Số lần xem
Đang xem 498 Toàn hệ thống 1176 Trong vòng 1 giờ qua
Trang liên kết
Tỉnh thức
giữa đêm thiêng Yên Tử
Để thấm hiểu đức Nhân Tông
Ta thành tâm đi bộ
Lên tận đỉnh chùa Đồng
Tâm sáng Ức Trai
trong tựa ngọc TÌNH YÊU CUỘC SỐNG
DẠY VÀ HỌC Để chấn hưng giáo dục Việt Nam cấp thiết phải có đội ngũ những người thầy giáo ưu tú có tâm đức thiết tha với nghề, có trình độ chuyên môn cao và có kỹ năng giảng dạy tốt. Đây là trang thông tin chuyên đề dạy và học để trao đổi và bàn luận
Norman Borlaug Lời Thầy dặn Việc chính đời người chỉ ít thôi
Chuyên tâm đừng bận chuyện trời ơi
Phúc hậu suốt đời làm việc thiện
Di sản muôn năm mãi sáng ngời.
Câu chuyện ảnh tháng Tư: Anh Duy-Man Vu viết: “Tin thật buồn: hôm nay nhà thờ Notre Dame Paris đã bị cháy rụi. Đi nhiều nơi, mình vẫn thấy Paris là thành phố đáng yêu nhất, và Notre Dame với sông Seine là những biểu tượng thật đẹp và quý giá của Paris.”. Cám ơn anh. Chia sẻ nỗi buồn Nhà thờ đức Bà Paris” nhói đau sự mất mát một kiệt tác. Xin lưu về CNM365. Chào ngày mới 16 tháng 4https://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-16-thang-4/
THẦY BẠN TRONG ĐỜI TÔI
Hoàng Kim
Bạn tốt khó tìm, khó bỏ lại, và không thể quên lãng. Good friends are hard to find, harder to leave, and impossible to forget. Lưu ảnh một số thầy bạn quý ngày này năm xưa và trang thơ HOÀNG NGỌC DỘ KHÁT VỌNG. Có những di sản tỉnh thức cùng lương tâm không thể nào quên: Dặn con cháu khiêm nhu cần kiệm; Cảnh mãi đeo người được đâu em Hết khổ, hết cay, hết vận hèn Nghiệp sáng đèn giời đang chỉ rõ Rồi đây cay đắng chẳng buồn chen; Không vì danh lợi đua chen. Thù nhà nợ nước quyết rèn bản thân; Soi mặt mình trong gương không bằng soi mặt mình trong lòng người
HOÀNG NGỌC DỘ KHÁT VỌNG
Thơ anh Hai của Hoàng Kim:
ÁNH SAO
Hoàng Ngọc Dộ
Bóng đêm trùm kín cả không trung
Lấp lánh phương Đông sáng một vừng
Mây bủa, mây giăng còn chẳng ngại
Hướng nhìn trần thế bạn văn chương.
LỜI NGUYỀN
Hoàng Ngọc Dộ
Không vì danh lợi đua chen
Thù nhà, nợ nước, quyết rèn bản thân!
Ước hẹn anh em một lời nguyền
Thù nhà đâu sá kể truân chiên
Bao giờ đền được ơn trung hiếu
Suối vàng nhắm mắt mới nằm yên.
MẠ ƠI
Hoàng Ngọc Dộ
Chẵn tháng
Đã chẵn tháng rồi, ôi Mạ ôi!
Tuần trăng tròn khuyết đã hết rồi
Mà con không thấy đâu bóng Mạ
Thấy trăng vắng Mạ dạ bùi ngùi.
Năm mươi ngày
Năm mươi ngày chẵn thấm thoắt trôi
Mạ về cỏi hạc để con côi
Vầng trăng tròn trặn vừa hai lượt
Vắng Mạ, lòng con luống ngậm ngùi.
Đọc sách
Con đọc sách khuya không nghe tiếng Mạ
Nỗi tâm tư con nghĩ miên man
Lúc Mạ còn, con bận việc riêng con
Không đọc được để Mạ nghe cho thỏa dạ.
Nay con đọc, vắng nghe tiếng Mạ
Nỗi bùi ngùi lòng dạ con đau
Sách mua về đọc Mạ chẵng nghe đâu
Xót ruôt trẻ lòng sầu như cắt.
Mạ ơi Mạ, xin Mạ hãy nghe lời con đọc.
Buồn
Buồn khi rão bước đồng quê
Buồn khi chợp mắt Mạ về đâu đâu
Buồn khi vắng Mạ dạ sầu
Buồn khi mưa nắng giải dầu thân Cha
Buồn khi sớm tối vào ra
Ngó không thấy Mạ, xót xa lòng buồn.
CHIA TAY BẠN QUÝ
Hoàng Ngọc Dộ
Đêm ngày chẳng quản đói no
Thức khuya dậy sớm lo cho hai người
Chăm lo văn sách dùi mài
Thông kim bác cổ, giúp đời cứu dân
Ngày đêm chẵng quản nhọc nhằn
Tối khuyên, khuya dục, dạy răn hai người
Mặc ai quyền quý đua bơi
Nghèo hèn vẫn giữ trọn đời thủy chung
Vận nghèo giúp kẻ anh hùng
Vận cùng giúp kẻ lạnh lùng vô danh
Mặc ai biết đến ta đành
Dăm câu ca ngợi tạc thành lời thơ
Hôm nay xa vắng đồng hồ
Bởi chưng hết gạo, tớ cho thay mày
Mày tuy gặp chủ tốt thay
Nhớ chăng hôm sớm có người tri ân.
THỨC EM DẬY
Hoàng Ngọc Dộ
Đã bốn giờ sáng
Ta phải dậy rồi
Sao mai chơi vơi
Khoe hào quang sáng
Ta kêu Kim dậy
Nó đã cựa mình
Vớ vẫn van xin
Cho thêm chút nữa.
Thức, lôi, kéo, đỡ
Nó vẫn nằm ỳ
Giấc ngủ say lỳ
Biết đâu trời đất
Tiếc giấc ngủ mật
Chẳng chịu học hành
Tuổi trẻ không chăm
Làm sao nên được
Đêm ni, đêm trước
Biết bao là đêm
Lấy hết chăn mền
Nó say sưa ngủ
Ta không nhắc nhủ
Nó ra sao đây
Khuyên em đã dày
Nó nghe chẳng lọt
Giờ đây ta quyết
Thực hiện nếp này
Kêu phải dậy ngay
Lay phải trở dậy
Quyết tâm ta phải
Cố gắng dạy răn
Để nó cố chăm
Ngày đêm đèn sách
Ta không chê trách
Vì nó tuổi thơ
Ta không giận ngờ
Vì nó tham ngủ
Quyết tâm nhắc nhủ
Nhắc nhủ, nhắc nhủ …
NẤU ĂN
Hoàng Ngọc Dộ
Ngày một bữa đỏ lửa
Ngày một bữa luốc lem
Ngày một bữa thổi nhen
Ngày một bữa lường gạo
Ngày một bữa tần tảo
Ngày một bữa nấu ăn.
(*) 5 năm cơm ngày một bữa
NỖI LÒNG
Hoàng Ngọc Dộ
Nhá củ lòng anh nhớ các em
Đang cơn lửa tắt khó thắp đèn
Cảnh cũ chưa lìa đeo cảnh mới
Vơi ăn, vơi ngủ, với vơi tiền
Cảnh mãi đeo người được đâu em
Hết khổ, hết cay, hết vận hèn
Nghiệp sáng đèn giời đang chỉ rõ
Rồi đây cay đắng chẳng buồn chen.
DỰ LIÊN HOAN
Hoàng Ngọc Dộ
Hôm nay anh được chén cơm ngon
Cửa miệng anh ăn, nuốt chả trơn
Bởi lẽ ngày dài em lam lũ
Mà sao chỉ có bữa cơm tròn.
NHỚ NGƯỜI XƯA
Hoàng Ngọc Dộ
Ông Trình, ông Trãi, ông Du ơi
Chí cả ngày xưa Cụ trả rồi
Có biết giờ đây ai khắc khoải
Năm canh nguyệt giãi gợi lòng tôi
Bó gối mười năm ở nội thành
Thầy xưa đã rạng tiết thanh danh
Tớ nay vương nợ mười năm lẽ
Sự nghiệp Thầy ơi rạng sử xanh.
EM ỐM
Hoàng Ngọc Dộ
Bồn chồn khi được tin nhà
Rằng người xương thịt nay đà bị đau
Nghĩ mình là kẻ đỡ đầu
Mà sao phải chịu lao đao chốn này.
ĐÊM RÉT THƯƠNG EM
Hoàng Ngọc Dộ
Đêm này trời rét, rét ghê
Ta thương chiến sĩ dầm dề gió sương
Thương em lặn lội chiến trường
Chăn không, áo mỏng, gió sương dạn dày.
EM VỀ
Hoàng Ngọc Dộ
Em về anh biết nấu chi
Ba lần khoai sắn, kể chi cá gà
Thương em lặn lội đường xa
Về nhà khoai sắn, dưa cà cùng anh
Bao giờ giặc Mỹ sạch sanh
Em về anh thết cơm canh cá gà
Mùng vui kể chuyện nước nhà
Gia đình đoàn tụ thật là đượm vui.
LÀM ĐỒNG
Hoàng Ngọc Dộ
Làm đồng đang buổi ban trưa
Mồ hôi thánh thót, say sưa với đồng
Chung tay liềm hái cuốc chòng
Ngày nay nhỏ giọt, mai lòng sướng vui.
Làm đồng nắng sém, da hui
Ai ơi xin chớ tham hời của dân
Khổ cay nắng sém da hồng
Xuân xanh già dặn với đồng, ai ơi!
NGẮM TRĂNG
Hoàng Ngọc Dộ
Nằm ngữa trong nhà ngắm Hằng Nga
Hợp cảnh, hợp tình, Hằng ngắm lại
Hợp nhà, hợp cửa, ả rọi hoa
Từng đám vòng tròn nằm giữa chiếu
Chiếu thế mà ra lại chiếu hoa
Hậu Nghệ thuở xưa sao chị ghét
Ngày nay mới biết ả yêu ta.
NHÀ DỘT
Hoàng Ngọc Dộ
Lã chã đêm đông giọt mưa phùn
Lách qua tranh rạ nhỏ lung tung
Chiếu giường ướt đẫm, thân đâu thoát
Nghĩ cảnh nhà hoa thật não nùng.
QUA ĐÈO NGANG
Hoàng Ngọc Dộ
Qua đèo Ngang, qua đèo Ngang
Rừng thẳm Hoành Sơn giống bức màn
Tường thành hai dãy nhiều lũy nhỏ
Gió chiều lướt thổi nhẹ hơi hương
Cổng dinh phân định đà hai tỉnh
Cheo leo tầng đá, giá hơi sương
Người qua kẻ lại đều tức cảnh
Ta ngẫm thơ hay của Xuân Hương (1)
(1) Thơ Xuân Hương:
“Một đèo, một đèo, lại một đèo
Khen ai khéo tạc cảnh cheo leo …”
CUỐC ĐẤT ĐÊM
Hoàng Ngọc Dộ
Mười lăm trăng qủa thật tròn
Anh hùng thời vận hãy còn gian nan
Đêm trăng nhát cuốc xới vàng
Trăng dòm, ta hẹn, trăng càng dòm thêm
Đất vàng, vàng ánh trăng đêm
Đêm khuya, ta với nàng quên nhọc nhằn.
Hoàng Ngọc Dộ (1937-1994) là nhà giáo. Ông quê ở xã Quảng Minh, huyện Quảng Trạch (nay là thị xã Ba Đồn), tỉnh Quảng Bình. Mẹ mất sớm. Nhà nghèo. Cha bị bom Mỹ giết hại. Ông đã nổ lực nuôi dạy các em vượt qua gian khổ, nghèo đói và chiến tranh để vươn lên trở thành những gia đình thành đạt và hạnh phúc. Gương nghị lực vượt khó hiếm thấy, ăn ngày một bữa suốt năm năm, nuôi hai em vào đại học với sự cưu mang của thầy bạn và xã hội đã một thời lay động sâu xa tình cảm thầy trò Trường Cấp Ba Bắc Quảng trạch (Quảng Bình). Ông mất sớm, hiện còn lưu lại gần 100 bài thơ. Lời thơ trong sáng, xúc động, ám ảnh, có giá trị khích lệ những em học sinh nhà nghèo, hiếu học. Hoàng KimHoang Long đã chọn lưu lại trên Thi Viện một số bài tiêu biểu cách đây 15 năm. Nay nhân lưu ảnh giáo sư Đào Thế Tuấn (thân phụ PGS The Anh Dao) thăm Trung tâm Hưng Lộc và nhà Kim Hoàng , cùng với hình ảnh GS Võ Tòng Xuân và anh Nguyễn Gia Quốc ở Huế, GS Peter Vanderzaag GS Vũ Đình Hòa và TS Pham Xuan Tung ở CIP vùng 7 Philippines, GS Vũ Công Hậu, với chuyên gia Viện Vavilop Nga và Phạm Huy Trung ở Hưng Lộc; nhóm bạn học Mai Thành Phụng, Nguyễn Đăng Nghĩa, Đặng Kim Sơn, Phan Kiếm, Hoàng Kim … gợi lưu lại một số kỷ niệm quý Câu chuyện ảnh tháng Tư: Thầy bạn trong đời tôi https://hoangkimlong.wordpress.com/category/thay-ban-trong-doi-toi/
THẦY BẠN TRONG ĐỜI TÔI Hoàng Kim
chia sẻ với quý thầy bạn và các em sinh viên bài viết cảm động ‘Con đường dẫn tôi đến làm Thầy’ của PGS.TS Phan Thanh Kiếm (Phan Kiếm). Thầy Kiếm là một người thầy tận tâm chuyên dạy Di truyền Thực vật, Chọn giống Cây trồng và Công nghệ Hạt giống ở Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh, đã hướng dẫn thành công nhiều sinh viên và học viên sau đại học, biên soạn 5 sách giáo trình và chuyên khảo cẩm nang nghề nông được nhiều người đọc. Thầy Kiếm thật sâu sắc trong tổng kết thực tiễn với lời văn khoa học giản dị mạch lạc và chính xác. Tôi nói với anh Hinh Lâm Quang ” Mình trích dẫn trong bài viết “Nguyễn Khải ngọc cho đời”: “Trên cuộc đời không có bước đường cùng, chỉ có những ranh giới, điều cốt yếu là phải vượt qua được những ranh giới ấy”.“Tôi viết vậy thì tôi tồn tại! Viết văn không chỉ do nhu cầu kiếm sống, viết văn cũng không chỉ do những bức xúc khôn khuây của cá nhân, mà viết còn là mong muốn được trao trở về với cái vô hạn”. Anh Phan Kiếm có năng khiếu trao lại những di sản tử tế ấy. Tôi sẽ chép lại bài viết xuất sắc tâm huyết này của anh Phan Kiếm trong ngày mới hôm nay 16 tháng 4 . https://hoangkimlong.wordpress.com/…/thay-ban-trong-doi-toi/
CON ĐƯỜNG DẪN TÔI ĐẾN LÀM THẦY
“Trên con đường ấy, tôi đã nhận được sự giúp đỡ sẻ chia của nhiều người” Phan Thanh Kiếm
Hồi còn học Đại học, có thầy lãnh đạo Khoa có nhã ý muốn giữ tôi lại trường để làm cán bộ giảng dạy. Tôi cảm ơn thầy và từ chối với lý do “chất giọng miền Trung mà lại quá đặc biệt” của tôi sẽ không thể giúp tôi làm tốt vai trò ấy. Sau khi tốt nghiệp (1975), tôi về công tác tại Viện Nghiên cứu cây công nghiệp, cây ăn quả và cây làm thuốc thuộc Bộ Nông nghiệp đóng tại Phú Thọ và được phân công về Bộ môn nghiên cứu mía. Mấy tháng sau tôi được điều động vào làm việc tại Trung tâm Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam Trung bộ đóng tại Ninh Thuận (nay là Viện Nghiên cứu Bông và Phát triển Nông nghiệp Nha Hố).
Sau vài năm công tác, Trung tâm có mở một Trường bổ túc văn hóa ban đêm để dạy cho cán bộ công nhân viên và bà con lân cận. Tôi được phân công chủ nhiệm lớp 12, dạy môn toán cho các lớp 11, 12 và nhận phụ đạo môn toán cho vài ba người đã tốt nghiệp cấp 3, có nguyện vọng đi dự thi Đại học. Tuy giảng dạy không lương nhưng tôi cảm thấy vui vì học viên thường xuyên đến lớp đầy đủ, không khí học tập nghiêm túc, có sổ điểm danh, có bài kiểm tra 15 – 20 phút và thi hết môn học đàng hoàng. Tôi còn nhớ, có một buổi, Giám đốc Trung tâm đột nhiên đến “dự giờ”. Gọi là dự giờ chứ thực ra giám đốc đi kiểm tra tình hình học tập và trước khi về phòng làm việc ông ghé vào đứng nghe tôi giảng. Nghe một lúc lâu, ông nói: “giảng thế mà thi không đậu thì tại học trò dốt thôi”. Nói rồi ông lặng lẽ bước ra. Chỉ một câu nói ấy, nó không chỉ thúc giục học viên phải tích cực học tập mà còn động viên tôi rất nhiều. Và, theo thời khóa biểu, với chiếc xe đạp cọc cạch tôi vẫn lên lớp đều đặn. Tôi đã trở thành “thầy nghiệp dư” từ hồi đó.
Trải qua những năm tháng học tập và công tác, tôi đã học được nhiều điều. Chẳng hạn, đi thi nghiên cứu sinh đương nhiên là phải học kiến thức để thi cho đậu. Vì nếu không làm được điều đó thì ngoài việc tốn kém tiền bạc bản thân, hổ mặt với bạn bè thì vấn đề tiến thân lại lâm vào khốn khó. Vì những lẽ đó mà buộc phải học. Nhưng đằng sau cái học kiến thức ấy, có một cái học khác mà tôi “ngấm ngầm”để ý để học ở các thầy, đó là học cách truyền đạt. Tôi rất ấn tượng với phương pháp dạy toán của thầy Nguyễn Đình Hiền, cách dạy môn sinh lý thực vật của thầy Nguyễn Quang Thạch, Đại học nông nghiệp I, Hà Nội. Sau đó, tôi đã bắt chước thầy Hiền để “truyền đạt” môn xác suất thống kê cho một vài bạn chuẩn bị đi thi nghiên cứu sinh và thường tổ chức các buổi “dạy” toán thống kê và phương pháp thí nghiệm cho cán bộ nghiên cứu của Trung tâm. Tuy nhiên cho mãi tới bây giờ bài học về phương pháp giảng dạy ấy tôi vẫn còn học và sẽ phải còn học mãi.
Trong thời gian nghiên cứu sinh ở Liên Xô, tôi đã được thầy hướng dẫn cho đến dự giờ giảng của thầy, sau đó phải tập thuyết trình cho thầy xem. Rồi thầy giao cho tôi phụ trách công việc nghiên cứu và đóng góp ý kiến cho báo cáo đề tài của hai nghiên cứu sinh. Những công việc mà thầy tôi đã tập cho tôi là những bài học lớn giúp tôi rất nhiều sau này, đặc biệt là tình thương của thầy đối với học trò.
Trong thời gian làm công tác quản lý doanh nghiệp tại Công ty bông Việt Nam, nhờ sự tài trợ của FAO, công ty đã tổ chức được mấy khóa dạy về quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) cho bông theo phương pháp mới: phương pháp học kết hợp với hành, phương pháp suy luận, phương pháp hoạt động theo nhóm. Mỗi khóa học kéo dài trong suốt vụ bông. Với trách nhiệm là người quản lý, rất may mắn, tôi đã có dịp để học tập.
Đầu những năm 2000, nhiều người khuyên tôi nên tham gia “thỉnh giảng” ở một số trường. Khi đó chưa “thoáng” như bây giờ, một mặt do cấp trên không cho phép, vả lại tôi rất sợ mang tiếng “chân trong, chân ngoài” nên mặc dù rất muốn thử sức nhưng không thể thực hiện được. Thế rồi, khi Nhà nước có chủ trương cổ phần hóa các doanh nghiệp, các đơn vị thành viên của công ty bông Việt Nam lần lượt ra “ăn riêng”, tôi mới nảy ra ý định muốn chuyển hẳn về trường nào đó để dạy học. Tôi được giáo sư Nguyễn Thơ “đặt vấn đề” với thầy hiệu trưởng Bùi Cách Tuyến để “xin việc”. Vì đã luống tuổi, vào tuổi 53, tôi rất ngại sẽ làm khó cho thầy Tuyến, nhưng tôi đã may mắn: nguyện vọng của tôi đã được chấp nhận khá nhanh chóng.
Tôi còn nhớ như in cái “ngày nói dối”, ngày 1 tháng 4 năm 2005, ngày mà tôi đến trường với công việc mới. Tất cả đều còn xa lạ đối với tôi. Hình ảnh các “cháu” sinh viên ngồi học rải rác ở bậc cầu thang lên xuống để lại cho tôi ấn tượng mạnh nhất. Sau này tôi mới biết các em đang ôn lại bài trước giờ thi. Tôi hết sức xúc động không phải vì tôi nhớ lại hình ảnh hơn 30 năm trước của mình. Hồi đó là thời chiến, nhà chúng tôi học là nhà nền đất, vách trát đất, làm sao có được hình ảnh giống như bây giờ để mà nhớ. Tôi xúc động vì trên những khuôn mặt chăm chú ấy chứa đầy nghị lực và cả những âu lo. Tôi thầm hỏi: trong số các em ngồi ở đây có bao nhiêu em gia đình có đủ điều kiện chăm lo sức khỏe để các em có sức mà học. Chắc chắn là không nhiều. Đa số các em, bố mẹ còn rất vất vã, số tiền bố mẹ cho, các em phải chi cho cho nhiều việc nên ăn uống chắc chắn là còn kham khổ, lấy sức đâu để học. Nghĩ thế, rồi tôi nhìn các em, có gì đó trào dâng trong tôi.
Ngày mới về trường, tôi biết có nhiều người để ý. Có một số người đến hỏi thăm, giúp đỡ, nhưng tôi nghĩ, chắc là có nhiều người đặt câu hỏi: Ông ấy già thế, từ doanh nghiệp về, chẳng biết trình độ thế nào, có dạy được không?. Nghĩ thế nên tôi càng phải cố gắng. Tôi được thầy Trưởng khoa Lê Quang Hưng tin tưởng, động viên và giúp đỡ rất nhiều. Thầy đã phân công cho tôi dạy môn Chọn giống cây trồng đúng theo chuyên ngành của tôi và phụ trách bộ môn Di truyền – Giống. Cuối năm đó (2005) tôi có quyết định chính thức bổ nhiệm Trưởng bộ môn của Hiệu trưởng. Lúc tôi về, năm học 2004-2005 chuẩn bị kết thúc, 4 tháng nữa (giữa tháng 8) là bắt đầu học kỳ I năm học mới 2005-2006 nên tôi phải chuẩn bị ngay bài giảng và phải trình giảng trước khoa trước khi lên lớp cho sinh viên. Thực sự tôi không lo về vốn kiến thức, chỉ lo “diễn xuất” thế nào cho ra tư thế người thầy, cách trình bày thế nào cho sinh viên dễ hiểu.
Thế rồi sau một thời gian ngắn tôi đã soạn xong bài giảng và bắt tay viết lại giáo trình. Thầy trưởng khoa cho biết tôi sẽ trình giảng vào chiều ngày 29/8 tại phòng làm việc của Bộ môn, có sự tham dự của Chủ tịch công đoàn Khoa, các giảng viên trong khoa. Trước đó mấy ngày, tôi nhờ cô Trần Thị Thiên An, giảng viên Bộ môn bảo vệ thực vật đóng hai vai: vừa làm hội đồng, vừa làm “sinh viên” cho tôi giảng thử. Tôi chọn bài: “Mô hình toán di truyền” vừa mới lại vừa khó đối với sinh viên để trình bày. Nghe xong, cô An “phán”: Tốt đấy. Tôi mừng nhưng vẫn nghi đó là lời nhận xét “chiếu cố” nên tôi kiểm tra lại sự tiếp nhận kiến thức của cô “sinh viên bất đắc dĩ” này và tôi đã nhận được sự khích lệ khi cô “sinh viên” đó đã nắm được nội dung bài giảng của tôi. Vì chưa an tâm, nhân dịp cô Từ Bích Thủy – Trưởng bộ môn của tôi đã nghĩ hưu đến thăm Khoa, tôi tranh thủ giảng thử cho cô nghe và cũng được cô “duyệt”. Sau buổi trình giảng trước khoa, trong biên bản được ký bởi Trưởng khoa, Chủ tịch công đoàn và Thư ký, hội đồng thống nhất kết luận: “Đạt yêu cầu cao, đủ sức giảng dạy cho Đại học và Cao học”. Tôi biết trong lời nhận xét ấy có phần động viên khích lệ nhưng nó đã giúp tôi tự tin khi bước vào “trận mới”. Đến giờ tôi vẫn còn lưu giữ biên bản ấy như là một lời nhắc nhở: hãy làm cho tốt để không phụ lòng của mọi người.
Đầu tháng 9/2005, tôi đã thực sự đứng trên bục giảng với tư cách người thầy và sau đó tham gia giảng dạy Cao học ở một vài trường. DH03NH (khóa 29) là lớp đầu tiên mà tôi đứng lớp. Em Hảo, người Tây Ninh, sinh năm 1982 làm lớp trưởng, em Liên, người Thái Bình, sinh năm 1982 làm lớp phó, em Ngà, người Bình Thuận, sinh năm 1985 làm bí thư Đoàn. Tôi điểm mặt và nhớ tên hầu hết các em: em Thuận, em Thành, 3 em Như, em Linh, em Truyền, 3 em Thảo, em Hằng, em Hồng, em Yến và nhiều em nữa. Tất cả các em đều tích cực học tâp, nhiều em học khá giỏi và gây ấn tượng rất tốt đối với tôi. Tất cả các em đã tạo dựng niềm tin đầu tiên, tiếp bước cho tôi tiếp tục sự nghiệp của mình. Lớp này tôi được phân công hướng dẫn các em: Nguyễn Thị Liên, Dương Thị Hồng, Trần Thành và Nguyễn Quốc Thịnh làm đề tài tốt nghiệp. Trong số các em tốt nghiệp năm ấy (2007), tôi biết có một số đã hoàn thành chương trình cao học, một số đang học, một số đã chuyển ngành và trong số đó có em đã lấy được bằng cao học ngành khác, vài em đã trở thành đồng nghiệp và dạy chuyên ngành của tôi ở trường kh&a
Câu chuyện ảnh tháng Tư: Anh Duy-Man Vu viết: “Tin thật buồn: hôm nay nhà thờ Notre Dame Paris đã bị cháy rụi. Đi nhiều nơi, mình vẫn thấy Paris là thành phố đáng yêu nhất, và Notre Dame với sông Seine là những biểu tượng thật đẹp và quý giá của Paris.”. Cám ơn anh. Chia sẻ nỗi buồn Nhà thờ đức Bà Paris” nhói đau sự mất mát một kiệt tác. Xin lưu về CNM365. Chào ngày mới 16 tháng 4https://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-16-thang-4/
THẦY BẠN TRONG ĐỜI TÔI
Hoàng Kim
Bạn tốt khó tìm, khó bỏ lại, và không thể quên lãng. Good friends are hard to find, harder to leave, and impossible to forget. Lưu ảnh một số thầy bạn quý ngày này năm xưa và trang thơ HOÀNG NGỌC DỘ KHÁT VỌNG. Có những di sản tỉnh thức cùng lương tâm không thể nào quên: Dặn con cháu khiêm nhu cần kiệm; Cảnh mãi đeo người được đâu em Hết khổ, hết cay, hết vận hèn Nghiệp sáng đèn giời đang chỉ rõ Rồi đây cay đắng chẳng buồn chen; Không vì danh lợi đua chen. Thù nhà nợ nước quyết rèn bản thân; Soi mặt mình trong gương không bằng soi mặt mình trong lòng người
HOÀNG NGỌC DỘ KHÁT VỌNG
Thơ anh Hai của Hoàng Kim:
ÁNH SAO
Hoàng Ngọc Dộ
Bóng đêm trùm kín cả không trung
Lấp lánh phương Đông sáng một vừng
Mây bủa, mây giăng còn chẳng ngại
Hướng nhìn trần thế bạn văn chương.
LỜI NGUYỀN
Hoàng Ngọc Dộ
Không vì danh lợi đua chen
Thù nhà, nợ nước, quyết rèn bản thân!
Ước hẹn anh em một lời nguyền
Thù nhà đâu sá kể truân chiên
Bao giờ đền được ơn trung hiếu
Suối vàng nhắm mắt mới nằm yên.
MẠ ƠI
Hoàng Ngọc Dộ
Chẵn tháng
Đã chẵn tháng rồi, ôi Mạ ôi!
Tuần trăng tròn khuyết đã hết rồi
Mà con không thấy đâu bóng Mạ
Thấy trăng vắng Mạ dạ bùi ngùi.
Năm mươi ngày
Năm mươi ngày chẵn thấm thoắt trôi
Mạ về cỏi hạc để con côi
Vầng trăng tròn trặn vừa hai lượt
Vắng Mạ, lòng con luống ngậm ngùi.
Đọc sách
Con đọc sách khuya không nghe tiếng Mạ
Nỗi tâm tư con nghĩ miên man
Lúc Mạ còn, con bận việc riêng con
Không đọc được để Mạ nghe cho thỏa dạ.
Nay con đọc, vắng nghe tiếng Mạ
Nỗi bùi ngùi lòng dạ con đau
Sách mua về đọc Mạ chẵng nghe đâu
Xót ruôt trẻ lòng sầu như cắt.
Mạ ơi Mạ, xin Mạ hãy nghe lời con đọc.
Buồn
Buồn khi rão bước đồng quê
Buồn khi chợp mắt Mạ về đâu đâu
Buồn khi vắng Mạ dạ sầu
Buồn khi mưa nắng giải dầu thân Cha
Buồn khi sớm tối vào ra
Ngó không thấy Mạ, xót xa lòng buồn.
CHIA TAY BẠN QUÝ
Hoàng Ngọc Dộ
Đêm ngày chẳng quản đói no
Thức khuya dậy sớm lo cho hai người
Chăm lo văn sách dùi mài
Thông kim bác cổ, giúp đời cứu dân
Ngày đêm chẵng quản nhọc nhằn
Tối khuyên, khuya dục, dạy răn hai người
Mặc ai quyền quý đua bơi
Nghèo hèn vẫn giữ trọn đời thủy chung
Vận nghèo giúp kẻ anh hùng
Vận cùng giúp kẻ lạnh lùng vô danh
Mặc ai biết đến ta đành
Dăm câu ca ngợi tạc thành lời thơ
Hôm nay xa vắng đồng hồ
Bởi chưng hết gạo, tớ cho thay mày
Mày tuy gặp chủ tốt thay
Nhớ chăng hôm sớm có người tri ân.
THỨC EM DẬY
Hoàng Ngọc Dộ
Đã bốn giờ sáng
Ta phải dậy rồi
Sao mai chơi vơi
Khoe hào quang sáng
Ta kêu Kim dậy
Nó đã cựa mình
Vớ vẫn van xin
Cho thêm chút nữa.
Thức, lôi, kéo, đỡ
Nó vẫn nằm ỳ
Giấc ngủ say lỳ
Biết đâu trời đất
Tiếc giấc ngủ mật
Chẳng chịu học hành
Tuổi trẻ không chăm
Làm sao nên được
Đêm ni, đêm trước
Biết bao là đêm
Lấy hết chăn mền
Nó say sưa ngủ
Ta không nhắc nhủ
Nó ra sao đây
Khuyên em đã dày
Nó nghe chẳng lọt
Giờ đây ta quyết
Thực hiện nếp này
Kêu phải dậy ngay
Lay phải trở dậy
Quyết tâm ta phải
Cố gắng dạy răn
Để nó cố chăm
Ngày đêm đèn sách
Ta không chê trách
Vì nó tuổi thơ
Ta không giận ngờ
Vì nó tham ngủ
Quyết tâm nhắc nhủ
Nhắc nhủ, nhắc nhủ …
NẤU ĂN
Hoàng Ngọc Dộ
Ngày một bữa đỏ lửa
Ngày một bữa luốc lem
Ngày một bữa thổi nhen
Ngày một bữa lường gạo
Ngày một bữa tần tảo
Ngày một bữa nấu ăn.
(*) 5 năm cơm ngày một bữa
NỖI LÒNG
Hoàng Ngọc Dộ
Nhá củ lòng anh nhớ các em
Đang cơn lửa tắt khó thắp đèn
Cảnh cũ chưa lìa đeo cảnh mới
Vơi ăn, vơi ngủ, với vơi tiền
Cảnh mãi đeo người được đâu em
Hết khổ, hết cay, hết vận hèn
Nghiệp sáng đèn giời đang chỉ rõ
Rồi đây cay đắng chẳng buồn chen.
DỰ LIÊN HOAN
Hoàng Ngọc Dộ
Hôm nay anh được chén cơm ngon
Cửa miệng anh ăn, nuốt chả trơn
Bởi lẽ ngày dài em lam lũ
Mà sao chỉ có bữa cơm tròn.
NHỚ NGƯỜI XƯA
Hoàng Ngọc Dộ
Ông Trình, ông Trãi, ông Du ơi
Chí cả ngày xưa Cụ trả rồi
Có biết giờ đây ai khắc khoải
Năm canh nguyệt giãi gợi lòng tôi
Bó gối mười năm ở nội thành
Thầy xưa đã rạng tiết thanh danh
Tớ nay vương nợ mười năm lẽ
Sự nghiệp Thầy ơi rạng sử xanh.
EM ỐM
Hoàng Ngọc Dộ
Bồn chồn khi được tin nhà
Rằng người xương thịt nay đà bị đau
Nghĩ mình là kẻ đỡ đầu
Mà sao phải chịu lao đao chốn này.
ĐÊM RÉT THƯƠNG EM
Hoàng Ngọc Dộ
Đêm này trời rét, rét ghê
Ta thương chiến sĩ dầm dề gió sương
Thương em lặn lội chiến trường
Chăn không, áo mỏng, gió sương dạn dày.
EM VỀ
Hoàng Ngọc Dộ
Em về anh biết nấu chi
Ba lần khoai sắn, kể chi cá gà
Thương em lặn lội đường xa
Về nhà khoai sắn, dưa cà cùng anh
Bao giờ giặc Mỹ sạch sanh
Em về anh thết cơm canh cá gà
Mùng vui kể chuyện nước nhà
Gia đình đoàn tụ thật là đượm vui.
LÀM ĐỒNG
Hoàng Ngọc Dộ
Làm đồng đang buổi ban trưa
Mồ hôi thánh thót, say sưa với đồng
Chung tay liềm hái cuốc chòng
Ngày nay nhỏ giọt, mai lòng sướng vui.
Làm đồng nắng sém, da hui
Ai ơi xin chớ tham hời của dân
Khổ cay nắng sém da hồng
Xuân xanh già dặn với đồng, ai ơi!
NGẮM TRĂNG
Hoàng Ngọc Dộ
Nằm ngữa trong nhà ngắm Hằng Nga
Hợp cảnh, hợp tình, Hằng ngắm lại
Hợp nhà, hợp cửa, ả rọi hoa
Từng đám vòng tròn nằm giữa chiếu
Chiếu thế mà ra lại chiếu hoa
Hậu Nghệ thuở xưa sao chị ghét
Ngày nay mới biết ả yêu ta.
NHÀ DỘT
Hoàng Ngọc Dộ
Lã chã đêm đông giọt mưa phùn
Lách qua tranh rạ nhỏ lung tung
Chiếu giường ướt đẫm, thân đâu thoát
Nghĩ cảnh nhà hoa thật não nùng.
QUA ĐÈO NGANG
Hoàng Ngọc Dộ
Qua đèo Ngang, qua đèo Ngang
Rừng thẳm Hoành Sơn giống bức màn
Tường thành hai dãy nhiều lũy nhỏ
Gió chiều lướt thổi nhẹ hơi hương
Cổng dinh phân định đà hai tỉnh
Cheo leo tầng đá, giá hơi sương
Người qua kẻ lại đều tức cảnh
Ta ngẫm thơ hay của Xuân Hương (1)
(1) Thơ Xuân Hương:
“Một đèo, một đèo, lại một đèo
Khen ai khéo tạc cảnh cheo leo …”
CUỐC ĐẤT ĐÊM
Hoàng Ngọc Dộ
Mười lăm trăng qủa thật tròn
Anh hùng thời vận hãy còn gian nan
Đêm trăng nhát cuốc xới vàng
Trăng dòm, ta hẹn, trăng càng dòm thêm
Đất vàng, vàng ánh trăng đêm
Đêm khuya, ta với nàng quên nhọc nhằn.
Hoàng Ngọc Dộ (1937-1994) là nhà giáo. Ông quê ở xã Quảng Minh, huyện Quảng Trạch (nay là thị xã Ba Đồn), tỉnh Quảng Bình. Mẹ mất sớm. Nhà nghèo. Cha bị bom Mỹ giết hại. Ông đã nổ lực nuôi dạy các em vượt qua gian khổ, nghèo đói và chiến tranh để vươn lên trở thành những gia đình thành đạt và hạnh phúc. Gương nghị lực vượt khó hiếm thấy, ăn ngày một bữa suốt năm năm, nuôi hai em vào đại học với sự cưu mang của thầy bạn và xã hội đã một thời lay động sâu xa tình cảm thầy trò Trường Cấp Ba Bắc Quảng trạch (Quảng Bình). Ông mất sớm, hiện còn lưu lại gần 100 bài thơ. Lời thơ trong sáng, xúc động, ám ảnh, có giá trị khích lệ những em học sinh nhà nghèo, hiếu học. Hoàng KimHoang Long đã chọn lưu lại trên Thi Viện một số bài tiêu biểu cách đây 15 năm. Nay nhân lưu ảnh giáo sư Đào Thế Tuấn (thân phụ PGS The Anh Dao) thăm Trung tâm Hưng Lộc và nhà Kim Hoàng , cùng với hình ảnh GS Võ Tòng Xuân và anh Nguyễn Gia Quốc ở Huế, GS Peter Vanderzaag GS Vũ Đình Hòa và TS Pham Xuan Tung ở CIP vùng 7 Philippines, GS Vũ Công Hậu, với chuyên gia Viện Vavilop Nga và Phạm Huy Trung ở Hưng Lộc; nhóm bạn học Mai Thành Phụng, Nguyễn Đăng Nghĩa, Đặng Kim Sơn, Phan Kiếm, Hoàng Kim … gợi lưu lại một số kỷ niệm quý Câu chuyện ảnh tháng Tư: Thầy bạn trong đời tôi https://hoangkimlong.wordpress.com/category/thay-ban-trong-doi-toi/
THẦY BẠN TRONG ĐỜI TÔI Hoàng Kim
chia sẻ với quý thầy bạn và các em sinh viên bài viết cảm động ‘Con đường dẫn tôi đến làm Thầy’ của PGS.TS Phan Thanh Kiếm (Phan Kiếm). Thầy Kiếm là một người thầy tận tâm chuyên dạy Di truyền Thực vật, Chọn giống Cây trồng và Công nghệ Hạt giống ở Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh, đã hướng dẫn thành công nhiều sinh viên và học viên sau đại học, biên soạn 5 sách giáo trình và chuyên khảo cẩm nang nghề nông được nhiều người đọc. Thầy Kiếm thật sâu sắc trong tổng kết thực tiễn với lời văn khoa học giản dị mạch lạc và chính xác. Tôi nói với anh Hinh Lâm Quang ” Mình trích dẫn trong bài viết “Nguyễn Khải ngọc cho đời”: “Trên cuộc đời không có bước đường cùng, chỉ có những ranh giới, điều cốt yếu là phải vượt qua được những ranh giới ấy”.“Tôi viết vậy thì tôi tồn tại! Viết văn không chỉ do nhu cầu kiếm sống, viết văn cũng không chỉ do những bức xúc khôn khuây của cá nhân, mà viết còn là mong muốn được trao trở về với cái vô hạn”. Anh Phan Kiếm có năng khiếu trao lại những di sản tử tế ấy. Tôi sẽ chép lại bài viết xuất sắc tâm huyết này của anh Phan Kiếm trong ngày mới hôm nay 16 tháng 4 . https://hoangkimlong.wordpress.com/…/thay-ban-trong-doi-toi/
CON ĐƯỜNG DẪN TÔI ĐẾN LÀM THẦY
“Trên con đường ấy, tôi đã nhận được sự giúp đỡ sẻ chia của nhiều người” Phan Thanh Kiếm
Hồi còn học Đại học, có thầy lãnh đạo Khoa có nhã ý muốn giữ tôi lại trường để làm cán bộ giảng dạy. Tôi cảm ơn thầy và từ chối với lý do “chất giọng miền Trung mà lại quá đặc biệt” của tôi sẽ không thể giúp tôi làm tốt vai trò ấy. Sau khi tốt nghiệp (1975), tôi về công tác tại Viện Nghiên cứu cây công nghiệp, cây ăn quả và cây làm thuốc thuộc Bộ Nông nghiệp đóng tại Phú Thọ và được phân công về Bộ môn nghiên cứu mía. Mấy tháng sau tôi được điều động vào làm việc tại Trung tâm Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam Trung bộ đóng tại Ninh Thuận (nay là Viện Nghiên cứu Bông và Phát triển Nông nghiệp Nha Hố).
Sau vài năm công tác, Trung tâm có mở một Trường bổ túc văn hóa ban đêm để dạy cho cán bộ công nhân viên và bà con lân cận. Tôi được phân công chủ nhiệm lớp 12, dạy môn toán cho các lớp 11, 12 và nhận phụ đạo môn toán cho vài ba người đã tốt nghiệp cấp 3, có nguyện vọng đi dự thi Đại học. Tuy giảng dạy không lương nhưng tôi cảm thấy vui vì học viên thường xuyên đến lớp đầy đủ, không khí học tập nghiêm túc, có sổ điểm danh, có bài kiểm tra 15 – 20 phút và thi hết môn học đàng hoàng. Tôi còn nhớ, có một buổi, Giám đốc Trung tâm đột nhiên đến “dự giờ”. Gọi là dự giờ chứ thực ra giám đốc đi kiểm tra tình hình học tập và trước khi về phòng làm việc ông ghé vào đứng nghe tôi giảng. Nghe một lúc lâu, ông nói: “giảng thế mà thi không đậu thì tại học trò dốt thôi”. Nói rồi ông lặng lẽ bước ra. Chỉ một câu nói ấy, nó không chỉ thúc giục học viên phải tích cực học tập mà còn động viên tôi rất nhiều. Và, theo thời khóa biểu, với chiếc xe đạp cọc cạch tôi vẫn lên lớp đều đặn. Tôi đã trở thành “thầy nghiệp dư” từ hồi đó.
Trải qua những năm tháng học tập và công tác, tôi đã học được nhiều điều. Chẳng hạn, đi thi nghiên cứu sinh đương nhiên là phải học kiến thức để thi cho đậu. Vì nếu không làm được điều đó thì ngoài việc tốn kém tiền bạc bản thân, hổ mặt với bạn bè thì vấn đề tiến thân lại lâm vào khốn khó. Vì những lẽ đó mà buộc phải học. Nhưng đằng sau cái học kiến thức ấy, có một cái học khác mà tôi “ngấm ngầm”để ý để học ở các thầy, đó là học cách truyền đạt. Tôi rất ấn tượng với phương pháp dạy toán của thầy Nguyễn Đình Hiền, cách dạy môn sinh lý thực vật của thầy Nguyễn Quang Thạch, Đại học nông nghiệp I, Hà Nội. Sau đó, tôi đã bắt chước thầy Hiền để “truyền đạt” môn xác suất thống kê cho một vài bạn chuẩn bị đi thi nghiên cứu sinh và thường tổ chức các buổi “dạy” toán thống kê và phương pháp thí nghiệm cho cán bộ nghiên cứu của Trung tâm. Tuy nhiên cho mãi tới bây giờ bài học về phương pháp giảng dạy ấy tôi vẫn còn học và sẽ phải còn học mãi.
Trong thời gian nghiên cứu sinh ở Liên Xô, tôi đã được thầy hướng dẫn cho đến dự giờ giảng của thầy, sau đó phải tập thuyết trình cho thầy xem. Rồi thầy giao cho tôi phụ trách công việc nghiên cứu và đóng góp ý kiến cho báo cáo đề tài của hai nghiên cứu sinh. Những công việc mà thầy tôi đã tập cho tôi là những bài học lớn giúp tôi rất nhiều sau này, đặc biệt là tình thương của thầy đối với học trò.
Trong thời gian làm công tác quản lý doanh nghiệp tại Công ty bông Việt Nam, nhờ sự tài trợ của FAO, công ty đã tổ chức được mấy khóa dạy về quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) cho bông theo phương pháp mới: phương pháp học kết hợp với hành, phương pháp suy luận, phương pháp hoạt động theo nhóm. Mỗi khóa học kéo dài trong suốt vụ bông. Với trách nhiệm là người quản lý, rất may mắn, tôi đã có dịp để học tập.
Đầu những năm 2000, nhiều người khuyên tôi nên tham gia “thỉnh giảng” ở một số trường. Khi đó chưa “thoáng” như bây giờ, một mặt do cấp trên không cho phép, vả lại tôi rất sợ mang tiếng “chân trong, chân ngoài” nên mặc dù rất muốn thử sức nhưng không thể thực hiện được. Thế rồi, khi Nhà nước có chủ trương cổ phần hóa các doanh nghiệp, các đơn vị thành viên của công ty bông Việt Nam lần lượt ra “ăn riêng”, tôi mới nảy ra ý định muốn chuyển hẳn về trường nào đó để dạy học. Tôi được giáo sư Nguyễn Thơ “đặt vấn đề” với thầy hiệu trưởng Bùi Cách Tuyến để “xin việc”. Vì đã luống tuổi, vào tuổi 53, tôi rất ngại sẽ làm khó cho thầy Tuyến, nhưng tôi đã may mắn: nguyện vọng của tôi đã được chấp nhận khá nhanh chóng.
Tôi còn nhớ như in cái “ngày nói dối”, ngày 1 tháng 4 năm 2005, ngày mà tôi đến trường với công việc mới. Tất cả đều còn xa lạ đối với tôi. Hình ảnh các “cháu” sinh viên ngồi học rải rác ở bậc cầu thang lên xuống để lại cho tôi ấn tượng mạnh nhất. Sau này tôi mới biết các em đang ôn lại bài trước giờ thi. Tôi hết sức xúc động không phải vì tôi nhớ lại hình ảnh hơn 30 năm trước của mình. Hồi đó là thời chiến, nhà chúng tôi học là nhà nền đất, vách trát đất, làm sao có được hình ảnh giống như bây giờ để mà nhớ. Tôi xúc động vì trên những khuôn mặt chăm chú ấy chứa đầy nghị lực và cả những âu lo. Tôi thầm hỏi: trong số các em ngồi ở đây có bao nhiêu em gia đình có đủ điều kiện chăm lo sức khỏe để các em có sức mà học. Chắc chắn là không nhiều. Đa số các em, bố mẹ còn rất vất vã, số tiền bố mẹ cho, các em phải chi cho cho nhiều việc nên ăn uống chắc chắn là còn kham khổ, lấy sức đâu để học. Nghĩ thế, rồi tôi nhìn các em, có gì đó trào dâng trong tôi.
Ngày mới về trường, tôi biết có nhiều người để ý. Có một số người đến hỏi thăm, giúp đỡ, nhưng tôi nghĩ, chắc là có nhiều người đặt câu hỏi: Ông ấy già thế, từ doanh nghiệp về, chẳng biết trình độ thế nào, có dạy được không?. Nghĩ thế nên tôi càng phải cố gắng. Tôi được thầy Trưởng khoa Lê Quang Hưng tin tưởng, động viên và giúp đỡ rất nhiều. Thầy đã phân công cho tôi dạy môn Chọn giống cây trồng đúng theo chuyên ngành của tôi và phụ trách bộ môn Di truyền – Giống. Cuối năm đó (2005) tôi có quyết định chính thức bổ nhiệm Trưởng bộ môn của Hiệu trưởng. Lúc tôi về, năm học 2004-2005 chuẩn bị kết thúc, 4 tháng nữa (giữa tháng 8) là bắt đầu học kỳ I năm học mới 2005-2006 nên tôi phải chuẩn bị ngay bài giảng và phải trình giảng trước khoa trước khi lên lớp cho sinh viên. Thực sự tôi không lo về vốn kiến thức, chỉ lo “diễn xuất” thế nào cho ra tư thế người thầy, cách trình bày thế nào cho sinh viên dễ hiểu.
Thế rồi sau một thời gian ngắn tôi đã soạn xong bài giảng và bắt tay viết lại giáo trình. Thầy trưởng khoa cho biết tôi sẽ trình giảng vào chiều ngày 29/8 tại phòng làm việc của Bộ môn, có sự tham dự của Chủ tịch công đoàn Khoa, các giảng viên trong khoa. Trước đó mấy ngày, tôi nhờ cô Trần Thị Thiên An, giảng viên Bộ môn bảo vệ thực vật đóng hai vai: vừa làm hội đồng, vừa làm “sinh viên” cho tôi giảng thử. Tôi chọn bài: “Mô hình toán di truyền” vừa mới lại vừa khó đối với sinh viên để trình bày. Nghe xong, cô An “phán”: Tốt đấy. Tôi mừng nhưng vẫn nghi đó là lời nhận xét “chiếu cố” nên tôi kiểm tra lại sự tiếp nhận kiến thức của cô “sinh viên bất đắc dĩ” này và tôi đã nhận được sự khích lệ khi cô “sinh viên” đó đã nắm được nội dung bài giảng của tôi. Vì chưa an tâm, nhân dịp cô Từ Bích Thủy – Trưởng bộ môn của tôi đã nghĩ hưu đến thăm Khoa, tôi tranh thủ giảng thử cho cô nghe và cũng được cô “duyệt”. Sau buổi trình giảng trước khoa, trong biên bản được ký bởi Trưởng khoa, Chủ tịch công đoàn và Thư ký, hội đồng thống nhất kết luận: “Đạt yêu cầu cao, đủ sức giảng dạy cho Đại học và Cao học”. Tôi biết trong lời nhận xét ấy có phần động viên khích lệ nhưng nó đã giúp tôi tự tin khi bước vào “trận mới”. Đến giờ tôi vẫn còn lưu giữ biên bản ấy như là một lời nhắc nhở: hãy làm cho tốt để không phụ lòng của mọi người.
Đầu tháng 9/2005, tôi đã thực sự đứng trên bục giảng với tư cách người thầy và sau đó tham gia giảng dạy Cao học ở một vài trường. DH03NH (khóa 29) là lớp đầu tiên mà tôi đứng lớp. Em Hảo, người Tây Ninh, sinh năm 1982 làm lớp trưởng, em Liên, người Thái Bình, sinh năm 1982 làm lớp phó, em Ngà, người Bình Thuận, sinh năm 1985 làm bí thư Đoàn. Tôi điểm mặt và nhớ tên hầu hết các em: em Thuận, em Thành, 3 em Như, em Linh, em Truyền, 3 em Thảo, em Hằng, em Hồng, em Yến và nhiều em nữa. Tất cả các em đều tích cực học tâp, nhiều em học khá giỏi và gây ấn tượng rất tốt đối với tôi. Tất cả các em đã tạo dựng niềm tin đầu tiên, tiếp bước cho tôi tiếp tục sự nghiệp của mình. Lớp này tôi được phân công hướng dẫn các em: Nguyễn Thị Liên, Dương Thị Hồng, Trần Thành và Nguyễn Quốc Thịnh làm đề tài tốt nghiệp. Trong số các em tốt nghiệp năm ấy (2007), tôi biết có một số đã hoàn thành chương trình cao học, một số đang học, một số đã chuyển ngành và trong số đó có em đã lấy được bằng cao học ngành khác, vài em đã trở thành đồng nghiệp và dạy chuyên ngành của tôi ở trường khác. Nhiều em còn liên hệ với tôi, trong đó một số em tôi được may mắn tiếp tục hướng dẫn làm đề tài Cao học. Không biết có bao nhiêu em lớp ấy còn nhớ đến những ngày lên lớp của tôi, nhưng tôi, tôi nhớ các em nhiều lắm.
Thế rồi, theo thời gian, có bao nhiêu chuyện vui buồn đã đến rồi đi, nhưng tôi tự xác định cho mình rằng, bất luận trong hoàn cảnh nào, khi đứng trên bục giảng tôi phải làm tốt 3 vai trò: Làm thầy của học trò, làm bạn của học trò và còn phải làm cha chú của học trò nữa. Để làm tốt 3 vai trò ấy tôi tâm niệm phải thực hiện thật tốt 6 chữ: “Tận tụy”(để làm thầy), “cởi mở”(để làm bạn), “động viên” (để làm cha chú). Tôi đã từng chung vui với thành quả của học trò, đã từng chia buồn với học trò khi thành quả “xuất sắc” kia lẽ ra đáng có mà đã không đến do “xui xẻo”. Lúc đó, ít nhiều tôi thấy mình có lỗi. Tôi nghĩ rằng ai cũng có những ưu điểm và cả những khuyết điểm, được khen ngợi và bị chê trách. Với tôi khen chê đều là những bài học. Tôi rất thích câu nói của Tuân Tử: “Người chê ta mà chê phải là thầy ta, người khen ta mà khen phải là bạn ta, những kẻ vuốt ve, nịnh bợ ta chính là kẻ thù của ta”.
Bây giờ, nhìn lại con đường dẫn tôi tới làm thầy, tuy có chậm, những thành quả mà tôi “gặt hái” được còn ít so với nhiều người nhưng tôi trân trọng những thành quả đó. Đi trên con đường ấy, tôi đã nhận được sự giúp đỡ, động viên và sẻ chia của nhiều người. Nhân ngày 20/11, tôi nhớ đến họ và thầm cảm ơn họ.
Tháng 11/2010
P.T.K
Cảm tưởng
Thầy ơi, vậy là thầy đứng lớp của chúng em là lớp đầu tiên hả thầy? Thầy là một người thầy rất đặc biệt trong tâm trí của em và chắc chắn là của các thế hệ học trò sau này nữa. Có một điều mà em biết chắc đó là sau 4 năm đã ra trường không có bạn nào NH29 có thể quên được thầy. Thầy mãi mãi ở trong lòng chúng em và tất cả các thế hệ học trò đã may mắn được học. Em chúc thầy thành công hơn nữa trong sự nghiệp của mình. Em chào thầy ạ!
Dương Thị Hồng
Ảnh Soải Nguyễn thật đẹp ! Cuộc đời vui hơn bởi những màu phổ rộng và tươi, luôn làm cho bức tranh đời bạn sáng đẹp. Cám ơn Soải Nguyễn Nhị Hà Thuận Nam Ninh Thuận;
Đọc “50 năm nhớ lại”
NGẪM “NGÕ NHÀ LÃO HÂM”
Hoàng Kim
Tôi chậm rãi chép lại ‘Chỉ là con hẻm nhỏ’ lời bản thảo “Chuyện dài chưa đặt tên”và bài đầu “Kỷ niệm 50 năm” với bài cuối “Người đàn bà xa lạ” có trong tập sách mỏng “50 năm nhớ lại” của anh Phan Chí Thắng để tôi thỉnh thoảng đọc lại. Bạn muốn thấu hiểu ai đó, thì sự thật chính văn của họ là quan trọng nhất. Lời thương cùng tháng nămChẳng hiểu sao Ông Út lại chảy nước mắt? là khoảng lặng tâm hồn, vấn vít sự suy ngẫm về thân phân vận mệnh con người. ‘Chỉ là con hẻm nhỏ’ đong đầy yêu thương và đức tin vào con người chính trung luôn cố gắng vươn tới trong cuộc sống, ‘tùy cơ, tùy vận. tùy thiên mệnh, tùy thời, tùy thế, lại tùy nghi, xem thêmhttp://hoangkimlong.wordpress.com/category/doc-50-nam-nho-lai
CHỈ LÀ CON NGÕ NHỎ Phan Chí Thắng Thứ Năm, 14 tháng 4, 2022 lúc 22:04
Chỉ là con ngõ nhỏ như hàng ngàn con ngõ khác ở Hà Nội mà sao nó thân thương gần gũi đến thế. Đi đâu xa một ngày là ông lại nhớ ngõ nhà mình. Ông nhớ từng khe cống, từng mảng xi măng tróc lở và những vết ố trên tường.
Vì đây là nơi ông từng đẩy xe nôi đưa con ra ngoài thở không khí để đôi mắt con trong veo nhìn lên những khoảng trời xanh sót lại bên mái những ngôi nhà tầng.
Cũng ở đây con lon ton chạy chơi làm ông phải đuổi theo sợ con va vào xe máy.
Và bây giờ ngày hai buổi con đến trường và từ trường về nhà. Bước chân con ngàn lần dọc theo ngõ nhỏ.
Cuộc đời là những bước đi. Rồi con sẽ bước những bước dài hơn, mạnh mẽ hơn trên đường đời phía trước. Con sẽ trưởng thành, chàng trai của ông.
Con ngõ sẽ cũ kỹ, già nua giống ông. Nó cũng sẽ như ông, nhớ từng bước chân con trên đó.
Đã yêu yêu cả đường đi lối về. Giờ ông mới thực sự hiểu câu người xưa từng nói.
Năm nay là tròn 50 năm tôi bước chân vào trường chuyên tu ngoại ngữ Thanh Xuân (nay là đại học Ngoại ngữ) để học tiếng Nga (sau này người ta gọi là khóa dự bị đại học) chuẩn bị sang Liên Xô học đại học.
Chuyện không có gì đặc sắc và gay cấn, chắc chắn là cũng tương tự nhiều bạn khác từng học ở Liên Xô. Nhưng cũng nên chép lại kẻo quên. Ở tuổi tôi, đó là một cách níu kéo cái trí nhớ cứ thích lãng lặng bỏ đi chơi, nhiều khi gọi mãi không về.
Đây là thể loại hồi ký song không phải là hồi ký của người nổi tiếng hoặc có cương vị xã hội. Tôi chỉ chép lại những gì xảy ra với chúng tôi, không thêm bớt, sự thật như thế nào viết lại thế. Với tâm thế thanh thản suy ngẫm lúc tuổi già. Không có ý định tập hợp các số liệu thống kê, thu thập những tình tiết, những câu chuyện xảy ra trước hoặc sau chúng tôi hoặc ở các trường khác hay thành phố khác của Liên Xô.
Thời chúng tôi học phổ thông 10 năm. từ lớp 1 đến hết lớp 3 tôi học ở Thịnh sơn, Anh Sơn , Nghệ An. Cả ba năm đó tôi học duy nhất một ông thầy ở nhiều địa điểm khác nhau. trường không ra trường, lớp không ra lớp. ai cho mượn nhà một thời gian thì học ở đó. Nhưng dạy và học thì rất tốt. Năm lớp 4 tôi ra Hà Nội học ở trường Hoàng Văn Thụ ở Hoàng Mai, thời đó coi là ngoại thành Hà Nội.Tôi luôn được xếp nhất lớp. Chứng tỏ thầy Miêng ở Nghệ An dạy rất giỏi. Tuy vậy tôi phải học lại lớp 4 vì không đủ tuổi để thi lên lớp 5. Lớp 5 tôi học ở trường Phổ thông 2 phố Lý Thường Kiệt. Hết năm, người ta xóa sổ trường này, tôi về trường Vân Hồ học năm lớp 6, Bạn bè thời kỳ này, nay chẳng còn biết ai, ngoài diễn viên điện ảnh Tố Uyên (phim Con chim vành khuyên, vợ đầu của Lưu Quang Vũ).
Lớp 7 do gia đình chuyển nhà nên tôi lại học ở trường Thanh Quan B. Chủ nhiệm là thầy Vũ Hoàng Tuấn (con nhà văn Vũ Bằng). Thầy Tuấn dạy Văn và rất thích tôi đi theo đường văn nghiệp. Cấp 3 tôi học ở Chu Văn An, trường nổi tiếng nhất ở Hà Nội. Trường có hội trường, sân bóng đá, bể bơi (thực chất là quây một góc Hồ Tây), xưởng dạy nghề. Tôi học giỏi có lẽ là nhờ 3 năm cấp 1 thầy Miêng ở Nghệ An đã gieo vào tôi lòng đam mê kiến thức. Năm thì thi học sinh giỏi Văn, năm thì Toán, có năm lại thi Lý. Giỏi đều nhưng chả môn nào xuất sắc. Có lẽ vì tôi còn chơi cho đội tuyển bóng đá và tham gia ban văn nghệ của trường. Học ở Chu Văn An có thêm cái lợi là hay được các nhà văn .nổi tiếng đến nói chuyện . Chúng tôi được nghe Xuân Diệu và Trần Việt Phương nói chuyện nhiều lần.
Rồi cả Thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng quan tâm . Có lần ông dự giờ Địa lý ở lớp tôi. Câu chuyện nổi tiếng “Đảo Hải Nam ở phía nam Việt Nam” đi đâu Thủ tướng cũng kể là xảy ra trong tiết học này. Thủ tướng kiểm tra kiến thức của học sinh , hỏi đảo Hải Nam ở phía nào của Trung Quốc rồi chỉ định bạn Ngọc trả lời. Ngọc nhút nhát đứng im như thóc. Một vài giọng nhắc phía nam phía nam, Thủ tướng chuyển câu hỏi : Thế đảo Hải Nam ở phía nào của Việt Nam?”. Bạn Ngọc cuống lên, vội nói như lời nhắc: “Phía nam ạ”. Thủ tướng cười ha hả.
Hết phổ thông, mỗi người chúng tôi phải làm 3 bộ hồ sơ tuyển sinh đại học chứ không phải thi. Học sinh miền nam làm 3 bộ riêng. Vậy là tôi làm 6 bộ. Kết quả là tôi có giấy gọi ủa 6 trường tôi liệt kê sau đây theo trình tự thời gian nhận giấy gọi: Trường TDTT Từ Sơn (chắc vì tôi hay đá bóng), Đại học Y Hà Nội (chắc vì trong lý lịch tôi khai mẹ là lương y), Tổng hợp Văn (chắc là do tôi đã có thơ đăng báo), Đại học Bách Khoa Hà Nội (chắc là do tôi tham gia văn nghệ hát hò kịch cọt, hồi đó Bách Khoa thích lấy người có thành tích văn thể), Đại học Giao thông Vận tải (chưa rõ lý do) và Trường Chuyên tu Ngoại ngữ Thanh Xuân.
Đó là tên bức tranh nổi tiếng của họa sĩ Kramskoi, trên đó có hình người đàn bà trẻ ở Leningrad với cặp mắt to huyền bí dường như nhìn xuyên qua kẻ ngắm tranh, đến một nơi xa xăm nào đó.
Một tối mùa đông cuối thập kỷ 80 thế kỷ trước, tôi lặng lẽ rời khách sạn, đi dạo dọc bờ sông Neva, con sông đang ngầm chảy dưới làn băng tuyết trắng. Khoan khoái hít sâu cái không khí trong lành và dễ chịu của mùa đông nước Nga, tôi muốn tìm một chút thư giản sau mấy ngày làm việc căng thẳng, đồng thời tranh thủ ngắm thành phố xinh đẹp do Pie Đại đế xây dựng lên với nhiều cung điện và tượng đài nổi tiếng mà tôi đã một lần ghé qua mười mấy năm trước đó.
Trên con đường vắng, tôi chỉ còn nghe thấy tiếng bước chân mình lạo xạo trên tuyết. Tiếng lạo xạo đó đã trở thành kỷ niệm của những năm du học , trở thành một phần tuổi trẻ của tôi. Thỉnh thoảng một chiếc taxi lao vội, phá tan trong chốc lát sự yên tĩnh của con đường ven sông, xẹt lên vỉa hè những vệt tuyết bẩn. (Người ta phải rãi cát ra đường để chống trơn vào mùa băng giá).
Trong cái tĩnh lặng ấy, tôi dễ dàng nhận ra một người phụ nữ đã luống tuổi, vai hơi nghiêng vì phải xách một túi đồ khá nặng, lầm lũi bước những bước chân đều đặn cùng một hướng đi với tôi. Tôi rão bước đến gần bà, đề nghị:
– Cho phép tôi được xách giúp bà một đoạn.?
– Cám ơn ông , tôi tự lo được. Bà già ngước cặp mắt nhìn tôi , thoáng một chút nghi ngại.
Tôi hiểu được sự ái ngại của bà. Thời gian gần đây tình hình trật tự an ninh của Liên Xô xấu đi, người dân phải cảnh giác hơn với người lạ, đặc biệt là những người vùng Trung Á, nơi trình độ dân trí thấp hơn phần châu Âu của Liên Xô.
– Thưa bà, tôi là người Việt Nam . Hơn nữa tôi đoán túi đồ của bà không đáng để kẻ cướp quan tâm.
– Vậy xin phiền ông, ông tốt quá. Bà già bật cười trước cách diễn đạt của tôi, trao cho tôi túi đồ khá nặng , chắc là toàn những lọ mứt trái cây, dưa chuột muối và táo. Người đàn bà Nga nào chả hay xách những thứ đó?
– Ông mới ở Việt Nam sang hay làm việc ở đây?
– Tôi mới đến Leningrad được ba ngày, tôi là phiên dịch,
– Đúng rồi, ông nói tiếng Nga hay lắm.
– Cảm ơn bà có lời khen, tôi chỉ cố gắng làm tốt công việc của mình.
– Thế ông lưu lại khách sạn nào?
– Khách dạn Tháng Mười , thưa bà.
– Ồ, thế thì đoàn các ông là đoàn cấp cao rồi (Tôi không tìm thấy một chút mỉa mai nào trong giọng nói của bà).
Chỗ này tôi phải nói thêm với bạn đọc là ở Liên Xô cũ thành phố nào, tỉnh nào cũng có khách sạn Tháng Mười , đó chính là nhà khách của Đảng CSLX, nơi người khách nhiều khi chỉ phải ký ‘bông’ chứ không phải trả tiền cho mọi dịch vụ hảo hạng,
– Vâng, theo một nghĩa nào đó. Tên tôi là Thắng, bà có thể gọi là Victo cho dễ phát âm.
– Tôi là L. , tôi là giáo sư trường Múa Leningrad đã về hưu. Ở Việt Nam ông có biết hai học trò của tôi là Thủy và Cường không?
– Thật là một bất ngờ thú vị: tôi cùng học dự bị với hai người này , hiện họ là cán bộ chủ chốt của Trường Múa Việt Nam.
– Họ chẳng hề thư từ gì cho tôi cả, giọng bà lộ ra một chút xíu trách óc, mà có lẽ bà đã cố giấu đi.
– Mong bà thứ lỗi và thông cảm. Đất nước chúng tôi trãi qua hết cuộc chiến tranh này đến cuộc chiến tranh khác, việc liên hệ với người nước ngoài đôi khi mang lại ít nhiều bất lợi.
– Tôi cũng đoán thế, chứ không bao giờ chúng nó có thể quên tôi. Giọng bà ấm trở lại. Thôi chết, ông có đi cùng đường với tôi không, có thể tôi đã làm phiền ông nhiều quá?.
– Không sao, tôi chỉ đi dạo, đường nào cũng là đi dạo. vả lại rất vui được nói chuyện với bà, bà làm tôi nhớ đến bà giáo tiếng Nga kính mến của tôi.
Cứ thế, chúng tôi một già một trẻ vừa đi vừa trò chuyện. Tôi lấy làm tiếc vì mình ít hiểu biết về lĩnh vực Ba lê, ít biết những tên tuổi nổi tiếng trên sàn múa nước Nga và thế giới. Biết đâu bà L. từng là một solist nổi tiếng hay là một nhà giáo đã đào tạo nhiều tài năng cho các sân khấu của châu Âu?
Tôi nói với bà về Việt Nam, về công cuộc đổi mới vừa bắt đầu. Bà nói về “cải tổ” mà theo bà không rõ sẽ đưa đất nước Nga đi về đâu, Tôi kín đáo quan sát khuôn mặt nhẹ nhõm, dáng di khoan thai và thanh thoát của người vũ công về già. Tôi không dám hỏi bà đi đâu một mình và trở về khuya khoắt trong cô đơn. Đó là phép lịch sự. Bà hỏi thăm tôi về gia đình, về các con tôi, không hẳn là vì phép lịch sự.
Không hiểu do đâu tôi bổng nhắc đến bức tranh Người đàn bà xa lạ, nhắc đến những tiểu thuyết có nhiều diễn biến gắn với Xanh Peterburg, rồi chúng tôi nói về danh hài Raikin của Leningrad. Bà tỏ ra là một người trò chuyện thú vị.
Bà bất ngờ dừng lại trước cửa một nhà chung cư:
– Tôi đã về đến nhà rồi, cảm ơn ông đã giúp đỡ. Chân thành chúc ông luôn hạnh phúc!
Tôi hiểu lời chúc của bà, chỉ những người ở tuổi bà mới ngộ rằng hạnh phúc là cái quan trọng nhường nào cho một đời người>
– Thay mặt tất cả những học trò Việt Nam của bà và tự đáy lòng xin chúc bà mạnh khỏe và mọi điều tốt đẹp nhất.
Bà chìa tay cho tôi bắt, bàn tay mảnh mai nhưng rắn chắc.
Dọc theo con đường ven sông tôi lững thững quay về khách sạn, Thỉnh thoảng một đôi tình nhân đi chơi về muộn, nàng ngã hẳn vào chàng như lấy thêm hơi ấm …
Dừng lại trước cửa khách sạn, tôi châm thuốc hút. Tính tôi là vậy, bao giờ cũng hút một điếu thuốc để ghi nhận một sự kiện sau này sẽ trở thành kỷ niệm khó quên.
Đúng là thế thật, mỗi khi tôi nhớ Liên Xô, nhớ nước Nga, nhớ Ucraina thì trong bao nhiêu hỗn độn của ký ức, bao giờ cũng hiện về hình ảnh người đàn bà xa lạ bên dòng sông Neva, người phụ nữ Nga mà số phận đã cho tôi được gặp, cho tâm hồn tôi một lần được trú ngụ trong cái hiền hòa và nhân hậu của người Nga>
Câu chuyện giống như trên có thể xảy ra không ít lần với mỗi người trong chúng ta, nó cũng chẳng có gì đặc biệt đáng viết ra cho người khác đọc. Song cuộc đời chúng ta lại đặc biệt ở chỗ nó được ghép lại bởi những sự kiện thoạt nhìn rất đổi bình thường.
(Trích Phan Chí Thắng 2016. 50 năm nhớ lại Nhà xuất bản Lao Động 2016; trang 193-197. Hoàng Kim chép lại và suy ngẫm ngày 16 4 2022, ngày khùng hoảng Nga Ucraina lúc cuộc chiến tàn khốc đến tuần đỉnh điểm)
5
Anh Phan Chí Thắng viết ‘Đôi điều suy ngẫm” gần cuối sách “50 năm nhớ lại” (trang 191-192) : “Liên Xô giúp ta đào tạo hàng vạn cán bộ đại học và trên đại học, chưa kể số trung cấp và công nhân kỹ thuật, và cũng chưa kể số cán bộ sĩ quan quân đội và công an. Trong đó có một số đã phát huy được năng lực. Nhiều người giữ cương vị cao trong các cơ quan của Đảng và Nhà nước, Quốc hội, trong hệ thống quản lý nhà nước và hệ thống sản xuất kinh doanh, ở các trường đại học, viện nghiên cứu, các đoàn ca múa nhạc, thể thao, v.v… Nhưng số đông còn lại là chìm nghỉm trong cuộc mưu sinh, trong môi trường chưa hội đủ các yếu tố cần thiết cho công việc mà họ được đào tạo“.
(*) Kim Notes lắng ghi chú (Anh Thắng đi học Nga dịp 1966 –1972. Hoàng Kim lớp nhỏ hơn và những năm 1971 lại xếp bút nghiên ra trận, nên sau này nhọc nhằn học ‘đúp 5 lớp” qua chuyện kể Thầy bạn là lộc xuân. Em cũng có duyên may sang học tập ở châu Âu khi đã luống tuổi, và có dịp đến Neva nhớ Pie Đại Đế Từ Mê Kông nhớ Nê Va. Hoàng Kim thật tâm đắc lời anh qua sự trãi nghiệm của riêng mình trong Giấc mơ thiêng cùng Goethe). .
GIẤC MƠ THIÊNG CÙNG GOETHE Hoàng Kim
Hiểu tình yêu cuộc sống
Hiền tài dày sử thi
“Mọi lý thuyết đều là màu xám, chỉ có cây đời mãi mãi xanh tươi”
Goethe trao tặng cho tôi
Ngọc minh triết của Người.
Người hóa thân
trong thanh thản
bóng cây xanh
Người đàm đạo
với Norman Borlaug
và cậu học trò nghèo
Về ý tưởng xanh
Con đường xanh
Hành trình xanh
Sự nghiệp xanh
Nhà khoa học xanh
và giấc mơ hạnh phúc
Goethe là vòm cây xanh Goethe cũng là lão nông
ngồi cùng chúng ta
chuyện trò
trên cánh đồng xanh
hạnh phúc.
Goethe và Norman Borlaug
là những trí tuệ bậc Thầy.
Họ không màng hư vình
mà hướng tới đỉnh cao hòa bình
sự an lành tiến bộ.
Anh và em cùng Goethe
Ở FAO, Rome, Italy Người hóa thân
thành nữ thần Tình Yêu (*)
Trời xanh tuyệt vời !
Trời nhân loại mênh mông !
(*) Hình ảnh Hoàng Kim ở Roma, Italia.
Giấc mơvề điểm hẹn
(*) Praha Goethe và lâu đài cổ. Lâu đài Praha là lâu đài cổ lớn nhất thế giới theo sách Kỷ lục Guinness. Ở đó có quảng trường Old Town Square là trung tâm trục lịch sử suốt nghìn năm với những tòa nhà cổ đầy màu sắc, các nhà thờ Gothic và đồng hồ thiên văn thời trung cổ. Lâu đài cổ Praha là nơi lưu dấu sử thi muôn đời của Gớt (Johann Wolfgang von Goethe 1749–1832), vĩ nhân khoa học nhân văn, nhà thông thái, đỉnh cao văn chương thế giới. Ngày 29 tháng 9 năm 1774 là ngày Johann Wolfgang von Goethe đã phát hành kiệt tác ‘Nỗi đau của chàng Werther’ mang lại cho Goethe danh tiếng quốc tế. https://hoangkimlong.wordpress.com/category/praha-goethe-va-lau-dai-co/
Việt Nam con đường xanh NÔNG NGHIỆP CÔNG NGHỆ CAO
Hoàng Long, Nguyễn Văn Phu,Nguyễn Thị Trúc Mai, Hoàng Kim thu thập,tuyển chọn, đúc kết thông tin, tích hợp và giới thiệu
Việt Nam con đường xanh, Nông nghiệp công nghệ cao bài viết kỳ này giới thiệu Định hướng chiến lược quốc gia, phương hướng nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế xã hội 2021-2030 (* Đảng Cộng Sản Việt Nam 2020, Dự thảo các văn kiện trình đại hội Đảng XIII của Đảng) xác định 10 giải pháp cơ bản; 5 nhóm hệ thống giải pháp chính để đảm bảo phát huy hiệu quả giá trị của khối 13 sản phẩm chủ lực nông nghiệp Việt Nam nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân lao động. Ba trụ cột cốt lõi của một quốc gia là cân đối hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế, bảo vệ môi trường và thực hiện tiến bộ công bằng xã hội.theo kết luận của Hội nghị thượng đỉnh toàn cầu về Phát triển bền vững tại Cộng hòa Nam Phi năm 2002 với Định hướng và tầm nhìn Việt Nam con đường xanh. Năm bài viết chọn lọc, gồm: 1) Nông nghiệp hữu cơ hiện trạng và giải pháp nghiên cứu phát triển của tác giả PGS..TS Nguyễn Văn Bộ, TS Ngô Doãn Đảm 2) Đào tạo nguồn nhân lực và nghiên cứu khoa học ứng dụng phục vụ phát triển nông nghiệp công nghệ cao và công nghệ thực phẩm tại Trường Đại học Văn Lang” của tác giả PGS.TS Phan Phước Hiền và TS Châu Tấn Phát, 3) “Nghiên cừu ứng dụng công nghệ sinh học cho phát triển nông nghiệp công nghệ cao” của PGS.TS. Dương Hoa Xô, Trung Tâm Công nghệ Sinh học TP. HCM; 4) Một số thông tin chọn lọc điểm sáng nông nghiệp nông dân nông thôn nông nghiệp công nghệ cao; 5) Chọn giống sắn kháng CMD hiện trạng và triển vọng
Chính khách và người hề là các vai diễn cuộc đời. Chính văn và tiếu lâm là nghệ thuật văn chương. Cảm ơn cô Kim Nguyệt đã tuyển chọn mục từ và gợi cảm hứng cho tôi tích cũ viết lại ”Chuyện vua hề Sác Lô” Vua hề có câu nói lắng đọng tôi thật yêu thích: “Sáu bác sĩ giỏi nhất trên thế gian này là mặt trời, sự nghỉ ngơi, luyện tập, ăn kiêng, lòng tự trọng, bạn bè”. Hãy thực hiện điều đó và tận hưởng cuộc sống khỏe mạnh … Tuyệt vời ! xin phép được ưu lại và chia sẻ. https://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-16-thang-4/
Lời trăng trối của vua hề Charlot .Trước lúc mất ở tuổi 88, vua hề Charlie Chaplin phát biểu 4 điều như sau: “1. Không có gì vĩnh cửu trong thế giới này, kể cả những phiền muộn của chúng ta. 2. Tôi thích đi dạo dưới trời mưa, vì không ai có thể nhìn thấy nước mắt của tôi. 3. Ngày mất mát lớn nhất trong cuộc đời là ngày chúng ta không cười. 4. Sáu bác sĩ giỏi nhất trên thế gian này là mặt trời, sự nghỉ ngơi, luyện tập, ăn kiêng, lòng tự trọng, bạn bè.”
Trong bài Bác Hồ gặp danh họa Picasso và vua hề Charlot đã dẫn lời kể của bà Geraldine Chaplin, con gái vua hề Charlot, trên báo Gamma (Cuba), thì ít nhất cha bà đã gặp Bác Hồ hai lần. Lần đầu khi vua hề Charlie Chaplin là hành khách đi trên chiếc tàu của Pháp chạy trên các đại dương từ Châu Á đến Châu Mỹ, Châu Phi .trong đó có anh phụ bếp “Ba”. Anh đã gửi cho ông một bức thư hỏi rằng liệu anh có thể chụp chung với ông một bức ảnh không. Và vua hề Charlot đã lập tức bước xuống hầm tàu đến khu bếp tìm gặp anh phụ bếp trẻ vốn khâm phục và muốn gặp mình. Về lần gặp gỡ thứ hai, bà Geraldine nói: “Nhiều năm sau, cha tôi và ông Hồ Chí Minh lại gặp nhau lần nữa trong chuyến đi du lịch. Lần này, Cụ Hồ kể cho cha tôi nghe câu chuyện tiếu lâm về con tàu và tự giới thiệu là chàng phụ bếp trẻ ngày nào. Cha tôi kể cho tôi câu chuyện này với mối thiện cảm đặc biệt bởi người rất khâm phục ông Hồ Chí Minh”. Dù chúng ta chưa được nhìn thấy tấm ảnh may mắn ấy, nhưng sự liên tưởng về cảnh ngộ tuổi thơ và cuộc đời của họ mà tôi đã nhớ thật lâu câu chuyện này. Bạn hãy đọc tuổi thơ của vua hề Charlie Chaplin trên Wikipedia Tiếng Anh, Tiếng Việt / https://vi.wikipedia.org/wiki/Charlie_Chaplin với tuổi thơ Hồ Chí Minh https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%93_Ch%C3%AD_Minh để thấu hiểu những giá trị chân thực lắng đọng.
Theo Bách khoa Toàn Thư Mở Wikipedia Tiếng Việt. Sir Charles Spencer Chaplin KBE (16 tháng 4 năm 1889 – 25 tháng 12 năm 1977) là một nam diễn viên, nhà làm phim và nhà soạn nhạc người Anh nổi tiếng trong kỷ nguyên phim câm. Ông đã trở thành một biểu tượng trên toàn thế giới thông qua nhân vật màn ảnh của mình, Sác-lô, và được coi là một trong những nhân vật quan trọng nhất trong lịch sử điện ảnh. Sự nghiệp của ông kéo dài hơn 75 năm, từ thời thơ ấu ở thời đại Victoria cho đến một năm trước khi ông qua đời vào năm 1977, bao gồm cả sự tán dương và tranh cãi.
Thời thơ ấu của Chaplin ở Luân Đôn rất nghèo khó, người cha thường hay vắng nhà và người mẹ gặp khó khăn về tài chính, ông bị đưa vào trại tế bần hai lần trước năm 9 tuổi. Khi ông 14 tuổi, mẹ ông phải vào trại tâm thần. Chaplin bắt đầu diễn xuất khi còn nhỏ, đi biểu diễn ở các phòng hát, sau đó trở thành một diễn viên sân khấu và diễn viên hài. Năm 19 tuổi, ông được ký hợp đồng với công ty Fred Karno danh tiếng, công ty đã đưa ông đến Mỹ. Ông bắt đầu xuất hiện chính thống vào năm 1914 cho Keystone Studios. Ông sớm phát triển tính cách Sác-lô và có một lượng người hâm mộ đông đảo. Ông đã đạo diễn những bộ phim của riêng mình và tiếp tục trau dồi kỹ năng của mình khi chuyển đến các tập đoàn Essanay, Mutual và First National. Đến năm 1918, ông là một trong những nhân vật nổi tiếng nhất trên thế giới.
Năm 1919, Chaplin đồng sáng lập công ty phân phối United Artists, cho phép ông hoàn toàn giám sát các bộ phim của mình. Bộ phim dài đầu tiên của ông là The Kid (1921), tiếp theo là A Woman of Paris (1923), The Gold Rush (1925) và The Circus (1928). Ban đầu ông từ chối chuyển sang làm phim âm thanh trong những năm 1930, thay vào đó sản xuất City Lights (1931) và Modern Times (1936) mà không có lời thoại. Ông dần chính trị hóa những tác phẩm điện ảnh của mình, bộ phim âm thanh đầu tiên của ông là The Great Dictator (1940) nhằm châm biếm Adolf Hitler. Những năm 1940 là một thập kỷ đầy tranh cãi đối với Chaplin, danh tiếng của ông đã bị giảm sút nhanh chóng. Ông bị buộc tội là có thiện cảm với cộng sản và một số nhà báo và công chúng phát hiện ra ông dính líu đến vụ kiện về quan hệ cha con, cuộc hôn nhân với những phụ nữ trẻ tuổi hơn mình rất nhiều. Một cuộc điều tra của FBI đã được mở, và Chaplin buộc phải rời Hoa Kỳ và định cư ở Thụy Sĩ. Ông đã từ bỏ hình tượng Sác-lô trong các bộ phim sau này của mình, bao gồm Monsieur Verdoux (1947), Limelight (1952), A King in New York (1957) và A Countess from Hong Kong (1967).
Chaplin đã viết, đạo diễn, sản xuất, biên tập, đóng vai chính và soạn nhạc cho hầu hết các bộ phim của mình. Ông là một người theo chủ nghĩa hoàn hảo, và sự độc lập về tài chính giúp ông dành nhiều năm cho việc tự phát triển và sản xuất khung hình. Phim của ông có đặc điểm là hài hước kết hợp với bệnh hoạn, điển hình là cuộc đấu tranh của Sác-lô chống lại nghịch cảnh, nói về nhiều chủ đề xã hội và chính trị, cũng như các yếu tố tự truyện. Ông đã nhận được Giải thưởng danh dự của Viện Hàn lâm cho “hiệu quả khôn lường mà ông đã có trong việc biến những bức ảnh chuyển động trở thành loại hình nghệ thuật của thế kỷ này” vào năm 1972, như một phần của sự tôn vinh đối với công lao của ông. Ông tiếp tục được đánh giá cao với The Gold Rush, City Lights, Modern Times và The Great Dictator thường được xếp vào danh sách những bộ phim hay nhất mọi thời đại.
Vua hề Sác Lô chi tiết cuộc đời mời bạn xem tiếp ở Charlie Chaplin trên Wikipedia Tiếng Anh, Tiếng Việt. Vua hề Charlie Chaplin là một người theo chủ nghĩa hoàn hảo, và sự độc lập về tài chính giúp ông dành nhiều năm cho việc tự phát triển và sản xuất khung hình, là một loại hình khoa học nghệ thuật đỉnh cao, dấu ấn của riêng ông. Vượt lên mọi sự khen chê, đọc lại lời vàng của ông là đọc lại chỉ dấu minh triết khôn ngoan của một con người .
*
Thật tuyệt vời khi đọc lại: Lời trăng trối của vua hề Charlot .Trước lúc mất ở tuổi 88, vua hề Charlie Chaplin phát biểu 4 điều như sau: “1. Không có gì vĩnh cửu trong thế giới này, kể cả những phiền muộn của chúng ta. 2. Tôi thích đi dạo dưới trời mưa, vì không ai có thể nhìn thấy nước mắt của tôi. 3. Ngày mất mát lớn nhất trong cuộc đời là ngày chúng ta không cười. 4. Sáu bác sĩ giỏi nhất trên thế gian này là mặt trời, sự nghỉ ngơi, luyện tập, ăn kiêng, lòng tự trọng, bạn bè.”