Số lần xem
Đang xem 2126 Toàn hệ thống 3757 Trong vòng 1 giờ qua
Trang liên kết
Tỉnh thức
giữa đêm thiêng Yên Tử
Để thấm hiểu đức Nhân Tông
Ta thành tâm đi bộ
Lên tận đỉnh chùa Đồng
Tâm sáng Ức Trai
trong tựa ngọc TÌNH YÊU CUỘC SỐNG
DẠY VÀ HỌC Để chấn hưng giáo dục Việt Nam cấp thiết phải có đội ngũ những người thầy giáo ưu tú có tâm đức thiết tha với nghề, có trình độ chuyên môn cao và có kỹ năng giảng dạy tốt. Đây là trang thông tin chuyên đề dạy và học để trao đổi và bàn luận
Norman Borlaug Lời Thầy dặn Việc chính đời người chỉ ít thôi
Chuyên tâm đừng bận chuyện trời ơi
Phúc hậu suốt đời làm việc thiện
Di sản muôn năm mãi sáng ngời.
Mười lăm năm tuổi thơ
Mười lăm năm lưu lạc
Thời Hồng Sơn Liệp Hộ
Tình hiếu thật phân minh.
Nguyễn Du thời Tây Sơn (1766-1802) có bốn sự kiện nổi bật, mà sử liệu ngày nay đã hoàn toàn sáng tỏ, đã có đầy đủ chứng cứ sự thật sát thực. 1) Quang Trung phá quân Thanh 2) Nguyễn Vương bình Gia Định; 3) Nguyễn Du đền Trung Liệt; 4) Nam Hải và Hồng Sơn, Quang Trung phá quân Thanh năm 1789; Nguyễn Vương bình Gia Định chiếm trọn phần đất của Đông Định Vương Nguyễn Lữ cũng ngay trong năm ấy. Nguyễn Du xây đền Trung Liệt cho Lê Quýnh và các trung thần vào năm 1793 và đền thờ này đã hoàn thành khoảng đầu năm 1795. Về phần vua Lê Chiêu Thống, ông này qua đời tại Bắc Kinh năm 1793 nhưng tro cốt của ông được đưa về Việt Nam năm 1804 và chôn ở Thanh Hóa quê hương của tổ tiên ông (Cương mục quyển XI .VII trang 48a, trích dẫn từ Chính sử triều Nguyễn và dẫn theo Lê Thành Khôi ‘Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến giữa thế kỷ 20’ trang 386).. Nguyễn Du giai đoạn 1787- 1796 chủ yếu sống tại Thăng Long, làm Nam Hải Điếu đồ (Người đi câu ở biển Nam), chăm chú theo dõi thời vận, tỏ chính kiến bằng việc xây dựng Trung Liệt từ ở 124 Thụy Khuê Thăng Long, và sau đó Nguyễn Du giai đoạn 1797-1802 đã lựa chọn đối sách làm Hồng Sơn Liệp Hộ (Người đi săn ở núi Hồng), sống chủ yếu ở Nghệ Tĩnh (chính sử, dã sử và giai thoại đến nay vẫn chưa xác định rõ ông gặp vua Gia Long ở Hải Dương, hay ở Nghệ Tĩnh, xem tư liệu Nguyễn Du niên biểu luận trong Nguyễn Du trăng huyền thoại của Hoàng Kim trích đăng ở cuối bài.Nguyễn Du bình sinh và hành trạng ra sao trong thời Tây Sơn (1766-1802)? Cụ ở ẩn hay cụ làm một người con dấn thân trung hiếu như lời trong Truyện Kiều “để lời thệ hải minh sơn/ Làm con trước phải đền ơn sinh thành”?. Khảo luận nghiên cứu lịch sử này của chúng tôi đưa ra sáu chứng cứ sử liệu và địa chí văn hóa để cho thấy rằng cụ Nguyễn Du không phải làm người ở ẩn thời Tây Sơn mà Cụ thực sự làm người con trung hiếu dấn thân vì đại nghĩa vì nước vì nhà theo quan niệm đạo làm Người của Cụ. Hẳn Cụ đồng quan điểm với danh sĩ Nguyễn Thiếp, khi Cụ đã trực tiếp chứng kiến dã tâm cướp nước ta của nhà Đại Thanh qua hành động việc làm thực tế của Tôn Sĩ Nghị, phù hợp với chứng cứ giá trị văn bản sử liệu nhiều nguồn đã được lưu trữ và khẳng định, nhưng Cụ không chịu ra phò nhà Tây Sơn vì chứng kiến rõ cảnh nồi da xáo thịt trong quan hệ anh em và mức độ lạm sát người dân thường, bất chấp mọi thủ đoạn trong chiến tranh. Cụ là vàng lầm trong cát của thời thế nhiễu loạn. Sáu chứng cứ sự thật lịch sử Nguyễn Du thời Tây Sơn kết luận của bài này, đó là 1) Cụ Nguyễn Du và gia đình cụ Nguyễn Du đã chịu rất nhiều nghịch cảnh trước biến động dữ dội của đất nước và thời thế trong mười lăm năm tuổi thơ (1766-1780) 2) Cụ Nguyễn Du làm một người con trung hiếu dấn thân giang hồ mười lăm năm lưu lạc (1781- 1796), 3) Cụ Nguyễn Du thể hiện một danh sĩ tinh hoa, tầm nhìn sâu sắc mẫu mực về ứng xử, dự đoán và dự báo tài tình minh triết sáng suốt về thời cuộc. Cụ không phải tỏ lời cảm khái như cụ Nguyễn Thiếp “Đã trót lên đèo phải xuống đèo”(thơ cụ Nguyễn Thiếp). Cách xử lý tình huống cụ thể và mẫu mực tinh hoa của cụ Nguyễn Du là làm người câu cá ở biển Nam (Nam Hải điếu đồ 1787-1796) người đi săn ở núi Hồng (Hồng Sơn Liệp Hộ 1797- 1802) lựa chọn thế ứng xử phù hợp của kẻ sĩ trước thời vận, 4) Cụ Nguyễn Du tỏ bản lĩnh và thái độ yêu ghét thật phân minh khi trực tiếp xây dựng đền Trung Liệt ờ 124 Thụy Khuê Hà Nội khi cuộc chiến Nhà Nguyễn và Nhà Tây Sơn còn chưa phân định sự thắng thua; 5) Cụ Nguyễn Du đã giúp người anh là Nguyễn Nể, tránh được mối họa diệt tộc, để không tiếp tục dính líu sâu vào nhà Tây Sơn khi triều đại này đã lộ rõ những yếu điểm sẽ dẫn tới sự suy vong và sụp đổ nguy hại của một triều đại, hệ lụy kéo theo cho gia đình và bản thân; 6). Cụ Nguyễn Du chấp nhận sự hợp tác hiệu quả nhất với Nhà Nguyễn để “dĩ công vi thượng” tốt nhất cho đất nước và con người Việt Nam, xử thế của Cụ thật phân minh của một kẻ sĩ tinh hoa. Cụ Nguyễn Du với thủ pháp ngoại giao xuất sắc, ngôn ngữ điêu luyện, sự kiện ngoại giao mẫu mực “Bắc hành” và “Truyện Kiều “Kỳ Lân Mộ” “Viếng Liễu Hạ Huệ Mộ”, “Đối tửu”, đã đạt tới sự kết hợp lịch sử văn hóa tuyệt vời, chạm thấu tim người, đã làm cho vua nhà Đại Thanh tôn trọng Việt Nam hơn, đưa đến sự giao hảo tốt Việt Trung, phương lược ngoại giao xuất chúng đã giúp hai nước tránh được thế đối đầu. Sáu bằng chứng này đủ cho thấy cụ Nguyễn Du là đấng danh sĩ tinh hoa, anh hùng kỳ tài lỗi lạc Việt Nam mà không chỉ là đại thi hào danh nhân văn hóa thế giới.”Khen cho con mắt tinh đời / Anh hùng đoán giữ trần ai mới già” “Chọc trời khuấy nước mặc dầu / Dọc ngang nào biết trên đầu có ai”. Nguyễn Du trăng huyền thoại https://hoangkimlong.wordpress.com/category/nguyen-du-trang-huyen-thoai/
Hình thế nước Đại Việt đàng Trong đàng Ngoài năm 1760. Bản đồ vẽ bởi công ty Cóvens e Mortier, Amsterdam (hình trên) và Hình thế nước Đại Việt đàng Trong đàng Ngoài năm 1788 trước mùa xuân Kỷ Dậu năm 1790 (vẽ theo sử liệu và bản đồ Trần Trọng Kim) đã cho thấy Nguyễn Du cuộc đời và thời thế. Diễn biến thời cuộc từ khi Nguyễn Du sinh ra năm 1766 đến khị Triều đại Tây Sơn sụp đổ năm 1802 qua minh chứng tại Nguyễn Du niên biểu luận
NGUYỄN DUMỘT TỔNG LUẬN
1. Nguyễn Du không chỉ là nhà thơ lớn, danh nhân văn hóa thế giới mà còn là danh sĩ tinh hoa, đấng anh hùng hào kiệt minh sư hiền tài lỗi lạc.
2. Nguyễn Du rất mực nhân đạo và minh triết, ông nổi bật hơn tất cả những chính khách và danh nhân cùng thời. Nguyễn Du vượt lên vinh nhục bản thân giữa thời nhiễu loạn, vàng lầm trong cát để trao lại ngọc cho đời. “Nguyễn Du là người rất mực nhân đạo trong một thời đại ít nhân đạo” (Joocjo Budaren nhà văn Pháp). Ông chí thiện, nhân đạo, minh triết, mẫu hình con người văn hóa tương lai. Kiều Nguyễn Du là bài học lớn về tâm tình hồn Việt. Truyện Kiều của Nguyễn Du đã thấm sâu vào hồn Việt và lan tỏa khắp thế giới.
3. Nguyễn Du quê hương và dòng họ cho thấy gia tộc họ Nguyễn Tiên Điền là dòng họ lớn đại quý tộc có thế lực mạnh “Triều đình riêng một góc trời/ Gồm hai văn võ, rạch đôi sơn hà”. Vị thế gia tộc Nguyễn Tiên Điền đến mức nhà Lê, họ Trịnh, nhà Tây Sơn, nhà Nguyễn đều tìm mọi cách liên kết, lôi kéo, mua chuộc, khống chế hoặc ra tay tàn độc để trấn phản.
4. Nguyễn Du niên biểu luận, cuộc đời và thời thế là bức tranh bi tráng của một bậc anh hùng hào kiệt nhân hậu, trọng nghĩa và tận lực vì lý tưởng. Nguyễn Du đã phải gánh chịu quá nhiều chuyện thương tâm và khổ đau cùng cực cho chính ông và gia đình ông bởi biến thiên của thời vận”Bắt phong trần phải phong trần.Cho thanh cao mới được phần thanh cao“. Nguyễn Du mười lăm năm tuổi thơ (1765-1780) mẹ mất sớm, ông có thiên tư thông tuệ, văn võ song toàn, văn tài nổi danh tam trường, võ quan giữ tước vị cao nơi trọng yếu; người thân gia đình ông giữ địa vị cao nhất trong triều Lê Trịnh và có nhiều người thân tín quản lý phần lớn những nơi trọng địa của Bắc Hà. Nguyễn Du mười lăm năm lưu lạc (1781- 1796)Thời Hồng Sơn Liệp Hộ (1797-1802) Nlà giai đoạn đất nước nhiễu loạn Lê bại Trịnh vong, nội chiến, tranh đoạt và ngoại xâm. Nguyễn Du và gia đình ông đã chịu nhiều tổn thất nhưng ông kiên gan bền chí, tận tụy hết lòng vì nhà Lê “Bên tình bên hiếu bên nào nặng hơn. Để lời thệ hải minh sơn. Làm con trước phải đền ơn sinh thành“. Nguyễn Du thời Nhà Nguyễn (1802- 1820) ra làm quan triều Nguyễn giữ các chức vụ từ tri huyên, cai bạ, cần chánh điện đại hoc sĩ, chánh sứ đến hữu tham tri bộ lễ. Ông là nhà quản lý giỏi yêu nước thương dân, Nguyễn Du để lại kiệt tác Truyện Kiều là di sản muôn đời, kiệt tác thơ chữ Hán có Bắc hành tạp lục 132 bài, Nam trung tạp ngâm 16 bài và Thanh Hiên thi tập 78 bài, là phần sâu kín trong tâm trạng Nguyễn Du, tỏa sáng tầm vóc và bản lĩnh của một anh hùng quốc sĩ tinh hoa, chạm thấu những vấn đề sâu sắc nhất của tình yêu thương con người và nhân loại. Đặc biệt “Bắc Hành tạp lục” là kiệt tác sử thi và tuyên ngôn ngoại giao nhân nghĩa làm rạng danh nước Việt.
5. Minh triết ứng xử của Nguyễn Du là bậc hiền tài trước ngã ba đường đời là phải chí thiện và thuận theo tự nhiên “Tùy cơ, tùy vận, tùy thiên mệnh, tùy thời, tùy thế, lại tùy nghi” Nguyễn Du ký thác tâm sự vào Truyện Kiều là ẩn ngữ ước vọng đời người, tâm tình và tình yêu cuộc sống “Thiện căn cốt ở lòng ta, Chữ tâm kia mới thành ba chữ tài” .
6. Truyện Kiều có tầm ảnh hưởng rất sâu rộng đã trở thành hồn Việt, và là tác phẩm văn học cổ điển Việt Nam được dịch ra hơn 20 thứ tiếng và trên 73 bản dịch. Giá trị tác phẩm Kiệt tác Truyện Kiều của Nguyễn Du có sự tương đồng với kiệt tác Hồng Lâu Mộng của Tào Tuyết Cần.nhưng khác chiều kích văn hóa giáo dục và giá trị tác phẩm.
7. Nhân cách, tâm thế của con người Nguyễn Du đặt trong mối tương quan với Nguyễn Huệ và Nguyễn Ánh của thời đại Hậu Lê Trịnh – nhà Tây Sơn – đầu triều Nguyễn; khi so sánh với Tào Tuyết Cần là văn nhân tài tử của thời đại cuối nhà Minh đến đầu và giữa nhà Thanh thì vừa có sự tương đồng vừa có sự dị biệt to lớn.
8. Gia tộc của Nguyễn Quỳnh – Nguyễn Thiếp – Nguyễn Du tương đồng với gia tộc của Tào Tỷ – Tào Dần – Tào Tuyết Cần nhưng nền tảng đạo đức văn hóa khác nhau Nhấn mạnh điều này để thấy sự cần thiết nghiên cứu liên ngành lịch sử, văn hóa, con người tác gia, bởi điều đó chi phối rất sâu sắc đến giá trị của kiệt tác.
9. Nguyễn Du danh si tinh hoa là tấm gương soi sáng thời đại Nguyễn Du
QUÊ HƯƠNG VÀ DÒNG HỌ
Nguyễn Du tự Tố Như, hiệu Thanh Hiên, biệt hiệu Nam Hải Điếu Đồ (kẻ đi câu ở biển Nam) lại có hiệu Hồng Sơn Liệp Hộ (người đi săn ở núi Hồng). Nguyễn Du sinh 1766, tại làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, Nghệ An (theo gia phả của họ Nguyễn Tiên Điền thì Nguyễn Du sinh tại Tiên Điền chứ không phải sinh tại Hà Nội). Nguyễn Du thi Hương tại Sơn Nam năm 1783 và chỉ đậu Tam Trường. Ông có được bổ sung chức quan tại Thường Tín, nhưng cáo ốm không nhậm chức. Khi Tây Sơn ra Bắc. Thận Quân Công có ép ra phục vụ, nhưng Nguyễn Du và nhiều chí sĩ thời bấy giờ cho rằng Tây Sơn là giặc, nên từ chối, bị nhốt hai tháng rồi thả ra. họ Nguyễn Tiên Điền quê hương Nghệ Tĩnh nhưng sống nhiều nơi “Hồng Lam vô gia huynh đệ tán”, mẹ họ Trần đất Kinh Bắc, tổ tiên Sơn Nam, khởi nghiệp Thái Nguyên, nhiều năm lưu lạc giang hồ ở châu thổ sông Hồng, vùng núi phía Bắc, Nam Trung Quốc,và Nghệ Tĩnh, nhiều năm làm quan ở Quảng Bình và kinh đô Huế. Nguyễn Du là danh sĩ tinh hoa, tính tình khoan hòa điềm tĩnh, đi nhiều, học rộng, là nhà thơ nổi tiếng thời Lê mạt, Nguyễn sơ ở Việt Nam.
Cha của Nguyễn Du là Nguyễn Nghiễm (1708 – 1775), sinh ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh, tên tự Hy Di, hiệu Nghi Hiên, có biệt hiệu là Hồng Ngự cư sĩ, đậu Nhị giáp tiến sĩ , làm quan đến chức Đại tư đồ (Tể tướng) kiêm Trung thư giám, Tổng tài Quốc sử giám, tước Thượng thư bộ Hộ, Xuân Quận công triều Lê.
Mẹ là bà Trần Thị Tần, sinh ngày 24 tháng 8 năm 1740, mất ngày 27 tháng 8 năm 1778, con gái một người thuộc hạ của Nguyễn Nhiễm làm chức Câu kê lo việc kế toán, quản gia cho cụ Nguyễn Nghiễm. Quê mẹ Nguyễn Du ở làng Hoa Thiều, xã Minh Đạo, huyện Tiên Du (Đông Ngàn), xứ Kinh Bắc, nay thuộc tỉnh Bắc Ninh. Bà Trần Thị Tần là vợ thứ ba của Nguyễn Nghiễm, bà kém chồng 32 tuổi, sinh được năm con, bốn trai và một gái.
Nguyễn Nghiễm có tám vợ và 21 người con. Vợ chánh thất là bà Đặng Thị Dương, sinh mẫu của Nguyễn Khản (1734-1786); bà hai là Đặng Thị Thuyết, sinh mẫu của Nguyễn Điều (1740-1786), bà là em ruột của bà chánh thất Đặng Thị Dương; bà ba là Trần Thị Tần, sinh mẫu của Nguyễn Trụ (1757-1775, con trai thứ 3), Nguyễn Nễ (1761-1805, con trai thứ 6), Nguyễn Thị Diên, Nguyễn Du (1765- 1820, con trai thứ 7, nên tục gọi là cậu Chiêu Bảy), Nguyễn Ức (1867-1823, con trai thứ 8); bà tư là Nguyễn Thị Xuyên, quê ở xã Hoàng Mai, Yên Dũng, Kinh Bắc, sinh mẫu của Nguyễn Quýnh (1759- 1791, con trai thứ 4), bà năm là Nguyễn Thị Xuân, quê xã Tiêu Sơn, huyện Yên Phong, xứ Kinh Bắc, sinh mẫu của Nguyễn Trừ (1760 -1809, con trai thứ 5) và Nguyễn Nghi (1773- 1845, con trai thứ 10); bà sáu là Phạm Thị Diễm, quê xã Hải Lộ, huyện Nam Chân, xứ Sơn Nam, sinh mẫu của Nguyễn Lạng (1768- 1817), con trai thứ 9), bà bảy là Hồ Thị Ngạn, người xã Hoa Viên, huyện Nghi Xuân, sinh mẫu của Nguyễn Nhưng (1763-1824), con trai thứ 11; bà tám là Hoàng Thị Thược, người xã Đan Hải, Nghi Xuân, sinh mẫu của Nguyễn Tốn (1767- 1812), con trai thứ 12 (Trích theo đúng gia phả, bản dịch của cụ Giải nguyên Lê Thước dịch từ năm 1962).
Đền thờ Nguyễn Nghiễm ở thôn Bảo Kê, xã Tiên Điền. Đền có 3 tấm biển lớn, một khắc 4 chữ “Phúc lý vĩnh tuy” (Phúc ấm lâu dài) do tự tay chúa Trịnh viết. Một tấm khắc 4 chữ: “Dịch tế thư hương” (dòng thư hương đời nối đời) do Đức Bảo sứ thần nhà Thanh đề tặng. Một biển khắc 4 chữ “Quang tiền du hậu” (Rạng rỡ thế hệ trước, phúc ấm ở đời sau) do Tô Kính người Viễn Đông đề tặng. Đền còn có đôi câu đối: Lưỡng triều danh Tể Tướng. Nhất thế đại nho sư (Nho sư cả nước vang danh hiệu. Tể tướng hai triều rạng tiếng tăm). Danh sĩ La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp, người được Nguyễn Huệ tôn làm thầy, là học trò của Nguyễn Nhiễm, đã viết bài tán Phú Đức nói về thầy học của mình. Nguyễn Nhiễm khi còn sống đặt ruộng cúng và xây sẵn đền thờ ở mặt sông. Sau khi ông mất, triều đình phong “Thượng Đẳng Tôn Thần”, Huân Du Đô Hiến Đại Vương, hàng năm Quốc gia làm tế lễ. Lại giao cho 4 xã chăm sóc hương khói. Ngày sinh, ngày giỗ của ông có cả xã Uy Viễn cùng tế lễ.
Tổ tiên của Nguyễn Du gốc ở làng Canh Hoạch, huyện Thanh Oai, trấn Sơn Nam (nay thuộc Hà Nội), sau di cư vào Hà Tĩnh, có truyền thống khoa bảng nổi danh ở làng Tiên Điền thời Lê mạt. Trước ông bảy thế hệ, viễn tổ họ Nguyễn Tiên Điền là Nam Dương hầu Nguyễn Nhiệm, con trai Nguyễn Miễn và là cháu Nguyễn Quyện, gọi Nguyễn Quyện bằng bác ruột, thời Lê Trung hưng có dự mưu phục lại nhà Mạc, bị thua trận chạy về phương Nam giấu hẵn tung tích đến sinh cơ lập nghiệp ở Tiền Điền Nghi Xuân. (Nguyễn Miễn là con của Trạng nguyên Nguyễn Thiến, hậu duệ người em của Nguyễn Phi Khanh). Nguyễn Trãi và Nguyễn Du cùng dòng họ và chung một ông tổ.
Ông nội của Nguyễn Du là Nguyễn Quỳnh. Ông có 5 vợ và 9 con (6 trai, 3 gái). Trong số 6 người con trai thì có 3 người con đậu đại khoa và làm quan to là Nguyễn Huệ , Nguyễn Nghiễm và Nguyễn Trọng. Ông Nguyễn Quỳnh là người hay đọc sách, tinh thông lý số, giỏi kinh dịch, … Ông chuyên tâm dạy con cái học hành, có soạn ba bộ sách bàn về Kinh Dịch với những việc chiêm nghiệm được trong đời. Ông có trồng ba cây cổ thụ, một cây Muỗm (Xoài), một cây Bồ Lỗ (Cây Nóng), một cây Rói, để sau này con cái thành đạt về thăm cha có chỗ buộc ngựa. Những cây cổ thụ đó, nay vẫn còn, trừ cây Rói bị bão đổ năm 1976. Nguyễn Quỳnh giỏi y thuật từ khi còn trẻ nghe nói có gặp một người Trung Quốc là Ngô Cảnh Phượng (dòng dõi Ngô Cảnh Loan- một nhà địa lý nổi tiếng đời Tống)am hiểu địa lý, gặp nạn, ông đưa về nuôi. Ngô Cảnh Phượng cảm phục ân đức đã truyền cho bí quyết về phong thủy. Họ Nguyễn Tiên Điền thịnh đức, nếp nhà di huấn nối đời làm thuốc và dạy học, nếu có làm quan biết giữ tiết tháo, đức độ, thanh thận cần.
Vợ chính thất của Nguyễn Du họ Đoàn là con thứ sáu của Đoàn Công, Hoàng giáp Phó Đô ngự sử Quỳnh Châu bá người Quỳnh Côi, Hải An (xưa thuộc Sơn Nam, nay thuộc Thái Bình). Theo gia phả của họ Nguyễn Tiên Điền thì ông bà sinh con trai tên Nguyễn Tứ tự là Hạo Như có văn học, Nguyễn Ngũ giỏi võ, Nguyễn Thuyến giỏi văn nhưng không tham gia chính sự. Năm Quý Dậu (1813), bà theo ông đi sứ phương Bắc, về nước được vài năm bị bệnh mất. Bà sinh được một gái gả cho Tú tài Ngô Cảnh Trân, người ở Trảo Nha, Thạch Hà.
Một trong những người yêu thương nhất của Nguyễn Du là Hồ Phi Mai (Hồ Xuân Hương) bà chúa thơ nôm, tác giả của Lưu Hương ký, quê ở Quỳnh Đôi, có quan hệ mật thiết với họ Hồ nhà Tây Sơn. Hồ Xuân Hương cũng là tác giả của những tác phẩm thơ nổi tiếng: Bánh trôi nước, Kẽm Trống, Nhớ người cũ, viết gửi Cần Chánh Học Sĩ Nguyễn Hầu, Khóc ông phủ Vĩnh Tường, Khóc Tổng Cóc, Làm lẽ, Tự tình, Mời trầu, Đề đền Sầm Nghi Đống, Đèo Ba Dội, Hang Cắc Cớ, Cái quạt, Đánh đu, Thiếu nữ ngủ ngày, Không chồng mà chửa, Chùa Quán Sứ, Sư hổ mang, Sư bị ong châm, Quan thị, Mắng học trò dốt … bài nào cũng thực thông minh, hóm hỉnh, vừa sâu sắc vừa cận nhân tình. Hồ Xuân Hương là một phụ nữ đặc biệt tài hoa nhưng bất hạnh. Bà có tới ba đời chồng là Tổng Cóc, Tri phủ Vĩnh Tường và Tham hiệp trấn Yên Quảng Trần Phúc Hiển, người bị kết án năm 1816 và bị xử tử năm 1818.
Gia tộc Nguyễn Du có nhiều người giỏi và giữ những vị trí trọng yếu của thời cuộc: cha là Nguyễn Nhiễm làm Tể tướng hai triều Lê; chức quan trước khi cáo lão về trí sĩ là thượng thư bộ Hộ, Đại Tư đồ, Tham tụng, tặng tiệp dinh Tả tướng, tước Xuân Quận công, anh cùng cha khác mẹ là Nguyễn Khản làm Tể tướng, Tham tụng, Thượng thư bộ Lại kiêm trấn thủ Thái Nguyên, Hưng Hóa triều Lê; cha nuôi là quan trấn thủ Thái Nguyên Quản Vũ Hầu Nguyễn Đăng Tiến, tướng tâm phúc của Nguyễn Nhiễm; cha vợ là Hoàng giáp Phó Đô ngự sử Quỳnh Châu bá Đoàn Nguyễn Thục; anh cùng mẹ là Nguyễn Nễ đứng đầu ngoại giao của cả ba triều Lê, Tây Sơn, Nguyễn (Nguyễn Nễ từng trãi Cai đội quân Nhất Phấn giữ phủ chúa Trịnh, Hiệp tán quân vụ nhà Lê, Tả Phụng nghi bộ Binh, Hiệp tán quân vụ trấn Quy Nhơn, Chánh sứ, Tả đồng nghị trung thư sảnh trấn Nghệ An nhà Tây Sơn, phụ tá Tổng trấn Bắc thành nhà Nguyễn); anh ruột là Nguyễn Điều làm trấn thủ Sơn Tây của triều Lê; anh vợ là Đoàn Nguyễn Tuấn làm Thị Lang bộ Lại nhà Tây Sơn; anh rể là tiến sĩ Vũ Trinh làm Hữu Tham tri bộ Hình, thầy dạy Nguyễn Văn Thuyên, con của Tổng trấn Bắc thành Nguyễn Văn Thành.
Điểm đáng lưu ý là Nguyễn Du cũng là chú vợ của vua Gia Long Nguyễn Phúc Ánh. Cuốn gia phả cung cấp về cụ Nguyễn Trừ, anh trai thứ năm của Nguyễn Du : “Ông tên húy là Trừ, …, con bà trắc thất Nguyễn Thị Xuân, người xã Tiêu Sơn, huyện Yên Phong , Bắc Ninh và vẫn lưu ở quê mẹ. Năm Giáp Tý (1804) đổi làm Tri phủ Nam Sách. Ngày 8 tháng Giêng năm Gia Long thứ 8 (22 tháng 2 năm 1809) ông mang bệnh và mất ở đây, thọ 50 tuổi, đem về táng ở Tiêu Sơn (quê mẹ). Vợ kế thất là Tống Thị Thiếu sinh được 4 con trai Đại, Trù (làm tri phủ Vĩnh Tường), Hồng, Hiệp, có con gái là Thị Uyên được tuyển làm cung tần của vua Gia Long”. Vậy Nguyễn Trù là bố vợ của vua Gia Long.và Nguyễn Du là chú vợ của vua
Nguyễn Du rất được quý trọng của nhiều danh sĩ đương thời. Văn chương của ông đặc biệt lưu truyền sâu rộng trong lòng dân. Ông giao thiệp rộng với nhiều tướng văn võ của triều Lê như Hoàng Ngũ Phúc, Nguyễn Hữu Chỉnh, với danh thần nhà Tây Sơn như La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp, Ngô Thì Nhậm, Trần Văn Kỷ, Phan Huy Ích, Ngô Văn Sở, Thận Quận công, với danh thần nhà Nguyễn như Nguyễn Văn Thành, Đặng Trần Thường, Trịnh Hoài Đức, Ngô Nhân Tĩnh, Phạm Văn Hưng, Nguyễn Công Trứ, Trương Đăng Quế, Nguyễn Văn Giai…
Nguyễn Du mất ở Kinh Đô Huế ngày 10 tháng tám năm Canh Thìn (ngày 16 tháng 9 năm 1820), an táng tại cánh đồng Bào Đá, xã An Ninh, huyện Phong Điền. Năm Giáp Thân (1824), hài cốt của cụ được cải táng đưa về quê nhà ở Đồng Ngang thuộc giáp cũ của bản xã (có bút phê) ở thôn Thuận Mỹ, làng Tiên Điền, Hà Tĩnh. Những năm sau đó dời đến táng cạnh đền thờ Nguyễn Trọng và lại cải táng đến xứ Đồng Cùng, giữa một vùng cát rộng. Mộ cụ Nguyễn Du qua nhiều trùng tu, ngày một tôn nghiêm hơn.
Nguyễn Du cuộc đời được chia làm ba giai đoạn: 1) Nguyễn Du mười lăm năm tuổi thơ (1766- 1780); 2) Nguyễn Du mười lăm năm lưu lạc (1781-1796), trong đó có Nguyễn Du mười năm gió bụi 1781- 1790, Nguyễn Du câu cá ở biển Nam (Nam Hải Điếu Đồ 1791- 1796); Nguyễn Du đi săn ở núi Hồng (Hồng Sơn Liệp Hộ 1797 -1801); 3) Nguyễn Du làm quan đi sứ và viết sách (1802- 1820), bao gồm Nguyễn Du làm quan tri huyện, cai bạ, cần chánh điện đại hoc sĩ, chánh sứ đi sứ nhà Thanh, Nguyễn Du thơ chữ Hán (1802 – 1813); Nguyễn Du và Truyện Kiều (Ông viết sau khi đi sứ thành công 1813-1814, viết trên đường về Việt Nam, và ông được nghỉ phép về quê sáu tháng, Ông đã hoàn thiện Truyện Kiều và ba tập thơ chữ Hán “Bắc hành tạp lục” 132 bài, “Nam trung tạp ngâm” 16 bài và “Thanh Hiên thi tập” 78 bài. Nguyễn Du vào nhậm chức Hữu Tham tri Bộ Lễ và chết ở Huế 1820.
Nguyễn Du di cảo thơ lưu hành qua những câu thơ lưu lạc trong dân gian trên gốm sứ Giang Tây, qua di sản thơ chữ Hán, thơ Truyện Kiều bản kiểm duyệt hiệu đính của triều Nguyễn (bản Kinh) và bản Phường chữ Hán Nôm có lưu dấu hai bài Tựa đầu Truyện Thúy Kiều ( Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim biên khảo theo bản khắc in cuối triều Nguyễn) lộ thêm một chút cuộc đời và hành trạng Nguyễn Du
MƯỜI LĂM NĂM TUỔI THƠ
Năm Ất Dậu (1765), Nguyễn Du sinh ngày 23 tháng 11
(nhằm ngày 3 tháng 1 năm 1766) lúc Nguyễn Nghiễm 58 tuổi, bà Trần Thị Tần 26 tuổi. Nguyễn Du được gọi là cậu Chiêu Bảy. Năm ấy cũng là năm Vũ Vương mất, Trương Phúc Loan chuyên quyền. Họ Nguyễn làm chúa trong Nam từ thời ông Nguyễn Hoàng trở đi, phía bắc khi mềm khi cứng khéo ngăn không cho họ Trịnh vượt tam tuyến Hoành Sơn Linh Giang Lũy Thầy, phía nam đánh lấy đất Chiêm Thành và đất Chân Lạp, truyền đến đời Vũ Vương thì định triều nghi, lập cung điện ở đất Phú Xuân, phong cho Nguyễn Phúc Hiệu người con thứ 9 làm thế tử. Bây giờ thế tử đã mất rồi, con thế tử là Nguyễn Phúc Dương hãy còn nhỏ mà con trưởng của Vũ Vương cũng mất rồi. Vũ Vương lập di chiếu cho người con thứ hai là hoàng tử Cốn lên nối ngôi nhưng quyền thần Trương Phúc Loan đổi di chiếu lập người con thứ 16 của Vũ Vương, mới có 12 tuổi tên là Nguyễn Phúc Thuần lên làm chúa, gọi là Định Vương. Nguyễn Phúc Ánh là con của hoàng tử Cốn. Nguyễn Phúc Ánh sinh ngày Kỷ Dậu tháng Giêng năm Nhâm Ngọ (1762) lớn hơn Nguyễn Du ba tuổi. Trương Phúc Loan là người tham lam, làm nhiều điều tàn ác nên đàng Trong ai cũng oán giận, bởi thế phía nam nhà Tây Sơn dấy binh ở Quy Nhơn, phía bắc quân Trịnh vào lấy Phú Xuân, làm cho cơ nghiệp họ Nguyễn xiêu đổ.
Năm Đinh Hợi (1767), Nguyễn Du hai tuổi.
Nguyễn Nghiễm được thăng Thái tử Thái bảo, hàm tòng nhất phẩm, tước Xuân Quận công. Lúc này Trịnh Doanh mất, con là Trịnh Sâm lên làm chúa. Lê Duy Mật đem quân về đánh Hương Sơn và Thanh Chương rồi rút về Trấn Ninh. Trịnh Sâm cho người đưa thư sang vỗ về không được, mới quyết ý dùng binh để dứt mối loạn. Cũng năm ấy (1767) nước Miến Điện sang đánh Xiêm La (Thái Lan ngày nay) bắt vua nước ấy và các con vua mang về Miến Điện. Hai người con khác của vua Xiêm La một người chạy sang Chân Lạp, một người chạy sang Hà Tiên. Trịnh Quốc Anh (Taksin) một tướng Thái gốc Hoa người Triều Châu tỉnh Quảng Đông khởi binh chống quân Miến Điện giành lại độc lập, tự lập làm vua Xiêm La và dời đô về Thonburi, bên bờ sông Chao Phraya, đối diện với Bangkok. (Nguyên nước Xiêm La vốn là một vương quốc Phật giáo tên là Xích Thổ (Sukhothai) ở miền Bắc Thái Lan, dần thay thế vai trò của Đế chế Khmer (Chân Lạp) đang tàn lụi vào thế kỷ 13 – thế kỷ 15. Năm 1283 người Thái có chữ viết. Sau đó người Thái mở rộng lãnh thổ xuống phía nam, và năm 1350 chuyển kinh đô xuống Ayuthaya, phía bắc Bangkok 70 km. Năm 1431, quân Xiêm cướp phá Angkor của Chân Lạp. Nhiều bảo vật và trang phục của văn hóa Hindu đã được họ đem về Ayutthaya, lễ nghi và cách ăn mặc của người Khmer được dung nhập vào thượng tầng văn hóa Xiêm. Trong khoảng 400 năm, từ thế kỷ 14 đến thế kỷ 18, giữa người Thái và người Miến Điện láng giềng luôn xảy ra các cuộc chiến tranh và kinh đô Ayuthaya bị huỷ diệt ở thế kỷ 18. Người Hoa sau biến cố Minh Thanh cũng ngày một nhiều ở đất Xiêm La; xem tiếpNguyễn Du niên biểu luậnhttps://hoangkimlong.wordpress.com/category/nguyen-du-nien-bieu-luan/
Năm Nhâm Tuất (1802). Nguyễn Du 37 tuổi.
Mùa xuân năm 1802, quân nhà Nguyễn qua sông Gianh tiến đánh, hạ được đồn Tâm Hiệu thuộc châu Bố Chính. Quân Tây Sơn tan vỡ, chạy về doanh Hà Trung trong hạt Kỳ Anh. Tháng 5 năm này, Nguyễn Ánh hạ chiếu đổi niên hiệu làm năm đầu niên hiệu Gia Long. Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng sau khi hạ được thành Quy Nhơn liền đem quân về đánh Phú Xuân. Khi Diệu đem quân ra khỏi địa giới Quy Nhơn thì bị tướng của nhà Nguyễn là Đắc Lộc hầu chặn lại. Quân của Trần Quang Diệu đánh phá nửa ngày nhưng không thể hạ được với vô số người chết và bị thương. Diệu đành đem quân theo đường núi vào Ai Lao, định ra Nghệ An. Được tin, Nguyễn Ánh lập tức cắt đặt các tướng, thống lĩnh các đạo quân thuỷ bộ, hẹn ngày kéo ra Bắc. Ngày 28 tháng 5, thuỷ quân của nhà Nguyễn tới cửa biển Đan Nhai thuộc Nghệ An, tiến đánh và phá được đồn Quần Mộc. Quân bộ cũng tiến đến phía nam sông Thanh Long rồi vượt sang bờ phía Bắc. Hai mặt thuỷ bộ đều tiến công, quân Tây Sơn bỏ chạy tán loạn. Quân nhà Nguyễn bèn xông lên cướp kho thóc Kỳ Lân. Trấn thủ của nhà Tây Sơn là Nguyễn Văn Thận cùng với hiệp trấn Nguyễn Triêm, thống lĩnh Nguyễn Văn Đại, thiếu uý Đặng Văn Đằng bỏ thành chạy ra miền Bắc. Đến đồn Tiên Lý, Nguyễn Triêm tự thắt cổ; còn Nguyễn Văn Thận chạy ra trấn Thanh Hoa. Quân nhà Nguyễn lấy được thành Nghệ An. Trần Quang Diệu ở Quỳ Hợp xuống đến địa phận Hương Sơn thì nghe tin Nghệ An đã thất thủ, bèn đến Thanh Chương, qua sông Thanh Long, rồi chạy ra trấn Thanh Hoa. Tướng sĩ đi theo Diệu dần dần tản mát mỗi người một nơi. Quân nhà Nguyễn đuổi kịp, bắt sống được Diệu. Tháng 6, quân nhà Nguyễn tiến đánh thành Thanh Hoa. Em vua Quang Toản là đốc trấn Nguyễn Quang Bàn cùng Nguyễn Văn Thận, Đặng Văn Đằng đều đầu hàng. Ngày 18, Nguyễn Ánh tiến ra Thăng Long, quân Tây Sơn hoàn toàn tan vỡ. Nguyễn Quang Toản bỏ thành cùng với em là Nguyễn Quang Thùy và đô đốc Tú qua sông Nhĩ Hà chạy về hướng bắc. Sau đó, Quang Thùy và vợ chồng Tú đều tự thắt cổ. Còn vua cùng các bề tôi đều bị thổ hào Kinh Bắc bắt được đóng cũi giao nộp cho Nguyễn Ánh. Quan lại của nhà Tây Sơn ở các trấn hoặc trốn, hoặc hàng, không ai dám chống lại. Vua Gia Long vài tháng sau về lại Phú Xuân, sửa lễ cáo miếu dâng tù, đem Nguyễn Quang Toản ra dùng cực hình giết chết, rồi bố cáo cho khắp cả nước đều biết. Quang Toản cùng những người con khác của anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ đều bị Gia Long sai dùng cực hình 5 voi xé xác. Nguyễn Huệ, Nguyễn Nhạc cũng bị trả thù rất dã man: Mồ mả bị khai quật, hài cốt bị giã nát vứt đi; đầu lâu của Nhạc, Huệ, Toản và mộc chủ của vợ chồng Nguyễn Huệ đều bị giam ở nhà Đồ Ngoại, sau lại đưa vào cấm cố vĩnh viễn trong ngục thất (Nơi ấy, nay thuộc địa điểm Trường Đại học Nông Lâm Huế). Quang Toản khi bị hành hình, mới 19 tuổi. Triều đại Tây Sơn chấm dứt.
Mười lăm năm tuổi thơ
Mười lăm năm lưu lạc
Thời Hồng Sơn Liệp Hộ
Tình hiếu thật phân minh.
Nguyễn Du thời Tây Sơn (1766-1802) có bốn sự kiện nổi bật, mà sử liệu ngày nay đã hoàn toàn sáng tỏ, đã có đầy đủ chứng cứ sự thật sát thực. 1) Quang Trung phá quân Thanh 2) Nguyễn Vương bình Gia Định; 3) Nguyễn Du đền Trung Liệt; 4) Nam Hải và Hồng Sơn, Quang Trung phá quân Thanh năm 1789; Nguyễn Vương bình Gia Định chiếm trọn phần đất của Đông Định Vương Nguyễn Lữ cũng ngay trong năm ấy. Nguyễn Du xây đền Trung Liệt cho Lê Quýnh và các trung thần vào năm 1793 và đền thờ này đã hoàn thành khoảng đầu năm 1795. Về phần vua Lê Chiêu Thống, ông này qua đời tại Bắc Kinh năm 1793 nhưng tro cốt của ông được đưa về Việt Nam năm 1804 và chôn ở Thanh Hóa quê hương của tổ tiên ông (Cương mục quyển XI .VII trang 48a, trích dẫn từ Chính sử triều Nguyễn và dẫn theo Lê Thành Khôi ‘Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến giữa thế kỷ 20’ trang 386).. Nguyễn Du giai đoạn 1787- 1796 chủ yếu sống tại Thăng Long, làm Nam Hải Điếu đồ (Người đi câu ở biển Nam), chăm chú theo dõi thời vận, tỏ chính kiến bằng việc xây dựng Trung Liệt từ ở 124 Thụy Khuê Thăng Long, và sau đó Nguyễn Du giai đoạn 1797-1802 đã lựa chọn đối sách làm Hồng Sơn Liệp Hộ (Người đi săn ở núi Hồng), sống chủ yếu ở Nghệ Tĩnh (chính sử, dã sử và giai thoại đến nay vẫn chưa xác định rõ ông gặp vua Gia Long ở Hải Dương, hay ở Nghệ Tĩnh, xem tư liệu Nguyễn Du niên biểu luận trong Nguyễn Du trăng huyền thoại của Hoàng Kim trích đăng ở cuối bài.Nguyễn Du bình sinh và hành trạng ra sao trong thời Tây Sơn (1766-1802)? Cụ ở ẩn hay cụ làm một người con dấn thân trung hiếu như lời trong Truyện Kiều “để lời thệ hải minh sơn/ Làm con trước phải đền ơn sinh thành”?. Khảo luận nghiên cứu lịch sử này của chúng tôi đưa ra sáu chứng cứ sử liệu và địa chí văn hóa để cho thấy rằng cụ Nguyễn Du không phải làm người ở ẩn thời Tây Sơn mà Cụ thực sự làm người con trung hiếu dấn thân vì đại nghĩa vì nước vì nhà theo quan niệm đạo làm Người của Cụ. Hẳn Cụ đồng quan điểm với danh sĩ Nguyễn Thiếp, khi Cụ đã trực tiếp chứng kiến dã tâm cướp nước ta của nhà Đại Thanh qua hành động việc làm thực tế của Tôn Sĩ Nghị, phù hợp với chứng cứ giá trị văn bản sử liệu nhiều nguồn đã được lưu trữ và khẳng định, nhưng Cụ không chịu ra phò nhà Tây Sơn vì chứng kiến rõ cảnh nồi da xáo thịt trong quan hệ anh em và mức độ lạm sát người dân thường, bất chấp mọi thủ đoạn trong chiến tranh. Cụ là vàng lầm trong cát của thời thế nhiễu loạn. Sáu chứng cứ sự thật lịch sử Nguyễn Du thời Tây Sơn kết luận của bài này, đó là 1) Cụ Nguyễn Du và gia đình cụ Nguyễn Du đã chịu rất nhiều nghịch cảnh trước biến động dữ dội của đất nước và thời thế trong mười lăm năm tuổi thơ (1766-1780) 2) Cụ Nguyễn Du làm một người con trung hiếu dấn thân giang hồ mười lăm năm lưu lạc (1781- 1796), 3) Cụ Nguyễn Du thể hiện một danh sĩ tinh hoa, tầm nhìn sâu sắc mẫu mực về ứng xử, dự đoán và dự báo tài tình minh triết sáng suốt về thời cuộc. Cụ không phải tỏ lời cảm khái như cụ Nguyễn Thiếp “Đã trót lên đèo phải xuống đèo”(thơ cụ Nguyễn Thiếp). Cách xử lý tình huống cụ thể và mẫu mực tinh hoa của cụ Nguyễn Du là làm người câu cá ở biển Nam (Nam Hải điếu đồ 1787-1796) người đi săn ở núi Hồng (Hồng Sơn Liệp Hộ 1797- 1802) lựa chọn thế ứng xử phù hợp của kẻ sĩ trước thời vận, 4) Cụ Nguyễn Du tỏ bản lĩnh và thái độ yêu ghét thật phân minh khi trực tiếp xây dựng đền Trung Liệt ờ 124 Thụy Khuê Hà Nội khi cuộc chiến Nhà Nguyễn và Nhà Tây Sơn còn chưa phân định sự thắng thua; 5) Cụ Nguyễn Du đã giúp người anh là Nguyễn Nể, tránh được mối họa diệt tộc, để không tiếp tục dính líu sâu vào nhà Tây Sơn khi triều đại này đã lộ rõ những yếu điểm sẽ dẫn tới sự suy vong và sụp đổ nguy hại của một triều đại, hệ lụy kéo theo cho gia đình và bản thân; 6). Cụ Nguyễn Du chấp nhận sự hợp tác hiệu quả nhất với Nhà Nguyễn để “dĩ công vi thượng” tốt nhất cho đất nước và con người Việt Nam, xử thế của Cụ thật phân minh của một kẻ sĩ tinh hoa. Cụ Nguyễn Du với thủ pháp ngoại giao xuất sắc, ngôn ngữ điêu luyện, sự kiện ngoại giao mẫu mực “Bắc hành” và “Truyện Kiều “Kỳ Lân Mộ” “Viếng Liễu Hạ Huệ Mộ”, “Đối tửu”, đã đạt tới sự kết hợp lịch sử văn hóa tuyệt vời, chạm thấu tim người, đã làm cho vua nhà Đại Thanh tôn trọng Việt Nam hơn, đưa đến sự giao hảo tốt Việt Trung, phương lược ngoại giao xuất chúng đã giúp hai nước tránh được thế đối đầu. Sáu bằng chứng này đủ cho thấy cụ Nguyễn Du là đấng danh sĩ tinh hoa, anh hùng kỳ tài lỗi lạc Việt Nam mà không chỉ là đại thi hào danh nhân văn hóa thế giới.”Khen cho con mắt tinh đời / Anh hùng đoán giữ trần ai mới già” “Chọc trời khuấy nước mặc dầu / Dọc ngang nào biết trên đầu có ai”. Nguyễn Du trăng huyền thoại https://hoangkimlong.wordpress.com/category/nguyen-du-trang-huyen-thoai/
Hình thế nước Đại Việt đàng Trong đàng Ngoài năm 1760. Bản đồ vẽ bởi công ty Cóvens e Mortier, Amsterdam (hình trên) và Hình thế nước Đại Việt đàng Trong đàng Ngoài năm 1788 trước mùa xuân Kỷ Dậu năm 1790 (vẽ theo sử liệu và bản đồ Trần Trọng Kim) đã cho thấy Nguyễn Du cuộc đời và thời thế. Diễn biến thời cuộc từ khi Nguyễn Du sinh ra năm 1766 đến khị Triều đại Tây Sơn sụp đổ năm 1802 qua minh chứng tại Nguyễn Du niên biểu luận
NGUYỄN DUMỘT TỔNG LUẬN
1. Nguyễn Du không chỉ là nhà thơ lớn, danh nhân văn hóa thế giới mà còn là danh sĩ tinh hoa, đấng anh hùng hào kiệt minh sư hiền tài lỗi lạc.
2. Nguyễn Du rất mực nhân đạo và minh triết, ông nổi bật hơn tất cả những chính khách và danh nhân cùng thời. Nguyễn Du vượt lên vinh nhục bản thân giữa thời nhiễu loạn, vàng lầm trong cát để trao lại ngọc cho đời. “Nguyễn Du là người rất mực nhân đạo trong một thời đại ít nhân đạo” (Joocjo Budaren nhà văn Pháp). Ông chí thiện, nhân đạo, minh triết, mẫu hình con người văn hóa tương lai. Kiều Nguyễn Du là bài học lớn về tâm tình hồn Việt. Truyện Kiều của Nguyễn Du đã thấm sâu vào hồn Việt và lan tỏa khắp thế giới.
3. Nguyễn Du quê hương và dòng họ cho thấy gia tộc họ Nguyễn Tiên Điền là dòng họ lớn đại quý tộc có thế lực mạnh “Triều đình riêng một góc trời/ Gồm hai văn võ, rạch đôi sơn hà”. Vị thế gia tộc Nguyễn Tiên Điền đến mức nhà Lê, họ Trịnh, nhà Tây Sơn, nhà Nguyễn đều tìm mọi cách liên kết, lôi kéo, mua chuộc, khống chế hoặc ra tay tàn độc để trấn phản.
4. Nguyễn Du niên biểu luận, cuộc đời và thời thế là bức tranh bi tráng của một bậc anh hùng hào kiệt nhân hậu, trọng nghĩa và tận lực vì lý tưởng. Nguyễn Du đã phải gánh chịu quá nhiều chuyện thương tâm và khổ đau cùng cực cho chính ông và gia đình ông bởi biến thiên của thời vận”Bắt phong trần phải phong trần.Cho thanh cao mới được phần thanh cao“. Nguyễn Du mười lăm năm tuổi thơ (1765-1780) mẹ mất sớm, ông có thiên tư thông tuệ, văn võ song toàn, văn tài nổi danh tam trường, võ quan giữ tước vị cao nơi trọng yếu; người thân gia đình ông giữ địa vị cao nhất trong triều Lê Trịnh và có nhiều người thân tín quản lý phần lớn những nơi trọng địa của Bắc Hà. Nguyễn Du mười lăm năm lưu lạc (1781- 1796)Thời Hồng Sơn Liệp Hộ (1797-1802) Nlà giai đoạn đất nước nhiễu loạn Lê bại Trịnh vong, nội chiến, tranh đoạt và ngoại xâm. Nguyễn Du và gia đình ông đã chịu nhiều tổn thất nhưng ông kiên gan bền chí, tận tụy hết lòng vì nhà Lê “Bên tình bên hiếu bên nào nặng hơn. Để lời thệ hải minh sơn. Làm con trước phải đền ơn sinh thành“. Nguyễn Du thời Nhà Nguyễn (1802- 1820) ra làm quan triều Nguyễn giữ các chức vụ từ tri huyên, cai bạ, cần chánh điện đại hoc sĩ, chánh sứ đến hữu tham tri bộ lễ. Ông là nhà quản lý giỏi yêu nước thương dân, Nguyễn Du để lại kiệt tác Truyện Kiều là di sản muôn đời, kiệt tác thơ chữ Hán có Bắc hành tạp lục 132 bài, Nam trung tạp ngâm 16 bài và Thanh Hiên thi tập 78 bài, là phần sâu kín trong tâm trạng Nguyễn Du, tỏa sáng tầm vóc và bản lĩnh của một anh hùng quốc sĩ tinh hoa, chạm thấu những vấn đề sâu sắc nhất của tình yêu thương con người và nhân loại. Đặc biệt “Bắc Hành tạp lục” là kiệt tác sử thi và tuyên ngôn ngoại giao nhân nghĩa làm rạng danh nước Việt.
5. Minh triết ứng xử của Nguyễn Du là bậc hiền tài trước ngã ba đường đời là phải chí thiện và thuận theo tự nhiên “Tùy cơ, tùy vận, tùy thiên mệnh, tùy thời, tùy thế, lại tùy nghi” Nguyễn Du ký thác tâm sự vào Truyện Kiều là ẩn ngữ ước vọng đời người, tâm tình và tình yêu cuộc sống “Thiện căn cốt ở lòng ta, Chữ tâm kia mới thành ba chữ tài” .
6. Truyện Kiều có tầm ảnh hưởng rất sâu rộng đã trở thành hồn Việt, và là tác phẩm văn học cổ điển Việt Nam được dịch ra hơn 20 thứ tiếng và trên 73 bản dịch. Giá trị tác phẩm Kiệt tác Truyện Kiều của Nguyễn Du có sự tương đồng với kiệt tác Hồng Lâu Mộng của Tào Tuyết Cần.nhưng khác chiều kích văn hóa giáo dục và giá trị tác phẩm.
7. Nhân cách, tâm thế của con người Nguyễn Du đặt trong mối tương quan với Nguyễn Huệ và Nguyễn Ánh của thời đại Hậu Lê Trịnh – nhà Tây Sơn – đầu triều Nguyễn; khi so sánh với Tào Tuyết Cần là văn nhân tài tử của thời đại cuối nhà Minh đến đầu và giữa nhà Thanh thì vừa có sự tương đồng vừa có sự dị biệt to lớn.
8. Gia tộc của Nguyễn Quỳnh – Nguyễn Thiếp – Nguyễn Du tương đồng với gia tộc của Tào Tỷ – Tào Dần – Tào Tuyết Cần nhưng nền tảng đạo đức văn hóa khác nhau Nhấn mạnh điều này để thấy sự cần thiết nghiên cứu liên ngành lịch sử, văn hóa, con người tác gia, bởi điều đó chi phối rất sâu sắc đến giá trị của kiệt tác.
9. Nguyễn Du danh si tinh hoa là tấm gương soi sáng thời đại Nguyễn Du
QUÊ HƯƠNG VÀ DÒNG HỌ
Nguyễn Du tự Tố Như, hiệu Thanh Hiên, biệt hiệu Nam Hải Điếu Đồ (kẻ đi câu ở biển Nam) lại có hiệu Hồng Sơn Liệp Hộ (người đi săn ở núi Hồng). Nguyễn Du sinh 1766, tại làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, Nghệ An (theo gia phả của họ Nguyễn Tiên Điền thì Nguyễn Du sinh tại Tiên Điền chứ không phải sinh tại Hà Nội). Nguyễn Du thi Hương tại Sơn Nam năm 1783 và chỉ đậu Tam Trường. Ông có được bổ sung chức quan tại Thường Tín, nhưng cáo ốm không nhậm chức. Khi Tây Sơn ra Bắc. Thận Quân Công có ép ra phục vụ, nhưng Nguyễn Du và nhiều chí sĩ thời bấy giờ cho rằng Tây Sơn là giặc, nên từ chối, bị nhốt hai tháng rồi thả ra. họ Nguyễn Tiên Điền quê hương Nghệ Tĩnh nhưng sống nhiều nơi “Hồng Lam vô gia huynh đệ tán”, mẹ họ Trần đất Kinh Bắc, tổ tiên Sơn Nam, khởi nghiệp Thái Nguyên, nhiều năm lưu lạc giang hồ ở châu thổ sông Hồng, vùng núi phía Bắc, Nam Trung Quốc,và Nghệ Tĩnh, nhiều năm làm quan ở Quảng Bình và kinh đô Huế. Nguyễn Du là danh sĩ tinh hoa, tính tình khoan hòa điềm tĩnh, đi nhiều, học rộng, là nhà thơ nổi tiếng thời Lê mạt, Nguyễn sơ ở Việt Nam.
Cha của Nguyễn Du là Nguyễn Nghiễm (1708 – 1775), sinh ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh, tên tự Hy Di, hiệu Nghi Hiên, có biệt hiệu là Hồng Ngự cư sĩ, đậu Nhị giáp tiến sĩ , làm quan đến chức Đại tư đồ (Tể tướng) kiêm Trung thư giám, Tổng tài Quốc sử giám, tước Thượng thư bộ Hộ, Xuân Quận công triều Lê.
Mẹ là bà Trần Thị Tần, sinh ngày 24 tháng 8 năm 1740, mất ngày 27 tháng 8 năm 1778, con gái một người thuộc hạ của Nguyễn Nhiễm làm chức Câu kê lo việc kế toán, quản gia cho cụ Nguyễn Nghiễm. Quê mẹ Nguyễn Du ở làng Hoa Thiều, xã Minh Đạo, huyện Tiên Du (Đông Ngàn), xứ Kinh Bắc, nay thuộc tỉnh Bắc Ninh. Bà Trần Thị Tần là vợ thứ ba của Nguyễn Nghiễm, bà kém chồng 32 tuổi, sinh được năm con, bốn trai và một gái.
Nguyễn Nghiễm có tám vợ và 21 người con. Vợ chánh thất là bà Đặng Thị Dương, sinh mẫu của Nguyễn Khản (1734-1786); bà hai là Đặng Thị Thuyết, sinh mẫu của Nguyễn Điều (1740-1786), bà là em ruột của bà chánh thất Đặng Thị Dương; bà ba là Trần Thị Tần, sinh mẫu của Nguyễn Trụ (1757-1775, con trai thứ 3), Nguyễn Nễ (1761-1805, con trai thứ 6), Nguyễn Thị Diên, Nguyễn Du (1765- 1820, con trai thứ 7, nên tục gọi là cậu Chiêu Bảy), Nguyễn Ức (1867-1823, con trai thứ 8); bà tư là Nguyễn Thị Xuyên, quê ở xã Hoàng Mai, Yên Dũng, Kinh Bắc, sinh mẫu của Nguyễn Quýnh (1759- 1791, con trai thứ 4), bà năm là Nguyễn Thị Xuân, quê xã Tiêu Sơn, huyện Yên Phong, xứ Kinh Bắc, sinh mẫu của Nguyễn Trừ (1760 -1809, con trai thứ 5) và Nguyễn Nghi (1773- 1845, con trai thứ 10); bà sáu là Phạm Thị Diễm, quê xã Hải Lộ, huyện Nam Chân, xứ Sơn Nam, sinh mẫu của Nguyễn Lạng (1768- 1817), con trai thứ 9), bà bảy là Hồ Thị Ngạn, người xã Hoa Viên, huyện Nghi Xuân, sinh mẫu của Nguyễn Nhưng (1763-1824), con trai thứ 11; bà tám là Hoàng Thị Thược, người xã Đan Hải, Nghi Xuân, sinh mẫu của Nguyễn Tốn (1767- 1812), con trai thứ 12 (Trích theo đúng gia phả, bản dịch của cụ Giải nguyên Lê Thước dịch từ năm 1962).
Đền thờ Nguyễn Nghiễm ở thôn Bảo Kê, xã Tiên Điền. Đền có 3 tấm biển lớn, một khắc 4 chữ “Phúc lý vĩnh tuy” (Phúc ấm lâu dài) do tự tay chúa Trịnh viết. Một tấm khắc 4 chữ: “Dịch tế thư hương” (dòng thư hương đời nối đời) do Đức Bảo sứ thần nhà Thanh đề tặng. Một biển khắc 4 chữ “Quang tiền du hậu” (Rạng rỡ thế hệ trước, phúc ấm ở đời sau) do Tô Kính người Viễn Đông đề tặng. Đền còn có đôi câu đối: Lưỡng triều danh Tể Tướng. Nhất thế đại nho sư (Nho sư cả nước vang danh hiệu. Tể tướng hai triều rạng tiếng tăm). Danh sĩ La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp, người được Nguyễn Huệ tôn làm thầy, là học trò của Nguyễn Nhiễm, đã viết bài tán Phú Đức nói về thầy học của mình. Nguyễn Nhiễm khi còn sống đặt ruộng cúng và xây sẵn đền thờ ở mặt sông. Sau khi ông mất, triều đình phong “Thượng Đẳng Tôn Thần”, Huân Du Đô Hiến Đại Vương, hàng năm Quốc gia làm tế lễ. Lại giao cho 4 xã chăm sóc hương khói. Ngày sinh, ngày giỗ của ông có cả xã Uy Viễn cùng tế lễ.
Tổ tiên của Nguyễn Du gốc ở làng Canh Hoạch, huyện Thanh Oai, trấn Sơn Nam (nay thuộc Hà Nội), sau di cư vào Hà Tĩnh, có truyền thống khoa bảng nổi danh ở làng Tiên Điền thời Lê mạt. Trước ông bảy thế hệ, viễn tổ họ Nguyễn Tiên Điền là Nam Dương hầu Nguyễn Nhiệm, con trai Nguyễn Miễn và là cháu Nguyễn Quyện, gọi Nguyễn Quyện bằng bác ruột, thời Lê Trung hưng có dự mưu phục lại nhà Mạc, bị thua trận chạy về phương Nam giấu hẵn tung tích đến sinh cơ lập nghiệp ở Tiền Điền Nghi Xuân. (Nguyễn Miễn là con của Trạng nguyên Nguyễn Thiến, hậu duệ người em của Nguyễn Phi Khanh). Nguyễn Trãi và Nguyễn Du cùng dòng họ và chung một ông tổ.
Ông nội của Nguyễn Du là Nguyễn Quỳnh. Ông có 5 vợ và 9 con (6 trai, 3 gái). Trong số 6 người con trai thì có 3 người con đậu đại khoa và làm quan to là Nguyễn Huệ , Nguyễn Nghiễm và Nguyễn Trọng. Ông Nguyễn Quỳnh là người hay đọc sách, tinh thông lý số, giỏi kinh dịch, … Ông chuyên tâm dạy con cái học hành, có soạn ba bộ sách bàn về Kinh Dịch với những việc chiêm nghiệm được trong đời. Ông có trồng ba cây cổ thụ, một cây Muỗm (Xoài), một cây Bồ Lỗ (Cây Nóng), một cây Rói, để sau này con cái thành đạt về thăm cha có chỗ buộc ngựa. Những cây cổ thụ đó, nay vẫn còn, trừ cây Rói bị bão đổ năm 1976. Nguyễn Quỳnh giỏi y thuật từ khi còn trẻ nghe nói có gặp một người Trung Quốc là Ngô Cảnh Phượng (dòng dõi Ngô Cảnh Loan- một nhà địa lý nổi tiếng đời Tống)am hiểu địa lý, gặp nạn, ông đưa về nuôi. Ngô Cảnh Phượng cảm phục ân đức đã truyền cho bí quyết về phong thủy. Họ Nguyễn Tiên Điền thịnh đức, nếp nhà di huấn nối đời làm thuốc và dạy học, nếu có làm quan biết giữ tiết tháo, đức độ, thanh thận cần.
Vợ chính thất của Nguyễn Du họ Đoàn là con thứ sáu của Đoàn Công, Hoàng giáp Phó Đô ngự sử Quỳnh Châu bá người Quỳnh Côi, Hải An (xưa thuộc Sơn Nam, nay thuộc Thái Bình). Theo gia phả của họ Nguyễn Tiên Điền thì ông bà sinh con trai tên Nguyễn Tứ tự là Hạo Như có văn học, Nguyễn Ngũ giỏi võ, Nguyễn Thuyến giỏi văn nhưng không tham gia chính sự. Năm Quý Dậu (1813), bà theo ông đi sứ phương Bắc, về nước được vài năm bị bệnh mất. Bà sinh được một gái gả cho Tú tài Ngô Cảnh Trân, người ở Trảo Nha, Thạch Hà.
Một trong những người yêu thương nhất của Nguyễn Du là Hồ Phi Mai (Hồ Xuân Hương) bà chúa thơ nôm, tác giả của Lưu Hương ký, quê ở Quỳnh Đôi, có quan hệ mật thiết với họ Hồ nhà Tây Sơn. Hồ Xuân Hương cũng là tác giả của những tác phẩm thơ nổi tiếng: Bánh trôi nước, Kẽm Trống, Nhớ người cũ, viết gửi Cần Chánh Học Sĩ Nguyễn Hầu, Khóc ông phủ Vĩnh Tường, Khóc Tổng Cóc, Làm lẽ, Tự tình, Mời trầu, Đề đền Sầm Nghi Đống, Đèo Ba Dội, Hang Cắc Cớ, Cái quạt, Đánh đu, Thiếu nữ ngủ ngày, Không chồng mà chửa, Chùa Quán Sứ, Sư hổ mang, Sư bị ong châm, Quan thị, Mắng học trò dốt … bài nào cũng thực thông minh, hóm hỉnh, vừa sâu sắc vừa cận nhân tình. Hồ Xuân Hương là một phụ nữ đặc biệt tài hoa nhưng bất hạnh. Bà có tới ba đời chồng là Tổng Cóc, Tri phủ Vĩnh Tường và Tham hiệp trấn Yên Quảng Trần Phúc Hiển, người bị kết án năm 1816 và bị xử tử năm 1818.
Gia tộc Nguyễn Du có nhiều người giỏi và giữ những vị trí trọng yếu của thời cuộc: cha là Nguyễn Nhiễm làm Tể tướng hai triều Lê; chức quan trước khi cáo lão về trí sĩ là thượng thư bộ Hộ, Đại Tư đồ, Tham tụng, tặng tiệp dinh Tả tướng, tước Xuân Quận công, anh cùng cha khác mẹ là Nguyễn Khản làm Tể tướng, Tham tụng, Thượng thư bộ Lại kiêm trấn thủ Thái Nguyên, Hưng Hóa triều Lê; cha nuôi là quan trấn thủ Thái Nguyên Quản Vũ Hầu Nguyễn Đăng Tiến, tướng tâm phúc của Nguyễn Nhiễm; cha vợ là Hoàng giáp Phó Đô ngự sử Quỳnh Châu bá Đoàn Nguyễn Thục; anh cùng mẹ là Nguyễn Nễ đứng đầu ngoại giao của cả ba triều Lê, Tây Sơn, Nguyễn (Nguyễn Nễ từng trãi Cai đội quân Nhất Phấn giữ phủ chúa Trịnh, Hiệp tán quân vụ nhà Lê, Tả Phụng nghi bộ Binh, Hiệp tán quân vụ trấn Quy Nhơn, Chánh sứ, Tả đồng nghị trung thư sảnh trấn Nghệ An nhà Tây Sơn, phụ tá Tổng trấn Bắc thành nhà Nguyễn); anh ruột là Nguyễn Điều làm trấn thủ Sơn Tây của triều Lê; anh vợ là Đoàn Nguyễn Tuấn làm Thị Lang bộ Lại nhà Tây Sơn; anh rể là tiến sĩ Vũ Trinh làm Hữu Tham tri bộ Hình, thầy dạy Nguyễn Văn Thuyên, con của Tổng trấn Bắc thành Nguyễn Văn Thành.
Điểm đáng lưu ý là Nguyễn Du cũng là chú vợ của vua Gia Long Nguyễn Phúc Ánh. Cuốn gia phả cung cấp về cụ Nguyễn Trừ, anh trai thứ năm của Nguyễn Du : “Ông tên húy là Trừ, …, con bà trắc thất Nguyễn Thị Xuân, người xã Tiêu Sơn, huyện Yên Phong , Bắc Ninh và vẫn lưu ở quê mẹ. Năm Giáp Tý (1804) đổi làm Tri phủ Nam Sách. Ngày 8 tháng Giêng năm Gia Long thứ 8 (22 tháng 2 năm 1809) ông mang bệnh và mất ở đây, thọ 50 tuổi, đem về táng ở Tiêu Sơn (quê mẹ). Vợ kế thất là Tống Thị Thiếu sinh được 4 con trai Đại, Trù (làm tri phủ Vĩnh Tường), Hồng, Hiệp, có con gái là Thị Uyên được tuyển làm cung tần của vua Gia Long”. Vậy Nguyễn Trù là bố vợ của vua Gia Long.và Nguyễn Du là chú vợ của vua
Nguyễn Du rất được quý trọng của nhiều danh sĩ đương thời. Văn chương của ông đặc biệt lưu truyền sâu rộng trong lòng dân. Ông giao thiệp rộng với nhiều tướng văn võ của triều Lê như Hoàng Ngũ Phúc, Nguyễn Hữu Chỉnh, với danh thần nhà Tây Sơn như La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp, Ngô Thì Nhậm, Trần Văn Kỷ, Phan Huy Ích, Ngô Văn Sở, Thận Quận công, với danh thần nhà Nguyễn như Nguyễn Văn Thành, Đặng Trần Thường, Trịnh Hoài Đức, Ngô Nhân Tĩnh, Phạm Văn Hưng, Nguyễn Công Trứ, Trương Đăng Quế, Nguyễn Văn Giai…
Nguyễn Du mất ở Kinh Đô Huế ngày 10 tháng tám năm Canh Thìn (ngày 16 tháng 9 năm 1820), an táng tại cánh đồng Bào Đá, xã An Ninh, huyện Phong Điền. Năm Giáp Thân (1824), hài cốt của cụ được cải táng đưa về quê nhà ở Đồng Ngang thuộc giáp cũ của bản xã (có bút phê) ở thôn Thuận Mỹ, làng Tiên Điền, Hà Tĩnh. Những năm sau đó dời đến táng cạnh đền thờ Nguyễn Trọng và lại cải táng đến xứ Đồng Cùng, giữa một vùng cát rộng. Mộ cụ Nguyễn Du qua nhiều trùng tu, ngày một tôn nghiêm hơn.
Nguyễn Du cuộc đời được chia làm ba giai đoạn: 1) Nguyễn Du mười lăm năm tuổi thơ (1766- 1780); 2) Nguyễn Du mười lăm năm lưu lạc (1781-1796), trong đó có Nguyễn Du mười năm gió bụi 1781- 1790, Nguyễn Du câu cá ở biển Nam (Nam Hải Điếu Đồ 1791- 1796); Nguyễn Du đi săn ở núi Hồng (Hồng Sơn Liệp Hộ 1797 -1801); 3) Nguyễn Du làm quan đi sứ và viết sách (1802- 1820), bao gồm Nguyễn Du làm quan tri huyện, cai bạ, cần chánh điện đại hoc sĩ, chánh sứ đi sứ nhà Thanh, Nguyễn Du thơ chữ Hán (1802 – 1813); Nguyễn Du và Truyện Kiều (Ông viết sau khi đi sứ thành công 1813-1814, viết trên đường về Việt Nam, và ông được nghỉ phép về quê sáu tháng, Ông đã hoàn thiện Truyện Kiều và ba tập thơ chữ Hán “Bắc hành tạp lục” 132 bài, “Nam trung tạp ngâm” 16 bài và “Thanh Hiên thi tập” 78 bài. Nguyễn Du vào nhậm chức Hữu Tham tri Bộ Lễ và chết ở Huế 1820.
Nguyễn Du di cảo thơ lưu hành qua những câu thơ lưu lạc trong dân gian trên gốm sứ Giang Tây, qua di sản thơ chữ Hán, thơ Truyện Kiều bản kiểm duyệt hiệu đính của triều Nguyễn (bản Kinh) và bản Phường chữ Hán Nôm có lưu dấu hai bài Tựa đầu Truyện Thúy Kiều ( Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim biên khảo theo bản khắc in cuối triều Nguyễn) lộ thêm một chút cuộc đời và hành trạng Nguyễn Du
MƯỜI LĂM NĂM TUỔI THƠ
Năm Ất Dậu (1765), Nguyễn Du sinh ngày 23 tháng 11
(nhằm ngày 3 tháng 1 năm 1766) lúc Nguyễn Nghiễm 58 tuổi, bà Trần Thị Tần 26 tuổi. Nguyễn Du được gọi là cậu Chiêu Bảy. Năm ấy cũng là năm Vũ Vương mất, Trương Phúc Loan chuyên quyền. Họ Nguyễn làm chúa trong Nam từ thời ông Nguyễn Hoàng trở đi, phía bắc khi mềm khi cứng khéo ngăn không cho họ Trịnh vượt tam tuyến Hoành Sơn Linh Giang Lũy Thầy, phía nam đánh lấy đất Chiêm Thành và đất Chân Lạp, truyền đến đời Vũ Vương thì định triều nghi, lập cung điện ở đất Phú Xuân, phong cho Nguyễn Phúc Hiệu người con thứ 9 làm thế tử. Bây giờ thế tử đã mất rồi, con thế tử là Nguyễn Phúc Dương hãy còn nhỏ mà con trưởng của Vũ Vương cũng mất rồi. Vũ Vương lập di chiếu cho người con thứ hai là hoàng tử Cốn lên nối ngôi nhưng quyền thần Trương Phúc Loan đổi di chiếu lập người con thứ 16 của Vũ Vương, mới có 12 tuổi tên là Nguyễn Phúc Thuần lên làm chúa, gọi là Định Vương. Nguyễn Phúc Ánh là con của hoàng tử Cốn. Nguyễn Phúc Ánh sinh ngày Kỷ Dậu tháng Giêng năm Nhâm Ngọ (1762) lớn hơn Nguyễn Du ba tuổi. Trương Phúc Loan là người tham lam, làm nhiều điều tàn ác nên đàng Trong ai cũng oán giận, bởi thế phía nam nhà Tây Sơn dấy binh ở Quy Nhơn, phía bắc quân Trịnh vào lấy Phú Xuân, làm cho cơ nghiệp họ Nguyễn xiêu đổ.
Năm Đinh Hợi (1767), Nguyễn Du hai tuổi.
Nguyễn Nghiễm được thăng Thái tử Thái bảo, hàm tòng nhất phẩm, tước Xuân Quận công. Lúc này Trịnh Doanh mất, con là Trịnh Sâm lên làm chúa. Lê Duy Mật đem quân về đánh Hương Sơn và Thanh Chương rồi rút về Trấn Ninh. Trịnh Sâm cho người đưa thư sang vỗ về không được, mới quyết ý dùng binh để dứt mối loạn. Cũng năm ấy (1767) nước Miến Điện sang đánh Xiêm La (Thái Lan ngày nay) bắt vua nước ấy và các con vua mang về Miến Điện. Hai người con khác của vua Xiêm La một người chạy sang Chân Lạp, một người chạy sang Hà Tiên. Trịnh Quốc Anh (Taksin) một tướng Thái gốc Hoa người Triều Châu tỉnh Quảng Đông khởi binh chống quân Miến Điện giành lại độc lập, tự lập làm vua Xiêm La và dời đô về Thonburi, bên bờ sông Chao Phraya, đối diện với Bangkok. (Nguyên nước Xiêm La vốn là một vương quốc Phật giáo tên là Xích Thổ (Sukhothai) ở miền Bắc Thái Lan, dần thay thế vai trò của Đế chế Khmer (Chân Lạp) đang tàn lụi vào thế kỷ 13 – thế kỷ 15. Năm 1283 người Thái có chữ viết. Sau đó người Thái mở rộng lãnh thổ xuống phía nam, và năm 1350 chuyển kinh đô xuống Ayuthaya, phía bắc Bangkok 70 km. Năm 1431, quân Xiêm cướp phá Angkor của Chân Lạp. Nhiều bảo vật và trang phục của văn hóa Hindu đã được họ đem về Ayutthaya, lễ nghi và cách ăn mặc của người Khmer được dung nhập vào thượng tầng văn hóa Xiêm. Trong khoảng 400 năm, từ thế kỷ 14 đến thế kỷ 18, giữa người Thái và người Miến Điện láng giềng luôn xảy ra các cuộc chiến tranh và kinh đô Ayuthaya bị huỷ diệt ở thế kỷ 18. Người Hoa sau biến cố Minh Thanh cũng ngày một nhiều ở đất Xiêm La; xem tiếpNguyễn Du niên biểu luậnhttps://hoangkimlong.wordpress.com/category/nguyen-du-nien-bieu-luan/
Năm Nhâm Tuất (1802). Nguyễn Du 37 tuổi.
Mùa xuân năm 1802, quân nhà Nguyễn qua sông Gianh tiến đánh, hạ được đồn Tâm Hiệu thuộc châu Bố Chính. Quân Tây Sơn tan vỡ, chạy về doanh Hà Trung trong hạt Kỳ Anh. Tháng 5 năm này, Nguyễn Ánh hạ chiếu đổi niên hiệu làm năm đầu niên hiệu Gia Long. Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng sau khi hạ được thành Quy Nhơn liền đem quân về đánh Phú Xuân. Khi Diệu đem quân ra khỏi địa giới Quy Nhơn thì bị tướng của nhà Nguyễn là Đắc Lộc hầu chặn lại. Quân của Trần Quang Diệu đánh phá nửa ngày nhưng không thể hạ được với vô số người chết và bị thương. Diệu đành đem quân theo đường núi vào Ai Lao, định ra Nghệ An. Được tin, Nguyễn Ánh lập tức cắt đặt các tướng, thống lĩnh các đạo quân thuỷ bộ, hẹn ngày kéo ra Bắc. Ngày 28 tháng 5, thuỷ quân của nhà Nguyễn tới cửa biển Đan Nhai thuộc Nghệ An, tiến đánh và phá được đồn Quần Mộc. Quân bộ cũng tiến đến phía nam sông Thanh Long rồi vượt sang bờ phía Bắc. Hai mặt thuỷ bộ đều tiến công, quân Tây Sơn bỏ chạy tán loạn. Quân nhà Nguyễn bèn xông lên cướp kho thóc Kỳ Lân. Trấn thủ của nhà Tây Sơn là Nguyễn Văn Thận cùng với hiệp trấn Nguyễn Triêm, thống lĩnh Nguyễn Văn Đại, thiếu uý Đặng Văn Đằng bỏ thành chạy ra miền Bắc. Đến đồn Tiên Lý, Nguyễn Triêm tự thắt cổ; còn Nguyễn Văn Thận chạy ra trấn Thanh Hoa. Quân nhà Nguyễn lấy được thành Nghệ An. Trần Quang Diệu ở Quỳ Hợp xuống đến địa phận Hương Sơn thì nghe tin Nghệ An đã thất thủ, bèn đến Thanh Chương, qua sông Thanh Long, rồi chạy ra trấn Thanh Hoa. Tướng sĩ đi theo Diệu dần dần tản mát mỗi người một nơi. Quân nhà Nguyễn đuổi kịp, bắt sống được Diệu. Tháng 6, quân nhà Nguyễn tiến đánh thành Thanh Hoa. Em vua Quang Toản là đốc trấn Nguyễn Quang Bàn cùng Nguyễn Văn Thận, Đặng Văn Đằng đều đầu hàng. Ngày 18, Nguyễn Ánh tiến ra Thăng Long, quân Tây Sơn hoàn toàn tan vỡ. Nguyễn Quang Toản bỏ thành cùng với em là Nguyễn Quang Thùy và đô đốc Tú qua sông Nhĩ Hà chạy về hướng bắc. Sau đó, Quang Thùy và vợ chồng Tú đều tự thắt cổ. Còn vua cùng các bề tôi đều bị thổ hào Kinh Bắc bắt được đóng cũi giao nộp cho Nguyễn Ánh. Quan lại của nhà Tây Sơn ở các trấn hoặc trốn, hoặc hàng, không ai dám chống lại. Vua Gia Long vài tháng sau về lại Phú Xuân, sửa lễ cáo miếu dâng tù, đem Nguyễn Quang Toản ra dùng cực hình giết chết, rồi bố cáo cho khắp cả nước đều biết. Quang Toản cùng những người con khác của anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ đều bị Gia Long sai dùng cực hình 5 voi xé xác. Nguyễn Huệ, Nguyễn Nhạc cũng bị trả thù rất dã man: Mồ mả bị khai quật, hài cốt bị giã nát vứt đi; đầu lâu của Nhạc, Huệ, Toản và mộc chủ của vợ chồng Nguyễn Huệ đều bị giam ở nhà Đồ Ngoại, sau lại đưa vào cấm cố vĩnh viễn trong ngục thất (Nơi ấy, nay thuộc địa điểm Trường Đại học Nông Lâm Huế). Quang Toản khi bị hành hình, mới 19 tuổi. Triều đại Tây Sơn chấm dứt.
Nguyễn Du trăng huyền thoạihttp://hoangkimlong.wordpress.com/category/nguyen-du-trang-huyen-thoai là nghiên cứu lịch sử văn hóa của Hoàng Kim về cụ Nguyễn Du đấng danh sĩ tinh hoa, đại thi hào, danh nhân văn hóa thế giới. Hoàng Kim về bến Giang Đình xưa, nơi Nguyễn Du viết Kiều và Nguyễn Công Trứ cùng Nguyễn Du đàm đạo. Non xanh còn đó, nước biếc còn đây, rác còn nhiều nhưng nước non vẫn vậy. Nguyễn Du Nguyễn Công Trứ giống nhau ở Ưu thời và khác nhau về thời biến. Thầy giáo Nguyễn Khoa Tịnh , Thầy giáo Hoàng Ngọc Dộ, nhà thơ Hải Như tâm đắc bàn luận và chia sẻ với Hoàng Kim về ba dòng văn chương: “Dòng văn chương xu thời quá phổ biến trong mọi xã hội. Dòng văn chương Ưu thời có hai dạng loại của Nguyễn Du và Nguyễn Công Trứ, có thể ví như Khang Hi và Vi Tiểu Bảo. Đó đều là những kỳ tài nhưng khác nhau vì tâm ý và thời biến. Nguyễn Du là biểu tượng của dòng văn chương ưu thời thứ nhất. Nguyễn Công Trứ là biểu tượng của dòng văn chương ưu thời thứ hai. Mai Hạc vầng trăng soi (ảnh), tôi có 5 lời bình về Kiều & Nguyễn Du ngoài 9 ý tổng luận; xem tiếphttp://hoangkimlong.wordpress.com/category/nguyen-du-thoi-tay-son/
NÔNG LỊCH TIẾT ĐẠI TUYẾT
Hoàng Kim
Hạnh phúc đơn sơ sao đẹp thế
Ngắm hoa nhớ buổi nắng đông về
Yêu sao ngày mới chờ xuân tới
Đông lạnh ta còn mãi miết đi.
Đạo đức niềm tin và lối sống
Nhớ lời Hưng Đạo dặn dò vua
Đường xuân vui bạn quên ngày tháng
Nắng hửng ban mai gió lạnh về …
Văn chương lưu muôn đời
Bậc thầy gương vạn thuở
Thi thánh và thi sử
Đỗ Phủ Đặng Dung ơi
Dụng kiếm dưới trăng soi
Hùng tâm thiên cổ lụy
Bậc danh sĩ tinh hoa
Bút thần hơn kiếm ý
‘Lều tranh nát gió thu’
‘Bát trận đồ’ ‘Xuân vọng’
Đỗ Phủ thương đọc lại
Sao Mai soi tỏ lòng.
Đỗ Phủ là Thi thánh Thi sử Trung Quốc do đức độ cao thượng, tài thơ văn tuyệt vời. Đỗ Phủ cùng Lý Bạch là hai nhà thơ vĩ đại nhất thời nhà Đường. Thơ Đỗ Phủ nổi tiếng vì phong cách đơn giản và thanh lịch đặc sắc bậc nhất trong thơ cổ điển Trung Quốc. Tầm vóc Đỗ Phủ sánh với Victor Hugo và Shakespeare. Thơ Đỗ Phủ ảnh hưởng sâu sắc tới văn hóa cổ điển Trung Quốc và văn học hiện đại Nhật Bản. Cụ Nguyễn Du đã từng thán phục Đỗ Phủ “Thiên cổ văn chương thiên cổ sư Bình sinh bội phục vị thường ly” (Văn chương lưu muôn đời, bậc thầy muôn đời Bình sinh bái phục không lúc nào ngớt). Cụ Hồ Chí Minh trong Di chúc đã có trích thơ Đỗ Phủ. Cuộc đời Đỗ Phủ là tấm gương phản chiếu đất nước Trung Hoa thời loạn khi đời sống nhân dân tột cùng điêu đứng vì thường xuyên biến động. Đỗ Phủ bộ sưu tập thơ được bảo tồn khoảng 1500 bài thơ đều là tuyệt phẩm. Thi Viện hiện có Đỗ Phủ trực tuyến 1450 bài. Dưới đây là Đỗ Phủ những bài thơ bi tráng phổ biến nhiều người đọc.
ĐỌC ĐỖ PHỦ NHỚ ĐẶNG DUNG
Ngày 8 tháng 12 năm 757, Đỗ Phủ về kinh thành Trường An làm quan trong triều vua Đường Huyền Tông sau loạn An Sử. Bài thơ nổi tiếng của Đỗ Phủ ‘Xem người đẹp múa kiếm’ gợi cho người Việt Nam nhớ bài thơ bi tráng ‘Thuật hoài’ đêm thanh mài kiếm của Đặng Dung Bài này đã được giới thiệu tại “Đọc Đỗ Phủ nhớ Đặng Dung” .
Xem người đẹp múa kiếm
Đỗ Phủ
(Bản dịch của Nguyễn Minh)
Người đẹp họ Công Tôn thủa trước
Múa kiếm lên cả nước rung rinh
Vững lòng như núi cũng kinh
Đất trời cũng phải vị tình ngả nghiêng.
Sáng như Nghệ bắn văng vầng nhật
Uyển chuyển như tiên đáp lưng rồng
Tới như sấm sét bão bùng
Ngưng như biển lặng sông trong hiền hòa.
Tài hoa mãi cũng ra mai một
Học trò cưng sau rốt truyền nghề
Nữ nhi Lâm Dĩnh quán quê
Tới thành Bạch Đế diễn phô kiếm tài.
Câu hỏi đáp cùng người trao đổi
Nhìn người nay thương tới người xưa
Tám ngàn cung nữ của vua
Công Tôn múa kiếm mới vừa long nhan.
Năm mươi năm như bàn tay lật
Gió bụi nay phủ khắp cung rồi
Lê Viên phường hát tàn phai
Dư âm nữ nhạc còn nơi chiều vàng.
Gò Kim Túc cây hàng cung kính
Cỏ xác xơ thành đá Cù Đường
Tiệc hoa đàn sáo chợt ngưng
Sau vui buồn đến, mặt trăng ló rồi.
Thân già về chẳng có nơi
Chân chai núi vắng rã rời bước đi.
Quan Công Tôn đại nương đệ tử vũ kiếm khí hành
Tích hữu giai nhân Công Tôn thị Nhất vũ kiếm khí động tứ phương.
Quan giả như sơn sắc trở táng,
Thiên địa vi chi cửu đê ngang.
Quắc như Nghệ xạ cửu nhật lạc,
Kiểu như quần đế tham long tường.
Lai như lôi đình thu chấn nộ,
Bãi như giang hải ngưng thanh quang.
Giáng thần châu tự lưỡng tịch mịch,
Vãn hữu đệ tử truyền phân phương.
Lâm Dĩnh mĩ nhân tại Bạch Đế,
Diệu vũ thử khúc thần dương dương.
Dữ dư vấn đáp ký hữu dĩ,
Cảm thì phủ sự tằng uyển thương.
Tiên đế thị nữ bát thiên nhân,
Công Tôn kiếm khí sơ đệ nhất.
Ngũ thật niên gian tự phản chưởng,
Phong trần hồng động hôn vương thất.
Lê viên đệ tử tán như yên,
Nữ nhạc dư tư ánh hàn nhật.
Kim túc đôi tiền mộc dĩ củng,
Cù Đường thạch thành thảo tiêu sắt.
Đại diên cấp quản khúc phục chung,
Lạc cực ai lai nguyệt đông xuất.
Lão phu bất tri kỳ sở vãng,
Túc kiển hoang sơn chuyển sầu tật.
Dịch nghĩa
Bài hành xem học trò của đại nương Công Tôn múa điệu kiếm khí
Xưa có người đẹp họ Công Tôn,
Mỗi lần múa điệu kiếm khí, bốn phương rung động.
Người xem vững như núi cũng khiếp đảm.
Trời đất theo nhịp múa mà lên cao xuống thấp.
Sáng rực như Hậu Nghệ bắn rơi chín mặt trời,
Vững vàng như các chúa tiên cỡi rồng lượn.
Đến khi sấm sét thu hết cơn giận dữ,
Dừng như sông bể đọng ánh sáng trong veo.
Làm môi thắm, tay áo ngọc nay đã vắng tênh,
Về già có cô học trò để truyền nghề.
ấy là người đẹp xứ Lâm Dĩnh ở thành Bạch Đế.
Múa khúc tuyệt diệu này, thần thái hiên ngang.
Cùng ta trò chuyện trong chốc lát,
Cảm thời thế nhiều ngang trái mà xót thương !
Thị nữ của tiên đế có tám nghìn người,
Kiếm khí của Công Tôn đứng hàng đầu.
Khoảng năm chục năm trôi qua tựa như trở bàn tay,
Gió bụi tơi bời tối tăm cả cung vua.
Đệ tử Lê viên tan tác như khói,
Phong tư đội nữ nhạc chỉ còn ánh nắng lạnh lẽo.
Trước gò Kim Túc, côi cối chầu hầu,
Nơi thành đá Cù Đường, cỏ xác xơ buồn bã.
Trên tiệc, khúc sáo dồn dập đã dứt
Vui xong sinh buồn, trăng mọc trời đông.
Già này chẳng biết sẽ đi về đâu,
Chân chai lê trong núi hoang theo nỗi sầu.
Thuật hoài
Đặng Dung
Bản dịch của Phan Kế Bính
Việc đời bối rối tuổi già vay,
Trời đất vô cùng một cuộc say.
Bần tiện gặp thời lên cũng dễ,
Anh hùng lỡ bước ngẫm càng cay.
Vai khiêng trái đất mong phò chúa,
Giáp gột sông trời khó vạch mây.
Thù trả chưa xong đầu đã bạc,
Gươm mài bóng nguyệt biết bao rày.
Cảm hoài
Thế sự du du [2] nại lão hà?
Vô cùng thiên địa nhập hàm ca[3].
Thời lai đồ điếu [4] thành công dị.
Vận khứ anh hùng ẩm hận đa.
Trí chủ [5] hữu hoài phù địa trục[6],
Tẩy binh [7] vô lộ vãn thiên hà.
Quốc thù vị báo [8] đầu tiên bạch,
Kỷ độ Long Tuyền [9] đới nguyệt ma.
Chép theo Ngữ văn 10 (nâng cao), sách đã dẫn. Có bản chép khác: Thế lộ (câu 1), Nhập thù ca (câu 2), Sự khứ (câu 4), Trí chúa hữu tâm (câu 5), vị phục (câu 7).
Dịch nghĩa:
Việc đời dằng dặc mà ta đã già, biết làm thế nào?
Trời đất mênh mông đắm trong cuộc rượu hát ca.
Khi gặp thời, người làm nghề hàng thịt, kẻ câu cá cũng dễ thành công,
Lúc lỡ vận, bậc anh hùng đành phải nuốt hận nhiều.
Giúp chúa, những mong xoay trục đất lại,
Rửa vũ khí không có lối kéo tuột sông Ngân xuống.
Thù nước chưa trả được mà mái tóc đã bạc sớm,
Bao phen mang gươm báu mài dưới bóng trăng.
THIẾU LĂNG THƠ “BÁT TRẬN ĐỒ”
Đỗ Phủ thăm Bát trận đồ do Khổng Minh thời Tam quốc dựng thành tại huyện Phụng Tiết tỉnh Tứ Xuyên. Tướng Ngô là Lục Tốn bị quân Thục vây hăm tại đây nhưng nhờ được nhạc phụ của Khổng Minh là Hoàng Thừa Ngạn chỉ đường nên ra thoát. Khổng Minh chưa ra khỏi nhà tranh đă biết thiên hạ thế chia làm ba Thục Ngô Ngụy (tam phân quốc) Thụ liên Ngô kháng Ngụy là đại kế xoay chuyển tình thế. Lưu Bị đánh Đông Ngô để trả thù cho Quan Vân Trường, bị thua to về tay Lục Tốn. Khổng Mình với “bát trận đồ” thể hiện minh triết và tầm nhìn sâu sắc của Khổng Minh. Đỗ Phủ thơ kiệt tác ‘Bát trận đồ” chỉ vỏn vẹn 23 chữ đã khái quát Tam Quốc và bài học bi tráng lịch sử.
Bát trận đồ
Đỗ Phủ
Bản dịch của Phan Kế Bính
Công trùm thế tam phân,
Tiếng thơm đồ bát trận.
Nước chảy đá trơ trơ,
Đánh Ngô còn để giận.
八陣圖
功蓋三分國,
名成八陣圖。
江流石不轉,
遺恨失吞吳。
Bát trận đồ
Công cái tam phân quốc,
Danh thành Bát trận đồ.
Giang lưu thạch bất chuyển,
Di hận thất thôn Ngô.
Dịch nghĩa
Công lớn trùm khắp, nước chia làm ba,
Nổi danh trận đồ Bát quái.
Nước sông cứ chảy đá không lay chuyển,
Để lại hận đã thất kế thôn tính Ngô.
ĐỖ PHỦ THI THÁNH THI SỬ
Năm Chí Đức thứ 2 ( 757) đời Đường, Đỗ Phủ bị kẹt lại trong thành Tràng An đã lọt vào tay loạn tướng An Lộc Sơn. Núi sông vẫn như cũ nhưng nước mất nhà tan. Xuân về nhưng thành Tràng An hoang tàn sau nguy biến. Đỗ Phủ xuân vọng lời thơ cảm khái và bi thương. Khoảng 1500 bài thơ của ông lời vào châu ngọc như sử thi khắc vào đá. Văn hóa Trung Quốc cổ điển, văn học Nhật Bản rất trọng bút pháp sử thi tuyệt diệu này
Xuân vọng
Đỗ Phủ
Bản dịch của Trần Trọng Kim
Nước phá tan, núi sông còn đó
Đầy thành xuân cây cỏ rậm sâu
Cảm thời hoa rỏ dòng châu
Biệt ly tủi giận, chim đau nỗi lòng
Ba tháng khói lửa ròng không ngớt
Bức thư nhà, giá đắt bạc muôn
Gãi đầu tóc bạc ngắn ngun
Dường như hết thảy, e khôn búi tròn.
Nguồn: Trần Trọng Kim, Đường thi, NXB Văn hoá thông tin, 1995
春望
Quốc phá sơn hà tại,
Thành xuân thảo mộc thâm.
Cảm thì hoa tiễn lệ,
Hận biệt điểu kinh tâm.
Phong hoả liên tam nguyệt,
Gia thư để vạn kim.
Bạch đầu tao cánh đoản,
Hồn dục bất thăng trâm.
Dịch nghĩa
Núi sông còn đó mà nước mất rồi,
Thành ngày xuân hoang tàn, cỏ cây rậm rạp.
Cảm thương thời thế mà hoa ướt lệ,
như con chim bị tên, kinh sợ sự chia lìa.
Khói lửa báo giặc giã cháy suốt ba tháng liền.
Thư nhà lúc này đáng vạn đồng.
Gãi mái đầu bạc thấy càng thêm thưa, ngắn,
Muốn cài trâm mà chẳng được.
(Năm 757)
Mao ốc vị thu phong sở phá ca là kiệt tác Thi Thánh của Đỗ Phủ. Hiện nay, bảo tàng Du Fu Caotang, nằm bên cạnh Công viên Huanhuaxi ở quận Qingyang của Thành Đô, tỉnh Tứ Xuyên có lưu giữ những di vật của ông. Bảo tàng Du Fu Caotang có diện tích 24 ha, được công bố thành lập vào ngày 4 tháng 3 năm 1961 là đợt đầu tiên của các địa điểm bảo vệ di tích văn hóa trọng điểm quốc gia Trung Quốc. Tái công bố là địa điểm bảo vệ di tích văn hóa đầu tiên ở tỉnh Tứ Xuyên vào ngày 7 tháng 7 năm 1980
Lều tranh bị phá do gió thu
Đỗ Phủ
Bản dịch của Nguyễn Minh
Gió mùa thu hú cơn cuồng nộ
Cuốn phăng ngay mái cỏ nhà tôi
Qua sông cỏ rải tơi bời
Trên cao vướng mắc khơi khơi trên cành
Dưới thấp thì chìm trong ao nhỏ
Trẻ xóm nam khi dễ ông già
Nỡ làm giặc cướp trước nhà
Ngang nhiên ôm cỏ mang qua nhà mình
Kêu khô cổ không giành được chúng
Trở về nhà gậy chống thở than
Lát sau gió mạnh cũng tan
Trời chiều đen tối, không gian mịt mù
Chăn vải cũ lạnh như tấm sắt
Con cưng nằm đạp rách tan hoang
Đầu giường nước dột mênh mang
Hạt mưa không ngớt rơi tràn thâu đêm
Từ khi loạn ít đêm ngủ được
Nay mưa rơi ướt át chịu sao
Uớc chi có một toà nào
Rộng ngàn căn hộ, bọc bao muôn người
Mưa gió lớn khôn lay chuyển nổi
Vững như non mãi mãi an toàn
Bao giờ toà đó thành hoàn
Thì nhà mái lật, cũng cam lòng này.
茅屋為秋風所破歌
Bát nguyệt thu cao phong nộ hào,
Quyển ngã ốc thượng tam trùng mao.
Mao phi độ giang sái giang giao.
Cao giả quái quyến trường lâm sao,
Hạ giả phiêu chuyển trầm đường ao.
Nam thôn quần đồng khi ngã lão vô lực,
Nhẫn năng đối diện vi đạo tặc.
Công nhiên bão mao nhập trúc khứ,
Thần tiều khẩu táo hô bất đắc.
Qui lai ỷ trượng tự thán tức.
Nga khoảnh phong định vân mặc sắc,
Thu thiên mạc mạc hướng hôn hắc.
Bố khâm đa niên lãnh tự thiết.
Kiều nhi ác ngoạ đạp lý liệt.
Sàng đầu ốc lậu vô can xứ,
Vũ cước như ma vị đoạn tuyệt.
Tự kinh táng loạn thiểu thuỵ miên,
Trường dạ chiêm thấp hà do triệt.
An đắc quảng hạ thiên vạn gian,
Ðại tí thiên hạ hàn sĩ câu hoan nhan,
Phong vũ bất động an như san.
Ô hô, hà thời nhãn tiền đột ngột kiến thử ốc,
Ngô lư độc phá thụ đống tử diệc túc.
Dịch nghĩa
Tháng tám, trời thu cao, gió giận dữ gào thét,
Cuốn đi ba lớp cỏ tranh trên mái nhà ta.
Cỏ tranh bay qua sông, rải xuống miền đất bên sông.
Cao thì vắt vẻo treo trên ngọn cây rừng;
Thấp thì tả tơi rơi chìm xuống ao nước.
Lũ trẻ xóm nam khinh ta già yếu,
Nhẫn tâm làm giặc cướp ngay trước mặt ta.
Chúng công khai ôm cỏ tranh đi vào trong xóm trúc;
Ta khô môi rát miệng, kêu thét mà không được.
Trở về, chống gậy, thở than.
Một lát sau, gió yên mây đen như mực.
Trời thu bát ngát đen tối lúc chiều tà.
Chiếc chăn vải dùng nhiều năm, lạnh như sắt,
Bị đứa con thơ khó ngủ đạp rách toang.
Ở đầu giường mái nhà dột, không chổ nào khô;
Vết mưa nhiều như gai vẫn còn chưa hết.
Từ khi gặp cơn loạn lạc, mình ít ngủ,
Suốt đêm dài ướt đẫm, biết làm sao hết được!
Mong sao có được ngàn vạn gian nhà lớn,
Để giúp cho các hàn sĩ trong thiên hạ đều được vui vẻ,
Không bị kinh động vì mưa gió, yên ổn như núi non!
Hỡi ôi, biết bao giờ được trông thấy nhà này đứng cao sững trước mắt,
Dù cho riêng nhà ta bị phá vỡ, mình có chịu rét đến chết, cũng thoả lòng!
(Năm 761)
Đỗ Phủ Thi Thánh Thi Sử thời nhà Đường Trung Hoa với bài thơ Xem người đẹp múa kiếm ca ngợi tài nghệ múa kiếm tuyệt luân của mỹ nhân Công Tôn Đại Nương. Đọc thơ Đỗ Phủ liên tưởng tới bài thơ ‘Thuật hoài’ của tráng sĩ Đặng Dung, danh tướng thời Hậu Trần của Việt Nam đêm thanh mài kiếm, ngẫm kỹ thấy có sự tương đồng. Đọc các bài “Bát trận đồ” “Xuân vọng” “Túp lều tranh nát dưới gió thu” càng thêm cảm khái.
Ôi, danh sĩ tinh hoa đức độ tài năng thời nào cũng có, gặp thời nhiễu loạn, đành vàng lầm trong cát, nhưng nhân cách vẫn lồng lộng như gương trời buổi sớm.
Nhà Minh Trung Quốc vin cớ “hưng Trần, cầm Hồ” đem 20 vạn quân đánh chiếm Đại Việt lần 1 và 80 vạn quân lần 2 do Trương Phụ, Mộc Thạnh sang chiếm Đại Việt để biến thành quận huyện của Trung Hoa. Trần Ngỗi là con thứ của vua Trần Nghệ Tông dấy binh nổi lên chống lại quân Minh để khôi phục nhà Trần, tháng 10 năm 1407 lên ngôi vua xưng là Giản Định Đế. Đại tri châu Đặng Tất kéo quân đến hợp lực được phong làm Quốc Công. Đặng Tất phá được tri phủ giặc là Đặng Thế Căng ở cửa biển Nhật Lệ và đánh chiếm núi An Đại Lệ Thủy tháng 6 năm 1408. Sau đó lại đại phá quân Minh ở trận Bồ Cô tháng 12 năm 1408, nhưng vua tin lời gièm của bọn hoạn quan nên đã giết Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân. Đặng Dung là con của Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Dị là con của Nguyễn Cảnh Chân tuy căm phẩn vì cha không có tội mà bị giết nhưng không vì thù nhà mà bỏ việc nước. Hai người tìm minh chủ khác là Trần Quý Khoáng đón lên làm vua và tiếp tục chống quân Minh. Đặng Dung thơ “Cảm hoài” là kiệt tác nói về nỗi lòng của bậc anh hùng trước thế sự buổi ấy
CẢM HOÀI
Đặng Dung
Việc đời bối rối tuổi già vay,
Trời đất vô cùng một cuộc say.
Bần tiện gặp thời lên cũng dễ,
Anh hùng lỡ bước ngẫm càng cay.
Vai khiêng trái đất mong phò chúa,
Giáp gột sông trời khó vạch mây.
Thù trả chưa xong đầu đã bạc,
Gươm mài bóng nguyệt biết bao rày.
Bản dịch Phan Kế Bính Sách Văn đàn bảo giám (NXB Văn học, 2004) ghi người dịch là Trần Trọng Kim.
Nguồn:
1. Phan Kế Bính, “Đại Nam nhất thống chí”, Đông Dương tạp chí, số 116
2. Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, NXB Tân Việt, 1951
3. Dương Quảng Hàm, Việt Nam văn học sử yếu, Trung tâm học liệu xuất bản, 1968
Thế sự du du nại lão hà,
Vô cùng thiên địa nhập hàm ca.
Thời lai đồ điếu thành công dị,
Vận khứ anh hùng ẩm hận đa.
Trí chúa hữu hoài phù địa trục,
Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà.
Quốc thù vị báo đầu tiên bạch,
Kỷ độ Long Tuyền đới nguyệt ma.
Nguyễn Biểu ‘cỗ đầu người’ là hào khí Đông A, chuyện bi tráng tiếp nối.
Nguyễn Biểu người làng Nội Diên, xã Bình Hồ, huyện La Giang, sau đổi thành La Sơn, tỉnh Hà Tĩnh, thi đỗ Thái Học Sinh (Tiến Sĩ) khoảng năm 1357 cuối đời nhà Trần, làm quan đến chức Điện Tiền Đô Ngự Sử, cùng thời với Đặng Dung và Nguyễn Cảnh Dị.
Khi quân Minh của Trương Phụ xâm chiếm nước ta, ông theo vua Trùng Quang mưu sự khởi nghĩa, khôi phục nhà Hậu Trần. Nhà Hậu Trần thất cơ, binh bại, sai Nguyễn Biểu đi sứ, gặp Trương Phụ xin cầu phong, cốt thực hiện kế hoãn binh, kéo dài thời gian để cho Đặng Dung và Nguyễn Cảnh Dị xây dựng binh lực. Tướng Minh Trương Phụ tiếp sứ thần rất khinh bạc, ngạo mạn, sai quân dọn ra một mâm cỗ chỉ có một cái đầu người luộc chín, ép Nguyễn Biểu ăn, cốt để thị oai. Nguyễn Biểu ung dung ngồi vào mâm, nói rằng: “Mấy thuở được ăn thịt người phương Bắc (người Tàu)!”, nói đoạn, lấy đũa khoét đôi mắt, chấm muối ăn. Vừa ăn, vừa ngâm bài thơ Cỗ đầu người khiến Trương Phụ cũng phải kính phục, toan tha cho ông về. Hàng tướng là Phan Liêu lúc ấy ton hót với Phụ rằng Nguyễn Biểu nói: “Năng sảm nhân đầu, năng sảm Phụ” (có khả năng nuốt được cỗ đầu người, tất cũng có khả năng nuốt tươi được Trương Phụ). Trương Phụ giận lắm, đưa câu ấy ra bắt ông phải đối lại. Đối được mới cho về, không đối được thì chém. Nguyễn Biểu ung dung đối lại rằng: “Hựu tồn ngô thiệt, hựu tồn Trần” (còn ba tấc lưỡi của ta, nhà Trần vẫn còn!). Trương Phụ giận lắm, đổi ý không tha nữa, lại sai cắt lưỡi của ông:
-Thử xem cắt lưỡi nó đi, nhà Trần có còn được nữa hay không???
Kế đó, Phụ sai trói ông vào chân cầu, để cho nước thuỷ triều lên cao dìm chết. Tấm gương anh hùng của Nguyễn Biểu còn chói lọi mãi đến ngàn thu. Cái chết của Nguyễn Biểu thật đau thương, nhưng oai phong của ông khiến người Minh phải khiếp đảm. Uy vũ ấy tồn tại mãi cùng thanh sử vậy.
Cỗ đầu người
Ngọc thiện trân tu đã đủ mùi
Gia hào thêm có cỗ đầu người
Nem công chả phượng còn thua béo
Thịt gấu gan lân hẳn kém tươi
Cá lối lộc minh so có một
Vật bầy thỏ thủ bội hơn mười
Kìa kìa ngon ngọt tày vai lợn
Tráng sĩ như Phàn tiếng để đời!
” với ảnh tư liệu” Hai anh em gặp nhau giữa Sài Gòn giải phóng (Hoàng Trung Trực sư 341, Hoàng Kim sư 325B); “Viếng mộ cha mẹ” “Nhớ bạn” “Mảnh đạn trong người” “Trò chuyện với thiền sư” “Trạng Trình” …
Cuộc đời và thời thế
Năm Thân con khóc chào đời
Sức sống sữa Mẹ suốt đời tình thương Nước nhà gặp cảnh tai ương Việt Nam là bãi chiến trường giao tranh Pháp Nhật Tàu tới hoành hành Chạy giặc Cha Mẹ phải đành lánh thân Người dân khổ cực muôn phần Nước nhà chiến sự, nghèo bần Mẹ Cha Trường Sơn rừng núi là nhà Rừng thiêng nước độc, ta ra chẳng thời *
(*) Ernest Hemingway (1899-1961), tác giả của kiệt tác Ông già và biển cả, Giã từ vũ khí, là một cựu quân nhân, sống trãi gần trọn đời trong chiến tranh và nghèo đói của chiến tranh thế giới thứ nhất và thứ hai, nên ông đã mô tả người như ông là thế hệ cầm súng, không hề được tận hưởng chất lượng cuộc sống, là “Thế hệ bỏ đi” (Lost Generation) của cộng đồng người Paris xa xứ; xemBorlaug và Hemingway
Tuổi thơ trong nghèo đói
Ai quyền sống được làm người
Mà dân mất nước gặp thời chua cay?
Đời Cha sự nghiệp đổi thay
Lính Tây ngày trước, thời này đánh Tây Ru ta lời Mẹ đêm ngày
Vọng theo hồn Nước tháng ngày bên Cha
Cha thì chiến đấu đường xa
Mẹ con chạy giặc, cửa nhà thì không
Nỗi niềm cuộc sống đau lòng
Bão mưa tàn phá, gió lồng không ngơi.
Gia đình nhiều nguy nan
Mẹ ta dãi nắng dầm mưa
Lo cho con có cháo dưa học hành
Giữa rừng số phận mong manh
Mẹ phải chịu bệnh hoành hành héo hon
Đời Mẹ chung thủy sắt son
Đời Cha lính chiến tuổi xuân đọa đày
Lời thề nguyên bản xưa nay
Đã là người lính không lay lòng vàng
Bệnh về chẳng chút thở than
Bao nhiêu mầm bệnh Cha mang theo về
Mẹ Cha bao gian khổ
Bệnh sốt rét thật là ghê
Gan lách phù thủng trăm bề hại Cha
Chiến tranh tan cửa nát nhà
Mình Cha xoay xở thật là gian nan
Phận con rau cháo cơ hàn
Tuổi thơ năm tháng bần hàn Mẹ Cha
Tháng ngày khoai muối dưa cà
Đời còn Cha Mẹ đậm đà tình thương
Tình Cha Mẹ, nghĩa Nước Non
Tháng ngày chăm chút vuông tròn hiếu trung.
Tuổi xuân vui lên đường
Lên đường theo lệnh tòng quân Xa nhà nỗi nhớ bội phần từ đây
Mẹ khóc nước mắt tuôn đầy
Lo con gian khổ cuộc đời chiến binh
Cha không khóc chỉ làm thinh
Tiễn con tựa cửa lặng nhìn theo con Vần xoay sự nghiệp vuông tròn
Dấu chân Cha trước, nay con theo Người
Gẫm suy mới rõ thế thời
Hoàng Trung Trực đã thành người chiến binh.
Giải phóng nước bạn Lào
(10/1963- 5/1965)
Đất Hương Khê , núi Quảng Bình
Vượt Trường Sơn vắt sức mình kiệt hao
Núi Phú Riềng, đất Lạc Xao
Nơi này ghi dấu chiến hào binh ta
Đời nhọc nhằn, thân xót xa Trĩu vai súng đạn, gạo là quanh lưng
Vượt bao đèo dốc hành quân
Liên hồi tác chiến, máu dầm mồ hôi
Lại thêm sốt rét từng hồi
Thuốc men chẳng có, tháng trời toàn măng
Chia nhau chén cháo cứu thân
Trên bom, dưới đạn, ngủ hầm, tình thâm.
Nhớ người thân đã khuất
Đêm trường thân lại xông pha
Theo chân thủ trưởng vào ra trận thù
Đạn giặc đan chéo như mưa
Đôi chân thủ trưởng đạn cưa mất rối
Trong ta tỉnh thức tình người
Cõng ngay thủ trưởng xuôi đồi chạy lui
Đêm rừng trời lại tối thui
Lạc mất phương hướng tới lui tìm đường
Quay đầu hỏi ý tình thương
Mới hay thủ trưởng tìm đường đi xa
Không hơi thở một xác ma
Làm ta thực sự xót xa một mình Người thấm mệt, phút tử sinh
Giữa rừng im ắng lặng thinh không người
Chỉ nghe tiếng thú quanh đồi Làm cho ớn lạnh khắp người của ta
Song vì cái đói không tha
Cho nên khiếp sợ theo đà mất tiêu
Trãi qua những phút hiểm nghèo
Vác xác thủ trưởng cố leo tìm đường.
Giữa rừng núi, không người thương
Còn đâu phương hướng, tai ương không người
Một tâm hồn một cuộc đời
Không gạo không lửa, giữa trời rừng xanh
Một mình tính mạng mong manh
Tình thương người lính giúp anh chí bền
Năm ngày thủ trưởng vẫn nguyên
Tìm ra đơn vị bình yên lòng mình.
Tin Mẹ mất giữa chiến trường
(xem tiếp chuỗi chiến dịch và sự kiện chính …)
VIẾNG MỘ CHA MẸ
Hoàng Trung Trực
“Dưới lớp đất này là mẹ là cha
Là khởi phát đời con từ bé bỏng
Là lời mẹ ru dịu dàng cánh võng
Là gươm đao cha một thuở đau đời.
Hành trang cho con đi bốn phương trời
Là nghĩa khí của cha, là nhân từ của mẹ
Vẫn bầu sữa tinh thần không ngừng không nghỉ
Để hành trang cho con đi tiếp cuộc đời
Cuộc đời con bươn chải bốn phương trời
Nay về lại nơi cội nguồn sinh trưởng
Dâng nén hương mà lòng hồi hồi tưởng
Thuở thiếu thời trong lồng cánh mẹ cha
“Ước hẹn anh em một lời nguyền
Thù nhà đâu sá kể truân chiên
Bao giờ đền được ơn trung hiếu
Suối vàng nhắm mắt mới nằm yên” (6)
“Không vì danh lợi đua chen
Công Cha nghĩa Mẹ quyết rèn bản thân !”
NHỚ BẠN Hoàng Trung Trực
Ngỡ như bạn vẫn đâu đây
Khói hương bảng lãng đất này bình yên
Tình đời đâu dễ nguôi quên
Những dòng máu thắm viết nên sử vàng
Trời xanh mây trắng thu sang
Mình ta đứng giữa nghĩa trang ban chiều
Nhớ bao đồng đội thương yêu
Đã nằm lòng đất thấm nhiều máu xương
Xông pha trên các chiến trường
Chiều nay ta đến thắp hương bạn mình
MẢNH ĐẠN TRONG NGƯỜI Hoàng Trung Trực
Bao nhiêu mảnh đạn gắp rồi
Vẫn còn một mảnh trong người lạ thay
Nắng mưa qua bấy nhiêu ngày
Nó nằm trong tuỹ xương này lặng câm…
Thời khói lửa đã lui dần
Tấm huân chương cũng đã dần nhạt phai
Chiến trường thay đổi sớm mai
Việt Nam nở rộ tượng đài vinh quang.
Thẳng hàng bia mộ nghĩa trang
Tên đồng đội với thời gian nhạt nhoà
Muốn nguôi quên lãng xót xa
Hát cùng dân tộc bài ca thanh bình
Thế nhưng trong tuỷ xương mình
Vẫn còn mảnh đạn cố tình vẹn nguyên
Nằm hoài nó chẳng nguôi quên
Những ngày trở tiết những đêm chuyển mùa
Đã qua điều trị ngày xưa
Nó chai lỳ với nắng mưa tháng ngày
Hoà bình đất nước đổi thay
Đêm dài thức trắng, đau này buồn ghê
Khi lên bàn tiệc hả hê
Người đời uống cả lời thề chiến tranh
Mới hay cuộc sống yên lành
Vẫn còn mảnh đạn hoành hành đời ta.
BỀN CHÍ Hoàng Trung Trực
Chỉ có chí mới giúp ta đứng vững
Và dòng thơ vực ta dậy làm người
Giờ ta hiểu vì sao Đặng Dung mài kiếm
Thơ “Thuật hoài” đau cảnh trần ai.
Cụ Nguyễn Du vì sao nén thở dài
Quan san cả trong lòng người áo gầm
Lầu Ngưng Bích vì đâu Kiều xế bóng
Khúc “Đoạn trường” dậy sóng nhớ lòng ai
Phạm Ngũ Lão sớm xuất chúng hơn người
Vì sao thành một hiền nhân trầm mặc
Ai chộn rộn đi kiếm tìm quyền lực
Để đời Ức Trai phải chịu án Lệ Chi Viên
Thương Nguyễn kim nặng lòng tri kỷ
Xoay cơ trời tạo lại nghiệp nhà Lê
Giữa sa trường phải chịu thác mưu gian
Gương trung liệt dám quên mình vì nước
Ơn Trạng Trình nhìn sâu thế nước
Miền Đằng Trong hiến kế Nguyễn Hoàng
Hoành Linh Lũy Thầy dựng nghiệp phương Nam
Đào Duy Từ người Thầy nhà Nguyễn
Sông núi này mỏi mòn cố quận
Hạnh Phúc là gì mà ta chưa hay
Ta đọc Kiều thương hàn sĩ đời nay
Còn lận đận giữa mênh mang trời đất.
Ta an viên vợ con, em trai Thầy học
Anh trai ta lưu ‘Khát vọng” ở đời
Chỉ có chí cùng niềm tin chân thật
Và dòng thơ vực ta dậy làm người
TRẠNG TRÌNH
Hoàng Trung Trực
Hiền nhân tiền bối xưa nay
Xem thường danh vọng chẳng say tham tiền
Chẳng màng quan chức uy quyền
Không hề nghĩ đến thuyết truyền duy tâm
Đức hiền lưu giữ ngàn năm
Vì Dân vì Nước khó khăn chẳng sờn
Hoàn thành sứ mạng giang sơn
Lui về ở ẩn sáng thơm muôn đời
Tầm nhìn hơn hẳn bao người
Trở thành Sấm Trạng thức thời gương soi.
TRÒ CHUYỆN VỚI THIỀN SƯ Hoàng Trung Trực
Vất bỏ ngoài tai mọi chuyện đời
Lòng không vướng bận dạ an thôi
Ráng vun đạo đức tròn nhân nghĩa
Huệ trí bùng khai tỏa sáng ngời
Lòng lộng đêm nghe tiếng mõ kinh
Bao nhiêu ham muốn bỗng an bình
Tâm tư trãi rộng ngàn thương mến
Mong cả nhân loài giữ đức tin.
Thượng Đế kỳ ba gíáo đô đời
Vô minh cố chấp tại con người
Thánh Tiên tùy hạnh tùy công đức
Ngôi vị thiêng liêng tạo bởi Người.
Vững trụ đức tin đạo chí thành
Vô cầu vô niệm bả công danh
Sớm hôm tu luyện rèn thân chí
Đạo cốt tình thương đức mới thành
Kính tặng quý thiện hữu cùng một trăn trở, ưu tư cho Đạo Pháp .
Ta rất muốn đi về trong tịch lặng.
Quẳng lại sau lưng nhân thế muộn phiền.
Lòng thao thức Đạo Đời luôn vướng nặng.
Mũ ni che tai, tâm lại hóa bình yên.
Đời chộn rộn sao còn theo chộn rộn?
Đạo hưng suy ta mất ngủ bao lần.
Đời giả huyễn thịnh suy luôn bề bộn.
Đạo mất còn ta cứ mãi trầm ngâm.
Vai này gánh cho vai kia nhẹ bớt.
Tìm tri âm ta nặng bước âm thầm.
Sợi tóc bạc trên đầu còn non nớt.
Tháng năm nào ta thấy lại nguồn tâm?
Gia Lai 10-09-2014
(**) “Đến chốn thung dung” là thơ Hoàng Kim, nhà khoa học xanh người thầy chiến sĩ quê Quảng Bình, em của Hoàng Trung Trực,
Vui đến chốn thung dung
Hoàng Kim
Người rất muốn đi về trong tịch lặng
Quẳng lại sau lưng nhân thế muộn phiền
Ta đến chốn thung dung tìm hoa lúa
Rong chơi đường trần, sống giữa thiên nhiên.
Tâm thanh thản buồn vui cùng nhân thế
Đời Đạo thịnh suy sương sớm đầu cành
Lòng hiền dịu và trái tim nhẹ nhõm
Kho báu chính mình phúc hậu an nhiên.