ThS. ĐỖ THỊ LỢI
Nuôi lợn rừng đang là nghề hấp dẫn hiện nay nhưng với kiểu “nháo nhào nuôi”, với những ngộ nhận ngây thơ như lợn gì lông đen, lông luôm nhuôm, thân dài cũng… là lợn rừng, rồi quan niệm lợn rừng dễ tính, cho ăn, chuồng trại kiểu gì cũng xong chẳng chóng thì chầy sẽ khiến người nuôi rơi vào vòng thua lỗ.
Bài I: Hoa mắt bởi giống
|
Bộ môn sẵn sàng tư vấn, hợp tác với tất cả các doanh nghiệp, nông dân... muốn nuôi và phát triển lợn rừng cũng như lợn rừng lai. Bà con có thể liên hệ với TS Võ Văn Sự, Trưởng Bộ môn Động vật quý hiếm và đa dạng sinh học – Viện Chăn nuôi. ĐT: 043 757 2174, 0989 382 311.
|
Hiện nay nhiều nơi nuôi lợn rừng thuần Việt Nam, Thái Lan và các con lai giữa những giống này với các giống lợn khác. Nhìn chung là dễ nuôi, thịt là đặc sản. Tuy nhiên trong quá trình nuôi, các nhà chăn nuôi cũng mắc phải nhiều khó khăn, trong đó có việc phân biệt giống. Đây chính là yếu tố hàng đầu quyết định sự thành công hay không đối với người nuôi.
Sau 2 năm thực hiện đề tài “Nghiên cứu kỹ thuật nhân, nuôi và phát triển một số loài động vật rừng có giá trị kinh tế” được Bộ NN & PTNT giao, TS Võ Văn Sự, Trưởng Bộ môn Động vật quý hiếm và đa dạng sinh học – Viện Chăn nuôi cho biết hiện nay ở nước ta đang có các giống lợn rừng và lợn rừng lai như sau: Lợn rừng Thái Lan mặt dài (LRTL); lợn rừng Việt Nam (LRVN); lợn rừng lai. Riêng về lợn rừng lai cũng có vô vàn kiểu như con lai giữa LRTL / LRVN với các giống lợn đen vùng núi Việt Nam (như lợn Vân Pa, lợn sóc Tây Nguyên, lợn đen Mường Lay, lợn Mường Khương...
Loại khác: Lợn rừng lai từ Trung Quốc nhập về; con lai giữa LRTL x lợn ỉ. Do rất đa dạng như vậy nên để phân biệt lợn rừng thật và con lai, thường phải căn cứ vào 3 yếu tố sau: ngoại hình (lông, màu, vóc dáng), lỗ chân lông và quan trọng hơn là lý lịch giống.
Về ngoại hình
Lợn rừng Thái Lan:
Được nhập vào miền Nam cách đây 5-6 năm. Lúc mới đẻ, lợn con bộ lông nâu đen với 6 sọc vàng dọc thân. Các sọc này to đều, tương đối liền nét, rõ. Đó là dấu hiệu rõ nhất cho lợn rừng. Các sọc này sẽ phai dần và khoảng đến 3-4 tháng tuổi sẽ mất hẳn. Lợn hậu bị đã có vạt lông bạc trắng trên má, lông sống lưng từ cổ vai đến giữa lưng có màu đậm hơn, đoạn chân liền với móng có màu đen. Lợn rừng Thái Lan trưởng thành: ngoài các đặc điểm của lợn hậu bị, còn có các đặc điểm khá nổi bật là: thân hình mảnh mai, chân cao, lông bờm dài, màu lông vàng – xám, lưng phẳng, bụng không sệ, tai bé, thẳng, mặt dài, mõm nhọn. Lợn già còn có răng nanh to. Lợn đực giống: dương vật bé, cà không to như các giống lợn trắng công nghiệp.
Đây là giống lợn được khuyến khích nuôi, vì tương đối thuần. Tuy nhiên cũng có nhiều con hung dữ, đẻ ở bụi rậm, hoặc tự làm chuồng. TS Sự lưu ý việc nhập khẩu lợn từ Thái Lan: “Người Thái Lan đã bắt đầu nuôi lợn rừng và con lai trước đây khoảng 10-15 năm, và trên nhiều nơi, việc nhân giống cũng chưa theo quy chuẩn nào về giống. Vì thế các nhà nhập khẩu cần phải hết sức lưu ý tránh nhập con lai”. Ngoài ra ở Thái còn có nhóm được gọi là lợn rừng Thái mặt ngắn, màu đen, thân to, có bờm, trông giống như một số giống lợn to con tại vùng núi phía Bắc như lợn Mường Nhé (Điện Biên), Lợn Lũng Pù (Hà Giang), lợn Táp Ná (Cao Bằng). Theo TS Sự lợn rừng Thái mặt ngắn là con của lợn rừng Thái với các giống lợn đen vùng núi Thái Lan.
Lợn rừng Việt Nam:
Khá giống với lợn rừng Thái Lan, tuy nhiên mảnh mai và dữ tợn hơn. Con đực dễ thuần hơn con cái. Nhiều người đã tự thuần hoá, tuy nhiên chết rất nhiều. Cho đến nay khoảng 20 con đực được thuần hoá, sử dụng phối giống với các loại lợn khác. Còn lợn cái đến nay Viện Chăn nuôi mới thuần hoá và cho sinh sản một con cái duy nhất. TS Sự không khuyến khích nuôi lợn này, vì rất khó.
Lợn rừng lai:
Con lai giữa LRTL hoặc LRVN với các giống lợn đen vùng núi Việt Nam như lợn Vân Pa (Quảng Trị), lợn sóc Tây Nguyên, lợn đen vùng Bù Đăng, Bù Đốp (Bình Phước), lợn đen Mường Lay, lợn Mường Khương. Các con lai loại này thường thấy ở các vùng núi nước ta do người dân thả rông lợn nhà vào rừng và giao phối với lợn rừng. Hiện nay nhiều người chăn nuôi cũng dùng lợn rừng thuần lai với các giống lợn miền núi đen nói trên. Đặc điểm của các loại này là, trong một ổ có con giống lợn rừng – cũng có vạch sọc dưa đen – vàng, tuy nhiên màu sắc các sọc không rõ rệt, và có con lại giống lợn nhà - đen tuyền.
Con lai giữa LRTL hoặc LRVN với giống lợn khác như Móng Cái, lợn lai Yorkshire, Duroc, Petrain... Con lai loại này thường thấy ở nhiều nơi, đặc biệt là ở miền Nam. Lợn cái thường là các loại lợn lang trắng đen – có “máu” lợn công nghiệp hoặc lợn Móng Cái. Đặc điểm chính của con lai này là lông khác đa dạng, không phát triển các sọc dưa mà bù lại nó có các vệt loang vàng – nâu với màu sắc không tương phản. Khi trưởng thành các con lai này cũng phân ly khá nhiều kiểu. Ngoài hai nhóm lợn rừng lai nói trên còn có lợn lai giữa lợn rừng Thái Lan với lợn ỉ (Viện Chăn Nuôi thí nghiệm). Đặc điểm là lúc đẻ ra sọc dưa lờ mờ. Lợn rừng lai từ TQ nhập về: Loại lợn này màu nâu hung, tím, đôi lúc có vết đen, cổ chân trắng.
Một “sai lầm chết người” mà nhiều chủ trang trại cũng như người tiêu dùng lầm tưởng là hễ có ba lông chụm một là chắc chắn lợn rừng. Thực tế, không những lợn rừng mà các giống lợn đen miền núi như lợn Vân Pa – Quảng Trị, lợn sóc Tây Nguyên, lợn đen vùng Bù Đăng, Bù Đốp (Bình Phước) cũng có lông như thế, thậm chí rất nhiều. Vì thế ngoài đặc điểm ngoại hình việc xăm xoi lý lịch là rất quan trọng. Cách tốt nhất là xem cả ổ đẻ ra như thế nào.
Trong khuôn khổ đề tài nhà nước, Bộ môn Động vật quý hiếm và Đa dạng sinh học - Viện Chăn nuôi đã xây dựng một hệ thống số liệu, theo dõi chi tiết (lý lịch) của từng con bằng phần mềm VIETPIG4. Bộ môn đảm bảo chứng nhận lai lịch, cũng như các nội dung liên quan đến con vật như tiêm phòng, thức ăn, môi trường nuôi nhốt của các trang trại lợn thuần Thái Lan mà đơn vị đang kiểm soát như sau:
Trại lợn Viện Chăn nuôi tại Ba Vì, Hà Nội; Trại lợn Xương Lâm – Lạng Giang, Bắc Giang (ông Nguyễn Thế Cường 0913 208 957); Trại lợn công ty 3F - Hoà Lạc – Hà Nội (ông Trương Cao Sơn, 0905.296.789); Trại lợn ông Nguyễn Sỹ Hoá tại Hoà Lạc – Hà Nội; Trang trại Phương Nam, xã Đông Xuân - huyện Quốc Oai, Hà Nội (ông Chu Văn Tuấn, 0983 089 543); Cty Khánh Gia: 44-46 đường 3E xã Đồng Nơ - huyện Bình Long, Bình Phước (ông Huỳnh Phú Gia, 0903 954 171); Trại lợn ông Chín – Cần Giuộc, Long An (0957708.998); Trại lợn rừng lai ông Dũng - Đồng Phú - Bình Phước (0913.937.320). Khi mua giống lợn ở các trang trại này khách hàng nên đòi cung cấp lý lịch cá thể.
Dương Đình Tường Số lần xem trang : 16959 Nhập ngày : 11-02-2009 Điều chỉnh lần cuối : Ý kiến của bạn về bài viết này
Báo Nông Nghiệp Việt Nam VỀ BỆNH ĐẠO ÔN HẠI LÚA XUÂN 2009 (Báo NNVN - Số ra ngày 21/4/2009) (21-04-2009) BỆNH TÔM (Báo NNVN - Số ra ngày 21/4/2009) (21-04-2009) SẢN XUẤT GIỐNG CÁ RÔ ĐỒNG (Báo NNVN - Số ra ngày 20/4/2009) (20-04-2009) Xác định tương tác kiểu Gene với môi trường cho việc xây dựng cơ cấu giống lúa mới cho ĐBSCL (Báo NNVN - Số ra ngày 19/4/2009) (20-04-2009) THUỐC LÁ BIẾN ĐỔI GEN CÓ PROTEIN CHỐNG HIV (Báo NNVN - Số ra ngày 16/4/2009) (17-04-2009) TRỒNG LÚA CHO CÁ ... PHÁ, THU LÃI CAO (Báo NNVN - Số ra ngày 16/4/2009) (17-04-2009) LÀM GÌ ĐỂ NÂNG CAO NĂNG SUẤT VỤ HÈ THU? (Báo NNVN - Số ra ngày 16/4/2009) (17-04-2009) Một số lưu ý về kỹ thuật canh tác giống mía ROC22 (Báo NNVN - Số ra ngày 16/4/2009) (17-04-2009) HỆ THỐNG CÔNG NGHỆ TINH CỌNG RẠ TẠI VIỆT NAM (Báo NNVN - Số ra ngày 16/4/2009) (17-04-2009) Cam đỏ Cara Cara trồng thành công ở Việt Nam (Báo NNVN - Số ra ngày 14/4/2009) (14-04-2009) Trang kế tiếp ... 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44
|