Trang chủ NLU| KhoaNôngHọc| Mụclục Hoàng KimLong| Tình yêu cuộc sống | CNM365| Khát khao xanh | Dạy và học | Cây Lương thực | FoodCrops| HK1| HK2| HK3| HK4| HKWiki| Violet| FAOSTAT| ThốngkêVN | ThờitiếtVN|
Thống kê
Số lần xem
Đang xem 1702
Toàn hệ thống 2832
Trong vòng 1 giờ qua
Trang liên kết

 

Tỉnh thức
giữa đêm thiêng Yên Tử
Để thấm hiểu đức Nhân Tông
Ta thành tâm đi bộ
Lên tận đỉnh chùa Đồng
Tâm sáng Ức Trai
trong tựa ngọc


TÌNH YÊU CUỘC SỐNG

THUNG DUNG
Nguyễn Bỉnh Khiêm, ...


DẠY VÀ HỌC
Để chấn hưng giáo dục Việt Nam cấp thiết phải có đội ngũ những người thầy giáo ưu tú có tâm đức thiết tha với nghề, có trình độ chuyên môn cao và có kỹ năng giảng dạy tốt. Đây là trang thông tin chuyên đề dạy và học để trao đổi và bàn luận


Khoa Nông Học  
Những nhà khoa học xanh,
http://foodcrops.vn


Norman Borlaug
Lời Thầy dặn

Việc chính đời người chỉ ít thôi
Chuyên tâm đừng bận chuyện trời ơi
Phúc hậu suốt đời làm việc thiện
Di sản muôn năm mãi sáng ngời.


Thông tin Cây Lương thực
 Lúa, Ngô, Sắn, Khoai lang
Nông trại và Hệ thống Canh tác
http://foodcrops.vn
FOOD CROPS
CÂY LƯƠNG THỰC
  



Tình yêu cuộc sống
Thông tin chuyên đề chọn lọc

Science Daily

KHÁT KHAO XANH
HOÀNG KIM
CNM365

Luôn làm mới kiến thức của bạn !



Bút tích NB gửi HK và
Những tư liệu quý về 
GS.TS. Norman Borlaug

Lối vào Phong Nha

 


HOÀNG KIM
NGỌC PHƯƠNG NAM
CHÀO NGÀY MỚI

DẠY VÀ HỌC
CÂY LƯƠNG THỰC
FOOD CROPS



THƯ VIỆN NGHỀ LÚA
Thư viện Khoa học Xã hội





Cassava in Vietnam



A New Future for Cassava in Asia

On-line: Cassava in Asia
(Tải tài liệu PDF tại đây)


 

KimFaceBook
KimYouTube

KimLinkedIn

Songkhongtubien

KIMYOUTUBE. Video nhạc tuyển Sóng không từ biển (xem tiếp).



GỬI THƯ ĐIẾN TỬ VÀ
LIÊN KẾT TRỰC TUYẾN

hoangkimvietnam@gmail.com 
hoangkim@hcmuaf.edu.vn  
TS. Hoàng Kim

http://foodcrops.vn
http://vi.gravatar.com/hoangkimvn
http://en.gravatar.com/hoangkimvn

Thành viên

Email:
Password

Nội dung

  TS. Hoàng Kim


DẠY VÀ HỌC 23 THÁNG 10
Hoàng Kim

CNM365 Tình yêu cuộc sốngNông lịch tiết sương giáng;Viên Minh Thích Phổ Tuệ; Đền Trần chùa Thắng Nghiêm; Phú Tuệ duyên gặp Thầy; Bảo tồn và phát triển sắn; Nhớ Viên Minh Hoa Lúa; Hoa Lúa giữa Đồng Xuân; Sự thật hơn lời nói; Tuệ Giác và Tâm Đức; Nguyễn Du tư liệu quý; Nguyễn Du trăng huyền thoại; Thomas Edison huyền thoại; Ngày 23 tháng 10 năm 2018 Quốc hội bỏ phiếu bầu Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng làm Chủ tịch Nước và công bố kết quả vào buổi chiều, sau đó tân Chủ tịch nước tuyên thệ nhậm chức. Nguyễn Phú Trọng là một chính khách người Việt Nam, hiện giữ chức vụ Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam; Bí thư Quân ủy Trung ương từ năm 2011. Chủ tịch Nước ngày nay là ông Nguyễn Xuân Phúc một trong những chức vụ cao nhất trong hệ thống chính trị Việt Nam bên cạnh Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Ngày 23 tháng 10 năm 1896,  trường Quốc Học Huế được thành lập theo sắc dụ của vua Thành Thái. Ngày 23 tháng 10 năm 1868 là thời kỳ Minh Trị của Thiên hoàng Minh Trị bắt đầu sự hiện đại hóa của đế quốc Nhật Bản. Ngày 23 tháng 10 hàng năm là  Ngày tưởng niệm Chulalongkorn (Rama V) tại Thái Lan. Vua Rama V (20 tháng 9 năm 1853 – 23 tháng 10 năm 1910) là vị vua thứ năm của nhà Chakri trong lịch sử Thái Lan. Ông được xem là một trong những ông vua kiệt xuất của vương quốc Xiêm La. Bài chọn lọc ngày 23 tháng 10: Nông lịch tiết sương giáng;Viên Minh Thích Phổ TuệĐền Trần chùa Thắng Nghiêm; Phú Tuệ duyên gặp Thầy; Bảo tồn và phát triển sắn; Nhớ Viên Minh Hoa Lúa; Hoa Lúa giữa Đồng Xuân; Sự thật hơn lời nói; Tuệ Giác và Tâm Đức; Nguyễn Du tư liệu quý; Nguyễn Du trăng huyền thoại; Thomas Edison huyền thoại; Thông tin tại: https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/2018/10/23/chao-ngay-moi-23-thang-10/

NÔNG LỊCH TIẾT SƯƠNG GIÁNG
Hoàng Kim


Sớm nay Sương Giáng tới rồi
Gió mù sương sớm, tiết trời sang đông
Khổng Minh thuyền cỏ mượn tên
Cơ trời thế nước lắng thêm chuyện đời
Tuệ giác tâm đức thương người
Trà thơm ngày mới thảnh thơi thanh nhàn

24 TIẾT KHÍ NÔNG LỊCH
Hoàng Kim


Khuyên em đừng quên nhất thì nhì thục
Di sản Việt Nam học mãi không cùng
Mình học để làm hai bốn tiết khí
Mộc mạc hát vần bài học đầu tiên.

Đất cảm trời thương lòng người gắn bó
Dẫu khó vạn lần khéo liệu cũng xong
Mùa xuân tới tự tiết xuân sẽ đến
Bởi biết rằng năm tháng đó là em.

6 tháng Một bắt đầu rét nhẹ
21 tháng Một trời lạnh cắt da
4 tháng Hai ngày xuân mới đến
20 tháng Hai Thiên Địa Nhân hòa.

Đồng dao cho em khuyên em đừng tưởng
Câu chuyện mùa xuân
thêm cho mồng Ba
Trải Cốc Vũ qua ngày Hạ Chí
Đại Thử rồi Sương Giáng thành hoa.

6 tháng Năm là ngày Hè đến
22 tháng Năm mưa nhỏ, vào mùa
5 tháng Sáu ngày Tua Rua mọc
21 tháng Sáu là chính giữa Hè.

7 tháng Bảy là ngày nắng nhẹ
23 tháng Bảy là tiết nóng oi
7 tháng Tám Lập Thu rồi đó
23 tháng 8 trời đất mưa Ngâu

Qua Xử Thử đến tiết trời Bạch Lộ
Sau Mưa Ngâu đến Nắng nhạt đấy em.
Tiết Thu Phân khoảng 23 tháng 9
Đối lịch nhà nông em nhớ đừng quên.

Tiết Hàn Lộ nghĩa là trời mát mẻ
Kế tiếp theo là Sương Giáng (sương mù)
23 tháng 10 mù sa dày đặc
Thuyền cỏ mượn tên nhớ chuyện Khổng Minh.

Ngày 7 tháng 11 là tiết lập đông
23 tháng 11 là ngày tiểu tuyết
8 tháng 12 là ngày đại tuyết
22 tháng 12 là chính giữa đông.

Khuyên em đừng quên nhất thì nhì thục
Di sản Việt Nam học mãi không cùng
Mình học để làm 24 tiết khí
Mộc mạc hát vần bài học đầu tiên.

Mùa vụ trồng cây, kinh nghiệm nghề nông
Xin em đừng quên điều ông bà dạy
Xuân Hạ Thu Đông hai bốn tiết khí
Khoa học thiên văn ẩn ngữ đời người.

Đất cảm trời thương, lòng người gắn bó
Dẫu khó vạn lần khéo liệu cũng xong
Mùa xuân tới tự tiết xuân sẽ đến
Bởi biết rằng
năm tháng đó là em. https://www.youtube.com/embed/w21hkPfEA2M?version=3&rel=1&showsearch=0&showinfo=1&iv_load_policy=1&fs=1&hl=vi&autohide=2&wmode=transparent

Viên Minh Thích Phổ Tuệ xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress

VGP News Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc viếng Đại lão Hòa thượng Thích Phổ Tuệ

(Chinhphu.vn) – Ngày 22/10, thay mặt lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc đã tới Tổ đình Viên Minh (chùa Ráng), xã Quang Lãng, huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội viếng Đại lão Hòa thượng Thích Phổ Tuệ, Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam.

Theo Báo điện tử Chính phủ Nước Công hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, Ngày 22/10, thay mặt lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc đã tới Tổ đình Viên Minh (chùa Ráng), xã Quang Lãng, huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội viếng Đại lão Hòa thượng Thích Phổ Tuệ, Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam.

Cùng đi có đại diện lãnh đạo Ủy ban Trung ương Mặt Trận Tổ quốc Việt Nam, Ban Dân vận Trung ương, Bộ Nội vụ, Ban Tôn giáo Chính phủ và UBND thành phố Hà Nội. 

Tại lễ viếng, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc đã đặt vòng hoa, thắp hương viếng và tưởng niệm cố Đại lão Hòa thượng Thích Phổ Tuệ. Chủ tịch nước đã ghi sổ tang, bày tỏ niềm tiếc thương: “Đại lão Hòa thượng Thích Phổ Tuệ, Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam, bậc cao tăng, thạch trụ, vị chân tu thanh bạch của Phật giáo thời nay, là biểu tượng của tinh thần đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo. Trên cương vị lãnh đạo cao nhất của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Hòa thượng luôn gương mẫu, chỉ dẫn và định hướng Giáo hội Phật giáo Việt Nam thực hiện tốt phương châm “Đạo pháp – Dân tộc – Chủ nghĩa xã hội”.

Cuộc đời Hòa thượng là minh chứng sinh động cho những giá trị văn hóa, đạo đức của Phật giáo trong đời sống xã hội. Với những cống hiến to lớn cho đất nước, Hòa thượng Thích Phổ Tuệ đã được Nhà nước ghi nhận và trao tặng Huân chương Hồ Chí Minh cùng nhiều phần thưởng cao quý khác”.

Chủ tịch nước cũng bày tỏ thành kính phân ưu và gửi lời chia buồn sâu sắc đến Trung ương Giáo hội, tăng ni, tín đồ Phật giáo Việt Nam ở trong và ngoài nước; mong quý vị tăng ni, tín đồ Phật giáo Việt Nam hãy học gương tu hành cao đẹp của Hòa thượng để cùng nhau xây dựng Giáo hội Phật giáo Việt Nam đoàn kết, vững mạnh, ngày càng đóng góp xứng đáng cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Đại lão Hòa thượng Thích Phổ Tuệ, thế danh là Bùi Văn Quý, sinh năm 1917 tại thôn Phùng Thiện, xã Khánh Tiên, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình, xuất gia năm 1923.

Trải qua 105 năm hiện diện ở cõi Sa Bà, với 85 hạ lạp, Đại lão Hòa thượng Thích Phổ Tuệ đã trọn đời hiến dâng cho lý tưởng hoằng pháp lợi sinh, Ngài đã đảm nhiệm nhiều chức vụ trong các cấp Giáo hội Phật giáo Việt Nam như: Trưởng Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Hà Tây, Viện trưởng Phân viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam tại Hà Nội, Tổng Biên tập tạp chí Nghiên cứu Phật học, Phó Trưởng ban Giáo dục Tăng Ni Trung ương, Phó ban Ban Tăng sự Trung ương, Phó Chủ tịch Hội đồng trị sự, Phó Pháp chủ kiêm Chánh Thư ký Hội đồng Chứng minh Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Tại Đại hội Đại biểu Phật giáo Toàn quốc lần thứ VI (2007), Ngài được suy tôn ngôi vị Pháp chủ Hội đồng Chứng minh Giáo hội Phật giáo Việt Nam, trở thành Pháp chủ thứ ba của Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Từ đó đến nay, trải qua các nhiệm kỳ Đại hội Phật giáo toàn quốc lần thứ VII (2012), VIII (2017) Ngài luôn luôn được Đại hội suy tôn ngôi vị Thiền gia Pháp chủ Hội đồng Chứng minh Giáo hội Phật giáo Việt Nam.

Đại lão Hòa thượng Thích Phổ Tuệ là vị cao tăng uyên thâm Phật pháp, đức trí vẹn toàn, có nhiều đóng góp to lớn, là tấm gương quy tụ tăng ni, phật tử đoàn kết, lãnh đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam vững vàng phương châm “Đạo pháp – Dân tộc – Chủ nghĩa xã hội”, giữ vững truyền thống “Hộ quốc, an dân” của Phật giáo Việt Nam.

Đại lão Hòa thượng đã được Nhà nước trao tặng Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Độc lập hạng Nhì, Huân chương Đại Đoàn kết dân tộc; được tặng thưởng Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ, Bằng khen của Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam, nhiều Bằng Tuyên dương công đức của Giáo hội Phật giáo Việt Nam và nhiều phần thưởng cao quý khác.

Là bậc chân tu nổi tiếng tinh thông kim cổ, trọn đời sống thanh bần, lạc đạo, tụng kinh viết sách, tu tập dưới mái chùa làng khiêm tốn, thanh tịnh, Đại lão Hòa thượng đã tham gia biên soạn, dịch, hiệu đính nhiều tác phẩm về Phật học ở Việt Nam. Ông nhiều năm liền giữ ngôi Đường Chủ của các trường hạ tại Hà Nội, Hưng Yên… cũng như ngôi Hòa thượng đầu đàn trong rất nhiều Đại giới đàn ở các tỉnh.

Do niên cao, lạp trưởng, Đại lão Hòa thượng Thích Phổ Tuệ đã thu thần viên tịch vào lúc 3h22 ngày 21/10/2021 (nhằm ngày 16 tháng 9 năm Tân Sửu), Trụ thế: 105 năm, Hạ lạp: 85 năm; để lại trong lòng môn đô tứ chúng, Tăng Ni Phật tử Việt Nam trong và ngoài nước niềm kính thương vô hạn.

Theo TTXVN

Từ khóa: Chủ tịch nước , Nguyễn Xuân Phúc , Đại lão Hòa thượng Thích Phổ Tuệ , Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam

Ngat huong sen long long bong truc mai

VIÊN MINH THÍCH PHỔ TUỆ xem tiếp tại https://hoangkimlong.wordpress.com/category/vien-minh-thich-pho-tue/

TranHungDao1

ĐỀN TRẦN CHÙA THẮNG NGHIÊM
Hoàng Kim

Thánh Trần chùa Thắng Nghiêm uy nghi, trầm tư, tỉnh lặng, đã khai mở trí huệ  tôi. Chùa Thắng Nghiêm ở 38 thôn Khúc Thuỷ, xã Cự Khê, Thanh Oai, Hà Nội, cách trung tâm Thủ đô khoảng 15 km về phía Nam. Chùa nằm trong quần thể Thánh tích làng Khúc Thủy, một địa phương mang đậm bản sắc văn hoá tâm linh Phật giáo với những danh thắng nổi tiếng như chùa Linh Quang, chùa Thắng Nghiêm, chùa Phúc Khê (tức chùa Dâu); đình, đền, miếu, văn chỉ, nhà thờ dân và nhà thờ các dòng họ lớn trong làng. Chùa là nơi tu hành của nhiều danh Tăng, danh Tướng thời Lý (1009-1225) và thời Trần (1225- 1400) như: Khuông Việt Quốc sư, Vạn Hạnh Quốc sư, Trùng Liên Bảo Tích Quốc sư, Đạo Huyền Quốc sư, Huyền Thông Quốc sư (Linh Thông Hòa thượng Đại vương), Hưng Đạo Đại vương…

Lịch sử chùa Thắng Nghiêm cho hay về thắng tích nơi này “Theo truyền thuyết dân gian, chùa Thắng Nghiêm được xây dựng từ rất sớm trên thế đất “Liên Hoa hàm tiếu”, từ thời kỳ Ngô Sỹ Nhiếp làm Thái thú xứ Giao Châu, năm 187-266 (Phật lịch 731-810), do ngài Tôn giả Bảo Đức (tương truyền là hoá thân của Bồ Tát Văn Thù) từ nước Thiên Trúc sang sáng lập để truyền bá Phật Pháp. Ngài đã cho xây dựng ngôi đại bảo tháp thờ xá lợi Phật (đến nay vẫn còn), nhân dân thường gọi là khu Mả Bụt. Sau thời kỳ ngài Tôn giả Bảo Đức sáng lập, tiếp đến lại có hai vị Tôn giả là Kim Trang và Kim Quốc cũng từ xứ Thiên Trúc sang hoằng truyền Chính Pháp. Hai Ngài đã cho xây dựng thêm chùa Phúc Khê, thường gọi là chùa Dâu. Trong quần thể Thánh địa Khúc Thủy, chùa Linh Quang xưa còn được gọi là chùa Quan, là nơi lễ bái của các quan lại thời phong kiến, được xây dựng trên thế đất “Kim Quy Thần hạ giang ẩm thuỷ” (Thần Kim Quy xuống sông uống nước).

Tương truyền, Đinh Tiên Hoàng đế (Đinh Bộ Lĩnh) trong một lần đi tuần thú đã dừng chân ở Khúc Thuỷ, gặp một thôn nữ xinh đẹp đang kéo hến bên sông, vua đã đưa nàng về cung làm phi tần. Thấy phong cảnh nơi đây hữu tình, thế đất lại có long chầu phượng vũ, lân ly hội tụ, nhà vua bèn cho lập dinh tại đất này và trùng tu lại chùa rồi đặt tên là chùa Pháp Vương, dân gian sau này thường gọi là chùa Bà Chúa Hến; nơi các ngài dừng thuyền được gọi là Bến Rồng hay còn gọi là Bến Ao Thuyền; nơi Ngự giá nghỉ ngơi trước khi vào lễ Phật được gọi là Dinh Vua. Dinh thự của vua chúa phong kiến các đời sau cũng được xây dựng tại đây.

Trải qua bao biến thiên của lịch sử, chùa Thắng Nghiêm đã mang nhiều tên gọi khác nhau như: chùa Bụt, chùa Pháp Vương tức chùa Bà Chúa Hến (thời nhà Đinh), chùa Thắng Nghiêm (thời nhà Lý), chùa Trì Long, chùa Trì Bồng (thời nhà Trần), chùa Liên Trì (thời nhà Lê), chùa Phúc Đống (thời nhà Nguyễn) và danh hiệu Phật Quang Đại Tùng Lâm là tên gọi chung cho cả quần thể Thánh tích. Ngày nay, nhân dân địa phương vẫn thường gọi chung là chùa Khúc Thủy vì chùa nằm trên địa phận thôn Khúc Thủy. Hiện nơi đây vẫn còn lưu giữ được 34 đạo sắc phong của các triều đại phong kiến. Đặc biệt, làng Khúc Thủy đã được vua Giản Định cuối đời Trần gia phong tám chữ vàng “Khúc Thủy nghĩa dân, Mỹ tục khả phong”.

Sau khi lấy được thiên hạ từ tay nhà Tiền Lê, vua Lý Thái Tổ (Lý Công Uẩn) lên ngôi, mở ra triều đại nhà Lý vào tháng 10 âm lịch năm 1009 và quyết định dời đô từ Hoa Lư về thành Đại La. Một lần, Vua ngự thuyền Rồng từ sông Kim Ngưu qua sông Tô Lịch rồi xuôi theo dòng Nhuệ Giang ngoạn cảnh. Chợt trông thấy ngôi cổ tự trang nghiêm tú lệ ẩn hiện ứng với mộng lành năm xưa, Ngài liền cho dừng thuyền vào chùa lễ Phật. Nhìn cảnh trí thơ mộng, thế đất có long chầu phượng vũ, Ngài thốt lên: “Nơi đây thật xứng là một chốn tu hành “trang nghiêm thù thắng”, đúng là bầu trời cảnh Phật vậy”. Nh­à vua liền đặt mỹ hiệu cho vùng đất này là trang Khúc Thủy, huyện Thanh Oai, phủ Ứng Thiên, trấn Nam Thượng và lập làm thang mộc ấp (ấp của vua). Sau này, Ngài thường lui tới lễ Phật, vãn cảnh. Chùa Thắng Nghiêm, trang Khúc Thủy từ đó đã trở thành nơi du ngoạn tâm linh của các bậc vua chúa, quan lại phong kiến.

Theo chính sử, chùa Thắng Nghiêm được xây dựng vào thời vua Lý Thái Tổ (1009-1028). Đại Việt sử ký toàn thư, Kỷ nhà Lý, Niên hiệu Thái Tổ Hoàng đế có đoạn chép: “Năm 1010, mùa thu, tháng 7, vua Lý Thái Tổ từ thành Hoa Lư dời đô ra kinh phủ ở thành Đại La… Lại ở trong thành làm chùa ngự Hưng Thiên và tinh lâu Ngũ Phượng. Ngoài thành về phía Nam dựng chùa Thắng Nghiêm”…
“Mùa đông, tháng 10, xuống chiếu phát trăm lạng bạc trong kho để đúc hai quả chuông treo ở chùa Thắng Nghiêm và tinh lâu Ngũ Phượng. Đắp thành đất ở bốn mặt kinh thành Thăng Long. Đổi phủ Ứng Thiên làm Nam Kinh”.

Niên hiệu Thái Tông Hoàng đế có đoạn chép: “Mùa hạ, tháng 4, ngày mồng 1, vua thân đi đánh giáp Đản Nãi, cho Đông cung thái tử ở lại Kinh sư làm Giám quốc. Khi đánh được giáp Đản Nãi rồi, sai Trung sứ đốc suất người Đản Nãi đào kênh Đản Nãi. Vua từ Đản Nãi trở về Kinh sư. Có dấu người thần hiện ở chùa Thắng Nghiêm”.

Niên hiệu Nhân Tông Hoàng Đế cũng chép: “Tháng 9, ngày Tân Tỵ, mở hội Thiên Phật (Nghìn Phật) để khánh thành chùa Thắng Nghiêm Thánh Thọ, cho sứ Chiêm Thành đến xem”.

Trong Việt sử cương mục tiết yếu của Thiện Đình Đặng Xuân Bảng, phần Kỷ nhà Lý, Thái Tổ Hoàng đế cũng có đoạn chép: “Năm 1010, vua cho phát hai vạn quan tiền, dựng tám ngôi chùa và lập bia để ghi công đức. Lại xây chùa Hưng Thiên, cung Đại Thanh, chùa Vạn Tuế ở nội thành Thăng Long. Ngoại thành dựng bảy ngôi chùa là Thắng Nghiêm, Thiên Vương, Cẩm Y, Long Hưng, Thiên Thọ, Thiên Quang, Thiên Đức, chùa quán ở các hương ấp nếu bị hỏng thì cho sửa lại.”

Đại Việt sử ký toàn thư chép: Trần Liễu thời Lý được phong làm Phụng Càn vương. Năm 1228, vua Trần Thái Tông (Trần Cảnh) phong Liễu làm Thái úy. Đến năm 1234, Thái thượng hoàng Trần Thừa băng hà, Trần Liễu lên làm Phụ Chính vương (sách sử còn gọi là Hiển Hoàng).

Năm 1236, Trần Liễu phạm cung cấm bị giáng xuống làm Hoài vương. Năm 1237, Trần Thủ Độ ép vua Trần Cảnh lấy Thuận Thiên (là vợ Trần Liễu đang có mang 3 tháng, vì vợ vua Trần Cảnh là Lý Chiêu Hoàng chưa có con). Mất vợ, Trần Liễu nổi loạn. Do sợ bị diệt vong, Trần Liễu sai em gái là Thụy Bà Công chúa (hay còn gọi là Đoan Bà) đưa con trai là Trần Quốc Tuấn đi lánh nạn. Đoan Bà cùng gia nhân giả làm thương gia đưa Trần Quốc Tuấn đến chùa Trì Long, thuộc trang Khúc Thủy, huyện Thanh Oai, phủ Ứng Thiên, trấn Nam Thượng. Khi đó, chùa Thắng Nghiêm do Thiền sư họ Lý, pháp hiệu Đạo Huyền trụ trì. Ông là vị danh Tăng tinh thông Tam tạng, Giới đức trang nghiêm, uy tín bậc nhất thời đó. Đoan Bà giao Trần Quốc Tuấn, khi đó khoảng 7 tuổi, cho Thiền sư Đạo Huyền nuôi dưỡng. Thiền sư nhìn Trần Quốc Tuấn mỉm cười mà nói rằng: “Thật đúng là duyên mệnh Phật Trời đã định sẵn”. Từ đó, ngày qua tháng lại, Thiền sư Đạo Huyền truyền dạy cho Trần Quốc Tuấn Tam tạng Thánh điển, pháp thuật bí truyền. Với trí tuệ siêu phàm, chẳng bao lâu Quốc Tuấn đã tinh thông giáo pháp, văn võ kỳ tài không ai sánh kịp.

Lại nói, sau khi Trần Liễu nổi loạn bị giáng xuống làm Hoài vương, vua Trần Thái Tông không những tha không giết mà còn phong vương, cấp cho đất Yên Phụ, Yên Dưỡng, Yên Sinh, Yên Hưng, Yên Bang (nay thuộc Đông Triều, Quảng Ninh) để Trần Liễu về trấn giữ và phong tước hiệu qua các thời kỳ là Hiển Hoàng, Hoài vương, An Sinh vương. Nội cung yên ổn, Trần Liễu cùng đoàn tùy tùng tới trang Khúc Thủy, chùa Trì Long cảm tạ ơn dưỡng dục và thỉnh Thiền sư cùng đón Trần Quốc Tuấn hồi cung, năm đó Quốc Tuấn tròn 21 tuổi.

Sau khi hồi cung, Trần Quốc Tuấn được mời vào nội điện ra mắt vua Trần Thái Tông. Vua nhận thấy Quốc Tuấn tướng mạo phi phàm, tài trí vẹn toàn, thật xứng danh là bậc kỳ tài trong thiên hạ, bèn phong làm tướng trấn giữ biên ải phương Bắc.

Năm Mậu Ngọ (1258), quân Nguyên-Mông đem hơn 30 vạn quân tiến qua biên ải, Trần Quốc Tuấn được phong Tiết chế kiêm Tả hữu
thủy lục tướng quân, chỉ huy quân đội đánh giặc. Ngày 12 tháng 3 năm đó (1258), Trần Quốc Tuấn dẫn quân về Khúc Thủy, Khê Tang thành lập tinh binh trên dòng Nhuệ giang, chiêu hiền giúp nước. Khúc Thủy tuyển được 370 người, Khê Tang tuyển được 271 người ra nhập đội quân tinh nhuệ. Trần Quốc Tuấn đem 16 vạn tinh binh đóng đồn từ Tam Đái đến cửa sông Vọng Đức, Bạch Đằng, Lục Đầu Giang để đánh đuổi quân xâm lược. Sau khi thắng trận trở về, nhân dân ca khúc khải hoàn, Vua xuống chiếu sắc phong Ngài là Hưng Đạo Đại vương.

Hưng Đạo Đại vương ban thưởng cho Khúc Thủy, Khê Tang 100 lượng vàng và đích thân đứng ra tu sửa chùa Trì Long.

Năm 1284, vua Nguyên lại sai Thái tử Trấn Nam vương Thành Hoan (chính sử ghi là Thoát Hoan) đem trăm vạn tinh binh một lần nữa xâm lược nước ta. Với tài thao lược binh cơ, Hưng Đạo Đại vương thống lĩnh ba quân, lĩnh mệnh chinh Nguyên, tiến hành thủy chiến trên sông Bạch Đằng, lập chiến công vô cùng hiển hách.

Ngay sau khi bại trận về nước, năm 1285, quân Nguyên chỉnh đốn quân ngũ, bổ sung lực lượng, đóng tàu chiến, huy động lương thảo để trở lại đánh Đại Việt lần thứ ba. Cuộc chiến lần này kéo dài khoảng gần 4 tháng, từ cuối tháng 12 năm 1287 đến cuối tháng 4 năm 1288. Cũng giống như hai lần trước, chúng đã bị quân dân Đại Việt đánh cho tan tác và từ đó không dám gây chiến với Đại Việt nữa.

Đất nước thanh bình thịnh trị, Hưng Đạo Đại vương trở về thăm lại chùa xưa. Năm 79 tuổi, Ngài xin về Vạn Kiếp an dưỡng tuổi già. Năm 82 tuổi, ngày 10 tháng 8 mùa thu, Ngài lâm bệnh, thị tịch ngày 20 tháng 8, giờ Ngọ. Vua phong cho Ngài mỹ hiệu “Quốc lão Hiển tướng Đại vương”, cho Khúc Thủy, Khê Tang làm “Hộ Nhi hương”, thờ Quốc Tuấn Đại vương làm Thượng Đẳng thần, cử trọng thần xuân thu nhị kỳ về tế lễ.

Đình Khúc Thủy được xây dựng từ đây trên thế đất “Thần Ly chầu ngọc”, cũng là nơi thờ phụng Nhị vị Đức Thánh Trần (Hưng Đạo Đại vương và Linh Thông Hoà thượng Đại vương).

Ngược dòng thời gian, sau khi Thiền sư Đạo Huyền cùng Trần Quốc Tuấn về triều yết kiến Thái Tông Hoàng đế, Đạo Huyền được phong làm Quốc sư, phò Vua, giúp nước. Từ đây, trong Thiền phả không thấy nhắc đến các sư kế đăng trụ trì, mãi đến đời thứ 11 nhà Trần (vua Thuận Tông, húy Ngung, con trai út vua Nghệ Tông), mới có Linh Thông Hòa thượng Đại vương về trang Khúc Thủy thắp sáng ngọn đèn thiền.

Thiền phả chép: “Linh Thông Hòa thượng Đại vương thuộc thời Trần, xét xưa kia nước ta mở vận hơn hai nghìn năm lấy hiệu là Hùng Vương, trải qua các triều Đinh, Lê, Lý, Trần đều có các minh quân (vua sáng) trị vì đất nước”. Khi ấy, ở trại Tức Mặc, huyện Mỹ Lộc, phủ Thiên Trường, xứ Nam Định, có gia đình họ Trần đời đời làm quan tướng trong triều. Nhà Lý trải qua tám đời vua, vận nước cáo chung mới có nữ quân là Chiêu Hoàng lên ngôi. Trần Thủ Độ làm quan trọng thần trong triều, đưa cháu ruột là Trần Cảnh vào cung, ép gả Chiêu Hoàng. Việc nhà Trần kế nghiệp đế vương nhà Lý mà không hề có nghiệp chiến tranh, đó há chẳng phải là trời đất giao hòa sao!

Đời sau Lê Tiên sinh thơ rằng:
Nhất sắc khuynh thành khởi chiến tranh,
Kỵ long đằng vị tự nhiên thành.
Giai do thiên mệnh nhân tâm thuận,
Bách quỹ đồng quy hướng đức danh.

Dịch thơ:
Sắc đẹp khuynh thành chẳng chiến tranh,
Cưỡi rồng giữ vị tự nhiên thành.
Đều do trời đất lòng người thuận,
Trăm mối về cùng tỏ đức danh.

Nhà Trần trải qua các đời vua Thái Tông, Thánh Tông, Nhân Tông, Minh Tông, Anh Tông, Hiển Tông, Dụ Tông, Nghệ Tông, Phế Đế rồi truyền đến vua Thuận Tông. Nhà vua tính tình nhu thuận từ hòa nên đã bị Hồ Quí Ly âm mưu thoán đoạt, tất cả đều do đạo trời xui khiến, không phải là do đức ngu tối của vua Trần vậy.

Khi ấy, ở trại Hà Lãng, huyện Vĩnh Ninh (nay thuộc Vĩnh Lộc, phủ Thiệu Hóa, Thanh Hóa) có người họ Trần, húy Chân (Trần Khát Chân), phu nhân họ Đặng, húy An, người phường Vạn Ninh. Trần công làm tướng phò giúp vua Anh Tông (ba đời làm tướng nhà Trần), lúc đó đã 40 tuổi, phu nhân 39 tuổi vẫn chưa có điềm lành, hòe quế chi lan đều do thứ phi sớm ứng.


Đất Vĩnh Ninh có chùa Hoàng Long rất linh ứng, quan dân hương đèn cầu đảo không dứt, cảnh đẹp sánh tựa bồng lai, phong quang như vườn lộc uyển, thực là thắng cảnh của Thiền gia vậy. Năm ấy, nhân ngày hội, phu nhân trai giới đến chùa mật đảo, nguyện sớm được ban điềm lành. Ba ngày sau mộng ứng, trong giấc mơ thấy mình ngoạn du đến chùa Thiên Thai, gặp một lão tăng mặc áo xanh sẫm, đội mũ Thất Phật, chống gậy tùng, tay cầm bông sen, đi trước sân chùa ngâm rằng:


Nhất thành khả cách đạt từ nhan,
Kim hữu thành tùng Thứu Lĩnh san.
Phu phụ Trần gia giai phúc hậu,
Từ tâm nhất hứa trượng phu hoàn.


Dịch thơ:

Lòng thành thấu đến bậc từ nhân,
Nay có cây tùng trên Thứu Lĩnh.
Phúc hậu ban cho nhà họ Trần,
Lòng từ sớm ứng sinh trai giỏi.


Phu nhân ngắm xem, bỗng thấy cây tùng biến thành rồng xanh bay vào trong miệng. Tỉnh giấc, bà kể lại cho Trần công nghe. Trần công vui mừng nói: “Nhà ta kiếp trước chuyên tâm làm điều phúc thiện, nay trời giáng điềm lành, ắt có tài hoa kế thế, tuấn kiệt ra đời, đây chẳng phải là giấc mộng tầm thường”. Sau, quả nhiên phu nhân có mang. Vào giờ mão ngày 15 tháng giêng, bà sinh hạ một công tử mặt phượng, mắt rồng, hàm én, mày ngài, thể mạo khôi kỳ khác hẳn người thường; trong khi sinh nở điềm lành xuất hiện: hương thơm ngào ngạt, thụy khí lan tỏa khắp phòng. Ông bà đặt tên con là Trần Thông. Trần Thông từ nhỏ đã tỏ ra thông minh, dĩnh ngộ, 7 tuổi theo học với quan Đại học trong nội các, thân thiết với Thái tử như anh em ruột.


Khi Trần Thông 15 tuổi, vua Thuận Tông nhường ngôi cho Thái tử hiệu là Hiếu Đế và phong Ngài làm trưởng Ấu Sử trong nội các, kiêm quản quân nội thị vệ. Khi ấy, Hồ Quí Ly và Hồ Hán Thương bức Vua phải thoái vị và xuất gia tại chùa Ngọc Thanh, thôn Đạm Thủy. Đất nước đại loạn, Hồ Quí Ly đã giết chết Trần Khát Chân. Tình thế bất an khiến Trần Thông phải dời đến núi Yên Tử, tự nguyện xuất gia tu hành cùng các thiền tăng. Ở đó có người họ Trần tu tập, tên gọi Trần Huyền. Trần Thông tu tại chùa Vân Tiêu được 7 năm thì Hồ Quí Ly biết tin liền cho quan đại thần mời về triều phục chức giúp nhà Hồ, nhưng Ngài không chịu. Nhà Hồ tìm cách sát hại, nhờ có người mật báo, Ngài dời chùa Vân Tiêu tới trang Khúc Thủy, huyện Thanh Oai, phủ Ứng Thiên, trấn Nam Thượng. Lúc Ngài ngồi nghỉ chân bên một thảo am ven đường, có người dân trang Khúc Thủy, họ Nguyễn húy Hành, sùng kính đạo Phật, đến đỉnh lễ thưa rằng: “Ngài từ đâu đến và đi về đâu?”


Thiền sư mỉm cười đáp: “Ta vốn chẳng sinh ra từ đâu, thì cũng chẳng có đâu để về, Thứu Lĩnh, Tùng Lâm bao trùm khắp cả mười phương, ba cõi, đều là nơi ta đã ngao du, nào biết nơi đâu đáng để dừng. Vậy ta nhàn du đến đây, ngắm xem phong cảnh, tìm hiểu nhân gian họa phúc để mà cứu giúp”.
Nguyễn công nghe nói vô cùng kính ngưỡng, liền cùng nhân dân Khúc Thủy thỉnh thiền sư về trụ trì chùa. Ngày 12 tháng một, Ngài bắt đầu khai tràng thuyết pháp, rao giảng Tam tạng Thánh điển, tiếp độ tăng, ni. Nhân dân, Phật tử kính ngưỡng Ngài như Phật tái thế. Ngài trụ trì được 5 năm, một hôm, trong khi đang tọa thiền dưới án Phật đường, Ngài thấy Quốc lão Hưng Đạo Đại vương đi đến ngồi trước nơi Ngài thiền định, ngâm rằng:

Cấp báo chi cấp báo chi,
Hồ binh lai nhập đáo thiền vi.
Cấp cấp xu hồi Khê Tang địa,
Huynh đệ đồng tâm cự tế chi.


Dịch thơ:

Kíp báo ngay kíp báo ngay,
Ngày mai giặc Hồ vây chùa này.
Mau mau trở lại Khê Tang nhé,
Huynh đệ đồng tâm chống giặc đây.


Canh ba hôm ấy, nghe tiếng hô hoán quanh chùa, Ngài sai tiểu tăng lên gác chuông quan sát thì đã thấy binh lính nhà Hồ vây kín cả bốn xung quanh. Ngài liền dùng tích trượng phá vòng vây, thẳng tiến tới chỗ giáp ranh giữa Khúc Thủy và Khê Tang thì thấy một gò cao, cây cối um tùm, Ngài liền ẩn mình vào đó. Bỗng một dải mây ngũ sắc sáng rực từ trong gò bay lên, phủ kín quanh gò, rồi cuồn cuộn bay thẳng lên không trung. Trong giây lát, trời đất tối tăm, sấm chớp ầm ầm, mưa to gió lớn, cây cối gãy đổ, bụi bay mù mịt, binh lính nhà Hồ sợ hãi bỏ chạy tán loạn. Khi đó, Thiền sư đã ung dung tự tại thiền định trên Tam quan chùa Khê Tang. Ngay đêm hôm ấy, Quốc lão mộng báo cho dân chúng Khê Tang thấy Ngài ngồi đàm đạo cùng một vị Thiền sư, đứng hầu xung quanh có khoảng hơn 500 người. Quốc lão gọi nhân dân đến bảo: “Ta có bạn quí tới chơi đã được năm ngày, mà sao các người không ra nghênh đón?”. Sáng hôm sau, nhân dân không ai bảo ai đều tập trung tại Tam quan chùa, quả nhiên thấy một vị Thiền tăng đang ngồi tĩnh tọa như trong giấc mộng vậy. Nhân dân liền thỉnh Ngài về chùa, cung kính lễ bái cúng dàng và xin làm đệ tử.

Nhân dân Khúc Thủy gặp phải dịch nạn, chiều chiều thường nghe trong chùa văng vẳng tiếng nói vọng ra: “Chủ ta vì nạn mà dời đi nơi khác ở, chỉ có binh lính và Long Thần giữ chùa, được thể ôn thần, quỉ quái thừa cơ làm loạn, quấy nhiễu dân lành, biết tìm ai cứu giúp bây giờ!”. Nhân dân nghe thấy lấy làm lạ, cùng nhau sang Khê Tang thỉnh Ngài Trần Thông trở lại chùa làng, mọi chuyện lại được yên ổn, bình an như cũ.

Thời gian đó, con thứ vua Nghệ Tông là Giản Định khởi nghĩa diệt Hồ, đánh đuổi giặc Minh, khôi phục lại cơ nghiệp nhà Trần, chấn hưng thiên hạ. Giản Định đế biết Thiền sư là cựu trung thần của triều đình, nên ban chiếu mời về giúp nước. Nhận lệnh vua ban, Ngài đã ưng thuận xếp cà sa, khoác chiến bào, một lần nữa cầm quân ra trận. Ngày 11 tháng 5, Ngài triệu tập dân làng Khúc Thủy, Khê Tang, tuyển được 500 dân binh tình nguyện lên đường. Ngày 12 tháng 2 khao thưởng binh lính, lập đàn cầu đảo Quốc thái dân an. Yến tiệc đến ngày 2 tháng 6, Ngài tấn kiến vua Giản Định. Vua liền phong Ngài làm Đốc lãnh binh, Giới trưởng Quân vệ tả hữu dẹp loạn nhà Hồ rồi tiến thẳng lên phương Bắc đánh đuổi giặc Minh, trấn an bờ cõi, giữ vững chủ quyền. Nhân dân an cư lạc nghiệp, ca khúc khải hoàn. Vua Giản Định phong Ngài làm phó tướng, kiêm Quân vệ thủy bộ, nhưng Ngài đã khước từ, xin vua cho phép trở về chùa xưa tiếp tục tu hành, giáo hóa chúng sinh, xiển dương ngôi Tam Bảo. Nhà vua ưng thuận và ban sắc phong cho Ngài là Linh Thông Hòa thượng Đại vương, lại ban mũ áo, vàng bạc tu bổ chùa chiền, cho Khúc Thủy làm thang mộc ấp. Ngài cảm tạ ơn vua rồi lên đường trở về chùa Khúc Thủy.

Ngày mồng 10 tháng 9, Ngài mở tiệc khao thưởng úy lạo tướng sỹ. Ngày 12 tháng 9, nhân dân Khúc Thủy, Khê Tang làm lễ chúc mừng. Trong lúc yến ẩm, Ngài nói với phụ lão, nhân dân rằng: “Ta cùng các ngươi tình nghĩa sư đồ sâu nặng, không chỉ một ngày, sư đệ chi tình, ngàn vạn năm duyên đó khó có thể phai mờ. Sau này hãy lập miếu để thờ nơi ta lánh nạn nhà Hồ, bởi nhờ thần lực của Phật Tổ ta mới thoát được kiếp nạn. Hai ngôi Phạm Vũ Linh Quang, Trì Long nơi ta tu hành các ngươi phải thường xuyên tu sửa, giữ gì


DẠY VÀ HỌC 23 THÁNG 10
Hoàng Kim

CNM365 Tình yêu cuộc sốngNông lịch tiết sương giáng;Viên Minh Thích Phổ Tuệ; Đền Trần chùa Thắng Nghiêm; Phú Tuệ duyên gặp Thầy; Bảo tồn và phát triển sắn; Nhớ Viên Minh Hoa Lúa; Hoa Lúa giữa Đồng Xuân; Sự thật hơn lời nói; Tuệ Giác và Tâm Đức; Nguyễn Du tư liệu quý; Nguyễn Du trăng huyền thoại; Thomas Edison huyền thoại; Ngày 23 tháng 10 năm 2018 Quốc hội bỏ phiếu bầu Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng làm Chủ tịch Nước và công bố kết quả vào buổi chiều, sau đó tân Chủ tịch nước tuyên thệ nhậm chức. Nguyễn Phú Trọng là một chính khách người Việt Nam, hiện giữ chức vụ Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam; Bí thư Quân ủy Trung ương từ năm 2011. Chủ tịch Nước ngày nay là ông Nguyễn Xuân Phúc một trong những chức vụ cao nhất trong hệ thống chính trị Việt Nam bên cạnh Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Ngày 23 tháng 10 năm 1896,  trường Quốc Học Huế được thành lập theo sắc dụ của vua Thành Thái. Ngày 23 tháng 10 năm 1868 là thời kỳ Minh Trị của Thiên hoàng Minh Trị bắt đầu sự hiện đại hóa của đế quốc Nhật Bản. Ngày 23 tháng 10 hàng năm là  Ngày tưởng niệm Chulalongkorn (Rama V) tại Thái Lan. Vua Rama V (20 tháng 9 năm 1853 – 23 tháng 10 năm 1910) là vị vua thứ năm của nhà Chakri trong lịch sử Thái Lan. Ông được xem là một trong những ông vua kiệt xuất của vương quốc Xiêm La. Bài chọn lọc ngày 23 tháng 10: Nông lịch tiết sương giáng;Viên Minh Thích Phổ TuệĐền Trần chùa Thắng Nghiêm; Phú Tuệ duyên gặp Thầy; Bảo tồn và phát triển sắn; Nhớ Viên Minh Hoa Lúa; Hoa Lúa giữa Đồng Xuân; Sự thật hơn lời nói; Tuệ Giác và Tâm Đức; Nguyễn Du tư liệu quý; Nguyễn Du trăng huyền thoại; Thomas Edison huyền thoại; Thông tin tại: https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/2018/10/23/chao-ngay-moi-23-thang-10/

NÔNG LỊCH TIẾT SƯƠNG GIÁNG
Hoàng Kim


Sớm nay Sương Giáng tới rồi
Gió mù sương sớm, tiết trời sang đông
Khổng Minh thuyền cỏ mượn tên
Cơ trời thế nước lắng thêm chuyện đời
Tuệ giác tâm đức thương người
Trà thơm ngày mới thảnh thơi thanh nhàn

24 TIẾT KHÍ NÔNG LỊCH
Hoàng Kim


Khuyên em đừng quên nhất thì nhì thục
Di sản Việt Nam học mãi không cùng
Mình học để làm hai bốn tiết khí
Mộc mạc hát vần bài học đầu tiên.

Đất cảm trời thương lòng người gắn bó
Dẫu khó vạn lần khéo liệu cũng xong
Mùa xuân tới tự tiết xuân sẽ đến
Bởi biết rằng năm tháng đó là em.

6 tháng Một bắt đầu rét nhẹ
21 tháng Một trời lạnh cắt da
4 tháng Hai ngày xuân mới đến
20 tháng Hai Thiên Địa Nhân hòa.

Đồng dao cho em khuyên em đừng tưởng
Câu chuyện mùa xuân
thêm cho mồng Ba
Trải Cốc Vũ qua ngày Hạ Chí
Đại Thử rồi Sương Giáng thành hoa.

6 tháng Năm là ngày Hè đến
22 tháng Năm mưa nhỏ, vào mùa
5 tháng Sáu ngày Tua Rua mọc
21 tháng Sáu là chính giữa Hè.

7 tháng Bảy là ngày nắng nhẹ
23 tháng Bảy là tiết nóng oi
7 tháng Tám Lập Thu rồi đó
23 tháng 8 trời đất mưa Ngâu

Qua Xử Thử đến tiết trời Bạch Lộ
Sau Mưa Ngâu đến Nắng nhạt đấy em.
Tiết Thu Phân khoảng 23 tháng 9
Đối lịch nhà nông em nhớ đừng quên.

Tiết Hàn Lộ nghĩa là trời mát mẻ
Kế tiếp theo là Sương Giáng (sương mù)
23 tháng 10 mù sa dày đặc
Thuyền cỏ mượn tên nhớ chuyện Khổng Minh.

Ngày 7 tháng 11 là tiết lập đông
23 tháng 11 là ngày tiểu tuyết
8 tháng 12 là ngày đại tuyết
22 tháng 12 là chính giữa đông.

Khuyên em đừng quên nhất thì nhì thục
Di sản Việt Nam học mãi không cùng
Mình học để làm 24 tiết khí
Mộc mạc hát vần bài học đầu tiên.

Mùa vụ trồng cây, kinh nghiệm nghề nông
Xin em đừng quên điều ông bà dạy
Xuân Hạ Thu Đông hai bốn tiết khí
Khoa học thiên văn ẩn ngữ đời người.

Đất cảm trời thương, lòng người gắn bó
Dẫu khó vạn lần khéo liệu cũng xong
Mùa xuân tới tự tiết xuân sẽ đến
Bởi biết rằng
năm tháng đó là em. https://www.youtube.com/embed/w21hkPfEA2M?version=3&rel=1&showsearch=0&showinfo=1&iv_load_policy=1&fs=1&hl=vi&autohide=2&wmode=transparent

Viên Minh Thích Phổ Tuệ xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress

VGP News Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc viếng Đại lão Hòa thượng Thích Phổ Tuệ

(Chinhphu.vn) – Ngày 22/10, thay mặt lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc đã tới Tổ đình Viên Minh (chùa Ráng), xã Quang Lãng, huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội viếng Đại lão Hòa thượng Thích Phổ Tuệ, Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam.

Theo Báo điện tử Chính phủ Nước Công hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, Ngày 22/10, thay mặt lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc đã tới Tổ đình Viên Minh (chùa Ráng), xã Quang Lãng, huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội viếng Đại lão Hòa thượng Thích Phổ Tuệ, Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam.

Cùng đi có đại diện lãnh đạo Ủy ban Trung ương Mặt Trận Tổ quốc Việt Nam, Ban Dân vận Trung ương, Bộ Nội vụ, Ban Tôn giáo Chính phủ và UBND thành phố Hà Nội. 

Tại lễ viếng, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc đã đặt vòng hoa, thắp hương viếng và tưởng niệm cố Đại lão Hòa thượng Thích Phổ Tuệ. Chủ tịch nước đã ghi sổ tang, bày tỏ niềm tiếc thương: “Đại lão Hòa thượng Thích Phổ Tuệ, Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam, bậc cao tăng, thạch trụ, vị chân tu thanh bạch của Phật giáo thời nay, là biểu tượng của tinh thần đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo. Trên cương vị lãnh đạo cao nhất của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Hòa thượng luôn gương mẫu, chỉ dẫn và định hướng Giáo hội Phật giáo Việt Nam thực hiện tốt phương châm “Đạo pháp – Dân tộc – Chủ nghĩa xã hội”.

Cuộc đời Hòa thượng là minh chứng sinh động cho những giá trị văn hóa, đạo đức của Phật giáo trong đời sống xã hội. Với những cống hiến to lớn cho đất nước, Hòa thượng Thích Phổ Tuệ đã được Nhà nước ghi nhận và trao tặng Huân chương Hồ Chí Minh cùng nhiều phần thưởng cao quý khác”.

Chủ tịch nước cũng bày tỏ thành kính phân ưu và gửi lời chia buồn sâu sắc đến Trung ương Giáo hội, tăng ni, tín đồ Phật giáo Việt Nam ở trong và ngoài nước; mong quý vị tăng ni, tín đồ Phật giáo Việt Nam hãy học gương tu hành cao đẹp của Hòa thượng để cùng nhau xây dựng Giáo hội Phật giáo Việt Nam đoàn kết, vững mạnh, ngày càng đóng góp xứng đáng cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Đại lão Hòa thượng Thích Phổ Tuệ, thế danh là Bùi Văn Quý, sinh năm 1917 tại thôn Phùng Thiện, xã Khánh Tiên, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình, xuất gia năm 1923.

Trải qua 105 năm hiện diện ở cõi Sa Bà, với 85 hạ lạp, Đại lão Hòa thượng Thích Phổ Tuệ đã trọn đời hiến dâng cho lý tưởng hoằng pháp lợi sinh, Ngài đã đảm nhiệm nhiều chức vụ trong các cấp Giáo hội Phật giáo Việt Nam như: Trưởng Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Hà Tây, Viện trưởng Phân viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam tại Hà Nội, Tổng Biên tập tạp chí Nghiên cứu Phật học, Phó Trưởng ban Giáo dục Tăng Ni Trung ương, Phó ban Ban Tăng sự Trung ương, Phó Chủ tịch Hội đồng trị sự, Phó Pháp chủ kiêm Chánh Thư ký Hội đồng Chứng minh Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Tại Đại hội Đại biểu Phật giáo Toàn quốc lần thứ VI (2007), Ngài được suy tôn ngôi vị Pháp chủ Hội đồng Chứng minh Giáo hội Phật giáo Việt Nam, trở thành Pháp chủ thứ ba của Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Từ đó đến nay, trải qua các nhiệm kỳ Đại hội Phật giáo toàn quốc lần thứ VII (2012), VIII (2017) Ngài luôn luôn được Đại hội suy tôn ngôi vị Thiền gia Pháp chủ Hội đồng Chứng minh Giáo hội Phật giáo Việt Nam.

Đại lão Hòa thượng Thích Phổ Tuệ là vị cao tăng uyên thâm Phật pháp, đức trí vẹn toàn, có nhiều đóng góp to lớn, là tấm gương quy tụ tăng ni, phật tử đoàn kết, lãnh đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam vững vàng phương châm “Đạo pháp – Dân tộc – Chủ nghĩa xã hội”, giữ vững truyền thống “Hộ quốc, an dân” của Phật giáo Việt Nam.

Đại lão Hòa thượng đã được Nhà nước trao tặng Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Độc lập hạng Nhì, Huân chương Đại Đoàn kết dân tộc; được tặng thưởng Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ, Bằng khen của Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam, nhiều Bằng Tuyên dương công đức của Giáo hội Phật giáo Việt Nam và nhiều phần thưởng cao quý khác.

Là bậc chân tu nổi tiếng tinh thông kim cổ, trọn đời sống thanh bần, lạc đạo, tụng kinh viết sách, tu tập dưới mái chùa làng khiêm tốn, thanh tịnh, Đại lão Hòa thượng đã tham gia biên soạn, dịch, hiệu đính nhiều tác phẩm về Phật học ở Việt Nam. Ông nhiều năm liền giữ ngôi Đường Chủ của các trường hạ tại Hà Nội, Hưng Yên… cũng như ngôi Hòa thượng đầu đàn trong rất nhiều Đại giới đàn ở các tỉnh.

Do niên cao, lạp trưởng, Đại lão Hòa thượng Thích Phổ Tuệ đã thu thần viên tịch vào lúc 3h22 ngày 21/10/2021 (nhằm ngày 16 tháng 9 năm Tân Sửu), Trụ thế: 105 năm, Hạ lạp: 85 năm; để lại trong lòng môn đô tứ chúng, Tăng Ni Phật tử Việt Nam trong và ngoài nước niềm kính thương vô hạn.

Theo TTXVN

Từ khóa: Chủ tịch nước , Nguyễn Xuân Phúc , Đại lão Hòa thượng Thích Phổ Tuệ , Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam

Ngat huong sen long long bong truc mai

VIÊN MINH THÍCH PHỔ TUỆ xem tiếp tại https://hoangkimlong.wordpress.com/category/vien-minh-thich-pho-tue/

TranHungDao1

ĐỀN TRẦN CHÙA THẮNG NGHIÊM
Hoàng Kim

Thánh Trần chùa Thắng Nghiêm uy nghi, trầm tư, tỉnh lặng, đã khai mở trí huệ  tôi. Chùa Thắng Nghiêm ở 38 thôn Khúc Thuỷ, xã Cự Khê, Thanh Oai, Hà Nội, cách trung tâm Thủ đô khoảng 15 km về phía Nam. Chùa nằm trong quần thể Thánh tích làng Khúc Thủy, một địa phương mang đậm bản sắc văn hoá tâm linh Phật giáo với những danh thắng nổi tiếng như chùa Linh Quang, chùa Thắng Nghiêm, chùa Phúc Khê (tức chùa Dâu); đình, đền, miếu, văn chỉ, nhà thờ dân và nhà thờ các dòng họ lớn trong làng. Chùa là nơi tu hành của nhiều danh Tăng, danh Tướng thời Lý (1009-1225) và thời Trần (1225- 1400) như: Khuông Việt Quốc sư, Vạn Hạnh Quốc sư, Trùng Liên Bảo Tích Quốc sư, Đạo Huyền Quốc sư, Huyền Thông Quốc sư (Linh Thông Hòa thượng Đại vương), Hưng Đạo Đại vương…

Lịch sử chùa Thắng Nghiêm cho hay về thắng tích nơi này “Theo truyền thuyết dân gian, chùa Thắng Nghiêm được xây dựng từ rất sớm trên thế đất “Liên Hoa hàm tiếu”, từ thời kỳ Ngô Sỹ Nhiếp làm Thái thú xứ Giao Châu, năm 187-266 (Phật lịch 731-810), do ngài Tôn giả Bảo Đức (tương truyền là hoá thân của Bồ Tát Văn Thù) từ nước Thiên Trúc sang sáng lập để truyền bá Phật Pháp. Ngài đã cho xây dựng ngôi đại bảo tháp thờ xá lợi Phật (đến nay vẫn còn), nhân dân thường gọi là khu Mả Bụt. Sau thời kỳ ngài Tôn giả Bảo Đức sáng lập, tiếp đến lại có hai vị Tôn giả là Kim Trang và Kim Quốc cũng từ xứ Thiên Trúc sang hoằng truyền Chính Pháp. Hai Ngài đã cho xây dựng thêm chùa Phúc Khê, thường gọi là chùa Dâu. Trong quần thể Thánh địa Khúc Thủy, chùa Linh Quang xưa còn được gọi là chùa Quan, là nơi lễ bái của các quan lại thời phong kiến, được xây dựng trên thế đất “Kim Quy Thần hạ giang ẩm thuỷ” (Thần Kim Quy xuống sông uống nước).

Tương truyền, Đinh Tiên Hoàng đế (Đinh Bộ Lĩnh) trong một lần đi tuần thú đã dừng chân ở Khúc Thuỷ, gặp một thôn nữ xinh đẹp đang kéo hến bên sông, vua đã đưa nàng về cung làm phi tần. Thấy phong cảnh nơi đây hữu tình, thế đất lại có long chầu phượng vũ, lân ly hội tụ, nhà vua bèn cho lập dinh tại đất này và trùng tu lại chùa rồi đặt tên là chùa Pháp Vương, dân gian sau này thường gọi là chùa Bà Chúa Hến; nơi các ngài dừng thuyền được gọi là Bến Rồng hay còn gọi là Bến Ao Thuyền; nơi Ngự giá nghỉ ngơi trước khi vào lễ Phật được gọi là Dinh Vua. Dinh thự của vua chúa phong kiến các đời sau cũng được xây dựng tại đây.

Trải qua bao biến thiên của lịch sử, chùa Thắng Nghiêm đã mang nhiều tên gọi khác nhau như: chùa Bụt, chùa Pháp Vương tức chùa Bà Chúa Hến (thời nhà Đinh), chùa Thắng Nghiêm (thời nhà Lý), chùa Trì Long, chùa Trì Bồng (thời nhà Trần), chùa Liên Trì (thời nhà Lê), chùa Phúc Đống (thời nhà Nguyễn) và danh hiệu Phật Quang Đại Tùng Lâm là tên gọi chung cho cả quần thể Thánh tích. Ngày nay, nhân dân địa phương vẫn thường gọi chung là chùa Khúc Thủy vì chùa nằm trên địa phận thôn Khúc Thủy. Hiện nơi đây vẫn còn lưu giữ được 34 đạo sắc phong của các triều đại phong kiến. Đặc biệt, làng Khúc Thủy đã được vua Giản Định cuối đời Trần gia phong tám chữ vàng “Khúc Thủy nghĩa dân, Mỹ tục khả phong”.

Sau khi lấy được thiên hạ từ tay nhà Tiền Lê, vua Lý Thái Tổ (Lý Công Uẩn) lên ngôi, mở ra triều đại nhà Lý vào tháng 10 âm lịch năm 1009 và quyết định dời đô từ Hoa Lư về thành Đại La. Một lần, Vua ngự thuyền Rồng từ sông Kim Ngưu qua sông Tô Lịch rồi xuôi theo dòng Nhuệ Giang ngoạn cảnh. Chợt trông thấy ngôi cổ tự trang nghiêm tú lệ ẩn hiện ứng với mộng lành năm xưa, Ngài liền cho dừng thuyền vào chùa lễ Phật. Nhìn cảnh trí thơ mộng, thế đất có long chầu phượng vũ, Ngài thốt lên: “Nơi đây thật xứng là một chốn tu hành “trang nghiêm thù thắng”, đúng là bầu trời cảnh Phật vậy”. Nh­à vua liền đặt mỹ hiệu cho vùng đất này là trang Khúc Thủy, huyện Thanh Oai, phủ Ứng Thiên, trấn Nam Thượng và lập làm thang mộc ấp (ấp của vua). Sau này, Ngài thường lui tới lễ Phật, vãn cảnh. Chùa Thắng Nghiêm, trang Khúc Thủy từ đó đã trở thành nơi du ngoạn tâm linh của các bậc vua chúa, quan lại phong kiến.

Theo chính sử, chùa Thắng Nghiêm được xây dựng vào thời vua Lý Thái Tổ (1009-1028). Đại Việt sử ký toàn thư, Kỷ nhà Lý, Niên hiệu Thái Tổ Hoàng đế có đoạn chép: “Năm 1010, mùa thu, tháng 7, vua Lý Thái Tổ từ thành Hoa Lư dời đô ra kinh phủ ở thành Đại La… Lại ở trong thành làm chùa ngự Hưng Thiên và tinh lâu Ngũ Phượng. Ngoài thành về phía Nam dựng chùa Thắng Nghiêm”…
“Mùa đông, tháng 10, xuống chiếu phát trăm lạng bạc trong kho để đúc hai quả chuông treo ở chùa Thắng Nghiêm và tinh lâu Ngũ Phượng. Đắp thành đất ở bốn mặt kinh thành Thăng Long. Đổi phủ Ứng Thiên làm Nam Kinh”.

Niên hiệu Thái Tông Hoàng đế có đoạn chép: “Mùa hạ, tháng 4, ngày mồng 1, vua thân đi đánh giáp Đản Nãi, cho Đông cung thái tử ở lại Kinh sư làm Giám quốc. Khi đánh được giáp Đản Nãi rồi, sai Trung sứ đốc suất người Đản Nãi đào kênh Đản Nãi. Vua từ Đản Nãi trở về Kinh sư. Có dấu người thần hiện ở chùa Thắng Nghiêm”.

Niên hiệu Nhân Tông Hoàng Đế cũng chép: “Tháng 9, ngày Tân Tỵ, mở hội Thiên Phật (Nghìn Phật) để khánh thành chùa Thắng Nghiêm Thánh Thọ, cho sứ Chiêm Thành đến xem”.

Trong Việt sử cương mục tiết yếu của Thiện Đình Đặng Xuân Bảng, phần Kỷ nhà Lý, Thái Tổ Hoàng đế cũng có đoạn chép: “Năm 1010, vua cho phát hai vạn quan tiền, dựng tám ngôi chùa và lập bia để ghi công đức. Lại xây chùa Hưng Thiên, cung Đại Thanh, chùa Vạn Tuế ở nội thành Thăng Long. Ngoại thành dựng bảy ngôi chùa là Thắng Nghiêm, Thiên Vương, Cẩm Y, Long Hưng, Thiên Thọ, Thiên Quang, Thiên Đức, chùa quán ở các hương ấp nếu bị hỏng thì cho sửa lại.”

Đại Việt sử ký toàn thư chép: Trần Liễu thời Lý được phong làm Phụng Càn vương. Năm 1228, vua Trần Thái Tông (Trần Cảnh) phong Liễu làm Thái úy. Đến năm 1234, Thái thượng hoàng Trần Thừa băng hà, Trần Liễu lên làm Phụ Chính vương (sách sử còn gọi là Hiển Hoàng).

Năm 1236, Trần Liễu phạm cung cấm bị giáng xuống làm Hoài vương. Năm 1237, Trần Thủ Độ ép vua Trần Cảnh lấy Thuận Thiên (là vợ Trần Liễu đang có mang 3 tháng, vì vợ vua Trần Cảnh là Lý Chiêu Hoàng chưa có con). Mất vợ, Trần Liễu nổi loạn. Do sợ bị diệt vong, Trần Liễu sai em gái là Thụy Bà Công chúa (hay còn gọi là Đoan Bà) đưa con trai là Trần Quốc Tuấn đi lánh nạn. Đoan Bà cùng gia nhân giả làm thương gia đưa Trần Quốc Tuấn đến chùa Trì Long, thuộc trang Khúc Thủy, huyện Thanh Oai, phủ Ứng Thiên, trấn Nam Thượng. Khi đó, chùa Thắng Nghiêm do Thiền sư họ Lý, pháp hiệu Đạo Huyền trụ trì. Ông là vị danh Tăng tinh thông Tam tạng, Giới đức trang nghiêm, uy tín bậc nhất thời đó. Đoan Bà giao Trần Quốc Tuấn, khi đó khoảng 7 tuổi, cho Thiền sư Đạo Huyền nuôi dưỡng. Thiền sư nhìn Trần Quốc Tuấn mỉm cười mà nói rằng: “Thật đúng là duyên mệnh Phật Trời đã định sẵn”. Từ đó, ngày qua tháng lại, Thiền sư Đạo Huyền truyền dạy cho Trần Quốc Tuấn Tam tạng Thánh điển, pháp thuật bí truyền. Với trí tuệ siêu phàm, chẳng bao lâu Quốc Tuấn đã tinh thông giáo pháp, văn võ kỳ tài không ai sánh kịp.

Lại nói, sau khi Trần Liễu nổi loạn bị giáng xuống làm Hoài vương, vua Trần Thái Tông không những tha không giết mà còn phong vương, cấp cho đất Yên Phụ, Yên Dưỡng, Yên Sinh, Yên Hưng, Yên Bang (nay thuộc Đông Triều, Quảng Ninh) để Trần Liễu về trấn giữ và phong tước hiệu qua các thời kỳ là Hiển Hoàng, Hoài vương, An Sinh vương. Nội cung yên ổn, Trần Liễu cùng đoàn tùy tùng tới trang Khúc Thủy, chùa Trì Long cảm tạ ơn dưỡng dục và thỉnh Thiền sư cùng đón Trần Quốc Tuấn hồi cung, năm đó Quốc Tuấn tròn 21 tuổi.

Sau khi hồi cung, Trần Quốc Tuấn được mời vào nội điện ra mắt vua Trần Thái Tông. Vua nhận thấy Quốc Tuấn tướng mạo phi phàm, tài trí vẹn toàn, thật xứng danh là bậc kỳ tài trong thiên hạ, bèn phong làm tướng trấn giữ biên ải phương Bắc.

Năm Mậu Ngọ (1258), quân Nguyên-Mông đem hơn 30 vạn quân tiến qua biên ải, Trần Quốc Tuấn được phong Tiết chế kiêm Tả hữu
thủy lục tướng quân, chỉ huy quân đội đánh giặc. Ngày 12 tháng 3 năm đó (1258), Trần Quốc Tuấn dẫn quân về Khúc Thủy, Khê Tang thành lập tinh binh trên dòng Nhuệ giang, chiêu hiền giúp nước. Khúc Thủy tuyển được 370 người, Khê Tang tuyển được 271 người ra nhập đội quân tinh nhuệ. Trần Quốc Tuấn đem 16 vạn tinh binh đóng đồn từ Tam Đái đến cửa sông Vọng Đức, Bạch Đằng, Lục Đầu Giang để đánh đuổi quân xâm lược. Sau khi thắng trận trở về, nhân dân ca khúc khải hoàn, Vua xuống chiếu sắc phong Ngài là Hưng Đạo Đại vương.

Hưng Đạo Đại vương ban thưởng cho Khúc Thủy, Khê Tang 100 lượng vàng và đích thân đứng ra tu sửa chùa Trì Long.

Năm 1284, vua Nguyên lại sai Thái tử Trấn Nam vương Thành Hoan (chính sử ghi là Thoát Hoan) đem trăm vạn tinh binh một lần nữa xâm lược nước ta. Với tài thao lược binh cơ, Hưng Đạo Đại vương thống lĩnh ba quân, lĩnh mệnh chinh Nguyên, tiến hành thủy chiến trên sông Bạch Đằng, lập chiến công vô cùng hiển hách.

Ngay sau khi bại trận về nước, năm 1285, quân Nguyên chỉnh đốn quân ngũ, bổ sung lực lượng, đóng tàu chiến, huy động lương thảo để trở lại đánh Đại Việt lần thứ ba. Cuộc chiến lần này kéo dài khoảng gần 4 tháng, từ cuối tháng 12 năm 1287 đến cuối tháng 4 năm 1288. Cũng giống như hai lần trước, chúng đã bị quân dân Đại Việt đánh cho tan tác và từ đó không dám gây chiến với Đại Việt nữa.

Đất nước thanh bình thịnh trị, Hưng Đạo Đại vương trở về thăm lại chùa xưa. Năm 79 tuổi, Ngài xin về Vạn Kiếp an dưỡng tuổi già. Năm 82 tuổi, ngày 10 tháng 8 mùa thu, Ngài lâm bệnh, thị tịch ngày 20 tháng 8, giờ Ngọ. Vua phong cho Ngài mỹ hiệu “Quốc lão Hiển tướng Đại vương”, cho Khúc Thủy, Khê Tang làm “Hộ Nhi hương”, thờ Quốc Tuấn Đại vương làm Thượng Đẳng thần, cử trọng thần xuân thu nhị kỳ về tế lễ.

Đình Khúc Thủy được xây dựng từ đây trên thế đất “Thần Ly chầu ngọc”, cũng là nơi thờ phụng Nhị vị Đức Thánh Trần (Hưng Đạo Đại vương và Linh Thông Hoà thượng Đại vương).

Ngược dòng thời gian, sau khi Thiền sư Đạo Huyền cùng Trần Quốc Tuấn về triều yết kiến Thái Tông Hoàng đế, Đạo Huyền được phong làm Quốc sư, phò Vua, giúp nước. Từ đây, trong Thiền phả không thấy nhắc đến các sư kế đăng trụ trì, mãi đến đời thứ 11 nhà Trần (vua Thuận Tông, húy Ngung, con trai út vua Nghệ Tông), mới có Linh Thông Hòa thượng Đại vương về trang Khúc Thủy thắp sáng ngọn đèn thiền.

Thiền phả chép: “Linh Thông Hòa thượng Đại vương thuộc thời Trần, xét xưa kia nước ta mở vận hơn hai nghìn năm lấy hiệu là Hùng Vương, trải qua các triều Đinh, Lê, Lý, Trần đều có các minh quân (vua sáng) trị vì đất nước”. Khi ấy, ở trại Tức Mặc, huyện Mỹ Lộc, phủ Thiên Trường, xứ Nam Định, có gia đình họ Trần đời đời làm quan tướng trong triều. Nhà Lý trải qua tám đời vua, vận nước cáo chung mới có nữ quân là Chiêu Hoàng lên ngôi. Trần Thủ Độ làm quan trọng thần trong triều, đưa cháu ruột là Trần Cảnh vào cung, ép gả Chiêu Hoàng. Việc nhà Trần kế nghiệp đế vương nhà Lý mà không hề có nghiệp chiến tranh, đó há chẳng phải là trời đất giao hòa sao!

Đời sau Lê Tiên sinh thơ rằng:
Nhất sắc khuynh thành khởi chiến tranh,
Kỵ long đằng vị tự nhiên thành.
Giai do thiên mệnh nhân tâm thuận,
Bách quỹ đồng quy hướng đức danh.

Dịch thơ:
Sắc đẹp khuynh thành chẳng chiến tranh,
Cưỡi rồng giữ vị tự nhiên thành.
Đều do trời đất lòng người thuận,
Trăm mối về cùng tỏ đức danh.

Nhà Trần trải qua các đời vua Thái Tông, Thánh Tông, Nhân Tông, Minh Tông, Anh Tông, Hiển Tông, Dụ Tông, Nghệ Tông, Phế Đế rồi truyền đến vua Thuận Tông. Nhà vua tính tình nhu thuận từ hòa nên đã bị Hồ Quí Ly âm mưu thoán đoạt, tất cả đều do đạo trời xui khiến, không phải là do đức ngu tối của vua Trần vậy.

Khi ấy, ở trại Hà Lãng, huyện Vĩnh Ninh (nay thuộc Vĩnh Lộc, phủ Thiệu Hóa, Thanh Hóa) có người họ Trần, húy Chân (Trần Khát Chân), phu nhân họ Đặng, húy An, người phường Vạn Ninh. Trần công làm tướng phò giúp vua Anh Tông (ba đời làm tướng nhà Trần), lúc đó đã 40 tuổi, phu nhân 39 tuổi vẫn chưa có điềm lành, hòe quế chi lan đều do thứ phi sớm ứng.


Đất Vĩnh Ninh có chùa Hoàng Long rất linh ứng, quan dân hương đèn cầu đảo không dứt, cảnh đẹp sánh tựa bồng lai, phong quang như vườn lộc uyển, thực là thắng cảnh của Thiền gia vậy. Năm ấy, nhân ngày hội, phu nhân trai giới đến chùa mật đảo, nguyện sớm được ban điềm lành. Ba ngày sau mộng ứng, trong giấc mơ thấy mình ngoạn du đến chùa Thiên Thai, gặp một lão tăng mặc áo xanh sẫm, đội mũ Thất Phật, chống gậy tùng, tay cầm bông sen, đi trước sân chùa ngâm rằng:


Nhất thành khả cách đạt từ nhan,
Kim hữu thành tùng Thứu Lĩnh san.
Phu phụ Trần gia giai phúc hậu,
Từ tâm nhất hứa trượng phu hoàn.


Dịch thơ:

Lòng thành thấu đến bậc từ nhân,
Nay có cây tùng trên Thứu Lĩnh.
Phúc hậu ban cho nhà họ Trần,
Lòng từ sớm ứng sinh trai giỏi.


Phu nhân ngắm xem, bỗng thấy cây tùng biến thành rồng xanh bay vào trong miệng. Tỉnh giấc, bà kể lại cho Trần công nghe. Trần công vui mừng nói: “Nhà ta kiếp trước chuyên tâm làm điều phúc thiện, nay trời giáng điềm lành, ắt có tài hoa kế thế, tuấn kiệt ra đời, đây chẳng phải là giấc mộng tầm thường”. Sau, quả nhiên phu nhân có mang. Vào giờ mão ngày 15 tháng giêng, bà sinh hạ một công tử mặt phượng, mắt rồng, hàm én, mày ngài, thể mạo khôi kỳ khác hẳn người thường; trong khi sinh nở điềm lành xuất hiện: hương thơm ngào ngạt, thụy khí lan tỏa khắp phòng. Ông bà đặt tên con là Trần Thông. Trần Thông từ nhỏ đã tỏ ra thông minh, dĩnh ngộ, 7 tuổi theo học với quan Đại học trong nội các, thân thiết với Thái tử như anh em ruột.


Khi Trần Thông 15 tuổi, vua Thuận Tông nhường ngôi cho Thái tử hiệu là Hiếu Đế và phong Ngài làm trưởng Ấu Sử trong nội các, kiêm quản quân nội thị vệ. Khi ấy, Hồ Quí Ly và Hồ Hán Thương bức Vua phải thoái vị và xuất gia tại chùa Ngọc Thanh, thôn Đạm Thủy. Đất nước đại loạn, Hồ Quí Ly đã giết chết Trần Khát Chân. Tình thế bất an khiến Trần Thông phải dời đến núi Yên Tử, tự nguyện xuất gia tu hành cùng các thiền tăng. Ở đó có người họ Trần tu tập, tên gọi Trần Huyền. Trần Thông tu tại chùa Vân Tiêu được 7 năm thì Hồ Quí Ly biết tin liền cho quan đại thần mời về triều phục chức giúp nhà Hồ, nhưng Ngài không chịu. Nhà Hồ tìm cách sát hại, nhờ có người mật báo, Ngài dời chùa Vân Tiêu tới trang Khúc Thủy, huyện Thanh Oai, phủ Ứng Thiên, trấn Nam Thượng. Lúc Ngài ngồi nghỉ chân bên một thảo am ven đường, có người dân trang Khúc Thủy, họ Nguyễn húy Hành, sùng kính đạo Phật, đến đỉnh lễ thưa rằng: “Ngài từ đâu đến và đi về đâu?”


Thiền sư mỉm cười đáp: “Ta vốn chẳng sinh ra từ đâu, thì cũng chẳng có đâu để về, Thứu Lĩnh, Tùng Lâm bao trùm khắp cả mười phương, ba cõi, đều là nơi ta đã ngao du, nào biết nơi đâu đáng để dừng. Vậy ta nhàn du đến đây, ngắm xem phong cảnh, tìm hiểu nhân gian họa phúc để mà cứu giúp”.
Nguyễn công nghe nói vô cùng kính ngưỡng, liền cùng nhân dân Khúc Thủy thỉnh thiền sư về trụ trì chùa. Ngày 12 tháng một, Ngài bắt đầu khai tràng thuyết pháp, rao giảng Tam tạng Thánh điển, tiếp độ tăng, ni. Nhân dân, Phật tử kính ngưỡng Ngài như Phật tái thế. Ngài trụ trì được 5 năm, một hôm, trong khi đang tọa thiền dưới án Phật đường, Ngài thấy Quốc lão Hưng Đạo Đại vương đi đến ngồi trước nơi Ngài thiền định, ngâm rằng:

Cấp báo chi cấp báo chi,
Hồ binh lai nhập đáo thiền vi.
Cấp cấp xu hồi Khê Tang địa,
Huynh đệ đồng tâm cự tế chi.


Dịch thơ:

Kíp báo ngay kíp báo ngay,
Ngày mai giặc Hồ vây chùa này.
Mau mau trở lại Khê Tang nhé,
Huynh đệ đồng tâm chống giặc đây.


Canh ba hôm ấy, nghe tiếng hô hoán quanh chùa, Ngài sai tiểu tăng lên gác chuông quan sát thì đã thấy binh lính nhà Hồ vây kín cả bốn xung quanh. Ngài liền dùng tích trượng phá vòng vây, thẳng tiến tới chỗ giáp ranh giữa Khúc Thủy và Khê Tang thì thấy một gò cao, cây cối um tùm, Ngài liền ẩn mình vào đó. Bỗng một dải mây ngũ sắc sáng rực từ trong gò bay lên, phủ kín quanh gò, rồi cuồn cuộn bay thẳng lên không trung. Trong giây lát, trời đất tối tăm, sấm chớp ầm ầm, mưa to gió lớn, cây cối gãy đổ, bụi bay mù mịt, binh lính nhà Hồ sợ hãi bỏ chạy tán loạn. Khi đó, Thiền sư đã ung dung tự tại thiền định trên Tam quan chùa Khê Tang. Ngay đêm hôm ấy, Quốc lão mộng báo cho dân chúng Khê Tang thấy Ngài ngồi đàm đạo cùng một vị Thiền sư, đứng hầu xung quanh có khoảng hơn 500 người. Quốc lão gọi nhân dân đến bảo: “Ta có bạn quí tới chơi đã được năm ngày, mà sao các người không ra nghênh đón?”. Sáng hôm sau, nhân dân không ai bảo ai đều tập trung tại Tam quan chùa, quả nhiên thấy một vị Thiền tăng đang ngồi tĩnh tọa như trong giấc mộng vậy. Nhân dân liền thỉnh Ngài về chùa, cung kính lễ bái cúng dàng và xin làm đệ tử.

Nhân dân Khúc Thủy gặp phải dịch nạn, chiều chiều thường nghe trong chùa văng vẳng tiếng nói vọng ra: “Chủ ta vì nạn mà dời đi nơi khác ở, chỉ có binh lính và Long Thần giữ chùa, được thể ôn thần, quỉ quái thừa cơ làm loạn, quấy nhiễu dân lành, biết tìm ai cứu giúp bây giờ!”. Nhân dân nghe thấy lấy làm lạ, cùng nhau sang Khê Tang thỉnh Ngài Trần Thông trở lại chùa làng, mọi chuyện lại được yên ổn, bình an như cũ.

Thời gian đó, con thứ vua Nghệ Tông là Giản Định khởi nghĩa diệt Hồ, đánh đuổi giặc Minh, khôi phục lại cơ nghiệp nhà Trần, chấn hưng thiên hạ. Giản Định đế biết Thiền sư là cựu trung thần của triều đình, nên ban chiếu mời về giúp nước. Nhận lệnh vua ban, Ngài đã ưng thuận xếp cà sa, khoác chiến bào, một lần nữa cầm quân ra trận. Ngày 11 tháng 5, Ngài triệu tập dân làng Khúc Thủy, Khê Tang, tuyển được 500 dân binh tình nguyện lên đường. Ngày 12 tháng 2 khao thưởng binh lính, lập đàn cầu đảo Quốc thái dân an. Yến tiệc đến ngày 2 tháng 6, Ngài tấn kiến vua Giản Định. Vua liền phong Ngài làm Đốc lãnh binh, Giới trưởng Quân vệ tả hữu dẹp loạn nhà Hồ rồi tiến thẳng lên phương Bắc đánh đuổi giặc Minh, trấn an bờ cõi, giữ vững chủ quyền. Nhân dân an cư lạc nghiệp, ca khúc khải hoàn. Vua Giản Định phong Ngài làm phó tướng, kiêm Quân vệ thủy bộ, nhưng Ngài đã khước từ, xin vua cho phép trở về chùa xưa tiếp tục tu hành, giáo hóa chúng sinh, xiển dương ngôi Tam Bảo. Nhà vua ưng thuận và ban sắc phong cho Ngài là Linh Thông Hòa thượng Đại vương, lại ban mũ áo, vàng bạc tu bổ chùa chiền, cho Khúc Thủy làm thang mộc ấp. Ngài cảm tạ ơn vua rồi lên đường trở về chùa Khúc Thủy.

Ngày mồng 10 tháng 9, Ngài mở tiệc khao thưởng úy lạo tướng sỹ. Ngày 12 tháng 9, nhân dân Khúc Thủy, Khê Tang làm lễ chúc mừng. Trong lúc yến ẩm, Ngài nói với phụ lão, nhân dân rằng: “Ta cùng các ngươi tình nghĩa sư đồ sâu nặng, không chỉ một ngày, sư đệ chi tình, ngàn vạn năm duyên đó khó có thể phai mờ. Sau này hãy lập miếu để thờ nơi ta lánh nạn nhà Hồ, bởi nhờ thần lực của Phật Tổ ta mới thoát được kiếp nạn. Hai ngôi Phạm Vũ Linh Quang, Trì Long nơi ta tu hành các ngươi phải thường xuyên tu sửa, giữ gìn phụng sự Phật Tổ cho chu đáo. Nơi trước khi ta tới đây dừng chân ngồi nghỉ, hãy lập nhà hội họp, tế lễ, chớ có quên lời”.

Song việc, Ngài giao lại chùa cho các đệ tử trông nom, rồi đem theo một số đệ tử khác ra đi hoằng dương Phật pháp, giáo hóa chúng sinh. Ngài dạo khắp cả Thiền Môn, Tùng Lâm, Thứu Lĩnh, khai sáng ra mười chín ngôi Phạm Vũ ở khắp mọi miền và tiếp độ được mười bốn vị danh tăng thời đó. Một hôm, Thiền sư bảo môn đệ: “Nay ta muốn đến núi Đốn Sơn (Đún Sơn) để thăm viếng phần mộ của Tiên công” (Trần Khát Chân bị Hồ Quí Ly giết hại, mộ táng tại nơi này, được nhân dân lập đền phụng thờ). Đến nơi, Ngài cảm xúc làm thơ rằng:

Nhất bả cương thường trọng thử thân,

Tuyết thù dĩ đắc báo quân thân.
Đốn Sơn, Khúc Thủy lưu thiên cổ,
Hiếu tử trung thần biểu thế nhân.


Dịch thơ:

Một mối cương thường trọng thân này,
Thù nhà nợ nước báo đền ngay.
Đốn Sơn, Khúc Thủy còn giữ mãi,
Tôi trung con hiếu gương sáng thay.


Ngâm xong, bỗng thấy một dải mây ngũ sắc từ trong đền bay thẳng lên không trung, trong khoảnh khắc, trời đất tối đen, mưa to, gió lớn, sấm chớp nổi ầm ầm và Thiền sư biến mất. Hôm ấy là ngày 15 tháng 2. Các đệ tử rất đỗi kinh ngạc, vô cùng kính ngưỡng, than khóc thảm sầu, cùng nhau vào đền thì thấy Ngài đã hiển Thánh, chỉ để lại chiếc mũ Thất Phật và cây thiền trượng. Các đệ tử của Ngài và nhân dân Khúc Thủy rước mũ và thiền trượng về chùa phụng thờ và đặt Thánh hiệu. Sau khi xong việc, họ dâng sớ tấu Vua việc hy hữu
này. Vua khen ngợi Ngài là trung nghĩa lương thần và sắc phong mỹ tự, lại truyền cho dân đón rước sắc chỉ mũ áo, ban vàng bạc tu sửa chùa, đình, miếu để sớm tối phụng thờ, phong Khúc Thủy là ấp hộ nhi thang mộc muôn đời huyết thực hương hỏa vô cùng, còn mãi cùng trời đất và ban cho tám chữ vàng “Khúc Thủy nghĩa dân, Mỹ tục khả phong”!

Nhà Trần diệt vong, có người họ Lê, húy Lợi, quê ở sách Lam Sơn, huyện Lương Giang, phủ Thuận Thiên, đất Ái Châu nổi dậy khởi nghĩa, đem ba quân trừ bỏ nhà Hồ, bình định giặc Minh. Khi ấy, Lê Khả (tướng của Lê Lợi) đến chùa Khúc Thủy, đền Khê Tang mật đảo. Sau khi lên ngôi, Lê Lợi (Lê Thái Tổ) đã ban cho chùa mỹ tự: “Vạn Cổ Phúc Thần” (Sáng mãi cùng Nhật Nguyệt), phong Ngài Trần Thông là Linh Thông Phổ Tế Đại vương, cho hai làng Khúc Thủy, Khê Tang cùng phụng thờ.

Vào thời vua Lê Chiêu Tông, nhà Mạc nổi lên cướp ngôi. Đến đời vua Trang Tông, Thái úy Nguyễn công (tự Tích Trung, người Trang Gia Miêu Ngoại, huyện Tống Sơn) khởi binh diệt Mạc, đến chùa Khúc Thủy mật đảo, cầu xin Thiền sư giúp nước. Sau khi lên ngôi, Trang Tông đã gia phong Ngài mỹ tự Huệ Dân. Có thơ vịnh rằng:


Sinh vi Tướng giả, tử vi Tăng,
Vạn cổ trường lưu tại xã dân.
Khúc Thủy, Khê Tang tồn tích tại,
Thiên xuân Miếu Vũ thử trung thần.


Dịch thơ:

Sống là Tướng giỏi, hóa Thánh Tăng,
Muôn thủa tiếng thơm để lại dân.
Khúc Thủy, Khê Tang còn dấu tích,
Nghìn năm Chùa Miếu rạng trung thần.


Ngày sinh, ngày hóa cùng các tiết lễ chính hội, tên húy, tên tự, sắc phong của Thiền sư Trần Thông được ghi trong chính bản. Ngày 15 tháng 5 năm Hồng Phúc 1 (1572), Hàn lâm viện Đông Các học sỹ thần Nguyễn Bính vâng soạn. Quản Giám Bách Thần Chi Điện Thiếu Khanh vâng theo bản cũ tiền Triều viết lại. Ngày 6 tháng 12 năm Tự Đức 3 (1850), các viên chức xã Khúc Thủy kính cẩn sao lục theo chính bản. Ngày 10 tháng 10 năm Thành Thái 1 (1889) các viên chức xã Khúc Thủy cẩn đằng tả theo chính bản. Sau khi Thánh Tổ viên tịch, chùa được tiếp tục truyền nối bởi các bậc Thánh Tổ sư là đệ tử của ngài trong các triều đại phong kiến thời đó và sau này.


Vào cuối thế kỷ XIX đầu XX, thừa lệnh các vua nhà Nguyễn, cha con Tổng đốc Trấn thủ Hà Đông là Hoàng Cao Khải và Hoàng Trọng Phu lại tiếp tục cho đại trùng tu quần thể thánh tích Phật Quang Đại Tùng Lâm một lần nữa. Nhưng than ôi! Dòng thời gian cứ biến đổi vô thường, vận đất nước thịnh suy theo năm tháng, quần thể Thánh tích Khúc Thủy vang tiếng một thời bỗng phút chốc biến thành phế tích của các cuộc chiến tranh tàn khốc.


Tới năm Tân Sửu (1901), đời Thành Thái 13, tháng 5, mùa hạ, toàn thể nhân dân xã Khúc Thủy thành tâm cùng sư trụ trì chùa Linh Quang ra chùa Chân Tiên (Hà Thành) yết kiến Sư tổ Thanh Toàn tự Mẫn Chân. Sư tổ Sơn Hà Thanh Cốc cùng tông phái của Sư tổ Thanh Sùng đưa cụ Thanh Sùng về chùa Phúc Đống nhập tự trụ trì. Khi ấy, trong xã có ông Lưu Hiên làm quan tỉnh xin phép được trùng tu ngôi Tam Bảo. Sư tổ Thanh Sùng trụ trì 24 năm rồi trở về chùa Chân Tiên duy trì mạng mạch chốn Tổ, giao lại chùa Phúc Đống cho đệ tử là Sư tổ Thanh Thứ. Tổ Thanh Thứ có hai đệ tử Thanh Thịnh, Thanh Nhạc. Thanh Thịnh sau đi trụ trì cảnh riêng, Thanh Nhạc ở lại hầu thầy.


Năm 1947, giặc Pháp chiếm đóng vùng này, lập đồn bốt tại chùa Linh Quang (chùa trên) khiến dân chúng ly loạn, thầy trò Sư tổ Thanh Thứ mạng vong, nhân dân đưa đi an táng sau chùa. Sau chiến tranh, không còn ai nhớ được mộ phần cũng như ngày mất của thầy trò Tổ Thanh Thứ. Mãi đến năm 2011, do một đại nhân duyên hy hữu, Đại đức Thích Minh Thanh đã tìm thấy được nơi an táng cũng như ngày huý kỵ của thầy trò Tổ. Kể từ đó, xá lợi của thầy trò Tổ Thanh Thứ được rước về chùa Thắng Nghiêm để nhập tháp và cúng giỗ.


Năm 1948, được sự chỉ đạo của Đảng và Hồ Chủ tịch, Việt Minh về xây dựng căn cứ địa tại Khúc Thủy, lấy chùa Phúc Đống (chùa dưới) làm cơ sở kháng chiến, cử ông Nguyễn Văn Quyết (biệt danh Sư Đê) về trụ trì chùa để củng cố và xây dựng lực lượng chống thực dân Pháp. Từ năm 1949 đến năm 1954, Hồ Chủ tịch giao trọng trách cho Đại tướng Văn Tiến Dũng về chỉ huy căn cứ địa Khúc Thủy, Cự Đà. Đại tướng đã khoác cà sa làm sư để hoạt động cùng Sư Đê tại chùa Phúc Đống. Khi đó, toàn bộ tài sản, đồ thờ cúng của chùa đều được đưa ra phục vụ kháng chiến. Chín gian nhà thờ Tổ được dùng làm trường học cho trẻ em sơ tán, còn hai dãy nhà ngang, nhà bia, gác chuông, gác trống đều bị thực dân Pháp bắn phá.


Hưởng ứng lời kêu gọi “Toàn quốc kháng chiến” của Hồ Chủ tịch, sau 9 năm gian khổ trường kỳ, giặc Pháp đã phải đầu hàng vô điều kiện và rút khỏi Việt Nam. Nhưng sau đó, đế quốc Mỹ được sự tiếp tay chính quyền Ngô Đình Diệm lại tràn vào xâm lược nước ta, chúng ném bom đánh phá miền Bắc, gây bao cảnh tang thương điêu tàn cho dân chúng, ai oán ngút trời. Hồ Chủ tịch lại ra lời kêu gọi “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”, toàn dân tộc nhất tề hưởng ứng đứng lên chống giặc ngoại xâm.


Theo sự chỉ đạo của Đảng, ông Nguyễn Văn Quyết (Sư Đê) rời chùa Khúc Thủy đi theo kháng chiến. Năm 1953, Ni sư Đàm Nhân về đèn hương sớm tối trông nom chốn Tổ. Năm 1969, Ni sư Đàm Nhân viên tịch.

Trong suốt hai cuộc kháng chiến chống thực dân, đế quốc, chùa Khúc Thủy luôn có các hoạt động gắn liền với sự tồn vong của đất nước. Chinh chiến loạn lạc cộng với ảnh hưởng của hai thời kỳ pháp nạn khiến cho kiến trúc, di vật, tư liệu của chùa bị tàn phá và thất lạc trong dân gian. Hòa bình lập lại, Khúc Thủy chỉ còn lại hai ngôi Tam Bảo là chùa Linh Quang (chùa trên) và chùa Phúc Đống (chùa dưới) song đã xuống cấp nghiêm trọng.


Năm 1956, sau cải cách ruộng đất, hàng trăm bia ký của hai chùa, đình, miếu và Dinh Vua bị tàn phá, bia rùa mang ra làm công cụ đập lúa, sau đó bị phá bỏ, vứt xuống dòng Nhuệ Giang và các ao hồ. Vào những năm 80 của thế kỷ XX, một pho tượng Phật A Di Đà tạc bằng gỗ mít cao 5m từ thời Lý đã bị phá hủy và đem đốt, giờ chỉ còn duy nhất một góc hậu cung phía tây chùa xây bằng đá ong là di tích có từ thời Lý, chuông Thắng Nghiêm giờ đây cũng không còn cất tiếng.


Năm Quí Sửu (1973), Ni sư Đàm Thủy (Sư Cụ Bé) về chùa đèn hương phụng sự chốn Tổ (đến năm Tân Mùi 2003 thì Ni sư viên tịch). Năm Ất Hợi (1995), do tuổi cao sức yếu không thể gánh vác công việc Phật sự, Ni sư Đàm Thủy cùng nhân dân, chính quyền các cấp và Hòa thượng Thích Quảng Lợi, Trưởng ban Đại diện Phật giáo huyện Thanh Oai, vào chùa Hương Tích cúng chùa Khúc Thủy cho Hòa thượng Thích Viên Thành, Viện chủ Tổ đình Hương Tích đời thứ 11. Năm Đinh Sửu (1997), tháng 2 ngày 2, Hòa thượng Thích Viên Thành cử đệ tử là Đại đức Thích Minh Thanh về đây tiếp nối ngọn đèn thiền. Kể từ đó tới nay, công việc trùng hưng ngôi Phạm Vũ đã và đang được tiến hành nhằm khôi phục, bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá tâm linh, nghệ thuật kiến trúc Phật giáo cũng như truyền thống của dân tộc.

*
Nhờ sức mạnh tâm linh của Phật tổ và hồn thiêng sông núi đất Việt, làng Khúc Thủy – chùa Thắng Nghiêm vẫn trường tồn qua bao thăng trầm, biến thiên của lịch sử. Trải dài theo các triều đại phong kiến, trang Khúc Thủy đều được phong mỹ hiệu và lập làm thang mộc ấp, trên dưới cho xây cổng làng, cứ đến 7 giờ tối là đóng và có lính triều đình canh gác. Dân Khúc Thủy không phải chịu sưu thuế, nghề chủ yếu là tằm tang canh cửi và chế biến các món ăn thơm ngon, tinh khiết để tiến cung dâng Vua. Tự hào về mảnh đất quê hương linh thiêng và giàu truyền thống, người xưa đã có thơ rằng:”Làng ta bé nhỏ xinh xinh Nơi ăn chốn ở là dinh toàn quyền”.

TranHungDao2
TranHungDao3

Đền Trần chùa Thắng Nghiêmhttps://hoangkimlong.wordpress.com/category/den-tran-chua-thang-nghiem/

PHÚ TUỆ DUYÊN GẶP THẦY
Hoàng Kim

Lên Việt Bắc điểm hẹn
Nhớ ải Lạng Chi Lăng
Người vịn trời chấp sói
Bên suối một nhành mai

Người lính già thời Bác
Về Việt Bắc nhớ Người
Nhớ Viên Minh Hoa Lúa
Mai Hạc vầng trăng soi

Viên Minh Thích Phổ Tuệ
Tuệ Giác và Tâm Đức
Nghiên cứu Kinh Dược Sư
Hoa Đất thương lời hiền

Phú Tuệ duyên gặp Thầy

xem 13 đường dẫn tại https://hoangkimlong.wordpress.com/category/phu-tue-duyen-gap-thay

Nguồn: Ngày xuân đọc Trạng Trìnhhttps://hoangkimlong.wordpress.com/category/ngay-xuan-doc-trang-trinh/

PHÚ YÊN BẢO TỒN VÀ PHÁT TRIỂN SẮN BỀN VỮNG
Nguyễn Thị Trúc Mai, Hoàng Kim, Hoàng Long và đồng sự

Tóm tắt: Báo cáo này đề cập ba nội dung: 1) Những vấn đề cần chú ý trong sản xuất sắn hiện nay để nâng cao giá trị và sức cạnh tranh cây sắn; 2) Thành tựu và bài học sắn Việt Nam (2016-2021) trước và trong dịch bệnh sắn CMD và CWBD ; 3) Phú Yên bảo tồn và phát triển sắn bền vững

1) Giống sắn KM419 và KM440 ở Việt Nam hiện nay là phổ biến nhất, sau cả áp lực nặng của bệnh khảm lá CMD và bệnh chổi rồng CWBD. https://youtu.be/XDM6i8vLHcIhttps://youtu.be/kjWwyW0hkbU . Chúng tôi khuyên nông dân trồng các loại giống sạch bệnh KM419, KM440, KM140, KM98-1, KM568, KM535, KK537, HN5, HLS14 KM94 (đ/c), khảo nghiệm DUS và VCU. Sắn Việt Nam bảo tồn và phát triển bền vững (Hình 1); xem tiếp   https://hoangkimlong.wordpress.com/category/chon-giong-san-khang-cmd/  [11]

2) Mười kỹ thuật thâm canh sắn được đúc kết thành quy trình canh tác thích hợp, hiệu quả đối với điều kiện sinh thái của địa phương (Hình 2) là giải pháp tổng hợp để nâng cao giá trị và sức cạnh tranh cây sắn. Mười kỹ thuật này bao gồm: 1) Sử dụng hom giống sắn tốt nhất của giống sắn thích hợp nhất; 2) Thời gian trồng tốt nhất và thời điểm thu hoạch tối ưu để đạt năng suất tinh bột tối đa và hiệu quả kinh tế; 3) Bón phân NPK kết hợp phân hữu cơ vi sinh và phân chuồng để cải thiện độ phì đất và tăng năng suất; 4) Khoảng cách trồng tối ưu cho giống sắn tốt nhất và thích hợp loại đất; 5) Ngăn chặn sâu bệnh hại bằng phòng trừ tổng hợp IPM; 6) Trồng xen sắn với lạc, cây họ đậu; trồng băng cây đậu phủ đất, luân canh thích hợp nhất tại địa phương; 7) Dùng thuốc diệt cỏ, tấm phủ đất để kiểm soát cỏ dại kết hợp bón thúc sớm và chuyển vụ; 8) Kỹ thuật làm đất trồng sắn thích hợp để kiểm soát xói mòn đất; 9) Phát triển hệ thống quản lý nước cho canh tác sắn; 10) Đào tạo huấn luyện bảo tồn phát triển sắn bền vững, sản xuất kết hợp sử dụng sắn; xây dưng chuỗi sản xuất tiêu thụ sắn hiệu quả thích hợp. Quy trình canh tác sắn này của Việt Nam đã được công bố tại Hội thảo Cây Có Củ Thế Giới tổ chức tại Nam Ninh, Quảng Tây, Trung Quốc ngày 18 tháng 1 năm 2016 (Le Huy Ham et al. 2016) [23]  
https://youtu.be/81aJ5-cGp28

3) Xây dựng vườn tạo dòng của 5 tổ hợp sắn lai ưu tú nhất của tiến bộ di truyền hiện nay trong nguồn gen giống sắn tuyển chọn Thế giới và Việt Nam (Hình 3) là giải pháp căn bản, trọng tâm, thường xuyên và lâu dài để xây dựng tiềm lực khoa học chọn giống sắn tại vùng sắn trọng điểm, đi đôi với việc đào tạo nguồn nhân lực, tạo sản phẩm nổi bật, nâng cao giá trị và sức cạnh tranh của cây sắn ở mức quốc gia và khu vực.

4) Ứng dụng công nghệ nâng cao chuỗi giá trị nông nghiệp (Technological application enhances agriculture value chain), đặc biệt chú trọng giống sắn và vùng nguyên liệu và truyền thông Chuyển đổi số nông nghiệp kết nối thị trường  https://vtv.vn/video/bizline-15-3-2020-427424.htm.và https://youtu.be/XMHEa-KewEk

5) Bảo tồn và phát triển hệ thống sản xuất tiêu thụ sắn thích hợp bền vững: Gắn vùng giống sắn tốt, có năng suất tinh bột cao, kháng các bệnh hại chính CMD, CWBD, với các doanh nghiệp nhà nông, phục vụ nông nghiệp; Liên kết hổ trợ nông dân tổ chức sản xuất kinh doanh sắn theo chuỗi giá trị sắn; Đa dạng hóa sinh kế, gắn cây sắn với các cây trồng và vật nuôi khác; Tăng cường năng lực liên kết tiếp thị; có các chính sách hỗ trợ cần thiết.

THÀNH TỰU VÀ BÀI HỌC SẮN VIỆT NAM

Cách mạng sắn Việt Namhttps://youtu.be/81aJ5-cGp28, là điểm sáng toàn cầu được vinh danh tại Hội thảo Cây Có Củ Thế Giới tổ chức tại Nam Ninh, Quảng Tây, Trung Quốc từ ngày 18 đến ngày 22 tháng 1 năm 2016. Thành tựu và bài học sắn Việt Nam (2016-2021) đánh giá SWOT điểm mạnh, điểm yều, cơ hội, thách thức trong bối cảnh dịch bệnh sắn CMD và CWBD, khái quát những điểm căn bản sau đây:

Bối cảnh dịch bệnh sắn CWBD và CMD

Dịch bệnh chồi rồng (CWBD) gây hại sắn Việt Nam rãi rác từ năm 2005-2008, và bùng phát thành dịch bệnh ở Quảng Ngãi năm 2009 (Báo Nhân Dân 2009) [1], Dịch bệnh này sau đó trở nên nghiêm trọng ở Việt Nam, chủ yếu trên giống sắn KM 94. Năm 2008, giống sắn KM94 là giống sắn chủ lực Việt Nam có diện tích thu hoạch chiếm 75, 54% tổng diện tích sắn Việt Nam (Hoang Kim Nguyen Van Bo et al. 2011) [10]. Đến năm 2016, tỷ trọng diện tích thu hoạch giống sắn KM94 chiếm 31,8 %, trong khi giống sắn KM419 chiếm 38%. (RTB Newsletter 2016. Assessment reveals that most cassava grown in Vietnam has a CIAT pedigree) [25]. Năm 2019, giống sắn KM419 chiếm trên 42% tổng diện tích sắn toàn Việt Nam. Nguyên nhân của sự chuyển dịch này là do giống sắn KM94 cây cao, mật độ trồng thưa (10.000 -11.000 cây/ ha), thời gian sinh trưởng dài, nhiễm nặng (cấp 4) bệnh chổi rồng. Giống sắn KM419, cây thấp, mật độ trồng dày (14.500 cây/ha), thời gian sinh trưởng ngắn, nhiễm nhẹ bệnh chổi rồng (cấp 1), năng suất tinh bột vượt KM94 khoảng 29%.

Bệnh virus khảm lá (CMD) gây hại ban đầu từ tỉnh Tây Ninh (2017) lan rộng trên 15 tỉnh thành Việt Nam (2018) và 18 tỉnh thành Việt Nam (2019) gây hại nghiêm trọng  trên giống sắn HLS11. Chương trình sắn Quốc tế ACIAR, CIAT kết nối Mạng lưới sắn toàn cầu GCP21 và các chương trình sắn Quốc gia gồm Căm pu chia, Lào, Thái Lan, Việt Nam, tại Hội nghị sắn Quốc tế lần thứ IV, ngày 11-15 tháng 6 năm 2018 tại Benin, và  Hội thảo sắn khu vực ngày 18 tháng 9 năm 2018 tại Phnôm Pênh, Campuchia và Tây Ninh Việt Nam  đã báo cáo tình trạng dịch bệnh virus khảm lá sắn (CMD) gần đây ở Đông Nam Á và phối hợp chiến lược phòng trừ dịch bệnh CMD. Những kết quả giám sát dịch bệnh đã được đúc kết thông tin tại Hội thảo sắn Quốc tế tại Lào (2019), Ấn Độ (2021) xem tiếp Sắn Việt Nam ngày nayhttps://hoangkimlong.wordpress.com/category/san-viet-nam-ngay-nay

Thành tựu sắn Việt Nam

Sắn Việt Nam ngày nay đã là một ngành xuất khẩu đầy triển vọng. Ở Việt Nam, sắn là cây lương thực với diện tích hơn nửa triệu ha và giá trị xuất khẩu hơn một tỷ đô la Mỹ mỗi năm. Cách mạng sắn Việt Namhttps://youtu.be/81aJ5-cGp28, với sự tham gia của hàng triệu nông dân trồng sắn Việt Nam, đã thực sự đạt được sự chuyển đổi to lớn cây sắn và ngành sắn về năng suất, sản lượng, giá trị sử dụng, hiệu quả kinh tế, thu nhập thực tế, sinh kế, việc làm và bội thu giá trị lao động sống ngành sắn cho hàng triệu người dân trên toàn quốc. Sắn Việt Nam ngày nay đã và đang tiếp tục làm cuộc cách mạng xanh mới.tiếp tục lan tỏa thành quả điển hình của sắn thế giới khi nhiều hộ nông dân tại nhiều vùng rộng lớn ở Tây Ninh đã tăng năng suất sắn trên 400%, từ 8,35 tấn/ ha năm 2000 lên trên 36,0 tấn/ ha. (FAO, 2013b). Năng suất sắn Việt Nam bình quân cả nước từ năm 2009 đến nay (2021) đã đạt trên gấp đôi so với năng suất sắn năm 2000. Điển hình tại Tây Ninh, từ năm 2011 năng suất sắn đã đạt bình quân 29,0 tấn/ ha trên diện tích thu hoạch 45,7 nghìn ha với sản lượng là 1,32 triệu tấn, so với năm 2000 năng suất sắn đạt bình quân 12,0 tấn/ ha trên diện tích thu hoạch 8,6 nghìn ha, sản lượng 9,6 nghìn tấn. Sắn lát và tinh bột sắn Việt Nam đã trở thành một trong mười mặt hàng xuất khẩu chính. Sắn Việt Nam đã thành nguồn sinh kế, cơ hội xóa đói giảm nghèo và làm giàu của nhiều hộ nông dân, hấp dẫn sự đầu tư của nhiều doanh nghiệp chế biến kinh doanh; Chi tiết thông tin tại “Cassava conservation and sustainable development in Vietnam” (Hoàng Kim et al. 2018, 2015) [7], Trong sách: Sản xuất sắn bền vững ở châu Á đối với nhiều mục đích sử dụng và cho nhiều thị trường. Reihardt Howeler (biên tập) và nhiều tác giả, CIAT 2015. Sách Vàng nghề sắn)

Sắn Việt Nam ngày nay thành tựu nổi bật

Thành tựu sắn Việt Nam thể hiện chính trên 6 điểm:Giống sắn chủ lực và phổ biến ngày nay ở Việt Nam; Quy trình canh tác sắn thích hợp tại mỗi điều kiện sinh thái nền tảng phát triển trên Mười kỹ thuật thâm canh sắn;Hệ thống sản xuất chế biến tiêu thụ sắn;  Hệ thống giáo dục đào tạo và khuyến nông; Hệ thống quản lý nhà nước, hổ trợ liên kết chuỗi giá trị ngành hàng sắn và xây dựng nông thôn mới

1) Giống sắn chủ lực và phổ biến ở Việt Nam ngày nay là KI419 và KM140, trong khi chờ đợi các giống sắn mới tích hợp gen kháng bệnh CMD được khảo nghiệm (Báo Nhân Dân 2020 dẫn kết luận của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn,: các giống đối chứng tốt nhất hiện trồng tại Tây Ninh là KM419 và KM140 có năng suất 44-48 tấn/ha https://nhandan.vn/chuyen-lam-an/tim-ra-giong-san-khang-benh-kham-la-625634/ ); xem tiếp [11] Chọn giống sắn Việt Nam, https://hoangkimlong.wordpress.com/category/chon-giong-san-viet-nam/

2) Mười kỹ thuật thâm canh sắn bảo tồn và phát triển sắn bền vững; Cây sắn Việt Nam ngày nay, giải pháp chủ yếu ngăn chặn lây lan dịch bệnh CWBD và CMD là phòng trừ tổng hợp: sử dụng giống sắn KM419, KM440, KM397, KM140, KM98-1, … ít nhiễm bệnh hơn so với KM94 và dùng nguồn giống sạch bệnh; vệ sinh đồng ruộng, tiêu hủy nguồn bệnh kịp thời; diệt rầy lá, rầy thân, nhện đỏ, rệp sáp và các loại côn trùng lây lan bệnh; cần chăm sóc sắn tốt, bón phân và làm cỏ 3 lần để tăng sức đề kháng cho cây, bố trí mùa vụ thích hợp để hạn chế dịch hại; tiêu hủy nguồn bệnh kịp thời khi bệnh xuất hiện. [11]  https://hoangkimlong.wordpress.com/category/muoi-ky-thuat-tham-canh-san/

3) Hệ thống sản xuất chế biến tiêu thụ sắn Việt Nam ngày nay là khá tốt và năng động, có nhiều điển hình doanh nghiệp chế biến kinh doanh giỏi, hiệu quả;

4) Hệ thống giáo dục đào tạo và khuyến nông, dạy và học cây sắn đã tập huấn kỹ thuật, bổ sung tăng cường nguồn lực kỹ thuật, khoa học, công nghệ thích hợp cho ngành sắn.

5) Hệ thống quản lý nhà nước, hổ trợ liên kết chuỗi giá trị ngành hàng sắn, phát triển nông thôn mới,đã có sự liên kết chương trình sắn liên vùng, hợp tác quốc tế với sự sâu sát thực tiễn và hiệu quả. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã có công văn cấm sử dụng giống sắn HLS11 mẫn cảm bệnh virus khảm lá CMD; Bộ Nông nghiệp Phát triển Nông thôn, Cục Bảo vệ Thực vật số 1068/ BVTV TV ngày 3 tháng 5 năm 2019 đã xác định “V/v sử dụng giống sắn KM419 trong sản xuất” ghi rõ.“Việc hướng dẫn nông dân mua giống sắn KM419 sạch bệnh là giải pháp an toàn, kinh tế nhất so với thực trạng nhiễm bệnh khảm lá sắn hiện nay”. Chương trình sắn Quốc tế ACIAR CIAT cũng xác định giống sắn KM98-1 canh tác phổ biến nhất ở Lào.

6) Sắn Việt Nam chuyển đổi số đã tích lũy chuyển đổi số, liên kết hổ trợ người dân,  Cách mạng sắn Việt Namhttps://youtu.be/81aJ5-cGp28, Chọn giống sắn Việt Nam; Lúa sắn Cămpuchia và Lào; Lúa sắn Việt Châu Phi; Sắn Việt Nam bài học quý; Sắn Việt Nam sách chọn; Sắn Việt Nam và Kawano; Sắn Việt Nam và Howeler; Sắn Việt và Sắn Thái; Quản lý bền vững sắn châu Á; Cassava and Vietnam: Now and Then; …

Bài học sắn Việt Nam

Sắn Việt Nam thành tựu và bài học (Vietnam cassava achievement and learnt lessons)  [8] đã đúc kết ba bài học Cassava in Việt Nam http://cassavaviet.blogspot.com/ (Hoang Kim, Pham Van Bien et al. 2003, Hoang Kim et al. 2013) bao gồm:

Bài học một: 6 M.  1) Man Power Con người  2) Market Thị trường 3) Materials Giống mới, Công nghệ mới 4) Management Quản lý và Chính sách 5) Methods Phương pháp tổ chức thực hiện 6) Money Tiền.

Bài học hai: 10 T  1) Thử nghiệm (Trials); 2) Trình diễn (Demonstrations); 3) Tập huấn (Training); 4) Trao đổi (Exchange); 5)Thăm viếng (Farmer tours); 6) Tham quan hội nghị đầu bờ (Farmer field days); 7) Thông tin tuyên truyền (Information, propaganda; 8) Thi đua (Competition); 9) Tổng kết khen thưởng (Recognition, price and reward); 10) Thành lập mạng lưới nông dân giỏi (Establish good farmers’ network.

Bài học ba: 1F Nông dân tham gia nghiên cứu (Farmer Participatory Research – FPR)

Sắn Việt Nam ngày nay có thêm hai bài học nối tiếp

Bài học bốn “Nhận diện rủi ro bất cập”

1)     Quản lý dịch bệnh hại và giống sắn. Giải pháp giám sát sự lây lan bệnh CMD lúc đầu còn lúng túng chậm trễ. Việc hủy bỏ giống HLS11.cây cao, vỏ củ nâu đỏ, bệnh CMD mức 5 rất nặng) vì sự lẫn giống đã giảm nhân giống sắn KM419 năng suất tinh bột cao, cây thấp, vỏ củ xám trắng, nhiễm  bệnh virus  khảm lá CMD mức 2-3 (Hình 4, 5). Sản xuất sắn Tây Ninh lẫn giống sắn chưa có nguồn gốc lý lịch đặc điểm giống phù hợp và thiếu hồ sơ chọn tạo [2] trong khi các giống sắn KM440, KM140, đã có đủ hồ sơ gốc DUS và VCU (Hoang Kim et al. 2018; 2015 [7];  Trần Công Khanh [25], Hoàng Kim và đồng sự 2007, 2010 [27], Nguyễn Thị Trúc Mai 2017[11, 12,13, 14, 15], Nguyễn Bạch Mai 2018 [16] Hoàng Long [17,18,19])  

2)     Bảo vệ đất rừng, đất dốc trồng sắn và xử lý thực tiễn các vấn đề liên quan kỹ thuật canh tác sắn. Sách sắn “Quản lý bền vững sắn châu Á từ nghiên cứu đến thực hành” của tiến sĩ Reinhardt Howeler và tiến sĩ Tin Maung Aye, người dịch Hoàng Kim, Hoàng Long, Nguyễn Thị Trúc Mai, Nguyễn Bạch Mai [ 20, 21] gồm 13 chương có chương 12 “Làm thế nào để chống xói mòn đất” đã đề cập chi tiết kỹ thuật canh tác trên đất dốc trồng sắn; chương 6 “Sâu bệnh hại sắn và cách phòng trừ” có hướng dẫn biện pháp phòng trừ tổng hợp đối với bệnh CWBD, CMD, trọng điểm là sử dụng hom giống sạch bệnh của giống kháng và giống chống chịu CWBD, CMD kết hợp sự tiêu hủy nguồn bệnh và kiểm dịch thực vật nghiêm ngặt . Sách này là cẩm nang nghề sắn “thay cho những lời khuyên tốt nhất hiện có về kỹ thuật canh tác sắn sau hơn 50 năm kinh nghiệm thực tiễn kết hợp nghiên cứu và làm việc với nông dân để thấu hiểu những thách thức thực tế cuộc sống và cơ hội mà họ phải đối mặt”.

3)     Chế biến kinh doanh sắn
Các nhà máy ethanol Việt Namđầu tư lớn và lỗ; Nhà máy ethanol hoạt động khó khăn. Trong khi trên thế giới ngày nay, cạnh tranh nhiên liệu thực phẩm thức ăn chăn nuôi và các tác động tiềm tàng đối với các hệ thống canh tác năng lượng – cây trồng quy mô nhỏ, đã có rất nhiều sáng tạo tiến bộ khoa học công nghệ mới (John Dixon, Reinhardt Howeler et al. 2021). Sắn Nigeria sản lượng 52,4 triệu tấn năng suất sắn chỉ đạt 14,02 tấn/ha (thấp hơn sắn Việt Nam) nhưng từ năm 2011 đã có thành tựu “bếp cồn sắn” cho toàn quốc, dành được lượng lớn xăng dầu cho xuất khẩu.

4)     Quản lý vĩ mô ngành hàng sắn còn bất cập đặc biệt là trong  dịch bệnh Covid19

Bài học năm: Bảo tồn sắn và phát triển bền vững Phú Yên là điểm sáng điển hình

PHÚ YÊN BẢO TỒN SẮN VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG

Phú Yên là điểm sáng điển hình, nôi bảo tồn sắn và phát triển bền vững ở Việt Nam. Giống sắn KM419 là giống sắn chủ lực và KM440 là một trong những giống sắn triển vọng nhất của sắn Việt Nam ngày nay. Hai giống có năng suất tinh bột cao, ít bệnh, là lựa chọn của đông đảo nông dân sau  áp lực nặng của bệnh khảm lá CMD và chổi rồng CWBD. https://youtu.be/XDM6i8vLHcIhttps://youtu.be/kjWwyW0hkbU

Sắn là cây trồng chủ lực của tỉnh Phú Yên với lúa và mía. Sắn Phú Yên có lợi thế đầu tư tái cơ cấu theo hướng gia tăng giá trị, sản xuất tập trung, quy mô lớn và bền vững hiện nay với tầm nhìn đến năm 2030. Tỉnh Phú Yên có hai nhà máy sản xuất tinh bột sắn ở Sông Hinh và Đồng Xuân hiện đã nâng cấp lên trên 670 tấn tinh bột/ngày Xây dựng vùng nguyên liệu sắn ổn định đạt năng suất cao, bền vững là nhu cầu sống còn của nhà máy, sinh kế và thu nhập chính của nông dân, nguồn lợi của ngân sách.

Quan tâm tiến bộ kỹ thuật cây sắn là trọng tâm kinh tế và an sinh xã hội tại địa phương. Việc nghiên cứu tuyển chọn, ứng dụng giống sắn mới và áp dụng các biện pháp kỹ thuật canh tác tiến bộ có ý nghĩa khoa học và thực tiễn quan trọng tại tỉnh Phú Yên, tạo hướng đi mới để thay đổi cách thức tổ chức sản xuất nông nghiệp, tìm cơ hội trong thách thức cho nông sản chủ lực của tỉnh.

Hiện nay giống sắn KM419 là giống chủ lực trong cơ cấu bộ giống sắn của tỉnh Phú Yên, ”Nghiên cứu chọn tạo giống sắn năng suất tinh bột cao, kháng được sâu bệnh hại chính, phù hợp với điều kiện sản xuất tại tỉnh Phú Yên” là sự tiếp nối của đề tài “Nghiên cứu tuyển chọn giống sắn năng suất tinh bột cao và kỹ thuật thâm canh tại tỉnh Phú Yên“ đã thành công.. Đề tài đã đạt giải Nhất Hội thi sáng tạo kỹ thuật lần thứ 8 (2018-2019). Năm 2020 tiến sĩ Nguyễn Thị Trúc Mai, là tác giả trong nhóm nghiên cứu của đề tài,  đã được tôn vinh “Nhà khoa học của nhà nông“, nhận Bằng khen và Cúp của Trung ương Hội Nông dân Việt Nam (Tạp chí Nông thôn mới 2021).

”Nghiên cứu chọn tạo giống sắn năng suất tinh bột cao, kháng được sâu bệnh hại chính, phù hợp với điều kiện sản xuất tại tỉnh Phú Yên” là khâu đột phá cấp thiết và hiệu quả nhất (Kawano K (1995) [22] để tiếp nối sự bảo tồn và phát triển sắn bền vững.Nội dung nghiên cứu gồm 1) Cải tiến nâng cấp giống sắn chủ lực sản xuất KM419 (Thu hạt lai tạo dòng KM419 và C39, KM440, KM397, KM94; Xây dựng vườn tạo dòng 5 tổ hợp sắn lai ưu tú; Khảo sát tập đoàn 27 giống sắn tuyển chọn); Khảo nghiệm DUS giống sắn tác giả cho 7 giống sắn). 2) Tuyển chọn giống sắn năng suất tinh bột cao, chống chịu sâu bệnh hại chính, thích hợp điều kiện sản xuất của tỉnh Phú Yên (Khảo nghiệm cơ bản 7 giống sắn; Khảo nghiệm sản xuất 5 giống sắn) 3) Xây dựng mô hình trình diễn và thiết lập vùng giống sắn gốc các giống sắn tốt; Chuyển giao công nghệ mới về giống sắn, kỹ thuật chọn tạo giống sắn.

HÌNH ẢNH BẢO TỒN PHÁT TRIỂN SẮN

xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/bao-ton-va-phat-trien-san/

DẠY VÀ HỌC https://hoangkimvn.wordpress.com
ngày mới nhất bấm vào đâycập nhật mỗi ngày

Video yêu thích
KimYouTube

Trở về trang chính
Hoàng Kim Long, Ngọc Phương Nam, Thung dung, Dạy và Học, Việt Nam Học, Cây Lương thực Việt Nam, CNM365Tình yêu Cuộc sống, Kim on LinkedIn, Kim on Facebook, Kim on Twitter

Số lần xem trang : 17948
Nhập ngày : 23-10-2021
Điều chỉnh lần cuối :

Ý kiến của bạn về bài viết này


In trang này

Lên đầu trang

Gởi ý kiến

  Việt Nam học

  Dạy và học 14 tháng 7(14-07-2021)

  Dạy và học 13 tháng 7(13-07-2021)

  Dạy và học 12 tháng 7(12-07-2021)

  Dạy và học 11 tháng 7(11-07-2021)

  Dạy và học 10 tháng 7(10-07-2021)

  Dạy và học 9 tháng 7(09-07-2021)

  Dạy và học 8 tháng 7(08-07-2021)

  Dạy và học 7 tháng 7(07-07-2021)

  Dạy và học 6 tháng 7(06-07-2021)

  Dạy và học 5 tháng 7(05-07-2021)

Trang kế tiếp ... 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46

Hoàng Kim, Khoa Nông Học, Trường ĐH Nông Lâm TP.HCM, ĐTDĐ:0903 613024,Email:hoangkimvietnam1953@gmail.com, hoangkim@hcmuaf.edu.vn

Thiết kế: Quản trị mạng- ĐHNL 2007