiến công của những người con Trên đất anh hùng hôm trước đạn bom Mà sáng dậy vẫn cười vui đến lớp
Anh đứng đó mái trường tranh mới lợp Trái tim sôi máu nóng hờn căm Mười tám đôi mươi hay tuổi trăng rằm Mang sức trẻ cùng toàn dân cứu nước
Quảng Trạch ơi đường vào đó bao xa Cầu phá mấy chuyến phà anh nhỉ Cho tôi gửi bài thơ tặng người đồng chí Dưới mái trường xanh đang ươm những mầm hoa
Dưới mái trường tranh đang cứu nước cứu nhà.”
Em ơi em can đảm bước chân lên!
Thơ của Thầy trong em đã thành ngọn lửa
Thầy ơi, nước mắt đời người thấm vào con chữ
Trung hiếu trọn đời rèn chí vươn lên.
“EM ƠI CAN ĐẢM LÊN Nguyễn Khoa Tịnh gửi em Kim
“Thầy ước mong em noi gương Quốc Tuấn, nhớ Lời nguyền của thầy Hoàng Ngọc Dộ “Không vì danh lợi đua chen Thù nhà nợ nước quyết rèn bản thân.” *
“Đọc thơ em, tim tôi thắt lại Lòng nghẹn ngào, nước mắt chảy rưng rưng Nửa xót xa nhưng nửa lại vui mừng Xót xa vì đời em còn thơ dại Mới tuổi thơ mà cuộc đời đầy khổ ải Mới biết cười đã phải sống mồ côi Như chiếc thuyền giữa biển tự trôi Như chiếc lá bay về nơi vô định “Bụng đói” viết ra thơ em vịnh:
“Cơm ngày một bữa sắn trộn khoai Có biết lòng ta bấy hỡi ai? Vơi vơi lòng dạ, cồn cào bụng Kể chi no đói, mặc ngày dài”
Phải! Kể chi no đói mặc ngày dài Rất tự hào là thơ em sung sức Rất tự hào là em tôi đầy nghị lực Đã hiển lộ mình qua “Cái chảo rang”
“Trung dũng ai bằng cái chảo rang Lửa to mới biết sáp hay vàng Xào nấu chiên kho đều vẹn cả Chua cay mặn ngọt giữ an toàn Ném tung chẳng vỡ như nồi đất Quăng bừa xó bếp vẫn nằm ngang Tốt đẹp đâu cần danh tiếng hão Bạn cùng lửa đỏ, nóng chang chang”
Phải! Lửa to mới biết sáp hay vàng! Em hãy là vàng, Mặc ai chọn sáp! Tôi vui sướng cùng em Yêu giấc “Ngủ đồng” Hiên ngang khí phách:
“Sách truyền sướng nhất chức Quận công Ta sướng khi ra ngủ giữa đồng Lồng lộng trời hè muôn làn gió Đêm thanh sao sáng mát thu không Nằm ngửa ung dung như khanh tướng Lấy mấy vần thơ tỏ nỗi lòng Tinh tú bao quanh hồn thời đại Ngủ đồng khoan khoái ngắm gương trong”
Tôi biết chí em khi “Qua đèo Ngang” Ung dung xướng họa với người anh hùng Đã làm quân thù khiếp sợ:
“Ta đi qua đèo Ngang Cũng gặp Người trèo qua núi hiểm Đỉnh dốc chênh vênh Xe mù bụi cuốn Có lẽ thiên nhiên đã định bao giờ Một dãy Hoành Sơn bát ngát trận đồ Điệp điệp núi cao Trùng trùng rừng thẳm. Người thấy Súng gác trời xanh Gió lùa biển lớn Nông dân rộn rịp đường vui Thanh Quan nàng nhẽ có hay Cảnh mới đã thay cảnh cũ. Ta hay Máu chồng đất đỏ Mây cuốn dặm khơi Nhân công giọt giọt mồ hôi Hưng Đạo thầy ơi có biết Người nay nối chí người xưa
Tới đây Nước biếc non xanh Biển rộng gió đùa khuấy nước Đi nữa Đèo sâu vực thẳm Núi cao mây giỡn chọc trời
Nhớ thù nhà, luống thẹn làm trai Thương dân nước, thà sinh phận gái “Hoành Sơn cổ lũy” Hỏi đâu dấu tích phân tranh? Chỉ thấy non sông Lốc cuốn, bốn phương sấm động.
Người vì việc nước ra đi Ta muốn cứu dân nên thăm trận thế Điều không hẹn mà xui gặp mặt Vô danh lại gặp hữu danh Cuộc đời dài ắt còn sẽ gặp nhau Nay hội ngộ giữa đỉnh cao trời đất Anh em ta ngự trên xe đạp Còn Người thì lại đáp com măng Đường xuyên sơn Anh hùng gặp anh hùng Nhìn sóng biển Đông Như ao trời dưới núi.
Xin kính chào Bậc anh hùng tiền bối Ta ngưỡng mộ Người Và tỏ chí với non sông Mẹ hiền ơi! Tổ Quốc ơi! Xin tiếp bước anh hùng!”
Hãy cố lên em! Noi gương danh nhân mà lập chí Ta với em Mình hãy kết thành đôi tri kỷ ! Đất Quảng Trạch này đâu kém Nam Dương Tôi tự hào bài “Tỏ chí” của em:
“Quốc Tuấn ngày xưa chí vững bền Thù nhà, nợ nước chẳng hề quên Đến bữa quên ăn, đêm quên ngủ Thương dân, yêu nước quyết báo đền Văn hay thu phục muôn người Việt Võ giỏi kinh hồn lũ tướng Nguyên Mươi năm sau nữa ơi ông Tuấn Nối chí ông, nay cháu tiến lên!”
Tôi thương mến em Đã chịu khó luyện rèn Biết HỌC LÀM NGƯỜI ! Học làm con hiếu thảo. Mười lăm tuổi đã “Tập làm thầy giáo”
“Vui gì hơn buổi đầu làm thầy giáo Của lớp vở lòng đất mẹ yêu thương Trưa nắng luyến các em cùng đến lớp Giọng líu lo như chim hót ven đường.
Đứng trước các em tuổi nhỏ đáng yêu Mà đã tưởng tới bao nhiêu người lớn Nghe em đọc giọng thanh thanh dễ mến Mà đã nghe đất nước xuyến xao mình!”
Tổ Quốc đang chờ em phía trước. Em ơi em, can đảm bước chân lên !
Bài ca Trường Quảng Trạch thân thiết yêu thương
Dạy và Học, Học để Làm, suốt đời ta nhớ mãi.
Ghi chú của thầy Trần Đình Côn
1) Trường Quảng Trạch đóng ở xã Quảng Thọ từ 9/1962- 6/1965, dựng trường ngày 18 tháng 10 năm 1962 (Trường khai hiệu cùng ngày Đại học Heidelberg khai hiệu ngày 18 tháng 10 năm 1386, đó là trường đại học lâu đời nhất của Đức, theo CNM365, HK) 2) Bầu Mây, Phù Hợp, Đồng Dương là những tên đất, tên làng trường sơ tán từ 1965 đến 1968. (Thuở chiến tranh ác liệt có Trường cấp 3 Bắc Quảng Trạch và Trường Cấp 3 Nam Quảng Trạch, địa danh sơ tán và chuyển đổi tên trường tuy có biến động theo thời gian nhưng sau này quy tụ chung một nôi chung tại thị xã Ba Đồn là Quảng Trạch cũ) 3) Tên rú nơi các em đi lấy gỗ 4) Tên khe nơi các em đi qua 5) Trận chiến đấu hợp đồng giữa Trường và đơn vị kết nghĩa Hải quân sông Gianh 6) Nơi làm lễ kết nghĩa giữa ba đơn vị 11/1965 7, 8, 9, 10) Tên các ca khúc mà các em thường hát 11) Điệu múa truyền thống của Trường 12) Lễ tiếp nhận lần thứ nhất Cờ Lao động XHCN của Hội đồng Chính phủ trao tại Cao Mại ngày 30/8/1967 13) Bộ phim Trường Quảng Trạch do nhà quay phim Ma Văn Cường dựng 5/12/1965 14) Lễ trao tặng lần thứ hai Cờ Lao động XHCN của Hội đồng Chính phủ và Bằng Khen của Tổng Công Đoàn tại Phù Lưu ngày 4/1/1968
LỜI THẦY LUÔN THEO EM
Hoàng Kim
tưởng nhớ thầy Nguyễn Khoa Tịnh
Thầy thung dung bước lên bục giảng
Buổi học cuối cùng “Tổng kết sử Việt Nam”
Tiếng Thầy ấm trong từng lời nói
Như muốn truyền cho các em
Tất cả những niềm tin.
Đôi mắt sáng lướt nhìn toàn bộ lớp
Thầy có dừng trên khuôn mặt nào không ?
Thầy có tin trong lớp còn ngồi học
Có những em nung nấu chí anh hùng.
Các em hiểu những gì
Trong tim óc người Thầy
Mái tóc đà điểm bạc
Em biết Thầy tâm huyết rất nhiều
Trên mười năm dạy học
Vẫn canh cánh trong lòng
Luôn tìm kiếm những người
Có chí lớn
và tấm lòng yêu nước
thương dân.
Mười năm
Thức đo thời gian
Dài như cả nỗi đau chia cắt
Sương bạc thời gian phôi pha mái tóc
Câu chuyện mười năm Đông Quan dạy học
Hẳn nhiều đêm rồi
Thầy nhớ Ức Trai xưa?
Mười năm
Trang lòng, trang thơ
Nhớ tráng sĩ Đặng Dung đêm thanh mài kiếm
Ôi câu thơ năm nào
giữa lòng Thầy xao xuyến
“Anh hùng lỡ vận ngẫm càng cay”
Mười năm
Dằng dặc thời gian
Đo lòng Thầy nhớ miền Nam tha thiết
Em tin trong lòng Thầy
Luôn âm ỉ cháy lửa lòng yêu nước
Thầy có tin rằng trong lớp
Có người trò nghèo
Chí nối Ức Trai xưa.
“Dẫu đất này khi thịnh khi suy
Song hào kiệt đời nào cũng có”
Thầy giảng Đại cáo bình Ngô
Liên hệ chuyện chân chúa Nguyễn Hoàng
âm thầm tìm kiếm Đào Duy Từ …
cũng như chuyện “Tam cố thảo lư”
anh em Lưu Bị
vượt núi thẳm, mưa tuyết, đường xa
ba lần đến Long Trung
tìm kiếm Khổng Minh Gia Cát
tuổi chỉ đáng bằng tuổi con mình
nhưng trọng dụng kỳ tài
đã tôn làm quân sư cùng lo việc nước…
Thầy kể chuyện Đào Duy Từ xưa
Bậc khai quốc công thần nhà Nguyễn
dựng nghiệp nhọc nhằn, người hiền lắm nạn
cha mẹ chết oan, chiếc lá giữa dòng…
Đào Duy Từ còn mãi với non sông:
Người có công nghiệp lẫy lừng chẳng kém Ngọa Long
Định Bắc, thu Nam, công đầu Nam tiến.
Người tổ chức phòng ngự chiều sâu
Hoành Sơn, Linh Giang, Lũy Thầy
minh chúa, quân giỏi, tướng tài, ba tầng thủ hiểm
Người xây dựng nên định chế đàng Trong
một chính quyền rất được lòng dân
nức tiếng một thời.
Người viết nên kiệt tác Hổ trướng khu cơ,
tuồng Sơn Hậu, nhã nhạc cung đình
là di sản muôn đời.
Trí tuệ bậc thầy, danh thơm vạn thuở …
Thầy giảng về bài học lịch sử Việt Nam
những người con trung hiếu
tận tụy quên mình vì dân vì nước
hẳn lòng Thầy cháy bỏng khát khao
vượng khí non sông khí thiêng hun đúc
Đất Quảng Trạch này đâu kém Nam Dương
Có nông phu ham học, chăm làm
Mà thao lược chuyển xoay thời vận.
Ôi sử sách cổ kim bao nhiêu gương sáng
Học sử ai người biết sử để noi?
“Lịch sử dân tộc mình
Những năm bảy mươi
Các em sẽ là người viết tiếp
Điểm theo thời gian
Truyền thống ông cha xưa
Oanh liệt vô cùng”
Tiếng Thầy thiết tha
Truyền nguồn cảm xúc
Các em uống từng lời
Lắng nghe từng chữ
Lời tâm huyết thấm sâu vào lòng em:
“Nung gan sắt để dời non lấp bể
Xối máu nóng rửa vết nhơ nô lệ”
Em đã tìm được trong Thầy
Một người anh
Một người đồng chí
Em vững tin trong sự nghiệp cứu dân
Hẳn có lòng Thầy luôn ở bên em!
Thầy nói nhiều về Việt Nam thân yêu
Dựng nước gian nan, người dân còn khổ
Mắt Thầy thiết tha quá chừng
Làm em mãi nhớ
Thầy truyền cho chúng em niềm tin
Đạo làm người, lòng yêu nước
Em càng thấm thía vô cùng
Vì sao những người có tâm huyết ngày xưa
Những Chu Văn An, Nguyễn Bỉnh Khiêm,
Nguyễn Thiếp, Phan Châu Trinh, …
Đều yêu nghề dạy học.
Tổ Quốc cần, gọi em về phía trước
“Em ơi em, can đảm bước chân lên!” (1)
Em sẽ khắc trong lòng
Những lời dạy đầu tiên!
Đêm Vu Lan nhớ bài thơ đi học
Thấm nhọc nhằn củ sắn củ khoai
Nhớ tay chị gối đầu khi mẹ mất
Thương lời cha căn dặn học làm người
*
Em đi chơi cùng Mẹ
Trăng rằm vui chơi giăng
Thảo thơm vui đầy đặn
Ân tình cùng nước non.
Trăng khuyết rồi lại tròn
An nhiên cùng năm tháng
Ơi vầng trăng cổ tích
Soi sáng sân nhà em.
Đêm nay là đêm nao?
Ban mai vừa ló dạng
Trăng rằm soi bóng nắng
Bạch Ngọc trời phương em.
*
Trăng sáng lung linh trăng sáng quá
Đất trời lồng lộng một màu trăng
Dẫu đêm khuya vắng người quên ngắm
Trăng vẫn là trăng, trăng vẫn rằm.
*
Trăng rằm đường sáng dạo chơi giăng,
Nhớ Bác đôi câu hỏi chị Hằng:
“Thế nước thịnh suy sao đoán định?
Lòng dân tan hợp biết hay chăng?
Vành đai thế biến nhiều mưu hiểm,
Con đường lực chuyển lắm lăng nhăng?
Dân Nam Tiếng Việt nhiều gian khó
Hưng thịnh làm sao hỡi chị Hằng?”.
*
“Bác Hồ thơ ‘Chơi giăng’ đó ông
Vầng trăng cổ tích sáng non sông,
Tâm sáng đức cao chăm việc tốt
Chí bền trung hiếu quyết thắng không?
Nội loạn dẹp tan loài phản quốc
Ngoại xâm khôn khéo giữ tương đồng.
Khó dẫu vạn lần dân cũng vượt.
Lòng dân thế nước chắc thành công”.
Nguyên vận thơ Bác Hồ
CHƠI GIĂNG
Hồ Chí Minh
Gặp tuần trăng sáng, dạo chơi giăng,
Sẵn nhắn vài câu hỏi chị Hằng:
“Non nước tơi bời sao vậy nhỉ?
Nhân dân cực khổ biết hay chăng?
Khi nào kéo được quân anh dũng,
Để dẹp cho tàn bọn nhố nhăng?
Nam Việt bao giờ thì giải phóng
Nói cho nghe thử, hỡi cô Hằng?”.
*
Nguyệt rằng: “Tôi kính trả lời ông:
Tôi đã từng soi khắp núi sông,
Muốn biết tự do chầy hay chóng,
Thì xem tổ chức khắp hay không.
Nước nhà giành lại nhờ tài sắt,
Sự nghiệp làm nên bởi chữ đồng.
Tổ chức, tuyên truyền càng rộng rãi,
Tức là cách mệnh chóng thành công”.
Báo Việt Nam độc lập, số 135, ngày 21-8-1942. Nguồn: Hồ Chí Minh toàn tập (tập 3), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000
NGÀY HẠNH PHÚC CỦA EM
Hoàng Kim
Ngày Hạnh Phúc của em
Một niềm tin thắp lửa
Thầy bạn và đồng đội
Cha Mẹ và Quê hương
Thầy Hieu Nguyenminh và thầy Kim Hoàng thật tự hào về em! Tâm đức và nổ lực vượt khó thật đáng trân trọng. Em đưa được Mẹ lần đầu tiên ra Hà Nội để có được những thước phim và hình ảnh thất đáng quý. Nhớ lần trước em bảo vệ luận án Cha Me cũng lần đầu ra Huế. Thật xúc động tự hào.
MỘT NIỀM TIN THẮP LỬA
Hoàng Kim
Nhìn đàn em ngời niềm vui rạng rỡ.
Chợt thấy lòng rưng rưng.
Công việc nghề nông cực mà hạnh phúc.
Cố lên em nổ lực không ngừng !
Hột mồ hôi lắng vào hạt gạo.
Câu ca ông bà theo suốt tháng năm.
Thêm bữa cơm ngon cho người lao động.
Nâng chén cơm thơm, qúy trọng người trồng.
Em ơi hãy học làm ruộng giỏi.
Nghề nông thời nào cũng quý kỹ năng.
Người dân khá hơn là niềm ao ước
Công việc này giao lại cho em.
Có một mùa Vu Lan hạnh phúc
Ơn mẹ cha lam lũ sớm hôm
Thương con vạc gọi sao Mai dậy sớm
Một niềm tin thắp lửa giữa tâm hồn.
Bước tiếp bước giữa trường đời gian khó
HỌC ĐỂ LÀM người lao động siêng năng
Rèn nhân cách vượt lên bao cám dỗ
Đức và Tài tử tế giữa Nhân Dân.
Chúc mừng Lễ Tôn vinh NHÀ KHOA HỌC CỦA NHÀ NÔNG tại Hà Nội, Hoàng Thành Di sản thế giới tại Việt Nam. Chúc mừng những gương mặt thầy bạn trân quý, có Giáo sư tiến sĩ Lê Huy Hàm (Chủ tịch Hôi đồng Khoa học Viện Di truyền), với thật nhiều công trình, cũng là người vinh danh Cách mạng Sắn Việt Nam ra Hội thảo Sắn Toàn cầu, https://youtu.be/81aJ5-cGp28 tự hào Việt Nam trên Thế giới , Thạc sĩ Nguyễn Văn Chương Trung tâm Hưng Lôc Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam có trên mười công trình nghiên cứu phát triển đậu đỗ phục vụ sản xuất , trong đó có công trình đầu tiên vang bóng một thời 1983-1986 “Chọn giống và trồng xen sắn, ngô với đậu rồng, đậu xanh, lạc” hợp tác Việt Tiệp, là thầy bạn và đồng đội của những kết quả tốt. Chúc mừng tiến sĩ Nguyễn Thị Trúc Mai cô Út trong đội ngũ trên với giống sắn tốt KM419 và kỹ thuật thâm canh thích hợp tại tỉnh Phú Yên, đã và đang tiếp tục chọn tạo các giống sắn mới theo hướng năng suất tinh bột cao chống chịu một số bệnh chính, góp phần nâng cao thu nhập, sinh kế, việc làm và đời sống người dân. Thật tuyệt vời đội ngũ ấy.