Số lần xem
Đang xem 6591 Toàn hệ thống 19021 Trong vòng 1 giờ qua
Trang liên kết
Tỉnh thức
giữa đêm thiêng Yên Tử
Để thấm hiểu đức Nhân Tông
Ta thành tâm đi bộ
Lên tận đỉnh chùa Đồng
Tâm sáng Ức Trai
trong tựa ngọc TÌNH YÊU CUỘC SỐNG
DẠY VÀ HỌC Để chấn hưng giáo dục Việt Nam cấp thiết phải có đội ngũ những người thầy giáo ưu tú có tâm đức thiết tha với nghề, có trình độ chuyên môn cao và có kỹ năng giảng dạy tốt. Đây là trang thông tin chuyên đề dạy và học để trao đổi và bàn luận
Norman Borlaug Lời Thầy dặn Việc chính đời người chỉ ít thôi
Chuyên tâm đừng bận chuyện trời ơi
Phúc hậu suốt đời làm việc thiện
Di sản muôn năm mãi sáng ngời.
Tuyết Sơn phi hồ là bộ tiểu thuyết đầu tiên trong 14 bộ tiểu thuyết nổi tiếng của nhà văn Kim Dung, một trong ba văn hào được nhiều người đọc nhất của Trung Quốc đương đại. Tác phẩm Tuyết Sơn phi hồ của Kim Dung là một trong những đỉnh cao văn chương Trung Hoa và Thế Giới đã chuyển thể nghệ thuật điện ảnh và được nhiều nhà văn tài năng ao ước chinh phục, .
Đỉnh Everest và truyện Tuyết Sơn phi hồ
Đỉnh Everest (còn gọi là đỉnh Chomolungma) là nóc nhà cao vọi của thế giới. Đây là đỉnh núi cao nhất Trái Đất với độ cao 8848 mét so với mực nước biển. Đỉnh Everest thuộc biên giới giữa Nepal và Tây Tạng (Trung Quốc) là nơi được nhiều người leo núi mơ ước khám phá. Đỉnh Everest được Andrew Scott Waugh, người Anh, tổng trưởng quan trắc của Ấn Độ đặt tên tiếng Anh là Everest. Ông viết: …”Tôi được Ngài đại tá George Everest quan cấp trên và là người tiền nhiệm đáng kính của tôi, dạy rằng cần đặt cho mỗi đối tượng địa lý bằng tên địa phương hoặc tên riêng thổ ngữ xứ đó. Ngọn núi này có lẽ là ngọn núi cao nhất thế giới, nhưng không có tên địa phương hoặc tên riêng thổ ngữ nào mà chúng tôi biết đến, mà nếu như được biết đến, thì cũng không biết là đến khi nào mới chắc chắn trước khi chúng tôi được cho phép đi xuyên qua Nepal… Tạm thời tôi xin mạn phép đặt tên… một cái tên mà sẽ được biết đến giữa các công dân và trở thành một từ thông dụng giữa các quốc gia văn minh.
Đỉnh Everest tiếng Tây Tạng gọi là Chomolangma (Thánh mẫu của vũ trụ), tiếng Trung Quốc gọi là Thánh Mẫu Phong “đỉnh núi của Thánh mẫu” do phiên âm từ tiếng Tây Tạng. Đỉnh Everest tiếng Nepan dịch nghĩa được gọi là “trán trời”. Edmund Hillary và Tenzing Norgay trở thành những người đầu tiên lên đến đỉnh Everest ngày 29 tháng 5 năm 1953. Junko Tabei người Nhật là phụ nữ đầu tiên trên đỉnh núi vào 16 tháng 5 năm 1975; Erik Weihenmayer là người mù đầu tiên leo tới đỉnh của Everest ngày 25 tháng 5 năm 2001. Trước ngày 29 tháng 5 năm 1953 và từ ngày đó đến nay đã có nhiều người mạo hiểm chinh phục đỉnh núi Tuyết nhưng nhiều người không trở về.
Mai Lý tuyết sơn (Meili Xue Shan) là dãy núi ở Khu tự trị dân tộc Tạng Địch Khánh, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc. Đỉnh Kawagebo cao 6.740 mét, trên dãy núi trùng điệp này, nằm ở huyên lỵ Đức Khâm, của biên giới Tây Tạng, Địch Khánh và gần biên giới với Myanma . Đỉnh núi Kawagebo tuy thấp hơn đỉnh Everest nhưng cho đến nay vẫn chưa có ai leo đến tới đỉnh mà không thiệt mạng, do hiểm trở với sáu ngọn núi cao hơn 6000 m tuyết phủ vĩnh cữu.
Tuyết Sơn phi hồ (Flying Fox of Snowy Mountain) là bộ tiểu thuyết võ hiệp đầu tay của Kim Dung đăng trên Minh báo năm1959, Phi hồ ngoại truyện được viết năm 1960 (sau Tuyết Sơn Phi Hồ một năm) kể về điển tích võ học tinh hoa của Hồ Phỉ nhân vật chính truyện. Tuyết Sơn phi hồ là bộ sách đầu tiên và Lộc Đỉnh Ký là bộ sách cuối cùng tâm đắc nhất của Kim Dung. Ông nói rằng ông gửi gắm những điều vi diệu tâm đắc nhất của ông vào hai bộ sách khai tập và kết thúc này. Tôi e rằng những người đọc và hiểu hết những điều thâm hậu của ông là không nhiều. Tuyết Sơn phi hồ kể lại câu chuyện tranh giành bảo đao Thiên Long của Sấm Vương Lý Tự Thành vào năm Càn Long thứ 48 thời nhà Thanh, thực chất là sự tranh giành kho báu trên đỉnh núi Tuyết.
Nguồn gốc câu chuyện khởi đầu khi Lý Tự Thành thất bại ở Bắc Kinh phải rút về núi Cửu Cung và bị vây. Ông cùng bốn cận vệ thân tín, võ công cao cường là Hồ, Miêu, Phạm, Điền chôn giấu kho báu trên Ngọc Bút Sơn của đỉnh núi Tuyết, bí mật chìa khóa kho báu giấu ở thanh bảo đao Thiên Long và cây trâm của Ngọc Lan. Sau khi ba người Miêu, Phạm, Điền phá vây đi cầu viện binh trở về thì Lý Tự Thành mất tích, người họ Hồ, ngoại hiệu Phi thiên hồ ly, đã trá hàng Ngô Tam Quế để mưu cứu Lý Tự Thành, nhưng bị ba người em hiểu lầm và ám hại. Ông cam chịu chết mà không chống trả. Câu chuyện ân oán giữa con cháu họ kéo dài đến năm 48 thời Càn Long nhà Thanh với Phúc Khang An. Nhân vật võ lâm lẫy lừng danh tiếng Miêu Nhân Phụng “đi khắp thiên hạ không có ai địch thủ” đã chấp nhận quyết đấu với Tuyết Sơn Phi Hồ ngoại hiệu của Hồ Phỉ trẻ tuổi tài cao danh chấn Tuyết Sơn. Câu chuyện về họ là một khúc ca bi tráng với một thiên tình sử cảm động.
Năm 2007, một đoạn trích trong tác phẩm này đã được đưa vào chương trình sách giáo khoa môn ngữ văn tại Trung Quốc, thay thế AQ chính truyện, đã gây nên nhiều dư luận rất khác nhau.
Trung Quốc đang muốn vẽ lại biểu tượng người Trung Hoa mới thay thế AQ.
Hình tượng Mao Trạch Đông thời trẻ nay sừng sững trên núi Tuyết khiến người ta liên tưởng trận đấu sinh tử của Hồ Phỉ tuổi trẻ anh hùng nghĩa hiệp và nhân ái trên đỉnh Tuyết Sơn. Mao Trạch Đông có bài thơ Tuyết – Thẩm Viên Xuân – mô tả về núi sông hùng vĩ , đánh giá về hào kiệt các thời của đất nước Trung Hoa và bài thơ Côn Lôn – Niệm Nô Kiều – chính là ngầm ý nói về sự hùng vĩ của Tuyết Sơn và hùng tâm tráng khí cách mạng của ông cải tạo Trung Hoa và Thế Giới
TUYẾT
Mao Trạch Đông
Cõi bắc xinh thay
Nghìn dặm băng dày
Vạn dặm tuyết gieo
Ngắm Trường Thành bát ngát
Trong, ngoài trắng dải
Đại Hà trên, dưới
Bỗng sóng ngừng reo
Núi: rắn bạc vờn
Gò: voi sáp ruổi
Muốn thách trời ai kẻ thấp cao
Khi trời hửng
Ánh hồng lồng ánh bạc
Rất đỗi yêu kiều
Non sông xinh đẹp dường bao
Khiến vô số anh hùng cúi rạp theo
Tiếc Tần hoàng, Hán Vũ
Kém phần văn vẻ
Đường tông, Tống tổ
Thiếu mực phong tao
Khét tiếng một thời
Thành Cát Tư Hãn
Chỉ biết giương cung bắn ó, diều
Xưa đã khuất
Nhìn trời nay hẳn thấy
Nhân vật phong lưu.
Bắc quốc phong quang,
Thiên lý băng phong,
Vạn lý tuyết phiêu.
Vọng Trường thành nội ngoại,
Duy dư mãng mãng;
Đại hà thượng hạ,
Đốn thất thao thao.
Sơn vũ ngân xà,
Nguyên trì lạp tượng,
Dục dữ thiên công thí tỷ cao.
Tu tình nhật,
Khán hồng trang tố lý,
Phân ngoại yêu nhiêu.
Giang sơn như thử đa kiều,
Dẫn vô số anh hùng cạnh chiết yêu.
Tích Tần Hoàng Hán Võ,
Lược thâu văn thái;
Đường Tông Tống Tổ,
Tiêu tốn phong tao.
Nhất đại thiên kiêu,
Thành Cát Tư Hãn,
Chỉ thức loan cung xạ đại điêu.
Câu vãng hĩ,
Sổ phong lưu nhân vật,
Hoàn khán kim triêu.
CÔN LÔN
Mao Trạch Đông
Dọc ngang trời đất
Ngút Côn Lôn thấy khắp cõi đời xuân sắc
Cuộn bay rồng ngọc ba trăm vạn
Khuấy cả bầu trời lạnh ngắt
Mùa hạ tuyết tan
Hai sông tràn ngập
Lắm kẻ thành cá tôm
Công tội nghìn năm
Ai đã cùng ngươi chỉ vạch?
Mà nay ta bảo Côn Lôn:
Không cần quá cao, không cần bấy nhiêu tuyết
Sao tựa được trời rút bảo kiếm
Đem ngươi chặt làm ba khúc?
Một gửi Châu Âu
Một tặng Châu Mỹ
Một trả về Đông quốc
Thế giới thái bình
Ấm lạnh chung đều quả đất.
Hoành không xuất thế,
Mãng Côn Lôn, duyệt tận nhân gian xuân sắc.
Phi khởi ngọc long tam bách vạn,
Giảo đắc chu thiên hàn triệt.
Hạ nhật tiêu dung,
Giang Hà hoành dật,
Nhân hoặc vi ngư miết.
Thiên thu công tội,
Thuỳ nhân tằng dữ bình thuyết?
Nhi kim ngã vị Côn Lôn:
Bất yếu giá cao, bất yếu giá đa tuyết.
An đắc ỷ thiên trừu bảo kiếm,
Bả nhữ tài vi tam tiệt?
Nhất tiệt di Âu,
Nhất tiệt tặng Mỹ,
Nhất tiệt hoàn Đông quốc.
Thái bình thế giới,
Hoàn cầu đồng thử lương nhiệt.
Kho báu trên núi Tuyết
Những hé lộ về bí mật kho báu trên núi Tuyết đã giúp tư liệu đánh giá ba vấn đề lớn tồn nghi trong lịch sử: 1) Ngoại giao thời vua Càn Long với nhà Tây Sơn. 2) Lý Tự Thành và kho báu nhà Minh 3) Vì sao Trung Quốc quyết không cho Tây Tạng tự trị?.
1) Ngoại giao thời vua Càn Long với nhà Tây Sơn
Vua Càn Long sau thất bại nặng nề của nhà Thanh trong chiến tranh với Tây Sơn đã sai danh tướng Phúc Khang An thay thế Tôn Sĩ Nghị làm Tổng đốc Lưỡng Quảng. Phúc Khang An được giao quyền tùy cơ hành xử và phao tin điều động thêm 50 vạn quân để ứng chiến vùng biên giới nhằm hư trương thanh thế. Phúc Khang An nguyên là đặc sứ phụ trách hậu cần cho đội quân của Tôn Sĩ Nghị là người mà vua Càn Long đặc biệt yêu quý và tin cẩn. Phúc Khang An dân gian cho rằng đó là con ngoài giá thú của vua Càn Long với em gái của Hoàng Hậu.
Sự thật là, vua Càn Long đang cố tìm kiếm một thắng lợi ngoại giao với nhà Tây Sơn cho “thập toàn đại công” của ông thay vì tìm kiếm một thắng lợi quân sự vừa rất khó khan trong lúc nhà Thanh đang phải xử lý một vấn đề cơ mật tối quan trọng tại Tây Tang.
Theo chính sử, năm 1789, kho vàng tại tu viện Mật Tông ở Tây Tạng là điểm quan tâm lớn nhất của vua Càn Long vì bị quân Khuếch Nhĩ Khách Mông Cổ dòm ngó chuẩn bị tấn công. Vua Càn Long đã 78 tuổi, ông có tính toán riêng về người kế vị là Hoàng tử Gia Khánh và phúc tướng Phúc Khang An nên việc cơ mật này không thể cử ai khác mà phải chính là Phúc Kháng An đảm nhiệm. Lưỡng Quảng và Đại Việt tuy cũng cần sớm an định, nhưng điểm nóng Cam Túc là bệnh gan ruột làm vua Thanh rất lo nghĩ, trong khi nước Nam ở xa xôi, Nguyễn Huệ anh dũng thiện chiến không thể xem thường nên vua Càn Long lựa ý vỗ về hơn là đem binh thảo phạt.
Phúc Khang An và Thang Hùng Nghiệp sớm biết tình thế nên đã đón ý hoặc phân vai mật trao đổi với nhà Tây Sơn. Nguyễn Huệ thấy rõ chỗ yếu của quân Thanh và biết họ đang tìm cách để giảng hòa, trong khi ông cũng đang bận tâm xử lý phía Nam. Do vậy sau khi Nguyễn Huệ thắng trận đã sai mang nhiều vàng bạc hối lộ Phúc Khang An và Tả giang Binh bị đạo Thang Hùng Nghiệp để nghị hòa và cho cháu là Nguyễn Quang Hiển lên cửa ải Nam Quan cầu phong và xin cho Nguyễn Huệ được về Bắc Kinh triều kiến Càn Long. Mưu mẹo này là sự thông đồng giữa hai bên với sự thách giá trả giá bên trong và cách qua mặt vua Lê Chiêu Thống cùng số cựu thần nhà Lê chỉ là sự hợp lý hóa. Bài viết “Ngoại giao Việt Nam thời Tây Sơn” là tư liệu quý trong chính sử đề nghị xem kỹ để hiểu rõ.
Lê Chiêu Thống tiếp tục xin nhà Thanh cho quân cứu viện. Nhà Thanh, phần sợ Quang Trung, phần đã ngán ngẩm việc chinh chiến, nên chỉ hứa hão với Chiêu Thống mà không cho quân. Thân vương nhà Thanh là Phúc Khang An hứa giúp quân cho Chiêu Thống, nhưng lại tâu với vua Thanh Càn Long rằng Chiêu Thống không còn muốn trở về nước nữa. Phúc Khang An được hưởng nhiều lợi từ nhà Tây Sơn, nhận rõ tình thế và có dụng ý riêng, nên đã dâng biểu xin hoàng đế Càn Long bãi binh, đồng thời ông cũng chỉ thị cho Thang Hùng Nghiệp gửi mật thư cho Quang Trung gợi ý nên hoà hiếu, tránh binh đao và lập các mẹo mực bang giao để giữ thể diện cho vua Càn Long mà tránh được chiến tranh.
Thư ngoại giao “Trần tình biểu” của vua Quang Trung lúc đầu khá cứng rắn nhưng với sự mưu kế của Thang Hùng Nghiệp nên đã nhẹ đi rất nhiều. Tây Sơn theo phương lược vạch sẵn, với tài ngoại giao khéo léo của Ngô Thì Nhậm, đã nhanh chóng bình thường hóa bang giao với phương Bắc.Nhà Thanh đồng ý hủy bỏ việc động binh để trả thù, và tiếp nhận sứ thần của Tây Sơn. Vua Quang Trung phải dâng biểu “Nộp lòng thành”, nộp cống phẩm. Nhà Thanh đã chịu chấm dứt chiến tranh, nhưng vẫn chưa chịu thừa nhận Nguyễn Huệ làm An Nam quốc vương. Phúc Khang An viết cho vua Quang Trung một bức thư dài báo cho vua Quang Trung biết là vua Càn Long đã ban cho Quang Trung một chuỗi hạt trai, “Ơn trời cao đất dày đến thế là tốt lắm” lại báo cho vua Quang Trung biết rằng: bọn Lê Duy Kỳ đã bị róc tóc, mặc quần áo kiểu người Thanh, đã bị đưa đi an trí ở “ngoại biên” “quyết không cho về nước nữa”. Rồi sau đó Phúc Khang An đòi Tây Sơn phải làm miếu thờ Hứa Thế Hanh, Sầm Nghi Đống. Lại cho biết là khoảng tháng bảy, tháng tám năm Canh Tuất (1790) nhà Thanh sẽ làm lễ bát tuần vạn thọ vua Càn Long “Có hàng vạn nước vượt biển trèo non đem ngọc xe lễ vật đến chầu“. Phúc Khang An yêu cầu vua Quang Trung đến ngày đó cũng phải “chỉnh trang” sang chầu, và như thế phải khởi hành vào tháng tư năm Canh Tuất (1790)
Đáng chú ý là sau đó, vua Càn Long xuống chỉ cho vua Quang Trung đại ý nói: do quân Thanh vượt biên giới đến Thăng Long, Nguyễn Huệ phải đem quân ra để hỏi Lê Duy Kỳ vì cớ gì cầu cứu thiên binh; vì bị quân Thanh đánh, quân Tây Sơn bất đắc dĩ phải đánh lại; gặp lúc cầu phao đứt, nên quân Thanh bị chết hại nhiều. Trong tờ chỉ Càn Long còn nhận rằng Nguyễn Huệ đã bắt và giết hết những người đã giết Hứa Thế Hanh và Sầm Nghi Đống. Ông còn cho rằng khi quân Thanh vào Thăng Long, ông đã ra lệnh cho Tôn Sĩ Nghị rút quân về nước, vì Sĩ Nghị không tuân lệnh, cho nên có trận đại bại vào đầu năm Kỷ Dậu. Ông lại đòi lập đền thờ Hứa Thế Hanh và Sầm Nghi Đống, và đòi vua Quang Trung phải đích thân sang Yên Kinh triều cận vào dịp Càn Long làm lễ bát tuần vạn thọ năm Canh Tuất. Ông lại nhắc rằng “Lê Duy Kỳ hèn lười, không tài, bỏ ấn trốn đi, chiểu theo pháp luật của Thiên triều phải tội nặng; rằng ông quyết an trí bọn chúng ở Quế Lâm, không bao giờ cho về nước nữa; rằng ông đã ra lệnh cho Phúc Khang An đưa phái đoàn Nguyễn Quang Hiển đến xem chỗ bọn Lê Duy Kỳ ở” Nhưng rồi vua Quang Trung viện cớ là mình chưa được phong vương, sợ có điều bất tiện khi gặp các vị quốc vương các nước ở Yên Kinh. Thế là Càn Long đành phải phong cho Nguyễn Huệ làm An Nam quốc vương để có điều kiện đến Yên Kinh triều cận một cách đàng hoàng. Vua Càn Long qua Phúc Khang An lại ra điều kiện đòi triều Tây Sơn phải đúc người vàng đem cống như các triều đại trước. Ngô Thì Nhậm đã viết cho Phúc Khang An bức thư, trong đó có đoạn:
“Quốc trưởng nước tôi vùng lên từ thủa áo vải, nhân thời biết việc, đối với vua Lê vốn không có danh phận vua tôi. Mất hay còn là do số trời; theo hay bỏ là do lòng người. Quốc trưởng tôi có ý cướp ngôi của nhà Lê đâu mà lại coi như kẻ thoán đoạt. Trước đây Tôn bộ đường đem quân đến, quốc trưởng nước tôi bất đắc dĩ phải đem quân ra ứng chiến, không hề có ý xâm phạm biên cảnh để mang tội. Nay đại nhân theo lệ cũ của Trần, Lê, Mạc bắt cống người vàng, như vậy chẳng hóa ra quốc trưởng nước tôi được nước một cách quang minh chính đại mà lại bị coi như hạng ngụy Mạc hay sao? Như thế thì tấm lòng kính thuận sợ trời thờ nước lớn cũng bị coi như việc nhà Trần bắt Ô Mã Nhi, nhà Lê giết Liễu Thăng hay sao?…Mong đại nhân noi theo mệnh lớn, miễn cho nước tôi lệ đúc người vàng để tiến cống…”
Nguyễn Huệ trong thư này đã nói rõ rằng các vua Việt Nam thời trước sở dĩ phải cống người vàng là để chuộc một tội lỗi nào đó đối với Thiên triều còn Nguyễn Huệ tự coi không có tội gì với nhà Lê và cũng không có tội gì với nhà Thanh nên Tây Sơn không thể đúc người vàng để tiến cống.
Tháng 7 năm 1789, Càn Long ra chỉ dụ phong Nguyễn Huệ làm An Nam quốc vương. Tháng 1 năm 1790, Hoàng đế Quang Trung giả (do Phạm Công Trị, cháu gọi Nguyễn Huệ bằng cậu đóng) đã sang triều kiến và dự lễ mừng thọ 80 tuổi của vua Càn Long. Đoàn sứ bộ Tây Sơn gồm 159 người có giả vương Nguyễn Huệ và Nguyễn Quang Thùy (mà vua Càn Long tưởng là hoàng thái tử của Nguyễn Huệ). Mục đích khác của đoàn sứ là thăm dò thái độ của nhà Thanh đối với vị vua lưu vong Chiêu Thống của nhà Lê. Đại quan nhà Thanh là Phúc Khang An, từng sang chiến trường Đại Việt, đứng sau lưng đoàn sứ bộ, nên nhiều tướng lĩnh nhà Thanh biết người cầm đầu sứ bộ không phải Nguyễn Huệ, nhưng ngại gây hấn nên không nói ra.
Sứ thần Tây Sơn đi đợt đó có Ngô Văn Sở, Phan Huy Ích (thượng thư, nhà ngoại giao, quê Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh, tiền bối của nhà sử học Phan Huy Lê, giáo sư nhà giáo nhân dân, là một trong những chuyên gia hàng đầu về lịch sử Việt Nam hiện đại, người có ảnh hưởng lớn đến chính sử hiện tại trong sự đánh giá nhà Nguyễn và nhà Tây Sơn), Vũ Huy Tấn ( Thị lang bộ Công, tước bá, sau khi đi sứ về ông được phong làm Thượng thư bộ Công, tước Hạo Trạch hầu. Dưới triều Cảnh Thịnh, ông được đặc cách lên hàng Thượng trụ quốc, Thị trung đãi chiếu Thượng thư). Sứ đoàn Tây Sơn lần đó cũng có Nguyễn Nể là anh cùng cha khác mẹ với Nguyễn Du và Đoàn Nguyễn Tuấn là anh vợ Nguyễn Du. Dọc đường đi, đoàn sứ giả có gặp hành tung của một số người họ Nguyễn ở Quảng Tây và sau đó cùng đi lên Yên Kinh. Người đời sau ngờ rằng đó chính là Nguyễn Du và Hà Mỗ.
Đoàn sứ thần Tây Sơn có giả vương Nguyễn Huệ làm thế nào để che mắt sứ đoàn vua Lê Chiêu Thống hiển nhiên có mặt?. Phúc Khang An đã ngầm thông đồng mưu kế với Tây Sơn: “Tìm một người diện mạo giống quốc vương đi thay. Việc này chỉ có Công gia, Thang đại nhân, Vương đại nhân và ta là bốn người biết mà thôi. Nếu sợ Lê Duy Kỳ biết, ta bẩm ngay với Công gia đem 1000 người bọn ấy giữ kỹ không cho ra ngoài, còn ai biết được nữa”. (theo Bang giao tập, ngoại giao nhà Tây Sơn).
Ngoại giao Việt Nam thời Tây Sơn thực chất là như vậy! Người đời sau vốn tin vào “Hoàng Lê Nhất thống chí”, các chứng cứ của Phan Huy Ích và Bang giao tập, mà ít để ý đến bí mật kho báu Tây Tạng, Cam Túc trong sự chuyển giao ngai vàng. Phúc Khang An cần nhanh chóng lập được đại công quản lý Lưỡng Quảng và vỗ yên Đại Việt để tính toán vị thế đối trọng danh chính ngôn thuận với ngôi vua mà vua Càn Long chuyển giao cho Gia Khánh đang đến rất gần. Điều này đã ảnh hưởng sâu sắc tới kế sách, thái độ của vua Càn Long và Phúc Khang An đối với Lê Duy Kỳ.
Lê Duy Kỳ và các cựu thần nhà Lê có đối sách ngoại giao gì? sách Cương mục viết:“Nhà vua căm giận vì bị người Thanh lừa gạt, bèn cùng các bầy tôi là bọn Phạm Như Tùng, Hoàng Ích Hiểu, Lê Hân, Nguyễn Quốc Đống, Nguyễn Viết Triệu, Lê Quý Thích, Nguyễn Đình Miên, Lê Văn Trương, Lê Tùng và Lê Thức mười người uống máu ăn thề, làm bài biểu định đưa lên vua Thanh để xin quân cứu viện, nếu không được thì xin được đất hai châu Tuyên Quang và Thái Nguyên để quay về giữ việc thờ cúng tổ tiên hay là cùng nhau lén về Gia Định nương nhờ triều ta (triều Nguyễn Ánh) để dần dà toan tính việc khôi phục, chứ quyết không chịu sống thừa ở đất Bắc.”
Năm 1791, Lê Duy Kỳ thấy không thể mong chờ viện binh của quân Thanh nên đã trở về chiếm đất Tuyên Quang, Cao Bằng dựa vào thế lực của tù trưởng Nùng Phúc Tấn, Hoàng Văn Đồng, liên kết với Trình Cao, Quy Hợp, các vùng Trấn Ninh của Vạn Tượng mưu đánh Nghệ An. Nguyễn Huệ sai trấn tướng Nguyễn Quang Diệu và đô đốc Nguyễn Văn Uyển đem năm nghìn tinh binh theo đường thượng lộ Nghệ An tiến đánh chiếm được Trấn Ninh, diệt Trịnh Cao, Quy Hợp. Vua nước Vạn Tượng phải bỏ thành mà chạy. Quang Diệu thừa thắng đuổi dài đến tận Xiêm La, chém tướng Vạn Tượng là tả súy Phan Dung và hữu súy Phan Siêu, sau đó kéo quân về Bảo Lộc. Nùng Phúc Tấn và Hoàng Văn Đồng thế cùng không chống đỡ nổi đều bị quân Quang Diệu giết chết. Nguyễn Quýnh em Nguyễn Du quay trở về Hồng Lĩnh khởi nghĩa bị bắt và bị giết năm 1791 tròn 30 tuổi, dinh thự và làng Tiên Điền bị đốt sạch. Vua Lê Chiêu Thống cô thế với các cựu thần trung thành lại phải về Yên Kinh.
Nguyễn Huệ sau khi đã được nhà Thanh phong làm An Nam quốc vương và truy sát đuổi dài tận diệt những mầm mống hồi phục nhà Lê và các cựu thần nhà Lê ứng nghĩa, đã đặt thể chế Hoàng Đế, lập Lê Thị Ngọc Hân làm Bắc Chính cung Hoàng hậu, phong con trưởng là Nguyễn Quan Toản làm thái tử, chọn Nghệ An làm thủ đô với tên Phượng Hoàng trung đô, đắp thành đất ở núi Kỳ Lân, dựng lầu điện, chia cả nước thành các trấn để cai trị, định quan danh, làm sổ ba tịch đinh điền, phát thẻ tín lệnh (tương tự CMND ngày nay) để quan lý hộ tịch hộ khẩu. Về đối ngoại xin mở cửa ải hải quan giao thương với nhà Thanh ở Cao Bằng, Lạng Sơn để dân hai nước họp chợ thông thương, lại xin đặt phái bộ đại diện ở phủ Nam Ninh trong nội địa Trung Quốc, xin cưới công chúa nhà Thanh. Tất cả những điều Nguyễn Huệ đề đạt với vua Càn Long đều được vua Càn Long đồng ý.
Thương thay, Nguyễn Du quyết ý không theo nhà Tây Sơn “Phượng bay cao phi ngô đồng không đỗ. Sỹ ẩn minh phi minh chủ không thờ” do nhìn thấu những bất hòa trong nội tình nhà Tây Sơn và phương thức xử lý đại cục nên không chịu ra làm quan. Vua Càn Long sau này khi Nguyễn Du làm chánh sứ triều Nguyễn đã đích thân tự tay viết bức đại tự tặng Nguyễn Du nay lưu lại ở di tích lịch sử Nguyễn Tiên Điền quả là sâu sắc.
Kim Dung Tuyết Sơn Phi Hồ đã góp phần vén bức màn lịch sử ấy.
2) Lý Tự Thành và kho báu nhà Minh
Phúc Khang An chết. Sấm Vương Lý Tự Thành cùng bốn thủ hạ thân tín lộ diện trong kho báu trên đỉnh núi Tuyết vào năm Càn Long thứ 48 thời nhà Thanh, là những bài học tinh tế của cuộc sống. Lời bình luận xin nhường cho bạn đọc.
3) Vì sao Trung Quốc quyết không cho Tây Tạng tự trị ?.
Kho báu chôn giấu ở đâu? nguồn tài chính, cổ vật, báu vật của các triều đại, dòng họ giữ ở đâu khi thời thế thay đổi. Núi cao, đảo xa, trung tâm tài chính ổn định là những điểm chính.
Tài liệu Rampa Đức Đạt – lai Lạt – ma tiên tri và tái sinh đã hé mở những bí mật về kho báu Lasha Tây Tạng.
Rampa viết: “Rampa đi nhiều quốc gia trên thế giới và bùi ngùi nhìn lại đất nước Tây Tạng của mình, tự nhận xét: Bề ngoài Tây Tạng không có nguồn lợi kinh tế nào đáng kể, vì mặt đất cằn cỗi toàn đá cứng, đồng ruộng núi đồi quanh năm tuyết phủ. Nhưng thực ra, trong lòng đất “Tây Tạng cũng có đủ những mỏ vàng, mỏ bạc và uranium”, nhiều không kể xiết “những tượng Phật đúc bằng vàng khối, những đĩa vàng, chén vàng, những xác ướp bọc vàng- tại xứ này vàng không phải là một kim loại hiếm quý – mà là một kim khí linh thiêng”. Người dân bao đời giữ niềm tin mỏ vàng mỏ bạc “là long mạch của quốc gia” nên nếu khai quật sẽ mang lại tai ương không lường trước được. Tài nguyên ẩn kín và vị trí chiến lược của Tây Tạng trên dãy Hymalaya thu hút “lòng tham không đáy” của các quốc gia quen lấy “sự chiếm đoạt tài sản của nước khác” làm tài sản của mình, đã nâng các cuộc xâm lược đẫm máu lên hàng quốc sách (L. Rampa – sđd. tr. 88).
Trung Quốc đang khuấy động Hymalaya – Tây Tạng (tổ sơn) và khuấy nhiễu biển Đông (tổ long), sẽ phải gánh chịu hậu quả khủng khiếp“.
Kim Dung Tuyết Sơn phi hồ là những bài học thú vị.
Bí mật kho báu trên núi Tuyết với ba tồn nghi lớn của lịch sử: Vì sao Trung Quốc quyết không cho Tây Tạng tự trị? Lý Tự Thành và kho báu đời Minh nay ở đâu? Hệ lụy ngoại giao thời vua Càn Long với nhà Tây Sơn? Đó là một chuỗi lịch sử lớn cần được nghiên cứu, giải mã thấu đáo. Sự nghiên cứu lịch sử này liên quan rất mật thiết đến Việt Nam: thế Tam Quốc trong thời Nguyễn Du, vua Lê Chiêu Thống bị bán đứng, vua Quang Trung cái chết bí ẩn, Nguyễn Du cuộc đời và thời thế, Nguyễn Du 250 năm nhìn lại.
Nguyên Ngọc có nhiều tác phẩm viết về đất nước Việt Nam và Tây Nguyên phổ biến hơn cả tại các trích dẫn trong bài thơ “Nguyên Ngọc về Tây Nguyên” ở trên là nhưng ấn tượng nhất và sâu sắc nhất trong tôi là Phát triển bền vững ở Tây Nguyên; Nước mội, rừng xanh và sự sống và gần đây nhất là Đồng Bằng. Cụ Nguyên Ngọc đã qua tuổi 88 nhưng sao sức viết vẫn hấp dẫn và đầy đặn đến vậy. Văn là Người. Cụ là nhà văn chiến sĩ dấn thân suốt đời không mệt mỏi, có những trang văn thắp lửa, dữ dội và minh triết dường như chính lời khen của cụ đối với Nguyễn Khải rằng “Nguyễn Khải nhà văn tài năng nhất của thế hệ chúng tôi” (dẫn trong Ngọc cho đời).. Cụ là người thật đáng tôn kính bất luận khen hay chê, .
*
ĐỒNG BẰNG (2)
Nguyên Ngọc
Trường Sơn có những ngọn núi vòi vọi. Có hôm leo lên một đỉnh thật cao, chúng tôi đứng lặng nhìn về hướng Đông và thấy đồng bằng. Một dải đồng bằng mờ ảo, như trong mơ. Những đụn cát dài tít tắp, trắng mờ. Rồi biển, không cùng, xanh như thực như hư… Đồng bằng đấy!
Và chúng tôi khóc.
Mỗi một chút dấu hiệu nhỏ của đồng bằng cũng khiến chúng tôi háo hức, quý hơn vàng. Ngày ấy trên cả vùng căn cứ rừng núi Tây Quảng Nam – Quảng Ngãi chúng tôi, có một người phụ nữ đồng bằng duy nhất, chị trốn chính quyền miền Nam ở địa phương, lên được tới căn cứ, làm người “phục vụ”, nấu ăn ở cơ quan tỉnh Quảng Nam. Cho phép tôi không nói tên thật của chị. Ngày ấy hình như đâu đã quãng xấp xỉ 30. Không đẹp, nhưng gọn ghẽ, nở nang. Theo chỗ tôi được biết, ít ra cũng có đến hàng trăm người yêu chị. Người kín đáo, kẻ vồ vập, cũng không ít anh chàng sỗ sàng. Thú thật chính tôi, tôi cũng có ghé qua chỗ chị mấy lần, để được thèm khát nhìn ngắm một dáng con gái đồng bằng, thèm khát nghe một giọng nói đàn bà đồng bằng. Chị sinh hai cháu, đều không biết bố là ai. Tất cả chúng tôi đều nâng niu hai cháu, dành cho hai cháu tất cả những gì chúng tôi có thể có được, và đều giữ nguyên lòng quý trọng đối với chị. Sau này chị… tự vẫn, hình như vì một chuyện tình duyên oái ăm nào đấy và vì cái lối phê bình kiểm điểm thô bạo của một viên cán bộ phụ trách. – Tao sẽ bắn chết thằng ấy! – Một người lính nói với tôi khi nghe cái tin đau đớn ấy.
Xa hơn về phía Nam, trên khu căn cứ tỉnh Gia Lai bấy giờ cũng có một người phụ nữ đồng bằng duy nhất như vậy, tên là Yên. Chị nổi tiếng cho đến nỗi về sau trên các bản đồ quân sự của cơ quan tham mưu ta, cả trên một tấm bản đồ quân sự của Mỹ tôi có lần bắt được, đều có ghi rõ địa danh “Dốc bà Yên”, đúng cái tọa độ nơi có cái lán tăng gia sản xuất của chị một thời…
Nỗi khát khao đồng bằng của chúng tôi ngày đó da diết là vậy.
…Tôi làm rẫy ven sông Nước Là, một nguồn nhỏ của sông Thu Bồn, được mấy tháng, thì Khu 5 bắt đầu “mở” đồng bằng. Chúng tôi vứt tất cả, lao xuống ngay.
Cái xóm đồng bằng đầu tiên ở Khu 5 được giải phóng là xóm Tứ Mỹ, thuộc xã Kỳ Sanh, huyện Tam Kỳ. Thực ra chỉ là một rẻo thung lũng bé tí tẹo, mươi nóc nhà, bán sơn địa, sơn nhiều hơn địa, một chút xíu đồng bằng đầu tiên len vào chân núi Trường Sơn. Nhưng đã có ruộng lúa nước, có cày trâu, có người Kinh, có dân, một nhúm đúng 28 người. Thế là đồng bằng rồi. Quý hơn tất cả mọi thứ trên đời. Chúng tôi say sưa gọi nào “bài học Tứ Mỹ”, “kinh nghiệm Tứ Mỹ”, “tổng kết Tứ Mỹ”, nào “ngọn cờ Tứ Mỹ”… Tận ngoài Trị Thiên cũng cử đoàn cán bộ vào học.
Phan Tứ vào trước tôi mấy tháng nhạy bén bám ngay Tứ Mỹ, anh làm một cái chòi nhỏ trụ ngay trên sườn dốc giữa cái thôn nửa núi ấy, bà con gọi anh là Ông Bốn Gương, anh cận thị nặng đeo kính dày cộp (ngày ấy các “nhà văn” miền Nam tập kết ra Bắc phải được đích danh một đơn vị nào đó từ chiến trường điện ra xin mới được cho đi Nam. Phan Tứ được tỉnh ủy Quảng Nam xin và về thẳng Quảng Nam). Tôi vừa phát xong phần rẫy của mình để làm nhiệm vụ “tồn tại”, cũng liền lao xuống Tứ Mỹ, cùng anh Nguyễn Văn Bổng. Anh Bổng được Trung ương cục gọi vào Nam Bộ, trên đường đi anh xin phép ghé lại thăm Khu 5 một chút. Khi hai chúng tôi đến chỗ Phan Tứ thì từ Tứ Mỹ ta đã nống thêm ra được một thôn rưỡi thật sự là đồng bằng, thôn 7 và một nửa thôn 8 của xã Kỳ Sanh. Tuy nhiên giữa thôn 7 vẫn còn một cái đồn, gọi là cao điểm 65, bị du kích vây chặt. Chúng tôi có thể đi lại trên cánh đồng ban ngày nhưng phải cải trang, ăn mặc nông dân, đội nón lá, vác thêm cây cuốc. Phan Tứ thì quen gánh một đôi bầu, tức một loại thúng ở vùng Quảng Nam, đan băng tre cật, trát dầu rái và có nắp đậy, thường là của dân đi buôn xa. Hôm đón anh Nguyễn Văn Bổng và tôi xuống, Phan Tứ gánh về đôi bầu ấy, chúng tôi lục ra: một túi đậu xanh, mấy bát đường đen quấn rơm, và hai cái chai, một chai dầu lửa một chai rượu. Tối, Phan Tứ đãi chúng tôi một bữa chè đậu xanh, ngon tuyệt. Và đương nhiên phải có rượu. Đèn đuốc lèm nhèm, Tứ lại cận thị nặng, anh rót cho anh Bổng một chén dầu lửa, anh Bổng lỡ nuốt luôn một ngụm. Tôi bảo không sao đâu, anh nhớ không, ở quê mình người ta vẫn uống dầu lửa chữa đau bụng mà!…
Hai chúng tôi ở Tứ Mỹ, Kỳ Sanh được mươi hôm, ngày có thể vào làng sống với dân, nhưng đêm phòng bọn cao điểm 65 có thể bất ngờ tập kích, chúng tôi thường cùng đám du kích vài chục cô cậu đều trẻ măng kéo lên treo võng ngủ trong một khu rừng mít phía Tây thôn 7. Nào đâu có ngủ được, con trai con gái treo võng nằm lẫn lộn, rì rầm nói chuyện suốt đêm. Anh Bổng bảo: Chà, cách mạng miền Nam lãng mạn gớm he! Tôi nhớ trong đám nữ du kích có một cô có lẽ nhỏ tuổi nhất, năm ấy chắc chừng 15, 16, khá xinh, gọn ghẽ săn chắc, cái săn chắc của con gái quê xứ Quảng vùng bán sơn địa, lại đang tuổi dậy thì, tôi chỉ biết tên là Cô Út…
Sau Tứ Mỹ – Kỳ Sanh, anh Bổng trở lên “đường dây”, tức đường giao liên Bắc-Nam, đi thẳng vào Nam Bộ. Tôi chuyển ra vùng Phước Tiên, Phước Lãnh là hai xã thuộc huyện Tiên Phước mới được mở ra thêm, rồi cùng tiểu đoàn 70 của Quảng Nam tham gia chiến dịch vượt sông Tiên đánh xuống giải phóng ba xã Phước Sơn, Phước Cẩm, Phước Hà, thường được gọi tắt là vùng Sơn-Cẩm-Hà, vốn là một căn cứ nổi tiếng từ thời Cần Vương. Sau đó, tôi đi ra vùng Bắc Quảng Nam, chỉ có dịp trở lại Tứ Mỹ một lần, rất thoáng qua. Phan Tứ thì trụ riết ở Tứ Mỹ, Kỳ Sanh. Anh “lót ổ” ở đấy, mãi sau này mới biết theo nhiều nghĩa. Chính ở đấy anh viết tập truyện ngắn Về làng và tiểu thuyết Gia đình má Bảy.
Tứ quê gốc Quảng Nam nhưng lại sinh và học tiểu học ở Quy Nhơn, vì cụ Lê Ấm bố anh, con rể cụ Phan Châu Trinh, dạy toán ở Collège Quy Nhơn; nghe nói khi học Collège Quy Nhơn Chế Lan Viên vốn kém toán nên rất sợ thầy Lê Ấm, tuy vậy khi viết Điêu tàn năm 17 tuổi anh học trò sớm tài hoa ấy vẫn rụt rè mang lên tặng ông thầ
Tuyết Sơn phi hồ là bộ tiểu thuyết đầu tiên trong 14 bộ tiểu thuyết nổi tiếng của nhà văn Kim Dung, một trong ba văn hào được nhiều người đọc nhất của Trung Quốc đương đại. Tác phẩm Tuyết Sơn phi hồ của Kim Dung là một trong những đỉnh cao văn chương Trung Hoa và Thế Giới đã chuyển thể nghệ thuật điện ảnh và được nhiều nhà văn tài năng ao ước chinh phục, .
Đỉnh Everest và truyện Tuyết Sơn phi hồ
Đỉnh Everest (còn gọi là đỉnh Chomolungma) là nóc nhà cao vọi của thế giới. Đây là đỉnh núi cao nhất Trái Đất với độ cao 8848 mét so với mực nước biển. Đỉnh Everest thuộc biên giới giữa Nepal và Tây Tạng (Trung Quốc) là nơi được nhiều người leo núi mơ ước khám phá. Đỉnh Everest được Andrew Scott Waugh, người Anh, tổng trưởng quan trắc của Ấn Độ đặt tên tiếng Anh là Everest. Ông viết: …”Tôi được Ngài đại tá George Everest quan cấp trên và là người tiền nhiệm đáng kính của tôi, dạy rằng cần đặt cho mỗi đối tượng địa lý bằng tên địa phương hoặc tên riêng thổ ngữ xứ đó. Ngọn núi này có lẽ là ngọn núi cao nhất thế giới, nhưng không có tên địa phương hoặc tên riêng thổ ngữ nào mà chúng tôi biết đến, mà nếu như được biết đến, thì cũng không biết là đến khi nào mới chắc chắn trước khi chúng tôi được cho phép đi xuyên qua Nepal… Tạm thời tôi xin mạn phép đặt tên… một cái tên mà sẽ được biết đến giữa các công dân và trở thành một từ thông dụng giữa các quốc gia văn minh.
Đỉnh Everest tiếng Tây Tạng gọi là Chomolangma (Thánh mẫu của vũ trụ), tiếng Trung Quốc gọi là Thánh Mẫu Phong “đỉnh núi của Thánh mẫu” do phiên âm từ tiếng Tây Tạng. Đỉnh Everest tiếng Nepan dịch nghĩa được gọi là “trán trời”. Edmund Hillary và Tenzing Norgay trở thành những người đầu tiên lên đến đỉnh Everest ngày 29 tháng 5 năm 1953. Junko Tabei người Nhật là phụ nữ đầu tiên trên đỉnh núi vào 16 tháng 5 năm 1975; Erik Weihenmayer là người mù đầu tiên leo tới đỉnh của Everest ngày 25 tháng 5 năm 2001. Trước ngày 29 tháng 5 năm 1953 và từ ngày đó đến nay đã có nhiều người mạo hiểm chinh phục đỉnh núi Tuyết nhưng nhiều người không trở về.
Mai Lý tuyết sơn (Meili Xue Shan) là dãy núi ở Khu tự trị dân tộc Tạng Địch Khánh, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc. Đỉnh Kawagebo cao 6.740 mét, trên dãy núi trùng điệp này, nằm ở huyên lỵ Đức Khâm, của biên giới Tây Tạng, Địch Khánh và gần biên giới với Myanma . Đỉnh núi Kawagebo tuy thấp hơn đỉnh Everest nhưng cho đến nay vẫn chưa có ai leo đến tới đỉnh mà không thiệt mạng, do hiểm trở với sáu ngọn núi cao hơn 6000 m tuyết phủ vĩnh cữu.
Tuyết Sơn phi hồ (Flying Fox of Snowy Mountain) là bộ tiểu thuyết võ hiệp đầu tay của Kim Dung đăng trên Minh báo năm1959, Phi hồ ngoại truyện được viết năm 1960 (sau Tuyết Sơn Phi Hồ một năm) kể về điển tích võ học tinh hoa của Hồ Phỉ nhân vật chính truyện. Tuyết Sơn phi hồ là bộ sách đầu tiên và Lộc Đỉnh Ký là bộ sách cuối cùng tâm đắc nhất của Kim Dung. Ông nói rằng ông gửi gắm những điều vi diệu tâm đắc nhất của ông vào hai bộ sách khai tập và kết thúc này. Tôi e rằng những người đọc và hiểu hết những điều thâm hậu của ông là không nhiều. Tuyết Sơn phi hồ kể lại câu chuyện tranh giành bảo đao Thiên Long của Sấm Vương Lý Tự Thành vào năm Càn Long thứ 48 thời nhà Thanh, thực chất là sự tranh giành kho báu trên đỉnh núi Tuyết.
Nguồn gốc câu chuyện khởi đầu khi Lý Tự Thành thất bại ở Bắc Kinh phải rút về núi Cửu Cung và bị vây. Ông cùng bốn cận vệ thân tín, võ công cao cường là Hồ, Miêu, Phạm, Điền chôn giấu kho báu trên Ngọc Bút Sơn của đỉnh núi Tuyết, bí mật chìa khóa kho báu giấu ở thanh bảo đao Thiên Long và cây trâm của Ngọc Lan. Sau khi ba người Miêu, Phạm, Điền phá vây đi cầu viện binh trở về thì Lý Tự Thành mất tích, người họ Hồ, ngoại hiệu Phi thiên hồ ly, đã trá hàng Ngô Tam Quế để mưu cứu Lý Tự Thành, nhưng bị ba người em hiểu lầm và ám hại. Ông cam chịu chết mà không chống trả. Câu chuyện ân oán giữa con cháu họ kéo dài đến năm 48 thời Càn Long nhà Thanh với Phúc Khang An. Nhân vật võ lâm lẫy lừng danh tiếng Miêu Nhân Phụng “đi khắp thiên hạ không có ai địch thủ” đã chấp nhận quyết đấu với Tuyết Sơn Phi Hồ ngoại hiệu của Hồ Phỉ trẻ tuổi tài cao danh chấn Tuyết Sơn. Câu chuyện về họ là một khúc ca bi tráng với một thiên tình sử cảm động.
Năm 2007, một đoạn trích trong tác phẩm này đã được đưa vào chương trình sách giáo khoa môn ngữ văn tại Trung Quốc, thay thế AQ chính truyện, đã gây nên nhiều dư luận rất khác nhau.
Trung Quốc đang muốn vẽ lại biểu tượng người Trung Hoa mới thay thế AQ.
Hình tượng Mao Trạch Đông thời trẻ nay sừng sững trên núi Tuyết khiến người ta liên tưởng trận đấu sinh tử của Hồ Phỉ tuổi trẻ anh hùng nghĩa hiệp và nhân ái trên đỉnh Tuyết Sơn. Mao Trạch Đông có bài thơ Tuyết – Thẩm Viên Xuân – mô tả về núi sông hùng vĩ , đánh giá về hào kiệt các thời của đất nước Trung Hoa và bài thơ Côn Lôn – Niệm Nô Kiều – chính là ngầm ý nói về sự hùng vĩ của Tuyết Sơn và hùng tâm tráng khí cách mạng của ông cải tạo Trung Hoa và Thế Giới
TUYẾT
Mao Trạch Đông
Cõi bắc xinh thay
Nghìn dặm băng dày
Vạn dặm tuyết gieo
Ngắm Trường Thành bát ngát
Trong, ngoài trắng dải
Đại Hà trên, dưới
Bỗng sóng ngừng reo
Núi: rắn bạc vờn
Gò: voi sáp ruổi
Muốn thách trời ai kẻ thấp cao
Khi trời hửng
Ánh hồng lồng ánh bạc
Rất đỗi yêu kiều
Non sông xinh đẹp dường bao
Khiến vô số anh hùng cúi rạp theo
Tiếc Tần hoàng, Hán Vũ
Kém phần văn vẻ
Đường tông, Tống tổ
Thiếu mực phong tao
Khét tiếng một thời
Thành Cát Tư Hãn
Chỉ biết giương cung bắn ó, diều
Xưa đã khuất
Nhìn trời nay hẳn thấy
Nhân vật phong lưu.
Bắc quốc phong quang,
Thiên lý băng phong,
Vạn lý tuyết phiêu.
Vọng Trường thành nội ngoại,
Duy dư mãng mãng;
Đại hà thượng hạ,
Đốn thất thao thao.
Sơn vũ ngân xà,
Nguyên trì lạp tượng,
Dục dữ thiên công thí tỷ cao.
Tu tình nhật,
Khán hồng trang tố lý,
Phân ngoại yêu nhiêu.
Giang sơn như thử đa kiều,
Dẫn vô số anh hùng cạnh chiết yêu.
Tích Tần Hoàng Hán Võ,
Lược thâu văn thái;
Đường Tông Tống Tổ,
Tiêu tốn phong tao.
Nhất đại thiên kiêu,
Thành Cát Tư Hãn,
Chỉ thức loan cung xạ đại điêu.
Câu vãng hĩ,
Sổ phong lưu nhân vật,
Hoàn khán kim triêu.
CÔN LÔN
Mao Trạch Đông
Dọc ngang trời đất
Ngút Côn Lôn thấy khắp cõi đời xuân sắc
Cuộn bay rồng ngọc ba trăm vạn
Khuấy cả bầu trời lạnh ngắt
Mùa hạ tuyết tan
Hai sông tràn ngập
Lắm kẻ thành cá tôm
Công tội nghìn năm
Ai đã cùng ngươi chỉ vạch?
Mà nay ta bảo Côn Lôn:
Không cần quá cao, không cần bấy nhiêu tuyết
Sao tựa được trời rút bảo kiếm
Đem ngươi chặt làm ba khúc?
Một gửi Châu Âu
Một tặng Châu Mỹ
Một trả về Đông quốc
Thế giới thái bình
Ấm lạnh chung đều quả đất.
Hoành không xuất thế,
Mãng Côn Lôn, duyệt tận nhân gian xuân sắc.
Phi khởi ngọc long tam bách vạn,
Giảo đắc chu thiên hàn triệt.
Hạ nhật tiêu dung,
Giang Hà hoành dật,
Nhân hoặc vi ngư miết.
Thiên thu công tội,
Thuỳ nhân tằng dữ bình thuyết?
Nhi kim ngã vị Côn Lôn:
Bất yếu giá cao, bất yếu giá đa tuyết.
An đắc ỷ thiên trừu bảo kiếm,
Bả nhữ tài vi tam tiệt?
Nhất tiệt di Âu,
Nhất tiệt tặng Mỹ,
Nhất tiệt hoàn Đông quốc.
Thái bình thế giới,
Hoàn cầu đồng thử lương nhiệt.
Kho báu trên núi Tuyết
Những hé lộ về bí mật kho báu trên núi Tuyết đã giúp tư liệu đánh giá ba vấn đề lớn tồn nghi trong lịch sử: 1) Ngoại giao thời vua Càn Long với nhà Tây Sơn. 2) Lý Tự Thành và kho báu nhà Minh 3) Vì sao Trung Quốc quyết không cho Tây Tạng tự trị?.
1) Ngoại giao thời vua Càn Long với nhà Tây Sơn
Vua Càn Long sau thất bại nặng nề của nhà Thanh trong chiến tranh với Tây Sơn đã sai danh tướng Phúc Khang An thay thế Tôn Sĩ Nghị làm Tổng đốc Lưỡng Quảng. Phúc Khang An được giao quyền tùy cơ hành xử và phao tin điều động thêm 50 vạn quân để ứng chiến vùng biên giới nhằm hư trương thanh thế. Phúc Khang An nguyên là đặc sứ phụ trách hậu cần cho đội quân của Tôn Sĩ Nghị là người mà vua Càn Long đặc biệt yêu quý và tin cẩn. Phúc Khang An dân gian cho rằng đó là con ngoài giá thú của vua Càn Long với em gái của Hoàng Hậu.
Sự thật là, vua Càn Long đang cố tìm kiếm một thắng lợi ngoại giao với nhà Tây Sơn cho “thập toàn đại công” của ông thay vì tìm kiếm một thắng lợi quân sự vừa rất khó khan trong lúc nhà Thanh đang phải xử lý một vấn đề cơ mật tối quan trọng tại Tây Tang.
Theo chính sử, năm 1789, kho vàng tại tu viện Mật Tông ở Tây Tạng là điểm quan tâm lớn nhất của vua Càn Long vì bị quân Khuếch Nhĩ Khách Mông Cổ dòm ngó chuẩn bị tấn công. Vua Càn Long đã 78 tuổi, ông có tính toán riêng về người kế vị là Hoàng tử Gia Khánh và phúc tướng Phúc Khang An nên việc cơ mật này không thể cử ai khác mà phải chính là Phúc Kháng An đảm nhiệm. Lưỡng Quảng và Đại Việt tuy cũng cần sớm an định, nhưng điểm nóng Cam Túc là bệnh gan ruột làm vua Thanh rất lo nghĩ, trong khi nước Nam ở xa xôi, Nguyễn Huệ anh dũng thiện chiến không thể xem thường nên vua Càn Long lựa ý vỗ về hơn là đem binh thảo phạt.
Phúc Khang An và Thang Hùng Nghiệp sớm biết tình thế nên đã đón ý hoặc phân vai mật trao đổi với nhà Tây Sơn. Nguyễn Huệ thấy rõ chỗ yếu của quân Thanh và biết họ đang tìm cách để giảng hòa, trong khi ông cũng đang bận tâm xử lý phía Nam. Do vậy sau khi Nguyễn Huệ thắng trận đã sai mang nhiều vàng bạc hối lộ Phúc Khang An và Tả giang Binh bị đạo Thang Hùng Nghiệp để nghị hòa và cho cháu là Nguyễn Quang Hiển lên cửa ải Nam Quan cầu phong và xin cho Nguyễn Huệ được về Bắc Kinh triều kiến Càn Long. Mưu mẹo này là sự thông đồng giữa hai bên với sự thách giá trả giá bên trong và cách qua mặt vua Lê Chiêu Thống cùng số cựu thần nhà Lê chỉ là sự hợp lý hóa. Bài viết “Ngoại giao Việt Nam thời Tây Sơn” là tư liệu quý trong chính sử đề nghị xem kỹ để hiểu rõ.
Lê Chiêu Thống tiếp tục xin nhà Thanh cho quân cứu viện. Nhà Thanh, phần sợ Quang Trung, phần đã ngán ngẩm việc chinh chiến, nên chỉ hứa hão với Chiêu Thống mà không cho quân. Thân vương nhà Thanh là Phúc Khang An hứa giúp quân cho Chiêu Thống, nhưng lại tâu với vua Thanh Càn Long rằng Chiêu Thống không còn muốn trở về nước nữa. Phúc Khang An được hưởng nhiều lợi từ nhà Tây Sơn, nhận rõ tình thế và có dụng ý riêng, nên đã dâng biểu xin hoàng đế Càn Long bãi binh, đồng thời ông cũng chỉ thị cho Thang Hùng Nghiệp gửi mật thư cho Quang Trung gợi ý nên hoà hiếu, tránh binh đao và lập các mẹo mực bang giao để giữ thể diện cho vua Càn Long mà tránh được chiến tranh.
Thư ngoại giao “Trần tình biểu” của vua Quang Trung lúc đầu khá cứng rắn nhưng với sự mưu kế của Thang Hùng Nghiệp nên đã nhẹ đi rất nhiều. Tây Sơn theo phương lược vạch sẵn, với tài ngoại giao khéo léo của Ngô Thì Nhậm, đã nhanh chóng bình thường hóa bang giao với phương Bắc.Nhà Thanh đồng ý hủy bỏ việc động binh để trả thù, và tiếp nhận sứ thần của Tây Sơn. Vua Quang Trung phải dâng biểu “Nộp lòng thành”, nộp cống phẩm. Nhà Thanh đã chịu chấm dứt chiến tranh, nhưng vẫn chưa chịu thừa nhận Nguyễn Huệ làm An Nam quốc vương. Phúc Khang An viết cho vua Quang Trung một bức thư dài báo cho vua Quang Trung biết là vua Càn Long đã ban cho Quang Trung một chuỗi hạt trai, “Ơn trời cao đất dày đến thế là tốt lắm” lại báo cho vua Quang Trung biết rằng: bọn Lê Duy Kỳ đã bị róc tóc, mặc quần áo kiểu người Thanh, đã bị đưa đi an trí ở “ngoại biên” “quyết không cho về nước nữa”. Rồi sau đó Phúc Khang An đòi Tây Sơn phải làm miếu thờ Hứa Thế Hanh, Sầm Nghi Đống. Lại cho biết là khoảng tháng bảy, tháng tám năm Canh Tuất (1790) nhà Thanh sẽ làm lễ bát tuần vạn thọ vua Càn Long “Có hàng vạn nước vượt biển trèo non đem ngọc xe lễ vật đến chầu“. Phúc Khang An yêu cầu vua Quang Trung đến ngày đó cũng phải “chỉnh trang” sang chầu, và như thế phải khởi hành vào tháng tư năm Canh Tuất (1790)
Đáng chú ý là sau đó, vua Càn Long xuống chỉ cho vua Quang Trung đại ý nói: do quân Thanh vượt biên giới đến Thăng Long, Nguyễn Huệ phải đem quân ra để hỏi Lê Duy Kỳ vì cớ gì cầu cứu thiên binh; vì bị quân Thanh đánh, quân Tây Sơn bất đắc dĩ phải đánh lại; gặp lúc cầu phao đứt, nên quân Thanh bị chết hại nhiều. Trong tờ chỉ Càn Long còn nhận rằng Nguyễn Huệ đã bắt và giết hết những người đã giết Hứa Thế Hanh và Sầm Nghi Đống. Ông còn cho rằng khi quân Thanh vào Thăng Long, ông đã ra lệnh cho Tôn Sĩ Nghị rút quân về nước, vì Sĩ Nghị không tuân lệnh, cho nên có trận đại bại vào đầu năm Kỷ Dậu. Ông lại đòi lập đền thờ Hứa Thế Hanh và Sầm Nghi Đống, và đòi vua Quang Trung phải đích thân sang Yên Kinh triều cận vào dịp Càn Long làm lễ bát tuần vạn thọ năm Canh Tuất. Ông lại nhắc rằng “Lê Duy Kỳ hèn lười, không tài, bỏ ấn trốn đi, chiểu theo pháp luật của Thiên triều phải tội nặng; rằng ông quyết an trí bọn chúng ở Quế Lâm, không bao giờ cho về nước nữa; rằng ông đã ra lệnh cho Phúc Khang An đưa phái đoàn Nguyễn Quang Hiển đến xem chỗ bọn Lê Duy Kỳ ở” Nhưng rồi vua Quang Trung viện cớ là mình chưa được phong vương, sợ có điều bất tiện khi gặp các vị quốc vương các nước ở Yên Kinh. Thế là Càn Long đành phải phong cho Nguyễn Huệ làm An Nam quốc vương để có điều kiện đến Yên Kinh triều cận một cách đàng hoàng. Vua Càn Long qua Phúc Khang An lại ra điều kiện đòi triều Tây Sơn phải đúc người vàng đem cống như các triều đại trước. Ngô Thì Nhậm đã viết cho Phúc Khang An bức thư, trong đó có đoạn:
“Quốc trưởng nước tôi vùng lên từ thủa áo vải, nhân thời biết việc, đối với vua Lê vốn không có danh phận vua tôi. Mất hay còn là do số trời; theo hay bỏ là do lòng người. Quốc trưởng tôi có ý cướp ngôi của nhà Lê đâu mà lại coi như kẻ thoán đoạt. Trước đây Tôn bộ đường đem quân đến, quốc trưởng nước tôi bất đắc dĩ phải đem quân ra ứng chiến, không hề có ý xâm phạm biên cảnh để mang tội. Nay đại nhân theo lệ cũ của Trần, Lê, Mạc bắt cống người vàng, như vậy chẳng hóa ra quốc trưởng nước tôi được nước một cách quang minh chính đại mà lại bị coi như hạng ngụy Mạc hay sao? Như thế thì tấm lòng kính thuận sợ trời thờ nước lớn cũng bị coi như việc nhà Trần bắt Ô Mã Nhi, nhà Lê giết Liễu Thăng hay sao?…Mong đại nhân noi theo mệnh lớn, miễn cho nước tôi lệ đúc người vàng để tiến cống…”
Nguyễn Huệ trong thư này đã nói rõ rằng các vua Việt Nam thời trước sở dĩ phải cống người vàng là để chuộc một tội lỗi nào đó đối với Thiên triều còn Nguyễn Huệ tự coi không có tội gì với nhà Lê và cũng không có tội gì với nhà Thanh nên Tây Sơn không thể đúc người vàng để tiến cống.
Tháng 7 năm 1789, Càn Long ra chỉ dụ phong Nguyễn Huệ làm An Nam quốc vương. Tháng 1 năm 1790, Hoàng đế Quang Trung giả (do Phạm Công Trị, cháu gọi Nguyễn Huệ bằng cậu đóng) đã sang triều kiến và dự lễ mừng thọ 80 tuổi của vua Càn Long. Đoàn sứ bộ Tây Sơn gồm 159 người có giả vương Nguyễn Huệ và Nguyễn Quang Thùy (mà vua Càn Long tưởng là hoàng thái tử của Nguyễn Huệ). Mục đích khác của đoàn sứ là thăm dò thái độ của nhà Thanh đối với vị vua lưu vong Chiêu Thống của nhà Lê. Đại quan nhà Thanh là Phúc Khang An, từng sang chiến trường Đại Việt, đứng sau lưng đoàn sứ bộ, nên nhiều tướng lĩnh nhà Thanh biết người cầm đầu sứ bộ không phải Nguyễn Huệ, nhưng ngại gây hấn nên không nói ra.
Sứ thần Tây Sơn đi đợt đó có Ngô Văn Sở, Phan Huy Ích (thượng thư, nhà ngoại giao, quê Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh, tiền bối của nhà sử học Phan Huy Lê, giáo sư nhà giáo nhân dân, là một trong những chuyên gia hàng đầu về lịch sử Việt Nam hiện đại, người có ảnh hưởng lớn đến chính sử hiện tại trong sự đánh giá nhà Nguyễn và nhà Tây Sơn), Vũ Huy Tấn ( Thị lang bộ Công, tước bá, sau khi đi sứ về ông được phong làm Thượng thư bộ Công, tước Hạo Trạch hầu. Dưới triều Cảnh Thịnh, ông được đặc cách lên hàng Thượng trụ quốc, Thị trung đãi chiếu Thượng thư). Sứ đoàn Tây Sơn lần đó cũng có Nguyễn Nể là anh cùng cha khác mẹ với Nguyễn Du và Đoàn Nguyễn Tuấn là anh vợ Nguyễn Du. Dọc đường đi, đoàn sứ giả có gặp hành tung của một số người họ Nguyễn ở Quảng Tây và sau đó cùng đi lên Yên Kinh. Người đời sau ngờ rằng đó chính là Nguyễn Du và Hà Mỗ.
Đoàn sứ thần Tây Sơn có giả vương Nguyễn Huệ làm thế nào để che mắt sứ đoàn vua Lê Chiêu Thống hiển nhiên có mặt?. Phúc Khang An đã ngầm thông đồng mưu kế với Tây Sơn: “Tìm một người diện mạo giống quốc vương đi thay. Việc này chỉ có Công gia, Thang đại nhân, Vương đại nhân và ta là bốn người biết mà thôi. Nếu sợ Lê Duy Kỳ biết, ta bẩm ngay với Công gia đem 1000 người bọn ấy giữ kỹ không cho ra ngoài, còn ai biết được nữa”. (theo Bang giao tập, ngoại giao nhà Tây Sơn).
Ngoại giao Việt Nam thời Tây Sơn thực chất là như vậy! Người đời sau vốn tin vào “Hoàng Lê Nhất thống chí”, các chứng cứ của Phan Huy Ích và Bang giao tập, mà ít để ý đến bí mật kho báu Tây Tạng, Cam Túc trong sự chuyển giao ngai vàng. Phúc Khang An cần nhanh chóng lập được đại công quản lý Lưỡng Quảng và vỗ yên Đại Việt để tính toán vị thế đối trọng danh chính ngôn thuận với ngôi vua mà vua Càn Long chuyển giao cho Gia Khánh đang đến rất gần. Điều này đã ảnh hưởng sâu sắc tới kế sách, thái độ của vua Càn Long và Phúc Khang An đối với Lê Duy Kỳ.
Lê Duy Kỳ và các cựu thần nhà Lê có đối sách ngoại giao gì? sách Cương mục viết:“Nhà vua căm giận vì bị người Thanh lừa gạt, bèn cùng các bầy tôi là bọn Phạm Như Tùng, Hoàng Ích Hiểu, Lê Hân, Nguyễn Quốc Đống, Nguyễn Viết Triệu, Lê Quý Thích, Nguyễn Đình Miên, Lê Văn Trương, Lê Tùng và Lê Thức mười người uống máu ăn thề, làm bài biểu định đưa lên vua Thanh để xin quân cứu viện, nếu không được thì xin được đất hai châu Tuyên Quang và Thái Nguyên để quay về giữ việc thờ cúng tổ tiên hay là cùng nhau lén về Gia Định nương nhờ triều ta (triều Nguyễn Ánh) để dần dà toan tính việc khôi phục, chứ quyết không chịu sống thừa ở đất Bắc.”
Năm 1791, Lê Duy Kỳ thấy không thể mong chờ viện binh của quân Thanh nên đã trở về chiếm đất Tuyên Quang, Cao Bằng dựa vào thế lực của tù trưởng Nùng Phúc Tấn, Hoàng Văn Đồng, liên kết với Trình Cao, Quy Hợp, các vùng Trấn Ninh của Vạn Tượng mưu đánh Nghệ An. Nguyễn Huệ sai trấn tướng Nguyễn Quang Diệu và đô đốc Nguyễn Văn Uyển đem năm nghìn tinh binh theo đường thượng lộ Nghệ An tiến đánh chiếm được Trấn Ninh, diệt Trịnh Cao, Quy Hợp. Vua nước Vạn Tượng phải bỏ thành mà chạy. Quang Diệu thừa thắng đuổi dài đến tận Xiêm La, chém tướng Vạn Tượng là tả súy Phan Dung và hữu súy Phan Siêu, sau đó kéo quân về Bảo Lộc. Nùng Phúc Tấn và Hoàng Văn Đồng thế cùng không chống đỡ nổi đều bị quân Quang Diệu giết chết. Nguyễn Quýnh em Nguyễn Du quay trở về Hồng Lĩnh khởi nghĩa bị bắt và bị giết năm 1791 tròn 30 tuổi, dinh thự và làng Tiên Điền bị đốt sạch. Vua Lê Chiêu Thống cô thế với các cựu thần trung thành lại phải về Yên Kinh.
Nguyễn Huệ sau khi đã được nhà Thanh phong làm An Nam quốc vương và truy sát đuổi dài tận diệt những mầm mống hồi phục nhà Lê và các cựu thần nhà Lê ứng nghĩa, đã đặt thể chế Hoàng Đế, lập Lê Thị Ngọc Hân làm Bắc Chính cung Hoàng hậu, phong con trưởng là Nguyễn Quan Toản làm thái tử, chọn Nghệ An làm thủ đô với tên Phượng Hoàng trung đô, đắp thành đất ở núi Kỳ Lân, dựng lầu điện, chia cả nước thành các trấn để cai trị, định quan danh, làm sổ ba tịch đinh điền, phát thẻ tín lệnh (tương tự CMND ngày nay) để quan lý hộ tịch hộ khẩu. Về đối ngoại xin mở cửa ải hải quan giao thương với nhà Thanh ở Cao Bằng, Lạng Sơn để dân hai nước họp chợ thông thương, lại xin đặt phái bộ đại diện ở phủ Nam Ninh trong nội địa Trung Quốc, xin cưới công chúa nhà Thanh. Tất cả những điều Nguyễn Huệ đề đạt với vua Càn Long đều được vua Càn Long đồng ý.
Thương thay, Nguyễn Du quyết ý không theo nhà Tây Sơn “Phượng bay cao phi ngô đồng không đỗ. Sỹ ẩn minh phi minh chủ không thờ” do nhìn thấu những bất hòa trong nội tình nhà Tây Sơn và phương thức xử lý đại cục nên không chịu ra làm quan. Vua Càn Long sau này khi Nguyễn Du làm chánh sứ triều Nguyễn đã đích thân tự tay viết bức đại tự tặng Nguyễn Du nay lưu lại ở di tích lịch sử Nguyễn Tiên Điền quả là sâu sắc.
Kim Dung Tuyết Sơn Phi Hồ đã góp phần vén bức màn lịch sử ấy.
2) Lý Tự Thành và kho báu nhà Minh
Phúc Khang An chết. Sấm Vương Lý Tự Thành cùng bốn thủ hạ thân tín lộ diện trong kho báu trên đỉnh núi Tuyết vào năm Càn Long thứ 48 thời nhà Thanh, là những bài học tinh tế của cuộc sống. Lời bình luận xin nhường cho bạn đọc.
3) Vì sao Trung Quốc quyết không cho Tây Tạng tự trị ?.
Kho báu chôn giấu ở đâu? nguồn tài chính, cổ vật, báu vật của các triều đại, dòng họ giữ ở đâu khi thời thế thay đổi. Núi cao, đảo xa, trung tâm tài chính ổn định là những điểm chính.
Tài liệu Rampa Đức Đạt – lai Lạt – ma tiên tri và tái sinh đã hé mở những bí mật về kho báu Lasha Tây Tạng.
Rampa viết: “Rampa đi nhiều quốc gia trên thế giới và bùi ngùi nhìn lại đất nước Tây Tạng của mình, tự nhận xét: Bề ngoài Tây Tạng không có nguồn lợi kinh tế nào đáng kể, vì mặt đất cằn cỗi toàn đá cứng, đồng ruộng núi đồi quanh năm tuyết phủ. Nhưng thực ra, trong lòng đất “Tây Tạng cũng có đủ những mỏ vàng, mỏ bạc và uranium”, nhiều không kể xiết “những tượng Phật đúc bằng vàng khối, những đĩa vàng, chén vàng, những xác ướp bọc vàng- tại xứ này vàng không phải là một kim loại hiếm quý – mà là một kim khí linh thiêng”. Người dân bao đời giữ niềm tin mỏ vàng mỏ bạc “là long mạch của quốc gia” nên nếu khai quật sẽ mang lại tai ương không lường trước được. Tài nguyên ẩn kín và vị trí chiến lược của Tây Tạng trên dãy Hymalaya thu hút “lòng tham không đáy” của các quốc gia quen lấy “sự chiếm đoạt tài sản của nước khác” làm tài sản của mình, đã nâng các cuộc xâm lược đẫm máu lên hàng quốc sách (L. Rampa – sđd. tr. 88).
Trung Quốc đang khuấy động Hymalaya – Tây Tạng (tổ sơn) và khuấy nhiễu biển Đông (tổ long), sẽ phải gánh chịu hậu quả khủng khiếp“.
Kim Dung Tuyết Sơn phi hồ là những bài học thú vị.
Bí mật kho báu trên núi Tuyết với ba tồn nghi lớn của lịch sử: Vì sao Trung Quốc quyết không cho Tây Tạng tự trị? Lý Tự Thành và kho báu đời Minh nay ở đâu? Hệ lụy ngoại giao thời vua Càn Long với nhà Tây Sơn? Đó là một chuỗi lịch sử lớn cần được nghiên cứu, giải mã thấu đáo. Sự nghiên cứu lịch sử này liên quan rất mật thiết đến Việt Nam: thế Tam Quốc trong thời Nguyễn Du, vua Lê Chiêu Thống bị bán đứng, vua Quang Trung cái chết bí ẩn, Nguyễn Du cuộc đời và thời thế, Nguyễn Du 250 năm nhìn lại.
Nguyên Ngọc có nhiều tác phẩm viết về đất nước Việt Nam và Tây Nguyên phổ biến hơn cả tại các trích dẫn trong bài thơ “Nguyên Ngọc về Tây Nguyên” ở trên là nhưng ấn tượng nhất và sâu sắc nhất trong tôi là Phát triển bền vững ở Tây Nguyên; Nước mội, rừng xanh và sự sống và gần đây nhất là Đồng Bằng. Cụ Nguyên Ngọc đã qua tuổi 88 nhưng sao sức viết vẫn hấp dẫn và đầy đặn đến vậy. Văn là Người. Cụ là nhà văn chiến sĩ dấn thân suốt đời không mệt mỏi, có những trang văn thắp lửa, dữ dội và minh triết dường như chính lời khen của cụ đối với Nguyễn Khải rằng “Nguyễn Khải nhà văn tài năng nhất của thế hệ chúng tôi” (dẫn trong Ngọc cho đời).. Cụ là người thật đáng tôn kính bất luận khen hay chê, .
*
ĐỒNG BẰNG (2)
Nguyên Ngọc
Trường Sơn có những ngọn núi vòi vọi. Có hôm leo lên một đỉnh thật cao, chúng tôi đứng lặng nhìn về hướng Đông và thấy đồng bằng. Một dải đồng bằng mờ ảo, như trong mơ. Những đụn cát dài tít tắp, trắng mờ. Rồi biển, không cùng, xanh như thực như hư… Đồng bằng đấy!
Và chúng tôi khóc.
Mỗi một chút dấu hiệu nhỏ của đồng bằng cũng khiến chúng tôi háo hức, quý hơn vàng. Ngày ấy trên cả vùng căn cứ rừng núi Tây Quảng Nam – Quảng Ngãi chúng tôi, có một người phụ nữ đồng bằng duy nhất, chị trốn chính quyền miền Nam ở địa phương, lên được tới căn cứ, làm người “phục vụ”, nấu ăn ở cơ quan tỉnh Quảng Nam. Cho phép tôi không nói tên thật của chị. Ngày ấy hình như đâu đã quãng xấp xỉ 30. Không đẹp, nhưng gọn ghẽ, nở nang. Theo chỗ tôi được biết, ít ra cũng có đến hàng trăm người yêu chị. Người kín đáo, kẻ vồ vập, cũng không ít anh chàng sỗ sàng. Thú thật chính tôi, tôi cũng có ghé qua chỗ chị mấy lần, để được thèm khát nhìn ngắm một dáng con gái đồng bằng, thèm khát nghe một giọng nói đàn bà đồng bằng. Chị sinh hai cháu, đều không biết bố là ai. Tất cả chúng tôi đều nâng niu hai cháu, dành cho hai cháu tất cả những gì chúng tôi có thể có được, và đều giữ nguyên lòng quý trọng đối với chị. Sau này chị… tự vẫn, hình như vì một chuyện tình duyên oái ăm nào đấy và vì cái lối phê bình kiểm điểm thô bạo của một viên cán bộ phụ trách. – Tao sẽ bắn chết thằng ấy! – Một người lính nói với tôi khi nghe cái tin đau đớn ấy.
Xa hơn về phía Nam, trên khu căn cứ tỉnh Gia Lai bấy giờ cũng có một người phụ nữ đồng bằng duy nhất như vậy, tên là Yên. Chị nổi tiếng cho đến nỗi về sau trên các bản đồ quân sự của cơ quan tham mưu ta, cả trên một tấm bản đồ quân sự của Mỹ tôi có lần bắt được, đều có ghi rõ địa danh “Dốc bà Yên”, đúng cái tọa độ nơi có cái lán tăng gia sản xuất của chị một thời…
Nỗi khát khao đồng bằng của chúng tôi ngày đó da diết là vậy.
…Tôi làm rẫy ven sông Nước Là, một nguồn nhỏ của sông Thu Bồn, được mấy tháng, thì Khu 5 bắt đầu “mở” đồng bằng. Chúng tôi vứt tất cả, lao xuống ngay.
Cái xóm đồng bằng đầu tiên ở Khu 5 được giải phóng là xóm Tứ Mỹ, thuộc xã Kỳ Sanh, huyện Tam Kỳ. Thực ra chỉ là một rẻo thung lũng bé tí tẹo, mươi nóc nhà, bán sơn địa, sơn nhiều hơn địa, một chút xíu đồng bằng đầu tiên len vào chân núi Trường Sơn. Nhưng đã có ruộng lúa nước, có cày trâu, có người Kinh, có dân, một nhúm đúng 28 người. Thế là đồng bằng rồi. Quý hơn tất cả mọi thứ trên đời. Chúng tôi say sưa gọi nào “bài học Tứ Mỹ”, “kinh nghiệm Tứ Mỹ”, “tổng kết Tứ Mỹ”, nào “ngọn cờ Tứ Mỹ”… Tận ngoài Trị Thiên cũng cử đoàn cán bộ vào học.
Phan Tứ vào trước tôi mấy tháng nhạy bén bám ngay Tứ Mỹ, anh làm một cái chòi nhỏ trụ ngay trên sườn dốc giữa cái thôn nửa núi ấy, bà con gọi anh là Ông Bốn Gương, anh cận thị nặng đeo kính dày cộp (ngày ấy các “nhà văn” miền Nam tập kết ra Bắc phải được đích danh một đơn vị nào đó từ chiến trường điện ra xin mới được cho đi Nam. Phan Tứ được tỉnh ủy Quảng Nam xin và về thẳng Quảng Nam). Tôi vừa phát xong phần rẫy của mình để làm nhiệm vụ “tồn tại”, cũng liền lao xuống Tứ Mỹ, cùng anh Nguyễn Văn Bổng. Anh Bổng được Trung ương cục gọi vào Nam Bộ, trên đường đi anh xin phép ghé lại thăm Khu 5 một chút. Khi hai chúng tôi đến chỗ Phan Tứ thì từ Tứ Mỹ ta đã nống thêm ra được một thôn rưỡi thật sự là đồng bằng, thôn 7 và một nửa thôn 8 của xã Kỳ Sanh. Tuy nhiên giữa thôn 7 vẫn còn một cái đồn, gọi là cao điểm 65, bị du kích vây chặt. Chúng tôi có thể đi lại trên cánh đồng ban ngày nhưng phải cải trang, ăn mặc nông dân, đội nón lá, vác thêm cây cuốc. Phan Tứ thì quen gánh một đôi bầu, tức một loại thúng ở vùng Quảng Nam, đan băng tre cật, trát dầu rái và có nắp đậy, thường là của dân đi buôn xa. Hôm đón anh Nguyễn Văn Bổng và tôi xuống, Phan Tứ gánh về đôi bầu ấy, chúng tôi lục ra: một túi đậu xanh, mấy bát đường đen quấn rơm, và hai cái chai, một chai dầu lửa một chai rượu. Tối, Phan Tứ đãi chúng tôi một bữa chè đậu xanh, ngon tuyệt. Và đương nhiên phải có rượu. Đèn đuốc lèm nhèm, Tứ lại cận thị nặng, anh rót cho anh Bổng một chén dầu lửa, anh Bổng lỡ nuốt luôn một ngụm. Tôi bảo không sao đâu, anh nhớ không, ở quê mình người ta vẫn uống dầu lửa chữa đau bụng mà!…
Hai chúng tôi ở Tứ Mỹ, Kỳ Sanh được mươi hôm, ngày có thể vào làng sống với dân, nhưng đêm phòng bọn cao điểm 65 có thể bất ngờ tập kích, chúng tôi thường cùng đám du kích vài chục cô cậu đều trẻ măng kéo lên treo võng ngủ trong một khu rừng mít phía Tây thôn 7. Nào đâu có ngủ được, con trai con gái treo võng nằm lẫn lộn, rì rầm nói chuyện suốt đêm. Anh Bổng bảo: Chà, cách mạng miền Nam lãng mạn gớm he! Tôi nhớ trong đám nữ du kích có một cô có lẽ nhỏ tuổi nhất, năm ấy chắc chừng 15, 16, khá xinh, gọn ghẽ săn chắc, cái săn chắc của con gái quê xứ Quảng vùng bán sơn địa, lại đang tuổi dậy thì, tôi chỉ biết tên là Cô Út…
Sau Tứ Mỹ – Kỳ Sanh, anh Bổng trở lên “đường dây”, tức đường giao liên Bắc-Nam, đi thẳng vào Nam Bộ. Tôi chuyển ra vùng Phước Tiên, Phước Lãnh là hai xã thuộc huyện Tiên Phước mới được mở ra thêm, rồi cùng tiểu đoàn 70 của Quảng Nam tham gia chiến dịch vượt sông Tiên đánh xuống giải phóng ba xã Phước Sơn, Phước Cẩm, Phước Hà, thường được gọi tắt là vùng Sơn-Cẩm-Hà, vốn là một căn cứ nổi tiếng từ thời Cần Vương. Sau đó, tôi đi ra vùng Bắc Quảng Nam, chỉ có dịp trở lại Tứ Mỹ một lần, rất thoáng qua. Phan Tứ thì trụ riết ở Tứ Mỹ, Kỳ Sanh. Anh “lót ổ” ở đấy, mãi sau này mới biết theo nhiều nghĩa. Chính ở đấy anh viết tập truyện ngắn Về làng và tiểu thuyết Gia đình má Bảy.
Tứ quê gốc Quảng Nam nhưng lại sinh và học tiểu học ở Quy Nhơn, vì cụ Lê Ấm bố anh, con rể cụ Phan Châu Trinh, dạy toán ở Collège Quy Nhơn; nghe nói khi học Collège Quy Nhơn Chế Lan Viên vốn kém toán nên rất sợ thầy Lê Ấm, tuy vậy khi viết Điêu tàn năm 17 tuổi anh học trò sớm tài hoa ấy vẫn rụt rè mang lên tặng ông thầy toán nghiêm khắc của mình môt bản!… Sau Cách mạng tháng Tám Phan Tứ mới về Quảng, cùng tôi đi học trường trung học kháng chiến ở Cẩrm Khê, rồi cùng vào trường Lê Khiết ở Quảng Ngãi thi diplôme. Năm ấy học trò Quảng Nam đi thi diplôme ở Lê Khiết chỉ có ba anh đỗ, Phan Tứ đỗ đầu, tôi thứ ba, Nguyễn Lương Ý đỗ thấp hơn. Nguyễn Lương Ý là một “nhân vật” của Quảng Nam, nghe nói sau đó anh cùng em ruột Nguyễn Lương Y vào hoạt động ở Sài Gòn và đều bị chính quyền Ngô Đình Diệm sát hại. Thật ra còn một nhân vật Quảng Nam thứ ba nữa, cũng là bạn thân của tôi và Phan Tứ: Khương Thế Xương, con trai đầu của cụ Khương Hữu Dụng, quê Hội An. Hai chúng tôi cùng học với nhau từ lớp Đồng ấu – tức lớp một bây giờ – cho đến nửa năm thứ hai trung học. Khi chiến tranh bùng nổ, gia đình cụ Dụng tản cư, cất một cái quán cà phê trên đỉnh Đèo Le, rất thơ mộng, lại thêm mấy cô con gái đang lớn nên quán càng nổi tiếng; sau cụ chuyển vào Sông Vệ, Quảng Ngãi, một thị trấn tản cư khá đông đúc, nơi có trường Lê Khiết. Chúng tôi lại gặp nhau, ba chàng trai xứ Quảng. Tôi vẫn là anh chàng lơ mơ, học giỏi cả toán (với thầy Hoàng Tụy) cả văn, nhưng hầu như chưa biết quan tâm gì chính trị, lại đang bắt đầu một mối tình vừa sâu sắc và đẹp nhất đời vừa rồi chẳng đến đâu cả. Tứ và Xương “giác ngộ” xã hội và chính trị sớm hơn tôi, nhưng là “giác ngộ” mỗi anh một khác. Ở Xương mọi sự đều tự nhiên hơn, anh thông minh, tài hoa, đồng thời sớm chín chắn. Gia đình cụ Dụng là một gia đình rất gia giáo và gia trưởng. Trong nhà Xương là anh cả, đàn em đông đúc răm rắp. Nhưng Xương chín chắn mà nhẹ nhàng, hồn nhiên. Một hôm Xương đưa cho tôi bài thơ dài, một bản trường ca bằng tiếng Pháp La fosse commune (Hố chôn chung) của một nhà thơ cộng sản Nam Tư tôi không còn nhớ tên, viết về tội ác của phát-xít Đức trên đất Nam Tư hồi thế chiến II, không biết ai đưa cho Xương, có thể là anh Việt Phương bấy giờ đã là thư ký riêng của ông Phạm Văn Đồng được Trung ương phái vào phụ trách toàn miền Nam. Đấy là tác phẩm cộng sản đầu tiên tôi được đọc. Bài thơ thật hay, tôi thậm chí thuộc lòng từng đoạn dài, nhưng hình như về mặt chính trị nó chưa tác động vào tôi nhiều, tôi thích thơ hay là chính. Xương cũng đỗ diplôme năm ấy nhưng thứ hạng không cao, tôi có cảm giác anh chẳng cần. Nhớ đêm trước hôm thi, Xương rủ tôi về nhà, hai anh em lụi cụi đi rang cà phê, rồi xay, rồi pha, rồi khề khà nhấm nháp, quyết thức cả đêm nay để ôn bài. Nhưng khi pha xong, uống xong, thì đều mệt quá, lăn ra ngủ thẳng một giấc đến sáng bạch. Thời đó còn thi đủ các môn, học gì thi nấy, cả viết và vấn đáp; đến lúc vấn đáp môn traduction dịch từ tiếng Pháp ra tiếng Việt, gặp từ lime tôi biết rõ đó là cái dụng cụ bằng sắt nhám dùng để mài các thứ cho nhẵn ra nhưng cứ láng máng không tài nào nhớ trong tiếng Việt gọi dụng cụ đó là cái giũa, tôi bèn lấy ngón tay mài mài vào mép bàn làm hiệu, bị thầy Chuyết cho điểm thấp nên chỉ đỗ được thứ ba, nhường thứ hai cho chị Trầm, con gái ông Nguyễn Vỹ hiệu trưởng. Khương Thế Xương đỗ thấp vì khi vấn đáp môn Vệ sinh (vâng, có cả thi môn Vệ sinh, Hygiène), thầy hỏi về bệnh ghẻ, anh có học hành gì đâu, đáp bị ghẻ thì tắm lá xoan, đúng quá đi chớ, nhưng bị thầy cho 2 điểm…
Ôi một thời học trò của chúng tôi, dầu bấy giờ đã chiến tranh!
Thật tình tôi thích Xương hơn Tứ. Xương trưởng thành sớm mà vẫn trong trẻo, và theo tôi điều này mới là quan trọng: anh chín chắn, sớm sâu sắc, mà vẫn “mềm”, cả trong cách sống và tư duy. Tứ thì sớm quy củ, bài bản, và “cứng” quá, người như thế rất dễ vướng giáo điều…
Sau diplôme chúng tôi học ban tú tài, bấy giờ gọi là chuyên khoa, nhưng khu 5 chỉ có chuyên khoa toán lý hóa. Được nửa năm thứ nhất, một số xin ra học trường Huỳnh Thúc Kháng ở Khu 4 (ba tháng leo núi Trường Sơn), ngoài ấy có nhiều chuyên khoa hơn. Trong số bạn cùng lớp ra đi năm ấy tôi nhớ có Phan Tứ, Khương Thế Xương, Mai Kỹ… Nhưng cũng chỉ được mấy năm. Đến 1950 bỗng có lệnh “Tích cực chuẩn bị chuyển mạnh sang tổng phản công”. Một cái lệnh như thế giữa chiến tranh thì cũng bằng một cuộc tổng động viên. Trai tráng cả nước rùng rùng nhập ngũ. Học trò Khu 4 Khu 5 chúng tôi đều bỏ trường, hát vang Xếp bút nghiên, xung phong vào bộ đội…
…Giữa năm 1952, trung ương gửi cho Khu 5 một đại đội sĩ quan vừa tốt nghiệp phân hiệu lục quân Trần Quốc Tuấn Khu 4. Chúng tôi lại gặp nhau, Khương Thế Xương, Phan Tứ lại trở về. Phan Tứ đi Lào, từ đó mà về sau anh có hai tiểu thuyết Bên kia biên giới và Trước giờ nổ súng. Khương Thế Xương làm trung đội trưởng ở trung đoàn chủ lực 803. Xương chỉ đánh có hai trận. Trận thứ nhất đã được đánh giá là một cán bộ quân sự đầy triển vọng. Trận thứ hai, đánh đồn Tú Thủy ở mạn An Khê, trên đường từ Bình Định lên Tây Nguyên, nổi tiếng kiên cố và ở một vị trí hiểm yếu. Năm 1947 trung đoàn trưởng người Tày Vi Dân đã đánh một trận huyết chiến kỳ lạ ở đó. Vi Dân chủ trương “hạ nhất cấp”, trung đoàn trưởng xuống làm tiểu đoàn trưởng, tiểu đoàn trưởng làm đại đội trưởng, cứ thế, một trận đánh không có chiến sĩ binh nhì. Nhưng bị lộ. Hy sinh gần hết, nghe nói chỉ còn một người sống sót. Đánh đồn là đánh địch trong công sự vững chắc, và một khâu quan trọng nhất là “mở cửa đột phá”. Trong điều kiện binh khí kỹ thuật của ta thời ấy, chỉ có thể “mở cửa” bằng bộc phá. Xương làm trung đội trưởng bộc phá, một vị trí thường nắm chắc đến tám chín mươi phần trăm hy sinh. Lần này tiêu diệt được đồn, nhưng Xương mãi mãi nằm lại Tú Thủy. Cho đến nay tôi vẫn nghĩ, với Khương Thế Xương chúng ta không chỉ mất một cán bộ quân sự có thể rất xuất sắc, còn mất một nhà văn chắc không chỉ ở tầm chúng tôi. Tôi biết ngay hồi cùng đi học ở Quảng Ngãi, Xương đã có làm thơ, đã là thơ nói chí hướng, mà vẫn mềm mại hồn nhiên. Hiếm lắm ở đời những tâm hồn rắn rỏi và vẫn nhẹ nhàng mát rợi. Tôi thường nghĩ và so sánh Xương với Phan Tứ.
Thoạt nhìn có vẻ con đường đi của Khương Thế Xương và Phan Tứ là khá gần nhau, nhưng kỳ thực đấy là hai tính cách khác hẳn, thậm chí đối lập. Tôi vẫn tin cái học thuyết rất “phản động” mà lại rất sâu sắc của anh Vũ Cao, sai với ông Mác nhưng đúng y với cuộc đời: Con người là không cải tạo được, trời sinh, trước sao sau vậy.
Phan Tứ đi học, lớn lên, làm việc, viết bao giờ cũng hết sức tỉ mỉ, cẩn thận, cần cù, bao giờ cũng nghiêm trang trong mọi việc, mọi giao tiếp, tuyệt đối không bay bướm lang thang lêu lổng như tôi, gần như không biết đùa suốt đời. Đến một mẩu thư nhỏ gửi cho bạn, cho vợ – nếu là báo cáo lên cấp trên thì càng đương nhiên rồi –, bao giờ cũng sao thành hai bản, một gửi đi, một lưu lại làm bằng, đố sau này anh nào cãi được. Cẩn thận đến mức trước mỗi chuyến đi hơi xa một chút, đi máy bay thì càng phải cẩn thận hơn, đều gửi lại một phong bì trong có lời dặn dò tỉ mỉ – gần như là… di chúc vậy – nếu chẳng may anh có gặp tai nạn thì việc này việc nọ giải quyết ra sao, vật này vật khác giao cho ai, chia cho ai. Anh tính toán cặn kẽ trước mọi thứ, cuộc sống là một kế hoạch hoàn chỉnh “lập trình” chính xác cho vào máy ngay từ đầu, cứ thế mà diễn ra. Tứ có một cái túi dết tùy thân, ở rừng cũng như sau này về thành phố vẫn còn nguyên – một cái kho vạn năng, gặp bất cứ tình huống nào đều có ngay dụng cụ ứng phó: các loại thuốc cấp cứu, bông băng, cây kim, chỉ đen, chỉ trắng, chỉ màu, tua-nơ-vít và lắc-lê, cây dùi đóng vở, các loại bút xanh đỏ, các thứ dây từ treo võng cho đến trói tù binh, dao cạo râu và dao nhỏ mà mổ được lợn, v.v. và cái be rượu. Ở Matxcơva, đâu quãng gần ga tàu điện ngầm Universitet thì phải, có cái cửa hàng bách hóa tên là “1001 mặt hàng”, chắc chắn còn thua xa cái túi dết thần thông của Tứ.
Đố ai làm được cho Tứ bất ngờ. Có lần tôi hỏi đùa:
– Sống mà không thỉnh thoảng bị bất ngờ thì buồn quá, ông ạ. Thế trong đời ông bị cú tình yêu “sét đánh” bất ngờ nào không?
Tứ không trả lời. Cũng không cười.
Anh viết văn cũng vậy. Ghi chép vô cùng khách quan, siêng năng, tỉ mỉ. Chuyện gì, việc nào, người nào, vặt vãnh đến đâu cũng ghi. Sổ tay ghi chép hàng đống, đánh số cẩn thận 1, 2, 3, 4… cho đến vô tận. Anh quan niệm, đúng như ông Balzac: nhà văn là người thư ký của thời đại. Thư ký thì việc gì cũng phải ghi đầy đủ, nguyên xi. Lại thêm, gọi là để giữ bí mật, anh thường ghi chép bằng tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Lào… cứ như Mỹ và chính quyền Sài Gòn mù tịt các thứ tiếng thông thái ấy… Nguyễn Khải, vốn hay ác mồm, bảo đọc, cứ như sổ tay bà nội trợ đi chợ mua rau…
Thôi thì mỗi người có cách sống và làm việc, viết của mình, nên tôn trọng.
Phan Tứ và tôi có một trận cãi nhau dữ, đâu quãng giữa năm 1963 hay đầu 64, trong một hội nghị bàn về việc giải phóng đồng bằng họp ở Kỳ Quế huyện Tam Kỳ (cái làng ấy nay đã bị đánh chìm xuống đáy hồ nước Phú Ninh, công trình thủy lợi lớn nhất tỉnh Quảng Nam). Số là để tiếp tục mở rộng đồng bằng có hai phe, chủ trương hoàn toàn ngược nhau: Hoặc dùng lực lượng vũ trang tương đối lớn, có tiểu đoàn, trung đoàn, từ trên núi đánh xuống, phá vỡ từng mảng của địch không lớn lắm, chừng vài ba xã, mở ra đến đâu “be bờ đắp đập” giữ chắc đến đó, củng cố bên trong cho thật vững, rồi hẵng lần lượt mở tiếp từng mảng khác. Mở ra ở Phước Lãnh, Phước Ngọc, rồi mảng Phước Sơn, Phước Cẩm, Phước Hà chính là theo cách đó. Phái thứ hai cho rằng làm thế là rị mọ, bảo thủ, “đến tết Công-gô” cũng chưa giải quyết xong được đồng bằng. Họ chủ trương dùng một số mũi nhỏ thật nhọn, tinh nhuệ, cỡ tiểu đội, len lỏi bất ngờ thọc sâu vào lòng địch, đến sát vùng ven biển, khuấy động, hút chủ lực địch về hướng ấy, trong khi ở phía Tây trên quốc lộ số 1, dùng lực lượng mạnh, đánh, mở ra từng mảng lớn. Trận đánh thọc sâu của “Bảy dũng sĩ Điện Ngọc” nổi tiếng một thời là vậy …
Cãi nhau gay gắt, đập bàn đập ghế, đỏ mặt tía tai, truy chụp gán ghép cho nhau đủ thứ quan điểm lập trường, sao thời nào cũng giống nhau quá thế nhỉ, phe thứ nhất chửi phe thứ hai là phiêu lưu mạo hiểm, tả khuynh, thậm chí có tính cách “tờ-rốt-kít”, phe thứ hai mắng phe thứ nhất là hữu khuynh, giáo điều, bảo thủ trì trệ, quân sự đơn thuần…
Phan Tứ thuộc nòng cốt của phe thứ nhất. Còn tôi, vẫn quen thói, tôi thuộc phe “phiêu lưu mạo hiểm”.
Cãi chán không ngã ngũ, cuối cùng thỏa hiệp: áp dụng kết hợp cả hai phương thức một lúc…
Nhưng rồi cuộc sống đã có câu trả lời riêng của nó: hóa ra phe “phiêu lưu mạo hiểm” đúng hơn. Đánh từ vùng sâu ngược lên, quả địch bị bất ngờ vỡ tan từng mảng lớn, quần chúng ào ào đứng dậy, đồng bằng mở toang ra. Ngày ấy Phan Đình Côn, anh chàng nhà thơ vô cùng luộm thuộm và mất sớm của chúng tôi mang được ở đâu về cho tạp chí Văn nghệ quân khu bài thơ thống thiết của một anh lính vô danh:
“… Ngày mai bờ biển sẽ về taMuối Sa Huỳnh bạc ánh sao saTa nằm trong muối, lăn trong muốiXát khắp toàn thân thật mặn mà!…”Chúng tôi thèm đồng bằng đến thế đấy. ..
Bọn trẻ ranh rất hiếu thắng chúng tôi tha hồ chế giễu cánh “bảo thủ”…
Không chỉ bọn trẻ ranh, đứng về phe chúng tôi còn có một nhân vật quan trọng và từng trải: anh Nguyễn Phú Soại, phó bí thư tỉnh Quảng Ngãi, vốn ở lại trong Nam từ sau 1954. Cùng phe nên thân nhau ngay. Cho tôi dừng lại một chút về câu chuyện của anh Soại. Hóa ra trước 1945, anh Soại từng học một trường trung học tư tên là trường Việt Anh ở Huế, và là học trò của anh Thanh Tịnh. Biết tôi vốn từ chỗ anh Thanh Tịnh vào, anh bảo tối hai anh em treo võng sát nhau, anh rì rầm kể chuyện. Chuyện rất lạ. Sau thời dạy Việt Anh, anh Thanh Tịnh ra Hà Nội, thuộc nhóm những cây bút trẻ chịu ảnh hưởng của Tự lực văn đoàn. Kháng chiến toàn quốc bùng nổ cuối năm 1946, anh bị kẹt lại ở miền Bắc, nên tham gia kháng chiến ở Việt Bắc, để lại ở quê hương Huế người vợ và cô con gái tên là Mỹ Lý. Có cả một thế hệ từng đọc say mê tập truyện ngắn Quê mẹ đẹp như thơ của Thanh Tịnh, và “biết”, nhớ, da diết như nỗi nhớ của chính mình, về cái ga xép bé tí và cô đơn được Thanh Tịnh tả tuyệt hay trên con đường xe lửa thăm thẳm Bắc Nam đoạn qua xứ Huế, tên là ga Mỹ Lý.
Thì ra Mỹ Lý là tên con gái của anh Thanh Tịnh. Những năm tháng ở Hà Nội tôi biết anh vẫn dành một phần lương bộ đội còm cõi hằng tháng, âm thầm mua những tấm lụa Hà Đông, gói rất kỹ đợi ngày thống nhất mang về cho con gái Mỹ Lý…
Còn ở trong Nam? Nên nhớ cuộc chiến tranh của chúng ta là cuộc chiến dằng dặc 30 năm, trong đó riêng đánh Pháp đã mất 9 năm. Khoảng cuối 9 năm mỏi mòn ấy chị vợ anh Thanh Tịnh đã đi bước nữa, lấy một người thời đó còn là viên chức của Pháp. Đến triều Ngô Đình Diệm, anh ta được điều về làm tỉnh trưởng tỉnh Quảng Ngãi, nơi anh Nguyễn Phú Soại đang là phó bí thư tỉnh ủy bí mật. Bằng những con đường rất quanh co, phức tạp, cả mạo hiểm nữa, anh Soại bắt được liên lạc với chị, và chị đã trở thành cơ sở của anh. Anh Soại bảo qua chị anh còn có thể tác động ít nhiều đến chồng chị lúc bấy giờ đang là tỉnh trưởng. Mối liên lạc đó kéo dài cho đến lúc anh ấy đổi đi. Mà lại là đổi vào Bến Tre. Hồi đó Quảng Ngãi ở miền Trung và Bến Tre ở miền Tây Nam Bộ khét tiếng là hai tỉnh cộng sản đầu sỏ và “dữ” nhất, tỉnh trưởng của chính quyền Sài Gòn ở đấy hẳn phải loại chống cộng số một… Tôi hỏi anh Soại tôi có nên báo chuyện này cho anh Thanh Tịnh không, anh bảo theo anh là nên, chị ấy là người rất tốt, đã giúp được cho công việc của anh khá nhiều; ngay cả anh tỉnh trưởng chồng chị cũng là người khá, tất nhiên cần hiểu hoàn cảnh của anh ấy, không nên đòi hỏi ở anh ấy nhiều hơn…
Anh Nguyễn Phú Soại về sau lại chuyển sang ngành ngoại giao, anh làm đại sứ của Chính phủ cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam tại Hà Nội mấy năm (Việt cộng đóng kịch vốn cực giỏi). Rồi anh đi làm đại sứ ở Hungari. Tôi có lần sang Hung, giữa thủ đô Budapest hoa lệ (Budapest vẫn được gọi là petit Paris, Paris nhỏ ở Trung Âu), hai anh em ngồi bên sông Danube, hai người lính già lần này không cùng nhau “kể mãi chuyện Nguyên Phong” nữa, mà tâm sự chuyện đời, biết bao éo le lạ lùng đến khó tin…
Sau năm 1975, anh tỉnh trưởng Quảng Ngãi và Bến Tre đi Mỹ, nhưng chị ấy thì vẫn ở lại, chị có ra Hà Nội và gặp anh Thanh Tịnh, nhà tôi ở cạnh nhà anh Thanh Tịnh tại phố lính Lý Nam Đế, khu tập thể số 8, tôi có sang chào chị, người đàn bà Huế ấy dù đã tàn phai trải bao truân chuyên vẫn còn phảng phất vẻ đẹp thanh nhã riêng có của cô gái cố đô. Nhưng anh Thanh Tịnh vẫn rất đau: Mỹ Lý thương nhớ của anh đã đi Mỹ chỉ mấy ngày trước khi quân ta vào Huế. Cô bị dọa Việt Cộng vào sẽ dùng kìm rút hết móng tay vì cô có đi làm cho sở Mỹ. Anh không được gặp lại con gái lần nào cho đến khi qua đời. Những xấp lụa Hà Đông cúp cum gìn giữ bao nhiêu năm chờ đợi, không biết anh có giao cho chị không…Cuối 1964 Phan Tứ bị gai cột sống, đầu 1965 anh phải ra Bắc, trước khi đi còn mở cái túi càn khôn của anh, trao lại cho tôi một gói băng cá nhân và lọ péniciline bột, ngày ấy quý lắm, dặn kỹ bị thương cứ rắc ngay vào, cấp cứu sau.
Phan Tứ không tham gia thời chiến tranh cục bộ và tiếp đó thời kỳ vô cùng đen tối gọi là “Việt Nam hóa chiến tranh” ở miền Nam. Năm 1973, sau hiệp định Paris anh mới trở vào và có mặt trong đại thắng 75. Sau khi đã tương đối ổn định ở Sài Gòn, chúng tôi chủ trương đi khắp một tua miền Tây Nam Bộ cho biết và cũng là lợi dụng lúc này xăng dầu còn dễ xin, tha hồ chất đầy thùng phuy lên xe mà chạy khắp. Hôm ở đất mũi Cà Mau Phan Tứ cứ cởi trần trùng trục mà vùi mình ngập ngụa trong bùn lệt sệt nhão nhoẹt ở cái nơi tận cùng đất nước ấy, bảo cho hả dạ…
Sau miền Tây, chúng tôi được ông Trần Bạch Đằng triệu tập đến để phổ biến chủ trương thành lập một hội nhà văn riêng của miền Nam. Tôi và Nguyễn Chí Trung không đồng ý, đất nước vừa thống nhất rồi sao lại đi lập hai hội riêng, đều của nhà nước. Trần Bạch Đằng bảo đây là chỉ thị của Trung ương cục. Chúng tôi nói, theo chỗ chúng tôi biết, về mặt Đảng, B1 trực thuộc chỉ đạo của Trung ương ở Hà Nội chứ không thuộc Trung ương cục miền Nam, nếu có chỉ thị của Trung ương cục, xin các anh cứ làm. Chúng tôi không tham gia, và sẽ trở về Khu 5. Bấy giờ ở Nam Kỳ Trần Bạch Đằng được gọi là “Vua không ngai”, hét ra lửa. Anh em ở R vừa về thấy chúng tôi dám cãi và ông ấy thua, đều kinh ngạc. Riêng tôi để ý trong vụ này, Phan Tứ cũng gọi là trong ban lãnh đạo văn nghệ Khu 5 lại giữ thế trung lập, ầm ừ sao cũng được, khác với thái độ thông thường của anh. Không hiểu vì sao?
Tôi còn có mấy lần ngạc nhiên về Phan Tứ bạn tôi. Hôm mới vào Đà Nẵng cuối tháng 3-1975 một bữa hai anh em đi đâu đó trên hè phố ven sông Hàn, có một cậu thanh niên thành phố để cái xe máy hơi có chút ngáng đường người đi bộ, Tứ dừng lại sừng sộ gay gắt và rất trịch thượng, cậu thanh niên có lẩm bẩm cãi lại gì đó, Tứ lập tức vỗ bộp vào bao súng ngắn bên hông, thậm chí tôi nghĩ anh đã sẵn sàng rút súng ra… Cậu thanh niên vội vã xin lỗi và dẹp xe. Khi chúng tôi đã đi qua, tôi quay nhìn lại, thấy cậu nhìn theo chúng tôi, rất lạ, không phải một cách sơ sệt, mà là một cách khinh bỉ. Chuyện nhỏ mà không quên, bởi không thể ngờ.
Năm 1990 ở Đà Nẵng nổ ra một vụ án văn học ầm ĩ một thời. Nhà xuất bản Đà Nẵng in tiểu thuyết Miền hoang tưởng của một tác giả tên là Đào Nguyễn. Kỳ thực tên đầu tiên là Hoang tưởng trắng của Nguyễn Xuân Khánh, qua bao nhiêu nhà xuất bản đều không lọt, cho đến khi gặp một nhà với những người hiểu giá trị của tác phẩm, tác giả và dám chịu chơi. Sách vừa in ra lập tức bị cả một chiến dịch tấn công dữ dội, hệt thời Nhân Văn Giai Phẩm. Khởi xướng và đứng đầu là Thuận Hữu, ký bút danh Mai Lĩnh, bấy giờ là phóng viên thường trú báo Nhân Dân ở Đà Nẵng dưới quyền ông Đặng Minh Phương, anh ruột Hà Đăng; cùng người thứ hai là Phan Tứ lúc này đã là nhà văn nổi tiếng. Tiếng tăm của ông nhà văn lớn khiến mọi người ùa theo, một đám đông u mê và hỗn loạn… Kết quả người tổ chức bản thảo là biên tập viên Trần Kỳ Trung nhận kỷ luật cảnh cáo, giám đốc Nguyễn Văn Giai bị cho nghỉ hưu và cách chức. Giai về ở một ngôi nhà nhỏ trên đường Nguyễn Du, thỉnh thoảng tôi ghé qua thăm, hỏi bây giờ cậu làm gì, Giai trả lời: “Bây giờ tôi làm …thinh!”. Tôi không được biết ở những nơi khác một câu trả lời như vậy có nghĩa thế nào, chứ ở xứ quê Quảng quê tôi, nó là: Tao không thèm chấp tất cả, tao khinh bỉ và không thèm chơi nữa với tất cả chúng mày, một lũ ngu dốt xấu xa! Nguyễn Văn Giai, tôi quý anh, rất Quảng Nam!Tuy nhiên chuyện đời còn chưa chịu, chưa thể chấm dứt ở đó. Dẫu sao rồi cũng phải có sự thật và công bằng chứ. Đúng mười lăm năm sau, 2015, Nhà xuất bản Hội Nhà văn do Trung Trung Đỉnh làm giám đốc đã cho tái bản sách, in trang trọng và đẹp, với nguyên tên cúng cơm của tác phẩm và tác giả: Hoang tưởng trắng của Nguyễn Xuân Khánh. Xuân Khánh đã rất yếu, đi đâu phải có con cháu dìu từng bước, nhưng anh vẫn viết khỏe, sức viết bền bỉ đến kỳ lạ, anh còn một loạt tiểu thuyết đều độc đáo và đặc sắc: Trư cuồng (tức Chuyện ngõ nghèo), Hồ Quý Ly, Mẫu thượng ngàn, Đội gạo lên chùa… Tây có câu châm ngôn Les manuscrits ne se brûlent pas, bản thảo là thứ không thể cháy. Thời nay cũng vậy, những người làm nghề gọi là quản lý xuất bản nên biết và nhớ câu này…
Đại hội nhà văn lần thứ ba họp năm 1983 là một đại hội rất kỳ quặc, ít nhất là về một mặt này: nếu tôi nhớ không nhầm thì hồi đó hội viên của Hội đâu chỉ trên dưới 300, vậy mà đại hội lại bầu ra một ban chấp hành đến trên 40 người. Tôi được bầu, Phan Tứ cũng được bầu. Và vì là đại hội họp sau vụ Đề dẫn tai tiếng của tôi, chắc là để trừ tiệt cho kỳ hết ảnh hưởng độc hại còn kéo dài của nó, người ta đã tổ chức một phiên hop dành riêng chủ yếu tập trung tiếp tục đấu tranh phê phán nó. Thú thật tôi không mấy quan tâm và cũng chẳng còn nhớ gì những lời lên án ghê gớm bấy giờ. Tôi cũng không hề trả lời. Tôi bắt chước ông bạn xứ Quảng Nguyễn Văn Giai của tôi. Duy tôi có để ý trong hội nghị này Phan Tứ nói rất ít, anh chỉ có đôi ý kiến không lấy gì làm gay gắt. Suốt mấy ngày họp thấy anh chỉ chăm chú ghi, không thiếu ý kiến và chi tiết nào. Trở về Đà Nẵng, anh tập họp đông đủ không chỉ các loại nhà văn (bởi vì ở ta có các loại nhà văn như thế thật, có loại nhà văn trung ương do Hội Nhà văn trung ương quản lý, lại có loại chỉ được coi là nhà văn cấp tỉnh hay thành phố do hội ở tỉnh, thành phố quản lý), anh còn mời đông đủ hội viên các hội văn học nghệ thuật và những người có liên quan ít nhiều, trịnh trọng mở cuốn sổ bình sinh của anh ra và đọc lại không sót lời nào của bốn mươi mấy vị chấp hành ở hội nghị Hà Nội. Đúng hệt các vị đại biểu đi họp Quốc hội về báo cáo cử tri. Cũng cần nói cho công bằng: anh đọc đủ cả, ý kiến đánh tôi, nhiều hơn và hung hăng hơn, và cả ý kiến bênh vực tôi, ít và rụt rè hơn…
Vâng, tôi có một anh bạn nhà văn Phan Tứ như thế.
Nhưng tôi nhầm, và điều đó là rất đáng ân hận. Còn có một Phan Tứ khác, đời hơn và đáng để ta, để tôi yêu và thương. Anh em ở trại sáng tác Đà Nẵng bảo tôi anh Phan Tứ trông hằng ngày rất mô phạm vậy, hay mắng mỏ anh em nhậu nhẹt, nhưng chính anh lại là một tay nghiện rượu lâu năm. Trưa nào anh cũng lén anh em ra một cái quán nhỏ kín rất sâu trong một hẻm vắng và nốc trọn một xị. Trời, tôi không nghiện rượu nhưng tôi biết những cái quán như vậy và các thứ rượu bán ở đó, toàn rượu tạp, pha chế bừa bãi, trộn đủ thứ linh tinh, uống mà là uống lâu dài, năm này qua năm khác, đều đặn không thiếu ngày nào, ngày nào cũng tuôn một xị thì là liên tục tự nạp thuốc độc vào người, tự phá nát hết nội tạng. Nguyễn Quang Sáng cũng là tay bợm rượu, nhưng anh không biết một chữ ngoại ngữ nào, anh tuyên bố rượu nào anh đọc được tên trên nhãn, anh quyết không nếm một giọt. Tôi cũng có biết một anh nhà thơ nổi tiếng và uyên bác ở Viện Văn học, xưa một lòng chân thành mê mẩn Trung Quốc của ông Mao Trạch Đông, bao nhiêu năm tận tụy truyền bá Diên An và cả Sách đỏ…, đến sau Cách mạng văn hóa Tàu, anh sững ra, và là người rất lý tưởng, anh tuyệt vọng, sụp đổ hẳn, mất hết lẽ sống, đâm ra nát rượu, trước còn uống chọn lọc, sau hết tiền ruợu tạp đến đâu cũng uống, uống suốt ngày, lúc nào cũng ngà ngà say, càng say càng nói lý luận, uyên bác lẫn lung tung, chị vợ sợ anh uống tạp nguy hiểm đi mua rượu chính cống có bảo đảm đàng hoàng về cho anh, thế là anh bèn uống gấp đôi, cả rượu đàng hoàng cả rượu tạp. Người ta bảo anh tự tử bằng rượu, vì nỗi hận ông Mao ở tận bên Tàu đã tàn phá tài năng và cuộc đời anh. Một cái chết vì lý tưởng và vì rượu. Phan Tứ uống lén rượu tạp ở quán tạp giấu kín bao nhiêu năm, không phải vì không có tiền, mà vì cái luật khắc nghiệt ở đời khiến, anh đã nhỡ mang tiếng cực kỳ nghiêm túc, gương mẫu, mô phạm trước mắt thiên hạ. Cái thiên hạ ấy rất đáng sợ, nó buộc con người phải sống giả sao cho đúng với hình ảnh có tính biểu tượng mà anh vẫn hằng mong muốn hậu thế sẽ hình dung, sẽ “biết”, hiểu và viết về anh. Các nhà làm văn học sử nên biết mình đang làm một cái nghề có thể rất ác.
Nhưng còn một điều có thể quan trọng hơn: Phan Tứ có gì để tuyệt vọng, hay còn có bí ẩn sâu xa, thiêng liêng mà éo le oái ăm nào để chỉ có thể gửi vào rượu, lại là rượu tạp vì là rượu lén.
Cuối đời Tứ bị u tụy. Tôi có chạy đến tận chỗ ông Tố Hữu mà tôi vốn chẳng ưa gì để mong nhờ tìm thầy thuốc giỏi cho anh. Nhưng rồi cũng chẳng ăn thua.
Tứ mất năm 1995.
Giữa đám tang có một sự cố. Bỗng xuất hiện một cậu thanh niên tự nói là từ Nam Tam Kỳ ra, mặc áo xô, chít khăn trắng, xin vào lạy trước bàn thờ và linh cữu cha. Tôi ở Hà Nội không vào được để tiễn đưa Phan Tứ lần cuối. Nhưng khi nghe tin tôi nghĩ ngay là chắc là tôi biết rõ cậu thanh niên lặn lội từ Nam Tam Kỳ ra lạy cha ấy. Cậu ấy phải đích thị quê quán ở cái thôn Tứ Mỹ bán sơn địa, một rẻo đồng bằng len vào chân núi bé tí tẹo của xã Kỳ Sanh huyện Nam Tam Kỳ chúng ta giật lại được từ tay đối phương trong cuộc đồng khởi đầu tiên của Khu 5 mấy chục năm trước. Và cũng hầu như chắc chắn cả anh Nguyễn Văn Bổng và tôi đều biết rõ mẹ cậu, chính là cô du kích nhỏ nhất đội, xinh xắn, săn chắc vừa là của con gái vùng bán sơn địa vừa là của con gái quê đang mơn mởn dậy thì. Cô du kích đáng yêu nhất trong đám du kích trẻ măng rì rầm mãi những đêm không ngủ, thỉnh thoảng lại cười ré lên không ai có thể biết vì chuyện gì rồi lại suỵt nhau im lặng, rừng mít cách cao điểm 65 của địch chỉ non cây số đường chim bay. Trong khi tôi đi ra phía chiến trường Bắc Quảng Nam vùng quanh căn cứ lớn của Mỹ ở Đà Nẵng, thì Phan Tứ kiên trì “lót ổ” ở Tứ Mỹ – Kỳ Sanh, chắc một phần để theo sát diễn biến thường rất phức tạp của một vùng được giải phóng sớm – những vùng như vậy thường rất ác liệt vì hai bên đều quyết giành đi giật lại chà xát đến nát bươm ra; phần nữa, còn quan trọng hơn không biết chừng, vì anh đã đem lòng thương, rồi yêu, rồi say đắm cô du kích bé nhỏ kia, có thể ngay từ đầu, ngày tôi và anh Nguyễn Văn Bổng vừa xuống đấy. Mãi sau này tôi mới biết tên thật của cô là Út Phận.
Không thể không yêu, những ngày ấy. Chiến tranh, bom đạn, máu lửa, cái chết thường trực và bao giờ cũng bất ngờ, trăm ngàn dạng vẻ, nhẹ nhàng thản nhiên đến nhói tim có, be bét tang thương đến không dám không nỡ nhìn có, những ngày thất bại cay đắng mất dân mất đất đến chừng sạch tay, những ngày cố gượng dậy và rướn tới mừng tủi đếm từng người dân giành lại được, rồi lại để mất, lại gìành lại… Chiến tranh, lạ vậy, có thể khiến cho con người mất sạch tính người, cũng lại chính nó có thể khiến cho con người người hơn bao giờ hết. Chiến tranh, kỳ vậy, rất lắm khi là môi trường của tình yêu. Và đã yêu nhau trong khói lửa ấy thì người ta trao cho nhau hết, không giữ lại chút gì. Bởi vì, ở bên cạnh kia, sát rạt đến cháy bỏng hay lạnh ngắt, là cái chết. Phan Tứ đã để lại một giọt máu của mình ở Tứ Mỹ, Kỳ Sanh, cho Út Phận của anh. Và lần này anh viết được cuốn tiểu thuyết hay nhất của đời mình, Mẫn và Tôi. Mẫn chính là Út Phận.
Hồi làm báo Văn Nghệ, tôi có đề nghị anh Lê Ngọc Trà, vốn đã biết tên nhau nhưng chưa hề gặp mặt, viết cho về mấy vấn đề lý luận văn học theo tôi là rất quan trọng trong tình hình ở ta lúc bấy giờ. Sau bài thứ nhất Văn nghệ và Chính trị, nhân có dịp sang Liên Xô, tôi tìm gặp anh, đề nghị anh viết tiếp cho về một mối quan hệ khác vẫn còn bị hiểu khá lôi thôi ở ta: quan hệ giữa Văn nghệ và Hiện thực. Bữa ấy là một đêm rất rét, hai anh em đi trên lề đường Moskova cứ phải bíu chặt lấy nhau để khỏi ngã dập mặt xuống băng trơn và rắn hơn cả đá. Anh Trà bảo: Anh nghĩ thứ tự chuỗi vấn đề như vậy là rất đúng, nhưng tôi muốn hỏi đại thể anh quan niệm sao về mối quan hệ thứ hai này, có khi còn khó hơn cả mối quan hệ thứ nhất mà báo Văn Nghệ đã cố gắng làm rõ. Chúng tôi dừng lại giữa đêm Nga gió buốt căm căm, và tôi nói: Theo tôi hiện thực không phải là chức năng, mà chỉ là thuộc tính của văn nghệ. Một nhà văn đã cầm bút thì dẫu muốn dẫu không, theo cách này hay cách khác, ở mức độ này hay mức độ khác, anh ta đương nhiên phản ánh hiện thực của xã hội anh sống. Nhưng đấy không phải là chức năng, là mục đích của việc anh cầm bút. Nếu chỉ để phản ánh hiện thực thì còn khối cách hay hơn, hiệu quả hơn để mà bỏ công, cứ gì phải ngồi vào bàn và cầm lên cây bút trước trang giấy đầy thách thức thậm chi sinh tử cho đến nỗi ông Nguyễn Tuân phải gọi là “pháp trường trắng”. Anh ta cầm bút, nhất thiết phải cầm bút, sống chết cũng phải cầm bút, là vì một điều gì đó khác, kỳ lạ, bí ẩn, chất chứa trong anh mà chính anh cũng không, cũng chưa biết rõ, bởi vì nó chưa hề có trên đời này, mơ hồ và thúc giục, chính anh, chỉ có anh mới có thể khám phá ra nó… cho đến khi nó hiện ra như một sự thật chưa từng có, sống động, mới mẻ, tinh khôi bằng các con chữ nối tiếp trên trang giấy trước đó hoàn toàn vô dụng và vô duyên, vô nghĩa. Cho nên, mỗi tác phẩm của nhà văn theo cách nào đó là một di chúc anh để lại cho đời… Còn điều này nữa: nhà văn chẳng viết cho ai cả, không cho công chúng nào hết, anh ta chỉ viết cho chính mình, vì nhu cầu cấp bách của chính mình. Và công chúng, người đọc được biết thêm, được giàu thêm một hiện thực nữa, độc nhất, duy nhất, đơn nhất, không còn có hai, hiện thực được tao ra và soi sáng bằng toàn bộ cuộc đời của một nhà văn. Không có những nhà văn, chỉ có từng nhà văn.
Phan Tứ rất giỏi ngoại ngữ, nhưng gần anh, tôi ngạc nhiên về sự hiểu biết nghèo nàn của anh đối với văn học hiện đại thế giới, anh hầu như không hề biết đến Milan Kundera, Philip Roth, không biết hay chẳng mấy quan tâm Kafka… Trong thế hệ những người cầm bút lớn lên trong cuộc chiến tranh thứ nhất chống Pháp, rồi định hình trong cuộc thứ hai chống Mỹ, hình như Phan Tứ là người duy nhất sau cuộc thứ nhất đã chịu cần cù cắp sách đi học và học xong đại học bài bản đàng hoàng, mà là học Khoa Văn hẳn hoi. Còn hầu hết lũ chúng tôi, kể từ Nguyễn Khải, Nguyễn Thi, Nguyễn Minh Châu, Phùng Quán, Chu Văn, Nguyễn Xuân Khánh, đến cả Phạm Toàn, Dương Tường… và tất nhiên cả tôi đều là một bọn thất học, anh nhiều nhất cũng mon men đến gần tú tài tức chưa tốt nghiệp đước cái trung học phổ thông. Tứ lại vốn nghiêm túc và học gạo như tôi từng biết từ nhỏ, nên anh thấm nhuần rất sâu, rất đậm, đế mà đinh ninh như là chân lý duy nhất và tuyệt đối toàn bộ lý luận văn học Mác-Lê qua sách vở của các ông ốp ép được dạy ở đại học; từ văn học nghệ thuật ắt phải có ba chức năng, thứ nhất quan trọng hàng đầu phải là chức năng nhận thức hay phản ánh cũng tức là hiện thực, quan trọng thứ hai là chức năng giáo dục tức đạo đức cách mạng, thứ ba hàng bét mới đến chức năng thẩm mỹ, nhỡ quên bỏ qua cũng không sao. Và nhân vật trong tiểu thuyết thì nhất thiết phải là tính cách điển hình trong trường hợp điển hình, v.v. và v.v. May thay Tứ được cứu khỏi mớ rau muống lăng nhăng ba láp có nguy cơ đeo bám suốt đời ấy không gỡ nỗi ấy, không phải nhờ một nhà bác học thần thông nào, mà bởi một cô du kích bé nhất đội, Út Phận nhỏ nhoi ngày ấy chắc còn chưa biết chữ, bằng tình yêu thơ dại, liều lĩnh, say mê và can trường cắn răng im lặng suốt mấy mươi năm chung thủy của cô.
“Vấn đề Tây Nguyên về nhiều phương diện là một vấn đề lớn lại có những đặc trưng riêng trong sự phát triển chung của cả nước. Vấn đề này vốn đã không hề đơn giản, nay đã càng trở nên hết sức phức tạp, khó khăn, có thể còn khó khăn lâu dài, với những diễn biến cũng có thể còn chưa lường được hết và còn bất ngờ. Song vấn đề cũng có thể trở nên đơn giản hơn, vẫn có thể có lối ra, nếu ta dám thật sự nhìn lại tình hình một cách khách quan, nhận ra sai lầm lớn lẽ ra hoàn toàn có thể không mắc phải nếu biết tôn trọng thực tế và biết lắng nghe, từ đó nghiêm túc xác định lại quan điểm đúng, để có cách nhìn và cách hành xử thích hợp, đặc biệt biết thật sự tôn trọng các dân tộc bản địa Tây Nguyên, một bộ phận tuy có đến chậm hơn nhưng từng gắn bó rất sâu sắc, có đóng góp hết sức to lớn trong tiến trình lịch sử gian nan mấy thế kỷ qua của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Ở Tây Nguyên nếu không thật sự đặt quyền lợi của các dân tộc bản địa lên trên hết, là mục tiêu hàng đầu của mọi kế hoạch phát triển, thì chắc chắn không việc gị có thể thành công, sẽ thất bại tất yếu, thậm chí có thể đi đến thảm họa”. “ Nhà Tây Nguyên học xuất sắc Jacques Dournes có một câu bất hủ khi nói về Tây Nguyên, ông viết: “Nếu phải hiểu để mà có thể yêu, thì lại phải yêu để mà có thể hiểu”. Đối với Tây Nguyên, cần một sự hiểu biết và một tình yêu đầy sự tôn trọng thật sự, một sự tôn kính chân thành và đấy ưu tư đối với một vùng đất và một vùng văn hoá vào loại độc đáo nhất còn lại trên đất nước ta và trên thế giới ngày nay.“.”Cần có một tình yêu đầy tôn trọng như vậy, để ra sức tìm hiểu sâu sắc vùng đất và người hết sức quan trọng và vô cùng đặc sắc này, từ đó mà có chủ trương và hành động đúng, mới mong có thể thoát ra khỏi bế tắc hiện tại, đưa Tây Nguyên vững chắc vào tiến trình phát triển chung của đất nước, vì Tây Nguyên, và vì cả nước“.
“Hóa ra có một “bí mật” to lớn: ngọn nguồn của nước mội tuyệt diệu tưới tắm cả vùng cát dằng dặc ven biển miền Trung chính là nơi đó, Tây Nguyên, rừng đại ngàn, rừng nguyên sinh, rừng nhiệt đới Tây Nguyên. Chính rừng Tây Nguyên, từ trên Trường Sơn rất xa xôi kia, đêm ngày, hàng triệu triệu năm nay, như một người mẹ vĩ đại, bao dung và tần tảo, hứng lấy tất cả các nguồn nước của đất trời, cất lấy, “để dành”, tằn tiện, tuyệt đối không phí mất một giọt nào, để từng ngày từng ngày chắt chiu mà bất tận cung cấp cho đứa con đồng bằng của mình, cho sự sống có thể sinh sôi, nảy nở, trường tồn trên dải đất cát trông chừng rất khắc nghiệt kia. Cho các vương quốc, các triều đại, các nhà nước, các chế độ ra đời, phát triển, nối tiếp. Và sống còn… Nước mội chính là những dòng nước nhỏ, liên tục, không bao giờ dứt, đi âm thầm và vô hình trong lòng đất, từ những đỉnh Trường Sơn xa xôi kia, đến tận những cồn cát tưởng chẳng thể có chút sự sống này. Vậy đó, Tây Nguyên, ý nghĩa của Tây Nguyên và rừng Tây Nguyên, dù chỉ mới là qua một khía cạnh rất nhỏ của nó, nước“
“Cần ngay bây giờ chấm dứt mọi khai phá ở Tây Nguyên. Cần nghĩ đến một con đường sống khác, một kiểu sống khác, một kiểu phát triển khác. Trên cả nước. Trước hết trên mái nhà sinh tử Tây Nguyên. Bắt đầu lại một công cuộc cứu lấy Tây Nguyên. Bắt đầu một sự nghiệp to lớn trồng lại rừng Tây Nguyên, trong một trăm năm, quyết liệt, kiên định, thông minh, với những kế hoạch cụ thể, cho 50 năm, 20 năm, 10 năm, 5 năm, toàn Tây Nguyên, từng tỉnh, từng huyện, từng xã, từng làng. Khôi phục lại màu xanh cho Tây Nguyên. Bắt đầu ngay từ hôm nay, mùa xuân, mùa của màu xanh, của sự tỉnh táo, khôn ngoan. Cho đến một ngày, có thể một trăm năm nữa, con cháu chúng ta sẽ có thể bụm vào lòng bàn tay một ngụm nước mội trong veo mát lạnh rỉ ra từ đất cát và ngửa cổ uống ngon lành. Và biết rằng cha ông chúng từng rất dại dột, nhưng rồi cũng đã từng biết khôn ngoan, để cho sự sống từng sắp bị triệt diệt, lại được cứu, lại sinh sôi, phát triển, trường tồn“.
NGUYÊN NGỌC ĐỌC LẠI VÀ SUY NGẪM
Nguyên Ngọc cuộc đời và tác phẩm có thật nhiều điều đáng đọc lại và suy ngẫm: Đó là khối lượng đồ sộ tác phẩm Nguyên Ngọc với các bài viết của bạn hữu, người đương thời nói và viết về ông, rất nhiều khen, nhưng cũng có người chê. Tôi ấn tượng nhất và thường đọc lại hơn cả là hai bài trên Phát triển bền vững ở Tây Nguyên; Nước mội rừng xanh và sự sống và có trích dẫn dưới đây để thỉnh thoảng tự chính mình đọc lại. Kể cả những bài mới đây nhất và cũng thuộc loại nhậy cảm nhất là “Con người nào thì làm ra văn hóa ấy …” (bài viết trên VHNA).
Những phản biện của Cụ Nguyên Ngọc như quan gián nghị đại phu cương trực xưa, thuốc đắng khó uống, chối tai khó nghe, nhưng thật uyên thâm, mạch lạc và sâu sắc. Chúng ta không phải điều nào cũng đồng tình với Cụ nhưng xã hội và minh quân cần những lời khó nghe ấy, đó là chính kiến và chỉ dấu trí tuệ. “Con người nào làm ra văn hóa ấy…” cụ Nguyên Ngọc đã cảnh báo sớm những khác biệt và biến thái trong định hướng đầu tư phụ thuộc vào con người và tầm văn hóa. Vụ Sơn Trà và điểm nóng Đà Nẳng bùng phát mới đây (2017) và đã xử lý năm 2020 thì trước đó năm 2006, ông đã cảnh báo “Phát triển bền vững là phát triển một cách có văn hóa” Các làng ven đô đang bị các khu công nghiệp (và biệt thự biển) mọc lên với tốc độ ngày càng nhanh nuốt chững hết đất, và cùng với đất là văn hóa lâu đời của các xứ đất ấy. họ đổ ra thành phố với một cục tiền đền bù chưa bao giờ cầm được to tướng đến vậy nhưng không còn đất, và đương nhiên cả cái văn hóa nghìn đời của đất ấy. Họ đổ ra thành phố, bơ vơ, vô nghề nghiệp, và điều này có thể nguy hơn nữa: bổng trở thành ‘vô văn hóa’ luôn. Văn hóa không phải theo nghĩa dăm ba chữ học hành, mà theo nghĩa những gì hàng nghìn năm con người đã tạo nên được cho tâm hồn mình do vật lộn và gắn bó sinh tử với đất mẹ quê hương. (Nguyên Ngọc lắng nghe cuộc sống NXB Văn Nghệ trang 163-175)
Cụ Nguyên Ngọc về Tây Nguyên ngày nay lúc cụ đã luống tuổi. Cụ ăn lẫu phố Núi và lưu ảnh kỷ niệm với nhà văn Tây Nguyên Văn Công Hùng, vơi đôi mắt nhìn thẳng trực diện tinh tường. Cụ bút lực trên 88 tuổi vẫn chưa suy giảm và vẫn trên đường xa. .
TRUNG QUỐC MỘT SUY NGẪM Hoàng Kim và Hoang Long
trên đường lên Thái Sơn, cha con tôi trò chuyện Trung Quốc với Lão Khoa và những câu chuyện của các học giả, nhà văn khả kính Việt Nam nói về Trung Quốc ngày nay. Đầu tiên là phiếm đàm ‘tào lao với Lão Khoa‘ về Trung Quốc và những chuyện nóng hổi mới đây. “Tào lao với Lão Khoa” tuy là nhàn đàm nhưng sự thực là những việc quốc kế dân sinh. Văn của Khoa hay không kém thơ. Trần Đăng Khoa vừa hiệu đính và đăng lại bài viết về Trung Hoa, tiếng là ‘tào lao’ mà thật sự nóng, hay và nghiêm cẩn.
Khoa viết đúng sự thật của Trung Quốc ngày nay: “Trung Quốc là một nước phát triển rất hùng mạnh về tất cả mọi lĩnh vực, trong đó có truyền thông, thông tin. Thế kỷ XXI này là Thế kỷ Trung Quốc. Ở đâu cũng truy cập được internet, nhưng tiếc ở đó không dùng được Email, Google, Blog và cả Facebook. Vì thế, tôi như kẻ lạc rừng. Trung Quốc có gần trăm kênh truyền hình. Kênh nào cũng rất đẹp. Nhưng toàn truyền hình nội bộ của các tỉnh thành Trung Quốc, tuyệt không có một kênh nào của nước ngoài.” “Đúng là chúng tôi cũng còn nhiều hạn chế. Chúng tôi đang mở cửa. Nhưng mở cửa theo quy trình. Mở cửa từng bước…”.
Sự đánh giá này của Khoa về Trung Quốc trong sự quản lý xây dựng, giao thông, du lịch văn hóa cũng thật chí lý: “Cái chúng ta còn phải phấn đấu để vươn tới thì Trung Quốc lại có cả một kho kinh nghiệm. Nói như một đồng chí ở Đại sứ quán ta, Trung Quốc có một đội ngũ cán bộ lãnh đạo rất giỏi. Ngay một cán bộ ở địa phương cũng có tầm nhìn của trung ương. Lấy tư duy của trung ương để xử lý cả những việc cỏn con ở cơ sở. Vì thế họ có được sự đồng bộ và nhất quán xuyên suốt từ Trung ương đến địa phương. Chúng tôi qua Lệ Giang rồi Đại Lý, một thành phố cổ của Trung Quốc ở tỉnh Vân Nam. Thành phố này đã bị phá hủy vào năm 1996 trong trận động đất 7,5 độ richte. Vậy mà họ vẫn khôi phục lại được. Một thành phố rất đẹp, cổ kính. Nhiều ngôi nhà dựng lại mà trông cổ kính như có tuổi thọ hàng ngàn năm tuổi. Phải nói là rất tài. Trung Quốc là thế đấy. Họ kỹ lưỡng đến từng chi tiết nhỏ. Bởi thế, Trung Quốc là đất nước của du lịch. Thành phố nào cũng có những vẻ đẹp bí ẩn khiến người ta muốn chiêm ngưỡng, khám phá. Đó là những vẻ đẹp không chỉ chinh phục du khách nước ngoài mà còn có thể mê hoặc được cả chính người dân Trung Quốc. Chỉ riêng khách du lịch Trung Quốc cũng đã đủ “nuôi” ngành du lịch Trung Quốc rồi.”
Tôi thích văn phong của Khoa “giản dị, xúc động, ám ảnh” và lối viết tưng tửng nhưng rất sát sự thật. Dẫu vậy, tôi thấy có điều đánh giá này cần phải đàm luận: Khoa đã nói: “Trung Quốc to mà vẫn không lớn. Vì rất không đàng hoàng. Ông bạn này cứ như một anh hàng xóm rất giàu có nhưng lại có cái tính rất khó chịu là cứ thích ăn cắp vặt. Nhà có hàng núi vàng, nhưng vẫn thích thó của những anh hàng xóm trái cam hay quả trứng gà. Nếu không lấy được thì khó chịu. Cái việc họ lấn đất, lấn biển lấn đảo cũng thế. Giả thiết nếu không có mấy hòn đảo ăn cắp, hay cả Biển Đông nữa, họ vẫn cứ lớn, vẫn giầu có, ở không ít mặt họ còn vượt cả Nga, cả Mỹ. Thế mà vẫn cứ càm cắp những thứ bé hin hin chẳng phải của mình. Khó chịu là thế!“.
Theo tôi thì nói như vậy lập luận vậy đúng mà chưa rõ. Tôi thích lối lập luận của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm hơn. Cụ Trạng nói: Muốn BÌNH sao chẳng lấy nhân. Muốn An sao lại bắt dân ghê mình?” . “Mấy hòn đảo ăn cắp, hay cả Biển Đông nữa” sao có thể coi là nhỏ khi so sánh 2,5 triệu kilomet vuông kinh tế biển với 9,3 triệu kilomet vuông đất liền? Trung Quốc ngày nay có luận thuyết Trung Nam Hải, “nắm vững Trung, hướng về Nam, tranh chấp Hải” đó là luận thuyết “biển lịch sử”, là cửa “sinh đạo” của Trung Quốc trong Dịch lý, ngược hướng với “Tử Cấm Thành”. Thuyết này là khâu trọng yếu của ‘giấc mộng Trung Hoa vành đai và con đường’ để Trung Hoa trỗi dây, đâu có thể lấy lý lẽ ‘trộm vặt’ ‘ăn cắp vặt’ để lý giải, mà cần là một hệ thống lý luận sâu hơn.
Tôi thích minh triết Hồ Chí Minh, ‘Bình Ngô’ của cụ Nguyễn Trãi, ý thơ của cụ Trạng Trình, Nguyễn Du, Giáp Hải và triết lý của Engels hơn.
Minh triết Hồ Chí Minh khác sự diễn đạt trên. Bác Hồ là người ở bên cạnh Borodin tại Trung Quốc thời thống chế Trung Hoa Dân Quốc Tưởng Giới Thạch bắt đầu thò ra “đường chín đoạn” khởi đầu của tầm nhìn học thuyết mà sau này chủ tịch Trung Quốc phát triển thành chủ thuyết “Trung Nam Hải” và “biển lịch sử” “nắm vững Trung, hướng về Nam, tranh chấp Hải”. Bác Hồ không nói nhưng lại để cho anh trai là Nguyễn Tất Đạt kể chuyện cho Sơn Tùng để đăng trên báo Cứu Quốc năm 1950 kể về lời đồng dao huyền thoại:
“Biển là ao lớn
Thuyền là con BÒ
Thuyền ăn gió no
Lội trên mặt nước
Em trông thấy trước
Anh trông thấy sau
Chúng ta lớn mau
Vượt qua ao lớn.”
(Thơ Nguyễn Sinh Cung, rút trong tập”Tất Đạt tự ngôn, Sơn Tùng công bố và Báo Cứu Quốc phát hành)
‘Bình Ngô’ của cụ Nguyễn Trãi viết rất hay, là tuyên ngôn độc lập của Việt Nam:
Thay trời hành hoá, hoàng thượng truyền rằng.
Từng nghe:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau
Song hào kiệt thời nào cũng có.”
(Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi, do Ngô Tất Tố dịch)
Cụ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm thì thông điệp ngoại giao nhắn gửi con cháu về lý lẽ giữ nước thật thông suốt ” Biển Đông vạn dặm giang tay giữ. Đất Việt muôn năm vững trị bình”. (Vạn lý Đông minh quy bá ác Ức niên Nam cực điện long bình). Từ xưa đến nay, điều nhân là vô địch, Cần gì phải khư khư theo đuổi chiến tranh. Cổ lai nhân giả tri vô địch, Hà tất khu khu sự chiến tranh) Nếu nhà vua có bó đuốc sáng thì nên soi đến dân ở nơi nhà nát xóm nghèo (Quân vương như hữu quang minh chúc, ủng chiếu cùng lư bộ ốc dân) Trời sinh ra dân chúng, sự ấm no, ai cũng có lòng mong muốn cả. Muốn bình sao chẳng lấy nhân. Muốn an sao lại bắt dân ghê mình. Đạo lý, Dịch lý, Ẩn ngữ Việt thật sâu sắc thay !
Nguyễn Du trong uẩn khúc lịch sử Bí mật kho báu trên đỉnh Tuyết Sơn, Vua Càn Long sau thất bại nặng nề của nhà Thanh trong chiến tranh với Tây Sơn đã sai danh tướng Phúc Khang An thay thế Tôn Sĩ Nghị làm Tổng đốc Lưỡng Quảng định điều động thêm 50 vạn quân để ứng chiến vùng biên giới phía Nam nhưng nhà Thanh đang phải đối mặt với một vấn đề đặc biệt cơ mật và tối quan trọng tại Tây Tang là kho vàng tại tu viện Mật Tông bị quân Khuếch Nhĩ Khách Mông Cổ dòm ngó tấn công.Trong khi, nước Nam Nguyễn Huệ anh dũng thiện chiến không thể xem thường nên vua Càn Long lựa ý hòa hoãn với nhà Tây Sơn và tặng áo cho Nguyễn Huệ, sau đó đã dùng kế dập tắt hi vọng phục quốc của vua nhà Hậu Lê và các trung thần. Vua Càn Long viết.
Nước Phiên đến lúc ta đi tuần
Mới gặp mà như đã rất thân
Nước Tượng chưa từng nghe triều cận
Việc cống người vàng thật đáng khinh
Nhà Thanh coi trọng việc đi sứ
Chín đạo thường có đạo vỗ yên
Xếp võ tu văn thuận thiên đạo
Đại Thanh còn mãi vạn ngàn xuân.
Nguyễn Du kiệt tác thơ chữ Hán chạm thấu những vấn đề sâu sắc nhất của tình yêu thương con người và nhân loại các giá trị sử thi văn hóa ngoại giao xuất chúng có một không hai. Lời nhận xét của giáo sư Mai Quốc Liên “Thơ chữ Hán của Nguyễn Du là những áng văn chương nghệ thuật trác tuyệt, ẩn chứa một tiềm năng vô tận về ý nghĩa. Nó mới lạ và độc đáo trong một nghìn năm thơ chữ Hán của ông cha ta đã đành, mà cũng độc đáo so với thơ chữ Hán của Trung Quốc nữa”. Nguyễn Du kiệt tác thơ chữ Hán “Kỳ Lân mộ” .
Kỳ Lân Mộ Nguyễn Du
Phương Chi Yên Đệ người thế nào?
Cướp ngôi của cháu, đồ bất nhân.
Mỗi khi nổi giận giết mười họ,
Cổn to vạc lớn hại trung thần
Năm năm giết người hơn trăm vạn
Xương chất thành núi máu chảy tràn
Nếu bảo thánh nhân Kỳ Lân xuất
Buổi ấy sao không đi về Nam?
Nguyên văn chữ Hán
Hà huống Yên Đệ hà như nhân
Đoạt điệt tự lập phi nhân quân
Bạo nộ nhân sinh di thập tộc
Đại bỗng cự hoạch phanh trung thần
Ngũ niên sở sát bách dư vạn
Bạch cốt thành sơn địa huyết ân
Nhược đạo năng vị Thánh nhân xuất
Đương thế hà bất Nam du tường?
“Kỳ Lân mộ” được công bố vào năm Quý Dậu (1813) khi Nguyễn Du làm Chánh sứ của đoàn sứ thần nhà Nguyễn sang thông hiếu với nhà Thanh năm Gia Long thứ 12 và Gia Khánh thứ 17. “Kỳ Lân mộ” là văn kiện ngoại giao “ý tại ngôn ngoại” thể hiện quan điểm và đường lối chính trị của Việt Nam triều Nguyễn. “Kỳ Lân mộ” lấy từ điển tích đã được ghi trong chính sử: “Năm Vĩnh Lạc thứ 4 (1406) có con Kỳ Lân xuất hiện ở Nam Dương. Quan trấn sai mang lên Bắc Kinh dâng Minh Thành Tổ. Nào ngờ đến đây Kỳ Lân chết. Viên quan sai chôn ở đây và lập bia để ghi lại chuyện đó. Mộ bị mưa gió san phẳng còn lại tấm bia này.” Nguyễn Du dùng bài thơ này để dâng lên vua Càn Long tỏ rõ chính kiến và thông điệp ngoại giao khéo gửi vua Càn Long và vua Gia Khánh. Bài thơ căm phẫn mắng chửi thẳng Yên Đệ Minh Thành Tổ là đồ bất nhân không xứng đáng là một ông vua. Yên Đệ Minh Thành Tổ là một nhân vật lịch sử nổi bật của Trung Quốc. Sử gia Trung Quốc cho đến nay vẫn gọi Minh Thành Tổ là Vĩnh Lạc Đế hay Vĩnh Lạc đại đế là một trong các Hoàng đế kiệt xuất nhất của triều đại nhà Minh và lịch sử của Trung Quốc. Thời kỳ của Yên Đệ được ca ngợi gọi là Vĩnh Lạc thịnh thế, khiến nhà Minh phát triển đỉnh cao về quyền lực trong lịch sử. Nguyễn Du qua tác phẩm “Kỳ Lân mộ” trong Bắc Hành tạp lục, đã mắng thẳng Yên Đệ Minh Thành Tổ chẳng phải là minh quân mà là kẻ bá đạo dẫu có giành được ngai vàng, xô lệch lịch sử, thắng được cuộc chiến. cướp được nước người, xóa được di sản, nhưng không thể đoạt được lòng người, bia miệng muôn đời vẫn lưu tiếng xấu.
Giai thoại “Bài thơ vịnh bèo“ của Giáp Hải cũng ẩn chứa thông điệp ngoại giao sâu sắc. Năm Đinh Dậu, nhà Minh mượn cớ phò Lê diệt Mạc đã sai đô đốc Cừu Loan và tướng Mao Bá Ôn đem quân tiến vào ải Pha Luỹ. Mao Bá Ôn gửi chiến thư và bài thơ Bèo :
Mọc theo ruộng nước hóp như kim
Trôi dạt lênh đênh chẳng đứng im
Nào có gốc sâu, nào có lá
Dám sinh cành nhánh, dám sinh tim
Tụ rồi đã chắc không tan tác
Nổi đó nào hay chẳng đắm chìm
Đến lúc trời cao bùng gió dữ
Quét về hồ bể hẳn khôn tìm
Nguyên văn chữ Hán Tuỳ điền trục thuỷ mạc ương châm Đáo xứ khan lai thực bất thâm Không hữu căn miêu không hữu diệp Cảm sinh chi tiết, cảm sinh tâm Đồ chi tụ sứ ninh chi tán Đản thức phù thời ná thức trầm Đại để trung thiên phong khí ác Tảo quy hồ hải tiện nan tầm.
Trạng nguyên Giáp Hải chịu mệnh vua Mạc Đăng Dung lên biên ải tiếp sứ đã họa đáp:
Ken dầy vải gấm khó luồn kim
Rễ lá liền nhau, động vẫn im
Tranh với bóng mây che mặt nước
Chẳng cho tia nắng rọi xuyên tim
Sóng dồi muôn lớp thường không vỡ
Gió táp ngàn cơn cũng chẳng chìm
Nào cá nào rồng trong ấy ẩn
Cần câu Lã Vọng biết đâu tìm.
Nguyên văn chữ Hán Cẩm lâm mật mật bất dung châm Đái diệp liên căn khởi kế thâm Thường dữ bạch vân tranh thuỷ diện Khẳng giao hồng nhật truỵ ba tâm Thiên trùng lãng đả thành nan phá Vạn trận phong xuy vĩnh bất trầm Đa thiểu ngư long tàng giá lý Thái công vô kế hạ câu tầm.
Mao Bá Ôn và Cừu Loan tiếp thư của Trạng nguyên Giáp Hải, bàn bạc với nhau, nhận định rằng nước Nam có thực lực, chưa thể nuốt trôi được, nên lặng lẽ có trật tự cho lui binh về.
Engels triết gia người Đức trong học thuyết Mác Engels cũng nói: “Tự do là cái nhìn sâu sắc vào sự cần thiết.” (Engels 1878. freedom is the insight into necessity. Anti-Dühring, pt. 1, ch. 11). “Nền kinh tế hay khoa học làm giàu sinh ra ghen tị lẫn nhau và sự tham lam của các thương gia chính trị này, mang trên trán của nó là dấu hiệu của sự ích kỷ đáng ghét nhất.”. (This political economy or science of enrichment born of the merchants’ mutual envy and greed, bears on its brow the mark of the most detestable selfishness. Outlines of a Critique of Political Economy (1844).
Nhiều người dân Trung Quốc lương thiện trung hậu khác với một cộng đồng ‘diều hâu’ toan tính trỗi dậy bá quyền. Trung Quốc mộng tạo dựng một đế quốc Á Châu với cam kết ‘Trung Quốc sẽ không áp đặt QUÁ KHỨ BI THẢM CỦA CHÍNH HỌ lên các quốc gia khác’ ‘ Nhân dân Trung Quốc kiên trì theo đuổi các mối giao thiệp hữu hảo với toàn bộ các quốc gia khác”. “Giấc mộng Trung Hoa vành đai và con đường” là một thế lực phi chính thức và phần lớn dựa vào kinh tế để cố kết cơ sở hạ tầng cứng thuộc vòng ảnh hưởng của Trung Quốc mà Mỹ , Nga, cộng đồng châu Âu EU, cộng đồng Hồi giáo buộc phải tôn trọng. Họ mở cửa từng phần cũng vì dân trí có tốt có xấu. Việt Nam tự cũng cố, ‘dĩ bất biến ứng vạn biến’.
Tom Miller có chuyên khảo công phu “Giấc mộng châu Á của Trung Quốc” nói về Donald Trump, Tập Cận Bình và Putin. Nguyễn Trần Bạt có bài viết “Donald Trump, Tập Cận Bình và Putin đang tháo ra để lắp lại nền chính trị thế giới”, Các nguyên thủ nước lớn hiện đang là tiêu điểm tầm nhìn đầy lo âu, hi vọng của nền chính trị lớn thế giới và tất cả cộng đồng nhân loại. Chúng ta nhớ lại thông điệp sau cùng của cựu Tổng thống Mỹ Barack Obama cuối năm 2016 về bức tranh tối tương lai thế giới đầy lo âu hơn: “Tôi muốn kết luận lại bài diễn văn của mình bằng cách nói rằng tôi thừa nhận lịch sử đang kể một câu chuyện rất khác câu chuyện tôi nói ngày hôm nay. Chúng ta đã chọn một cái nhìn lịch sử đen tối hơn và đầy hoài nghi hơn. (Let me conclude by saying that I recognize history tells a different story than the one that I’ve talked about here today. There’s a much darker and more cynical view of history that we can adopt).
‘Tào lao với Lão Khoa’ về Trung Hoa, tôi nêu chính kiến của mình “Ba đặc khu liệu có đột phá?” theo tôi là “không”. Ba đặc khu đang dự định thành lập chỉ thích hợp cho phát triển du lịch, cơ sở nghỉ dưỡng, dịch vụ vui chơi, giải trí… Và do đó, không cần đưa ra các ưu đãi vượt trội về thuế, về quyền thuê đất lâu dài. Đó là một câu chuyện khác. Một dân tộc truyền kiếp bị đối xử không bình đẳng thì độc lập, tự do, hạnh phúc là điểm tương đồng sâu sắc nhất Việc hợp tác quyền biến ‘dĩ bất biến ứng vạn biến’ nhất thiết không được rơi vào “bẫy nợ” và không được phạm sai lầm. Các sinh lộ Bắc Nam Đông Tây cùng những vị trí hiểm yếu nhậy cảm về an ninh quốc phòng kinh tế văn hóa đời sống dân sinh cần tự mình xây dựng với hiền tài Việt Nam có tư vấn quốc tế. Luật đầu tư và hợp tác bền vững thành thực cần kết nối lĩnh vực hợp tác nghiên cứu phát triển trọng điểm hướng tới chén cơm ngon người dân, lao động, việc làm, an sinh xã hội và giáo dục đào tạo nguồn lực con người hiền tài để phát huy sự tương đồng văn hóa. Hợp tác với Trung Quốc nên hướng vào xây dựng cải tiến chuỗi giá trị ngành hàng nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp du lịch sinh thái, giao lưu ngôn ngữ văn hóa, giáo dục dưỡng sinh đông tây y kết hợp, đào tạo nguồn lực, phát triển hiệu quả bền vững, đi đôi bảo vệ môi trường, tiến bộ công bằng xã hôi.
Tôi đã đến Trung quốc nhiều lần, có mấy lần ăn cơm chung với nông dân trên núi cao và ngoài ruộng. Năm 1996, tôi có dịp khảo sát vùng khoai lang ở Sơn Đồng và Giang Tô và năm 2018 quay lại tự mình khảo sát so sánh nông nghiệp của chính vùng này, tận mắt và chính kiến nhìn nhận đánh giá. Năm 2014, tôi dạo chơi Thiên An Môn, Cố Cung, Di Hòa Viên, Thiên Đàn trong ngày Quốc tế Lao động, ngắm những nơi lưu dấu các di sản của những triều đại hiển hách nhất Trung Hoa, lắng nghe đất trời và các cổ vật kể chuyện. Tôi ngắm nhìn người nghệ sĩ nhân gian, vui cùng ông và đùa cùng trẻ thơ. Ngày trước đó, tôi vinh hạnh được làm việc với giáo sư Zhikang Li, trưởng dự án Siêu Lúa Xanh (Green Super Rice) chương trình nghiên cứu lúa nổi tiếng của CAAS & IRRI và có cơ hội tiếp cận nghiên cứu của Viện Hàn lâm Khoa học Nông nghiệp Trung Quốc. Năm 2018 này, tôi lại có cơ hội tự mình đi du lịch bằng tàu cao tốc từ Bắc Kinh qua Thiên Tân đến Sơn Đông khảo sát nhanh nông nghiệp Trung Quốc, chuyến đi hơn 600 km chỉ hai tiếng. Những điều tôi được trực tiếp chứng kiến là tích cực và ấn tượng. Suốt dọc đường tới Thiên Tân và ba thành phố khác đến thành phố Thái An của Sơn Đông, tôi đã lưu được 5 video hình ảnh nông nghiệp Trung Quốc ngày nay để so sánh thấy được sự đổi thay cực kỳ ấn tượng của sản xuất nông nghiệp nước bạn.
Suy ngẫm từ núi Xanh (景山, Jǐngshān, Cảnh Sơn, Green Mount), ngọn núi địa linh của đế đô Bắc Kinh, suy ngẫm từ đỉnh núi Thái Sơn ở Sơn Đông, tôi tâm đắc lời nhắn gửi sâu xa của bậc hiền minh lỗi lạc Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm: “Muốn bình sao chẳng lấy nhân / Muốn yên sao lại bắt dân ghê mình” “Biển Đông vạn dặm giang tay giữ. Đất Việt muôn năm vững thái bình) (Vạn lý Đông minh quy bá ác/ Ức niên Nam cực điện long bình). Suy ngẫm về cuộc cách mạng Xanh và đỉnh cao Hòa Bình. Chủ tịch Tập Cận Bình đang tiếp nối Tổng thống Tôn Trung Sơn để phát triển chủ thuyết liên Nga thân Việt trừ tà tứ toàn, một vành đai một con đường, ông cam kết những điều tốt đẹp với Việt Nam. Thế nhưng tại sao động thái tình hình thực tế của hai nước nhiều việc chưa tạo đủ niềm tin bạn hữu. Việt Nam tự cũng cố và trầm tĩnh theo dõi. Tôi sẽ còn viết tiếp câu chuyện Từ Mao Trạch Đông tới Tập Cận Bình.
Lời giáo sư Norman Borlaug văng vẳng bên tai tôi: “Đời người tối thiểu phải ăn, kế đến là học tập, công việc, nhà ở, quần áo và chăm sóc sức khỏe. Quanh ta còn nhiều mảnh đời bất hạnh. Hiểm họa nghèo đói vẫn bùng phát bất cứ lúc nào. Hãy luôn nhớ điều đó.” Sự hiền minh lỗi lạc của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, và di sản vô giá của giáo sư Norman Borlaug cùng với các bậc Thầy về cách mạng xanh mãi mãi là niềm tin và nổ lực của chúng ta !
Trò chuyện Trung Quốc với Lão Khoa, tôi thích nói về một món ngon ở Bắc Kinh (hình). Đặc sản và biểu tượng của một vùng đất luôn thi vị trong lòng của người hành hương. Suốt mấy ngày ở Viện Hàn lâm Khoa học Nông nghiệp Trung Quốc, tôi thường chén món ngon này, như khi leo núi Thái Sơn thì ưa dùng món xúp ‘bát bửu’, ‘khoai Hoàng Long” và “rượu Thái Sơn”. “Thịt lợn kho Tàu Tô Đông Pha” là món ăn ngon nổi tiếng Hàng Châu, được đặt tên để vinh danh ông. Tô Đông Pha là một nhân vật quan trọng trong chính trị thời Tống, ông cùng Tư Mã Quang cựu tể tướng và sử gia danh tiếng thuộc phái “coi trọng đạo đức, lẽ phải, kỷ cương”, đối lập với chính sách mới “cường thịnh và phát triển lớn mạnh quốc gia bất chấp đạo lý” do Vương An Thạch chủ trương. Tô Đông Pha đã nổi tiếng là một nhà viết chính luận, các tác phẩm văn của ông đều đặc biệt sâu sắc, góp phần to lớn vào việc nâng cao dân trí và hiểu biết bách khoa thư, văn học du lịch Trung Quốc thế kỷ thứ 11. Thơ Tô Đông Pha nổi tiếng suốt lịch sử lâu dài, có tầm ảnh hưởng rộng lớn tại Trung Quốc, Nhật Bản và các vùng lân cận, cũng được biết đến trong phần nói tiếng Anh trên thế giới thông qua các bản dịch của Arthur Waley và các người khác. Về biểu tượng nghệ thuật, Tô Đông Pha được coi là nhân cách ưu việt của thế kỷ XI. Tôi đã từng chén “Thịt lợn kho Tàu Tô Đông Pha” ở Hàng Châu mà thương về hạt gạo làng ta còn chưa có thương hiệu Việt mạnh trên thị trường thế giới.