Số lần xem
Đang xem 1890 Toàn hệ thống 3124 Trong vòng 1 giờ qua
Trang liên kết
Tỉnh thức
giữa đêm thiêng Yên Tử
Để thấm hiểu đức Nhân Tông
Ta thành tâm đi bộ
Lên tận đỉnh chùa Đồng
Tâm sáng Ức Trai
trong tựa ngọc TÌNH YÊU CUỘC SỐNG
DẠY VÀ HỌC Để chấn hưng giáo dục Việt Nam cấp thiết phải có đội ngũ những người thầy giáo ưu tú có tâm đức thiết tha với nghề, có trình độ chuyên môn cao và có kỹ năng giảng dạy tốt. Đây là trang thông tin chuyên đề dạy và học để trao đổi và bàn luận
Norman Borlaug Lời Thầy dặn Việc chính đời người chỉ ít thôi
Chuyên tâm đừng bận chuyện trời ơi
Phúc hậu suốt đời làm việc thiện
Di sản muôn năm mãi sáng ngời.
“Nhà văn Nga Dostoievski viết “Những đêm trắng” với sự sâu sắc lạ lùng mà tôi khi được trãi nghiệm mới thấu hiểu. Ông trò chuyện về du lịch mà thực ra đang nói về nhân tình thế thái, về những đêm trắng và ảo ảnh bình minh phương Bắc...” (Hoàng Kim)
Mời bạn thưởng thức món quà “Đêm trắng và bình minh”, câu chuyện về Ghent thành phố khoa học công nghệ; Sắn quà tặng thế giới người nghèo; Đêm trắng và bình minh phương Bắc. Nhà văn Nga Dostoievski viết “Những đêm trắng” với sự sâu sắc lạ lùng mà tôi khi được trãi nghiệm mới thấu hiểu. Ông trò chuyện về du lịch mà thực ra đang nói về nhân tình thế thái, về những đêm trắng và ảo ảnh bình minh phương Bắc. Bạn hãy ngắm nắng ấm và vườn cây trong bức ảnh lúc 7 giờ chiều chụp tiến sĩ Claude Fauquet với tôi. Ông là Chủ tịch Hội thảo Sắn Toàn cầu, Tổng Giám đốc của Viện Nghiên cứu Khoa học lừng danh ở Mỹ, người đã dành cho tôi sự ưu ái mời dự Hội thảo và đọc báo cáo. Bạn cũng hãy xem tiếp phóng sự ảnh chụp lúc gần nửa đêm mà ánh sáng vẫn đẹp lạ thường để đồng cảm cùng tôi về đêm trắng và bình minh. Bắc Âu là vùng đất lành có triết lý nhân sinh lành mạnh, chất lượng cuộc sống khá cao và những mô hình giáo dục tiên tiến nổi tiếng thế giới. Đi khắp quê người để hiểu đất quê hương. Mục đích sau cùng của dạy và học là thấu suốt bản chất sự vật, có lời giải đúng và làm được việc. Dạy và học thực tiễn trên chính Tổ quốc mình.
Ghent thành phố khoa học công nghệ
Tôi phải trả 400 đô la Mỹ cho bài học lãng phí đầu tiên đi xe taxi ở Ghent, thành phố khoa học và công nghệ sinh học (City of Science and Biotechnology) tại Bỉ vì đã không tận dụng phương tiện công cộng. Thất bại đáng tiếc này xẩy ra khi tôi vận dụng lặp lại kinh nghiệm thành công trước đó của mình tại thủ đô Luân Đôn “thành phố sương mù” ở Vương quốc Anh, tại thủ đô Helsinki thành phố di sản “Con gái của Baltic” đẹp nhất Bắc Âu ở Phần Lan và tại Roma “thủ đô của các bảo tàng nổi tiếng thế giới” ở Ý.
Sự khôn vặt của tôi là kiểu của Hai Lúa người Việt. Tôi tính mình chỉ cần bỏ ra một vài trăm đô thuê taxi “không thèm đi tàu điện ngầm vì chẳng chụp ảnh và thăm thú được gì cả”. So với tiền của chuyến bay xa xôi từ Việt Nam sang Bắc Âu cao ngất ngưỡng do phía bạn chi trả thì số tiền mình tự bỏ ra trả thêm cho việc học là rất hời. Bạn tính nhé. Giá của một tour du lịch trọn gói từ thành phố Hồ Chí Minh đến thủ đô Helsinki (Phần Lan) thăm cố đô Turku (thành phố cổ nhất của Phần Lan được xây dựng từ năm 1280, cũng là cửa khẩu thông thương quan trọng nhất giữa Phần Lan và Thuỵ Điển) và trở về thành phố Hồ Chí Minh trong 5 ngày 4 đêm chí ít là 53,70 triệu đồng. Giá tour của máy bay khứ hồi đi Anh hoặc đi Ý cũng tương tự, cao hoặc thấp hơn một chút. Đó là tài sản lớn của những nghề lương thiện và những người chân lấm tay bùn muốn mở cửa nhìn ra thế giới. Do vậy, ở nhiều lần đi trước tôi đã quyết ý tự chi thêm một vài trăm đô khi có điều kiện để thăm được một số địa danh lịch sử văn hóa mà tôi ngưỡng mộ, để e rằng sau này mình hiếm có dịp quay trở lại.
Nhờ thế tôi đã đến được cung điện Buckingham, đại học Oxford, Bảo tàng Nam Kensington, Nhà thờ Thánh Paul (ở Anh), thăm toà nhà Quốc hội City Hall và Parliament House, đến Phủ Chủ tịch The Presidential Palace, biểu tượng Railroad Station, ghé nhà thờ Uspenski ở trung tâm thủ đô Helsinki, thăm ông già Noel tại Santa Claus, 96930 Artic Circle, Finland cách thành phố Rovaniemi khoảng 8km xứ sở Lapland (ở Phần Lan). Tôi cũng chụp nhiều ảnh ở Đấu trường La Mã và Khải hoàn môn Arco di Costantino. Đài phun nước Trevi, một trong những đài phun nước nổi tiếng nhất thế giới. Đài tưởng niệm liệt sĩ Vittorio Emanuele II. Bảo tàng Vatican (tại thủ đô Roma của Ý) và các địa danh khắp bốn biển, bốn châu của nhiều lần khác …
Ghent có hệ thống giao thông công cộng giá hợp lý phát triển rất cao nên kinh nghiệm đi taxi trước đó của tôi trở thành nguyên nhân lãng phí. Giống như Tiệp Khắc (Czech Slovakia cũ), hầu hết mọi người đi học, đi làm đều bằng phương tiện công cộng, có chuyện cần kíp mới đi taxi, rất hiếm thấy Honda. Giá taxi ở Ghent cao gấp nhiều lần so với giá taxi ở Việt Nam và cũng cao hơn nhiều so với giá taxi ở Anh, Pháp, Mỹ, Nhật là những nơi giàu có và thành phố có tiếng đắt đỏ. Mô hình tổ chức giao thông thành phố hiện đại và hiệu quả ở Ghent đã được nghiên cứu học tập của nhiều nước và thành phố. Ngoài xa kia, đường phố rộng rãi, thỉnh thoảng mới thấy một chiếc xe ô tô chạy qua. Bạn thấy những cô gái và ông bà già dẫn chó đi dạo. Những đôi thanh niên đi xe đạp nhởn nhơ trò chuyện như không còn ai khác ngoài họ ở trên đời. Bạn tinh ý còn thấy trong tấm hình chụp tại cổng vào trường đại học, trên thảm cỏ xa xa có một cặp uyên ương đang sưởi nắng và … tự nhiên yêu đương.
Ghent là thành phố khoa học và công nghệ sinh học nổi tiếng. Đây là thành phố lớn nhất của tỉnh Đông Flanders và trong thời Trung cổ đã từng là một trong những thành phố lớn nhất và giàu nhất của Bắc Âu. Ngày nay Ghent là thành phố có diện tích 1205 km2 và tổng dân số 594.582 người kể từ ngày 1 tháng Giêng năm 2008 đứng thứ 4 đông dân nhất ở Bỉ. Ghent là viên ngọc ẩn ở Bỉ tuy it nổi tiếng hơn so với thành phố chị em của nó là Antwerp và Bruges, nhưng Ghent lại là một thành phố năng động, xinh đẹp về khoa học, nghệ thuật, lịch sử và văn hóa. Hàng năm có mười ngày “Ghent Festival” được tổ chức với khoảng hai triệu du khách tham dự.
Ghent được UNESCO công nhận là Di sản thế giới năm 1998 và 1999. Các điểm nhấn nổi bật là kiến trúc hiện đại của những tòa nhà trường đại học Henry Van de Velde và một số công trình liền kề. Louis Roelandt, kiến trúc sư nổi tiếng nhất của Ghent thế kỷ XIX đã xây dựng hệ thống các trường đại học, khu hội nghị, nhà hát opera và tòa thị chính. Bảo tàng quan trọng nhất ở Ghent là Bảo tàng Mỹ thuật Voor Schone Kunsten với các bức tranh nổi tiếng của Hieronymus Bosch, Peter Paul Rubens, kiệt tác của Victor Horta và Le Corbusier, Huis van Alijn. Nhà thờ Saint Bavo lâu đài Gravensteen và kiến trúc lộng lẫy của bến cảng Graslei cũ là những nơi thật đáng chiêm ngưỡng. Đó là sự pha trộn tốt đẹp giữa sự phát triển thoải mái của cuộc sống và lịch sử, mà không phải là một thành phố bảo tàng. Giở lại những trang sử của Ghent năm 1775, các bằng chứng khảo cổ cho thấy sự hiện diện của con người trong khu vực hợp lưu của Scheldt và Lys trong thời kỳ đồ đá và đồ sắt. Hầu hết các nhà sử học tin rằng tên cũ của Ghent có nguồn gốc từ ‘Ganda’ có nghĩa là hợp lưu có từ thời La Mã. Khoảng năm 650, Saint Amand thành lập hai tu viện tại Ghent đó là Saint Peter Abbey và Saint Bavo Abbey. Khoảng năm 800, Louis Pious con trai của Charlemagne đã bổ nhiệm Einhard, người viết tiểu sử của Charlemagne, làm trụ trì của cả hai tu viện. Trong những năm 851 đến 879, thành phố bị tấn công và cướp phá hai lần sau đó được phục hồi và phát triển rực rỡ từ thế kỷ 11. Cho đến thế kỷ 13, Ghent là thành phố lớn nhất ở châu Âu sau Paris, lớn hơn Luân Đôn và Mạc Tư Khoa. Thời Trung Cổ, Ghent là một trong những thành phố quan trọng nhất châu Âu đối với ngành công nghiệp len và dệt may. Vào năm 1500, Charles V, Hoàng đế La Mã và vua Tây Ban Nha đã được sinh ra ở Ghent. Sau nhiều thăng trầm của lịch sử và sự tàn phá của các cuộc chiến tranh Ghent kết thúc vai trò của một trung tâm địa chính trị quân sự quan trọng quốc tế và trở thành một thành phố bị chiếm đóng, bị giành giật giữa các thế lực. Sau khi trận chiến Waterloo, Ghent trở thành một phần của Vương quốc Anh và Hà Lan suốt 15 năm. Lạ kỳ thay, chính trong giai đoạn tổn thương nghiêm trọng này, Ghent thành lập trường đại học cho riêng mình năm 1817 để khai sáng văn minh dân tộc. Họ cũng chấn hưng kinh tế bằng quyết tâm kết nối cảng biển năm 1824-1827. Sau cuộc Cách mạng Bỉ, với sự mất mát của cảng biển nền kinh tế địa phương bị suy sụp và tê liệt. Ghent bị chiếm đóng bởi người Đức trong cả hai cuộc chiến tranh thế giới nhưng đã tránh được sự tàn phá nghiêm trọng và đã được giải phóng bởi Vương quốc Anh ngày 6 tháng 9 năm 1944. Điều bền vững trường tồn cùng năm tháng chính là con người, văn hóa và giáo dục. Phần lớn kiến trúc thời Trung cổ của thành phố hiện vẫn còn nguyên vẹn và được phục hồi, bảo tồn khá tốt cho đến ngày nay.
Ghent còn là thành phố lễ hội thường xuyên hàng năm với các nhà hàng ẩm thực nổi tiếng. Nhiều sự kiện văn hóa lớn như Lễ hội âm nhạc, Liên hoan phim quốc tế, Triển lãm lớn thực vật, Hội thảo Trường Đại học Ghent và các Công ty nghiên cứu … đã thu hút đông đảo du khách đến thành phố. Khoa học công nghệ và nghệ thuật thực sự được tôn trọng. Bạn có thành quả gì đóng góp cho chính sức khỏe, đời sống, niềm vui con người được vui vẻ đón nhận một cách thân thiện, hứng thú. Du lịch ngày càng trở thành ngành sử dụng lao động lớn tại địa phương.
Ghent cũng là vùng đất địa linh với quá nhiều những người nổi tiếng. Charles V, Hoàng đế La Mã và vua Tây Ban Nha đã được sinh ra ở Ghent năm 1500. Một danh sách dài những người đã và đang hóa thân cho sự phồn vinh của quê hương xứ sở với đủ loại ngành nghề khác nhau.
Phương Bắc đấy! Đi xa về Bắc Âu đến Phần Lan, Thụy Điển, Hà Lan, Đan Mạch, Na Uy là cả một vùng thiên nhiên, văn hóa mới lạ. Nơi đó không gian văn hóa thật trong lành. Chất lượng cuộc sống tốt hơn nhiều vùng tôi đã qua.
Tôi ngồi vào bàn và lưu lại điểm nhấn: “Đến Ghent nhớ những đêm trắng và bình minh phương Bắc cùng với phóng sự ành Memories from Ghent để hẹn ngày quay lại ngẫm và viết. Ghent lúc này đã gần nửa đêm tương ứng với Việt Nam khoảng bốn năm giờ sáng nhưng bầu trời mới bắt đầu tối dần như khoảng 7 giờ chiều ở Việt Nam. Ánh sáng trắng đang nhạt đi và trời như chạng vạng tối. Đẹp và hay thật !
Sắn quà tặng thế giới người nghèo
Hội nghị khoa học đầu tiên của các đối tác sắn toàn cầu (First Scientific Meeting of the Global Cassava Partnership GCP1) với chủ đề “Sắn đáp ứng các thách thức của thiên niên kỷ mới” (Cassava: Meeting the Challenges of the New Millennium) được mở ra ở Trường Đại học Ghent vương quốc Bỉ với hơn một ngàn người tham dự. 115 báo cáo và hơn 200 áp phích (poster) và gian hàng được trình bày, giới thiệu liên tục tại 13 tiểu ban trong ba ngày.
Tiến sĩ Claude Fauquet và tiến sĩ Joe Tohme có hai báo cáo thật ấn tượng: Cây sắn quà tặng của thế giới và cơ hội cho nông dân nghèo; Cây sắn quà tặng của thế giới và thách thức đối với các nhà khoa học. Những vấn đề khủng hoảng năng lượng toàn cầu, an ninh lương thực, môi sinh – môi trường đang thách thức thế giới hiện đại. Những câu hỏi đặt ra nhằm cải tiến cây sắn là cây chịu hạn, giàu tinh bột và năng lượng, đề mang lại thu nhập tốt hơn cho người dân nghèo.
Tôi tham dự hội nghị với ba bài viết S3-2 (trang 54) SP3-9 (trang 60) và SP03-16 trang 63) gồm một báo cáo trước hội nghị toàn thể và hai áp phích. Việt Nam là điển hình quốc tế về sự đột phá sản lượng và năng suất sắn với sản lượng sắn tăng gấp năm lần và năng suất sắn tăng gấp đôi sau tám năm (2000-2008). Đó quả là một điều kỳ diệu cho toàn thế giới! Việc chọn tạo và phát triển các giống sắn mới của Việt Nam đã mang lại bội thu cao trong sản xuất ước vượt trên 2.000 tỷ đồng mỗi năm từ năm 2003 (đạt quy mô 270 ngàn ha x 8,9 tấn bội thu/ha x 50 USD/ tấn x 16.000 VND/USD). Sự cần cù, năng động, chịu thương chịu khó của nông dân Việt Nam thật đáng tự hào!
Thành tựu sắn Việt Nam gắn liền với những bài học kinh nghiệm quý giá của đông đảo bà con nông dân, các nhà khoa học, khuyến nông, quản lý, doanh nghiệp … trong Chương trình Sắn Việt Nam (VNCP). Nước ta đã thành một trường hợp nghiên cứu điển hình (key study) của châu Á và Thế giới. Tôi bị vây kín giữa những người bạn suốt các lần giải lao một cách sung sướng và đáng thương. Đội ngũ đi họp của mình quá mỏng (chỉ một mình tôi) so với những đội hình sắn vững chãi của nhiều nước khác như Trung Quốc, Mỹ, Ấn Độ, Brazil, Thái Lan, Nigeria, Colombia, … Bài báo mà tôi viết chung với PGS.TS. Nguyễn Văn Bộ (Giám đốc Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam), tiến sĩ Reinhardt Howerler và tiến sĩ Hernan Ceballos (là hai chuyên gia nông học và chọn giống sắn hàng đầu của CIAT và thế giới) đã gây ấn tượng tốt và được nhiều người trao đổi, hỏi đáp.
Buổi tối tiến sĩ Boga Boma, giám đốc của một dự án sắn lớn của châu Phi đã mang đồ đạc sang đòi “chia phòng ngủ” với tôi để “trao đổi về bài học sắn Việt Nam và cùng cảm nhận đêm trắng”.
Boga Boma giàu, nhỏ tuổi hơn tôi, tính rất dễ thương, người cao lớn kỳ vĩ trên 1,90 m như một hảo hán. Lần trước Boga Boma làm trưởng đoàn 15 chuyên gia Nigeria sang thăm quan các giống sắn mới và kỹ thuật canh tác sắn của Việt Nam, đúc kết trao đổi về cách sử dụng sắn trong chế biến nhiên liệu sinh học. Anh chàng hảo hán này vừa ra đồng đã nhảy ngay xuống ruộng giống mới, đề nghị tôi nhổ thử một vài bụi sắn bất kỳ do anh ta chỉ định của giống mới KM140 (mà sau này đoạt giải Nhất VIFOTEC của Hội thi sáng tạo khoa học kỹ thuật toàn quốc lần thứ 10 trao giải ngày 19.1.2010 ở Hà Nội). Boga Boma ước lượng năng suất thực tế mỗi bụi sắn này phải sáu ký. Anh đo khoảng cách trồng rồi hồ hởi đưa lên một ngón tay nói với giọng thán phục “Sắn Việt Nam số 1”
Sau buổi tham quan đó, Boga Boma ngỏ lời đề nghị với tôi cho đoàn Nigeria được đến thăm nhà riêng để “tìm hiểu cuộc sống và điều kiện sinh hoạt làm việc của một thầy giáo nông nghiệp Việt Nam”. Anh chàng chăm chú chụp nhiều ảnh về tài liệu sắn của bảy Hội thảo Sắn châu Á và mười Hội thảo Sắn Việt Nam trong một phần tư thế kỷ qua. Anh cũng chụp bếp đèn dầu dùng ga của gia đình tôi. Boga Boma cũng như Kazuo Kawano, Reinhardt Howerler, Hernan Ceballos, Rod Lefroy, Keith Fahrney, Bernardo Ospina, S. Edison, Tian Ynong, Li Kaimian, Huang Jie, Chareinsak Rajanaronidpiched, Watana Watananonta, Jarungsit Limsila, Danai Supahan, Tan Swee Lian, J. Wargiono, Sam Fujisaca, Alfredo Alves, Alfred Dixon, Fernando A, Peng Zhang, Martin Fregene, Yona Beguma, Madhavi Sheela, Lee Jun, Tin Maung Aye, Guy Henry, Clair Hershey, … trong mạng lưới sắn toàn cầu với tôi đều là những người bạn quốc tế thân thiết. Hầu hết họ đều đã gắn bó cùng tôi suốt nhiều năm. Sự tận tâm công việc, tài năng xuất sắc, chân thành tinh tế của họ trong ứng xử tình bạn đời thường làm tôi thực sự cảm mến.
Bẳng đi một thời gian, Boga Boma thông tin Nigeria hiện đã ứng dụng bếp đèn dầu dùng cồn sinh học từ nguyên liệu sắn cho mọi hộ gia đình Nigeria trong toàn quốc. Nigeria đã thành công lớn trong phương thức chế biến sắn làm cồn gia đình phù hợp với đất nước họ, làm tiết kiệm được một khối lượng lớn xăng dầu với giá rất cạnh tranh cho tiêu thụ nội địa và xuất khẩu.
Lần này trong đêm trắng ở Ghent, Boga Boma lại hí húi ghi chép và ngẫm nghĩ về ba bài học kinh nghiệm sắn Việt Nam 6M (Con người, Thị trường, Vật liệu mới Công nghệ tốt, Quản lý, Phương pháp, Tiền: Man Power, Market, Materials, Management, Methods, Money), 10T (Thử nghiệm, Trình diễn, Tập huấn, Trao đổi, Thăm viếng, Tham quan hội nghị đầu bờ, Thông tin tuyên truyền, Thi đua, Tổng kết khen thưởng, Thiết lập mạng lưới người nông dân giỏi) và FPR (Thiết lập mạng lưới thí nghiệm đồng ruộng và trình diễn để nghiên cứu cùng nông dân chuyển giao tiến bộ kỹ thuật sản xuất sắn).
Buổi chiều Yona Beguma cùng các bạn châu Phi say mê trò chuyện cùng tôi về bài học sắn Việt Nam được giới thiệu trên trang của FAO với sự yêu thích, đặc biệt là “sáu em”(6M), “mười chữ T tiếng Việt” (10T) và “vòng tròn FPR dụ dỗ”. Sau này, anh chàng làm được những chuyện động trời của cây sắn Uganda mà tôi sẽ kể cho bạn nghe trong một dịp khác.
Nhìn lớp trẻ thân thương đầy khát vọng tri thức đang vươn lên đỉnh cao giúp xóa đói giảm nghèo và làm giàu cho quê hương xứ sở. Ngắm nhìn sự mê mãi của Boga Boma lúc bình minh vừa rạng lúc anh chàng đã thức gần trọn đêm. Tôi chợt nhớ câu thơ Việt Phương: “Yêu biết mấy những đêm dài thức trắng/ Làm kỳ xong việc nặng sẵn sức bền/ Bình minh đuổi lá vàng trên đường vắng/ Như vì ta mà đời cũng ửng hồng lên”.
Đêm trắng và bình minh phương Bắc
Tôi lục tìm trong khoang tư liệu, đọc lại trích đoạn “Những đêm trắng” của nhà văn Nga Dostoievski và đoạn viết về hiện tượng cực quang của bình minh phương Bắc: “Ở vùng cực của trái đất, ban đêm, thường thấy hiện tượng ánh sáng có nhiều màu sắc: trắng, vàng, đỏ, xanh, tím, rực rỡ có hình dáng như một bức rèm hoặc một cái quạt rất lớn. Có khi những tia sáng lại xòe ra như hình nạn quạt. Cái quạt ánh sáng ấy lấp lánh rung chuyển nhè nhẹ như một bàn tay khổng lồ rũ xuống rũ lên, lập lòe làm thành một quang cảnh kỳ vĩ lạ thường. Màn ánh sáng ấy trong suốt đến nỗi nhìn qua thấy rõ tất cả các ngôi sao trên bầu trời. Hướng của những tia sáng nói chung trùng với hướng của các đường sức của từ trường trái đất. Loại ánh sáng này xuất hiện từ độ cao 80 đến 1.000 km và nhiều nhất là ở độ cao trên dưới 120 km. Ở nước Nga thời trước người ra cho rằng đó là ánh hào quang của những đoàn thiên binh thiên tướng kéo đi trong không gian. Còn nhân dân Phần Lan cho đó là mặt trời giả của người xưa làm ra để soi sáng cho đêm trường Bắc Cực. Vì loại ánh sáng này chỉ thấy trong những miền gần hai cực nên gọi là cực quang. Ở Na Uy và Thụy Điển thì người ta gọi là ánh sáng “bình minh phương Bắc”.
Qua Ghent mới thấy đêm phương Bắc đến chậm và sớm nhanh Việt Nam như thế nào, mới thấm hiểu sự sâu sắc của Dostoievski nhà văn bậc thầy văn chương Nga và thế giới: Ông nói chuyện trời mà cũng là nói chuyện người. Ông trò chuyện về du lịch mà thực ra đang nói về nhân tình thế thái, những đêm trắng và ảo ảnh bình minh phương Bắc. Đó là câu chuyện thật như đùa và đùa như thật, ảo giác mà tưởng thật, thật mà tưởng ảo giác. Nhân loại đã đi qua vùng sáng tối đó, ánh sáng của thiên đường, những đêm trắng nối liền bình minh phương Bắc.
Thực ra, khi bạn đến thủ đô Helsinki của Phần Lan vào tháng 6,7 thì đêm trắng và ảo ảnh bình minh phương Bắc rõ hơn nhiều. Bạn hãy đến đúng dịp hè và chuẩn bị sẵn máy ảnh loại tốt, độ phân giải lớn, khẩu độ rộng để săn ảnh. Tôi buộc phải sử dụng chùm ảnh du lịch Phần Lan vì máy ảnh họ chụp tốt hơn những tấm ảnh đẹp mê hồn về đêm trắng, trời tím và ngủ lều tuyết.
Ở Phần Lan, nhiệt độ trung bình của tháng nóng nhất khoảng 15 độ C, và tháng lạnh nhất khoảng -9 độ C. Trung bình mỗi năm ở Phần Lan có hơn 100 ngày tuyết phủ ở phía nam và tây nam, còn ở phía bắc vùng Lappi thì tới hơn 200 ngày có tuyết. Nhiệt độ ban ngày và ban đêm chênh nhau tới 20 độ C, ngày lạnh nhất và ngày ấm nhất chênh nhau 80 độ C. Mặt trời mọc tháng 1, 2 lúc 9h30 sáng và lặn lúc 3h30 chiều là những ngày ngắn nhất trong năm. Tháng 6,7 mặt trời mọc lúc 4h00 sáng và lặn lúc 10h30 tối là những ngày dài nhất trong năm. Cá biệt ở phía Bắc vùng đất Lapland có những đêm trắng vào mùa hè, mặt trời không bao giờ lặn trong khoảng 60 ngày đêm nên có thể ngắm mặt trời lúc nửa đêm. Tiếp đó là khoảng thời gian chạng vạng không nhìn thấy mặt trời kéo dài trong khoảng 6 tháng vào mùa thu và đông. Không riêng gì Phần Lan mà hầu hết các nước Bắc Âu khí hậu lạnh và thời tiết thay đổi thất thường không được ấm áp thường xuyên như Việt Nam. Tôi lấy làm lạ khi sau này một số người đọc chưa hiểu đúng về sự khái quát cực kỳ tinh tế của Bác: “Nước ta: ở về xứ nóng, khí hậu tốt/ Rừng vàng biển bạc, đất phì nhiêu/ Nhân dân dũng cảm và cần kiệm/ Các nước anh em giúp đỡ nhiều.”
Tại Ghent của vương quốc Bỉ, nơi thành phố khoa học và công nghệ sinh học thì ấm hơn nhưng sự tiếp biến đêm trắng và bình minh phương bắc vẫn còn rất rõ nét. Ở đó, mặt trời tháng bảy mọc lúc hừng đông 4g30 -5g00 và lặn lúc 8g00- 9g00. Săn ảnh vào lúc bình minh vừa rạng cũng như ngắm mây ngũ sắc huyền thoại lúc mặt trời sắp lặn ở Việt Nam. Bạn hãy ngắm dòng tinh vân xinh đẹp lạ thường trước lúc bình minh.
Sau này ở Việt Nam tôi chỉ có cơ hội nhìn thấy được sự chuyển màu từ tối tím sang bảy màu, sang màu xanh ngọc và trắng hồng lúc 4g30 sáng ngày 18 tháng 1 năm 2010 tại chòm cao nhất của non thiêng Yên Tử. Tôi chụp trên 100 tấm ảnh mới chọn được tấm ảnh ưng ý nhất. Đó là dịp may hiếm có của đời người. Sau này chúng ta sẽ nhiều dịp trở lại với Trần Nhân Tông và Bình minh trên Yên Tử để học được bài học vô giá của ông cha mình.
Chúng tôi được giáo sư Marc Van Montagu, nhà bác học lừng danh thế giới cha đẻ GMO, vị chủ tịch của Liên đoàn Công nghệ sinh học châu Âu và hiệu trưởng của Trường Đại học Ghent hướng dẫn thăm quan lâu đài cổ, bảo tàng nghệ thuật và trường đại học nơi Ghent được UNESCO tôn vinh là di sản văn hóa thế giới năm 1998, 1999 và mời dự tiệc chiêu đãi. Tôi được mời ngồi bên cạnh ông và ba con người kỳ dị khác. Đó là Claude Fauquet (DDPSC, St Louis USA), Joe Tohme (CIAT, Colombia), G. Hawtin (CIAT, Colombia). Họ quá nổi tiếng trong số những con người đang làm thay đổi thế giới về bức tranh cây sắn và khoa học cây trồng những năm đầu thế kỷ 21. Tôi thực sự ngần ngại vị trí ngồi chung này và muốn thoái thác nhưng họ vui vẻ thân tình mời đại diện các châu lục. Họ đối xử với tôi và các đồng nghiệp với một sự tự nhiên, quý mến, trân trọng, và thực lòng ngưỡng mộ những kết quả đã đạt được của sắn Việt Nam (sau này khi nghĩ lại tôi ứa nước mắt hãnh diện về dân tộc mình đã cho chúng tôi cơ hội “O du kích bắn đại bác”). Tôi biết rõ những tài năng ưu tú xung quanh mình. Họ dung dị bình thường, thân tình lắng nghe nhưng đó là những con người khoa học đặc biệt. Họ không ham hố giàu sang và quyền lực mà chăm chú tận tụy giảng dạy và nghiên cứu, phát triển những thành tựu khoa học nông nghiệp mới, góp phần cải biến chất lượng thực phẩm thế giới theo hướng ngon hơn, tốt hơn, rẻ hơn và thân thiện môi trường hơn (HarvestPlus) nâng cao cuộc sống chúng ta. Tiến sĩ Rajiv J.Shah, giám đốc của Chương trình Phát triển Toàn cầu, Quỹ Bill Gate và Melinda (nơi tài trợ chính cho chuyến đi này của tôi) đã nói như vậy. Tôi ngưỡng mộ và tìm thấy ở họ những vầng sáng của trí tuệ và văn hóa.
Chợt dưng tôi nhớ đến Bernadotte với vợ là Déssirée trong tác phẩm “Mối tình đầu của Napoléon” của Annemarie Selinko. Vợ chồng hai con người kỳ vĩ này với lý tưởng dân chủ đã xoay chuyển cả châu Âu, giữ cho Thụy Điển tồn tại trong một thế giới đầy biến động và nhiễu nhương. Bắc Âu phồn vinh văn hóa, thân thiện môi trường và có nền giáo dục lành mạnh phát triển như ngày nay là có công và tầm nhìn kiệt xuất của họ. Bernadotte là danh tướng của Napoleon và sau này được vua Thụy Điển đón về làm con để trao lại ngai vàng. Ông xuất thân hạ sĩ quan tầm thường nhưng là người có chí lớn, suốt đời học hỏi và tấm lòng cao thượng rộng rãi. Vợ ông là Déssirée là người yêu đầu tiên của Napoleon nhưng bị Napoleon phản bội khi con người lừng danh này tìm đến Josephine một góa phụ quý phái, giàu có, giao du toàn với những nhân vật quyền thế nhất nước Pháp, và Napoleon đã chọn bà làm chiếc thang bước lên đài danh vọng. Bernadotte với vợ là Déssirée hiểu rất rõ Napoleon. Họ đã khéo chặn được cơn lốc cuộc chiến đẫm máu tranh giành quyền lợi giữa các tập đoàn thống trị và các nước có lợi ích khác nhau. Bernadotte và Déssirée đã đưa đất nước Thụy Điển và Bắc Âu thoát cuộc tranh giành. Họ đã khai sáng một vầng hào quang bình minh phương Bắc.
Việt Nam và khối Asean hiện cũng đang đứng trước khát vọng mở mang của “con sư tử phương Đông trỗi dậy” và sự vần vũ của thế giới văn minh nhiều cơ hội hơn cho người dân nhưng cũng tiềm ẩm lắm hiễm họa khó lường. Điều này dường như rất giống của thời người hùng Napoleon của một châu Âu và khao khát của nước Pháp muốn phục hưng dân tộc và mở rộng phạm vi ảnh hưởng. Bài học Bắc Âu miền đất trong lành, nước Bỉ trái tim của EU, và Ghent thành phố khoa học công nghệ là chỉ dấu minh triết chưa bao giờ sáng tỏ và cấp thiết như lúc này. Trước những khúc quanh của lịch sử, các dân tộc tồn tại và phát triển đều biết khéo tập hợp những lực lượng tinh hoa và sức mạnh dân chúng để thoát khỏi hiễm họa và bảo tồn được những viên ngọc quý di sản truyền lại cho đời sau. Trong vùng địa chính trị đầy điểm nóng tranh chấp biên giới hải đảo, sự tham nhũng chạy theo văn minh vật chất và nguy cơ tha hóa ô nhiễm môi trường, nguồn nước, bầu khí quyển, vệ sinh thực phẩm, văn hóa giáo dục và chất lượng cuộc sống thì bài học trí tuế càng cấp thiết và rõ nét. Ông José António Amorim Dias, Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước Cộng hòa Dân chủ Timor-Leste tại UNESCO và Liên minh châu Âu trên chuyến tàu tốc hành từ Brussels đến Paris chung khoang với tôi đã trò chuyện và chia sẽ rất nhiều điều về triết lý nhân sinh và văn hóa giáo dục.
Đi đâu cũng không bằng Tổ quốc mình. Nói gì, làm gì cũng không bằng dạy, học và làm cho đồng bào đất nước mình. Đi khắp quê người để hiểu đất quê hương. Mục đích sau cùng của dạy và học là thấu suốt bản chất sự vật, có lời giải đúng và làm được việc. Dạy và học thực tiễn trên chính Tổ quốc mình. Việt Nam quê hương tôi! Đó là đất nước của biết bao nhiêu thế hệ xả thân vì nước để quyết giành cho được độc lập, thống nhất, tự do và toàn vẹn lãnh thổ. “Nếu chỉ để lại lời nói suông cho đời sau sao bằng đem thân đảm nhận trọng trách cho thiên hạ trước đã” nhưng “sức một người thì có hạn, tài trí thiên hạ là vô cùng”. “Lời nói là đọi vàng”. Làm nhà khoa học xanh hướng đến bát cơm ngon của người dân nghèo, đó là điều tôi tâm đắc nhất !
Nhân loại đã có một thời đi trong đêm trắng ánh sáng của thiên đường, đêm trắng bình minh phương Bắc. Sự chạng vạng tranh tối tranh sáng có lợi cho sự quyền biến nhưng khoảng khắc bình minh là sự kỳ diệu mở đầu cho ng&agra
“Nhà văn Nga Dostoievski viết “Những đêm trắng” với sự sâu sắc lạ lùng mà tôi khi được trãi nghiệm mới thấu hiểu. Ông trò chuyện về du lịch mà thực ra đang nói về nhân tình thế thái, về những đêm trắng và ảo ảnh bình minh phương Bắc...” (Hoàng Kim)
Mời bạn thưởng thức món quà “Đêm trắng và bình minh”, câu chuyện về Ghent thành phố khoa học công nghệ; Sắn quà tặng thế giới người nghèo; Đêm trắng và bình minh phương Bắc. Nhà văn Nga Dostoievski viết “Những đêm trắng” với sự sâu sắc lạ lùng mà tôi khi được trãi nghiệm mới thấu hiểu. Ông trò chuyện về du lịch mà thực ra đang nói về nhân tình thế thái, về những đêm trắng và ảo ảnh bình minh phương Bắc. Bạn hãy ngắm nắng ấm và vườn cây trong bức ảnh lúc 7 giờ chiều chụp tiến sĩ Claude Fauquet với tôi. Ông là Chủ tịch Hội thảo Sắn Toàn cầu, Tổng Giám đốc của Viện Nghiên cứu Khoa học lừng danh ở Mỹ, người đã dành cho tôi sự ưu ái mời dự Hội thảo và đọc báo cáo. Bạn cũng hãy xem tiếp phóng sự ảnh chụp lúc gần nửa đêm mà ánh sáng vẫn đẹp lạ thường để đồng cảm cùng tôi về đêm trắng và bình minh. Bắc Âu là vùng đất lành có triết lý nhân sinh lành mạnh, chất lượng cuộc sống khá cao và những mô hình giáo dục tiên tiến nổi tiếng thế giới. Đi khắp quê người để hiểu đất quê hương. Mục đích sau cùng của dạy và học là thấu suốt bản chất sự vật, có lời giải đúng và làm được việc. Dạy và học thực tiễn trên chính Tổ quốc mình.
Ghent thành phố khoa học công nghệ
Tôi phải trả 400 đô la Mỹ cho bài học lãng phí đầu tiên đi xe taxi ở Ghent, thành phố khoa học và công nghệ sinh học (City of Science and Biotechnology) tại Bỉ vì đã không tận dụng phương tiện công cộng. Thất bại đáng tiếc này xẩy ra khi tôi vận dụng lặp lại kinh nghiệm thành công trước đó của mình tại thủ đô Luân Đôn “thành phố sương mù” ở Vương quốc Anh, tại thủ đô Helsinki thành phố di sản “Con gái của Baltic” đẹp nhất Bắc Âu ở Phần Lan và tại Roma “thủ đô của các bảo tàng nổi tiếng thế giới” ở Ý.
Sự khôn vặt của tôi là kiểu của Hai Lúa người Việt. Tôi tính mình chỉ cần bỏ ra một vài trăm đô thuê taxi “không thèm đi tàu điện ngầm vì chẳng chụp ảnh và thăm thú được gì cả”. So với tiền của chuyến bay xa xôi từ Việt Nam sang Bắc Âu cao ngất ngưỡng do phía bạn chi trả thì số tiền mình tự bỏ ra trả thêm cho việc học là rất hời. Bạn tính nhé. Giá của một tour du lịch trọn gói từ thành phố Hồ Chí Minh đến thủ đô Helsinki (Phần Lan) thăm cố đô Turku (thành phố cổ nhất của Phần Lan được xây dựng từ năm 1280, cũng là cửa khẩu thông thương quan trọng nhất giữa Phần Lan và Thuỵ Điển) và trở về thành phố Hồ Chí Minh trong 5 ngày 4 đêm chí ít là 53,70 triệu đồng. Giá tour của máy bay khứ hồi đi Anh hoặc đi Ý cũng tương tự, cao hoặc thấp hơn một chút. Đó là tài sản lớn của những nghề lương thiện và những người chân lấm tay bùn muốn mở cửa nhìn ra thế giới. Do vậy, ở nhiều lần đi trước tôi đã quyết ý tự chi thêm một vài trăm đô khi có điều kiện để thăm được một số địa danh lịch sử văn hóa mà tôi ngưỡng mộ, để e rằng sau này mình hiếm có dịp quay trở lại.
Nhờ thế tôi đã đến được cung điện Buckingham, đại học Oxford, Bảo tàng Nam Kensington, Nhà thờ Thánh Paul (ở Anh), thăm toà nhà Quốc hội City Hall và Parliament House, đến Phủ Chủ tịch The Presidential Palace, biểu tượng Railroad Station, ghé nhà thờ Uspenski ở trung tâm thủ đô Helsinki, thăm ông già Noel tại Santa Claus, 96930 Artic Circle, Finland cách thành phố Rovaniemi khoảng 8km xứ sở Lapland (ở Phần Lan). Tôi cũng chụp nhiều ảnh ở Đấu trường La Mã và Khải hoàn môn Arco di Costantino. Đài phun nước Trevi, một trong những đài phun nước nổi tiếng nhất thế giới. Đài tưởng niệm liệt sĩ Vittorio Emanuele II. Bảo tàng Vatican (tại thủ đô Roma của Ý) và các địa danh khắp bốn biển, bốn châu của nhiều lần khác …
Ghent có hệ thống giao thông công cộng giá hợp lý phát triển rất cao nên kinh nghiệm đi taxi trước đó của tôi trở thành nguyên nhân lãng phí. Giống như Tiệp Khắc (Czech Slovakia cũ), hầu hết mọi người đi học, đi làm đều bằng phương tiện công cộng, có chuyện cần kíp mới đi taxi, rất hiếm thấy Honda. Giá taxi ở Ghent cao gấp nhiều lần so với giá taxi ở Việt Nam và cũng cao hơn nhiều so với giá taxi ở Anh, Pháp, Mỹ, Nhật là những nơi giàu có và thành phố có tiếng đắt đỏ. Mô hình tổ chức giao thông thành phố hiện đại và hiệu quả ở Ghent đã được nghiên cứu học tập của nhiều nước và thành phố. Ngoài xa kia, đường phố rộng rãi, thỉnh thoảng mới thấy một chiếc xe ô tô chạy qua. Bạn thấy những cô gái và ông bà già dẫn chó đi dạo. Những đôi thanh niên đi xe đạp nhởn nhơ trò chuyện như không còn ai khác ngoài họ ở trên đời. Bạn tinh ý còn thấy trong tấm hình chụp tại cổng vào trường đại học, trên thảm cỏ xa xa có một cặp uyên ương đang sưởi nắng và … tự nhiên yêu đương.
Ghent là thành phố khoa học và công nghệ sinh học nổi tiếng. Đây là thành phố lớn nhất của tỉnh Đông Flanders và trong thời Trung cổ đã từng là một trong những thành phố lớn nhất và giàu nhất của Bắc Âu. Ngày nay Ghent là thành phố có diện tích 1205 km2 và tổng dân số 594.582 người kể từ ngày 1 tháng Giêng năm 2008 đứng thứ 4 đông dân nhất ở Bỉ. Ghent là viên ngọc ẩn ở Bỉ tuy it nổi tiếng hơn so với thành phố chị em của nó là Antwerp và Bruges, nhưng Ghent lại là một thành phố năng động, xinh đẹp về khoa học, nghệ thuật, lịch sử và văn hóa. Hàng năm có mười ngày “Ghent Festival” được tổ chức với khoảng hai triệu du khách tham dự.
Ghent được UNESCO công nhận là Di sản thế giới năm 1998 và 1999. Các điểm nhấn nổi bật là kiến trúc hiện đại của những tòa nhà trường đại học Henry Van de Velde và một số công trình liền kề. Louis Roelandt, kiến trúc sư nổi tiếng nhất của Ghent thế kỷ XIX đã xây dựng hệ thống các trường đại học, khu hội nghị, nhà hát opera và tòa thị chính. Bảo tàng quan trọng nhất ở Ghent là Bảo tàng Mỹ thuật Voor Schone Kunsten với các bức tranh nổi tiếng của Hieronymus Bosch, Peter Paul Rubens, kiệt tác của Victor Horta và Le Corbusier, Huis van Alijn. Nhà thờ Saint Bavo lâu đài Gravensteen và kiến trúc lộng lẫy của bến cảng Graslei cũ là những nơi thật đáng chiêm ngưỡng. Đó là sự pha trộn tốt đẹp giữa sự phát triển thoải mái của cuộc sống và lịch sử, mà không phải là một thành phố bảo tàng. Giở lại những trang sử của Ghent năm 1775, các bằng chứng khảo cổ cho thấy sự hiện diện của con người trong khu vực hợp lưu của Scheldt và Lys trong thời kỳ đồ đá và đồ sắt. Hầu hết các nhà sử học tin rằng tên cũ của Ghent có nguồn gốc từ ‘Ganda’ có nghĩa là hợp lưu có từ thời La Mã. Khoảng năm 650, Saint Amand thành lập hai tu viện tại Ghent đó là Saint Peter Abbey và Saint Bavo Abbey. Khoảng năm 800, Louis Pious con trai của Charlemagne đã bổ nhiệm Einhard, người viết tiểu sử của Charlemagne, làm trụ trì của cả hai tu viện. Trong những năm 851 đến 879, thành phố bị tấn công và cướp phá hai lần sau đó được phục hồi và phát triển rực rỡ từ thế kỷ 11. Cho đến thế kỷ 13, Ghent là thành phố lớn nhất ở châu Âu sau Paris, lớn hơn Luân Đôn và Mạc Tư Khoa. Thời Trung Cổ, Ghent là một trong những thành phố quan trọng nhất châu Âu đối với ngành công nghiệp len và dệt may. Vào năm 1500, Charles V, Hoàng đế La Mã và vua Tây Ban Nha đã được sinh ra ở Ghent. Sau nhiều thăng trầm của lịch sử và sự tàn phá của các cuộc chiến tranh Ghent kết thúc vai trò của một trung tâm địa chính trị quân sự quan trọng quốc tế và trở thành một thành phố bị chiếm đóng, bị giành giật giữa các thế lực. Sau khi trận chiến Waterloo, Ghent trở thành một phần của Vương quốc Anh và Hà Lan suốt 15 năm. Lạ kỳ thay, chính trong giai đoạn tổn thương nghiêm trọng này, Ghent thành lập trường đại học cho riêng mình năm 1817 để khai sáng văn minh dân tộc. Họ cũng chấn hưng kinh tế bằng quyết tâm kết nối cảng biển năm 1824-1827. Sau cuộc Cách mạng Bỉ, với sự mất mát của cảng biển nền kinh tế địa phương bị suy sụp và tê liệt. Ghent bị chiếm đóng bởi người Đức trong cả hai cuộc chiến tranh thế giới nhưng đã tránh được sự tàn phá nghiêm trọng và đã được giải phóng bởi Vương quốc Anh ngày 6 tháng 9 năm 1944. Điều bền vững trường tồn cùng năm tháng chính là con người, văn hóa và giáo dục. Phần lớn kiến trúc thời Trung cổ của thành phố hiện vẫn còn nguyên vẹn và được phục hồi, bảo tồn khá tốt cho đến ngày nay.
Ghent còn là thành phố lễ hội thường xuyên hàng năm với các nhà hàng ẩm thực nổi tiếng. Nhiều sự kiện văn hóa lớn như Lễ hội âm nhạc, Liên hoan phim quốc tế, Triển lãm lớn thực vật, Hội thảo Trường Đại học Ghent và các Công ty nghiên cứu … đã thu hút đông đảo du khách đến thành phố. Khoa học công nghệ và nghệ thuật thực sự được tôn trọng. Bạn có thành quả gì đóng góp cho chính sức khỏe, đời sống, niềm vui con người được vui vẻ đón nhận một cách thân thiện, hứng thú. Du lịch ngày càng trở thành ngành sử dụng lao động lớn tại địa phương.
Ghent cũng là vùng đất địa linh với quá nhiều những người nổi tiếng. Charles V, Hoàng đế La Mã và vua Tây Ban Nha đã được sinh ra ở Ghent năm 1500. Một danh sách dài những người đã và đang hóa thân cho sự phồn vinh của quê hương xứ sở với đủ loại ngành nghề khác nhau.
Phương Bắc đấy! Đi xa về Bắc Âu đến Phần Lan, Thụy Điển, Hà Lan, Đan Mạch, Na Uy là cả một vùng thiên nhiên, văn hóa mới lạ. Nơi đó không gian văn hóa thật trong lành. Chất lượng cuộc sống tốt hơn nhiều vùng tôi đã qua.
Tôi ngồi vào bàn và lưu lại điểm nhấn: “Đến Ghent nhớ những đêm trắng và bình minh phương Bắc cùng với phóng sự ành Memories from Ghent để hẹn ngày quay lại ngẫm và viết. Ghent lúc này đã gần nửa đêm tương ứng với Việt Nam khoảng bốn năm giờ sáng nhưng bầu trời mới bắt đầu tối dần như khoảng 7 giờ chiều ở Việt Nam. Ánh sáng trắng đang nhạt đi và trời như chạng vạng tối. Đẹp và hay thật !
Sắn quà tặng thế giới người nghèo
Hội nghị khoa học đầu tiên của các đối tác sắn toàn cầu (First Scientific Meeting of the Global Cassava Partnership GCP1) với chủ đề “Sắn đáp ứng các thách thức của thiên niên kỷ mới” (Cassava: Meeting the Challenges of the New Millennium) được mở ra ở Trường Đại học Ghent vương quốc Bỉ với hơn một ngàn người tham dự. 115 báo cáo và hơn 200 áp phích (poster) và gian hàng được trình bày, giới thiệu liên tục tại 13 tiểu ban trong ba ngày.
Tiến sĩ Claude Fauquet và tiến sĩ Joe Tohme có hai báo cáo thật ấn tượng: Cây sắn quà tặng của thế giới và cơ hội cho nông dân nghèo; Cây sắn quà tặng của thế giới và thách thức đối với các nhà khoa học. Những vấn đề khủng hoảng năng lượng toàn cầu, an ninh lương thực, môi sinh – môi trường đang thách thức thế giới hiện đại. Những câu hỏi đặt ra nhằm cải tiến cây sắn là cây chịu hạn, giàu tinh bột và năng lượng, đề mang lại thu nhập tốt hơn cho người dân nghèo.
Tôi tham dự hội nghị với ba bài viết S3-2 (trang 54) SP3-9 (trang 60) và SP03-16 trang 63) gồm một báo cáo trước hội nghị toàn thể và hai áp phích. Việt Nam là điển hình quốc tế về sự đột phá sản lượng và năng suất sắn với sản lượng sắn tăng gấp năm lần và năng suất sắn tăng gấp đôi sau tám năm (2000-2008). Đó quả là một điều kỳ diệu cho toàn thế giới! Việc chọn tạo và phát triển các giống sắn mới của Việt Nam đã mang lại bội thu cao trong sản xuất ước vượt trên 2.000 tỷ đồng mỗi năm từ năm 2003 (đạt quy mô 270 ngàn ha x 8,9 tấn bội thu/ha x 50 USD/ tấn x 16.000 VND/USD). Sự cần cù, năng động, chịu thương chịu khó của nông dân Việt Nam thật đáng tự hào!
Thành tựu sắn Việt Nam gắn liền với những bài học kinh nghiệm quý giá của đông đảo bà con nông dân, các nhà khoa học, khuyến nông, quản lý, doanh nghiệp … trong Chương trình Sắn Việt Nam (VNCP). Nước ta đã thành một trường hợp nghiên cứu điển hình (key study) của châu Á và Thế giới. Tôi bị vây kín giữa những người bạn suốt các lần giải lao một cách sung sướng và đáng thương. Đội ngũ đi họp của mình quá mỏng (chỉ một mình tôi) so với những đội hình sắn vững chãi của nhiều nước khác như Trung Quốc, Mỹ, Ấn Độ, Brazil, Thái Lan, Nigeria, Colombia, … Bài báo mà tôi viết chung với PGS.TS. Nguyễn Văn Bộ (Giám đốc Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam), tiến sĩ Reinhardt Howerler và tiến sĩ Hernan Ceballos (là hai chuyên gia nông học và chọn giống sắn hàng đầu của CIAT và thế giới) đã gây ấn tượng tốt và được nhiều người trao đổi, hỏi đáp.
Buổi tối tiến sĩ Boga Boma, giám đốc của một dự án sắn lớn của châu Phi đã mang đồ đạc sang đòi “chia phòng ngủ” với tôi để “trao đổi về bài học sắn Việt Nam và cùng cảm nhận đêm trắng”.
Boga Boma giàu, nhỏ tuổi hơn tôi, tính rất dễ thương, người cao lớn kỳ vĩ trên 1,90 m như một hảo hán. Lần trước Boga Boma làm trưởng đoàn 15 chuyên gia Nigeria sang thăm quan các giống sắn mới và kỹ thuật canh tác sắn của Việt Nam, đúc kết trao đổi về cách sử dụng sắn trong chế biến nhiên liệu sinh học. Anh chàng hảo hán này vừa ra đồng đã nhảy ngay xuống ruộng giống mới, đề nghị tôi nhổ thử một vài bụi sắn bất kỳ do anh ta chỉ định của giống mới KM140 (mà sau này đoạt giải Nhất VIFOTEC của Hội thi sáng tạo khoa học kỹ thuật toàn quốc lần thứ 10 trao giải ngày 19.1.2010 ở Hà Nội). Boga Boma ước lượng năng suất thực tế mỗi bụi sắn này phải sáu ký. Anh đo khoảng cách trồng rồi hồ hởi đưa lên một ngón tay nói với giọng thán phục “Sắn Việt Nam số 1”
Sau buổi tham quan đó, Boga Boma ngỏ lời đề nghị với tôi cho đoàn Nigeria được đến thăm nhà riêng để “tìm hiểu cuộc sống và điều kiện sinh hoạt làm việc của một thầy giáo nông nghiệp Việt Nam”. Anh chàng chăm chú chụp nhiều ảnh về tài liệu sắn của bảy Hội thảo Sắn châu Á và mười Hội thảo Sắn Việt Nam trong một phần tư thế kỷ qua. Anh cũng chụp bếp đèn dầu dùng ga của gia đình tôi. Boga Boma cũng như Kazuo Kawano, Reinhardt Howerler, Hernan Ceballos, Rod Lefroy, Keith Fahrney, Bernardo Ospina, S. Edison, Tian Ynong, Li Kaimian, Huang Jie, Chareinsak Rajanaronidpiched, Watana Watananonta, Jarungsit Limsila, Danai Supahan, Tan Swee Lian, J. Wargiono, Sam Fujisaca, Alfredo Alves, Alfred Dixon, Fernando A, Peng Zhang, Martin Fregene, Yona Beguma, Madhavi Sheela, Lee Jun, Tin Maung Aye, Guy Henry, Clair Hershey, … trong mạng lưới sắn toàn cầu với tôi đều là những người bạn quốc tế thân thiết. Hầu hết họ đều đã gắn bó cùng tôi suốt nhiều năm. Sự tận tâm công việc, tài năng xuất sắc, chân thành tinh tế của họ trong ứng xử tình bạn đời thường làm tôi thực sự cảm mến.
Bẳng đi một thời gian, Boga Boma thông tin Nigeria hiện đã ứng dụng bếp đèn dầu dùng cồn sinh học từ nguyên liệu sắn cho mọi hộ gia đình Nigeria trong toàn quốc. Nigeria đã thành công lớn trong phương thức chế biến sắn làm cồn gia đình phù hợp với đất nước họ, làm tiết kiệm được một khối lượng lớn xăng dầu với giá rất cạnh tranh cho tiêu thụ nội địa và xuất khẩu.
Lần này trong đêm trắng ở Ghent, Boga Boma lại hí húi ghi chép và ngẫm nghĩ về ba bài học kinh nghiệm sắn Việt Nam 6M (Con người, Thị trường, Vật liệu mới Công nghệ tốt, Quản lý, Phương pháp, Tiền: Man Power, Market, Materials, Management, Methods, Money), 10T (Thử nghiệm, Trình diễn, Tập huấn, Trao đổi, Thăm viếng, Tham quan hội nghị đầu bờ, Thông tin tuyên truyền, Thi đua, Tổng kết khen thưởng, Thiết lập mạng lưới người nông dân giỏi) và FPR (Thiết lập mạng lưới thí nghiệm đồng ruộng và trình diễn để nghiên cứu cùng nông dân chuyển giao tiến bộ kỹ thuật sản xuất sắn).
Buổi chiều Yona Beguma cùng các bạn châu Phi say mê trò chuyện cùng tôi về bài học sắn Việt Nam được giới thiệu trên trang của FAO với sự yêu thích, đặc biệt là “sáu em”(6M), “mười chữ T tiếng Việt” (10T) và “vòng tròn FPR dụ dỗ”. Sau này, anh chàng làm được những chuyện động trời của cây sắn Uganda mà tôi sẽ kể cho bạn nghe trong một dịp khác.
Nhìn lớp trẻ thân thương đầy khát vọng tri thức đang vươn lên đỉnh cao giúp xóa đói giảm nghèo và làm giàu cho quê hương xứ sở. Ngắm nhìn sự mê mãi của Boga Boma lúc bình minh vừa rạng lúc anh chàng đã thức gần trọn đêm. Tôi chợt nhớ câu thơ Việt Phương: “Yêu biết mấy những đêm dài thức trắng/ Làm kỳ xong việc nặng sẵn sức bền/ Bình minh đuổi lá vàng trên đường vắng/ Như vì ta mà đời cũng ửng hồng lên”.
Đêm trắng và bình minh phương Bắc
Tôi lục tìm trong khoang tư liệu, đọc lại trích đoạn “Những đêm trắng” của nhà văn Nga Dostoievski và đoạn viết về hiện tượng cực quang của bình minh phương Bắc: “Ở vùng cực của trái đất, ban đêm, thường thấy hiện tượng ánh sáng có nhiều màu sắc: trắng, vàng, đỏ, xanh, tím, rực rỡ có hình dáng như một bức rèm hoặc một cái quạt rất lớn. Có khi những tia sáng lại xòe ra như hình nạn quạt. Cái quạt ánh sáng ấy lấp lánh rung chuyển nhè nhẹ như một bàn tay khổng lồ rũ xuống rũ lên, lập lòe làm thành một quang cảnh kỳ vĩ lạ thường. Màn ánh sáng ấy trong suốt đến nỗi nhìn qua thấy rõ tất cả các ngôi sao trên bầu trời. Hướng của những tia sáng nói chung trùng với hướng của các đường sức của từ trường trái đất. Loại ánh sáng này xuất hiện từ độ cao 80 đến 1.000 km và nhiều nhất là ở độ cao trên dưới 120 km. Ở nước Nga thời trước người ra cho rằng đó là ánh hào quang của những đoàn thiên binh thiên tướng kéo đi trong không gian. Còn nhân dân Phần Lan cho đó là mặt trời giả của người xưa làm ra để soi sáng cho đêm trường Bắc Cực. Vì loại ánh sáng này chỉ thấy trong những miền gần hai cực nên gọi là cực quang. Ở Na Uy và Thụy Điển thì người ta gọi là ánh sáng “bình minh phương Bắc”.
Qua Ghent mới thấy đêm phương Bắc đến chậm và sớm nhanh Việt Nam như thế nào, mới thấm hiểu sự sâu sắc của Dostoievski nhà văn bậc thầy văn chương Nga và thế giới: Ông nói chuyện trời mà cũng là nói chuyện người. Ông trò chuyện về du lịch mà thực ra đang nói về nhân tình thế thái, những đêm trắng và ảo ảnh bình minh phương Bắc. Đó là câu chuyện thật như đùa và đùa như thật, ảo giác mà tưởng thật, thật mà tưởng ảo giác. Nhân loại đã đi qua vùng sáng tối đó, ánh sáng của thiên đường, những đêm trắng nối liền bình minh phương Bắc.
Thực ra, khi bạn đến thủ đô Helsinki của Phần Lan vào tháng 6,7 thì đêm trắng và ảo ảnh bình minh phương Bắc rõ hơn nhiều. Bạn hãy đến đúng dịp hè và chuẩn bị sẵn máy ảnh loại tốt, độ phân giải lớn, khẩu độ rộng để săn ảnh. Tôi buộc phải sử dụng chùm ảnh du lịch Phần Lan vì máy ảnh họ chụp tốt hơn những tấm ảnh đẹp mê hồn về đêm trắng, trời tím và ngủ lều tuyết.
Ở Phần Lan, nhiệt độ trung bình của tháng nóng nhất khoảng 15 độ C, và tháng lạnh nhất khoảng -9 độ C. Trung bình mỗi năm ở Phần Lan có hơn 100 ngày tuyết phủ ở phía nam và tây nam, còn ở phía bắc vùng Lappi thì tới hơn 200 ngày có tuyết. Nhiệt độ ban ngày và ban đêm chênh nhau tới 20 độ C, ngày lạnh nhất và ngày ấm nhất chênh nhau 80 độ C. Mặt trời mọc tháng 1, 2 lúc 9h30 sáng và lặn lúc 3h30 chiều là những ngày ngắn nhất trong năm. Tháng 6,7 mặt trời mọc lúc 4h00 sáng và lặn lúc 10h30 tối là những ngày dài nhất trong năm. Cá biệt ở phía Bắc vùng đất Lapland có những đêm trắng vào mùa hè, mặt trời không bao giờ lặn trong khoảng 60 ngày đêm nên có thể ngắm mặt trời lúc nửa đêm. Tiếp đó là khoảng thời gian chạng vạng không nhìn thấy mặt trời kéo dài trong khoảng 6 tháng vào mùa thu và đông. Không riêng gì Phần Lan mà hầu hết các nước Bắc Âu khí hậu lạnh và thời tiết thay đổi thất thường không được ấm áp thường xuyên như Việt Nam. Tôi lấy làm lạ khi sau này một số người đọc chưa hiểu đúng về sự khái quát cực kỳ tinh tế của Bác: “Nước ta: ở về xứ nóng, khí hậu tốt/ Rừng vàng biển bạc, đất phì nhiêu/ Nhân dân dũng cảm và cần kiệm/ Các nước anh em giúp đỡ nhiều.”
Tại Ghent của vương quốc Bỉ, nơi thành phố khoa học và công nghệ sinh học thì ấm hơn nhưng sự tiếp biến đêm trắng và bình minh phương bắc vẫn còn rất rõ nét. Ở đó, mặt trời tháng bảy mọc lúc hừng đông 4g30 -5g00 và lặn lúc 8g00- 9g00. Săn ảnh vào lúc bình minh vừa rạng cũng như ngắm mây ngũ sắc huyền thoại lúc mặt trời sắp lặn ở Việt Nam. Bạn hãy ngắm dòng tinh vân xinh đẹp lạ thường trước lúc bình minh.
Sau này ở Việt Nam tôi chỉ có cơ hội nhìn thấy được sự chuyển màu từ tối tím sang bảy màu, sang màu xanh ngọc và trắng hồng lúc 4g30 sáng ngày 18 tháng 1 năm 2010 tại chòm cao nhất của non thiêng Yên Tử. Tôi chụp trên 100 tấm ảnh mới chọn được tấm ảnh ưng ý nhất. Đó là dịp may hiếm có của đời người. Sau này chúng ta sẽ nhiều dịp trở lại với Trần Nhân Tông và Bình minh trên Yên Tử để học được bài học vô giá của ông cha mình.
Chúng tôi được giáo sư Marc Van Montagu, nhà bác học lừng danh thế giới cha đẻ GMO, vị chủ tịch của Liên đoàn Công nghệ sinh học châu Âu và hiệu trưởng của Trường Đại học Ghent hướng dẫn thăm quan lâu đài cổ, bảo tàng nghệ thuật và trường đại học nơi Ghent được UNESCO tôn vinh là di sản văn hóa thế giới năm 1998, 1999 và mời dự tiệc chiêu đãi. Tôi được mời ngồi bên cạnh ông và ba con người kỳ dị khác. Đó là Claude Fauquet (DDPSC, St Louis USA), Joe Tohme (CIAT, Colombia), G. Hawtin (CIAT, Colombia). Họ quá nổi tiếng trong số những con người đang làm thay đổi thế giới về bức tranh cây sắn và khoa học cây trồng những năm đầu thế kỷ 21. Tôi thực sự ngần ngại vị trí ngồi chung này và muốn thoái thác nhưng họ vui vẻ thân tình mời đại diện các châu lục. Họ đối xử với tôi và các đồng nghiệp với một sự tự nhiên, quý mến, trân trọng, và thực lòng ngưỡng mộ những kết quả đã đạt được của sắn Việt Nam (sau này khi nghĩ lại tôi ứa nước mắt hãnh diện về dân tộc mình đã cho chúng tôi cơ hội “O du kích bắn đại bác”). Tôi biết rõ những tài năng ưu tú xung quanh mình. Họ dung dị bình thường, thân tình lắng nghe nhưng đó là những con người khoa học đặc biệt. Họ không ham hố giàu sang và quyền lực mà chăm chú tận tụy giảng dạy và nghiên cứu, phát triển những thành tựu khoa học nông nghiệp mới, góp phần cải biến chất lượng thực phẩm thế giới theo hướng ngon hơn, tốt hơn, rẻ hơn và thân thiện môi trường hơn (HarvestPlus) nâng cao cuộc sống chúng ta. Tiến sĩ Rajiv J.Shah, giám đốc của Chương trình Phát triển Toàn cầu, Quỹ Bill Gate và Melinda (nơi tài trợ chính cho chuyến đi này của tôi) đã nói như vậy. Tôi ngưỡng mộ và tìm thấy ở họ những vầng sáng của trí tuệ và văn hóa.
Chợt dưng tôi nhớ đến Bernadotte với vợ là Déssirée trong tác phẩm “Mối tình đầu của Napoléon” của Annemarie Selinko. Vợ chồng hai con người kỳ vĩ này với lý tưởng dân chủ đã xoay chuyển cả châu Âu, giữ cho Thụy Điển tồn tại trong một thế giới đầy biến động và nhiễu nhương. Bắc Âu phồn vinh văn hóa, thân thiện môi trường và có nền giáo dục lành mạnh phát triển như ngày nay là có công và tầm nhìn kiệt xuất của họ. Bernadotte là danh tướng của Napoleon và sau này được vua Thụy Điển đón về làm con để trao lại ngai vàng. Ông xuất thân hạ sĩ quan tầm thường nhưng là người có chí lớn, suốt đời học hỏi và tấm lòng cao thượng rộng rãi. Vợ ông là Déssirée là người yêu đầu tiên của Napoleon nhưng bị Napoleon phản bội khi con người lừng danh này tìm đến Josephine một góa phụ quý phái, giàu có, giao du toàn với những nhân vật quyền thế nhất nước Pháp, và Napoleon đã chọn bà làm chiếc thang bước lên đài danh vọng. Bernadotte với vợ là Déssirée hiểu rất rõ Napoleon. Họ đã khéo chặn được cơn lốc cuộc chiến đẫm máu tranh giành quyền lợi giữa các tập đoàn thống trị và các nước có lợi ích khác nhau. Bernadotte và Déssirée đã đưa đất nước Thụy Điển và Bắc Âu thoát cuộc tranh giành. Họ đã khai sáng một vầng hào quang bình minh phương Bắc.
Việt Nam và khối Asean hiện cũng đang đứng trước khát vọng mở mang của “con sư tử phương Đông trỗi dậy” và sự vần vũ của thế giới văn minh nhiều cơ hội hơn cho người dân nhưng cũng tiềm ẩm lắm hiễm họa khó lường. Điều này dường như rất giống của thời người hùng Napoleon của một châu Âu và khao khát của nước Pháp muốn phục hưng dân tộc và mở rộng phạm vi ảnh hưởng. Bài học Bắc Âu miền đất trong lành, nước Bỉ trái tim của EU, và Ghent thành phố khoa học công nghệ là chỉ dấu minh triết chưa bao giờ sáng tỏ và cấp thiết như lúc này. Trước những khúc quanh của lịch sử, các dân tộc tồn tại và phát triển đều biết khéo tập hợp những lực lượng tinh hoa và sức mạnh dân chúng để thoát khỏi hiễm họa và bảo tồn được những viên ngọc quý di sản truyền lại cho đời sau. Trong vùng địa chính trị đầy điểm nóng tranh chấp biên giới hải đảo, sự tham nhũng chạy theo văn minh vật chất và nguy cơ tha hóa ô nhiễm môi trường, nguồn nước, bầu khí quyển, vệ sinh thực phẩm, văn hóa giáo dục và chất lượng cuộc sống thì bài học trí tuế càng cấp thiết và rõ nét. Ông José António Amorim Dias, Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước Cộng hòa Dân chủ Timor-Leste tại UNESCO và Liên minh châu Âu trên chuyến tàu tốc hành từ Brussels đến Paris chung khoang với tôi đã trò chuyện và chia sẽ rất nhiều điều về triết lý nhân sinh và văn hóa giáo dục.
Đi đâu cũng không bằng Tổ quốc mình. Nói gì, làm gì cũng không bằng dạy, học và làm cho đồng bào đất nước mình. Đi khắp quê người để hiểu đất quê hương. Mục đích sau cùng của dạy và học là thấu suốt bản chất sự vật, có lời giải đúng và làm được việc. Dạy và học thực tiễn trên chính Tổ quốc mình. Việt Nam quê hương tôi! Đó là đất nước của biết bao nhiêu thế hệ xả thân vì nước để quyết giành cho được độc lập, thống nhất, tự do và toàn vẹn lãnh thổ. “Nếu chỉ để lại lời nói suông cho đời sau sao bằng đem thân đảm nhận trọng trách cho thiên hạ trước đã” nhưng “sức một người thì có hạn, tài trí thiên hạ là vô cùng”. “Lời nói là đọi vàng”. Làm nhà khoa học xanh hướng đến bát cơm ngon của người dân nghèo, đó là điều tôi tâm đắc nhất !
Nhân loại đã có một thời đi trong đêm trắng ánh sáng của thiên đường, đêm trắng bình minh phương Bắc. Sự chạng vạng tranh tối tranh sáng có lợi cho sự quyền biến nhưng khoảng khắc bình minh là sự kỳ diệu mở đầu cho ngày mới, vận hội mới.
Ngày mới bắt đầu từ bình minh. Đời người bắt đầu từ tuổi trẻ. Tôi đã đi qua một vòng trái đất, một vòng đời người, một vùng đêm trắng để chào ban mai. Quy luật cuộc sống là đổi mới. Chào ngày mới là bài học bảo tồn và đổi mới lặp lại cho chúng ta mỗi ngày.
Kim Dung là nhà văn có tầm ảnh hưởng lớn nhất của văn học Trung Quốc hiện đại . Ông là một trí tuệ lớn. Kim Dung sinh ngày 10 tháng 3 năm 1924 nhằm ngày 6 tháng 2 năm Giáp Tý, mất ngày 30 tháng 10 năm 2018 tại một bệnh viện ở Hong Kong do tuổi cao, hưởng thọ 94 tuổi.
Kim Dung sinh tại Haining, Gia Hưng, Trung Quốc, tên thật là Tra Lương Dung (Louis Cha Leung-yung) thường được biết đến với tên bút danh quen thuộc là Kim Dung (Jin Yong). Ông là một tiểu thuyết gia và nhà viết tiểu thuyết Trung Hoa đồng sáng lập Minh Báo là tờ báo hàng ngày của Hồng Kông từ năm 1959 và là tổng biên tập đầu tiên của tờ báo này. Ông là nhà văn danh tiếng châu Á và Thế giới , được coi là nhà văn nổi tiếng nhất Trung Quốc và Hồng Kông thời hiện tại Tên ông được đặt cho tiểu hành tinh 1998 CR2 được tìm thấy trùng với ngày sinh âm lịch của ông. Tháng 2 năm 2006, ông được độc giả bầu chọn là nhà văn được yêu thích nhất Trung Quốc. Kim Dung với kiệt tác nổi tiếng “Tuyết Sơn phi hồ” đã được Trung Quốc đưa vào sách giáo khoa môn ngữ văn từ ngày 1 tháng 9 năm 2007, thế chỗ cho “AQ chính truyện” của Lỗ Tấn là tác phẩm đã ngự trị văn đàn Trung Hoa từ nhiều năm nay. Hầu hết chuyên gia ngữ văn Trung Quốc đều cho rằng việc xem nhẹ cổ văn là sai lầm và không thể chấp nhận được cần kíp phải bảo lưu tinh hoa văn học cổ. Dòng văn học thông tục giải trí kiểu fast food tuy không thể thay thế dòng văn hóa kinh điển uyên thâm bác học chủ lưu nhưng vấn đề cốt lõi là cần phải thay đổi nhận thức lý do trào lưu văn hóa lớp trẻ yêu thích hiệu quả thực dụng. Vì vậy mô thức dạy và học kiểu mới cũng như thể chế thi cử cần đổi mới để nâng cao chất lượng văn hóa giáo dục hiện đại thích ứng với tình thế mới. Kim Dung trong ngày mới thể hiện trào lưu văn hóa đó cần phải nghiên cứu, học tập và vận dụng thích hợp.
Triết học Trung Hoa tinh hoa cổ điển tôn thờ những hình tượng điển hình Nghiêu Thuấn, Lão Trang, Khổng Tử, Khổng Minh, Quan Công là những khuôn mẫu tiêu biểu của nhân nghĩa lễ trí tín. Đến thời cách mạng Tân Hơi và thời kỳ đầu của cách mạng văn hóa Trung Quốc lại nghiêng về sự cười nhạo những đặc tính phổ biến căn bản làm kìm hãm sự thoát xác của đất nước Trung Hoa mới cần phải cách mạng sửa đổi. Đó là hình tượng “AQ chính truyện” và “Nhật ký người điên” của đại văn hào Lỗ Tấn xác định ‘tâm bệnh của người Trung Quốc” cần phải chữa trị thay thế là gì. Cho đến nay thì hình tượng của Hồ Phỉ trong “Tuyết Sơn phi hồ” và hình tượng của Vi Tiểu Bảo trong “Lộc Đỉnh Ký” của đại văn hào Kim Dung là sự ngấm ngầm hoặc công khai yêu thích rất phổ biến của giới trẻ Trung Quốc. Đó là những cảnh báo đặc biệt sâu sắc không dễ thấy về một sự chuyển đổi tâm lý và hình mẫu biểu tượng người Trung Quốc mới được văn học hóa.
KIM DUNG NHỮNG KIỆT TÁC LẮNG ĐỌNG
Kim Dung có 15 kiệt tác lắng đọng, nổi tiếng nhất là Thiên long bát bộ, Lộc Đỉnh ký, Tuyết Sơn phi hồ, Hiệp khách hành, Tiếu ngạo giang hồ, Anh hùng xạ điêu, Ỷ Thiên Đồ Long ký, Thần Điêu đại hiệp, Thư kiếm ân cừu lục, Bích huyết kiếm … đọc say mê như có ma lực. Những sách này đều đã được chuyển thể thành phim. Dịch giả Vũ Đức Sao Biển với “Kim Dung giữa đời tôi” đã cung cấp một tầm nhìn khái quát về các tác phẩm trên. Đỗ Long Vân với loạt bài Vô Kỵ giữa chúng ta hay là hiện tượng Kim Dung là một chuyên luận sâu sắc. Một loạt các dịch giả tài năng và nhà văn tên tuổi như Hàn Giang Nhạn, Vũ Đức Sao Biển, Cao Tự Thanh, Lê Khánh Trường, Đông Hải, Huỳnh Ngọc Chiến, Nguyễn Duy Chính, Bùi Giáng, Bửu Ý đã khai mở và giới thiệu sách hay của Kim Dung liên tục trong nhiều năm, Đặc biệt là Công ty sách phương Nam đã đưa Kim Dung đến rất gần gũi với người đọc Việt. Bạn Cà phê Sách Xóm Lá có bài “Tản mạn chuyện Kim Dung ” đọc rất thích với sự giao hòa và đồng cảm sâu sắc.
Kim Dung là nhà văn hóa sử thi bậc thầy. Ông đã lựa chọn sự kiện Tỉnh Khang ngày 9 tháng 1 năm 1127 là một biến cố lớn trong lịch sử nhà Tống Trung Quốc đánh dấu sự diệt vong của vương triều Bắc Tống sau đó kéo theo sự diệt vong của nhà Kim dẫn tới Trung Quốc được thống nhất dưới triều đại nhà Nguyên Mông (1271-1368). Ông xâu chuỗi lịch sử và soi thấu tiến trình hưng vong của trên 500 năm từ cuối triều Bắc Tống đến giữa nhà Thanh để viết nên 15 bộ tiểu thuyết lớn nói trên. Tầm nhìn sử thi Kim Dung soi sáng nhiều bài học lịch sử địa lý văn hóa.
Kim Dung, Vương Mông, Lâm Ngữ Đường và Mạc Ngôn là những diện mạo lớn của văn chương và ngôn ngữ văn hóa Trung Quốc đương đại . Nhà văn Trung Quốc mới bạn thích ai? Điều này tùy thuộc “gu” bạn đọc nhưng cũng tùy thuộc vào điều kiện, mức độ tiếp cận và cách xử lý thông tin. Tôi thích học để làm, học chuyên môn kết nối với lịch sử văn hóa nên thích sách Kim Dung hơn. Sách ông là một bách khoa thư về nhiều lĩnh vực, đặc biệt là lịch sử văn hóa. “Sự đọc” có câu cách ngôn vận vào đây thật đúng: “Trong một thế giới có đủ bình tâm, người viết nhỏ hơn người đọc, người đọc nhỏ hơn quyển truyện họ đang đọc, và quyển truyện nhỏ hơn sự đọc. Người viết và người đọc rồi chết, truyện rồi quên. Sự đọc ở lại và làm nên một phần mênh mông trong định nghĩa của việc làm người“.
Bài viết này là sự tưởng nhớ Kim Dung trong ngày sinh và ngày ông về chốn vĩnh hằng.
KIM DUNG CUỘC ĐỜI VÀ TÁC PHẨM
Kim Dung tên thật là Tra Lương Dung (Cha Leung Yung), ông sinh vào ngày 10 tháng 3 năm 1924 tại trấn Viên Hoa, huyện Hải Ninh, địa cấp thị Gia Hưng, tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc, trong một gia tộc khoa bảng danh giá. Ông cố của Kim Dung là Tra Thận Hành, nhà thơ nổi tiếng đời nhà Thanh, ông nội là Tra Văn Thanh làm tri huyện Đan Dương tỉnh Giang Tô sau từ chức, đến đời con ông là Tra Xu Khanh thì bắt đầu sa sút. Cha của Kim Dung theo nghề buôn, ông có sáu đứa con. Kim Dung có một anh trai, hai em trai, hai em gái. Kim Dung là người anh lớn thứ hai trong số đó, ông có bốn con với hai trai và hai gái đều là con của người vợ thứ hai.
Kim Dung thuở nhỏ thông minh lanh lợi ham đọc sách và sớm có năng khiếu viết sách . Ông yêu thiên nhiên, thích nghe kể chuyện thần thoại, truyền thuyết, nhất là về những ngọn triều trên sông Tiền Đường. Đặc biệt ông rất mê đọc sách. Dòng họ Kim Dung có một nhà để sách gọi là “Tra thị tàng thư” nổi tiếng khắp vùng Chiết Tây, chứa rất nhiều sách cổ, những cuốn sách này làm bạn và ảnh hưởng tới cuộc đời của Kim Dung từ khi ông còn rất bé. Kim Dung sáu tuổi vào học tiểu học ở quê Hải Ninh. Ông rất chăm học, lại thêm mê đọc sách từ bé nên trở thành một học sinh giỏi của lớp. Thầy Trần Vị Đông dạy văn thuở nhỏ cho ông là người rất thương yêu tin tưởng Kim Dung, đă cùng ông biên tập tờ báo lớp. Một số bài làm văn của Kim Dung nhờ sự giới thiệu của thầy Đông đă được đăng lên Đông Nam nhật báo,một tờ báo nổi tiếng của Trung Quốc thời bấy giờ. Kim Dung năm tám tuổi lần đầu đọc tiểu thuyết võ hiệp, khi đọc bộ truyện Hoàng Giang nữ hiệp của Cố Minh Đạo, thì rất say mê, sau đó thường hứng thú sưu tầm tiểu thuyết thể loại này. Kim Dung năm 13 tuổi, xảy ra sự biến Lư Câu Kiều, được gửi đến học trường trung học Gia Hưng ở phía Đông tỉnh Chiết Giang. Ông tuy học xa nhà những ham đọc sách và vẫn đứng đầu lớp. Kim Dung viết cuốn sách đầu tiên lúc ông 15 tuổi là cuốn sách Dành cho người thi vào sơ trung, một cẩm nang luyện thi, được nhà sách chính quy xuất bản. Kim Dung khi học bậc Cao trung lại soạn sách Hướng dẫn thi vào cao trung. Hai cuốn sách này của Kim Dung in ra bán rất chạy, đem lại cho ông nhuận bút tốt .
Kim Dung thời học việc và khởi đầu nghiệp văn. Ông năm 16 tuổi đã viết truyện trào phúng Cuộc du hành của Alice có ý châm biếm ngài chủ nhiệm ban huấn đạo, người này rất tức giận, liền ép hiệu trưởng phải đuổi học ông. Tác phẩm Cuộc du hành của Alice tuy gây tai hại cho Kim Dung nhưng đã cho thấy sức ảnh hưởng của một tác phẩm văn chương làm mất mặt của một bộ phận người thực trong xả hội bị văn chương đưa nguyên mẫu nhân vật ra dư luận làm trò cười ảnh hưởng to lớn. Kim Dung sau đó chuyển đến học trường Cù Châu, nhưng tại trường này cũng có những quy định rất bất công, thầy giáo có quyền lăng nhục học sinh nhưng học sinh không được quyền phê bình thầy giáo. Kim Dung đang học năm thứ hai tại trường đã viết bài Một sự ngông cuồng trẻ con đăng lên Đông Nam nhật báo. Bài báo làm chấn động dư luận trong trường, giới học sinh tranh nhau đọc và Ban Giám hiệu trường Cù Châu đành phải bãi bỏ những quy định nọ. Một ký giả của Đông Nam nhật báo là Trần Hướng Bình đã lặn lội tìm đến trường học để thỉnh giáo tác giả bài báo do sự hâm mộ mà không biết tác giả chỉ là một học sinh. Năm 1941, chiến tranh Thái Bình Dương bùng nổ, trường Cù Châu phải di dời, Ban Giám hiệu trường quyết định cho học sinh lớp cuối tốt nghiệp sớm để bớt đi gánh nặng. Kim Dung cũng nằm trong số đó. Sau ông thi vào học Luật quốc tế tại học viện chính trị Trung ương ở Trùng Khánh. Thi đậu, nhưng để đến được trường phải trải qua nhiều ngày đi bộ. Tại học viện chính trị Trung ương, Kim Dung vẫn học rất giỏi, cuối năm nhất ông được tặng phần thưởng cho sinh viên xuất sắc nhất. Thời kỳ này, ông ngoài tham gia viết bình luận chính trị trên các báo, còn bắt tay vào làm cuốn Anh – Hán tự điển và dịch một phần Kinh Thi sang tiếng Anh, hai công trình này về sau dở dang. Ông học lên năm thứ ba thì tại trường bắt đầu nổi lên các cuộc bạo loạn chính trị. Kim Dung có lần đã viết thư tố cáo một vụ bê bối trong trường, và đây là lần thứ hai trong đời ông bị đuổi học lúc ông 19 tuổi.
Kim Dung thời làm việc tại Thư viện Trung ương và nông trường Trương Tây. Ông xin việc tại Thư viện Trung ương và mỗi ngày sống chung với sách quý làm bạn hiền nên kiến thức lịch sử văn hóa Trung Quốc của ông nhờ vậy được uyên thâm vững chắc lạ thường. Ông đọc nhiều cổ văn Trung Quốc và thế giới, các tác phẩm văn chương danh tiếng như Ivanhoe của Walter Scott, Ba người lính ngự lâm, Bá tước Monte-Cristo của Alexandre Dumas (cha), những tác gia và tác phẩm nổi tiếng đã ảnh hưởng đến văn phong của ông. Tại đây ông sáng lập Thái Bình Dương tạp chí, nhưng chỉ ra được số đầu đến số thứ hai thì nhà xuất bản không chịu in nên tờ báo đầu tiên của ông thất bại nhưng ông trãi nghiệm được sự biên tập và xuất bản báo chí. Sau thất bại này, năm 1944 Kim Dung đến làm việc tại nông trường Tương Tây rất hẻo lánh. Đến năm 1946, ông không chịu nổi sự cô tịch nên xin thôi việc. Người chủ nông trường không cản được đành tiễn ông bằng một bữa cơm thịnh soạn. Mùa hạ năm đó, ông trở về quê cũ Hải Ninh, cha mẹ ông thấy ông không việc làm nên rất buồn. Điều ấy khiến ông quyết tâm đi lập nghiệp.
Kim Dung thời làm báo. Năm 1946 Kim Dung từ biệt gia đình đến Hàng Châu làm phóng viên cho tờ Đông Nam nhật báo theo lời giới thiệu của Trần Hướng Bình, người ngày xưa đã tìm đến trường ông. Ông làm việc rất tốt, tỏ ra có tài thiên phú về viết báo. Năm sau, theo lời mời của tạp chí Thời dữ triều, ông thôi việc ở Đông Nam nhật báo, sang Thượng Hải tiếp tục nghề viết và dịch thuật. Sau đó ít lâu ông lại rời toà soạn Thời dữ triều, xin vào làm phiên dịch của tờ Đại công báo. Lúc này anh trai của Kim Dung là Tra Lương Giám đang làm giáo sư ở học viện Pháp lý thuộc đại học Đông Ngô gần đó, ông liền xin vào học tiếp về luật quốc tế. Năm 1948, Kim Dung được tòa soạn của tờ Đại công báo cử sang làm việc dịch tin quốc tế cho trang phụ bản của báo này tại Hồng Kông. Trước khi ra đi vài ngày, ông chạy đến nhà họ Đỗ để ngỏ lời cầu hôn cô con gái 18 tuổi và được chấp nhận. Hôn lễ tổ chức trang trọng tại Thượng Hải, người vợ đầu tiên Đỗ Trị Phân của ông rất xinh đẹp. Năm 1950, gia đình của Kim Dung bị quy thành phần địa chủ trong cuộc Cải cách ruộng đất ở Trung Quốc, cha ông bị đấu tố. Vợ ông Đỗ Trị Phân không chịu sống ở Hồng Kông, đòi trở về gia đình bên mẹ và không chịu về nhà chồng nữa. Năm 1951 họ quyết định ly hôn lúc ông 27 tuổi. Năm 1952, Kim Dung sang làm việc cho tờ Tân văn báo, phụ trách mục Chuyện trà buổi chiều, chuyên mục này giúp ông phát huy khả năng viết văn của mình hơn, ông rất thích, một phần vì khán giả cũng rất thích. Ông còn viết phê bình điện ảnh. Từ đó dần đi sâu vào lĩnh vực này. Từ 1953, Kim Dung rời Tân Văn báo, bắt tay vào viết một số kịch bản phim như Lan hoa hoa, Tuyệt đại giai nhân, Tam luyến… dưới bút danh Lâm Hoan. Những kịch bản này dựng lên được các diễn viên nổi tiếng thời bấy giờ như Hạ Mộng, Thạch Tuệ, Trần Tứ Tứ… diễn xuất và gặt hái được nhiều thành công đáng kể.
Kim Dung với 15 bộ tiểu thuyết lớn. Kim Dung từ ngày vào làm Tân Văn Báo, đã quen thân với Lương Vũ Sinh và La Phù được hai người ủng hộ và giúp đỡ. Kim Dung năm 1955 bắt đầu viết truyện võ hiệp Thư kiếm ân cừu lục, đăng hàng ngày trên Hương Cảng tân báo lấy bút danh là Kim Dung chiết tự từ chữ “Dung” tên thật của ông, nghĩa là “cái chuông lớn”. Kim Dung và Lương Vũ Sinh sau tác phẩm này được dư luận chú ý và dần được xem như hai người khai sinh ra Tân phái tiểu thuyết võ hiệp. Ông viết tiếp bộ Bích huyết kiếm được hoan nghênh nhiệt liệt, từ đó ông chuyên tâm viết tiểu thuyết võ hiệp và làm báo, không hoạt động điện ảnh nữa. Năm 1959, Kim Dung cùng với Trầm Bảo Tân bạn học phổ thông sáng lập Minh Báo. Ông vừa viết tiểu thuyết, vừa viết các bài xă luận. Qua các bài xă luận của ông, Minh Báo càng ngày được biết đến và là một trong những tờ báo được đánh giá cao nhất. Minh Báo đã theo ông lâu dài từ đấy cho đến khi ông kết thúc sự nghiệp sáng tác. Năm 1972, Kim Dung sau khi viết cuốn tiểu thuyết cuối cùng, đă chính thức nghỉ hưu.
Tác phẩm của Kim Dung có tổng cộng 15 truyện trong đó có 14 tiểu thuyết và 1 truyện ngắn. Hầu hết các tiểu thuyết đều được xuất bản trên các nhật báo. Ngoài các tiểu thuyết võ hiệp, ông còn viết các truyện lịch sử Trung Quốc. Ông đã được trao tặng nhiều huân chương danh dự. Kim Dung đã được trao tặng huân chương OBE của Vương Quốc Anh năm 1981, và Bắc đẩu bội tinh năm 1982, Commandeur de l’Ordre des Arts et des Lettres năm 2004 của chính phủ Pháp.Ông cũng là giáo sư danh dự của nhiều trường đại học như Bắc Kinh, Triết Giang, Nam Khai, Hồng Kông, British Columbia cũng như là tiến sĩ danh dự của đại học Cambridge.
Kim Dung 45 năm hiệu đính và nâng cấp tác phẩm.. Kim Dung từ năm 1973 bắt đầu biên tập chỉnh sửa các tác phẩm văn học của mình hoàn chỉnh và in thành sách năm 1979. Sau đó hầu hết các tác phẩm in sách đều được chuyển thể thành phim truyền hình. Năm 1973, Kim Dung tham gia giới chính trị Hồng Kông. Ông là thành viên của ủy ban phác thảo Đạo luật cơ bản Hồng Kông. Ông cũng là thành viên của Ủy ban chuẩn bị giám sát sự chuyển giao của Hồng Kông về chính phủ Trung Quốc. Kim Dung sau lần li hôn với người vợ đầu đã kết hôn lần thứ hai vào năm 1953 và có bốn người con với hai trai và hai gái. Sau cái chết đột ngột của con trai trưởng tháng 10 năm 1976, Kim Dung đã quyết định tìm hiểu nhiều vào các triết lý của tôn giáo. Kết quả, ông tự mình quy y Phật giáo hai năm sau đó. Năm 1993, ông thôi chức chủ bút, bán tất cả cổ phần trong Minh Báo lúc ông 70 tuổi. Năm 1999, ông đã phải chịu một cuộc tấn công giễu cợt của báo chí Trung Quốc phát hành tại Bắc Kinh chỉ trích tiểu thuyết của ông là kiếm hiệp “kinh nghiệm tồi tệ” của bạo lực vô nghĩa và tỏ tình kiểu nam nhi . Đó có thể là một nỗ lực để giảm nhẹ tình trạng tác phẩm bán chạy nhất của Kim Dung với người đọc của Trung Quốc lục địa. Chính quyền Đài Loan cấm các tác phẩm Kim Dung vì coi hình tượng văn học của ông là ủng hộ Đảng Cộng sản Trung Quốc. “Hiện tượng Kim Dung” với sự lên ngôi của Kim Dung được coi như là sự thắng thế của dòng văn học thông tục giải trí thực dụng kiểu fast food. Các tác phẩm của Kim Dung hiện giờ mặc dầu không bị cấm nữa nhưng vẫn còn nhiều tranh luận trái chiều. Cuối năm 2004, nhà xuất bản giáo dục nhân dân của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã đưa tác phẩm Thiên Long Bát Bộ vào sách giáo khoa lớp 12. Bộ Giáo dục Singapore cũng làm như vậy đối với các trường cấp 2, 3 sử dụng tiếng Trung Quốc. Tác phẩm của ông đã được chuyển thể thành hơn một trăm bộ phim, chương trình truyền hình, truyện tranh và trò chơi. Kim Dung đã nhúng sâu sắc phong cách và những quan tâm của ông vào truyền thông cảnh quan của Trung Quốc hiện đại. Năm 2010, Kim Dung đã giành được học vị tiến sĩ từ St John College, Cambridge, cho một luận án mang tên “The Imperial Succession in Tang China, 618-762” (Sự kế vị hoàng gia thời Đường Trung Quốc, 618-762). Học bổng Kim Dung “Nghiên cứu phương Đông” của Trường Đại học danh tiếng St Johns, College, Cambridge đã được khánh thành vào năm 2016 do sự tài trợ hào phóng của cựu sinh viên nổi tiếng Kim Dung. Ông mất chiều 30 tháng 10 năm 2018 tại một bệnh viện ở Hong Kong do tuổi cao, hưởng thọ 94 tuổi.
KIM DUNG TRONG NGÀY MỚI
Goodreads là một trang mạng xã hội tuyệt vời dành cho người đọc sách. “Không cần phải suy nghĩ mình sẽ đọc gì, phải mua sách nào, hay cuốn nào đang bán chạy. Bạn chỉ cần lướt qua: Những tựa sách hay nhất năm do cộng đồng Goodreads bình chọn để tìm được câu trả lời”. Goodreads đã giới thiệu về Kim Dung như sau: “Kim Dung, GBM, OBE (sinh ngày 06 tháng 2 năm 1924), tốt hơn được biết đến với bút danh của ông Jin Yong (金庸, đôi khi đọc và / hoặc viết là “Chin Yung”), là một nhà văn Trung Quốc. với ngôn ngữ hiện đại. Ông đồng sáng lập tờ Minh Báo hàng ngày Hồng Kông vào năm 1959 và ông là chủ bút đầu tiên của tờ báo này. Tiểu thuyết Kim Dung là chất liệu tuyệt vời cho những bộ phim võ thuật với tinh thần nghĩa hiệp được phát hành rộng rãi trong các khu vực nói tiếng Hoa, bao gồm Trung Quốc đại lục, Hồng Kông, Đài Loan, Đông Nam Á và Hoa Kỳ. 15 tác phẩm của Kim Dung viết từ năm 1955 đến năm 1972 đã giành được danh tiếng ông là một nhà văn võ hiệp xuất sắc nhất. Kim Dung hiện là tác giả Trung Quốc có sách bán chạy nhất lúc còn sống, hơn 100 triệu bản sao tác phẩm của ông đã được bán trên toàn thế giới (không bao gồm lượng không rõ các bản in lậu). Công trình của Kim Dung đã được dịch sang tiếng Anh, Pháp, Hàn Quốc, Nhật Bản, Việt Nam, Thái Lan, Miến Điện, Mã Lai và Indonesia. Ông có rất nhiều người hâm mộ nước ngoài, do có nhiều sự chuyển thể các tác phẩm của ông sang ngôn ngử khác, vào phim nhựa, phim truyền hình, truyện tranh và trò chơi video“.
Kim Dung ở Việt Nam.
Tác phẩm Kim Dung trước năm 1975 chủ yếu được lưu hành ở miền Nam. Truyện Kim Dung tạo nên cơn sốt rộng rãi đầu tiên là bản dịch của Từ Khánh Phụng với Cô gái Đồ Long (dịch Ỷ thiên Đồ long ký), đăng trên báo Đồng Nai năm 1961. Trước đó, một số bản dịch cũ như Bích huyết kiếm của Từ Khánh Phụng (báo Đồng Nai), Anh hùng xạ điêu của Đồ Mập (báo Dân Việt), Thần điêu đại hiệp (Thần điêu hiệp lữ) của Vũ Tài Lục và Hải Âu Tử (báo Mới) tuy có phát hành nhưng chỉ được coi là truyện kiếm hiệp giải trí rẻ tiền. Dịch giả truyện Kim Dung tài hoa nhất là Hàn Giang Nhạn với các bản dịch Tiếu ngạo giang hồ, Lộc Đỉnh ký… với câu văn thanh thoát tự nhiên, sinh động đã làm cho loại sách kiếm hiệp này được nhiều người đọc hơn. Một số nhà văn nổi tiếng thời đó như Bùi Giáng, Bửu Ý, Nguyên Sa, Đỗ Long Vân đã tham gia bình luận Kim Dung. Nguyên Sa đánh giá cao các tác phẩm Kim Dung.
Đỗ Long Vân có bài viết Vô Kỵ giữa chúng ta hay là hiện tượng Kim Dung rất ấn tượng. Cuốn Vô Kỵ giữa chúng ta hay là hiện tượng Kim Dung cố tìm ra câu giải đáp cho cái gọi là “hiện tượng Kim Dung” ở khắp miền Nam Việt Nam thời ấy. Tập sách phân tích sâu về võ công, nội lực, tính cách nhân vật và những triết lý ẩn chứa trong tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung. Sách được xuất bản lần đầu tiên năm 1967 in tại nhà in Trình Bày, Sài Gòn.
Bùi Giáng tỏ ra rất khâm phục Kim Dung và tâm đắc với kiến giải của Đỗ Long Vân, ông nhắc tới cuốn sách này trong bài luận kiếm hiệp của ông như là một đỉnh cao khó vươn tới. Bùi Giáng viết về Đỗ Long Vân trong “Thi ca tư tưởng”: “Cuốn sách của ông bàn về Kim Dung nằm trong vùng tư tưởng thâm viễn như cuốn Nho Giáo của Trần Trọng Kim. Chẳng những giúp người Việt Nam hiểu tư tưởng lớn của thiên tài Trung Hoa, mà còn khiến người Trung Hoa, người Đông Phương, Tây Phương nói chung ngày sau sực tỉnh. Tầm quan trọng của cuốn sách kia quả thật rộng rãi không cùng. Tôi có thể đưa ra vài nhận định khác của ông ở đôi chi tiết. Nhưng không cần. Điều cốt yếu, ông đã nói xong, và những dư vang vô số sẽ tỏa khắp mọi chốn. Và sẽ còn khiến người ta thể hội cái mạch thẳm trong những tác phẩm của những thiên tài xưa nay, bất luận là Đông Phương hay Tây Phương.Sách tôi bị cháy hết, nhưng tôi sẽ tìm riêng cuốn “Trương Vô Kỵ Giữa Chúng Ta” để đọc lại nhiều lần”…
Sau 1975, các tác phẩm của Kim Dung bị nhà nước Việt Nam liệt vào danh sách cấm cùng với các tác gia kiếm hiệp khác như Cổ Long, Trần Thanh Vân… với lý do “văn hóa đồi trụy phản động”. Tuy nhiên, các bản sách cũ vẫn được lén lút lưu giữ và được nhiều người truyền tay đọc. Trong cộng đồng người Việt ở nước ngoài, dịch giả Nguyễn Duy Chính (một Tiến sĩ Quản trị Kinh doanh, ngành Quản lý và Ứng dụng khoa học máy tính mê sử Việt) được xem là người có các bản dịch với chất lượng dịch tốt, điển hình như các bản dịch Thiên long bát bộ và Ỷ thiên Đồ long ký (lưu truyền trên Internet). Nguyễn Duy Chính cũng viết một số khảo luận về các yếu tố văn hóa Trung Hoa trong tác phẩm của Kim Dung và về triều đại Quang Trung với lịch sử Việt Nam cuối thế kỷ XVIII.
Đầu thập niên 1990, với chủ trương Đổi mới, chính quyền Việt Nam giảm bớt sự cấm đoán gắt gao với văn hóa văn nghệ. Một số phim và sách võ hiệp cũ được phát hành lại. Để dễ xin phép xuất bản, thoạt tiên sách không ghi đúng tên tác giả mà lấy các bút danh khác như Nhất Giang, về sau mới ghi đúng tên Kim Dung, Cổ Long. Nhà xuất bản Quảng Ngãi đã tích cực phát hành lại sách võ hiệp cũ. Thêm vào đó, sự phát triển của Internet giúp các bản dịch cũ lưu truyền rộng rãi, ban đầu dưới dạng scan từng trang sách, sau đó là dạng văn bản do những người hâm mộ gõ lại.
Công ty Văn hóa Phương Nam là công ty đầu tiên mua bản quyền dịch tác phẩm võ hiệp của Kim Dung. Từ năm 1999, Phương Nam đã mua được bản quyền dịch tác phẩm của Kim Dung, thông qua thương lượng trực tiếp với nhà văn. Từ năm 2001, toàn bộ tác phẩm võ hiệp của Kim Dung lần lượt được dịch lại và phát hành ở Việt Nam theo các bản hiệu đính mới nhất. Các dịch giả gồm có Cao Tự Thanh, Vũ Đức Sao Biển, Lê Khánh Trường, Đông Hải, Hoàng Ngọc (Huỳnh Ngọc Chiến).
Nhà văn Vũ Đức Sao Biển là tác giả của những bài khảo luận về Kim Dung, đăng trên tập san Kiến thức ngày nay, sau in thành bộ Kim Dung giữa đời tôi gồm 6 tập, có tựa đề
Kiều Phong – Khát vọng của tự do; Thiên hạ đệ nhất mỹ nhân; Từ AQ đến Vi Tiểu Bảo
Thanh kiếm và cây đàn; Nhân vật Kim Dung nhìn qua lăng kính pháp luật; Những vụ án kinh điển trong tiểu thuyết Kim Dung. Tác phẩm luận bàn về những bộ sách võ hiệp của Kim Dung từ những góc nhìn riêng sắc sảo và thú vị đến phong cách xây dựng nhân vật của tác giả về những nhân vật, những tình tiết đặc sắc trong bộ truyện: võ công, tình yêu, rượu, âm nhạc đến pháp luật…
Nhà văn Vũ Đức Sao Biển đánh giá: “Kim Dung là nhà văn lớn phương Đông thế kỷ XX. Về mặt trước tác, tác phẩm của ông đồ sộ hơn bất cứ nhà văn nào khác. Bút pháp của ông lôi cuốn, hấp dẫn người đọc một cách lạ lùng. Và hệ thống kiến thức của ông từ y học đấn địa lý, lịch sử, võ thuật, tâm lý, bệnh học, tôn giáo… hoàn chỉnh một cách vô song. Tiếc thay một nhà văn như vậy là chưa có tên trong những nhà văn được nhận giải Nobel văn học. Nhưng dù gì đi nữa, những nhà văn khác cũng đã học tập được từ Kim Dung nhiều kinh nghiệm tiểu thuyết. Ông xứng đáng là nhà văn bậc thầy của những bậc thầy trong thế kỷ chúng ta.”
Đọc “Kim Dung giữa đời tôi” với những khảo luận thật sâu sắc, tinh tế của nhà văn Vũ Đức Sao Biển thấu hiểu Kim Dung làm ta liên tưởng tới nhận xét của Pam Brown:”Ta đọc sâu sắc hơn, nhớ chính xác hơn, thưởng thức sự việc với niềm thích thú hơn nếu ta có được một người bạn cùng chia sẻ“. (We read more deeply, remember more clearly, enjoy events with greater pleasure if we have a friend to share with. * Pam Brown, from “Essays Friendship”) . GSTS. Nguyễn Tử Siêm viết: Đây là tâm sự của nhà hoạt động thi ca người Úc đã có nhiều giải thưởng danh giá. Pam Brown là nữ thi sĩ, bà cảm nhận tình bạn thật tinh tế. Mình thích cái cách biểu thị giản dị và chân thành này.
Đọc Kim Dung trong ngày mới thật thú vị
Kim Dung là một trí tuệ lớn. Ông không chỉ là nhà văn ảnh hưởng nhất đến văn học Trung Quốc đương đại mà còn ảnh hưởng sâu rộng tâm thức nhiều người Việt và các nước, ông cảnh báo nhiều bài học sâu sắc, gợi mật ngữ không dễ thấy.Kim, Vương, Lâm, Mạc bạn thích ai? Trong nền văn học Trung Quốc hiện đại, tôi thích nhất Kim Dung, kế đến là Vương Mông, Lâm Ngữ Đường và Mạc Ngôn.
Vương Mông là giáo sư danh dự rất được kính trọng ở Trung Quốc hiện nay. Khối lượng tác phẩm khổng lồ của ông trên 10 triệu chữ gồm tiểu thuyết, bình luận, tản văn, thơ mới và thơ cổ thể, tạp văn được dịch ra hơn 20 thứ tiếng trên khắp thế giới. Vương Mông đã trãi nghiệm thực tiễn đầy sống gió, chông gai của cuộc đời và minh triết cuộc sống đã giúp ông về đích thắng lợi. Ông đúc kết trong tác phẩm tinh hoa nhân loại “Triết lý nhân sinh của tôi” (Phạm Tú Châu dịch, Nhà Xuất bản Hội Nhà Văn, Công ty Văn hóa và Truyền thông Nhã Nam 2009). Đó là cẩm nang về cách sống thung dung phúc hậu.
Lâm Ngữ Đường là nhà văn nổi tiếng của Trung Quốc. Ông được xem là người có công lớn trong việc giới thiệu văn hóa Trung Quốc ra thế giới qua những tác phẩm viết bằng tiếng Anh, bàn về nghệ thuật, văn hóa và nhân sinh quan của người Trung Quốc. Lâm Ngữ Đường sinh ở vùng rừng núi thị trấn Ban Tử thuộc Chương Châu, tỉnh Phúc Kiến, đông nam Trung Quốc. Số phận của ông sớm được giáo huấn bằng đức tin Cơ Đốc sau đó đến với Khổng giáo và Phật giáo và cuối đời lại trở về với Kinh Thánh. Ông sang Mỹ học chương trình bán phần tiến sĩ ở Đại học Harvard lấy bằng tiến sĩ ngôn ngữ ở Đức về dạy văn chương Anh ở Bắc Kinh sau năm 1928 sang Mỹ dịch sách viết sách sáng chế, sau đó về làm Viện trưởng Đại học ở Singapo, cuối đời cùng vợ con về sống và viết về văn hóa ẩm thực ở Đài Loan từ năm 1965 cho đến lúc mất năm 1976. Đời ông là một vòng tròn viên mãn của một trí tuệ lớn biết dồn tâm huyết cả đời người để đưa văn hóa Trung Quốc ra thế giới.
Mạc Ngôn nhà văn Trung Quốc đã đoạt giải Nobel Văn học năm 2012. Đó là lần đầu tiên văn học Trung Quốc chạm tay tới giải thưởng Văn học danh giá nhất thế giới sau lịch sử 111 năm phát sinh giải thưởng này .Ba tác phẩm nổi bật của Mạc Ngôn là “Báu vật của đời”, “Cao lương đỏ” và “Cây tỏi nổi giận”. Dịch giả Trần Đình Hiến cho rằng hai đặc điểm chính giúp tác phẩm Mạc Ngôn giành giải Nobel đó là nội hàm văn hóa bản địa và tính nhân loại cao. Bài viết của nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên “Sự sinh, sự chết và sự sống ” giúp ta tiếp cận “Báu vật của đời”. Tôi cũng thích Mạc Ngôn, Vương Mông và Lâm Ngữ Đường nhưng Kim Dung ảnh hưởng sâu đậm hơn.
Kim Dung thích ai nhất trong tác phẩm của chính ông?
Kim Dung thích nhất nhân vật Hoàng Lão Tà, Quách Tương và Đoàn Dự. Ông tâm đắc nhất tác phẩm Thiên Long bát bộ và Lộc Đỉnh Ký. Tuyệt kỹ một đời không nhìn vào danh tiếng mà nhìn vào thực chất. Vô chiêu thắng hữu chiêu. Phim chuyển thể tác phẩm ông ưng ý nhất là “Thần điêu đại hiệp”.
Kim Dung trong ngày mới
(*) Một ít ghi chú về Vương Mông, Lâm Ngữ Đường và Mạc Ngôn
Vương Mông là giáo sư danh dự rất được kính trọng ở Trung Quốc hiện nay. Khối lượng tác phẩm khổng lồ của ông trên 10 triệu chữ gồm tiểu thuyết, bình luận, tản văn, thơ mới và thơ cổ thể, tạp văn được dịch ra hơn 20 thứ tiếng trên khắp thế giới. Vương Mông đã trãi nghiệm thực tiễn đầy sống gió, chông gai của cuộc đời và minh triết cuộc sống đã giúp ông về đích thắng lợi. Ông đúc kết trong tác phẩm tinh hoa “Triết lý nhân sinh của tôi” (Phạm Tú Châu dịch, Nhà Xuất bản Hội Nhà Văn, Công ty Văn hóa và Truyền thông Nhã Nam 2009). Đó là tư duy trí tuệ, cẩm nang về cách sống thung dung phúc hậu. Vương Mông bình về bảy hạng người phổ biến đương thời, là một phân loại người thú vị:
“Người thứ nhất đến, anh ta nói: “Ôi tôi đau khổ quá ! tôi đau khổ vì nhân loại ngu xuẩn, chế độ tệ hại, tôi đau khổ vì thể chế nhiều thiếu sót, tôi đau khổ vì dân tộc đau ốm, đau khổ vì nam thì ngu mà nữ thì hay kêu ca, đau khổ vì người thân oan uổng mà chết”
“Người thứ haiđến, anh ta nói: “Ôi tôi sung sướng quá ! Tôi vui mừng và hạnh phúc vì hài lòng với mọi người, với quốc gia, với bận rộn với ăn và uống !”
“Người thứ bađến, anh ta nói: “Tôi thật vĩ đại! tôi là anh hùng ! Tôi phải kéo sóng dữ sắp ập xuống. Tôi phải cháy lên vì loài người. Tôi phải được đóng đinh trên thánh giá vì các người. Tôi phải dùng ánh sáng của tôi để soi rọi chỗ tối tăm. Nếu bây giờ chưa có ánh sáng thì ánh sáng ấy là tôi, nếu bây giờ chưa có sức nóng thì sức nóng là tôi, nếu bây giờ chưa có lương thực thì lương thực ấy là tôi, nếu bây giờ chưa có mưa ngọt thì tôi là mưa ngọt”.
“Người thứ tưđến, anh ta nói: “Tôi là đồ tồi, là kẻ ngẫn ngơ, loại vô tích sự”
“Người thứ năm vừa bước ra đã vỗ tay với mọi người, thế là mọi người cũng vỗ tay đáp lại, (anh ta thích tax cho mọi người, thế là mọi người cũng tax lại). Thế là anh ta vỗ tay với mọi người lần nữa, thế là mọi người lại vỗ tay đáp lại anh ta. Sau đó ai nấy đều mệt nhoài, đều buồn ngủ, còn anh ta cũng không biết đi đâu mất rồi.
“Người thứ sáu vừa bước ra đã hô to: Tôi là người tốt. tôi là người tử tế, tôi là người tốt !”
“Người thứ bảy không nói mình là gì và không là gì, anh ta chỉ làm cái việc anh ta phải làm và làm được, Gặp được việc tốt anh ta vui, gặp phải việc xấu anh ta cau mày. Khi nào cần nghỉ thì anh ta nghỉ, không nghỉ ra kết quả nào thì thừa nhận mình chưa nghĩ kỹ. Ý kiến chưa nhất trí với người khác thì đành nói mình chưa nhất trí, không cần kkhoe về ý kiến hơn người và khác người. Có người nói anh ta quả thực rất khôn ngoan, người thì cười anh ta nhát gan nên không thể làn nhân vật lớn. Còn có người nói anh ta thực ra là người cổ điển, sinh ra đã lỗi thời.
Lâm Ngữ Đường, tên chữ Ngọc Đường, là nhà văn nổi tiếng của Trung Quốc. Ông được xem là người có công lớn trong việc giới thiệu văn hóa Trung Quốc ra thế giới qua những tác phẩm viết bằng tiếng Anh, bàn về nghệ thuật, văn hóa và nhân sinh quan của người Trung Quốc. Lâm Ngữ Đường sinh ở vùng rừng núi thị trấn Ban Tử thuộc Chương Châu, tỉnh Phúc Kiến, đông nam Trung Quốc. Số phận của ông sớm được giáo huấn bằng đức tin Cơ Đốc sau đó đến với Khổng giáo và Phật giáo và cuối đời lại trở về với Kinh Thánh. Ông sang Mỹ học chương trình bán phần tiến sĩ ở Đại học Harvard lấy bằng tiến sĩ ngôn ngữ ở Đức về dạy văn chương Anh ở Bắc Kinh sau năm 1928 sang Mỹ dịch sách viết sách sáng chế, sau đó về làm Viện trưởng Đại học ở Singapo, cuối đời cùng vợ con về sống và viết về văn hóa ẩm thực ở Đài Loan từ năm 1965 cho đến lúc mất năm 1976. Đời ông là một vòng tròn viên mãn của một trí tuệ lớn biết dồn tâm huyết cả đời người để đưa văn hóa Trung Quốc ra thế giới.
Mạc Ngôn là nhà văn Trung Quốc đoạt giải Nobel Văn học năm 2012. Đó là lần đầu tiên văn học Trung Quốc chạm tay tới giải thưởng Văn học danh giá nhất thế giới sau lịch sử 111 năm phát sinh giải thưởng này theo lời bình của báo Đại Đoàn Kết. Dịch giả Trần Đình Hiến cho rằng hai đặc điểm chính giúp tác phẩm Mạc Ngôn giành giải Nobel đó là nội hàm văn hóa bản địa và tính nhân loại cao. Ba tác phẩm nổi bật của Mạc Ngôn là “Báu vật của đời”, “Cao lương đỏ” và “Cây tỏi nổi giận”. Quan điểm nhân sinh của ông thể hiện sâu lắng cô đọng trong bài “Ngày tháng tốt đẹp của nhân loại không còn nhiều nữa”.
Mạc Ngôn viết: “Xã hội nhân loại ồn ào náo nhiệt, đèn đỏ rượu xanh, xa hoa truy lạc, nhìn vào thì thấy vô cùng phức tạp, nhưng suy nghĩ kĩ một chút, cũng chẳng qua chỉ là những người nghèo khổ theo đuổi vinh hoa, người giàu có truy cầu hưởng lạc, cơ bản chỉ là một chuyện như vậy…”
“Tại sao mọi người đều chán ghét cái cảnh nghèo túng? Bởi vì người nghèo không thể thỏa mãn được cái dục vọng của bản thân. Không kể là ham muốn vật chất hay ham muốn hưởng lạc, không kể là cái tâm hư vinh hay tâm ham thích cái đẹp, không kể là đến bệnh viện khám bệnh không cần phải xếp hàng, hay là ngồi ở khoang hạng nhất trên máy bay, đều cần phải dùng tiền để thỏa mãn, dùng tiền để thực hiện.
Phú là bởi có tiền, quý là bởi xuất thân, dòng dõi và quyền lực. Đương nhiên, có tiền cũng chính là không cần lo lắng đến chuyện địa vị cao quý, còn có quyền lực rồi dường như cũng không cần lo lắng đến chuyện không có tiền. Bởi vì phú và quý là có mối quan hệ mật thiết không thể tách rời, có thể dung hợp lại thành một phạm trù.
Người nghèo khó mong sao có được phú quý vinh hoa, đây là chuyện thường tình của con người, cũng là nhu cầu chính đáng. Phú quý là mưu cầu chính đáng của con người, nhưng phú quý nếu không dùng thủ đoạn chính đáng để có được thì không nên tận hưởng.
Nghèo túng là thứ mà người người căm ghét, nhưng ta cũng không thể dùng thủ đoạn không chính đáng để thoát khỏi cảnh nghèo túng. Trong cuộc sống hiện thực, những người dùng thủ đoạn không chính đáng để thoát khỏi cảnh nghèo túng để đạt được giàu sang đâu đâu cũng có, tuy có những người lớn tiếng mắng nhiếc những người dùng mưu mô thủ đoạn không chính đáng để thoát khỏi nghèo khó, nhưng chỉ cần bản thân hễ có cơ hội cũng sẽ làm như vậy, loại người này đâu đâu cũng có.
Dục vọng của con người là cái động không đáy, không sao lấp đầy được
Vợ của ông lão đánh cá ban đầu chỉ là muốn có một cái chậu mới, nhưng sau khi có được cái chậu mới rồi, thì bà ta lại muốn ngôi nhà gỗ, có ngôi nhà gỗ rồi, lại muốn được làm nhất phẩm phu nhân, sau đó lại muốn được làm nữ hoàng, sau khi được làm nữ hoàng rồi, bà ta lại muốn được làm nữ long vương nơi biển cả, muốn con cá vàng có thể thỏa mãn dục vọng hầu hạ bà ta, đây chính là đã vượt quá giới hạn, giống như thổi bọt xà phòng, thổi lớn quá mức rồi, tất nhiên sẽ vỡ ra.
Phàm là chuyện gì cũng đều có chừng mực, một khi đã vượt quá giới hạn rồi, thì ắt sẽ phải chịu sự trừng phạt, đây là triết lý nhân sinh giản dị nhất, cũng là quy luật của rất nhiều sự vật trong giới tự nhiên.
Rất nhiều câu chuyện có ngụ ý khuyên răn được lưu truyền trong dân gian đều đang nhắc nhở mọi người hãy khắc chế dục vọng của bản thân mình. Nghe nói Ấn Độ có người vì để bắt khỉ, đã làm ra một cái lồng, trong lồng có để thức ăn. Con khỉ thò tay vào trong lấy, tay nắm chặt lấy thức ăn, tay không rút ra được nữa. Nếu muốn rút tay ra, thì cần phải bỏ thức ăn ra, nhưng con khỉ nhất quyết không chịu bỏ đồ ăn ra.
Con khỉ không có trí huệ “buông bỏ”. Con người có trí huệ để “buông bỏ” hay không? Có người có, có người không. Có người có những lúc có, có người có những lúc không có. Con người ta sẽ luôn có một số thứ không nỡ buông bỏ, đây chính là nhược điểm của con người, cũng là bản tính sẵn có của con người.
Hơn 100 năm trước, các phần tử trí thức tiên tiến của Trung Quốc đã từng đưa ra khẩu hiệu dùng khoa học kỹ thuật cứu lấy đất nước, hơn 30 năm trước, các chính trị gia của Trung Quốc đưa ra khẩu hiệu sử dụng khoa học kỹ thuật để phát triển đất nước. Nhưng thời gian đến tận hôm nay, tôi cảm thấy nhân loại đang đứng trước nguy hiểm lớn nhất, chính là khoa học kỹ thuật của nhân loại ngày càng tiên tiến thì dục vọng của con người ta ngày càng bành trướng thêm.
Dưới sự kích thích của bản tính tham lam tự tư của con người, sự phát triển của khoa học kỹ thuật đã đi ngược lại quỹ đạo bình thường nhằm để phục vụ cho sức khỏe của con người, mà là dưới sự thúc đẩy của lợi nhuận đã phát triển điên cuồng để thỏa mãn dục vọng của con người, thật ra đây là nhu cầu bệnh hoạn của một thiểu số những người giàu có.
Con người đang điên cuồng cướp đoạt mọi thứ từ Trái đất
Chúng ta khiến cho Trái đất chịu tổn hại nặng nề, chúng ta đã làm ô nhiễm sông ngòi, biển cả và không khí, chúng ta chen chúc chung một chỗ, dùng sắt thép và xi măng xây nên những kiến trúc cổ quái kỳ lạ, gọi những nơi này bằng cái tên đẹp đẽ là thành phố, chúng ta ở trong thành phố như vậy phóng túng dục vọng của bản thân mình, chế tạo nên các loại rác khó mà phân hủy được.
So với người dân nơi thôn quê, người trong thành phố là có tội nặng hơn; so với người nghèo khổ, thì người giàu có là có tội nặng hơn; so với bá tánh bình dân, thì các quan chức là có tội nặng hơn; từ một loại ý nghĩa khác mà nói, chức quan càng lớn, thì tội càng nặng. Bởi vì chức quan càng lớn, thì thói phô trương lãng phí càng nhiều, dục vọng càng to lớn, tài nguyên lãng phí chính là càng nhiều.
So với các nước không phát triển, thì các nước phát triển là có tội nặng hơn, bởi vì dục vọng của các nước phát triển lớn hơn, bởi vì các nước phát triển không chỉ hủy hoại trên quốc thổ của mình, hơn nữa còn đến những nước khác, đến biển cả, đến Bắc Cực và Nam Cực, lên trên mặt trăng, ngay cả bầu trời cũng bị họ hủy hoại một một cách mù quáng.
Trái đất bốc khói khắp nơi, toàn thân run rẩy, biển lớn gào thét, bão cát mù trời, hạn hán lũ lụt, cũng như các triệu chứng ác liệt khác đều có liên quan chặt chẽ với phát triển khoa học kỹ thuật dưới sự thúc đẩy bởi dục vọng tham lam của các nước phát triển.
Trong thời đại như vậy, văn học của chúng ta kỳ thực gánh vác trách nhiệm to lớn, chính là trách nhiệm cứu lấy Trái đất, cứu lấy nhân loại, chúng ta dùng tác phẩm của mình để nói với mọi người rằng, nhất là những người giàu có dùng thủ đoạn không chính đáng để có được tài sản và quyền thế, họ là tội nhân, Thần linh sẽ không che chở cho họ. Chúng ta dùng tác phẩm của chúng ta để nói với những chính trị gia giả dối kia rằng, điều được gọi là lợi ích quốc gia vốn không phải là điều quan trọng nhất, điều quan trọng nhất thật sự chính là lợi ích lâu dài của nhân loại.
Chúng ta cần dùng tác phẩm của mình để nói với những người phụ nữ có hàng nghìn chiếc váy, hàng vạn chiếc giày, rằng họ có tội; chúng ta cần dùng tác phẩm của mình để nói với những người đàn ông có mười mấy chiếc xe sang trọng rằng họ là có tội; chúng ta cần phải nói cho những người đã mua máy bay riêng, du thuyền riêng rằng họ là có tội, dẫu rằng ở thế giới này có tiền thì chính là có thể muốn sao làm vậy, nhưng cái thói muốn sao làm vậy của họ là phạm tội đối với nhân loại, dẫu rằng tiền của họ là dùng phương thức hợp pháp để kiếm được.
Chúng ta cần dùng tác phẩm văn học của chúng để nói với những nhà giàu mới nổi, những kẻ đầu cơ, những kẻ cướp đoạt, những kẻ lừa gạt, những kẻ tiểu nhân, những tên tham quan, họ đều là cùng ở trên một con thuyền, nếu như chiếc thuyền đó chìm rồi, không kể là người bạn mặc đồ hiệu, khắp người đều là châu ngọc, hay làm áo quần lam lũ, không có lấy một đồng, thì kết cục vẫn như nhau.
Chúng ta cần phải dùng tác phẩm văn học của mình để truyền đạt nhiều đạo lý nhất có thể cho mọi người. Ví như nhà cửa là xây để ở, chứ không phải là để tranh chấp. Nếu như căn nhà xây lên không phải là để ở, thì đó không phải là căn nhà nữa. Chúng ta cần phải để cho mọi người nhớ lại, trước khi nhân loại còn chưa có phát minh ra máy điều hòa, thì những người chết bởi cái nóng cũng không nhiều như hiện nay. Trước khi nhân loại còn chưa có phát minh ra bóng đèn điện, thì những người bị cận thị ít hơn bây giờ rất nhiều.
Trước khi chưa có ti vi, thời gian nhàn rỗi của mọi người vẫn rất phong phú như thường. Sau khi có mạng internet rồi, trong đầu não của mọi người vốn không có tồn trữ nhiều thông tin hữu dụng hơn so với trước đây; trước khi chưa có mạng internet, những người ngu dốt dường như ít hơn hiện nay rất nhiều.
Sự tiện lợi của giao thông khiến cho mọi người mất đi sự vui sướng trong các chuyến du lịch, sự tiện lợi về phương diện truyền tải thông tin khiến cho mọi người mất đi hạnh phúc trong việc thư từ qua lại, quá độ trong ăn uống khiến cho mọi người mất đi mùi vị của món ăn, sự dễ dãi trong chuyện tình cảm khiến cho mọi người đánh mất đi hạnh phúc của tình yêu thương.
Chúng ta vốn không cần phải dùng đến tốc độ phát triển chóng mặt như vậy, chúng ta vốn không cần phải khiến cho động vật và thực vật lớn nhanh như vậy, bởi vì động vật và thực vật lớn nhanh như vậy sẽ ăn không còn ngon nữa, không có dinh dưỡng, chỉ có chất kích thích và các hóa chất độc hại khác. Sự phát triển bệnh hoạn của khoa học dưới sự kích thích thúc đẩy của lợi nhuận, dục vọng, quyền thế đã khiến cho cuộc sống của con người đánh mất đi rất nhiều niềm vui, thay vào đó là nguy cơ rộng khắp.
Kiềm chế một chút, chậm rãi một chút, mười phần thông minh dùng năm phần, để lại năm phần cho con cháu. Vật chất cơ bản nhất để duy trì sự sống của nhân loại là không khí, ánh mặt trời, thực phẩm và nước uống, những thứ khác đều là hàng xa xỉ, đương nhiên, quần áo và nhà cửa cũng là thứ cần thiết. Những ngày tháng tốt đẹp của nhân loại đã không còn nhiều nữa.
Đương nhiên, khi mọi người ở trong sa mạc, thì sẽ hiểu được rằng nước uống và đồ ăn còn quý hơn cả vàng và kim cương, khi động đất và sóng thần kéo đến, mọi người sẽ biết được rằng, không kể là biệt thự sang trọng bao nhiêu, trong bàn tay lớn của đại tự nhiên đều chỉ là một mớ bùn; khi mọi người giày xéo Trái đất thành nơi không còn thích hợp để cư trú nữa, đến lúc đó, cái gì là quốc gia, dân tộc, đảng phái chính trị, cổ phiếu, đều sẽ trở nên chẳng còn ý nghĩa gì, đương nhiên, tác phẩm văn học cũng sẽ không còn chút ý nghĩa gì.
Tác phẩm văn học của chúng ta liệu có thể khiến cho dục vọng của con người, nhất là dục vọng của quốc gia có thể bớt phóng túng hay không? Kết luận là bi quan, dẫu rằng kết luận là bi quan, nhưng chúng ta cũng không thể không cố gắng, bởi vì, đây không chỉ là cứu lấy người khác, đồng thời cũng là cứu lấy chính mình.”
Kim Hoàng
Thưa quý thầy Đặng Chương Ngạn, Nguyễn Hữu Sơn, Đoàn Lê Giang, Li Li Nghệ. Tôi là Kim Hoàng trong thành phần được mời làm chứng và trọng tài xin nêu ý kiến sau.
CHU MẠNH TRINH VỊNH KIỀU
Hoàng Kim
Nhà nghiên cứu Đặng Chương Ngạn, PGS TS Nguyễn Hữu Sơn Viện Văn học và tôi (TS Hoàng Kim, Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh) được mời làm chứng và trọng tài cho sự tranh luận của PGS TS Đoàn Lê Giang và nhà nghiên cứu Lê Nghị (Li Li Nghệ) “Về nguồn gốc Truyển Kiều” .
Theo tôi bằng chứng sự thật quan trọng nhất “Về nguồn gốc Truyện Kiều” là hai tác phẩm Bắc hành thi tập và Thúy Kiều truyện do Chánh sứ Nguyễn Du trực tiếp mang về Việt Nam năm 1814 sau khi ông hồi kinh, được Đại Nam chính biên liệt truyện ghi rõ trong chính sử; với bằng chứng quan trọng thứ hai liên quan “Về nguồn gốc Truyện Kiều” là Minh Mệnh tổng thuyết năm 1830 ngự chế “Thánh Thán bất phùng, hàn yên tản mạn. Hoa Đường dĩ viễn, phá bích tiêu điều”. Chỉ cần nghe chánh kiến của hai thầy lý giải đối với sự thật lịch sử chính đề này là rõ. Sự đánh giá thuộc về người đọc.
Thế nhưng, hai thầy đã thỏa thuận thống nhất là kỳ này chỉ giới hạn tranh luận trực tuyến tại Chu Mạnh Trinh Vịnh Kiều mà thôi, với chứng cứ và câu hỏi trực tiếp của hai bên, mà không bàn luận rộng ra các ý khác. Chúng tôi đã nghe rõ ý kiến của mỗi thầy rồi, nay xin nghe câu trả lời của mỗi thầy trước câu hỏi chất vấn đã có , để được lưu lại ạ.
CNM365 lưu những thông tin mới chọn lọc nghiên cứu bàn luận Nguyễn Du và Truyện Kiều. Nguồn gốc Truyện Kiều có thêm những trao đổi và kiến giải mới
“Giải pháp chữ Tâm chỉ là giá trị biểu kiến hay chính thực chất tư tưởng của nó? Thiền học, văn hóa học, phong cách học, thi pháp học, phân tâm học… Liệu có thẩm quyền đến mức nào khi can thiệp vào việc lý giải thế giới nghệ thuật của tác phẩm? Truyện Kiều không hề đóng sập cửa trước những viễn cảnh khoa học ấy. So với cuộc du hành của Nguyễn Du, Truyện Kiều đã đi xa hơn người sinh ra nó bao nhiêu cả về không gian địa lý lẫn không gian văn học. Không ai chọn sẵn cho ta con đường trong cuộc đời và trong nghệ thuật Cũng không có con đường nào giống nhau trong thế giới của sáng tạo. Đó là bài học lớn mà Nguyễn Du để lại cho hậu thế” (Trích ý kiến của GS. TS. Huỳnh Như Phương và PGS TS Đoàn Lê Giang 2015 tại bài viết đề dẫn: “Nguyễn Du trước ngã ba đường lịch sử và văn học”. Trong sách: Đại thi hào dân tộc, danh nhân văn hóa Nguyễn Du kỷ niệm 250 năm năm sinh Nguyễn Du” (Kỷ yếu hội thảo khoa học) NXB Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh 2015, 997 trang của Khoa Văn học và Ngôn ngữ, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh
Thầy Đặng Chương Ngạn đã viết thật chí lý: Thưa anh Đoàn Lê Giang , thưa anh Lê Nghị Li Li Nghệ.Tôi nghĩ trên cao xanh kia, cụ Nguyễn Du sẽ mỉm cười mãn nguyện, nếu biết sau 200 năm sau ngày cụ mất, ở hạ giới, có một cuộc thách đấu liên quan đến “ lời quê chắp nhặt” của cụ. Hai anh dù ai thắng thua, thì tất cả bạn yêu Kiều theo dõi cuộc thách đấu trong 2 ngày qua đều không thể không thán phục về kiến thức uyên thâm của hai đối thủ. Có thể có những người cao thủ ẩn danh nên chúng ta không được biết, nhưng qua tranh luận, có thể khẳng định: – Không ai sưu tầm được nhiều tài liệu về Kiều như Ts DLG và NNC Lê Nghị- Không ai tìm hiểu Kiều thấu đáo như hai vị…tại thời điểm này.
Hai ngày qua, những người theo dõi cuộc thách đấu đã đi từ ngạc nhiên này, đến ngạc nhiên khác …Những người yêu Kiều có một cơ hội hiếm để sưu tầm thêm tài liệu, để học hỏi thêm kiến thức, và tôi tin rất nhiều người yêu Kiều đã phải lục tìm trong thư viện những cuốn sách cũ đã bị bỏ quên để kiểm tra lại những gì mình đã học, đã đọc về Kiều Cuộc tranh luận của hai anh không phí thời gian, rất có ích cho Kiều và cho tất cả mọi người. Thắng hay thua, các anh cũng đã làm mới lại, làm sáng tỏ …rất nhiều vấn đề mà người yêu Kiều từng nghĩ tới nhưng không có cơ hội để thực hiện !
Cuộc tranh luận của các anh đã làm sáng tỏ về từ “ Lôi Châu” – một trong những vấn đề tranh cãi khởi phát sự thách đấu.Đến bây giờ, cuộc tranh luận vẫn chưa minh định được rõ ràng việc vịnh Kiều của Chu Mạnh Trinh, nhưng anh Đoàn Lê Giang đã mang ra một bằng chứng thuyết phục ở status mới nhất :Tạp chí Tri Tân trong số chuyên đề kỷ niệm Nguyễn Du (63, 9/1942)…Và ở tut này, anh DLG cũng đã tuyên bố ngưng việc tranh luận và tôi chưa thấy anh LN lên tiếng tiếp.
Các anh còn tranh luận hay không…là việc riêng của mỗi người, nhưng tôi thấy các anh đều xứng đáng để tôn trọng lẫn nhau và để cùng nói chuyện tiếp về Kiều trong tương lai…Tôi viết com cuối cùng này do hai anh đã tag vào chúng tôi chứng kiến. Tôi mong hai anh TS Kim Hoàng, TS. Nguyễn Hưu Sơn sẽ có ý kiên riêng cho cuộc tranh luận này…” (Tuyệt vời ! tôi đồng tình kết luận).
Tôi (HK) đồng tình với quan điểm hệ thống kiến thức mở, đi đến cùng sự thật, của giáo sư Phạm Trọng Chánh (mặc dù không phải ý nào của giáo sư cũng đúng): ” Nghiên cứu không phải là chuyện độc quyền của riêng ai, không phải chuyện người sau đánh đổ người trước để được nổi danh hơn mà người đi sau nối tiếp người trước , làm giải quyết những nghi vấn còn tồn đọng, làm cho việc nghiên cứu ngày càng phát triển, sáng tỏ”.
ÔNG LI LI NGHỆ (LLN) ĐÃ CHẤP NHẬN THÁCH THỨC: NẾU TÔI CHỨNG MINH ĐƯỢC NHÓM ÔNG LLN HIỂU SAI NHAN ĐỀ “THANH TÂM TÀI NHÂN THI TẬP” THÌ TỪ NAY VỀ SAU ÔNG SẼ KHÔNG BÀN ĐẾN VĂN BẢN TRUYỆN KIỀU NỮA. NGƯỢC LẠI NẾU TÔI SAI TÔI CŨNG LÀM VẬY.
– Vừa rồi nhân có chuyện tranh luận về Kim Vân Kiều hay Truyện Kiều có trước (xem comments ở status “Hình ảnh Hội thảo” 23/10/2020). Tôi có chê nhóm ông LLN thế này: “Có mấy chữ Hán nhan đề sách nhóm các ông Li Li Nghệ đọc cũng không ra thì bàn về văn bản học làm gì! Thanh Tâm Tài Nhân thi tập của Chu Mạnh Trinh nghĩa là: Tập thơ vịnh theo Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân. Xem bản Hán Nôm tập này thì thấy ngay cụ Chu vịnh 20 hồi Kim Vân Kiều truyện, cụ còn cẩn thận ghi 2 câu thơ mở đầu từng hồi của Thanh Tâm Tài Nhân. Tương tự: “Thanh Tâm Tài Tử cổ kim minh lương đề vịnh tập biên” (Ký hiệu TVHN: VNv240) có nghĩa là: Tập đề vịnh của vua tôi xưa nay về Thanh Tâm Tài Tử (tức đề vịnh Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân. Tại sao nói vậy, vì TT Tài Tử không viết gì khác ngoài KVKT. Vì thế 2 tên ấy chỉ là 1 người. Còn tại sao Tài Tử, vì có thể trong cung đình Huế người ta thấy Tài Nhân nghe có vẻ như danh hiệu cung phi nên đổi ra Tài Tử. Hơn nữa đây là sách Thánh Thán Ngoại Thư, nên gọi Tài Tử cũng hợp). Các cụ không phân biệt rành mạch TK và KVKT, mê TK nhưng đề vịnh theo 20 hồi KVKT. Nhóm các ông Li Li Nghệ không biết lập luận logic chặt chẽ, chỉ toàn suy diễn; không biết tin vào tư liệu, tư liệu nào trái ý là các ông bảo giả, kể cả tư liệu cổ ở thư viện Nhật Bản. Thế thì tranh luận cái gì. Cãi cùn cãi cố đâu phải là tranh luận học thuật.”
– Ông LLN chê tôi: “Tôi nghĩ các anh nghiên cứu còn hời hợt quá. Do đó chưa nhận ra đâu là chân- giả. Anh nói chúng tôi suy diễn ư?” Ông LLN tiếp: “Sao ông không nghĩ rằng 20 hồi của Chu Mạnh Trinh là vịnh theo truyện Kiều và Kim Vân Kiều Lục? Mở đầu Chu Mạnh Trinh nói tới Kim Vân Kiều Lục rõ ràng. Hay là ông chưa đọc KVK Lục nên không nhận ra chữ Lôi Châu?”
Vì không muốn sa vào tranh luận vô bổ, tôi đưa ra thách thức: “Nếu tôi trưng ra bằng chứng rõ ràng là Chu Mạnh Trinh họa Kim Vân Kiều truyện của TQ thì ông có dám hứa là thôi, từ nay trở đi không bàn về văn bản Truyện Kiều VN, Kim Vân Kiều truyện TQ để cho khỏi nhiễu loạn thông tin không? Nếu ông dám hứa, tôi sẽ trưng ngay. Dám nghiên cứu, dám tranh luận thì dám cầu thị, phục thiện. Ông dám không? Anh Kim Hoàng, Nguyễn Hữu Sơn làm chứng nhé.”
– Ông LLN đồng ý: “Anh cứ phản biện rằng Chu Mạnh Trinh họa KVKT chứ không phải họa KVK Lục và Truyện Kiều. Tôi sẳn sàng thay đổi ý kiến nếu bên phản biện thuyết phục.”
– Tôi gút lại: “Anh Nguyễn Hữu Sơn , Kim Hoàng, Đặng Chương Ngạn làm chứng chuyện trên nhé. Không phải chỉ thay đổi ý kiến về chuyện Chu Mạnh Trinh, mà ông Li Li Nghệ sẽ không bao giờ bàn về chuyện văn bản Truyện Kiều nữa cho khỏi rối loạn thông tin nữa. Tại sao? Tại vì chuyện đơn giản thế này mà ông Li Li Nghê còn hiểu sai thì những chuyện khác bàn làm gì!”
– Ông LLN xác định chấp nhận một lần nữa: “OK anh Giang. Tôi nói sai thì sẽ im tiếng luôn, nếu anh nói sai thì anh có vui lòng rút lại học thuật của anh không?” Tất nhiên tôi đồng ý. (Toàn bộ cuộc trao đổi có thể xem trên FB của tôi, Status “HÌNH ẢNH HỘI THẢO” ngày 23/10/2020, phần comments ở dưới. Dưới đây là một số files chụp màn hình điện thoại)