Số lần xem
Đang xem 983 Toàn hệ thống 1885 Trong vòng 1 giờ qua
Trang liên kết
Tỉnh thức
giữa đêm thiêng Yên Tử
Để thấm hiểu đức Nhân Tông
Ta thành tâm đi bộ
Lên tận đỉnh chùa Đồng
Tâm sáng Ức Trai
trong tựa ngọc TÌNH YÊU CUỘC SỐNG
DẠY VÀ HỌC Để chấn hưng giáo dục Việt Nam cấp thiết phải có đội ngũ những người thầy giáo ưu tú có tâm đức thiết tha với nghề, có trình độ chuyên môn cao và có kỹ năng giảng dạy tốt. Đây là trang thông tin chuyên đề dạy và học để trao đổi và bàn luận
Norman Borlaug Lời Thầy dặn Việc chính đời người chỉ ít thôi
Chuyên tâm đừng bận chuyện trời ơi
Phúc hậu suốt đời làm việc thiện
Di sản muôn năm mãi sáng ngời.
Bài nghiên cứu Môhamet và đạo Hồi của Hoàng Kim đã cung cấp một góc nhìn khái lược toàn cảnh về thế giới Hồi giáo ngày nay cho những ai chỉ chăm chú việc chính của mình, ít thời gian quan tâm thời cuộc nhưng có thể hiểu khách quan đúng bản chất sự vật và tránh được sự ngộ nhận https://hoangkimlong.wordpress.com/category/mohamet-va-dao-hoi/
“Đi đâu cũng không bằng Tổ quốc mình. Nói gì, làm gì cũng không bằng dạy, học và làm cho đồng bào đất nước mình. Đi khắp quê người để hiểu đất quê hương. Mục đích sau cùng của dạy và học là thấu suốt bản chất sự vật, có lời giải đúng và làm được việc. Dạy và học thực tiễn trên chính Tổ quốc mình”. Đêm trắng và bình minh Hoàng Kim lời tâm đắc
“Dĩ bất biến ứng vạn biến”. Đường lối cách mạng của nước Việt Nam ngày nay thích hợp bền vững trong tình hình mới, thời đại mới, đã được Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đúc kết tinh hoa tại bài viết: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” xác định rõ đường lối, quan điểm, tầm nhìn chiến lược, cương lĩnh và kế hoạch hành động: “Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức; Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; Bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội; Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hoá, đa dạng hoá, hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế (in đậm để nhấn mạnh HK); Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp với sức mạnh thời đại; Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện“.
VIỆT NAM THÔNG TIN KHÁI QUÁT Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim
Việt Nam thông tin khái quát tiếp nối bài Thông tin nhanh về Việt Nam thuộc nội dung VIỆT NAM HỌC Tổng quan văn hoá và kinh tế xã hội Việt Nam là tập tài liệu giảng dạy nghiên cứu Việt Nam Học: người Việt, tiếng Việt, nông nghiệp Việt Nam, văn hóa, kinh tế, xã hội, du lịch sinh thái. Mục đích tập tài liệu này nhằm đúc kết kiến thức nền Việt Nam Học, giúp việc tìm hiểu đất nước con người Việt Nam “vốn xưng nền văn hiến đã lâu; núi sông bờ cõi đã chia, phong tục Bắc Nam cũng khác” (Nguyễn Trãi, 1428) với phẩm chất văn hóa thân thiện, tốt đẹp.Việt Nam thông tin khái quát được đúc kết cập nhật theo Wikipedia tiếng Việt và các nguồn trích dẫn chính thực có liên quan tới ngày 30 tháng 6 năm.2021. Thông tin nhanh về Việt Nam và một số bài đọc thêm có liên quan lưu ở cuối trang này
xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/viet-nam-thong-tin-khai-quat/
lên Thái Sơn hướng Phật, cha con tôi có 20 ghi chú về Trung Quốc một suy ngẫm trò chuyện những bàn luận của các học giả, nhà văn khả kính Việt Nam về Trung Quốc ngày nay. Trong đó có phiếm đàm của Trần Đăng Khoa “Tào lao với Lão Khoa” Tiếng là phiếm đàm nhưng sự thực là những việc quốc kế dân sinh, tuy là ‘tào lao’ mà thật sự nóng và hay và nghiêm cẩn.
Trung Quốc một suy ngẫm là một câu chuyện dài . Hoàng Kim và Hoàng Long đã có 20 ghi chú nhỏ (Notes), mỗi ghi chú là một đường link, được chép chung trong bài “Lên Thái Sơn hướng Phật” ghi lại những ký ức về các chuyến du khảo Trung Hoa của chúng tôi, tạm coi là nhận thức luận của riêng mình. Ngoài ra còn có bài nghiên cứu lịch sử Từ Mao Trạch Đông tới Tập Cận Bình được định hình thành hai bài viết “ Bình sinh Mao Trạch Đông và Bình sinh Tập Cận Bình . Trung Quốc có nhiều nơi hiểm trở, núi cao vọi và sông vực sâu thẳm quanh co, có đủ các hạng người, có đủ chí thiện cực ác và minh sư. Nguyễn Du trăng huyền thoại gợi nhiều suy ngẫm. Bài này là các ghi chú nhỏ cho chính mình và chép tặng bạn đọc. xem thêm (*) Hoa Kỳ newsTin Tức Về Trung quốc. 25 tháng 2 lúc 20:06
Thái Bình Thiên Quốc là phong trào nông dân lớn nhất, tiêu biểu nhất trong lịch sử Trung Quốc thế kỷ 19, là kinh nghiệm đặc biệt quý giá cho các cuộc cách mạng về sau. ” Đừng bỏ quên nông dân, đó là bài học lớn lịch sử”. Mao Trạch Đông Chủ tịch Trung Quốc mới thế hệ thứ nhất đã nói vậy. Ông thường nghiền ngẫm Tư trị Thông giám, Thủy Hử, Tam Quốc và Thái Bình Thiên Quốc Mao Trạch Đông tác phẩm đầu tiên là “Báo cáo khảo sát phong trào nông dân Hồ Nam”. Thái Bình Thiên Quốc là bài học lịch sử lớn soi thấu thành công và thất bại của nông dân cầm quyền. Một đất nước chủ yếu là nông dân thì hiệu quả đổi mới đích thực là nhìn vào chất lượng cuộc sống của người nông dân, là khi người nông dân thay đổi được số phận của mình. Nhân ngày Thái Bình Thiên Quốc đọc lại Bình sinh Mao Trạch Đông (trích); Trung Quốc một suy ngẫm
Bình sinh Mao Trạch Đông và Bình sinh Tập Cận Bình là nghiên cứu lịch sử nhằm tìm hiểu bình sinh Mao Trạch Đông và bình sinh Tập Cận Bình chủ yếu ở lĩnh vực sáng tạo và công nghệ. Bởi họ là những người đứng đầu có ý nghĩa rất quan trọng trong quyết sách quốc gia để trỗi dậy hay trả giá đau đớn. Chủ tịch Trung Quốc Mao Trạch Đông là một nhân vật hiếm có trong lịch sử, nghìn năm công tội. Thời gian và sự khen chê không thể xóa nhòa những dấu ấn nổi bật của Mao. Di sản của Mao Trạch Đông không chỉ là bốn bộ trước tác nổi tiếng “Luận về thực tiễn”, “Luận về mâu thuẫn”, “Bàn về đánh lâu dài” “Bàn về Chủ nghĩa Dân chủ mới” mà chủ yếu là triều đại, thực tiễn và tư tưởng. Chức vụ tối cao của Mao Trạch Đông được trao truyền qua các thế hệ lãnh đạo của Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa lần lượt từ Mao Trạch Đông, tiếp nối là Đặng Tiểu Bình, Giang Trạch Dân, Hồ Cẩm Đào, đến Tập Cận Bình, nay đã trên 70 năm. Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình là con người bí ẩn với hai cuốn sách lớn “Làm việc với những thứ thật, bước đi ở vị trí hàng đầu” và “Những Suy tư từ sông Dương Tử“ góp phần giúp ông giành thắng lợi trong cuộc bầu cử khó khăn chọn ra người đứng đầu chính phủ cùa một quốc gia hơn 1, 34 tỷ người, dẫn đến việc chuyển giao quyền lực năm 2012. Cách hành xử của vị lãnh tụ này thật cẩn trọng, quyết đoán và khó lường. Các chuyên gia chiến lược thế giới suy đoán về tư tưởng và đường lối chính trị của Chủ tịch Tập Cận Bình là Chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc trong thời đại mới ,Giấc mộng Trung Quốc, ‘Một vành đai một con đường’ kế thừa và phát triển Chủ nghĩa Mác-Lênin Tư tưởng Mao Trạch Đông Lý luận Đặng Tiểu Bình, Thuyết Ba Đại Diện, Quan điểm phát triển khoa học. Chủ tịch Tập Cận Bình chọn theo Mao là chọn theo đường lối thực tiễn “có lý, có lợi, đúng lúc”.Từ Mao Trạch Đông tới Tập Cận Bình Bài 1 đã được đăng năm 2015 . Bài 2 đã được đăng năm 2016. Bài 3 đăng vào ngày 10 tháng 10 năm 2017 Bài 4 đăng ngày 23 tháng 7 năm 2018. Bài 5 đăng ngày 23 tháng 7 năm 2020.
BÌNH SINH MAO TRẠCH ĐÔNG
Ngày 19 tháng 6 năm 1945, Mao Trạch Đông được bầu làm Chủ tịch Uỷ ban Trung ương của Đảng Cộng sản Trung Quốc, ông liên tục giữ chức vụ này cho đến khi từ trần. Ngày 19 tháng 6 năm 1944, trước đó một năm so ngày Mao đượcbầu , cũng là ngày khởi đầu trận hải chiến bằng hàng không mẫu hạm lớn nhất trong lịch sử thế giới giữa hải quân Đế quốc Nhật Bản và hải quân Mỹ tại quần đảo Mariana, thuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai, kết quả hải quân Mỹ thắng.
Bài nghiên cứu Môhamet và đạo Hồi của Hoàng Kim đã cung cấp một góc nhìn khái lược toàn cảnh về thế giới Hồi giáo ngày nay cho những ai chỉ chăm chú việc chính của mình, ít thời gian quan tâm thời cuộc nhưng có thể hiểu khách quan đúng bản chất sự vật và tránh được sự ngộ nhận https://hoangkimlong.wordpress.com/category/mohamet-va-dao-hoi/
“Đi đâu cũng không bằng Tổ quốc mình. Nói gì, làm gì cũng không bằng dạy, học và làm cho đồng bào đất nước mình. Đi khắp quê người để hiểu đất quê hương. Mục đích sau cùng của dạy và học là thấu suốt bản chất sự vật, có lời giải đúng và làm được việc. Dạy và học thực tiễn trên chính Tổ quốc mình”. Đêm trắng và bình minh Hoàng Kim lời tâm đắc
“Dĩ bất biến ứng vạn biến”. Đường lối cách mạng của nước Việt Nam ngày nay thích hợp bền vững trong tình hình mới, thời đại mới, đã được Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đúc kết tinh hoa tại bài viết: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” xác định rõ đường lối, quan điểm, tầm nhìn chiến lược, cương lĩnh và kế hoạch hành động: “Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức; Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; Bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội; Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hoá, đa dạng hoá, hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế (in đậm để nhấn mạnh HK); Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp với sức mạnh thời đại; Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện“.
VIỆT NAM THÔNG TIN KHÁI QUÁT Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim
Việt Nam thông tin khái quát tiếp nối bài Thông tin nhanh về Việt Nam thuộc nội dung VIỆT NAM HỌC Tổng quan văn hoá và kinh tế xã hội Việt Nam là tập tài liệu giảng dạy nghiên cứu Việt Nam Học: người Việt, tiếng Việt, nông nghiệp Việt Nam, văn hóa, kinh tế, xã hội, du lịch sinh thái. Mục đích tập tài liệu này nhằm đúc kết kiến thức nền Việt Nam Học, giúp việc tìm hiểu đất nước con người Việt Nam “vốn xưng nền văn hiến đã lâu; núi sông bờ cõi đã chia, phong tục Bắc Nam cũng khác” (Nguyễn Trãi, 1428) với phẩm chất văn hóa thân thiện, tốt đẹp.Việt Nam thông tin khái quát được đúc kết cập nhật theo Wikipedia tiếng Việt và các nguồn trích dẫn chính thực có liên quan tới ngày 30 tháng 6 năm.2021. Thông tin nhanh về Việt Nam và một số bài đọc thêm có liên quan lưu ở cuối trang này
xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/viet-nam-thong-tin-khai-quat/
lên Thái Sơn hướng Phật, cha con tôi có 20 ghi chú về Trung Quốc một suy ngẫm trò chuyện những bàn luận của các học giả, nhà văn khả kính Việt Nam về Trung Quốc ngày nay. Trong đó có phiếm đàm của Trần Đăng Khoa “Tào lao với Lão Khoa” Tiếng là phiếm đàm nhưng sự thực là những việc quốc kế dân sinh, tuy là ‘tào lao’ mà thật sự nóng và hay và nghiêm cẩn.
Trung Quốc một suy ngẫm là một câu chuyện dài . Hoàng Kim và Hoàng Long đã có 20 ghi chú nhỏ (Notes), mỗi ghi chú là một đường link, được chép chung trong bài “Lên Thái Sơn hướng Phật” ghi lại những ký ức về các chuyến du khảo Trung Hoa của chúng tôi, tạm coi là nhận thức luận của riêng mình. Ngoài ra còn có bài nghiên cứu lịch sử Từ Mao Trạch Đông tới Tập Cận Bình được định hình thành hai bài viết “ Bình sinh Mao Trạch Đông và Bình sinh Tập Cận Bình . Trung Quốc có nhiều nơi hiểm trở, núi cao vọi và sông vực sâu thẳm quanh co, có đủ các hạng người, có đủ chí thiện cực ác và minh sư. Nguyễn Du trăng huyền thoại gợi nhiều suy ngẫm. Bài này là các ghi chú nhỏ cho chính mình và chép tặng bạn đọc. xem thêm (*) Hoa Kỳ newsTin Tức Về Trung quốc. 25 tháng 2 lúc 20:06
Thái Bình Thiên Quốc là phong trào nông dân lớn nhất, tiêu biểu nhất trong lịch sử Trung Quốc thế kỷ 19, là kinh nghiệm đặc biệt quý giá cho các cuộc cách mạng về sau. ” Đừng bỏ quên nông dân, đó là bài học lớn lịch sử”. Mao Trạch Đông Chủ tịch Trung Quốc mới thế hệ thứ nhất đã nói vậy. Ông thường nghiền ngẫm Tư trị Thông giám, Thủy Hử, Tam Quốc và Thái Bình Thiên Quốc Mao Trạch Đông tác phẩm đầu tiên là “Báo cáo khảo sát phong trào nông dân Hồ Nam”. Thái Bình Thiên Quốc là bài học lịch sử lớn soi thấu thành công và thất bại của nông dân cầm quyền. Một đất nước chủ yếu là nông dân thì hiệu quả đổi mới đích thực là nhìn vào chất lượng cuộc sống của người nông dân, là khi người nông dân thay đổi được số phận của mình. Nhân ngày Thái Bình Thiên Quốc đọc lại Bình sinh Mao Trạch Đông (trích); Trung Quốc một suy ngẫm
Bình sinh Mao Trạch Đông và Bình sinh Tập Cận Bình là nghiên cứu lịch sử nhằm tìm hiểu bình sinh Mao Trạch Đông và bình sinh Tập Cận Bình chủ yếu ở lĩnh vực sáng tạo và công nghệ. Bởi họ là những người đứng đầu có ý nghĩa rất quan trọng trong quyết sách quốc gia để trỗi dậy hay trả giá đau đớn. Chủ tịch Trung Quốc Mao Trạch Đông là một nhân vật hiếm có trong lịch sử, nghìn năm công tội. Thời gian và sự khen chê không thể xóa nhòa những dấu ấn nổi bật của Mao. Di sản của Mao Trạch Đông không chỉ là bốn bộ trước tác nổi tiếng “Luận về thực tiễn”, “Luận về mâu thuẫn”, “Bàn về đánh lâu dài” “Bàn về Chủ nghĩa Dân chủ mới” mà chủ yếu là triều đại, thực tiễn và tư tưởng. Chức vụ tối cao của Mao Trạch Đông được trao truyền qua các thế hệ lãnh đạo của Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa lần lượt từ Mao Trạch Đông, tiếp nối là Đặng Tiểu Bình, Giang Trạch Dân, Hồ Cẩm Đào, đến Tập Cận Bình, nay đã trên 70 năm. Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình là con người bí ẩn với hai cuốn sách lớn “Làm việc với những thứ thật, bước đi ở vị trí hàng đầu” và “Những Suy tư từ sông Dương Tử“ góp phần giúp ông giành thắng lợi trong cuộc bầu cử khó khăn chọn ra người đứng đầu chính phủ cùa một quốc gia hơn 1, 34 tỷ người, dẫn đến việc chuyển giao quyền lực năm 2012. Cách hành xử của vị lãnh tụ này thật cẩn trọng, quyết đoán và khó lường. Các chuyên gia chiến lược thế giới suy đoán về tư tưởng và đường lối chính trị của Chủ tịch Tập Cận Bình là Chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc trong thời đại mới ,Giấc mộng Trung Quốc, ‘Một vành đai một con đường’ kế thừa và phát triển Chủ nghĩa Mác-Lênin Tư tưởng Mao Trạch Đông Lý luận Đặng Tiểu Bình, Thuyết Ba Đại Diện, Quan điểm phát triển khoa học. Chủ tịch Tập Cận Bình chọn theo Mao là chọn theo đường lối thực tiễn “có lý, có lợi, đúng lúc”.Từ Mao Trạch Đông tới Tập Cận Bình Bài 1 đã được đăng năm 2015 . Bài 2 đã được đăng năm 2016. Bài 3 đăng vào ngày 10 tháng 10 năm 2017 Bài 4 đăng ngày 23 tháng 7 năm 2018. Bài 5 đăng ngày 23 tháng 7 năm 2020.
BÌNH SINH MAO TRẠCH ĐÔNG
Ngày 19 tháng 6 năm 1945, Mao Trạch Đông được bầu làm Chủ tịch Uỷ ban Trung ương của Đảng Cộng sản Trung Quốc, ông liên tục giữ chức vụ này cho đến khi từ trần. Ngày 19 tháng 6 năm 1944, trước đó một năm so ngày Mao đượcbầu , cũng là ngày khởi đầu trận hải chiến bằng hàng không mẫu hạm lớn nhất trong lịch sử thế giới giữa hải quân Đế quốc Nhật Bản và hải quân Mỹ tại quần đảo Mariana, thuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai, kết quả hải quân Mỹ thắng.
Chủ tịch Mao Trạch Đông sinh ngày 26 tháng 12 năm 1893, mất ngày 9 tháng 9 năm 1976, ông tên tự Nhuận Chi, bút danh là Tử Nhậm, làm Chủ tịch Đảng Cộng sản Trung Quốc từ năm 1943 đến khi qua đời. Dưới sự lãnh đạo của ông, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã giành thắng lợi trong cuộc nội chiến với Quốc Dân Đảng, lập nên nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa năm 1949 và trở thành đảng cầm quyền ở Trung Quốc.
Chủ tịch Mao Trạch Đông đã tạo ra một chủ nghĩa Mác-Lênin được Trung Quốc hóa có tên là chủ nghĩa Mao mà ngày nay ban lãnh đạo Trung Quốc gọi là tư tưởng Mao Trạch Đông. Những người theo chủ nghĩa này gọi là những người Mao-ít (Maoist), tương tự như Marxist, Leninist.
Chủ tịch Mao Trạch Đông là người có công trong việc gần như thống nhất được Trung Quốc, đưa Trung Quốc thoát khỏi ách áp bức của ngoại quốc kể từ cuộc Chiến tranh Nha phiến cuối thế kỷ 19, nhưng cũng bị phê phán về trách nhiệm của ông trong nạn đói 1959 – 1961 và những tai họa của Cách mạng văn hóa. Dưới thời ông, nông nghiệp Trung Quốc được tập thể hóa dưới hình thức công xã nhân dân. Chính sách Đại nhảy vọt) trong kinh tế đã để lại những hậu quả tai hại. Mao Trạch Đông cũng là người phát động Đại Cách mạng văn hóa vô sản, thường gọi là Cách mạng văn hóa. Theo một số liệu thống kê, Mao Trạch Đông là nhà lãnh đạo đã trực tiếp hay gián tiếp gây ra cái chết cho khoảng 1 triệu người.
Chủ tịch Mao Trạch Đông thường được gọi một cách tôn kính tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là Mao Chủ tịch. Vào thời đỉnh cao của sự sùng bái cá nhân, ông được tôn là người có bốn cái “vĩ đại”: Người thầy vĩ đại, Lãnh tụ vĩ đại, Thống soái vĩ đại, Người cầm lái vĩ đại.
Chủ tịch Mao Trạch Đông nắm chức vụ tối cao của thế hệ thứ nhất ngày 19 tháng 6 năm 1945 và chức vụ này được trao truyền qua các thế hệ lãnh đạo của Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa lần lượt từ Mao Trạch Đông, tiếp nối là Đặng Tiểu Bình, Giang Trạch Dân, Hồ Cẩm Đào, đến Tập Cận Bình. Từ đó cho đến ngày 19 tháng 6 năm 2015 là vừa tròn 70 năm. Theo quy định về tuổi tác và nhiệm kỳ thì Tập Cận Bình sẽ phải về hưu sau đại hội năm 2022, và sau đại hội năm 2017 thì 5 trên 7 ủy viên thường vụ hiện nay sẽ phải về hưu nhường chỗ cho các gương mặt mới cũng như đại diện của thế hệ thứ sáu (*). Đường lối của Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình hiện nay, theo đánh giá của Peter Martin và David Cohen, là “theo Mao và mãi mãi theo Mao” (Mao and Forever).
Mao Trạch Đông gia đình và dòng họ
Chủ tịch Mao Trạch Đông sinh giờ Thìn ngày 19 tháng 11 năm Quý Tị (năm Quang Tự thứ 19) theo âm lịch, tức 26 tháng 12 năm 1893 tại làng Thiều Sơn, huyện Tương Đàm, tỉnh Hồ Nam. Ông là con út trong một gia đình trung nông.
Mao Trạch Đông có bố là Mao Di Xương, tên tự là Mao Thuận Sinh, sinh ngày 15 tháng 10 năm 1870, mất ngày 23 tháng 1 năm 1920. Mẹ của Mao Trạch Đông là Văn Thất Muội sinh ngày 12 tháng 2 năm 1867 mất ngày 5 tháng 10 năm 1919, lấy chồng năm 1885. ông nội là Mao Ân Phổ; cố nội là Mao Tổ Nhân. Dòng tộc của ông vào thời nhà Minh đã di cư từ tỉnh Giang Tây đến đây và nhiều đời làm nghề nông.
Mao Trạch Đông có bảy anh chị em gồm 5 trai và 2 gái. Hai anh trai và chị gái Mao Trạch Đông đều chết sớm. Hai em trai Mao Trạch Dân, Mao Trạch Đàm cùng Dương Khai Tuệ vợ Mao Trạch Đông và chị họ Mao Trạch Kiến (còn gọi là Mao Trạch Hồng) đều bị Quốc dân Đảng giết trong thời kỳ nội chiến.
Mao Trạch Đông lần lượt kết hôn với bốn người. Khi 14 tuổi, bố ông đã sắp xếp cho ông lấy một cô gái cùng làng là La thị (1889–1910), kết hôn năm 1907, nhưng Mao không công nhận cuộc hôn nhân ép buộc này và hai người chưa hề ăn ở với nhau và không có con. Ông kết hôn năm 1921 với Dương Khai Tuệ (1901–1930) ở Trường Sa, sống với nhau đến năm 1927. Bà bị Quốc dân Đảng hành quyết năm 1930. Bà sinh được 3 người con trai. Ông kết hôn với Hạ Tử Trân (1910 – 1984) người Vĩnh Tân, tỉnh Giang Tây. Hai người chung sống từ tháng 5 năm 1928, đến năm 1937 thì bà sang Liên Xô chữa bệnh. Bà sinh nở 6 lần nhưng 5 con chết non hoặc mất tích và chỉ có Lý Mẫn trưởng thành. Ông kết hôn với Giang Thanh từ năm 1938 đến lúc Mao mất và có một con gái là Lý Nạp.
Mao Trạch Đông có bốn người con trưởng thành (chưa tính những người chết lúc còn quá nhỏ): Con cả của ông với bà Dương Khai Tuệ là Mao Ngạn Long (1921- 1931?) mất tích. (*) Có người cho rằng đó là Tô Chú, biệt danh là Hoa Quốc Phong, là người tham gia cuộc kháng chiến chống Nhật, sau khi thực hiện cuộc Vạn lý trường chinh năm 1936, gia nhập Đảng Cộng sản Trung Quốc năm 1938, tham gia chiến đấu trong Bát Lộ Quân 12 năm dưới sự chỉ huy của tướng Chu Đức, phụ trách Uỷ ban tuyên truyền cấp tỉnh của Đảng hồi giữa thập niên 1940, được bầu vào Uỷ ban Trung ương Đảng Cộng sản năm 1969, trở thành bộ trưởng Bộ Công an năm 1972, sau khi người tiền nhiệm là Tạ Phú Trị qua đời, vào Bộ Chính trị năm 1973, trở thành Phó Thủ tướng năm 1975, quyền Thủ tướng Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa sau khi Chu Ân Lai mất tháng 1 năm 1976, trở thành Thủ tướng và phó Chủ tịch thứ nhất của Đảng tháng 4 năm 1976, và Chủ tịch Đảng Cộng sản Trung Quốc khi Mao chết, tháng 9 năm 1976, được chỉ định kế tục Mao Trạch Đông trở thành lãnh tụ tối cao Đảng Cộng sản Trung Quốc và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, vài năm sau, ông bị Đặng Tiểu Bình lật đổ và buộc phải về hưu sớm); Con trai thứ hai của Mao Trạch Đông với bà Dương Khai Tuệ là Mao Ngạn Anh (1922-1950), trước học ở Liên Xô, sau chết trong kháng Mỹ viện Triều, kết hôn với Lưu Tư Tề, tên khai sinh là Lưu Tùng Lâm; Con trai thứ ba của ông với bà Dương Khai Tuệ là Mao Ngạn Thanh (1923-2007), kết hôn với Thiệu Hoa, em gái Lưu Tư Tề, sinh ra con trai là Mao Tân Vũ hiện là tướng lĩnh trong quân đội Trung Quốc; Con gái của Mao Trạch Đông với Hạ Tử Trân là Lý Mẫn, sinh năm 1936), kết hôn với Khổng Lệnh Hoa, sinh ra con trai là Khổng Kế Ninh, con gái là Khổng Đông Mai. Mao từng có biệt danh là Lý Đức Thắng, nên có lẽ vì vậy mà Lý Mẫn lấy họ này; Con gái của Mao Trạch Đông với Giang Thanh là Lý Nạp, sinh năm 1940, kết hôn với Vương Cảnh Thanh, sinh ra con trai là Vương Hiệu Chi. Lý là họ gốc của Giang Thanh. Lưu ý là tên đệm trong từng thế hệ gia đình Mao là giống nhau, tuần tự các đời là Tổ-Ân-Di-Trạch-Ngạn. Các con của Mao Trạch Dân và Mao Trạch Đàm có tên đệm là Viễn. Mao Viễn Tân là một nhận vật quan trọng thời cách mạng văn hóa. Người Trung Nam Hải xì xào, Mao có đại phúc tướng nhưng chỉ có diễm phúc mà thiếu thê phúc. Quan hệ vợ con ngoài hôn thú của Mao Trạch Đông hiện vẫn còn là điều bí ẩn.
Mao Trạch Đông cuộc đời và sự nghiệp
Mao Trạch Đông lúc còn là một học sinh 18 tuổi thì Cách mạng Tân Hợi (1911) bùng nổ, triều nhà Thanh bị lật đổ, những người lãnh đạo Cách mạng Trung Quốc tuyên bố thành lập chế độ cộng hòa nhưng không thành lập được một chính phủ thống nhất và vững vàng, dẫn đến cuộc nội chiến trong một thời gian dài. Mao Trạch Đông phục vụ trong quân đội tỉnh Hồ Nam, sau đó trở về trường học. Sau khi tốt nghiệp Trường Sư phạm số 1 tỉnh Hồ Nam vào năm 1918, Mao cùng với giáo sư Dương Xương Tế, người thầy học và là cha vợ tương lai, lên Bắc Kinh. Giáo sư Dương nhận một chân giảng dạy tại Đại học Bắc Kinh và giới thiệu Mao Trạch Đông làm nhân viên thư viện của trường đại học (thư viện do Lý Đại Chiêu phụ trách). Đồng thời Mao học tại chức tại Đại học Bắc Kinh, nghe nhiều học giả hàng đầu như Trần Độc Tú, Hồ Thích và Tiền Huyền Đồng giảng bài. Sau này Mao kết hôn với Dương Khai Tuệ, con gái giáo sư Dương và cũng là sinh viên Đại học Bắc Kinh. Sau phong trào Ngũ Tứ, ngày 4 tháng 5 năm 1919, Mao về Hồ Nam tổ chức đoàn thanh niên, ra hai tờ báo tuyên truyền cách mạng là Tương Giang bình luận và Tân Hồ Nam. Hai tờ báo này bị đóng cửa và Mao bị trục xuất khỏi Hồ Nam. Năm 1920, Mao đã tham gia tiểu tổ cộng sản ở Hồ Nam.
Mao Trạch Đông đã tham gia Đại hội lần thứ nhất thành lập Đảng Cộng sản Trung Quốc tại Thượng Hải ngày 23 tháng 7 năm 1921. Hai năm sau, tại Đại hội lần thứ ba (1923), ông được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc gồm 5 người. Tháng 1 năm 1924, theo chủ trương Quốc – Cộng hợp tác, Mao Trạch Đông tham dự Đại hội lần thứ nhất Quốc dân Đảng họp ở Quảng Châu và được bầu làm Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Quốc dân Đảng. Sau đó ông lên đường đi Thượng Hải làm việc tại cơ quan Ban chấp hành Quốc dân Đảng, rồi sang năm sau lại về Quảng Châu làm quyền trưởng Ban tuyên truyền của Quốc dân Đảng, rồi kiêm thêm một chân trong Ủy ban vận động nông dân của đảng này. Lúc này ông đã bị Trần Độc Tú đẩy ra khỏi Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản tại Đại hội 4 họp vắng mặt ông vào tháng 1 năm 1925. Tại Đại hội lần thứ hai Quốc dân Đảng (tháng 1 năm 1926), ông lại được bầu làm ủy viên dự khuyết Ban chấp hành Trung ương Quốc dân Đảng và làm quyền Trưởng ban Tuyên truyền đến tháng 5 năm 1926.
Mao Trạch Đông chủ trương đấu tranh vũ trang với Tưởng Giới Thạch sau khi Tưởng quay sang đàn áp Đảng Cộng sản, nhưng ông không được Trần Độc Tú chấp nhận và Mao Trạch Đông bị thất sủng. Ông bèn lui về quê ở Hồ Nam cho ra đời Báo cáo khảo sát phong trào nông dân Hồ Nam, tác phẩm quan trọng đầu tiên của chủ nghĩa Mao.
Mao thoát được bạch sắc khủng bố vào năm 1927 và lãnh đạo Cuộc khởi nghĩa Vụ gặt Mùa thu ở Trường Sa, Hồ Nam nhưng thất bại. Ông thu thập tàn quân du kích chưa đầy 1.000 người tìm nơi ẩn náu ở vùng núi Tỉnh Cương Sơn, nơi giáp giới giữa hai tỉnh Hồ Nam và Giang Tây. Năm 1928 đội quân này hợp nhất với quân của Chu Đức, lập ra Quân đoàn 4 công nông, do Chu Đức làm Quân đoàn trưởng. Mao đã góp phần xây dựng căn cứ, chính quyền và một quân đội tiến hành chiến tranh du kích có hiệu quả, thực hiện cải cách ruộng đất. Chính tại nơi đây từ 1931 đến 1934, nhà nước Cộng hòa Xô-viết Trung Hoa được lập ra và Mao được bầu làm Chủ tịch Chính phủ Trung ương lâm thời. Vào thời kỳ này, Mao kết hôn với Hạ Tử Trân, sau khi Dương Khai Tuệ bị lực lượng Quốc dân Đảng giết chết.
Ban Lãnh đạo Đảng Cộng sản chạy trốn sự khủng bố bởi các chiến dịch bao vây càn quét của Tưởng Giới Thạch ở các thành phố lớn, chủ yếu là Thượng Hải nên chạy dạt về trú ngụ ở khu Xô-viết. Nội bộ Ban Lãnh đạo Đảng Cộng sản diễn ra cuộc tranh giành quyền lực, đấu tranh về đường lối và chiến thuật. Phe theo đường lối chính thống của Moskva, mà đại diện là nhóm 28 người Bolshevik, đã thắng thế và Mao dần dần bị gạt ra khỏi các chức vụ quan trọng.
Tưởng Giới Thạch với quyết tâm tiêu diệt bằng được những người cộng sản, tháng 10 năm 1934, đã trực tiếp chỉ huy 50 vạn quân bao vây tấn công khu Xô-viết trung ương, buộc Hồng quân phải mở đường máu rời bỏ nơi đây, tiến hành cuộc Vạn lý trường chinh cực kỳ gian khổ, vượt 9.600 km trong suốt một năm trời để đến tỉnh Thiểm Tây xây dựng căn cứ mới.
Mao Trạch Đông trên đường trường chinh đã bước lên nắm quyền lãnh đạo từ Hội nghị Tuân Nghĩa họp vào tháng 1 năm 1935. Tại hội nghị này, Chu Ân Lai ngả về phía Mao, Tổng Bí thư Bác Cổ và cố vấn quân sự Otto Braun (tên Trung Quốc là Lý Đức) bị hạ bệ, Mao vào Ban thường vụ Bộ Chính trị, nắm thực quyền và năm 1943 được bầu làm Chủ tịch Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc.
Mao Trạch Đông từ căn cứ mới ở Diên An, đã lãnh đạo những người cộng sản tiến hành cuộc kháng chiến chống Nhật (1937–1945) thông qua hợp tác Quốc–Cộng lần thứ hai. Tại đây, Mao đã củng cố quyền lực trong Đảng Cộng sản bằng cách mở cuộc vận động chỉnh phong. Tại Đại hội lần thứ 7 của Đảng Cộng sản Trung Quốc họp tại Diên An tháng 6 năm 1945, Mao được bầu làm Chủ tịch Ban chấp hành Trung ương Đảng. Cũng tại Diên An, Mao ly thân với Hạ Tử Trân và lấy Lam Bình, một diễn viên mới tới Diên An mà sau này khuynh đảo chính trường Trung Quốc với tên gọi là Giang Thanh.
Ngay sau khi Chiến tranh Trung-Nhật kết thúc, nội chiến đã diễn ra giữa Quốc dân Đảng và Đảng Cộng sản, kết thúc bằng thắng lợi của Đảng Cộng sản vào năm 1949.
Mao Trạch Đông thuộc phái tả kiên định, năm 1920, Mao trở thành người Mác xít. Năm 1921, là một trong 21 người sáng lập Đảng Cộng sản Trung Quốc, nhưng mãi đến năm 1935, Mao mới trở thành người lãnh đạo của Đảng. Đảng Cộng sản Trung Quốc sau hai lần thất bại vào năm 1927 và 1934, nhưng cuối cùng cũng vượt qua được nhờ Mao Trạch Đông lên nắm quyền lãnh đạo Đảng, lực lượng của Đảng dần được củng cố mạnh lên. Đến năm 1947, Mao Trạch Đông đã phát động cuộc tấn công toàn diện vào Chính phủ Quốc Dân Đảng do Tưởng Giới Thạch đứng đầu. Qua hai năm rưỡi đánh nhau, bằng ba đại chiến dịch “Liêu Thẩm” “Bình Tân” và “Hoài Hải”, Mao Trạch Đông đã lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc giành chính quyền năm 1949 và giải phóng toàn bộ đại lục Trung Quốc; Mao Trạch Đông làm Chủ tịch chính phủ nhân dân trung ương , Lưu Thiếu Kỳ, Chu Đức, Chu Ân Lai làm Phó Chủ tịch, trong đó Chu Ân Lai kiêm nhiệm Thủ tướng Quốc vụ viện.
Mao Trạch Đông từ năm 1949 đến 1976, trong suốt 27 năm, ông luôn là nhân vật quan trọng nhất trong Chính quyền Trung ương Trung Quốc, đã kiên trì thực hiện công cuộc cải cách vĩ đại mang ý nghĩa sâu xa trên toàn đất nước, nhưng ông đồng thời cũng bắt nhân dân phải trả giá đau đớn. Mao phải chịu trách nhiệm chính về phong trào “trăm hoa đua nở” năm 1957 bắt hữu phái, tát cạn trí thức tinh anh; phong trào “giương cao ba ngọn cờ hồng” năm 1958 “đường lối chung, đại nhảy vọt, công xã nhân dân” điển hình là “Đại nhảy vọt kinh tế”: ” toàn dân xây dựng công xã nhân dân, xây dựng nhà ăn công cộng” “toàn dân luyện gang thép” thiệt hại lớn, đất nước lâm vào đói kém, do “ba phần thiên tai, bảy phần nhân họa” mà không chỉ là “chính sách sai lệch, Liên Xô đòi nợ, thiên tai hoành hành”. Năm 1959, tại Lư Sơn, ông giương cao cờ chống hữu, đấu thắng Bành Đức Hoài, tẩy sạch những ai dám nói. Diệu kế của Mao là khi cảm nhận được ba ngọn cờ hồng sẽ gây ra tai họa, ông nhường bớt quyền bính giao tuyến 1 cho Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình đảm nhận với cương vị là Chủ tịch Nước và Tổng Bí thư Đảng xử lý công việc thường nhật. Ông lui về tuyến 2 chuyên công tác nghiên cứu lý luận Mác Lê Nin, thông qua Lâm Bưu làm Phó Chủ tịch Đảng sau này là Bộ trưởng Quốc phòng (thay thế Bành Đức Hoài) phát động phong trào học tập “Mao tuyển” trên toàn quốc.
Tiếp đó, Mao ủng hộ “Đại Cách mạng văn hóa vô sản” vào những năm 60 của thế kỷ XX. Mao tự đánh giá “”Đại Cách mạng văn hóa” là một trong hai đại sự lớn nhất đời Mao . Có điều đặc biệt là khi phát động “Đại nhảy vọt”, Mao Trạch Đông đã hơn 60 tuổi; còn “Đại Cách mạng văn hóa” diễn ra lúc ông gần 70 tuổi; và khi quyết định thiết lập ngoại giao với Hoa Kỳ thì Mao đã gần 80 tuổi.
Mao Trạch Đông qua đời ngày 9 tháng 9 năm 1976, 10 phút sau nửa đêm ở thủ đô Bắc Kinh. Ông chết vì bệnh xơ cứng teo cơ (tên khoa học amyotrophic lateral sclerosis), ở Hoa Kỳ bệnh này thường được gọi là Lou Gehrig’s hoặc Motor Neurone, cùng một căn bệnh với Stephen Hawking. Sức khỏe của Mao Trạch Đông đã rất kém trong nhiều năm và suy giảm rất rõ rệt trong thời gian vài tháng trước khi chết. Thi hài ông được an táng tại Đại lễ đường nhân dân. Lễ tưởng niệm ông cử hành vào ngày 18 tháng 9 năm 1976 tại quảng trường Thiên An Môn. Trong lễ tưởng niệm có 3 phút mặc niệm. Sau đó thi hài ông được đặt trong Lăng Mao Trạch Đông, mặc dù ông muốn được hỏa táng và là nhà lãnh đạo cấp cao đầu tiên ký văn bản chính thức vào tháng 11 năm 1956 quy định tất cả những người lãnh đạo cấp trung ương sau khi chết sẽ được an táng theo nghi thức hỏa táng.
Mao Trạch Đông di sản và đánh giá
Sách “Giang Thanh toàn truyện”, nguyên tác Diệp Vĩnh Liệt. Người dịch Vũ Kim Thoa, Chương 21 Màn cuối cùng. Trong bệnh nặng, Mao Trạch Đông dặn dò hậu sự. Khi xẩy ra sự kiện Thiên An Môn, Mao Trạch Đông ốm nặng… Ông tự biết những ngày còn lại không bao nhiêu, sợ bệnh tim bột phát; vào lúc cảm thấy tinh thần còn sáng suốt, ngày 15 tháng 6 năm 1976, Mao Trạch Đông triệu tập Hoa Quốc Phong, Vương Hồng Văn, Trương Xuân Kiều, Giang Thanh, Diêu Văn Nguyên, Vương Hải Dung … để nói chuyện như thể dặn dó lúc lâm chung. Mao Trạch Đông nói rất vất vả, tốn sức lực, tuy nhiên còn chưa đến nổi lắm. Mao Trạch Đông nói:
“Nhân sinh thất thập cổ lai hy” tôi đã ngoài 80, người gia bao giờ cũng nghĩ đến hậu sự. Trung Quốc có câu cổ thoại, ý nói: “đậy nắp quan tài định luận. Tôi tuy chưa đậy nắp quan tài nhưng cũng sắp đến lúc rồi, có thể định luận được rồi.
Trong đời tôi đã làm hai việc, một là đấu tranh với Tưởng Giới Thạch mấy chục năm, đuổi hắn chạy ra ngoài đảo xa. Rồi kháng chiến tám năm, đã mời được người Nhật Bản trở về nhà họ. Với sự việc này không có mấy ai dị nghị , chỉ có năm ba người xì xào đến tai tôi, đó là muốn tôi sớm thu hồi mấy hòn đảo kia về. Một sự việc khác, các đồng chí đều biết, đó là việc phát động đại Cách mạng Văn hóa. Về việc này người ủng hộ không nhiều, người phản đối không ít.
Hai việc này đều chưa xong. Di sản này phải giao lại cho đời sau. Giao như thế nào? Giao một cách hòa bình không được thì phải giao trong sự lộn xộn . Làm không nên có khi còn đổ máu. Vì thế, các đồng chí làm như thế nào, chỉ có trời biết”.
Trong cuộc đời Mao Trạch Đông, lần nói chuyện này chính là một cuộc tổng kết. Di sản của Mao Trạch Đông không chỉ là bốn bộ trước tác nổi tiếng “Luận về thực tiễn”, “Luận về mâu thuẫn”, “Bàn về đánh lâu dài” “Bàn về Chủ nghĩa Dân chủ mới” mà chủ yếu là triều đại, thực tiễn và tư tưởng. Những câu nói nổi tiếng: “Súng đẻ ra chính quyền” “Nông thôn bao vây thành thị” “trí thức không bằng cục phân” “Dụ địch vào sâu” ” tự cũng cố và trầm tĩnh theo dõi, ngồi trên núi xem hổ đánh nhau” “Chính trị là chiến tranh không có đổ máu, chiến tranh là chính trị có đổ máu” “có lý, có lợi, đúng lúc“,…
Mao Trạch Đông khởi xướng chính sách được phổ biến năm 1954 trong cuốn “Lịch sử Tân Trung Quốc” có kèm theo bản đồ, nhắc lại lời Mao: “Tất cả các lãnh thổ và hải đảo thuộc khu vực ảnh hưởng của Trung Quốc đã từng bị phe đế quốc Tây phương và Nhật Bản chiếm đoạt từ giữa thế kỷ 19 đến sau thế chiến lần thứ nhất, như Ngoại Mông, Triều Tiên, An Nam, Mã Lai, Thái Lan, Miến Điện, Bhutan, Nepal, Ladakh, Hồng Kông, Macao, cùng những hải đảo Thái Bình Dương như Đài Loan, Bành Hồ, Ryukyu, Sakhalin, phải được giao hoàn cho Trung Quốc.”
Mao Trạch Đông đưa ra phương lược “tam tuyến” hướng xử lý khi có chiến tranh lớn, tại Hội nghị Trung Ương từ ngày 18 tháng 9 đến ngày 12 tháng 10 năm 1965. Ông nói:
“Trung Quốc không sợ bom nguyên tử vì bất kỳ một ngọn núi nào cũng có thể ngăn chặn bức xạ hạt nhân. Dụ địch vào sâu nội địa tới bờ bắc Hoàng Hà và bờ nam Trường Giang, dùng kế “đóng cửa đánh chó” lấy chiến tranh nhân dân, chiến tranh du kích, vận động chiến, đánh lâu dài níu chân địch, tận dụng thiên thời địa lợi nhân hòa, thời tiết mưa gió lầy lội, phá tan kế hoạch tốc chiến tốc thắng của địch. Bắc Kinh, Trùng Khánh, Thượng Hải, Thiên Tân là bốn thành phố trực thuộc Trung Ương, chuyển hóa công năng để phát huy hiệu lực bảo tồn và phát triển. Trùng Khánh là thủ đô kháng chiến lúc đất nước Trung Hoa động loạn”… (xem thêm: Trân Vũ Hán bài học lịch sử; Từ Trường Giang Tam Hiệp đến Mekong)
Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia nhận xét:
Đánh giá một nhà chính trị thời kỳ cận đại là rất khó khăn; Có thể so sánh Mao Trạch Đông với Tần Thủy Hoàng; vì họ đều là người Trung Quốc, đều là các nhà cải cách. Nếu so sánh Mao Trạch Đông với Lê Nin cũng là xác đáng, họ đều sống ở thế kỷ 20, Mao Trạch Đông là người kiến tạo Chủ nghĩa Marx ở Trung Quốc, cũng như Lê Nin là người đặt nền móng cho Chủ nghĩa Marx ở nước Nga. Mới nhìn ta thấy Mao Trạch Đông gần như nổi bật hơn Lê Nin vì Trung Quốc có số dân gấp ba lần Liên Xô, nhưng Lê Nin có trước và đã là một tấm gương cho Mao Trạch Đông, có ảnh hưởng đối với Mao Trạch Đông.
BÌNH SINH TẬP CẬN BÌNH
Chủ tịch Tập Cận Bình là nhà lãnh đạo quốc gia tối cao, thuộc thế hệ lãnh đạo thứ 5 của nước Trung Quốc mới đang trỗi dậy. Trung Quốc sau bốn thập kỷ tăng trưởng liên tục, đến thời Chủ tịch Tập Cận Bình, đã vượt lên nổi nhục bị tám đế quốc xâu xé cuối thời Mãn Thanh, sự nội chiến Quốc Cộng hơn 20 năm, sự xâm lược và chiếm đóng của Nhật Bản, sự xáo động dữ dội của thời kỳ “đại loạn” đại cách mạng văn hóa, sự hiểm họa cực kỳ do tham nhũng, tranh chấp quyền lực, lũng đoạn kinh tế, suy thoái môi trường , phân hóa giàu nghèo và phát triển nóng. Đến nay, tuy nguy cơ này vẫn rất cao nhưng có vẻ như đang từng bước vượt qua.
Tập Cận Bình tiểu sử tóm tắt
Chủ tịch Tập Cận Bình hiện là Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc khóa 18, 19 Chủ tịch Quân Ủy Trung ương, Chủ tịch nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và là nhân vật số một trong Ban Thường vụ Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc, cơ quan thực quyền cao nhất Trung Quốc. Chủ tịch Tập Cận Bình và Thủ tướng Lý Khắc Cường là thế hệ tiếp nối ngay sau thế hệ thứ tư là Chủ tịch Hồ Cẩm Đào và Thủ tướng Ôn Gia Bảo.
Chủ tịch Tập Cận Bình, sinh ngày 1 tháng 6 năm 1953 tại Bắc Kinh, là con trai cựu Phó Thủ tướng Trung Quốc Tập Trọng Huân, gia đình gốc ở Phú Bình, tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc. Khi ông 10 tuổi, cha ông bị thanh trừng và gởi đi làm việc tại một hãng xưởng ở Lạc Dương, Hà Nam. Vào năm 1968 khi ông được 15 tuổi thì cha ông bị giam tù trong thời kỳ Cách mạng Văn hóa. Tháng 1 năm 1969, ông tham gia đại đội Lương Gia Hà, xã Văn An Dịch, huyện Diên Xuyên, tỉnh Thiểm Tây. Tháng 1 năm 1974, ông gia nhập Đảng Cộng sản Trung Quốc, sau đó làm Bí thư Chi bộ Đảng của nhóm sản xuất (1969-1975).
Từ năm 1975 đến 1979, ông là sinh viên học tập tại Trường Đại học Thanh Hoa, Bắc Kinh. Từ năm 1979 đến 1982, làm Thư ký Văn phòng Quốc vụ viện và Thư ký Văn phòng Quân ủy Trung ương. Năm 1982-1983, Phó Bí thư Huyện ủy huyện Chính Định, tỉnh Hà Bắc. Từ năm 1983 đến năm 2007, ông đã trải qua các chức vụ như: Bí thư Huyện ủy huyện Chính Định, tỉnh Hà Bắc (1983-1985); Thường vụ Thành ủy, Phó Chủ tịch Ủy ban Nhân dân thành phố Hạ Môn, tỉnh Phúc Kiến (1985-1988); Bí thư Thị ủy Ninh Đức, tỉnh Phúc Kiến (1988-1990); Thường vụ Thành ủy thành phố Phúc Châu, Chủ tịch Hội đồng Nhân dân Thành phố Phúc Châu, tỉnh Phúc Kiến (1990-1993); Thường vụ Tỉnh ủy tỉnh Phúc Kiến, Bí thư thành phố Phúc Châu, Chủ tịch Hội đồng Nhân dân thành phố Phúc Châu (1993- 1995); Phó Bí thư Tỉnh ủy Phúc Kiến, Bí thư thành phố Phúc Châu, Chủ tịch HĐND Thành phố Phúc Châu (1995-1996); Phó Bí thư Tỉnh ủy tỉnh Phúc Kiến (1996-1999); Phó Bí thư Tỉnh ủy tỉnh Phúc Kiến, Chủ tịch lâm thời tỉnh Phúc Kiến (1999-2000); Phó Bí thư Tỉnh ủy, Tỉnh trưởng Phúc Kiến (2000- 2002); Phó Bí thư Tỉnh ủy, Tỉnh trưởng Triết Giang (2002- 2003); Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Hội đồng Nhân dân tỉnh Triết Giang (2003-2007); Bí thư Thành phố Thượng Hải (2007). Năm 1998-2002, tiếp tục học tại Đại học Thanh Hoa và lấy bằng Tiến sỹ Luật.
Ủy viên Dự khuyết Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc khóa 15, Ủy viên Chính thức Trung ương Đảng các khoá 16, 17. Tháng 10 năm 2007, tại Đại hội 17 Đảng Cộng sản Trung Quốc, được bầu làm Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị, Bí thư Ban Bí thư Trung ương; được phân công kiêm nhiệm Hiệu trưởng Trường Đảng Trung ương.
Ngày 15 tháng 3 năm 2008, được Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc bầu làm Phó Chủ tịch Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Ông được phân công làm Tổng Chỉ huy công tác tổ chức Olympic Bắc Kinh khai mạc lúc 8 giờ 8 phút tối ngày 8 tháng 8 năm 2008. (Beijing 2008 *)
Ngày 18 tháng 10 năm 2010, Hội nghị Toàn thể Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 5, khóa 17, Đảng Cộng sản Trung Quốc tại Bắc Kinh đã bầu Tập Cận Bình giữ chức Phó Chủ tịch Quân Ủy Trung ương – đây là cơ quan chỉ đạo và quyết định mọi hướng đi của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc.
Ngày 15 tháng 11 năm 2012, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc khóa 18 đã tiến hành phiên họp đầu tiên sau đại hội Đảng Cộng sản lần thứ 18 và quyết định bầu ông làm Tổng Bí thư BCH Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch Quân ủy Trung ương Trung Quốc.
Ngày 14 tháng 3 năm 2013, ông được bầu làm Chủ tịch nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, kết thúc quá trình chuyển giao quyền lực ở quốc gia đông dân nhất thế giới.
Tập Cận Bình những chính sách lớn
Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đang quyết tâm cao độ theo đuổi chủ thuyết Trung Nam Hải “nắm vững Trung, hướng về Nam, mở rộng Hải” của Chủ tịch Mao Trạch Đông trên cơ sở thuyết “biển lịch sử” từ thời đế quốc La Mã tuyên ngôn cách đây 2000 năm nhằm đưa ra phương lược mưu chiếm trọn 80% hải phận của vùng Đông Nam Á (theo đường Lưỡi Bò), khôi phục vị thế và địa giới lịch sử Trung Quốc thời kỳ rộng nhất, huy hoàng nhất. Trung Quốc không còn chấp nhận vai trò của Mĩ như một cảnh sát khu vực để duy trì hòa bình và giữ cho các tuyến đường biển thông suốt.
Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình vạch chiến lược “3 mũi nhọn” thâu tóm châu Á và đã tuyên bố tại Thượng Hải “chính người Châu Á phải điều hành công việc của Châu Á, giải quyết các vấn đề của khu vực Châu Á và duy trì an ninh của Châu Á”. Ông ráo riết thực hiện chiến lược “không đánh mà thắng” với một loạt kế sách liên hoàn trên biển Đông thông qua sức mạnh kinh tế và tiến bộ công nghệ: xây dựng đảo trong quần đảo Trường Sa; điều giàn khoan thăm dò dầu khí chập chờn ở các điểm nóng; ký hợp tác Trung Nga nhận mua khí đốt và năng lượng dài hạn từ Nga giải tỏa giúp Nga sự căng thẳng suy thoái kinh tế do sức ép giá dầu lửa xuống thấp do sự can thiệp của Tây Âu và Mỹ; Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình ngồi cạnh Tổng Thống Nga Putin trong đại lễ 70 năm kỷ niệm Ngày Chiến thắng Chủ nghĩa Phát xít khi Tổng thống Mỹ Obama cùng nguyên thủ nhiều nước châu Âu và thế giới theo phe Mỹ không tham dự, Trung Quốc tỏ rõ lập trường ủng hộ Nga chống li khai để giữ vững đường hằng hải sống còn của Nga thông ra biển lớn mà Pie Đại Đế nhân vật lịch sử vĩ đại nhất nước Nga quyết tâm sắt đá tranh đoạt bằng được Sankt-Peterburg dù mọi giá thể hiện qua chính sách là có thể nhượng bộ Thụy Điển bất cứ điều gì ngoại trừ trả lại Sankt-Peterburg. Trung Quốc thực hành chiến lược “Nam Nam” mở rộng ảnh hưởng nước lớn tại Đông Nam Á, châu Phi và châu Mỹ Latinh. Trung Quốc hiện là tâm điểm của cuộc khủng hoảng địa chính trị, kinh tế, khoa học công nghệ hiện đang ngày một gia tăng tại châu Á và Thế giới .
Chủ tịch Tập Cận Bình trước và ngay sau ngày 14 tháng 3 năm 2013 (ông được bầu làm Chủ tịch nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa) đã nhanh chóng ra tay chiến dịch “đả hổ, diệt ruồi, săn sói, quét muỗi”. Các con hổ lớn Bạc Hi Lai (2012), Từ Tài Hậu (2012), Chu Vĩnh Khang (2013) và mới đây là Quách Bá Hùng (2015) lần lượt bị sa lưới. Chiến dịch này hiện đang ở vào hồi kết thúc của giai đoạn ” đả hổ, diệt ruồi” giành thắng lợi quyết định ở cấp lãnh đạo thượng tầng, quân đội, công an, tài chính kinh tế và truyền thông tại các thành phố lớn, nay đang chuyển sang giai đoạn “săn sói, quét muỗi” càn quét cường hào tham nhũng ừa và nhỏ ở vùng nông thôn và những nguy cơ tiềm ẩn ở các lĩnh vực khác.
Chủ tịch Tập Cận Bình “chống tham nhũng không màng sống chết cá nhân”. Ông đề ra khẩu hiệu “Tứ Toàn” (Bốn toàn diện): “Xây dựng kinh tế xã hội thịnh vượng toàn diện; Cải tổ xã hội sâu sắc toàn diện; Thực hiện Nhà nước pháp quyền toàn diện;Thực thi kỷ cương Đảng toàn diện”. Đây là một cuộc chiến sinh tử, một cuộc cách mạng toàn diện, sâu sắc, rộng lớn và triệt để về kinh tế, xã hội, nhà nước và đảng cầm quyền. Trong cuộc chiến này, quan điểm của ông Tập là vạch trần mọi tật xấu, sai lầm, khuyết điểm, không được che dấu đảng viên và nhân dân điều gì, không có nhân vật nào bất khả xâm phạm, không một lãnh vực nào bị cấm, dù là lãnh tụ tối cao.
Chủ tịch Tập Cận Bình thực hiện mưu lược ”dương đông kích tây” lợi dụng mâu thuẫn Mỹ – Nga và cuộc bầu cử tổng thống Mỹ để hướng dư luận ra bên ngoài, rãnh tay dẹp yên trong, trực tiếp nắm lại quân đội. Hôm 25/7, Tòa án quân sự Trung Quốc đã tuyên phạt cựu Phó chủ tịch Quân ủy Quách Bá Hùng tù chung thân, tước quyền chính trị suốt đời, tước quân hàm Thượng tướng và tịch thu toàn bộ tài sản. Nga – Trung chuẩn bị tập trận trên Biển Đông vào tháng 9 tới. Ông cũng thực hành mưu lược “an dân” nhằm tháo ngòi nổ phẩn uất trong lòng của một lực lượng đông đảo nạn nhân, đối lập và bất bình đã làm chia rẽ xã hội Trung Quốc.Theo tạp chí chính trị Zhengming ở Hồng Kông. Nhà tưởng niệm Mao sẽ biến mất khỏi Bắc Kinh. Quyết định bí mật này đã được giới lãnh đạo Trung Quốc đưa ra. Xác ướp của Mao sẽ được chuyển đến thành phố quê hương của ông ta. Cấp dưới của cựu phụ tá lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc bị thất sủng tiếp tục ngã ngựa. Lệnh Kế Hoạch, 59 tuổi, từng là Chánh văn phòng Trung ương Đảng và phụ tá cho cựu lãnh đạo Đảng Hồ Cẩm Đào. Ông ta bị bắt vào ngày 20 tháng 7 năm 2015, và bị buộc tội tham nhũng và lĩnh án tù chung thân vào 4 tháng 7 năm 2016. Gần đây, hai cấp phó của Lệnh là Triệu Thắng Hiên và Hà Dũng cũng đã bị âm thầm đưa ra khỏi vị trí lãnh đạo. Hà Dũng là người đã bị Tổ chức Thế giới Điều tra Cuộc đàn áp Pháp Luân Công (WOIPFG) nhận dạng đóng vai trò tích cực trong việc bức hại Pháp Luân Công, do cựu lãnh đạo Đảng Giang Trạch Dân phát động ngày 20 tháng 7 năm 1999 lúc Pháp Luân Công có trên 70 triệu người Trung Quốc tập luyện.
“Tập Cận Bình giống Mao Trạch Đông hay Tưởng Giới Thạch?” Đài phát thanh VOA (Voice of America) của Mỹ ngày 25/5 đã dẫn chứng quan điểm nêu trên của ông James Carter – Giáo sư lịch sử của trường Đại học Saint Joseph, Hoa Kỳ và ông Jeffrey Wasserstrom – Nhà sử học và Giáo sư của trường Đại học California. Hai vị học giả đã phát biểu bài viết của mình trên trang tạp chí “Thời báo Los Angeles” vào ngày 24/5, “nếu muốn hiểu Tập Cận Bình, người lãnh đạo quyền lực nhất của Trung Quốc trong mấy năm trở lại đây, thì tuyệt đối đừng so sánh ông với Mao Trạch Đông, mà hãy tìm hiểu về Tưởng Giới Thạch”.
Trước đó, BBC Tiếng Việt ngày 20 tháng 12 năm 2013 có đăng bài viết “Ông Mao là gì với Trung Quốc hôm nay?” của Sidney Rittenberg Cựu đảng viên cộng sản Trung Quốc. “Giống như mọi thứ khác ở Trung Quốc , vai trò của Mao ngày nay mang nhiều nét đối nghịch . Ông vừa lớn hơn, lại vừa nhỏ hơn so với bức chân dung khổng lồ đặt tại Thiên An Môn- tấm hình chắc sẽ không dễ dỡ đi nay mai“. “Lớn hơn, bởi Mao là một nhân vật kiểu George Washington. Ông là người sáng lập Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, thống nhất được một quốc gia giàu truyền thống nhưng có nhiều khác biệt và dàn trải trên một lãnh thổ rộng lớn. Nhỏ hơn, bởi giới trẻ Trung Quốc hiện nay, gồm cả những đảng viên cộng sản, hầu như không biết gì về những bài viết, học thuyết, thành công và cả những sai lầm khủng khiếp của ông. Tập Cận Bình và ban lãnh đạo mới của Trung Quốc đã cảnh báo rằng sự đi xuống của chủ nghĩa Mao, tương tự như ở Liên Xô, sẽ dẫn tới sự hỗn loạn và làm suy yếu chế độ hiện tại-chế độ vốn coi sự ổn định là yếu tố tiên quyết trên con đường cải cách đầy chông gai. Tuy vậy, họ cũng không ngần ngại khi chỉ ra những thảm họa dưới thời Mao Trạch Đông như “Đại Nhảy Vọt” thời cuối thập niên 1950 và thời Cách Mạng Văn Hóa giai đoạn 1966- 1976. Những cuộc thử nghiệm xã hội đầy hoang tưởng đó đã cướp đi mạng sống của hàng chục triệu người vô tội.”Bài báo viết. “Ông Tập Cận Bình đang trái ngược hoàn toàn với kinh tế kiểu Mao, nhưng ông đã khéo léo sử dụng logic biện chứng của chủ nghĩa Mao để phân tích các vấn đề của Trung Quốc, và từ đó đưa ra những giải pháp thích hợp. Ông cũng thường ca ngợi những thành tựu tích cực của thời đại Mao Trạch Đông… Học thuyết phân tích và tổng hợp của Mao là vũ khí bí mật của Trung Quốc, dù nó đang bị bỏ quên tại thời điểm hiện tại, ngay cả ở chính Trung Quốc“.
Bí mật kho báu trên đỉnh Tuyết Sơn có nói về Đại văn hào Kim Dung đã viết bộ tiểu thuyết võ hiệp đầu tay Tuyết Sơn phi hồ (Flying Fox of Snowy Mountain) đăng trên Minh báo năm 1959 và viết Lộc Đỉnh Ký là bộ sách tâm đắc nhất cuối cùng. Kim Dung nói rằng ông gửi gắm những điều vi diệu tâm đắc nhất của ông vào hai bộ sách khai tập và kết thúc này. Năm 2007, một đoạn trích tác phẩm “Tuyết Sơn phi hồ” đã được đưa vào chương trình sách giáo khoa môn ngữ văn tại Trung Quốc, thay thế “AQ chính truyện”, đã gây nên nhiều dư luận rất khác nhau.
Trung Quốc đang muốn vẽ lại biểu tượng người Trung Hoa mới thay thế AQ. Hình tượng Mao Trạch Đông thời trẻ nay sừng sững trên núi Tuyết khiến người ta liên tưởng trận đấu sinh tử của Hồ Phỉ tuổi trẻ anh hùng nghĩa hiệp và nhân ái trên đỉnh Tuyết Sơn. Mao Trạch Đông có bài thơ Tuyết – Thẩm Viên Xuân – mô tả về núi sông hùng vĩ , đánh giá về hào kiệt các thời của đất nước Trung Hoa và bài thơ Côn Lôn – Niệm Nô Kiều – chính là ngầm ý nói về sự hùng vĩ của Tuyết Sơn và hùng tâm tráng khí cách mạng của ông cải tạo Trung Hoa và Thế Giới. Những chính khách Trung Quốc tiếp nối Mao Trạch Đông dường như yêu thích Vi Tiểu Bảo hoặc Khang Hy trong Lộc Đỉnh Ký của Kim Dung hơn. Đó là nhân vật giảo hoạt , quyền biến “bất kể mèo trắng hoặc mèo đen miễn là bắt được chuột”.
Hai vị học giả James Carter và Jeffrey Wasserstrom thì cho rằng, Tập Cận Bình của năm 2016 rất giống với Tưởng Giới Thạch của năm 1946. Tập Cận Bình cũng giống như Tưởng Giới Thạch, chuẩn bị chu toàn để tạo dựng tầm ảnh hưởng với thế giới. Họ đều cho rằng hiện đại hóa của Trung Quốc có thể hòa hợp với tư tưởng của Nho gia. Tập Cận Bình từ sau khi nhậm chức đến nay đã không ngừng nhấn mạnh ý nghĩa của văn hóa truyền thống đặc biệt là tư tưởng Nho gia: “Quốc gia có tứ duy (tức 4 cơ sở chính yếu lập quốc của Trung quốc: lễ, nghĩa, liêm, sỉ), tứ duy không lớn mạnh, đất nước ắt sẽ diệt vong! Tứ duy hưng thịnh, đất nước sẽ phục hưng bền vững!”. Tập Cận Bình tôn trọng văn hóa truyền thống Trung Quốc, đồng thời tỏ ý sẽ kế thừa và phát huy nền văn hóa ấy. Năm 2013, Tập Cận Bình đặc biệt đến thăm Khúc Phụ để tế bái mộ Khổng Tử. Vào ngày nhà giáo năm 2014, ông Tập đã đặc biệt đến trường Đại học Sư phạm Bắc Kinh công khai phản đối việc sách giáo khoa lược bỏ văn hóa truyền thống Trung Hoa. Ông nói, “lược bỏ đi kinh điển văn hóa truyền thống trong sách giáo khoa là điều đáng buồn thay”.
Tác giả Bùi Mẫn Hân (Minxin Pei) đã viết bài “Thời kỳ hoàng hôn của Đảng Cộng sản cai trị ở Trung Quốc” (The Twilight of Communist Party Rule in China) công bố tại The American Interest Vol. 11, No, 4. 2015, người dịch Song Phan, tháng 3-4/2016, nguồn ABS, nhận định:
“Một trong những lựa chọn chiến lược khôn ngoan nhất do Đặng Tiểu Bình thực hiện là phát triển quan hệ thân thiện với phương Tây do Mỹ đứng đầu để đẩy mạnh chương trình hiện đại hóa của Trung Quốc. Trong thời kỳ hậu Đặng Tiểu Bình, hai người tiền nhiệm của Tập Cận Bình là Giang Trạch Dân và Hồ Cẩm Đào, cũng đã học được bài học quan trọng từ sự sụp đổ của Liên Xô: một cuộc xung đột chiến lược với Hoa Kỳ sẽ gây nguy hiểm đến sự sống còn thật sự của ĐCSTQ. Chi phí của một cuộc chạy đua vũ trang mới là khó có thể kham nổi, và sự thù địch dứt khoát trong quan hệ Trung- Mỹ sẽ phá hủy quan hệ kinh tế song phương. Hiện chưa rõ liệu lãnh đạo ĐCSTQ có hiểu hết những nguy cơ chiến lược sinh tồn mới của họ và nguy cơ chiến lược sinh tồn đó vẫn còn đang tiến triển hay không. Nếu các thành viên của ĐCSTQ tin chắc rằng, chỉ có chiến lược này mới có thể cứu vãn được quyền cai trị của ĐCSTQ, hiện đang bị đe dọa bởi việc gãy đổ những trụ cột chính của mô hình hậu Thiên An Môn, thì có khả năng họ sẽ tiếp tục trên con đường hiện nay. Trớ trêu thay, con đường đó, nếu phân tích bên trên là đúng, càng chắc chắn hơn sẽ đẩy ĐCSTQ sụp đổ nhanh hơn, thay vì ngăn chặn sự sụp đổ của họ.”
Bùi Mẫn Hân (Minxin Pei) là giáo sư về Chính quyền học tại trường ĐH Claremont McKenna College và là thành viên cao cấp không thường trực Quỹ Marshall Đức của Hoa Kỳ. Cuốn sách mới nhất của ông: China’s Crony Capitalism: Dynamics of Regime Decay (Chủ nghĩa tư bản bè cánh của Trung Quốc: Động lực làm phân rã chế độ), sẽ được Đại học Harvard xuất bản vào năm 2016. Bài viết này được rút ra từ một dự án nghiên cứu lớn hơn về quá trình chuyển đổi chế độ có khả năng xảy ra của Trung Quốc được ủng hộ tài chính từ Quỹ Smith Richardson, Tổng công ty Carnegie của New York, Quỹ John D. và Catherine T. MacArthur.
Những nhận xét cuối bài viết của tác giả Bùi Mẫn Hân :“The Twilight of Communist Party Rule in China” được dịch là “Thời kỳ hoàng hôn của Đảng Cộng sản cai trị ở Trung Quốc” cũng có thể hiểu “Hoàng hôn của mô hình Đảng cộng sản Trung Quốc” hoặc ” “Hoàng hôn của khuôn vàng thước ngọc Đảng Cộng sản Trung Quốc”. Ông ngầm chơi chữ “Rule” (cứng, thước, khuôn vàng thước ngọc, mô hình) tùy góc nhìn, cách hiểu và tầm nhìn.
Góc nhìn Mỹ, giấc mơ Mỹ, lối sống Mỹ lựa chọn biểu tượng George Washington “trang nghiêm và uy nghi, trước sau như một, ôn hòa và thành thật, lễ nghĩa công bình nhân đạo” thích “nói và làm đi đôi” “nói và làm nhất quán” mới tạo được “lòng tin chiến lược“. Thế nhưng, góc nhìn phương Đông có thể khác “quyền biến“, “mềm, năng động, có mềm có cứng“, “trong cứng có mềm, trong mềm có cứng“,”nói vậy mà không phải vậy“, “nói một đằng làm một nẻo“, “bất kể mèo trắng mèo đen, miễn là bắt được chuột“, “không không có có không có có không“. Điều đó có nghĩa : nói làm đi đôi, làm mà không nói, nói mà không làm, có thể cứng Rule, có thể mềm, vô pháp vô thiên như cách Mao Trạch Đông.
Bí mật Trung Cộng và TC cưỡng bách tù nhân chính trị bán bộ phận cơ thể là hai thông tin thâm cung bí sử của thượng tầng lãnh đạo Trung Quốc tại nguồn tin của an ninh Mỹ qua thu thập của trang ABS. Theo nguồn tin này, thương gia Lệnh Hoàn Thành (Ling Wancheng) biến mất khỏi tầm mắt công chúng của vùng California năm ngoái sau khi người anh ruột Lệnh Kế Hoạch (Ling Jihua), cựu viên chức cao cấp trong đảng cộng sản Trung Quốc bị bắt vì tội tham nhũng tại Trung Hoa. Lệnh Hoàn Thành đã tiết lộ những bí mật về chính trị và quân sự kể cả chi tiết về hệ thống vũ khí nguyên tử của Trung Cộng (TC) cho giới chức tình báo Hoa Kỳ FBI và CIA, từ mùa thu năm 2015 và được giữ bí mật vì tình báo TC tìm cách bắt giữ hoặc thủ tiêu ông. Cũng theo trang tin này, TC cưỡng bách tù nhân chính trị bán bộ phận cơ thể, việc này đang làm sôi nổi những ý kiến chống đối liên quan đếp Pháp Luân Công và vai trò của Giang Trạch Dân.
Ngày 22 tháng 8 năm 2017, Đài VOA Hoa Kỳ có bài bình luận: “Tập Cận Bình sẽ được nâng lên ngang hàng Mao Trạch Đông?” cho hay: “Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã đạt được sự đồng thuận về việc đưa tư tưởng mang tên ông vào điều lệ Đảng Cộng sản Trung Quốc tại cuộc họp kín của các lãnh đạo cùng các nguyên lão trong Đảng tại Bắc Đới Hà, các nguồn tin cho biết. Như vậy với động thái này, địa vị của ông Tập trong Đảng Cộng sản đã được nâng lên ngang hàng với cố Chủ tịch Mao Trạch Đông, người duy nhất cho đến nay được ghi tư tưởng của mình vào Điều lệ Đảng tại Đại hội 7 hồi năm 1945.
Theo hãng truyền thông AsiaToday thì hội nghị Bắc Đới Hà hồi tuần trước “gần như chắc chắn” đồng ý đưa Tư tưởng Tập Cận Bình vào Điều lệ Đảng. Hãng truyền thông dẫn lời một số nguồn tin phương Tây ở Bắc Kinh cho biết quyết định này đã được thông qua mà không vấp phải bất kỳ sự phản đối nào. Hãng tin AP cũng dẫn lời các nhà phân tích cho rằng ông Tập sẽ thực hiện điều này tại Đại hội 19. Nếu như việc này được chính thức thông qua tại Đại hội Đảng lần thứ 19 vào cuối năm nay thì vị thế của ông Tập đã vượt qua những người tiền nhiệm của ông là các cựu Chủ tịch Giang Trạch Dân và Hồ Cẩm Đào…AsiaToday cho rằng hội nghị Bắc Đới Hà năm này là hội nghị “của ông Tập, bởi ông Tập và vì ông Tập”.
Quyền lực của ông Tập Cận Bình đã và đang rất mạnh trước và sau đại hội 19 đảng Cộng sản Trung Quốc (năm 2017). Hơn 1,3 triệu quan tham Trung Quốc ‘ngã ngựa’, Báo Nông nghiệp Việt Nam ngày 9 tháng 10 năm 2017 đưa tin: “Theo báo cáo của Uỷ ban Kiểm tra Kỷ luật Trung ương Trung Quốc (CCDI), chỉ trong vòng 5 năm qua, đã có hơn 1,343 triệu quan chức nước này bị trừng phạt vì tham nhũng. Chiến dịch “đả hổ, diệt ruồi” của ông Tập Cận Bình đã phát huy hiệu quả, đem lại sự tin tưởng và hài lòng với nhân dân…THX dẫn báo cáo của Uỷ ban Kiểm tra kỷ luật trung ương Trung Quốc (CCDI) hôm qua cho biết, tổng cộng đã có 1,343 triệu quan chức từ cao cấp tới cấp thấp bị trừng phạt do tội danh tham nhũng ở nước này 5 năm qua. Trong số đó, 648.000 là quan chức cấp thôn, xã liên quan đến các vụ tham nhũng quy mô nhỏ, tham nhũng vặt. Không dừng lại ở trong nước, Trung Quốc đồng thời phối hợp với quốc tế để truy lùng tội phạm tham nhũng qua chiến dịch “Sky Net” (Lưới trời). Tính tới cuối tháng 8/2017, đã có 3.339 đối tượng bị bắt tại hơn 90 quốc gia và vũng lãnh thổ, trong đó có 628 là cựu quan chức. CCDI cho biết qua đó đã tịch thu lại 9,36 tỉ NDT (1,41 tỉ USD) cho nhà nước. Trong số 100 nghi phạm thuộc diện bị truy nã gắt gao theo danh sách của Interpol (tổ chức Cảnh sát quốc tế), 46 đã bị bắt. Do áp lực từ Bắc Kinh, số lượng các quan chức tham nhũng bỏ trốn ra nước ngoài đã giảm rõ rệt, từ 101 năm 2014 xuống 31 trường hợp năm 2015 và tới năm 2016 chỉ còn 19 trường hợp. Tờ Chinadaily cho biết thêm, để ngăn chặn tham nhũng, Trung Quốc đã ban hành bộ quy tắc 8 điểm, chỉ rõ các biểu hiện của suy thoái đạo đức, từ quan liêu, cửa quyền tới tiêu xài xa hoa, lãng phí. Cho đến cuối năm 2016, đã có 155.300 vụ việc vi phạm bị điều tra. Số liệu kiểm tra cũng cho thấy các vụ việc giảm dần theo từng năm: 78,2% vụ việc xảy ra trong năm 2013 và 2014, 15,1% trong năm 2015 và 6,7% trong năm 2016. Khảo sát của Cơ quan Thống kê quốc gia (NBS), 92,9% người dân Trung Quốc hài lòng với chiến dịch chống tham nhũng của ông Tập, tăng 17,9% so với năm 2012. Ông Tập Cận Bình được xác định sẽ tiếp tục nhiệm kỳ thứ 2 trên cương vị Tổng bí thư trong 5 năm, từ 2017-2022. Một loạt “hổ” Trung Quốc bị đả trong thời gian vừa qua được bình luận là bước chuẩn bị cho Đại hội 19 của ông Tập. Tờ Straitstimes (Singapore) từng nhận định, ông Tập đang trở nên mạnh mẽ hơn bao giờ hết, và không loại trừ khả năng nắm mở rộng quyền lực thêm một nhiệm kỳ nữa, vượt qua giới hạn 2 nhiệm kỳ theo Hiến pháp Trung Quốc hiện nay“.
Tập Cận Bình những chính sách lớn dường như đang phát huy tác dụng. Theo nhà báo Hiệu Minh ngày 19 tháng 10 năm 2017 trích dẫn số liệu của Tổng cục Thống kê Hoa Kỳ về bức tranh xuất nhập khẩu Trung Quốc Hoa Kỳ (1985-2017), với đường mầu xanh là Trung Quốc xuất sang Mỹ và đường mầu đỏ là Trung Quốc nhập từ Mỹ. Trung Quốc thắng lớn trong toàn cầu hóa, năm 2017 Mỹ nhập siêu 239 tỷ từ Trung Quốc so với năm 2016 là 347 tỷ đô la. Mỹ bị thua thiệt kinh tế trong chiến lược toàn cầu. GDP Trung Quốc đạt 11 ngàn tỷ đô la năm 2016 chỉ đứng sau Hoa Kỳ với 18 ngàn tỷ, chỉ tính riêng tỉnh Quảng Đông thì GPD của họ đã gấp 5 lần GPD của Việt Nam.
Tập Cận Bình những chính sách lớn là khá nhất quán từ ngày 18 tháng 10 năm 2010, khi ông giữ chức Phó Chủ tịch Quân Ủy Trung ương đến ngày 15 tháng 11 năm 2012 được bầu làm Tổng Bí thư BCH Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch Quân ủy Trung ương Trung Quốc, đến sau ngày 14 tháng 3 năm 2013, khi ông được bầu làm Chủ tịch nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, kết thúc quá trình chuyển giao quyền lực ở quốc gia đông dân nhất thế giới. Năm năm qua, ông Tập đã liệt kê những thành tựu của Trung Quốc trong nhiệm kỳ (2012-2017) của ông: Về đối nội thực hiện chiến dịch “đả hổ, diệt ruồi, săn sói, quét muỗi”, chống tham nhũng khiến hơn một triệu quan chức bị xử phạt, hiện đại hóa quân đội, quyết liệt làm “Tứ Toàn” (Bốn toàn diện): “Xây dựng kinh tế xã hội thịnh vượng toàn diện; Cải tổ xã hội sâu sắc toàn diện; Thực hiện Nhà nước pháp quyền toàn diện; Thực thi kỷ cương Đảng toàn diện”. Ông kêu gọi các đảng viên “luôn gắn bó với người dân, dốc tâm trí xây dựng cuộc sống tốt đẹp hơn cho người dân”. Về đối ngoại, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình vạch chiến lược “3 mũi nhọn” thâu tóm châu Á và đã tuyên bố tại Thượng Hải “chính người Châu Á phải điều hành công việc của Châu Á, giải quyết các vấn đề của khu vực Châu Á và duy trì an ninh của Châu Á”. Ông ráo riết thực hiện chiến lược “không đánh mà thắng” với một loạt kế sách liên hoàn, khởi xướng và thực thi chiến lược ‘liên Nga, bạn Ấn, mở rộng ảnh hưởng Á Âu Phi’ “một vành đai, một con đường”, xử lý vấn đề biển Hoa Đông, lưỡi bò biển Đông, đưa tầu chiến áp sát cuộc tập trận NATO, trỗi dậy thách thức Mỹ về chính trị, quân sự, ngoại giao, kinh tế.
Trung Quốc trong nhiệm kỳ tiếp theo của Tập Cận Bình đang rời bỏ vị thế “ẩn mình chờ thời” mà đã bước ra vũ đài thế giới khẳng định Trung Quốc như một cường quốc hàng đầu thế giới, theo giới quan sát. Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã tuyên bố Trung Quốc bước vào “thời đại mới” và cần đóng vai trò “trung tâm trên thế giới”, nhờ “chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc” và cho thấy có “lựa chọn mới” cho các nước. Ông phát biểu khai mạc Đại hội Đảng 19 với 14 điểm chính sách và ba trọng tâm.
Giảm Đặng tăng Mao đề cao ý Tập. Từ Mao Trạch Đông tới Tập Cận Bình từ ‘Có lý, có lợi, đúng lúc’ đến ’14 điểm chính sách và ba trọng tâm’. (*) Đại hội Đảng lần thứ 19 (năm 2017) gồm có 7 ủy viên Ban Thường vụ Bộ Chính trị gồm có: Tập Cận Bình,Lý Khắc Cường, Uông Dương, Lật Chiến Thư, Vương Hỗ Ninh, Triệu Lạc Tế, Hàn Chính, 7 ủy viên Ban Bí thư gồm có Vương Hỗ Ninh, Đinh Tiết Tường, Dương Hiểu Độ, Trần Hi, Quách Thanh Côn, Hoàng Khôn Minh, Vưu Quyền; 25 ủy viên chính thức Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc khóa 19 gồm có: Đinh Tiết Tường, Vương Thần, Vương Hỗ Ninh, Lưu Hạc, Hứa Kỳ Lượng, Lý Hi, Lý Cường, Lý Khắc Cường, Lý Hồng Trung, Dương Khiết Trì, Dương Hiểu Độ, Uông Dương, Trương Hựu Hiệp, Trần Hi, Trần Toàn Quốc, Trần Mẫn Nhĩ, Triệu Lạc Tế, Hồ Xuân Hoa, Lật Chiến Thư, Quách Thanh Côn, Hoàng Khôn Minh, Hàn Chính, Thái Kỳ, Tôn Xuân Lan
Đại dịch Covid 19 đã làm thay đổi thế giới. Trung Quốc và trật tự thế giới mới hậu Covid-19 đang thay đổi. Liên Hiệp Quốc rơi vào tình trạng mất trật tự sau 75 năm tồn tại. “Quyền lãnh đạo toàn cầu bị mất tích trong lúc thi hành nhiệm vụ – Global leadership is missing in action”, tờ báo Anh The Economist nhận xét. Tổng thống Mỹ Donald Trump đe dọa trừng phạt chưa từng có của Mỹ nhắm vào nhiều quan chức Trung Quốc Mỹ đình chỉ tài trợ và đe dọa rời bỏ Tổ Chức Y Tế Thế Giới, quan tâm nhiều hơn đến việc đổ lỗi cho Trung Quốc về đại dịch này. Liên minh về công nghệ gián điệp giữa Mỹ, Anh, Úc, Canada và New Zealand đã được thiết lập. Mỹ áp đặt lệnh cấm liên quan 5 công ty công nghệ của Trung Quốc gồm Huawei, ZTE, Hytera Communications, Hangzhou Hikvision Digital Technology và Dahua Technology. Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình khẳng định tiếp tục chính sách nhất quán trong bài phát biểu của ông tại Davos năm 2017 bảo vệ thương mại tự do và hành động chung về biến đổi khí hậu, trong khi Tổng thống Mỹ Donald Trump có quan điểm hoàn toàn ngược lại. Trung Quốc áp dụng Luật An ninh Quốc gia gây tranh cãi ở Hồng Kông, tiếp cận Tổ chức Thương mại Thế giới, tham gia G20, ký kết hiệp định Paris về biến đổi khí hậu trong khi Mỹ đã rút ra khỏi hiệp định này. Trung Quốc đưa ra các chính sách đối ngoại quyết đoán hơn bao giờ hết trong những tháng gần đây, tranh chấp mạnh hơn ở Biển Đông và mở rộng ảnh hưởng bắng nhiều ngả, khi thế giới vẫn tập trung kiểm soát đại dịch. Nga thản nhiên giành lấy Crimée vùng tranh chấp với Ukraina, Liên Âu đàm phán căng thẳng suốt thời gian dài và mấy hôm nay tại Bruxelles vẫn không thể tìm được tiếng nói chung chấn hưng kinh tế châu Âu, trong khi Đức đồng tình với Ý, Tây Ban Nha và Pháp là các quốc gia thành viên bị Covid-19 tấn công mạnh nhất của khối và đang nóng lòng đợi gói kich cầu do Liên Âu giúp đỡ, thì Hà Lan, Áo, Thụy Điển, Đan Mạch, Phần Lan lại chủ trương thắt lưng buộc bụng.
Tất cả những thông tin hé lộ, trong một chừng mực nào đó giúp cho sự nghiên cứu lịch sử đánh giá đúng tình hình. Dẫu vậy, mọi suy đoán chỉ có tính cách tham khảo.Từ điển Bách khoa Mở Wikipedia tiếng Việt, Wikipedia tiếng Anh và những bài nghiên cứu quốc tế về Trung Quốc được thu thập đúc kết thông tin cập nhật liên quan bài viết này.
Suy ngẫm từ núi xanh Bắc Kinh
Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình có hai cuốn sách lớn “Làm việc với những thứ thật, bước đi ở vị trí hàng đầu” và “Những Suy tư từ sông Dương Tử“ góp phần giúp ông giành thắng lợi trong cuộc bầu cử khó khăn chọn ra người đứng đầu chính phủ cùa một quốc gia hơn 1, 34 tỷ người, dẫn đến việc chuyển giao quyền lực năm 2012. Tư tưởng và đường lối chính trị của vị lãnh tụ này hiện còn là điều bí ẩn. Thế giới chỉ có thể suy đoán và hiểu người qua việc làm và dư luận. Năm năm qua (2012-2017) Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình được đánh giá là đang trở nên mạnh mẽ hơn bao giờ hết và đã xác định nhiệm kỳ 2 trên cương vị Tổng bí thư từ 2017-2022.
Peter Martin và David Cohen có bài viết : “ Mao and Forever: Xi Jinping’s Authoritarian Reforms” (Những cải cách độc đoán của Tập Cận Bình: theo Mao và mãi mãi theo Mao), người dịch Huỳnh Phan. Bài nghiên cứu giúp chúng ta một góc nhìn đối thoại. Mao Trạch Đông là một nhân vật hiếm có trong lịch sử, nghìn năm công tội. Thời gian và sự khen chê không thể xóa nhòa những dấu ấn nổi bật của Mao. Chọn theo Mao là chọn theo đường lối thực tiễn “có lý, có lợi, đúng lúc”.
Tôi dạo chơi Thiên An Môn, Cố Cung, Di Hòa Viên, Thiên Đàn trong ngày Quốc tế Lao động, ngắm những nơi lưu dấu các di sản của những triều đại hiển hách nhất Trung Hoa, lắng nghe đất trời và các cổ vật kể chuyện. Tôi ngắm nhìn người nghệ sĩ nhân gian, vui cùng ông và đùa cùng trẻ thơ. Ngày trước đó, tôi vinh hạnh được làm việc với giáo sư Zhikang Li, trưởng dự án Siêu Lúa Xanh (Green Super Rice) chương trình nghiên cứu lúa nổi tiếng của CAAS & IRRI và có cơ hội tiếp cận với các nghiên cứu của Viện Hàn lâm Khoa học Nông nghiệp Trung Quốc.
Suy ngẫm từ núi Xanh (景山, Jǐngshān, Cảnh Sơn, Green Mount), ngọn núi địa linh của đế đô Bắc Kinh, tôi tâm đắc lời nhắn gửi sâu xa của bậc hiền minh lỗi lạc Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm: “Muốn bình sao chẳng lấy nhân / Muốn yên sao lại bắt dân ghê mình” “Biển Đông vạn dặm giang tay giữ. Đất Việt muôn năm vững thái bình) (Vạn lý Đông minh quy bá ác/ Ức niên Nam cực điện long bình). Suy ngẫm về cuộc cách mạng Xanh và đỉnh cao Hòa Bình. Tập Cận Bình nối Tôn Trung Sơn liên Nga thân Việt trừ tà tứ toàn.
Lời giáo sư Norman Borlaug văng vẳng bên tai tôi: “Đời người tối thiểu phải ăn, kế đến là học tập, công việc, nhà ở, quần áo và chăm sóc sức khỏe. Quanh ta còn nhiều mảnh đời bất hạnh. Hiểm họa nghèo đói vẫn bùng phát bất cứ lúc nào. Hãy luôn nhớ điều đó.” Sự hiền minh lỗi lạc của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, và di sản vô giá của giáo sư Norman Borlaug cùng với các bậc Thầy về cách mạng xanh mãi là niềm tin và nổ lực của chúng ta !
Việt Nam tự cũng cố, trầm tĩnh theo dõi sát, ứng phó chủ động thích hợp.
Hoàng Kim
Tamim Ansary
Trần Quang Nghĩa dịch
LỜI GIỚI THIỆU
Thế Giới Hồi Giáo Ngày Nay
Lớn lên tại Afghanistan Hồi giáo, từ rất sớm tôi đã tiếp thu câu chuyện thế giới sử hoàn toàn khác với câu chuyện mà các học sinh Âu châu và Mỹ châu nghe hàng ngày. Tuy nhiên, vào thời điểm đó, điều ấy không hình thành nếp suy nghĩ của tôi bởi vì tôi đọc lịch sử cốt mua vui, và ở Farsi không có nhiều thứ để đọc trừ các sách giáo khoa chán ngấy. Ở mức độ đọc của tôi, mọi thứ hấp dẫn đều viết bằng Anh ngữ.
Cuốn sách ưa thích buổi đầu của tôi là Lịch sử Thế Giới cho Trẻ Em rất hấp dẫn của V. V. Hillyer. Chỉ đến khi đọc lại quyển sách đó khi đã lớn, nhiều năm sau đó, tôi mới nhận ra nó xem châu Âu là tâm điểm một cách rất phản cảm, đầy những thiên kiến phân biệt chủng tộc. Hồi trẻ tôi không thể nhận ra đặc điểm này vì Hillyer kể chuyện quá hay.
Khi lên 9 hay 10, nhà sử học Arnold Toynbee đi ngang qua thị trấn bé xíu Lashkargah của tôi trên một chuyến công tác, và ai đó bảo với ông trong thị trấn có một thằng nhóc Afghan là con mọt sách mê lịch sử. Toynbee thích thú và mời tôi lại dùng trà, vì vậy tôi được dịp ngồi với một quý ông Anh lớn tuổi, hồng hào và tôi chỉ biết trả lời bẽn lẽn, nhát gừng những câu hỏi tử tế của ông. Điều duy nhất tôi chú ý ở nhà sử học vĩ đại này là thói quen dúi chiếc khăn tay vào tay áo mà tôi thấy rất kỳ cục.
Khi chúng tôi chia tay, Toynbee tặng tôi một món quà: cuốn Câu Chuyện Nhân Loại của Hendrick Willem Van Loon. Chỉ cái tựa thôi cũng đủ làm tôi ngất ngây – cái ý tưởng là tất cả “nhân loại” có chung một câu chuyện duy nhất. Vậy là sao nhỉ, tôi cũng là một phần của “nhân loại”, vậy đây cũng có thể là câu chuyện của tôi, theo một nghĩa nào đó, hoặc ít ra có thể định vị tôi trong một câu chuyện lớn được mọi người chia sẻ! Tôi nuốt chửng quyển sách đó, và tôi yêu thích nó, và lối tường thuật Tây phương về lịch sử thế giới trở thành bộ khung của tôi kể từ đó. Tất cả lịch sử hoặc hư cấu lịch sử tôi đọc từ đó trở đi chỉ thêm thịt cho bộ khung xương đó. Rồi còn phải học các sách giáo khoa lịch sử thông thái rởm ở Farsi ấn định cho chúng tôi ở trường nhưng chỉ đọc nó để qua được các kỳ thi và rồi sẽ trả lại thầy.
Tuy nhiên, những vang vọng yếu ớt của câu chuyện kể khác ắt hẳn còn nấn ná trong tôi, bởi vì 40 năm sau, vào mùa thu 2000, khi tôi làm công việc biên tập sách giáo khoa ở Hoa Kỳ, nó lại trào ra. Một nhà xuất bản sách giáo khoa ở Texas đã thuê tôi triển khai một sách giáo khoa thế giới sử trung học mới toanh, và công việc đầu tiên là soạn ra một mục lục, nhằm hình thành một quan điểm về hình thái toàn bộ của lịch sử nhân loại. Cái duy nhất được cho biết là cấu trúc của quyển sách. Để khớp với phân phối chương trình của năm học, nhà xuất bản quy định nó phải được chia thành 10 đơn vị, mỗi đơn vị gồm 3 chương.
Nhưng toàn bộ thời gian được chia ra cho 10 đơn vị (hoặc 30 chương) như thế nào? Thế giới sử, sau hết, không phải là danh sách biên niên của mọi sự kiện xảy ra; nó là một chuỗi các sự kiện có tính nhân quả nhất, được chọn lọc và sắp xếp để hiển lộ ra cốt truyện – chính cốt truyện mới là đáng kể.
Tôi hăng hái dấn thân vào câu đố trí tuệ này, nhưng các quyết định của tôi phải vượt qua một đội hình pha-lăng các cố vấn: các chuyên gia chương trình, các giáo viên sử, các nhà điều hành thương mại, các viên chức giáo dục tiểu bang, các học giả chuyên môn và những nhân vật vai vế khác. Đây là hoạt động hoàn toàn bình thường trong việc xuất bản sách giáo khoa trung học, và theo tôi là hoàn toàn thích đáng, vì chức năng của loại sách này là để chuyển tải, không phải thách thức, sự đồng thuận xã hội được cập nhật mới nhất về điều được cho là chân lý. Một dàn đồng ca các cố vấn được lên danh sách để đánh giá về các quyết định triển khai của biên tập viên giúp bảo đảm sản phẩm cuối cùng phản ánh chương trình hiện hành, nếu không quyến sách sẽ có nguy cơ khó bán được.
Tuy nhiên, khi chúng tôi duyệt qua tiến trình, tôi nhận thấy có sự kèn cựa thú vị giữa các cố vấn của tôi và tôi. Chúng tôi đồng thuận gần như trên mọi việc chỉ trừ – tôi thì luôn muốn viết nhiều hơn về Hồi giáo trong lịch sử thế giới, còn họ lại cứ muốn kéo nó lùi trở lại, bớt nó xuống, chia nhỏ nó thành những phần bên lề trong các đơn vị dành chủ yếu cho các đề mục khác. Không ai trong chúng tôi nói vì sự trung thành hẹp hòi đối với “nền văn minh của chúng tôi.” Không ai nói là Hồi giáo tốt hơn hay tệ hơn “phương Tây”. Tất cả chúng tôi chỉ đơn giản diễn tả nhận thức tốt nhất của mình về sự kiện nào có tầm ảnh hưởng đối với câu chuyện lịch sử nhân loại.
Ý kiến của tôi là ý kiến thuộc thiểu số nhiều đến nỗi chẳng khác nào một ý kiến sai lầm, vì thế chúng tôi kết thúc với một bảng mục lục trong đó Hồi giáo chỉ chiếm một chương trong một đơn vị gồm 3 chương (sách có 10 đơn vị và 30 chương). Hai chương kia trong cùng đơn vị là “Các Nền Văn Minh Tiền Columbus ở Châu Mỹ” và “Các Đế Chế Phi Châu Cổ Đại”.
Thậm chí như vậy đã là mở rộng. Chương trình sử thế giới bán chạy nhất của chu kỳ sách giáo khoa lần trước, ấn bản 1997 Các Viễn Cảnh về Quá Khứ, chỉ nói về Hồi giáo trong đúng một chương trong tổng số 37 chương, và phân nửa chương đó (một phần của đơn vị có tựa “Thời Trung Cổ”) lại dành cho Đế Chế Byzantine.
Tóm lại, không đầy một năm trước vụ 11/9/2001, các chuyên gia đều đồng thuận ý kiến cho rằng Hồi giáo là một hiện tượng tương đối nhỏ mà tác động của nó đã kết thúc lâu trước thời Phục Hưng. Nếu bạn đi theo bảng mục lục của chúng tôi một cách nghiêm ngặt bạn sẽ không hề đoán được Hồi giáo còn tồn tại.
Lúc đó, tôi công nhận sự phán xét của mình có thể lệch lạc. Suy cho cùng, tôi có một thiên kiến cá nhân với đạo Hồi vốn là một phần thuộc bản sắc của riêng minh. Không chỉ tôi trưởng thành trong một đất nước Hồi giáo, mà tôi sinh ra trong một gia đình mà vị thế xã hội cao cấp một thời ở Afghanistan đều hoàn toàn dựa vào sự sùng đạo nổi tiếng và sự hiểu biết thâm sâu về giáo lý. Họ của tôi cho biết chúng tôi thuộc dòng dõi Ansars, “những người Hỗ Trợ”, tức nhóm người đầu tiên cải sang đạo Hồi ở Medina đã từng hỗ trợ Nhà Tiên Tri thoát khỏi vụ mưu sát ở Mecca và nhờ đó ông mới sống sót để hoàn thành sứ mạng của mình.
Gần đây hơn, ông cố của ông nội tôi là một nhà thần bí Hồi giáo được địa phương tôn kính mà lăng mộ của ông vẫn còn là một điện thờ đến nay còn có hàng trăm tín đồ, và di sản của ông thấm truyền xuống đến đời cha tôi, tiêm nhiễm trong dòng họ chúng tôi một ý thức toàn bộ về nghĩa vụ để hiểu rõ điều này tốt hơn một người trung bình. Lớn lên, tôi nghe tiếng vo ve về các chuyện vặt vãnh, lời bình phẩm, và ức đoán về Hồi giáo trong môi trường tôi sống và một số tôi hiểu ra, cho dù tính khí của tôi phần nào cương quyết quay về thế tục.
Và vẫn còn thế tục sau khi tôi chuyển sang Mỹ sống; vậy mà ở đây tôi thấy mình quan tâm đến Hồi giáo nhiều hơn là khi sống trong thế giới Hồi giáo. Mối quan tâm của tôi càng sâu nặng thêm khi em tôi đi theo chủ nghĩa “cơ yếu” Hồi giáo (chủ nghĩa đòi hỏi quay trở về nguồn gốc của một tôn giáo, hoặc ý thức hệ nào đó, nếu cần thì phải dùng những biện pháp cực đoan: ND). Tôi bắt đầu đào sâu vào triết lý đạo Hồi qua các tác giả như Fazlur Rahman và Syed Hussein Nasr cũng như lịch sử đạo Hồi qua các nhà học thuật như Ernst Grunebaum và Albert Hourani, chỉ cố dò đến nguồn cội nơi anh em tôi xuất thân, hoặc trong trường hợp của cậu ta, muốn tiến đến đâu.
SỰ BÀNH TRƯỚNG CỦA ĐẠO HỒI
Xét về mặt cá nhân, tôi có thể chịu nhận là mình có thể đánh giá quá cao tầm quan trọng của đạo Hồi. Và vậy mà … còn một chút xíu ngờ vực ở lại. Đánh giá của tôi có hoàn toàn không có cơ sở khách quan không? Hãy nhìn vào 6 bản đồ trên đây, hình ảnh nhanh gọn của thế giới Hồi giáo tại 6 niên đại khác nhau:
Khi tôi nói “thế giới Hồi giáo”, tôi muốn nói các xã hội có số dân chúng theo đạo Hồi và/ hoặc có người Hồi cai trị. Tất nhiên, ở Anh, Pháp, Hoa Kỳ vẫn có người Hồi giáo, và gần như mọi nơi khác trên quả địa cầu, nhưng sẽ là lầm lẫn, trên cơ sở đó, nếu xem London hay Paris hay New York là một bộ phận của thế giới Hồi giáo. Tuy nhiên, thậm chí theo định nghĩa hạn chế của tôi, có phải “thế giới Hồi giáo” chưa từng là một sự kiện địa lý nổi bật trong suốt nhiều thế kỷ của nó hay không? Bộ nó vẫn không phải là một sự kiện địa lý nổi bật đến ngày hôm nay, khi mà lãnh thổ Hồi giạng chân trên một vùng đất bao la Á-Phi và tạo thành một vùng đệm khổng lồ giữa châu Âu và Đông Á hay sao? Về diện tích, nó chiếm một vùng rộng lớn hơn châu Âu và Hoa Kỳ họp lại. Trong quá khứ, nó từng là một thực thể chính trị đơn lẻ, và các khái niệm về sự đơn lẻ và tính thống nhất chính trị còn vang vọng trong một số người Hồi thậm chí ngay lúc này. Nhìn vào 6 bản đồ này, tôi còn phải tự hỏi làm sao, ngay trước ngày 11/9, lại có người có thể không xem Hồi giáo là một tay chơi chủ yếu trên sân khấu lịch sử thế giới?
Sau ngày 11/9, các nhận thức đã thay đổi. Những người không theo đạo Hồi ở phương Tây bắt đầu hỏi Hồi giáo là gì, những người đó là ai, và chuyện gì xảy ra ở đó. Cũng các câu hỏi đó bắt đầu kêu vo vo một cách khẩn thiết mới mẻ trong đầu óc tôi. Năm đó, đi thăm Pakistan và Afghanistan lần đầu tiên trong vòng 38 năm, tôi mang theo một quyển sách mà tôi bắt gặp trong một hiệu sách cũ ở London, Hồi giáo trong Lịch Sử Hiện Đại của Wilfred Cantwell Smith quá cố, giáo sư tôn giáo tại McGill và Harvard. Smith xuất bản tác phẩm này vào năm 1957, vì vậy “lịch sử hiện đại” mà ông nói đến đã kết thúc hơn 40 năm trước, vậy mà bài phân tích của ông làm tôi choáng váng – đúng hơn là bối rối – vì còn quá thích hợp với lịch sử đang diễn tiến trong năm 2002.
Smith chiếu ánh sáng mới vào thông tin tôi sở hữu từ thời thơ ấu và từ việc đọc sách sau này. Chẳng hạn, trong những ngày đi học ở Kabul, tôi biết rõ một người có tên Sayyid Jamaluddin-i-Afghan. Như “mọi người”, tôi biết ông là một nhân vật sừng sững trong lịch sử Hồi giáo hiện đại; nhưng nói thẳng thắn tôi chưa hề tìm hiểu sâu xa lý do ông đạt được tiếng tăm đó, ngoài sự kiện là ông theo đuổi “chủ nghĩa liên Hồi giáo”, dường như đối với tôi chỉ là chủ nghĩa sô-vanh Hồi giáo xanh xao. Giờ đây, sau khi đọc Smith, tôi nhận ra rằng các giáo điều cơ bản của “chủ nghĩa Hồi giáo”, ý thức hệ chính trị vốn lên tiếng ầm ĩ chung quanh ta vào năm 2001, đã được đúc nặn ra cách đây hơn trăm năm bởi triết gia sừng sững về “chủ nghĩa Hồi giáo” này. Làm sao mà ngay cái tên của ông phần đông người không theo đạo Hồi lại không biết?
Tôi cày cuốc trở lại lịch sử Hồi giáo, không còn để truy vấn để tìm bản sắc cá nhân, mà trong một nỗ lực để hiểu ra các diễn biến đáng báo động trong giới tín đồ Hồi giáo của thời đại tôi – những chuyện khủng khiếp ở Afghanistan; tình trạng rối loạn ở Iran, ở Phi Luật Tân, và nơi khác; những vụ không tặc, đánh bom liều chết ở Trung Đông, chủ nghĩa cực đoan Hồi giáo chính trị càng ngày càng cứng rắn; và giờ đến sự xuất hiện của Taliban. Chắc chắn, một cái nhìn cận cảnh vào lịch sử sẽ phát hiện làm thế nào lại xảy ra tình trạng này trên Trái đất.
Và dần dần, tôi mới nhận ra vì đâu đã nên nỗi này. Tôi đi đến nhận thức rằng, không giống lịch sử của Pháp hoặc Malta hoặc Nam Mỹ, lịch sử các vùng đất Hồi giáo “bên đó” không phải là một tiểu bộ phận của một lịch sử thế giới đơn lẻ nào đó được chia sẻ bởi tất cả. Nó giống một lịch sử thế giới khácr toàn bộ trong tự thân, cạnh tranh với và phản chiếu cái lịch sử thế giới mà tôi đã cố gắng tạo ra cho nhà xuất bản Texas, hoặc lịch sử thế giới do McDougall-Littell xuất bản mà tôi đã viết “các chương Hồi giáo.”
Hai lịch sử đã bắt đầu tại cùng một nơi, giữa hai sông Tigris và Euphrates của Iraq cổ đại, và chúng đã đến cùng một nơi, cuộc đấu tranh toàn cầu này trong đó dường như phương Tây và thế giới Hồi giáo đóng vai chính. Ở khoảng giữa, tuy nhiên, họ đã đi qua những khung cảnh khác nhau và vậy mà song hành một cách kỳ lạ.
Vâng, song hành một cách kỳ lạ: hãy nhìn lại, chẳng hạn, từ bên trong khung sườn thế giới sử Tây phương, ta thấy một đế quốc lớn đơn lẻ đứng sừng sững trên mọi đế chế khác có từ trước vào thời cổ đại: đó là La Mã, nơi đó giấc mơ của một nhà nước chính trị phổ quát ra đời.
Nhìn trở lại từ bất kỳ nơi đâu trong thế giới Hồi giáo, ta cũng thấy một đế chế xác định đơn lẻ lù lù ở đó, hiện thân cho một tầm nhìn của một nhà nước phổ quát, nhưng nó không phải là La Mã. Nó là chính quyền kha-lip của đạo Hồi thuở ban đầu.
Trong cả hai lịch sử, đế chế ban đầu vĩ đại phân mảnh đơn giản bởi lẽ nó bành trướng quá rộng lớn. Khi đó đế chế đang băng hoại bị bọn man rợ du mục tấn công từ phía bắc – nhưng trong thế giới Hồi giáo, “phía bắc” là chỉ đến các thảo nguyên vùng Trung Á và trong thế giới đó bọn man rợ du mục không phải là người Đức mà là người Thổ. Trong cả hai trường hợp, bọn xâm lược đều xâu xé nhà nước rộng lớn thành những miếng vá gồm các vương quốc nhỏ hơn thẩm thấu toàn bộ bằng một chính thống giáo thống nhất, đơn lẻ. Đạo Cơ đốc ở phương Tây, đạo Hồi Sunni ở phương Đông.
Lịch sử thế giới luôn là câu chuyện làm thế nào “chúng ta” đến được ở đây và hiện giờ, vì thế hình thái tự thuật tùy thuộc mật thiết với ai chúng ta muốn nói là “chúng ta” và điều gì chúng ta muốn nói là ‘ở đây và hiện giờ”. Lịch sử thế giới Tây phương theo truyền thống giả định rằng ở đây và hiện giờ là nền văn minh kỹ nghệ và dân chủ (và hậu kỹ nghệ). Ở Hoa Kỳ sự giả định càng mạnh hơn cho rằng lịch sử thế giới đưa đến sự ra đời các lý tưởng đặt nền móng như tự do và bình đẳng và kết quả là nó trỗi dậy thành một siêu cường dẫn đầu hành tinh đi đến tương lai. Tiền đề này thiết lập một định hướng cho lịch sử và đặt điểm cuối ở đâu đó trên con đường hiện giờ chúng ta đang đi. Nó khiến ta dễ bị tổn thương nếu cho rằng mọi người đều di chuyển theo cùng chiều hướng đó, cho dù một số còn xa mới bắt kịp – hoặc bởi vì họ đã khởi hành quá muộn, hoặc bởi vì họ di chuyển quá chậm – với bất kỳ lý do nào chúng ta gọi xứ sở của họ là “những quốc gia đang phát triển.”
Khi tương lai lý tưởng theo tầm nhìn của xã hội hậu kỹ nghệ, Tây phương dân chủ được xem như điểm cuối của lịch sử, bố cục câu chuyện đưa đến các đặc điểm ở-đây-và-hiện-giờ dường như theo các giai đoạn sau:
Sự ra đời của văn minh (Ai Cập và Mesopotamia)
Thời kỳ cổ điển (Hy Lạp và La Mã)
Thời đại Tối Tăm (sự trỗi dậy của Cơ đốc giáo)
Sự Phục Sinh: thời Phục Hưng và Cải Cách)
Thời Khai Sáng (thám hiểm và khoa học)
Các Cuộc Cách Mạng (dân chủ, kỹ nghệ, công nghệ)
Sự trỗi dậy của nhà nước-quốc gia: Cuộc Đấu Tranh giành Đế Chế
Thế Chiến I và II
Chiến Tranh Lạnh
Thắng Lợi của Chủ Nghĩa Tư Bản Dân Chủ
Nhưng điều gì xảy ra nếu chúng ta nhìn vào lịch sử thế giới qua con mắt Hồi giáo? Chúng ta có thể nào tự coi mình là các phiên bản còi cọc của phương Tây, đang phát triển về hướng cùng một điểm cuối, nhưng kém hiệu quả hơn hay không? Tôi nghĩ là không. Một lí do, chúng tôi nhìn theo một ngưỡng khác trong cách chia đường thời gian thành “trước” và “sau”: năm 0 của chúng tôi là năm Nhà Tiên Tri Mohammed di tản khỏi Mecca đến Medina, sự kiện Hijra của ông, khai sinh ra cộng đồng Hồi giáo. Đối với chúng tôi, cộng đồng này hiện thân cho ý nghĩa “văn minh”, và hoàn thiện lý tưởng này tạo nên sức tác động đã tạo hình và định hướng cho lịch sử.
Nhưng vào các thế kỷ gần đây, chúng ta cảm thấy rằng có điều gì đó lệch lạc với dòng chảy. Chúng ta biết rằng cộng đồng đã ngừng mở rộng, đã trở nên lúng túng, đã thấy mình bị hoàn toàn cắt đứt bởi một dòng chảy khác cắt ngang, một chiều hướng lịch sử tranh chấp. Là người thừa kế truyền thống đạo Hồi, chúng tôi buộc phải tìm kiếm ý nghĩa của lịch sử trong chiến bại thay vì chiến thắng. Chúng ta cảm thấy xung đột giữa hai lực tác động: thay đổi quan niệm của chúng ta về “văn minh” để song hành với dòng lịch sử hoặc chiến đấu với dòng lịch sử để sắp xếp nó theo quan niệm của chúng ta về “văn minh”.
Nếu hiện tại còi cọc mà xã hội Hồi giáo trải nghiệm được chấp nhận như cái ở-đây-và-hiện-giờ để được lý giải bởi câu chuyện thế giới sử, thế thì bố cục câu chuyện có thể được phân chia thành các giai đoạn sau:
Thời Cổ Đại: Mesopotamia và Ba Tư
Sự Ra Đời của đạo Hồi
Vương triều Kha-lip: Truy Tìm Tính Thống Nhất Phố Quát
Sự Phân Mảnh: Thời đại các Sultan
Thảm Họa: Thập Tự Chinh và Quân Mông Cổ
Sự Phục Sinh: Kỷ Nguyên Ba Đế Chế
Phương Tây thấm nhuần Phương Đông
Các Phong Trào Cải Cách
Thắng Lợi của các Nhà Hiện Đại Thế Tục
Phản Ứng của Hồi Giáo
Nhà phê bình văn học Edward Said đã lập luận rằng trong nhiều thế kỷ, phương Tây đã kiến tạo một điều tưởng tượng “Đông phương” về thế giới Hồi giáo, trong đó một nhận thức xấu xa về “tính khác lạ” trộn lẫn với những hình ảnh đố kỵ về sự giàu có bại hoại. Vâng, vậy là đến một mức độ nào đó Hồi giáo đã đi vào óc tưởng tượng của người Tây phương, được miêu tả nhiều hơn hay ít hơn
Nhưng càng khó hiểu hơn đối với tôi là sự vắng mặt tương đối của bất kỳ sự miêu tả nào. Trong thời của Shakespeare, chẳng hạn, quyền lực nổi trội của thế giới tập trung tại ba đế chế Hồi giáo. Nhưng trong tác phẩm của ông những người Hồi đâu cả rồi? Biệt tăm. Nếu bạn không biết người Moor là người Hồi, bạn sẽ không biết được điều ấy từ Othello.
Đây là hai thế giới to lớn song hành bên nhau, điều nổi bật là chúng hiếm khi chú ý đến nhau. Nếu thế giới Tây phương và Hồi giáo là hai con người, chúng ta có thể nhìn thấy những biểu hiện của sự áp bức ở đây. Chúng ta có thể hỏi, *Chuyện gì đã xảy ra giữa hai người này? Họ có từng yêu nhau không? Có xảy ra chuyện lạm dụng nào không?”
Nhưng, theo ý tôi, tồn tại một cách lý giải khác ít ấn tượng hơn. Trong phần lớn lịch sử, phương Tây và cốt lõi của những gì thuộc thế giới Hồi giáo hiện giờ là như hai thế giới riêng biệt, mỗi bên bận bịu với những vấn đề nội bộ của mình, mỗi bên đều giả định rằng chính mình mới là trung tâm của lịch sử nhân loại, mỗi bên kể lại một câu chuyện khác nhau – cho đến cuối thế kỷ 17 khi hai câu chuyện bắt đầu giao nhau. Tại thời điểm này, bên này hoặc bên kia phải nhường đường vì hai câu chuyện cắt dòng nhau. Phương Tây hùng mạnh hơn, trào lưu của nó thắng thế và đạp bên kia xuống mà tiến lên.
Nhưng lịch sử bị thế chỗ không hề thực sự kết thúc. Nó tiếp tục chảy ngầm bên dưới, và đến giờ vẫn còn tiếp tục chảy ở đó. Khi bạn định vị trên bản đồ các điểm nóng trên thế giới—Kashmir, Iraq, Chechnya, vùng Balkans, Israel và Palestine, Iraq – bạn đang rình rập bên ngoài đường biên của một thực thể nào đó đã biệt tăm khỏi bản đồ nhưng vẫn còn quẫy đạp và dãy dụa trong nỗ lực phải sống còn.
Đó là câu chuyện tôi kể trong những trang sau đây, và tôi nhấn mạnh “câu chuyện.” Vận Mệnh Đứt Đoạn không phải là một sách giáo khoa cũng không phải một luận đề học thuật. Nó giống nhiều hơn với những gì tôi sẽ kể lể với bạn nếu chúng ta gặp nhau trong một quán cà phê và bạn hỏi, “Một lịch sử thế giới song hành là nói về chuyện gì?” Lập luận tôi đưa ra có thể được tìm thấy trong nhiều tác phẩm giờ được bày trên kệ các thư viện đại học. Đến đó đọc chúng nếu bạn không ngại loại ngôn ngữ và chú giải hàn lâm. Đọc ở đây nếu bạn muốn biết cốt truyện. Dù không phải là học giả, tôi đã trích dẫn công trình các học giả đã sàng lọc nguồn tư liệu thô của lịch sử để rút ra các kết luận và của các nhà hàn lâm đã sàng lọc công trình của các nhà nghiên cứu học thuật để rút ra các kết luận thâm sâu.
Trong lịch sử kéo dài vài ngàn năm, tôi dành một không gian có vẻ như không tương xứng cho khoảng nửa thế kỷ ngắn ngủi cách này đã lâu, nhưng tôi la cà ở đây vì thời kỳ này kể về sự nghiệp của Tiên Tri Mohammed và bốn vị đầu tiền kế nghiệp ông, câu chuyện sáng lập đạo Hồi. Tôi kể lại chuyện này như kể bi kịch của người thân, vì đó là cách mà tín đồ đạo Hồi hiểu biết nó. Các nhà hàn lâm tiếp cận câu chuyện này một cách hoài nghi hơn, chỉ tin vào nguồn tư liệu phi Hồi giáo hơn là lời tường thuật ít khách quan hơn của người Hồi, bởi vì họ chủ yếu quan tâm việc đào xới những điều “thực sự xảy ra”. Mục tiêu của tôi chủ yếu là chuyển tải những gì người Hồi cho rằng đã xảy ra, bởi vì đó là điều đã tạo động lực cho người Hồi qua nhiều thời đại và là điều khiến vai trò của họ trong lịch sử thế giới có thể nhận ra được.
Tuy nhiên, tôi sẽ xác nhận một cảnh báo ở đây về nguồn gốc đạo Hồi. Không như các tôn giáo có lâu đời hơn – như đạo Do Thái, đạo Phật, Ấn giáo, thậm chí Cơ đốc giáo ;- người Hồi bắt đầu sưu tập, ghi nhớ, thuật lại và gìn giữ lịch sử của họ ngay khi nó xảy ra, và họ không chỉ gìn giữ lịch sử của mình mà còn gắn kết mỗi giai thoại vào trong một tổ các nguồn cội, gọi tên các nhân chứng cho mỗi sự kiện và liệt kê tất cả những người lưu truyền câu chuyện xuyên thời gian xuống đến người đầu tiên viết lại câu chuyện đó, các tham chiếu có tác dụng như một dây xích giam giữ, có giá trị như một mảnh chứng cứ trong một phiên xử.
Điều này ám chỉ rằng các câu chuyện Hồi giáo cốt lõi không thể được tiếp cận tốt nhất như những truyện ngụ ngôn. Với một truyện ngụ ngôn, chúng ta bất cần hỏi chứng cứ sự kiện có xảy ra không; đó không phải là điểm mấu chốt. Chúng ta bất cần câu chuyện có xảy ra thực không; chúng ta chỉ muốn bài học có thực. Các câu chuyện Hồi giáo không đóng gói những bài học thuộc loại đó: chúng không phải là các câu chuyện về những con người lý tưởng trong một phạm trù lý tưởng. Chúng đến với chúng ta, thay vào đấy, như các truyện kể về những người thực vật lộn với những vấn đề thực tiễn trong bùn lầy và u ám của lịch sử hiện thực, và chúng ta rút ra từ chúng những bài học gì mình muốn.
Không thể chối cãi rằng các câu chuyện Hồi giáo có tính ngụ ý, cũng như một số đã được chế biến, cũng như nhiều và thậm chí tất cả được người kế chuyện điều chỉnh tùy nghi cho phù hợp với lịch trình của người nghe và thời điểm. Chỉ cần nói thêm rằng người Hồi đã truyền lại câu chuyện nguồn cội của mình trong cùng một tinh thần của những tường thuật lịch sử, và chúng tôi hiểu về những người này và sự kiện này không khác mấy điều chúng tôi biết về những gì đã xảy ra giữa Sulla và Marius vào thời La Mã cổ đại. Những chuyện này nằm đâu đó giữa lịch sử và thần thoại, và nếu kể lại chúng mà tước bỏ tính bi kịch nhân loại sẽ làm sai lệch ý nghĩa mà chúng gợi ra cho người Hồi, khiến càng khó hiểu hơn những điều mà người Hồi đã làm qua bao thế kỷ. Thế thì đây là cách thức tôi dự tính sẽ kể lại câu chuyện, và nếu bạn muốn cùng thuyền với tôi, hãy nai nịt và khởi hành.
CHƯƠNG 1: TRUNG THẾ GIỚI
Rất lâu trước khi đạo Hồi ra đời, hai thế giới thành hình giữa Đại Tây Dương và Vịnh Bengal. Mỗi thế giới kết tinh chung quanh một mạng lưới khác nhau về tuyến đường mậu dịch và thông thương; một trong số đó, chủ yếu là đường biển, tuyến kia là đường bộ.
Nếu bạn nhìn vào việc lưu thông đường biển thời cổ đại, Địa Trung Hải xuất hiện như trung tâm hiển nhiên của lịch sử thế giới, vì chính tại nơi đây mà người Mycenae, Cretan, Phoenicia, Lydia, Hy Lạp, La Mã, và rất nhiều nền văn hóa sớm năng động khác gặp gỡ và hòa nhập vào nhau. Những người sống gần vùng Địa Trung Hải có thể dễ dàng nghe về và tương tác với những người khác cũng sống gần vùng Địa Trung Hải, và vì vậy chính vùng biển này trở thành một lực tổ chức lôi kéo những con người khác nhau vào các câu chuyện của nhau và đan quyện các vận mệnh của họ với nhau để tạo thành mầm mống của một lịch sử thế giới, và từ mầm mống này ra đời “văn minh Tây phương.”
Tuy nhiên, nếu bạn nhìn vào việc thông thương đường bộ thời cổ đại, Nhà ga Trung tâm hoành tráng của thế giới là mối quan hệ các con đường và tuyến đường kết nối tiểu lục địa Ấn Độ, Trung Á, vùng cao nguyên Iran, Mesopotamia, và Ai Cập, các con đường chạy bên trong một lãnh thổ bao quanh bởi sông và biển – Vịnh Ba Tư, các con sông Ấn và Oxus, các biển Aral, Caspian, và Biển Đen; Địa Trung Hải, sông Nile, và Biển Đỏ. Vùng này cuối cùng sẽ trở thành thế giới Hồi giáo.
THẾ GIỚI ĐỊA TRUNG HẢI (Xác định bởi các Tuyến Đường Biển)
TRUNG THẾ GIỚI (Xác định bởi các Tuyến Đường Bộ)
Khổ thay, cách sử dụng thông thường không gán danh hiệu đơn lẻ nào cho vùng thứ hai này. Một phần của nó được gọi một cách điển hình là Trung Đông, nhưng đặt tên cho một phần của nó làm lu mờ tính liên kết của toàn thể, và ngoài ra, cụm từ Trung Đông giả định rằng người ta đang đứng ở tây Âu – nếu bạn đứng ở cao nguyên Ba Tư, chẳng hạn, vùng gọi là Trung Đông thực sự là Trung Tây. Do đó, tôi thích gọi toàn bộ vùng từ Sông Ấn đến Istanbul là Trung Thế giới, vì nó nằm giữa vùng Địa Trung Hải và Trung Quốc.
Thế giới Trung Quốc, tất nhiên, là một vũ trụ riêng và không dính líu gì nhiều đến hai thế giới kia; và điều đó chỉ cần dựa một mình trên cơ sở địa lý là thấy rõ. Trung Quốc bị tách lìa với vùng Địa Trung Hải chỉ bởi khoảng cách và với Trung Thế Giới bởi dãy Hy Mã Lạp Sơn, Sa mạc Gobi và vùng rừng rậm đông nam Á, một hàng rào gần như bất khả xâm phạm, chính là lý do tại sao Trung Quốc và các nước vệ tinh và đối thủ của nó hiếm khi bước vào “lịch sử thế giới” tập trung ở Trung Thế Giới, và tại sao họ ít được đề cập đến trong quyển sách này. Điều này cũng đúng với châu Phi tiểu Sahara, bị cắt khỏi phần còn lại của Á Âu bởi sa mạc lớn nhất thế giới. Cũng vì lý do đó, châu Mỹ hợp thành một vũ trụ khác biệt với một lịch sử thế giới của riêng mình.
Tuy nhiên, địa lý không chia tách các vùng Địa Trung Hải và Trung Thế Giới một cách triệt để như nó cô lập Trung Quốc hoặc châu Mỹ. Hai vùng này kết tinh như các thế giới khác nhau vì chúng là điều mà sử gia Philip D. Curtin đã gọi là “những vùng liên thông”: mỗi vùng có tương tác nội bộ nhiều hơn có với vùng khác. Từ bất cứ nơi đâu gần bờ biển Địa Trung Hải, dễ dàng đi đến một nơi nào khác gần bờ biển Địa Trung Hải hơn là đến Persepolis hoặc Sông Ấn. Tương tự, các đoàn xe trên các tuyến đường bộ xuôi ngược khắp Trung Thế Giới trong thời cổ đại có thể đổi hướng tại bất kỳ giao lộ nào – có rất nhiều các giao lộ như thế. Khi họ đi về hướng tây, tuy nhiên, vào Tiểu Á (vùng chúng ta ngày nay gọi là Thổ Nhĩ Kỳ), hình dạng của vùng đất dần dần thắt lại thành cổ chai hẹp nhất thế giới, cây cầu (nếu tình cờ có một chiếc vào thời điểm đó) bắc qua Eo Bosporus. Điều này có khuynh hướng bóp nghẹt sự lưu thông trên bộ chỉ còn một dòng nhỏ giọt và quay trở lại các đoàn xe về hướng trung tâm hoặc về hướng nam dọc theo bờ biển Địa Trung Hải.
Các lời bàn tán, truyện kể, truyện cười, tin đồn, các dấu ấn lịch sử, thần thoại tôn giáo, hàng hóa, và các mảnh vụn văn hóa khác di chuyển cùng với thương nhân, lữ hành và nhà chinh phục. Các tuyến đường mậu dịch và lữ hành vì vậy có tác dụng như các mao quản, dẫn truyền dòng máu văn minh. Các xã hội bị thẩm thấu bởi mạng lưới mao quản như thế có khả năng trở thành những nhân vật trong các câu chuyện của nhau, cho dù họ có bất đồng về vai nào tốt và vai nào xấu.
Vì vậy mà các vùng Địa Trung Hải và Trung Thế Giới triển khai các câu chuyện phần nào khác biệt về lịch sử thế giới. Những người sống quanh Địa Trung Hải có đủ lý do để nghĩ chính mình đang ở trung tâm của lịch sử nhân loại, nhưng những người sống tại Trung Thể Giới cũng có đủ lý do không kém để nghĩ mình đang ở trung tâm của mọi thứ.
Tuy nhiên, hai lịch sử thế giới này gối lên nhau trên một dải đất hẹp nơi ngày nay là Israel, nơi ngày nay là Lebanon, nơi ngày nay là Syria và Jordan – nơi ngày nay bạn, tóm lại, tìm thấy quá nhiều rắc rối. Đây là bờ đông của thế giới xác định bởi các làn đường biển và bờ tây của thế giới xác định bởi các tuyến đường bộ. Từ góc nhìn của Địa Trung Hải, vùng này đã luôn là bộ phận của lịch sử thế giới mà Địa Trung Hải là mầm mống và hạt nhân của nó. Từ góc nhìn khác, nó từng là bộ phận của Trung Thế Giới có Mesopotamia là và Ba Tư là hạt nhân của nó. Bộ không phải hiện giờ đang và xưa kia từng xảy ra sự tranh cãi khó giải quyết về mảnh đất này: nó là bộ phận của thế giới nào?
Trung Thế Giới trước khi có Đạo Hồi
Những nền văn minh đầu tiên xuất hiện hai bên bờ các con sông chảy chậm rộng lớn khác nhau thường lụt lội hàng năm. Châu thổ Hoàng Hà ở Trung Quốc, Châu thổ Sông Ấn ở Ấn Độ, Châu thổ Sông Nile ở châu Phi – đây là những địa điểm mà, hơn 6,000 năm cách đây, những người săn bắt và hái lượm du mục quyết định định cư, xây cất làng ấp, và trở thành nhà nông.
Có lẽ nơi nảy mầm sinh động nhất của văn minh nhân loại thuở đầu là vùng đất màu mỡ xen giữa hai sông Tigris và Euphrates được biết dưới tên Mesopotamia – nghĩa là “giữa hai sông”. Tình cờ, dải đất hẹp bị kẹp giữa hai sông này gần như chia đôi quốc gia ngày nay là Iraq. Khi chúng ta nói về “vùng lưỡi liềm màu mỡ” là “cái nôi của văn minh”, chúng ta đang nói về Iraq – đây là nơi mọi sự bắt đầu.
Một đặc điểm địa lý chủ chốt tách Mesopotamia ra khỏi một số vườn ươm văn hóa ban đầu khác. Hai con sông hình thành nó chảy qua những bình nguyên bằng phẳng, sinh sống được và có thể tiếp cận từ bất kỳ hướng nào. Địa lý không cung cấp những phòng vệ thiên nhiên nào cho dân cư sống tại đây – không giống Sông Nile, chẳng hạn, vốn được bảo vệ hai sườn, sườn phía đông bởi các đầm lầy, sườn phía tây bởi sa mạc Sahara không sinh sống được, và bởi các sườn dốc hiểm trở ở mút thượng nguồn. Địa lý tạo cho Ai Cập sự liên tục nhưng cũng làm giảm bớt sự tương tác với các nền văn hoá khác, tạo cho nó một tình trạng tĩnh tại nào đó.
Mesopotamia thì không thể. Tại đây, thuở ban sơ, một kiểu dạng thành hình, được lặp lại nhiều lần qua một tiến trình hơn một ngàn năm, một cuộc đấu tranh phức tạp giữa dân du cư và người thành thị, tạo ra các đế chế lớn hơn. Kiểu dạng đi theo cách này:
Những nhà nông định cư xây dựng các hệ thống thủy lợi chu cấp cho làng mạc và thị trấn. Cuối cùng một ông gan lỳ nào đó, một giáo sĩ có tài tổ chức nào đó, hoặc hai người đồng minh sẽ đặt một số trung tâm đô thị dưới quyền cai trị của một quyền lực duy nhất, nhờ đó đúc thành một đơn vị chính trị lớn hơn – một liên bang, một vương quốc, một đế chế. Rồi một bộ tộc nhóm người du mục lì lợm sẽ tiến vào, chinh phục quân vương thời điểm đó, chiếm đoạt tất cả tài sản của ông ta, và trong tiến trình đó mở rộng đế chế của họ. Cuối cùng bọn người du cư lì lợm sẽ trở thành cư dân đô thị điềm đạm, ưa xa xỉ, chính xác giống hệt loại cư dân mà họ đã chinh phục. Rồi đến lúc lại có một bộ tộc du mục lì lợm khác ùa đến, chinh phục họ, và chiếm lấy đế chế.
Chinh phục, củng cố, mở rộng, suy thoái, chinh phục – đó là kiểu dạng. Nó đã được sử gia Hồi giáo vĩ đại Ibn Khaldun hệ thống hóa vào thế kỷ 14, dựa vào các quan sát của ông về thế giới nơi ông đang sống. Ibn Khaldun cảm nhận được rằng trong kiểu dạng này ông đã phát hiện mạch đập ngầm của lịch sử.
Tại bất kỳ thời điểm nào, tiến trình này đang xảy ra tại nhiều hơn một nơi, một đế chế phát triển chỗ này, một đế chế khác nảy mầm chỗ kia, cả hai đế chế bành trướng cho đến khi chúng va chạm nhau, lúc đó một đế chế sẽ chính phục đế chế kia, lập thành một đế chế đơn lẻ mới và rộng lớn hơn.
Cách đây khoảng 5,500 năm độ một chục thành phố dọc bờ sông Euphrates hợp thành một mạng lưới đơn lẻ gọi là Sumer. Tại đây, chữ viết được sáng chế, bánh xe, xe bò, bàn xoay thợ gốm, và một hệ thống số sơ đẳng. Rồi người Akkad, gồ ghề hơn từ thượng lưu xuống chinh phục Sumer. Lãnh tụ của họ, Sargon, là nhà chính phục nổi bật đầu tiên được biết tên trong lịch sử, một gã hung bạo theo bất kỳ tiêu chuẩn nào và tự tay dựng lấy cơ đồ tột đỉnh, bởi vì ông xuất thân nghèo khó và vô danh nhưng để lại chiến công hiển hách được ghi lại dưới dạng các bảng khắc đất sét viết bằng chữ hình nêm, cho biết, “Tên này đứng lên và ta đánh ngã hắn; tên kia đứng lên và ta đánh ngã hắn.”
Sargon cầm đầu đoàn quân tiến rất xa về phương nam cho đến khi có thể rửa sạch vũ khí trong nước biển. Tại đó, ông tuyên bố, “Giờ đây, bất kỳ vị vua nào dám xưng là ngang hàng với ta, ta đi đến đâu, hãy để y đi đến đó!” có nghĩa, “Hãy xem có ai khác chinh phục nhiều như ta đã chinh phục.” Đế chế của ông nhỏ hơn bang New Jersey.
Rồi đến lúc một làn sóng mới các tên vô lại du cư từ cao nguyên tràn xuống và chính phục Akkad, và rồi họ bị người khác chinh phục, và đến lượt người này lại bị người khác nữa chinh phục – người Guti, Kassite, Hurri, Amorite – kiểu dạng cứ lặp lại. Nhìn kỹ hơn bạn sẽ thấy các nhà cai trị mới làm chủ về cơ bản gần như cùng một lãnh thổ, nhưng luôn luôn rộng lớn hơn.
Người Amorite bấm một giờ khắc quyết định trong chu kỳ này khi họ xây lên thành phố tiếng tăm Babylon và từ kinh thành này cai trị Đế chế Babylonia (đầu tiên). Người Babylonia nhường đường cho người Assyria, cai trị từ kinh thành còn tráng lệ và rộng lớn hơn Nineveh. Đế chế của họ trải dài từ Iraq đến Ai Cập và bạn có thể tưởng tượng một lãnh địa bao la như thế nào tại một thời điểm mà cách nhanh nhất để đi từ nơi này đến nơi khác là cưỡi ngựa. Người Assyria có tai tiếng trong lịch sử là các nhà độc tài không khoan nhượng. Thật khó để nói họ có thực sự tệ hơn nhưng người khác vào thời đó hay không, nhưng họ thực sự thực hiện một biện pháp mà Stalin đã từng làm trong thế kỷ 20: họ nhổ khỏi gốc rễ toàn bộ dân số và dời chuyển họ đến những nơi ở khác, trên lý thuyết rằng dân tộc nào đã mất hết nơi chôn nhau cắt rốn và đến sống giữa những người xa lạ, bị cắt đứt khỏi nguồn cội thân yêu, sẽ hoang mang và khổ sở để có thể dấy loạn.
Cách này có tác dụng một thời gian, nhưng không là mãi mãi. Người Assyria cuối cùng thất thủ trước một dân tộc thần dân của họ, người Chaldea. Họ tái thiết Babylon và chiếm một vị thế rực rỡ trong lịch sử vì những thành tựu trí tuệ của mình trong thiên văn, y học, và toán học. Họ sử dụng hệ thống cơ số 12 (trong khi chúng ta sử dụng cơ số 10) và là những người tiên phong trong phép đo và phân chia thời gian, trong đó một năm có 12 tháng, giờ có 60 phút (5 lần 12), và một phút có 60 giây. Họ là những nhà thiết kế đô thị và kiến trúc sư cừ khôi – chính một nhà vua Chaldea đã xây nên những Vườn Treo Babylon đó, mà người thời cổ đã xếp nó vào một trong 7 kỳ quan thế giới.
Nhưng người Chaldea cũng bắt chước biện pháp phát vãng toàn bộ dân chúng của người Assyria để chia và trị họ. Vua Nebuchadnezzar của họ là người đầu tiên phá hủy Jerusalem và bắt bớ người Do Thái làm tù binh. Cũng một vị vua Chaldea khác, Balshazzar, người, mà trong một buổi dạ yến, bỗng trông thấy một bàn tay cụt viết trên bức tường cung điện mình một dòng chữ lửa, “Mene mene tekel upharsin.”
Các tên nịnh thần của ông chẳng hiểu mô tê những chữ đó nghĩa là gì, chắc hẳn vì chúng cũng đã say khướt, nhưng cũng bởi vì những chữ ấy được viết bằng ngôn ngữ kỳ lạ (tiếng Aramaic, một cách tình cờ.) Họ cho đòi tên tù binh Do Thái Daniel giải thích dòng chữ có nghĩa “Ngày tháng của ngươi đã được đếm; ngươi đã bị cân nhắc và xét xử là bất xứng; vương quốc ngươi sẽ bị phân chia.” Ít nhất câu chuyện trong Cựu ước Sách của Daniel cho biết như thế.
Balshazzar chỉ vừa đủ thời gian suy nghĩ về lời tiên tri thì nó đã ứng nghiệm. Một trận tắm máu tàn khốc đã thình lình ập xuống Babylon bởi một băng đảng vô lại mới nhất từ cao nguyên, một liên minh giữa Ba Tư và Medes. Hai bộ tộc Ấn-Âu này đặt dấu chấm hết cho Babylonia thứ hai và thay thế nó bằng Đế chế Ba Tư.
Đến thời điểm này, kiểu dạng thường tái diễn của các đế chế luôn lớn rộng hơn ngay lòng Trung Thể Giới đã đến đoạn kết hoặc ít ra tạm dừng lâu hơn. Có điều, khi mà người Ba Tư đã xong việc, thì không còn gì nhiều để chinh phục. Cả ‘những cái nôi của văn minh,” Ai Cập và Mesopotamia, cuối cùng thành một bộ phận của lãnh địa họ. Quyền bá chủ của họ vươn dài về phía tây đến tận Tiểu Á, về phía nam đến sông Nile, và về phía đông quá cao nguyên Iran và Afghanistan đến sông Ấn. Người Ba Tư chải chuốt và thơm tho ắt hẳn không thấy cần phải chinh phục xa hơn nữa: về phía nam sông Ấn là vùng rừng rậm ngun ngút, và phía bắc Afghanistan trải dài các thảo nguyên khô cằn gió rét cào nát và lang thang các dân du mục Thổ Nhĩ Kỳ đang sống lay lất với bầy cừu và đàn gia súc – có ai muốn cai trị nhóm người đó chứ? Do đó người Ba Tư bằng lòng với việc xây dựng một chuỗi các thành lũy ngăn giữ bọn man rợ ở ngoài, để những người hiền lương có thể theo đuổi các ngành nghệ thuật của cuộc sống văn minh trong vùng định cư bên kia đường biên giới.
Lúc người Ba Tư đảm nhận chính quyền, khoảng 550 TCN, nhiều công trình củng cố đã được thực hiện: trong mỗi vùng, những nhà chinh phục trước đây đã lôi kéo các bộ tộc địa phương và thị trấn khác nhau vào thành các hệ thống đơn lẻ được một quân vương cai trị từ một kinh đô trung ương, hoặc Elam, Ur, Nineveh, hoặc Babylon. Người Ba Tư lợi dụng công trình (và các trận đổ máu) của những người tiền nhiệm của họ.
Vậy mà Đế chế Ba Tư vẫn nổi bật vì một số lý do. Thứ nhất, người Ba Tư chống bọn Assyria. Trên một lãnh địa mênh mông họ triển khai một chính sách cai trị hoàn toàn đối nghịch. Thay vì nhổ tận gốc toàn bộ dân tộc, chính quyền Ba Tư tái định cư họ. Họ giải phóng dân Do Thái khỏi tù đày và giúp họ trở lại Canaan. Các hoàng đế Ba Tư theo đuổi một chính sách đa văn hóa, nhiều-người-dưới-một-căn-lều-lớn. Họ kiểm soát lãnh địa bao la của mình bằng cách để mọi dân tộc thành phần sống theo tập quán và phong tục riêng của họ, dưới quyền cai trị của các lãnh tụ của mình, miễn là họ đóng thuế đầy đủ và tuân phục một số ít các mệnh lệnh và yêu sách của hoàng đế. Về sau người Hồi đi theo ý tưởng này, và duy trì nó suốt thời Ottoman.
Thứ hai, người Ba Tư nhìn thấy ở giao thương là chìa khóa của việc thống nhất, và nhờ đó kiểm soát được, lãnh địa của mình. Họ quảng bá một bộ luật thuế chặt chẽ và phát hành tiền tệ duy nhất cho toàn đế chế, tiền tệ là phương tiện giao thương làm ăn. Họ xây dựng một mạng lưới đường xá quy mô và đặt các quán trọ để việc đi lại được dễ dàng. Họ cũng triển khai một hệ thống bưu chính hiệu quả, một phiên bản sớm của Pony Express (Dịch vụ thư gửi tin nhắn, báo chí và thư từ sử dụng những người cưỡi ngựa hoạt động từ năm 1860 đến năm 1861, giữa Missouri và California ở Hoa Kỳ). Cái trích dẫn đó mà bạn đôi khi nhìn thấy liên quan với Dịch vụ Bưu chính Hoa Kỳ, “Không có tuyết giá hoặc mưa gió hoặc nóng bức hoặc đêm tối có thể ngăn cản người đưa tin này hoàn thành nhanh chóng phần vụ được giao phó,” xuất xứ từ Ba Tư cổ đại.
Người Ba Tư cũng sử dụng nhiều nhà phiên dịch. Bạn không thể thoát được với lời năn nỉ, “Nhưng, thưa sĩ quan, tôi không biết điều này là vi phạm luật; tôi không biết nói tiếng Ba Tư.” Qua người phiên dịch các hoàng đế có thể quảng bá những văn bản mô tả về sự uy nghi và vĩ đại bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau để tất cả thần dân đều có thể ngưỡng mộ họ. Darius Đại Đế, người mang Đế chế Ba Tư lên đỉnh cao mới, đã cho khắc trên vách đá câu chuyện đời mình tại một nơi gọi là Behistun (hình dưới). Ông cho khắc bằng ba ngôn ngữ: Ba Tư cổ, tiếng Elam, và Babylonia, 15,000 từ dành mô tả những chiến công và chinh phục của Darius, ghi chép chi tiết các vụ phản loạn thất bại đã nổi lên và lật đổ ông và những hình phạt trừng trị mà chúng phải nhận lãnh, cơ bản là đưa ra thông điệp là bạn không nên gây rối với vị hoàng đế này: ông ta sẽ cắt mũi bạn, và có khi còn tệ hơn nữa. Dù sao thì các thần dân của đế chế cũng cho rằng nền cai trị Ba Tư cơ bản là nhân từ. Bộ máy vương quyền trơn tru cho phép thường dân sinh hoạt để nuôi nấng gia đình, trồng trọt, và sản xuất hàng hóa hữu dụng.
Phần chữ khắc của Darius tại Behistun bằng tiếng Ba Tư cổ có thể đọc được bởi người Ba Tư hiện đại, vì thế khi nó được phát hiện lại vào thế kỷ 19, các học giả có thể sử dụng nó để giải mã hai ngôn ngữ khác và nhờ đó mở cửa vào được các thư viện chữ hình nêm của Mesopotamia cổ đại, các thư viện quá phong phú đến nỗi chúng ta biết về cuộc sống thường nhật của vùng đất này cách đây 3000 năm nhiều hơn chúng ta biết về cuộc sống thường nhật ở Tây Âu cách đây 1200 năm.
Tôn giáo thấm đượm thế giới Ba Tư. Nó không phải là ý tưởng về một triệu thần như Ấn giáo, cũng không như hệ thần Ai Cập gồm các sinh vật thần bí nửa người nửa vật, cũng không phải đa thần giáo Hy Lạp, thấy mọi thứ trong thiên nhiên đều có thần cai quản, những vị thần hình người và cũng khiếm khuyết như con người. Không, trong vũ trụ Ba Tư, Hỏa giáo (Zoroastrianism) giữ một địa vị cao quý. Giáo chủ là Zoroaster sống trước Christ khoảng 1,000 năm, có thể sớm hơn hoặc muộn hơn; không ai thực sự biết rõ. Ngài đến từ bắc Iran, hoặc có thể bắc Afghanistan, hoặc có thể đâu đó từ phía đông Afghanistan; cũng không ai thực sự biết rõ. Zoroaster không hề tuyên bố mình là đấng tiên tri hay người khai thông năng lượng thần thánh, nói chi đến thánh thể hoặc thần linh. Ngài chỉ xưng mình là một triết gia và người tìm kiếm. Nhưng các đệ tử của ngài xem ngài là thánh nhân.
Zoroaster thuyết giảng rằng vũ trụ được chia làm hai giữa bóng tối và ánh sáng, giữa thiện và ác, giữa chân và ngụy, giữa sống và chết. Vũ trụ tách ra thành hai phe đối lập nhau vào lúc sáng thế, chúng bị khoá chặt trong cuộc đấu tranh kể từ đó, và sẽ tiếp diễn cho đến ngày mạt thế.
Con người, Zoroaster cho biết, chứa cả hai nguyên lý bên trong họ. Họ được tự do chọn đi theo hướng này hay hướng khác. Nếu chọn thiện, con người sẽ xiển dương sức mạnh của ánh sáng và sự sống. Nếu chọn ác, họ sẽ gia tăng sức mạnh cho bóng tối và cái chết. Trong vũ trụ của giáo thuyết Zoroaster không có gì gọi là tiền định. Kết quả của cuộc chiến đấu vĩ đại luôn luôn không biết trước được, và không chỉ mọi người đều được tự do đưa ra những lựa chọn đạo lý, và mọi lựa chọn đạo lý đều ảnh hưởng đến cục diện của vũ trụ.
Zoroaster nhìn thấy bi kịch của vũ trụ gói gọn trong hai vị thần linh – không phải một, không phải hàng ngàn, mà là hai. Ahura Mazda hiện thân cho nguyên lý thiện, Ahriman hiện thân cho nguyên lý ác. Lửa được sử dụng làm biểu tượng cho Ahura Mazda, khiến một số người xem các tín đồ đạo Zoroaster là tín đồ đạo thờ lửa (Hoả giáo), nhưng những gì họ tôn thờ không phải là lửa tự thân, mà là Ahura Mazda. Zoroaster đã nói về kiếp sau nhưng đề xuất rằng người thiện đi đến đó không như một phần thưởng vì đã hành thiện mà như một hậu quả do đã chọn đi theo chiều hướng đó. Bạn có thể nói họ tự cất mình lên thiên đường bởi sức nâng do cách lựa chọn của mình. Các tín đồ đạo Zoroaster Ba Tư bác bỏ các tượng, hình ảnh, biểu tượng tôn giáo, đặt cơ sở cho sự ghét bỏ việc thể hiện trong nghệ thuật tôn giáo và khuynh hướng này tái xuất mạnh mẽ trong đạo Hồi.
Đôi khi Zoroaster, hoặc ít nhất những người theo đạo ngài, gọi Ahura Mazda là “Vị Chúa Minh Triết” và nói như thể ngài thực sự là người sáng tạo ra toàn bộ vũ trụ và như thể chính ngài là người đã phân chia mọi tạo vật thành hai phạm trù đối nghịch nhau một khoảnh khắc ngay sau sau thời điểm sáng thế. Do đó, chủ thuyết nhị nguyên của Zoroaster nhích dần đến chủ nghĩa độc thần, nhưng không hoàn toàn đạt đến đó. Cuối cùng, đối với tín đồ Zoroaster thời Ba Tư cổ đại, hai vị thần có quyền lực ngang nhau cùng cư trú trong vũ trụ, và con người là sợi dây thừng trong cuộc chiến kéo co giữa họ.
Một giáo sĩ đạo Zoroaster được gọi là magus, số nhiều là magi: ba “người chiêm tinh ở phương Đông”, theo Tân ước, mang nhũ hương và mộc dược dâng cho hài nhi Jesus nằm trong máng cỏ là những giáo sĩ đạo Zoroaster. Những giáo sĩ này được người ta cho rằng (và đôi khi tự mình tuyên bố) sở hữu các quyền năng mầu nhiệm.
Vào những ngày cuối cùng của đế chế, Ba Tư tan vỡ vào thế giới Địa Trung Hải và quậy dữ dội nhưng ngắn ngủi trong thế giới sử Tây phương. Hoàng đế Ba Tư Darius xông về phía tây để trừng phạt người Hy Lạp. Tôi nói “trừng phạt”, không nói “xâm lăng” hoặc “chinh phục,” bởi vì theo quan điểm Ba Tư cái gọi là Chiến tranh Ba Tư không phải là trận đụng độ có tầm ảnh hưởng nào đó giữa hai nền văn minh. Ba Tư xem người Hy Lạp như các cư dân sơ khai của một vài thành phố nhỏ trên bờ tây xa mút của thế giới văn minh, những thành phố ngầm hiểu là thuộc về Ba Tư, cho dù họ ở quá xa để có thể cai trị trực tiếp. Hoàng đế Darius muốn người Hy Lạp chỉ cần khẳng định mình là thần dân của ông ta bằng cách mang đến cho mình một bình nước và một hộp đất cát như hàng triều cống tượng trưng. Người Hy Lạp từ chối. Darius tập họp quân đội để dạy cho người Hy Lạp một bài học mà họ không bao giờ quên, nhưng ngay kích cỡ của quân đoàn vừa là một lợi thế vừa là một trở ngại: Làm thế nào bạn có thể điều động quá nhiều người qua một khoảng đường xa như thế? Làm sao tiếp tế liên tục cho họ? Darius không biết nguyên tắc đầu tiên của chiến lược quân sự: không nên chiến đấu trên bộ ở châu Âu. Cuối cùng, chính người Hy Lạp đã dạy cho người Ba Tư một bài học không thể nào quên – một bài học mà họ nhanh chóng quên đi không đến một thế hệ sau đó, đứa con trai tối dạ Xerxes của Darius quyết tâm rửa hận cho cha mình bằng cách lặp lại lỗi lầm của vua cha. Xerxes, cũng vậy, khập khiễng chạy về nhà, và đó là đoạn kết của cuộc phiêu lưu Âu châu của Ba Tư.
Tuy nhiên, nó không kết thúc ở đó. Khoảng 150 năm sau, Alexander Đại Đế đánh trận theo một cách khác. Chúng ta thường nghe nói Alexander Đại Đế chinh phục thế giới, nhưng những gì ông thực sự chinh phục là Ba Tư, nước đã chinh phục “thế giới.”
Với Alexander, câu chuyện Địa Trung Hải hùng hỗ xông vào câu chuyện Trung Thế Giới. Alexander mơ ước hoà lẫn hai thế giới làm một: mơ ước thống nhất châu Âu và châu Á. Ông đang dự tính định vị kinh đô mình tại Babylon. Alexander cắt sâu và tạo ra một dấu vết. Ông xuất hiện trong nhiều truyền thuyết và truyện kể Ba Tư, khoác cho ông phẩm chất anh hùng quá cỡ, mặc dù không phải toàn là tích cực (cũng không hoàn toàn xấu ác). Một số thành phố trong thế giới Hồi giáo được đặt theo tên ông. Alexandria là một ví dụ lộ liễu, nhưng kín đáo hơn là Kandahar – giờ vẫn còn nổi tiếng vì Taliban chọn nó làm thủ đô của mình. Kandahar tên gốc gọi là “Iskandar,” là cách phát âm từ “Alexander” ở phương Đông, nhưng âm “Is” bị bỏ đi, và “Kandar” làm mềm đi thành “Kandahar.”
Nhưng vết cắt mà Alexander tạo ra đã lành lặn, đã lên da non, và sức tác động của 11 năm của ông ở châu Á đã phai nhạt. Một đêm tại Babylon ông đột ngột qua đời, có lẽ vì cúm, sốt rét, say xỉn, hoặc bị đầu độc, không ai biết. Ông đã bố trí các tướng lĩnh của mình tại các bộ phận khác nhau trên lãnh thổ ông đã chinh phục, và sau khi ông chết, các tướng lĩnh dạn dày nhất chiếm lấy phần đất mình đang cai quản, lập ra các vương quốc kiểu Hy Lạp kéo dài một vài thế kỷ nữa. Chẳng hạn, ở vương quốc Bactria (giờ là bắc Afghanistan) các nghệ sĩ tạo nên những điêu khắc dáng vẻ Hy Lạp; sau này, khi các ảnh hưởng Phật giáo xâm nhập vào miền bắc từ Ấn Độ, hai phong cách nghệ thuật hòa nhập, kết quả là ra đời nghệ thuật Hy Lạp-Phật giáo như giờ ta đã biết.
Tuy nhiên, cuối cùng các vương quốc đó suy yếu đi, ảnh hưởng Hy Lạp phai nhạt, ngôn ngữ Hy Lạp không còn được sử dụng tại đây, và Ba Tư từ lớp ngầm lại trồi lên. Một đế chế khác tiến lên chiếm gần như cùng vùng lãnh thổ của Ba Tư cổ đại (mặc dù không lớn bằng). Các vị vua mới xưng mình là người Parthia, và họ là các chiến binh khủng. Người Parthia đánh với La Mã khiến họ phải dừng chân, ngăn cản họ mở rộng về phía đông. Quân đội họ là người đầu tiên bổ sung lực lượng kỵ sĩ mặc áo giáp toàn thân cưỡi trên lưng các chiến mã cũng mang giáp, không khác với kỵ sĩ thời phong kiến Âu châu. Những kỵ sĩ Parthia này giống như các lâu đài đi động. Nhưng lâu dài di động thì cồng kềnh, vì thế quân Parthia cũng có thêm một lữ đoàn kỵ binh khác, y phục nhẹ cưỡi ngựa trần. Một chiến thuật tác chiến họ thường áp dụng là kỵ binh nhẹ đôi khi giả vờ tháo chạy; giữa lúc giao chiến đang nóng rát, họ thình lình quay đầu và chạy đi. Quân địch thấy vậy rời bỏ đội hình và truy đuổi, vừa chạy vừa hò hét. Bất ngờ quân Parthia hồi mã và bắn tên như mưa vào đám hỗn quân náo loạn, tiêu diệt chúng trong phút chốc.
Người Parthia xuất thân là dân du mục săn bắn và chăn thả từ vùng núi đông bắc Ba Tư, nhưng một khi họ đã chiếm đoạt bộ khung của Đế chế Ba Tư cũ, họ trở thành, vì những lý do thực tiễn, người Ba Tư. Đế chế này kéo dài hàng thế kỷ mà không để lại nhiều dấu tích, vì họ ít quan tâm đến nghệ thuật và văn hóa, và các lâu đài di động được tái chế để lấy kim loại tái sử dụng một khi các chiến binh bên trong chúng lìa đời.
Tuy nhiên, trong khi họ tại vị, người Parthia bảo vệ và xúc tiến mậu dịch, và những đoàn xe hàng di chuyển tự do bên trong lãnh thổ của họ. Kinh đô Parthia được người Hy Lạp biết dưới tên Hecatompylos, “100 cổng”, vì có quá nhiều tuyến đường hội tụ về đó. Trong cửa hiệu ở các thành phố Parthia, bạn chắc chắn nghe được những tin đồn thổi từ khắp khu vực trên đế chế và xã hội mà nó tiếp giáp: các vương quốc Hy Lạp-Phật giáo ở phía đông, Ấn giáo ở phía nam, Trung Quốc tận phía đông xa xôi, các vương quốc Hy Lạp (Seleucid) đang suy yếu ở phía tây, và người Armenia ở phía bắc … Người Parthia ít giao lưu xã hội với người La Mã, trừ khi đánh nhau được kể là giao lưu. Dòng máu văn minh biến người Parthia thành Ba Tư không chảy xuyên qua biên giới, và vì vậy một lần nữa thế giới Địa Trung Hải và Trung Thế Giới tách rời nhau.
Khoảng thời gian người Parthia bắt đầu trỗi dậy, lần đầu tiên Trung Quốc thống nhất. Thật ra, những năm vinh quang của triều đại nhà Hán gần như trùng hợp với thời kỳ người Parthia thống trị. Ở phương Tây, người La Mã bắt đầu bành trướng gần với thời kỳ bắt đầu kỷ nguyên Parthia. Ngay lúc La Mã đánh bại Carthage lần đầu tiên, người Parthia đang chiếm Babylonia. Ngay khi Julius Caesar xâu xé xứ Gaul, quyền lực người Parthia lên đến đỉnh cao tại Trung Thế Giới. Vào năm 53 TCN người Parthia đè bẹp người La Mã trong một trận đánh, bắt sống 34,000 lính viễn chinh La Mã và giết chết Crassus, người cùng với Caesar và Pompey, đã từng là đồng trị vì La Mã. 30 năm sau, người Parthia đánh bại Mark Anthony tan tác và thiết lập Sông Euphrates làm biên giới giữa hai đế chế. Người Parthia vẫn còn bành trướng về hướng đông khi Christ ra đời. Việc truyền bá đạo Cơ đốc không được người Parthia chú ý lắm, vì họ ưu ái đạo Zoroaster hơn. Khi các nhà truyền đạo Cơ đốc bắt đầu lẻ tẻ đi về hướng đông, người Parthia vẫn để họ vào; họ không quan tâm nhiều đến tôn giáo, cách này hay cách khác.
Người Parthia luôn hoạt động theo một chế độ phong kiến, với quyền lực được phân bổ xuống qua nhiều tầng lãnh chúa. Theo thời gian, quyền lực hoàng chế rò rỉ qua chế độ phong kiến càng ngày càng phân mảnh này. Vào thế kỷ thứ 3 theo CN, một cuộc nổi dậy ở tỉnh lỵ lật đổ đời vua cuối cùng của Parthia và triều đại Sassanid được thành lập, và nó nhanh chóng bành trướng và chiếm tất cả lãnh thổ của Parthia trước đây và ngoài ra thêm một chút nữa. Triều đại Sassanid không thay đổi chiều hướng biến đổi văn hóa; họ chỉ tổ chức đế chế hiệu quả hơn, bôi xoá những dấu vết cuối cùng của ảnh hưởng Hy Lạp, và hoàn tất việc phục hồi lớp áo Ba Tư. Họ xây dựng những công trình kiến trúc hoành tráng, những tòa nhà đồ sộ, và những thành phố bề thế. Đạo Zoroaster lại trỗi dậy hùng tráng – lửa và tro tàn, ánh sáng và bóng tối, Ahura Mazda và Ahriman: đó là quốc giáo. Các thầy tu Phật giáo từ Afghanistan đã lang thang về hướng tây, rao giảng Phật pháp, nhưng hạt mầm họ gieo xuống không nảy mầm trên mảnh đất đạo Zoroaster của Ba Tư, vì thế họ quay sang phía đông, và kết quả là đạo Phật truyền đến Đông Nam Á và Trung Quốc nhưng không đến châu Âu. Vô số câu chuyện và truyền thuyết Ba Tư các thời đại sau đi ngược lại đến thời kỳ Sassanid này. Vị vua vĩ đại nhất của triều đại Sassanid, Khusrow Anushervan, được các diễn giả Ba Tư nhớ đến như là hình mẫu một vị minh quân, có thể so sánh với Kay Khosrow, vị vua thứ ba thuộc triều đại thứ nhất huyền thoại của Iran, từa tựa nhân vật Arthur với các hiệp sĩ bàn tròn trong truyền thuyết Anh.
Trong khi đó Đế chế La Mã đang tan rã. Vào năm 293, hoàng đế Diocletian chia đế chế làm bốn phần để dễ điều hành: nó đã phồng to quá mức và quá cồng kềnh để có thể điều hành từ một trung tâm duy nhất. Nhưng cải cách của Diocletian kết thúc bằng việc chia tách đế chế ra làm hai. Hoá ra của cải đều tập trung ở phương đông, nên phần phía tây của Đế chế La Mã bị rệu rã. Khi các bộ tộc du cư Đức tràn vào đế chế phương Tây, các dịch vụ công tắt nghẽn, luật pháp và trật tự đảo lộn, và mậu dịch suy sụp. Trường học đóng cửa, người châu Âu không còn đọc hay viết nhiều nữa, và châu Âu chìm vào cái gọi là Thời đại Tối Tăm. Các thành phố La Mã tại những vùng như Đức, Pháp, và Anh rơi vào cảnh hoang tàn, và xã hội rút lại chỉ gồm giới nông nô, chiến binh và tu sĩ. Định chế duy nhất gắn kết các địa phương tạp nham lại với nhau là Cơ đốc giáo, được giám mục La Mã neo giữ, sớm xưng danh là giáo hoàng.
Phần phía đông của Đế chế La Mã, đặt tổng hành dinh ở Constantinople, tiếp tục lay lắt. Các địa phương còn gọi thực thể này là La Mã nhưng đối với các sử gia sau này nó dường như là một điều gì mới mẻ, quá hoài niệm đến nỗi họ cho nó một tên mới: Đế chế Byzantine.
Cơ đốc Chính thống giáo được tập trung ở đây. Không như Cơ đốc Tây phương, giáo hội này không có nhân vật giáo hoàng. Mỗi thành phố với số giáo dân Cơ đốc khá lớn có riêng giám mục đứng đầu của mình, và mọi giám mục được xem như ngang hàng, mặc dù giám mục chóp bu ở Constantinople có vai vế hơn tất cả. Tuy nhiên, đứng trên tất cả họ là hoàng đế. Kiến thức, kỹ thuật, và hoạt động trí tuệ Tây phương chuyển giao đến Byzantium. Tại đây, các tác giả và nghệ sĩ tiếp tục sáng tác sách, tranh, và những sản phẩm khác, vậy mà một khi đông La Mã trở thành Đế chế Byzantine nhiều hay ít nó đã ra khỏi lịch sử Tây phương.
Nhiều người tranh luận về phát biểu này – Đế chế Byzantine là đế chế Cơ đốc, suy cho cùng. Thần dân của nó nói tiếng Hy Lạp, và các triết gia của nó … vâng, chúng ta đừng nói quá nhiều về các triết gia của nó. Gần như mọi người Tây phương có học thức đều biết về Socrates, Plato, và Aristotle, ấy là chưa kể Sophocles, Virgil, Tacitus, Pericles, Alexander xứ Macedon, Julius Caesar, Augustus, và nhiều người khác; nhưng không kể các học giả chuyên ngành lịch sử Byzantine, ít ai có thể nêu ra được tên 3 triết gia Byzantine, hoặc 2 thi sĩ Byzantine, hoặc 1 hoàng đế Byzantine sau đời Justinian. Đế chế Byzantine kéo dài gần 1000 năm, nhưng ít ai có thể nêu ra được 5 sự kiện xảy ra trong đế chế trong thời gian đó.
So sánh với La Mã cổ đại, Đế chế Byzantine không nắm nhiều ảnh hưởng, nhưng trong vùng lãnh thổ của mình nó là một siêu cường, chủ yếu vì nó không có đối thủ và vì kinh thành Constantinople với tường thành bao quanh của nó ắt hẳn là thành phố bất khả xâm phạm nhất mà thế giới từng biết. Vào giữa thế kỷ 6, người Byzantine cai trị hầu hết vùng Tiểu Á và một số miền mà hiện nay ta gọi là đông Âu. Họ đương đầu với Ba Tư triều đại Sassanid, cũng là siêu cường trong vùng. Người Sassanid cai trị một vạt đất kéo dài về phía đông đến chân dãy Hy Mã Lạp Sơn. Giữa hai đế chế là một dải lãnh thổ bị tranh chấp, những vùng đất chạy dọc bờ biển Địa Trung Hải, nơi hai thế giới gối lên nhau và nơi các vụ tranh chấp là đặc hữu. Về phía nam, trong bóng tối của cả hai đế chế to lớn, toạ lạc Bán đảo Ả Rập, nơi cư trú của nhiều bộ tộc tự trị. Đó là cấu hình chính trị của Trung Thế Giới ngay trước khi đạo Hồi ra đời.
Ngày mới Ngọc cho đời VẠN AN LỜI YÊU THƯƠNG NHỚLỜI VÀNGALBERT EINSTEIN
Hoàng Kim Hoàng Gia
CNM365 Tình yêu cuộc sống #vietnamhoc#cnm365#cltvn Xuân mới; Bảo tồn và phát triển sắn; Vietnamese cassava today; IAS đường tới trăm năm; Sớm Xuân thơ giữa lòng; Ngày mới Ngọc cho đời; Có một ngày như thế; Hương lúa giữa đồng xuân; Ngày mới lời yêu thương; Quả táo Apple Steve Jobs; Ngày 24 tháng 2 năm 1955 là ngày sinh của Steve Jobs, doanh nhân và nhà sáng chế người Mỹ, đồng sáng lập viên, chủ tịch, và cựu tổng giám đốc điều hành của hãng Apple. Ông là một trong những người có ảnh hưởng lớn nhất ở ngành công nghiệp vi tính toàn cầu. Ngày 24 tháng 2 năm 1918, tại Tallinn, Ủy ban Cứu quốc Estonia ra tuyên bố Estonia độc lập từ Nga, và bổ nhiệm chính phủ lâm thời. Ngày 24 tháng 2 năm 1861, Pháp xâm lược Đại Nam , bắt đầu bằng trận Đại đồn Chí Hòa tại Gia Định , quân Pháp giành chiến thắng sau hai ngày giao chiến. Trước đó quân Pháp đã tấn công Đà Nẵng nhưng không thành công, nên quay vào đánh chiếm Sài Gòn. Sau 23 năm (1861-1884), cho đến tháng 6 năm 1884 thì người Pháp xâm chiếm toàn bộ lãnh thổ Đại Nam và thiết lập bộ máy cai trị, bắt đầu thời kỳ Pháp thuộc trong lịch sử Việt Nam; Bài chọn lọc ngày 24 tháng 2: #vietnamhoc#cnm365#cltvn Xuân mới; Bảo tồn và phát triển sắn; Vietnamese cassava today; IAS đường tới trăm năm; Sớm Xuân thơ giữa lòng; Ngày mới Ngọc cho đời Có một ngày như thế; Hương lúa giữa đồng xuân; Ngày mới lời yêu thương; Quả táo Apple Steve Jobs; Nguyễn Trãi kiệt tác thơ văn; Công viên Tao Đàn HCM; Ngày mới bình minh an; Chuyện đồng dao cho em; A Na bà chúa Ngọc; Ngôn ngữ văn hóa Việt; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/ và http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlong và https://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay–moi-24-thang-2/;
Nếu ai hỏi tôi nhà khoa học phát minh nào xuất chúng nhất trong lịch sử loài người thì tôi trả lời ngay : ông Einstein. Tiếng Đức Ein là (số) một. Stein là Đá. Einstein le một tảng đá.
Đây là hình Einstein trên hóa thạch. Tôi rất súc động khi làm bức hình này.
NHỚLỜI VÀNGALBERT EINSTEIN Hoàng Kim
Albert Einstein thật minh triết: “Tình yêu là người thầy tốt hơn trách nhiệm (Love is a better teacher than duty). Nếu anh không thể giải thích đơn giản thì anh chưa hiểu đủ rõ (If you can’t explain it simply, you don’t understand it well enough). Học từ ngày hôm qua, sống ngày hôm nay, hi vọng cho ngày mai. Điều quan trọng nhất là không ngừng đặt câu hỏi (Learn from yesterday, live for today, hope for tomorrow. The important thing is not to stop questioning). Khoa học mà thiếu tôn giáo thì khập khiễng. Tôn giáo mà không có khoa học thì mù quáng (Science without religion is lame, religion without science is blind). Đừng tham công nhưng hãy cố gắng làm người có ích (Strive not to be a success, but rather to be of value)“. Nhớ lời vàng Albert Einstein. Học và thực hành tốt năm lời vàng này là đủ dùng cho cả một đời ( Hoàng Kim); xem tiếphttp://hoangkimlong.wordpress.com/category/nho-loi-vang- albert-einstein/
Albert Einsteinthiên tài Vật lý
Albert Einstein là nhà bác học đặc biệt nổi tiếng, thiên tài Vật lý của “thuyết tương đối” qua phương trình E = mc2 về sự tương đương khối lượng năng lượng. Ông nổi tiếng nhất thế giới được trao Giải Nobel Vật lý năm 1921 “cho những cống hiến của ông đối với vật lý lý thuyết, và đặc biệt cho sự khám phá ra định luật của hiệu ứng quang điện là công trình khai sinh ra lý thuyết lượng tử. Ông đồng thời cũng là nhà bác học có các danh ngôn minh triết.(Collected famous quotes from Albert), có tầm ảnh hưởng quan trọng rộng khắp toàn cầu.
Albert Einstein là nhà vật lý lý thuyết người Do Thái gốc Đức mang quốc tịch Mỹ và Thụy Sĩ, người đã phát triển thuyết tương đối tổng quát, một trong hai trụ cột của vật lý hiện đại (trụ cột kia là cơ học lượng tử). Albert Einstein sinh ngày 14 tháng 3 năm 1879 tại Ulm là một thị trấn nhỏ bên dòng sông Danube thuộc bang Baden-Württemberg của Đức.Ông nhận quốc tịch Thụy Sĩ năm 1901, và nhận quốc tịch Mỹ năm 1940 nhưng vẫn giữ quốc tịch Thụy Sĩ. Ông mất vào lúc 4 giờ chiều ngày 18 tháng 4 năm 1955 tại Trenton, New Jersey, Mỹ..
Anbert Einstein sau khi tốt nghiệp trường đại học kỹ thuật Eidgenössische Technische Hochschule năm 1900 ở Zurich, Thụy Sĩ, ông nhận quốc tịch Thụy Sĩ năm 1901 và dạy toán tại một trường đại học kỹ thuật khác ở Winterthur, rồi từ 1902 đến 1908, bắt đầu làm việc cho văn phòng cấp bằng sáng chế kỹ thuật tại Bern, với chức vụ giám định viên kỹ thuật hạng III. Einstein trong thời gian này hoàn toàn tự nghiên cứu ngoài giờ mà không có nhiều liên hệ trực tiếp với đồng nghiệp và tài liệu khoa học nhưng ông đã có những phát kiến rất quan trọng về vật lý lý thuyết làm nền tảng cho sự nghiệp của ông sau này. Anbert Einstein nhận bằng tiến sĩ từ Đại học Zurich năm 1905 và cùng năm này xuất bản ba công trình khoa học trong đó có thuyết tương đối hẹp.
Ngày 27 tháng 9 năm 1905, Albert Einstein định rõ phương trình E=mc² trong bài luận “Quán tính của một vật có tùy theo nội dung Năng lượng?” xuất bản trên Tạp chí Vật lý học Annalen der Physik. Albert Einstein (14 tháng 3 năm 1879 – 18 tháng 4 năm 1955) là nhà vật lý lý thuyết người Đức, người đã phát triển thuyết tươg đối tổng quát, một trong hai trụ cột của vật lý hiện đại, trụ cột kia là cơ học lượng tử. Albert Einstein thật minh triết, ông không chỉ để lại di sản “thuyết tương đối” nổi tiếng thế giới mà còn để lại những danh ngôn lỗi lạc, lời khuyên khôn ngoan của một nhà hiền triết, minh triết của một trí tuệ thiên tài.
Ngay sau khi ông công bố những phát kiến về nguyên lý tương đương của trọng trường năm 1907, ông được mời làm giảng viên Đại học Bern năm 1908, rồi trở thành giáo sư vật lý tại Đại học Zurich năm 1909 và bắt đầu nổi danh là một nhà khoa học vật lý hàng đầu. Năm 1911, ông đến giảng dạy tại trường Đại học Karl Praha là trung tâm khoa học nổi tiếng châu Âu và thủ đô của Tiệp Khắc. Ông đưa ra tiên đoán đầu tiên của thuyết tương đối rộng là ánh sáng phải đi theo đường cong khi qua gần Mặt Trời. Một năm sau đó, ông trở lại Zurich tiếp tục phát triển lý thuyết về trọng trường bằng tính toán tensor, với sự giúp đỡ của Marcel Grossmann nhà toán học danh tiếng và cũng là bạn học.
Năm 1914 Anbert Einstein quay về Đức làm thành viên Viện Hàn lâm Khoa học Đức. Năm 1915, lần đầu thuyết tương đối rộng được xuất bản. Năm 1919, đoàn chuyên gia người Anh đã đo đạc ánh sáng mặt trời khi có nhật thực và khẳng định tiên đoán thiên tài năm 1911 của Anbert Einstein. Trong khi ông trở nên nổi tiếng toàn cầu thì ở Đức ông bị các phần tử bài Do Thái gây rối và tấn công.
Năm 1921 Anbert Einstein được nhận giải thưởng Nobel về vật lý đối với hiệu ứng quang điện mà không phải thuyết tương đối công trình nổi tiếng nhưng còn gây tranh cãi vào thời điểm đó. Từ năm 1920 đến năm 1927, ông đi khắp thế giới (1921 ở Mỹ, 1922 ở Pháp và Nhật, 1923 ở Palestine, 1924 ở Nam Mỹ) để thuyết trình khoa học và hoạt động xã hội . Bắt đầu từ năm 1927, Einstein tham gia vào một cuộc tranh luận với Niels Bohr về thuyết lượng tử. Ông làm việc quá sức và lâm bệnh năm 1928. Mặc dù bình phục ngay trong năm này, cường độ làm việc của ông buộc phải thư giãn hơn trước.
Năm 1932, Einstein nhận giảng dạy tại Đại học Princeton, tại Mỹ, và không quay trở lại nữa vì chính quyền chống Do Thái Đức quốc xã đã cầm quyền ở Đức. Năm 1933, ông tiếp tục chu du Oxford, Glasgow, Brussels, Zurich và nhận được những vị trí danh dự mà ông đã từng mơ ước vào năm 1901 từ Jerusalem, Leiden, Oxford, Madrid và Paris. Năm 1935 Einstein quyết định ở lại Princeton thực hiện những cố gắng trong việc thống nhất các định luật của vật lý.
Năm 1940 ông nhận quốc tịch Mỹ, và vẫn giữ quốc tịch Thụy Sĩ. Anbert Einstein không chỉ là khai sinh ra “thuyết tương đối” nổi tiếng thế giới mà còn là một nhà khoa học phản đối chiến tranh. Ông đã gây được 6 triệu đô la tiền quỹ bằng việc bán đấu giá bản viết tay về thuyết tương đối hẹp vào năm 1944. Phương trình năng lượng của vật chất: E=mc2 trong bao nhiêu năm trời chỉ là đề tài tranh luận của các cuộc cãi vả lý thuyết, cho đến khi kết quả thực tế về năng lượng hạt nhân của quả bom nguyên tử đã làm san bằng thành phố Hiroshima năm 1945 chứng minh sự thật của phương trình đó.
Albert Einstein, tác giả của phương trình lừng danh này luôn coi thường và lãnh đạm mọi tôn vinh. Ông chỉ khao khát được suy nghĩ làm việc.
Anbert Einstein bắt đầu lâm bệnh năm 1949 và viết di chúc năm 1950. Chính phủ Israel năm 1952, mời Einstein nhận chức tổng thống, nhưng ông đã từ chối. Một tuần trước khi mất, Anbert Einstein đã ký tên vào một bức thư kêu gọi các nước không xây dựng vũ khí hạt nhân.
Ông mất tại Trenton, New Jersey, Mỹ lúc 4 giờ chiều ngày 18 tháng 4 năm 1955.
Albert Einsteindanh ngôn minh triết
Albert Einstein luôn suy nghĩ làm việc. Cách làm và cách suy nghĩ của ông lắng đọng những điều sâu sắc. Một số phát ngôn và ghi chép đời thường của ông được lưu dưới đây.
Albert Einstein có những lời vàngthật thấm thía. “Không thể gìn giữ hòa bình bằng bạo lực. Nó chỉ có thể đạt được bằng sự thông hiểu lẫn nhau”. (Peace cannot be kept by force; it can only be achieved by understanding).
Albert Einstein đã nhận định: “Nếu có một tôn giáo nào đương đầu với các nhu cầu của khoa học hiện đại thì đó là Phật giáo. Phật giáo không cần xét lại quan điểm của mình để cập nhật hóa với những khám phá mới của khoa học. Phật giáo không cần phải từ bỏ quan điểm của mình để xu hướng theo khoa học, vì Phật giáo bao hàm cả khoa học cũng như vượt qua khoa học” “Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo toàn cầu, vượt lên trên mọi thần linh, giáo điều và thần học.Tôn giáo ấy phải bao quát cả phương diện tự nhiên lẫn siêu nhiên, đặt trên căn bản của ý thức đạo lý, phát xuất từ kinh nghiệm tổng thể gồm mọi lĩnh vực trên trong cái nhất thể đầy đủ ý nghĩa. Phật giáo sẽ đáp ứng được các điều kiện đó”.
Albert Einstein có lối diễn đạt ‘chân thiện mỹ’ thật đáng suy ngẫm: “Tình yêu là người thầy tốt hơn trách nhiệm” (Love is a better teacher than duty). “Nếu anh không thể giải thích đơn giản thì anh chưa hiểu đủ rõ” (If you can’t explain it simply, you don’t understand it well enough). “Học từ ngày hôm qua, sống ngày hôm nay, hi vọng cho ngày mai. Điều quan trọng nhất là không ngừng đặt câu hỏi ” (Learn from yesterday, live for today, hope for tomorrow. The important thing is not to stop questioning). Trả lời về Thuyết tương đối, Albert Einstein nói: “Khi người đàn ông ngồi với một cô gái xinh đẹp trong một giờ, dường như đó chỉ là một phút. Nhưng nếu anh ta ngồi trên một cái bếp lò nóng trong một phút, thời gian đó còn dài hơn cả một giờ. Đấy là thuyết tương đối.” – Trích “The Yale Book of Quotations”
Albert Einstein nói và viết (Collected famous quotes from Albert) và 25 câu nói nổi tiếng của Albert Einstein Theo Business Insider, Bích Ngân dịch, tôi thích đọc lại và suy ngẫm.
Albert Einstein di sản “thuyết tương đối” thiên tài và danh ngôn minh triết của ông là những bài học lớn bền vững với thời gian.
Hoàng Kim
(thu thập, tổng hợp, biên soạn)
ALBERT EINSTEIN NÓI VÀ VIẾT Collected famous quotes from Albert
Học từ ngày hôm qua, sống ngày hôm nay, hi vọng cho ngày mai. Điều quan trọng nhất là không ngừng đặt câu hỏi.
Learn from yesterday, live for today, hope for tomorrow. The important thing is not to stop questioning.
Chỉ có hai điều là vô hạn: vũ trụ và sự ngu xuẩn của con người, và tôi không chắc lắm về điều đầu tiên.
Only two things are infinite, the universe and human stupidity, and I’m not sure about the former.
Sự khác biệt giữa quá khứ, hiện tại và tương lai chỉ là một ảo tưởng dai dẳng đến ngoan cố.
The distinction between the past, present and future is only a stubbornly persistent illusion.
Không phải là tôi quá thông minh, chỉ là tôi chịu bỏ nhiều thời gian hơn với rắc rối.
It’s not that I’m so smart, it’s just that I stay with problems longer.
Sự đơn điệu và cô độc của một cuộc sống yên lặng kích thích trí sáng tạo.
The monotony and solitude of a quiet life stimulates the creative mind.
Có một câu hỏi đôi khi khiến tôi thấy mơ hồ: Tôi điên hay người khác điên?
A question that sometimes drives me hazy: am I or are the others crazy?
Kẻ ngu xuẩn nào cũng có thể khiến mọi thứ trở nên to hơn, phức tạp hơn và bạo lực hơn. Chỉ bàn tay của thiên tài – và thật nhiều dũng khí – để biến chuyển ngược lại.
Any fool can make things bigger, more complex, and more violent. It takes a touch of genius – and a lot of courage – to move in the opposite direction.
Đừng tham công nhưng hãy phấn đấu để mình có ích.
Strive not to be a success, but rather to be of value.
Người đọc quá nhiều và dùng tới bộ óc quá ít sẽ rơi vào thói quen suy nghĩ lười biếng.
Any man who reads too much and uses his own brain too little falls into lazy habits of thinking.
Chúa luôn chọn cách đơn giản nhất.
God always takes the simplest way.
Logic sẽ đưa anh từ điểm A tới điểm B. Trí tưởng tượng sẽ đưa anh tới mọi nơi.
Logic will get you from A to B. Imagination will take you everywhere.
Sự khác biệt giữa thiên tài và kẻ ngu dốt là ở chỗ thiên tài luôn có giới hạn.
The difference between stupidity and genius is that genius has its limits.
Tôi nghĩ và nghĩ hàng năm hàng tháng. Chín mươi chín lần tôi đi tới kết luận sai lầm. Lần thứ một trăm tôi đúng.
I think and think for months and years. Ninety-nine times, the conclusion is false. The hundredth time I am right.
Tôi không biết chiến tranh thế giới thứ 3 sẽ sử dụng vũ khí nào nhưng tôi biết rằng chiến tranh thế giới thứ 4 sẽ sử dụng gậy gộc và đá!
I know not with what weapons World War III will be fought, but World War IV will be fought with sticks and stones.
Tôi sống với sự cô đơn đau đớn trong tuổi trẻ nhưng lại ngọt ngào trong những năm tháng trưởng thành.
I live in that solitude which is painful in youth, but delicious in the years of maturity.
Tôi là người vô đạo tới sâu sắc – điều này có phần như là một thứ tôn giáo mới.
I am a deeply religious nonbeliever – this is a somewhat new kind of religion.
Trước Chúa chúng ta đều thông thái và ngu xuẩn như nhau.
Before God we are all equally wise – and equally foolish.
Nếu anh không thể giải thích đơn giản thì anh chưa hiểu đủ rõ.
If you can’t explain it simply, you don’t understand it well enough.
Anh càng đi nhanh, anh càng đi được ít.
The faster you go, the shorter you are.
Trí tưởng tượng quan trọng hơn kiến thức.
Imagination is more important than knowledge.
Tiền lực luôn luôn thu hút những kẻ không có đạo đức.
Force always attracts men of low morality.
Kẻ nào chưa từng mắc phải lỗi lầm cũng là kẻ chưa bao giờ thử làm việc gì cả.
A person who never made a mistake never tried anything new.
Không thể gìn giữ hòa bình bằng bạo lực. Nó chỉ có thể đạt được bằng sự thông hiểu lẫn nhau.
Peace cannot be kept by force; it can only be achieved by understanding.
Đừng làm gì trái với lương tâm, ngay cả khi chính quyền yêu cầu bạn.
Never do anything against conscience even if the state demands it.
Lực hấp dẫn không chịu trách nhiệm cho việc con người ta yêu nhau.
Gravitation is not responsible for people falling in love.
Tôi không bao giờ tin vào vị Chúa chơi xúc xắc với thế gian này.
I shall never believe that God plays dice with the world.
Chính trị chỉ cho hiện tại, nhưng phương trình là mãi mãi.
Politics is for the present, but an equation is for eternity.
Sợ chết là nỗi sợ hãi phi lý nhất, vì người đã chết chẳng có nguy cơ bị tai nạn.
The fear of death is the most unjustified of all fears, for there’s no risk of accident for someone who’s dead.
Tôi không có tài năng đặc biệt nào, tôi chỉ có sự tò mò đầy nhiệt huyết.
I have no special talent. I am only passionately curious.
Môi trường là tất cả những gì không phải là tôi.
The environment is everything that isn’t me.
Nhiệm vụ của chúng ta là tự giải phóng bản thân bằng cách làm rộng vòng tròn của lòng trắc ẩn để ôm lấy mọi sinh vật sống và tất cả sắc đẹp của thiên nhiên.
Our task must be to free ourselves by widening our circle of compassion to embrace all living creatures and the whole of nature and its beauty.
Nếu thực tế không vừa với học thuyết, hãy thay đổi thực tế.
If the facts don’t fit the theory, change the facts.
Khoa học mà thiếu tôn giáo thì khập khiễng. Tôn giáo mà không có khoa học thì mù quáng.
Science without religion is lame, religion without science is blind.
Thông tin không phải là kiến thức.
Information is not knowledge.
Tôi không những chỉ là một người chuộc hòa bình mà còn là một người chuộc hòa bình máu chiến. Tôi sẵn sàng chiến đấu vì hòa bình. Không gì có thể kết thúc chiến tranh nếu bản thân con người không từ chối tham gia chiến tranh.
I am not only a pacifist but a militant pacifist. I am willing to fight for peace. Nothing will end war unless the people themselves refuse to go to war.
Đừng lo lắng về khó khăn của bạn trong toán học, tôi đảm bảo với bạn rằng những khó khăn toán học của tôi còn gấp bội.
Do not worry about your difficulties in Mathematics. I can assure you mine are still greater.
Tất cả những điều có giá trị trong xã hội con người đều dựa vào cơ hội phát triển hòa hợp trong mỗi cá nhân.
All that is valuable in human society depends upon the opportunity for development accorded the individual.
Chúa trời rất khó hiểu, nhưng không ma mãnh.
God may be subtle, but he isn’t plain mean.
Chính là trải nghiệm về những điều bí ẩn – thậm chí ngay cả khi lẫn trong niềm kính sợ – đã sản sinh ra tôn giáo.
It was the experience of mystery – even if mixed with fear – that engendered religion.
Nỗ lực kết hợp giữa trí tuệ và quyền lực hiếm khi thành công, mà có thành công cũng chỉ trong chốc lát.
The attempt to combine wisdom and power has only rarely been successful and then only for a short while.
Nguồn tri thức duy nhất là kinh nghiệm.
The only source of knowledge is experience.
Thật kỳ diệu rằng sự tò mò vẫn sống sót sau giáo dục truyền thống.
It is a miracle that curiosity survives formal education.
Toán học thuần túy, theo cách của riêng nó, là thi ca của tư duy logic.
Pure mathematics is, in its way, the poetry of logical ideas.
Nghệ thuật tối thượng của người thầy là đánh thức niềm vui trong sự diễn đạt và tri thức sáng tạo.
It is the supreme art of the teacher to awaken joy in creative expression and knowledge.
Giận dữ chỉ náu mình trong lồng ngực của những kẻ ngu xuẩn.
Anger dwells only in the bosom of fools.
Người trí thức giải quyết rắc rối; bậc anh tài ngăn chặn rắc rối.
Với tôi thì tôi ưa thói xấu câm lặng hơn là đức hạnh phô trương.
As far as I’m concerned, I prefer silent vice to ostentatious virtue.
Tình yêu là người thầy tốt hơn trách nhiệm.
Love is a better teacher than duty.
Chỉ cuộc đời sống cho người khác là cuộc đời đáng giá.
Only a life lived for others is a life worthwhile.
Quy luật của toán học càng liên hệ tới thực tế càng không chắc chắn, và càng chắc chắn thì càng ít liên hệ tới thực tế.
As far as the laws of mathematics refer to reality, they are not certain, and as far as they are certain, they do not refer to reality.
Ai cũng nên được tôn trọng như một cá nhân, nhưng không phải là thần tượng hóa.
Everyone should be respected as an individual, but no one idolized.
Mỗi người nên đi tìm điều vốn thế chứ không phải điều mình nghĩ là nên thế.
A man should look for what is, and not for what he thinks should be.
Khi chúng ta chấp nhận giới hạn của mình, chúng ta đã vượt qua nó.
Once we accept our limits, we go beyond them.
Giáo dục là thứ gì còn lại sau khi anh đã quên những gì anh học ở trường.
Education is what remains after one has forgotten what one has learned in school.
Ít người thực sự nhìn với đôi mắt của mình và cảm nhận bằng trái tim mình.
Few are those who see with their own eyes and feel with their own hearts.
Những tâm hồn vĩ đại luôn va phải sự chống đối mãnh liệt từ những trí óc tầm thường.
Great spirits have always encountered violent opposition from mediocre minds.
Điên rồ: lặp đi lặp lại một việc và hy vọng những kết quả khác nhau.
Insanity: doing the same thing over and over again and expecting different results.
Tôi chẳng bao giờ nghĩ tới tương lai – nó luôn luôn đến đủ sớm.
I never think of the future – it comes soon enough.
Chủ nghĩa dân tộc là căn bệnh tiềm ẩn. Nó là bệnh sởi của loài người.
Nationalism is an infantile disease. It is the measles of mankind.
Chủ nghĩa anh hùng theo mệnh lệnh, bạo lực phi lý và tất cả những điều vô nghĩa nhân danh lòng ái quốc – tôi mới căm ghét chúng làm sao!
Heroism on command, senseless violence, and all the loathsome nonsense that goes by the name of patriotism – how passionately I hate them!
Điều đếm được không nhất thiết đáng kể; điều đáng kể không nhất thiết đếm được.
Everything that can be counted does not necessarily count; everything that counts cannot necessarily be counted.
Ta có thể nói rằng bí ẩn vĩnh cửu của thế giới này chính là sự lĩnh hội.
One may say the eternal mystery of the world is its comprehensibility.
Nó đã trở nên rõ rệt tới kinh hoàng rằng công nghệ đã vượt xa nhân loại.
It has become appallingly obvious that our technology has exceeded our humanity.
Về sự thật và công lý, không có sự khác biệt giữa những vấn đề lớn nhỏ, vì những điều liên quan tới cách con người được đối sử đều giống như nhau.
In matters of truth and justice, there is no difference between large and small problems, for issues concerning the treatment of people are all the same.
Niềm vui quan sát và lĩnh hội là món quà đẹp nhất của tạo hóa.
Joy in looking and comprehending is nature’s most beautiful gift.
Ký ức dễ lừa gạt vì nó khoác màu những sự kiện của hôm nay.
Memory is deceptive because it is colored by today’s events.
Người đàn ông nào có thể vừa hôn mỹ nhân vừa lái xe an toàn đơn giản là không dành cho nụ hôn sự tận tâm mà nó đáng được nhận.
Any man who can drive safely while kissing a pretty girl is simply not giving the kiss the attention it deserves.
Khoa học là điều tuyệt vời nếu anh không phải kiếm sống bằng nó.
Science is a wonderful thing if one does not have to earn one’s living at it.
Nếu chúng ta biết rằng chúng ta đang làm gì, thì công việc đó đã không còn được gọi là nghiên cứu.
If we knew what it was we were doing, it would not be called research, would it?
Mọi thứ đều nên đơn giản như nó vốn có, nhưng không nên đơn giản hơn.
Everything should be as simple as it is, but not simpler.
Chiếc bàn, cái ghế, bát hoa quả và cây đàn vi ô lông; còn cần gì hơn cho hạnh phúc?
A table, a chair, a bowl of fruit and a violin; what else does a man need to be happy?
Tôi không tin rằng nhân loại sẽ bị quét sạch trong chiến tranh với bom nguyên tử. Có lẽ chỉ hai phần ba người trên trái đất sẽ bị tiêu diệt.
I do not believe that civilization will be wiped out in a war fought with the atomic bomb. Perhaps two-thirds of the people of the earth will be killed.
Ác quỷ đã đặt hình phạt lên tất cả những thứ chúng ta yêu thích trong đời. Hoặc chúng ta kém sức khỏe, hoặc chúng ta khốn khổ về tinh thần, hoặc chúng ta trở nên béo.
The devil has put a penalty on all things we enjoy in life. Either we suffer in health or we suffer in soul or we get fat.
Người làm khoa học là triết gia tồi.
The man of science is a poor philosopher.
Đôi khi người ta bỏ ra nhiều nhất cho thứ mà người ta có thể có được chẳng mất gì cả.
Sometimes one pays most for the things one gets for nothing.
Người không coi trọng sự thật trong những vấn đề tiểu tiết cũng không thể tin cậy được trong việc lớn.
Anyone who doesn’t take truth seriously in small matters cannot be trusted in large ones either.
Sự phát triển trí tuệ nên bắt đầu khi sinh và kết thúc khi chết.
Intellectual growth should commence at birth and cease only at death.
Thế giới sẽ bị hủy diệt không phải bởi những người làm điều ác, mà bởi những người đứng nhìn mà không làm gì cả.
The world will not be destroyed by those who do evil, but by those who watch them without doing anything.
Tôi tin chắc rằng làm đổ máu dưới màu áo chiến tranh không gì khác là hành động sát nhân.
It is my conviction that killing under the cloak of war is nothing but an act of murder.
Nếu bạn ra ngoài để nói lên sự thật thì hãy để sự tao nhã lại cho thợ may.
If you are out to describe the truth, leave elegance to the tailor.
Tôi tin rằng cuộc sống đơn giản và không phỏng đoán là tốt nhất với tất cả mọi người, tốt nhất cả cho tâm hồn và thể xác.
I believe that a simple and unassuming manner of life is best for everyone, best both for the body and the mind.
Người không còn có thể dừng lại để ngạc nhiên hay say mê kính sợ cũng như người đã chết; mắt anh ta nhắm lại rồi.
He who can no longer pause to wonder and stand rapt in awe, is as good as dead; his eyes are closed.
Hiện thực chỉ là ảo tưởng, mặc dầu đó là thứ ảo tưởng dai dẳng.
Reality is merely an illusion, albeit a very persistent one.
25 CÂU NÓI NỔI TIẾNG CỦA ALBERT EINSTEIN
25 câu nói của Einstein được nhiều người trích lại nhất, mỗi một câu đều cho bạn hiểu rõ thêm về tư duy của huyền thoại này.
Về quyền thế
(ảnh: Flickr/jeffmcneill)
“Sự tôn sùng quyền thế mà không suy nghĩ chính là kẻ thù lớn nhất của chân lý.” – Trích “The Curious History of Relativity”
Về quy mô
“Thiên nhiên chỉ cho chúng ta thấy cái đuôi của con sư tử. Nhưng tâm trí tôi không hề nghi ngờ rằng có con sư tử ở đó, ngay cả khi nó không thể xuất hiện toàn thân thể trước con mắt thịt của tôi bởi vì kích thước quá to lớn.” – Trích “Smithsonian, 02/1979”
Về chính trị
(ảnh: Wikimedia)
“Tôi thừa hưởng di sản của người Do thái, là công dân của Thụy Sĩ, và trưng diện như một con người, và chỉ một con người, không hề có gắn kết bất kỳ với nhà nước hay tổ chức quốc gia nào.” – Trích “The Yale Book of Quotations”
Về sự chắc chắn
“Quy luật của toán học càng liên hệ tới thực tế càng không chắc chắn, và càng chắc chắn thì càng ít liên hệ tới thực tế.” – Phát biểu tại Viện Khoa học Prussian, 01/1921
Về sự khiêm nhường
“Là con người, người ta được ban cho chỉ vừa đủ trí tuệ để có thể thấy rõ ràng trí tuệ ấy nhỏ bé thảm hại thế nào khi đứng trước thế giới này.” – Trích Thư gửi Nữ Hoàng Elisabeth tại Bỉ, 09/1932
Thuyết tương đối
“Khi người đàn ông ngồi với một cô gái xinh đẹp trong một giờ, dường như đó chỉ là một phút. Nhưng nếu anh ta ngồi trên một cái bếp lò nóng trong một phút, thời gian đó còn dài hơn cả một giờ. Đấy là thuyết tương đối.” – Trích “The Yale Book of Quotations”
Về sự phát triển của bản thân
(ảnh: Wikipedia)
“Đúng là cha mẹ tôi đã rất lo lắng bởi tôi biết nói khá trễ, đến mức họ phải đi tư vấn bác sĩ. Tôi không thể khẳng định lúc đó mình bao nhiêu tuổi – nhưng chắc chắn là không dưới ba tuổi.” – Trích Thư năm 1954
Về lẽ thường
“Lẽ thường chẳng khác nào một khoản định kiến đã nằm sẵn trong tâm trí từ trước khi bạn đủ 18 tuổi.” – Trích “The Universe and Dr. Einstein”
Về sự thành công
“Nếu đặt A là một sự thành công trong cuộc sống, vậy thì A bằng X cộng với Y cộng với Z. Làm việc chính là X, vui chơi chính là Y, còn biết giữ mồm giữ miệng chính là Z.” – Trích “The Yale Book of Quotations”
Về chủ nghĩa quốc gia
(ảnh qua imgur.com)
“Chủ nghĩa quốc gia là căn bệnh của trẻ con. Nó là bệnh sởi của loài người.” – Trích từ sách “Albert Einstein, the Human Side”
Về những điều huyền bí
(ảnh: Baby Boomer Talk)
“Trải nghiệm tươi đẹp nhất mà chúng ta có chính là những điều huyền bí. Nó là cảm xúc cơ bản đứng trong cái nôi của nghệ thuật và khoa học chân chính. Những ai không biết nó và cũng chẳng còn tự hỏi, chẳng còn lấy làm ngạc nhiên, thì cũng bằng như đã chết, và mắt họ đã bị mờ đi.” – Trích “The World As I See It,” 1930.
Về sự đơn độc
(ảnh: Apple)
“Ý thức đam mê của tôi về trách nhiệm và công lý xã hội luôn luôn tương phản một cách kỳ quái với sự thiếu vắng nhu cầu phải tiếp xúc trực tiếp với người khác và cộng đồng. Tôi thực sự là “kẻ độc hành” và chưa bao giờ, với cả trái tim mình, thuộc về đất nước, tổ ấm, bạn bè của mình, thậm chí cả người thân ngay trong gia đình; khi đối diện với các mối ràng buộc này, tôi chưa bao giờ mất đi cảm giác cần có một khoảng cách và nhu cầu được đơn độc.” – Trích “The World As I See It,” 1930.
Về vẻ bề ngoài
(ảnh: Wikimedia)
“Nếu tôi bắt đầu quan tâm đến việc chải chuốt, tôi sẽ không còn là chính mình nữa.” – Trích Thư, 12/1913.
Về trí tưởng tượng
(ảnh: Getty)
“Trí tưởng tượng còn quan trọng hơn cả kiến thức. Kiến thức thì hạn chế. Trí tưởng tượng lại bao quanh cả thế giới.” – Trích Smithsonian, 02/1979
Về động lực
(ảnh: ebravolosada / Flickr)
“Lý tưởng thắp sáng con đường của tôi, và nhiều lần cho tôi dũng khí mới để có thể đối diện cuộc sống một cách vui tươi, đó chính là Chân, Thiện, Mỹ. Nếu không có cảm giác thân hữu với những người cùng tư duy, không có sự hiện hữu với thế giới khách quan, sự bất tận vĩnh hằng trong lĩnh vực nghệ thuật và khoa học, thế giới sẽ dường như trống rỗng đối với tôi. Những mục tiêu nhàm chán của loài người – của cải, thành công bề ngoài, sự xa hoa – tôi luôn xem là đáng khinh thường.” – Trích “The World As I See It,” 1930
Về giáo dục
“Mục đích [của giáo dục] phải là sự đào tạo ra những cá nhân biết hành động và tư duy một cách độc lập, tuy nhiên lại là những người xem việc phục vụ cộng đồng là vấn đề lớn nhất trong cuộc đời.” – 10/1936
Về tham vọng
“Điều có giá trị thực sự sẽ không bao giờ phát sinh từ tham vọng hoặc từ ý thức bổn phận đơn thuần, nó bắt nguồn từ tình yêu và sự tận tâm đối với con người và những điều khách quan.” – Trích Thư, 07/1947
Về sự học hỏi
(ảnh: Flickr/recuerdosdepandora)
“Hầu hết các giáo viên phí hoài thời gian bằng việc đặt những câu hỏi nhằm tìm những điều học sinh không biết, trong khi nghệ thuật đặt câu hỏi chính là để khám phá xem học sinh thực sự biết và có khả năng biết những gì.” – Trích trong một buổi đối thoại năm 1920.
Về việc suy nghĩ
(ảnh: Wikimedia commons)
“Tôi rất ít khi suy nghĩ bằng câu từ. Khi một ý nghĩ đến, về sau tôi mới cố gắng thể hiện nó ra thành lời nói.” – Trích “Productive Thinking,” 1959
Về cuộc sống
“Một người hạnh phúc đã quá hài lòng với hiện tại, anh ta sẽ không sống quá nhiều ở thì tương lai.” – Trích Smithsonian, 02/1979
Về sự tò mò
(ảnh: Flickr/timi)
“Điều quan trọng chính là đừng bao giờ ngừng đặt câu hỏi. Sự tò mò có lý do tồn tại riêng của nó.” – Trích Nova.
Về đạo đức trong công việc
“Trạng thái tinh thần cho phép một người làm loại công việc này… là giống với hình thức người ta tôn sùng tín ngưỡng hay yêu nhau; nỗ lực hằng ngày không đến từ chủ ý hay lập trình, mà từ chính trái tim.” – 1918
Về tuổi thơ
“Người lớn bình thường không bao giờ nghĩ về các vấn đề thời gian-không gian… Tôi, trái lại, phát triển quá chậm đến mức tôi không hề thắc mắc về thời gian và không gian cho đến khi đã trưởng thành. Nên sau này tôi đào sâu nghiên cứu vào vấn đề này nhiều hơn bất kỳ một người lớn hay đứa trẻ nào.” – Trích Thư 1956
Về vai trò của khoa học
(ảnh: Wikimedia Commons)
“Có một điều mà tôi đã học được trong cả cuộc đời: Rằng khoa học của chúng ta, khi đem đo lường với thực tại, là rất thô sơ và ngô nghê – nhưng nó lại là điều quý giá nhất mà chúng ta có.” – Trích sách “Albert Einstein: Creator and Rebel,” 1972
Về sự thúc ép
“Cách duy nhất để thoát khỏi sự lung lạc của những lời tán dương chính là tiếp tục đi làm việc” – Trích Smithsonian, February 1979
Đêm Vu Lan nhớ bài thơ đi học
Thấm nhọc nhằn củ sắn, củ khoai
Nhớ tay chị gối đầu khi mẹ mất
Thương lời cha căn dặn học làm người…
Trăng sáng lung linh, trăng sáng quá!
Đất trời lồng lộng một màu trăng
Dẫu đêm khuya vắng người quên ngắm
Trăng vẫn là trăng, trăng vẫn rằm
Cây mầm xanh người và cây cùng cảnh
Lớn âm thầm trong chất phác chân quê Hoa và Ong siêng năng cần mẫn
Mai đào thơm nước biếc lộc xuân về
NGÀY MỚI NGỌC CHO ĐỜI
Hoàng Kim
Một đóa mai vàng sinh nhật
Một lời ấm áp tình thân
Một Biển Hồ soi bóng nắng
Một Giác Tâm xa mà gần.
GỐC MAI VÀNG TRƯỚC NGÕ
Hoàng Kim
“Anh trồng gốc mai này cho em!” Anh cả tôi trước khi mất đã trồng tặng cho tôi một gốc mai trước ngõ vào hôm sinh nhật con tôi. Cháu sinh đêm trước Noel còn anh thì mất lúc gần nửa đêm trăng rằm tháng giêng, trùng sinh nhật của tôi. Anh trò chuyện với anh Cao Xuân Tài bạn tôi trong khi tôi cùng vài anh em đào huyệt và xây kim tỉnh cho anh. Nhìn anh bình thản chơi với các cháu, tôi nao lòng rưng rưng. Chưa bao giờ và chưa khi nào tôi thấm thía những bài thơ về hoa mai cuối mùa đông tàn bằng lúc đó. Anh đi rằm xuân1994 do căn bệnh ung thư hiểm nghèo khi các con anh còn thơ dại.
Đừng bảo xuân tàn hoa rụng hết
Bài kệ “Cáo tật thị chúng” (Cáo bệnh với đệ tử) của thiền sư Mãn Giác (1052 – 1096) trong Thiền Uyển Tập Anh và lời bình của anh về nhân cách người hiền, cốt cách hoa mai đã đi thẳng vào lòng tôi:
Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đáo bách hoa khai
Sự trục nhãn tiền quá
Lão tùng đầu thượng lai.
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.
Xuân đi trăm hoa rụng
Xuân đến trăm hoa cười
Trước mặt việc đi mãi
Trên đầu già đến rồi
Đừng bảo xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước một cành mai.
(Bản dịch của Ngô Tất Tố)
Khi Lâm Cúc và anh Đình Quang trao đổi về chủ đề hoa mai, mạch ngầm tâm thức trong tôi đã được khơi dậy như suối nguồn tuôn chảy.
Đêm qua sân trước một cành mai
Thiền sư Mãn Giác viết bài kệ “Cáo tật thị chúng” khi Người 45 tuổi, sau đó Người đã an nhiên kiết già thị tịch. Bài thơ kiệt tác vỏn vẹn chỉ có sáu câu, ba mươi tư chữ, bền vững trãi nghìn năm. Đối diện với cái chết, thiền sư ung dung, tự tại, thấu suốt lẽ sinh tử: Đừng bảo xuân tàn hoa rụng hết / Đêm qua sân trước một cành mai.
Lời thơ thanh thoát, giản dị một cách lạ lùng! Thực tế cuộc sống đã được hiểu đầy đủ và rõ ràng. Bản tính cuộc sống là hạnh phúc và đau khổ, vui vẻ và phiền muộn, sự thiếu hoàn thiện và luôn vô thường. Xuân đi trăm hoa rụng/ xuân đến trăm hoa cười/ trước mặt việc đi mãi/ trên đầu già đến rồi. Đó là qui luật muôn đời, hoa có tàn có nở, người có diệt có sinh. Hạnh phúc cuộc sống là phong thái luôn vui vẻ và sung sướng, thanh thản và thung dung, không lo âu, không phiền muộn. Sống với một tinh thần dịu hiền và một trái tim nhẹ nhõm.
Tình yêu cuộc sống thể hiện trong ý xuân và trật tự các câu thơ.“Xuân đi trăm hoa rụng/ xuân đến trăm hoa cười” ẩn chứa triết lý sâu sắc hơn là “Xuân đến trăm hoa cười, xuân đi trăm hoa rụng/”. Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491–1585) trong bài thơ nôm “Chín mươi” có câu: “Chín mươi thì kể xuân đà muộn/ Xuân ấy qua thì xuân khác còn”. Tăng Quốc Phiên chống quân Thái Bình Thiên Quốc “càng đánh càng thua” nhưng trong bản tấu chương gửi vua thì ông đã quyết ý đổi lại là “càng thua càng đánh”. Việc “đánh thua” thì vẫn vậy nhưng ý tứ của câu sau mạnh hơn hẵn câu trước.
Hoa mai là biểu tượng của mùa xuân, của sự may mắn, vui tươi và trường thọ. Cành mai ẩn tàng thông điệp của mùa xuân. Hoa mai vừa có cốt cách, vừa đẹp thanh nhã, vừa có hương thơm và nở sớm nhất trong các loại hoa xuân. Vì vậy, hoa mai đã được chọn để biểu hiện cho cốt cách thanh cao của người hiền. Hoa mai, hoa đào, hoa lê, hoa mận có nhiều loài với vùng phân bố rộng lớn ở nhiều nước châu Á nhưng chỉ riêng mai vàng là đặc sản của Việt Nam, trong khi mai trắng và hoa đào là phổ biến tại Trung Quốc, Nhật Bản, Bắc Triều Tiên, Hàn Quốc và các nước Trung Á.
Mai vàng hoa xuân của Tết Việt
Mai vàng là đặc sản Việt Nam. Hoa mai, hoa đào, bánh chưng là hình ảnh Tết cổ truyền của dân tộc Việt. Hoa mai là một trong bốn loài hoa kiểng quý nhất (mai, lan, cúc, trúc) của Việt Nam đặc trưng cho bốn mùa. Hoa mai gắn liền với văn hóa, đời sống, tâm linh, triết lý sống, nghệ thuật ứng xử, thơ văn, nhạc họa. Hiếm có loài hoa nào được quan tâm sâu sắc như vậy
“Nghìn dặm tìm anh chẳng gặp anh. Đường về vó ngựa dẫm mây xanh. Qua đèo chợt gặp mai đầu suối . Đóa đóa vàng tươi xuân thắm cành” (Hồ Chí Minh 1890-1969); “Đêm qua sân trước một nhành mai” (Mãn Giác 1052-1096) “Lâm râm mưa bụi gội cành mai” (Trần Quang Khải 1241-1294); Ngự sử mai hai hàng chầu chắp/ Trượng phu tùng mấy rặng phò quanh” (Huyền Quang 1254-1334); Quét trúc bước qua lòng suối/ Thưởng mai về đạp bóng trăng” (Nguyễn Trãi 1380-1442); “Cốt cách mai rừng nguyên chẳng tục”( Nguyễn Trung Ngạn 1289-1370); “Mai cốt cách, tuyết tinh thần” (Nguyễn Du 1765-1820) “Nhờ chúa xuân ưu ái/ Xếp đứng đầu trăm hoa/ Chỉ vì lòng khiêm tốn/ Nên hẵng nở tà tà” (Phan Bội Châu 1867-1940); “Mộng mai đình” (Trịnh Hoài Đức 1725-1825) ; “Non mai rồi gửi xương mai nhé/ Ước mộng hồn ta hóa đóa mai” (Đào Tấn 1845-1907); “Một đời chỉ biết cúi đầu vái trước hoa mai” (Cao Bá Quát 1809-1855) “Hững hờ mai thoảng gió đưa hương” (Hàn Mặc Tử 1912-1940) “Tìm em tôi tìm/ Mình hạc xương mai”(Trịnh Công Sơn 1939-2001),…
Gốc mai vàng trước ngõ. Rằm xuân lại nhớ anh. Cành mai rung rinh quả. Xuân sang lộc biếc cành. … Vườn nhà buổi sáng mai nay. Nước xao tăm cá vườn đầy nắng xuân. Mẹ gà quấn quýt đàn con. Đất lành chim đậu lộc xuân ân tình.
Hạnh phúc đâu chỉ là đích đến
hạnh phúc là con đường trãi nghiệm
vỗ về, chờ đợi, nhớ thương … Gốc mai vàng trước ngõ
truyện nhiều năm còn kể
Hoàng Kim Hoàng Gia Minh thăm Gốc mai vàng trước ngõ. Hai mươi bảy năm trước, mẹ của cháu Hoàng Gia Minh là Hoàng Tố Nguyên (người mặc áo hồng trên đứng cạnh bác Hai Hoàng Ngọc Dộ), nay đã là giảng viên Trường Đại học Khoa học Xã hội Nhân văn thành phố Hồ Chí Minh. Gốc mai vàng trước ngõ là kỷ niêm tuổi thơ một thời.Tôi nhớ mãi câu nói của anh Hai: “Dặn con cháu khiêm nhu cần kiệm. Cảnh mãi theo người được đâu em. Hết khổ hết cay hết vận hèn. Nghiệp sáng đèn giời đà chỉ rõ. Rồi đây cay đắng chẳng buồn chen” (Hoàng Ngọc Dộ khát vọng).
Lời dặn của Anh Hai, chuyện Gốc mai vàng trước ngõ vẫn theo em và gia đình mình thao thiết đi cùng năm tháng, bên thầy quý bạn bạn với không gian bình an trong lành cùng chúng ta đi về phía trước.
Ngày mới Ngọc cho đời
MỘT NIỀM TIN THẮP LỬA Hoàng Kim
Nhìn đàn em ngời niềm vui rạng rỡ.
Chợt thấy lòng rưng rưng.
Công việc nghề nông cực mà hạnh phúc.
Cố lên em nổ lực không ngừng !
Hột mồ hôi lắng vào hạt gạo
Câu ca ông bà theo suốt tháng năm
Thêm bữa cơm ngon cho người lao động
Nâng chén cơm thơm, qúy trọng người trồng.
Em ơi hãy học làm ruộng giỏi
Nghề nông thời nào cũng quý kỹ năng
Người dân khá hơn là niềm ao ước
Công việc này giao lại cho em.
Có một mùa xuân hạnh phúc
Ơn mẹ cha lam lũ sớm hôm
Thương con vạc gọi sao mai dậy sớm
Một niềm tin thắp lửa giữa tâm hồn.
Bước tiếp bước giữa trường đời gian khó
Học làm người lao động siêng năng
Rèn nhân cách vượt lên bao cám dỗ
Đức và Tài tử tế giữa Nhân Dân.
Chúc mừng tiến sĩ Trần Công Khanh giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Cây Điều, Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam, Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam, Bộ Nông nghiệp Phát triển Nông thôn được Thủ tướng Chính phủ tặng danh hiệu chiến sĩ thi đua toàn quốc giai đoạn 2016 – 2020 cho tác giả là chủ trì các sáng kiến có giá trị ảnh hưởng đến sản xuất trên phạm vi toàn quốc. Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển cây Điều có thành tựu nổi bật gần đây bên cạnh các tiến bộ kỹ thuật về canh tác điều là đã lai tạo và chọn lọc được hai giống điều mới LBC5 và LBC1. Hai giống điều mới ưu tú này ra hoa lần đầu lúc 18 tháng sau khi trồng, năng suất năm thứ sáu sau trồng đạt 3,5 tấn/ha với mật độ 208 cây/ha, tỷ lệ nhân đạt trên 31%, tỷ lệ hạt chìm trong nước 95,0%. Cây sinh trưởng khỏe, có tán cao trung bình đến thấp, ra hoa nhiều đợt thích nghi với sinh thái vùng Đông Nam Bộ. TS. Trần Công Khanh trước đây đã là tác giả chính của giống sắn KM140 (1) giải Nhất Vifotech toàn quốc lần 10, và đồng tác giả của ba giống sắn tốt KM419 (2), KM98-5 (3), KM98-1 (4) với hai giống khoai lang ngon HL518 Nhật đỏ, HL491 Nhật tím, hồ sơ công nhận giống tốt thông tin tóm tắt kèm theo.
(1) Trần Công Khanh, Hoàng Kim, Võ Văn Tuấn, Nguyễn Hữu Hỷ, Phạm Văn Biên, Đào Huy Chiên, Reinhardt Howeler và Hernan Ceballos 2007. Kết quả chọn tạo và phát triển giống sắn KM140. Tài liệu báo cáo công nhận giống sắn KM140. Hội nghị nghiệm thu đề tài Bộ Nông nghiệp & PTNT. 45 trang.. Trong sách: Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Nông lâm nghiệp (Journal of Agricultural Sciences and Technology) Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh, số 1&2/2007, trang 14-19. Giống sắn KM140 được Bộ Nông nghiệp và PTNT công nhận giống tại Quyết định số 3468 /QĐ-BNN-TT ngày 5 tháng 11 năm 2007 Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn quyết định công nhận giống chính thức số 358 ngày 20/9/2010 và Thông tư số 65/2010/TT BNN PTNT ngày 5/11/2010. Giải Nhất Vifotech Hội thi sáng tạo khoa học kỹ thuật toàn quốc lần thứ 10 năm 2010.
(2) Hoàng Kim, Trần Ngọc Ngoạn, Nguyễn Thị Trúc Mai, Võ Văn Quang, Nguyễn Phương, Hoàng Long, Nguyễn Minh Cường, Đào Trọng Tuấn, Nguyễn Thị Lệ Dung, Trần Công Khanh, Nguyễn Minh Hiếu, Nguyễn Văn Bộ, Nguyễn Thị Cách, Nguyễn Trọng Hiển, Lê Huy Hàm, Hernan Ceballos, Manabu Ishitani 2016. Kết quả chọn tạo và phát triển giống sắn KM419. (KM419 New Cassava variety MARD 2016) Báo cáo công nhận giống sắn mới, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Hội đồng Giống Quốc gia, Hà Nội. Quyết định của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn số 85 / QĐ-BNN-TT Hà Nội ngày 13 tháng 1 năm 2016 về việc công nhận sản xuất thử giống cây trồng mới giống sắn KM419 cho vùng sinh thái Bắc Trung Bộ, Duyên hải Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ.
(3) Trần Công Khanh, Hoàng Kim, Võ Văn Tuấn, Nguyễn Hữu Hỷ, Phạm Văn Biên, Reinhardt Howeler 2005/ 2009. Kết quả chọn tạo và phát triển giống sắn KM98-5. Tài liệu báo cáo công nhận giống sắn KM98-5 Hội nghị nghiệm thu đề tài Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam. 44 trang. Results of breeding and developing variety KM98-5 Report for official recognition by the Scientific Council of Agriculture and Rural Development, Ho ChiMinh City. Dec 2009. 40 p. VNCP- IAS- CIAT-VEDAN Document
(4) Hoàng Kim, Kazuo Kawano, Trần Hồng Uy, Trần Ngọc Quyền, Võ Văn Tuấn, Trần Công Khanh 1999. Kết qủa tuyển chọn giống sắn KM98-1. Báo cáo công nhận chính thức giống sắn KM98-1. Hội nghị Khoa học Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tổ chức tại Đà Lạt, Lâm Đồng 29-31/7/1999. 27 trang. MARD Recognition document report of KM98-1 variety. Scientific Conference of Agriculture and Rural Development, held in Da Lat. July 29-31, 1999. 27 p. The decision of the Ministry of Agriculture and Rural Development Certificate No. No. 3493/QD-BNN–KHKT, Sep 9, 1999
(5) Nguyễn Thị Thủy, Hoàng Kim, Trần Công Khanh, Nguyễn Thị Sâm 1997.Hai giống khoai lang mới HL518 và HL491 (Two new sweet potato varieties: HL 518 and HL 491) Tài liệu báo cáo công nhận chính thức hai giống khoai lang HL518 và HL419. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn. Hội nghị khoa học kỹ thuật nông nghiệp ở các tỉnh phía Nam tổ chức tại thành phố Hồ Chí Minh ngày 16-18/9/1997. 18 trang.
Ngày mới Ngọc cho đời
NGÀY HẠNH PHÚC CỦA EM
Hoàng Kim
Báo Dân tộc và Miền núi đưa tin:. Ngày Quốc tế Phụ nữ 8/3: Nhà khoa học trẻ gửi trọn đam mê vào cây sắn. Phạm Cường (TTXVN) | 17:00 | 08-03-2021. Với nhiều cống hiến cho ngành nông nghiệp, đặc biệt là các công trình nghiên cứu phát triển giống sắn mới mang lại hiệu quả kinh tế cao, góp phần giảm nghèo ở vùng núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Phú Yên. Tiến sỹ Nguyễn Thị Trúc Mai (sinh năm 1987, cư trú tại xã Xuân Sơn Nam, huyện Đồng Xuân, Phú Yên), hiện là Phó Trưởng phòng Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Đồng Xuân, vinh dự được tôn vinh là “Nhà khoa học của nhà nông” https://dantocmiennui.vn/ngay-quoc-te-phu-nu-83-nha-khoa-hoc-tre-gui-tron-dam-me-vao-cay-san/300762.html . Chúc mừng em Trúc Mai, Ngày mới ngọc cho đời; Một niềm tin thắp lửa. https://www.facebook.com/permalink.php?story_fbid=444196760092360&id=100035061194376
TRĂNG RẰM VUI CHƠI GIĂNG
Hoàng Kim
Trăng rằm vui chơi giăng
Đêm Vu Lan mờ tỏ
Trăng rằm khuya lồng lộng giữa trời
Thăm thẳm lời Người nói …
Mẹ cũ như ngôi nhà cũ
Chiếc áo mẹ mang bạc phếch tháng năm
Cha cũ như con thuyền cũ
Dòng sông quê hương thao thiết đời con
Anh chị cũ tình vẹn nghĩa
Trọn đời thương nhau lồng lộng trăng rằm
Em tôi hồn quê dáng cũ
Con cháu niềm vui thơm thảo tháng năm
Thầy bạn lộc xuân đầy đặn
Bài ca thời gian ngời ngợi trăng rằm.
Thắp đèn lên đi em
Đêm Vu Lan tỉnh thức
Thương nhớ bài thơ cũ
Chuyện đời không nỡ quên …
Ngày mới và đêm Vu Lan
Vầng trăng Sao Hôm Sao Kim thân thiết.
Loanh quanh tìm tòi cái mới
Đêm Vu Lan thức về lại chính mình.
Đêm Vu Lan nhớ mùa thu đi học
Nhớ ngọn đèn mờ tỏ giấc mơ xưa
Thương con vạc gọi sao Mai mọc sớm
Vầng trăng khuya thăm thẳm giữa tâm hồn
Đêm Vu Lan nhớ bài thơ đi học
Thấm nhọc nhằn củ sắn củ khoai
Nhớ tay chị gối đầu khi mẹ mất
Thương lời cha căn dặn học làm người
*
Em đi chơi cùng Mẹ
Trăng rằm vui chơi giăng
Thảo thơm vui đầy đặn
Ân tình cùng nước non.
Trăng khuyết rồi lại tròn
An nhiên cùng năm tháng
Ơi vầng trăng cổ tích
Soi sáng sân nhà em.
Đêm nay là đêm nao?
Ban mai vừa ló dạng
Trăng rằm soi bóng nắng
Bạch Ngọc trời phương em.
*
Trăng sáng lung linh trăng sáng quá
Đất trời lồng lộng một màu trăng
Dẫu đêm khuya vắng người quên ngắm
Trăng vẫn là trăng, trăng vẫn rằm.
*
Trăng rằm đường sáng dạo chơi giăng,
Nhớ Bác đôi câu hỏi chị Hằng:
“Thế nước thịnh suy sao đoán định?
Lòng dân tan hợp biết hay chăng?
Vành đai thế biến nhiều mưu hiểm,
Con đường lực chuyển lắm lăng nhăng?
Dân Nam Tiếng Việt nhiều gian khó
Hưng thịnh làm sao hỡi chị Hằng?”.
*
“Bác Hồ thơ ‘Chơi giăng’ đó ông
Vầng trăng cổ tích sáng non sông,
Tâm sáng đức cao chăm việc tốt
Chí bền trung hiếu quyết thắng không?
Nội loạn dẹp tan loài phản quốc
Ngoại xâm khôn khéo giữ tương đồng.
Khó dẫu vạn lần dân cũng vượt.
Lòng dân thế nước chắc thành công”.
Nguyên vận thơ Bác Hồ
CHƠI GIĂNG
Hồ Chí Minh
Gặp tuần trăng sáng, dạo chơi giăng,
Sẵn nhắn vài câu hỏi chị Hằng:
“Non nước tơi bời sao vậy nhỉ?
Nhân dân cực khổ biết hay chăng?
Khi nào kéo được quân anh dũng,
Để dẹp cho tàn bọn nhố nhăng?
Nam Việt bao giờ thì giải phóng
Nói cho nghe thử, hỡi cô Hằng?”.
*
Nguyệt rằng: “Tôi kính trả lời ông:
Tôi đã từng soi khắp núi sông,
Muốn biết tự do chầy hay chóng,
Thì xem tổ chức khắp hay không.
Nước nhà giành lại nhờ tài sắt,
Sự nghiệp làm nên bởi chữ đồng.
Tổ chức, tuyên truyền càng rộng rãi,
Tức là cách mệnh chóng thành công”.
Báo Việt Nam độc lập, số 135, ngày 21-8-1942. Nguồn: Hồ Chí Minh toàn tập (tập 3), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000; xem tiếpTrăng rằm vui chơi giăng
TRĂNG RẰM THƯƠNG NHỚ ANH Hoàng Kim
Trăng xưa cùng anh cuốc đất
Trăng nay mình em làm thơ
Không gian một vầng trăng tỏ
Trăng rằm rọi sáng giấc mơ ...
LỜI ANH DẶN Hoàng Ngọc Dộ
‘Không vì danh lợi đua chen
Thù nhà nợ nước quyết rèn bản thân’
‘Dặn con cháu khiêm nhu cần kiệm’
Nhá củ lòng anh nhớ các em
Đang cơn lửa tắt khó thắp đèn
Cảnh cũ chưa lìa đeo cảnh mới
Vơi ăn, vơi ngủ, với vơi tiền
Cảnh mãi đeo người được đâu em
Hết khổ, hết cay, hết vận hèn Nghiệp sáng đèn giời đà chỉ rõ
Rồi đây cay đắng chẳng buồn chen
Vầng trăng cổ tích Hoàng Ngọc Dộ
Bóng đêm trùm kín cả không trung
Lấp lánh phương Đông sáng một vừng
Mây bủa mây giăng còn chẳng ngại
Ngắm nhìn trần thế bạn văn chương.
Cuốc đất đêm Hoàng Ngọc Dộ
Mười lăm trăng qủa thật tròn
Anh hùng thời vận hãy còn gian nan
Đêm trăng nhát cuốc xới vàng
Trăng dòm, ta hẹn, trăng càng dòm thêm
Đất vàng, vàng ánh trăng đêm
Đêm khuya, ta với nàng quên nhọc nhằn.
Chia tay bạn quý (*) Hoàng Ngọc Dộ
Đêm ngày chẳng quản đói no
Thức khuya dậy sớm lo cho hai người
Chăm lo văn sách dùi mài
Thông kim bác cổ, giúp đời cứu dân
Ngày đêm chẵng quản nhọc nhằn
Tối khuyên, khuya dục, dạy răn hai người
Mặc ai quyền quý đua bơi
Nghèo hèn vẫn giữ trọn đời thủy chung
Vận nghèo giúp kẻ anh hùng
Vận cùng giúp kẻ lạnh lùng vô danh
Mặc ai biết đến ta đành
Dăm câu ca ngợi tạc thành lời thơ
Hôm nay xa vắng đồng hồ
Bởi chưng hết gạo, tớ cho thay mày
Mày tuy gặp chủ tốt thay
Nhớ chăng hôm sớm có người tri âm
(*) Hết gạo, tắt bữa, buộc phải bán đồng hồ
Nấu ăn Hoàng Ngọc Dộ
Ngày một bữa đỏ lửa
Ngày một bữa luốc lem
Ngày một bữa thổi nhen
Ngày một bữa lường gạo
Ngày một bữa tần tảo
Ngày một bữa nấu ăn.
Dự liên hoan Hoàng Ngọc Dộ
Hôm nay anh được chén cơm ngon
Cửa miệng anh ăn, nuốt chả trơn
Bởi lẽ ngày dài em lam lũ
Mà sao chỉ có bữa cơm tròn.
Thức Kim dậy Hoàng Ngọc Dộ
Đã bốn giờ sáng
Ta phải dậy rồi
Sao Mai chơi vơi
Khoe hào quang sáng
Ta kêu Kim dậy
Nó đã cựa mình
Vớ vẫn van xin
Cho thêm chút nữa.
Thức, lôi, kéo, đỡ
Nó vẫn nằm ỳ
Giấc ngủ say lỳ
Biết đâu trời đất
Tiếc giấc ngủ mật
Chẳng chịu học hành
Tuổi trẻ không chăm
Làm sao nên được
Đêm ni, đêm trước
Biết bao là đêm
Lấy hết chăn mền
Nó say sưa ngủ
Ta không nhắc nhủ
Nó ra sao đây
Khuyên em đã dày
Nó nghe chẳng lọt
Giờ đây ta guyết
Thực hiện nếp này
Kêu phải dậy ngay
Lay phải trở dậy
Quyết tâm ta phải
Cố gắng dạy răn
Để nó cố chăm
Ngày đêm đèn sách
Ta không chê trách
Vì nó tuổi thơ
Ta không giận ngờ
Vì nó tham ngủ
Ban mai chợt tỉnh giấc,
Nghe đầy tiếng chim kêu.
Đêm qua mây mưa thế,
Hoa xuân rụng ít nhiều?
Mạnh Hạo Nhiên (689 – 740) là nhà thơ người Tương Dương, Tương Châu, nay thuộc tỉnh Hồ Bắc ,Trung Quốc thời nhà Đường, thuộc thế hệ đàn anh của Lí Bạch. Ông là người nhân cách lỗi lạc, yêu thiên nhiên, phúc hậu đức độ, học vấn tài năng trác tuyệt, giỏi thơ văn, nhưng chán ghét cảnh quan trường nên ẩn cư vui với thiên nhiên, sông núi quê hương , đặc biệt là Long Môn, Nam San và Lumen Sơn. Sự nghiệp văn chương của ông sừng sững như núi cao với hai trăm sáu mươi bài thơ, phần lớn là những bài thơ sơn thuỷ tuyệt bút . Thơ năm chữ của Mạnh Hạo Nhiên luật lệ nghiêm cách, phóng khoáng, hùng tráng, rất nổi tiếng. Bài Xuân hiểu và Lâm Động Đình rất được yêu thích. Lí Bạch rất hâm mộ Mạnh Hạo Nhiên và có thơ tặng ông:
Tặng Mạnh Hạo Nhiên
Lý Bạch
Ta mến chàng họ Mạnh,
Phong lưu dậy tiếng đồn
Tuổi xanh khinh mũ miện
Đầu bạc ngủ mây cồn
Dưới trăng nghiêng ngửa chén
Bên hoa mê mẩn hồn
Hương bay thầm đón nhận
Không với tới đầu non
春 眠 不 覺 曉,
Xuân miên bất giác hiểu.
處 處 聞 啼 鳥。
Xứ xứ văn đề điểu
夜 來 風 雨 聲,
Dạ lai phong vũ thinh.
花 落 知 多 少?
Hoa lạc tri đa thiểu
Dịch nghĩa:
SỚM XUÂN
(Đang nằm trong) giấc ngủ mùa xuân, không biết trời đã sáng.
Khắp nơi nơi nghe tiếng chim kêu (rộn rã).
Đêm qua có tiếng gió mưa.
Không biết hoa rụng nhiều hay ít ?. Hoàng Nguyên Chương dịch
Dịch thơ
Giấc xuân trời sáng không hay,
Chim kêu ríu rít từng bầy khắp nơi.
Đêm qua mưa gió tơi bời
Biết rằng hoa cũng có rơi ít nhiều.
(Bản dịch Trần Trọng Kim)
SỚM XUÂN
Giấc ngủ mùa xuân, không biết sáng.
Khắp nơi rộn rã tiếng chim kêu.
Đêm qua sầm sập trời mưa gió
Không biết hoa bay rụng ít nhiều
(bản dịch Hoàng Nguyên Chương).
BUỔI SÁNG MÙA XUÂN
Giấc xuân, sáng chẳng biết;
Khắp nơi chim ríu rít;
Đêm nghe tiếng gió mưa;
Hoa rụng nhiều hay ít ?
(Bản dịch Tương Như)
SỚM XUÂN
Giấc xuân nào biết hừng đông.
Tỉnh ra chim đã véo von khắp trời,
Đêm qua mưa gió bời bời,
Ngoài kia nào rõ hoa rơi ít nhiều!
(Bản dịch của Ngô Văn Phú)
BUỔI SÁNG MÙA XUÂN
Đêm xuân ngủ sáng chẳng hay,
Bên ngoài chim đã hót đầy nơi nơi.
Đêm nghe mưa gió tơi bời,
Chẳng hay hoa rụng hoa rơi ít nhiều?
(Bản dịch của Hoàng Giáp Tôn)
“Xuân hiểu” (Sớm xuân) của Mạnh Hạo Nhiên nói về giấc ngủ mùa xuân (xuân miên) thung dung, an nhiên, tự tai cho đến khi trời chợt sáng (bất giác hiểu?). “Xuân hiểu” không đơn thuần chỉ là mùa xuân mà còn chỉ ngày mới, quy luật vĩnh cữu của trời đất, khoảnh khắc huyền diệu của vũ trụ, thời điểm chuyển tiếp từ đêm sang ngày, từ âm sang dương, từ tĩnh sang động, từ tối đến sáng. Đó là thời khắc ban mai tuyệt diệu của tạo hóa, đất trời và con người hòa chung làm một, là thời khắc giao hoà tuyệt vời được thể hiện thanh thoát lạ lùng.
Điều đặc sắc của tác phẩm “Xuân hiểu” là đã dùng chữ xuân và chữ hiểu. Chữ xuân thì dễ thấy để chỉ sự tươi trẻ, khởi đầu, triết lý sống lạc quan. Chữ hiểu “giác” (覺) có nghĩa là hiểu mà không dùng chữ “tri” (知) có nghĩa là biết để chỉ sự hiểu biết tận cùng chân tính của sự vật. Tác giả đã dùng chữ “hiểu” (曉) để chỉ về ban mai mà không dùng các chữ khác như: đán (旦) , tảo (早) hạo (暭), thịnh (晟), thần (晨), thự (曙), hi (晞) v.v.. Bởi chữ hiểu vừa có nghĩa là hiểu biết , lại vừa có nghĩa chỉ về buổi sớm, ban mai, ngày mới, cái khoảnh khắc huyền diệu của vũ trụ.
Nhà Phật đã dùng chữ “giác” (覺) này trong “giác ngộ”, “chính giác” để chỉ những điều thấu hiểu đã đạt ngộ đến đích của thiền tính. Khoa học giúp ta tri thức, sự biết , Phật học là minh sư chỉ ra sự đạt ngộ, giác ngộ này . Nhà bác học Anhstanh, cha đẻ của Thuyết tương đối, nhận định: “Nếu có một tôn giáo nào đương đầu với các nhu cầu của khoa học hiện đại thì đó là Phật giáo. Phật giáo không cần xét lại quan điểm của mình để cập nhật hóa với những khám phá mới của khoa học. Phật giáo không cần phải từ bỏ quan điểm của mình để xu hướng theo khoa học, vì Phật giáo bao hàm cả khoa học cũng như vượt qua khoa học” chính là nói trên ý nghĩa đó.
Tôi thích lời bình của Hoàng Nguyên Chương về thơ Mạnh Hạo Nhiên: “Sau cái tĩnh lặng của giấc ngủ là cái động, thức giấc của con người, mặt trời và sự sống. Ta thấy sự sống tưng bừng của vũ trụ “xứ xứ” (khắp nơi) rộn tiếng chim. Chữ “văn” ở đây cho ta xác định được cái tiểu vũ trụ của tác giả và chính tác giả là chủ thể của con người trung tâm đang nhìn ra khắp chốn (xứ xứ) của đại vũ trụ để bắt nguồn giao cảm từ ý nghĩa vạn vật đều có đủ trong ta (vạn vật giai bị ư ngã) hoặc vạn vật với ta là một (vạn vật dữ ngã vi nhất) hay nói khác hơn đó là vạn vật đã đồng nhất với cái ngã. Hình tượng chim (điểu) cũng chỉ là một thực thể bé nhỏ và âm thanh kêu, hót (đề) cũng chỉ là “dữ cộng tương sinh” nhưng lại là đại biểu cho tất cả mọi sinh vật làm biểu tượng cho cả sự sống muôn loài vừa trổi dậy. Như thế mỗi thực thể bé nhỏ ở đây không chỉ là mỗi tiểu vũ trụ mà đã hình thành biểu trưng cho cả một đại vũ trụ.” …Con người hiện tại tiếp tục suy tư chiêm nghiệm để tự hỏi: Dạ lai phong vũ thinh (Đêm qua có tiếng gió mưa). Hình ảnh gió mưa chính là nguyên nhân đưa đến hiện trạng của ngày mới. Đóa hoa là biểu tượng của sự sống, của nguồn sinh mệnh trong cõi đời. Đó là những thực thể bé nhỏ nhưng lại là những tiểu vũ trụ như lời Đỗ Phủ: “Nhất phiến hoa phi giảm khước xuân” (một cánh hoa rơi làm giảm đi vẻ đẹp của xuân) nhưng ý tưởng lại còn đi xa hơn thế nữa. Bởi vì hình thức mỗi cánh hoa còn lại trên cành hay rụng đi là một nỗi băn khoăn về lẽ tồn tại hay không tồn tại. Đó là sự thao thức về đời người và thân phận con người. Câu thơ “Hoa lạc tri đa thiểu” (không biết hoa rụng nhiều hay ít?) là câu thơ tuyệt bút đã làm bài thơ bừng tỏa. … Đây cũng là phong cách tiêu biểu của Đường thi, phong cách đã đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật và mỗi chữ mỗi lời là một viên ngọc...” .
Ngày mớilà ngày xuân
Noi theo tứ thơ khoáng đạt “Chim lượn trăm vòng” của Chế Lan Viên: “Tôi yêu quá! cuộc đời như con đẻ/ Như đêm xuân người vợ trẻ yêu chồng…/ Cánh thơ tôi thoát khỏi phòng nhỏ bé? Lượn trăm vòng trên Tổ quốc mênh mông”: Tôi đọc và tâm đắc thơ “Xuân hiểu” của Mạnh Hạo Nhiên, nay thử tìm lối diễn đạt mới cho tuyệt phẩm này. “Xuân hiểu” là “Ngày mới”; “Ban mai chợt tỉnh giấc / Nghe đầy tiếng chim kêu/ Đêm qua mây mưa thế/ Hoa xuân rụng ít nhiều?”.
Ngày mới là ngày xuân. Mây mưa vừa tục vừa thanh như cuộc đời này. Hoa xuân rụng nhiều hay ít là sự thao thức về “hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi”, đời người và thân phận con người.