ThS. ĐỖ THỊ LỢI Để lấy tinh dầu gấc, người ta bổ gấc ra moi lấy ruột quả, đem ruột quả sấy sơ bộ rồi loại bỏ hạt đi thì thu được các màng hạt. Đem màng hạt ép để chiết dầu sẽ thu được tinh dầu gấc và khô bã gấc (theo quy trình làm tinh dầu gấc VINAGA của Cty Dầu và Thực phẩm Việt Nam - VNPOFOOD).
Khô bã gấc có thành phần dinh dưỡng tương đương với ngô vàng loại tốt, đặc biệt các chất chống oxy hóa như β- caroten, tocopherol và lycopene tuy đã được chiết rút vào tinh dầu, nhưng trong khô bã vẫn còn lại khá nhiều; β- caroten cao hơn của ngô hạt 90 lần, lycopene cao hơn của cà chua tươi 180 lần, của sốt cà chua 80 lần (bảng 1).
Bảng 1: Thành phần dinh dưỡng của khô bã gấc
Thành phần dinh dưỡng*
|
|
Chất khô (%)
Protein thô (%)
Chất béo (%)
Xơ thô (%)
β-caroten (mg/100g)
Lycopene (mg/100g)
a- Tocopherol (mg/100g)
|
92,73
10,59
12,20
5,40
27,70
561,00
7,60
|
* Trung tâm Kiểm nghiệm VSATTP - Viện Dinh dưỡng, 2008
Lycopene thuộc nhóm tiền vitamin A giống như α-caroten, β-caroten, γ-caroten hay cryptoxanthin, tuy nhiên trong cơ thể lycopene không chuyển thành vitamin A. Lycopene có năng lực chống oxy hóa mạnh hơn 2 lần so với β-caroten và 10 lần so với alpha-tocopherol (vitamin E).
Các chất chống oxy hoá có trong khô bã gấc như lycopene, β-caroten và alpha-tocopherol có tác dụng bảo vệ các phân tử sinh học của tế bào như lipid, lipoprotein, protein và DNA không bị tổn hại do sự tấn công của các gốc tự do. Nhờ vậy con vật khoẻ mạnh, sinh trưởng và sinh sản tốt, ngăn ngừa được các bệnh do vi khuẩn, virus và độc tố nấm mốc. Không những vậy, lycopene và β-caroten trong khô bã gấc còn là những chất nhuộm mầu tự nhiên, giúp tăng đậm độ mầu của da và lòng đỏ trứng.
Một thí nghiệm tiến hành trên đàn vịt Super M bố mẹ cho ăn hỗn hợp thức ăn chứa 3, 6 và 9% khô bã gấc (KBG) trong 9 tuần đã cho kết quả như sau (thí nghiệm thực hiện ở Trung tâm Nghiên cứu Vịt Đại Xuyên – Viện Chăn nuôi, năm 2008):
- Tỷ lệ đẻ của đàn vịt của các lô ăn thức ăn chứa 3, 6 hay 9% KBG đều tương đương với tỷ lệ đẻ của lô đối chứng ăn thức ăn không chứa KBG (tỷ lệ đẻ của các lô đối chứng và các lô 3, 6 và 9% KBG lần lượt là: 87,21; 89,04; 90,48 và 90,46%).
- Tỷ lệ trứng có phôi đạt cao nhất ở các lô ăn thức ăn chứa 6 và 9% KBG (tỷ lệ trứng có phôi của các lô 3, 6, 9% KBG và lô đối chứng lần lượt là 93,61; 97,44; 96,85 và 93,08%). Tỷ lệ trứng có phôi cao chứng tỏ các hoạt chất trong khô bã gấc có ảnh hưởng tốt đến hoạt lực tinh trùng con đực, sự thụ tinh và sự phát triển của phôi.
- Chỉ số chuyển đổi thức ăn tính bằng kg thức ăn/10 quả trứng tương đương nhau ở tất cả các lô (2,85 kg).
- Các chỉ tiêu về khối lượng trứng, độ dày vỏ không khác nhau giữa các lô, tuy nhiên đậm độ mầu của lòng đỏ trứng của các lô ăn thức ăn chứa KBG đều đạt điểm cao (11,2 đến 11,7 điểm) và không thua kém so với lô đối chứng. Thức ăn của lô đối chứng được bổ sung Red Lucanthin (một loại sắc chất tổng hợp chứa canthaxanthin có công thức hoá học là C40H52O2).
Một thí nghiệm khác thực hiện trên đàn vịt Triết Giang với hai lô, một lô thí nghiệm cho ăn thức ăn chứa 6% KBG, một lô khác làm đối chứng không chứa KBG và không bổ sung sắc chất tổng hợp, đã thấy đậm độ mầu lòng đỏ trứng của lô thí nghiệm đạt 12,18 điểm còn của lô đối chứng chỉ đạt 8,57 điểm.
Từ các kết quả trên có thể kết luận rằng sử dụng công thức thức ăn cho vịt đẻ chứa 6% KBG cho kết quả tốt đối với tỷ lệ đẻ, tỷ lệ trứng có phôi và một số chỉ tiêu về chất lượng trứng như khối lượng, độ dày vỏ. Đặc biệt với mức 6% KBG hoàn toàn có thể thay cho sắc chất tổng hợp để làm tăng đậm độ mầu của lòng đỏ trứng.
Điều cần chú ý là KBG sẽ mất hoạt chất (lycopene, carotene…) theo với thời gian bảo quản, biểu hiện bằng sự phai mầu sau 2, 3 tháng. Cần bảo quản KBG trong bao nhựa đen ở nơi khô ráo, thoáng mát, tránh ánh sáng trực tiếp. Nếu trộn KBG với chất chống oxy hoá thì hoạt chất mầu đỡ bị tổn thất (dùng chất BHT (Butyl Hydroxyl Toluene) với tỷ lệ 200g/tấn KBG có thể giảm tổn thất 50% β-caroten sau 2 tháng bảo quản). Trộn KBG vào hỗn hợp thức ăn rồi viên thì cũng tránh được sự mất hoạt chất mầu trong KBG sau 2 tháng bảo quản.
GS. Vũ Duy Giảng Số lần xem trang : 17193 Nhập ngày : 10-03-2009 Điều chỉnh lần cuối : Ý kiến của bạn về bài viết này
Báo Nông Nghiệp Việt Nam THỦY SẢN VIỆT NAM LÀ NGÀNH HỘI NHẬP KHÁ SỚM (Báo NNVN - Số ra ngày 1/4/2009) (02-04-2009) TẠO RA GIỐNG THUỐC LÁ NGĂN NGỪA BỆNH TIỂU ĐƯỜNG (Báo NNVN - Số ra ngày 1/4/2009) (02-04-2009) TRUNG QUỐC: LẠI TÌM RA GENE GIÚP LÚA ĐẠT SIÊU NĂNG SUẤT (Báo NNVN - Số ra ngày 31/3/2009) (02-04-2009) QUY TRÌNH BÓN PHÂN NPK CHO LÚA HT Ở ĐBSCL (Báo NNVN - Số ra ngày 30/3/2009) (02-04-2009) CẦN KIỂM SOÁT RẦY PHẤN TRÊN KHOAI TÂY VÀ CÀ CHUA (báo NNVN - Số ra ngày 30/3/2009) (30-03-2009) NHỮNG CÔNG NGHỆ MỚI LÀM GIẢM BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU (Báo NNVN - Số ra ngày 30/3/2009) (30-03-2009) KỸ THUẬT NUÔI GÀ SIÊU HIỆU QUẢ Ở NHẬT BẢN (Báo NNVN - Số ra ngày 30/3/2009) (30-03-2009) TS Nguyễn Thị Lưu - đồng tác giả LVN 99: Họ coi thường bản quyền tác giả quá! (Báo NNVN - Số ra ngày 27/3/2009) (30-03-2009) Nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ nông nghiệp ở Lâm Đồng (Báo NNVN - Số ra ngày 26/3/2009) (30-03-2009) PHÂN BIỆT THỎ ĐỰC VÀ THỎ CÁI (Báo NNVN - Số ra ngày 26/3/2009) (30-03-2009) Trang kế tiếp ... 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44
|