Số lần xem
Đang xem 1110 Toàn hệ thống 2140 Trong vòng 1 giờ qua
Trang liên kết
Tỉnh thức
giữa đêm thiêng Yên Tử
Để thấm hiểu đức Nhân Tông
Ta thành tâm đi bộ
Lên tận đỉnh chùa Đồng
Tâm sáng Ức Trai
trong tựa ngọc TÌNH YÊU CUỘC SỐNG
DẠY VÀ HỌC Để chấn hưng giáo dục Việt Nam cấp thiết phải có đội ngũ những người thầy giáo ưu tú có tâm đức thiết tha với nghề, có trình độ chuyên môn cao và có kỹ năng giảng dạy tốt. Đây là trang thông tin chuyên đề dạy và học để trao đổi và bàn luận
Norman Borlaug Lời Thầy dặn Việc chính đời người chỉ ít thôi
Chuyên tâm đừng bận chuyện trời ơi
Phúc hậu suốt đời làm việc thiện
Di sản muôn năm mãi sáng ngời.
Dạy và học viết báo cáo theo chuẩn APA (American Psychological Association), tốt cho viết báo cáo khoa học giáo dục đạt chuẩn quốc tế để có thông tin sáng tỏ hợp chủ đề và nội dung. Chuẩn APA rất thích hợp cho sự quản lý tài liệu chuyển đổi số.
Định dạng báo cáo chuẩn tạo hình thức tốt, bố cục bài viết hợp lý; Cách viết trích dẫn theo chuẩn APA ‘nói có sách mách có chứng’ tạo thói quen tốt và văn phong khoa học, tránh rắc rối pháp lý về quyền sở hữu trí tuệ; chứng minh người trích dẫn có đọc các tài liệu liên quan; tôn trọng kết quả ý tưởng của người khác; người đọc có thể nghiên cứu thêm về tài liệu được trích dẫn; để biết kết quả nào đã có rồi, tránh đầu tư trùng lặp; để minh chứng sự thật, căn cứ khoa học và thực tiễn cho nội dung cần trình bày.Bài viết này được biên soạn tích hợp từ trình bày APA phiên bản 6 và 7 do văn phòng Khoa Giáo dục, Đại học KHXH&NV TP. Hồ Chí Minh cung cấp. Chúng tôi sắp xếp lại theo ba phần để thích hợp dạy và học cho sinh viên Trường Đại học Nông Lâm TP Hồ Chí Minh
1. ĐỊNH DẠNG MỘT BÁO CÁO (FORMATING)
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TIÊU ĐỀ BÁO CÁO, THAM LUẬN
CANH GIỮA, IN ĐẬM, VIẾT HOA, TIMES NEW ROMAN, CỠ CHỮ 15
Tên tác giả
(Canh giữa in đậm, Time New Roman, cỡ chữ 13) Tên lớp MSSV/ cơ quan công tác, địa chỉ, email, in thường, cở chữ 13)
TÓM TẮT
(Canh giữa in đậm, Time New Roman, cỡ chữ 13)
Một đoạn giới thiệu về tổng quát/tầm quan trọng vấn đề nghiên cứu (1 câu), về mục đích nghiên cứu (1 câu), Phương pháp nghiên cứu và mẫu nghiên cứu (1 câu), kết quả nghiên cứu (1-2 câu). Phần tóm tắt khoảng 200-250 từ. (Canh giữa in đậm, Time New Roman, cỡ chữ 13)
Từ khóa: ghi 3-5 từ khóa, in nghiêng
Abstract tiếng Anh (tùy theo yêu cầu văn bản)
Định dạng văn bản Tiếng Việt
1.1 Lề trang giấy (margins): theo tiêu chuẩn canh lề của APA style là 2.5 cm (1 inch)
cho tất cả 4 lề của trang giấy
1.2 Phông chữ (font): phông chữ sử dụng là Times New Roman hoặc Courier, kích
cỡ luôn là 13
1.3 Khoảng cách dòng (spacing): khoảng cách giữa các dòng là 1.5
1.4 Khoảng cách đoạn (paragraph): khoảng cách giữa các đoạn là 6-pt
Định dạng văn bản Tiếng Anh
1.1 Lề trang giấy (margins): theo tiêu chuẩn canh lề của APA style là 2.5 cm (1 inch)
cho tất cả 4 lề của trang giấy
1.2 Phông chữ (font): phông chữ sử dụng là Times New Roman hoặc Courier, kích
cỡ luôn là 12
1.3 Khoảng cách dòng (spacing): sử dụng khoảng cách là 2.0 (double space).
Lưu ý:Khi sử dụng khoảng cách giữa các dòng là 2.0 thì KHÔNG CẦN phải tạo một khoảng cách giữa các đoạn với nhau trong bài viết. Nội dung bên trong bài viết định dạng theo lề trái. Dòng đầu mỗi đoạn định dạng là 5 spaces.
Cấu trúc bài viết thông thường
Mở đầu
Tổng quan tài liệu
Đối tượng, nội dung và phương pháp nghiên cứu
Kết quả và thảo luận
Kết luận và đề nghị
Lời cám ơn
Tài liệu tham khảo
Phụ lục
2. TRÍCH DẪN TRONG BÀI VIẾT (INTEXT CITATION)
Lưu ý quan trọng: Những tài liệu nào được trích dẫn trong bài viết đều phải liệt kê ở mục tài liệu tham khảo và ngược lại.
2.1 Trích dẫn tài liệu sơ cấp
Trích dẫn trực tiếp thường trích dẫn nguyên văn các khái niệm, định nghĩa hay nguyên văn ý kiến tác giả.
Nếu trích dẫn những đoạn ngắn ít hơn 40 từ phải đặt chúng trong dấu ngoặc kép “” và ghi rõ số trang.
More recently, scientists have found “significant evidence to suggest that the earth is round” (Smith, 2008, p.123)
+ Theo Nguyễn Hồng Phan (2014) giá trị nghề nghiệp là “những cái có ý nghĩa đối với hoạt động nghề nghiệp cũng như cuộc sống của chủ thể, cuốn hút họ vươn tới và thôi thúc hành động vì nó” (tr.314).
+ Nguyễn Hồng Phan (2014) nhận thấy giá trị nghề nghiệp là “những cái có ý nghĩa đối với hoạt động nghề nghiệp cũng như cuộc sống của chủ thể, cuốn hút họ vươn tới và thôi thúc hành động vì nó” (tr.314).
+ Giá trị nghề nghiệp là “những cái có ý nghĩa đối với hoạt động nghề nghiệp cũng như cuộc sống của chủ thể, cuốn hút họ vươn tới và thôi thúc hành động vì nó” (Nguyễn Hồng Phan, 2014, tr.314).
Nếu trích dẫn những đoạn dài trên 40 từ thì định dang như sau:
Theo Phan Thanh Long, Trần Quang Cấn và Nguyễn Văn Diện (2010):
Quá trình giáo dục là quá trình tác động có mục đích, tổ chức của nhà giáo dục đến đối tượng giáo dục nhằm thỏa mãn nhu cầu phát triển nhân cách riêng của mỗi học sinh và đáp ứng yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực của xã hội (tr.7).
Trích dẫn gián tiếp là sự trích ý của của tác giả nhưng đã tóm tắt lại nội dung và diễn đạt theo cách của chính mình, nhưng không làm thay đổi ý của tác giả:
+ Theo Schultz (1962), xem nhẹ tài nguyên con người là một sai lầm nghiêm trọng trong kinh tế học giáo dục.
+ Xem nhẹ tài nguyên con người là một sai lầm nghiêm trọng trong kinh tế học giáo dục (Schultz 1962).
+ Schultz (1962) nhận thấy rằng xem nhẹ tài nguyên con người là một sai lầm nghiêm trọng trong kinh tế học giáo dục.
Đối với trích dẫn từ hai tác giả trở lên thì cách trích dẫn như sau
+ Theo Nguyễn Hồng Phan (2006) và Bùi Văn Hiệp (2014) vấn đề giá trị lối sống đã được nhiều tác giả phân tích.
+ Nguyễn Hồng Phan (2006) và Bùi Văn Hiệp (2014) nhận thấy rằng vấn đề giá trị lối sống đã được nhiều tác giả phân tích.
+ Vấn đề giá trị lối sống đã được nhiều tác giả phân tích (Nguyễn Hồng Phan 2006 và Bùi Văn Hiệp 2014)
Đối với trích dẫn hai tác giả trở lên cùng viết chung một bài thì cách trích dẫn như sau
+ Theo Nguyễn Hồng Phan và Bùi Văn Hiệp (2014) vấn đề giá trị lối sống đã được nhiều tác giả phân tích.
+ Nguyễn Hồng Phan và Bùi Văn Hiệp (2014) nhận thấy rằng vấn đề giá trị lối sống đã được nhiều tác giả phân tích.
+ Vấn đề giá trị lối sống đã được nhiều tác giả phân tích (Nguyễn Hồng Phan và Bùi Văn Hiệp 2014)
Đối với những bài viết có từ ba tác giả trở lên thì cách diễn đạt
+ Theo Nguyễn Hồng Phan, Bùi Văn Hiệp, và Nguyễn Văn A (2014)
+ Nguyễn Hồng Phan, Bùi Văn Hiệp, và Nguyễn Văn A (2014) nhận thấy rằng
+ … (Nguyễn Hồng Phan, Bùi Văn Hiệp, và Nguyễn Văn A 2014).
+ Nguyễn Hồng Phan và cộng sự (2014) nhận thấy rằng … lưu ý chỉ được dùng cụm từ “cộng sự” khi trích dẫn lần thứ hai sau khi trích dẫn lần đầu đã liệt kê đầy đủ tất cả họ tên của các tác giả.
2.2 Trích dẫn thứ cấp người khác đã trích của tác giả A và mình đọc bài của người khác nhưng muốn trích ý của tác giả A đó thì được trích như sau:
Theo Phan Văn Kha Và Nguyễn Lộc (được trích dẫn bởi Bùi Chí Bình, 2014), thì nền tảng của kinh tế học giáo dục là giáo dục học và kinh tế học.
Lưu ý: số năm trong trích dẫn là số năm của tác giả trích dẫn (Bùi Chí Bình), chứ không phải của tác giả được trích dẫn. Tất nhiên, có nhiều cách diễn đạt ngoài cụm từ “Theo…” hoặc “Dẫn theo….”
2. SỬ DỤNG BẢNG, HÌNH, VIDEO CHO BÀI VIẾT
Các bảng biểu, hình ảnh và video nâng cao chất lượng bài viết, có thể có số thứ tự và được liệt kê danh sách các bảng, danh sách các hình Tên bảng đặt trên; tên hình, video đường dẫn đặt dưới của bảng, hình và video cần diễn đạt (xem hình 1).
Tài liệu tham khảo nâng cao giá trị bài viết. Lưu ý: Những tài liệu nào được trích dẫn trong bài viết đều phải liệt kê ở mục tài liệu tham khảo và ngược lại.
Bài viết bằng tiếng Việt và tiếng Anh, mỗi tài liệu tham khảo bắt đầu bằng họ tác giả. Sau đó đến tên lót và tên của tác giả. Tên lót và tên tác giả trong bài viết bằng tiếng Anh được viết tắt nhưng trong bài viết bằng tiếng Việt thì được viết đầy đủ.
Trình tự mỗi tài liệu trích dẫn được viết như sau : Số thứ tự; Họ và tên các tác giả; Năm công bố tài liệu; Tên tài liệu; Trong sách/tạp chí (in nghiêng); Nhà xuất bản; Số tạp chí; Trang; Chỉ số xuất bản phẩm.
Liệt kê tài liệu tham khảo cần phải SỐ HÓA theo trình tư ABC của họ/tên tác giả; tài liệu của cùng một tác giả thì năm công bố mới nhất xếp trên.
4. LIỆT KÊ TÀI LIỆU THAM KHẢO TRONG BÀI VIẾT BẰNG TIẾNG VIỆT
Lưu ý:
+ Phải theo thứ tự Alphabet của họ, tên lót, và tên của tác giả. Các nguồn tài liệu bằng tiếng Việt được trình bày tương đối khác với các nguồn tài liệu bằng tiếng Anh.
+ Các nguồn tài liệu bằng tiếng Anh thì được liệt kê giống như cách liệt kê trong bài viết bằng tiếng Anh.
+ Nếu nhà xuất bản Việt Nam có bản quyền xuất bản lại thì tên tác giả cũng giữ nguyên. Chỉ khác là sau tựa đề sách hoặc tên bài viết dùng dấu ngoặc vuông như sau: [tài liệu dịch]. Không dùng tên dịch giả. Dịch giả không phải là tác giả
Sách nguyên tác
Phạm Đỗ Nhật Tiến và Phạm Lan Hương. (2014). Giáo dục Việt Nam hội nhập quốc tế. Hồ Chí Minh: NXB Đại học Quốc gia TP. HCM.
Sách được biên tập lại (sách gồm các bài viết của nhiều tác giả được chính các tác giả đó hoặc/và người khác biên tập lại)
Nguyễn Hồng Phan. (2014). Lý luận về định hướng giá trị nghề nghiệp của sinh viên ngành tâm lý học. Trong Giáo dục và phát triển (Biên tập: Hoàng Mai Khanh, Nguyễn Thành Nhân, Bùi Chí Bình, Nguyễn Thúy An) (tr. 310-322). Hồ Chí Minh: NXB Đại học Quốc gia TP. HCM.
Tạp chí khoa học chuyên ngành
Lê Quang Sơn. (2010). Đào tạo giáo viên – Kinh nghiệm Cộng hòa liên bang Đức. Tạp chí Khoa học và Cộng nghệ, 5(40), tr 267-274
Nhật báo/Tạp chí in
Hồ Thiệu Hùng. (5/02/2013). Nghịch lý “Quốc sách hàng đầu”. Báo Tiền Phong
Các bài viết từ ERIC (tương tự như trong cách trích dẫn của bài viết bằng tiếng Anh. Ở trung tâm nguồn này, không có bài bằng tiếng Việt)
Trích dẫn những bài viết được đăng trong các hội thảo, hội nghị(nhưngkhông có xuất bản)
Bùi Chí Bình. (2013). Lợi thế tương đối và vốn con người trong bối cảnh toàn cầu hóa. Được trình bày tại Hội thảo Quốc tế Giáo dục Việt Nam – Đài Loan, TP. Hồ Chí Minh.
Trích dẫn những bài viết được đăng trong các luận văn, luận án sau đại học Nguyễn Thị Hảo. (2007). Thực trạng và thực nghiệm biện pháp tác động nhằm nâng cao hiệu quả Xê-mi-na tại trường ĐHKHXH&NV Tp.HCM. Luận văn thạc sỹ, Đại học Sư phạm Kỹ thuật TP. Hồ Chí Minh.
Dạy và học viết báo cáo theo chuẩn APA (American Psychological Association), tốt cho viết báo cáo khoa học giáo dục đạt chuẩn quốc tế để có thông tin sáng tỏ hợp chủ đề và nội dung. Chuẩn APA rất thích hợp cho sự quản lý tài liệu chuyển đổi số.
Định dạng báo cáo chuẩn tạo hình thức tốt, bố cục bài viết hợp lý; Cách viết trích dẫn theo chuẩn APA ‘nói có sách mách có chứng’ tạo thói quen tốt và văn phong khoa học, tránh rắc rối pháp lý về quyền sở hữu trí tuệ; chứng minh người trích dẫn có đọc các tài liệu liên quan; tôn trọng kết quả ý tưởng của người khác; người đọc có thể nghiên cứu thêm về tài liệu được trích dẫn; để biết kết quả nào đã có rồi, tránh đầu tư trùng lặp; để minh chứng sự thật, căn cứ khoa học và thực tiễn cho nội dung cần trình bày.Bài viết này được biên soạn tích hợp từ trình bày APA phiên bản 6 và 7 do văn phòng Khoa Giáo dục, Đại học KHXH&NV TP. Hồ Chí Minh cung cấp. Chúng tôi sắp xếp lại theo ba phần để thích hợp dạy và học cho sinh viên Trường Đại học Nông Lâm TP Hồ Chí Minh
1. ĐỊNH DẠNG MỘT BÁO CÁO (FORMATING)
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TIÊU ĐỀ BÁO CÁO, THAM LUẬN
CANH GIỮA, IN ĐẬM, VIẾT HOA, TIMES NEW ROMAN, CỠ CHỮ 15
Tên tác giả
(Canh giữa in đậm, Time New Roman, cỡ chữ 13) Tên lớp MSSV/ cơ quan công tác, địa chỉ, email, in thường, cở chữ 13)
TÓM TẮT
(Canh giữa in đậm, Time New Roman, cỡ chữ 13)
Một đoạn giới thiệu về tổng quát/tầm quan trọng vấn đề nghiên cứu (1 câu), về mục đích nghiên cứu (1 câu), Phương pháp nghiên cứu và mẫu nghiên cứu (1 câu), kết quả nghiên cứu (1-2 câu). Phần tóm tắt khoảng 200-250 từ. (Canh giữa in đậm, Time New Roman, cỡ chữ 13)
Từ khóa: ghi 3-5 từ khóa, in nghiêng
Abstract tiếng Anh (tùy theo yêu cầu văn bản)
Định dạng văn bản Tiếng Việt
1.1 Lề trang giấy (margins): theo tiêu chuẩn canh lề của APA style là 2.5 cm (1 inch)
cho tất cả 4 lề của trang giấy
1.2 Phông chữ (font): phông chữ sử dụng là Times New Roman hoặc Courier, kích
cỡ luôn là 13
1.3 Khoảng cách dòng (spacing): khoảng cách giữa các dòng là 1.5
1.4 Khoảng cách đoạn (paragraph): khoảng cách giữa các đoạn là 6-pt
Định dạng văn bản Tiếng Anh
1.1 Lề trang giấy (margins): theo tiêu chuẩn canh lề của APA style là 2.5 cm (1 inch)
cho tất cả 4 lề của trang giấy
1.2 Phông chữ (font): phông chữ sử dụng là Times New Roman hoặc Courier, kích
cỡ luôn là 12
1.3 Khoảng cách dòng (spacing): sử dụng khoảng cách là 2.0 (double space).
Lưu ý:Khi sử dụng khoảng cách giữa các dòng là 2.0 thì KHÔNG CẦN phải tạo một khoảng cách giữa các đoạn với nhau trong bài viết. Nội dung bên trong bài viết định dạng theo lề trái. Dòng đầu mỗi đoạn định dạng là 5 spaces.
Cấu trúc bài viết thông thường
Mở đầu
Tổng quan tài liệu
Đối tượng, nội dung và phương pháp nghiên cứu
Kết quả và thảo luận
Kết luận và đề nghị
Lời cám ơn
Tài liệu tham khảo
Phụ lục
2. TRÍCH DẪN TRONG BÀI VIẾT (INTEXT CITATION)
Lưu ý quan trọng: Những tài liệu nào được trích dẫn trong bài viết đều phải liệt kê ở mục tài liệu tham khảo và ngược lại.
2.1 Trích dẫn tài liệu sơ cấp
Trích dẫn trực tiếp thường trích dẫn nguyên văn các khái niệm, định nghĩa hay nguyên văn ý kiến tác giả.
Nếu trích dẫn những đoạn ngắn ít hơn 40 từ phải đặt chúng trong dấu ngoặc kép “” và ghi rõ số trang.
More recently, scientists have found “significant evidence to suggest that the earth is round” (Smith, 2008, p.123)
+ Theo Nguyễn Hồng Phan (2014) giá trị nghề nghiệp là “những cái có ý nghĩa đối với hoạt động nghề nghiệp cũng như cuộc sống của chủ thể, cuốn hút họ vươn tới và thôi thúc hành động vì nó” (tr.314).
+ Nguyễn Hồng Phan (2014) nhận thấy giá trị nghề nghiệp là “những cái có ý nghĩa đối với hoạt động nghề nghiệp cũng như cuộc sống của chủ thể, cuốn hút họ vươn tới và thôi thúc hành động vì nó” (tr.314).
+ Giá trị nghề nghiệp là “những cái có ý nghĩa đối với hoạt động nghề nghiệp cũng như cuộc sống của chủ thể, cuốn hút họ vươn tới và thôi thúc hành động vì nó” (Nguyễn Hồng Phan, 2014, tr.314).
Nếu trích dẫn những đoạn dài trên 40 từ thì định dang như sau:
Theo Phan Thanh Long, Trần Quang Cấn và Nguyễn Văn Diện (2010):
Quá trình giáo dục là quá trình tác động có mục đích, tổ chức của nhà giáo dục đến đối tượng giáo dục nhằm thỏa mãn nhu cầu phát triển nhân cách riêng của mỗi học sinh và đáp ứng yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực của xã hội (tr.7).
Trích dẫn gián tiếp là sự trích ý của của tác giả nhưng đã tóm tắt lại nội dung và diễn đạt theo cách của chính mình, nhưng không làm thay đổi ý của tác giả:
+ Theo Schultz (1962), xem nhẹ tài nguyên con người là một sai lầm nghiêm trọng trong kinh tế học giáo dục.
+ Xem nhẹ tài nguyên con người là một sai lầm nghiêm trọng trong kinh tế học giáo dục (Schultz 1962).
+ Schultz (1962) nhận thấy rằng xem nhẹ tài nguyên con người là một sai lầm nghiêm trọng trong kinh tế học giáo dục.
Đối với trích dẫn từ hai tác giả trở lên thì cách trích dẫn như sau
+ Theo Nguyễn Hồng Phan (2006) và Bùi Văn Hiệp (2014) vấn đề giá trị lối sống đã được nhiều tác giả phân tích.
+ Nguyễn Hồng Phan (2006) và Bùi Văn Hiệp (2014) nhận thấy rằng vấn đề giá trị lối sống đã được nhiều tác giả phân tích.
+ Vấn đề giá trị lối sống đã được nhiều tác giả phân tích (Nguyễn Hồng Phan 2006 và Bùi Văn Hiệp 2014)
Đối với trích dẫn hai tác giả trở lên cùng viết chung một bài thì cách trích dẫn như sau
+ Theo Nguyễn Hồng Phan và Bùi Văn Hiệp (2014) vấn đề giá trị lối sống đã được nhiều tác giả phân tích.
+ Nguyễn Hồng Phan và Bùi Văn Hiệp (2014) nhận thấy rằng vấn đề giá trị lối sống đã được nhiều tác giả phân tích.
+ Vấn đề giá trị lối sống đã được nhiều tác giả phân tích (Nguyễn Hồng Phan và Bùi Văn Hiệp 2014)
Đối với những bài viết có từ ba tác giả trở lên thì cách diễn đạt
+ Theo Nguyễn Hồng Phan, Bùi Văn Hiệp, và Nguyễn Văn A (2014)
+ Nguyễn Hồng Phan, Bùi Văn Hiệp, và Nguyễn Văn A (2014) nhận thấy rằng
+ … (Nguyễn Hồng Phan, Bùi Văn Hiệp, và Nguyễn Văn A 2014).
+ Nguyễn Hồng Phan và cộng sự (2014) nhận thấy rằng … lưu ý chỉ được dùng cụm từ “cộng sự” khi trích dẫn lần thứ hai sau khi trích dẫn lần đầu đã liệt kê đầy đủ tất cả họ tên của các tác giả.
2.2 Trích dẫn thứ cấp người khác đã trích của tác giả A và mình đọc bài của người khác nhưng muốn trích ý của tác giả A đó thì được trích như sau:
Theo Phan Văn Kha Và Nguyễn Lộc (được trích dẫn bởi Bùi Chí Bình, 2014), thì nền tảng của kinh tế học giáo dục là giáo dục học và kinh tế học.
Lưu ý: số năm trong trích dẫn là số năm của tác giả trích dẫn (Bùi Chí Bình), chứ không phải của tác giả được trích dẫn. Tất nhiên, có nhiều cách diễn đạt ngoài cụm từ “Theo…” hoặc “Dẫn theo….”
2. SỬ DỤNG BẢNG, HÌNH, VIDEO CHO BÀI VIẾT
Các bảng biểu, hình ảnh và video nâng cao chất lượng bài viết, có thể có số thứ tự và được liệt kê danh sách các bảng, danh sách các hình Tên bảng đặt trên; tên hình, video đường dẫn đặt dưới của bảng, hình và video cần diễn đạt (xem hình 1).
Tài liệu tham khảo nâng cao giá trị bài viết. Lưu ý: Những tài liệu nào được trích dẫn trong bài viết đều phải liệt kê ở mục tài liệu tham khảo và ngược lại.
Bài viết bằng tiếng Việt và tiếng Anh, mỗi tài liệu tham khảo bắt đầu bằng họ tác giả. Sau đó đến tên lót và tên của tác giả. Tên lót và tên tác giả trong bài viết bằng tiếng Anh được viết tắt nhưng trong bài viết bằng tiếng Việt thì được viết đầy đủ.
Trình tự mỗi tài liệu trích dẫn được viết như sau : Số thứ tự; Họ và tên các tác giả; Năm công bố tài liệu; Tên tài liệu; Trong sách/tạp chí (in nghiêng); Nhà xuất bản; Số tạp chí; Trang; Chỉ số xuất bản phẩm.
Liệt kê tài liệu tham khảo cần phải SỐ HÓA theo trình tư ABC của họ/tên tác giả; tài liệu của cùng một tác giả thì năm công bố mới nhất xếp trên.
4. LIỆT KÊ TÀI LIỆU THAM KHẢO TRONG BÀI VIẾT BẰNG TIẾNG VIỆT
Lưu ý:
+ Phải theo thứ tự Alphabet của họ, tên lót, và tên của tác giả. Các nguồn tài liệu bằng tiếng Việt được trình bày tương đối khác với các nguồn tài liệu bằng tiếng Anh.
+ Các nguồn tài liệu bằng tiếng Anh thì được liệt kê giống như cách liệt kê trong bài viết bằng tiếng Anh.
+ Nếu nhà xuất bản Việt Nam có bản quyền xuất bản lại thì tên tác giả cũng giữ nguyên. Chỉ khác là sau tựa đề sách hoặc tên bài viết dùng dấu ngoặc vuông như sau: [tài liệu dịch]. Không dùng tên dịch giả. Dịch giả không phải là tác giả
Sách nguyên tác
Phạm Đỗ Nhật Tiến và Phạm Lan Hương. (2014). Giáo dục Việt Nam hội nhập quốc tế. Hồ Chí Minh: NXB Đại học Quốc gia TP. HCM.
Sách được biên tập lại (sách gồm các bài viết của nhiều tác giả được chính các tác giả đó hoặc/và người khác biên tập lại)
Nguyễn Hồng Phan. (2014). Lý luận về định hướng giá trị nghề nghiệp của sinh viên ngành tâm lý học. Trong Giáo dục và phát triển (Biên tập: Hoàng Mai Khanh, Nguyễn Thành Nhân, Bùi Chí Bình, Nguyễn Thúy An) (tr. 310-322). Hồ Chí Minh: NXB Đại học Quốc gia TP. HCM.
Tạp chí khoa học chuyên ngành
Lê Quang Sơn. (2010). Đào tạo giáo viên – Kinh nghiệm Cộng hòa liên bang Đức. Tạp chí Khoa học và Cộng nghệ, 5(40), tr 267-274
Nhật báo/Tạp chí in
Hồ Thiệu Hùng. (5/02/2013). Nghịch lý “Quốc sách hàng đầu”. Báo Tiền Phong
Các bài viết từ ERIC (tương tự như trong cách trích dẫn của bài viết bằng tiếng Anh. Ở trung tâm nguồn này, không có bài bằng tiếng Việt)
Trích dẫn những bài viết được đăng trong các hội thảo, hội nghị(nhưngkhông có xuất bản)
Bùi Chí Bình. (2013). Lợi thế tương đối và vốn con người trong bối cảnh toàn cầu hóa. Được trình bày tại Hội thảo Quốc tế Giáo dục Việt Nam – Đài Loan, TP. Hồ Chí Minh.
Trích dẫn những bài viết được đăng trong các luận văn, luận án sau đại học Nguyễn Thị Hảo. (2007). Thực trạng và thực nghiệm biện pháp tác động nhằm nâng cao hiệu quả Xê-mi-na tại trường ĐHKHXH&NV Tp.HCM. Luận văn thạc sỹ, Đại học Sư phạm Kỹ thuật TP. Hồ Chí Minh.
#quantv#dangvanquan#CLTVN Giống sắn KM440 Tây Ninh (Cassava variety KM440 Tay Ninh), https://youtu.be/9mZHm08MskE, nông dân thường gọi là “mì tai trắng”, để phân biệt với Giống sắn chủ lực KM419 (Cassava popular variety KM419), nông dân thường gọi là “mì tai đỏ”, và Giống sắn KM94 (Cassava variety KM94), nông dân thường gọi là “mì KUC đọt tím” là giống sắn MKUC28-77-3 = KU50= KM94 được khảo nghiệm sản xuất rộng rải tại Tây Ninh năm 1994 và Bộ Nông nghiệp PTNT Việt Nam công nhận giống tiến bộ kỹ thuật đặc cách năm 1995 xem thêm https://kimyoutube.blogspot.com/2021/12/giong-san-km440-tay-ninh.html
HOA VÀ ONG HOA NGƯỜI
Hoàng Kim
Chào ngày mới ong vàng say làm mật
Mãi mê ôm nhụy nõn, sớm xuân về
Hoa nở thắm đón mừng ong cần mẫn
Đợi giao mùa kết trái để sinh sôi.
Xin chào chú chim sâu mùa cũ
Lo mà chi dù bão chớp rất gần
Chim vẫn hót và bướm vàng vẫn lượn
Thung dung đời và mãi khát khao xanh.
HOA VÀ ONG HOA NGƯỜI
Hoàng Kim
II
Dạy học mỗi ngày thật an nhiên
Hoa và ong, sách quý, bạn hiền
Nắng mới thung dung vườn cổ tích
Thanh thản an nhàn giữa tư nhiên,
ĐẾN VỚI TÂY NGUYÊN MỚI Hoàng Kim: Tôi thật tâm đắc với lời bình của tiến sĩ Nguyễn An Tiêm, cựu Phân Viện Trưởng Viện Quy Hoạch và Thiết Kế Nông Nghiệp Việt Nam, là bạn học cũ, khi anh trao đổi cùng với giáo sư Nguyễn Tử Siêm là chuyên gia khoa học đất về bài viết “Giá chúng ta giữ được Tây Nguyên như Bhutan” của nhà văn Nguyên Ngọc. Anh Tiêm nhận xét: “Vâng. Bài viết đáng để chúng ta suy nghĩ, nhất là sinh thái rừng và văn hoá Tây Nguyên. Tuy nhiên cần có cái nhìn đa chiều về bối cảnh lịch sử. Nước ta dân số đông, tốc độ tăng dân số nhanh, kinh tế kém phát triển, đói ăn, nên phải phá rừng để mở rộng đất nông nghiệp. Cái dở là không kiểm soát được quá trình đó một cách hợp lý. Theo quy luật khi nền kinh tế phát triển ở mức nào đó sẽ chuyển đất nông nghiệp sang đất rừng thiết lập hệ sinh thái mới. Quá trình này nhanh hay chậm phụ thuộc vào nhận thức của chúng ta”.
Tây Nguyên mới là một chuỗi chính sách lớn liên tục liên hoàn nhiều năm. Cụ Nguyên Ngọc cảnh báo những vấn đề “Nước mội rừng xanh và sự sống“; “Phát triển bền vững ở Tây Nguyên ” từ rất sớm, nhưng không thay đổi được, không điều chỉnh được dòng chảy của xu thế.
Ngày nay, Tây Nguyên mới đã là vùng đất đa sắc tộc, đa văn hóa, (dân số tăng lên gấp mười lần so với trước đây) theo kết quả điều tra dân số ngày 1/4/2019 dân số Tây Nguyên là 5.842.605 người (dân tộc Kinh: 3.642.726 người, chiếm 62,30%, dân tộc khác: 2.199.879 người, chiếm 37,70%). hình thành được những ngành hàng nông nghiệp quy mô lớn tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu như cà phê, hồ tiêu, cao su. Đặc biệt Cà phê Tây Nguyên nổi tiếng trên thị trường thế giới (2019 diện tích: 630,9 nghìn ha, diện tích thu hoach: 569,4 nghìn ha; năng suất: 27,8 tạ/ha, sản lượng 1,58 triệu tấn , kim ngạch xuất khẩu 2,64 tỷ USD) . Công nghiệp, nhất là chế biến nông, lâm sản từng bước phát triển, gắn kết với vùng nguyên liệu nông nghiệp hình thành chuỗi giá trị hàng hóa ngày càng phát triển. Du lịch phát triển mạnh, với trung tâm là Đà Lạt, Buôn Ma Thuột gắn với đặc sắc về tự nhiên, văn hóa đặc thù Tây Nguyên; Tài nguyên đất Tây Nguyên đa dạng, đa màu sắc với 11 nhóm đất với 33 loại loại đất. Độ phì của đất đai , đặc biệt đất đỏ ba zan đã tạo ra những giá trị đặc trưng cho hệ sinh thái nông nghiệp cao nguyên cho sự phát triển cây công nghiệp, cây ăn quả có giá trị hàng hóa quy mô lớn. Tài nguyên nước Tây Nguyên phần lớn (khoảng 80%) thuộc thượng nguồn lưu vực sông Sê San, Sê rê pôk (chảy sang Căm Pu Chia), sông Đồng Nai và sông Ba. (trong lãnh thổ Việt Nam) và gần 20% diện tích tự nhiên thuộc lưu vục sông Thu Bồn, Trà Khúc, sông Lũy, sông La Ngà … Trên địa bàn Tây Nguyên có 882 hồ chứa nước tự nhiên và 810 đập dâng nước. Tài nguyên rừng Tây Nguyên với diện tích có rừng (2019) : 2.557.322 ha, chiếm 17,95% tổng diện tích rừng cả nước (xếp thứ 3 so với các vùng) , gồm rừng tự nhiên: 2.206.975 ha, rừng trồng 350.347 ha, độ che phủ: 46,01% (đứng thứ 4 so với các vùng).
Bảo tồn và phát triển là bài toán khó, mọi thời đều phải đối mặt . Đến với Tây Nguyên mới xin mời đọc lại và suy ngẫm Tây Nguyên tầm nhìn và giải pháp, kết luận của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc tại Hội nghị xúc tiến đầu tư ở Tây Nguyên năm 2017 và hình ảnh lễ hội cà phê Buôn Ma Thuột năm 2019, bài viết trao đổi của nhà văn Nguyên Ngọc “Giá chúng ta giữ được Tây Nguyên như Bhutan” qua sự trích dẫn nguyên văn của giáo sư Nguyễn Tử Siêm chuyên gia khoa học đấtngày 30 tháng 10 Tôi cũng nói lên chút cảm nhận của mình Đến với Tây Nguyên mới và một ít hình ảnh ghi chú nhỏ (Hoàng Kim)
Đến với Tây Nguyên mới Nguyễn Bạch Mai viết:” Khai mạc Lễ hội Cà phê Buôn Ma Thuột lần thứ 7. Hy vọng Lễ hội sẽ thành công và mang lại niềm vui cho người nông dân quê tôi”. Đến với Tây Nguyên chúng ta thật vui mừng đang cùng đi trong một đội ngũ tâm huyết, thao thức một niềm tin và ước vọng. Các ngành hàng nông nghiệp Việt Nam đang chuyển đổi và vươn tới mạnh mẽ đầy sức xuân.
Tây Nguyên tầm nhìn và giải pháp
Hội nghị xúc tiến đầu tư vùng Tây Nguyên lần thứ Tư năm 2017 đã tổ chức tại thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk, ngày 11 tháng 3. Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã đến dự và chứng kiến dòng vốn đầu tư kỷ lục vào Tây Nguyên với lễ trao cam kết tín dụng đầu tư của các ngân hàng cho các dự án đầu tư, trao chứng nhận đầu tư, quyết định đầu tư, thỏa thuận đầu tư cho các dự án với tổng vốn kỷ lục hơn 100.000 tỷ đồng.
Tầm nhìn Chính phủ đối với Tây Nguyên: Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cho rằng: “Tây Nguyên có tiềm năng, thế mạnh to lớn, độc đáo nhưng chưa được khai thác tốt. Tây Nguyên không chỉ là phên dậu của Tổ quốc, mà là điểm tựa phát triển của miền Trung, Đông Nam Bộ và cả Tây Nam Bộ. Thời gian qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, chỉ đạo của Nhà nước, sự phấn đấu của cấp ủy, chính quyền 5 tỉnh Tây Nguyên, vùng đã có sự phát triển khởi sắc. Tuy nhiên, sau 40 năm giải phóng, Tây Nguyên còn tồn tại nhiều bất cập như tình trạng mất rừng, mất nguồn nước, mất nhiều cơ hội về đầu tư phát triển, đặc biệt là quy mô, hiệu quả của vùng đất tiềm năng chưa được khai thác đúng mức để phát triển và nâng cao mức sống người dân“. Trang website Thử tướng chính phủ khẳng định.
Thủ tướng chia sẻ tầm nhìn về một Tây Nguyên mới. “Đó là Tây Nguyên phải phấn đấu trở thành cao nguyên trù phú về nông nghiệp hữu cơ, đa dạng về sinh thái, giàu có về vốn văn hóa. Chìa khóa cho sự vươn lên giàu có của Tây Nguyên là phát triển ngành chế biến nông lâm nghiệp, dược liệu theo hướng đề cao bản sắc, tính độc đáo trong chuỗi giá trị nông sản thế giới. Đồng thời Tây Nguyên phải là biểu tượng nổi bật của du lịch Việt Nam, mang đậm sắc thái huyền thoại và di sản của châu Á trong thế kỷ thứ 21. Để thực hiện hóa điều đó, Tây Nguyên phải có chiến lược bền vững trong việc hồi sinh trở lại vẻ đẹp đại ngàn của một vùng đất đậm chất sử thi, phải luôn ý thức giữ gìn không gian sống, phát huy các giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể, là truyền thống, niềm tự hào thiêng liêng của các cộng đồng Ê Đê, Jrai, M’nông, Ba Na, Kinh… trong đại các gia đình các dân tộc Việt Nam anh em”.
Các giải pháp lớn đối với Tây Nguyên: Thủ tướng đã gợi mở một số giải pháp chính.
“Về du lịch, Tây Nguyên là một kho tàng văn hóa phi vật thể cùng với điều kiện tự nhiên, Chính phủ quyết tâm cùng với Tây Nguyên đưa sử thi Tây Nguyên trở thành di sản văn hóa phi vật thể của thế giới. Càng nhiều người biết đến sử thi này thì sức lan tỏa của du lịch Tây Nguyên càng lớn. Du lịch Việt Nam nói chung và du lịch Tây Nguyên nói riêng cần có chiến lược phát triển đa dạng.
Về nông nghiệp, phải hình thành những vùng chuyên canh lớn và phát triển nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp sạch, tập trung quy mô lớn, giá trị hàng hóa lớn, đặc biệt phải đi vào chế biến sâu, mở rộng chuỗi giá trị sản phẩm.
Về nguồn nhân lực, chất lượng giáo dục cơ bản ở vùng Tây Nguyên phải bằng hoặc cao hơn mức trung bình của cả nước. Tây Nguyên là nóc nhà Đông Dương, là vùng cao về địa lý thì không thể và không nên là vùng trũng giáo dục của cả nước.
Về bảo vệ, phát triển rừng, “cách đây gần một năm, cũng tại Đắk Lắk này, tôi đã tuyên bố đóng cửa rừng tự nhiên. Hôm nay, tôi tái khẳng định quyết tâm mạnh mẽ hơn nữa của Chính phủ, bảo vệ rừng là bảo vệ phần cốt lõi của an ninh, không chỉ là an ninh của vùng đất được mệnh danh là nóc nhà Đông Dương, mà là an ninh của toàn Nam Trung Bộ, Tây Nam Bộ và cả nước”, Thủ tướng nhấn mạnh.
Bảo vệ rừng là bảo vệ không gian sinh tồn, nguồn nước, sinh kế của người dân, không gian di sản của cha ông. Mọi hành vi phá rừng, khai thác lâm sản trái phép là tội ác. Tiếp tục trồng rừng, không phá rừng nghèo để trồng cây công nghiệp mà tập trung tái canh, nâng cao năng suất thông qua thâm canh các loại cây công nghiệp.
Về công nghiệp, bài toán công nghiệp cho Tây Nguyên chính là công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nâng cao hàm lượng chế biến, mở rộng chuỗi giá trị sản phẩm cây công nghiệp. Đồng ý chủ trương phát triển năng lượng tái tạo, Thủ tướng đặt vấn đề phát triển ở đâu và chỉ rõ: Ở vùng đất không thể trồng được cây gì.
Về hạ tầng, cần tránh tư tưởng làm manh mún. Cần tập trung nguồn lực, “góp gạo thổi cơm” để có công trình hạ tầng then chốt ở Tây Nguyên. Phải xã hội hóa mạnh mẽ việc phát triển hạ tầng, kể cả hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội. Thủ tướng cũng cho rằng, Tây Nguyên cần liên kết với duyên hải miền Trung, miền Đông Nam Bộ, TPHCM và các vùng có thể tiêu thụ được các sản phẩm có giá trị gia tăng cao của Tây Nguyên. Liên kết cả cơ sở hạ tầng, đặc biệt là liên kết du lịch.
Về tín dụng, khuyến khích vay tín chấp, nhất là với hộ nông dân, đồng bào dân tộc; có nhiều hình thức hỗ trợ như cấp bù lãi suất…”
Đến với Tây Nguyên mới Tôi bắt đầu ký ức bằng bài thơ Câu cá bên dòng Sêrêpôk .tôi viết tại binh trạm gần Buôn Đôn và ít năm sau, khi tôi đã về miền Đông thì đó là nơi rất gần trận Buôn Mê Thuột ngày 10 tháng 3 năm 1975, Chiến tranh Việt Nam Quân Giải phóng bắt đầu tiến đánh Buôn Ma Thuột trong Chiến dịch Tây Nguyên, và chiếm lĩnh thị xã vào hôm sau. Tôi nhớ về Cách mạng sắn ở Việt Nam thành tựu và bài học là điểm sáng toàn cầu được vinh danh tại Hội thảo Cây Có Củ Thế Giới được tổ chức tại Nam Ninh, Quảng Tây, Trung Quốc từ ngày 18 đến ngày 22 tháng 1 năm 2016 trong đó có câu chuyện sắn Miền Đông, sắn Tây Nguyên “Người lính cây sắn và tuổi thơ“.
”Nghiên cứu kỹ thuật rãi vụ sắn tại tỉnh Đăk Lắk”. Đó là câu chuyện tìm giống sắn mới và kỹ thuật rãi vụ sắn thích hợp ở Tây Nguyên. …
Dạy và học Giáo dục Văn hóa, Nông Nghiệp Việt Nam, Khoa học Cây trồng, Du lịch Sinh thái … bước khởi đầu là phải tìm hiểu con người, kế đến là thực sự sống với thiên nhiên, nghiên cứu các nét đặc trưng tiêu biểu nhất của vùng đất.
Đến với Tây Nguyên mới của chúng tôi lần ấy là Bạch Mai và sắn Tây Nguyên. Chúng tôi may gặp bạn cố hương và gặp cả những nhân vật lớn của Học viện Nông nghiệp Việt Nam cựu Hiệu trưởng GS.TS. NGND. Trần Đức Viên (2007 – 2014), tân Hiệu trưởng GS.TS. Nguyễn Thị Lan (2015 – nay) người vừa đoạt Giải thưởng Kovalevskaia 2018, TS. Lê Ngọc Báu Liên hiệp các hội KHKT tỉnh Đắk Lắk với nhiều người khác với những mẫu chuyện hay chưa kịp chép lại
“Nóc nhà Đông Dương” là nơi giao hội sinh lộ Đông Tây và sinh lộ Bắc Nam (hình), là chìa khóa vàng kinh tế xã hội quốc phòng địa chính trị văn hóa sử thi Tây Nguyên, Tôi trao đổi với GS.TS. NGND Trần Đức Viên, cũng là Thầy nghề nông chiến sĩ cựu Hiệu trưởng (2007 – 2014) Học Viện Nông nghiệp Việt Nam. Tôi đồng cảm với phát biểu của thầy Viên “Đất đai chưa mang lại yên bình và giàu có cho nông dân !” khi thầy trả lời phỏng vấn của Báo Nông nghiệp Việt Nam ngày 31/07/2019 .Thầy Viên tdvien@vnua.edu.vn nói “Anh Kim Cây Lương thực. Tôi vẫn vào FB của anh để đọc. Nhiều bài viết về Tây Nguyên rất hay. Anh có thể gửi cho tôi các bài/ ý tưởng của Anh/ và những người khác về phát triển nông nghiệp nông thôn Tây Nguyên qua địa chỉ email của tôi: Trân trọng cám ơn anh”.
“GIÁ CHÚNG TA GIỮ ĐƯỢC TÂY NGUYÊN NHƯ BHUTAN”
Nguyên Ngọc
Tôi lên Tây Nguyên lần đầu năm 1950 và đến nay đã trải qua 66 năm gắn bó với mảnh đất này. Nơi đây không chỉ cứu sống và nuôi dưỡng tôi qua hai cuộc kháng chiến mà còn dạy tôi nhiều điều về minh triết trong cuộc sống. Tây Nguyên rất đặc biệt, nhưng cũng rất đáng lo. Tôi mong mọi người hãy nghĩ, hãy đến Tây Nguyên và làm gì đó để cứu mảnh đất này.
Nói đến Tây Nguyên là nói đến rừng và làng. UNESCO đã rất tinh tế nhận ra khi công nhận di sản văn hóa thế giới của Tây Nguyên, không phải là cồng chiêng, cũng không phải là âm nhạc cồng chiêng, mà là không gian văn hóa cồng chiêng, tức không gian làng, với rừng của làng. Rừng và làng chính là không gian văn hóa của Tây Nguyên. Không còn hai yêu tố này, sẽ không còn văn hóa Tây Nguyên, hoặc nếu có, cũng không còn là văn hóa thật. Thế nhưng vấn đề quan trọng nhất hiện nay ở Tây Nguyên là sự đổ vỡ của các làng và rừng thì bị tàn phá. Rừng tự nhiên đến nay đã không còn nữa. Một số bị thay thế bởi cây công nghiệp như cà phê, cao su. Người ta gọi những mảnh đất rộng trồng cao su là rừng cao su. Nhưng nói đến rừng là nói đến tính đa tầng, độ che phủ; là nói đến yếu tố giữ nước. Cao su, rễ cọc, không giữ nước được nên hiểu theo nghĩa tự nhiên, cao su không được gọi là rừng. Rừng tạp mất đi, độ che phủ không còn và rồi Tây Nguyên sẽ mọc lên những rừng gai thấp lúp xúp. Chúng ta sẽ để lại cho con cháu những rừng gai lúp xúp? Chúng ta có muốn như vậy không?. Để khôi phục rừng Tây Nguyên, chúng ta phải trồng lại rừng, tạo rừng đa tạp. Có người hỏi tôi mất bao lâu? Tôi cho rằng chúng ta phải thực hiện trong 100 năm. Gì mà nhiều vậy? Thử nghĩ xem, 41 năm qua, mình đã khai thác rừng cạn kiệt mà. Giờ phải kiên trì trồng lại, cắn răng mà làm và 100 năm là không nhiều. Nếu không có rừng thì không còn Tây Nguyên đâu.
Chúng ta cần phải cứu Tây Nguyên. Đây là một tấm gương về nông nghiệp sinh thái, phụng dưỡng đất đai. Tôi bảo người Tây Nguyên là những nông dân Mansanobu Fukuoka. Họ làm nông nghiệp giống hệt như người cha đẻ của “Cuộc cách mạng một cọng rơm”, không hóa chất, không thuốc trừ sâu với phương pháp chọc tỉa. Người chồng đi trước, dùng cây gậy chọc xuống đất, người vợ theo sau, tỉa hạt rồi dùng chân lấp đất lại. Họ rất tin đất đủ sức mạnh nuôi cây trồng. Họ không làm lười đất bằng phân bón.
Trước đây, dân số Tây Nguyên không nhiều. Với đất nước, họ là dân tộc thiểu số nhưng trên mảnh đất Tây Nguyên, họ chính là đa số tuyệt đối. Mỗi gia đình có 10-20 rẫy. Mỗi rẫy họ trồng 3-4 năm, đất bạc màu thì chuyển qua rẫy khác. Lúc đầu chúng tôi gọi là luân canh, nhưng luân canh dễ gây hiểu nhầm rằng trồng cây này rồi chuyển sang cây khác. Do vậy, sau, chúng tôi gọi là luân khoảnh. Lưu ý, họ luân khoảnh chứ không du canh du cư như ta từng nghĩ.Trong tư duy người Tây Nguyên, đất chính là rừng và rừng chính là đất. Đất rẫy là khoảnh đất mà con người ở đây mượn của rừng, làm rẫy, rồi trả lại cho rừng. Rừng mạnh lắm, sẽ lấn lại ngay. Người Kinh thấy rừng là gỗ, còn người dân tộc thấy rừng là Mẹ, là cội nguồn sự sống, là tôn trọng, là phụng dưỡng. Đây cũng chính là bài học tôn trọng tự nhiên và sống khiêm nhường giữa trời đất.
Sau năm 1975, chúng ta thực hiện một cuộc đại di dân và dân số Tây Nguyên tăng gấp 5,5 lần, đến nay người Kinh chiếm 80% dân số tại đây và người dân tộc, từ tuyệt đại đa số, trở thành thiểu số trên chính mảnh đất xưa nay họ sinh sống. Đi kèm với di dân là chính sách quốc hữu hóa đất đai. Người dân tộc mất đất, trước họ có 10-20 rẫy, nay còn một, làm một thời gian, bạc màu, đâu còn đất để luân khoảnh, họ bán rẻ lại cho người Kinh, thậm chí cho không qua một cuộc rượu. Người dân tộc mất đất, bị đẩy sâu vào rừng, rồi sinh ra phá rừng và bắt đầu du canh du cư. Cấu trúc làng xã bị phá vỡ. Rừng bị tàn phá.
Các tộc người Tây Nguyên cũng rất văn minh. Với họ, loạn luân được xem là tội nặng nhất vì làm ô uế tinh thần của làng. Họ đặt tinh thần cao hơn vật chất trong đời sống của họ. Như vậy không văn minh sao?. Họ có một nền văn minh rất đặc biệt mà người Kinh nên tôn trọng, học tập. Ngay từ năm 1937, hai anh em Nguyễn Kinh Chi và Nguyễn Đổng Chi, qua tác phẩm Mọi Kontum đã viết, “Người Bahnar có những điều tốt hơn hơn chúng ta rất nhiều”.
Xin nói qua từ mọi. Lâu nay chúng ta hiểu sai từ mọi và càng sai khi dùng từ mọi rợ theo nghĩa khinh miệt để chỉ các tộc người Tây Nguyên.
Thật ra, từ mọi vốn ban đầu không hề có ý nghĩa xấu. Nó bắt nguồn từ từ tơmoi trong tiếng Bahnar, có nghĩa là khách đến thăm nhà mình; hoặc khách mời từ một làng khác đến; hoặc kẻ thù hoặc người ngoại quốc theo từ điển Bahnar – Pháp của Guilleminet. Những người phương Tây đầu tiên lên Tây Nguyên là các linh mục Thiên chúa giáo. Họ đến được vùng người Bahnar ở Kon Tum, lập xứ đạo Kon Tum, là xứ đạo Thiên chúa giáo đầu tiên tại đây, đến nay vẫn là xứ đạo Thiên chúa lớn nhất và quan trọng nhất ở Tây Nguyên. Bấy giờ những người Bahanr Kon Tum đến gặp các nhà truyền giáo thường xưng là tơmoi, là khách. Các nhà truyền giáo lại hiểu rằng đấy là họ tự giới thiệu tên tộc người của họ. Về sau dần dần tiền tố tơ bị rớt đi, còn lại moi, moi nghiễm nhiên trở thành tên gọi người bản địa. Người Pháp gọi là moi, người Việt gọi là mọi, hoàn toàn là một danh xưng.
Nói tiếp chuyện văn minh. Tôi lấy ví dụ về nghệ thuật. Trong nghệ thuật Tây Nguyên, tượng nhà mồ Tây Nguyên là những tác phẩm đẹp tuyệt vời. Họ làm rồi bỏ hoang và để mưa gió tàn phá.Tôi từng thấy một bức tượng gỗ tuyệt đẹp. Hỏi dò thì biết một thanh niên kia làm. Trong chờ bữa rượu, tôi hỏi chàng thanh niên đó xem ở nhà còn bức tượng tương tự nào không. Đột nhiên anh ta nổi giận: “Nói tầm bậy”. Và những thanh niên trong xung quanh cũng bày tỏ thái độ như vậy. Sau, tôi được anh Núp, một người bạn của tôi ở Tây Nguyên giải thích rằng với họ, làm nghệ thuật không phải để ngắm hay để bán mà làm vì có cái gì đó thôi thúc trong lòng, cần làm để bày tỏ lòng ngưỡng mộ với thần linh. Họ thăng hoa trong quá trình làm ra tác phẩm chứ không phải lúc tác phẩm hoàn thành. Tôi chia sẻ điều này với một người bạn học nghệ thuật ở Frankfurt – Đức và cô rất ngạc nhiên bởi nó giống như quan điểm của nghệ thuật đương đại, tức nghệ thuật là con đường chứ không phải đích đến. Cô bạn lên Tây Nguyên khám phá rồi mời vị giáo sư của mình bên Đức sang. Vị giáo sư sang xong rồi lại dẫn cả lớp của ông ấy sang.
Sau năm 1975, giá như chúng ta dũng cảm giữ Tây Nguyên như một Bhutan thì thật tốt. Chúng ta sẽ có một tấm gương để học cách sống sao cho có hạnh phúc, sống thế nào để khiêm nhường với trời đất. Ngày xưa người nông dân không dám làm điều ác, họ sợ thất đức. Ngày ngay, xã hội không còn khái niệm về thất đức nữa. Người nông dân, những người bình thường nhất, đã không còn sợ cái ác, không còn sợ làm điều ác. Và đây là điều đáng sợ nhất. Con người, ở giữa đất trời, sống vô thần và không biết đến trời đất thì nguy hiểm quá.
Nay tôi đã 84 tuổi, tính tuổi ta thì 85 Những năm cuối đời, tôi sẽ viết để kể với mọi người về một nền văn minh ở Tây Nguyên, rằng chúng ta có một nền văn minh như thế. Tôi sẵn lòng đi chia sẻ để nói tất cả mọi điều về Tây Nguyên. Tôi mong khơi gợi trong các bạn lòng ham muốn hiểu về Tây Nguyên và tìm được người kế tục để sau cùng có thể cùng chung sức cứu được Tây Nguyên./.
ĐẾN VỚI TÂY NGUYÊNMỚI Hoàng Kim
Đến với Tây Nguyên mới
Thăm lại chiến trường xưa
Đất khoai sắn nuôi người
Sử thi vùng huyền thoại.
Vầng đá chốn đại ngàn
Rượu cần nơi bản vắng
Câu cá bên dòng Sêrêpôk
Tắm tiên Chư Jang Sin
Thương Kim Thiết Vũ Môn
Nhớ người hiền một thuở
Hồ Lắk Đình Lạc Giao
Biển Hồ Chùa Bửu Minh