Số lần xem
Đang xem 5469 Toàn hệ thống 14213 Trong vòng 1 giờ qua
Trang liên kết
Tỉnh thức
giữa đêm thiêng Yên Tử
Để thấm hiểu đức Nhân Tông
Ta thành tâm đi bộ
Lên tận đỉnh chùa Đồng
Tâm sáng Ức Trai
trong tựa ngọc TÌNH YÊU CUỘC SỐNG
DẠY VÀ HỌC Để chấn hưng giáo dục Việt Nam cấp thiết phải có đội ngũ những người thầy giáo ưu tú có tâm đức thiết tha với nghề, có trình độ chuyên môn cao và có kỹ năng giảng dạy tốt. Đây là trang thông tin chuyên đề dạy và học để trao đổi và bàn luận
Norman Borlaug Lời Thầy dặn Việc chính đời người chỉ ít thôi
Chuyên tâm đừng bận chuyện trời ơi
Phúc hậu suốt đời làm việc thiện
Di sản muôn năm mãi sáng ngời.
CÂU CHUYỆN ẢNH THÁNG BẢY Hoàng Kim
Chúc mừng ngày Hạnh Phúc hai cháu và đại gia đình thầy Phạm Văn Hiền và thông gia. Vui gặp nhiều người thân quen, thầy Tuyến Bùi Cách, anh Cựu, Trúc Mai, Tran Huien Huien, …. Chùm ảnh bạn Tu Phan Van thật đẹp. Thân chúc mọi người vui khỏe.
Hoàng Kim THẦY BẠN TRONG ĐỜI TÔI. Hoàng Kim với Trần Ngọc Ngoạn, Van Quyen Mai, Hieu Nguyenminh, Mai Trúc Nguyễn Thị tại Vĩ Dạ Xưa đêm thiêng tháng Bảy mưa ngâu giấc mơ hạnh phúc. Tháng Bảy năm 2017 có điều kỳ diệu 5 ngày thứ Bảy, 5 ngày Chủ nhật và 5 ngày Thứ Hai mà theo Lịch Vạn Niên thì 823 năm mới lặp lại một lần. Đây là “nhóm ngày may mắn” để hành thiện những việc đặc biệt tốt đẹp đầy đặn yêu thương.
CÂU CÁ BÊN DÒNG SÊRÊPÔK
Hoàng Kim
Bạn chèo thuyền trên sông Vôn ga
Có biết nơi này mình câu cá?
Sêrêpôk giữa mùa mưa lũ
Sốt rừng, muỗi vắt, đói cơm.
Suốt dọc đường hành quân
Máy bay,
pháo bầy,
thám báo,
mưa bom
Chốt binh trạm giữa rừng
Người bạn thân
Lả người
Vì cơn rét đậm
Thèm một chút cá tươi
Mình câu cá
Cho bữa cơm cuối cùng của người thân
mà nước mắt
đời người
rơi, rơi…
mặn đắng
Bạn ơi
Con cá nhỏ trên dòng Sêrêpôk
Nay đã theo dòng thác lũ cuốn đi rồi
Đất nước nghìn năm
Trọn một lời thề
Sống chết thủy chung
với dân tộc mình
Muôn suối nhỏ
Đều đi về biển lớn.
1972
Năm 1972 tại Tây Nguyên, tôi có kỷ niệm không thể quên về những ngày đói gạo, ăn rau rừng và câu cá ven sông Sêrêpôk gần Buôn Đôn. Nhớ buổi câu cho bữa cơm người bạn sốt rừng ốm nặng thèm ăn cá. Đây là bài thơ khóc bạn, lễ 30.4 và ngày 1.5, tôi bùi ngùi nhớ lại. Chèo thuyền trên sông Vônga là thơ Hoàng Bình. Điểm câu cá của tôi gần binh trạm khoảng giữa Đăk Tô-Tân Cảnh và Buôn Đôn. Sông Sêrêpôk (ảnh Đổ Tuấn Hưng trên Wikipedia Tiếng Việt)
Sêrêpôk (hay Srêpôk), tên gọi trong tiếng Campuchia là Tongle Xrepok, là dòng sông lớn nhất trong hệ thống sông ngòi ở Đắk Lắk. Đây là một phụ lưu quan trọng của sông Mekong. Sông Sêrêpôk được hợp thành từ hai dòng sông Krông Ana và Krông Nô (sông Mẹ và sông Bố). Đoạn chảy trên địa phận Đăk Lăk còn được gọi là sông Đăk Krông chảy qua các huyện Krông Ana, Buôn Đôn và Ea Súp với nhiều thác ghềnh hùng vĩ còn tương đối hoang sơ như thác Trinh Nữ, thác Đray Sáp, thác Đray Nu, thác Đray H’linh, thác Gia Long, thác Bảy Nhánh…Tính từ chỗ hợp lưu của sông Krông Ana, sông Krông Nô tới cửa sông của nó dài 406 km, trong đó đoạn chảy trong lãnh thổ Việt Nam dài khoảng 126 km, đoạn chảy qua Campuchia dài khoảng 281 km. Sông Sêrêpôk chảy sang Campuchia được bổ sung thêm nguồn chảy dồi dào từ dòng sông Ea H’leoông, sông Sesan và sông Sekong (hai sông này cũng có nguồn trên lãnh thổ Việt Nam). Sông Serepôk nhập vào sông Mekong sát Stung Treng, tỉnh Stung Treng, Campuchia, (nơi những năm gần đây mới phát hiện được phần mộ của Trung tướng Nguyễn Bình, tại xã Srê-pốc, huyện Xê-san,) sau đó con sông lớn này trở lại Việt Nam (ảnh 2 nguồn Sông Mekong tài liệu tổng hợp ).
Hiện tại dọc theo dòng sông này đã có rất nhiều các công trình thủy điện mọc lên như thủy điện Krông Kma (Krông Bông), Buôn Kuôp (Krông Ana), Đray H’linh 1, Đray H’linh 2 (Cư Jút), Buôn Tou Srah (Lăk), Srepôk 3 (Buôn Đôn)… Sông Sêrêpôk ở Đăk Lăk có tên gọi địa phương là sông Đăk Krông được nhắc đến trong bài hát nổi tiếng “Sông Đăk Krông mùa xuân về” của Tố Hải: “Đăk Krông ơi, Tây Nguyên ơi!/ Cái suối đổ về sông, cái sông ra biển lớn./ Ta nối tấm lòng dân bằng tình yêu cách mạng, đi suốt Truờng Sơn xanh, nghe dòng sông chảy mãi./ Đăk Krông ơi, dòng sông xanh thắm…”
Dòng sông Sê San ơi!
Là tản văn nổi tiếng của Tỳ kheo Thích Giác Tâm, vị sư trụ trì ở chùa Bửu Minh tại Biển Hồ, mắt ngọc Pleiku, tỉnh Gia Lai ” Đó là tiếng kêu thảng thốt của con người khi đứng trên bờ của dòng sông. Sông đã không sống đời của sông nữa, mà sông đã sống theo cách mà con người muốn nó sống. Ngày xưa sông vô tư, hồn nhiên sống, khi lên ghềnh, khi xuống thác, khi buông thư chầm chậm nhởn nhơ như người vô sự ngắm mây bay, xem hoa nở, lắng nghe tiếng chim hót. Nhưng rồi con người đã can thiệp vào, bắt sông phục vụ con người, mà nhu cầu của con người ở trong cõi người ta này thì vô hạn, vô chừng, không biết bao nhiêu là đủ. Thủy hỏa tương khắc, nhưng với trí tuệ con người biến nước thành hỏa, thành điện năng. Biến bao nhiêu cũng không đủ cung cấp, bởi con người không khác gì con khỉ Tôn Ngộ Không trong Tây Du Ký. Đào tiên quý là vậy mà hái trong thoáng chốc đã sạch vườn đào của Tây Vương Mẫu, mỗi trái chỉ cắn một miếng rồi quẳng đi, vứt bỏ. Quẳng đi không hề nuối tiếc, mà đào tiên mấy ngàn năm mới ra trái một lần (điện rất quý có khác gì trái đào tiên đâu!).”
Vị thiền sư trên mắt ngọc cao nguyên viết tiếp: “Đầu năm đứng trên dòng sông Sê San, tôi đã ngắm nhìn sông và tôi đã thấy như thế. Rừng đại ngàn đã ngã gục xuống, dòng sông mênh mang đẹp như một dải lụa trắng của các đại sư Tây Tạng, Ấn Độ quấn choàng cổ, bắt nguồn từ các đỉnh núi cao của núi rừng Ngọc Linh tỉnh Kon Tum băng qua đồi núi chập chùng của hai tỉnh Kon Tum và Gia Lai để rồi chảy qua biên giới Campuchia. Ngăn chặn dòng chảy, nhiều nhà máy thủy điện đã mọc lên, mọc lên để cung cấp năng lượng điện cho con người. Bên này nhà máy thủy điện nước mênh mang, bến bờ rộng thoáng vì nước tích tụ, đổ dồn nước về ba cái cống chạy tua bin phát điện. Bên kia nhà máy giòng sông khô cạn lởm chởm vô số đá, như những bãi đá ở bãi biển Quy Nhơn gần ngôi mộ Hàn Mặc Tử, so sánh cho dễ hình dung vậy thôi. Bãi đá ở biển Quy Nhơn, là đá sống, bởi có con người lân mẫn chăm sóc, cùng vui chơi ca hát quây phim chụp hình. Còn bãi đá ở giòng sông Sê San là bãi đá chết, đá chết bởi vì sông đã chết. Trong kinh Phật thường dùng từ:” Bên này bờ, bên kia bờ “. Bờ bên này là bờ sinh tử, vô minh, khổ đau. Bờ bên kia là giải thoát, an lạc, Niết Bàn. Đứng bên bờ sông Sê San tôi đã ngộ ra không có bờ bên này thì cũng không có bờ bên kia. Để tạo ra năng lượng điện con người phải trả giá cho cái được và cái mất. Được cho nhu cầu tiêu thụ của con người và mất cho môi trường sinh thái không còn cân đối, đảo lộn.”
Tôi đã từng đứng trên bờ sinh tử và cũng đã từng câu cá bên dòng sông này thuở mà sông chưa làm đập thủy điện. Nay tôi lại về lặng ngắm dòng sông xưa. Trong lòng tôi thao thiết một dòng sông chảy mãi…
NƠI HỢP LƯU ĐÔNG DƯƠNG
Hoàng Kim
Giảng dạy và chuyển giao tiến bộ kỹ thuật mới trong nông nghiệp về lúa, sắn, rau, hoa, quả tại nơi hợp lưu Đông Dương, tôi nói với Hoàng Long, Nguyễn Văn Phu với các bạn trẻ cùng chung sức Việt Nam con đường xanh: Đây là vùng di sản, dấu chân Phật Đông Dương, hợp lưu sông Mê Công, nơi kết nối hiệu quả Việt Nam, Lào, Cămpuchia, Thái Lan và Biển Đông.
Sông Srepok vùng ngã ba Đông Dương là hợp lưu quan trọng nhất của sông Mekong. Sông Srepok phần Việt Nam là phụ lưu đặc biệt quan trọng của sông Mekong. Đây là ngã ba Đông Dương, hợp lưu lớn nhất của sông Mekong. Sông Srepok với các dòng sông ngắn, dốc, hung dữ, hoang sơ chảy ngược về Mekong mà không phải chảy xuôi về Biển Đông như các sông Việt khác. “Ai nắm được nóc nhà Tây Nguyên và chế ngự được vùng hợp lưu này là quản lý được Đông Dương”. Những chuyên gia quân sự và sử học đã từng nhận định vậy, Tính từ chỗ hợp lưu của sông Krông Ana (sông Mẹ) và sông Krông Nô (sông Bố) tới cửa sông Srepok dài 406 km, trong đó đoạn chảy qua Campuchia dài khoảng 281 km, đoạn chảy trong lãnh thổ Việt Nam dài khoảng 126 km.
Thuyền độc mộc là phương tiện vượt thác hiệu quả thuở hoang sơ của vùng đất nước dữ dội và hiền hòa này.
NGỌC PHƯƠNG NAM
Hoàng Kim
Thuyền độc mộc
‘Quên tên cây
làm thuyền
Tận cùng nỗi cô đơn
độc mộc!
Khoét hết ruột Chỉ để một lần ngược thác bất chấp đời lênh đênh…” (1)
Ngọc phương Nam
“Hứng mật đời
thành thơ
Việc nghìn năm hữu lý
Trạng Trình
Đến Trúc Lâm
Đạt năm việc lớn Hoàng Thành
Đất trời xanh
Yên Tử …” (2)
Ngọc phương Nam Hoàng Kim (2) họa đối Thuyền độc mộc Trịnh Tuyên (1) nơi hợp lưu Đông Dương huyền thoại
Tôi đã rất nhiều lần qua lại vùng này. Thuở chiến tranh chống Mỹ, tại Tây Nguyên, đơn vị tôi chốt ở vùng ngã ba biên giới Việt – Lào- Cămpuchia, bên dòng sông Srepok (hay Sêrêpôk, Srêpôk, mà tiếng Campuchia gọi là Tongle Xrepok). Srepok tại ngã ba Đông Dương là điểm hợp lưu quan trọng nhất, trong khi Phnôm Pênh lại chính là điểm phân lưu quan trọng nhất của sông Mekong. Tôi đã có bài thơ Câu cá bên dòng Sêrêpôk, sau này tôi cảm khái đến nao lòng khi đọc bài viết “Dòng sông Sê San ơi !” của thượng tòa Thích Giác Tâm, Chùa Bửu Minh Biển Hồ, và tôi đã lần về tìm thăm thiền sư trên núi cao, và lâu lâu tôi lại đọc lại “Về nơi tịch lặng; Đến chốn thung dung“.
Con trai tôi, Hoàng Long hình ảnh mùa hè xanh Lào thật vô tư cùng bạn hữu. Tôi lưu lại một số hình ảnh ở Champasac, là một tỉnh ở phía tây nam Lào, kề biên giới với Thái Lan và Campuchia. Đây là một trong ba lãnh địa nằm trên đất Lào, thuộc vương quốc Lan Xang. Theo cuộc tổng điều tra dân số năm 2015, đô thị này có dân số 694.023 người. Tên tỉnh lấy từ tên Vương quốc Champasak với thủ phủ cũ là thị trấn Champasak. Tỉnh lị là Pakse. Nhiều câu chuyện về đất về người vùng hợp lưu Đông Dương chưa kịp ghi lại.
Lúa sắn Cămpuchia và Lào, tôi đã gắn bó niều với các bạn tôi ở bên ấy. Chúng ta có thể dạy và học gì với nông dân? Tôi lưu lại đây một điểm nhấn hợp tác lúa sắn với nông nghiệp Căm pu chia và Lào để có dịp quay lại viết sâu hơn, kể câu chuyện tiếp nối các câu chuyện Hợp tác Bảo tồn và Phát triển. .
Trở lại câu chuyện Câu cá bên dòng Sêrêpôk lúc câu cá, tôi nghĩ nhiều về bức tranh sơn dầu nổi tiếng “Những người kéo thuyền trên sông Volga” của Repin và bài thơ Chèo thuyền trên sông Volga của Hoàng Bình. Tôi cảm nhận thật rõ ràng những suy tư của người lính chiến trước dòng sông Neva, Volga đối sánh với dòng sông Mekong, sông Hồng huyền thoại nước Việt mến yêu của Tổ Quốc tôi. Đất nước chúng ta cần lắm những tác phẩm sử thi kiểu :Sông Đông êm đềm” cho nhân dân đất nước mình và bạn hữu Lào Cămpuchia cùng đọc.
“Những người kéo thuyền trên sông Volga”, kiệt tác hội họa của Rapin với bài thơ Chèo thuyền trên sông Neva của tiến sĩ sử học Hoàng Bình giúp chúng ta liên tưởng về sông sông Volga và sông Neva trong sự so sánh với sông Hồng và sông Mekong. Chèo thuyền trên sông Neva là chèo thuyền trên dòng sông huyền thoại. Volga và Neva là hai điểm tựa lịch sử của nước Nga mênh mông. Hoàng Bình là nhà sử học và nhiều năm du học Nga nên có sự nhìn nhận sâu sắc và cất lên tứ thơ. Tôi mong muốn tìm lại bản gốc bài thơ Chèo thuyền trên sông volga và bổ sung hoàn thiện bài viết này.
Nhân nói chuyện về nơi hợp lưu Đông Dương là nơi lắng đọng di sản của Vương quốc Champasak trong Lịch sử Lào, cũng là nơi giao hội nhưng đừng nhầm lẫn với Vương quốc Champa của Lịch sử Việt Nam và Lịch sử Đông Nam Á. Những vùng đất hiền hòa và dữ dội, giao hội của các luồng văn minh thường ẩn chứa nhiều trần tích lịch sử văn hóa đáng suy ngẩm, để chấn hưng một dân tộc, những tinh hoa minh triết thường tìm về cội nguồn để tìm về nguyên khí. Nói chuyện về sông Hồng và sông Mekong trong mạch suy nghĩ “Từ Mekong nhớ Neva”, tôi xin được có chút ghi chép nhỏ về gia đình và dòng họ để bảo tồn. Họ bên mẹ tôi có nhiều người học và làm việc ở Nga. Sống lâu và hiểu về Nga và châu Âu nhất có lẽ là cậu Huỳnh Thúc Tấn, cậu Huỳnh Thúc Cẩn và Hoàng Bình. Cậu Huỳnh Thúc Tấn nguyên Phó chủ nhiệm văn phòng Chính phủ (Thứ trưởng) và từng là Trưởng đại diện thường trực Việt Nam tại Hội đồng tương trợ kinh tế (SEP). Cậu Huỳnh Thúc Cẩn là đại tá nhà văn, người tham gia đào tạo sĩ quan kĩ thuật quân sự cho Bộ Quốc phòng Cộng hòa dân chủ Đức, từng tham gia hội thảo về đường lối chiến tranh nhân dân cùng chuyên gia quân sự ba nước Cộng hòa dân chủ Đức, Bun ga ri và Tiệp khắc. Hoàng Bình là tiến sĩ sử học Nga, tác giả bài thơ Chèo thuyền trên sông Neva, là con trai thứ hai của cậu Trình tôi. Cậu Trình là con cả của gia đình bảy anh em trai huyền thoại “Trình, Cảnh, Tuệ, Cẩn, Tấn, Thân, Cương” Cụ Hoàng Bá Chuân, nhà nho, ở số nhà 64 Hàng Bạc, Hà Nội, là ông nội Hoàng Bình. Ông là cậu ruột của mẹ tôi và rất thương chúng tôi là những đứa cháu sớm mồ côi cha mẹ và ông bà ngoại. Tôi rất thương kính ông như là ông ngoại ruột vì ông rất hiền và thương cháu. Cuộc đoàn tụ của 5 anh em ngày Giải phóng Thủ đô là câu chuyện kỳ lạ có thật ở làng Minh Lệ, xã Quảng Minh, thị xã Ba Đồn (trước là huyện Quảng Trạch), tỉnh Quảng Bình. Cụ Hoàng Bá Chuân viết: Nhà tôi sinh được bảy người con/ Quyết chí chung tình với nước non/ Kháng chiến năm con đi khắp nước/ Lớn lên trai bé sẽ xung phong… Cậu Trình, bố của Hoàng Bình mất sớm.Hoàng Bình trong gia đình đặc biệt như vậy nên thời đó được miễn nghĩa vụ quân sự và đi học Nga. Gia đình tôi thì bố tôi trước cũng đi bộ đội Vệ quốc đoàn và trong năm anh em tôi với ba trai và hai gái thì anh trai tôi là Hoàng Trung Trực nhập ngũ năm 1963, tôi cũng gia nhập quân đội năm 1971. Tôi đã từng kể chuyện này tại Thầy bạn là lộc xuân cuộc đời. Hôm tôi đến thăm ông, trước lúc cắt quản hậu phương để vào Nam, tôi đã tình cờ đọc được bài thơ Chèo thuyền trên sông Neva của Hoàng Bình và rất thích. Tôi chép bài thơ này vào sổ tay và mang vào chiến trường.
ngắm bức tượng Mẹ của nước Nga lồng lộng trên nền trời tại đỉnh đồi gần sông Neva và gần trung tâm thành phố Sankt Peterburg. Tôi nhớ về nước Nga biểu tượng sâu sắc lắng đọng nhất trong lòng là sông Neva và sông Volga, đặc biệt là khúc sông chảy qua thủ đô phương Bắc Sankt Peterburg nơi có biểu tượng này của sức mạnh Nga. Nhiều bạn bè tôi thích Trường Đại học Quốc gia Moskva (MGU) nơi được Nữ hoàng Elizaveta Đế quốc Nga ra sắc lệnh thành lập ngày 25 tháng 1 năm 1755, nay là trường đại học lớn nhất và lâu đời nhất ở Nga. Nơi đó thời Stalin đã ra lệnh xây dựng tại nền cũ MGU tòa chính trường MGU mang tên Lomonosov với bảy tòa nhà chọc trời đã làm thay đổi hoàn toàn diện mạo Moskva. Ngày nay, đó là một bộ phận không thể thiếu của kiến trúc thủ đô, là tấm danh thiếp Moskva và một phần lịch sử của nó. Thế nhưng khi bình tâm nhìn lại sức mạnh Nga ở khoa học kỹ thuật công nghệ hay đất nước và con người thì có vẻ như Neva và Volga trong bản tính Nga là kỳ vĩ hơn.
Volga là dòng sông Nữ hoàng, dòng sông Mẹ, dòng sông Chủ gia đình, dòng sông Người cần mẫn, dòng sông Huyết mạch của Tổ quốc Nga. Sông Volga là đường giao thông chính xuyên châu Âu nơi có trên 150.000 con suối và sông nhỏ nước Nga hòa dòng nước của mình vào đó, nơi có khoảng 40% dân số Cộng hòa Liên Bang Nga sinh sống trong lưu vực của dòng sông vĩ đại này. Sông Volga ví như sông Hồng của Việt Nam là dòng sông mẹ vĩ đại, nôi của người Việt cổ, nền văn minh sông Hồng, chốn tổ của nghề lúa.
Neva là dòng sông mẹ thứ hai của nước Nga ví như sông Mekong là dòng sông mẹ thứ hai của người Việt, dòng sông mở rộng hi vọng và tương lai của dân tộc Việt. Neva có thành phố Sankt Peterburg lịch sử, niềm tự hào thiêng liêng của tổ quốc Nga. Nơi đây là cửa ngõ hải quân Nga vươn ra các đại dương và thế giới . Sông Neva và sông Volga là những sông mẹ của nước Nga vĩ đại dường như rất giống sông Mekong và sông Hồng của Việt Nam. Đó là mạch sống và nôi sức mạnh tiềm tàng đất nước. Bài thơ nói về con sông Neva nơi Pie Đại đế lập nên thành phố Sankt-Peterburg cố đô Đế quốc Nga và là thành phố lớn thứ hai ở Nga ngày nay. Sankt-Peterburg nằm trên một loạt đảo nhỏ trong châu thổ sông Neva; con sông này thông với Vịnh Phần Lan, tạo vị thế hải cảng cho Sankt-Peterburg mở cửa nhìn ra biển lớn. Đó cũng là nơi danh tướng Aleksandr Nevsky anh hùng dân tộc của nước Nga, đứng đầu trong số 12 danh nhân vĩ đại nhất của nước này đánh bại quân Thụy Điển trên sông Neva. Thành phố Sankt-Peterburg và dòng sông Neva sau này cũng là nơi chứng kiến những trận đánh đẫm máu và oanh liệt nhất của nước Nga trong cuộc đọ sức với nước Pháp thời Napoleon cũng như sau này là trận vây hãm kéo dài 872 ngày của phát xít Đức đối với Sankt Peterburg, lúc đó gọi là Petrograd và sau khi Lê Nin mất được gọi là Leningrad, gần đây đã trở lại tên gọi Sankt – Peterburg. Gần một triệu người Nga trong thành phố đã bị chết vì bom đạn, đói khát và bệnh tật trong cuộc vây hãm.
Sau này, tôi may mắn được vài lần đến thăm Neva và Volga những dòng sông huyền thoại của nước Nga mến yêu trong hành trình nhìn ra thế giới. Tôi thật sự xúc động khi liên tưởng những nét tương đồng trong số phận của hai dân tộc và những người lính. Người Việt và người Nga đều không hiếu chiến. Số phận dân tộc buộc họ lựa chọn sinh tử giữa tổ quốc niềm tự hào dân tộc với quyền con người và lý tưởng tự do. Đó là sự sâu thẳm Chiến tranh và hòa bình của L. Tonstoi, Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi, Cự ngao đới sơn của Nguyễn Bỉnh Khiêm, Con đường đau khổ của A. Tonstoi, Nguyễn Du và Truyện Kiều , Solokhop và Sông Đông êm đềm, cùng biết bao những kiệt tác văn chương Nga Việt khác.
Ngày 25 tháng 1 năm 1755, Trường Đại học Quốc gia Moskva được Nữ hoàng Elizaveta Đế quốc Nga ra sắc lệnh thành lập, nay là trường đại học lớn nhất và lâu đời nhất ở Nga. Nhà chọc trời Moskva: Tòa chính trường MGU mang tên Lomonosov với bảy tòa nhà chọc trời thời Stalin ra lệnh xây dựng trên nền cũ MGU đã làm thay đổi hoàn toàn diện mạo Moskva. Ngày nay, đó là một bộ phận không thể thiếu của kiến trúc thủ đô, là tấm danh thiếp Moskva và một phần lịch sử của nó, thế nhưng có vẻ như Neva và Volga kỳ vĩ hơn.
Nữ hoàng Nga Elizaveta Petrovna là người được nhân dân Nga và Tổng thống Putin rất mực ngưỡng mộ. Nữ hoàng Elizaveta Petrovna sinh ngày 29 tháng 12 năm 1709 mất ngày 5 tháng 1 năm 1762, đăng quang năm 1741 và qua đời năm 1762. Trong 20 năm bà cầm quyền lãnh thổ Nga rộng 16 triệu kilômét vuông. Bà là vị Nữ hoàng trí tuệ phi thường đã khuyến khích nhà khoa học M. V. Lomonosov thiết lập Trường Đại học Moskva và ra sắc lệnh thành lập Trường Đại học Quốc gia Moskva vào ngày 25 tháng 1 năm 1755, nay là trường đại học lớn nhất và lâu đời nhất ở Nga. Bà cũng là người có tầm nhìn và tài năng sử dụng hiền tài kiệt xuất trọng dụng I. I. Shuvalov sáng lập Viện Hàn lâm Mỹ thuật của Đế quốc Nga ở kinh đô Sankt-Peterburg, trọng dụng kiến trúc sư lỗi lạc Bartolomeo Rastrelli xây dựng những công trình kiến trúc di sản thế giới như Cung điện Mùa Đông và Đại giáo đường Smolny tại Sankt-Peterburg.
Nhân dân Nga có cuộc thăm dò ý kiến “Tên của nước Nga – S
CÂU CHUYỆN ẢNH THÁNG BẢY Hoàng Kim
Chúc mừng ngày Hạnh Phúc hai cháu và đại gia đình thầy Phạm Văn Hiền và thông gia. Vui gặp nhiều người thân quen, thầy Tuyến Bùi Cách, anh Cựu, Trúc Mai, Tran Huien Huien, …. Chùm ảnh bạn Tu Phan Van thật đẹp. Thân chúc mọi người vui khỏe.
Hoàng Kim THẦY BẠN TRONG ĐỜI TÔI. Hoàng Kim với Trần Ngọc Ngoạn, Van Quyen Mai, Hieu Nguyenminh, Mai Trúc Nguyễn Thị tại Vĩ Dạ Xưa đêm thiêng tháng Bảy mưa ngâu giấc mơ hạnh phúc. Tháng Bảy năm 2017 có điều kỳ diệu 5 ngày thứ Bảy, 5 ngày Chủ nhật và 5 ngày Thứ Hai mà theo Lịch Vạn Niên thì 823 năm mới lặp lại một lần. Đây là “nhóm ngày may mắn” để hành thiện những việc đặc biệt tốt đẹp đầy đặn yêu thương.
CÂU CÁ BÊN DÒNG SÊRÊPÔK
Hoàng Kim
Bạn chèo thuyền trên sông Vôn ga
Có biết nơi này mình câu cá?
Sêrêpôk giữa mùa mưa lũ
Sốt rừng, muỗi vắt, đói cơm.
Suốt dọc đường hành quân
Máy bay,
pháo bầy,
thám báo,
mưa bom
Chốt binh trạm giữa rừng
Người bạn thân
Lả người
Vì cơn rét đậm
Thèm một chút cá tươi
Mình câu cá
Cho bữa cơm cuối cùng của người thân
mà nước mắt
đời người
rơi, rơi…
mặn đắng
Bạn ơi
Con cá nhỏ trên dòng Sêrêpôk
Nay đã theo dòng thác lũ cuốn đi rồi
Đất nước nghìn năm
Trọn một lời thề
Sống chết thủy chung
với dân tộc mình
Muôn suối nhỏ
Đều đi về biển lớn.
1972
Năm 1972 tại Tây Nguyên, tôi có kỷ niệm không thể quên về những ngày đói gạo, ăn rau rừng và câu cá ven sông Sêrêpôk gần Buôn Đôn. Nhớ buổi câu cho bữa cơm người bạn sốt rừng ốm nặng thèm ăn cá. Đây là bài thơ khóc bạn, lễ 30.4 và ngày 1.5, tôi bùi ngùi nhớ lại. Chèo thuyền trên sông Vônga là thơ Hoàng Bình. Điểm câu cá của tôi gần binh trạm khoảng giữa Đăk Tô-Tân Cảnh và Buôn Đôn. Sông Sêrêpôk (ảnh Đổ Tuấn Hưng trên Wikipedia Tiếng Việt)
Sêrêpôk (hay Srêpôk), tên gọi trong tiếng Campuchia là Tongle Xrepok, là dòng sông lớn nhất trong hệ thống sông ngòi ở Đắk Lắk. Đây là một phụ lưu quan trọng của sông Mekong. Sông Sêrêpôk được hợp thành từ hai dòng sông Krông Ana và Krông Nô (sông Mẹ và sông Bố). Đoạn chảy trên địa phận Đăk Lăk còn được gọi là sông Đăk Krông chảy qua các huyện Krông Ana, Buôn Đôn và Ea Súp với nhiều thác ghềnh hùng vĩ còn tương đối hoang sơ như thác Trinh Nữ, thác Đray Sáp, thác Đray Nu, thác Đray H’linh, thác Gia Long, thác Bảy Nhánh…Tính từ chỗ hợp lưu của sông Krông Ana, sông Krông Nô tới cửa sông của nó dài 406 km, trong đó đoạn chảy trong lãnh thổ Việt Nam dài khoảng 126 km, đoạn chảy qua Campuchia dài khoảng 281 km. Sông Sêrêpôk chảy sang Campuchia được bổ sung thêm nguồn chảy dồi dào từ dòng sông Ea H’leoông, sông Sesan và sông Sekong (hai sông này cũng có nguồn trên lãnh thổ Việt Nam). Sông Serepôk nhập vào sông Mekong sát Stung Treng, tỉnh Stung Treng, Campuchia, (nơi những năm gần đây mới phát hiện được phần mộ của Trung tướng Nguyễn Bình, tại xã Srê-pốc, huyện Xê-san,) sau đó con sông lớn này trở lại Việt Nam (ảnh 2 nguồn Sông Mekong tài liệu tổng hợp ).
Hiện tại dọc theo dòng sông này đã có rất nhiều các công trình thủy điện mọc lên như thủy điện Krông Kma (Krông Bông), Buôn Kuôp (Krông Ana), Đray H’linh 1, Đray H’linh 2 (Cư Jút), Buôn Tou Srah (Lăk), Srepôk 3 (Buôn Đôn)… Sông Sêrêpôk ở Đăk Lăk có tên gọi địa phương là sông Đăk Krông được nhắc đến trong bài hát nổi tiếng “Sông Đăk Krông mùa xuân về” của Tố Hải: “Đăk Krông ơi, Tây Nguyên ơi!/ Cái suối đổ về sông, cái sông ra biển lớn./ Ta nối tấm lòng dân bằng tình yêu cách mạng, đi suốt Truờng Sơn xanh, nghe dòng sông chảy mãi./ Đăk Krông ơi, dòng sông xanh thắm…”
Dòng sông Sê San ơi!
Là tản văn nổi tiếng của Tỳ kheo Thích Giác Tâm, vị sư trụ trì ở chùa Bửu Minh tại Biển Hồ, mắt ngọc Pleiku, tỉnh Gia Lai ” Đó là tiếng kêu thảng thốt của con người khi đứng trên bờ của dòng sông. Sông đã không sống đời của sông nữa, mà sông đã sống theo cách mà con người muốn nó sống. Ngày xưa sông vô tư, hồn nhiên sống, khi lên ghềnh, khi xuống thác, khi buông thư chầm chậm nhởn nhơ như người vô sự ngắm mây bay, xem hoa nở, lắng nghe tiếng chim hót. Nhưng rồi con người đã can thiệp vào, bắt sông phục vụ con người, mà nhu cầu của con người ở trong cõi người ta này thì vô hạn, vô chừng, không biết bao nhiêu là đủ. Thủy hỏa tương khắc, nhưng với trí tuệ con người biến nước thành hỏa, thành điện năng. Biến bao nhiêu cũng không đủ cung cấp, bởi con người không khác gì con khỉ Tôn Ngộ Không trong Tây Du Ký. Đào tiên quý là vậy mà hái trong thoáng chốc đã sạch vườn đào của Tây Vương Mẫu, mỗi trái chỉ cắn một miếng rồi quẳng đi, vứt bỏ. Quẳng đi không hề nuối tiếc, mà đào tiên mấy ngàn năm mới ra trái một lần (điện rất quý có khác gì trái đào tiên đâu!).”
Vị thiền sư trên mắt ngọc cao nguyên viết tiếp: “Đầu năm đứng trên dòng sông Sê San, tôi đã ngắm nhìn sông và tôi đã thấy như thế. Rừng đại ngàn đã ngã gục xuống, dòng sông mênh mang đẹp như một dải lụa trắng của các đại sư Tây Tạng, Ấn Độ quấn choàng cổ, bắt nguồn từ các đỉnh núi cao của núi rừng Ngọc Linh tỉnh Kon Tum băng qua đồi núi chập chùng của hai tỉnh Kon Tum và Gia Lai để rồi chảy qua biên giới Campuchia. Ngăn chặn dòng chảy, nhiều nhà máy thủy điện đã mọc lên, mọc lên để cung cấp năng lượng điện cho con người. Bên này nhà máy thủy điện nước mênh mang, bến bờ rộng thoáng vì nước tích tụ, đổ dồn nước về ba cái cống chạy tua bin phát điện. Bên kia nhà máy giòng sông khô cạn lởm chởm vô số đá, như những bãi đá ở bãi biển Quy Nhơn gần ngôi mộ Hàn Mặc Tử, so sánh cho dễ hình dung vậy thôi. Bãi đá ở biển Quy Nhơn, là đá sống, bởi có con người lân mẫn chăm sóc, cùng vui chơi ca hát quây phim chụp hình. Còn bãi đá ở giòng sông Sê San là bãi đá chết, đá chết bởi vì sông đã chết. Trong kinh Phật thường dùng từ:” Bên này bờ, bên kia bờ “. Bờ bên này là bờ sinh tử, vô minh, khổ đau. Bờ bên kia là giải thoát, an lạc, Niết Bàn. Đứng bên bờ sông Sê San tôi đã ngộ ra không có bờ bên này thì cũng không có bờ bên kia. Để tạo ra năng lượng điện con người phải trả giá cho cái được và cái mất. Được cho nhu cầu tiêu thụ của con người và mất cho môi trường sinh thái không còn cân đối, đảo lộn.”
Tôi đã từng đứng trên bờ sinh tử và cũng đã từng câu cá bên dòng sông này thuở mà sông chưa làm đập thủy điện. Nay tôi lại về lặng ngắm dòng sông xưa. Trong lòng tôi thao thiết một dòng sông chảy mãi…
NƠI HỢP LƯU ĐÔNG DƯƠNG
Hoàng Kim
Giảng dạy và chuyển giao tiến bộ kỹ thuật mới trong nông nghiệp về lúa, sắn, rau, hoa, quả tại nơi hợp lưu Đông Dương, tôi nói với Hoàng Long, Nguyễn Văn Phu với các bạn trẻ cùng chung sức Việt Nam con đường xanh: Đây là vùng di sản, dấu chân Phật Đông Dương, hợp lưu sông Mê Công, nơi kết nối hiệu quả Việt Nam, Lào, Cămpuchia, Thái Lan và Biển Đông.
Sông Srepok vùng ngã ba Đông Dương là hợp lưu quan trọng nhất của sông Mekong. Sông Srepok phần Việt Nam là phụ lưu đặc biệt quan trọng của sông Mekong. Đây là ngã ba Đông Dương, hợp lưu lớn nhất của sông Mekong. Sông Srepok với các dòng sông ngắn, dốc, hung dữ, hoang sơ chảy ngược về Mekong mà không phải chảy xuôi về Biển Đông như các sông Việt khác. “Ai nắm được nóc nhà Tây Nguyên và chế ngự được vùng hợp lưu này là quản lý được Đông Dương”. Những chuyên gia quân sự và sử học đã từng nhận định vậy, Tính từ chỗ hợp lưu của sông Krông Ana (sông Mẹ) và sông Krông Nô (sông Bố) tới cửa sông Srepok dài 406 km, trong đó đoạn chảy qua Campuchia dài khoảng 281 km, đoạn chảy trong lãnh thổ Việt Nam dài khoảng 126 km.
Thuyền độc mộc là phương tiện vượt thác hiệu quả thuở hoang sơ của vùng đất nước dữ dội và hiền hòa này.
NGỌC PHƯƠNG NAM
Hoàng Kim
Thuyền độc mộc
‘Quên tên cây
làm thuyền
Tận cùng nỗi cô đơn
độc mộc!
Khoét hết ruột Chỉ để một lần ngược thác bất chấp đời lênh đênh…” (1)
Ngọc phương Nam
“Hứng mật đời
thành thơ
Việc nghìn năm hữu lý
Trạng Trình
Đến Trúc Lâm
Đạt năm việc lớn Hoàng Thành
Đất trời xanh
Yên Tử …” (2)
Ngọc phương Nam Hoàng Kim (2) họa đối Thuyền độc mộc Trịnh Tuyên (1) nơi hợp lưu Đông Dương huyền thoại
Tôi đã rất nhiều lần qua lại vùng này. Thuở chiến tranh chống Mỹ, tại Tây Nguyên, đơn vị tôi chốt ở vùng ngã ba biên giới Việt – Lào- Cămpuchia, bên dòng sông Srepok (hay Sêrêpôk, Srêpôk, mà tiếng Campuchia gọi là Tongle Xrepok). Srepok tại ngã ba Đông Dương là điểm hợp lưu quan trọng nhất, trong khi Phnôm Pênh lại chính là điểm phân lưu quan trọng nhất của sông Mekong. Tôi đã có bài thơ Câu cá bên dòng Sêrêpôk, sau này tôi cảm khái đến nao lòng khi đọc bài viết “Dòng sông Sê San ơi !” của thượng tòa Thích Giác Tâm, Chùa Bửu Minh Biển Hồ, và tôi đã lần về tìm thăm thiền sư trên núi cao, và lâu lâu tôi lại đọc lại “Về nơi tịch lặng; Đến chốn thung dung“.
Con trai tôi, Hoàng Long hình ảnh mùa hè xanh Lào thật vô tư cùng bạn hữu. Tôi lưu lại một số hình ảnh ở Champasac, là một tỉnh ở phía tây nam Lào, kề biên giới với Thái Lan và Campuchia. Đây là một trong ba lãnh địa nằm trên đất Lào, thuộc vương quốc Lan Xang. Theo cuộc tổng điều tra dân số năm 2015, đô thị này có dân số 694.023 người. Tên tỉnh lấy từ tên Vương quốc Champasak với thủ phủ cũ là thị trấn Champasak. Tỉnh lị là Pakse. Nhiều câu chuyện về đất về người vùng hợp lưu Đông Dương chưa kịp ghi lại.
Lúa sắn Cămpuchia và Lào, tôi đã gắn bó niều với các bạn tôi ở bên ấy. Chúng ta có thể dạy và học gì với nông dân? Tôi lưu lại đây một điểm nhấn hợp tác lúa sắn với nông nghiệp Căm pu chia và Lào để có dịp quay lại viết sâu hơn, kể câu chuyện tiếp nối các câu chuyện Hợp tác Bảo tồn và Phát triển. .
Trở lại câu chuyện Câu cá bên dòng Sêrêpôk lúc câu cá, tôi nghĩ nhiều về bức tranh sơn dầu nổi tiếng “Những người kéo thuyền trên sông Volga” của Repin và bài thơ Chèo thuyền trên sông Volga của Hoàng Bình. Tôi cảm nhận thật rõ ràng những suy tư của người lính chiến trước dòng sông Neva, Volga đối sánh với dòng sông Mekong, sông Hồng huyền thoại nước Việt mến yêu của Tổ Quốc tôi. Đất nước chúng ta cần lắm những tác phẩm sử thi kiểu :Sông Đông êm đềm” cho nhân dân đất nước mình và bạn hữu Lào Cămpuchia cùng đọc.
“Những người kéo thuyền trên sông Volga”, kiệt tác hội họa của Rapin với bài thơ Chèo thuyền trên sông Neva của tiến sĩ sử học Hoàng Bình giúp chúng ta liên tưởng về sông sông Volga và sông Neva trong sự so sánh với sông Hồng và sông Mekong. Chèo thuyền trên sông Neva là chèo thuyền trên dòng sông huyền thoại. Volga và Neva là hai điểm tựa lịch sử của nước Nga mênh mông. Hoàng Bình là nhà sử học và nhiều năm du học Nga nên có sự nhìn nhận sâu sắc và cất lên tứ thơ. Tôi mong muốn tìm lại bản gốc bài thơ Chèo thuyền trên sông volga và bổ sung hoàn thiện bài viết này.
Nhân nói chuyện về nơi hợp lưu Đông Dương là nơi lắng đọng di sản của Vương quốc Champasak trong Lịch sử Lào, cũng là nơi giao hội nhưng đừng nhầm lẫn với Vương quốc Champa của Lịch sử Việt Nam và Lịch sử Đông Nam Á. Những vùng đất hiền hòa và dữ dội, giao hội của các luồng văn minh thường ẩn chứa nhiều trần tích lịch sử văn hóa đáng suy ngẩm, để chấn hưng một dân tộc, những tinh hoa minh triết thường tìm về cội nguồn để tìm về nguyên khí. Nói chuyện về sông Hồng và sông Mekong trong mạch suy nghĩ “Từ Mekong nhớ Neva”, tôi xin được có chút ghi chép nhỏ về gia đình và dòng họ để bảo tồn. Họ bên mẹ tôi có nhiều người học và làm việc ở Nga. Sống lâu và hiểu về Nga và châu Âu nhất có lẽ là cậu Huỳnh Thúc Tấn, cậu Huỳnh Thúc Cẩn và Hoàng Bình. Cậu Huỳnh Thúc Tấn nguyên Phó chủ nhiệm văn phòng Chính phủ (Thứ trưởng) và từng là Trưởng đại diện thường trực Việt Nam tại Hội đồng tương trợ kinh tế (SEP). Cậu Huỳnh Thúc Cẩn là đại tá nhà văn, người tham gia đào tạo sĩ quan kĩ thuật quân sự cho Bộ Quốc phòng Cộng hòa dân chủ Đức, từng tham gia hội thảo về đường lối chiến tranh nhân dân cùng chuyên gia quân sự ba nước Cộng hòa dân chủ Đức, Bun ga ri và Tiệp khắc. Hoàng Bình là tiến sĩ sử học Nga, tác giả bài thơ Chèo thuyền trên sông Neva, là con trai thứ hai của cậu Trình tôi. Cậu Trình là con cả của gia đình bảy anh em trai huyền thoại “Trình, Cảnh, Tuệ, Cẩn, Tấn, Thân, Cương” Cụ Hoàng Bá Chuân, nhà nho, ở số nhà 64 Hàng Bạc, Hà Nội, là ông nội Hoàng Bình. Ông là cậu ruột của mẹ tôi và rất thương chúng tôi là những đứa cháu sớm mồ côi cha mẹ và ông bà ngoại. Tôi rất thương kính ông như là ông ngoại ruột vì ông rất hiền và thương cháu. Cuộc đoàn tụ của 5 anh em ngày Giải phóng Thủ đô là câu chuyện kỳ lạ có thật ở làng Minh Lệ, xã Quảng Minh, thị xã Ba Đồn (trước là huyện Quảng Trạch), tỉnh Quảng Bình. Cụ Hoàng Bá Chuân viết: Nhà tôi sinh được bảy người con/ Quyết chí chung tình với nước non/ Kháng chiến năm con đi khắp nước/ Lớn lên trai bé sẽ xung phong… Cậu Trình, bố của Hoàng Bình mất sớm.Hoàng Bình trong gia đình đặc biệt như vậy nên thời đó được miễn nghĩa vụ quân sự và đi học Nga. Gia đình tôi thì bố tôi trước cũng đi bộ đội Vệ quốc đoàn và trong năm anh em tôi với ba trai và hai gái thì anh trai tôi là Hoàng Trung Trực nhập ngũ năm 1963, tôi cũng gia nhập quân đội năm 1971. Tôi đã từng kể chuyện này tại Thầy bạn là lộc xuân cuộc đời. Hôm tôi đến thăm ông, trước lúc cắt quản hậu phương để vào Nam, tôi đã tình cờ đọc được bài thơ Chèo thuyền trên sông Neva của Hoàng Bình và rất thích. Tôi chép bài thơ này vào sổ tay và mang vào chiến trường.
ngắm bức tượng Mẹ của nước Nga lồng lộng trên nền trời tại đỉnh đồi gần sông Neva và gần trung tâm thành phố Sankt Peterburg. Tôi nhớ về nước Nga biểu tượng sâu sắc lắng đọng nhất trong lòng là sông Neva và sông Volga, đặc biệt là khúc sông chảy qua thủ đô phương Bắc Sankt Peterburg nơi có biểu tượng này của sức mạnh Nga. Nhiều bạn bè tôi thích Trường Đại học Quốc gia Moskva (MGU) nơi được Nữ hoàng Elizaveta Đế quốc Nga ra sắc lệnh thành lập ngày 25 tháng 1 năm 1755, nay là trường đại học lớn nhất và lâu đời nhất ở Nga. Nơi đó thời Stalin đã ra lệnh xây dựng tại nền cũ MGU tòa chính trường MGU mang tên Lomonosov với bảy tòa nhà chọc trời đã làm thay đổi hoàn toàn diện mạo Moskva. Ngày nay, đó là một bộ phận không thể thiếu của kiến trúc thủ đô, là tấm danh thiếp Moskva và một phần lịch sử của nó. Thế nhưng khi bình tâm nhìn lại sức mạnh Nga ở khoa học kỹ thuật công nghệ hay đất nước và con người thì có vẻ như Neva và Volga trong bản tính Nga là kỳ vĩ hơn.
Volga là dòng sông Nữ hoàng, dòng sông Mẹ, dòng sông Chủ gia đình, dòng sông Người cần mẫn, dòng sông Huyết mạch của Tổ quốc Nga. Sông Volga là đường giao thông chính xuyên châu Âu nơi có trên 150.000 con suối và sông nhỏ nước Nga hòa dòng nước của mình vào đó, nơi có khoảng 40% dân số Cộng hòa Liên Bang Nga sinh sống trong lưu vực của dòng sông vĩ đại này. Sông Volga ví như sông Hồng của Việt Nam là dòng sông mẹ vĩ đại, nôi của người Việt cổ, nền văn minh sông Hồng, chốn tổ của nghề lúa.
Neva là dòng sông mẹ thứ hai của nước Nga ví như sông Mekong là dòng sông mẹ thứ hai của người Việt, dòng sông mở rộng hi vọng và tương lai của dân tộc Việt. Neva có thành phố Sankt Peterburg lịch sử, niềm tự hào thiêng liêng của tổ quốc Nga. Nơi đây là cửa ngõ hải quân Nga vươn ra các đại dương và thế giới . Sông Neva và sông Volga là những sông mẹ của nước Nga vĩ đại dường như rất giống sông Mekong và sông Hồng của Việt Nam. Đó là mạch sống và nôi sức mạnh tiềm tàng đất nước. Bài thơ nói về con sông Neva nơi Pie Đại đế lập nên thành phố Sankt-Peterburg cố đô Đế quốc Nga và là thành phố lớn thứ hai ở Nga ngày nay. Sankt-Peterburg nằm trên một loạt đảo nhỏ trong châu thổ sông Neva; con sông này thông với Vịnh Phần Lan, tạo vị thế hải cảng cho Sankt-Peterburg mở cửa nhìn ra biển lớn. Đó cũng là nơi danh tướng Aleksandr Nevsky anh hùng dân tộc của nước Nga, đứng đầu trong số 12 danh nhân vĩ đại nhất của nước này đánh bại quân Thụy Điển trên sông Neva. Thành phố Sankt-Peterburg và dòng sông Neva sau này cũng là nơi chứng kiến những trận đánh đẫm máu và oanh liệt nhất của nước Nga trong cuộc đọ sức với nước Pháp thời Napoleon cũng như sau này là trận vây hãm kéo dài 872 ngày của phát xít Đức đối với Sankt Peterburg, lúc đó gọi là Petrograd và sau khi Lê Nin mất được gọi là Leningrad, gần đây đã trở lại tên gọi Sankt – Peterburg. Gần một triệu người Nga trong thành phố đã bị chết vì bom đạn, đói khát và bệnh tật trong cuộc vây hãm.
Sau này, tôi may mắn được vài lần đến thăm Neva và Volga những dòng sông huyền thoại của nước Nga mến yêu trong hành trình nhìn ra thế giới. Tôi thật sự xúc động khi liên tưởng những nét tương đồng trong số phận của hai dân tộc và những người lính. Người Việt và người Nga đều không hiếu chiến. Số phận dân tộc buộc họ lựa chọn sinh tử giữa tổ quốc niềm tự hào dân tộc với quyền con người và lý tưởng tự do. Đó là sự sâu thẳm Chiến tranh và hòa bình của L. Tonstoi, Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi, Cự ngao đới sơn của Nguyễn Bỉnh Khiêm, Con đường đau khổ của A. Tonstoi, Nguyễn Du và Truyện Kiều , Solokhop và Sông Đông êm đềm, cùng biết bao những kiệt tác văn chương Nga Việt khác.
Ngày 25 tháng 1 năm 1755, Trường Đại học Quốc gia Moskva được Nữ hoàng Elizaveta Đế quốc Nga ra sắc lệnh thành lập, nay là trường đại học lớn nhất và lâu đời nhất ở Nga. Nhà chọc trời Moskva: Tòa chính trường MGU mang tên Lomonosov với bảy tòa nhà chọc trời thời Stalin ra lệnh xây dựng trên nền cũ MGU đã làm thay đổi hoàn toàn diện mạo Moskva. Ngày nay, đó là một bộ phận không thể thiếu của kiến trúc thủ đô, là tấm danh thiếp Moskva và một phần lịch sử của nó, thế nhưng có vẻ như Neva và Volga kỳ vĩ hơn.
Nữ hoàng Nga Elizaveta Petrovna là người được nhân dân Nga và Tổng thống Putin rất mực ngưỡng mộ. Nữ hoàng Elizaveta Petrovna sinh ngày 29 tháng 12 năm 1709 mất ngày 5 tháng 1 năm 1762, đăng quang năm 1741 và qua đời năm 1762. Trong 20 năm bà cầm quyền lãnh thổ Nga rộng 16 triệu kilômét vuông. Bà là vị Nữ hoàng trí tuệ phi thường đã khuyến khích nhà khoa học M. V. Lomonosov thiết lập Trường Đại học Moskva và ra sắc lệnh thành lập Trường Đại học Quốc gia Moskva vào ngày 25 tháng 1 năm 1755, nay là trường đại học lớn nhất và lâu đời nhất ở Nga. Bà cũng là người có tầm nhìn và tài năng sử dụng hiền tài kiệt xuất trọng dụng I. I. Shuvalov sáng lập Viện Hàn lâm Mỹ thuật của Đế quốc Nga ở kinh đô Sankt-Peterburg, trọng dụng kiến trúc sư lỗi lạc Bartolomeo Rastrelli xây dựng những công trình kiến trúc di sản thế giới như Cung điện Mùa Đông và Đại giáo đường Smolny tại Sankt-Peterburg.
Nhân dân Nga có cuộc thăm dò ý kiến “Tên của nước Nga – Sự lựa chọn lịch sử năm 2008″ do kênh truyền hình Rossia cùng với Viện Lịch sử Nga thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Nga và Quỹ ý kiến xã hội tổ chức. Pie đại đế là nhân vật lịch sử vĩ đại nhất nước Nga đã được bình chọn, kế đến là Stalin, Le Nin và Nga hoàng Nikolai II với Nữ hoàng Nga Elizaveta Petrovna là người được là những nhà lãnh đạo kiệt xuất nhất lịch sử nước Nga. Tổng thống Nga Putin gần đây cũng được nhân dân Nga lựa chọn để tiếp tục chấn hưng đất nước Nga. Điều đó đã chứng tỏ những đánh giá của nhân dân Nga xuyên suốt một quá trình trải nghiệm lịch sử lâu dài.
Sông Neva và sông Volga thao thiết chảy gợi cho chúng ta một tầm nhìn tham chiếu.
Tắm tiên ở Chư Jang Sin tôi may mắn được tắm mình trong mạch nước thiêng ban mai đầu nguồn của một sông lớn và vùng núi hùng vĩ Tây Nguyên, trước đó đã qua trãi nghiệm gian khổ của cuộc chiến tranh thống nhất đất nước, sau này lại được làm nhà nông học đi nhiều nơi ở Tây Nguyên từ núi Ngọc Linh hùng vĩ và sông mẹ SeSan của Bắc Tây Nguyên đến núi Chư Jang Sin cao vọi và sông mẹ Đồng Nai của Nam Tây Nguyên, được nhiều lần sang Căm pu chia, Lào dọc sông Mekong, giúp bạn canh tác sắn lúa. Tôi càng trãi nghiệm và liên tưởng thấm thía sâu sắc về những dòng sông.
Nhớ Neva, nhớ những năm tháng ở Tiệp, Nga, Bỉ, Ý, Anh , Pháp … tôi càng nhận thức sâu sắc thêm “đêm trắng và bình minh“: Đi đâu cũng không bằng Tổ quốc mình. Nói gì, làm gì cũng không bằng dạy, học và làm cho đồng bào đất nước mình. Đi khắp quê người để hiểu đất quê hương. Mục đích sau cùng của dạy và học là thấu suốt bản chất sự vật, có lời giải đúng và làm được việc. Dạy và học thực tiễn trên chính Tổ quốc mình. Việt Nam quê hương tôi! Đó là đất nước của biết bao nhiêu thế hệ xả thân vì nước để quyết giành cho được độc lập, thống nhất, tự do và toàn vẹn lãnh thổ. “Nếu chỉ để lại lời nói suông cho đời sau sao bằng đem thân đảm nhận trọng trách cho thiên hạ trước đã”. Làm nhà khoa học xanh hướng đến bát cơm ngon của người dân nghèo, đó là điều tôi tâm đắc nhất !
Sông Srepok phần Việt Nam đoạn chảy trên địa phận Đăk Lăk còn được gọi là sông Đăk Krông là dòng sông lớn nhất trong hệ thống sông ngòi ở Đắk Lắk. Sông Srepok được hợp thành từ hai dòng sông Krông Ana và Krông Nô có nhiều thác ghềnh hùng vĩ như thác Trinh Nữ, thác Đray Sáp, thác Đray Nu, thác Đray H’linh, thác Gia Long, thác Bảy Nhánh. Hiện tại dọc theo dòng sông này đã có rất nhiều các công trình thủy điện mọc lên như thủy điện Krông Bông, Krông Ana, Đray H’linh 1, Đray H’linh 2 (Cư Jút), Buôn Tou Srah (Lăk), Srepôk 3 (Buôn Đôn)…
Sông Srepok chảy sang Campuchia được bổ sung thêm nguồn chảy dồi dào từ dòng sông Ea H’leo, sông Sesan và sông Sekong. Hai sông này cũng có nguồn trên lãnh thổ Việt Nam. Sông Srepok nhập vào sông Mekong sát Stung Treng, tỉnh Stung Treng, Campuchia. Nơi đây, những năm gần đây vừa phát hiện được phần mộ của Trung tướng Nguyễn Bình, tại xã Srê-pốc, huyện Xê-san. Sông Srepok hợp lưu quan trọng nhất của con sông Mekong tại ngã ba Đông Dương và phân lưu quan trọng nhất của sông Mekong tại Phnôm Pênh.
Đến Srepok, tôi đã may mắn được gặp nhiều già làng người dân tộc bản địa và người Kinh, được sống và làm việc với Một thế hệ Tây Nguyên mới, gồm nhiều bạn bè, người dân của các vùng miền Việt Nam về Tây Nguyên lập nghiệp. Họ cùng chung lưng đấu cật với dân bản địa hình thành nên một Tây Nguyên mới. Một số già làng bản địa mà tôi từng biết như anh hùng Đinh Núp người dân tộc Ba Na làng Stơr, xã Tơ Tung, huyện KBang, tỉnh Gia Lai, là nhân vật chính, nguyên mẫu trong bộ tiểu thuyết Đất nước đứng lên của nhà văn Nguyên Ngọc. Nhà giáo nhân dân, bác sĩ Y Ngông Niê Kdăm, Hiệu trưởng trường Đại học Tây Nguyên nhiệm kỳ 1987 -1993 người dân tộc Ê Đê, sinh tại buôn Ea Sup, xã Kma Rang Prong, nay thuộc thị trấn Ea Pôk, huyện Cư M’gar, tại Đắk Lắk. Các già làng người Kinh như PGS. TS. Phan Quốc Sủng- Nhà khoa học chiến thắng bệnh tật, Hiệu trưởng Trường Đại học Tây Nguyên (1993-1997), nguyên Viện trưởng Viện nghiên cứu cà phê Eakmat (nay là Viện Khoa học Kỹ thuật Nông Lâm nghiệp Tây Nguyên) trong nhiều năm. Cụ Đỗ Hữu Bá (bí danh Đỗ Văn Trị) Tỉnh ủy viên Đắk Lắk, Trưởng ban Dân tộc và Định canh Định cư tỉnh, đảng viên huy hiệu 60 năm tuổi đảng, là người Phú Yên, nay ở thành phố Buôn Ma Thuột, cụ đã từng ở Nga và là một pho địa lý, lịch sử về Tây Nguyên …