Số lần xem
Đang xem 1605 Toàn hệ thống 2544 Trong vòng 1 giờ qua
Trang liên kết
Tỉnh thức
giữa đêm thiêng Yên Tử
Để thấm hiểu đức Nhân Tông
Ta thành tâm đi bộ
Lên tận đỉnh chùa Đồng
Tâm sáng Ức Trai
trong tựa ngọc TÌNH YÊU CUỘC SỐNG
DẠY VÀ HỌC Để chấn hưng giáo dục Việt Nam cấp thiết phải có đội ngũ những người thầy giáo ưu tú có tâm đức thiết tha với nghề, có trình độ chuyên môn cao và có kỹ năng giảng dạy tốt. Đây là trang thông tin chuyên đề dạy và học để trao đổi và bàn luận
Norman Borlaug Lời Thầy dặn Việc chính đời người chỉ ít thôi
Chuyên tâm đừng bận chuyện trời ơi
Phúc hậu suốt đời làm việc thiện
Di sản muôn năm mãi sáng ngời.
* Việt Nam con đường xanh NÔNG NGHIỆP CÔNG NGHỆ CAO
Hoàng Long, Nguyễn Văn Phu,Nguyễn Thị Trúc Mai, Hoàng Kim thu thập,tuyển chọn, đúc kết thông tin, tích hợp và giới thiệu
Việt Nam con đường xanh, Nông nghiệp công nghệ cao bài viết kỳ này giới thiệu Định hướng chiến lược quốc gia, phương hướng nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế xã hội 2021-2030 (* Đảng Cộng Sản Việt Nam 2020, Dự thảo các văn kiện trình đại hội Đảng XIII của Đảng) xác định 10 giải pháp cơ bản; 5 nhóm hệ thống giải pháp chính để đảm bảo phát huy hiệu quả giá trị của khối 13 sản phẩm chủ lực nông nghiệp Việt Nam nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân lao động. Ba trụ cột cốt lõi của một quốc gia là cân đối hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế, bảo vệ môi trường và thực hiện tiến bộ công bằng xã hội.theo kết luận của Hội nghị thượng đỉnh toàn cầu về Phát triển bền vững tại Cộng hòa Nam Phi năm 2002 với Định hướng và tầm nhìn Việt Nam con đường xanh. Năm bài viết chọn lọc, gồm: 1) Nông nghiệp hữu cơ hiện trạng và giải pháp nghiên cứu phát triển của tác giả PGS..TS Nguyễn Văn Bộ, TS Ngô Doãn Đảm 2) Đào tạo nguồn nhân lực và nghiên cứu khoa học ứng dụng phục vụ phát triển nông nghiệp công nghệ cao và công nghệ thực phẩm tại Trường Đại học Văn Lang” của tác giả PGS.TS Phan Phước Hiền và TS Châu Tấn Phát, 3) “Nghiên cừu ứng dụng công nghệ sinh học cho phát triển nông nghiệp công nghệ cao” của PGS.TS. Dương Hoa Xô, Trung Tâm Công nghệ Sinh học TP. HCM; 4) Một số thông tin chọn lọc điểm sáng nông nghiệp nông dân nông thôn nông nghiệp công nghệ cao; 5) Chọn giống sắn kháng CMD hiện trạng và triển vọng
Bác Hồ nói: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành“. Việt Nam con đường xanh cốt lõi là an dân với năm yếu tố: An sinh xã hội; An tâm; An lạc; An toàn; An ninh.
Định hướng chiến lược quốc gia, phương hướng nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế xã hội 2021-2030xác định 10 giải pháp cơ bản: (* Đảng Cộng Sản Việt Nam 2020, Dự thảo các văn kiện trình đại hội Đảng XIII của Đảng)
1) Tập trung hoàn thiện nâng cao chất lượng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, giải quyết tốt hơn quan hệ giữa Nhà nước và thị trường.
2) Phát triển mạnh mẽ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo nhằm tạo bứt phá nâng cao năng suất, chất lượng hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế;
3) Phát triển nguồn nhân lực, giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu nhân lực chất lượng cao của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế;
4) Đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, bảo đảm thực chất, hiệu quả; phát triển nền kinh tế số; thúc đẩy tăng trưởng nhanh, bền vững trên cơ sở ổn định kinh tế vĩ mô;
5) Phát triển kết cấu hạ tầng, kinh tế vùng, kinh tế biển, lấy các đô thi làm động lực phát triển vùng và đẩy mạnh xây dựng nông thôn mới;
6) Phát triển văn hóa, xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; không ngừng nâng cao đời sống vật chất tinh thần của nhân dân;
7) Quản lý và sử dụng hiệu quả tài nguyên; tăng cường bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu; phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai;
8) Củng cố, tăng cường quốc phóng, bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia;
9) Nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại, hội nhập và vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế;
10) Tiếp tục xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động; đẩy mạnh phòng chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, tạo đột phá trong cải cách hành chính.
13 sản phẩm nông nghiệp chủ lực quốc gia đã được xác định bởi Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tại Thông tư số 37 /2018/TT /BNNPTNT ngày 25/12/2018 gồm Gạo, Cà phê, Cao su, Điều, Hồ tiêu, Chè, Rau Quả, Sắn và sản phẩm từ sắn, Thịt lợn, Thịt và trứng gia cầm, Cá tra, Tôm, Gỗ và sản phẩm từ gỗ.
5 nhóm giải pháp chính phương hướng nhiệm vụ giải pháp nông nghiệp 2021- 2030 để đảm bảo 13 khối sản phẩm nông nghiệp chủ lực phát huy hiệu quả giá trị, nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân lao động Việt Nam cần tổ chức điều hành thật tốt :
1) Nông sản Việt 13 ngành hàng chủ lực kết nối mạnh mẽ với thị trường thế giới, xác định lợi thế so sánh và hệ thống giải pháp bảo tồn phát triển bền vững, hiệu quả khoa học công nghệ, kinh tế an sinh xã hội môi trường và vị thế quan trọng của từng ngành hàng. Nâng cao hiệu quả, hiệu lực hợp tác đầu tư nước ngoài có trọng tâm, trọng điểm, có chọn lọc, ưu tiên các dự án có công nghệ tiên tiến, công nghệ mới, công nghệ cao, quản trị hiện đại, năng lực đổi mới sáng tạo, kết nối Nông sản Việt đạt lợi thế cạnh tranh cao trong chuỗi cung ứng toàn cầu, có tác động lan tỏa, kết nối chặt chẽ hữu cơ với khu vực kinh tế trong nước. Đổi mới và phát triển các hình thức tổ chức sản xuất phù hợp, hiệu quả, đẩy mạnh hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ nông sản, kết nối với hệ thống tiêu thụ toàn cầu. Phát triển mạnh doanh nghiệp nông nghiệp, hổ trợ, khuyến khích phát triển kinh tế trang trại, hợp tác xã nông nghiệp và các tổ hợp tác. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nông nghiệp.
2) Phát triển mạnh nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, sạch, nông nghiệp hữu cơ, đạt tiêu chuẩn phổ biến về an toàn thực phẩm. Đổi mới chính sách quản lý và sử dụng đất trồng lúa, hàng năm sản xuất khoảng 35 triệu tấn lúa làm nòng cốt bảo đảm an ninh lương thực quốc gia, thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng phù hợp với lợi thế và nhu cầu thị trường, tăng khả năng chống chịu, thích ứng của nông dân với biến đổi khí hậu từng vùng, miền, hình thành các vùng sản xuất hàng hóa tập trung, ổn định. Tổ chức kết nối nông nghiệp với công nghiệp chế biến, thị trường xuất khẩu, chuỗi giá trị toàn cầu.
3) Phát triển chăn nuôi công nghiệp ứng dụng công nghệ cao, khuyến khích phát triển chăn nuôi trang trại, gia trại hiệu quả cao, thân thiện với môi trường. Phát triển nuôi trồng thủy sản cá trên biển và mặt nước nội địa theo hướng công nghiệp, quảng canh cải tiến , sinh thái, nâng cao hiệu quả khai thác xa bờ , phát triển đánh bắt hải dương. Thực hiện đồng bộ các giải pháp bảo vệ và phát triển nguồn lợi hải sản;
4) Quản lý chặt chẽ, bảo vệ và phục hồi rừng tự nhiên gắn với bảo tồn đa dạng sinh học, bảo vệ cảnh quan, môi trường sinh thái. Phát triển mạnh và nâng cao chất lượng rừng trồng, nhất là rừng đặc dụng, rừng phòng hộ đầu, rừng phòng hộ ven biển. Chú trọng phát triển trồng rừng gỗ lớn, nâng cao hiệu quả rừng trồng, lâm đặc sản, đáp ứng cơ bản nhu cầu lâm sản trong nước làm nguyên liệu chế biến xuất khẩu. Tăng cường sự tham gia của cộng đồng vào các chuỗi giá trị lâm nghiệp.
5) Đẩy mạnh xây dựng nông thôn mới và quản lý sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên; tăng cường bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai. Đẩy mạnh hợp tác với các quốc gia thượng nguồn và các tổ chức quốc tế trong việc bảo vệ và sử dụng có hiệu quả tài nguyên nước ở lưu vực các dòng sông xuyên biên giới, nhất là sông Mê Công và sông Hồng. Nâng cao tính chống chịu và thích ứng biến đổi khí hậu của hệ thống kết cấu hạ tầng và của nền kinh tế Việt Nam, thực hiện các giải pháp thông minh để thích ứng trong nông nghiệp, thủy sản và phát triển rừng. Giảm thiểu những rũi ro do biến đổi khí hậu gây ra, đặc biệt là xâm nhập mặn, sạt lở tại Đồng Bằng Sông Cửu Long, an toàn lụt và môi sinh tại Hà Nội và vùng Đồng Bằng Sông Hồng khô hạn tại Tây Nguyên, Nam Trung Bộ,Bắc Trung Bộ Bảo vệ an ninh nguồn nước, tăng cường quản lý và khai thác, sử dụng hiệu quả, tiết kiệm nguồn nước theo lưu vực sông, ngăn chặn suy giảm tài nguyên nước, tích nước điều tiết nguồn nước hợp lý phục vụ phát triển kinh tế xã hội. Quản lý chặt chẽ và nâng cao hiệu lực quản lý, hiệu quả sử dụng các nguồn lực tài nguyên, nhất là đất, nước khoáng sản, theo nguyên tắc thị trường. Phát triển thị trường, đẩy mạnh thương mại hóa quyền sử dụng đất, tăng cường đăng ký quyền sử dụng đất và áp dụng định giá đất theo thị trường, bảo đảm công khai, minh bạch. Phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn, mạng lướí các dự án hạ tầng trọng điểm quốc gia kết nối đồng bộ với các khu vực nông phẩm hàng hóa chính và khu đô thị, khu công nghiệp, cảng biển; Kết nối xây dựng nông thôn mới với kinh tế vùng, kinh tế biển, đào tạo nguồn lực nông nghiệp, cải tiến nâng cấp hệ thống hóa dữ liệu thông tin nông nghiệp nông dân nông thôn đáp ứng phù hợp với thời đại mới. Tiếp tục thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới theo hướng gắn với đô thị hóa, thực chất và đi vào chiều sâu hiệu quả bền vững, lấy cư dân nông thôn làm chủ thể, tạo sự chuyển biến tích cực rõ rệt về nếp sống mới ở nông thôn; xây dựng nông thôn mới kiểu mẫu, nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới cấp thôn bản. Thu hút mạnh mẽ các doanh nghiệp đầu tư vào khu vực nông thôn để tổ chức và nâng cao chuỗi gía trị “mỗi xã một sản phẩm” gắn với thương hiệu, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiêu thụ sản phẩm. Chú trọng xây dựng cảnh quan sinh thái môi trường làng xã Việt xanh sạch đẹp tiến bộ an lành
Ba trụ cột cốt lõi của một quốc gia là cân đối hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế, bảo vệ môi trường và thực hiện tiến bộ công bằng xã hội.theo kết luận của Hội nghị thượng đỉnh toàn cầu về Phát triển bền vững tại Johannesburg (Cộng hòa Nam Phi) năm 2002.
Bảo vệ an toàn môi trường sống và nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân lao động Việt Nam là một trong ba trụ cột cốt lõi của chính sách quốc gia. Bảo vệ an toàn thức ăn, đất, nước, không khí và môi sinh là luật sống. Nguyên tắc cơ bản là: Ai gây ô nhiễm môi trường phải trả chi phí để xử lý khắc phục hậu quả, cải tạo và phục hồi. Thực thi chế tài và xử phạt nghiêm về vi phạm môi trường là quốc sách.
Tăng cường giám sát, công khai đầy đủ, kịp thời thông tin và nâng cao chất lượng môi trường, sự an toàn về thức ăn, đất nước, không khí và môi sinh ở các đô thị và vùng dân cư. Xử lý dứt điểm các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Cải thiện rõ rệt tình trạng ô nhiễm môi trường, ở các cụm công nghiệp, làng nghề, lưu vực sông, khu vực nông thôn. Kiểm soát chặt chẽ các dự án khai thác tài nguyên, chủ động phát hiện và xử lý nghiêm các vi phạm gây ô nhiễm môi trường. Ngăn chặn suy thoái môi trường. Tối ưu hóa các mục đích sử dụng đất nông nghiệp. Đẩy mạnh hợp tác với các quốc gia thượng nguồn và các tổ chức quốc tế trong việc bảo vệ và sử dụng có hiệu quả tài nguyên nước ở lưu vực các dòng sông xuyên biên giới, nhất là sông Mê Công và sông Hồng.
Việt Nam con đường xanh, thông tin đúc kết này là chọn lọc trích dẫn phù hợp với tư tưởng chỉ đạo của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Định hướng và tầm nhìn này nhấn mạnh
1) Phải phát triển hài hòa ba trụ cột “Không đánh đổi môi trường với tăng trưởng kinh tế”; “Không thể vì nghèo mà hy sinh môi trường và sức khỏe người dân”
2) Vai trò kiến tạo của Nhà nước là quyết định;
3) Vai trò của người dân lao động và cộng đồng xã hội là không thể thiếu.
Việt Nam ngày nay nhấn mạnh sự diệt trừ tham nhũng và đề cao vai trò kiến tạo của Nhà nước là quyết định. Việt Nam là nước văn hiến có truyền thống “bầu ơi thương lấy bí cùng” và kinh nghiệm làm chủ tập thể, cũng đã vận dụng thành công “chính sách cộng sản thời chiến” biết thắt lưng buộc bụng đầu tư trong điểm.
NÔNG NGHIỆP HỮU CƠ: HIỆN TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NGHIÊN CỨU PHÁT TRIỂN Nguyễn Văn Bộ, Ngô Doãn Đảm
ĐẶT VẤN ĐỀ
Nông nghiệp hữu cơ là một hệ thống canh tác đã gây nên sự chú ý ngày càng tăng ở nhiều quốc gia trong 2 thập kỷ qua, nhất là các nước phát triển, khi mà áp lực về lương thực giảm đi, song áp lực về vệ sinh an toàn thực phẩm, chất lượng nông sản và môi trường lại tăng lên. Nhiều nước ở châu Âu, Bắc Mỹ, châu Đại dương đã khuyến khích nông dân áp dụng nông nghiệp hữu cơ. Tuy nhiên ở nhiều quốc gia khác, nông nghiệp hữu cơ là câu chuyện còn rất mới mẻ, khái niệm về loại hình canh tác này được hiểu rất khác nhau. Với Việt Nam điều này cũng không là ngoại lệ. Hiện tại có rất nhiều định nghĩa khác nhau về nông nghiệp hữu cơ. Phần lớn các nhà khoa học đều hiểu nông nghiệp hữu cơ là một nền nông nghiệp không sử dụng hóa chất, các nguồn hữu cơ được tái sử dụng một cách triệt để. Theo khái niệm này, trong suốt quá trình sản xuất chỉ được phép sửdụng phân bón hữu cơ, làm cỏ bằng tay hoặc cơ giới và phòng trừ sâu bệnh bằng biện pháp sinh học. Gần đây, nông nghiệp hữu cơ còn không chấp nhận việc gieo trồng các cây đã biến đổi gene.
Tuy nhiên, bản chất của bất kỳ một nền sản xuất nào cũng phải gắn với năng suất, chất lượng của sản phẩm cuối cùng và tính bền vững của môi trường. Cùng với sự phát triển của khoa học, khi mà kiến thức con người đã dần chi phối được các qui luật của tự nhiên thì khái niệm hữu cơ cũng được hiểu theo nghĩa rộng hơn, tổng hợp hơn. Xem xét bản chất của quá trình sử dụng dinh dưỡng của cây trồng chúng ta thấy rằng, chất dinh dưỡng dù sử dụng ở bất kỳ dạng nào, hữu cơ hay vô cơ thì chúng đều phải trải qua một quá trình chuyển hóa về dạng ion (anion hoặc cation) trước khi được cây trồng hấp phụ. Thêm nữa, chất lượng nông sản không hoàn toàn phụ thuộc vào dạng phân bón sử dụng mà lại phụ thuộc vào liều lượng, chủng loại, tỉ lệ, phương pháp và thời kỳ bón cho cây trồng. Với thuốc bảo vệ thực vật là loại chế phẩm không hoặc ít độc hại, thời gian phân hủy ngắn… và phải đảm bảo thời gian cách ly. Như vậy, sản phẩm sạch đáp ứng yêu cầu về vệ sinh an toàn thực phẩm không hoàn toàn không có chứa các yếu tố độc hại mà là sản phẩm có hàm lượng các chất độc hại dưới ngưỡng cho phép theo tiêu chuẩn quốc gia hay quốc tế.
Xuất phát từ những lý do trên, theo chúng tôi, nông nghiệp hữu cơ là một hệ thống sản xuất cho phép khai thác tối ưu các nguồn tài nguyên như đất, năng lượng, các chất dinh dưỡng, các quá trình sinh học diễn ra trong tự nhiên với một phương pháp quản lý hợp lý nhất nhằm mục đích tạo ra sản phẩm đáp ứng yêu cầu về vệ sinh an toàn thực phẩm, đồng thời cũng đảm bảo cho hệ thống sản xuất bền vững về môi trường, xã hội và kinh tế. Theo định nghĩa này thì nông nghiệp hữu cơcòn có thể hiểu là nông nghiệp sinh thái. Như vậy, thuật ngữ“hữu cơ” không chỉ đề cập đến dạng dinh dưỡng cung cấp cho cây trồng mà được mở rộng ra như là một quan điểm, trong đó tính bền vững là hạt nhân.
Theo Dumanski, nhà thổ nhưỡng học thì “sự bền vững để lại cho các thế hệ tương lai ít nhất là những cơ hội như chúng ta đang có”. Đây là quan điểm rất thực tiễn, đảm bảo tổng tài sản ở 4 dạng (tài sản thiên nhiên, tài sản do con người làm ra, bản thân con người và xã hội) luôn được bảo toàn trong suốt quá trình phát triển. Thật tiếc, chúng ta đã và đang khai thác triệt để tài nguyên, gần như không cớ cơ hội cho thế hệ sau.
Còn theo N.H. Lampkin (1994) thì: “Canh tác hữu cơ là một phương pháp tiếp cận với nông nghiệp nhằm mục tiêu tạo lập hệ thống sản xuất nông nghiệp tổng hợp, bền vững về môi trường, kinh tế và nhân văn; cho phép khai thác tối đa nguồn tài nguyên có thể tái tạo được cũng như quản lý các quá trình sinh thái cùng với sự tác động qua lại của chúng để đảm bảo năng suất cây trồng, vật nuôi và dinh dưỡng cho con người ở mức chấp nhận được đồng thời bảo vệ chúng khỏi sâu, bệnh”.
HIỆN TRẠNG SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP HỮU CƠ TRÊN THẾ GIỚI
Theo số liệu công bố năm 2012 (FiBL và IFOAM, 2012) [7] của Viện Nghiên cứu và Truyền thông nông nghiệp hữu cơ (Communication, Research Instituteof Organic Agriculture FiBL) và Hiệp hội nông nghiệp hữu cơ Quốc tế (International Federation of Organic Agriculture Movements IFOAM), hiện trạng sản xuất và thương mại sản phẩm nông nghiệp hữu cơ toàn cầu như sau; xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/viet-nam-con-duong-xanh/
BÀI THƠ VIÊN ĐÁ THỜI GIAN
Hoàng Kim
Anh Phan Chí Thắng từ Hà Nội đã tìm đến thăm chúng tôi ở Trảng Bom Đồng Nai, sau đó hai anh em đi xe đò tìm về thăm những người bạn ở góc khuất Đức Linh. Hoàng Kim đã nối vần thơ anh Phan Chí Thắng và chép lại bài thơ viên đá thời gian: ” Hình như gặp lại mới hương / Ngựa già máng cỏ nhớ đường cỏ hoa / Ta tìm gặp bạn đường xa/ Tưởng là thăm bạn hoá ra thăm mình/ . Đêm dài xoè một bình minh / Hoa NgườiHoa ĐấtÂn tìnhSớm Xuân. Bài đồng dao huyền thoại này được lưu lại
1
Bài thơ viên đá thời gian gọi
Một tiếng kêu vang dội thấu trời
Tháng năm thoáng chốc nhìn trở lại
Hạc tùng thảng thốt nắng lên hơi
2
Đầu xuân gặp bạn thật mừng vui
Rượu ngọt trà thơm sóng sánh mời
NƯỚC suối ban mai trong tựa ngọc
OANH vàng CÚC tím nắng xuân tươi.
MÂY TRẮNG quyện lưng trời lãng đãng
Thiên NGA từng cặp nhởn nhơ bay
Nhớ xưa CHIẾN SỰ vùng đất lửa
HÒA bình về lại Chứa Chan nay.
CHUYỆN ANH PHAN CHÍ THẮNG Hoàng Kim Cụ là Người cẩn trọng sâu sắc minh thận cần (*)
Thủy vốn mạch sông nước có nguồn.
Chính Trung tiền hậu đổi nhau luôn.
Nụ cười Nghê Việt luôn đầy đặn.
Mai với Bồ Đề ẩn sau lưng.
Tóc nhuốm bạch kim phơi nắng hửng
Da pha hồng ngọc trãi mưa nhuần.
Hoa Người Hoa Đất vui thầy bạn.
Phước Đức mừng ai thắng tuổi trăm.
(*) anh Phan Chi Thắng ngày 4 tháng 8 năm 2020 viết· TÔN NỮ MẸ TÔI Nếu họ tên người nam có hai chữ Tôn Thất, người nữ có Tôn Nữ thì những người này có quan hệ huyết thống với các chúa Nguyễn, họ gốc là Nguyễn Phúc mà người ta kỵ huý nên gọi chệch đi là Nguyễn Phước tộc. Quan hệ như thế nào, gần xa cấp độ mấy thì còn phải xét nhưng chắc chắn trong huyết quản họ có dòng máu chúa Nguyễn.Tôn Thất (chữ Hán: 尊室) (chữ 尊 vốn đọc là Tông, nhưng do kỵ tên huý vua Thiệu Trị nên đổi là Tôn) là họ được vua Minh Mạng đặt cho con cháu của các chúa Nguyễn từ ngài Nguyễn Hoàng đến ngài Nguyễn Phúc Thuần, mỗi chúa là hệ tổ của một hệ. Hệ bao gồm chúa và các anh em trai của chúa, hậu duệ của các hệ là hậu duệ của các anh em trai của chúa. Có tất cả 9 hệ nhưng có hai hệ là hệ 4 và hệ 6 không con nên không lưu truyền được. Họ Tôn Thất bà con xa với dòng Đế hệ, dòng làm Hoàng đế của Đại Nam, tính ra kể từ vua Gia Long. Không phải tất cả Tôn Thất, Tôn Nữ đều nổi tiếng hoặc làm to, đời trước nổi tiếng có các cụ Tôn Thất Thuyết, Tôn Thất Thiệp, đời nay có Nguyễn Minh Vĩ (Tôn Thất Vĩ), phó Chủ tịch Quốc hội, Tôn Thất Tùng giáo sư bác sĩ, Tôn Nữ Thị Ninh nhà ngoại giao, Phó giáo sư Tương Lai (Nguyễn Phước Tương hay Tôn Thất Tương) nguyên Viện trưởng Viện Xã hội học, Tôn Thất Lập nhạc sĩ. Chế độ VNCH có một số trí thức, tướng lãnh là Tôn Thất.Tôi biết nhiều tôn thất tôn nữ sống và lao động như mọi người dân bình thường. Nét đặc biệt ngoại hình của họ là khuôn mặt dài, thông minh và nghiêm cẩn. Một cái gì đó quý tộc cho dù có rơi vào hoàn cảnh chân lấm tay bùn.Tôi biết hai người phụ nữ tên là Tôn Nữ Lệ Minh. Người thứ nhất là vợ nhà thơ Lưu Trọng Lư tôi chỉ biết sơ. Người thứ hai tôi biết rất kỹ vì người đó là mẹ tôi.Ông ngoại tôi Tôn Thất nên mẹ tôi Tôn Nữ. Mẹ sớm mồ côi cha, lớn lên trong vòng tay của đại gia đình bên ngoại (cụ ngoại tôi làm quan nhà Nguyễn), được hưởng sự giáo dục nề nếp gia giáo.Lớn lên lấy chồng, theo chồng ra Bắc, chịu mọi gian khổ thiếu thốn, Mẹ đã vượt qua tất cả cho chúng tôi có ngày hôm nay
* Việt Nam con đường xanh NÔNG NGHIỆP CÔNG NGHỆ CAO
Hoàng Long, Nguyễn Văn Phu,Nguyễn Thị Trúc Mai, Hoàng Kim thu thập,tuyển chọn, đúc kết thông tin, tích hợp và giới thiệu
Việt Nam con đường xanh, Nông nghiệp công nghệ cao bài viết kỳ này giới thiệu Định hướng chiến lược quốc gia, phương hướng nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế xã hội 2021-2030 (* Đảng Cộng Sản Việt Nam 2020, Dự thảo các văn kiện trình đại hội Đảng XIII của Đảng) xác định 10 giải pháp cơ bản; 5 nhóm hệ thống giải pháp chính để đảm bảo phát huy hiệu quả giá trị của khối 13 sản phẩm chủ lực nông nghiệp Việt Nam nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân lao động. Ba trụ cột cốt lõi của một quốc gia là cân đối hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế, bảo vệ môi trường và thực hiện tiến bộ công bằng xã hội.theo kết luận của Hội nghị thượng đỉnh toàn cầu về Phát triển bền vững tại Cộng hòa Nam Phi năm 2002 với Định hướng và tầm nhìn Việt Nam con đường xanh. Năm bài viết chọn lọc, gồm: 1) Nông nghiệp hữu cơ hiện trạng và giải pháp nghiên cứu phát triển của tác giả PGS..TS Nguyễn Văn Bộ, TS Ngô Doãn Đảm 2) Đào tạo nguồn nhân lực và nghiên cứu khoa học ứng dụng phục vụ phát triển nông nghiệp công nghệ cao và công nghệ thực phẩm tại Trường Đại học Văn Lang” của tác giả PGS.TS Phan Phước Hiền và TS Châu Tấn Phát, 3) “Nghiên cừu ứng dụng công nghệ sinh học cho phát triển nông nghiệp công nghệ cao” của PGS.TS. Dương Hoa Xô, Trung Tâm Công nghệ Sinh học TP. HCM; 4) Một số thông tin chọn lọc điểm sáng nông nghiệp nông dân nông thôn nông nghiệp công nghệ cao; 5) Chọn giống sắn kháng CMD hiện trạng và triển vọng
Bác Hồ nói: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành“. Việt Nam con đường xanh cốt lõi là an dân với năm yếu tố: An sinh xã hội; An tâm; An lạc; An toàn; An ninh.
Định hướng chiến lược quốc gia, phương hướng nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế xã hội 2021-2030xác định 10 giải pháp cơ bản: (* Đảng Cộng Sản Việt Nam 2020, Dự thảo các văn kiện trình đại hội Đảng XIII của Đảng)
1) Tập trung hoàn thiện nâng cao chất lượng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, giải quyết tốt hơn quan hệ giữa Nhà nước và thị trường.
2) Phát triển mạnh mẽ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo nhằm tạo bứt phá nâng cao năng suất, chất lượng hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế;
3) Phát triển nguồn nhân lực, giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu nhân lực chất lượng cao của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế;
4) Đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, bảo đảm thực chất, hiệu quả; phát triển nền kinh tế số; thúc đẩy tăng trưởng nhanh, bền vững trên cơ sở ổn định kinh tế vĩ mô;
5) Phát triển kết cấu hạ tầng, kinh tế vùng, kinh tế biển, lấy các đô thi làm động lực phát triển vùng và đẩy mạnh xây dựng nông thôn mới;
6) Phát triển văn hóa, xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; không ngừng nâng cao đời sống vật chất tinh thần của nhân dân;
7) Quản lý và sử dụng hiệu quả tài nguyên; tăng cường bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu; phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai;
8) Củng cố, tăng cường quốc phóng, bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia;
9) Nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại, hội nhập và vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế;
10) Tiếp tục xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động; đẩy mạnh phòng chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, tạo đột phá trong cải cách hành chính.
13 sản phẩm nông nghiệp chủ lực quốc gia đã được xác định bởi Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tại Thông tư số 37 /2018/TT /BNNPTNT ngày 25/12/2018 gồm Gạo, Cà phê, Cao su, Điều, Hồ tiêu, Chè, Rau Quả, Sắn và sản phẩm từ sắn, Thịt lợn, Thịt và trứng gia cầm, Cá tra, Tôm, Gỗ và sản phẩm từ gỗ.
5 nhóm giải pháp chính phương hướng nhiệm vụ giải pháp nông nghiệp 2021- 2030 để đảm bảo 13 khối sản phẩm nông nghiệp chủ lực phát huy hiệu quả giá trị, nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân lao động Việt Nam cần tổ chức điều hành thật tốt :
1) Nông sản Việt 13 ngành hàng chủ lực kết nối mạnh mẽ với thị trường thế giới, xác định lợi thế so sánh và hệ thống giải pháp bảo tồn phát triển bền vững, hiệu quả khoa học công nghệ, kinh tế an sinh xã hội môi trường và vị thế quan trọng của từng ngành hàng. Nâng cao hiệu quả, hiệu lực hợp tác đầu tư nước ngoài có trọng tâm, trọng điểm, có chọn lọc, ưu tiên các dự án có công nghệ tiên tiến, công nghệ mới, công nghệ cao, quản trị hiện đại, năng lực đổi mới sáng tạo, kết nối Nông sản Việt đạt lợi thế cạnh tranh cao trong chuỗi cung ứng toàn cầu, có tác động lan tỏa, kết nối chặt chẽ hữu cơ với khu vực kinh tế trong nước. Đổi mới và phát triển các hình thức tổ chức sản xuất phù hợp, hiệu quả, đẩy mạnh hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ nông sản, kết nối với hệ thống tiêu thụ toàn cầu. Phát triển mạnh doanh nghiệp nông nghiệp, hổ trợ, khuyến khích phát triển kinh tế trang trại, hợp tác xã nông nghiệp và các tổ hợp tác. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nông nghiệp.
2) Phát triển mạnh nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, sạch, nông nghiệp hữu cơ, đạt tiêu chuẩn phổ biến về an toàn thực phẩm. Đổi mới chính sách quản lý và sử dụng đất trồng lúa, hàng năm sản xuất khoảng 35 triệu tấn lúa làm nòng cốt bảo đảm an ninh lương thực quốc gia, thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng phù hợp với lợi thế và nhu cầu thị trường, tăng khả năng chống chịu, thích ứng của nông dân với biến đổi khí hậu từng vùng, miền, hình thành các vùng sản xuất hàng hóa tập trung, ổn định. Tổ chức kết nối nông nghiệp với công nghiệp chế biến, thị trường xuất khẩu, chuỗi giá trị toàn cầu.
3) Phát triển chăn nuôi công nghiệp ứng dụng công nghệ cao, khuyến khích phát triển chăn nuôi trang trại, gia trại hiệu quả cao, thân thiện với môi trường. Phát triển nuôi trồng thủy sản cá trên biển và mặt nước nội địa theo hướng công nghiệp, quảng canh cải tiến , sinh thái, nâng cao hiệu quả khai thác xa bờ , phát triển đánh bắt hải dương. Thực hiện đồng bộ các giải pháp bảo vệ và phát triển nguồn lợi hải sản;
4) Quản lý chặt chẽ, bảo vệ và phục hồi rừng tự nhiên gắn với bảo tồn đa dạng sinh học, bảo vệ cảnh quan, môi trường sinh thái. Phát triển mạnh và nâng cao chất lượng rừng trồng, nhất là rừng đặc dụng, rừng phòng hộ đầu, rừng phòng hộ ven biển. Chú trọng phát triển trồng rừng gỗ lớn, nâng cao hiệu quả rừng trồng, lâm đặc sản, đáp ứng cơ bản nhu cầu lâm sản trong nước làm nguyên liệu chế biến xuất khẩu. Tăng cường sự tham gia của cộng đồng vào các chuỗi giá trị lâm nghiệp.
5) Đẩy mạnh xây dựng nông thôn mới và quản lý sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên; tăng cường bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai. Đẩy mạnh hợp tác với các quốc gia thượng nguồn và các tổ chức quốc tế trong việc bảo vệ và sử dụng có hiệu quả tài nguyên nước ở lưu vực các dòng sông xuyên biên giới, nhất là sông Mê Công và sông Hồng. Nâng cao tính chống chịu và thích ứng biến đổi khí hậu của hệ thống kết cấu hạ tầng và của nền kinh tế Việt Nam, thực hiện các giải pháp thông minh để thích ứng trong nông nghiệp, thủy sản và phát triển rừng. Giảm thiểu những rũi ro do biến đổi khí hậu gây ra, đặc biệt là xâm nhập mặn, sạt lở tại Đồng Bằng Sông Cửu Long, an toàn lụt và môi sinh tại Hà Nội và vùng Đồng Bằng Sông Hồng khô hạn tại Tây Nguyên, Nam Trung Bộ,Bắc Trung Bộ Bảo vệ an ninh nguồn nước, tăng cường quản lý và khai thác, sử dụng hiệu quả, tiết kiệm nguồn nước theo lưu vực sông, ngăn chặn suy giảm tài nguyên nước, tích nước điều tiết nguồn nước hợp lý phục vụ phát triển kinh tế xã hội. Quản lý chặt chẽ và nâng cao hiệu lực quản lý, hiệu quả sử dụng các nguồn lực tài nguyên, nhất là đất, nước khoáng sản, theo nguyên tắc thị trường. Phát triển thị trường, đẩy mạnh thương mại hóa quyền sử dụng đất, tăng cường đăng ký quyền sử dụng đất và áp dụng định giá đất theo thị trường, bảo đảm công khai, minh bạch. Phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn, mạng lướí các dự án hạ tầng trọng điểm quốc gia kết nối đồng bộ với các khu vực nông phẩm hàng hóa chính và khu đô thị, khu công nghiệp, cảng biển; Kết nối xây dựng nông thôn mới với kinh tế vùng, kinh tế biển, đào tạo nguồn lực nông nghiệp, cải tiến nâng cấp hệ thống hóa dữ liệu thông tin nông nghiệp nông dân nông thôn đáp ứng phù hợp với thời đại mới. Tiếp tục thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới theo hướng gắn với đô thị hóa, thực chất và đi vào chiều sâu hiệu quả bền vững, lấy cư dân nông thôn làm chủ thể, tạo sự chuyển biến tích cực rõ rệt về nếp sống mới ở nông thôn; xây dựng nông thôn mới kiểu mẫu, nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới cấp thôn bản. Thu hút mạnh mẽ các doanh nghiệp đầu tư vào khu vực nông thôn để tổ chức và nâng cao chuỗi gía trị “mỗi xã một sản phẩm” gắn với thương hiệu, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiêu thụ sản phẩm. Chú trọng xây dựng cảnh quan sinh thái môi trường làng xã Việt xanh sạch đẹp tiến bộ an lành
Ba trụ cột cốt lõi của một quốc gia là cân đối hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế, bảo vệ môi trường và thực hiện tiến bộ công bằng xã hội.theo kết luận của Hội nghị thượng đỉnh toàn cầu về Phát triển bền vững tại Johannesburg (Cộng hòa Nam Phi) năm 2002.
Bảo vệ an toàn môi trường sống và nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân lao động Việt Nam là một trong ba trụ cột cốt lõi của chính sách quốc gia. Bảo vệ an toàn thức ăn, đất, nước, không khí và môi sinh là luật sống. Nguyên tắc cơ bản là: Ai gây ô nhiễm môi trường phải trả chi phí để xử lý khắc phục hậu quả, cải tạo và phục hồi. Thực thi chế tài và xử phạt nghiêm về vi phạm môi trường là quốc sách.
Tăng cường giám sát, công khai đầy đủ, kịp thời thông tin và nâng cao chất lượng môi trường, sự an toàn về thức ăn, đất nước, không khí và môi sinh ở các đô thị và vùng dân cư. Xử lý dứt điểm các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Cải thiện rõ rệt tình trạng ô nhiễm môi trường, ở các cụm công nghiệp, làng nghề, lưu vực sông, khu vực nông thôn. Kiểm soát chặt chẽ các dự án khai thác tài nguyên, chủ động phát hiện và xử lý nghiêm các vi phạm gây ô nhiễm môi trường. Ngăn chặn suy thoái môi trường. Tối ưu hóa các mục đích sử dụng đất nông nghiệp. Đẩy mạnh hợp tác với các quốc gia thượng nguồn và các tổ chức quốc tế trong việc bảo vệ và sử dụng có hiệu quả tài nguyên nước ở lưu vực các dòng sông xuyên biên giới, nhất là sông Mê Công và sông Hồng.
Việt Nam con đường xanh, thông tin đúc kết này là chọn lọc trích dẫn phù hợp với tư tưởng chỉ đạo của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Định hướng và tầm nhìn này nhấn mạnh
1) Phải phát triển hài hòa ba trụ cột “Không đánh đổi môi trường với tăng trưởng kinh tế”; “Không thể vì nghèo mà hy sinh môi trường và sức khỏe người dân”
2) Vai trò kiến tạo của Nhà nước là quyết định;
3) Vai trò của người dân lao động và cộng đồng xã hội là không thể thiếu.
Việt Nam ngày nay nhấn mạnh sự diệt trừ tham nhũng và đề cao vai trò kiến tạo của Nhà nước là quyết định. Việt Nam là nước văn hiến có truyền thống “bầu ơi thương lấy bí cùng” và kinh nghiệm làm chủ tập thể, cũng đã vận dụng thành công “chính sách cộng sản thời chiến” biết thắt lưng buộc bụng đầu tư trong điểm.
NÔNG NGHIỆP HỮU CƠ: HIỆN TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NGHIÊN CỨU PHÁT TRIỂN Nguyễn Văn Bộ, Ngô Doãn Đảm
ĐẶT VẤN ĐỀ
Nông nghiệp hữu cơ là một hệ thống canh tác đã gây nên sự chú ý ngày càng tăng ở nhiều quốc gia trong 2 thập kỷ qua, nhất là các nước phát triển, khi mà áp lực về lương thực giảm đi, song áp lực về vệ sinh an toàn thực phẩm, chất lượng nông sản và môi trường lại tăng lên. Nhiều nước ở châu Âu, Bắc Mỹ, châu Đại dương đã khuyến khích nông dân áp dụng nông nghiệp hữu cơ. Tuy nhiên ở nhiều quốc gia khác, nông nghiệp hữu cơ là câu chuyện còn rất mới mẻ, khái niệm về loại hình canh tác này được hiểu rất khác nhau. Với Việt Nam điều này cũng không là ngoại lệ. Hiện tại có rất nhiều định nghĩa khác nhau về nông nghiệp hữu cơ. Phần lớn các nhà khoa học đều hiểu nông nghiệp hữu cơ là một nền nông nghiệp không sử dụng hóa chất, các nguồn hữu cơ được tái sử dụng một cách triệt để. Theo khái niệm này, trong suốt quá trình sản xuất chỉ được phép sửdụng phân bón hữu cơ, làm cỏ bằng tay hoặc cơ giới và phòng trừ sâu bệnh bằng biện pháp sinh học. Gần đây, nông nghiệp hữu cơ còn không chấp nhận việc gieo trồng các cây đã biến đổi gene.
Tuy nhiên, bản chất của bất kỳ một nền sản xuất nào cũng phải gắn với năng suất, chất lượng của sản phẩm cuối cùng và tính bền vững của môi trường. Cùng với sự phát triển của khoa học, khi mà kiến thức con người đã dần chi phối được các qui luật của tự nhiên thì khái niệm hữu cơ cũng được hiểu theo nghĩa rộng hơn, tổng hợp hơn. Xem xét bản chất của quá trình sử dụng dinh dưỡng của cây trồng chúng ta thấy rằng, chất dinh dưỡng dù sử dụng ở bất kỳ dạng nào, hữu cơ hay vô cơ thì chúng đều phải trải qua một quá trình chuyển hóa về dạng ion (anion hoặc cation) trước khi được cây trồng hấp phụ. Thêm nữa, chất lượng nông sản không hoàn toàn phụ thuộc vào dạng phân bón sử dụng mà lại phụ thuộc vào liều lượng, chủng loại, tỉ lệ, phương pháp và thời kỳ bón cho cây trồng. Với thuốc bảo vệ thực vật là loại chế phẩm không hoặc ít độc hại, thời gian phân hủy ngắn… và phải đảm bảo thời gian cách ly. Như vậy, sản phẩm sạch đáp ứng yêu cầu về vệ sinh an toàn thực phẩm không hoàn toàn không có chứa các yếu tố độc hại mà là sản phẩm có hàm lượng các chất độc hại dưới ngưỡng cho phép theo tiêu chuẩn quốc gia hay quốc tế.
Xuất phát từ những lý do trên, theo chúng tôi, nông nghiệp hữu cơ là một hệ thống sản xuất cho phép khai thác tối ưu các nguồn tài nguyên như đất, năng lượng, các chất dinh dưỡng, các quá trình sinh học diễn ra trong tự nhiên với một phương pháp quản lý hợp lý nhất nhằm mục đích tạo ra sản phẩm đáp ứng yêu cầu về vệ sinh an toàn thực phẩm, đồng thời cũng đảm bảo cho hệ thống sản xuất bền vững về môi trường, xã hội và kinh tế. Theo định nghĩa này thì nông nghiệp hữu cơcòn có thể hiểu là nông nghiệp sinh thái. Như vậy, thuật ngữ“hữu cơ” không chỉ đề cập đến dạng dinh dưỡng cung cấp cho cây trồng mà được mở rộng ra như là một quan điểm, trong đó tính bền vững là hạt nhân.
Theo Dumanski, nhà thổ nhưỡng học thì “sự bền vững để lại cho các thế hệ tương lai ít nhất là những cơ hội như chúng ta đang có”. Đây là quan điểm rất thực tiễn, đảm bảo tổng tài sản ở 4 dạng (tài sản thiên nhiên, tài sản do con người làm ra, bản thân con người và xã hội) luôn được bảo toàn trong suốt quá trình phát triển. Thật tiếc, chúng ta đã và đang khai thác triệt để tài nguyên, gần như không cớ cơ hội cho thế hệ sau.
Còn theo N.H. Lampkin (1994) thì: “Canh tác hữu cơ là một phương pháp tiếp cận với nông nghiệp nhằm mục tiêu tạo lập hệ thống sản xuất nông nghiệp tổng hợp, bền vững về môi trường, kinh tế và nhân văn; cho phép khai thác tối đa nguồn tài nguyên có thể tái tạo được cũng như quản lý các quá trình sinh thái cùng với sự tác động qua lại của chúng để đảm bảo năng suất cây trồng, vật nuôi và dinh dưỡng cho con người ở mức chấp nhận được đồng thời bảo vệ chúng khỏi sâu, bệnh”.
HIỆN TRẠNG SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP HỮU CƠ TRÊN THẾ GIỚI
Theo số liệu công bố năm 2012 (FiBL và IFOAM, 2012) [7] của Viện Nghiên cứu và Truyền thông nông nghiệp hữu cơ (Communication, Research Instituteof Organic Agriculture FiBL) và Hiệp hội nông nghiệp hữu cơ Quốc tế (International Federation of Organic Agriculture Movements IFOAM), hiện trạng sản xuất và thương mại sản phẩm nông nghiệp hữu cơ toàn cầu như sau; xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/viet-nam-con-duong-xanh/
BÀI THƠ VIÊN ĐÁ THỜI GIAN
Hoàng Kim
Anh Phan Chí Thắng từ Hà Nội đã tìm đến thăm chúng tôi ở Trảng Bom Đồng Nai, sau đó hai anh em đi xe đò tìm về thăm những người bạn ở góc khuất Đức Linh. Hoàng Kim đã nối vần thơ anh Phan Chí Thắng và chép lại bài thơ viên đá thời gian: ” Hình như gặp lại mới hương / Ngựa già máng cỏ nhớ đường cỏ hoa / Ta tìm gặp bạn đường xa/ Tưởng là thăm bạn hoá ra thăm mình/ . Đêm dài xoè một bình minh / Hoa NgườiHoa ĐấtÂn tìnhSớm Xuân. Bài đồng dao huyền thoại này được lưu lại
1
Bài thơ viên đá thời gian gọi
Một tiếng kêu vang dội thấu trời
Tháng năm thoáng chốc nhìn trở lại
Hạc tùng thảng thốt nắng lên hơi
2
Đầu xuân gặp bạn thật mừng vui
Rượu ngọt trà thơm sóng sánh mời
NƯỚC suối ban mai trong tựa ngọc
OANH vàng CÚC tím nắng xuân tươi.
MÂY TRẮNG quyện lưng trời lãng đãng
Thiên NGA từng cặp nhởn nhơ bay
Nhớ xưa CHIẾN SỰ vùng đất lửa
HÒA bình về lại Chứa Chan nay.
CHUYỆN ANH PHAN CHÍ THẮNG Hoàng Kim Cụ là Người cẩn trọng sâu sắc minh thận cần (*)
Thủy vốn mạch sông nước có nguồn.
Chính Trung tiền hậu đổi nhau luôn.
Nụ cười Nghê Việt luôn đầy đặn.
Mai với Bồ Đề ẩn sau lưng.
Tóc nhuốm bạch kim phơi nắng hửng
Da pha hồng ngọc trãi mưa nhuần.
Hoa Người Hoa Đất vui thầy bạn.
Phước Đức mừng ai thắng tuổi trăm.
(*) anh Phan Chi Thắng ngày 4 tháng 8 năm 2020 viết· TÔN NỮ MẸ TÔI Nếu họ tên người nam có hai chữ Tôn Thất, người nữ có Tôn Nữ thì những người này có quan hệ huyết thống với các chúa Nguyễn, họ gốc là Nguyễn Phúc mà người ta kỵ huý nên gọi chệch đi là Nguyễn Phước tộc. Quan hệ như thế nào, gần xa cấp độ mấy thì còn phải xét nhưng chắc chắn trong huyết quản họ có dòng máu chúa Nguyễn.Tôn Thất (chữ Hán: 尊室) (chữ 尊 vốn đọc là Tông, nhưng do kỵ tên huý vua Thiệu Trị nên đổi là Tôn) là họ được vua Minh Mạng đặt cho con cháu của các chúa Nguyễn từ ngài Nguyễn Hoàng đến ngài Nguyễn Phúc Thuần, mỗi chúa là hệ tổ của một hệ. Hệ bao gồm chúa và các anh em trai của chúa, hậu duệ của các hệ là hậu duệ của các anh em trai của chúa. Có tất cả 9 hệ nhưng có hai hệ là hệ 4 và hệ 6 không con nên không lưu truyền được. Họ Tôn Thất bà con xa với dòng Đế hệ, dòng làm Hoàng đế của Đại Nam, tính ra kể từ vua Gia Long. Không phải tất cả Tôn Thất, Tôn Nữ đều nổi tiếng hoặc làm to, đời trước nổi tiếng có các cụ Tôn Thất Thuyết, Tôn Thất Thiệp, đời nay có Nguyễn Minh Vĩ (Tôn Thất Vĩ), phó Chủ tịch Quốc hội, Tôn Thất Tùng giáo sư bác sĩ, Tôn Nữ Thị Ninh nhà ngoại giao, Phó giáo sư Tương Lai (Nguyễn Phước Tương hay Tôn Thất Tương) nguyên Viện trưởng Viện Xã hội học, Tôn Thất Lập nhạc sĩ. Chế độ VNCH có một số trí thức, tướng lãnh là Tôn Thất.Tôi biết nhiều tôn thất tôn nữ sống và lao động như mọi người dân bình thường. Nét đặc biệt ngoại hình của họ là khuôn mặt dài, thông minh và nghiêm cẩn. Một cái gì đó quý tộc cho dù có rơi vào hoàn cảnh chân lấm tay bùn.Tôi biết hai người phụ nữ tên là Tôn Nữ Lệ Minh. Người thứ nhất là vợ nhà thơ Lưu Trọng Lư tôi chỉ biết sơ. Người thứ hai tôi biết rất kỹ vì người đó là mẹ tôi.Ông ngoại tôi Tôn Thất nên mẹ tôi Tôn Nữ. Mẹ sớm mồ côi cha, lớn lên trong vòng tay của đại gia đình bên ngoại (cụ ngoại tôi làm quan nhà Nguyễn), được hưởng sự giáo dục nề nếp gia giáo.Lớn lên lấy chồng, theo chồng ra Bắc, chịu mọi gian khổ thiếu thốn, Mẹ đã vượt qua tất cả cho chúng tôi có ngày hôm nay. Chúng tôi thừa hưởng ở Mẹ cái nhìn thẳng và tinh thần quý tộc theo nghĩa đẹp nhất của nó là luôn cố gắng làm người tử tế.Viết thêm:Họ “Công Tằng Tôn Nữ” được dùng cho các cháu gái bên nhà họ nội của các đời vua Nguyễn xuất phát từ thời Minh Mạng. Vua Minh Mạng (Tên húy: Nguyễn Phúc Đảm) đã định ra một chính hệ từ đời vua Gia Long trở về sau theo nguyên tắc sau: con cháu các chúa Nguyễn thì được xếp vào hệ Tôn Thất cho nam và Tôn Nữ dành cho nữ.Còn sự khác nhau giữa Tôn Nữ và Công Tằng Tôn Nữ là ở chỗ cách đặt tên theo thế hệ các con gái, cháu gái :Công Chúa : chị em vua Minh Mạng.Công Nữ : con của vua.Công Tôn Nữ : cháu của vua.Công Tằng Tôn Nữ : chắt của vua.Công Huyền Tôn Nữ : chít của vua.Huyền Tôn Nữ : dùng chung cho thế hệ này trở về sau .Nhưng cũng theo một số tài liệu thì Tôn Nữ được sử dụng chung cho thế hệ thứ 2 trở đi với ý nghĩa là chỉ cháu gái.Tôn Nữ Mẹ Tôi và tôi, Huế năm 1948:
Họ “Công Tằng Tôn Nữ” được dùng cho các cháu gái bên nhà họ nội của các đời vua Nguyễn xuất phát từ thời Minh Mạng. Vua Minh Mạng (Tên húy: Nguyễn Phúc Đảm) đã định ra một chính hệ từ đời vua Gia Long trở về sau theo nguyên tắc sau: con cháu các chúa Nguyễn thì được xếp vào hệ Tôn Thất cho nam và Tôn Nữ dành cho nữ.Còn sự khác nhau giữa Tôn Nữ và Công Tằng Tôn Nữ là ở chỗ cách đặt tên theo thế hệ các con gái, cháu gái :Công Chúa : chị em vua Minh Mạng.Công Nữ : con của vua.Công Tôn Nữ : cháu của vua.Công Tằng Tôn Nữ : chắt của vua.Công Huyền Tôn Nữ : chít của vua.Huyền Tôn Nữ : dùng chung cho thế hệ này trở về sau .Nhưng cũng theo một số tài liệu thì Tôn Nữ được sử dụng chung cho thế hệ thứ 2 trở đi với ý nghĩa là chỉ cháu gái.”
Ghi chép vày của Hoàng Kim nhằm tìm lại những ký ức riêng để thấu hiểu giá của tình yêu thương ngày thống nhất. Xin phép anh Phan Chi Thắng được chia sẻ:
” Cô mất bốn năm rồi, yên nghỉ trong phần mộ anh em Tuân đã chuẩn bị từ trước, xây lăng trên đồi, cạnh lăng ông bà nội và lăng cha Tuân.
Con cháu, họ hàng đều ở xa, không ai tiếp quản căn nhà cổ và khu vườn rộng, Tuân bàn với những người có quyền thừa kế theo pháp luật hiến căn nhà và khu vườn đó cho chùa.
Không phải Tuân không tiếc ngôi nhà tuổi thơ của mình, tính ra cũng là một tài sản lớn. Nhưng hãy để nơi ấy thành một ngôi chùa bởi chắc chắn giờ này cô đã ở bên Phật”. (1)
Anh Phan Chí Thắng kể với chúng tôi:
“Trong số hơn mười đứa cháu, đứa gọi bằng o (cô), đứa gọi bằng dì, có lẽ cô thương Tuân nhất. Không hẳn vì Tuân là đích tôn, không hẳn vì mấy đứa gọi cô bằng dì ở thành phố khác, ít gặp cô.
Cô thương Tuân vì cô thương cha anh nhất, thương người anh trai bỏ nhà đi kháng chiến chống Pháp rồi mang đứa con mới 5-6 tuổi ra Bắc, nơi ăn không đủ no, mặc không đủ ấm, “bảy tên Việt Cộng đu không gãy một cành đu đủ”.
Hôm Tuân cùng mẹ lên chiến khu rồi theo đường dây vượt rừng ra Bắc, cô ngồi nắm cơm cho vào mo nang. Không biết cô lỡ tay cho nhiều muối mè (muối vừng) hay nước mắt cô thầm nhỏ vào cơm mà Tuân ăn thấy mặn.
Cô tiễn cháu đi để rồi đêm đêm bí mật áp cái đài transito vào tai nghe đài Hà Nội với hy vọng may ra có chút tin tức gì về anh chị và cháu.
Năm 66 Tuân được đi Liên xô học đại học. Không biết đường dây nào đã báo tin cho cô, cô làm thịt con gà thắp hương cúng các cụ rồi mời hai ông bà dùng bữa. Ông hỏi có chuyện gì, cô nói thằng Tuân vừa đi Liên xô học 6 năm rồi.
Ông nhắm mắt, chắp tay niệm A Di Đà Phật, bà nội và cô ôm nhau khóc. Mâm cơm vẫn còn nguyên.
Hai mươi hai năm sau kể từ lúc lon ton chạy theo mẹ trốn lên chiến khu, đầu tháng 5 năm 75, Tuân tìm về làng thăm bà nội và cô. Ông nội mất đã lâu, hai bà con dựa vào nhau mà sống.
Các bà cô Tuân ai cũng đẹp và lấy chồng xa. Riêng cô không lấy chồng, ở lại phụng dưỡng cha mẹ.
Năm 75 cô còn khỏe, còn hái trái cây trong vườn mang ra chợ bán lấy tiền mua gạo, mắm muối.
Năm 85 là đỉnh điểm của nghèo khổ khó khăn. Cô mua ớt về đăm (giã) làm ớt bột gửi ra Hà Nội cho cháu. Ớt đựng trong lọ nhựa đen nguyên dùng đựng xà phòng kem. Cô già mắt kém súc lọ không kỹ, ớt toàn mùi xà phòng. Tuân đành đổ nguyên cân ớt bột xuống cống, xót xa công sức người cô già.
Một năm đôi ba lần Tuân về quê thăm bà và cô, từ khi bà nội mất cô sống một mình trong căn nhà cổ. Một mình trong khuôn vườn khá rộng kể cả tính theo tiêu chuẩn ở Huế.
Trẻ con hái trộm trái cây, bắt trộm chó. Cô không còn sức chăm bón mấy cây thanh trà (bưởi), khế, ổi, mãn cầu từng nuôi sống bà và cô. Vườn xác xơ như chính cô vậy.
Mỗi lần về quê Tuân đều dành dụm ít nhiều tiền đưa cô mua gạo.
Vậy mà cô chẳng tiêu đồng nào. Lần sửa mái ngói bị dột, thợ phát hiện có gói nilon bọc mấy chục triệu giấu dưới mái, Tuân vừa giận vừa thương cô. Không chịu ăn uống tẩm bổ, tiền để lại cho ai?
Người đàn bà không chồng không con về già khổ đủ đường. Không ai chăm sóc, không có ai để nhờ cậy đã đành, cơ thể chưa một lần “thay máu” nhiều bệnh hơn người thường.
Có lần Tuân về thấy tóc cô bù xù, móng tay dài cong queo, anh gọi thợ làm đầu vào gội đầu cắt móng tay cho cô.
Chấy nhiều quá, đen kịt cả mặt nước chậu thau đồng. Tuân cố không khóc.
Vậy mà cô cũng sống tới 95 tuổi. Cô sống được lâu thế chắc là nhờ muốn sống để trông coi ngôi nhà các cụ để lại và thay mặt tất cả con cháu ở xa và rất xa chăm lo việc hương khói các ngày giỗ chạp. Đã nhiều lần Tuân muốn đón cô ra Hà nội sống với gia đình Tuân để tiện chăm sóc cô nhưng cô không chịu. Cô không thể rời nơi cô đã gắn bó cả cuộc đời.
Khi cảm thấy mình quá yếu, không còn sống được bao lâu, cô dắt Tuân vào buồng, tay run run mở mấy lần khoá cái tủ gỗ xộc xệch có khi còn nhiều tuổi hơn cô:
– Đây là số tiền cô dành dụm cả đời, bây giờ cho cháu.
Nhìn đám giấy bạc cũ kỹ buộc chun làm thành nhiều gói bọc kỹ trong tờ giấy bao xi măng, Tuân không thể cầm lòng. Những tờ tiền Bảo Đại, tiền Việt Nam Cộng hoà, rồi tiền Giải phóng và các đợt tiền cụ Hồ, anh không biết nói sao. Tất cả đã không còn bao nhiêu giá trị.
Đặc biệt là xâu tiền đồng có lỗ vuông ở giữa. Chẳng để làm gì.
Người đàn bà không có công ăn việc làm, không có lương hưu, bao nhiêu năm tằn tiện để cho cháu số tiền khá lớn nay chỉ có thể coi là kỷ niệm.
Cô mất bốn năm rồi, yên nghỉ trong phần mộ anh em Tuân đã chuẩn bị từ trước, xây lăng trên đồi, cạnh lăng ông bà nội và lăng cha Tuân.
Con cháu, họ hàng đều ở xa, không ai tiếp quản căn nhà cổ và khu vườn rộng, Tuân bàn với những người có quyền thừa kế theo pháp luật hiến căn nhà và khu vườn đó cho chùa.
Không phải Tuân không tiếc ngôi nhà tuổi thơ của mình, tính ra cũng là một tài sản lớn. Nhưng hãy để nơi ấy thành một ngôi chùa bởi chắc chắn giờ này cô đã ở bên Phật.
(Viết trong ngày giỗ cô)
Người em con cô ruột
Phan Chí Thắng
(Viết 30/4/2018)
Xét quan hệ bà con, An với Tuân rất gần. Mẹ hắn là em ruột cha anh. Nhưng khi anh sinh ra ở Huế thì hắn, con đầu của cô, đã năm sáu tuổi và sống bên nội của hắn ở thành phố khác, lớn lên anh em không biết mặt nhau, chỉ nghe cha mẹ nói rằng cô có mấy đứa con, trong đó có hắn.
Rồi anh theo cha mẹ ra Bắc. Đất nước chia làm hai miền, anh em hoàn toàn không biết gì về nhau.
Tháng 5 năm 1975, là một cán bộ nghiên cứu sau nhiều năm đằng đẵng học ở Liên xô, Tuân vào Nam công tác, ghé Nha Trang Thành thăm bà cô và mấy người em con cô – tất cả anh chưa hề gặp mặt. Cô nhận ra anh ngay, “cháu giống cha quá!”.
Mấy ngày đó anh không gặp An, vì hắn ở Sài gòn, có thể còn trốn hoặc đã ra trình diện. Cô và mấy em không nhắc đến hắn, mà anh cũng không hỏi.
Mãi sau này mới biết, hắn với cặp lon thiếu tá nhảy dù mũ đỏ phải đi cải tạo 7 năm, sau đó định cư ở Mỹ diện HO.
Hai anh em càng không có điều kiện gặp nhau. Thư từ cũng không.
Năm 2009 Tuân sang Mỹ chơi. Cô anh cùng các con, dâu rể và cháu đều đã định cư ở Cali. Tuân hẹn trước ngày đến thăm. Cô nói sẽ gọi các em tập trung đông đủ chào anh.
Với những người em khác Tuân đều đã gặp ở Việt Nam nên nói chuyện khá thoải mái. Riêng với An anh hơi rụt rè một chút. Hắn nhiều tuổi hơn nhưng lại là vai em. Thoạt nhìn thấy hắn anh đoán đây là người con đầu của cô. Anh tiến lại, chủ động bắt tay và nói bằng tiếng Anh “Rất vui gặp You!”
Tiếng Anh chỉ có You và Me, rất tiện trong trường hợp này.
Nghĩ cũng lạ, anh em cô cậu ruột mà già rồi mới gặp nhau. Hai anh em hai chiến tuyến, nay ngồi với nhau trên đất Mỹ.
Hắn tỏ ra kính cẩn với ông anh, một phần do lễ giáo, phần khác là kiểu dân võ biền thường tự ti trước những người có mác trí thức.
Hai anh em nói chuyện như cần phải nói. Nghĩa là không nói một cái gì cụ thể. Vì thế câu chuyện tự nhiên, không gò bó, tuy An có vẻ hơi kiệm lời.
Ăn cơm xong, cả nhà chụp hình kỷ niệm. Hắn tiến đến gần Tuân xin phép ra sân bay. Hắn phải bay 7 tiếng về bờ Đông để mai sớm có mặt ở sở làm việc.
Vậy là hắn đã mất từng ấy tiếng bay sang Cali chỉ để gặp ông anh.
Tuân nhìn thẳng vào hắn. Anh nhận ra cặp mắt và vầng trán hắn giống anh. Một nốt ruồi phía dưới đuôi mắt cũng giống như của anh. Hình như hắn cũng nhận ra những nét giống nhau giữa hai người.
Tuân nắm chặt tay hắn:
– Mừng nhất là chúng ta đã không gặp nhau trên chiến trường. Chúc chú khoẻ và hy vọng lần sau gặp lại sẽ có nhiều thời gian trò chuyện hơn.
– Cảm ơn anh. Chúc anh đi chơi vui!
Hắn rời đi, dáng người đàn ông an phận sau nhiều giông tố cuộc đời, không ai có thể đoán đó từng là viên thiếu tá chỉ huy nhảy dù.
Đêm đã khuya, chỉ còn hai cô cháu ngồi với nhau. Tuân ngắm cô. Vẫn cái trán ấy, đôi mắt ấy. Cô đã tám mấy rồi, linh cảm mách bảo đây là lần cuối cùng anh gặp cô. Xa xôi quá, khi cô nằm xuống anh không thể bay sang kịp.
Hình như cô cũng có cảm nghĩ như thế.
– Thằng An giống cháu hơn mấy đứa kia.
– Cháu cũng thấy vậy.
– Cả nhà mỗi mình nó giống bên ngoại.
Cô muốn kể cháu nghe một chuyện. Chuyện này thằng An chỉ kể cho cô nghe, từ năm 1971, tụi em nó cũng không được biết.
Năm đó nó chỉ huy đơn vị nhảy dù vào căn cứ nơi cơ quan lãnh đạo Việt Cộng tỉnh đóng. Nhiệm vụ của nó là bắt các cán bộ chủ chốt rồi phá hủy căn cứ. Nó đứng một chỗ, luôn miệng hò hét xua cấp dưới toả ra xăm tìm hầm bí mật.
– Chiến tranh mà cô, chuyện đó cũng bình thường. Tuân bình luận.
– Không bình thường đâu cháu, hãy nghe cô kể nốt.
Đơn vị nó hoàn thành nhiệm vụ. Đêm hôm đó nó về qua nhà và kể với cô là cả ngày con đứng trên miệng hầm của cậu để lính không đụng đến chỗ đó.
Là hầm của ba cháu đó. Tài liệu thám báo chỉ đích xác căn hầm của ba cháu. Thằng An biết và đã bảo vệ cậu.
Tuân lặng người, ngồi một lúc lâu mới hỏi:
– Thế ba cháu có biết em An cứu ổng không?
– Không, làm sao ông biết được?
– Thời gian đi học tập cải tạo nó có khai chi tiết này không?
– Không. Khai ra ai tin?
Tuân lại ngồi yên lặng. Phía xa, ngoài xa lộ, những chiếc xe hơi lao vút trong đêm.
Giờ này An bay đến đâu rồi, trên bầu trời nước Mỹ?
Số phận không cho hai anh em được gần nhau, được hiểu nhau hơn. Nhưng giờ Tuân đã hiểu. Số phận mỗi gia đình, mỗi dòng tộc nằm chung trong số phận éo le của đất nước. Anh em trong một nhà thành kẻ thù của nhau.
Song mối liên hệ thiêng liêng máu mủ không bao giờ gián đoạn. Chúng ta còn đến ngày nay, sau hơn ngàn năm chinh chiến, là nhờ chúng ta biết thương nhau hơn là giỏi chém giết?
Cha anh mất đã lâu rồi, An ạ. Ông không thể cảm ơn đứa cháu đã cứu mạng mình. Anh cũng sẽ không nói lời cảm ơn. Hiểu là một cách cảm ơn chân thành nhất!
Đọc Phan Chí Thắng nhớ Nguyễn Khải Hoàng Kim
Đọc “Ông chánh Sở” của anh Phan Chi Thắng lại Thương nhớ Nguyễn Khải với cái Tùy bút cuối cùng “Đi tìm cái tôi đã mất”.
Xin chép lại và so sánh vài trích đoạn:
Nguyễn Khải (đoạn 1): “Tôi về một xã, xã cho tôi ở nhà một anh bưu tá, lúc rảnh rỗi hỏi chuyện gì anh cũng bảo không biết. Ở xã ba ngày, đảng uỷ, uỷ ban không ai tiếp cả. Có một buổi tối có một anh chàng to béo đến chơi với gia đình, cả vợ lẫn chồng nhà chủ ăn nói thưa gửi, bộ điệu khúm núm. Anh ta ngồi ưỡn người trên ghế tựa, hai chân xoạc rộng, hai bàn tay đặt lên bụng, nói hỏi trống không, thỉnh thoảng đưa mắt nhìn tôi nhưng không hỏi gì, chào cũng không, mắt nhìn cứ lừ lừ, mà hắn chỉ đáng tuổi con tuổi cháu. Tôi cứ nghĩ tay này hẳn là dân buôn bán ở tỉnh có họ hàng gì với anh chủ nhà, tạt qua chốc lát rồi đi. Nhưng anh bưu tá lại bảo đó là ông chủ tịch xã.
Lại một ngạc nhiên nữa ! Mấy ngày sau lại về một xã thuộc phía Bắc tỉnh. Cách đây đã ba chục năm tôi đã đi đi về về xã đó khoảng một năm để viết về một anh chủ tịch xã chưa tới ba mươi tuổi trong cái thời có cao trào lập hợp tác xã nông nghiệp. Ngồi chơi ở phố huyện kề liền xã bất ngờ lại gặp người quen cũ của mấy chục năm trước. Hiện giờ ông ấy đã ngoài sáu chục tuổi, có cửa hiệu chụp ảnh ở ngay phố, to béo, rềnh ràng, chuyện gì cũng biết, lại biết cách thuật lại về mọi cái biết của mình một cách sống động, tươi rói, nghe chuyện mà tưởng như chính mình cũng được chứng kiến. Nhà văn mà gặp được một người như thế là có thể nghĩ ngay một cuốn sách sẽ viết, viết cũng nhanh thôi, vì mọi vật liệu đã sẵn sàng. Bao nhiêu chuyện xui xẻo, buồn bã của chuyến đi bất thần được đền bù quá hậu hĩ nhân một lần gặp lại người quen cũ. Đang mừng khấp khởi liền bị mấy ông xã nhảy vô phá đám, đi một bước có trưởng công an xã theo một bước, vừa là người hướng dẫn vừa là người bảo vệ. Chỉ được trò chuyện với người đã được xã giới thiệu và ăn ngủ tại nhà ông bí thư xã.
Nhưng tôi đâu có chịu thua hoàn toàn. Xuống cái xã bị ghẻ lạnh thì tôi chơi với dân, viết về một ông nông dân bị giời hành, được bạn bè khen là rất khá. Về cái xã được chiều chuộng quá mức tôi viết được cái bút ký “Mất toi một cuốn sách”.
Sang tuổi 70, mọi hoạt động của con người đều chậm, đều kém, riêng cái chuyện viết lách của tôi vẫn giữ được phong độ gần như xưa, vẫn viết rất nhanh, riêng cái nhìn thì trào lộng nhiều hơn, ngậm ngùi nhiều hơn. Nó là thứ hương vị thơm ngát chắt ra từ hơn bảy mươi năm được làm người“.
Xin bạn đọc so sánh với bài của anh Phan Chí Thắng (nguyên văn “Ông chánh Sở” ).
Hai cậu cháu lão Hâm ở hai thành phố khác nhau nên họ ít khi gặp mặt. Năm thì mười họa họ gọi điện hỏi thăm nhau hoặc nhờ cậy việc gì đó. Còn chủ yếu là gặp vào các dịp tết nhất hoặc hiếu hỉ.
Nó xinh. Bốn mươi lăm tuổi rồi mà người vẫn thon thả, da mịn màng như da con gái. Nhìn nó ăn mặc lụa là ngon nghẻ ai cũng khen, pha một chút ghen tỵ:
– Bà bác sỹ vợ Giám đốc Sở có khác!
Mỗi lần lão Hâm về quê có việc, nó hay đón cậu về nhà nó ngủ, để cậu đỡ tốn tiền khách sạn. Vì nhà nó rộng, luôn có phòng để không. Nhà Giám đốc Sở cơ mà!
Ông cháu rể người tầm thước, lộ rõ nguồn gốc nông dân. Da sạm và bì bì do nhiều bia rượu và các món ăn bổ dưỡng. Cái nhìn xeo xéo vừa ra vẻ cấp trên vừa như là lo ngại ai lấy mất của mình cái gì.
Thường lão Hâm ít giáp mặt cháu rể vì cháu rể toàn đi nhậu đến khuya mới về. Công việc của Giám đốc Sở là vậy. Nhậu quá bến luôn, không thèm tới bến.
Mà nếu có gặp nhau thì cũng chỉ ngúc ngắc dăm câu xã giao vì thâm tâm lão Hâm chê thằng ấy quê, còn thằng ấy thì nghĩ là ông cậu vợ hâm.
Lão Hâm chả thèm hỏi thằng cha ấy làm Giám đốc sở nào. Sở nào thì cũng vậy thôi, ngon hơn ngon kém một ít, đằng nào thì cũng là ngon.
Vợ chồng cháu có hai căn nhà ba lầu, một để ở, một cho thuê. Cộng một miếng đất dăm trăm mét vuông ở ngoại thành để trồng cây chơi. Đó là phần nổi. Phần chìm thì thánh mới biết.
Thôi thế cũng được, lão Hâm nghĩ. Thằng chồng vơ vét ở đâu mình không biết. Khuất mắt là coi như không thấy. Miễn là nó yêu thương vợ con, lo cho vợ con đầy đủ là tốt rồi. Cháu mình sướng, mình bớt phải lo. Mặt khác, thấy cô cháu phởn phơ, tươi tỉnh, lão Hâm cảm thấy yên tâm về cuộc sống gia đình cháu.
Hôm rồi có việc hiếu, lão Hâm bay về quê. Mọi người trong nội ngoại tộc ai nấy đều buồn thiu, mặt mày ủ rũ, tất bật việc này việc nọ nên lão Hâm không để ý thấy dưới đôi mắt xinh đẹp của cô cháu gái có quầng thâm. Mãi đến tối, về nhà cháu nghỉ ngơi lão mới nhận thấy.
Cô cháu ngồi cuối cái đi văng, cố tình để sấp bóng cái đèn cây. Cái chao đèn to đùng che bớt nửa khuôn mặt.
– Cháu sao vậy, mấy hôm nay mất ngủ à?
– Sao cậu biết?
– Thì tao thấy mày bơ phờ, hai mắt trũng sâu.
Cô cháu không nói gì, tay mân mê cái khăn trải bàn làm từ lụa tơ tằm. Rồi hai giọt nước mắt từ từ lăn trên má.
– Cháu cực lắm cậu ơi. Nhiều khi hết muốn sống.
– Mày sướng thế mà còn kêu khổ thì ai trên đời này mới được gọi là sướng? Chồng làm to, con ngoan học giỏi, bản thân mình có nghề nghiệp và công việc vững vàng, nhà cao cửa rộng, xe sang, quần áo dăm chục bộ. Nói chi lạ rứa!
– Cháu sẵn sàng đánh đổi hết nhà cao cửa rộng để lấy một cuộc sống vợ chồng bình thường cậu ạ.
– Nó đánh mày à?
– Còn hơn cả đánh. Cái đó gọi là bạo hành thời @.
– Là sao?
Cô cháu từ từ kể lại câu chuyện đau đớn của mình, xen với những lần dùng tay quệt nước mắt.
*
* *
Cô bác sỹ trẻ với cái lý lịch dính líu ngụy quân ngụy quyền bị phân công về bệnh xá một huyện miền núi.
Cô ở đó 5 năm, vất vả, gian khổ. Cũng có thể sẽ là nhiều hơn 5 năm hoặc vĩnh viễn ở đó, nếu cô không gặp người sau này là chồng cô, ông Giám đốc Sở tương lai.
Anh gầy gò, đen đúa. Mà thực ra, cả đoàn càn bộ của huyện lên thăm xã miền núi ai cũng đen đúa gầy gò cả. Dáng dấp quê mùa của anh một thời được nghi nhận là thật thà hiền lành.
Qua dịp đó, hai người làm quen nhau, thư từ qua lại. Một năm sau anh xin cưới cô.
Anh gia đình thành phần cơ bản, nói cho vuông là nông dân, bố tham gia du kích bị địch bắn chết. Anh là con liệt sỹ. Con liệt sỹ thì được cộng điểm ưu tiên vào đại học, ưu tiên khi phân công tác. Mấy chú trên tỉnh tốt lắm, nâng đỡ con bạn như một cách tri ân với người đã khuất.
Anh cứ tuần tự mà thăng quan tiến chức. Đến một cái chức nào đó thì người ta hoàn toàn có khả năng xin cho vợ chuyển về bệnh viện tỉnh. Việc đó hoàn toàn hợp lý vì chị đã cống hiến nhiều năm cho vùng sâu vùng xa rồi. Tuy nhiên chắc gì đã là hợp lý đối với những người không có nhất thân nhì thế.
Tính anh hay ki cóp. Chị rất hiểu và thương. Nhiều năm sống trong thiếu thốn, chính chị cũng muốn dành dụm để cất một cái nhà mà ở. Tiền anh kiếm thêm, tiền chị làm thêm đều gom lại để anh gửi tiết kiệm. Người ta nói của chồng công vợ. Người ta còn nói giàu nhờ bạn sang nhờ vợ. Chị là người có học, chị quá biết. Chị không theo rõi các sổ tiết kiệm xem trong sổ có bao nhiêu tiền. Việc này để anh lo.
Anh cũng không đưa tiền cho chị đi chợ. Nội trợ là việc của đàn bà. Anh còn hơn khối thằng đàn ông vợ phải chu cấp tiền bia rượu thuốc nước.
Lâu lâu anh lại rỉ tai vợ:
– Anh gom được gần 90 triệu rồi. Em xem có tiền bù thêm cho đủ 100 để anh gửi ngân hàng.
Có thì chị đưa, không có thì chị vay mượn cho đủ. Mấy tháng sau đó chị ráng trực thêm giờ, ráng xoay xở tiền trả nợ.
Cứ thế chị chăm chút cho ngôi nhà hạnh phúc của mình.
Xong ngôi nhà thứ nhất, họ lo tiếp ngôi nhà thứ 2. Có hai cái nhà thì hạnh phúc biến mất, như chưa bao giờ có. Nhất là từ khi anh lên Chánh Sở thì hạnh phúc gia đình đã trở thành một ước mơ xa vời.
Anh ăn nhậu triền miên với ai đó, đi khuya bất thùng chi thình với ai đó. Chị kệ. Anh không quan tâm đến chị, đến sức khỏe chị, đến việc chị vui hay buồn. Chị khóc. Hình như anh cần một người để sinh con và trông nhà nấu cơm cho anh ta.
Chị buồn lắm. Đêm đêm nằm khóc một mình. Người gầy rộc. Đi khám chuyên khoa, cô bạn bác sĩ nói chị bị suy nhược thần kinh. Tối đó chị nói với chồng là em bị ung thư buồng trứng. Những tưởng anh sẽ sửng sốt, đau đớn, cuống quít lo tìm phương cứu chữa, tìm thầy tìm thuốc cho vợ. Không. Anh lặng lẽ về buồng, thức khuya viết một tờ di chúc của hai vợ chồng, trong đó ghi là để lại cho mỗi đứa con một ngôi nhà. Sáng sớm hôm sau, khi vợ vừa lo xong bữa sáng, anh đưa cho chị tờ giấy, bảo xem đi rồi ký.
Chị òa khóc:
– Anh không lo gì cho sinh mạng của em mà chỉ lo chuyện tài sản là sao?
– Anh lo chứ, nhưng lo chuyện hậu sự cũng là lo?
Từ đó chị hết hy vọng níu kéo hạnh phúc. Chị chỉ là cái máy đẻ, cái máy kiếm tiền nuôi cả nhà và phụ thêm cho anh tích lũy.
Cũng dịp ấy bệnh viện nơi chị công tác triển khai quy chế cấm bác sỹ nhận tiền của bệnh nhân, nói chung là chống tiêu cực, đề cao khẩu hiệu “Lương y như từ mẫu”
Thu nhập của chị giảm hẳn đi. Thiếu tiền đi chợ, chị nói với anh. Anh cáu:
– Bệnh viện em vẽ chuyện, quy chế cái con khỉ! Thiếu tiền thì từ nay em bớt mua sắm quần áo đi. Người dân đang sống thiếu thốn mà em trưng diện quá cũng không hay, vừa lãng phí vừa vô lương tâm.
Rồi anh cũng đưa tiền chợ cho chị, nhưng lấy ngay quyển sổ ra ghi chép đầy đủ trước mặt chị. Để theo rõi xem chị có ăn bớt tiền chợ hay không.
Ngày Tết, ngày lễ nhà anh rất nhiều khách. Cấp dưới trực tiếp, cấp dưới có liên quan, các cơ quan hữu quan v.v. đến tấp nập. Anh không bao giờ nhận phong bì. Đạo đức tư cách người lãnh đạo không cho phép làm việc đó. Đó là việc của phu nhân lãnh đạo. Song anh có biệt tài là nhớ hết những ai đến đưa quà, tổng cộng là bao nhiêu phong bì, đề phòng chị ăn bớt.
Dịp 30 tháng Tư vừa rồi cũng vậy, rất nhiều khách đến thăm. Chị nhận hết các phong bì rồi chuyển lại cho anh đầy đủ khi khách đã ra về.
Gần 11 giờ đêm, anh gõ cửa phòng chị, mặt hầm hầm:
– Thằng X công ty Y năm ngoái đi hai triệu sao năm nay chỉ có một?
Chị như bị một cái tát vào mặt. Anh nghĩ chị lấy bớt đi một triệu chăng?
– Anh đi mà hỏi nó. Nó đưa bao nhiêu em đưa lại anh nguyên phong bao chưa bóc.
Anh không tin thì mai đứng ra mà tự nhận phong bì.
Chuyện này thì không thể. Anh đành nhân nhuợng:
– Anh hỏi cho biết cái bụng của thằng X thôi. Chả hiểu sao năm nay nó đi ít thế?
Khuôn mặt anh bần thần đến thảm hại. Ngày hôm sau anh bưng về một cái hòm phiếu, cái mà người ta hay dùng để bỏ phiếu trong các kỳ đại hội. Nó được làm bằng kính nhựa trong, khung nhôm, mặt trên có xẻ rãnh để người đi bầu nhét phiếu vào đó. Có cả cái khóa đồng treo lủng lẳng. Trông rất công khai minh mạch.
Anh để cái hòm phiếu bên buồng chị, ở cái chỗ mà từ phòng anh, từ chỗ anh ngồi tiếp khách hé cửa nhìn sang là thấy rõ nó.
Khách đến, ngồi chơi nói chuyện với ông bà Giám đốc Sở. Họ kín đáo đưa phong bì cho bà mệnh phụ phu nhân. Tiễn khách xong là bà chạy về phòng mình bỏ ngay lá phiếu vào hòm phiếu.
Đêm hôm đó, khi đã thiêm thiếp ngủ, chị giật mình thấy có bóng người vào phòng mình. Đó là anh. Nhiều năm rồi anh không vào phòng chị vào ban đêm. Chị hồi hộp, nín thở hy vọng.
Anh đi nhẹ nhàng rón rén. Cũng rất nhẹ nhàng, anh lần lượt khám xét túi xách của chị, cái tủ đầu giường, tủ treo quần áo. Gần một tiếng đồng hồ anh như cán bộ điều tra hiện trường xem xét tỉ mỉ xem chị có tiền riêng cất dấu ở đâu không.
Chị nằm im, cố không nhúc nhích. Sau khi anh rời phòng chị, chị cũng đơ người như vậy đến sáng. Nhục nhã cho mình và hổ thẹn cho anh.
Tóm lại, đối với anh tiền là tối thượng, là lẽ sống còn. Không tình, không nghĩa, không trách nhiệm gì cả.
Chị đã từng muốn li dị. Nhưng phần vì anh van vỉ khóc lóc xin xỏ, phần vì chị thương hai đứa con nên thôi. Chán nản, chị lao đầu vào công việc, lấy công việc làm niềm vui.
Cách đây mấy ngày có đoàn học sinh đi nghỉ mát bị lật xe, ba cháu chết, hơn hai chục cháu bị thương. Chị lo cấp cứu các cháu từ sáng đến tối mịt. Trưa chị không về nhà, gọi điện bảo anh ăn cơm đi, cơm trong nồi, thức ăn đậy lồng bàn, em còn lo mấy ca cấp cứu. Anh cáu trong điện thoại; “Tôi không biết hâm cơm!” rồi dập máy.
Tối đó chị về muộn, người mệt rũ nhưng lòng rất vui vì cứu được ba cháu bị thương nặng. Khác với mọi ngày đi nhậu xong là chui vô phòng bật điều hòa nằm, anh ngồi chờ chị ở phòng khách:
– Mai bà còn đi riết nữa không. Nếu còn đi thì tôi khỏi về nhà ăn trưa.
Chị cố nói thật nhẹ nhàng:
– Đó là công việc, là trách nhiệm và cũng là lương tâm của em. Em không thể bỏ các cháu đau đớn quằn qoại được anh ạ.
Anh chửi đổng:
– Mẹ, làm như không có cô thì thiên hạ này chết hết!
Ông cán bộ lãnh đạo luôn mồm “vì dân” mà nói thế đấy!
Chị không phản ứng, ra mở vòi nước rửa tay chuẩn bị ăn cơm. Cả ngày chị chưa có hột cơm nào vào bụng. Nhìn tay chị, chỗ cái nhẫn vàng hai chỉ là một cái vết trăng trắng, anh hoảng hốt:
– Cái nhẫn của cô đâu?
Chị chậm rãi trả lời:
– Em không có tiền mà cần tiền quá nên em bán đi rồi.
– Cần tiền làm gì, lại mua áo váy?
– Anh không để ý chứ đã ba năm nay em toàn xài quần áo cũ. Em không có nhu cầu mua sắm thêm.
– Vậy cần tiền làm gì?
– Có một vài loại thuốc rất cần cho các cháu mà kho dược bệnh viện vừa hết, em phải mua ngoài.
Anh há hốc mồm ngạc nhiên, đờ người vì cái tin kỳ lạ. Khuôn mặt méo xệch, anh đấm mạnh tay xuống bàn, tấm kính lót bàn vỡ tan:
– Ngu! Thời này mà còn có loại người ngu như cô!
*
* *
– Cháu buồn lắm cậu ạ. Cháu chả dám kể với ai, sợ mất thanh danh anh ấy. Chỉ kể với cậu thôi.
Lão Hâm nhìn đăm đăm vào cái chao đèn, cái chao đèn đang che khuất một nửa khuôn mặt cô cháu gái. Hồi lâu lão mới thốt lên:
– Thôi đi ngủ đi con, mai con còn phải đến bệnh viện làm việc rồi lại phải tranh thủ về chỗ đám tang.
Cô cháu ngoan ngoãn đứng lên đi về buồng. Cái lưng còng xuống.
Lão Hâm bật chai nước khoáng mặn ngồi uống một mình. Ước gì có một chai rượu. Chai rượu của riêng lão chứ trong tủ rượu của ông cháu rể thì đầy ắp các thứ rượu Tây hảo hạng.
Đã qua 12 giờ đêm, ông Chánh Sở đi nhậu vẫn chưa về”.
Qua lăng kính của một chủ tịch xã dưới ngòi bút tả chân trào lộng của Nguyễn Khải , một gia đình trí thức và một nhà văn dưới ngòi bút tả thực của Lão Hâm ta thấy được thực trạng xã hội về những vấn đề văn hóa.
Tự dưng, tôi tìm đọc lại ‘Nguyên Ngọc những trang văn ám ảnh’.
Hoàng Kim
Người viết thư thuê cuối cùng
Phan ChíThắng
Chúng ta thường nghĩ nhà văn hạnh phúc hơn người không viết văn, được sống nhiều số phận, được qua nhiều cuộc tình, những số phận con người và tình yêu khổ đau hạnh phúc của họ do chính nhà văn xây dựng nên.
Có một người duy nhất hơn thế. Ông không sáng tạo những Romeo và Juliet, không vẽ lên hòn vọng phu, không để những mối tình cuốn theo chiều gió. Ông chứng kiến tất cả những cái đó, với tư cách người viết thư thuê.
Từng có nhiều người không biết đọc biết viết, nhiều người không biết ngoại ngữ. Nên họ cần ông.
Toà nhà Bưu điện không như siêu thị, không phải viện bảo tàng để người ta lưu lại lâu. Người ta vội vàng đến, vội vàng đi. Việc họ cần là gửi bưu thiếp, lá thư hay món đồ.
Ông không nhớ hết bao nhiêu cuộc tình của những kẻ ở “hai đầu nỗi nhớ” mà ông từng tham gia làm cầu nối. Để viết thư giúp, ông phải hiểu, phải thấu hiểu, phải cảm những gì người ta muốn người bên kia biết và hiểu. Ông không đơn thuần là người viết giúp, nói giúp mà vô tình thành người để người ta tâm sự, người ta chia vơi nỗi đau, nhân lên niềm vui. Cũng có lúc ông như vị cha đạo ngồi nghe con chiên xưng tội. Không có tình yêu nào mà không có tội, có tội, trớ trêu thay, lại vì quá yêu.
Nhiều lần mấy tháng thư không có hồi âm. Tự dưng ông sốt ruột, không biết chuyện gì xảy ra với người nhận thư ở phương trời xa lắc. Ông bồn chồn lo lắng rồi thở phào nhẹ nhõm khi người đàn bà nọ chạy đến tìm ông, mắt sáng lên nghe ông đọc hoặc dịch từng câu một lá thư vừa mới nhận.
Năm nay ông đã ngót nghét 90, già yếu, một mắt mờ. Hàng ngày ông vẫn đạp xe đến Bưu điện Sài Gòn xế bên Nhà thờ Đức Bà, ngồi cạnh chiếc bàn nhỏ Bưu điện bố trí cho ông nhiều năm nay.
Thời hiện đại có điện thoại Internet miễn phí, có email, messenger, có Google dịch. Khách hàng của ông ít dần.
Ông vẫn ngồi đó, gầy gò nhỏ bé. Ông muốn thở cái không khí trong sảnh nhà Bưu điện, muốn nhìn thấy người ta vội vã ra vào, mỗi người là một thiên tiểu thuyết. Hơn ai hết, ông biết điều đó.
Ông không viết văn, không kể về những câu chuyện tình ông từng “tham gia”. Sống để bụng chết mang theo, đó là đạo đức nghề nghiệp.
Nhưng tôi không thể không viết về ông, về người viết thư thuê duy nhất còn sống.
Chắc chắn có nhiều đôi nhờ ông mà đến được với nhau hạnh phúc.
Họ mang ơn ông và cuộc đời giản dị của ông đầy ý nghĩa.
Ông tên là Dương Văn Ngộ, sinh năm 1930, thạo tiếng Anh tiếng Pháp.
Lão Hâm tôi cả đời không viết một bài báo nào, trừ thời đi học phải viết báo tường nộp chi đoàn. Hơn 10 năm chơi Facebook và 10 năm trước đó nữa chơi diễn đàn Vietnamnet, vnweblogs, nước Nga trong tôi… đến nay tôi viết cả chục ngàn bài, cũng không phải để đăng báo.Song tôi coi trang Fb của mình như một tờ báo, không phải để đưa tin hàng ngày mà để bày tỏ góc nhìn, tình cảm yêu ghét của mình trước những gì xảy ra hàng ngày trong đời sống xã hội.
Thời đại công nghệ thông tin, khoảng cách giữa người làm báo theo cách hiểu chính thống và người làm báo nghiệp dư ngày càng thu hẹp. Với chiếc điện thoại thông minh, bạn có thể quay clip anh cảnh sát cơ động đuổi bắt cướp và đăng lên mạng xã hội, bạn đã làm công việc của nhà báo. Bạn viết bài ca ngợi anh thanh niên làng bạn xả thân cứu người đuối nước – bạn là nhà báo.
Nhà báo có thẻ và nhà báo không thẻ (không có thẻ chưa hẳn đã nghiệp dư) khác nhau ở chất lượng bài viết chứ không phải ở danh xưng. Anh ăn lương của toà báo, tên anh đề dưới các bài báo đăng ở trung ương và địa phương, nếu không cố gắng, không tử tế, hoàn toàn có thể viết không hay bằng một Facebooker ăn lương vợ và chả có tên tuổi gì. Với sự tiến bộ khoa học công nghệ, với sự phổ cập Internet, với sự lan tỏa mạng xã hội, mỗi người chúng ta ở mức độ nào đó, đang tương tác như một nhà báo. Vì thế rất cần biết xử lý thông tin, chọn lọc, loại bỏ thông tin chưa được kiểm chứng, thông tin rác, không tiếp tay lan truyền thông tin rác.Và tất nhiên rồi, không được sản xuất thông tin rác.
Với suy nghĩ mỗi Facebooker là một nhà báo, nhân ngày Báo chí VN, tôi chúc mừng những ai làm trong lĩnh vực báo chí truyền thông và tất cả bạn bè chơi Facebook.
Hãy viết hay hơn, vui hơn, đáng yêu hơn nữa để tờ báo – trang fb của bạn luôn là một tờ báo đáng đọc!
TIỄN ANH TỐNG QUANG ANH
Hoàng Kim kính viếng
Vĩnh biệt anh Tống Quang Anh, một người anh cao quý: một nhà văn không chạy theo danh tiếng, một thầy giáo yêu nghề, một người bạn chí thiết của anh Phan Chi Thắng thầy bạn quý của em. Xin lưu ảnh hai anh và bài viết này về chung chuyên mục anh Phan Chi Thắng “Bài thơ viên đá thời gian” với sự yêu quý lắng đọng. Năm tháng đi qua chỉ tình yêu còn lại. https://hoangkimlong.wordpress.com/category/bai-tho-vien-da-thoi-gian/
VĨNH BIỆT TỐNG QUANG ANH ! Phan Chí Thắng
Tống Quang Anh cùng tuổi với tôi, cùng từng học ở Liên Xô, cùng có ham thích viết nhưng không tự nhận mình là nhà văn.
Anh là người Nam Bộ tiêu biểu. Hiền lành, đôn hậu, hào sảng. Lần tôi đi du lịch Campuchia cùng anh, có chuyến đến thăm lớp học sinh nổi trên Biển Hồ của các cháu Việt kiều nghèo, anh không đi được, gửi tôi mấy trăm ngàn cho các cháu.
Lần tôi vào Sài Gòn thăm bạn bè, anh chạy xe mấy chục cây số đến chơi với tôi ở nhà nhà văn Kao Sơn, thấy chiếc ba lô của tôi sắp đứt quai, anh đưa luôn cho tôi cái mới tinh anh đang dùng.
Tôi là người động viên anh biên tập cuốn hồi ký của cha anh – chiến sĩ tình báo hoạt động ở Lào. Anh nói anh học toán, không rành văn chương. Tôi nói tôi cũng không rành, cứ viết ra, hay dở không quan trọng, miễn là nói hết được lòng mình.
Anh mang bản thảo tác phẩm đầu tay đến mấy nhà sách, không đâu nhận bèn gọi điện hỏi tôi cách ra sách. Tôi giới thiệu anh với Trần Mai Hường, cô bé nhà thơ và giỏi việc in sách. Từ đó Trần Mai Hường giúp anh ra được 8 đầu sách, thật đáng nể sức viết của anh!
Anh viết về gia đình, quê hương Nam Bộ, đặc biệt là cộng đồng học sinh miền Nam mà anh coi như gia đình mình với những tình cảm yêu thương đằm thắm.
Tôi hay gọi anh là Tô tiên sinh (trên Facebook anh là Tô Quang Anh), đánh giá cao kiến thức đa dạng cũng như chất kẻ sĩ của anh.
Anh ra đi quá bất ngờ, còn một cuốn sách chưa in xong. Bạn bè ai cũng choáng váng vì mới tuần trước anh cùng nhóm bạn đi chơi miền Tây.
Biết là sớm muộn gì mỗi người chúng ta đều rời xa cõi tạm mà sao tôi không thể chấp nhận được một sự thật hôm nay là tang lễ của anh.
Vĩnh biệt anh, một nhà văn không chạy theo danh tiếng, một thầy giáo yêu nghề, một người bạn chí thiết!
Bài thơ Viên đá thời gian CHUYỆN THẦY LI LI NGHỆ
Hoàng Kim
Thầy Li Li Nghệ trong mắt tôi phảng phất giống Lão Quán của Lục Vân Tiên, Nguyễn Đình Chiểu, và ông già trong chuyện “Đá Đứng chốn sông thiêng” (*)
Tôi thật thích lời bình của thầy Đặng Chương Ngạn đã viết thật chí lý: Thưa anh Đoàn Lê Giang, thưa anh Lê Nghị Li Li Nghệ.Tôi nghĩ trên cao xanh kia, cụ Nguyễn Du sẽ mỉm cười mãn nguyện, nếu biết sau 200 năm sau ngày cụ mất, ở hạ giới, có một cuộc thách đấu liên quan đến “ lời quê chắp nhặt” của cụ.Hai anh dù ai thắng thua, thì tất cả bạn yêu Kiều theo dõi cuộc thách đấu trong 2 ngày qua đều không thể không thán phục về kiến thức uyên thâm của hai đối thủ.Có thể có những người cao thủ ẩn danh nên chúng ta không được biết, nhưng qua tranh luận, có thể khẳng định :- Không ai sưu tầm được nhiều tài liệu về Kiều như Ts DLG và NNC Lê Nghị- Không ai tìm hiểu Kiều thấu đáo như hai vị…tại thời điểm này.
Hai ngày qua, những người theo dõi cuộc thách đấu đã đi từ ngạc nhiên này, đến ngạc nhiên khác …Những người yêu Kiều có một cơ hội hiếm để sưu tầm thêm tài liệu, để học hỏi thêm kiến thức, và tôi tin rất nhiều người yêu Kiều đã phải lục tìm trong thư viện những cuốn sách cũ đã bị bỏ quên để kiểm tra lại những gì mình đã học, đã đọc về Kiều Cuộc tranh luận của hai anh không phí thời gian, rất có ích cho Kiều và cho tất cả mọi người. Thắng hay thua, các anh cũng đã làm mới lại, làm sáng tỏ …rất nhiều vấn đề mà người yêu Kiều từng nghĩ tới nhưng không có cơ hội để thực hiện !
Cuộc tranh luận của các anh đã làm sáng tỏ về từ “ Lôi Châu” – một trong những vấn đề tranh cãi khởi phát sự thách đấu.Đến bây giờ, cuộc tranh luận vẫn chưa minh định được rõ ràng việc vịnh Kiều của Chu Mạnh Trinh, nhưng anh Đoàn Lê Giang đã mang ra một bằng chứng thuyết phục ở status mới nhất :Tạp chí Tri Tân trong số chuyên đề kỷ niệm Nguyễn Du (63, 9/1942)…Và ở tut này, anh DLG cũng đã tuyên bố ngưng việc tranh luận và tôi chưa thấy anh LN lên tiếng tiếp.
Các anh còn tranh luận hay không…là việc riêng của mỗi người, nhưng tôi thấy các anh đều xứng đáng để tôn trọng lẫn nhau và để cùng nói chuyện tiếp về Kiều trong tương lai…Tôi viết com cuối cùng này do hai anh đã tag vào chúng tôi chứng kiến. Tôi mong hai anh TS Kim Hoàng, TS. Nguyễn Hưu Sơn sẽ có ý kiên riêng cho cuộc tranh luận này…” (Tuyệt vời ! tôi đồng tình kết luận).
Tôi (HK) đồng tình với quan điểm hệ thống kiến thức mở, đi đến cùng sự thật, của giáo sư Phạm Trọng Chánh (mặc dù không phải ý nào của giáo sư cũng đúng): ” Nghiên cứu không phải là chuyện độc quyền của riêng ai, không phải chuyện người sau đánh đổ người trước để được nổi danh hơn mà người đi sau nối tiếp người trước , làm giải quyết những nghi vấn còn tồn đọng, làm cho việc nghiên cứu ngày càng phát triển, sáng tỏ”. Một lần nữa cảm ơn quý Thầy về cuộc tranh luận bổ ích này để người đọc rõ hơn ai là ai, Nguyễn Du và Truyện Kiều
Đá Đứng chốn sông thiêng tại Làng Minh Lệ quê tôi ở Nam Sông Gianh cùng với Thiên Thụ Sơn ở Huế và Núi Đá Bia Phú Yên và Văn Miếu Trấn Biên Đồng Nai với Thiên Cấm Sơn An Giang là năm dấu ấn Nam Tiến của người Việt để thống nhất giang sơn về một mối. Đá Đứng chốn sông thiêng có câu chuyện ông già mù Cao Hạ đã khuyên tôi đổi tên từ Hoàng Minh Kim sang Hoàng Kim. Ông đến nhà tôi để đền ơn cha mẹ tôi đã cứu vớt con ông. Sau này cha mẹ tôi mất sớm “không được hưởng lộc con” (mà chỉ theo con che chở cho con lập nghiệp phương xa) và gia đình tôi đang êm ấm trở nên lưu tán không nhà, đúng như “Hoành Linh vô gia huynh đệ tán”. Tôi đã lần lượt chép lại, để tiện theo dõi mời lần lượt đọc năm mục từ: 1) Làng Minh Lệ quê tôi; 2) Linh Giang Đình Minh Lệ; 3) Đứng chốn sông thiêng; Đợi nắng; Ta về với Linh Giang; Hoa Đất, Đất Mẹ vùng di sản; Nguồn Son nối Phong Nha; 4) Đất Mẹ vùng di sản; 5) Đá Đứng chốn sông thiêng; (tiếp theo kỳ trước).
Bạn Hoàng Minh Thuần ở TU Bình Thuận trao đổi tổng quát: Dạ anh. Em cũng nghĩ khai thác được tour du lịch sông nước kết hơp thắng cảnh từ Cầu sông Gianh lên Ba Đồn, Chợ Mới, bến Lội đền Bốn Miếu, bến chợ Troóc, Phong Nha – Kẽ Bàng, động Thiên Đường, động Sơn Đoòng chẳng khác gì thắng cảnh TRÀNG AN… là điều kiện thuận lợi để quê mình phát triển.
(Tôi xin kể tiếp)
– Không phải ngẫu nhiên mà Pháp chọn Đà Nẵng làm điểm khởi đầu trong kế hoạch đánh chiếm Việt Nam đâu. Có lý cả đấy ! Vì Kinh đô Huế nằm ở Bắc Hải Vân mà thế và lực với sự thông thuộc của Nhà Nguyễn chính là đất phương Nam trong khi Hoành Sơn Linh Giang Lũy Thầy lại là tuyến ba tầng thủ hiểm che chắn Kinh đô Huế ở mặt Bắc nên Pháp không chọn đánh Thanh Khê đó thôi – Nhưng Linh Giang chính là hiểm địa, bẻ đôi Việt Nam. Ông già mù nói
. Cụ nói đúng, Bố tôi lập tức nhỏm dậy. Vì tôi đã bị bắt đi đi lính Pháp để đưa sang đánh nhau bên Tây, đóng quân ở Đà Nẵng bên sông Hàn, sau đó tôi trốn theo Vệ Quốc Đoàn nên rất thông thuộc địa hình đó. Pháp nếu đứng chân được ở Đà Nẵng thì chẹn được mặt Nam, cô lập kinh thành Huế, mẹo ‘đánh rắn giập đầu’ rất mau thắng được dân Nam..
– Trận Đà Nẵng năm 1857 tụi Pháp thua. Cha tôi nói. – Vì tướng Nguyễn Tri Phương giỏi cầm quân, Ông ấy tránh đánh trực diện mà dùng phục binh, lập kế ‘đóng cửa đánh chó’ làm “vườn không, nhà trống” triệt hết đường tiếp tế của địch, cách ly và xử nghiêm tụi gián điệp đội lốt giáo sĩ, giáo dân. Ông lại cho đắp lũy kiểu như Lũy Thầy, bao vây chẹn họng địch ra biển, vây đánh trường kỳ không cần thắng nhanh, nên trận Đà Nẵng bên mình thắng Pháp phải chuyển vào đánh thành Gia Định, chiếm dần đất đai của mình từ phương Nam theo kiểu tằm ăn lá dâu.
– Ông giỏi sử thiệt. Cụ già khen.
– Tôi ít học nhưng rất thích đọc sách Tam Quốc. Cha tôi nói : – Tôi thông gia với ông mẹt Rịnh thường kêu thằng Kim đọc sách Tam Quốc cho tôi và ông Rịnh nghe. Hôm nào ông Rịnh hoặc ông Thìn đến chơi, tôi không khi nào không kêu thằng Kim đọc sách Tam Quốc và sách Kiều, đến mức nó thuộc và kể được đấy. Mẹ nó thì mê nhất Lục Vân Tiên kế đến Kiều và Phạm Công Cúc Hoa.
– Cháu đọc cho ông nghe một đoạn nào? Cụ già nói.
Tôi ngước mắt nhìn Mẹ, Mẹ tôi cười khuyến khích: – Con đọc đi
Tôi đọc đoạn ông quán trong thơ Lục Vân Tiên mà mẹ thích:
– Thương ông Gia Cát tài lành,
Gặp cơn Hán mạt, đã đành phôi pha.
Thương thầy Đồng tử cao xa,
Chí thời có chí, ngôi mà không ngôi.
Thương người Nguyên Lượng bùi ngùi,
Lỡ bề giúp nước lại lui về cày.
Thương ông Hàn Dũ chẳng may,
Sớm dâng lời biểu tối đày đi xa.
Thương thầy Liêm Lạc đã ra,
Bị lời xua đuổi về nhà giáo dân.
Xem qua kinh sử mấy lần,
Nửa phần lại ghét, nửa phần lại thương.
– Địch đánh vô Thanh Khê cửa Hác không dễ. Bố tôi miên man kể. Ông nhớ thời lính tráng của ông: – Tôi dự nhiều trân đánh Pháp cùng thời và cùng đơn vị với Lâm Úy. Tôi ở đại đội 2 tiểu đoàn 274 của ông Lê Văn Tri làm tiểu đoàn trưởng thuộc Trung đoàn 18. Tôi vô sinh ra tử nhiều trận cùng anh em. Chỉ tiếc là đến năm 1951 bị đau bệnh sốt rét phù thủng ngã nước quá yếu trong khi đơn vị thiếu thốn thuốc men chữa trị và điều kiện chăm sóc nên trên mới phải cho giải ngũ về quê. Nếu không thì tôi đến nay đã nhất xanh cỏ nhì đỏ ngực rồi.
– Ông Lê Văn Tri là người Cao Hạ cùng làng với tôi. Sau này ông làm tướng rất to Cụ gìa nói
– Trân Phú Trịch Là Hà, địa thế và cách dàn quân hai bên cũng lựa thế hiểm yếu như là trận Bạch Đằng. Voi trận của Đức Thánh Trần sa lầy ở Sông Hóa. Các trận địa phục kích cũng là các cồn tại các ngả ba sông hiểm yếu như Chợ Mới, La Hà Phú Trịch vậy. Lời thề trên sông Hóa “Chuyến đi này không thắng, ta thề không về lại nơi này!” của đức Thánh Trần cũng như lời thề quyết tử chiến của đội cảm tử 15 trận Phú Trịch La Hà đã chết như voi trận của đức Thánh Tràn chết vậy. Cha tôi nói
– Đá Đứng chốn sông thiêng Cầu Minh Lệ Rào Nan Bến Lội Đền Bốn Miếu là nơi rất rất hiểm. Ông già lại xuống giọng thầm thì. Ngã ba sông Chợ Mới là hiểm địa. Đá Đứng chốn sông thiêng là rất rất hiểm địa. Ông có biết vì sao đối diện Bến Lội Đền Bốn Miếu là động Ma Ca không? Thiêng lắm đấy, vì có quá nhiều người chết. Đây là nơi chính phân tranh từ nhiều đời. Thời Cao Vương lập đá Đứng bỏ bút thần. Thời Núi Đá Bia ngón tay minh sư thệ trời xanh bước qua lời nguyền chia cắt đấy. Giá máu xương cao lắm ! Chỗ cao giá hiểm nguy. Cụ già lặp lại.
Cụ già quay sang tôi, bắt tôi nhắc lại mấy lời khẩu quyết. Cao cát Mạc sơn / Sơn Hà Cảnh Thổ / Văn Võ Cổ Kim / Linh Giang thông đại hải / Ngũ Lĩnh tiếp Cao Sơn / Đình Bảng Cao Lao Hạ / Miếu cổ thủy sơn thần./ …. Mắt ông rất thành khẩn. Hốc mắt ông dường như có nước mắt. Người ông khoan thai thần bí và trầm tĩnh lạ lùng. Tôi cẩn thận lặp lại. Cha mẹ tôi im nghe và tỏ vẻ khuyến khích con. Cụ già nói chậm rãi: Ông bà thay tên cho ’em’ đi: Hoàng Kim tốt hơn Hoàng Minh Kim. Ông tánh trung trực nghĩa khí, bà tánh đức độ, hiền từ, nhà có phước đức, sẽ thành dòng họ lớn ở phương xa, con cháu có quý tử, nhưng ông bà không được hưởng lộc con, mà theo con hưởng phúc và bảo bọc che chở cho con cháu.
Cụ già dặn tôi “làm vàng ròng, ngọc cho đời, nên bớt sáng”. Đây là chuyện lạ của lời dặn thứ ba. Chuyện lạ đến mức anh hai Hoàng Ngọc Dộ đã quyết chọn Hoàng Kim làm tên gọi cho em từ lớp 10 sau khi cha mẹ mất và toàn gia lưu tán.
Tôi mồ cha mẹ từ nhỏ mất sớm. Thầy Nguyễn Khoa Tịnh khóc trên bục giảng Thầy tăng tôi cuốn sách Trần Hưng Đạo Binh Thư Yếu Lược với lời đề tặng từ tuổi thơ để tôi lưu lại Lời dặn của Thánh Trần và thầy viết bài thơ Em ơi em can đảm bước chân lên lưu những bài thơ tuổi thơ của chính tôi cho tôi. Tôi được anh trai Hoàng Ngọc Dộ và chị gái Hoàng Thị Huyền bảo bọc cưu mang từ nhỏ khi cha mẹ mất sớm, chị gái Hoàng Thị Huyên đã lấy chồng và anh trai Hoàng Trung Trực dấu chân người lính, bom đạn giữa chiến trường, Tôi gạt nước mắt ra đi, thề trước mộ cha mẹ theo Lời dặn của Thánh Trần với Lời thề trên sông Hóa. Thật xúc động ngày về quê tảo mộ tổ tiên Quảng Bình đất Mẹ ơn Người, trời đất tổ tông linh thiêng đã lặng thầm phù trợ,