Số lần xem
Đang xem 910 Toàn hệ thống 1901 Trong vòng 1 giờ qua
Trang liên kết
Tỉnh thức
giữa đêm thiêng Yên Tử
Để thấm hiểu đức Nhân Tông
Ta thành tâm đi bộ
Lên tận đỉnh chùa Đồng
Tâm sáng Ức Trai
trong tựa ngọc TÌNH YÊU CUỘC SỐNG
DẠY VÀ HỌC Để chấn hưng giáo dục Việt Nam cấp thiết phải có đội ngũ những người thầy giáo ưu tú có tâm đức thiết tha với nghề, có trình độ chuyên môn cao và có kỹ năng giảng dạy tốt. Đây là trang thông tin chuyên đề dạy và học để trao đổi và bàn luận
Norman Borlaug Lời Thầy dặn Việc chính đời người chỉ ít thôi
Chuyên tâm đừng bận chuyện trời ơi
Phúc hậu suốt đời làm việc thiện
Di sản muôn năm mãi sáng ngời.
Hoàng Gia Cương thơ hiền NHỮNG BÀI THƠ ÁM ẢNH Hoàng Kim
Tập thơ “Theo dòng thời gian” của nhà thơ Hoàng Gia Cương có nhiều bài hay. Mỗi bài thơ mà tôi tâm đắc trích dẫn dưới đây là một câu chuyện đời thường ám ảnh được kể lại bằng thơ. Tôi xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc. Thơ cậu Cương nhiều bài hay. Nhiều bài tôi thích, và hóa ra các cậu tôi cùng nhiều người làng Minh Lệ cũng thích. Theo dòng thời gian tôi muốn nhặt ra mấy viên ngọc quý mà tôi tin là ít có nhà thơ, nhà bình văn khó tính nào không cảm động. Tôi đồng tình với sự thẩm thơ của Trần Đăng Khoa, “thơ hay là thơ giản dị, xúc động, ám ảnh”.
Tận phương trời xa xăm, một cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn đang trút xuống lương dân. Chiến tranh là đau thương, là mất mát không thể nào bù đắp, không chỉ vào thời hiện tại mà còn dai dẳng mãi mãi về sau. Trước đây, từ rất lâu rồi mình đã từng viết về một nỗi đau lặng thầm như thế:
ĐỢI MỘT DÒNG TIN
Đã có thời như trong giấc chiêm bao
Em cầm phấn và anh cầm súng
Nỗi xa cách trải dài theo chiến trận
Đêm nhìn sao tìm ánh mắt giao nhau …
Lửa khói tan rồi em bỗng lạc nơi nao!
Ngõ xóm nhỏ nay thành đường phố rộng
Ngôi nhà cũ giờ chỉ còn khoảng trống
Em đâu rồi
Bắc Cạn?
Cà Mau?
Có lẽ nào ta đành chịu mất nhau
Để khoảng trống giữa dòng đời hoang mãi!
Niềm khắc khoải như triều dâng vời vợi
Ánh đèn nào rọi chiếu bến bờ xa?
Đêm không trăng nhoà nhạt dải Ngân Hà
Trời lặng gió sao trong lòng có bão!
Dù chẳng tiếc mất một phần xương máu
Mà nỗi đau khôn dứt cuộc chia lìa!
Phố chờ xuân rộn rã bước người đi
Cành đào biếc ngoài vườn đang hé nụ
Anh ngóng đợi một dòng tin nho nhỏ
Một dòng tin …
Ô cửa gió lay mành!
Hay từ bài tuyển đầu tiên,
Ánh Trăng khuya rọi khắp miền thế gian,
Lạ thay thi tứ nồng nàn,
Tình yêu cuộc sống muôn vàn yêu thương.
Câu thơ lắng đọng người hiền, Mạ ơi xúc động lời thương dặn dò, Cha tôi là một nhà Nho, Tìm về nguồn cội, Chớm thu … tuyệt vời !
Cội nguồn Lũng Động, Cổ Trai,
Khí thiêng cõi Bắc nhớ nơi sinh thành,
Vua Thái tổ Mạc Đăng Dung
Hoàng chi dòng đích lưu cùng nước non.
Phố Cụt, Phố nối, Phố cong, Đi trong phố nhỏ một vòng nhân gian Rùa ơi tôn bậc trí nhân
Để nền Văn hiến ngàn năm không nhòa.
Sáu mươi năm Mạ đi xa, Mạ ơi tiếng vọng không là niềm riêng.
Thời gian lắng đọng người hiền.
Trăng khuya xế bóng, bình mình rạng ngời
(*) Những chữ in đậm là tuyển chọn các bài tôi thích nhất trong tập thơ Theo dòng thời gian của nhà thơ Hoàng Gia Cương
Nhà thơ Hoàng Gia Cương có các tác phẩm chính: Thơ 1) Theo dòng thời gian Nxb Văn Học 2013; 2) Trãi nghiệm với thời gian Nxb Hội nhà văn 2010, 3) Cổ tích cho mai sau Nxb QĐND 2006. 4) Trong cõi vô biên Nxb Hội nhà văn 2005, 5) Lắng đọng Nxb Hội nhà văn, 2001, 7) Lặng lẽ thời gian, Nxb Thanh Niên 1997, 8) Truyện ký rãi rác nhiều năm. Tác phẩm thơ văn của Hoàng Gia Cương có mặt trên 30 tuyển tập, tập thơ văn in chung. Tôi không phải là người bình thơ, chỉ xin lưu đôi điều tâm đắc. Trước Mạc Gia Từ; Khoai. Ngọc trai bé ông tôi; Những bài thơ ám ảnh; Nhân hậu đời quên tuổi; Nhớ Ông Bà Cậu Mợ; Một gia đình yêu thương https://hoangkimlong.wordpress.com/category/hoang-gia-cuong-tho-hien/
Ở thôn Thanh Hà, xã Nam Sơn, huyện Sóc Sơn, Hà Nội có Mạc Gia Từ (còn gọi là đền Quan Quận) thờ 18 vị Quan Quận của Mạc Triều. Cạnh đó là đền Rõm được coi là ngôi đền thờ Mẫu và thờ quan quân nhà Mạc. Có thể coi nơi đây là quần thể di tích tâm linh thờ quan quân nhà Mạc trong cuộc dời đô sau khi Thăng Long thất thủ (1592). Chúng tôi đã từng nhiều lần về đây thắp hương tưởng niệm các bậc tiền nhân đã hy sinh vì Mạc tộc ( Hoàng GiaCương)..
Về làng ăn nửa rá khoai
Ăn bay đĩa lạc, vơi nồi cá kho
Chè xanh một ấm đứ đừ
Nhâm nhi hương vị ngàn xưa đọng về!
Dặm đời phiêu bạt lê thê
Cái gốc “quê Bọ” chẳng hề nhạt phai
Ăn cơm mòn bát xứ người
Vẫn chưa quên được vị khoai quê mình!
Khoai là “sâm” của Quảng Bình
Nhờ khoai bám trụ mà thành “địa linh”
Khoai làm đất đẹp người xinh
Vì khoai nên nghĩa nên tình đằm sâu.
(Thơm bùi một miếng mời nhau
Còn hơn “bát bảo” “trân châu” đãi đằng!)
Đâu còn đói kém thiếu ăn?
Đây là “đặc sản” khoai lang bạn mời.
Tôi đi khắp chốn khắp nơi
Không chi thơm ngọt ngon bùi bằng khoai!
QB 5/2009
NGỌC TRAI BÉ ÔNG TÔI
Nhà thơ Hoàng Gia Cương sinh ngày 25 tháng 10 năm 1942 ở làng Minh Lệ, xã Quảng Minh, thị xã Ba Đồn, tỉnh Quảng Bình, nghề kỹ sư vô tuyến điện, nghiệp hội viên hội nhà văn Hà Nội. Trong các tác phẩm nêu trên, tôi thích nhất là tập thơ “Theo dòng thời gian, Nhà Xuất Bản Văn Học Hà Nội năm 2013, 447 trang, ” “Thời gian chảy tới vô cùng Lắng bao tinh chất… Bỏ công kiếm tìm ! (Hoàng Gia Cương)“. Hoàng Gia Cương theo dòng thời gian thao thức một tầm nhìn nhân văn sâu sắc, tài hoa. Đọc sách, tôi lật xem trang đầu và trang cuối. Phụ lục 1 của sách THEO DÒNG THỜI GIAN có các câu: “Văn muốn đạt tài hoa, tâm cần sáng, tứ cần sâu, năng gạn đục khơi trong văn mới tuyệt. Nghệ mong nên tuyệt tác, trí phải minh, công phải trọng, biết tầm sư học đạo nghệ càng tinh“; “CHÍ khí một hiền MINH, vạch lối, dẫn đường, gây nghiệp lớn hồi sinh đất nước. NGUYÊN vẹn từng trụ GIÁP, xua Tây, trừ Mỹ, lập công đầu bảo vệ non sông”. “Mạc tộc dựng xây thiên kỷ tạc. Hoàng chi bồi đắp vạn đời ghi“. Trang Phụ lục cuối sách có hai vế mời đối của hai trong các câu đối, ẩn ý sâu xa thú vị: Phải từ đâu để định hướng đầu tư cho năng lượng ngày lương thêm nặng?Tô Hoài sao chẳng vẽ?
Nhà nho Hoàng Bá Chuân, bố của bảy người con trai ở câu chuyện “Cuộc đoàn tụ bất ngờ của 5 anh em ngày giải phóng thủ đô“, là em ruột của bà ngoại tôi. Chúng tôi tự hào về dòng họ Hoàng có nhiều người con trung hiếu với đất nước, quê hương và gia đình. Ông tôi thường dạy con cháu về nếp nhà phúc hậu văn hóa. Ông tôi viết: Nhà tôi sinh được bảy người con/ Quyết chí chung tình với nước non/ Kháng chiến năm con đi khắp nước/ Lớn lên trai bé sẽ xung phong… Cậu Cương ngọc trai bé của ông tôi, sau này cũng vào bộ đội Trung đoàn Thủ Đô (E102) Sư đoàn Quân Tiên phong (F308). Cậu Cương dần dà theo trọn đời nghề làm kỹ thuật vô tuyến điện nhưng cái nghiệp lắng đọng lại là thơ, theo dòng thời gian thao thức một tầm nhìn nhân văn sâu sắc, tài hoa, với một gia đình hạnh phúc, nếp nhà phúc hậu và văn chương đích thực.
Sáu anh em ruột gia đình đến thăm đại tướng Võ Nguyên Giáp (1996). Từ trái sang: Hoàng Gia Cương, Hoàng Thúc Cảnh, bà Đặng Bích Hà, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, cô Võ Hồng Anh, Hoàng Thúc Cẩn, Hoàng Thúc Tấn, Hoàng Thúc Tuệ, Hoàng Quý Thân.
Cụ Chuân là một nhà Nho thích nếp nhà thanh đạm phúc hậu, cẩn trọng cần kiệm, nền nếp gia giáo. Các con của Cụ sau năm 1954 đều giữ trọng trách, một gia đình trí thức cách mạng được các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước rất quý trọng và quan tâm. Người anh lớn ông Hoàng Thúc Cảnh thời kỳ Việt Bắc công tác tại Văn phòng Phủ Chủ tịch, sau này làm cố vấn Văn phòng Chính phủ suốt thời gian dài mãi cho đến khi cụ Phạm Văn Đồng nghỉ hưu thì mới nghỉ, hai anh em ông Hoàng Thúc Cẩn và Hoàng Thúc Tuệ đều là đại tá quân đội, ông Hoàng Thúc Tấn là Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ, ông Hoàng Quý Thân là tiến sỹ công tác ở Uỷ ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước, ông Hoàng Gia Cương là kỷ sư vô tuyến điện và là nhà thơ. Chuyện triều đình tôi vắn tắt đôi điều. Tôi chỉ biết là tất cả các cậu đều rất quý cha mẹ tôi, những nông dân lương thiện, sống có tình có nghĩa với làng xóm và rất thương anh chị em tôi, những đứa con mồ côi tuy cha mẹ tôi chết sớm nhưng anh em biết đùm bọc và rất thương yêu nhau.
Anh Bu Lu Khin Nguyễn Quốc Toàn là người anh và bạn thiết của tôi rất đồng cảm về nếp nhà. Anh Toàn bên nội và bên ngoại đều thuộc dòng dõi gia thế. Gia đình anh chị Toàn Hà trưng trang trọng tự hào trong phòng thờ Tổ tiên ba chữ yêu thích “THANH THẬN CẦN Minh Mệnh châu phê”do vua Minh Mệnh ban cho vị quan trung lương dòng họ Nguyễn Quốc là quan “thanh liêm, cẩn thận, cần cù”. Lời ban khen của một ông vua phong kiến thời nay chẳng mấy ai quan tâm, nhưng gia đình anh Bu thì thực lòng kính cẩn trân trọng và tự hào về nếp nhà của dòng họ. Nơi yên nghỉ của họ nội Nguyễn Quốc bên dòng sông Gianh lưu giữ đôi câu đối cổ kính “Chu biên quốc trọng thân hầu mệnh / Đường bảng gia truyền liễu tử danh” (Dòng họ có những nhân vật giữ trọng trách với quốc gia như Thân Bất Hại thời nhà Chu/ Đời này sang đời khác có những thi nhân văn gia nỗi danh như Liễu Tông Nguyên thời nhà Đường).Tôi đọc bài anh Bu mà tâm đắc lời thơ của cậu Cương: “Cúi mình trước đấng Tổ Tông? Râm ran như được tiếp dòng máu thiêng“.
Nhà cụ Hoàng Bá Chuân ông tôi cũng tự hào và lặng lẽ thời gian giữ lại đôi dòng vắn tắt “Hậu duệ của Hoàng đế Mạc Đăng Dung” tại khu mộ chí họ Hoàng ở động Ma Ca dưới chân hòn Đá Đứng ở làng Minh Lệ, nay là xã Quảng Minh, thị xã Chợ Đồn, tỉnh Quảng Bình. Tương truyền nguồn gốc dòng họ Hoàng làng Minh Lệ là hậu duệ Hiển tổ Mạc Đỉnh Chi (1280-1346) ở hương Lũng Động và Thái tổ Mạc Đăng Dung (1483 – 1541) ở hương Cổ Trai, ly tán vào đất Quảng Bình cải thành họ Hoàng để tránh sự báo thù của vua Lê chúa Trịnh, tuy làm nông nghiệp nhưng các thế hệ con cháu vẫn giữ được truyền thống hiếu học và văn chương của dòng tộc. Vì thế, nhà nho Hoàng Bá Chuân đã được theo đuổi Cửa Khổng sân Trình từ nhỏ, tinh thông Tứ thư Ngũ kinh, điêu luyện các thể thơ phú, trở thành một nhà Nho được kính nể. Đó là niềm tự hào của dòng họ Hoàng – Trần trong bốn họ chính Hoàng – Trần – Trương – Nguyễn của làng Minh Lệ chúng tôi và đây là một câu chuyện dài…
Bài thơ Phố Cụt hay ám ảnh. Các cậu tôi một thuở chỉ khen thầm trong nhà, nay đã duyệt in sách rồi, tôi xin chép lại đây để tặng bạn đọc:
Phố cụt
Đoạn này phố cụt không tên Một bên nhà nguyện Một bên nhà chùa…
Tiếng chuông gióng tự tinh mơ Đều đều tiếng mõ cả trưa lẫn chiều
Mặt đường mưa nắng xiêu điêu Kẻ cầu Đức Phật Người kêu Chúa Trời
Vô thần tôi tự trách tôi Đọc”Tư bản luận” một đời chưa thông
Đường cong mãi vẫn hoàn cong Long đong đâu chỉ long đong kiếp mình ?
Rì rầm phía ấy cầu kinh Phía kia khấn Phật Lặng thinh phía này!
Gió nồm rồi gió heo may Lạc vào phố cụt Bụi bay mù trời !
Nguyên tiêu Kỹ Mão.
[7] Hoàng Gia Cương THEO DÒNG THỜI GIAN
Thơ tuyển chọn 2013. NXB Văn Học Hà Nội, tr. 177
Bài thơ “Phố cụt” trước đây tôi không thích vì tôi cho rằng thơ dù hay đến đâu nhưng đi vào ngõ cụt bi quan yếm thế là hỏng, là không tốt, không lợi cho nhân văn và sức khỏe. Sau này khi tôi đọc kỹ các tuyệt phẩm “Phố nối” “Phố cong Tam Đảo” “Đi trong phố nhỏ” (mời bạn đọc tại Hoàng Gia Cương theo dòng thời giancuối bài này) thì chợt giật mình thấy mình lầm, “Phố cụt” không cụt nữa mà đã được hóa giải. Thơ Hoàng Gia Cương trong cõi vô biên lặng lẽ với thời gian, trãi nghiệm với thời gian. Chùm thơ Phố theo tôi là một minh chứng rất rõ của sự trãi nghiệm nhân văn, sâu sắc, tinh tế và tài hoa. Đó là một chùm thơ mẫu mực.
Phố nối
Ở đây nối đất với trời Nối mưa với nắng Nối vui với buồn Tơ trời ai nối mà vương? Buộc bao số phận vào đường ngược xuôi
Hưng Yên 2/1999
[8] Hoàng Gia Cương THEO DÒNG THỜI GIAN
Thơ tuyển chọn 2013. NXB Văn Học Hà Nội, tr.183
Tam Đảo
Chợt nắng lóe Chợt mưa sa Chợt hun hút gió Chợt sà sà mây …
Phố cong như nhánh mai gầy Rêu phong tường đá Cỏ vây quanh tường
Chênh vênh lối bám men sườn Thông xanh ngút ngát Ngập ngừng bước chân.
Đường như rắn cuộn xa gần Sắc mầu chấm phá Bút thần nét đưa.
Thung sâu trãi rộng ô cờ Ngỡ mình bên cữa phi cơ nghiêng chào!
Chợt là thực Chợt chiêm bao Chợt xem tranh lụa Chợt vào Thiên Thai
5/2002
[9] Hoàng Gia Cương THEO DÒNG THỜI GIAN
Thơ tuyển chọn 2013. NXB Văn Học Hà Nội, tr.226-227.
Nhạc sĩ Ngọc Duy phổ thành ca khúc “Chiều Tam Đảo”.
Đi trong phố nhỏ
Đi trong phố nhỏ chiều xuân Cây bàng khô khẳng nhú mầm non tơ Ngỡ ngàng chú sẽ hong mưa Nghiêng tai nghe tiếng gió lùa song hiên
Phố cong chao mõi cánh chim Rêu phong theo cuộc nổi chìm tháng năm Âm âm từ cõi xa xăm Bao nhiêu cát bụi thăng trầm nổi nênh…
Đi trong phố nhỏ yên bình Lòng ta thư thái, chân mình thảnh thơi Nương thân bên suối bên đồi Hàng cây mãi miết đâm chồi trỗ hoa
Đỏ trời khóm gạo tháng ba Vàng ươm màu cúc quỳ pha ráng chiều Ngỡ ngàng trước bức tranh thêu Ai hay phố nhỏ đìu hiu … nặng tình
4/2004
[10] Hoàng Gia Cương THEO DÒNG THỜI GIAN
Thơ tuyển chọn 2013. NXB Văn Học Hà Nội, tr. 266
Tôi đọc “Trăng khuya” và “Chớm thu” rung động dào dạt một tình yêu thiên nhiên và yêu con người. Bài thơ “Cha tôi là một nhà Nho” và “Mạ ơi !” đọc thật xúc động, tôi thẹn lòng là chưa viết được bài thơ về mẹ cha hay được như thế. Hai bài thơ“Tìm về nguồn cội” và “Thái tổ Mạc Đăng Dung” có tầm vóc sử thi 500 năm, nhân văn sâu sắc, ân tình và tài hoa.
Trăng khuya
Chợt thấy trăng khuya ngắm trộm mình Phải chăng trăng cũng mến tân binh ? Voan mây lấp ló khuôn vành vạnh Như thể mắt ai đắm đuối nhìn.
Cát Bi 6/1/1961
[1] Hoàng Gia Cương THEO DÒNG THỜI GIAN Thơ tuyển chọn 2013. NXB Văn Học Hà Nội, tr. 11.
Chớm thu
Ban mai rười rượi – thu vừa chớm Gió lạc vườn ai bỡn trái hồng Khóm trúc dáng chừng đang độ lớn Ngỡ ngàng lối ngõ đẫm hơi sương!
Mây bông lặng vén rèm che mỏng Để nắng non nghiêng liếc trộm vườn Hàng cúc xốn xang gờn gợn sóng … Hình như trời đất biếc xanh hơn!
Qua bao giông bão bao mưa lũ Đất lại hồi sinh lại mượt mà Chấp chới cánh diều loang loáng đỏ Cố giữ tầm cao, níu khoảng xa!
1998
[6] Hoàng Gia Cương THEO DÒNG THỜI GIAN
Thơ tuyển chọn 2013. NXB Văn Học Hà Nội, tr.101
Mùi hoa bưởi
Giữa đêm đứng gác bên sườn núi
Nghe suối râm ran – ngỡ tiếng người
Thoảng trong gió buốt mùi hoa bưởi
Ai gửi? Sao mình thơ thẩn vui?!
Lương Sơn (HB) xuân 1963
Cha tôi là một nhà Nho
Cha tôi là một nhà Nho Người luôn tự nhận môn đồ Khổng Khâu Tứ Thư người đọc thuộc làu Ngũ Kinh người vẫn ghi sâu từng lời…
Cha tôi sinh chẳng gặp thời Chữ Nho như lá rụng rơi cuối mùa Nỗi niềm đầy ắp trang thơ Công danh sớm nắng chiều mưa nát nhòe
Cha tôi dạy trẻ nhà quê Áo nâu guốc mộc chõng tre, đèn cầy… Cơm ăn đã có vợ cày Trò thương điếu đóm một vài hào rau !
Phải thời “Tây học” tràn vào Chữ Nho bị quảng sang ao nước tù Cha tôi bỏ nghiệp thầy đồ Theo trào lưu mới mầy mò … chữ Tây !
Chữ Tây vừa ngọng vừa dài Đọc câu văn đến đứt hơi, nhạt phèo! Thôi thì nghèo giữ phận nghèo Cha tôi trồng sắn, nuôi heo qua ngày!
Cái thời đuổi Nhật đánh Tây Cha thành “tuyên huấn” miệt mài làm thơ Cha tôi lại dạy i, tờ Làm theo lời Bác xóa mù giúp dân.
Cha tôi giờ đã thoát trần Người đi tìm các vĩ nhân tôn thờ Cha tôi là một nhà thơ Cha tôi là một nhà nho cuối mùa!
6/1979
[3] Hoàng Gia Cương THEO DÒNG THỜI GIAN
Thơ tuyển chọn 2013. NXB Văn Học Hà Nội, tr. 40-41
Mạ ơi!
Tròn sáu mươi năm ngày Mạ đi xa
Mạ ơi sáu chục năm rồiMạ theo cánh hạc về nơi vĩnh hằng Bảy trăm hai chục mùa trăng Trăng rằm buốt lạnh đâu bằng lòng con?!
Cho dù con đã lớn khôn Vẫn là úi ít, vẫn còn ấu thơ Vẫn trông ngóng mạ từng giờ Vẫn mong tấm bánh, vẫn chờ tiếng ru…
Nhớ thời giặc giã tràn qua Gia đình ly tán, cửa nhà cháy thiêu Mạ mong khắc khoải sớm chiều Mong ngày đoàn tụ… Bỗng diều hụt dây!
Mạ mong dứt tháng đoạn ngày Mà sao định mệnh vẫn xoay phủ phàng? Bốn con biền biệt tiền phương Mỗi người mỗi phía chiến trường đạn bom!
Mạ đi trong nỗi héo hon Cái đêm rằm ấy mãi còn ngấn mưa Mạ đi trong nỗi ngác ngơ Cha con nấc nghẹn tiễn đưa quặn lòng!
Mạ về với cõi hư không Mình cha sớm tối lưng còng trở xoay Đèn khuya leo lét tháng ngày Nhà Nho lóng ngóng cuốc cày nuôi con!
Các con giờ đã lớn khôn Công cha nghĩa mẹ vuông tròn tạc ghi Dẫu cho gia thất đề huề Thiếu cha vắng mẹ còn gì tủi hơn?
Bây giờ cậu mạ không còn Hai anh con cũng… vấn vương theo cùng Sân Lai quần tụ thêm đông Chỉ buồn một nỗi thiếu ông vắng bà!
Mong gần rồi lại ngóng xa Mạ ơi ngấn lệ vẫn nhòa mắt con Sau mươi năm dạ mỏi mòn Nhớ thương, thương nhớ Mãi còn nhớ thương!
Vu Lan năm Tân Mão 2011
[2] Hoàng Gia Cương THEO DÒNG THỜI GIAN
Thơ tuyển chọn 2013. NXB Văn Học Hà Nội, tr. 408-409
Tìm về nguồn cội
Tìm về Lũng Động, Cổ Trai Thắp hương bái lạy bao đời Tổ Tông Biển gom nước vạn dòng sông “Thập tam thế hậu…” nhi đồng là đây.
Qua bao giông bão, tháng ngày Thay tên đổi họ chẳng thay đổi lòng Vẫn là cha, vẫn là ông Vẫn dòng máu ấy cuộn trong tim này!
Hoàng, Phan, Lều, Thạch … về đây Trăm phương như nước như mây tụ nguồn Gốc còn trên đất Hải Dương Lá cành hoa trái đã vươn khắp miền.
Ta về tìm lại Tổ tiên Tìm về nguồn cội khí thiêng sinh thành Hương dâng là nghĩa là tình Thoảng thơm như thể tinh anh giống dòng.
Cúi mình trước đấng Tổ Tông Râm ran như được tiếp dòng máu thiêng !
1998
[4] Hoàng Gia Cương THEO DÒNG THỜI GIAN
Thơ tuyển chọn 2013. NXB Văn Học Hà Nội, tr.170-171
Thái tổ Mạc Đăng Dung
Cảm nhận của người con Mạc tộc
Xuất thân ngư phủ vạn chài Ra khơi vào lộng nổi trôi bọt bèo! Vươn lên từ phận đói nghèo Đã thành tướng giỏi đã gieo Hoàng triều.
Cổ Trai xóm nhỏ đìu hiu Ai hay nhân kiệt ẩn lều rạ tre Từ tay kéo lưới đưa bè Vung đao múa kiếm ngựa xe tung hoành.
Oai hùng khiển tướng điều binh Thù trong khiếp đảm, thất kinh giặc ngoài Xứ Đông cho chí xứ Đoài Non sông một giải đẹp tươi mọi miền.
Bao nhiêu tiến sĩ, trạng nguyên Nhờ thời Minh Đức mà nên hiền tài Mượt đồng ngô lúa sắn khoai Nhà nhà hạnh phúc, người người ấm no.
Bao công xây dựng cơ đồ Vinh danh Mạc tộc, vững bờ Đại Nam Sá chi miệng thế thăng trầm Năm trăm năm … một chữ NHÂN rạng ngời !
6/2011 (Hoàng Kim chép lại với lối phân câu 6/8
thay cho thể thơ 6/8 phân câu lối tự do nhiều tầng)
[5] Hoàng Gia Cương THEO DÒNG THỜI GIAN
Thơ tuyển 2013. NXB Văn Học Hà Nội, tr. 406-407
Hoàng Gia Cương thơ hiền NHỮNG BÀI THƠ ÁM ẢNH Hoàng Kim
Tập thơ “Theo dòng thời gian” của nhà thơ Hoàng Gia Cương có nhiều bài hay. Mỗi bài thơ mà tôi tâm đắc trích dẫn dưới đây là một câu chuyện đời thường ám ảnh được kể lại bằng thơ. Tôi xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc. Thơ cậu Cương nhiều bài hay. Nhiều bài tôi thích, và hóa ra các cậu tôi cùng nhiều người làng Minh Lệ cũng thích. Theo dòng thời gian tôi muốn nhặt ra mấy viên ngọc quý mà tôi tin là ít có nhà thơ, nhà bình văn khó tính nào không cảm động. Tôi đồng tình với sự thẩm thơ của Trần Đăng Khoa, “thơ hay là thơ giản dị, xúc động, ám ảnh”.
Tận phương trời xa xăm, một cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn đang trút xuống lương dân. Chiến tranh là đau thương, là mất mát không thể nào bù đắp, không chỉ vào thời hiện tại mà còn dai dẳng mãi mãi về sau. Trước đây, từ rất lâu rồi mình đã từng viết về một nỗi đau lặng thầm như thế:
ĐỢI MỘT DÒNG TIN
Đã có thời như trong giấc chiêm bao
Em cầm phấn và anh cầm súng
Nỗi xa cách trải dài theo chiến trận
Đêm nhìn sao tìm ánh mắt giao nhau …
Lửa khói tan rồi em bỗng lạc nơi nao!
Ngõ xóm nhỏ nay thành đường phố rộng
Ngôi nhà cũ giờ chỉ còn khoảng trống
Em đâu rồi
Bắc Cạn?
Cà Mau?
Có lẽ nào ta đành chịu mất nhau
Để khoảng trống giữa dòng đời hoang mãi!
Niềm khắc khoải như triều dâng vời vợi
Ánh đèn nào rọi chiếu bến bờ xa?
Đêm không trăng nhoà nhạt dải Ngân Hà
Trời lặng gió sao trong lòng có bão!
Dù chẳng tiếc mất một phần xương máu
Mà nỗi đau khôn dứt cuộc chia lìa!
Phố chờ xuân rộn rã bước người đi
Cành đào biếc ngoài vườn đang hé nụ
Anh ngóng đợi một dòng tin nho nhỏ
Một dòng tin …
Ô cửa gió lay mành!
Hay từ bài tuyển đầu tiên,
Ánh Trăng khuya rọi khắp miền thế gian,
Lạ thay thi tứ nồng nàn,
Tình yêu cuộc sống muôn vàn yêu thương.
Câu thơ lắng đọng người hiền, Mạ ơi xúc động lời thương dặn dò, Cha tôi là một nhà Nho, Tìm về nguồn cội, Chớm thu … tuyệt vời !
Cội nguồn Lũng Động, Cổ Trai,
Khí thiêng cõi Bắc nhớ nơi sinh thành,
Vua Thái tổ Mạc Đăng Dung
Hoàng chi dòng đích lưu cùng nước non.
Phố Cụt, Phố nối, Phố cong, Đi trong phố nhỏ một vòng nhân gian Rùa ơi tôn bậc trí nhân
Để nền Văn hiến ngàn năm không nhòa.
Sáu mươi năm Mạ đi xa, Mạ ơi tiếng vọng không là niềm riêng.
Thời gian lắng đọng người hiền.
Trăng khuya xế bóng, bình mình rạng ngời
(*) Những chữ in đậm là tuyển chọn các bài tôi thích nhất trong tập thơ Theo dòng thời gian của nhà thơ Hoàng Gia Cương
Nhà thơ Hoàng Gia Cương có các tác phẩm chính: Thơ 1) Theo dòng thời gian Nxb Văn Học 2013; 2) Trãi nghiệm với thời gian Nxb Hội nhà văn 2010, 3) Cổ tích cho mai sau Nxb QĐND 2006. 4) Trong cõi vô biên Nxb Hội nhà văn 2005, 5) Lắng đọng Nxb Hội nhà văn, 2001, 7) Lặng lẽ thời gian, Nxb Thanh Niên 1997, 8) Truyện ký rãi rác nhiều năm. Tác phẩm thơ văn của Hoàng Gia Cương có mặt trên 30 tuyển tập, tập thơ văn in chung. Tôi không phải là người bình thơ, chỉ xin lưu đôi điều tâm đắc. Trước Mạc Gia Từ; Khoai. Ngọc trai bé ông tôi; Những bài thơ ám ảnh; Nhân hậu đời quên tuổi; Nhớ Ông Bà Cậu Mợ; Một gia đình yêu thương https://hoangkimlong.wordpress.com/category/hoang-gia-cuong-tho-hien/
Ở thôn Thanh Hà, xã Nam Sơn, huyện Sóc Sơn, Hà Nội có Mạc Gia Từ (còn gọi là đền Quan Quận) thờ 18 vị Quan Quận của Mạc Triều. Cạnh đó là đền Rõm được coi là ngôi đền thờ Mẫu và thờ quan quân nhà Mạc. Có thể coi nơi đây là quần thể di tích tâm linh thờ quan quân nhà Mạc trong cuộc dời đô sau khi Thăng Long thất thủ (1592). Chúng tôi đã từng nhiều lần về đây thắp hương tưởng niệm các bậc tiền nhân đã hy sinh vì Mạc tộc ( Hoàng GiaCương)..
Về làng ăn nửa rá khoai
Ăn bay đĩa lạc, vơi nồi cá kho
Chè xanh một ấm đứ đừ
Nhâm nhi hương vị ngàn xưa đọng về!
Dặm đời phiêu bạt lê thê
Cái gốc “quê Bọ” chẳng hề nhạt phai
Ăn cơm mòn bát xứ người
Vẫn chưa quên được vị khoai quê mình!
Khoai là “sâm” của Quảng Bình
Nhờ khoai bám trụ mà thành “địa linh”
Khoai làm đất đẹp người xinh
Vì khoai nên nghĩa nên tình đằm sâu.
(Thơm bùi một miếng mời nhau
Còn hơn “bát bảo” “trân châu” đãi đằng!)
Đâu còn đói kém thiếu ăn?
Đây là “đặc sản” khoai lang bạn mời.
Tôi đi khắp chốn khắp nơi
Không chi thơm ngọt ngon bùi bằng khoai!
QB 5/2009
NGỌC TRAI BÉ ÔNG TÔI
Nhà thơ Hoàng Gia Cương sinh ngày 25 tháng 10 năm 1942 ở làng Minh Lệ, xã Quảng Minh, thị xã Ba Đồn, tỉnh Quảng Bình, nghề kỹ sư vô tuyến điện, nghiệp hội viên hội nhà văn Hà Nội. Trong các tác phẩm nêu trên, tôi thích nhất là tập thơ “Theo dòng thời gian, Nhà Xuất Bản Văn Học Hà Nội năm 2013, 447 trang, ” “Thời gian chảy tới vô cùng Lắng bao tinh chất… Bỏ công kiếm tìm ! (Hoàng Gia Cương)“. Hoàng Gia Cương theo dòng thời gian thao thức một tầm nhìn nhân văn sâu sắc, tài hoa. Đọc sách, tôi lật xem trang đầu và trang cuối. Phụ lục 1 của sách THEO DÒNG THỜI GIAN có các câu: “Văn muốn đạt tài hoa, tâm cần sáng, tứ cần sâu, năng gạn đục khơi trong văn mới tuyệt. Nghệ mong nên tuyệt tác, trí phải minh, công phải trọng, biết tầm sư học đạo nghệ càng tinh“; “CHÍ khí một hiền MINH, vạch lối, dẫn đường, gây nghiệp lớn hồi sinh đất nước. NGUYÊN vẹn từng trụ GIÁP, xua Tây, trừ Mỹ, lập công đầu bảo vệ non sông”. “Mạc tộc dựng xây thiên kỷ tạc. Hoàng chi bồi đắp vạn đời ghi“. Trang Phụ lục cuối sách có hai vế mời đối của hai trong các câu đối, ẩn ý sâu xa thú vị: Phải từ đâu để định hướng đầu tư cho năng lượng ngày lương thêm nặng?Tô Hoài sao chẳng vẽ?
Nhà nho Hoàng Bá Chuân, bố của bảy người con trai ở câu chuyện “Cuộc đoàn tụ bất ngờ của 5 anh em ngày giải phóng thủ đô“, là em ruột của bà ngoại tôi. Chúng tôi tự hào về dòng họ Hoàng có nhiều người con trung hiếu với đất nước, quê hương và gia đình. Ông tôi thường dạy con cháu về nếp nhà phúc hậu văn hóa. Ông tôi viết: Nhà tôi sinh được bảy người con/ Quyết chí chung tình với nước non/ Kháng chiến năm con đi khắp nước/ Lớn lên trai bé sẽ xung phong… Cậu Cương ngọc trai bé của ông tôi, sau này cũng vào bộ đội Trung đoàn Thủ Đô (E102) Sư đoàn Quân Tiên phong (F308). Cậu Cương dần dà theo trọn đời nghề làm kỹ thuật vô tuyến điện nhưng cái nghiệp lắng đọng lại là thơ, theo dòng thời gian thao thức một tầm nhìn nhân văn sâu sắc, tài hoa, với một gia đình hạnh phúc, nếp nhà phúc hậu và văn chương đích thực.
Sáu anh em ruột gia đình đến thăm đại tướng Võ Nguyên Giáp (1996). Từ trái sang: Hoàng Gia Cương, Hoàng Thúc Cảnh, bà Đặng Bích Hà, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, cô Võ Hồng Anh, Hoàng Thúc Cẩn, Hoàng Thúc Tấn, Hoàng Thúc Tuệ, Hoàng Quý Thân.
Cụ Chuân là một nhà Nho thích nếp nhà thanh đạm phúc hậu, cẩn trọng cần kiệm, nền nếp gia giáo. Các con của Cụ sau năm 1954 đều giữ trọng trách, một gia đình trí thức cách mạng được các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước rất quý trọng và quan tâm. Người anh lớn ông Hoàng Thúc Cảnh thời kỳ Việt Bắc công tác tại Văn phòng Phủ Chủ tịch, sau này làm cố vấn Văn phòng Chính phủ suốt thời gian dài mãi cho đến khi cụ Phạm Văn Đồng nghỉ hưu thì mới nghỉ, hai anh em ông Hoàng Thúc Cẩn và Hoàng Thúc Tuệ đều là đại tá quân đội, ông Hoàng Thúc Tấn là Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ, ông Hoàng Quý Thân là tiến sỹ công tác ở Uỷ ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước, ông Hoàng Gia Cương là kỷ sư vô tuyến điện và là nhà thơ. Chuyện triều đình tôi vắn tắt đôi điều. Tôi chỉ biết là tất cả các cậu đều rất quý cha mẹ tôi, những nông dân lương thiện, sống có tình có nghĩa với làng xóm và rất thương anh chị em tôi, những đứa con mồ côi tuy cha mẹ tôi chết sớm nhưng anh em biết đùm bọc và rất thương yêu nhau.
Anh Bu Lu Khin Nguyễn Quốc Toàn là người anh và bạn thiết của tôi rất đồng cảm về nếp nhà. Anh Toàn bên nội và bên ngoại đều thuộc dòng dõi gia thế. Gia đình anh chị Toàn Hà trưng trang trọng tự hào trong phòng thờ Tổ tiên ba chữ yêu thích “THANH THẬN CẦN Minh Mệnh châu phê”do vua Minh Mệnh ban cho vị quan trung lương dòng họ Nguyễn Quốc là quan “thanh liêm, cẩn thận, cần cù”. Lời ban khen của một ông vua phong kiến thời nay chẳng mấy ai quan tâm, nhưng gia đình anh Bu thì thực lòng kính cẩn trân trọng và tự hào về nếp nhà của dòng họ. Nơi yên nghỉ của họ nội Nguyễn Quốc bên dòng sông Gianh lưu giữ đôi câu đối cổ kính “Chu biên quốc trọng thân hầu mệnh / Đường bảng gia truyền liễu tử danh” (Dòng họ có những nhân vật giữ trọng trách với quốc gia như Thân Bất Hại thời nhà Chu/ Đời này sang đời khác có những thi nhân văn gia nỗi danh như Liễu Tông Nguyên thời nhà Đường).Tôi đọc bài anh Bu mà tâm đắc lời thơ của cậu Cương: “Cúi mình trước đấng Tổ Tông? Râm ran như được tiếp dòng máu thiêng“.
Nhà cụ Hoàng Bá Chuân ông tôi cũng tự hào và lặng lẽ thời gian giữ lại đôi dòng vắn tắt “Hậu duệ của Hoàng đế Mạc Đăng Dung” tại khu mộ chí họ Hoàng ở động Ma Ca dưới chân hòn Đá Đứng ở làng Minh Lệ, nay là xã Quảng Minh, thị xã Chợ Đồn, tỉnh Quảng Bình. Tương truyền nguồn gốc dòng họ Hoàng làng Minh Lệ là hậu duệ Hiển tổ Mạc Đỉnh Chi (1280-1346) ở hương Lũng Động và Thái tổ Mạc Đăng Dung (1483 – 1541) ở hương Cổ Trai, ly tán vào đất Quảng Bình cải thành họ Hoàng để tránh sự báo thù của vua Lê chúa Trịnh, tuy làm nông nghiệp nhưng các thế hệ con cháu vẫn giữ được truyền thống hiếu học và văn chương của dòng tộc. Vì thế, nhà nho Hoàng Bá Chuân đã được theo đuổi Cửa Khổng sân Trình từ nhỏ, tinh thông Tứ thư Ngũ kinh, điêu luyện các thể thơ phú, trở thành một nhà Nho được kính nể. Đó là niềm tự hào của dòng họ Hoàng – Trần trong bốn họ chính Hoàng – Trần – Trương – Nguyễn của làng Minh Lệ chúng tôi và đây là một câu chuyện dài…
Bài thơ Phố Cụt hay ám ảnh. Các cậu tôi một thuở chỉ khen thầm trong nhà, nay đã duyệt in sách rồi, tôi xin chép lại đây để tặng bạn đọc:
Phố cụt
Đoạn này phố cụt không tên Một bên nhà nguyện Một bên nhà chùa…
Tiếng chuông gióng tự tinh mơ Đều đều tiếng mõ cả trưa lẫn chiều
Mặt đường mưa nắng xiêu điêu Kẻ cầu Đức Phật Người kêu Chúa Trời
Vô thần tôi tự trách tôi Đọc”Tư bản luận” một đời chưa thông
Đường cong mãi vẫn hoàn cong Long đong đâu chỉ long đong kiếp mình ?
Rì rầm phía ấy cầu kinh Phía kia khấn Phật Lặng thinh phía này!
Gió nồm rồi gió heo may Lạc vào phố cụt Bụi bay mù trời !
Nguyên tiêu Kỹ Mão.
[7] Hoàng Gia Cương THEO DÒNG THỜI GIAN
Thơ tuyển chọn 2013. NXB Văn Học Hà Nội, tr. 177
Bài thơ “Phố cụt” trước đây tôi không thích vì tôi cho rằng thơ dù hay đến đâu nhưng đi vào ngõ cụt bi quan yếm thế là hỏng, là không tốt, không lợi cho nhân văn và sức khỏe. Sau này khi tôi đọc kỹ các tuyệt phẩm “Phố nối” “Phố cong Tam Đảo” “Đi trong phố nhỏ” (mời bạn đọc tại Hoàng Gia Cương theo dòng thời giancuối bài này) thì chợt giật mình thấy mình lầm, “Phố cụt” không cụt nữa mà đã được hóa giải. Thơ Hoàng Gia Cương trong cõi vô biên lặng lẽ với thời gian, trãi nghiệm với thời gian. Chùm thơ Phố theo tôi là một minh chứng rất rõ của sự trãi nghiệm nhân văn, sâu sắc, tinh tế và tài hoa. Đó là một chùm thơ mẫu mực.
Phố nối
Ở đây nối đất với trời Nối mưa với nắng Nối vui với buồn Tơ trời ai nối mà vương? Buộc bao số phận vào đường ngược xuôi
Hưng Yên 2/1999
[8] Hoàng Gia Cương THEO DÒNG THỜI GIAN
Thơ tuyển chọn 2013. NXB Văn Học Hà Nội, tr.183
Tam Đảo
Chợt nắng lóe Chợt mưa sa Chợt hun hút gió Chợt sà sà mây …
Phố cong như nhánh mai gầy Rêu phong tường đá Cỏ vây quanh tường
Chênh vênh lối bám men sườn Thông xanh ngút ngát Ngập ngừng bước chân.
Đường như rắn cuộn xa gần Sắc mầu chấm phá Bút thần nét đưa.
Thung sâu trãi rộng ô cờ Ngỡ mình bên cữa phi cơ nghiêng chào!
Chợt là thực Chợt chiêm bao Chợt xem tranh lụa Chợt vào Thiên Thai
5/2002
[9] Hoàng Gia Cương THEO DÒNG THỜI GIAN
Thơ tuyển chọn 2013. NXB Văn Học Hà Nội, tr.226-227.
Nhạc sĩ Ngọc Duy phổ thành ca khúc “Chiều Tam Đảo”.
Đi trong phố nhỏ
Đi trong phố nhỏ chiều xuân Cây bàng khô khẳng nhú mầm non tơ Ngỡ ngàng chú sẽ hong mưa Nghiêng tai nghe tiếng gió lùa song hiên
Phố cong chao mõi cánh chim Rêu phong theo cuộc nổi chìm tháng năm Âm âm từ cõi xa xăm Bao nhiêu cát bụi thăng trầm nổi nênh…
Đi trong phố nhỏ yên bình Lòng ta thư thái, chân mình thảnh thơi Nương thân bên suối bên đồi Hàng cây mãi miết đâm chồi trỗ hoa
Đỏ trời khóm gạo tháng ba Vàng ươm màu cúc quỳ pha ráng chiều Ngỡ ngàng trước bức tranh thêu Ai hay phố nhỏ đìu hiu … nặng tình
4/2004
[10] Hoàng Gia Cương THEO DÒNG THỜI GIAN
Thơ tuyển chọn 2013. NXB Văn Học Hà Nội, tr. 266
Tôi đọc “Trăng khuya” và “Chớm thu” rung động dào dạt một tình yêu thiên nhiên và yêu con người. Bài thơ “Cha tôi là một nhà Nho” và “Mạ ơi !” đọc thật xúc động, tôi thẹn lòng là chưa viết được bài thơ về mẹ cha hay được như thế. Hai bài thơ“Tìm về nguồn cội” và “Thái tổ Mạc Đăng Dung” có tầm vóc sử thi 500 năm, nhân văn sâu sắc, ân tình và tài hoa.
Trăng khuya
Chợt thấy trăng khuya ngắm trộm mình Phải chăng trăng cũng mến tân binh ? Voan mây lấp ló khuôn vành vạnh Như thể mắt ai đắm đuối nhìn.
Cát Bi 6/1/1961
[1] Hoàng Gia Cương THEO DÒNG THỜI GIAN Thơ tuyển chọn 2013. NXB Văn Học Hà Nội, tr. 11.
Chớm thu
Ban mai rười rượi – thu vừa chớm Gió lạc vườn ai bỡn trái hồng Khóm trúc dáng chừng đang độ lớn Ngỡ ngàng lối ngõ đẫm hơi sương!
Mây bông lặng vén rèm che mỏng Để nắng non nghiêng liếc trộm vườn Hàng cúc xốn xang gờn gợn sóng … Hình như trời đất biếc xanh hơn!
Qua bao giông bão bao mưa lũ Đất lại hồi sinh lại mượt mà Chấp chới cánh diều loang loáng đỏ Cố giữ tầm cao, níu khoảng xa!
1998
[6] Hoàng Gia Cương THEO DÒNG THỜI GIAN
Thơ tuyển chọn 2013. NXB Văn Học Hà Nội, tr.101
Mùi hoa bưởi
Giữa đêm đứng gác bên sườn núi
Nghe suối râm ran – ngỡ tiếng người
Thoảng trong gió buốt mùi hoa bưởi
Ai gửi? Sao mình thơ thẩn vui?!
Lương Sơn (HB) xuân 1963
Cha tôi là một nhà Nho
Cha tôi là một nhà Nho Người luôn tự nhận môn đồ Khổng Khâu Tứ Thư người đọc thuộc làu Ngũ Kinh người vẫn ghi sâu từng lời…
Cha tôi sinh chẳng gặp thời Chữ Nho như lá rụng rơi cuối mùa Nỗi niềm đầy ắp trang thơ Công danh sớm nắng chiều mưa nát nhòe
Cha tôi dạy trẻ nhà quê Áo nâu guốc mộc chõng tre, đèn cầy… Cơm ăn đã có vợ cày Trò thương điếu đóm một vài hào rau !
Phải thời “Tây học” tràn vào Chữ Nho bị quảng sang ao nước tù Cha tôi bỏ nghiệp thầy đồ Theo trào lưu mới mầy mò … chữ Tây !
Chữ Tây vừa ngọng vừa dài Đọc câu văn đến đứt hơi, nhạt phèo! Thôi thì nghèo giữ phận nghèo Cha tôi trồng sắn, nuôi heo qua ngày!
Cái thời đuổi Nhật đánh Tây Cha thành “tuyên huấn” miệt mài làm thơ Cha tôi lại dạy i, tờ Làm theo lời Bác xóa mù giúp dân.
Cha tôi giờ đã thoát trần Người đi tìm các vĩ nhân tôn thờ Cha tôi là một nhà thơ Cha tôi là một nhà nho cuối mùa!
6/1979
[3] Hoàng Gia Cương THEO DÒNG THỜI GIAN
Thơ tuyển chọn 2013. NXB Văn Học Hà Nội, tr. 40-41
Mạ ơi!
Tròn sáu mươi năm ngày Mạ đi xa
Mạ ơi sáu chục năm rồiMạ theo cánh hạc về nơi vĩnh hằng Bảy trăm hai chục mùa trăng Trăng rằm buốt lạnh đâu bằng lòng con?!
Cho dù con đã lớn khôn Vẫn là úi ít, vẫn còn ấu thơ Vẫn trông ngóng mạ từng giờ Vẫn mong tấm bánh, vẫn chờ tiếng ru…
Nhớ thời giặc giã tràn qua Gia đình ly tán, cửa nhà cháy thiêu Mạ mong khắc khoải sớm chiều Mong ngày đoàn tụ… Bỗng diều hụt dây!
Mạ mong dứt tháng đoạn ngày Mà sao định mệnh vẫn xoay phủ phàng? Bốn con biền biệt tiền phương Mỗi người mỗi phía chiến trường đạn bom!
Mạ đi trong nỗi héo hon Cái đêm rằm ấy mãi còn ngấn mưa Mạ đi trong nỗi ngác ngơ Cha con nấc nghẹn tiễn đưa quặn lòng!
Mạ về với cõi hư không Mình cha sớm tối lưng còng trở xoay Đèn khuya leo lét tháng ngày Nhà Nho lóng ngóng cuốc cày nuôi con!
Các con giờ đã lớn khôn Công cha nghĩa mẹ vuông tròn tạc ghi Dẫu cho gia thất đề huề Thiếu cha vắng mẹ còn gì tủi hơn?
Bây giờ cậu mạ không còn Hai anh con cũng… vấn vương theo cùng Sân Lai quần tụ thêm đông Chỉ buồn một nỗi thiếu ông vắng bà!
Mong gần rồi lại ngóng xa Mạ ơi ngấn lệ vẫn nhòa mắt con Sau mươi năm dạ mỏi mòn Nhớ thương, thương nhớ Mãi còn nhớ thương!
Vu Lan năm Tân Mão 2011
[2] Hoàng Gia Cương THEO DÒNG THỜI GIAN
Thơ tuyển chọn 2013. NXB Văn Học Hà Nội, tr. 408-409
Tìm về nguồn cội
Tìm về Lũng Động, Cổ Trai Thắp hương bái lạy bao đời Tổ Tông Biển gom nước vạn dòng sông “Thập tam thế hậu…” nhi đồng là đây.
Qua bao giông bão, tháng ngày Thay tên đổi họ chẳng thay đổi lòng Vẫn là cha, vẫn là ông Vẫn dòng máu ấy cuộn trong tim này!
Hoàng, Phan, Lều, Thạch … về đây Trăm phương như nước như mây tụ nguồn Gốc còn trên đất Hải Dương Lá cành hoa trái đã vươn khắp miền.
Ta về tìm lại Tổ tiên Tìm về nguồn cội khí thiêng sinh thành Hương dâng là nghĩa là tình Thoảng thơm như thể tinh anh giống dòng.
Cúi mình trước đấng Tổ Tông Râm ran như được tiếp dòng máu thiêng !
1998
[4] Hoàng Gia Cương THEO DÒNG THỜI GIAN
Thơ tuyển chọn 2013. NXB Văn Học Hà Nội, tr.170-171
Thái tổ Mạc Đăng Dung
Cảm nhận của người con Mạc tộc
Xuất thân ngư phủ vạn chài Ra khơi vào lộng nổi trôi bọt bèo! Vươn lên từ phận đói nghèo Đã thành tướng giỏi đã gieo Hoàng triều.
Cổ Trai xóm nhỏ đìu hiu Ai hay nhân kiệt ẩn lều rạ tre Từ tay kéo lưới đưa bè Vung đao múa kiếm ngựa xe tung hoành.
Oai hùng khiển tướng điều binh Thù trong khiếp đảm, thất kinh giặc ngoài Xứ Đông cho chí xứ Đoài Non sông một giải đẹp tươi mọi miền.
Bao nhiêu tiến sĩ, trạng nguyên Nhờ thời Minh Đức mà nên hiền tài Mượt đồng ngô lúa sắn khoai Nhà nhà hạnh phúc, người người ấm no.
Bao công xây dựng cơ đồ Vinh danh Mạc tộc, vững bờ Đại Nam Sá chi miệng thế thăng trầm Năm trăm năm … một chữ NHÂN rạng ngời !
6/2011 (Hoàng Kim chép lại với lối phân câu 6/8
thay cho thể thơ 6/8 phân câu lối tự do nhiều tầng)
[5] Hoàng Gia Cương THEO DÒNG THỜI GIAN
Thơ tuyển 2013. NXB Văn Học Hà Nội, tr. 406-407
Ghi chú: Chúng tôi tự hào về dòng họ Hoàng chi Mạc tộc làng Minh Lệ có nhiều người con trung hiếu với đất nước, quê hương và gia đình. Cụ Hoàng Bá Chuân, bố của bảy người con trai ở câu chuyện “Cuộc đoàn tụ bất ngờ của 5 anh em ngày giải phóng thủ đô“ là em ruột của bà ngoại tôi.Ông tôi thường dạy con cháu về nếp nhà phúc hậu văn hóa. Ông bà cậu ruột mẹ tôi đã trao lại di thư: “Nhà tôi sinh được bảy người con/ Quyết chí chung tình với nước non/ Kháng chiến năm con đi khắp nước/ Lớn lên trai bé sẽ xung phong…” Cậu Cương ngọc trai bé của ông tôi, sau này cũng vào bộ đội Trung đoàn Thủ Đô (E102) Sư đoàn Quân Tiên phong (F308). Cậu Cương dần dà theo trọn đời nghề làm kỹ thuật vô tuyến điện nhưng cái nghiệp lắng đọng lại là thơ, theo dòng thời gian thao thức một tầm nhìn nhân văn sâu sắc, tài hoa, với một gia đình hạnh phúc, nếp nhà phúc hậu và văn chương đích thực. Hoàng chi Mạc tộc Làng Minh Lệ có một thuở đã lạc vào tai ách “Phố cụt”. Thật may mắn trước “Phố cụt” đã có “Phố khuya” để kịp bình tâm suy ngẫm, và sau “Phố cụt” “cùng tắc biến” là “Phố nối” hóa giải “Phố cụt”, tiếp “Phố cong Tam Đảo” và xuống đến đời thường “Đi trên phố nhỏ” bình yên của một vòng tròn nhân quả. Tôi đã tâm đắc để viết nên bài thơ “Thời gian lắng đọng người hiền” trong buổi sáng cuối thu cà phê sáng với CNM365
là tác giả của chùm thơ (chữ tin đậm mà Hoàng Kim trích dẫn trên đây) > Cụ có các tác phẩm chính: Thơ 1) Lặng lẽ thời gian, Nxb Thanh Niên 1997, 2) Lắng đọng Nxb Hội nhà văn, 2001, 3) Trong cõi vô biên Nxb Hội nhà văn 2005, 4) Trãi nghiệm với thời gian Nxb Hội nhà văn 2010, 5) Theo dòng thời gian Nxb Văn Học 2013; Truyện ký 6) Cổ tích cho mai sau Nxb QĐND 2006. Tác phẩm thơ văn của Hoàng Gia Cương có mặt trên 30 tuyển tập, tập thơ văn in chung. Anh Bu Lu Khin Nguyễn Quốc Toàn viết: “Trong số thơ của Hoàng Gia Cương bu tui thích nhất bài “Phố Cụt”. Cái cụt của con đường là biểu trưng cho cái bê tắc, cái cụt lủn của khát vọng của con người. Người ta bám vào ba cái phao cứu sinh là Phật, Chúa, và Tư bản luận của Mác nhưng tất cả cũng chỉ là cơn gió bay qua “Gió nồm rồi gió heo may. Lạc vào phố cụt Bụi bay mù trời!”. Gia đình Hoàng gia Mạc tộc “thập tam thế hậu” nhờ phúc ấm tổ tông và nếp nhà nét đẹp văn hóa mà có được sự hanh thông hạnh phúc tiếp nối.
Hoàng Gia Ngọc Phương Nam
Dòng họ Hoàng và dòng họ Trần làng Minh Lệ chúng tôi có người ông ngoại sinh được ba người con. Mẹ là gái đầu đi ở cho nhà địa chủ từ nhỏ. Cậu ‘qua’ mất sớm. Dì là gái út thoát li làm cách mạng từ rất sớm. Mẹ sinh ba trai, hai gái. Dì sinh bốn trai. Mẹ tôi mất sớm đúng ngày Tết Nguyên Đán mồng Ba năm 1964. Cha nói trong nước mắt: ‘Các con gọi chồng dì bằng cậu, bởi hiếm có ai chăm sóc chị dâu tận tụy như dượng của các con’. Cha bị bom Mỹ giết hại ngày 29 tháng 8 âm lịch năm 1968. Chúng con lớn lên dưới lồng cánh cưu mang của Dì Cậu và đại gia đình Trần Hoàng Nguyễn..Trong vận mệnh của Tổ Quốc và Gia Đình, cha và cậu đã từng cầm súng, bảy con trai của mẹ và dì có năm đứa đã từng cầm súng
Gia đình tôi Hoàng gia phương Nam có bốn tộc Hoàng, Trần, Lê, Nguyễn. Bố tôi với bác tôi và người em gái bố đều rất nghèo. Bác tôi là thầy đồ nho dạy học chữ Tàu thuở tiếng Tây lên ngôi nên nhà sa sút. Cô tôi đi ở và lấy chồng Phong Nha Kẻ Bàng. Bố tôi lấy mẹ tôi cũng là người đi ở cho địa chủ và nghề của bố là chuyên chèo đò khuya chợ Mới chợ Troóc từ ngã ba nguồn Son tới Phong Nha và kịp về làm nông để nhận công điểm hợp tác xã. Bố chết bom năm 1968. Trần là họ mẹ, gốc gác họ Trần có từ thời vua Trần Dụ Tông chết trận khi đánh Chiêm Thành thì vợ vua không về Bắc nữa mà ở lại thành tộc Trần. Năm gia tộc ở Làng Minh Lệ là Trần, Hoàng, Trương, Nguyễn và Hoàng chi Mạc tộc. Cũng có thêm chi tiết của Mạc Cảnh Huống và Mạc Thị Gái nhưng sự kiểm chứng nguồn gốc Trần, Hoàng còn cần thêm thời gian. Lê là họ chị dâu cả của gia đình tôi là dân xứ biển ngoại hải Quảng Thuận gần Ba Đồn. Nguyễn là họ vợ tôi và họ của chồng chị gái Hoàng Thị Huyền. “Chúng tôi sinh thành ở Quảng Bình… Nhà mình ở ngã ba sông. Rào Nan chợ Mới, nguồn Son, Quảng Bình. Nay thì đoàn tụ đất phương Nam. Gia đình chúng tôi đi như một dòng sông, gìn giữ nếp nhà chân chính nhân hậu Hoàng Trung Trực đời lính
Anh Hoàng Trung Trực đã viết bài thơ “Viếng mộ cha mẹ” thật xúc động
Dưới lớp đất này là mẹ là cha
Là khởi phát đời con từ bé bỏng
Là lời mẹ ru dịu dàng cánh võng
Là gươm đao cha một thuở đau đời
Hành trang cho con đi bốn phương trời
Là nghĩa khí của cha, là nhân từ của mẹ
Vẫn bầu sữa tinh thần không ngừng không nghỉ
Để hành trang cho con đi tiếp cuộc đời
Cuộc đời con bươn chãi bốn phương trời
Nay về lại nơi cội nguồn sinh trưởng
Dâng nén hương mà lòng hồi tưởng
Thuở thiếu thời dưới lồng cánh mẹ cha
“Ước hẹn anh em một lời nguyền
Thù nhà đâu sá kể truân chiên
Bao giờ đền được ơn trung hiếu
Suối vàng nhắm mắt mới nằm yên”.
ƠN NGƯỜI
Ân quốc ân gia ân phụ mẫu
Tạ thiên tạ địa tạ tiền nhân.
Tổ tiên công đức muôn đời thịnh
Con cháu thảo hiền vạn kiếp vinh.
Minh Lệ Hưng Long hai bầu sữa
Hoàng Gia đức độ một con đường.
Hồn chính khí bốc lên ánh sáng
Sáng choang ngọc đá giữa hoang tàn
Tâm nhân văn lắng đọng tinh hoa
Hoa Đất Hoa Người trong cõi Bụt.
‘Mừng Cậu tròn trăm tuổi’ là thơ Hoàng Kim kính đại thọ Cậu Hoàng Thúc Cảnh. Một câu chuyện ân tình của Cậu nhân việc mừng thọ Cậu một trăm tuổi tôi lần đầu xin kể lại: Năm 1977, Cậu Hoàng Thúc Cảnh đã lặn lội đường xa lên gặp thầy Hoàng Sỹ Oánh là Hiệu trưởng đầu tiên của Trường Đại học Nông nghiệp II Hà Bắc ở Đồn Lương, Việt Yên, Hà Bắc và nói: Xin quý Thầy cho cháu Kim được chuyển trường vào Đại học Nông nghiệp 4 ở thành phố Hồ Chí Minh của nước mình vừa thống nhất. Kim mồ côi cha mẹ từ nhỏ, cha bị bom Mỹ giết hại. Anh Trực trận mạc từ rất sớm. Kim đã học trường thầy và đã xung phong nhập ngũ năm 1971. Cháu học giỏi lại trưởng thành dày dạn trong chiến đấu, nay về trường lại được quý thầy quy hoạch đào tạo là thật mừng. Nhưng mong quý Thầy chiếu cố hoàn cảnh cháu thật thương tâm, trước cơm ngày một bữa suốt năm năm, nay cả nhà vẫn lưu tán một người một nơi. Gia đình ao ước lớn nhất là tụ họp sau chiến tranh. Anh biết rõ tánh tôi ở gần gủi Bác và cụ Đồng, trọng tánh của các cụ mà chưa hề phiền lụy ai, nhưng riêng việc này nhờ anh chiếu cố. Thầy Đỗ Ánh là Hiệu trưởng kế tiếp của Trường, và thầy Võ Hùng đều cảm động. Đức nhân hậu, lòng yêu thương và tầm nhìn sáng suốt, thật biết ơn cậu, một lời gia đình đoàn tụ. MỪNG CẬU TRÒN TRĂM TUỔI“ Nhân hậu thói nhà in một nếp /Chân chính bao nhiêu phúc bấy nhiêu” Thông tin tại Hoàng Gia Cương thơ hiền
SẮN PHÚ YÊN GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
TS. Nguyễn Thị Trúc Mai, TS. Hoàng Kim, TS. Hoàng Long
Báo cáo Phú Yên 28 12 2021 Hội nghị “Giới thiệu về các công nghệ trong sản xuất Nông Lâm Thủy sản”, tài liệu hội nghị và bài tham luận tại Phú Yên 31 12 2021 “Hội nghị Tổng kết hoạt động khoa học và công nghệ giai đoạn 2016- 2020, định hướng phát triển ứng dụng KHCN & ĐMST giai đoạn 2021-2025” UBND Tỉnh Phú Yên,
#quantv#dangvanquan#CLTVN Giống sắn KM440 Tây Ninh (Cassava variety KM440 Tay Ninh), https://youtu.be/9mZHm08MskE, nông dân thường gọi là “mì tai trắng”, để phân biệt với Giống sắn chủ lực KM419 (Cassava popular variety KM419), nông dân thường gọi là “mì tai đỏ”, và Giống sắn KM94 (Cassava variety KM94), nông dân thường gọi là “mì KUC đọt tím” là giống sắn MKUC28-77-3 = KU50= KM94 được khảo nghiệm sản xuất rộng rải tại Tây Ninh năm 1994 và Bộ Nông nghiệp PTNT Việt Nam công nhận giống tiến bộ kỹ thuật đặc cách năm 1995 xem thêm https://kimyoutube.blogspot.com/2021/12/giong-san-km440-tay-ninh.html
Hoàng Kim tham dự hội nghị Phú Yên 31 12 2021 theo giấy mời của Chủ tịch UBND Tỉnh Phú Yên. Chúng tôi lưu trích đoạn lúa sắn thuộc lĩnh vực kỹ thuật công nghệ trong phim của Đài Phát thanh và Truyền hình Phú Yên với Sở Khoa học và Công nghệ phối hợp thực hiện tháng 12 năm 2021 . Phim chiếu tại Hội nghị Tổng kết Hoạt động Khoa học Công nghệ giai đoạn 2016-2020, Định hướng Phát triển Ứng dụng KHCN & ĐMST giai đoạn 2021-2025.
Trong khi đang họp, tôi nhớ lại ký ức không quên tin nhắn “Dân vùng sắn chạy lũ” ngày 14 11 năm 2021 https://youtu.be/6nbaafj1clM; với giống sắn KM397
SẮN VIỆT BẢO TỒN PHÁT TRIỂN Cassava in Vietnam conservation and sustainable development Nguyen Thi Truc Mai, Hoang Kim, Hoang Long, et al., 2020 an references
The authors sincerely acknowledge the contributions of many colleagues who participated and contributed to the Vietnam National Cassava Program (VNCP), as shown in the references below.
Buresova, M., Hoang Kim and Tran Ngoc Quyen. 1987. The economics of winged bean on manioc as natural support under the conditions of South Vietnam. In: Agricultura Tropica et Subtropica, Universitas Agriculturae Praga, No 20: 101-114. In: CIAT 1990. National Biographies of Cassava in East and Southeast Asia, p. 416.
Hoang Kim, Nguyen Thi Truc Mai, Nguyen Bach Mai and Reinhardt Howeler (2015),Cassava Conservation and Sustainable Development in Vietnam. In: R.H. Howeler (Ed.). A New Future for Cassava in Asia: Its Use as Food, Feed and Fuel to Benefit the Poor. Proc. 9th Regional Workshop, held in Quangxi, China, 2014, pp. 35-56
Hoang Kim, Tran Ngoc Ngoan, Nguyen Thi Truc Mai, Vo Van Quang, Nguyen Bach Mai, Nguyen Thi Le Dung, Nguyen Phuong, Hoang Long, Nguyen Minh Cuong, Dao Trong Tuan, Tran Cong Khanh, Nguyen Minh Hieu, Nguyen Van Bo, Nguyen Thi Cach, Nguyen Trong Hien, Le Huy Ham, H. Ceballos and M. Ishitani. (2014, 2016). New variety KM419. Recogition Report of KM419 variety, the Ministry of Agriculture and Rural Development, National Council of Plant Varieties, Hanoi. 89p. MARD recognition for trial production in Decision No. 85/QD- 85/ QĐ-BNN-TT Jan 13, 2016.
Hoang Kim, Nguyen Thi Truc Mai, Nguyen Bach Mai, Hoang Long, Tran Ngoc Ngoan, Le Huy Ham, R. Howeler and M. Ishitani. 2014a. Cassava in Vietnam: Save and Grow. Recent progress of sustainable cultivation techniques for cassava in Vietnam. In: Intern. Symp. “CollaborationBetween Japan and Vietnam for the Sustainable Future – Plant Science, Agriculture and Biorefinery”, held in Hanoi, Vietnam. Dec 8, 2014.
Hoang Kim, Nguyen Van Bo, Hoang Long, Nguyen Trong Hien, H. Ceballos and R. Howeler. 2010.Current situation of cassava in Vietnam. In: R.H. Howeler (Ed.). A New Future for Cassava in Asia: Its Use as Food, Feed and Fuel to Benefit the Poor. Proc. 8th Regional Workshop, held in Vientiane, Lao PDR. Oct 20-24, 2008. pp. 100-112.
Hoang Kim, Tran Cong Khanh, Vo Van Tuan, Nguyen Huu Hy, Pham Van Bien, Dao Huy Chien, R. Howeler and H. Ceballos (2007), “Results of breeding and developing variety KM98-5. Recognition Document of variety KM98-5”, Acceptance Conference of Ministry of Agriculture and Rural Development. 54 pages. The decision of the Ministry of Agriculture and Rural Development Certificate No. 3468/QD-BNN–TT, Nov 5, 2007. Results of breeding and developing variety KM98-5, Report for official recognition by the Scientific Council of Agriculture and Rural Development, Ho Chi Minh City, Dec 2009.The decision of the Ministry of Agriculture and Rural Development Certificate No. 358/QD-BNN–TT, Sep 20, 2010
Hoang Kim, Pham Van Bien, R. Howeler, H. Ceballos, Joel J. Wang, Tran Ngoc Ngoan, Tran Cong Khanh, Nguyen Huu Hy, Nguyen Thi Thuy, Tran Ngoc Quyen, Vo Van Tuan, Trinh Phuong Loan, Nguyen Trong Hien, Nguyen Thi Sam, Tran Thi Dung, Tran Van Minh, Dao Huy Chien,Nguyen Thi Cach, Nguyen Thi Bong, Nguyen Viet Hung, Le Van Luan, Ngo Vi Nghia, Tran Quang Phuoc and Nguyen Xuan Thuong. 2006b. Cassava Development Project Summary (2001-2005). In: Institute of Agricultural Sciences for Southern Vietnam, Proc. 90th Establishment Anniversary (1925-2015).
Hoang Kim, Tran Ngoc Quyen, Nguyen Thi Thuy, Vo Van Tuan, Tran Cong Khanh, Nguyen Thi Sam, Truong Van Ho, Nguyen Thanh Binh, Nguyen Dang Mai, Luong Thi Quyet, Hoang Thi Hien, K. Kawano, R. Howeler, P. Vanderzaag, E. Chujoy, Il Gin Mok, Zhang Dapheng and YehFang Ten. 2006a. Final Report, Breeding of Cassava and Sweet Potatoes Suitable for Agroecological Regions of South Vietnam (1981-2006). Institute of Agricultural Sciences for Southern Vietnam, Proc. 90th Establishment Anniversary (1925-2015).
Hoang Kim, Pham Van Bien, Reinhardt Howeler, Joel J. Wang, Tran Ngoc Ngoan, Kazuo Kawano, Hernan Ceballos (2005), “The history and recent developments of the cassava sector in Vietnam”, Innovative technologies for commercialization: Concise papers of The Second International Symposium on Sweetpotato and Cassava, 14-17 June 2005, Corus Hotel, Kuala Lumpur, Malaysia/ jointly organized by Malaysian Agricultural Research and Development Institute, International Society for Horticultural Science with cooperation of Food Biopolymer Research Group, Universiti Sains Malaysia, pp. 26-27.
Hoang Kim, Pham Van Bien and R. Howeler 2003. Status of cassava in Vietnam: Implications for future research and development. In: A review of cassava in Asia with country case studies on Thailand and Viet Nam. FAO-IFAD-CIAT-CIRAD-IITA-NRI. Proc. Validation Forum on the Global Cassava Development Strategy, held in FAO, Rome, Italy. April 26-28, 2000. Vol/3.Rome, Italy. pp 103-184 http://www.globalcassavastrategy.net
Hoang Kim. 2003. Technology of Cassava Breeding. In: N.T. Dan and L.H. Quoc. (Eds.). Varietal Technology of Plant, Animal and Forestry. Volume 2. pp. 95-108.
Hoang Kim, K. Kawano, Pham Van Bien, Tran Ngoc Ngoan, Tran Ngoc Quyen and Trinh Phuong Loan. 2001. Cassava breeding and varietal dissemination in Vietnam from 1975 to 2000. In: R.H. Howeler and S.L. Tan (Eds.). Cassava’s Potential in the 21st Century: Present Situation and Future Research and Development Needs. Proc. 6th Regional Workshop, held in Ho Chi Minh city, Vietnam. Feb. 21-25, 2000. pp. 147-160. http://danforthcenter.org/iltab/cassavanet
Hoang Kim, K. Kawano, Tran Hong Uy, Tran Ngoc Quyen, Vo Van Tuan and Tran Cong Khanh. 1999. Result of selection KM98-1 cassava variety. Recognition document report of KM98-1 variety. Scientific Conference of Agriculture and Rural Development, held in Da Lat. July 29-31, 1999. 29 p. In: VNCP-IAS-CIAT-VEDAN. Progress in cassava research and extension in Vietnam; Proc. Vietnamese Cassava Workshop held March 16-18,1999 in IAS, Ho Chi Minh City, Vietnam. p. 62-80. The decision of the Ministry of Agriculture and Rural Development Certificate No. No. 3493/QD-BNN–KHKT, Sep 9, 1999
Hoàng Kim, Phạm Văn Biên (1996) Cassava plant, Agriculture Publishing House. pp 4. (in Vietnamese)
Hoang Kim, Tran Ngoc Quyen, and Nguyen Thi Thuy. 1990. Breeding sweet potatoes and cassava to appropriate agro-ecological regions of the South. Ministry of Agriculture and Food Industry.Monthly Scientific J. of Technical and Economic Management No. 9. 1990. pp 538-544.
Hoang Long, Nguyen Thi Truc Mai, Nguyen Bach Mai, Hoang Kim, M. Ishitani and R. Howeler. 2014. Cassava in Vietnam: production and research; an overview. Paper presented at Asia Cassava Research Workshop, hosted by ILCMB- CIAT-VAAS/ AGI, in Hanoi, Vietnam. Nov3, 2014. 15 p.
Ho Si Cong, 2016. Results of selection and development of cassava variety KM7. MARD recognition for trial production in Decision No. 462/QD-TT-CLT. Jan 2, 2016.
Howeler, R.H. and T.M. Aye. 2015. Người dịch: Hoàng Kim, Hoàng Long, Nguyễn Thị Trúc Mai, Nguyễn Bạch Mai 2015.Quản lý bền vững sắn châu Á: Từ nghiên cứu đến thực hành, Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam, Nhà Xuất bản Thông tấn, Hà Nội, Việt Nam. 148 p.
Howeler, R.H. and T.M. Aye. 2014. Sustainable Management of Cassava in Asia – From Research to Practice. CIAT, Cali, Colombia. 147 p.
Howeler, R.H. 2010. Cassava in Asia: A potential new green revolution in the making. In: R.H. Howeler (Ed.). A New Future for Cassava in Asia: Its Use as Food, Feed and Fuel to Benefit the Poor. Proc. Eighth Regional Workshop, held in Vientiane, Lao PDR. Oct 20-24, 2008. pp. 34-64.
Howeler, R.H. 2008. Background and general methodology used in the Nippon Foundation Project. In: R.H. Howeler (Ed.). Integrated Cassava-based Cropping Systems in Asia − Working with Farmers to Enhance Adoption of More Sustainable Production Practices. Proc. Workshop on the Nippon Foundation Cassava Project in Thailand, Vietnam and China, held in Thai Nguyen,Vietnam. Oct 27-31, 2003. pp. 5-32.
Howeler, R.H. 2004. Integrated Cassava-based Cropping Systems in Asia: Farming Practices to Enhance Sustainability. End of Project Report − Second Phase of the Nippon Foundation Cassava Project in Asia 1999-2003. CIAT, Cali, Colombia. 120 p.
Kawano Kawano (1995) “Green revolution” and cassava breeding, p. 335-367. In: R. H. Howeler (ed.), Cassava Breeding Agronomy Researchand Technology TransferinAsia.CIAT, Bangkok, Thailand.
Le Huy Ham, Hoang Kim, Nguyen Thi Truc Mai, Nguyen Bach Mai, Reinhardt Howeler (2016), The cassava revolution in Vietnam. https://youtu.be/81aJ5-cGp28In: GXAS- GSCRI-GCRI-CAS- CATAS- GCP 21 – Third Scientific Conference of the Global Cassava Partnership for the 21 Century- ISTRC 17th Symposium of the International Society for Tropical Root Crops: Adding Value to Root and Tuber Crops. Proc. World Congress on Root and Tuber Crops, held in Naning city, Guangxi, China. Jan. 18-22, 2016.
Mai Van Quyen, Hoang Kim, Nguyen Phuong, Nguyen Bach Mai, Nguyen Thi Truc Mai 2017. Cassava Conservation and Sustainable Development in Vietnam: Now and Then, an Overview and Future Direction. VNCP, CIAT, GCP21, NLU, IAS, Vienam Cassava Workshop in HCMC, August 20-24, 2017
Mai Van Quyen and Hoang Kim 1995. Contribution of germ bank of field crops for production in Vietnam. In: INSA-IBPGR, Plant Resource in Vietnam. The International Conference of Plant Genetic Resource held in Hanoi, March 28-31, 1995. p.114-118
Jin Shu Ren. 2014. Future prospect for tapioca production and trade in East Asia, retired Vice Chairman of Starch Industrial Association of China (SIAC).
Nguyen Bach Mai 2018, “Research on cultural techniques to scatter harvest season for cassava in Dak Lak”. Ph. D Thesis Major field: Crop Science. Code: 62 62 01 10. Supervisors: Dr. Hoang Kim and Assoc. Prof Trinh Khac Tu; Training organization: Tay Nguyen University; Period: 2015 – 2018.
Nguyễn Bạch Mai, Hoàng Kim, Trình Công Tư 2018. Ảnh hưởng của phân bón và mật độ đến năng suất và hàm lượng tinh bột giống sắn KM 419 và HLS11 trồng thời vụ đầu mùa mưa tại Đắk Lắk Trong sách:Tạp chí khoa học Trường Đại học Tây Nguyên, tháng 12/2018
Nguyen Bach Mai, Hoang Kim, Trinh Cong Tu, Nguyen Hac Hien, Claude Fauquest and Reinhardt Howeler 2018. Cassava Conservation and Sustainable Development in Vietnam: Key study focused at Dak Lak province. VNCP, CIAT, GCP21, NLU, IAS, Vienam Cassava Workshop in HCMC, August 20-24, 2017
Nguyễn Bạch Mai, Hoàng Kim, Trình Công Tư, Nguyễn Hắc Hiển (2017), “Ảnh hưởng của thời vụ trồng và thời điểm thu hoạch đến năng suất, hàm lượng tinh bột giống sắn KM 419 và HL S11 tại Đắk Lắk”,Tạp chí Nông nghiệp Và Phát triển Nông thôn, tháng 4/2018, tr. 22-30.
Nguyễn Bạch Mai, Hoàng Kim, Nguyễn Hắc Hiển (2017), “Tuyển chọn bộ giống sắn thích hợp rải vụ tại tỉnh Đắk Lắk”, Tạp chí Nông nghiệp Và Phát triển Nông thôn, tháng 12/2017, tr. 52-60
Nguyen Bach Mai, Nguyen Minh Anh and Hoang Kim. 2014. Selecting high yield cassava varieties and transferring suitable techniques of intensive cultivation to farmers in Dak Lak (Abstract). J Agriculture and Rural Development. pp. 108-112
Nguyen Huu Hy. 2015. Achievements of research and development of cassava and sweet potatoes in the period of 1975-2015. Institute of Agricultural Sciences for Southern Vietnam. Proc. 90th anniversary of establishment (1925-2015). Nguyen Huu Hy, Dinh Van Cuong, Pham Thi Nhan, Vo Van Tuan, Tran Cong Khanh, Tong Quoc An, Nguyen Thi Nhung, Bach Van Long 2016 Results of selection and development of cassava variety HLS11, HLS10, MARD. Results of selection and development of cassava variety KM101, recognition for trial production in Decision No. 411/QD-BNN-TT, Feb 16, 2017.
Nguyen Huu Hy, Nguyen Thi Cach and Tong Quoc An. 2007b. Cassava leaf production research in Vietnam. In: R.H. Howeler (Ed.). Cassava Research and Development in Asia: Exploring New Opportunities for an Ancient Crop. Proc. Seventh Regional Workshop, held in Bangkok,Thailand. Oct 28-Nov 1, 2002. pp. 494-495.
Nguyen Huu Hy, Nguyen The Dang, Pham Van Bien, Tran Thi Dung, Nguyen Thi Cach and Thai Phien. 2007a. Cassava agronomy research in Vietnam. In: R.H. Howeler (Ed.) Cassava Research and Development in Asia: Exploring New Opportunities for an Ancient Crop. Proc Seventh Regional Workshop, held in Bangkok, Thailand. Oct 28-Nov 1, 2002. pp. 204-211.
Nguyen Huu Hy, Hoang Kim, R. Howeler, Tran Cong Khanh, Vo Van Tuan and Tong Quoc An. 2000. Developing new varieties of high yield and high starch content, and methods ofsustainable cassava cultivation in gray soil of An Vien commune, Thong Nhat District, Dong Nai Province. In: The Publisher 10th Information of Cassava in Vietnam. Ho Chi Minh City,Vietnam. March 13-14, 2001. pp. 122-133
Nguyen Huu Hy, Pham Van Bien, Nguyen The Dang and Thai Phien. 1996. Recent progress in cassava agronomy research in Vietnam. In: R. H. Howeler (Ed.). Cassava Breeding, Agronomy and Farmer Participatory Research in Asia. Proc. Fifth Regional Workshop, held at CATAS,China. Nov 3-8, 1996. pp. 235-256
Nguyen Huu Hy, R. Howeler, Nguyen Thi Sam and Tong Quoc An. 1995. Results of research on cassava technical cultivation in the Southeast. In: N.H.Nghia (Ed.). Results of Root Crops (1991-1995). Hanoi Publisher. pp. 39-43.
Nguyen Minh Cuong. 2014. Selection of varieties and determination of the amount of potassium, and its appropriate application for KM419 cultivation in Tay Ninh. MSc thesis, Nong Lam University. Ho Chi Minh City, Vietnam. 147 p.
Nguyen Thanh Phuong. 2011. Studies on intercropping food legumes with cassava on sandy areas in Binh Dinh province. J. Science and Technology of Vietnam Agriculture ISSN 1859-1558 (25) 2011. pp. 97-102.
Nguyen The Dang. 2007. Farmer participatory research on soil erosion control and fertilizer use for cassava in Vietnam 1999-2002. In: R.H. Howeler (Ed.). Cassava Research and Development in Asia: Exploring New Opportunities for an Ancient Crop. Proc. Seventh Regional Workshop, held in Bangkok, Thailand. Oct 28-Nov 1, 2002. pp. 352-362.
Nguyen The Dang and Dinh Ngoc Lan. 1998. Farmer Participatory Research on cassava in Vietnam: Results and expected developments. In: Hoang Kim and Nguyen Dang Mai (Eds.). Results of Vietnam Cassava Research and Extension. Vietnam Cassava Worshop, held inInstitute of Agricultural Sciences for Southern Vietnam, held in Ho Chi Minh City, Vietnam. March 2-4, 1998. pp. 106-116.
Nguyen Thi Cach, Nguyen Thi Hoa Ly, R. Howeler, Tran Ngoc Ngoan, Tran Van Minh, Hoang Trong Khang, Dao Thi Phuong, Le Van An, Vu Thi Lua, Pham Van Bien, Le Van Phuoc and Hoang Kim. 2007. Farmer participatory variety trials conducted in Vietnam. In: R.H. Howeler(Ed.). Cassava Research and Development in Asia: Exploring New Opportunities for an Ancient Crop. Proc. Seventh Regional Workshop, held in Bangkok, Thailand. Oct 28-Nov 1, 2002. pp. 363-376.
Nguyen Thi Truc Mai 2017, “Study on the selection of high yielding cassava varieties and intensive cultivation techniques in Phu Yen province”. Ph.D Thesis Major field: Crop Science. Code: 62 62 01 10. Supervisors: Assoc. Prof. Dr. Nguyen Minh Hieu and Dr. Hoang Kim; Training organization: University of Agriculture and Forestry, Hue University; Period: 2014 – 2017. 169 p. Hoang Kim, Tran Ngoc Ngoan, Nguyen Thi Truc Mai Vo Van Quang, Nguyen Bach Mai, Nguyen Thi Le Dung, Nguyen Phuong, Hoang Long, Nguyen Minh Cuong, Dao Trọng Tuan, Tran Cong Khanh, Nguyen Minh Hieu, Nguyen Van Bo, Nguyen Thi Cach, Nguyen Trong Hien, Le Huy Ham, H. Ceballos and M. Ishitani. (2016), Results of selection and development of cassava variety KM419, MARD recognition for trial production in Decision No. 85/QD-BNN-TT, January 13, 2016.
Nguyen Thi Truc Mai 2017. Cassava Conservation and Sustainable Development in Vietnam: Key study focused at Phu Yen province. VNCP, CIAT, GCP21, NLU, IAS, Vienam Cassava Workshop in HCMC, August 20-24, 2017
Nguyen Thi Truc Mai,Nguyen Minh Hieu, Hoang Kim and Nguyen Trong Tung. 2017 Results of research on methods of cassava cultivation in Phu Yen Province. J. Agriculture and Rural Development. pp. 50-56.
Nguyen Thi Truc Mai, Nguyen Minh Hieu, Hoang Kim and Nguyen Trong Tung. 2016 Results of testing and selection of KM419 variety with high starch yield for Phu Yen province, Hue University of Science and Technology – Agriculture and Rural Development, Volume 124, No.10. pp.131-142.
Nguyen Thi Truc Mai, Nguyen Minh Hieu, Hoang Kim and Nguyen Trong Tung. 2015. Results of research on methods of cassava cultivation in Phu Yen Province. J. Agriculture and Rural Development. pp. 22-29.
Nguyen Thi Truc Mai, Nguyen Minh Hieu and Hoang Kim. 2014. Research on cassava cultivation techniques to improve cassava root yields in Dong Xuan District, Phu Yen Province (Abstract). J. Agriculture & Rural Development, No 3 and 4/2014. pp. 76-84.
Nguyen Thi Thien Phuong, 2012. Selection of peanut varieties for monoculture and intercropping with cassava in Dong Nai Province. Master thesis. Nong Lam University. Ho Chi Minh City, 147 pages.
Nguyen Thuc Nhan, Hoang Kim, Truong Van Ho, Nguyen Thi Sam, Tran Duc Hoang and Nguyen Phung Ha, 1995.Collection of root crops germplasm in Vietnam. In: INSA-IDRC-CIP. Root Crops Germplasm Research in Vietnam. Enrique Chujoy (Ed.). Manila, Philippines. p. 1-11
Nguyen Trong Hien, Trinh Van Mỵ, Nie Xuan Hong, Vu Thi Vui, Nguyen Thien Luong and Tran Van Manh. 2016. Results of selection and development of cassava variety BK. MARD recognition for trial production in Decision No. 4013/QĐ-TT-CLT. Oct 3, 2016 .
Nguyen Trong Hien, Trinh Van Mỵ, Nie Xuan Hong, Vu Thi Vui, Nguyen Thien Luong and Tran Van Manh. 2012b. Results of selection and development of cassava variety Sa06. MARD recognition for trial production in Decision No. 169/QD-TT-CLT. May 14, 2012 .
Nguyen Trong Hien, Trinh Van Mỵ, Nie Xuan Hong, Vu Thi Vui, Nguyen Thien Luong and Tran Van Manh. 2012a. Results of selection and development of cassava variety Sa21-12. MARD recognition for trial production in Decision No. 168/QD-TT-CLT. May 14, 2012.
Nguyen Van Bo, Hoang Kim, Le Quoc Doanh, Tran Ngoc Ngoan, Bui Chi Buu, R. Lefroy, Le Huy Ham, Mai Thanh Phung and Tran Vien Thong. 2013. Vietnam cassava achievements and lessons learnt. In: The 11th Extension Forum @ Agriculture, 2013. Subject: “Solutions forsustainable development of cassava”, held by Center for National Agricultural Extension in coordination with the Department of Agriculture and Rural Development, held in Tay Ninh province, Aug 26, 2013. http://foodcrops.blogspot.com/2013/09/vietnam-cassava-achievementand-learnt.html)
Pham Van Bien, Hoang Kim, Tran Ngoc Ngoan, R. Howeler and Joel J. Wang. 2007. New developments in the cassava sector of Vietnam. In: R.H. Howeler (Ed.). Cassava Research and Development in Asia. Exploring New Opportunities for an Ancient Crop. Proc. SeventhRegional Workshop, held in Bangkok, Thailand. Oct 28-Nov 1, 2002. pp. 25-32. http://www.ciat.cgiar.org/asia_cassava
Pham Van Bien and Hoang Kim. 1998. Vietnam cassava. In: Cassava in the Asian region: current situation and prospects. (Cassava Vietnam in Asia Regional Cassava : Current situation and prospects. In: Hoang Kim and Nguyen Van Mai (Eds.). Results of Research and Extension forCassava in Vietnam. Vietnam Cassava Workshop, held at the Institute of Agricultural Sciences for Southern Vietnam, held in Ho Chi Minh City, Vietnam. March 2-4, 1998. pp. 9-13.
Pham Van Bien, Hoang Kim and R. Howeler. 1996. Cassava cultural practices in Vietnam. In: R.H. Howeler (Ed.). Benchmark Study on Cassava Production, Processing and Marketing in Vietnam. Proc. of a Workshop, held in Hanoi, Vietnam. Oct. 29-Nov.1, 1992. pp. 58-97.
Pham Van Bien and Hoang Kim. 1992. Cassava production and research in Vietnam. Historical review and future direction. In: R.H. Howeler (Ed.). Cassava Breeding, Agronomy and Utilization Research in Asia. Proc. Third Regional Workshop, held in Malang, Indonesia. Oct. 22-27, 1900. pp. 106-123.
Tran Cong Khanh, Hoang Kim, Vo VanTuan, Nguyen Huu Hy, Pham Van Bien, Dao Huy Chien, R. Howeler and H. Ceballos. 2007. Results of breeding and developing variety KM140 .Recognition Document of variety KM140. Acceptance Conference of Ministry of Agricultureand Rural Development. 45 pages . The decision of the Ministry of Agriculture and Rural Development Certificate No. 3468/QD-BNN–TT, Nov 5, 2007. J. Agriculture and Forestry Engineering, Nong Lam University of Ho Chi Minh City, No. 1 & 2/2007. pp. 14-19. “Theresults of breeding and developing variety KM140”. Report for official recognition by the Scientific Council of Agriculture and Rural Development, Ho Chi Minh City. Dec 2009. 54 p. The decision of the Ministry of Agriculture and Rural Development Certificate No. 358/QD-BNN–TT, Sep 20, 2010; Certificate No. 65/2010/TT/BNNPTNT Nov. 5 2010
Tran Cong Khanh, Hoang Kim, Vo Van Tuan, Nguyen Huu Hy, Pham Van Bien, Dao Huy Chien, R. Howeler and H. Ceballos. 2009. Results of breeding and developing variety KM98-5. Report for official recognition by the Scientific Council of Agriculture and Rural Development, Ho ChiMinh City. Dec 2009. 40 p. The decision of the Ministry of Agriculture and Rural Development Certificate No. 358/QD-BNN–TT, Sep 20, 2010
Tran Ngoc Ngoạn, Nguyen Viet Hung, Hoang Kim, Nguyen Trong Hien, Nguyen Thi Cach, Hoang Kim Dieu, Nguyen Thi Truc Mai, Tran Phuong Dong, Nie Xuan Hong. 2015. Final report of the State-level cassava topics: Research and development of cassava as raw materials for themanufacturing of starch and biofuels. Ministry of Science and Technology, Department of Information Science and Technology. Certificate No. 2015-52-787/KQNC. Nov 13, 2015.
Tran Ngoc Ngoan, Nguyen Trong Hien, Nguyen Thi Cach and Hoang Kim. 2014. Results of regional cassava varietal yield trials at four locations in 2011-2013 (Summary). J. Agriculture and Rural Development. June, 2014.
Tran Ngoc Ngoan. 2008. Evolution of FPR methodologies used and results obtained in Vietnam. In: R.H. Howeler (Ed.). Integrated Cassava-based Cropping Systems in Asia − Working with Farmers to Enhance Adoption of More Sustainable Production Practices. Proc. of the Workshop on the Nippon Foundation Cassava Project in Thailand, Vietnam and China, held in Thai Nguyen, Vietnam. Oct 27-31, 2003.pp. 92-104.
Tran Ngoc Ngoan, and R.H. Howeler. 2007. The adoption of new technologies and the socioeconomic impact of the Nippon Foundation cassava project in Vietnam. In: R.H. Howeler (Ed.). Cassava Research and Development in Asia: Exploring New Opportunities for an AncientCrop. Proc. Seventh Regional Workshop, held in Bangkok, Thailand. Oct 28-Nov 1, 2002. pp.387-399.
Tran Ngoc Quyen, Hoang Kim, Vo Van Tuan and K. Kawano. 1995. Selection results of the new cassava varieties KM60, KM94, KM95 and SM937-26. Scientific Council for Agriculture and Rural Development Ministry, in Bao Loc, Lam Dong , July 14-16, 1995. 26 p.The decision of the Ministry of Agriculture and Rural Development Certificate No. 97/NN-QLCN/QĐ Nov 25, 1995 (for KM60 and KM94) and Certificate No. 98/NN-QLCN/QĐ Nov 25, 1995 ((for KM95 and SM937-26)
Trinh Thi Phuong Loan, Nguyen Trong Hien, Dao Huy Chien, Tran Ngoc Ngoạn and Nguyen Viet Hung. 2012. The results of breeding and developing variety KM21-12. In: MARD, Agricultural Research Workshop , held at Vietnam Academy of Agricultural Science (VAAS), Hanoi. .The decision of the Ministry of Agriculture and Rural Development Certificate No. 168/QĐ-TT-CLT May 14, 2012
Trinh Thi Phuong Loan, Tran Ngoc Ngoan, Hoang Van Tat, Dao Huy Chien et al. 1999. Research results on cassava varietal selection in North Vietnam. Results of cassava research and extension. 8th Vietnam Cassava Workshop, held in Ho Chi Minh City, in 1999. pp. 86-96.
CHỌN GIỐNG SẮN KHÁNG CMD Nguyễn Thị Trúc Mai, Hoàng Kim, Hoàng Long và đồng sự
Bệnh virus khảm lá CMD từ ban đầu Tây Ninh (2017) lan rộng trên 15 tỉnh thành Việt Nam (2018) là thách thức của các nhà khoa học. “V/v sử dụng giống sắn KM419 trong sản xuất” đã được Bộ NNPTNT xác định tại công văn chỉ đạo của Bộ Nông nghiệp Phát triển Nông thôn, Cục Bảo vệ Thực vật số 1068/ BVTV ngày 3 tháng 5 năm 2019. Giống sắn KM419 có năng suất tinh bột cao nhất và diện tích trồng phổ biến nhất Việt Nam. Giống sắn KM419 chống chịu trung bình bệnh CMD và bệnh chổi rồng (CWBD), trong điều kiện áp lực 2 bệnh này ở Việt Nam hiện nay là rất cao. Sự cần thiết cấp bách lai tạo KM419 đưa thêm gen kháng bệnh của giống C39, KM440 (KM94 đột biến); KM397 vào giống sắn ưu tú này .
Giải pháp chọn giống sắn Việt Nam tiếp nối hiệu quả là sử dụng giống sắn KM419 năng suất tinh bột cao sạch bệnh tiếp tục lai tạo với các giống sắn kháng bệnh CMD đã có. Bài viết CHỌN GIỐNG SẮN VIỆT NAM đúc kết tóm tắt thông tin đã có và định hướng cho sự nổ lực Trúc Mai, Hoang Long, BM Nguyễn, Nguyen Van Nam, Nhan Pham, Hung Nguyenviet, Hoàng Kim, Jonathan Newby … đang lai hữu tính và bồi dục nâng cao tính kháng cho các giống sắn KM419, KM440, KM397, tốt nhất hiện nay
The KM98-1 cassava variety is a Rayong 1x Rayong 5 hybrid Thai KU 72 in the picture above, but the selection of the parent variety, crossbreeding and line selection is entirely done in Vietnam) by the Institute of Science and Technology. Southern Agriculture techniques selected and introduced (Hoang Kim, K. Kawano, Tran Hong Uy, Tran Ngoc Quyen, Vo Van Tuan and Tran Cong Khanh. 1999. Result of selection KM98-1 cassava variety. Recognition document report of KM98-1 variety. Scientific Conference of Agriculture and Rural Development, held in Da Lat. July 29-31, 1999. 29 p. In: VNCP-IAS-CIAT-VEDAN. Progress in cassava research and extension in Vietnam; Proc. Vietnamese Cassava Workshop held March 16-18,1999 in IAS, Ho Chi Minh City, Vietnam. p. 62-80. The decision of the Ministry of Agriculture and Rural Development Certificate No. No. 3493/QĐ-BNN–KHKT, Sep 9, 1999)..KM98-1 is popularly grown in the provinces of Tay Ninh, Dong Nai, Nghe An, Thua Thien Hue…. with the harvested area in 2008 of over 18,000 hectares, in 2010 planted over 20,000 hectares. There is a popular variety now. The cassava variety KM98-1 released to Laos in the Vietnam-Laos cooperation program contributed very effectively to CIAT.
Hoang Kim, K. Kawano, Pham Van Bien, Tran Ngoc Ngoan, Tran Ngoc Quyen and Trinh Phuong Loan. 2001. Cassava breeding and varietal dissemination in Vietnam from 1975 to 2000. In: R.H. Howeler and S.L. Tan (Eds.). Cassava’s Potential in the 21st Century: Present Situation and Future Research and Development Needs. Proc. 6th Regional Workshop, held in Ho Chi Minh city, Vietnam. Feb. 21-25, 2000. pp. 147-160. http://danforthcenter.org/iltab/cassavanet
Hoang Kim, Pham Van Bien and R. Howeler 2003. Status of cassava in Vietnam: Implications for future research and development. In: A review of cassava in Asia with country case studies on Thailand and Viet Nam. FAO-IFAD-CIAT-CIRAD-IITA-NRI. Proc. Validation Forum on theGlobal Cassava Development Strategy, held in FAO, Rome, Italy. April 26-28, 2000. Vol/3.Rome, Italy. pp. 103-184 http://www.globalcassavastrategy.net
Hoang Kim, Tran Ngoc Quyen, Nguyen Thi Thuy, Vo Van Tuan, Tran Cong Khanh, Nguyen Thi Sam, Truong Van Ho, Nguyen Thanh Binh, Nguyen Dang Mai, Luong Thi Quyet, Hoang Thi Hien, K. Kawano, R. Howeler, P. Vanderzaag, E. Chujoy, Il Gin Mok, Zhang Dapheng and YehFang Ten. 2006a. Final Report, Breeding of Cassava and Sweet Potatoes Suitable for Agroecological Regions of South Vietnam (1981-2006). Institute of Agricultural Sciences for Southern Vietnam, Proc. 90th Establishment Anniversary (1925-2015).
Hoang Kim, Pham Van Bien, R. Howeler, H. Ceballos, Joel J. Wang, Tran Ngoc Ngoan, Tran Cong Khanh, Nguyen Huu Hy, Nguyen Thi Thuy, Tran Ngoc Quyen, Vo Van Tuan, Trinh Phuong Loan, Nguyen Trong Hien, Nguyen Thi Sam, Tran Thi Dung, Tran Van Minh, Dao Huy Chien,Nguyen Thi Cach, Nguyen Thi Bong, Nguyen Viet Hung, Le Van Luan, Ngo Vi Nghia, Tran Quang Phuoc and Nguyen Xuan Thuong. 2006b. Cassava Development Project Summary (2001-2005). In: Institute of Agricultural Sciences for Southern Vietnam, Proc. 90th Establishment Anniversary (1925-2015).
see more Cassava conservation and sustainable development in Vietnam In: Share book https://cgspace.cgiar.org/handle/10568/72642 Sustainable cassava production in Asia for multiple uses and for multiple markets: Proceedings of the ninth regional workshop held in Nanning, Guangxi, China PR, 27 Nov – 3 Dec 2011
Ngành sắn Việt Nam với trên một tỷ đô la kim ngạch xuất khẩu mỗi năm đang gặp thảm họa bệnh virus khảm lá sắn CMD. “Việc hướng dẫn nông dân mua giống sắn KM419 sạch bệnh là giải pháp an toàn, kinh tế nhất so với thực trạng nhiễm bệnh khảm lá sắn hiện nay” Công văn chỉ đạo của Bộ Nông nghiệp Phát triển Nông thôn, Cục Bảo vệ Thực vật số 1068/ BVTV TV ngày 3 tháng 5 năm 2019 “V/v sử dụng giống sắn KM419 trong sản xuất” đã xác định. Giải pháp chọn giống sắn Việt Nam tiếp nối hiệu quả là sử dụng giống sắn KM419 năng suất tinh bột cao sạch bệnh tiếp tục lai tạo với các giống sắn kháng bệnh CMD đã có.
Bệnh hại được các địa phương giám sát chặt chẽ quy mô và mức độ hại, loại trừ giống mẫn cảm và giống có năng suất tinh bột thấp nên chiều hướng kiểm soát khắc phục bệnh CMD dần.được tốt lên. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Cục Bảo vệ Thực vật có công văn chỉ đạo số 1068/ BVTV TV ngày 3 tháng 5 năm 2019 “V/v sử dụng giống sắn KM419 trong sản xuất” xác định: “Việc hướng dẫn nông dân mua giống sắn KM419 sạch bệnh là giải pháp an toàn, kinh tế nhất so với thực trạng nhiễm bệnh khảm lá sắn hiện nay” –
Đúc kết nguyên nhân làm dịch bệnh nghiêm trọng và giải pháp khắc phục hiệu quả
Tại Tây Ninh thủ phủ sắn Việt Nam bệnh sắn CMD được công bố dịch hại ngày 21/7/2017. Cục Trồng trọt và Bảo vệ Thực vật Việt Nam đã ban hành lần đầu văn bản số 1605/BVTV-TV Quy trình kỹ thuật phòng trừ bệnh khảm lá sắn (Cassava Mosaic Disease – CMD) xác định đối tượng dịch hại mới và lần đầu tiên xuất hiện gây hại tại Việt Nam. Ngày 28/7/2017, UBND tỉnh Tây Ninh đã ban hành quyết định công bố dịch khảm lá cây sắn. Diện tích dịch bệnh khảm lá sắn toàn tỉnh Tây Ninh loang nhanh sáu tháng cuối năm 2017 đến sáu tháng đầu năm 2018 là 31.216 ha chiếm 91,1% tổng diện tích sắn trồng, và lan rộng trên 15 tỉnh.
1. Nguyên nhân làm dịch bệnh nghiêm trọng
1.1 Người dân thiếu triệt để sử dụng hom giống sắn sạch bệnh CMD trên quy mô lớn của các giống sắn KM419, KM94, KM440, KM397, KM505 ít mẫn cảm với bệnh CMD và Bọ phấn trắng (Whitefly), mức nhiễm bệnh quá rộng, dân tiếc tiền và công sức, ngại tiêu hủy và ngại tự đầu tư thay giống tốt sạch bệnh
1.2. Người dân và các cấp hữu quan chưa tiêu hủy triệt để đối với nguồn giống sắn nhiễm bệnh; chưa kiểm dịch thực vật nghiêm ngặt và giám sát chặt chẽ sự vận chuyển trồng mới cây giống sắn nhiễm bệnh từ vùng này sang vùng khác nên bệnh CMD đã không thể khoang vùng và ngăn chặn kịp thời;
1.3 Người dân và các cấp hữu quan chưa dập dịch được Bọ phấn trắng (Whitefly) là môi giới truyền bệnh làm lây lan bệnh khảm lá CMD,
1.4 Hệ thống liên kết hổ trợ kịp thời các nghiên cứu sâu bệnh CMD ở Việt Nam và Đông Nam Á sử dụng các giống kháng CMD trên nền di truyền của giống sắn năng suất tinh bột cao, phổ thích nghi rộng nhất Việt Nam là sắn KM419 và KM94, thanh lọc giống sạch bệnh và lai tạo với giống kháng CMD có năng suất bột đủ tốt hiện có, do thiếu nguồn đầu tư kịp thời nên sự chọn tạo, khảo nghiệm, xây dựng mô hình trình diễn, nhân nhanh giống sắn kháng bệnh chưa theo kịp với yêu cầu.
2. Giải pháp khắc phục bệnh hại sắn CMD
2.1 Sự chỉ đạo cấp bách, kịp thời và hiệu quả
Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã có công điện khẩn số 5920/ CĐ-BNN-BVTV ngày 19/7/2017 về việc thực hiện cấp bách việc tiêu hủy nguồn bệnh khảm lá sắn (mì) ở tỉnh Tây Ninh và những nơi phát hiện dịch bệnh. Sau đó Bộ đã có ngay Quy trình kỹ thuật phòng trừ bệnh khảm lá sắn (Cassava Mosaic Disease – CMD) với văn bản số 1605 BVTV -TV 1605/ BVTV-TV ngày 21/7/ 2017 và tiếp đó là chỉ thị của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp Phát triển Nông thôn, công văn số 4142 BNN PTNT ngày 31/5/2018, công văn số 1465 Cục Bảo vệ Thực vật ngày 6/6/ 2018 hướng dẫn chi tiết giải pháp ứng phó dịch hại và cách phòng trừ. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Cục Bảo vệ Thực vật có công văn chỉ đạo số 1068/ BVTV TV ngày 3 tháng 5 năm 2019 xác định “Việc hướng dẫn nông dân mua giống sắn KM419 sạch bệnh là giải pháp an toàn, kinh tế nhất so với thực trạng nhiễm bệnh khảm lá sắn hiện nay” – .
2.2 Xác định rõ kế hoạch hành động ngắn hạn, trung hạn và dài hạn
Kết luận tại Hội thảo Quốc tế công bố bởi tiến sĩ Claude M. Fauquest Giám đốc Quan hệ đối tác Sắn toàn cầu Thế kỷ 21 (Director of the Global Cassava Partnership for the 21st Century – GCP21)
Hội nghị sắn quốc tế lần thứ IV, Benin, ngày 11-15 tháng 6 năm 2018 đã tổ chức một phiên họp đặc biệt để báo cáo tình trạng dịch bệnh virus khảm lá sắn gần đây (CMD) ở Đông Nam Á. Mục tiêu của bốn báo cáo này là làm cho cộng đồng sắn quốc tế nhận thức được vấn đề nghiêm trọng và phát triển các đề xuất thực tế cho một kế hoạch hành động nhanh chóng với tất cả các bên liên quan trong khu vực để kiểm soát dịch bệnh CMD ở vùng Đông Nam Á của Thế giới.
Bốn bản báo cáo trình bày tại hội nghị quốc tế gồm: 1) Báo cáo về sự bùng nổ dịch bệnh CMD của Giáo sư Lê Huy Hàm từ AGI, Việt Nam; 2) Báo cáo kinh tế của Tiến sĩ Jonathan Newby từ CIAT – Việt Nam; 3) Báo cáo giám sát của nhà virus học Wilmer Cuellar từ CIAT-Colombia; 4) Báo cáo về các chiến lược được phát triển với các bên liên quan trong khu vực Đông Nam Á của Tiến sĩ C.M. Fauquet, Giám đốc GCP21.
Mục đích của phiên họp này là chứng minh tầm quan trọng của sắn ở khu vực này trên thế giới, sản xuất 55 triệu tấn sắn mỗi năm, cho thấy mức độ lây lan của bệnh CMD và thông báo cho cộng đồng về những nỗ lực phát triển cho đến nay một kế hoạch hành động khu vực. Khảo sát thực địa mở rộng và sự tương tác của các bên liên quan trong khu vực được thực hiện bởi CIAT và các đối tác quốc gia cho thấy CMD chính thức có mặt tại 6 tỉnh của Campuchia và 2 tỉnh miền Nam Việt Nam. Lây lan hiện nay của bệnh được ước tính là ít hơn 10% tổng diện tích trồng sắn. Dựa trên kiến thức hiện tại về dịch bệnh CMD, các chuyên gia đều đồng ý rằng khu vực này đang ở giai đoạn sớm của dịch bệnh khi vẫn có thể hạn chế tác động của căn bệnh này. Các chuyên gia cũng đồng ý rằng CMD chủ yếu lây lan bằng cách vận chuyển nguyên liệu trồng sắn nhiễm bệnh được sử dụng để trồng các cánh đồng mới. Các vectơ bọ phấn trắng (whitefly) tự nhiên của bệnh có mặt trên sắn trong vùng và đóng vai trò môi giới truyền bệnh trong các lĩnh vực nhưng chúng đóng một vai trò nhỏ cho đến nay trong sự lây lan của bệnh sang các lĩnh vực mới. Quan trọng nhất, các chuyên gia chỉ ra rằng việc vận chuyển và xuất khẩu tinh bột, sắn lát, bột sắn hoặc củ sắn tươi không đe dọa nhập khẩu bệnh thông qua bất kỳ sản phẩm nào làm giảm lo ngại về thương mại trong nước và xuất khẩu. Các nước trong khu vực được khuyến khích chủ động truyền đạt tình trạng của bệnh và tham gia cùng nhau để gắn kết một hành động phối hợp chống lại mối đe dọa virus mới khảm lá sắn trong khu vực.
Kinh nghiệm kiểm soát dịch bệnh virus khảm lá sắn CMD ở châu Phi và châu Á đã chỉ ra rằng nguồn rủi ro lớn nhất để lây lan bệnh này từ sang vùng khác là do sự trao đổi của hom giống sắn từ cây bị nhiễm bệnh. Các cây sắn bị nhiễm bệnh có thể được vận chuyển hàng trăm cây số trong một ngày. Các vectơ bọ phấn trắng ((whitefly) cũng có thể góp phần lan truyền bệnh lên đến 100 km mỗi năm. Biện pháp kiểm dịch nghiêm ngặt trong nước là đặc biệt quan trọng để giám sát vùng bệnh hại và hạn chế sự di chuyển của hom giống bị nhiễm bệnh lan truyền từ nơi này sang nơi khác. Cần chú ý xác định các khu vực không có bệnh để giữ cho chúng không bị bệnh. Việc thương mại hóa ngành công nghiệp sắn ở Đông Nam Á tạo cơ hội cho việc cải thiện dòng chảy thông tin để ngăn chặn sự di chuyển của các vật liệu trồng giống sắn bị nhiễm bệnh.
Kế hoạch hành động theo vùng có thể bao gồm các bước sau:
Hành động ngắn hạn
+ Tích hợp dữ liệu giám sát liên tục được thu thập bởi các nhóm nghiên cứu khác nhau làm việc trong khu vực để xác định các khu vực bị ảnh hưởng và bị đe dọa ngay lập tức
+ Lập bản đồ phân bố giống ở các khu vực có tỷ lệ mắc CMD cao bằng cách sử dụng các marker phân tử.
+ Phổ biến thông tin cho các dịch vụ khuyến nông và nông dân để nâng cao nhận thức và quản lý bệnh.
+ Nhân nhanh và phân phối hom giống không có virus (hoặc những giống sắn năng suất bột cao ít bị nhiễm virus khảm lá CMD) cho nông dân ở các vùng bị ảnh hưởng.
+ Tiêu chuẩn hóa các giao thức chẩn đoán và giám sát được sử dụng bởi các nhóm nghiên cứu khác nhau làm việc trong khu vực
Hành động trung hạn
+ Nhập khẩu, thử nghiệm và nhân của vật liệu giống sắn kháng CMD hiện tại ở một số địa điểm trong khu vực.
+ Giới thiệu cách ly các quần thể này được phát triển bằng cách nhập nội nguồn gen giống sắn kháng CMD từ các giống sắn châu Phi, châu Mỹ Latinh và Đông Nam Á .
Hành động dài hạn
+ Sự tích hợp của các gen kháng virus vào giống sắn KU50 (đối với Việt Nam sử dụng hai giống để tích hợp gen kháng virus là KM419 và KM94 có quy mô trồng 42% và 37% diện tích sắn Việt Nam hiện nay) dựa trên lợi ích từ tất cả những đặc tính tốt mà giống được trồng rộng rãi này trong khu vực có thể cung cấp.
+ Cộng đồng sắn quốc tế có mặt tại hội nghị bày tỏ sự sẵn sàng mạnh mẽ của họ để cộng tác với bất kỳ kế hoạch khu vực nào nhằm quản lý sự lây lan của CMD. Đặc biệt, các đồng nghiệp sắn từ lục địa châu Phi có thể cung cấp kiến thức tích lũy rộng rãi về CMD, sự lan truyền và kiểm soát chúng, bao gồm các công cụ chẩn đoán và các giống kháng CMD có năng suất cao.
+ GCP21 đã tập hợp một loạt các bên liên quan trong khu vực Đông Nam Á và đang lập kế hoạch một hội thảo khu vực để xây dựng kế hoạch hành động chi tiết phối hợp với các bên liên quan trong khu vực để nhanh chóng thực hiện các biện pháp can thiệp khẩn cấp ngăn chặn dịch bệnh CMD gây ảnh hưởng tiêu cực đến công nghiệp sắn vùng này.
2.3. Các điểm sáng bảo tồn phát triển sắn bền vững đã được đúc kết
Sắn Việt Nam bảo tồn phát triển bền vững đã đạt những kết quả ngoạn mục trong các thử nghiệm được tổ chức tại Tây Ninh, Phú Yên, Đắk Lắk, Đồng Nai, nơi mà nông dân sử dụng các công nghệ và phương pháp cải tiến tăng năng suất sắn từ 8,5 tấn / ha lên 36 tấn / ha, một sự gia tăng hơn 400 phần trăm (Hoàng Kim, Reinhardt Howeler, Nguyễn Thị Trúc Mai, Nguyễn Bạch Mai 2015).
Tại Phú Yên, bốn giống sắn mới KM419, KM440, KM444, KM397 năng suất cao, triển vọng, được bà con nông dân ưa chuộng. Số liệu thu hoạch thực tế tại khảo nghiệm sản xuất ở xã Xuân Sơn Nam, huyện Đồng Xuân ngày 11 tháng 9 năm 2015, bốn giống này đều đạt năng suất sắn củ tươi 30,0-36,0 tấn/ ha vượt 25-50% so với giống sắn KM94. Giống sắn KM419 đã đạt năng suất củ tươi 36 tấn/ ha, trên mô hình 4 ha trình diễn so với năng suất sắn KM94 bình quân tại địa phương đạt 22 tấn/ ha. Giống sắn KM419 ở hộ ông Hồ Văn Sang đạt năng suất 58 tấn/ ha.
Mười biện pháp kỹ thuật thâm canh rãi vụ sắn thích hợp bền vững tại tỉnh Phú Yên, được thảo luận đúc kết, bao gồm:
1) Sử dụng hom giống sắn tốt nhất của giống sắn thích hợp nhất;
2) Thời gian trồng tốt nhất và thời điểm thu hoạch tối ưu cho năng suất tối đa và kinh tế;
3) Bón phân NPK kết hợp phân HCVS và PC để cải thiện độ phì đất và tăng năng suất;
4) Khoảng cách trồng tối ưu cho giống sắn tốt nhất và thích hợp loại đất;
5) Ngăn chặn sâu bệnh hại bằng IPM;
6) Trồng xen sắn với lạc, cây họ đậu; trồng băng cây đậu phủ đất, luân canh;
7) Dùng thuốc diệt cỏ, tấm phủ đất để kiểm soát cỏ dại kết hợp bón thúc sớm và chuyển vụ;
8) Kỹ thuật làm đất trồng sắn thích hợp để kiểm soát xói mòn đất;
9) Phát triển hệ thống quản lý nước cho canh tác sắn;
10) Đào tạo huấn luyện bảo tồn phát triển sắn bền vững, sản xuất kết hợp sử dụng sắn.
2.4. Chọn giống sắn Việt Nam thành tựu và bài học tiếp nối
Chọn giống sắn kháng CMDlà nổ lực mới. Chọn giống sắn Việt Nam hiện trạng và quan điểm tương lai. Hành động dài hạn. Tích hợp gen kháng virut khảm lá sắn CMD vào tế bào mầm KU50 và KM419 để hưởng lợi từ tất cả các đặc điểm tốt mà hai giống sắn này đã được trồng rộng rãi trong khu vực có thể mang lại. Đối với Việt Nam và Campuchia, hai giống sắn KM419 và KM94 với 42% và 37% diện tích sắn Việt Nam hiện nay, với khoảng 50% và 40% diện tích sắn hiện tại của Campuchia, cần được sử dụng để tích hợp các gen kháng vi-rút: xem thêm Cách mạng sắn Việt Nam
Cassava breeding in Vietnam: current status and future perspective. Long-term action. Introgression of virus resistance genes into KU50-based germplasm to benefit from the all the good traits that this widely cultivated variety in the region can offer. For Vietnam and Cambodia, two varieties are used to integrate antiviral genes: KM419 and KM94 with 42% and 37% of the area of Vietnamese cassava today, with about 50% and 40% of the current cassava area of Cambodia
Câu chuyện Sắn và Việt Nam: bây giờ và sau đó Cassava and Vietnam: Now and Then của giáo sư tiến sĩ Kazuo Kawano, người Nhật, chuyên gia chọn giống sắn hàng đầu Thế giới. Cách mạng sắn Việt Nam là chuyện nhiều năm còn kể. Bạn tốt khó tìm, khó bỏ lại, và không thể quên lãng (Good friends are hard to find, harder to leave, and impossible to forget). https://hoangkimlong.wordpress.com/…/cach-mang-san-viet-nam/. Sự tiếp nối là sách sắn “Quản lý bền vững sắn châu Á từ nghiên cứu đến thực hành” Howeler R.H. and T. M. Aye 2015 (Nguyên tác: Sustainable Management of Cassava in Asia – From Research to Practice, CIAT, Cali, Colombia, 147 p. Người dịch: Hoàng Kim, Hoàng Long, Nguyễn Thị Trúc Mai, Nguyễn Bạch Mai 2015; Quản lý bền vững sắn châu Á : Từ nghiên cứu đến thực hành. Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam, Nhà Xuất bản Thông tấn, Hà Nội, Việt Nam, 148 trang, là những kinh nghiệm quý Sắn Việt Nam một câu chuyện thành công (Cassava in Vietnam : a successful story). “Thay cho những lời khuyên tốt nhất hiện có về kỹ thuật canh tác sắn sau hơn 50 năm kinh nghiệm thực tiễn kết hợp nghiên cứu và làm việc với nông dân để thấu hiểu những thách thức thực tế cuộc sống và cơ hội mà họ phải đối mặt” (The work summarized in this manual represents the best available advice from more than 50 years of combined research experience and work with farmers to understand their real-life challenges and opportunities. – Clair Hershey, CIAT Cassava program).
“Bệnh virus khảm lá sắn CMD và cách phòng trừ” tài liệu đồng ruộng, ý kiến tư vấn tại đây*
Khẩn cấp phối hợp hành động ngăn chặn dịch bệnh virus khảm lá sắn. Hội thảo khu vực về kế hoạch kiểm soát bệnh khảm lá sắn ở Đông Nam Á được khai mạc sáng ngày 18 tháng 9 năm 2018 tại Phnôm Pênh. Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp, Lâm nghiệp và Thủy sản Campuchia, ông Lincoln đã kêu gọi Campuchia và cộng đồng quốc tế chung sức nỗ lực ngăn chặn dại dịch bệnh khảm lá sắn (CMD) đang đe dọa nghiêm trọng đối với toàn bộ chuỗi sản xuất chế biến và xuất khẩu ở Campuchia và Việt Nam.
Năm trước, ngày 16 tháng 9 năm 2017 trang Face book Cây Lương thực Khoa Nông học Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh do tiến sĩ Hoang Kim làm chủ bút đã có viết bài “Bệnh virus khảm lá sắn và cách phòng trừ” trao đổi thông tin chi tiết về “Quy trình kỹ thuật phòng trừ bệnh khảm lá sắn (Cassava Mosaic Disease – CMD) do Cục Trồng trọt và Bảo vệ Thực vật Việt Nam ban hành lần đầu tại văn bản số 1605/BVTV-TV ngày 21/7/2017. Theo Cục BVTV, đây là đối tượng dịch hại mới và lần đầu tiên xuất hiện gây hại tại Việt Nam.” https://www.facebook.com/daihocnonglam/posts/10213116411646552?__tn__=K-R
Tiến sĩ Claude Fauquest, Giám đốc đối tác sắn toàn cầu cho thế kỷ 21 (GCP21) thông tin: “Bệnh vi rus khảm lá sắn CMD đang lan rộng nhanh chóng giữa năm 2016, đầu tiên gây hại một vài nơi tại Campuchia và bây giờ là tại 5 tỉnh ở Đông Cam-pu-chia và ít nhất một tỉnh (Tây Ninh) ở Việt Nam. Bệnh này lây lan chủ yếu do hom giống và bọ phấn trắng (whiteflies), mặc dù bọ phấn trắng có vai trò nhỏ hơn nhưng sự lây lan rất quan trọng. Một số sáng kiến đã được thực hiện bởi JIICA, CIAT, FAO, ACIAR, nhưng chưa thể kiểm soát bệnh này. Chúng ta cần thiết lập một dự án khu vực đơn giản cho kiểm soát bệnh CMD ít nhất là Campuchia và Việt Nam. Những nước đang bị dịch hại CMD đe dọa như Thái Lan, Lào, Campuchia và Việt Nam đều cần ghi danh tham gia kế hoạch này. GCP21 có thể phục vụ như là một bộ xúc tác để thúc đẩy sự phát triển của kế hoạch”.
1.1 Hành động khẩn cấp ở Việt Nam và Hội thảo Quốc tế
Bệnh virus khảm lá sắn CMD đã và đang lan rộng trên nhiều tỉnh Việt Nam qua hom giống sắn lấy từ cây bị bệnh và qua môi giới bọ phấn trắng. Bộ Nông nghiệp Phát triển Nông thôn Việt Nam đã có công văn số 4142 BNN PTNT ngày 31/5/ 2018, công văn số 1465 Cục Bảo vệ Thực vật ngày 6/6/2018 hướng dẫn chi tiết giải pháp ứng phó dịch hại và cách phòng trừ. Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp Phát triển Nông thôn Việt Nam đã có chỉ thị số 5957 BNN PTNT ngày 6/8/2018 về vấn đề này. Sách cẩm nang thực hành và những ý kiến tư vấn của tiến sĩ Reinhardt Howeler đối với ‘Bệnh vi rus khảm lá sắn CMD và cách phòng trừ” để kiểm soát tốt dịch hại nghiêm trọng CMD và tư vấn thực hành canh tác sắn thích hợp bền vững.
Ý kiến tư vấn của tiến sĩ Claude M. Fauquest đối với sắn Việt Nam nhấn mạnh:
* KẾT LUẬN CỦA HỘI NGHỊ SẮN QUỐC TẾ TOÀN CẦU NGÀY 11-15 THÁNG 6 NĂM 2018 VỀ KIỂM SOÁT DỊCH BỆNH VI RUS KHẢM LÁ SẮN CMD Ở ĐÔNG NAM Á
Hoàng Kim
lược dịch từ tài liệu nguồn của GS Lê Huy Hàm và TS. Claude M. Fauquest
Hội nghị sắn quốc tế lần thứ IV, Benin, ngày 11-15 tháng 6 năm 2018 đã tổ chức một phiên họp đặc biệt để báo cáo tình trạng dịch bệnh virus khảm lá sắn gần đây (CMD) ở Đông Nam Á. Mục tiêu của bốn báo cáo này là làm cho cộng đồng sắn quốc tế nhận thức được vấn đề nghiêm trọng và phát triển các đề xuất thực tế cho một kế hoạch hành động nhanh chóng với tất cả các bên liên quan trong khu vực để kiểm soát dịch bệnh CMD ở vùng Đông Nam Á của Thế giới.
Bốn bản báo cáo trình bày tại hội nghị quốc tế gồm: 1) Báo cáo về sự bùng nổ dịch bệnh CMD của Giáo sư Lê Huy Hàm từ AGI, Việt Nam; 2) Báo cáo kinh tế của Tiến sĩ Jonathan Newby từ CIAT – Việt Nam; 3) Báo cáo giám sát của nhà virus học Wilmer Cuellar từ CIAT-Colombia; 4) Báo cáo về các chiến lược được phát triển với các bên liên quan trong khu vực Đông Nam Á của Tiến sĩ C.M. Fauquet, Giám đốc GCP21.
Mục đích của phiên họp này là chứng minh tầm quan trọng của sắn ở khu vực này trên thế giới, sản xuất 55 triệu tấn sắn mỗi năm, cho thấy mức độ lây lan của bệnh CMD và thông báo cho cộng đồng về những nỗ lực phát triển cho đến nay một kế hoạch hành động khu vực. Khảo sát thực địa mở rộng và sự tương tác của các bên liên quan trong khu vực được thực hiện bởi CIAT và các đối tác quốc gia cho thấy CMD chính thức có mặt tại 6 tỉnh của Campuchia và 2 tỉnh miền Nam Việt Nam. Lây lan hiện nay của bệnh được ước tính là ít hơn 10% tổng diện tích trồng sắn. Dựa trên kiến thức hiện tại về dịch bệnh CMD, các chuyên gia đều đồng ý rằng khu vực này đang ở giai đoạn sớm của dịch bệnh khi vẫn có thể hạn chế tác động của căn bệnh này. Các chuyên gia cũng đồng ý rằng CMD chủ yếu lây lan bằng cách vận chuyển nguyên liệu trồng sắn nhiễm bệnh được sử dụng để trồng các cánh đồng mới. Các vectơ bọ phấn trắng (whitefly) tự nhiên của bệnh có mặt trên sắn trong vùng và đóng vai trò môi giới truyền bệnh trong các lĩnh vực nhưng chúng đóng một vai trò nhỏ cho đến nay trong sự lây lan của bệnh sang các lĩnh vực mới. Quan trọng nhất, các chuyên gia chỉ ra rằng việc vận chuyển và xuất khẩu tinh bột, sắn lát, bột sắn hoặc củ sắn tươi không đe dọa nhập khẩu bệnh thông qua bất kỳ sản phẩm nào làm giảm lo ngại về thương mại trong nước và xuất khẩu. Các nước trong khu vực được khuyến khích chủ động truyền đạt tình trạng của bệnh và tham gia cùng nhau để gắn kết một hành động phối hợp chống lại mối đe dọa virus mới khảm lá sắn trong khu vực.
Kinh nghiệm kiểm soát dịch bệnh virus khảm lá sắn CMD ở châu Phi và châu Á đã chỉ ra rằng nguồn rủi ro lớn nhất để lây lan bệnh này từ sang vùng khác là do sự trao đổi của hom giống sắn từ cây bị nhiễm bệnh. Các cây sắn bị nhiễm bệnh có thể được vận chuyển hàng trăm cây số trong một ngày. Các vectơ bọ phấn trắng ((whitefly) cũng có thể góp phần lan truyền bệnh lên đến 100 km mỗi năm. Biện pháp kiểm dịch nghiêm ngặt trong nước là đặc biệt quan trọng để giám sát vùng bệnh hại và hạn chế sự di chuyển của hom giống bị nhiễm bệnh lan truyền từ nơi này sang nơi khác. Cần chú ý xác định các khu vực không có bệnh để giữ cho chúng không bị bệnh. Việc thương mại hóa ngành công nghiệp sắn ở Đông Nam Á tạo cơ hội cho việc cải thiện dòng chảy thông tin để ngăn chặn sự di chuyển của các vật liệu trồng giống sắn bị nhiễm bệnh.
Kế hoạch hành động theo vùng có thể bao gồm các bước sau:
Hành động ngắn hạn
+ Tích hợp dữ liệu giám sát liên tục được thu thập bởi các nhóm nghiên cứu khác nhau làm việc trong khu vực để xác định các khu vực bị ảnh hưởng và bị đe dọa ngay lập tức
+ Lập bản đồ phân bố giống ở các khu vực có tỷ lệ mắc CMD cao bằng cách sử dụng các marker phân tử.
+ Phổ biến thông tin cho các dịch vụ khuyến nông và nông dân để nâng cao nhận thức và quản lý bệnh.
+ Nhân nhanh và phân phối hom giống không có virus (hoặc những giống sắn năng suất bột cao ít bị nhiễm virus khảm lá CMD) cho nông dân ở các vùng bị ảnh hưởng.
+ Tiêu chuẩn hóa các giao thức chẩn đoán và giám sát được sử dụng bởi các nhóm nghiên cứu khác nhau làm việc trong khu vực
Hành động trung hạn
+ Nhập khẩu, thử nghiệm và nhân của vật liệu giống sắn kháng CMD hiện tại ở một số địa điểm trong khu vực.
+ Giới thiệu cách ly các quần thể này được phát triển bằng cách nhập nội nguồn gen giống sắn kháng CMD từ các giống sắn châu Phi, châu Mỹ Latinh và Đông Nam Á .
Hành động dài hạn
+ Sự tích hợp của các gen kháng virus vào giống sắn KU50 (đối với Việt Nam sử dụng hai giống để tích hợp gen kháng virus là KM419 và KM94 có quy mô trồng 42% và 37% diện tích sắn Việt Nam hiện nay) dựa trên lợi ích từ tất cả những đặc tính tốt mà giống được trồng rộng rãi này trong khu vực có thể cung cấp.
+ Cộng đồng sắn quốc tế có mặt tại hội nghị bày tỏ sự sẵn sàng mạnh mẽ của họ để cộng tác với bất kỳ kế hoạch khu vực nào nhằm quản lý sự lây lan của CMD. Đặc biệt, các đồng nghiệp sắn từ lục địa châu Phi có thể cung cấp kiến thức tích lũy rộng rãi về CMD, sự lan truyền và kiểm soát chúng, bao gồm các công cụ chẩn đoán và các giống kháng CMD có năng suất cao.
+ GCP21 đã tập hợp một loạt các bên liên quan trong khu vực Đông Nam Á và đang lập kế hoạch một hội thảo khu vực để xây dựng kế hoạch hành động chi tiết phối hợp với các bên liên quan trong khu vực để nhanh chóng thực hiện các biện pháp can thiệp khẩn cấp ngăn chặn dịch bệnh CMD gây ảnh hưởng tiêu cực đến công nghiệp sắn vùng này.
1.2. Hành động khẩn cấp ở Campuchia và Hội thảo khu vực
FRSH NEWS http://www.freshnewsasia.com Báo Campuchia ngày 18 /9/2018 đưa tin: Hội thảo khu vực về kế hoạch kiểm soát bệnh khảm lá sắn ở Đông Nam Á được khai mạc sáng ngày 18 tháng 9 năm 2018 tại Phnôm Pênh. Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp, Lâm nghiệp và Thủy sản Campuchia, ông Lincoln đã kêu gọi Campuchia và cộng đồng quốc tế chung sức nỗ lực ngăn chặn dại dịch bệnh khảm lá sắn (CMD) đang đe dọa nghiêm trọng đối với toàn bộ chuỗi sản xuất chế biến và xuất khẩu ở Campuchia và Việt Nam.
“Bệnh đã nổ ra ở Ấn Độ và Sri Lanka, và lần đầu tiên ở Đông Nam Á vào năm 2015. Và trong những năm gần đây căn bệnh này đã lan sang Việt Nam và Campuchia, và đã tàn phá nghiêm trọng sản lượng sắn ở mức độ kinh hoàng. Do đó cấp thiết để nghiên cứu và đánh giá tình trạng của đại dịch và đề ra biện pháp phòng trừ ngăn chặn sự lây lan CMD một cách hiệu quả nhất. Ông Lincoln lưu ý rằng cây sắn là mối ưu tiên hàng đầu của đất nước Campuchia vì sắn hiện là cây trồng ưu tiên thứ 2 sau lúa gạo, sắn được trồng hàng năm khoảng 400 ngàn hecta và mang lại hơn 13,8 triệu tấn.”Campuchia đã trở thành nhà cung cấp sắn làm nguyên liệu chính và là thành tựu chính ở Đông Nam Á”, ông nói thêm. Trên thực tế, hơn 3,8 triệu tấn sắn được xuất khẩu sang các thị trường khu vực và toàn cầu vào năm 2017, “ông nói.
Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp, Lâm nghiệp và Thủy sản Campuchia, ông Lincoln đã đưa ra một số khuyến nghị chính để nghiên cứu xem xét để tìm ra giải pháp chìa khóa giải quyết vấn đề một cách hiệu quả ngăn chặn đại dịch này. Các khuyến nghị bao gồm :
1: Nghiên cứu thêm để tìm các nguồn dịch bệnh và giới thiệu các biện pháp phòng ngừa để ngăn chặn dịch bệnh từ khu vực này sang vùng khác. Thực hiện các biện pháp khẩn cấp để giảm thiểu hoặc ngăn chặn dịch bệnh có thể đe dọa sản xuất sắn.
2: Tất cả các tổ chức và các quan chức có liên quan được giám sát vai trò trong việc điều chỉnh việc nhập khẩu giống sắn từ các nước có dịch bùng phát đến một khu vực đặc biệt dọc theo biên giới.
3: Tiếp tục nỗ lực để tổ chức sản xuất giống do mình làm ra để tránh nhập khẩu hom giống từ vùng có dịch.
4: Tăng cường hợp tác trong nghiên cứu, chia sẻ thông tin và giải pháp giữa các nước trong khu vực.
5: Nâng cao nhận thức về bệnh khảm lá vi rus CMD và các biện pháp phòng ngừa cho nông dân, chủ trang trại và nhà sản xuất một cách toàn diện và yêu cầu sự hợp tác từ họ trong trường hợp bùng nổ.
Cách mạng sắn Việt Nam (The cassava revolution in Vietnam) https://youtu.be/81aJ5-cGp28 là điểm sáng toàn cầu được vinh danh tại Hội thảo Cây Có Củ Thế Giới được tổ chức tại Nam Ninh, Quảng Tây, Trung Quốc từ ngày 18 đến ngày 22 tháng 1 năm 2016.Video này đã đúc kết thành tựu và bài học sắn Việt Nam gần nửa thế kỷ nhìn lại. Ở Việt Nam, sắn là cây lương thực quan trọng thứ ba sau lúa và ngô. Sắn Việt Nam ngày nay là một ngành hàng xuất khẩu triển vọng với diện tích hơn nửa triệu ha và giá trị xuất khẩu hơn một tỷ đô la Mỹ mỗi năm. Cuộc cách mạng sắn Việt Nam với sự tham gia của hàng triệu nông dân trồng sắn, đã đạt được sự chuyển đổi lớn về năng suất, sản lượng, giá trị sử dụng và hiệu quả kinh tế, thu nhập của cuộc sống, sinh kế và việc làm cho người dân trên toàn quốc.
Bộ phim khoa học cây trồng nổi tiếng của hãng phim NHK Nhật Bản Cassava and Vietnam: Now and Then đã được giáo sư tiến sĩ Kazuo Kawano, nhà bác học và chuyên gia sắn hàng đầu thế giới trao đổi giới thiệu khá thú vị..Năm ghi chú nhỏ dưới đây là góc nhìn Hoàng Kim về“Cây sắn và Việt Nam”. “Cây sắn và Tây Nguyên”; “Người lính cây sắn tuổi thơ”, ” Đến với Tây Nguyên mới”, “Việt NamACIAR CIAT và bản sắc” Thông tin bảo tồn và phát triển tại http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlong và https://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-11-thang-3/
CÂY SẮN VÀ VIỆT NAM
Sắn Việt Nam gắn bó mật thiết với đời sống kinh tế xã hội văn hóa người Việt tại nhiều vùng sinh thái. Sắn (Manihot esculenta Crantz) là cây trồng làm thực phẩm, thức ăn chăn nuôi, chế biến tinh bột và hiện là nguyên liệu chính để chế biến nhiên liệu sinh học có lợi thế so sánh cao của nhiều nước trên thế giới và Việt Nam. Năm 2018, toàn thế giới có 105 quốc gia sản xuất sắn với tổng diện tích 24,59 triệu ha, năng suất củ tươi bình quân 11,29 tấn / ha, sản lượng là 277,80 triệu tấn (FAO, 2020). Ở Việt Nam, sắn là cây lương thực quan trọng đứng thứ ba về sản lượng sau lúa và ngô. Năm 2018, diện tích sắn quốc gia đạt 513.000 ha, năng suất bình quân 19,19 tấn / ha, sản lượng 9,84 triệu tấn (FAO, 2020) Sắn Việt Nam là sự lựa chọn của nhiều hộ nông dân nghèo và những người sống trong điều kiện khô hạn, đất đai kém màu mỡ. Sản xuất, chế biến và kinh doanh sắn là sự lựa chọn của nhiều nông dân và doanh nghiệp chế biến, kinh doanh sắn nhờ lợi nhuận cao, dễ trồng, ít chăm sóc, chi phí thấp, dễ thu hoạch và chế biến. Sản xuất, chế biến, tiêu thụ, nghiên cứu và phát triển sắn hiện tại vẫn là cơ hội, triển vọng của nông dân và doanh nghiệp Việt Nam cũng như nhiều nước trên thế giới. Sắn Việt Nam hiện nay phải đối mặt với nhiều rủi ro và hạn chế. Giải pháp chính là Tuyển chọn giống sắn năng suất tinh bột cao chống chịu bệnh virus khảm lá (CMD) và bệnh chồi rồng (CWBD); Cải tiến chuỗi sản xuất tiên thụ sắn; Bảo tồn phát triển sắn bền vững tại Việt Nam
CÂY SẮN VÀ TÂY NGUYÊN
Trong chiến tranh giải phóng và thống nhất tổ quốc trước năm 1975, Sắn Tây Nguyên là thức ăn chính của quân đội và người dân Tây Nguyên vùng giải phóng. Sắn là thức ăn chính độn cùng với rau và măng rừng nhiều tháng của người lính Tây Nguyên trong chiến tranh Đông Dương và chiến tranh Việt Nam khốc liệt. Sắn là người bạn thân thiết của người lính chiến trường mà khẩu phần ăn mỗi ngày của bộ đội nhiều năm chủ yếu là sắn ngô khoai độn thêm khoảng 1,0 – 1,5 lạng gạo. Người lính và sĩ quan quân đội đều đồng cam cộng khổ như nhau ăn uống đạm bạc, chỉ khác chút ít về chế độ. Mỗi đơn vị chúng tôi ở Tây Nguyên và miền Đông đi đâu cũng phải trồng 500 gốc sắn, đó là chỉ tiêu bắt buộc của mặt trận Tây Nguyên. Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp, vị tướng già đức độ và tài năng, Chính ủy Bộ Tư lệnh tiền phương,Chủ nhiệm chính trị Mặt trận Tây Nguyên của chúng tôi, tại “Ký ức Tây Nguyên” ông đã kịp chép lại bài thơ “Sắn Tây Nguyên và người lính” của ai đó mà ông đọc được và đại tá nhà văn Lê Hải Triều đã ghi lại.
Sắn Tây Nguyên và người lính
“Bọn tôi tới những nơi tưởng không có hơi người
Thì nương sắn lại hiện ra xoè lá vẫy
Sắn rồi sắn, cứ biếc lên như vậy
Khắp một vùng lũng hẹp, dốc cao
Như là sắn của trời cho
Muốn dỡ, có sao đâu
Dỡ để luộc,
dỡ để gùi,
được tất.
Một trung đoàn ư?
Một sư đoàn ư?
Thả sức!
Đây nồi sắn Thạch Sanh mà,
không thể hết, đừng lo!
Vào đây lần đầu xin bạn nhớ cho
Có thói quen của người đi trước ta để lại
Dỡ một gốc hãy trồng thêm mấy gốc
Gặp bom phạt cây nào,
nhặt cành gãy,
trồng thay.
Bọn tôi đi vào những rừng sắn ở đây
Cây mới nhú mầm,
cây đã tầm tay với.
Đội ngũ sắn cũng có nhiều lứa tuổi
Cũng như là trong đội ngũ chúng ta”.
Hoàng Kim thuở ấy là người lính Tây Nguyên và miền Đông và đã từng viết bài thơ “Câu cá bên dòng Sêrêpôk” và “Nhớ miền Đông”. Cây sắn gắn bó thân thiết với tôi từ tuổi thơ cơm ngày một bữa gian khổ đi học cho đến những ngày làm người lính chiến trường của Tây Nguyên và miền Đông khốc liệt mà tôi đã kể cho bạn nghe trong “Thầy bạn là lộc xuân“. Khi yêu tha thiết Tổ Quốc mình, yêu vô cùng người và đất này thì chúng ta mới có thể sống chết với Việt Nam và Cây Lương Thực sắn khoai ngô lúa.
Câu cá bên dòng Sêrêpôk
Bạn chèo thuyền trên sông Neva
Có biết nơi này mình câu cá?
Srepok giữa mùa mưa lũ
Sốt rừng, muỗi vắt, đói cơm.
Suốt dọc đường hành quân
Máy bay,
pháo bầy,
thám báo,
mưa bom.
Chốt binh trạm giữa rừng
Người bạn thân
Lả người
Vì cơn rét đậm.
Thèm một chút cá tươi,
Mình câu cá
Cho bữa cơm người thân
mà nước mắt
đời người
rơi, rơi…
mặn đắng.
Bạn ơi
Con cá nhỏ trên dòng Srepok
Đã theo dòng thác cuốn đi rồi.
Đất nước nghìn năm
Trọn lời thề
Sống chết thủy chung
với dân tộc mình
Muôn suối nhỏ
Đều đi về biển lớn.
Nhớ miền Đông
Giữa ngày vui nhớ miền Đông
Nôn nao lòng lại giục lòng nhớ thương
Chân đi muôn dặm nẻo đường
Phải đâu cứ đất quê hương mới là
Đêm nằm nghe gió thoảng qua
Nồng thơm hương lúa, đậm đà tình quê
Chợt dưng lòng lại gọi về
Vùng quê xa với gió hè miền Đông
Vục đầu uống ngụm nước trong
Nhớ sao Vàm Cỏ ngọt dòng sông xanh
Nhớ từ xóm Giữa xa em
Nhớ lên Bù Đốp, Lộc Ninh, xóm Chùa
Xa em từ bấy đến chừ
Một vầng trăng sáng, xẽ chia đôi miền
Em về Châu Đốc, Long Xuyên
Anh lên Srêpốc với niềm nhớ thương
Nằm đêm lưng chẳng tới giường
Nghe chao cánh võng giữa rừng đêm khuya
Chăm chăm theo nét bản đồ
Cùng anh, cùng bạn tiến vô Sài Gòn
Giữa ngày vui nhớ miền Đông
Nhớ em, nhớ bạn, thuỷ chung vẹn toàn
Phải vì vất vả gian nan
Của bao năm đặm nhớ thương đến rày …
Non sông những tháng năm này
Lọc muôn sắc đỏ cho ngày hội vui
Nhớ em trong dạ bùi ngùi …
Trông trời hoa, nhớ đất trời miền Đông”
NGƯỜI LÍNH CÂY SẮN TUỔI THƠ
Như bao người lính khác trở về sau chiến tranh, thầy Đào Thế Tuấn, anh Trần Mạnh Báo, anh Trần Ngọc Quyền, anh La Đức Vực,… và tôi đều chọn cây lương thực (lúa ngô sắn khoai để nghiên cứu và giảng dạy vì sắn khoai ngô lúa đều là máu thịt của đời mình. Tôi vinh dự làm người thầy khoa học xanh chiến sĩ nhận huy hiệu 40 năm tuổi Đảng ngày 4 tháng năm 2014 và đã từng xúc động phát biểu trước toàn thể Đảng bộ Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh : “Bao năm Trường Viện là nhà / Sắn khoai ngô lúa đều là thịt xương / Một đời người một rừng cây / Thầy ươm giống tốt để mai thành rừng”. Gia đình nông nghiệp chúng tôi nhiều thầy bạn suốt đời chuyên tâm sắn khoai mà tôi chỉ là một người trong đội ngũ đó. Sắn miền Đông, sắn Tây Nguyên, sắn miền Trung, sắn Tây Bắc Đông Bắc thực sự thân thiết trong đời sống văn hóa xã hội của người dân các vùng này.
Cây sắn là một phần máu thịt của người dân trung du và vùng núi Việt Nam, một phần máu thịt người lính trong cuộc chiến sinh tử. Tôi viết trên facebook cho Lâm Cúc, Hoàng Đại Nhân, anh Phan Chi cùng những người bạn thân thiết của mình về bài sắn này “Đến với Tây Nguyên mới”, “Về nơi cát đá miền Trung”, “nhớ miền Đông” “Cách mạng sắn Việt Nam” Tôi chỉ mới phác thảo (notes) vì thấy quá cần thiết và ý nghĩ vụt đến mà chưa kịp chắp nối lại liền mạch. Tôi nay đọc lại các bài của Nguyên Ngọc, Văn Công Hùng , Hoàng Đại Nhân về Tây Nguyên mà bùi ngùi nhớ những người bạn đã mất như Trần Ngọc Quyền, Cao Xuân Tài, La Đức Vực, Phạm Trung Nghĩa … mà các công việc của họ dấn thân cho người dân lam lũ và cây lương thực chưa kịp chép lại. Tôi nhớ nôn nao bài thơ “sắn Tây Nguyên” của thượng tướng Đặng Vũ Hiệp mà tôi không thể để lại chậm hơn nữa việc chép lại, rồi có thời gian tôi sẽ viết tiếp…
Với tôi “người lính cây sắn và tuổi thơ” là điều ám ảnh.
Sắn khoai là thức ăn thân thiết của tuổi thơ lứa chúng tôi ở những vùng quê nghèo khó. Gạo là thức ăn chính của 100% người dân Việt, ngô, khoai sắn là cửa ải của vấn đề lương thực, là thức ăn không thể thiếu của người dân và gia súc vùng cao. Đất thấp trồng lúa, nơi cao trồng màu. Nước lấy dân làm gốc. Dân lấy ăn làm trời. Bài học đầu đời từ tuổi thơ đến chiến trường đã ám ảnh chúng tôi những năm tháng không thể nào quên.
Giáo sư Norman Bourlaug cha đẻ của cách mạng xanh đã có một câu nói rất thấm thía: ” Đời người tối thiểu phải ăn, kế đến là học tập, công việc, nhà ở, quần áo và chăm sóc sức khỏe. Quanh ta còn nhiều mảnh đời bất hạnh. Hiểm họa nghèo đói vẫn bùng phát bất cứ lúc nào. Hãy luôn nhớ điều đó”; “Hãy vươn tới những vì sao. Cho dù không chạm được vào nó, nhưng nếu cố gắng hết sức, ít ra, chúng ta cũng chạm được những hạt bụi của ngôi sao”; Lời Thầy dặn tôi thật tâm đắc: “Việc chính đời người chỉ ít thôi. Chuyên tâm đừng bận chuyện trời ơi. Phúc hậu suốt đời làm việc thiện. Di sản muôn năm mãi sáng ngời”.
Các anh Trần Ngọc Quyền, Cao Xuân Tài, La Đức Vực … và tôi đều là những người lính từ các vùng quê nghèo khó nhọc nhằn và các đơn vị khác biệt, lúc trở về học tiếp ở trường nông nghiệp và tốt nghiệp đại học đều lựa chọn gắn bó trọn đời mình với nghiên cứu hoặc giảng dạy cây lương thực sắn, khoai ngô lúa. “Trần Ngọc Quyền người lính và cây sắn” là một thí dụ điển hình của người lính trở về sau cuộc chiến tranh giải phóng và thống nhất Tổ Quốc. Anh Trần Ngọc Quyền đã gắn bó suốt đời với nghiên cứu phát triển cây sắn. Anh là tác giả chính của giống sắn KM94, KM60 được Nhà nước công nhận cấp quốc gia áp dụng toàn quốc, góp phần xóa đói giảm nghèo, làm giàu cho nhiều địa phương và gia đình. Anh đã cùng đồng đội dấn thân thầm lặng cho đời sống người dân no đủ hơn như người lính không tiếc xương máu trên chiến trường cho đất nước sống mãi. Được mùa chớ phụ sắn khoai. Anh Trần Ngọc Quyền cùng chúng tôi tự hào lưu dấu đời mình là tác giả chính của gi61ng sắn KM94 chủ lực đầu tiên làm thay đổi hẵn diện mạo ngành sắn Việt Nam.
Một đội ngũ đông đảo các nhà khoa học, nhà giáo, nhà khuyến nông, nhà quản lý và người dân lao động giỏi ngành sắn đã tự nguyện dấn thân, tận tụy, say mê cho sự bảo tồn và phát triển bền vững ngành sắn Việt Nam như thế. Nền tảng khoa học và nghệ thuật chọn tạo giống sắn tốt đến nghiên cứu hoàn thiện quy trình biện pháp kỹ thuật thâm canh sắn tổng hợp, phù hợp cho từng vùng từng vụ. Sự lựa chọn vụ trồng và thời điểm thu hoạch hợp lý cho giống sắn tốt nhất, cách bón phân cân đối hiệu quả, cách phòng trừ sâu bệnh chính hại sắn, cách tăng năng suất hạ giá thành sản phẩm sắn để nâng sức cạnh tranh cây trồng, đến sự kết nối sản xuất chế biến tiêu thụ hiệu quả để có thu nhập tốt hơn cho người dân. Đó là những kinh nghiệm và bài học thực tiễn nóng hổi, những bí quyết nghề nông và kỹ năng thực hành chuyên nghiệp.
ĐẾN VỚI TÂY NGUYÊN MỚI
Nguyễn Bạch Mai viết:” Khai mạc Lễ hội Cà phê Buôn Ma Thuột lần thứ 7. Hy vọng Lễ hội sẽ thành công và mang lại niềm vui cho người nông dân quê tôi”. Đến với Tây Nguyên chúng ta thật vui mừng đang cùng đi trong một đội ngũ tâm huyết, thao thức một niềm tin và ước vọng. Các ngành hàng nông nghiệp Việt Nam đangchuyển đổi và vươn tới mạnh mẽ đầy sức xuân.
Tôi bắt đầu ký ức Đến với Tây Nguyên mới bằng bài thơ Câu cá bên dòng Sêrêpôk .tôi viết tại binh trạm gần Buôn Đôn và ít năm sau, khi tôi đã về miền Đông thì đó là nơi rất gần trận Buôn Mê Thuột ngày 10 tháng 3 năm 1975, Chiến tranh Việt Nam Quân Giải phóng bắt đầu tiến đánh Buôn Ma Thuột trong Chiến dịch Tây Nguyên, và chiếm lĩnh thị xã vào hôm sau. Tôi nhớ về Cách mạng sắn Việt Nam thành tựu và bài học là điểm sáng toàn cầu được vinh danh tại Hội thảo Cây Có Củ Thế Giới được tổ chức tại Nam Ninh, Quảng Tây, Trung Quốc từ ngày 18 đến ngày 22 tháng 1 năm 2016 trong đó có câu chuyện sắn Miền Đông, sắn Tây Nguyên “Người lính cây sắn tuổi thơ“.
Chúng ta cùng thăm sắn Tây Nguyên với tiến sĩ Nguyễn Bạch Mai, người có luận án tiến sĩ sắn năm 2018 ”Nghiên cứu kỹ thuật rãi vụ sắn tại tỉnh Đăk Lắk”. Đó là câu chuyện tìm giống sắn mới và kỹ thuật rãi vụ sắn thích hợp ở Tây Nguyên. Chuỗi công việc cải tiến hệ thống sản xuất tiêu thụ sắn vùng Tây Nguyên, bảo tồn và phát triển sắn, vẫn đang tiếp nối. Đến với Tây Nguyên mớihttps://hoangkimlong.wordpress.com/category/den-voi-tay-nguyen-moi-2/
Dạy và học Giáo dục Văn hóa, Nông Nghiệp Việt Nam, Khoa học Cây trồng, Du lịch Sinh thái … bước khởi đầu là phải tìm hiểu con người, kế đến là thực sự sống với thiên nhiên, nghiên cứu các nét đặc trưng tiêu biểu nhất của vùng đất.
Đến với Tây Nguyên mới là đến với một thế hệ Tây Nguyên mới, Có những lớp sinh viên như thế : Lắng nghe chăm chú, hỏi thông minh, học và làm sáng tạo. Những câu chuyện về họ là câu chuyện đời thực như suối nguồn tươi trẻ, thao thiết chảy mãi không ngừng. Chúc các bạn nổ lực học tập để khởi nghiệp thành công.
Theo dấu chân của người dẫn đường. Chúng ta hãy cùng đọc kỹ bức thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Đại hội các dân tộc thiểu số miền Nam tại Pleyku. Bác viết ở Hà Nội ngày 19 tháng 4 năm 1946 với lời thề đại đoàn kết toàn dân nay được khắc trên đá hoa cương đặt tại Quảng trường. Chúng ta đọc để cùng thấu hiểu và chung sức nổ lực cho sự kết nối con người các dân tộc Việt, cho Phân hiệu Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh tại Gia Lai tỏa sáng và phát triển bền vững. Chúng ta hãy cùng đọc lại thật kỹ, chậm từng giọt chữ: “Phát triển bền vững ở Tây Nguyên” của Cụ Nguyên Ngọc ở cuối bài Đến với Tây Nguyên mới