Số lần xem
Đang xem 3864 Toàn hệ thống 5435 Trong vòng 1 giờ qua
Trang liên kết
Tỉnh thức
giữa đêm thiêng Yên Tử
Để thấm hiểu đức Nhân Tông
Ta thành tâm đi bộ
Lên tận đỉnh chùa Đồng
Tâm sáng Ức Trai
trong tựa ngọc TÌNH YÊU CUỘC SỐNG
DẠY VÀ HỌC Để chấn hưng giáo dục Việt Nam cấp thiết phải có đội ngũ những người thầy giáo ưu tú có tâm đức thiết tha với nghề, có trình độ chuyên môn cao và có kỹ năng giảng dạy tốt. Đây là trang thông tin chuyên đề dạy và học để trao đổi và bàn luận
Norman Borlaug Lời Thầy dặn Việc chính đời người chỉ ít thôi
Chuyên tâm đừng bận chuyện trời ơi
Phúc hậu suốt đời làm việc thiện
Di sản muôn năm mãi sáng ngời.
Sắn Việt Nam ngày nay NHỚ BẠN MÙA GIÁNG SINH Hoàng Kim
Bạn tốt khó tìm, khó bỏ lại và không thể quên lãng. Cách mạng sắn Việt Nam The cassava revolution in Vietnamhttps://youtu.be/81aJ5-cGp28 là câu chuyện thành công. Sắn Việt Nam ngày nay, https://hoangkimlong.wordpress.com/category/vietnamese-cassava-today/ sự cấp thiết phải Bảo tồn và phát triển sắn bền vững. Lời chào từ HoangKim Vietnam VNCP đến Howeler, Martin với các bạn CIAT, ACIAR “Establishing sustainable solutions to cassava diseases in mainland Southeast Asia”. Chúc mừng Giáng sinh an lành và Năm mới hạnh phúc
Tiến sĩ Reinhardt Howeler quý mến,
Kính chào người Thầy và bạn lớn của nông dân trồng sắn châu Á. Ảnh 1 Hội thảo sắn toàn cầu ở Việt Nam năm 2000, có mặt người vợ yêu quý của Reinhardt Howeler và giáo sư Phạm Văn Biên, Viện trưởng Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam. Nay bà đã mất. Hãy cho chúng tôi chia buồn muộn tới bạn. Tôi và VNCP lạc email bạn. Ảnh này là sự ghi ơn thầm lặng trong lòng chúng tôi. Ảnh 2 Tiến sĩ Reinhardt Howeler Tiến sĩ Kazuo Kawano nhận giải thưởng của nhà nước Việt Nam, được trao tặng bởi ông Nguyễn Giới, thứ trưởng MARD, và giáo sư Phạm Văn Biên, Viện trưởng IAS, ngày 4/3/1997. Ảnh 3 là bảy sách sắn CIAT Việt Nam, cuối thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21, ghi nhận những đóng góp nổi bật của các bạn. Ảnh 4 là Luis Eduardo Barona và Hoàng Kim với giống sắn C39 ở CIAT năm 2003 trong sự hợp tác với Hernan Ceballos và Martin Fregene. Ảnh 5 là giống sắn chủ lực KM419 của Sắn Việt Nam ngày nay.
Các bạn luôn trong lòng chúng tôi. Chúng tôi luôn nhớ và ghi ơn các bạn.
Lời chào nồng nhiệt của tôi đến bạn.
Trân trọng Hoàng Kim
long-time no hear
From: Howeler, Reinhardt (CIAT-Emeritus) r.howeler@cgiar.org
To: Hoàng Kim hoangkimvietnam1953@gmail.com
Hello Dr. Kim:
I hope you saw the letter I wrote to you on June 26 this year, informing you that my wife of 53 years, Jane, had passed away after a long and painful disability due to a disinformation of her spine. She was 81 years old. Let me know if you did not get this letter.
I am not sure whether you are retired yet or not, but I am sure you have remained busy writing and organizing activities about cassava. For the past ten years I have been busy taking care of my wife, day and night, so I did not have time for much else. Now that she is no longer alive, I am home alone, although I have some company from a Mexican man who has rented a room in our house. It also means that I have more time to other things, besides walking, bicycling and swimming every day to stay healthy. I am now 79 years old. Currently, I am organizing a box full of old photos. I came across some photos about an award Dr. Kawano and myself received from the Minister of Agriculture of Vietnam. This was during one of our Workshops in Ho Chi Minh City, but I forgot the exact dates, or even the year. Some of the photos show that the workshop was held from March 4-6, 199….. If you can tell me the year this happened I would much appreciate it, so I can date the photos and put them in a photo book. This was one of the highlights of my long cassava career, which has left me with many good memories.
Looking forward to hear from you. I hope you and your family are doing well and remain healthy.
With best regards. Reinhardt
Xin chào tiến sĩ Kim:
Tôi hy vọng bạn đã nhìn thấy bức thư tôi viết cho bạn vào ngày 26 tháng 6 năm nay, thông báo với bạn rằng người vợ 53 năm chung sống của tôi, Jane, đã qua đời sau một thời gian dài và đau đớn vì khuyết tật cột sống của cô ấy. Bà đã 81 tuổi. Hãy cho tôi biết nếu bạn không nhận được thư này.
Tôi không chắc là bạn đã nghỉ hưu hay chưa, nhưng tôi chắc rằng bạn vẫn bận rộn với việc viết và tổ chức các hoạt động về sắn. Cả chục năm nay tôi bận bịu chăm sóc vợ cả ngày lẫn đêm nên tôi không có thời gian cho việc khác. Bây giờ cô ấy không còn sống nữa, tôi ở nhà một mình, mặc dù tôi có một số công ty từ một người đàn ông Mexico đã thuê một phòng trong nhà của chúng tôi. Điều đó cũng có nghĩa là tôi có nhiều thời gian hơn cho những việc khác, ngoài việc đi bộ, đi xe đạp và bơi lội mỗi ngày để giữ gìn sức khỏe. Bây giờ tôi đã 79 tuổi. Hiện tại, tôi đang tổ chức một hộp đầy những bức ảnh cũ. Tôi đã xem qua một số bức ảnh về giải thưởng mà Tiến sĩ Kawano và bản thân tôi đã nhận được từ Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp Việt Nam. Đây là trong một trong những Hội thảo của chúng tôi tại Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng tôi đã quên ngày tháng chính xác, hoặc thậm chí cả năm. Một số hình ảnh cho thấy hội thảo được tổ chức từ ngày 4-6 / 3/199… .. Nếu bạn có thể cho tôi biết năm mà điều này xảy ra thì tôi rất cảm kích, vì vậy tôi có thể xác định niên đại của các bức ảnh và đưa vào sách ảnh. Đây là một trong những điểm sáng trong sự nghiệp trồng sắn lâu đời của tôi, nó đã để lại cho tôi rất nhiều kỷ niệm đẹp.
Mong được nghe từ bạn. Tôi hy vọng bạn và gia đình của bạn đang làm việc tốt và vẫn khỏe mạnh. Trân trọng kính chào. Reinhardt
Greetings from HoangKimVietnam
From: Hoàng Kim hoangkimvietnam1953@gmail.com; hoangkim.vietnam@gmail.com
To: Howeler, Reinhardt (CIAT-Emeritus) r.howeler@cgiar.org
Vietnamese cassava today
Miss you Christmas season
Hoang Kim
Good friends are hard to find, hard to leave behind and impossible to forget. The cassava revolution in Vietnam https://youtu.be/81aJ5-cGp28 is a success story. Vietnamese cassava today, https://hoangkimlong.wordpress.com/category/vietnamese-cassava-today/ the urgency to preserve and develop cassava sustainably. Greetings from HoangKim Vietnam VNCP to Howeler, Martin and friends CIAT, ACIAR “Establishing sustainable solutions to cassava diseases in mainland Southeast Asia”. Merry Christmas and Happy New Year.
Dear Dr. Reinhardt Howeler,
Hello teacher and great friend of Asian cassava farmers. Photo 1 The Global Cassava Workshop in Vietnam in 2000, with the beloved wife of Reinhardt Howeler, and Professor Pham Van Bien, Director of the Southern Institute of Agricultural Science and Technology, seated in the front row on the left. Now she is gone. Please give us belated condolences to you. I and VNCP lost your email. The photo is a silent gratitude in our hearts. Photo 2 Dr. Reinhardt Howeler and Dr. Kazuo Kawano receives the State Prize of Vietnam, presented by Mr. Nguyen Gioi, Deputy Minister of MARD, and Professor Pham Van Bien, Director of IAS, on 4/3/1997. Photo 3 is seven books on CIAT Vietnam, late 20th century and early 21st century, recognizing your outstanding contributions. Photo 4 is Luis Eduardo Barona and Hoang Kim with cassava variety C39 at CIAT in 2003 in collaboration with Hernan Ceballos and Martin Fregene. Photo 5 is the main cassava variety KM419 of Vietnam’s cassava today.
You are always in our hearts. We will always remember and thank you.
My warm greetings to you.
Best regards, Hoang Kim
Giáo sư Martin Fregene quý mến
Lời chào từ Hoàng Kim Việt Nam, VNCP phúc đáp thư bạn. Chúc bạn và gia đình vui khỏe, hạnh phúc trong Giáng sinh sắp diễn ra. Hoàng Kim và gia đình khỏe. Mình đã nghỉ hưu, nhưng tôi vẫn đang tiếp tục nghiên cứu về sắn ở VNCP phối hợp với TS Nguyễn Thị Trúc Mai, DARD Phú Yên và TS Hoàng Long, NLU. Chủ đề là “Nghiên cứu tuyển chọn giống sắn năng suất tinh bột cao, kháng được sâu bệnh hại chính (CMD, CWBD) phù hợp với điều kiện sản xuất tại tỉnh Phú Yên và các vùng phụ cận.
Chúng tôi chưa tham gia vào việc phát triển hai giống sắn này, vì chưa có hai giống sắn ấy, và chưa biết rõ tài liệu tự công bố ở Việt Nam về năng suất củ tươi, hàm lượng tinh bột và năng suất tinh bột ổn định của giống sắn TMEB419 ở Việt Nam trong sự so sánh với số liệu gốc của IITA goseed cassava, https://iitagoseed.com/goseed-cassava/ , là tài liệu tự công bố ở châu Phi. Hoàng Kim xin trả lời Martin Fregene về câu hỏi “Làm thế nào để họ chấp nhận được đối với nông dân ở Việt Nam”?: Bạn cần phải có số liệu công bố kết quả thực nghiệm DUS và VCU tại Việt Nam, được MARD chấp nhận, về hai giống sắn CR24-16 và TMEB419, theo quy chuẩn quốc gia Việt Nam.
Sắn Việt Nam ngày nay, đều có gen kháng CMD của giống sắn C39 từ CIAT, cũng là gia đình của CR24-16 với các giống sắn KM419, KM440, KM568, KM535, KM534, KM536, KM537, KM440, KM397. Như bạn đã biết, tôi tới CIAT năm 2003 để làm việc với Hernan Ceballos và Martin về chọn giống sắn DH. Việt Nam năm 2003 đã nhập nội giống sắn từ CIAT, có giống C39, và có đủ hồ sơ nhập giống sắn của CIAT với giấy phép của MARD. Vì vậy, tôi biết rất rõ hiệu suất của dòng C39 mà tôi đang hiện có ngày nay, tuyển chọn từ năm 2003 (*). Tôi và “nhóm Hoàng Kim” từ đó đến nay đã liên tục làm việc Bảo tồn và phát triển sắn, gồm: Giống sắn chủ lực KM419, cũng là tác giả của các giống sắn phổ biến trước đó tại Việt Nam KM140, KM98-5, KM98-1, KM94 (tên gốc KU50), SM937-26. Ở Việt Nam, giống sắn KM419 và KM440 đến nay là phổ biến nhất, sau cả áp lực nặng của bệnh khảm lá CMD và bệnh chổi rồng CWBD. https://youtu.be/XDM6i8vLHcI và https://youtu.be/kjWwyW0hkbU chúng tôi khuyên nông dân nên trồng các loại giống sạch bệnh KM568, KM535, KM419, KM440, KM94, KM140, KM98-1, HN5, HLS14 (và hai giống sắn CR24-16 và TMEB419 nếu có) để khảo nghiệm DUS và VCU. Sắn Việt Nam bảo tồn và phát triển bền vững: xem thêm https://hoangkimlong.wordpress.com/category/chon-giong-san-khang-cmd/
Cảm ơn bạn vì sự liên kết thông tin quan trọng này. Lời chào nồng nhiệt của tôi đến gia đình bạn. Trân trọng Hoàng Kim
(*) Hoang Kim, Nguyen Phuong, Hoang Long, Tran Cong Khanh, Hernan Ceballos, Rod Lefroy, Keith Fahrney, Tin Maung Aye and Reinhardt Howeler 2010. Recent progress in cassava breeding and the selection of improved cultivars CIAT. In: A New Furture for Cassava in Asia: Its Use as Food, Feed and Fuel to Benefit the Poor. 8th Asian Cassava Research Workshop October 20 – 24, 2008 in Vientiane, Lao PDR. papers 223 – 233
Greetings from Martin Fregene
From: Martin Fregene <mfregene@gmail.com>
To: Hoàng Kim hoangkimvietnam1953@gmail.com
Dear Hoang Kim
This is Martin Fregene saying hello after a long time! How are you and your family? Are you still in cassava research or you have retired and moved to a private sector company? I saw on Twitter this tweet about two varieties recently released in Vietnam CR24-16 and TMEB419, see the link to the tweet below. Were you involved in the development of these varieties? Do you know the fresh root yield, starch yield and starch yield stability of the two varieties? How acceptable are they to farmers? https://twitter.com/cassdiseaseasia/status/1460897971063570433?s=21
As you know I left CIAT to the US and now working at the African Development Bank in Abidjan. But I was involved in the production of C18, one of the parents of CR24-16, and even the progeny while at CIAT as part of the CMD molecular breeding program. So I am interested in the performance of the CR24-16 line. Thanks for any information you can provide and I look forward to hearing from you soon.
My warm regards to your family.
Sincerely
Martin
Greetings from HoangKimVietnam
From: Hoàng Kim hoangkimvietnam1953@gmail.com; hoangkim.vietnam@gmail.com
To: Martin Fregene <mfregene@gmail.com>
Dear Professor Martin Fregene
Greetings from Hoang Kim Vietnam, VNCP replies to your letter. Wishing you and your family a happy and healthy Christmas in the coming time. Hoang Kim and family are healthy. I am retired, but I am still continuing to research cassava at VNCP in collaboration with Dr. Nguyen Thi Truc Mai, DARD Phu Yen and Dr. Hoang Long, NLU. The topic is “Study on selection of cassava varieties with high starch yield, resistant to major pests and diseases (CMD, CWBD) suitable for production conditions in Phu Yen province and surrounding areas”. I saw it on Twitter. at the link to the tweet https://twitter.com/cassdiseaseasia/status/1460897971063570433?s=21 about the two cassava varieties CR24-16 and TMEB419 and DNRTV’s video http://dnrtv.org.vn/tin-tuc- n107515/benh-kham-la-mi.html , talk about cassava variety TMEB419, and video by TNRTV https://youtu.be/QCo_eFohvpQ
We have not participated in the development of these two cassava varieties, because there are not two varieties of cassava yet, and we do not know the self-published documents in Vietnam on fresh tuber yield, starch content and stable starch yield. Determination of cassava variety TMEB419 in Vietnam in comparison with original data from IITA goseed cassava, https://iitagoseed.com/goseed-cassava/, which is self-published in Africa. Hoang Kim would like to answer Martin Fregene on the question “How can they be acceptable to farmers in Vietnam”?: You need to have data published on experimental results of DUS and VCU in Vietnam, approved by MARD accepted, about two varieties of cassava CR24-16 and TMEB419, according to the national standards of Vietnam. In Vietnam, cassava varieties KM419 and KM440 are by far the most popular, after both the severe pressure of CMD and CWBD. https://youtu.be/XDM6i8vLHcI and https://youtu.be/kjWwyW0hkbU we advise farmers to plant disease-free varieties KM568, KM535, KM419, KM440, KM94, KM140, KM98-1, HN5, HLS14 (and two cassava varieties CR24-16 and TMEB419 if available) for DUS and VCU testing. Vietnamese cassava conservation and sustainable development: see more https://hoangkimlong.wordpress.com/category/chon-giong-san-khang-cmd/
Today’s Vietnamese cassava all have CMD resistance gene of C39 cassava variety from CIAT, also family of CR24-16, with cassava varieties KM419, KM440, KM568, KM535, KM534, KM536, KM537, KM440, KM397. As you know, I went to CIAT in 2003 to work with Hernan Ceballos and Martin on DH cassava breeding. Vietnam in 2003 imported cassava varieties from CIAT, has C39 variety, and has enough records to import cassava varieties from CIAT with MARD’s license. So I know very well the performance of the C39 series I have today, sifting from 2003 (*). Since then, “Hoang Kim team” and I have been continuously working on the conservation and development of cassava, including: The main cassava variety KM419, also the author of the previously popular cassava varieties in Vietnam KM140, KM98- 5, KM98-1, KM94 (original name KU50), SM937-26. Thank you for this important informative link.
My warm greetings to your family.
Best regards, Hoang Kim
SẮN VIỆT NAM NGÀY NAY: BẢO TỒN VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Vietnamese cassava today: conservation and sustainable development Nguyen Thi Truc Mai, Hoang Kim, Hoang Long, et al. (*) Selection of cassava varieties resistant to CMD https://hoangkimlong.wordpress.com/category/chon-giong-san-khang-cmd/
Bệnh virus khảm lá CMD từ ban đầu Tây Ninh (2017) lan rộng trên 15 tỉnh thành Việt Nam (2018) là thách thức của các nhà khoa học. “V/v sử dụng giống sắn KM419 trong sản xuất” đã được Bộ NNPTNT xác định tại công văn chỉ đạo của Bộ Nông nghiệp Phát triển Nông thôn, Cục Bảo vệ Thực vật số 1068/ BVTV ngày 3 tháng 5 năm 2019. Giống sắn KM419 có năng suất tinh bột cao nhất và diện tích trồng phổ biến nhất Việt Nam. Giống sắn KM419 chống chịu trung bình bệnh CMD và bệnh chổi rồng (CWBD), trong điều kiện áp lực 2 bệnh này ở Việt Nam hiện nay là rất cao. Sự cần thiết cấp bách lai tạo KM419 đưa thêm gen kháng bệnh của giống C39, KM440 (KM94 đột biến); KM397 vào giống sắn ưu tú này .
Giải pháp chọn giống sắn Việt Nam tiếp nối hiệu quả là sử dụng giống sắn KM419 năng suất tinh bột cao sạch bệnh tiếp tục lai tạo với các giống sắn kháng bệnh CMD đã có. Bài viết CHỌN GIỐNG SẮN VIỆT NAM đúc kết tóm tắt thông tin đã có và định hướng cho sự nổ lực Trúc Mai, Hoang Long, BM Nguyễn, Nguyen Van Nam, Nhan Pham, Hung Nguyenviet, Hoàng Kim, Jonathan Newby … đang lai hữu tính và bồi dục nâng cao tính kháng cho các giống sắn KM419, KM440, KM397, tốt nhất hiện nay
Chúng tôi khuyên nông dân nên trồng các loại giống sạch bệnh KM568, KM535, KM419, KM440, KM94, KM140, KM98-1, HN5, HLS14 để khảo nghiệm DUS và VCU , bảo tồn và phát triển những giống sắn tốt nhất có năng suất cao và ít sâu bệnh.
CHỌN GIỐNG SẮN KHÁNG CWBD Nguyễn Bạch Mai,Hoàng Kim, Nguyễn Thị Trúc Mai, Hoàng Long, Nguyễn Văn Phu Selection of cassava varieties resistant to CWBD *
CAVAC Cách chọn thân cây sắn để trồng (Video hướng dẫn về bệnh khảm trên cây sắn)https://youtu.be/0MVPGxOpoPY Video của Australian Embassy, Cambodia 18 8 2021 đã viết. “Bạn có biết sắn là cây trồng lớn thứ hai của Campuchia và mang lại sinh kế cho hơn 90.000 hộ gia đình, đóng góp hàng trăm triệu đô la cho nền kinh tế? Điều này cũng có nghĩa là sâu bệnh có thể có tác động tàn phá. Australia thông qua chương trình Chuỗi Giá trị Nông nghiệp Campuchia-Australia (CAVAC) và Trung tâm Nông nghiệp Nhiệt đới Quốc tế (CIAT) đang làm việc với Bộ Nông nghiệp, Lâm nghiệp và Thủy sản để ngăn chặn sự lây lan của bệnh Chổi rồng (CWBD), một mối đe dọa lớn đối với cây sắn. Bệnh CWBD làm giảm hàm lượng tinh bột và sản lượng sắn 80%).
Sắn Việt Nam ngày nay NHỚ BẠN MÙA GIÁNG SINH Hoàng Kim
Bạn tốt khó tìm, khó bỏ lại và không thể quên lãng. Cách mạng sắn Việt Nam The cassava revolution in Vietnamhttps://youtu.be/81aJ5-cGp28 là câu chuyện thành công. Sắn Việt Nam ngày nay, https://hoangkimlong.wordpress.com/category/vietnamese-cassava-today/ sự cấp thiết phải Bảo tồn và phát triển sắn bền vững. Lời chào từ HoangKim Vietnam VNCP đến Howeler, Martin với các bạn CIAT, ACIAR “Establishing sustainable solutions to cassava diseases in mainland Southeast Asia”. Chúc mừng Giáng sinh an lành và Năm mới hạnh phúc
Tiến sĩ Reinhardt Howeler quý mến,
Kính chào người Thầy và bạn lớn của nông dân trồng sắn châu Á. Ảnh 1 Hội thảo sắn toàn cầu ở Việt Nam năm 2000, có mặt người vợ yêu quý của Reinhardt Howeler và giáo sư Phạm Văn Biên, Viện trưởng Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam. Nay bà đã mất. Hãy cho chúng tôi chia buồn muộn tới bạn. Tôi và VNCP lạc email bạn. Ảnh này là sự ghi ơn thầm lặng trong lòng chúng tôi. Ảnh 2 Tiến sĩ Reinhardt Howeler Tiến sĩ Kazuo Kawano nhận giải thưởng của nhà nước Việt Nam, được trao tặng bởi ông Nguyễn Giới, thứ trưởng MARD, và giáo sư Phạm Văn Biên, Viện trưởng IAS, ngày 4/3/1997. Ảnh 3 là bảy sách sắn CIAT Việt Nam, cuối thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21, ghi nhận những đóng góp nổi bật của các bạn. Ảnh 4 là Luis Eduardo Barona và Hoàng Kim với giống sắn C39 ở CIAT năm 2003 trong sự hợp tác với Hernan Ceballos và Martin Fregene. Ảnh 5 là giống sắn chủ lực KM419 của Sắn Việt Nam ngày nay.
Các bạn luôn trong lòng chúng tôi. Chúng tôi luôn nhớ và ghi ơn các bạn.
Lời chào nồng nhiệt của tôi đến bạn.
Trân trọng Hoàng Kim
long-time no hear
From: Howeler, Reinhardt (CIAT-Emeritus) r.howeler@cgiar.org
To: Hoàng Kim hoangkimvietnam1953@gmail.com
Hello Dr. Kim:
I hope you saw the letter I wrote to you on June 26 this year, informing you that my wife of 53 years, Jane, had passed away after a long and painful disability due to a disinformation of her spine. She was 81 years old. Let me know if you did not get this letter.
I am not sure whether you are retired yet or not, but I am sure you have remained busy writing and organizing activities about cassava. For the past ten years I have been busy taking care of my wife, day and night, so I did not have time for much else. Now that she is no longer alive, I am home alone, although I have some company from a Mexican man who has rented a room in our house. It also means that I have more time to other things, besides walking, bicycling and swimming every day to stay healthy. I am now 79 years old. Currently, I am organizing a box full of old photos. I came across some photos about an award Dr. Kawano and myself received from the Minister of Agriculture of Vietnam. This was during one of our Workshops in Ho Chi Minh City, but I forgot the exact dates, or even the year. Some of the photos show that the workshop was held from March 4-6, 199….. If you can tell me the year this happened I would much appreciate it, so I can date the photos and put them in a photo book. This was one of the highlights of my long cassava career, which has left me with many good memories.
Looking forward to hear from you. I hope you and your family are doing well and remain healthy.
With best regards. Reinhardt
Xin chào tiến sĩ Kim:
Tôi hy vọng bạn đã nhìn thấy bức thư tôi viết cho bạn vào ngày 26 tháng 6 năm nay, thông báo với bạn rằng người vợ 53 năm chung sống của tôi, Jane, đã qua đời sau một thời gian dài và đau đớn vì khuyết tật cột sống của cô ấy. Bà đã 81 tuổi. Hãy cho tôi biết nếu bạn không nhận được thư này.
Tôi không chắc là bạn đã nghỉ hưu hay chưa, nhưng tôi chắc rằng bạn vẫn bận rộn với việc viết và tổ chức các hoạt động về sắn. Cả chục năm nay tôi bận bịu chăm sóc vợ cả ngày lẫn đêm nên tôi không có thời gian cho việc khác. Bây giờ cô ấy không còn sống nữa, tôi ở nhà một mình, mặc dù tôi có một số công ty từ một người đàn ông Mexico đã thuê một phòng trong nhà của chúng tôi. Điều đó cũng có nghĩa là tôi có nhiều thời gian hơn cho những việc khác, ngoài việc đi bộ, đi xe đạp và bơi lội mỗi ngày để giữ gìn sức khỏe. Bây giờ tôi đã 79 tuổi. Hiện tại, tôi đang tổ chức một hộp đầy những bức ảnh cũ. Tôi đã xem qua một số bức ảnh về giải thưởng mà Tiến sĩ Kawano và bản thân tôi đã nhận được từ Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp Việt Nam. Đây là trong một trong những Hội thảo của chúng tôi tại Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng tôi đã quên ngày tháng chính xác, hoặc thậm chí cả năm. Một số hình ảnh cho thấy hội thảo được tổ chức từ ngày 4-6 / 3/199… .. Nếu bạn có thể cho tôi biết năm mà điều này xảy ra thì tôi rất cảm kích, vì vậy tôi có thể xác định niên đại của các bức ảnh và đưa vào sách ảnh. Đây là một trong những điểm sáng trong sự nghiệp trồng sắn lâu đời của tôi, nó đã để lại cho tôi rất nhiều kỷ niệm đẹp.
Mong được nghe từ bạn. Tôi hy vọng bạn và gia đình của bạn đang làm việc tốt và vẫn khỏe mạnh. Trân trọng kính chào. Reinhardt
Greetings from HoangKimVietnam
From: Hoàng Kim hoangkimvietnam1953@gmail.com; hoangkim.vietnam@gmail.com
To: Howeler, Reinhardt (CIAT-Emeritus) r.howeler@cgiar.org
Vietnamese cassava today
Miss you Christmas season
Hoang Kim
Good friends are hard to find, hard to leave behind and impossible to forget. The cassava revolution in Vietnam https://youtu.be/81aJ5-cGp28 is a success story. Vietnamese cassava today, https://hoangkimlong.wordpress.com/category/vietnamese-cassava-today/ the urgency to preserve and develop cassava sustainably. Greetings from HoangKim Vietnam VNCP to Howeler, Martin and friends CIAT, ACIAR “Establishing sustainable solutions to cassava diseases in mainland Southeast Asia”. Merry Christmas and Happy New Year.
Dear Dr. Reinhardt Howeler,
Hello teacher and great friend of Asian cassava farmers. Photo 1 The Global Cassava Workshop in Vietnam in 2000, with the beloved wife of Reinhardt Howeler, and Professor Pham Van Bien, Director of the Southern Institute of Agricultural Science and Technology, seated in the front row on the left. Now she is gone. Please give us belated condolences to you. I and VNCP lost your email. The photo is a silent gratitude in our hearts. Photo 2 Dr. Reinhardt Howeler and Dr. Kazuo Kawano receives the State Prize of Vietnam, presented by Mr. Nguyen Gioi, Deputy Minister of MARD, and Professor Pham Van Bien, Director of IAS, on 4/3/1997. Photo 3 is seven books on CIAT Vietnam, late 20th century and early 21st century, recognizing your outstanding contributions. Photo 4 is Luis Eduardo Barona and Hoang Kim with cassava variety C39 at CIAT in 2003 in collaboration with Hernan Ceballos and Martin Fregene. Photo 5 is the main cassava variety KM419 of Vietnam’s cassava today.
You are always in our hearts. We will always remember and thank you.
My warm greetings to you.
Best regards, Hoang Kim
Giáo sư Martin Fregene quý mến
Lời chào từ Hoàng Kim Việt Nam, VNCP phúc đáp thư bạn. Chúc bạn và gia đình vui khỏe, hạnh phúc trong Giáng sinh sắp diễn ra. Hoàng Kim và gia đình khỏe. Mình đã nghỉ hưu, nhưng tôi vẫn đang tiếp tục nghiên cứu về sắn ở VNCP phối hợp với TS Nguyễn Thị Trúc Mai, DARD Phú Yên và TS Hoàng Long, NLU. Chủ đề là “Nghiên cứu tuyển chọn giống sắn năng suất tinh bột cao, kháng được sâu bệnh hại chính (CMD, CWBD) phù hợp với điều kiện sản xuất tại tỉnh Phú Yên và các vùng phụ cận.
Chúng tôi chưa tham gia vào việc phát triển hai giống sắn này, vì chưa có hai giống sắn ấy, và chưa biết rõ tài liệu tự công bố ở Việt Nam về năng suất củ tươi, hàm lượng tinh bột và năng suất tinh bột ổn định của giống sắn TMEB419 ở Việt Nam trong sự so sánh với số liệu gốc của IITA goseed cassava, https://iitagoseed.com/goseed-cassava/ , là tài liệu tự công bố ở châu Phi. Hoàng Kim xin trả lời Martin Fregene về câu hỏi “Làm thế nào để họ chấp nhận được đối với nông dân ở Việt Nam”?: Bạn cần phải có số liệu công bố kết quả thực nghiệm DUS và VCU tại Việt Nam, được MARD chấp nhận, về hai giống sắn CR24-16 và TMEB419, theo quy chuẩn quốc gia Việt Nam.
Sắn Việt Nam ngày nay, đều có gen kháng CMD của giống sắn C39 từ CIAT, cũng là gia đình của CR24-16 với các giống sắn KM419, KM440, KM568, KM535, KM534, KM536, KM537, KM440, KM397. Như bạn đã biết, tôi tới CIAT năm 2003 để làm việc với Hernan Ceballos và Martin về chọn giống sắn DH. Việt Nam năm 2003 đã nhập nội giống sắn từ CIAT, có giống C39, và có đủ hồ sơ nhập giống sắn của CIAT với giấy phép của MARD. Vì vậy, tôi biết rất rõ hiệu suất của dòng C39 mà tôi đang hiện có ngày nay, tuyển chọn từ năm 2003 (*). Tôi và “nhóm Hoàng Kim” từ đó đến nay đã liên tục làm việc Bảo tồn và phát triển sắn, gồm: Giống sắn chủ lực KM419, cũng là tác giả của các giống sắn phổ biến trước đó tại Việt Nam KM140, KM98-5, KM98-1, KM94 (tên gốc KU50), SM937-26. Ở Việt Nam, giống sắn KM419 và KM440 đến nay là phổ biến nhất, sau cả áp lực nặng của bệnh khảm lá CMD và bệnh chổi rồng CWBD. https://youtu.be/XDM6i8vLHcI và https://youtu.be/kjWwyW0hkbU chúng tôi khuyên nông dân nên trồng các loại giống sạch bệnh KM568, KM535, KM419, KM440, KM94, KM140, KM98-1, HN5, HLS14 (và hai giống sắn CR24-16 và TMEB419 nếu có) để khảo nghiệm DUS và VCU. Sắn Việt Nam bảo tồn và phát triển bền vững: xem thêm https://hoangkimlong.wordpress.com/category/chon-giong-san-khang-cmd/
Cảm ơn bạn vì sự liên kết thông tin quan trọng này. Lời chào nồng nhiệt của tôi đến gia đình bạn. Trân trọng Hoàng Kim
(*) Hoang Kim, Nguyen Phuong, Hoang Long, Tran Cong Khanh, Hernan Ceballos, Rod Lefroy, Keith Fahrney, Tin Maung Aye and Reinhardt Howeler 2010. Recent progress in cassava breeding and the selection of improved cultivars CIAT. In: A New Furture for Cassava in Asia: Its Use as Food, Feed and Fuel to Benefit the Poor. 8th Asian Cassava Research Workshop October 20 – 24, 2008 in Vientiane, Lao PDR. papers 223 – 233
Greetings from Martin Fregene
From: Martin Fregene <mfregene@gmail.com>
To: Hoàng Kim hoangkimvietnam1953@gmail.com
Dear Hoang Kim
This is Martin Fregene saying hello after a long time! How are you and your family? Are you still in cassava research or you have retired and moved to a private sector company? I saw on Twitter this tweet about two varieties recently released in Vietnam CR24-16 and TMEB419, see the link to the tweet below. Were you involved in the development of these varieties? Do you know the fresh root yield, starch yield and starch yield stability of the two varieties? How acceptable are they to farmers? https://twitter.com/cassdiseaseasia/status/1460897971063570433?s=21
As you know I left CIAT to the US and now working at the African Development Bank in Abidjan. But I was involved in the production of C18, one of the parents of CR24-16, and even the progeny while at CIAT as part of the CMD molecular breeding program. So I am interested in the performance of the CR24-16 line. Thanks for any information you can provide and I look forward to hearing from you soon.
My warm regards to your family.
Sincerely
Martin
Greetings from HoangKimVietnam
From: Hoàng Kim hoangkimvietnam1953@gmail.com; hoangkim.vietnam@gmail.com
To: Martin Fregene <mfregene@gmail.com>
Dear Professor Martin Fregene
Greetings from Hoang Kim Vietnam, VNCP replies to your letter. Wishing you and your family a happy and healthy Christmas in the coming time. Hoang Kim and family are healthy. I am retired, but I am still continuing to research cassava at VNCP in collaboration with Dr. Nguyen Thi Truc Mai, DARD Phu Yen and Dr. Hoang Long, NLU. The topic is “Study on selection of cassava varieties with high starch yield, resistant to major pests and diseases (CMD, CWBD) suitable for production conditions in Phu Yen province and surrounding areas”. I saw it on Twitter. at the link to the tweet https://twitter.com/cassdiseaseasia/status/1460897971063570433?s=21 about the two cassava varieties CR24-16 and TMEB419 and DNRTV’s video http://dnrtv.org.vn/tin-tuc- n107515/benh-kham-la-mi.html , talk about cassava variety TMEB419, and video by TNRTV https://youtu.be/QCo_eFohvpQ
We have not participated in the development of these two cassava varieties, because there are not two varieties of cassava yet, and we do not know the self-published documents in Vietnam on fresh tuber yield, starch content and stable starch yield. Determination of cassava variety TMEB419 in Vietnam in comparison with original data from IITA goseed cassava, https://iitagoseed.com/goseed-cassava/, which is self-published in Africa. Hoang Kim would like to answer Martin Fregene on the question “How can they be acceptable to farmers in Vietnam”?: You need to have data published on experimental results of DUS and VCU in Vietnam, approved by MARD accepted, about two varieties of cassava CR24-16 and TMEB419, according to the national standards of Vietnam. In Vietnam, cassava varieties KM419 and KM440 are by far the most popular, after both the severe pressure of CMD and CWBD. https://youtu.be/XDM6i8vLHcI and https://youtu.be/kjWwyW0hkbU we advise farmers to plant disease-free varieties KM568, KM535, KM419, KM440, KM94, KM140, KM98-1, HN5, HLS14 (and two cassava varieties CR24-16 and TMEB419 if available) for DUS and VCU testing. Vietnamese cassava conservation and sustainable development: see more https://hoangkimlong.wordpress.com/category/chon-giong-san-khang-cmd/
Today’s Vietnamese cassava all have CMD resistance gene of C39 cassava variety from CIAT, also family of CR24-16, with cassava varieties KM419, KM440, KM568, KM535, KM534, KM536, KM537, KM440, KM397. As you know, I went to CIAT in 2003 to work with Hernan Ceballos and Martin on DH cassava breeding. Vietnam in 2003 imported cassava varieties from CIAT, has C39 variety, and has enough records to import cassava varieties from CIAT with MARD’s license. So I know very well the performance of the C39 series I have today, sifting from 2003 (*). Since then, “Hoang Kim team” and I have been continuously working on the conservation and development of cassava, including: The main cassava variety KM419, also the author of the previously popular cassava varieties in Vietnam KM140, KM98- 5, KM98-1, KM94 (original name KU50), SM937-26. Thank you for this important informative link.
My warm greetings to your family.
Best regards, Hoang Kim
SẮN VIỆT NAM NGÀY NAY: BẢO TỒN VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Vietnamese cassava today: conservation and sustainable development Nguyen Thi Truc Mai, Hoang Kim, Hoang Long, et al. (*) Selection of cassava varieties resistant to CMD https://hoangkimlong.wordpress.com/category/chon-giong-san-khang-cmd/
Bệnh virus khảm lá CMD từ ban đầu Tây Ninh (2017) lan rộng trên 15 tỉnh thành Việt Nam (2018) là thách thức của các nhà khoa học. “V/v sử dụng giống sắn KM419 trong sản xuất” đã được Bộ NNPTNT xác định tại công văn chỉ đạo của Bộ Nông nghiệp Phát triển Nông thôn, Cục Bảo vệ Thực vật số 1068/ BVTV ngày 3 tháng 5 năm 2019. Giống sắn KM419 có năng suất tinh bột cao nhất và diện tích trồng phổ biến nhất Việt Nam. Giống sắn KM419 chống chịu trung bình bệnh CMD và bệnh chổi rồng (CWBD), trong điều kiện áp lực 2 bệnh này ở Việt Nam hiện nay là rất cao. Sự cần thiết cấp bách lai tạo KM419 đưa thêm gen kháng bệnh của giống C39, KM440 (KM94 đột biến); KM397 vào giống sắn ưu tú này .
Giải pháp chọn giống sắn Việt Nam tiếp nối hiệu quả là sử dụng giống sắn KM419 năng suất tinh bột cao sạch bệnh tiếp tục lai tạo với các giống sắn kháng bệnh CMD đã có. Bài viết CHỌN GIỐNG SẮN VIỆT NAM đúc kết tóm tắt thông tin đã có và định hướng cho sự nổ lực Trúc Mai, Hoang Long, BM Nguyễn, Nguyen Van Nam, Nhan Pham, Hung Nguyenviet, Hoàng Kim, Jonathan Newby … đang lai hữu tính và bồi dục nâng cao tính kháng cho các giống sắn KM419, KM440, KM397, tốt nhất hiện nay
Chúng tôi khuyên nông dân nên trồng các loại giống sạch bệnh KM568, KM535, KM419, KM440, KM94, KM140, KM98-1, HN5, HLS14 để khảo nghiệm DUS và VCU , bảo tồn và phát triển những giống sắn tốt nhất có năng suất cao và ít sâu bệnh.
CHỌN GIỐNG SẮN KHÁNG CWBD Nguyễn Bạch Mai,Hoàng Kim, Nguyễn Thị Trúc Mai, Hoàng Long, Nguyễn Văn Phu Selection of cassava varieties resistant to CWBD *
CAVAC Cách chọn thân cây sắn để trồng (Video hướng dẫn về bệnh khảm trên cây sắn)https://youtu.be/0MVPGxOpoPY Video của Australian Embassy, Cambodia 18 8 2021 đã viết. “Bạn có biết sắn là cây trồng lớn thứ hai của Campuchia và mang lại sinh kế cho hơn 90.000 hộ gia đình, đóng góp hàng trăm triệu đô la cho nền kinh tế? Điều này cũng có nghĩa là sâu bệnh có thể có tác động tàn phá. Australia thông qua chương trình Chuỗi Giá trị Nông nghiệp Campuchia-Australia (CAVAC) và Trung tâm Nông nghiệp Nhiệt đới Quốc tế (CIAT) đang làm việc với Bộ Nông nghiệp, Lâm nghiệp và Thủy sản để ngăn chặn sự lây lan của bệnh Chổi rồng (CWBD), một mối đe dọa lớn đối với cây sắn. Bệnh CWBD làm giảm hàm lượng tinh bột và sản lượng sắn 80%). Australian Embassy, Cambodia18 tháng 8 lúc 13:05 “Eradicating Disease from Cambodia’s Cash Crop (ភាសាខ្មែរនៅខាងក្រោម) Did you know cassava is Cambodia’s second biggest crop and provides a livelihood for more… than 90,000 households, contributing hundreds of millions of dollars to the economy? This also means that pests and diseases can have a devastating impact. Australia through the Cambodia-Australia Agricultural Value Chain (CAVAC) program and the International Centre for Tropical Agriculture (CIAT) is working with the Ministry of Agriculture, Forestry and Fisheries to stop the spread of Cassava Witches’ Broom Disease, a major threat to cassava that reduces its starch content and yields by 80%” Australian Embassy, Cambodia said. https://www.youtube.com/embed/-MA3hDJezAg?version=3&rel=1&showsearch=0&showinfo=1&iv_load_policy=1&fs=1&hl=vi&autohide=2&wmode=transparent
*
Chọn giống sắn kháng CWBD Ở Việt Nam, giải pháp chủ yếu ngăn chặn lây lan CWBD và CMD là phòng trừ tổng hợp: sử dụng giống sắn KM419, KM440,KM397, KM98-1 ít nhiễm bệnh hơn so với KM94 và dùng nguồn giống sạch bệnh; vệ sinh đồng ruộng tiêu hủy nguồn bệnh kịp thời; diệt rầy lá, rầy thân, nhện đỏ, rệp sáp và các loại côn trùng lây lan bệnh; cần chăm sóc sắn tốt, bón phân và làm cỏ 3 lần để tăng sức đề kháng cho cây, bố trí mùa vụ thích hợp để hạn chế dịch hại; tiêu hủy nguồn bệnh kịp thời khi bệnh xuất hiện; xem thêmhttp://cayluongthuc.blogspot.com/2012/07/muoi-ky-thuat-tham-canh-san.html”
Selection of cassava varieties resistant to CWBD. In Vietnam, the main solution to prevent the spread of CWBD is integrated control: using cassava varieties KM419, KM440, KM397, KM98-1 less infected than KM94 and using disease-free seed sources; field sanitation to destroy disease sources in a timely manner; kill leafhoppers, stem planthoppers, red spiders, mealybugs and other disease-spreading insects; it is necessary to take good care of cassava, fertilize and weed 3 times to increase the resistance of the plants, arrange appropriate seasons to limit pests; promptly destroy the source of the disease when the disease appears; (Cassava in Vietnam: Conservation and Sustainable Development https://hoangkimlong.wordpress.com/category/tro-chuyen-voi-hoang-kim/ )
Sắn Việt Nam và Reinhardt Howeler là bài học lớn. Nhà khoa học danh tiếng này là người bạn lớn của nông dân trồng sắn Thế giới, châu Á và Việt Nam. Ông đã dành trọn đời mình cho cây sắn, đúc kết trên 15 sách sắn chuyên khảo. Bạn tốt khó tìm, khó bỏ lại, và không thể quên lãng (Good friends are hard to find, harder to leave, and impossible to forget) see more xem tiếp. https://hoangkimlong.wordpress.com/category/san-viet-nam-va-howeler/ — với Reinhardt Howeler.
Sách sắn “Quản lý bền vững sắn châu Á từ nghiên cứu đến thực hành” (Nguyên tác tiếng Anh: Sustainable management of cassava in Asia – From research to practice; tác giả tiến sĩ Reinhardt Howeler và tiến sĩ Tin Maung Aye, CIAT, 2015, 148 trang, CIAT Publication No. 396, chỉ số xuất bản ISBN 978-958-694-136-5), Người chuyển ngữ tiếng Việt Hoàng Kim, Hoang Long, Nguyễn Thị Trúc Mai, Nguyễn Bạch Mai; CIAT, VAAS, The Nippon Foundation, Nhà xuất bản thông tấn, 2015. Chỉ số xuất bản 9786049450471. PGS TS Trịnh Khắc Quang, Giám đốc VAAS và Tiến sĩ Clair Hershey, Trưởng Chương trình sắn CIAT đã viết lời giới thiệu và lời nói đầu sách này: (trích) ”Công việc tóm tắt trong tài liệu này thay cho những lời khuyên tốt nhất hiện có sau hơn 50 năm kinh nghiệm thực tiễn kết hợp nghiên cứu và làm việc với nông dân để hiểu những thách thức thực tế cuộc sống và cơ hội mà họ phải đối mặt.”.
Sách này có 13 chương. Chúng tôi trích giới thiệu chương 10 và chương 11 trong bài Sắn Việt Nam và Howeler, được sự đồng ý của tiến sĩ Reinhardt Howeler và tiến sĩ Tin Maung Aye, Nội dung Chương 10:”Kết hợp phân bón thương mại, phân chuồng, phân xanh để cải thiện độ phì nhiêu và tăng năng suất sắn” (trang 89-98).Nội dung Chương 11 Cách thức sinh học để tăng năng suất và cải thiện đất (trang 99 -110).
QUẢN LÝ BỀN VỮNG SẮN CHÂU Á
Từ Nghiên cứu đến Thực hành
Tác giả: Reinhardt Howeler và Tin Maung Aye
Người dịch: Hoàng Kim, Hoàng Long, Nguyễn Thị Trúc Mai, Nguyễn Bạch Mai
LỜI GIỚI THIỆU
Sắn Việt Nam trong vùng sắn châu Á đã tạo được sự đột phá có ý nghĩa toàn cầu. Sắn Việt Nam hiện được FAO (2013) ca ngợi là điển hình của sắn thế giới khi so sánh năm 2000 năng suất sắn Việt Nam đạt 8,35 tấn/ha, gần tương đương với năng suất sắn châu Phi (8,65 tấn/ha) nhưng đến năm 2011 sắn Việt Nam đã đạt năng suất 17,73 tấn/ha, vượt xa năng suất sắn bình quân châu Phi đạt 10,77 tấn/ha và cao hơn hẳn năng suất sắn bình quân châu Mỹ là 12,92 tấn/ha. Tại Tây Ninh, nhiều hộ nông dân đã tăng năng suất sắn lên 400%, từ 8,35 tấn/ ha lên trên 36,0 tấn / ha. Sắn lát và tinh bột sắn Việt Nam đã trở thành một trong mười mặt hàng xuất khẩu chính. Sắn Việt Nam hiện đã thành nguồn sinh kế, cơ hội xóa đói giảm nghèo và làm giàu của nhiều hộ nông dân và hấp dẫn sự đầu tư của nhiều doanh nghiệp chế biến kinh doanh. Dẫu vậy, sắn Việt Nam cũng bộc lộ nhiều rủi ro, bất cập trong sản xuất, chế biến, kinh doanh và bảo vệ môi trường.
Thay mặt cho Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam, tôi vinh dự được viết lời giới thiệu cho cuốn sách “Quản lý bền vững sắn châu Á: Từ nghiên cứu đến thực hành” của tác giả Reinhardt Howeler và Tin Maung Aye, chủ biên dịch Hoàng Kim với sự cộng tác của Hoàng Long, Nguyễn Thị Trúc Mai, Nguyễn Bạch Mai. Cuốn sách này đúng như lời tác giả “thay cho những lời khuyên tốt nhất hiện có về kỹ thuật canh tác sắn sau hơn 50 năm kinh nghiệm thực tiễn kết hợp nghiên cứu và làm việc với nông dân để thấu hiểu những thách thức thực tế cuộc sống và cơ hội mà họ phải đối mặt”. Mặt khác, cuốn sách cũng là cẩm nang nghề nghiệp cho những người làm công tác nghiên cứu, chỉ đạo sản xuất và hoạch định chính sách về cây sắn, là cầu nối để trao đổi, thảo luận về các vấn đề cùng quan tâm trong quản lý đất và canh tác sắn bền vững ở châu Á.
Kính chúc bà con nông dân những mùa thu hoạch sắn bội thu.
Trịnh Khắc Quang
Giám đốc Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam (VAAS)
LỜI NÓI ĐẦU
Sắn là một trong những loại cây trồng thích nghi vùng cao phổ biến nhất ở châu Á vì tính linh hoạt của nó trong hệ thống cây trồng, khả năng sản xuất thuận lợi trong điều kiện khó khăn và tính đa dụng cung cấp thực phẩm, thức ăn gia súc, nguồn thu nhập cho hộ nông dân. Mặc dù sắn có tiếng là cây dễ trồng, nó vẫn đòi hỏi phải quản lý tốt để có được năng suất cao qua các năm, đi đôi việc bảo vệ nguồn đất và nước.Thế giới nông nghiệp đang chuyển đổi một cách nhanh chóng và cây sắn cũng không tránh khỏi sự thay đổi này. Một mặt, thị trường sắn và sản phẩm sắn đang tăng trưởng ở một số nước châu Á với khả năng thu lợi nhiều hơn từ cây này. Nhiều giống sắn mới năng suất cao là có giá trị đối với hệ thống sản xuất và sự hiểu biết về quản lý đất và cây trồng tối ưu đã được tăng đều đặn. Đồng thời, vấn đề sâu bệnh cũng trở nên quan trọng và thường ảnh hưởng đến sản lượng cây trồng. Kiểm soát chúng đòi hỏi kiến thức tốt và quản lý cẩn thận. Có nhiều lựa chọn trong hoạt động quản lý cây trồng như chuẩn bị đất, mật độ trồng, quản lý cỏ dại và các công cụ thu hoạch. Việc sản xuất cây giống chất lượng cao (hom và hạt giống) có lợi thế tiềm năng mà thường không được đánh giá đầy đủ bởi người trồng sắn. Quản lý độ phì đất là thực hành cốt lõi mang lại thành công lâu dài cho nhiều nông dân trồng sắn. Hiểu biết thấu đáo các yếu tố đầu vào và thực hiện những điều đó góp phần tối ưu hóa năng suất, về lâu dài là nền tảng thành công của một người nông dân trồng sắn.
Nhưng kết hợp đúng thực tiễn cần được cụ thể cho mỗi trang trại. Những người nông dân trồng sắn thường không dễ tiếp cận thông tin chuẩn mực về thực hành quản lý tốt nhất. Ở hầu hết các nước, hệ thống khuyến nông cung cấp tư vấn kỹ thuật cho người nông dân trồng sắn không phát triển như đối với cây lúa hoặc cây ngô và thỉnh thoảng còn không có. Các chuyên gia tư vấn thường là cán bộ khuyến nông, các đại diện bán hàng của công ty cung cấp nguyên liệu đầu vào như phân bón hay thuốc trừ sâu, hay các chuyên viên kỹ thuật của các công ty chế biến. Họ thường làm việc với nhiều loại cây trồng và nhiều nông dân, hoặc có thể có các lợi ích thương mại với động cơ mua bán sản phẩm hoặc dịch vụ cụ thể. Hầu hết các công nghệ được phát triển cho sắn được thiết kế thân thiện môi trường, nghĩa là không phụ thuộc vào đầu vào cao của hóa chất hoặc các thực hành bất lợi. Điều quan trọng là công nghệ được phổ biến và phát huy tận dụng mối quan tâm đối với môi trường.
Cuốn sách này nhằm mục đích cung cấp thông tin có cơ sở tốt về quản lý cây sắn để nông hộ thu lợi tối đa và phát triển tốt hơn trong khi vẫn bảo tồn độ phì nhiêu của đất và phát triển bền vững lâu dài. Nó được dựa trên những kinh nghiệm và kết quả nghiên cứu từ nhiều thập kỷ qua, đặc biệt không chỉ ở châu Á mà còn ở châu Phi và châu Mỹ Latinh. Rất nhiều thông tin được phát triển bởi sự tham gia làm việc giữa Trung tâm Quốc tế Nông nghiệp Nhiệt đới (CIAT) – có trụ sở ở Cali, Colombia, và một văn phòng khu vực châu Á, trước đây đặt ở Bangkok, Thái Lan và hiện nay đang đặt ở Hà Nội, Việt Nam – với các tổ chức đối tác trong khu vực. Các đối tác này được đề cập trong tài liệu thông qua hướng dẫn thảo luận các thí nghiệm hoặc công nghệ liên quan. Nhiều nông dân tham gia phát triển ý tưởng và giải pháp trong chương trình nghiên cứu có sự tham gia của nông dân (FPR). Đây là một phần quan trọng trong việc đảm bảo sự phù hợp thực tế của các kết quả.
Cuốn sách được thiết kế cho những người cung cấp tư vấn trực tiếp đến nông dân, cũng như các giáo viên, nhà nông học, sinh viên, cán bộ khuyến nông, đại lý nông sản và công nghiệp chế biến cùng những ai quan tâm đến quản lý đất và cây trồng bền vững đối với sắn ở châu Á. Sách cũng được dùng để cung cấp thông tin tư vấn trực tiếp đến nông dân, những người hiểu biết kỹ thuật canh tác sắn để vận dụng phù hợp với điều kiện cụ thể của mình. Tuy sách chưa có hướng dẩn chi tiết tại trang trại cá nhân nhưng nó là cẩm nang hướng dẫn cho cán bộ khuyến nông và những người làm việc với cộng đồng nông dân để điều chỉnh thích hợp với nhu cầu cụ thể. Chúng tôi mời các đối tác quốc gia sử dụng hướng dẫn này một cách tự do để phát triển các tài liệu bổ sung cho mục đích đào tạo và khuyến nông địa phương.
Các tác giả cuốn sách này là tiến sĩ Reinhardt Howeler và Tin Maung Aye đã làm việc rộng khắp với một loạt các đối tác, các trạm thí nghiệm và trên đồng ruộng của nông dân. Công việc tóm tắt trong tài liệu này thay cho những lời khuyên tốt nhất hiện có sau hơn 50 năm kinh nghiệm thực tiễn kết hợp nghiên cứu và làm việc với nông dân để hiểu những thách thức thực tế cuộc sống và cơ hội mà họ phải đối mặt.
Sách hướng dẫn này sẽ không thể thực hiện được nếu không có sự hỗ trợ của quỹ Nippon. Những gắn bó hơn hai thập kỷ hỗ trợ kinh phí cho các hoạt động nghiên cứu, đào tạo và phát triển mạng lưới trên khắp Đông Nam Á. CIAT trân trọng cảm ơn vai trò quan trọng của Quỹ Nippon trong các sáng kiến nghiên cứu phát triển thông tin bao gồm hướng dẫn này, cũng như hỗ trợ biên dịch và sản xuất tài liệu hướng dẫn.
Chương trình sắn CIAT hân hạnh giới thiệu hướng dẫn này để sử dụng trong việc quản lý hệ thống sản xuất trồng sắn nhằm tối ưu hóa lợi ích ngắn và dài hạn cho nông dân cũng như để bảo vệ môi trường.
Clair Hershey
Trưởng Chương trình sắn CIAT
Giới thiệu về tác giả
Reinhardt Howeler sinh tại Indonesia nhưng lớn lên ở Hà Lan. Sau khi tốt nghiệp ở Học viện Nông nghiệp Nhiệt đới, ông di cư sang Mỹ tiếp tục nghiên cứu của mình và lấy bằng tiến sĩ về hóa học đất tại Trường Đại học Cornell. Ông tham gia tổ chức CIAT ở Cali, Colombia năm 1970, khi chương trình sắn mới được thành lập năm 1972. Ông tiến hành các thí nghiệm trong nhà kính để xác định nhu cầu dinh dưỡng của cây sắn và làm thế nào để quản lý sắn không bị xói mòn nghiêm trọng. Năm 1986, ông chuyển đến văn phòng CIAT châu Á tại Bangkok, Thái Lan và ở lại đây suốt thời gian 23 năm. Ông đã làm việc chặt chẽ với các nhà nghiên cứu, cán bộ khuyến nông và nông dân trong điều kiện thực tế với tất cả các nước trồng sắn trong khu vực, phát triển các hoạt động quản lý đất và cây trồng tốt hơn, và tăng cường ứng dụng chúng bằng cách sử dụng phương pháp nghiên cứu có sự tham gia của nông dân (FPR). Kết quả là sản lượng sắn ở châu Á tăng lên đáng kể, cho phép sự gia tăng nhanh chóng của công nghiệp chế biến và sử dụng sắn, tăng cung cầu sử dụng sắn, cải thiện thu nhập và đời sống của nhiều nông hộ trồng sắn. Reinhardt Howeler là chuyên gia sắn nổi tiếng, biên soạn nhiều sách và đã được vinh danh tại Việt Nam (ND).
Tin Maung Aye đã được sinh ra và lớn lên ở Myanmar, ở đó ông nhận bằng Cử nhân Nông nghiệp của Viện Nông nghiệp Yezin năm 1984. Sau khi làm việc như một trợ lý nghiên cứu trong ba năm ông chuyển đến Thái Lan, nơi ông hoàn thành bằng Thạc sĩ trong hệ thống nông nghiệp ở Viện Công nghệ Châu Á (AIT) tại Bangkok vào năm 1994. Sau khi làm việc ở các vị trí khác nhau tại AIT, ông tham gia nghiên cứu của tổ chức Landcare Ltd. tại New Zealand với tư cách là một nhà phân tích hóa học, và sau đó làm việc như một trợ lý nghiên cứu tại Trung tâm Nghiên cứu Phân bón và Vôi tại Đại học Massey. Ông đã hoàn thành bằng tiến sĩ về khoa học đất từ Đại học Massey ở New Zealand vào năm 2001. Ông đã làm việc cho chương trình sắn CIAT như một nhà khoa học đất và nông học sắn từ năm 2005, bốn năm đầu tiên ở Lào và sau đó chủ yếu tại Campuchia, Lào, Việt Nam và Myanmar. Ông hiện đang làm việc tại Văn phòng khu vực châu Á-CIAT tại Hà Nội. Trong suốt sự nghiệp của mình, ông đã hoạt động trong nông nghiệp cộng đồng và các tổ chức chuyên nghiệp với mục tiêu hỗ trợ xóa đói giảm nghèo và nâng cao tính bền vững nông nghiệp ở vùng cao ít được ưa chuộng của vùng nhiệt đới châu Á và Thái Bình Dương, đặc biệt ở Đông Nam Á.
CÁCH MẠNG SẮN VIỆT NAM Hoàng Kim
Cách mạng sắn Việt Namhttps://youtu.be/81aJ5-cGp28Chọn giống sắn Việt Nam thành tựu và bài học là kinh nghiệm quý giá cho công việc Chọn giống sắn kháng CMD cấp bách hiện nay. Giống sắn KM419 và KM94 với 42% và 37% diện tích sắn Việt Nam với khoảng 50% và 40% diện tích sắn Campuchia, đang được sử dụng để tích hợp các gen kháng vi-rút khảm lá sắn CMD. Giống sắn KM98-1 ( là giống sắn Việt MARD certificate No. 3493/QD-BNN–KHKT, Sep 9, 1999, có cùng nguồn gốc cha mẹ với giống sắn Rayong 72 của Thái Lan),hiện đang được xác định là giống sắn chủ lực ở Lào ngày nay. Ở Việt Nam, sắn là cây lương thực quan trọng thứ ba sau lúa và ngô. Sắn Việt Nam ngày nay là một ngành xuất khẩu đầy triển vọng với diện tích hơn nửa triệu ha và giá trị xuất khẩu hơn một tỷ đô la Mỹ mỗi năm. Cách mạng sắn Việt Nam, với sự tham gia của hàng triệu nông dân trồng sắn Việt Nam, đã thực sự đạt được sự chuyển đổi to lớn cây sắn và ngành sắn về năng suất, sản lượng, giá trị sử dụng, hiệu quả kinh tế, thu nhập thực tế, sinh kế, việc làm và bội thu giá trị lao động sống ngành sắn cho hàng triệu người dân trên toàn quốc.Sắn Việt Nam hôm qua và ngày nay đã và đang tiếp tục làm cuộc cách mạng xanh mới.
Cách mạng sắn Việt Nam hôm nay là tiếp tục sự bảo tồn và phát triển sắn bền vững, đồng hành và hợp tác Việt Nam ACIAR CIAT “Thiết lập các giải pháp bền vững cho cây sắn ở Đông Nam Á”.
Chương trình Sắn Việt Nam (Viet Nam Cassava Program VNCP) là một địa chỉ xanh của gia đình sắn. Gia đình sắn Việt Nam là một kinh nghiệm quý về sự liên kết chặt chẽ giữa các ‘bạn nhà nông’ chuyên gia nông học, thầy giáo cán bộ nghiên cứu sinh viên, các chuyên gia quốc tế cùng làm việc chặt chẽ với nông dân xây dựng mô hình điểm trình diễn, đó là chìa khóa cho sự bảo tồn và phát triển sắn bền vững. Chúng tôi đã cùng nhau đánh giá giống sắn mới và kỹ thuật thâm canh sắn thích hợp trên ruộng nông dân. Sự hợp tác chặt chẽ đã xâu chuỗi sự thành công bền vững. xem tiếp Cách mạng sắn Việt Nam (The cassava revolution in Vietnam) https://youtu.be/81aJ5-cGp28
I visited Vietnam for a week this last December, where a team of NHK video-taped for a documentary of the changes caused by the new cassava varieties I introduced 20 years ago in the lives of small framers, the enhanced activities of industrial and business communities and the development of research organizations. It was a most interesting, amusing and rewarding visit where I reunited with a multitude of former small farmers who are more than willing to show me how their living had been improved because of KM-60 and KM-94 (both CIAT-induced varieties) , many “entrepreneurs” who started from a village starch factory, and several former colleagues who became Professor, Vice Rector of Universities, Directors of research centers and so on. Vietnam can be regarded as a country who accomplished the most visible and visual progress most rapidly and efficiently utilizing CIAT-induced technology.
For my own record as well as for responding to the requests from my Vietnamese colleagues, I decided to record the changes and progress that had taken place in Vietnam in general and in cassava varietal development in particular in a series of picture stories. This is the first of long stories that would follow.
The basis of Vietnamese agriculture is rice. Cassava is planted on the upper parts.
In flat, dry area, they plant cassava predominantly
Meeting old friends at Hung Loc Agricultural Research Center:Now, Hoang Kim is Senior Lecturer at Nong Lam University in Ho Chi Minh city and Nguyen Huu Hy is Director of Hung Loc Agricultural Research Center
Reunion with advanced farmer Mr. Ho Sau with Hoang Kim and students in Trang Bom, Dong Nai
Reunion with advanced farmer Mr. Tong Quoc Thanh with Hoang Kim in Tay Ninh
Meeting Former Director Truong Van Ho, old colleague Trinh Thi Phuong Loan (Retired as Deputy Director) and other friends at Root Crop Research Center, Vietnam Agricultural Science Institute in Hanoi
Meeting Tran Ngoc Ngoan (Now, Vice-Rector of Thai Nguyen University), Mrs. Loan and Mr. Ngo Trung Kien (an advanced farmer) in Mr. Kien’s house, Pho Yen, Bac Thai
Meeting Mrs. Sau and Mrs. Quyen, successful former cassava farmers, in Hatay, near Hanoi
Giving concluding remarks in the end of Vietnam Journey in Lake Hoan Kiem, Hanoi,
5 Dec 2009
A BRIEF HISTORY OF A SUCCESSFUL BREEDING PROGRAM
As is widely known, Vietnam has accomplished a rapid economic development in recent 20 years. During the same period, , cassava, starting from a low status crop grown by small farmers and consumed as human food by poor people, has grown into a major crop providing raw materials for animal feeding, industrial starch processing and most recently bio-ethanol production (though I have some reservations for using cassava for this purpose), thus bringing precious cash income to millions of small farm families. When I first visited Vietnam in 1988, cassava’s acreage all over the country was 0.28 million ha with mean yield of 8.4 t/ha. It now occupies 0.56 million ha (official figure: the actual figure is said to be around 0.65 million ha; the emphasis of research is gradually shifting from varietal improvement to soil conservation) with 15.9t/ha mean yield. Vietnam has now advanced to World No. 2 exporter of cassava products next only to Thailand.
It is extremely gratifying to witness this progress toward the end of my career; then, what made this experience possible? The breeding work that has brought this result started when I joined CIAT as cassava breeder in 1973, where CIAT was inaugurating an integrated cassava research program with global mandate by recruiting a half dozen of young PhD from world reputable universities. As such, I initiated a comprehensive cassava breeding program using a population which contained a vast genetic variation coming from more than 2000 native varieties collected from the centers of origin and diversification of cassava all over Latin America.
Especially noteworthy in this process is the fact that those countries such as Colombia, Brazil and Mexico where abundant cassava germplasm existed donated to or allowed CIAT to collect native cassava varieties on the condition that the newly established international research center CIAT uses all these germplasm for the welfare of people in the world without pursuing any monetary profit. It goes without saying that those rural small farmers who grew native cassava varieties inherited from their ancestors were very cooperative with the CIAT collection. The researchers as well the early CIAT administration clearly shared the immeasurable importance of basic germplasm in pursuing large scale breeding.
I accomplished much of the basic breeding during the first 10 years at CIAT/Colombia and moved to Thailand in 1983 by opening a CIAT/Asia office on the understanding that the effect of cassava varietal improvement would be more eminent in Asia. Thus, I started a more practical breeding in close collaboration with Thai workers. Here again, we were very thankful that the Colombian government allowed us to transfer cassava breeding materials to Asia without condition. As a result, I had transferred more than 1 million genotypes of cassava, mainly in the form of F1 hybrid seeds, from Latin America to Asia during the 15 years that followed.
This breeding work, based on the hybridizations between Latin American and Thai materials, resulted in a great success and produced many superior varieties. Now, some 97% of the total 1.15million ha of cassava in Thailand is planted with these new varieties we developed. I transferred many advanced breeding materials from Thailand to other Asian countries such as Indonesia, Philippines, China and Vietnam. In this process as well, the Thai government authorization of transferring our breeding materials to other Asian countries, which could well be potential (in fact, actual) competitors to Thailand, was to be highly appreciated.
In 1989, I brought planting stakes of Rayong 60 and Kasetsart 50 among others as a check-in baggage of the Bangkok-Ho Chi Minh flight (The import and plant quarantine permit had been very willingly arranged by the Vietnamese institution). Upon harvesting the first cycle evaluation /multiplication at Hung Loc Center in 1990, I carried the planting stakes of these varieties from HCM to Hanoi to be evaluated and multiplied by the research institutions in the North. In retrospect, my action was rather unorthodox power play. Nevertheless, considering that this was the beginning of a long story which would develop to generating an annual additional economic effect in the order of 200 million US dollars to be shared by the millions of small farmers, power play may be justified on certain critical occasions.
F1 selection at CIAT/Colombia in1976
One of the early selections, CIAT/Colombia circa 1980
F1 selection at Rayong Center, Thailand, circa 1987
Rayong 60 in Feb 1988 at Rayong Center, one of the major early successes at CIAT/Thai collaborative breeding program
A typical cassava field in North Vietnam in 1989
Cassava harvest being carried to market in Ho Chi Minh city in 1988
Processing cassava for noodle near Bien Hoa in 1988
Cassava starch processing as a cottage industry in Tay Ninh early 1990s
By 1996, farmers can harvest more cassava for feeding pigs by planting new varieties (Here is KM-60 or Rayong 60 in Hung Loc Agricultural Research Center, Dong Nai Province (1990)
and Ha Tay Province (1996)
Large scale cassava starch factories began to appear in Tay Ninh circa 1996
Cassava starch production became a big business following the step of Thailand (Tay Ninh 2009)
Now, the Bio-ethanol processing using cassava (A new Bio-Ethanol Plant is being built in Phu Tho)
Ho Chi Minh city (Saigon)
I began my first trip report to Vietnam 22 years ago with the following phrase “As the Air France flight 174 landed eventlessly at the airport of Ho Chi Minh City, only the vastness of the airport reminded me of its once familiar name of Tan Son Nhut, which was now more a symbol; of disrepair and abandonment.” Now, two decades later, Ho Chi Minh city is an entirely different place. See the town before and now.
The tallest building I could see in 1988. It had an eerie feeling of a ghost house.
Street filled with bicycles in 1988.
Now in 2009, many new buildings were constructed and being constructed.
Traffic is now like Bangkok 20 years ago.
Now, serious efforts are being paid to keep the town presentable.
As a result, the city looks very charming these days.
Hanoi
A similar transmutation took place in Hanoi, but the extent of metamorphosis is actually greater in Hanoi because Hanoi in the 1980s was somewhat dismal place.
A typical Hanoi building in 1989
A Hanoi street in 1989
Hanoi outlook in 2009, it is quite an attractive town.
Hanoi street is less noisy and probably more cultured than HCM (2009)
Relaxing at Hoan Kiem Lake in Hanoi (2009)
People (South)
Children and housing in Bien Hoa near Ho Chi Minh city in 1988
Moon cake factory in Ho Chi Minh city in 1988
Busy street in Ho Ch Minh city in 2009
Barbecue shop in Ho Chi Minh city in 2009
Children and mothers attending an art class in Ho Chi Minh city in 2009
People (North)
“Curiosos”; When we visited Hanoi in 1989, just the presence of Reinhardt Howeler caused quite a sensation.
Farm people near Hanoi in 1989
Children in cassava field near Hanoi in 1989
People in front of Mrs. Sau’s house in Hatay, near Hanoi in 2009; Successful lives change many things.
People relaxing on the bridge at Hoan Kiem Lake in Hanoi in 2009
Hanoi street shop in 2009; Westerners are no longer a curiosity
Shops in Ho Chi Minh city (more pictures including)
Ben Thanh Market in the center of Ho Chi Minh city in 1988
Inside the Market
Cassava sold in open market in Ho Chi Minh city in 1988
Market in 2009
Bread shop in HCM street in 2009; the cheapest one is 15 and the most expensive one is 50 (US$0.55)
A super market
Yet, outside HCM, this type of a small, traditional operation is still common; A movable shop near Bien Hoa in 2009
Shops in Hanoi
Hanoi market with children in 1989
Money changers in Hanoi street in 1989
Hanoi street shops in 2009
A toy shop in Hanoi in 2009
A department store in Hanoi in 2009
Book store in Ho Chi Minh city
As was expected, there was hardly any book store worthy of mention in my first visit in 1988. What I observed in this visit in 2009 follows:
The main section of a big book store
Children book section
Stationary section
I was most impressed with the good quality maps printed in Vietnam being sold at very reasonable prices
Noodle shops
When I first visited Vietnam in 1988, there was hardly any restaurant, in many places not even an eating place for pay, outside Saigon. All our itinerary was managed by the “Liaison officer” of the Government office in charge of foreign visitors and all the eating outside the big cities was officially arranged. The choice and the quality was predictably unimpressive at that time.
I was to witness a tremendous change in eating in this visit in 2009.
For shop in Hanoi
The renowned “Fo”
Market noodle shop in Ben Thanh Market in Ho Chi Minh city
A super deluxe version of cassava noodle “ラーメン” at 250(US$2.75)
Vietnam has caught up with Thailand in this type of ordinary eating; “Fo” is quite comparable with “Bamie Nam” of Thailand
Vietnam is the No.2 exporter of coffee next only to Brazil overtaking Colombia. As such, the Vietnamese coffee is good as ever, together with the Vietnamese bread,
Hotel
I described about the state of a government-run “hotel” where we stayed in May 1989 as follows; “Yet, we had worst experiences when we traveled outside big cities. When we decided to stay in the city of Phan Rang about 350km to the northeast of Ho Chi Minh city, the new privately run hotel was all full so that we had to stay at the government run hotel. The government hotel occupied a large lot in which the sleeping quarters were 100m away from the eating place. Not a single soul was staying at this vast place on that night. I suspected no one had stayed for the past three months at least. The room was full of spider webs and dung of wall lizards and inevitably very dirty. There was no air conditioning or private toilet. A naked bulb was the only illumination and the door knob must have given out some 15 years ago and a huge pad lock had replaced it. The towel was provided but its original color was indiscernible. Many cockroaches were running in the communal bath room in which the toilet was full of rubbish and never flushed. An about 5cm rubber hose connected to the water faucet was the only shower facility (actually it worked very well; the only thing I liked of this ghost house. I was rather refreshed after suffering from all these pandemonium). The whole atmosphere suggested how a prison cell would look like. The whole setting was in good contrast with the private run hotel which was smaller but filled with guests and maintained a cheerful atmosphere. This was in the South. Things were worse in the North.
Yet, the most appalling part was the payment. The attendants, all elderly women, charged each of the Vietnamese colleagues an equivalent of US$1.75 in local currency, which was not particularly high for our understanding but paying an equivalent of 1.5 day wage for this accommodation was disputable. By regulation, they charged each of us US$27.50 in hard currency. In China, foreigners usually have to pay twice as much as native Chinese for air tickets, train tickets or hotel accommodation. For the domestic air tickets of Air Vietnam, foreigners have to pay four times as much in hard currency. Yet, this time it was 15 times as much. The attendants were showing the faces of incredulity. Anyone paying money for staying in this place was surprising enough. It must take foreign idiots to pay two month salary of local people for staying in this miserable place. Something is grossly wrong with the economic system. It is a tragedy that more than ten years was necessary to realize that.”Everything changed during the past 20 years, of course. Yet, it is in the hotel situation where the change can be seen most dramatically.
Hotel buildings in Ho Chi Minh city in 2009
Breakfast at Saigon Oscar Hotel where I stayed for three days in Dec 2009
Yet, the most impressive is the change in people’s attitude toward service and responsibility. I carelessly left a bag containing some memory cards and a recharger in my room at this Saigon Oscar Hotel. I realized this when I arrived in Hanoi but it was too late. Only half expectedly, I called the hotel from Yamatedai, Japan informing about what had happened. The hotel attendant answered that they were keeping the item in their Lost-and Found section. I immediately sent a Fax asking them to send the bag to my address in Japan. To my delight, the bag arrived in Yamatedai in good order a week later. I found it fair to inform this rather pleasant experience in some travelers’ Blog (口コミ旅行情報) as follows;
HUNG LOC AGRICULTURAL RESEARCH CENTER
In addition to the recognition, promotion and social success of my former colleagues such as Hoang Kim, Nguyen Huu Hy, Trinh Thi Phuong Loan and Tran Ngoc Ngoan, the upgrading of the institutions where we used to conduct the varietal improvement work together is another very pleasant side product of our collaboration.
We (Reinhardt Howeler and myself) started with this type of formal, if not stressful, negotiation on how we would conduct our collaboration at Hung Loc Center in 1988.
Even as late as in 1992, the meeting was not without some tenseness.
Hung Loc Center was a rather sleepy, smallish place typical of underdeveloped countries (1990)
Harvested cassava roots from the experimental plots were carried by this type of “Truck” to the nearby processing place, circa 1992.
To my delightful surprise, Hung Loc Center in 2009 is a quite different place.
New building at Hung Loc Center in 2009
Meeting old friends in front of the meeting hall at Hung Loc Center in Dec 2009.
AGRICULTURAL COLLEGE No. 3 TO THAI NGUYEN UNIVERSITY
When we first visited North Vietnam in 1989, Thai Nguyen was a rather uninspiring rural town where the only higher education institution was a small college called Agricultural College No.3. Several students hanging their laundry at their dormitory was about the only memory I got in my first visit to AC3.
AC3 campus in 1994. Children beside the cassava experiment field inside the AC3 campus in 1994
Thai Nguyen University campus in Dec 2009 (The former AC3 was upgraded to a university housing more than 10,000 students)
My dear friend Ngoan is now Vice Rector of Thai Nguyen University
Receiving a gift from the University in Dec 2009
VARIETAL IMPROVEMENT
Varietal Improvement in the South
This is, of course, the core of the story. Since much has been reported in formal papers, I am herein just showing some photos for remembrance.
The first bulk harvest of KM-60 (right) compared with the local variety, probably HL-23 (left) at Hung Loc Center in 1991.
KM-60 (left) and the local variety HL23 (right) with KK and Kim at Hung Loc Center circa 1993.
Director Hoang Kim standing contentedly with KM-94 (right) and the local variety HL23 (left) at Hung Loc Center circa 1993.
KK with colleagues at KM-60 field in Dong Nai in 1996
Harvest of new varieties from Thailand at Hung Loc Center in 1997.
Multiplication of a new variety from Thailand at Hung Loc Center in 1997.
New variety KM98-1 at Hung Loc Center in 2000.
Good planting of KM 98-5 in Tay Ninh in 2009.
KK and Kim in Tay Ninh at KM 419 field in Dec 2009.
Varietal Improvement in the North
Ngoan and KK in a varietal trial field in Bac Thai circa 1995.
KK and farmers near Pho Yen in 1997.
Local variety Vinh Phu (left) and KM-94 (right) with Ngoan and KK at AC3 experiment field in 1997.
Local variety (left) and KM-60 (right) in Hatay in 1996 with Loan at the center with a TV crew.
A new selection KM-95-1 (left) and the local variety Vinh Phu (right) in Hatay in 1997 with Director Ho on the left.
A group photo taken at the experiment field in Hatay in 1997. Faces of Ho, Loan, Mr. Tat, Mrs. Sau, Mrs Quyen among others.
Cassava field near Pho Yen in Dec 2009.
Ngoan (Professor and Vice Chancellor), Mr. Kien (a dedicated farmer), KK, and Loan (Retired Deputy director) at Mr. Kien’s cassava field near Pho Yen in Dec 2009.
READINESS FOR WORKING WITH FARMERS
One thing outstanding in our collaboration with the Vietnamese colleagues is their acute readiness for working closely with farmers. This is in good contrast to my Latin American experience.
Cassava field near Hanoi, circa 1995. Loan, a farm wife, KK and Ho.
Hearing from farmers in Hatay in 1996. KK and Mr. Chien, Deputy Director of Root Crop Research Center, VASI.
Loan leading a town meeting in Hatay in 1996.
Ngoan presiding a village meeting in Pho Yen in 1996.
Harvest of a field trial in Bac Thai in 1996; a curious mixture of Ngoan (Professor to be), students, farmers, an old woman and a baby.
Reunion at Mr. Kien’s house in Pho Yen 13 years later.
Strangely absent from my photo collection is Hoang Kim. Kim is the undisputed champion of associating with fellow researchers from other institutions, farmers from many provinces. Kim initiated the invitation of advanced farmers to the selection field at Hung Loc Center so as to evaluate and select their own favorites; a harbinger to the later much celebrated “farmer participatory research.
Here in 2009 in Dong Nai and Tay Ninh cassava field, Kim is mixing with advanced farmers, students, extension staff and officials.
SUCCESSFUL FARMER
I: Mrs. Tran Thi Quyen, Hatay
Here are the portraits of some successful farmers who had improved their lots remarkably utilizing the new cassava varieties.
Typical cassava farmers’ houses seen in our 1989 visit in North Vietnam.
Mrs. Tran Thi Quyen was one of those cassava/pig farmers in Hatay Province who had first adopted KM-60, With the better harvest of the new variety, she could increase the number of pigs she could sell to the market. This was the new house she was building using the money she earned and saved, which she was proudly showing me in my 1997 visit. The house was complete with a kitchen, toilet and bathroom under the single roof and cost some 80,000 (US$700) at that time.
Mrs. Quyen (left) with her grandchild in our reunion in Dec 2009.
Mrs. Quyen is still growing cassava and pigs. She is now building a new much bigger house.
II: Mr. Ngo Trung Kien, Pho Yen
Cassava was a small farmers’ crop used for family pig feeding or sold to small noodle factories.
Cassava chips drying on the road circa 1994.
Cassava and pig in North Vietnam before the introduction of new varieties.
Cassava noodle drying near Hanoi in 1989.
Mr. Ngo Trung Kien of Pho Yen, Bac Tay Province a dedicated farmer and one of the earliest adopters of KM-60. He has been successful in expanding his cassava/pig farming. Here in his plot in 2009, he was planting KM-98.
Mr. Kien is a innovative farmer as well. He introduced feeding chickens with cassava.
Pig feeding continues as ever. Mr. Kien told us he could now sell more than 50 mature pigs to the market annually.
Meeting village people at Mr. Kien’s house, Dec 2009. He has taught all his techniques to other farmers in the same village. Many farmers have built new houses and virtually all families own a motorcycle these days.
III: Mr. Tong Quoc Thanh, Tay Ninh
Mr. Tong Quoc Thanh of Tay Ninh Province was one of the earliest adopters of KM-60 promoted by the erstwhile Director Hoang Kim of Hung Loc Center. He was reputed to have made a lot of money by the multiplication and the sales of planting stakes of KM-60 and later KM-94. Either because he is a shay man by character or he is afraid of the Tax Office, Mr. Thanh does not elaborate too much about his success especially on the money making. Nevertheless, by any standard Mr. Thanh is a vastly successful man and the extensive cassava planting of his own cannot defy the reputation.
Mr. Thanh uses KM98-5, KM440 (tai xanh) and KM419 (tai do, cut lun) for intercropping with rubber tree, Tay Ninh in 2009.
KM-94 is still the best for mono-culture cassava in Tay Ninh, Mr. Thanh agrees. But he is planting KM98-5 (tai xanh) and KM419 (tai do) extensively in his field, probably because being a new variety, KM98-5 and KM419 still offers good opportunities for planting stake sale.
V: Mrs. Nguyen Thi Sau, Hatay
… When we visited Mrs. Sau in 1996, she showed us her new pig pen; KK, Mrs. Sau, Mrs. Quyen, children and Mr. Tat (Extension office at Root Crop Research Center, VASI).
In 1997, Mrs. Sau was very proud of posing in front of her new house and motor cycles. I heard the house cost some equivalent of 250,000 (US$2,000) at that time.
Loan, Chien, Mrs. Sau’s husband (working in the Municipal office), Mrs. Sau and Tat.
Mrs. Sau’s new mansion in 2009.
Front view of Mrs. Sau’s mansion.
Sala of Mrs. Sau’s mansion.
With the expansion of Hanoi city area, Mrs. Sau’s place is now much urbanized. Being a small but smart “entrepreneur”, Mrs. Sau is now President of a mineral water production and distribution company.
V: Mr. Ho Sau, Trang Bom
At the time of our first visit in 1988, Trang Bom, one of the fiercest battle fields of Vietnam War, was not much more than a sleepy little town.
Mr. Ho Sau, who lived next door to Hung Loc Center near Trang Bom and Bien Hoa, was the first farmer to be invited to Hung Loc Center to observe the harvest of a cassava varietal trial which included KM-60. He quickly decided to multiply the small sample stakes of KM-60 for his own planting and later for sales to other farmers. Mr. Sau, 2nd from left, was a celebrated participant to the Workshop held at Hung Loc Center in 1997.
Mr. Sau’s cassava Palace in 2009. Mr. Sau is now an enormously successful business man owning large cassava plantings, a couple of cassava processing plants and a trading company.
His garden is decorated with many wonderful objects. A sculpture carved from the root of a single tree.
Yet, the most imposing is the crocodile pool with a dozen or so crocodiles for display.
Mr. Sau is not a type to hide his success to the extent of being flamboyant. Yet, he is intent in giving opportunities to many kinds of people. He is building houses for less fortunate families in the same village. Here in this photo below, he provides land and facility for Prof. Kim and his students to conduct field experiments. As such, I was reminded of the Colombian Pablo Escobar. While Escobar was a bad guy drug king, Mr. Sau may be a good guy cassava king.
From right to left: Students of Nong Lam University, Prof. Kim. KK and Mr. Sau.
GRAHAM GEEENE [ THE QUIET AMERICAN ]
It was a delight to travel through Vietnam with 「The Quiet American」in hand. It was my third time to read this book. By the end of the journey, my paper back was nearly disintegrated. While I could not find this novel being sold in book stores in Ho Chi Minh and Hanoi, the street hawkers had a pirated version of the book. Honoring the hawkers’ smartness of finding the value of 「The Quiet American」as souvenir, I paid 80,000Don (some 400) to a hawker in Ho Chi Minh. In Hanoi, a hawker ran after me for some 50m offering the book for 50,000Dong.
Joy of reading 「The Quiet American」at The Continental Hotel.
Excerpts from 「The Quiet American」Graham Greene
P. 60, “I never knew a man who had better motives for all the trouble he caused.”
P. 74, “I was to see many times that look of pain and disappointment touch his eyes and mouth when reality didn’t match the romantic ideas he cherished, or when someone he loved or admired dropped below the impossible standard he had set.”
P. 94, “I laugh at anyone who spends so much time writing about what doesn’t exist – mental concepts.”
P. 103, “If somebody asked you what your deepest sexual experience had been, What would you say?” I knew the answer to that. “Lying in bed early one morning and watching a woman in a red dressing-gown brush her hair.” “Joe said it was being in bed with a Chink and a negress at the same time.”
P. 167, “He gets hold of an idea and then alters every situation to fit the idea.”
Plain as it is, this novel describes about the dark side of innocence. It is now profoundly touching that Greene had clearly manifested the impossibility of America winning a war against Vietnam as far back as in 1955.
In this vein, it is unsettling to find that this novel is regarded as a simple love story, if not a melodrama, in Japan, as can be seen in the following cut out from the major newspaper Asahi. It is somehow a part of our Japanese culture to reduce things to a minimum context, resigning to not seeing the whole.
DAVID HALBERSTAM [THE MAKING OF A QUAGMIRE]
David Halberstam is best known for his 「The Best and the Brightest」which was published in 1972 and became a world best-seller. His earlier book「The Making of a Quagmire], published in 1965, is less known but highly appreciated by some critics for much of the Halberstam’s perspectives on the Vietnam War originated from his experiences described in this book. I have been wanting to read this book ever after I read 「The Best and the Brightest」but the book was out of print for a long time. In one of many Internet notices from “Amazon” , of which I seldom pay serious attention, I found 「The Making of a Quagmire」was republished in 2008.
While 「The Best and the Brightest」is an in-depth analysis of Washington politics during the Johnson/ Nixon era, 「The Making of a Quagmire」is a ground level description of the local battles and politics in Vietnam during the Kennedy time. If 「The Quiet American」is a romantic narrative of innocence and complacency, 「The Making of a Quagmire」is a poignant account of ignorance and arrogance.
While「The Making of a Quagmire」contains all the reasons why America could not win the War in Vietnam, Chapter Six “Disaster: The Battle of Ap Bac” of this book describes, factor by factor, why the South Vietnamese/American forces could not win local battles in Vietnam. It is not that the Battle of Ap Bac was the turning point of the Vietnam War. It is remarkable because the Battle of Ap Bac contained all the elements why the Viet Cong/National Liberation Front could not be defeated.
If one reads 「The Making of a Quagmire」seriously, it should be transparent under the bright sun that this war could not be won by outside forces. Yet, Kennedy/Johnson Administration did not learn from the Pulitzer Prize (1964) of Halberstam in general and from the Battle of Ap Bac (Jan 1963) in particular. The North bombing by the US Air Force started in Feb 1965 and US Marines Corps were massively stationed at Da Nang in Mar 1965. History continues. As if nothing had not been learnt from Vietnam, and from 「The Best and the Brightest」in particular, the father/son Bush Administration went ahead with the Iraq and Afghan War on the same ignorance and arrogance. To human history, what is not learnt often outweighs what is learnt.
EPILOGUE
Throughout my many years of association with Vietnam, I have gotten to know many people, whom I seem to be able to categorize in retrospect. I got my first impression of the Vietnamese from the several Vietnamese trainees staying at the International Rice Research Institute, Los Baños, Philippines in 1963 and it was not particularly a favorable one. They appeared rather uncaring, cynical and apathetic, if not selfish, contemptuous, and corrupt. I may be too harsh and judgmental on them; nevertheless, Halberstam wrote about this type of people belonging to the upper strata of the South Vietnamese society during the same period so vividly and critically in 「The Making of a Quagmire」that my judgment might not have been too far away from the reality.
My ten years of close collaboration with my cassava breeding colleagues in the 1990s and the reunion with them in this trip completely changed my assessment of the Vietnamese. As evidenced by the series of my reporting here, they are industrious, insightful, considerate and indefatigable, as if to emulate General Vo Nguyen Giap. I might be a little too positively partial to those friends of mine. Nevertheless, I have a similar feeling toward some of my colleagues in Rayong, Thailand and Nanning, China to count a few. During the two decades of post-war Japan, we seem to have many Japanese of this category as well.
Then comes the mass of the population who just want tomorrow to be better than today. In this trip, I was deeply impressed and touched in meeting many people who seemed never to doubt tomorrow is better than today. This reminds me of the Japanese during the next two decades of post-war where the majority of the population was seeing a rosy future. Now in Japan, more than 30,000 people commit suicide annually and the main reason for this act is believed to be hopelessness to the present and future. Needless to say, Vietnam is not without problems such as the incompleteness of juridical system or rampant corruption to name some. Yet, the proportion of people feeling happy seems to be far higher in Vietnam than in Japan now. It is fascinating to imagine where these former colleagues of mine would further lead this society to.
People at a cassava open market near Hanoi in 1989.
People on a boat in Saigon river in 1988.
People on a ferry near Hanoi in 1989.
Boys on a Hanoi street in 1991.
Girls on a Hanoi street in 1991.
Two daughters at a village starch plant in Tay Ninh in1992.